th b t
CHỊ TÂM
Câu chuyện tôi sắp kể dưới đây là hoàn toàn có thật. Nó xẩy ra đã lâu, từ cái thời còn đánh nhau với Mỹ cách đây những mấy chục năm. Một câu chuyện buồn và chứa đựng nhiều bí ẩn. Cả thời ấy lẫn bây giờ không ai, trừ những người trực tiếp liên quan, biết được sự thật về nó. Còn việc vì sao tôi biết thì lại là chuyện khác, thiết tưởng chẳng cần nói ra.
*
Không ai biết chính xác lão từ đâu tới và tên là gì. Chỉ thấy người ta gọi là Lão Xẩm, hoặc đôi khi Lão Xẩm Chột. Xẩm là gọi theo nghề, vì lão chỉ biết có mỗi nghề duy nhất là hát xẩm để kiếm sống. Còn Chột là vì lão mù. Mù mà được gọi là chột vì lúc mới xuất hiện ở vùng này, người ta tưởng lão chỉ chột nhưng giả vờ mù. Chẳng bao giờ lão chịu bỏ cặp kính tròn đen xịt khỏi mắt nên người ta nhầm. Sau thấy lão mù thật, cũng chẳng ai đổi lại thành Lão Mù, phần vì đã quen, phần vì với một người ở địa vị lão, Mù hay Chột thì cũng vậy. Không quan trọng.
Khác những người hát xẩm xưa nay ta thường gặp, lão to khỏe, thậm chí phốp pháp. Chỉ nước lão da đen trũi, có thể vốn trời sinh ra thế, cũng có thể do phơi nắng suốt ngày và ít tắm rửa. Lão chẳng già chút nào, cùng lắm hơn bốn mươi một tý. Chữ lão ở đây rõ ràng không vì tuổi tác mà đơn thuần là cách gọi nhằm biểu thị thái độ.
Công bằng mà nói, từ ngày đến đây lão chẳng làm điều gì đáng trách. Tại cái tạng người lão mà người ta đâm ra khó chịu. Hàng ngày lão ra chợ huyện hành nghề. Lão hát hay, mùi mẫn, đúng khẩu vị người nghe, lại kéo nhị giỏi, thành ra cũng kiếm đủ sống qua ngày, mặc dù lão chẳng bao giờ mở miệng xin xỏ như nhiều đồng nghiệp khác. Lão cứ để chiếc mũ cối bộ đội sờn cũ trước mặt, ai cho thì lấy, không thì thôi. Chính điều này, tức là việc lão không chịu lạy ông lạy bà cho con xin... cũng làm không ít người ghét lão.
Lão Xẩm sống trong chiếc miếu hoang trên gò đất cao ngay sát sông Cấm. Chẳng biết ai mách mà lão tìm được nó, một nơi lý tưởng với lão - có mái che mưa nắng bằng ngói hẳn hoi, dù đôi chỗ dột. Tường miếu tất nhiên đã long lở, xiêu vẹo, nhưng điều ấy không quan trọng vì lão mù. Chợ huyện, nơi lão kiếm sống hàng ngày lại gần, cứ theo chân đê bằng phẳng mà đi, chưa đầy cây số là đến. Lâu dần, lão nghiễm nhiên thành chủ nhân chiếc miếu. Nó không còn bị gọi miếu hoang, mà là nhà Lão Xẩm .
Tối nay, như những buổi tối mùa hè nóng nực khác, Lão Xẩm lại trải chiếu trước nhà, ngồi ngoảnh mặt về phía sông hóng mát. Lúc nào cũng vậy, cứ ở nhà là lão chỉ mặc độc chiếc quần cộc vừa ngắn lại vừa rách, để lộ cả cái mà người ta phải luôn che giấu. Nhưng lão thì không cần, vì biết chẳng có ai nhìn. Càng mát! lão nghĩ, nhiều khi còn cố tình cho cả ra ngoài.
Gió nhẹ hây hây thổi. Không nhìn thấy nhưng lão biết đêm nay trăng đẹp. Trời tước của lão đôi mắt. Bù lại sự thua thiệt ấy, trời cho lão đôi tai rất thính và khả năng đoán hiểu sự việc cực kỳ nhanh nhạy. Lão sống được chính nhờ những khả năng có một không hai ấy. Chẳng hạn lúc này lão biết chắc chắn mấy cô gái làng bên đang tắm truồng dưới sông. Ngay trước mặt lão, một người đàn ông khỏe mạnh, lại giữa lúc khao khát cái chuyện ấy nhất.
Việc này xẩy ra hầu như vào tất cả các buổi tối mùa hè. Lúc đầu lão cáu lắm, coi mình bị xúc phạm ghê gớm. Bọn này láo thật, cứ như mình là tượng gỗ không bằng! Khi nghe các cô cười bảo nhau Cởi hết ra chúng mày. Lão Chột không nhìn thấy đâu mà sợ! , lão giận dữ cho hết của quí của lão ra ngoài quần, dứ dứ nó về phía các cô, lẩm bẩm: Ðây không nhìn được nhưng làm được đấy. Làm khỏe nữa là khác! Ðứa nào giỏi, muốn thử cứ lên đây!" Tất nhiên chẳng ai lên. Nhiều hôm lúc về có cô còn tinh nghịch ném viên sỏi vào nhà lão rồi khúc khích cười, không biết cười gì. Cả những lúc như thế, lão cũng chẳng chịu che giấu cái ấy của lão. "Ðể mặc chúng nhìn, khối đứa lại chẳng thèm rỏ dãi".
Dần dần rồi lão cũng quen, nhưng vẫn ấm ức chịu cảnh trớ trêu ấy. Không biết làm gì khác, lão đem rượu ra uống, dù chẳng là người nghiện ngập. Rồi lão nghêu ngao hát, xuyên tạc những câu ca dao bình dị thành những lời tục tĩu lão phịa ra để xả bớt cái ham muốn đang anh ách dưới bụng.
Một tối nọ, cũng trong hoàn cảnh tương tự, khi đêm đã khuya và dưới sông không còn tiếng nước té, tiếng cười nói hồn nhiên của các cô gái nông thôn tắm truồng, lão bỗng nghe có tiếng động khẽ. Tiếng chân người! Tai lão rất thính. Lão biết chắc là tiếng chân người, dù lúc ấy đầu còn chếnh choáng hơi men và đang thiu thiu ngủ. "Ai nhỉ?" lão tự hỏi, có ý đề phòng. Thực ra, lão chẳng có gì cho kẻ gian lấy trộm. Bản thân lão cũng không thuộc loại người khác có thể mưu giết. Thế mà lão vẫn thấy lo.
Hình như tiếng bước chân đang tiến lại gần, rất gần. "Ai đấy?" lão hỏi to. Im lặng. Lão hỏi lần nữa. Vẫn im lặng. Lão đứng dậy, và đang lúc quờ quạng định vào nhà lấy chiếc gậy thì tay lão bỗng chạm phải cái gì đấy âm ấm, mềm mềm, tròn tròn.
Ngực đàn bà! Lão nhận ra ngay điều ấy. Theo bản năng, lão vội rụt tay lại, định kêu lên, nhưng cũng liền lúc ấy lão kịp trấn tĩnh. Và như sợ để mất cái vừa có được, lão chìa tay về phía trước. Vẫn cái vật âm ấm, mềm mềm, tròn tròn ấy. Lão thầm ngạc nhiên vì sao người đàn bà bí ẩn kia không bỏ chạy, không kêu lên hoặc làm cử chỉ chống trả nào đấy, mà cứ để bàn tay thô kệch của lão, lúc đầu một, rồi sau hai, tự do mân mê hết đôi vú để trần, đôi vai, chiếc cổ, vành eo bụng và còn xuống thấp hơn nữa.
Như trong cơn mơ, lão ngây ngất mơn trớn khắp cơ thể lõa lồ của người đàn bà, chỉ trừ khuôn mặt, là nơi bàn tay tham lam của lão bị những ngón tay thon dài gạt ra không cho chạm tới. Chẳng cần. Lão biết phải làm gì trong trường hợp này, và đã làm điều ấy không gặp chút chống cự nào. "Làm tốt nữa là đằng khác" như có lần lão từng dọa các cô gái. Suốt thời gian việc ấy xẩy ra, người kia luôn im lặng. Lão cũng chẳng nói gì, vì sợ có thể lời nói sẽ làm hỏng mọi chuyện.
Xong, người kia vội vùng dậy bỏ đi rất nhanh, hình như chạy. Còn lão thì vẫn tồng ngồng nằm dưới ánh trăng. Mọi việc diễn ra quá bất ngờ, khiến lão đớ người hồi lâu, không biết nên nghĩ thế nào. "Hay mình đang mơ?" lão tự hỏi, tay sờ xuống bộ hạ, thấy không mặc quần và còn ươn ướt...
Lâu lắm lão mới được nếm lại mùi vị đàn bà. Suốt đêm ấy lão không sao ngủ được, tự đặt cho mình hàng trăm câu hỏi mà cuối cùng chẳng thể trả lời rành mạch được câu nào. Lão nằm ngửa, hướng đôi mắt mù lên bầu trời mà lão đoán có rất nhiều sao, những ngôi sao tuyệt đẹp. Lão thích thú tận hưởng giây phút hạnh phúc bỗng dưng trời mang đến ban thưởng cho lão.
Sáng dậy, để kiếm cái ăn, lão lại vác nhị xuống chợ như mọi ngày.
Ba hôm sau, người đàn bà ấy lại đến. Vẫn cơ thể lõa lồ âm ấm ấy. Vẫn sự im lặng ấy. Vẫn bàn tay tham lam của lão ve vuốt khắp người, và vẫn lặp lại chuyện ấy. Khác chăng, lần này lão bình tĩnh hơn, đủ bình tĩnh để kéo dài thêm những giây phút hạnh phúc của lão. Rồi sau đó, người đàn bà ấy lại vội vã lặng lẽ bỏ chạy khỏi nhà lão như trước.
Từ hôm ấy đêm nào lão cũng chờ, nhưng đúng một tháng sau người đàn bà mới xuất hiện để tự nguyện trao thân cho lão. Ba ngày sau lại đến lần nữa, rồi biệt tăm cho tới hầu như cùng ngày của tháng tiếp.
Việc này lặp đi lặp lại trong bốn tháng liền, như theo lịch vạch sẵn. Lão lấy làm ngạc nhiên nhưng không dám hỏi, vì dù không nói ra lời, hai người như đã thỏa thuận sẽ luôn giữ im lặng. Cuối cùng lão cũng lờ mờ đoán hiểu. Lão biết sau kỳ kinh nguyệt có một quãng thời gian nào đấy người đàn bà không thụ thai được. Người kia đã chọn chính lúc ấy để đến với lão. Nhưng người ấy là ai và vì sao chọn lão thì lão chịu không hiểu nổi. Linh cảm sắc bén của lão cũng đành bất lực.
Qua bàn tay vuốt ve (trừ khuôn mặt), lão biết người này không còn trẻ, ít nhất phải ngoài ba mươi, thậm chí còn hơn. Ðiều này chẳng làm lão bận tâm. Cái thực sự lão lo lắng là đáng lẽ theo lịch, người ấy đã phải đến tuần trước, nhưng lão chờ mãi vẫn không thấy. Lão biết có chuyện không bình thường đã xẩy ra. Lão buồn. Linh tính báo có lẽ người đàn bà bí ẩn kia sẽ không bao giờ đến với lão nữa. Nhưng lão hy vọng và vẫn chờ. Ðêm nào lão cũng chờ...
Một tối nọ, đã khuya, lão ra ngồi ỉa cạnh một trong những bụi cây um tùm mọc bên sông. Vốn bụng không tốt lắm nên đêm nào lão cũng một vài lần phải làm cái việc chẳng mấy thú vị này. Ðoạn sông ở đây nước sâu, chảy xiết và mạnh, cách khá xa chỗ sông bồi nơi các cô gái làng bên thường đến tắm. Mặc dù dạn dĩ và sẵn sàng để phụ nữ nhìn thấy cái ấy của mình không chút ngượng ngùng, nhưng để người khác bắt gặp trong tư thế ngồi ỉa thì lão chẳng muốn chút nào. Vì thế lão mới chui vào bụi rậm, bất chấp mối nguy hiểm có thể vô ý rơi xuống sông chết đuối.
Khác với mọi lần, lần này lão phải ngồi khá lâu, cố gắng khá vất vả mà không sao trút bỏ được cái muốn trút bỏ. Ðang khi nhăn nhó khổ sở, lão bỗng nghe có tiếng động khẽ. Tiếng chân người. "Không lẽ cô ấy?" lão lo lắng nghĩ. Ngay sau đó bỗng có tiếng kêu thất thanh:
- Ðừng! Chị Tâm! Ðừng, đừng nhảy xuống sông!
Ðó là tiếng một cô gái, giọng còn trẻ như giọng trẻ con mới lớn. Lão Xẩm lặng người, nín thở, quên cả cái việc bức bách đang làm. Tiếp đến lão nghe có tiếng chân vội vã chạy ngang và dừng lại ở một bụi cây khác cách đấy không xa.
-Sao chị làm thế? Em van chị. Chị tưởng em không biết chị đang muốn tự tử sao? Mấy ngày nay em luôn theo dõi chị. Em biết. Em biết hết mọi chuyện. Biết từ lâu rồi cơ...
Có tiếng người khóc tấm tức.
- Em nói em biết, biết hết mọi chuyện? - người định tự tử cuối cùng lên tiếng, vừa khóc vừa nói khe khẽ, nhưng vốn rất thính tai nên lão Xẩm nghe được.
- Vâng. Em biết chuyện mấy tháng nay chị đi lại với lão Xẩm. Em chồng, chị dâu mà. Và bây giờ chị có bầu. Chị xấu hổ. Chị muốn tự tử. Em biết hết nhưng không nói, vì em hiểu chị, em thương chị. Có điều em không hiểu tại sao chị chọn lão ấy chứ không phải người khác.
- Vì lão mù, không biết chị là ai.
- Nhưng sao chị cứ phải chết?
Lại có tiếng khóc. Lần này to và lâu hơn.
- Em biết hết, còn hỏi chị làm gì nữa. Em nghĩ làm sao chị có thể sống nổi khi chị, vợ bộ đội ở chiến trường, một cán bộ xã, một điển hình "trung hậu đảm đang" của toàn huyện, mà lại chửa hoang! Vác cái bụng to vượt mặt mà nhìn thẳng vào mắt mọi người được sao? Không, em thương chị thì cứ để chị chết. Chị xấu hổ lắm. Nhục nhã lắm. Chị có tội với anh trai em, với mẹ, với em. Với tất cả mọi người. Chị chẳng cán bộ, điển hình gì hết. Người ta muốn thế thì phải chịu. Chị chỉ là mụ đàn bà trời bắt thèm muốn tình cảm hơn những mụ đàn bà khác. Chị đã cố, rất cố mà không giữ được. Khốn khổ thân chị. Chị có muốn thế đâu, nhưng không sao cưỡng lại được...
- Em hiểu. Em cũng là đàn bà mà. Nhưng chị không được chết, vì cái chết của chị sẽ vô nghĩa. Chị vẫn mang tiếng xấu...
- Ðúng thế, nhưng dẫu sao chị sẽ không phải nghe người ta kiểm điểm, không phải chịu những cái nhìn khinh bỉ. Em cứ để chị chết. Chị quyết rồi. Chị nhờ em chăm sóc mẹ thay chị, sau này xin lỗi anh trai hộ chị. Có thể anh ấy sẽ tha thứ. Nếu không cũng chẳng sao. Cứ nói là chị rất yêu anh ấy, nhưng chị là người yếu đuối và đã không cưỡng lại được con quỉ tội lỗi trong người chị...
- Không. Không bao giờ! Chị phải về với em. Về ngay bây giờ! - Cô gái cao giọng một cách dứt khoát. - Sáng mai em và chị sẽ lên thành phố. Em có đứa bạn bác sĩ ở đấy. Nó sẽ giúp chị thoát khỏi cái thai kia. Em thề suốt đời giữ kín chuyện này. Nào đi! Chị đi về nhà với em! Không lôi thôi gì nữa.
Im lặng một chốc, rồi có tiếng giằng co. Cuối cùng lão Xẩm nghe tiếng chân hai người đi ngang qua chỗ lão ngồi. Cô em chồng đi trước, kéo bà chị dâu đi theo. Mãi lúc sau, lão Xẩm mới dám đứng dậy đi vào nhà. Lão bàng hoàng đến mức quên cả cái của nợ kia trong bụng.
Hai ngày sau, khi đang hát ngoài chợ huyện, lão Xẩm nghe người ta kháo nhau chuyện chị Tâm, người làng Vĩnh Yên, cán bộ phụ nữ xã Diễn Lộc, đi tắm đêm cùng cô em chồng, không may sẩy chân rơi xuống chỗ nước xoáy chết đuối. Cô em chồng thấy mà chẳng thể làm gì vì không biết bơi. Khi cô gọi được người đến cứu thì không thấy xác chị đâu nữa.
Lời nói thêm của người viết:
Anh Thoan, chồng chị Tâm hy sinh trong đợt tổng tiến công Tết Mậu Thân 68 (một năm trước khi chị Tâm chết), nhưng mãi đến cuối năm 70 gia đình mới nhận được giấy báo tử. Bà cụ mẹ anh chết hai năm sau đó. Còn cô Vinh, em gái anh Thoan, hiện là một chuyên viên kinh tế giỏi làm việc tại một bộ quan trọng ở Hà Nội. Vì là người cùng làng, chúng tôi thường gặp nhau. Tuy không ngăn được chị dâu tự tử, nhưng cô đã giữ đúng lời hứa năm nào. Cô vẫn khăng khăng bảo tôi chị Tâm chết đuối, đúng như trong truyện tôi viết. Tôi cũng vờ tin như thế. Lần nào có dịp cùng về quê, tôi và Vinh đều ra viếng mộ anh Thoa, chị Tâm. Có lần chúng tôi còn vào phòng truyền thống xã, nơi vẫn treo tấm bằng khen trung hậu đảm đang Hội phụ nữ huyện Diễn Châu tặng chị, đề ngày 30 tháng Năm năm 1967. Dù biết hết sự thật, tôi vẫn luôn nghĩ chị xứng đáng với danh hiệu cao quí đó. Còn về lão Xẩm thì tôi không biết thêm một tí gì. Vả lại, cũng chẳng quan tâm mấy đến lão. Không phải vì ghét, đơn giản vì tôi còn nhiều việc quan trọng hơn cần làm.
CÁI XOAN
Cái Xoan là tên một cô bé cụt chân ở làng tôi. Nó bị cụt một chân từ ngày mới hai tuổi và còn đang được ẵm trên tay mẹ.
Hôm ấy, theo kể lại, đang buổi ăn trưa thì máy bay Mỹ ập đến. Mẹ nó bế nó chạy ra hầm, chưa ra tới nơi thì có tiếng bom nổ. Một mảnh bom cắm đúng vào tim mẹ nó. Mảnh khác cắt đứt một cẳng chân bé xíu, mũm mĩm và hồng hồng của nó. Nó được một chú bộ đội đóng quân trong làng bế ngay đi bệnh viện. Ai cũng tưởng bé thế, nó sẽ chết, thế mà các bác sĩ chữa lành cho nó. Về việc này, báo tỉnh dạo ấy có đăng một bài dài.
Ra viện, nó được đưa về nhà bà nội, một bà già độc thân, sống nhờ gạo và tiền trợ cấp nhà nước theo tiêu chuẩn mẹ liệt sĩ.
Mấy tháng sau, bố nó, một sĩ quan không quân cấp tá đóng đâu đó rất xa, được tin vội về nhà, mang theo đôi nạng bé tí bằng nhựa có màu xanh đỏ rất đẹp. Thế là trong gần một tháng nghỉ phép, bố và bà nó chỉ làm mỗi việc là dạy nó biết đi, đi bằng ba chân, một chân thật và hai chân nhựa - cả ba cùng bé tí, yếu ớt và dễ gẫy.
Nó là đứa trẻ thật dễ thương. Vừa tập đi nó vừa reo lên ầm ĩ như đang thích thú chơi trò chơi hấp dẫn. Lúc ngã nó không khóc, còn toét miệng cười, mắt mở to long lanh, đôi má đỏ hồng vì mệt.
Những lúc ấy bố nó ngoảnh đi nơi khác, kín đáo lau nước mắt. Còn bà nó thì nói:
- Úi chà, bé Xoan của bà ngoan nhỉ, lớn lên thế nào bà cũng cho theo bố bay tít trên trời kia kìa.
Bé Xoan dần dần lớn lên thành cái Xoan. Trẻ con thật chóng lớn. Mỗi năm bố nó gửi về một đôi nạng mới. Ðến tuổi đi học nó đã có năm đôi bằng nhựa đủ màu. Bà nó dựng trong góc nhà, cái sau lớn hơn cái trước, cái nào cũng còn mới, như bộ sưu tập nho nhỏ. Bộ sưu tập những đôi nạng bằng nhựa.
Cũng may trường chỉ cách làng một cánh đồng. Nhưng hàng ngày nó phải dậy chống nạng đi từ rất sớm, để độ nửa giờ sau lũ trẻ cùng làng, cùng lớp ồn ĩ chạy vượt qua như cơn lốc. Cũng có hôm ai đó tiện đường, bế nó đi, bế cả người lẫn nạng.
Ðôi lần về quê, tôi cũng bế nó như vậy. Dọc đường tôi hỏi chuyện này chuyện nọ. Thường nó im lặng, hoặc trả lời không hào hứng lắm, dù tôi biết nó thích tôi vì thỉnh thoảng tôi mang từ Hà Nội về cho nó những cuốn sách đầy hình vẽ tuyệt đẹp.
Trong tâm hồn thơ ngây của nó đã xuất hiện những gợn buồn mặc cảm.
Sự thay đổi đó bắt đầu từ ngày đầu tiên tới trường.
Vốn quen suốt ngày ngồi một chỗ với bà, hôm ấy nó hết sức ngạc nhiên khi thấy ở trường chúng bạn cười nói, chạy nhảy nhiều quá. Cùng sự phát hiện ấy, nó ý thức sâu sắc hơn khuyết tật của mình. Một cảm giác lo sợ mơ hồ dần dần xâm chiếm người nó. Nó thấy như cả trường ai cũng đang nhìn nó, với đôi mắt vừa thương hại vừa giễu cợt.
Cũng trong ngày đầu tiên ấy, một thằng bé ngỗ nghịch đã chủ ý ngáng chân làm nó ngã. Không đau, nhưng nó khóc mãi, cả đến khi cô giáo bắt cậu kia đứng khoanh tay xin lỗi, nó vẫn chưa nín. Từ đấy nó tìm cách xa lánh mọi người. Giờ ra chơi nó trốn vào góc vắng ngồi im và quan sát. Nó trở nên lầm lì, nhiều khi đứng lặng, chống nạng thẫn thờ nhìn các bạn nhảy dây hoặc chơi lò cò.
Dễ chừng hơn mười năm nay tôi không gặp lại cái Xoan. Trước kia nhà nó cạnh nhà tôi, nhưng từ ngày bà nội chết, nó được gửi đến ở nhà một ông bác không có con tận cuối làng. Mấy đợt về quê ngắn ngủi tôi chẳng gặp nó lần nào. Chắc nó ít ra đường. Tôi chỉ được nghe kể lại rằng lớn lên, nó là một cô bé rất xinh đẹp, đặc biệt khuôn mặt. "Cứ như tranh vẽ ấy!" người ta kháo nhau như thế. Ở quê tôi đó là câu khen cao nhất mà bất kỳ cô gái nào cũng mong có được. Ðẹp như tranh vẽ!
- Nhưng mà nó cũng khác thường lắm cơ, - một người nhận xét.
- Khác nghĩa là thế nào? - tôi hỏi.
- Nghĩa là tính khí nó thất thường. Thoắt buồn thoắt vui, có ngày không mở miệng nói câu nào, ngơ ngơ, ngác ngác. Người đâu mà bao giờ cũng như từ trên trời rơi xuống. Chẳng chơi với ai, chỉ thích đọc sách một mình.
Ở quê, tôi có một tủ sách khá lớn mà từ nhỏ tôi đã có ý thức xây dựng, bằng đủ mọi cách, mọi giá. Ngày rời làng đi xa, tôi cho vào tủ khóa lại cẩn thận, dặn mẹ tôi không được đưa ai mượn. Mấy năm qua, là người ham hiểu biết, chắc cái Xoan tìm đến nài nỉ mẹ tôi, và do thương người, bà cụ không nỡ từ chối.
Sống ở vùng hẻo lánh như quê tôi, không bè bạn, không bao giờ đi đâu, cộng với sự mặc cảm bệnh tật và một trí tưởng tượng quá phát triển, dễ hiểu Cái Xoan bị những cuốn sách ấy tác động mạnh thế nào. Chúng là người bạn, là niềm an ủi duy nhất của nó từ trước đến nay. Khác những đứa trẻ bình thường, nó tiếp nhận thế giới sách vở thơ mộng, diệu kì ấy theo cách riêng của mình, và sống với nó nhiều hơn với cuộc đời có thực. Có lẽ chính sự khác biệt giữa hai thế giới ấy đã làm nó thành người "từ trên trời rơi xuống" và "trái tính trái nết" như người ta nói.
Kỳ nghỉ phép năm nay, tôi vừa về tới nhà buổi chiều thì chập tối ông bác Cái Xoan đã đến tìm gặp.
- Tôi phải nhờ ông giáo một việc, ông giáo ạ, - ông ta vào ngay câu chuyện. Nhiều người trong làng vẫn tiếp tục gọi tôi là ông giáo, dù tôi chuyển nghề đã mấy năm nay.
Bằng cái giọng oang oang, đứt quãng vì hồi hộp, ông ta kể tôi nghe sơ lược câu chuyện về Cái Xoan. Ông kể rằng mấy ngày gần đây Cái Xoan có những biểu hiện rất khác thường. Mặt nó lúc đỏ bừng, lúc tái nhợt, vốn ít nói, nay càng ít nói hơn, nhiều khi ngồi thừ người cả tiếng đồng hồ. Cứ chiều đến là nó ra đứng quanh quẩn trước ngõ, mắt nhìn phía đường quốc lộ như chờ ai. Còn tối thì nó nằm trằn trọc mãi không ngủ, và tuy cố giữ, tiếng thút thít khóc vẫn bật ra.
- Tôi biết có chuyện nghiêm trọng, cố gạn hỏi, nhưng nó nhất định không nói. Cả ngày hôm qua nó bỏ ăn, chỉ buông màn nằm úp mặt trên giường. Bà nhà tôi sờ trán bảo nóng, thế là tôi chạy đi mời bác sĩ. Bác sĩ trạm y tế xã ta dạo này là cô Luyến, con ông Hữu xóm dưới. Cô Luyến đến khám, hỏi điều gì đấy rất lâu, rồi nói riêng với tôi... Ông biết cô ta nói gì không? Trời ơi! Cái Xoan đang có thai! Ba tháng! Trời ơi!...
Rồi một tay vung lên cao, một tay tự túm lấy ngực mình, ông nói tiếp:
- Mà nó mới mười sáu tuổi! Một đứa con nít! Lại cụt chân, anh hiểu không? Nó còn chưa biết tí gì, còn ngờ nghệch hơn cả đứa trẻ lên mười. Thế mà không ngờ có kẻ độc ác nỡ quyến rũ nó... Liệu tôi biết ăn nói với bố nó thế nào đây? Ông giáo, ông bảo tôi phải làm gì bây giờ?
- Cô ấy không chịu nói với bác tên người đó à? - tôi hỏi.
- Không! Tôi tìm đủ cách căn vặn, dọa nạt nhưng chẳng ăn thua gì. Nó chỉ khóc... - Ông ta thở dài đánh thượt một cái rồi hạ giọng nói tiếp, vẻ cương quyết. - Tôi thì tôi nghi cho một thằng, ông giáo ạ. Cách đây mấy tháng có đoàn cán bộ tỉnh về xã ta. Làm gì tôi chả rõ, nhưng về một tuần, họ ở ngay trong nhà ông Xuân chủ nhiệm hợp tác xã. Trong đó có một anh còn trẻ, khá đẹp trai, hình như làm nghề báo chí, đài điện gì đó. Anh ta có sang nhà tôi chơi mấy lần, cho Cái Xoan mượn sách và kể chuyện nghe say sưa lắm... Không lẽ chính hắn làm cái điều ghê tởm ấy? Mà vào lúc nào, ở đâu? Có bao giờ cái Xoan làm gì mà chúng tôi không biết đâu?
- Tôi có thể làm gì giúp bác được?
- Tôi cũng chẳng biết nữa. Ông giáo là người có học, nhiều lý lẽ, có thể ông sang nói chuyện với nó chăng? Ông lựa lời thuyết phục, an ủi rồi mách chúng tôi cách giải quyết thế nào cho ổn. Hay ông lên tỉnh tìm hộ tôi cái thằng ấy xem có đúng thế không? Con bé đang chờ hắn, vì lúc nào nó cũng nhìn về phía đường quốc lộ! Chắc hai đứa hẹn hò nhau... Vâng, phải làm cái gì đấy, làm gấp, không thì nó sẽ tự tử. Gì chứ tính nó, tôi biết. Ông cứu nó với!
Sau khi nghe tôi hứa nhất định thế nào cũng đến nhà ông và làm những gì có thể, ông ra về, vẻ yên tâm hơn đôi chút.
Ðêm hôm ấy đi đường mệt, tôi lên gường ngủ sớm, định bụng sáng hôm sau đến gặp Cái Xoan. Ðang nằm suy nghĩ mông lung thì khoảng một giờ sáng bỗng có tiếng đập cửa mạnh. Mẹ tôi ra mở. Ông bác Cái Xoan hớt hải nói không ra tiếng:
- Ông giáo, ông giáo ơi. Cái Xoan chết rồi!
Tôi vội vã mặc quần áo đi theo ông. Dọc đường tôi biết thêm rằng Cái Xoan chưa chết, và đã được đưa đi cấp cứu ở bệnh viện huyện; rằng đêm ấy nó uống thuốc sâu tự tử, là thứ dạo này trong nhà ông bao giờ cũng sẵn vì đang dịp phun trừ sâu cho lúa. Chắc nó uống nhiều, khi được cáng đi viện, nó trong tình trạng nguy kịch, hoàn toàn mê man bất tỉnh.
Sáng hôm sau có tin báo từ bệnh viện cái Xoan đã chết. Ngày tiếp là lễ chôn cất.
Sững sờ vì mọi việc xảy ra quá nhanh và bi thảm, tôi lặng lẽ hòa mình giữa đám người chậm chạp đi theo chiếc quan tài bé nhỏ, giữa tiếng khóc não nề và tiếng kèn trống đơn điệu. Trong đầu tôi lần lượt hiện lên hình ảnh một đứa bé bị bom chặt đứt chân từ khi còn được bế trên tay mẹ, rồi đứa bé ấy bắt đầu tập đi bằng một chân còn lại của mình với sự giúp đỡ của đôi nạng nhựa bé tí. Cùng với nó, những đôi nạng xinh đẹp, có màu sặc sỡ ấy cũng lớn dần lên, để cuối cùng được xếp thành dãy theo thứ tự như một bộ sưu tập độc đáo.
Rồi tôi nghĩ tới kẻ đã giết nó. Có thể đó là tay thanh niên từ tỉnh về mà ông bác Cái Xoan đã nói. Cũng có thể là người khác, một người nào đấy trong số những người vẫn gặp và chào hỏi nhau hàng ngày ở cái làng nhỏ bé này. Nhưng ai? Ai đã nỡ làm hại một đứa bé tội nghiệp như nó? Bất chợt tôi bỗng thấy đau nhói trong ngực, đau vì nghĩ rằng cái ác không bị trừng phạt đang ở đâu đó rất gần bên ta, dưới trăm ngàn mặt nạ khác nhau. Cái ác ấy đang chờ tấn công bất cứ lúc nào mà ta đành bất lực.
CÁI GIÁ CỦA NIỀM TIN
Mùa đông năm ngoái tôi có việc lên Cao Bằng công tác. Khi ô tô đến thị xã thì trời đã tối, không còn xe đi Bảo Lộc, là huyện tôi phải đến. Ðành thức chờ đến sáng vậy. Bến xe lúc này vắng người. Tôi chọn một góc vắng, rồi trải tấm ni-lông xuống đất, thầm lo không biết làm gì cho hết cái đêm lạnh lẽo, dài và buồn chán này.
Bên cạnh, ngồi quay lưng về phía tôi là một đồng chí bộ đội mặc quần áo sĩ quan, mũ kéo tùm hụp xuống tận mắt. Tôi tìm cách bắt chuyện. Một lát sau, vì không có việc gì làm, chúng tôi đã thoải mái trò chuyện với nhau. Hóa ra anh đi cùng xe với tôi từ Hà Nội lên, và như tôi, cũng phải ngồi chờ sáng để đi tiếp, có điều không phải đi Bảo Lộc, mà về Hạ Lang, quê anh. Tuy không nhìn rõ mặt, không phân biệt được quân hàm, quân hiệu, nhưng qua giọng nói tôi đoán anh là một sĩ quan từng trải và có lẽ không dưới bốn mươi lăm tuổi. Tôi yêu cầu anh có chuyện gì hay kể cho nghe, và anh đã kể. Trái với điều tôi mong đợi, chuyện anh kể không về những kỉ niệm chiến đấu ở chiến trường, mà về những con chim hải âu hiền lành sống trên những hòn đảo nhỏ xa tít ngoài đại dương mênh mông mà trong đợt tổng tấn công mùa xuân năm 1975, anh và đồng đội được lệnh ra giải phóng.
* "Mấy ngày sau khi ta chiếm Dinh Ðộc Lập, chúng tôi được lệnh hỏa tốc ra đảo X. Trên danh nghĩa, chúng tôi là một tiểu đoàn, nhưng quân số thực tế chỉ hơn trăm người, lại toàn lính mới chưa dày dặn sóng nước, nên khi tới nơi, phần lớn phải nằm bất động vì say sóng. Cũng may chẳng phải đánh đấm gì mấy, vì bọn địch chốt trên đảo nghe tin đất liền thất thủ, tinh thần đã sa sút tột độ và chỉ chờ có người để đầu hàng. Việc tiếp quản, ổn định cuộc sống trên đảo được tiến hành nhanh chóng và thuận lợi..
Thật khó nói hết sự ngỡ ngàng của chúng tôi những ngày đầu đặt chân lên đảo. Anh thử tưởng tượng xem - những doi cát nhỏ nhoi giữa biển cả mênh mông sóng dữ, suốt đêm ngày gió thổi như bão. Chúng tôi đã hốt hoảng thực sự khi đêm đầu tiên ngủ dậy - như trong câu chuyện thần thoại - chợt thấy trước mặt mình nhú dần lên những hòn đảo thoạt nhìn tưởng tàu địch. Thì ra ở đây có những hòn đảo quá thấp, đến mức thủy triều lên bị ngập hẳn dưới nước và chỉ khi nước rút mới xuất hiện trở lại.
Tuy nhiên, điều làm chúng tôi ngạc nhiên và thú vị hơn cả là chim hải âu. Xưa nay chúng ta chỉ thấy hải âu trong phim, trong các bài hát trữ tình, thế mà bây giờ, kia, chúng kia, hàng nghìn, có thể hàng chục nghìn con đang bay nhao nhác trước mặt. Chúng kêu những tiếng đơn điệu, nghe có cái gì buồn buồn trong đó. Tôi có cảm giác như đây là điểm hội tụ của tất cả loài hải âu trên biển. Từ đây, chúng tỏa đi kiếm ăn khắp nơi, chao lượn không mỏi trên những ngọn sóng, khi trở lại, chúng đậu kín bề mặt hòn đảo chúng tôi đang ở và cả những hòn nhỏ lân cận. Vì đảo trần trụi không cây cối, không hang đá, nên chúng ngủ, làm tổ và đẻ trứng ngay trên mặt cát, lẫn với những vón phân khô, những mẩu cá chúng ăn sót lại, phảng phất mùi tanh nồng.
Như anh biết, ở đất liền bao đời nay quan hệ giữa con người và con chim là thù địch. Thấy chim, con người luôn tìm cách bắt, bẫy hoặc xua đuổi. Phần mình, như phản xạ tự vệ hình thành qua hàng nghìn năm, thấy người là chim liền xa lánh. Còn ở đây, trong tiềm thức những con chim hải âu này, cái phản xạ tự vệ ấy không có, vì lí do đơn giản là không cần thiết, hay chính xác hơn là chúng chưa bao giờ cảm thấy bất kỳ mối đe dọa nào từ phía những con người chúng gặp. Vâng, đúng như thế. Chúng đậu ngay trước mặt chúng tôi, xung quanh chúng tôi, thậm chí cả trên vai và đầu chúng tôi. Mà chúng tôi là ai thì anh đã biết. Sau những phút ngỡ ngàng đầy thi vị ban đầu trước sự cả tin thơ ngây của bầy chim kì lạ, chúng tôi nhanh chóng trở lại với thói quen bản năng thực dụng mang theo từ đất liền.
Việc đầu tiên là chúng tôi nhặt trứng luộc ăn. Không ngon lắm, nhưng cũng tàm tạm, ít nhất đối với những người luôn phải sống trong cảnh kham khổ. Tiếp đến là ăn thịt chim. Rất đơn giản: một người đứng thẳng chìa tay về phía trước. Sẽ có một con đến đậu với đôi mắt mở to háo hức nhìn xung quanh. Nó sẽ được bàn tay còn lại của anh ta vỗ vỗ vào lưng, rồi vặn cổ, vứt sang cạnh cho người khác vặt lông, đưa lên lửa nướng. Tiếp theo là con khác, rồi một con khác nữa, cũng với những đôi mắt mở to ươn ướt như thế. Và cũng như thế, chúng được vỗ vỗ vào lưng, bị vặn cổ vứt xuống đất. Chứng kiến cái cảnh độc đáo ấy là chúng tôi, những chàng trai vô tư ngồi quanh đống lửa, vừa nhồm nhoàm nhai thịt chim, vừa nói cười vui vẻ, quá ư vui vẻ.
Chẳng bao lâu sau, cái trò ấy cũng chán, phần vì thịt chim hải âu tanh, khác hẳn thịt các loài chim đất liền. Nhàn rỗi, chúng tôi lang thang đi trên đảo, dẫm nát dưới gót giày những quả trứng màu xanh lơ xinh đẹp, hay tiện chân đá bay những con chim khờ khạo nằm ngáng đường đi. Một cậu nổi tiếng tinh nghịch còn lấy gậy đánh vào chúng. Ôi, những con chim ngu ngốc tội nghiệp. Anh biết không, cứ con này bị đánh chết là con khác lại sa vào, không chút ý thức về mối nguy hiểm đang đe dọa. Cũng rất vô tư, chúng tôi thi nhau trổ tài thiện xạ. Tất nhiên mục tiêu vẫn lại là những con chim đang đậu phía trước, xa hay gần tùy khả năng từng người.
Tiếng súng quả có làm bầy chim hoảng sợ, nhưng là cái sợ mơ hồ không cắt nghĩa nổi. Chúng giật mình bay lên cao, nghiêng ngó nhìn quanh rồi lại ngỡ ngàng đậu xuống. Chúng chưa hiểu chuyện gì đang xảy ra. Có thể lúc ấy trong chúng đã hình thành mầm mống đầu tiên của sự ngờ vực đối với con người như cách đây hàng vạn, hàng triệu năm tổ tiên loài chim trên đất liền xa xôi đã ngờ vực con người khi con người bắt đầu đối xử thô bạo với chúng.
Hai ngày tiếp theo, vẫn những cảnh ấy xảy ra.
Sang ngày thứ tư thì một điều kỳ lạ đã đến. Anh có thể tin hoặc không, nhưng mờ sáng hôm ấy, ngủ dậy, chúng tôi vô cùng ngạc nhiên khi thấy trên hòn đảo chúng tôi đóng quân không hề thấy bóng con chim nào. Xin nhắc lại: không một con nào! Dấu vết duy nhất còn lại của chúng là những vỏ trứng vỡ ngổn ngang và những túm lông chim gió thổi bay vật vờ trên cát. Ðang ngơ ngác không hiểu chuyện gì xảy ra thì bỗng có lệnh báo động. Sau đó là lệnh tập hợp toàn đơn vị. Chúng tôi nhanh chóng đứng thành ba hàng, thấp thỏm chờ đợi.
Ðại úy tiểu đoàn trưởng Lâm của chúng tôi là người nhỏ bé, khắc khổ, đã trên năm mươi tuổi. Ông ít nói, hiền từ (lúc vui chúng tôi quen gọi "Bố Lâm"), nhưng dễ nổi nóng. Bản chất nông dân, hàng ngày ông thích mặc xuềnh xoàng, dễ dãi, nên hôm nay thấy ông bước ra trước hàng quân trong bộ đồ sĩ quan mới, đủ giày mũ và quân hàm, chúng tôi biết có chuyện khác thường. Sau khi hô "nghiêm" toàn đơn vị, ông bắt đầu nói, giọng trang nghiêm, run run vì xúc động và giận dữ:
- Các đồng chí... các đồng chí đã làm một việc cực kì nghiêm trọng... một việc xấu xa. Các đồng chí đã làm cả đàn chim hoảng sợ bỏ đảo bay đi... Bao năm nay chúng yên ổn sống hòa thuận với con người, với giặc, những tên lính ngụy, kẻ thù của chúng ta, các đồng chí hiểu chưa, với kẻ thù của chúng ta, thế mà nay, các đồng chí, những chiến sĩ cách mạng... chỉ trong ba ngày, các đồng chí đã... đã... Thật tôi không còn biết nói thế nào nữa. Tự các đồng chí phải hiểu lấy...Thật xấu hổ! Xấu hổ! - Ðôi mắt ông chớp chớp. Rồi im lặng một lúc, ông nhìn thẳng vào chúng tôi, nói tiếp với vẻ cương quyết hiếm thấy: - Từ bây giờ, tôi ra lệnh các đồng chí phải bằng mọi cách đưa đàn chim trở lại đảo. Thời hạn một tuần! Giải tán!
Ðấy, anh xem, câu chuyện hóa ra thế đấy. Ðến bây giờ chúng tôi mới ý thức hết việc mình làm. Mọi người lặng lẽ ai về vị trí người ấy, xấu hổ không dám nhìn vào mắt nhau. Liền sau đó, chi bộ họp. Tôi là đảng viên, tôi có dự. Tiểu đoàn trưởng hồi lâu nhắc lại những điều đã nói trước toàn đơn vị, và theo đề nghị của ông, chi bộ đã thông qua những điểm sau (nguyên văn):
1 - Bằng mọi cách đưa đàn chim trở lại đảo trong thời gian ngắn nhất. 2 - Các trung đội họp tự kiểm điểm một cách nghiêm túc. 3 - Từ nay cấm không được ăn thịt chim, trứng chim, cấm không được làm phương hại đến chim và trứng chim dưới bất kì hình thức nào. 4 - Cấm không được nổ súng, trừ trường hợp chiến đấu. 5 - Báo cáo về đất liền.
Tiếp đến là những ngày nặng nề, căng thẳng của chúng tôi. Toàn bộ sự chú ý của đơn vị chỉ nhằm vào một việc là đưa đàn chim trở lại đảo. Nhưng bằng cách nào? Chúng tôi đã thử mọi cách có thể nghĩ ra được. Trước hết là dọn sạch lông chim và vỏ trứng vỡ. Tuyệt đối không gây một tiếng động nào có thể làm chim sợ, và hạn chế đến mức tối thiểu sự xuất hiện của người trên mặt đảo.
Anh thử tưởng tượng xem, hơn trăm con người lặng lẽ, rón rén đi lại như những thằng ăn trộm. Một trăm con người ấy, một trăm chiến sĩ từng vào sống ra chết trên những chiến trường ác liệt nhất, một trăm chàng trai khỏe mạnh, đáng yêu và vô tư - thậm chí quá vô tư đến mức đã có một hành động lầm lỡ, nay thực tình hối hận muốn chuộc lỗi. Nếu cùng là người với nhau thì đơn giản hơn nhiều! Tôi cư xử không tốt với anh ư? Thế thì xin lỗi, và chúng ta sẽ lại chung sống với nhau như những người bạn. Còn nếu anh vì lí do nào đấy không thể tha thứ, ít ra cũng cho được nói rằng tôi làm việc ấy hoàn toàn không vì xấu bụng, mà chỉ do lầm lỡ! Ðấy, với con người có thể nói với nhau như thế. Nhưng với con chim thì không được. Chim chỉ hiểu chúng ta qua ngôn ngữ của hành động, mà hành động bao giờ cũng chỉ bộc lộ ở bề nổi của nó, phần quan trọng hơn, phần nguyên nhân thì không dễ nhận thấy nếu thiếu bộ óc suy diễn lô-gích. Chúng tôi đã làm một hành động xấu, con chim hiểu điều đó và đã xa lánh chúng tôi, nhưng nay chúng tôi đang có một hành động khác ngược lại, là sự hối hận và xấu hổ. Ðiều đó nằm sâu trong suy nghĩ của con người. Làm sao chim thấy được?
Một ngày, hai ngày, rồi một tuần trôi qua mà vẫn không một con nào trở lại. Chúng chen chúc nhau chật chội trên những hòn đảo bé nhỏ khác, hoặc cam chịu cảnh ướt át bất tiện trên các doi cát khi ẩn khi hiện theo con nước. Kể ra câu chuyện sẽ không trở nên quan trọng mức ấy, nếu tiểu đoàn trưởng không cho phát lệnh báo động cả đơn vị. Chính việc đó làm thay đổi hẳn tính chất của vấn đề. Lúc này, trong việc lấy lại niềm tin của bầy chim, chúng tôi hiểu còn có cái gì đấy trừu tượng nhưng to lớn và quan trọng hơn.
Vẫn không thấy bóng con chim nào xuất hiện. Mọi phương pháp, mọi mưu kế đều được đem ra thử. Tôi, với tư cách người dân tộc có kinh nghiệm săn bẫy muông thú cũng được hỏi ý kiến. Một anh chàng theo đạo Cơ Ðốc được yêu cầu cầu Chúa cho loài chim trở lại. Anh ta đã thành tâm cầu Chúa, nhưng tạm thời lời cầu chưa màu nhiệm. Một cậu còn đem cả bát cơm đang ăn tung lên nhử, quên rằng hải âu chỉ ăn cá...
Bầy chim vẫn lạnh lùng bay cao trên đầu chúng tôi, nghiêng ngó nhìn một cách cảnh giác rồi xuống đậu các đảo lân cận, dù đảo chúng tôi là nơi khô ráo, thuận tiện nhất, dù trên đó đang chờ đợi chúng là những con người đã hối cải, những người bạn thật sự.
Thêm một tuần, rồi một tuần nữa trôi qua...
Bỗng một sáng nọ, có cậu vừa bước ra khỏi hầm đã kêu to sung sướng:
- Kìa, chúng trở lại rồi kìa!
Cả bọn chúng tôi ùa ra xem. Trên một mô đất cao cách chúng tôi ba trăm mét, quả có mấy con đang đứng với nhiều tư thế khác nhau. Nhưng nhìn mãi vẫn thấy chúng đứng yên, mọi người sinh nghi, bèn rón rén đến xem. Hóa ra đó là những con chim nhồi! Mọi người nhìn nhau thở dài thất vọng. Nhưng ai đã làm những con chim nhồi đó? Vì sao? Cả đơn vị căn vặn nhau mãi vẫn không tìm ra thủ phạm. Vâng, thủ phạm, vì dù với mục đích gì chăng nữa, làm thế cũng là vi phạm lệnh giết chim đã được công bố.
Tuy thế, phải nói rằng chính nhờ những con chim nhồi kia chúng tôi mới thoát khỏi cái thế bất lực khổ sở của mình. Bay trên cao, thấy có bạn đậu yên ổn trên đảo, đàn chim hải âu bắt đầu thay đổi thái độ. Một vài con rụt rè bay xuống nhập bọn. Núp trong hầm, chúng tôi nín thở theo dõi. Hôm sau số chim xuống đậu đã nhiều. Hôm tiếp theo nhiều hơn nữa. Chúng tôi đã có thể đi lại trên đảo, có điều phải rất cẩn thận và nhất là phải thật tự nhiên như không hề quan tâm tới chúng. Cuối cùng, sau hai tháng, tất cả trở lại như cũ, nghĩa là đàn chim lại có thể đậu lên vai, lên tay chúng tôi mà không hề lo sợ. Chúng tôi thở phào nhẹ nhõm. Anh biết không, ngoài ra chúng tôi còn có thêm cái cảm giác ấm áp của tình bạn, vì suy cho cùng, sống chơ vơ một mình giữa biển trời, có được con chim làm bạn mà nó bỏ đi, kể cũng buồn lắm chứ!...
Toàn bộ câu chuyện là thế. Nghĩ thật chua xót - chỉ trong vài ngày, mấy anh lính trẻ vô tư đã dễ dàng đánh mất niềm tin của những con chim bé nhỏ vào con người, và để lấy lại niềm tin ấy, cả một tiểu đoàn phải vất vả, khổ sở trong hai tháng liền. Biết làm sao được... Cái cần trả giá phải được trả giá, không còn cách nào khác!"
* Anh bộ đội ngừng kể. Chúng tôi cùng ngồi im hút thuốc. Cuối cùng tôi lên tiếng:
- Tôi hỏi thật nhé, có phải anh nghĩ ra mấy con chim nhồi kia không?
- Không, - anh đáp sau một phút trầm ngâm. - Ðó là sáng kiến của bố Lâm. "Bố" quê ở một vùng chiêm trũng Thanh Hóa. Ở đấy người ta hay bẫy cò, nên "bố" mới biết cái kinh nghiệm ấy. Vả lại, hôm "bố" lén lút chèo thuyền sang đảo khác bắt hải âu là hôm tôi trực gác, nên tôi nhìn thấy hết. "Bố" bắt tôi thề không nói lộ với ai. Tôi không nghĩ "bố" sợ bị xem là vi phạm lệnh cấm, mà chỉ sợ mang tiếng lừa dối những con chim ngây thơ. Thế mà sau này, do tính bép xép, tôi đem kể hết với mọi người. Tuy nhiên, vì sợ "bố" buồn, toàn tiểu đoàn ai cũng vờ như chẳng hay gì. Có lẽ đến bây giờ "bố" vẫn nghĩ chỉ mình bố" và tôi biết điều đó. Tội nghiệp ông già.
Cao Bằng, 1980
MỘT CÁI CHẾT ÐƯỢC BÁO TRƯỚC
Tại bệnh viện, người ta cho biết ông bị bệnh ung thư gan và chỉ còn sống được sáu tháng nữa, nhiều nhất là tám. Thông báo này chỉ được đưa ra sau khi bệnh nhân nằng nặc yêu cầu cho biết sự thật. "Tôi là người có nghị lực. Xin thế nào cứ nói thẳng. Tôi sẵn sàng đón nhận tất cả!"
- Vâng, đó là tất cả sự thật mà tôi, với tư cách một bác sĩ, một chuyên gia đầu ngành như người ta vẫn gọi, có thể cho anh biết. Theo yêu cầu của anh. - Vị giáo sư già người khô héo, khuôn mặt nhọn với cặp kính tròn sệ xuống tận đầu mũi, nói. Và ông lắc lắc đầu ái ngại nhìn bệnh nhân, một người đàn ông mới khoảng bốn mươi, to béo, thậm chí da dẻ hồng hào.
- Thật không còn cách nào nữa sao, thưa bác sĩ ?
- Với những trường hợp như anh, tạm thời khoa học còn bất lực. Tất nhiên có thể chạy hóa chất, dùng các loại biệt dược, nhưng cũng khó lâu hơn cái thời hạn tôi đã nói. - Vị giáo sư đưa tay nâng kính lên, nhưng ngay lập tức nó lại tụt xuống vị trí cũ. - Với người khác, chúng tôi thường giấu để họ được sống thanh thản quãng thời gian còn lại. Nhưng vì anh... anh là người có nghị lực... Tôi hy vọng anh sẽ vượt qua được cú sốc này. - Rồi ông chìa bàn tay cũng khô héo của mình về phía trước.
Bệnh nhân, một chủ thầu xây dựng đang phất, trước là kỹ sư công trình làm công ăn lương cho nhà nước, sau bỏ biên chế ra làm ngoài. Trong giới ai cũng biết ông, vì ông thành đạt, có thế lực, và cũng vì ông ranh ma, keo kiệt, gian dối và đủ các mánh khóe mà chỉ những người trong nghề mới hiểu.
Ông bàng hoàng bước ra khỏi bệnh viện. Ðầu óc trống rỗng, chỉ thoáng chút ngạc nhiên về sự trớ trêu của cuộc đời, rằng người vừa tuyên án ông, vị giáo sư gầy đét chỉ còn da bọc xương kia lại có thể sống lâu hơn ông vốn xưa nay chưa hề biết bệnh tật là gì. Chết đúng lúc đang ở thời kỳ sung mãn nhất cả về thể lực lẫn công việc làm ăn.
"Có số cả. Trời bắt ai, người ấy chết, cưỡng sao được!" ông nghĩ, mặc dù chẳng tin trời phật và số phận. Về nhà, ông uống một lúc hai viên thuốc ngủ, định làm một giấc thật dài, thật say rồi tính sau.
*
Người ta nói: Tính cách con người bộc lộ vào những giờ phút gay go nhất của cuộc đời. Ðiều này đúng với ông, người chủ thầu xây dựng chỉ còn vẻn vẹn sáu tháng nữa để sống. Rõ ràng lời tuyên bố của vị giáo sư mà ông không mảy may nghi ngờ đang tạo nên trong ông một sự thay đổi lớn. Thay đổi theo chiều hướng tốt. Chả là xưa nay, đúng như người ta nhận xét, ông không là mẫu người tốt để làm gương, nếu không muốn nói ngược lại.
Sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo mồ côi cả cha lẫn mẹ, từ nhỏ ông phải làm trẻ bụi đời lang thang ở thành phố. Cũng lạ là hoàn cảnh ấy đã không biến ông thành tên tội phạm, dù ông có đủ tố chất để thành hạng người như vậy: gan lì, táo tợn, hận đời và ranh ma. Thay vào đó, ông hướng những đặc tính ấy vào một mục đích khác hiền lành hơn, là kiếm tiền, kiếm thật nhiều tiền. Ðể trả thù đời bắt bố mẹ, ông bà, tổ tiên ông và cả chính ông phải luôn nghèo đói. Thế là bằng mọi cách, cả hợp pháp và không hợp pháp (nhưng chưa bao giờ đến mức phải vào tù), từ đứa bé không nơi nương tựa, ông khôn khéo xin được vào một trại mồ côi, học hết phổ thông, làm đủ nghề để kiếm sống, rồi tốt nghiệp đại học tại chức, đút tiền xin chân biên chế trong một viện nghiên cứu và cuối cùng, khi kinh tế bung ra, ông trở thành chủ thầu xây dựng và phất lên từ đó.
Tiền bạc chảy vào nhà ông ngày một nhiều, nhiều đến mức chính ông đôi khi cũng phải ngạc nhiên. Nhưng ông chưa thấy đủ mà cứ muốn kiếm thêm nhiều, thật nhiều nữa. Tiền là ma lực không thôi ám ảnh ông, dường như là mục đích sống duy nhất. Vì thế mà ông nổi tiếng keo kiệt, với người khác và cả với chính mình. Cũng vì mải làm giàu mà đến nay ông vẫn độc thân, sinh hoạt hết sức đơn giản, không có khái niệm giải trí, không nghiện bất kỳ một thói xấu tốn tiền nào, thậm chí cả bia rượu, thuốc lá. Hàng ngày ông ăn cơm bụi như đám công nhân ông thuê làm. Vì ranh ma, ông luôn tránh không dính vào pháp luật, và đã thành công dù không phải những gì ông làm đều hoàn toàn hợp pháp. Cứ thế, ý thức và không ý thức, ông bị cuốn đi trong cơn lốc kiếm tiền hết năm này đến năm khác. Chắc cơn lốc ấy sẽ còn kéo dài nữa, nếu không có cái vụ ung thư oái oăm này.
Vậy là bây giờ, như người đang chạy nhanh bỗng va phải bức tường đứng khựng lại, ông ngơ ngác không biết làm gì với quảng thời gian ngắn ngủi còn được sống, với số tài sản có thể gọi kếch sù của ông, gồm bốn ngôi nhà lớn, trong đó có hai ở phố chính mặt tiền rộng, và hơn ba tỉ đồng tiền mặt, chưa tính những khoản đang chờ bàn giao công trình mới thanh toán.
*
Mấy hôm sau, khi ít nhiều bình tĩnh trở lại và trong đầu đã hình thành một số dự định dẫu còn mơ hồ, ông rủ một thuộc hạ đến nhà hàng Bistro thuộc loại xịn nhất trong thành phố.
- Tớ chi. - Ông nói khi anh kia tỏ ý ngạc nhiên. - Thì sống cũng phải hưởng thụ chứ. Cậu biết rồi đấy, có thể nói xưa nay tớ chưa sống chút nào. Có chăng chỉ là cuộc sống chó má. Suốt đời hùng hục kiếm tiền như thằng điên. Mà thử hỏi để làm gì? Chết có mang theo xuống mồ được không?
Anh kia, một người cũng trạc tuổi ông, mặt nhọn và choắt như mặt chuột, thái độ xu nịnh không che giấu, vội xuýt xoa kêu lên:
- Ông anh nói chí phải, chí phải. Nhiều tiền như anh mà không hưởng lạc thì thật phí. Thật phí. Nếu anh muốn, em sẽ hết lòng giúp anh. Khoản này thì anh phải gọi em là sư phụ. - Rồi hắn bỗng im lặng, vẻ tư lự: - Mà sao bỗng nhiên ông anh có được cái ý nghĩ tuyệt vời này nhỉ?
- Chẳng sao cả. Ðến lúc thích thì chơi, thế thôi.
- Ðúng! Thích thì chơi. Ðời sống được mấy. Hay bây giờ ông anh mới bắt đầu sợ chết non không được hưởng lộc đời? Ðã thế, theo em ông anh nên lấy vợ đi. Có vợ cũng rách việc lắm, nhưng suy cho cùng không thể không có, nhất là anh...
- Nhảm nhí. Vợ con gì. Nào, ta đi.
Tối hôm ấy ở nhà hàng Bistro, anh mặt chuột tranh thủ ăn uống đủ thứ đắt tiền, thầm ngạc nhiên không hiểu cớ gì một người nổi tiếng keo kiệt như ông chủ lại bỗng dưng hào phóng với cánh đàn em như hắn.. Còn ông thì lặng lẽ khinh bỉ nhìn hắn. Không chỉ vì bản chất tiếc tiền cố hữu chợt thức dậy khi ông giật mình liếc nhìn bảng giá, mà vì cái cách hắn ăn, cách hắn xu nịnh, vì cả cái mặt chuột của hắn. Ðược cái hắn trung thành, giỏi việc và là một tay chân đắc lực nên ông mời hắn, coi như trả công cho bao năm tận tụy. Ông ăn uống không thấy ngon vì nó khác những thứ bình dân xưa nay ông đã quen. Cái không khí sang trọng, sạch sẽ và yên tĩnh ở đây cũng làm ông thấy lạc lõng. Còn anh kia thì khi ra về đốp luôn:
- Ở đây chán bỏ mẹ. Nhà hàng Tây nên đếch có em út nào. Phí tiền! Lần sau em dẫn anh đi. Hết ý. Anh phải thử cho nó biết! Cả nước này em thấy anh là một đấy. Tiền tỉ mà chẳng biết ăn chơi chút nào. Em nói anh đừng giận: Không bằng thằng nhà quê. Tại ông anh tiếc tiền hay không thích?
- Cả hai.
Hôm sau, dù không chút hứng thú, ông vẫn theo anh chàng mặt chuột và hai người bạn cũ đi ăn ở "nhà hàng ta, có dịch vụ từ A đến Z". Cũng là để cho biết kẻo phí.
Các nơi khác người ta phải trương biển thật to, đèn thật sáng để câu khách, nhưng nhà hàng họ vào tối ấy thì như cố thu mình lại. Với tấm biển xộc xệch có hai chữ "Ðặc sản" rất mập mờ, nó nằm trong một ngõ hẻm thuộc khu phố "điểm nóng xã hội". Lần này được giao toàn quyền đạo diễn nên gã mặt chuột xăng xái đi đầu với vẻ rất sành điệu. Hắn thì thầm câu gì đó với chủ quán, một lão béo đen trũi đầu hói nhưng bộ râu lại rất rậm, mặc quần xoóc lửng và áo phông màu cháo lòng.
Ngay lập tức có bốn cô gái trẻ đi ra, đều mặc váy dài bó có màu khác nhau, xẻ cao quá gối, cổ sệ thấp và hai cánh tay trần. Cô áo đỏ, xinh và trẻ nhất, được bố trí phục vụ ông, có lẽ vì người ta biết ông là người chủ chi hôm nay. Cô ta hôn đánh chụt một cái vào má ông, mùi son phấn sực nức. Rồi các cô dẫn khách vào một căn phòng chỉ độ mười mét vuông, tối tù mù, không bàn ghế, chỉ có bốn chiếc thảm mỏng trải sẵn từ trước.
- Ông anh của anh đây là khách mới, xộp lắm đấy, các em nhớ mà chiều cho khéo nhé. - Gã mặt chuột nói như ra lệnh. Rồi như thể làm gương cho ông bắt chước, hắn nửa nằm nửa ngồi, tựa vào tường để cô gái của hắn ngồi lên đùi, còn tay hắn thì bắt đầu thô bạo lần khắp cơ thể cô ta. Hai người kia cũng làm theo. Chỉ có ông là vẫn ngại ngần đứng yên.
Liền sau đó các em khác của nhà hàng bê vào mấy khay đầy đồ uống. Bốn cô áo dài xinh đẹp thi nhau bật nắp tanh tách. Ông nhẩm đếm có hai chai rượu ngoại, hơn chục lon bia, chục lon nước ngọt, hai bao thuốc lá và vô số các gói thức ăn nhẹ.
- Các anh khai vị đi! - cả bốn cô nói gần như đồng thanh, và cũng gần như cùng một lúc rót rượu đưa lên tận miệng khách, sau khi đã dùng khăn ấm lau sạch mặt mũi cho họ. Cứ như khách là những đứa trẻ đang ốm nặng được các cô dỗ uống thuốc đắng.
- Anh không thích em à? - cô áo đỏ ỏng ẹo nói khi thấy ông ý tứ không cho ngồi lên đùi.
- Ờ ... thích. Thích chứ, - ông lúng túng đáp.
- Thế sao không yêu em đi, hoặc để em yêu?
Ông chưa thật hiểu "yêu" nghĩa là gì. Rất thành thạo và tự nhiên, cô ta luồn tay vào cổ ông ve vuốt, sau đó xuống nữa, xuống sâu nữa...
- Thôi, khoan đã, để sau! - Ông nói, hơi ngạc nhiên và khó chịu.
Gã mặt chuột từ chiếu bên nói vọng sang:
- Ông anh chưa muốn thì hẵng chờ. Ngu thế. Hay ông anh không thích nó thì ta đổi cho nhau?
Tất nhiên đây không phải lần đầu ông vào các nhà hàng kiểu này. Công việc đôi khi vẫn bắt ông mời hoặc nhận lời ai đó đi chiêu đãi. Nhưng mức độ trơ trẽn và trắng trợn như ở đây thì quả ông chưa quen, do vậy ông thấy ngượng, gần như bị xúc phạm. Ông đi ăn nhậu chứ đâu phải vào nhà thổ? Tò mò, ông quyết định ngồi yên xem chuyện gì xẩy ra tiếp theo.
Tiếp theo, người ta mang vào các món mặn đủ loại, đủ kiểu. Cũng với ý định làm mẫu cho người khác bắt chước, gã mặt chuột há to mồm để cô gái của hắn bón từng miếng thức ăn nhỏ, sau mỗi lần lại lấy khăn ướt lau cẩn thận. Hai tay hắn vẫn luôn đâu đó dưới bộ quần áo mỏng của cô ta. Hắn có vẻ thích lắm, đôi mắt lươn lim dim tận hưởng. Hai người bạn kia của ông cũng bắt đầu làm theo, tự nhiên và thạo việc. Hình như không ai ngượng ngùng, xấu hổ, dù chỉ chút ít hoặc giả vờ. "Thật bỉ ổi, thật bẩn thỉu!"
- Thằng Khánh ra đây tao bảo! - ông đứng bật dậy, bước mạnh ra khỏi phòng. Cô áo đỏ giật mình, làm rơi cốc bia xuống sàn nhà.
- Mày làm cái trò gì vậy? - ông quát gã.
- Dạ, em không hiểu. - hắn khúm núm, ngơ ngác nói. - Em ăn. Như mọi người cả thôi. Vâng, chắc tại ông anh chưa quen kiểu này. Bây giờ ở đâu cũng thế cả...
- Tởm! Thế thì vào mà ăn tiếp theo cái cách của mày đi ! Tởm! Tao ra ngoài chờ. Tao sẽ thanh toán. Ðừng lo.
Rồi ông cương quyết bỏ đi. Thằng Khánh chạy theo, nói khẽ:
- Hay ông anh đã muốn "chuyện ấy" rồi? Thế thì mời lên tầng trên. Vô tư đi. Hoặc ngay phòng đang ăn cũng được...
Ông quắc mắt giận dữ, khiến hắn vội im bặt. Lão béo chủ quán lo lắng hỏi có chuyện gì, nhưng ông bảo không sao, chỉ muốn ra ngoài một tí cho thoáng. Lát sau ông nghe tiếng lão quát to và tiếng thút thít của cô áo đỏ. Ði ngang qua mấy phòng khác, ông cũng gặp những cảnh "ăn uống" như thế. Ông cảm thấy buồn nôn thực sự.
"Ðúng thật mình là thằng nhà quê, chẳng biết gì về các kiểu ăn chơi bây giờ", ông thầm nghĩ. "Nhưng thế thì tởm lợm quá!" Trước đây ông cũng đọc báo hoặc nghe kể nhiều chuyện tương tự, nhưng vì mải làm ăn, vì không quan tâm, nên chỉ lờ mờ hình dung mà thôi. Coi như chuyện của người khác. Nhu cầu của ông không nhiều. Nhu cầu sinh lý cũng chẳng bao giờ trở nên quá thúc bách, phần vì tạng người ông thế, phần vì quá bận, và cả vì ông không muốn "phí tiền vô bổ cho những trò ấy". Những gì ông vừa chứng kiến rõ ràng không còn đơn thuần là ăn nhậu hay thậm chí hành vi mua bán dâm bình thường, mà là một sự đồi bại về đạo đức, một sự xúc phạm nhân phẩm. Ông là thằng cầu bơ, cầu bất thật đấy, hồi bé có lúc phải ăn cắp để kiếm sống, lớn lên dùng mọi thủ đoạn kiếm tiền, nhưng với tư cách là con người, ông chưa bao giờ cho phép hạ thấp mình đến mức ấy.
Thằng Khánh đã đành, còn hai ông bạn cùng học đại học ông mời hôm nay thì sao? Một người là giáo viên đại học, người kia là cán bộ văn hóa thành phố. Sau một đêm "ăn uống" kiểu ấy, sau khi bỏ tiền mua một cô gái kiểu ấy trên tầng hai hay ngay tại phòng ăn theo kiểu bầy đàn ấy, không lẽ ngày mai họ có thể thản nhiên trở lại làm giáo viên đại học và cán bộ văn hóa như không hề có gì xẩy ra? Không lẽ cả xã hội đã "hiện đại" và "mở cửa" đến mức những trò như thế trở thành bình thường và không còn bị lên án, nhân danh tự do cá nhân, nhân danh đổi mới? Mà thành phố này đâu chỉ có nhóm bốn người của ông đêm nay, đâu chỉ có một nhà hàng này? Ông biết các tế bào ung thư đang âm ỉ tấn công và sắp hủy diệt cơ thể khỏe mạnh của ông. Phải chăng những con người này, những nhà hàng ổ chứa trá hình này không phải là những tế bào ung thư đang hủy diệt dần đạo đức xã hội? Ông được sống sáu tháng nữa, còn xã hội thì bao lâu?
Ông ngồi xuống chiếc ghế xa-lông kê trong góc phòng ngoài, mà ở những nơi khác gọi là phòng lễ tân. Nó chẳng đến nỗi nào. Sạch sẽ, bài trí đẹp, chỉ hơi chật và tối. Lão béo đang ngồi sau quầy, vẻ yên tâm hơn vì biết sẽ được thanh toán.
- Có gì ông anh bỏ quá cho. Các em chúng nó chưa có kinh nghiệm, - lão nói rồi cười cầu tài. Tiếng cười như bị kẹt giữa tiếng thở phì phò nặng nhọc.
Vì không biết hút thuốc, lại thấy cái gì nghèn nghẹn trong cuống họng, ông hỏi xin một cốc nước lọc. Bê nước ra cho ông là một cô gái rất trẻ, hay đúng hơn còn là một đứa bé, trạc mười sáu, mười bảy tuổi, gầy, khuôn mặt dễ coi với dáng điệu của người nông thôn đang tập làm sang nhưng hơi vụng. Tuy nhiên, cô còn giữ được cái gì đấy chân chất, ít ra chưa đến mức trắng trợn khó chịu như mấy cô lúc nãy. Ðặc biệt cô có đôi mắt buồn. Cơ thể chưa phát triển hết của cô cũng toát ra cái buồn ấy. Không phải cái buồn tư lự của cô gái đau khổ vì đời, vì tình, mà là cái buồn của một đứa trẻ bị bắt làm những việc nó không muốn. Ông nhận ngay ra điều ấy. Bao năm lăn lộn trong đời giúp ông có được cách đánh giá nhanh và chính xác về người khác.
- Cháu cũng là nhân viên ở đây à? - ông hỏi, không gọi "em", mà "cháu".
- Dạ vâng.
- Sao không tiếp khách?
- Vì không đến lượt... - cô ngập ngừng không biết nên xưng hô thế nào. - Vì không đến lượt em. Chỉ lúc nào thiếu người, em mới được gọi. Em vụng lắm.
Ông mời cô ngồi. Cô rụt rè làm theo. Phía quầy rượu có tiếng lão chủ e hèm như nhắc điều gì.
- Anh mời em uống rượu nhé? - cô lí nhí nói.
- Cháu biết uống rượu à?
Cô cúi mặt không đáp. Nhưng ông hiểu.
- Mang cho tôi chai rượu! - ông gọi to. Lão béo vội mang đến ngay một chai rượu mạnh. Tất nhiên đồ ngoại và loại đắt tiền. Lão xun xoe rót rượu vào hai chiếc ly lớn, nhưng không ai chạm tay vào.
- Tên cháu là gì?
- Dạ, Mỳ ạ. Nhưng ở đây người ta bắt đổi thành Ngọc. Thúy Ngọc.
- Cháu bao nhiêu tuổi?
Cô bé ngập ngừng một chốc rồi đáp, mặt đỏ ửng. Rõ ràng cô chưa quen nói dối.
- Mười tám.
- Mười lăm hay mười sáu? - ông nhìn thẳng vào mắt cô.
- Dạ... mười sáu. Sắp mười bảy.
- Cháu quê ở đâu?
- Cháu ở Nông Cống, Thanh Hóa.
- Sao không ở nhà đi học lại đến đây?
Mỳ không đáp. Hình như cô đang hoặc sắp khóc.
- Cháu ở đây bao lâu rồi?
- Dạ, ba tháng.
- Tiền công thế nào?
- Không có tiền. Chỉ cho ăn và ngủ. Thỉnh thoảng được ít tiền "bo", nếu gặp khách tốt.
Ông ngồi nói chuyện với Mỳ khá lâu, nói khẽ chỉ đủ nghe, vì biết lão béo sau quầy rượu đang theo dõi họ.
Mỳ đã kể ông nghe hoàn cảnh của mình. Nhà cô có bảy chị em, cô là chị cả. Sau cô còn hai em gái, rồi đến hai em trai. Ðứa thứ sáu lại con trai, và đứa út là con gái, còn rất nhỏ. Cả làng đều nghèo chứ không riêng nhà cô. Và cũng cả làng theo nhau cho con lên thành phố kiếm sống bằng đủ nghề khác nhau. Con trai lớn thì làm cửu vạn, thợ xây dựng theo mùa, bán hàng rong hoặc ai thuê gì làm nấy. Con gái đi buôn, làm ô-xin, phần nhiều làm "nhân viên nhà hàng" như cô. Bọn nhỏ hơn thì đánh giày, bán báo, ăn cắp hoặc làm trẻ lang thang bụi đời để nhà nước cho vào đâu đó, được ăn hàng ngày, được học và cấp quần áo. Bố cô máu mê cờ bạc, lại nghiện rượu nên thường đánh mẹ và chị em cô rất đau, nhất là khi trong nhà không có tiền. Mà nhà thì chẳng bao giờ có tiền. Chỉ mình cô học hết lớp tám, còn lại đến lớp năm là cùng. Có đứa chẳng bao giờ đi học. Việc này ở làng cô cũng chuyện thường. Cách đây ba tháng, bố cô bắt cô theo một bà nào đó ra Hà Nội, nói để xin làm chân quét dọn ở cơ quan, nhưng lại đưa đến đây. Hôm đầu bị ép "tiếp khách", (cô đã bị lão chủ đánh khi định từ chối) người ta bảo cô được hai triệu, nhưng số tiền ấy đã đưa trước cho bố cô ở nhà, không biết có đúng thế không. Cô tưởng mỗi lần "đi khách" được chừng ấy tiền, nhưng những lần sau người ta không cho gì. Cũng không được đi đâu nếu ông chủ không đồng ý. Tất cả ở đây đều thế. Sau này bạn cùng làm cho cô biết đấy là tiền bán trinh, và như thế là rẻ. Cô nhiều lần định bỏ trốn nhưng không biết đi đâu. Về nhà thì không dám vì sợ bố đánh. Cô biết hai thằng em trai cũng đang ở Hà Nội, nhưng không rõ chúng đang ở đâu và sống bằng gì...
- Hóa ra làng cháu là nơi cung cấp trẻ lang thang cho thủ đô Hà Nội? - Ông nhếch mép cười.
- Không riêng làng cháu. Bây giờ đang có phong trào như vậy. Cứ tống hết trẻ con lên thành phố. Gia đình không phải nuôi, lại được nhà nước cho ăn học sướng hơn ở nhà. Bố cháu bảo sẽ cho chị em cháu đi hết. Càng sớm càng tốt.
Ông biết các cô gái làm nghề này thường phịa rất giỏi hoàn cảnh khó khăn của mình để moi tiền khách. Câu chuyện mùi mẫn này của cô quen quen như đã nghe đâu đó. Nhưng lần nữa, với sự nhạy bén vốn có khi đánh giá người khác, ông tin cô nói thật. Im lặng hồi lâu, ông hỏi:
- Cháu bảo cháu muốn trốn khỏi đây?
- Vâng.
- Và cháu không dám về nhà vì sợ bố đánh?
- Vâng. Bố cháu hay đánh lắm. Nhưng nếu nhà có tiền thì bố cháu lại rất hiền.
- Nhà cháu có ruộng không?
- Có, nhưng đất xấu, không đủ ăn.
- Nếu bây giờ chú giúp đưa cháu về, cháu nghĩ sao? Chú sẽ có cách làm bố cháu không đánh và không bắt cháu ra đây nữa.
- Cháu sợ không được đâu, - Mỳ nói rất khẽ, đưa mắt ra hiệu về phía lão béo.
- À, chú hiểu. Nhưng nếu chú lo được cả chuyện ấy và đưa cháu về, thì cháu đồng ý chứ?
Cô gái gật đầu. Ông đứng dậy, đi lại gần lão chủ quán:
- Tôi muốn đưa cô bé này đi...
- Ông anh tinh lắm. Nó ngon lắm đấy. Mới toanh. Hương đồng gió nội trăm phần trăm! - lão nói, và lại cười nhăn nhở.
- Không, không phải chuyện ấy. Tôi muốn đưa nó đi hẳn.
- Ði hẳn? Nhưng nó là nhân viên nhà hàng này... Tạm thời chưa được việc, nhưng rồi sẽ quen. Phải vất vả lắm tôi mới kiếm được nó...
Ông mở ví, rút ra ba tờ giấy bạc loại một trăm đô-la.
- Thì tôi đền cho ông. Chừng này đủ chưa?
Lão chủ quán thầm ngạc nhiên vì sự hào phóng của ông khách kỳ cục. Hắn muốn vòi thêm, nhưng sợ không khéo sẽ mất cả chì lẫn chài, nên làm ra vẻ luyến tiếc nói:
- Thôi được. Tôi chiều ông anh. Nhưng ông anh định làm gì với nó? Nếu không tiện trả lời thì thôi.
- Ðưa về quê trả lại cho bố mẹ nó. Chỗ của nó không phải ở đây.
- Ðúng, đúng thế. Ông anh thật hào hiệp. Chính tôi cũng nghĩ môi trường ở đây không thật lành mạnh đối với cháu. Ông anh thấy đấy, tôi có bắt cháu tiếp khách bao giờ đâu. Tôi luôn...
Ông ra hiệu không muốn nghe thêm. Sau này Mỳ cho ông biết rằng sau lần bán trinh, chính hắn là người đầu tiên ngủ với cô, suốt mấy ngày liên tục cho đến lúc chán "của lạ" mới thôi. Còn thì thỉnh thoảng, khi muốn, hắn vẫn bắt cô, cũng như tất cả các "nhân viên" khác ở đây phải chiều hắn. "Thằng khốn nạn!" - Ông thầm nghĩ, rồi thanh toán bữa ăn (một món tiền lớn mà trước đây chắc ông phải xót lắm). Ông bảo Mỳ chuẩn bị đồ đạc, và đưa cô về nhà ông.
Ông dẫn cô vào căn phòng đầy đủ tiện nghi trong một biệt thự mới xây, dặn sáng mai dậy sớm để về Thanh Hóa. Chưa hết ngỡ ngàng vì mọi chuyện diễn ra quá nhanh chóng, đột ngột, Mỳ tắm rửa, thay quần áo và lên giường nằm. Cô đoán chỉ lát nữa người đàn ông tốt bụng nhưng hơi kỳ lạ kia sẽ quay lại. Cô đã là đàn bà và biết đàn ông cần gì ở đàn bà, nhất là những người đang trong hoàn cảnh như cô.
Nhưng ông không quay lại. Sáng hôm sau hai người lên lên ô tô về quê cô Mỳ.
*
Những điều Mỳ kể đều đúng sự thật, trừ việc nhà cô có tám chứ không phải bảy chị em, vì bà mẹ mới sinh đứa nữa. Một bầy nhếch nhác, bẩn thỉu như ngôi nhà tranh chúng đang sống. Anh bố tuổi chỉ bằng ông hay ít hơn, lúc ấy đang lè nhè chửi ai đó. Hắn có bộ mặt và dáng điệu chẳng nhà quê chút nào. Nhất là đôi mắt. Ðỏ ngầu, độc ác và tinh quái. Ðôi mắt của một thằng đểu. Hắn ngạc nhiên khi thấy cô con về cùng một người ăn mặc lịch sự và ra giáng ông chủ, lại bằng ô tô. Nếu cô về một mình, chắc hắn đã chửi rủa, bắt đưa tiền ngay. Nhưng bây giờ, dẫu đang say, hắn cũng lờ mờ đoán có chuyện quan trọng. Chuyện tốt lành.
- Ôi, con về đấy à? - Hắn vội chạy ra, nói như hát. Chỉ còn thiếu việc ôm hôn con trước mặt khách. - Mời bác vào chơi. Mời vào. Chết, nhà cửa lộn xộn quá, bác bỏ quá cho. Còn chúng mày đi chơi! - Hắn quát lũ trẻ con hắn, nhưng chúng chỉ lùi ra một chút, tò mò đứng nhìn. - Thế nào con? Công việc làm ăn thế nào? Sao chẳng thư từ, tin tức gì cho bố mẹ cả? - Rồi hắn quay sang khách nói một thôi như sợ bị ngắt lời: - Bác biết đấy, dân quê chúng em vất vả, quanh năm quần quật ngoài đồng mà chẳng đủ ăn, nên đành phải đứt ruột để cháu đây ra thành phố kiếm thêm chút tiền giúp đỡ gia đình. Em nghe nói ngoài ấy tiêu cực nhiều lắm, nhưng được cái cháu nó ngoan nên ở nhà chúng em cũng yên tâm. Hai cháu gái tiếp nó em cũng định sắp tới cho ra ngoài ấy cho có chị có em. Chúng nó ngoan và chịu khó lắm. Xa chúng, em thương lắm, nhưng mà trước sau cũng phải cho đi thôi. Vì tương lai của các cháu mà. Chứ bác tính, ở nhà chân lấm tay bùn chúng sẽ khổ suốt đời...
Ngồi trên chiếc chõng ọp ẹp, bê bát nước vối đục ngầu mà hắn cứ ấn vào tay, ông nghe hắn kể lể, vừa sốt ruột vừa ghê tởm. Cuối cùng, ông ngắt lời khá sỗ sàng, làm hắn chưng hửng:
- Thôi, không cần nói nữa. Tôi hiểu hết rồi. Anh đã nhận được hai triệu đồng tiền bán trinh con gái anh chưa?
- ẤY chết, bác nói gì vậy? Sao một người bố như tôi có thể làm cái điều thất đức đó?
- Tôi đã biết hết mọi chuyện. Do vậy tôi mới về đây. Ðừng lo, không phải để bắt anh đâu. Ngược lại, tôi có ý định giúp gia đình anh. Thế nào, anh nhận tiền rồi phải không?
Thấy khách có vẻ cương quyết, lại bảo còn giúp đỡ, hắn đành chống chế:
- Chỉ triệu rưỡi thôi chứ không phải hai triệu. Tiền người ta ứng trước lương cho cháu Mỳ... Phải thế không con? À mà bác đây là người thế nào với con đấy nhỉ?
- Chẳng thế nào cả. Tôi chỉ muốn cứu cô ấy khỏi cái nơi tội lỗi anh đã đẩy con gái anh vào. Thế này nhé. Tôi sẽ giúp gia đình anh mười triệu đồng, với điều kiện anh chí thú làm ăn như mọi người và không bắt các con anh ra thành phố nữa. Vì sao thì anh thừa biết. Số tiền ấy tôi sẽ bảo cô Mỳ gửi tiết kiệm, chỉ khi thật cần mới lấy ra, mà cũng từng ít một...
- Ôi, bác thật quí hóa! Thật quí hóa! - hắn rên lên vì sung sướng khi nghe nói đến số tiền lớn như vậy. - Em sẽ chí thú, rất chí thú làm ăn. Và không một đứa con nào của em phải lang thang kiếm sống ở cái đất Hà Nội nhơ bẩn, tội lỗi ấy nữa. Em thề với bác như vậy. Thề! Bác cứ tin em đi!
Ông gọi Mỳ ra một nơi, đưa tiền cho cô, (không phải mười mà mười lăm triệu), đưa cả địa chỉ và số điện thoại để khi cần có thể liên lạc. Rồi ông lên ô tô trở về Hà Nội. Ông không muốn ở thêm chút nào nữa với gã bố nát rượu, láu lỉnh và trơ trẽn kia. Bà vợ của hắn ông chỉ thấy thoáng một lần. Một người đàn bà nhu nhược, ốm yếu. Một cái máy đẻ để cung cấp trẻ lang thang và đĩ điếm cho thủ đô, như bao máy đẻ khác trong làng này.
Lúc lên xe, gã bố chép miệng bảo ông:
- Nếu chưa vợ, bác lấy quách con Mỳ nhà em thì tốt biết mấy. Hay bồ bịch gì cũng được. Em cho không bác đấy!
*
Quả đúng ông thực sự không biết phải làm gì với gia sản khổng lồ của mình trước khi chết. Ở quê, ông chẳng còn ai thân thích, cũng không có bạn bè, trừ những người cùng làm ăn trong nghề, và thường là đối thủ ngầm của nhau. Ông giấu thực trạng bệnh tình của ông, ít ra để nhiều người trong họ không lấy thế làm mừng. Mọi phần việc còn lại, ông giao cho người tin cậy làm nốt, còn ông thì viện cớ bận việc riêng, suốt ngày đóng cửa ngồi ở nhà. Cần lắm, ông mới ra ngoài, đôi khi dạo quanh quẩn đâu đó, hoặc phóng xe ra ngoại ô thay đổi không khí.
Ông tắt hết các máy điện thoại, không tiếp xúc với ai. Cái ý định "hưởng thụ cuộc đời" ban đầu bị ông gạt bỏ từ lâu. Ông chỉ muốn được yên tĩnh một mình, và dù cố không nghĩ gì, ông vẫn luôn quẩn quanh suy nghĩ đủ chuyện. Ông không có cái cảm giác hoảng hốt của những người biết mình sắp chết. Ngược lại, ông thấy bình tĩnh một cách đáng ngạc nhiên. "Mình vơ vét của đời nhiều rồi, bây giờ đến lượt phải trả, - ông nghĩ. - Thế cũng công bằng. Có điều trả thế nào cho đúng và có ý nghĩa nhất mới là chuyện khó".
Ông lập một danh sách dài những nơi ông sẽ cúng tiền, trong đó có trại mồ côi ông từng sống ngày nào; một số cơ sở nuôi dưỡng trẻ em khuyết tật; nâng cấp nhà thờ và nghĩa trang dòng họ ông ở quê, là nơi ông cũng dự định giúp xây một trường học ba tầng; tu sửa một ngôi chùa ông yêu thích, vân vân. Toàn những việc tốt đẹp, nhưng số tiền còn lại vẫn nhiều, nhất là khi ông bán các ngôi nhà của ông, trừ chiếc biệt thự đang ở. Ông không quên những đứa trẻ lang thang hiện nay. Chúng thật đáng thương và rất cần được giúp đỡ. Hơn ai hết, ông biết rõ điều ấy, nhưng cứ nghĩ tới thằng bố của Mỳ cùng việc hắn và cả làng hắn thi nhau đẻ con để tống lên thành phố bắt người khác nuôi, là ông lại do dự. Hôm từ Thanh Hóa về, ngồi trong xe, ông đã mường tượng cảnh hắn sẽ đánh cô, bắt đưa tiền để uống rượu, cờ bạc, và sau một thời gian hết tiền, chắc lại sẽ bắt cô lên thành phố "đi làm".
Không thấy Mỳ thư từ hoặc gọi điện cho ông. Có thể như thế nghĩa là mọi việc không đến nỗi. Ông thôi không băn khuăn về cô nữa.
Một hôm, ba tháng sau ngày theo Mỳ về Thanh Hóa, ngồi ăn cơm bụi như mọi ngày ở góc phố cạnh nhà, ông bỗng thoáng thấy cô đang ngồi sau xe máy của người nào đó đi ngang qua. Không thể nhầm được. Ông vội gọi xe ôm đuổi theo nhưng không kịp.
Thế là Mỳ đã trở lại Hà Nội, và chắc vừa rồi đang "đi khách". Có thể cô bị bố đánh bắt làm thế. Cũng có thể chính tự cô. Dẫu sao thì, nếu không tính đến yếu tố tinh thần (mà một cô gái nông thôn có hoàn cảnh như Mỳ, điều ấy chắc gì đã quan trọng), ở thành phố vẫn sướng hơn nhiều so với cuộc sống đồng ruộng cùng ông bố vũ phu, nát rượu và bầy em nheo nhóc.
Thực ra ông chưa có tình cảm nào đặc biệt với cô. Những việc ông làm chỉ mang tính nguyên tắc chung chung - ông muốn đưa một con người ngẫu nhiên ông gặp trở về với cuộc sống lương thiện. Bây giờ con người ấy quay lại đường cũ, vì lý do nào không quan trọng. Cái quan trọng là ông đã thất bại trong ý định tưởng dễ mà hóa ra rất khó ấy. Ông không tiếc tiền, hẳn thế. Ông chỉ thấy chua xót và bất lực.
Vốn không bao giờ chịu đầu hàng một cách dễ dàng, ông quyết tâm tìm Mỳ bằng được để hỏi cho ra nhẽ, nếu cần, sẽ thử giúp cô lần nữa. Lần này dứt khoát và mạnh mẽ hơn. Ông đã tính đến chuyện mua cho cô một căn hộ, tìm việc làm và mai mối cô với một trong những thuộc hạ tử tế của ông. Ông đến nhà hàng lão chủ béo nọ nhưng không thấy. Ông hứa sẽ cho lão một khoản tiền lớn nếu tìm được cô. Gã mặt chuột cùng mấy đứa bạn của hắn rất tích cực trong việc này vì cũng được hứa như vậy. Bản thân ông thỉnh thoảng thuê xe ôm đi khắp thành phố để tìm Mỳ, nhưng cô vẫn mất tăm. Ông làm tất cả những việc này vì cô một phần, thực ra vì ông là chính. Ông muốn được an ủi rằng nếu tiền bạc không cứu nổi ông khỏi cái chết được báo trước do căn bệnh hiểm nghèo, thì biết đâu nó có thể cứu được ai đấy, dù chỉ một người là Mỳ, khỏi rơi vào con đường tội lỗi.
Ngày tháng cứ lặng lẽ trôi qua, dửng dưng và không chút thương xót. Cái chết đang đến gần. Nó không làm ông hoảng sợ hoặc đau buồn. Cái luôn dày vò ông và đáng sợ hơn cả là cảm giác bất lực. Ông biết ông chỉ còn được sống một vài tháng nữa, nhưng theo bản năng tự vệ, ông vẫn đều đặn uống thuốc. Ông cũng biết khó có thể tìm được Mỳ ở thành phố rộng lớn này, nhất là khi cô đang cố tình lẩn tránh ông, nhưng ông tiếp tục cho người tìm kiếm. Ông vẫn chưa hết hy vọng.
BÀ TÔI
1
Ngày xưa có ông vua tên là Ðế Thích, lên ngôi chưa được bao lâu thì bỗng có giặc ngoại xâm kéo đến. Thế yếu, vua phải đem cả hoàng tộc xuống biển, rồi từ đó lên thuyền chạy vào phía Nam. Ði một mạch ba ngày ba đêm không nghỉ, đến vùng biển xứ Nghệ thì gặp bão, thuyền chìm, chỉ ba người thoát chết nhờ may mắn được sóng đánh dạt vào một hòn đảo. Ðó là hoàng hậu và hai công chúa còn nhỏ.
Hòn đảo ấy gần đất liền, nhưng vì nhỏ và toàn đá nên không có người, trừ một nhà sư trẻ đêm ngày tụng kinh niệm Phật mong đắc đạo. Ðược nhà sư giúp đỡ, chăm sóc, ba người phụ nữ nhanh chóng bình phục. Trong khi đó, không hiểu sao nhà sư bỗng trở nên bần thần và hay suy nghĩ vẩn vơ. Sống tách biệt lâu ngày, lần đầu tiên được gặp những người phụ nữ đẹp, lại trong hoàn cảnh họ bất lực và ở một nơi hẻo lánh như thế, dần dần dù không muốn, trong đầu nhà sư đã nẩy ra những ý nghĩ mờ ám. Và rồi một hôm, khi hai công chúa đã ngủ, ông lẻn đến với hoàng hậu, định giở trò chim chuột. Dù biết ơn và kính trọng nhà sư, hoàng hậu một mực từ chối. Cuối cùng, khi thấy nhà sư rút dao dọa giết, bà toan đập đầu vào đá tự tử để giữ tròn trinh tiết. Thấy thế, nhà sư hoảng sợ. Khi cơn bột phát tình cảm lắng xuống, ông rất đỗi xấu hổ và hối hận.
- Ôi, nhục nhã thay! Cùng một lúc ta đã phạm ba tội lớn. - Nhà sư ngửa mặt lên trời kêu to. - Là sư, ta không lo tu thân đắc đạo, mà để quỉ dữ xác thịt cám dỗ, đó là tội thứ nhất. Tội thứ hai là cưỡng ép một người đàn bà bị nạn đang được mình che chở. Cuối cùng là có ý định giết người!... - Rồi sẵn con dao, ông tự đâm vào cổ mình, tự tử.
Hoàng hậu cũng hối hận không kém. Bà cho rằng đáng lẽ phải trả ơn, chính bà đã giết chết ân nhân mình. Bà ôm xác nhà sư than khóc hồi lâu rồi cũng cầm dao tự tử theo. Sáng hôm sau, hai công chúa tỉnh dậy đoán hiểu hết mọi chuyện. Vô cùng đau xót, họ nắm tay nhau cùng nhảy xuống biển.
Về sau, để nêu gương tuẫn tiết của hoàng hậu, người ta lập một ngôi đền ở làng Kình, nay thuộc huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, trên mỏm núi đá nhìn thẳng ra hòn đảo nhỏ nơi xảy ra tấn bi kịch. Trong đền có cả tượng nhà sư, cùng hoàng hậu và hai công chúa.
2
Ðó là câu chuyện về sự tích đền Kình mà ngày bé bà ngoại thường kể tôi nghe. Sau này lớn lên, đọc trong "Truyện cổ dân gian Việt Nam" của Nguyễn Ðổng Chi, tôi cũng thấy có chuyện ấy, chỉ khác ở câu chữ và cách diễn đạt. Rất có thể chính bà tôi đã kể cho nhà văn nghe khi ông đến đây thu thập tài liệu.
Bà tôi làm nghề buôn bán, nổi tiếng là người có bản lĩnh và táo tợn. Nghe nói có thời bà từng là chủ của mấy chiếc thuyền lớn chuyên chở cá và nước mắm từ làng Kình vào tận Hà Tĩnh bán, khi ra chở đầy cau khô và mít, bưởi... Ông ngoại tôi chết sớm, về sau việc buôn bán trở nên thua lỗ, tính tình bà cũng thay đổi theo, dần dần trở thành người nghiệt ngã, và đặc biệt rất mê tín.
Ngoài mẹ tôi, bà còn có một người con nữa là cậu tôi. Ðó là một người cao lớn, đẹp trai, tốt bụng và vui tính, nhưng rất tiếc nghị lực lại yếu đuối, và là "thứ bỏ đi" như bà tôi vẫn nói. Quen được nuông chiều từ nhỏ, lớn lên quả đúng cậu tôi là người thế thật - dễ thích, dễ chán, chẳng bao giờ đủ kiên nhẫn làm xong việc gì, thêm vào đó lại sớm nhiễm thói rượu chè, cờ bạc. Chưa đầy bốn mươi, cậu tôi đã kịp thay đổi bốn đời vợ. Một hôm, khi đánh bạc đâu đó về khuya, chờ mãi không thấy đò, lại đang say rượu, thế mà cậu tôi dám liều lĩnh bơi qua sông Hoàng Mai giữa mùa nước lớn. Và tất nhiên đã chết đuối, hai ngày sau xác mới nổi lên, bị sóng đánh dạt lên bậc đá sát chân đền Kình.
Tuy bốn đời vợ, nhưng cậu tôi chẳng để lại cho bà đứa cháu nào. Thế là vô tình tôi trở thành người được bà yêu và quan tâm nhất. Chẳng hiểu vì sao bà chọn tôi, trong khi tôi còn một đàn em cả trai lẫn gái, không ít đưa thông minh và ngoan hơn. Có lẽ đó là một trong những đặc điểm không lý giải nổi của người già. Có điều, tôi chẳng lấy thế làm thích. Tôi miễn cưỡng tiếp nhận sự chiều chuộng của bà - đó là những chiếc vòng bạc đủ cỡ mà tôi phải đeo vào cổ, vào tay, dù là con trai; những bộ quần áo kỳ cục tự bà may và đương nhiên tôi phải mặc để bạn bè tha hồ chế giễu.
Nhà tôi ở Diễn Châu, cách làng Kình những năm mươi cây số, thế mà hè nào tôi cũng phải ra ở với bà ít nhất một tuần hoặc nửa tháng. Còn vào ngày rằm tháng giêng hàng năm thì bất luận thế nào cũng phải ở bên bà. Vào ngày ấy, bà đánh thức tôi dậy rất sớm, tắm rửa sạch sẽ rồi mặc cho bộ quần áo đẹp nhất. Xong, hai bà cháu cùng ra đền Kình. Bà dẫn tôi đi khắp một lượt trong đền, vừa đi vừa kể lại câu chuyện nhà sư và hoàng hậu, không quên kèm theo những lời răn đe rùng rợn.
- Cháu có sợ chết không? - bà hỏi khi đứng trước tượng ông sư.
- Có ạ, - tôi rụt rè đáp.
- Thế thì hãy nhớ lấy gương ông này!
Rồi bà kể một thôi thật dài về những điều khủng khiếp mà con người đáng thương kia phải gánh chịu khi bị đầy xuống địa ngục. Chẳng hiểu vì sao tôi còn nhỏ mà bà phải răn đe những chuyện như thế. Cứ theo bà thì mọi tội lỗi và tai họa trên đời đều từ cái thú xác thịt mà ra. Bà ghê tởm và tìm cách xa lánh nó như xa lánh quỉ dữ. Tất nhiên bà cũng bắt đứa cháu yêu của mình có thái độ tương tự. Mãi sau này tôi mới hiểu bà tôi phải nghĩ ra tất cả những điều ấy để giữ mình trong suốt cuộc đời góa chồng kéo dài của bà.
Tiếp đến là phần phóng chim lấy phước. Bà trịnh trọng thắp hương, quì trước tượng hoàng hậu, hồi lâu lầm rầm cầu khấn gì đó. Còn tôi thì lặng lẽ quì bên cạnh. Xong, bà ra giữa sân đền, trao cho tôi chiếc lồng có nhốt những con chim bồ câu - bao giờ cũng màu trắng, vì sao tôi không biết - mà bà đã mua ngoài chợ từ ngày hôm trước. Tự tay tôi phải mở lồng, bắt ra từng con rồi tung lên trời, bao nhiêu con phụ thuộc vào số tuổi của tôi năm ấy.
Trong khi tôi thong thả thực hiện cái lễ nghi mang tính tôn giáo và đầy huyền bí đó, trông mặt bà thật long trọng, nghiêm khắc và căng thẳng. Bà hồi lâu nhìn theo từng con chim được thả bay lên cao cho đến lúc mất hút trong không trung, thầm hy vọng sẽ có ngày chúng mang lại điều tốt lành cho ân nhân mình.
Lần thả chim sớm nhất còn nhớ được có lẽ khi tôi lên ba hoặc bốn và đang được bế trên tay mẹ. Tiếp đến, việc này đều đặn lặp đi lặp lại hàng năm, cùng ngày, cùng địa điểm và cùng những thủ tục bất di bất dịch. Khác chăng chỉ ở số lượng chim thả, nghĩa là mỗi năm thêm một con cho phù hợp với tuổi.
Bà tôi là người tuy tốt, nhưng nghiệt ngã, không những tôi mà cả mẹ tôi cũng sợ. Vì vậy, dù bận bịu việc đồng ruộng, dù xa xôi và nhiều khi chỉ đơn giản không muốn, mẹ tôi vẫn phải đem tôi về quê ngoại. Những năm máy bay Mỹ bắn phá ác liệt, tàu không chạy được, chúng tôi phải xin ô tô tải đi nhờ, hoặc cuốc bộ cả năm mươi cây số, nhẩy từng bước một trên những thanh tà vẹt bị mặt trời đốt nóng hừng hực. Người nhỏ, chân ngắn, tôi thường tập tễnh đi sau. Mệt quá, chốc chốc tôi ngồi phệt xuống đường ray, thút thít khóc. Những lúc ấy, hoặc mẹ tôi phải ngồi xuống cùng nghỉ, giở cơm nắm ra cho ăn, hoặc cõng tôi đi tiếp, vừa đi vừa dài dòng giải thích rằng chúng tôi phải vất vả như thế không phải không có lý do, rằng tương lai và hạnh phúc của tôi phụ thuộc vào bà, vào đền Kình và những con chim được phóng thích.
Ngày nhỏ nhiều lần tôi nghe bà nói với mẹ về tôi, như thể sau này tôi sẽ "cháu con đông đúc", "công thành danh toại", và "làm rạng rỡ cho cả dòng họ"... Cũng vì thế mà bà đã không tiếc công sức, tiền của chăm lo cho tôi sớm đạt được điều ấy. Là người cực đoan, bà rất tin vào suy nghĩ của mình. Còn mẹ tôi thì rõ ràng có ý nghi ngờ. Mà nghi ngờ cũng có lý, vì nói chung tôi là đứa trẻ bình thường, học không dốt nhưng lười, chỉ thích duy nhất một việc là đọc sách.
3
Dễ đến mười năm nay tôi mới có dịp trở lại quê ngoại Quỳnh Lưu. Bà tôi chết cuối năm 1968, trong một trận pháo Mỹ bắn từ biển vào. Bà con thân thích chẳng còn ai, trừ một ông già năm nay gần tám mươi tuổi mà mẹ tôi nói tôi phải gọi là cậu. Dĩ nhiên, một trong những việc tôi quan tâm đầu tiên là đền Kình.
- Người ta phá đi rồi, - ông cậu tám mươi tuổi đáp cộc lốc.
- Nhưng vì sao ạ? - tôi vội hỏi, ngạc nhiên và lo lắng.
- Ôi dào, ai mà biết được các ông ấy! Mấy ông lên xã họp hành cái phát động gì đó vài buổi, thế là về bắt dân dỡ phá ngôi đền, nói để xây nhà văn hóa. Mà rồi ba năm nay có thấy cái nhà ấy đâu.
- Thế dân không phản đối à?
Cậu tôi thở dài:
- Dân thì biết gì mà phản với chẳng đối. Vả lại, họ bảo phá đền để chống cái phong kiến, cái lạc hậu thì còn nói vào đâu được nữa!
- Cả mấy cây si cũng bị chặt à? - tôi hỏi.
- Thì anh cứ ra xem, khắc biết.
Ở Diễn Châu, cách làng tôi chừng hai cây số về phía Nam có đền thờ An Dương Vương. Ngày bé chúng tôi thường thả trâu dưới chân núi Mộ Dạ rồi leo lên chơi trốn tìm trong đền. Về sự tích ngôi đền này, không cần nghe ai chúng tôi cũng biết rõ, vì sách giáo khoa phổ thông có nhắc tới. Nhiều lần chúng tôi chụm đầu cùng nhìn xuống đáy chiếc giếng giữa sân đền, cố tìm giọt máu của Mị Châu mà tương truyền còn có trong đấy; hoặc vòng ra phía sau đền để đoán tìm nơi An Dương Vương nhảy xuống biển tự tử. Biển bây giờ đã lùi xa hàng cây số xuống phía đông.
Trong suốt nhiều năm dài tuổi thơ và cả bây giờ, tôi vẫn thầm tự hào quê tôi có được một lúc cả hai ngôi đền nổi tiếng, đến mức được viết thành sách và trong nước ai ai cũng biết. Thế mà nay, một trong hai ngôi đền ấy, ngôi đền làng Kình, đã không còn nữa.
Tôi thơ thẩn bước đi giữa lổn nhổn gạch vỡ và những túm cỏ dại mọc rải rác ở nơi xưa là sân đền, lòng bâng khuâng mãi nỗi buồn khó tả. Tôi lan man suy nghĩ về một thời xa xưa huyền bí, về những con người bất hạnh làm nên sự tích ngôi đền và những con người thực dụng thô thiển sau này đã xóa bỏ nó một cách không thương tiếc. Tất nhiên tôi cũng nghĩ về bà tôi, một người mà trong tiềm thức của tôi bao giờ cũng là cái gì đấy không thể tách rời khỏi tuổi thơ và mảnh đất tôi sinh trưởng. Cũng như quê tôi, con người ấy bắt rễ sâu vào quá khứ, khắc khổ, vất vả nhưng hiền lành, và điều quan trọng nhất là suốt đời chỉ cầu mong điều tốt cho tôi. Với tôi, bà luôn là người ít nói và khó hiểu. Mãi gần đây, nhân có đợt phát động mua công trái, vô tình tôi được biết thời kháng chiến chống Pháp, có lần bà nổi tiếng là người mua công trái nhiều nhất huyện, nổi tiếng về cả việc chính bà tự nguyện cho bộ đội cả hai con thuyền còn lại của mình để làm phương tiện vận tải.
Giá bây giờ sống lại, bà tôi sẽ nghĩ gì?
Lần cuối cùng gặp bà, tôi đã mười bẩy tuổi, vừa tốt nghiệp phổ thông và sắp đi học xa. Lần ấy, dù không là rằm tháng giêng, bà cũng dẫn tôi ra đền Kình, và tôi lại thả mười bảy con chim lên trời, với đúng cái thủ tục không thay đổi những năm trước đó. Kể ra, từ khi học cấp ba, do đã lớn và hay xấu hổ, bà có châm trước ít nhiều phần nghi lễ, thí dụ tôi có thể không phải quì lạy, hoặc tránh không ra đền vào lúc đông người. Phần mình, gặp lúc đói kém, bà đã chịu thay những con chim bồ câu đắt tiền bằng chim sẻ hoặc chim gáy, nhưng nói chung những trường hợp như thế không nhiều.
Một lần, bà giao việc ra chợ mua chim cho cậu tôi. Ðang cần tiền uống rượu, cậu tôi đến một nhà trong xóm mượn tạm mấy con bồ câu mang về. Sáng hôm sau, từ đền Kình chúng lại quay về với chủ cũ. Không hiểu thế nào chuyện lộ, bà đã thẳng tay đuổi cậu tôi ra khỏi nhà, còn tôi thì suýt bị gọi ra Quỳnh Lưu để làm lại lần nữa cái thủ tục buồn chán ấy.
Về ước mong "cháu con đông đúc", chắc hẳn bà tôi sẽ thất vọng ghê gớm, vì mãi tới nay tôi vẫn chưa vợ, dù đã ở cái tuổi ngày xưa bà đã có cháu đầu lòng là tôi. Có thể bà sẽ hối hận vì quá răn đe tôi bằng tấm gương của ông sư kia chăng? Còn chuyện "công thành danh toại" hay thậm chí "làm rạng rỡ cả dòng họ" - có lẽ tôi cũng chẳng làm bà vui hơn bao nhiêu, tuy đã được in mấy cuốn sách và thỉnh thoảng xuất hiện trên báo này, báo nọ. Nhiều khi, nghĩ về những hy sinh mà bà chịu đựng và những hy vọng bà đặt vào tôi, tôi cứ áy náy như người mắc nợ lâu ngày chưa trả.
4
Sáng hôm sau, rời làng Kình, tôi ra chợ Mụ mua một đôi bồ câu - tiếc không có màu trắng - nhét vào chiếc cặp da to mà tôi vẫn xách đi công tác thay va-li, rồi lặng lẽ đi về phía mỏm núi đá nơi trước đó từng có một ngôi đền nổi tiếng.
Buổi sáng, trời thật đẹp. Biển lặng, gió nhẹ, nhưng sóng vẫn vỗ mạnh vào những tảng đá lớn nằm ngay sát chân. Tôi đứng lặng một phút, thầm cầu mong vong linh bà tôi được yên nghỉ nơi chín suối. Như cậu bé rụt rè ngày nào, tôi mở cặp, nhẹ nhàng giữ đôi chim trong lòng tay, giơ lên cao và từ từ nới mở các ngón. Ðược tự do, đôi chim ngơ ngác mở to mắt nhìn quanh mấy giấy mới đập cánh bay đi...
Một cái gì đấy tê tê, êm dịu chạy qua tim. Tôi chợt hiểu: cùng đôi chim ấy, tuổi thơ vừa tuột khỏi tay tôi bay đi. Bay đi vĩnh viễn. Trên không, đôi chim biến mất từ lúc nào. Chỉ còn lại những chiếc lông tơ nhẹ màu trắng đang nghiêng ngả lượn thành vòng trong gió.
Quảng Bá, 11.5.1985.
ANH DŨNG CẢM VÀ ANH HÈN
Ông Sêkhốp có một truyện ngắn thôi nhưng khá độc đáo, là "Anh Béo và anh Gầy". Câu chuyện đang viết đây, vốn bị hoãn nhiều lần chỉ vì không tìm được một cái tên vừa ý, tôi bắt chước ông, tạm gọi là "Anh Dũng Cảm và anh Hèn".
Xin được bắt đầu bằng Dũng Cảm.
Ở huyện ngoại thành Hà Nội nọ có một người nổi tiếng dũng cảm, không phải chuyện chiến trường hoặc săn bắt cướp, dù cả hai việc này anh từng trải qua và chắc không là thằng hèn. Dũng cảm ở đây với nghĩa đấu tranh chống những điều chướng tai gai mắt, cái bây giờ được gọi là "hiện tượng tiêu cực", và rất tiếc đang đầy rẫy khắp nơi, đến mức nhiều người khác cũng dũng cảm như anh đâm nản mà thôi. Nhưng anh thì không, cương quyết không. Anh đã qua cái tuổi ba mươi lăm, to con, khỏe mạnh, từng là lính đặc công nên nghe đồn giỏi võ lắm. Tiếc là trong cuộc chiến này anh không được phép phát huy sở trường đó.
Hóa ra ở đời làm người tử tế và dũng cảm thật khó. Cái giá phải trả cho sự dũng cảm ấy cũng không nhỏ. Từ chiến trường trở về với đủ loại huân huy chương, giấy khen và bằng dũng sĩ, anh được người ta hồ hởi chào đón rồi bố trí một chân trong chính quyền địa phương, phù hợp với công trạng. Nhưng rồi dần dần, cũng chính "người ta" ấy đã khéo léo gạt anh ra ngoài, trù dập anh một cách tinh tế, khiến anh biết đấy mà không bắt bẻ vào đâu được. Cuối cùng anh chỉ còn là một tay lực điền cày sâu cuốc bẫm như bao người khác, để nuôi cô vợ hay đau ốm và ba đứa con còn nhỏ. Tất cả chỉ vì anh không giống các cán bộ khác - quá thẳng thắn, quá thật thà, quá yêu công lý và cũng vì quá dũng cảm.
Làm ruộng là một sở trường nữa của anh, vì anh vốn từ đồng ruộng mà lớn lên rồi ra trận. Anh tháo vát, biết lo toan, lại chịu khó nên nói chung cuộc sống không đến nỗi. Anh chẳng có gì để phàn nàn. Cái làm anh khó chịu là những chuyện bất công xung quanh, "những việc đâu đâu" như vợ anh nói. Mặc dù không phải lúc nào chúng cũng liên quan đến anh, nhưng hễ thấy là anh cứ lao vào "đấu tranh", theo kiểu "đâu có giặc là ta cứ đi" của ngày trước. Mà anh đấu tranh mạnh mẽ, trực diện, không chút khoan nhượng, đôi lúc thiếu mất sự tế nhị cần thiết. Nhiều khi anh làm quá, không chỉ không mang lại hiệu quả mà còn bị hiểu lầm, bị coi là hâm gàn và không hiểu thời cuộc. Một kiểu Ðông Kisốt mà người ta thấy vừa đáng yêu vừa tội nghiệp.
Một hôm, vợ anh lên cơn hen nặng, phải đi bệnh viện cấp cứu. Việc này năm nào cũng xẩy ra, ít thì một, nhiều có khi ba bốn lần, nên anh có chút kinh nghiệm và biết phải làm gì.
Giống mọi lần, người ta cho vợ anh hít thở qua một loại máy đặc biệt ba ống Ventolin Nebule, loại 5 mg. Ba ống thuốc này được một cô bác sĩ trẻ viết lên tờ giấy rồi chỉ cho anh sang phòng bên mua. Ngồi trong phòng cấp cứu, dẫu lo lắng và thương vợ, anh vẫn giữ được vẻ bình tĩnh. Anh biết chốc nữa vợ anh sẽ tỉnh lại, thở được, và nếu không có gì nghiêm trọng thì sau mấy tiếng họ có thể về nhà tự điều trị tiếp. Bệnh hen là vậy.
Anh lặng lẽ đưa mắt nhìn quanh. Vẫn những cảnh quen thuộc. Phần lớn bệnh nhân là dân quê, với vẻ ngơ ngác sợ sệt thường trực trên mặt và sự khúm núm trong thái độ. Lo cho bệnh tình đã khổ, họ còn bị ám ảnh bởi một cái khổ khác còn ghê gớm hơn, là tờ phiếu thanh toán viện phí và thuốc men đang đợi. Tờ phiếu với những con số đáng sợ, nhất là khi qui ra thóc, thứ hàng duy nhất họ có mà lại đang xuống giá.
Các nhân viên y tế thì vẫn cái vẻ bình tĩnh nghề nghiệp ấy, (bình tĩnh đến mức người nhà bệnh nhân cảm thấy sốt ruột và nghĩ hay vì mình chưa làm những thủ thục bất thành văn nào đó), vẫn thái độ ít nhiều mang tính ban ơn ấy của những người ý thức rõ quyền lực và tầm quan trọng của mình. Anh quá quen với cảnh này và luôn nhắc mình kiềm chế không "đấu tranh vì lẽ phải" ở bệnh viện cùng những "thiên thần áo trắng" ở đó. Họ có chuyên môn, cũng phải làm việc vất vả, và từng cứu sống nhiều người, trong đó có vợ anh. Ðây là lĩnh vực tế nhị, anh thầm nghĩ, có tiêu cực chút ít cũng không nên cố chấp. Ðạo làm người không cho phép lấy oán trả ân. Xưa nay anh chưa bao giờ to tiếng ở bệnh viện, và theo lệ chung, người ta làm gì anh làm nấy, cả những việc mà ở nơi khác anh nhất định không bỏ qua. Tất nhiên anh cũng cảm thấy chút ít bứt rứt, khó chịu.
Ba tiếng sau, cũng tại phòng cấp cứu, anh được yêu cầu thanh toán để xuất viện. Anh bình tĩnh, lặng lẽ thực hiện cái yêu cầu chính đáng đó. Nhưng anh bỗng nhíu mày hồi lâu nhìn tờ giấy thanh toán. Suy nghĩ một lúc như đắn đo điều gì, anh hỏi người thu tiền:
- Xin lỗi chị, cho tôi hỏi. Loại thuốc Ventolin Nebule này ngoài quầy thuốc bệnh viện giá bốn mươi nghìn đồng một vỉ năm ống, sao ở đây thấy ghi hai mươi nghìn đồng một ống? Tức là một trăm nghìn đồng một vỉ, đắt hơn sáu mươi nghìn...
- Tôi không biết. - Người kia khó chịu đáp. - Tôi chỉ thu tiền.
- Vậy ai biết? - Anh bình tĩnh hỏi lại, cố lấy giọng nhẹ nhàng.
- Tôi đã bảo không biết mà. Cứu được người rồi không lo mà về, còn thắc mắc rách việc.
Anh lại đứng suy nghĩ, đắn đo, rồi đi tìm cô bác sĩ trẻ. Anh nhắc lại thắc mắc của mình, một cách mềm mỏng và lịch sự.
- Anh này hay nhỉ, - cô ta đáp, hình như cố tình to tiếng để làm anh phải xấu hổ. - Anh biết thế sao không ra hiệu thuốc mà mua, để bây giờ khỏi mè nheo vì tiếc tiền. Ðã tiếc tiền sao còn đưa vợ đến đây cấp cứu?
Anh thấy nóng mặt tức giận vì thái độ hỗn xược của cô, nhưng vẫn cố giữ bình tĩnh.
- Nhưng chính chị chỉ cho tôi sang phòng kia mua, chứ không ra quầy thuốc chỉ cách đây vài chục bước. Tôi xin hỏi chị: Cái giá này do bệnh viện chính thức qui định hay các chị tự đặt ra, thích bao nhiêu thì bán bấy nhiêu?
Thấy giọng anh có vẻ cứng rắn, lập luận chắc chắn, khác hẳn cách nói của những ông bà nông dân khác, cô bác sĩ thoáng chút bối rối, nhưng cố nói át:
- Thời buổi thị trường, mỗi nơi một giá. Giữa cái sống và cái chết mà anh còn so đọ một vài chục nghìn! Tiếc đắt thì lần sau tự chữa lấy ở nhà, đừng đến đây nữa.
- Vậy là các người thông đồng với nhau, lợi dụng chính cái điều mà các người gọi là "giữa cái sống và cái chết" ấy để bắt chẹt, ăn chặn, ăn cướp những bệnh nhân nghèo, chủ yếu là những người nhà quê như tôi. - Anh nói to, rành rọt từng tiếng. Anh đã không còn giữ được bình tĩnh và quên hẳn sự kiềm chế vẫn luôn nhắc mình khi vào bệnh viện. - Các người là một lũ ăn cắp!
- Anh nói sao? Anh dám bảo chúng tôi ăn cắp? - Cô kia lu loa.
- Vâng, đúng thế, - anh hạ giọng, cúi sát mặt cô ta. - Tôi đã nói và xin nhắc lại rằng cô, chính cô là một con ăn cắp, công khai, trắng trợn và vô liêm sỉ. Cô ăn cắp hết ngày này sang ngày khác. Nhưng hôm nay tôi bắt cô quả tang. Và theo luật, tôi phải đưa cô đến đồn công an để giải quyết như với những con ăn cắp chuyên nghiệp khác. Ði, bây giờ cô phải đi theo tôi. - Anh túm chặt tay cô ta, định lôi đi.
- ỐI làng nước ơi, cứu tôi với! - Cô kia la lên. - Có một thằng điên, một thằng mất dạy đang làm nhục tôi.
- Câm mồm! Nếu mày không phải đàn bà thì tao đánh vỡ mặt. n cắp còn già mồm!
Thấy động, mọi người nhanh chóng kéo lại. Khi biết chuyện, nhiều bệnh nhân và người nhà tỏ ý đồng tình. Họ mừng ra mặt vì bỗng dưng có được anh chàng lập dị nói hộ điều họ đang ấm ức.
- Xưa nay họ vẫn thế đấy mà chẳng ai dám nói gì!
- Lương y như từ mẫu. Ðẹp gớm!
- Ðồ mất dạy, phải trị cho chúng một trận!
- Trả tiền lại cho người ta, không nuốt được đâu!
- Nhưng mà cái ông kia cũng quá đáng. Phải cho người ta sống với chứ. Làm vất vả, lương ít. Có mấy đồng bạc...
- Bà nói chán bỏ mẹ. Việc gì ra việc ấy. Lương ít thì đòi nhà nước tăng. Làm vất vả thì người ta đã trả hai mươi lăm nghìn đồng tiền cấp cứu rồi còn gì. Bà tính xem, một người chúng ăn chẹt mấy chục nghìn như thế, trong khi mỗi ngày chúng cấp cứu bao nhiêu người, chia nhau mỗi đứa bao nhiêu?
- Ðánh bỏ mẹ nó đi!
Một thanh niên mặc áo trắng hùng hổ đi lại, xô mạnh vào ngực người Dũng Cảm, định gỡ cô bác sĩ vẫn bị anh túm chặt cổ tay.
- Bỏ ra. Bỏ ra ngay! Anh định gây rối à?
- Câm mồm! Nó thì tao không đánh, chứ mày thì tao đánh đấy. - Anh quắc mắt nói, và bóp mạnh một cái vào vai hắn bằng bàn tay còn lại, khiến hắn đứng đờ ra bất động, chẳng nói thêm được lời nào nữa. - Nào, bây giờ thì mày phải theo tao ra đồn công an, con ăn cắp!
Rồi anh kéo cô bác sĩ, lúc này đang khóc và đã bắt đầu hiểu rõ mức độ nghiêm trọng của vấn đề.
- Chúng tôi là công an đây. Anh cần gì? Có chuyện gì vậy? - Hai anh công an vừa vội vã bước lại gần, vừa nói.
- Ồ, thế thì hay quá. Các anh đến thật đúng lúc. - Anh Dũng Cảm sung sướng nói. Anh vắn tắt kể lại những gì đã xẩy ra. - Bây giờ nhờ các anh đưa hộ con ăn cắp này về đồn xử lý theo đúng luật pháp nhà nước. Các anh có mang còng theo không? Cần nhiều đấy, không phải một đâu.
Hai anh kia tỏ vẻ lúng túng. Họ không thể không nhận thấy anh Dũng Cảm nói có lý. Xung quanh lại nhao nhao tiếng đồng tình của nhiều người.
- Chúng tôi chỉ là công an bảo vệ bệnh viện, - một người nói. - Vả lại, theo tôi, gọi đây là hành vi tiêu cực thì đúng hơn, chứ bảo là ăn cắp như anh kể cũng hơi quá...
- n cắp, theo tôi, là lợi dụng lúc người khác không để ý hoặc cả tin, không hiểu biết để lấy tiền của người ta. Vậy đây đúng là hành vi ăn cắp chứ không phải tiêu cực. Chưa nói đến tính cao quí của ngành y và sự nghèo đói của người nông dân.
- Ðành thế, nhưng dẫu sao... Biết nói với anh thế nào được nhỉ?
- Các anh là người đại diện và bảo vệ pháp luật. Hẳn các anh biết xử lý thế nào. - Anh Dũng Cảm hạ giọng. - Tôi đã bắt quả tang. Giấy thanh toán đây, thuốc đây, giá đây. Bây giờ các anh định giải quyết thế nào?
Một chốc sau họ, gồm anh Dũng Cảm, hai nhân viên công an và cô bác sĩ, cùng lên phòng giám đốc bệnh viện.
Ông giám đốc là một người nghiêm khắc, một giáo sư nổi tiếng và đáng kính trong ngành. Ông chăm chú nghe anh Dũng Cảm, chốc chốc lại gật đầu tỏ vẻ đồng ý. Nghe xong, ông ngồi im lúc lâu, mặt ửng đỏ, một bên má giật giật. Cuối cùng ông nói, thong thả và dứt khoát. Cô bác sĩ - ăn cắp cúi nhìn xuống đất, và vẫn còn khóc.
- Thứ nhất, thay mặt toàn bệnh viện, tôi thành thật xin lỗi anh và những người như anh. Với tư cách là thủ trưởng cơ quan, tôi cũng có lỗi, và vì vậy tôi xin lỗi anh. Thứ hai, tôi đồng ý với anh khi gọi việc làm đáng xấu hổ này là hành vi ăn cắp, vì nói gì thì nói, đây quả đúng là ăn cắp. Một cách có hệ thống, hàng ngày, trắng trợn và đểu giả như anh nói. Tôi thực sự lấy làm đau lòng và xấu hổ vì việc làm này của các nhân viên tôi.
Liền sau đó, ông cho người gọi trưởng khoa cấp cứu đến, bắt ngay lập tức phải mang tiền chênh lệch trả lại cho người bị hại.
- Tôi hứa với anh sẽ kỷ luật nghiêm khắc những người có lỗi, và sẽ không để lặp lại hiện tượng này.
- Cảm ơn giáo sư, - anh Dũng Cảm nói. - Xin giáo sư cho biết bệnh viện sẽ kỷ luật như thế nào?
- Chúng tôi sẽ đem vụ này ra Hội đồng kỷ luật của bệnh viện và xử lý theo qui định của bộ.
- Nhưng đây là hành vi ăn cắp như chính giáo sư đã thừa nhận. Mà tội ăn cắp, theo tôi biết, thì phải truy cứu hình sự, tức là phải xử ở tòa án chứ không giải quyết nội bộ qua Hội đồng kỷ luật.
Ðến lượt ông giáo sư lúng túng.
- Vâng, có lẽ anh nói đúng. Quả thật đây là lần đầu tôi gặp người nhìn nhận sự việc theo hướng này. Mà tôi lại không am hiểu lắm về luật pháp. Tôi sẽ nêu ý kiến của anh, thậm chí bênh vực anh trước Hội đồng kỷ luật và các cơ quan chức năng. Anh biết đấy, ở đâu cũng có người tốt, người xấu. Tôi rất mong và hy vọng không vì việc này mà anh mất niềm tin vào bệnh viện chúng tôi và những người đang làm việc ở đây. Xin anh cho biết địa chỉ. Tôi sẽ đích thân thông báo kết quả xử lý vụ này cho anh.
Anh Dũng Cảm, nhân vật của chúng ta, đưa vợ về nhà. Dọc đường đi, không hiểu sao anh bỗng thấy thật buồn. Anh đạt được cái công lý anh muốn, vợ anh đã qua cơn nguy hiểm, sự tức giận cũng không còn nữa. Ấy vậy mà anh vẫn cảm thấy buồn, như có cái gì hẫng hụt trong lòng. Anh không hiểu và không thể xác định rõ đó là cái gì. Anh căm ghét tất cả bọn ăn cắp, nhất là bọn ăn cắp mặc áo blu trắng. Nhưng chính cái bọn ăn cắp thứ hai ấy lại vừa cứu vợ anh thoát chết. Anh có làm quá không, có thực sự anh đã lấy oán trả ân không? Nếu con bé ăn cắp kia bị đuổi việc, bị tù tội thật thì sao? Chuyện gì sẽ xẩy ra với nó và gia đình nó? Càng nghĩ, anh càng thấy rối. Suốt đêm ấy anh cứ quẩn quanh mãi với những suy nghĩ chẳng mấy vui vẻ này. Cuối cùng, anh quyết định khi nhận được tin báo của ông giáo sư giám đốc bệnh viện, anh sẽ tự mình xin tha cho cô kia, nếu mức độ trừng phạt quá nặng.
Ðấy, chuyện anh Dũng Cảm là như thế. Bây giờ chắc các bạn sẽ hỏi: "Còn chuyện anh Hèn thì sao?"
*
Anh Hèn là tôi. Tôi phải xin lỗi bạn đọc rằng chẳng hề có anh Dũng Cảm nào cả. Cũng như không hề có chuyện anh ta sống ở ngoại thành, đưa vợ cấp cứu cùng những việc làm dũng cảm đáng khen của anh. Tất cả đều do tôi hư cấu, hay "phịa" như người ta vẫn nói. Tôi là nhà văn mà. Phịa, nhưng trên cơ sở những chuyện có thật.
Cái sự thật đó là: Cách đây không lâu tôi phải đưa vợ tôi vào bệnh viện cấp cứu. Cũng bệnh hen, cũng bị nhân viên phòng cấp cứu thông đồng nhau bắt mua mỗi ống Ventolin Nebule với giá của họ là hai mươi nghìn đồng, trong khi chính quầy thuốc bệnh viện ấy bán mỗi vỉ năm ống với giá bốn mươi nghìn. Tôi cũng ngạc nhiên và bất bình không kém. Thậm chí tôi suýt làm ầm lên, tất nhiên không ở mức như anh Dũng Cảm. Nhưng tôi đã nhẫn nhục im lặng chẳng nói gì. Thứ nhất vì vợ tôi không cho làm. Bà ấy đang ốm nặng, lại dễ xúc động, làm sao tôi có thể hy sinh mạng sống vợ vì cái công lý trừu tượng nào đó? Sau nữa, mà đây mới là lý do quan trọng nhất, vì tôi hèn.
Trong ý nghĩ, tôi hình dung, tôi muốn tôi phải là anh Dũng Cảm kia, phải làm đúng những việc anh đã làm. Nhưng trong thực tế rất tiếc tôi không có được sự dũng cảm ấy. Tôi sợ làm vợ buồn, sợ mất thời gian, sợ căng thẳng thần kinh, sợ người khác cười chê vì tiếc mấy nghìn bạc mà làm ầm ĩ, sợ mình có nói cũng chẳng giải quyết được gì. Chính cô nhân viên quầy thuốc bệnh viện bảo tôi việc ấy vẫn xẩy ra thường xuyên, trước đây cũng như bây giờ và có lẽ cả sau này nữa. Ðâu cũng thế. Tóm lại là tôi hèn, và có cớ xác đáng để hèn.
Chẳng ai đem cái hèn của mình ra khoe. Tôi cũng vậy. Nhưng sự thật thế nào thì phải công nhận đúng thế ấy. Thế mà trước đây, các bạn biết không, tôi cũng thuộc loại người "hễ thấy bất công ở đâu là xông vào đánh" cơ đấy. Và tất nhiên, cũng từng lãnh đủ, nhưng tôi chưa một lần hối tiếc về việc mình làm. Chẳng qua mỗi tuổi một cách suy nghĩ, hành động, hay "sông có khúc, người có lúc" như các cụ nói.
Bây giờ tôi đã già, an phận với sự yếm thế của người về hưu. Tôi viết văn, suốt ngày gõ gõ bên chiếc máy vi tính. Cái trọng lượng cơ thể hơn tám mươi kilô cứ như kéo tôi dính chặt vào chiếc ghế, không cho bay vút lên cao như ngày nào. Các hoài bão, ham muốn, cả thể xác lẫn tinh thần, cứ teo dần, teo dần, và cùng với nó là cái quyết tâm đấu tranh vì công lý và lẽ phải. Nghĩa là trong chừng mực nào đó, tôi đã là người thoái hóa. Tuy nhiên, tôi vẫn luôn cố cưỡng lại không chịu đầu hàng, chừng nào còn có thể. Truyện ngắn này tôi viết cũng nhằm mục đích ấy. Tôi hy vọng nó đến được tay những người cần đến. Biết đâu họ sẽ làm cái gì đó để ngăn chặn hiện tượng tiêu cực trên. Ðã biết phận mình hèn thì chỉ dám đặt mục tiêu khiêm tốn thế thôi.
Vì không muốn biến truyện ngắn của mình thành bài phóng sự, tôi xin phép không nêu đích danh tên người, tên bệnh viện cùng ngày giờ xẩy ra những việc có thật ở đó. Tuy nhiên, dẫu hèn, tôi vẫn không có ý định giấu tên mình, người, như các bạn thấy, còn đủ dũng cảm để viết và ký tên mình dưới câu chuyện này.
Quả bom chưa nổ Người viết: Thái Bá Tân 22/06/2009 Quả bom chưa nổ
Truyện ngắn. Thái Bá Tân.
Sau lễ tân gia đúng ba ngày thì ông Cần được biết rằng dưới ngôi nhà ông mới xây có quả bom chưa nổ. Mà bom to, loại nghìn cân Anh.
Người cho ông biết cái tin khủng khiếp này chính là bạn ông, đại tá pháo binh về hưu, thời chiến tranh chỉ huy một khẩu đội pháo phòng không ở ngay trên nền đất nhà ông.
"Tôi lấy làm lạ sao khi người ta làm móng, nó không phát nổ", ông đại tá về hưu nói.
Ông Cần cười mếu máo:
"Bác đùa. Chắc gì có mà nổ..."
"Không ai đùa những chuyện thế này. Tôi còn lưu được cuốn sổ ghi chép trực ngày ấy. Bác muốn, tôi cho xem. Đó là ngày 17 tháng Tám năm 1967, lúc bốn giờ ba mươi phút chiều. Hai chiếc F-105 từ biển bay vào. Một chiếc chúi xuống ném hai quả bom, nhưng chỉ nghe một tiếng nổ. Tôi còn ghi thêm vào sổ: "Nhớ báo trên cho công binh xuống phá". May hôm trước khẩu đội chúng tôi kịp dọn đi nơi khác, chỉ chừa lại trận địa giả. Khi báo yên, tôi đến thì thấy có hố bom rất lớn và một vết lõm hun hút cách đấy không xa, bằng chứng của một quả bom khác chưa nổ..."
"Cứ cho là như vậy, nhưng chắc gì nó nằm ngay dưới nhà tôi?"
"Tôi cẩn thận đánh dấu chỗ bom rơi, với mục đích báo người ta tháo gỡ như đã nói. Hướng đông cách cây si trên đường hai trăm mét. Cách giếng làng một trăm năm mươi mét về hướng tây. Căn ra, không đúng nhà bác là gì? Có thể không ngay dưới nhà mà ngoài sân. Nhưng với quả bom nửa tấn thì điều ấy chẳng có gì khác nhau".
"Có thể người ta đã tháo ngòi nổ nó rồi?"
"Tiếc là chưa, vì sau đó chúng tôi được lệnh chuyển ngay đi nơi khác. Tôi không có thời gian báo cấp trên việc này. Rồi dân quân lấp hố bom, lấp luôn cả quả chưa nổ kia".
"Có thể nó sẽ không bao giờ nổ, một khi đã nằm im chừng ấy năm dưới đất."
"Vâng. Với những quả bom loại này thì chuyện gì cũng có thể xẩy ra. Có thể suốt đời nằm im. Cũng có thể năm phút nữa nó sẽ nổ. Cái nguy hiểm và khó chịu là ở chỗ ấy".
Hai người im lặng hồi lâu. Cuối cùng chủ nhà lên tiếng:
"Thế thì tôi phải làm gì bây giờ?"
Ông đại tá về hưu không đáp, có vẻ bứt rứt vì phải báo bạn một tin chẳng mấy dễ chịu.
Ông Cần quả lúng túng không biết phải làm gì.
Đây là ngôi nhà giấc mơ cả đời của ông và gia đình. Ba tầng, mái giả ngói, thiết kế kiểu biệt thự Pháp, trên diện tích đất hơn trăm mét vuông bên rìa thị xã và nhìn ra hồ. Hồ nước đục, nông choèn, nhưng vẫn là hồ nên những ngôi nhà xung quanh trở nên có giá. Biết làm sao bây giờ? Đập đi, thuê công binh đến phá bom rồi xây lại? Không ổn. Cứ tiếp tục sống như không gì xẩy ra? Cũng không ổn. Ông vốn yếu bóng vía, chắc gì không phát điên lên với ý nghĩ đang ngủ trên một quả bom chưa nổ? Mấy đêm liền ông thức trắng, ban ngày vật vờ như bóng ma. Người ông gầy xọp, mặt mũi hốc hác. Vợ con hốt hoảng, căn vặn mãi nhưng ông không chịu nói. Xưa nay khối người xây xong nhà là lăn đùng ra chết!
Một hôm ông bắn tin bán nhà, bất chấp sự phản đối kịch liệt của bà vợ. "Bà muốn tôi ở đây mà chết à?" Nghe thế, vợ ông bán tín bán nghi, nhưng thôi không ngăn cản nữa, mặc dù không hiểu vì sao chồng bà có thể chết khi được sống trong một ngôi nhà đẹp.
Ngôi nhà được bán một cách nhanh chóng vì giá rẻ. Ông chọn mua một nhà khác nhỏ và xấu hơn, rất xa chỗ cũ. Ông vội vã cho cả nhà dọn đi ngay trong ngày nhận đủ tiền. Đêm hôm ấy lần đầu tiên ông ngủ ngon giấc, tuy không phải không có những giấc mơ toát mồ hôi lạnh.
Mọi việc dần dần rồi đâu cũng vào đấy. Ông hết lo lắng và khỏe mạnh trở lại. Chuyện làm ăn, con cái đều tốt. Hơn thế, khu nhà mới của ông đất bỗng tăng giá vùn vụt, vì theo qui hoạch sẽ có một đường phố lớn chạy qua. Thậm chí có ngày ông còn quên không nghĩ đến ngôi nhà cùng quả bom chưa nổ mà ông đã khôn khéo đẩy sang cho người khác.
Tuy nhiên, chưa đầy hai tháng sau, người mua nhà ông tìm đến nhờ viết lại giấy để ông ta bán nó cho người khác. Chả là họ mới chỉ mua bán trao tay chứ chưa làm thủ tục pháp lý.
"Vì sao bác lại bán nó?" Ông Cần giả bộ thản nhiên hỏi.
"Tôi muốn dọn về đâu đấy gần Cầu Giẽ cho tiện việc đi làm", ông kia đáp, cũng cố lấy vẻ tự nhiên, nhưng nét mặt lo lắng và thái độ lúng túng cho thấy ông ta đang nói dối.
"Vậy là họ đã biết, và đang tìm cách ủn mối nguy hiểm ấy sang người khác. Như mình". Ông Cần nghĩ bụng, thầm lo bị vạch trần sự thật. Nhưng không, nhận được cái muốn có, ông kia vội vàng xin phép ra về. Thậm chí còn nói rất tiếc phải bán ngôi nhà đẹp trên thế đất tốt như vậy.
"Vâng, tôi cũng rất tiếc khi bán nó cho ông", ông Cần lơ đãng đáp.
Làm sao ông ta biết được nhỉ? Nhất định không thể do ông bạn đại tá cho biết. Vậy chỉ có thể ai đó trong số láng giềng. Điều này khó xẩy ra, vì bản thân láng giềng không dễ mà biết được. Nhưng rõ ràng đã có người biết, và cố ý báo cho người mua nhà ông. Để làm gì? Dụng ý tốt hay xấu?
Mấy hôm sau ông Cần phóng xe tới đó, chọn quán nước đối diện ở khoảng cách khá xa và bắt đầu lặng lẽ quan sát. Chủ mới là một đôi vợ chồng còn trẻ với hai đứa con thật kháu khỉnh. Có vẻ giàu. Có vẻ trí thức. Cũng có cả vẻ hài lòng với ngôi nhà mới mua. Chắc giá rẻ.
Bỗng ông Cần nhắm mắt, thầm hình dung quả bom phát nổ, xé vụn cả ngôi nhà, cả đôi vợ chồng trí thức, hai đứa trẻ thiên thần, cùng cái vẻ hài lòng và hạnh phúc ông vừa chứng kiến.
Từ đêm hôm đó, ông lại mất ngủ, với nỗi sợ mơ hồ luôn ám ảnh. Ông có cảm giác như chính ông đang nằm trên quả bom chưa nổ ấy.
Không hiểu cái ông vừa đẩy được nó cho anh chàng trí thức này có mất ngủ như mình không nhỉ?
Mấy tháng sau, ông Cần không chút ngạc nhiên khi thấy anh trí thức kia đến nhờ ông giúp làm giấy bán nhà. Cứ như ông đang chờ vậy. Cả anh này cũng có vẻ vội vã, khuất tất như ông lần trước. Ông Cần không hỏi lý do bán nhà vì đã biết trước câu trả lời. "Anh này coi bộ tử tế. Chắc sẽ không thảnh thơi lắm đâu. Tử tế mà hóa ra không tử tê. Như mình".
* Đến nay, đúng hai năm mười tháng sau khi ngôi nhà mơ ước ấy được xây xong, nó đã qua tay bốn người, và cả bốn người đã đến nhờ ông Cần chữa lại giấy tờ để sang tên cho người khác. Chắc chắn sẽ còn nhiều người nữa tìm đến ông. Ai cũng ra bộ luyến tiếc ngôi nhà, rằng bán nó vì cực chẳng đã, vì những lý do rất xác đáng. Lý do ấy ông biết. Ai cũng biết, nhưng không muốn, không dám nói.
Quả bom vẫn chưa nổ. Có thể nó sẽ không bao giờ nổ. Thậm chí có thể không hề có một quả bom như thế. Nhưng vì an toàn, người ta cứ đùn đẩy nó cho người khác. Toàn những người tử tế đùn đẩy cho nhau. Cũng vì tử tế mà sau đó họ trằn trọc hết đêm này đến đêm khác, mặt mũi phờ phạc, lương tâm cắn dứt đến đổ bệnh. Họ khôn khéo thoát được quả bom nằm tít đâu đó sâu dưới lòng đất mà chưa chắc đã có thật, để tạo ra thêm, hiện giờ là bốn, nhưng sau này sẽ là bốn mươi, bốn trăm quả bom khác trong đầu mình, hoàn toàn có thật, chưa nổ nhưng chắc chắn sẽ nổ.
Những quả bom hẹn giờ mà họ, chỉ mình họ nghe được tiếng đồng hồ đếm ngược đang lạnh lùng kêu tích tắc.
Hà Nội, 2003.
Người lương thiện
Truyện ngắn. Thái Bá Tân
Có thể mỗi ngày một ít đi, nhưng bây giờ vẫn còn nhiều người trung thực, tốt bụng và thật thà đến mức gần như ngây ngô. Họ không biết làm điều ác, không biết nói dối và luôn mặc cảm với cái bị nhiều người coi là thứ xa xỉ trong cuộc sống xô bồ thực dụng hiện nay, là lương tâm. Cũng vì tốt và trung thực, họ dễ bị tổn thương, nhiều khi thành nạn nhân của chính lòng tốt và sự trung thực ấy. Xét về nhiều phương diện, nhân vật chính câu chuyện tôi sắp kể dưới đây là một người như thế. Một người lương thiện.
Nguyễn Ngọc Tú là một bác sĩ trẻ giỏi nghề, hiền lành và bẽn lẽn như con gái, mặc dù tuần nào cũng cầm dao mổ bụng người khác. Trong con mắt hàng xóm và đồng nghiệp, anh là người hạnh phúc - kinh tế khá giả, cô vợ xinh đẹp, sắc sảo làm việc cho một công ty nước ngoài và thằng con trai ba tuổi mũm mĩm như thiên thần.
Một chiều thứ bảy nọ, khi hai bố con đang chơi trò đánh nhau trên giường thì thằng con thiên thần ấy bỗng cầm chiếc kìm nhỏ mạ trắng đâm mạnh một cái đúng nửa sau bên trái đầu bố. Rồi cười sằng sặc. Còn bố nó thì nằm bất tỉnh đến mười phút, vẫn bị thằng bé vừa reo hò vừa dùng kìm đánh khắp người.
Khi Tú tỉnh lại thì chị vợ vừa đi đâu về. Thấy mặt chồng khác lạ, chị ta hỏi có chuyện gì. Tú ngơ ngác mãi, cuối cùng mới mang máng nhớ ra. "Hình như thằng Phúc đánh làm anh ngất". Chị vợ chỉ cười, đùa bảo: "Cho chết," rồi mắng thằng con một câu về tội nghịch ngợm.
Phần còn lại của ngày thứ bảy hôm ấy trôi qua bình thường. Cả chủ nhật hôm sau cũng vậy. Chỉ Tú cảm thấy có cái gì là lạ trong đầu, không đau nhưng là lạ. Một cảm giác khó tả.
Vốn cẩn thận, lại là bác sĩ, ngay hôm sau anh đến nhờ đồng nghiệp về não khám. Không thấy gì khác thường. Cái cảm giác là lạ trong đầu kia cũng mất dần. Anh yên tâm và thôi không nghĩ đến chuyện này nữa.
Một tuần sau, cũng vào thứ bảy, Tú lại ngồi chơi với con trên giường. Tất nhiên chiếc kìm đã được giấu kỹ. Thằng bé hí húi xếp hình. Anh nhìn nó, bâng quơ nghĩ nhảy cóc hết chuyện này đến chuyện khác. Bất chợt anh thấy người thằng con nhòe ra, và trong khi nó vẫn ngồi đấy xếp hình thì có một hình khác của nó, mờ hơn, hơi run run, từ từ đứng dậy, nhăn nhó kêu: "Bố ơi, con ị ra quần!"
Tú dụi mắt. "Quái, mình dạo này thế nào ấy. Cứ nhìn gà hóa cuốc!" Anh thầm nghĩ rồi vớ tờ báo đọc. Thằng con vẫn say mê chơi trò của nó. Một chốc sau nó đứng dậy, nhăn nhó kêu: "Bố ơi, con ị ra quần!" Cả tiếng nói và điệu y bộ hệt như anh nhìn thấy lúc nãy!
Anh không có nhiều thời gian để ngạc nhiên vì phải vội giải quyết hậu quả của thằng con dẫu đã lớn mà vẫn mắc cái chứng quái ác này. Sau đó thì anh ngồi thừ hồi lâu, cố lý giải chuyện kỳ lạ vừa xẩy ra.
"Sao đần mặt ra thế?" vợ anh hỏi.
"Không, không sao cả."
Anh đáp và chăm chú nhìn vợ, lúc này đang cúi xuống giúp con một hình khó xếp. Anh giật mình khi thấy vợ anh tách làm hai, một ngồi yên trên giường, một bắt đầu đứng dậy, đi xuống bếp chuẩn bị bữa ăn. Anh nhìn nữa thì thấy cô suýt cắt phải tay khi gọt khoai tây, rồi xào nấu, bê thức ăn lên bàn, gọi bố con vào ăn. Anh thấy mình đang uể oải nhai, còn thằng bé thì vẫn lấy thìa gõ coong coong vào bát như mọi ngày. Tò mò, anh tiếp tục chăm chú nhìn tiếp thì thấy vợ rửa bát, đi vào nhà tắm, cởi quần áo, vừa lắc đầu vừa ngắm nghía thân hình đã bắt đầu mập ra trong gương...
Anh lặng lẽ bỏ vào phòng, chốt cửa rồi ngã vật xuống giường. "Đầu mình hình như có gì không ổn," anh lo lắng nghĩ và lờ mờ liên hệ nó với cú đập bằng kìm hôm nọ. Là bác sĩ, anh biết rõ hậu quả các cú đập như thế. Sách báo vẫn hay nói về những khả năng kỳ diệu của một số người bất ngờ bị chấn thương sọ não. Anh đã đọc cuốn "Vùng Chết" của nhà văn Mỹ nổi tiếng Stephan King kể chuyện nhân vật chính, John, ngày nhỏ chơi khúc côn cầu bị bạn đánh đúng đầu, sau đó bỗng có khả năng nhìn thấy cả quá khứ lẫn tương lai. Vừa rồi anh nhìn thấy trước những gì vợ con anh sắp làm. Liệu có biết được quá khứ như John không? Anh có thể nhìn thấy tương lai xa đến đâu và liệu cái khả năng kỳ quặc này sẽ mang lại gì cho anh, điều dữ hay điều lành?
Phòng bên có tiếng nước chảy. Vợ anh tắm. Anh hình dung thấy vợ đang lắc đầu nhìn cơ thể trần truồng của mình hệt như anh đã thấy trước đó. Cả bữa cơm cũng diễn ra đúng như vậy. Anh cố đoán chiều nay vợ anh sẽ làm gì, nhưng không thể. Anh cũng không biết tối nay thằng con chịu ngủ yên hay quấy nghịch. Anh đến đứng trước gương, chăm chú nhìn mình để biết ba mươi phút, một tiếng nữa chuyện gì sẽ xẩy ra với anh. Nhưng nhìn mãi, anh vẫn không thấy gì. Phép màu mất hiệu nghiệm. Bán tín bán nghi, anh uống một lúc hai viên thuốc ngủ rồi lên giường.
Sáng hôm sau, ngồi ăn sáng, Tú chăm chú nhìn vợ hồi lâu, đỏ bừng mặt.
"Anh sao thế?"
"Không sao cả", anh lúng túng nói rồi cúi xuống đĩa thức ăn. Anh vừa thấy vợ ngày hôm ấy ngồi suốt buổi sáng ở văn phòng với đống giấy tờ, đến giờ nghỉ trưa cô đi ra ngoài, ngồi lên chiếc xe của một người đàn ông đang đợi (tiếc không nhìn rõ mặt), rồi hai người đèo nhau đến một ngôi nhà như khách sạn vì có cô gái áo đỏ ngồi sau quầy lễ tân. Họ vào phòng, bắt đầu thong thả cởi quần áo... Thong thả chứ không vội, chứng tỏ họ quen làm điều này.
Anh đứng dậy, phóng xe đi làm, đầu óc nóng bừng như đang lên cơn sốt. Vậy là Nhàn, người vợ anh yêu và tin tưởng nhường ấy đã phản bội anh. Mà chắc không phải mới bắt đầu. Lấy nhau năm năm nay, nói chung họ sống bình thường, mọi việc suôn sẻ. Anh chưa một lần chạm tới người đàn bà nào khác ngoài vợ, cả trong ý nghĩ cũng không. Tất nhiên anh cũng không nghĩ vợ có thể làm khác. Cô ấy là người tốt, khéo lo toan, thương yêu chồng con, vậy mà... Là người hiền lành, anh không thể và không muốn làm ầm ĩ. Khả năng kỳ diệu mới giúp anh phát hiện một sự thật đau đớn, và bằng cách ấy lấy đi ở anh cái hạnh phúc thư thái của một người chồng không biết bị vợ cắm sừng. Như thế là tốt hay xấu hơn?
Ở bệnh viện hôm ấy may anh không có ca mổ nào. Vốn quen với cuộc sống bằng phẳng ít sự cố, lại bản tính hay rụt rè thụ động nên anh thực sự không biết phải xử sự thế nào trong một tình huống bất ngờ và đầy kịch tính thế này. Đến giờ nghỉ trưa, anh bấm số điện thoại di động của vợ. Máy bị tắt. Sợ nghi oan cho người khác, anh vội đi tới cơ quan vợ. Người ta bảo cô đi ăn trưa. Anh ngồi chờ trong quán nước ở góc phố gần đấy. Một tiếng sau vợ anh về, đến gần cơ quan thì xuống đi bộ. Anh không nhìn thấy mặt gã đàn ông, mà cũng chẳng muốn nhìn. Hắn mặc chiếc sơ-mi xanh da trời chứ không sẫm màu như anh thấy buổi sáng bên bàn ăn. Chờ vợ vào hẳn trong nhà, anh mới buồn bã quay lại bệnh viện.
"Trưa nay anh gọi điện cho em nhưng không được", anh nói khi họ gặp nhau vào buổi tối.
"Trưa nay à? Lúc mấy giờ?"
"Mười hai rưỡi".
Chị vợ nhìn chồng vẻ thăm dò rồi thản nhiên đáp:
"À, lúc ấy em ngủ trong phòng làm việc. Tắt máy để khỏi bị quấy rầy. Có chuyện gì vậy?"
"Không, không có gì đặc biệt. Anh chỉ muốn rủ em đi ăn đâu đó". Anh đáp, mặt thoáng đỏ vì không quen nói dối. Trong khi cô vợ chẳng hề bối rối chút nào. Anh thấy ghê tởm sự dối trá thản nhiên ấy, nhưng không nói gì thêm.
Hôm sau, trước lúc đi làm, anh bảo vợ:
"Em nên đội mũ bảo hiểm. Bây giờ bọn thanh niên đi ẩu lắm".
"Vì sao?"
"Vì chốc nữa em sẽ ngã xe. Ở Ngã năm Lò Đúc. Một thằng choai choai tông vào em rồi bỏ chạy. Không nguy hiểm lắm nhưng cứ đội mũ bảo hiểm vào, ngộ nhỡ đầu va xuống đường".
"Sao anh biết chính xác như vậy? " cô vợ ngạc nhiên hỏi. "Mấy hôm nay em thấy anh khang khác thế nào. Anh nói kỳ lắm, cứ như biết trước hết mọi chuyện".
Anh định bảo "Vâng, đúng thế", nhưng lại thôi.
"Dẫu sao cũng nên cẩn thận", anh nói thêm khi vợ ngồi lên xe, tất nhiên không chịu đội mũ bảo hiểm.
Tối hôm ấy, cơm nước và cho con ngủ xong, chị vợ bảo có chuyện muốn nói với anh, mặt nghiêm túc và lo lắng.
"Em quả không sao hiểu nổi! - Cô vào đề luôn, giọng run run và to hơn bình thường. - Sáng nay đúng ở Ngã năm Lò Đúc em ngã xe. May chỉ sây sát đôi chút. Đúng một thằng choai choai tông vào em rồi bỏ chạy như anh nói. Thế là thế nào? Anh giải thích cho em biết đi? Anh là ma hay sao mà biết trước những gì sẽ xẩy ra?
"Ma thì không, nhưng quả anh có cái khả năng ấy", Tú thành thật đáp.
"Không, như thế thì thật phi lý. Xưa nay anh cũng chỉ bình thường như em, như tất cả mọi người. Làm sao bỗng nhiên anh có được khả năng kỳ cục ấy?"
Tú bình tĩnh thuật lại việc anh bị thằng con đánh kìm vào đầu và giải thích những hậu quả có thể có của nó theo góc độ y học. Chị vợ im lặng ngồi nghe, mặt tái nhợt.
"Và hôm qua anh gọi điện cho em cũng vì..."
"Vâng, anh đã biết hết, thấy hết".
"Trời ơi, thế thì kinh khủng quá, kinh khủng quá!" Cô thốt lên, hai tay ôm mặt.
Một tuần sau hai người cùng ký đơn li dị. Chính chị vợ chủ động yêu cầu, sau khi thú thật với chồng mối quan hệ của mình với người đàn ông kia. "Vả lại, em không thể tiếp tục sống với một người có cái khả năng kỳ cục và tai hại như anh. Anh là người tốt. Em có lỗi. Nhưng sau tất cả những chuyện này chúng ta không thể sống chung với nhau được nữa. Cả em và anh sẽ cảm thấy nặng nề".
"Nhưng anh sẽ không nhìn em để đoán biết những việc em làm. Nếu em còn thực sự yêu anh thì hãy cắt đứt với người kia. Ta sẽ lại tiếp tục sống hạnh phúc như trước", anh nhẹ nhàng nói.
"Hắn là một thằng vô lại, em biết và sẽ không bao giờ lấy hắn. Nhưng em thích gần hắn. Ít ra hắn là thằng đàn ông thực thụ với cá tính mạnh mẽ, quyết liệt. Còn anh thì ngược lại, anh hay mặc cảm, rụt rè như một mụ đàn bà ngu ngốc. Cái tên của anh cũng tên đàn bà. Hơn thế, anh quá tốt, quá trung thực, quá chỉn chu, đến mức nhiều khi em thấy nghẹt thở. Anh có thể hạnh phúc với em, nhưng em thì không. Vậy nếu anh muốn em hạnh phúc như vẫn nói, thì chúng ta hãy chia tay nhau. Anh đồng ý chứ?"
Tú ngồi im một lúc rồi gật đầu. Thế là anh bắt đầu sống một mình. Chị vợ đưa con về ở với bố mẹ. Bên ấy nhà rộng, chỉ còn hai ông bà già, trước họ cố bắt anh ở rể nhưng không được. Họ chia tay thật nhẹ nhàng. Không một lời to tiếng, không tranh chấp của cải, không cả suy tính thiệt hơn. Hàng xóm ai cũng trố mắt nhìn, không hiểu chuyện gì đang xẩy ra.
Sau đó là những ngày buồn bã, gần như tuyệt vọng đối với Tú. Chính anh cũng ngơ ngác không hiểu sao bỗng chốc mọi việc lại thay đổi nhanh chóng như vậy. Sống độc thân, anh có nhiều thời gian hơn để suy ngẫm và kiểm tra cái khả năng kỳ quái kia mà cho đến nay chỉ anh và vợ anh biết. Sau nhiều lần thử, anh nhận thấy nó không có hiệu lực với anh. Nghĩa là giả sử chỉ mươi phút nữa anh bị ô tô cán chết, thì anh cũng bất lực không nhìn thấy trước điều đó. Anh chỉ có thể biết trước chuyện của người khác, với điều kiện phải luôn nhìn vào người ấy. Cùng với thời gian, hình ảnh sẽ trở nên mờ dần, muốn thấy rõ hơn, lâu hơn, phải rất cố tập trung, là điều làm anh đau buốt trong đầu. Nhìn ai đó năm phút, anh biết chuyện gì sẽ xẩy ra với người ấy sau nửa ngày, mười phút - sau một ngày, cứ thế nhân lên, nhưng càng về sau hình ảnh càng mờ và anh càng mệt mỏi, đau đớn.
Thoạt đầu anh còn háo hức với các khám phá của mình, nhưng rồi chúng nhanh chóng làm anh buồn, thậm chí hoảng sợ. Có thể do ngẫu nhiên, không hiểu sao anh chỉ thấy toàn những điều chẳng mấy tốt đẹp. Một cô gái rất xinh, ăn diện đúng mốt đứng cạnh Nhà Hát Lớn, chỉ mười phút sau trở thành kẻ ăn cắp hạ tiện ở Tràng Tiền Plaza, lén lút nhét mấy thỏi son vào chỗ kín rồi đi ra với vẻ đẹp ngây thơ trâng tráo. Một quan chức nhà nước oai nghiêm lớn tiếng chống tham nhũng ở hội nghị, thế mà tối lại hẹn mấy bác dân quê đến nhà riêng đưa hối lộ để hắn chạy cho con họ một suất đi lao động nước ngoài. Những cô điếm đứng co ro bên đường giữa trời mưa gió, gần sáng trở về không có tiền cho bọn ma cô, bị chúng đánh thâm tím mặt mày. Một đứa bé mặc đồng phục nhà trường, cổ quàng khăn đỏ đạp xe đi giữa phố trông thật dễ thương thế mà mấy phút sau lại chui vào nhà xí công cộng để tiêm một mũi rồi đạp xe đi tiếp với vẻ mặt còn hồng hào, dễ thương hơn... Tất cả những điều ấy trước đây anh không thấy vì chúng được che giấu, bởi vậy anh nhìn đời lạc quan. Bây giờ thì khác hẳn. Bỗng nhiên anh phải đối mặt với bao điều bỉ ổi của cuộc đời. Như những người trung thực, chất phác và hiền lành khác, anh cảm thấy thật buồn, đến mức không dám nhìn ai lâu, nhất là bạn bè và người thân. Anh sợ có thể phải thất vọng vì họ.
Ở bệnh viện, các phát hiện của anh cũng kinh khủng không kém nhưng đáng buồn hơn, vì đó là cái xấu của những người anh từng cùng làm việc và từng kính phục. Hóa ra ông trưởng khoa chỉ tốt và đạo đức bề ngoài. Trong vòng một tuần Tú thấy ông lôi một nữ bác sĩ trẻ (nổi tiếng đoan trang) và một nữ sinh thực tập vào phòng làm việc của ông. Cả hai lần đều có cảnh cởi quần áo. Đến đây anh không dám nhìn tiếp để biết chuyện gì xẩy ra sau đó. Anh ghê tởm vì có quá nhiều cảnh cởi quần áo. Anh nhìn thấy không ít đồng nghiệp ăn tiền bệnh nhân, quát tháo, hạch sách hoặc thông đồng với các dược sĩ để bán thuốc gấp đôi giá qui định. Có người lúc khám còn sờ cả chỗ kín của họ.
Anh thầm ngạc nhiên sao xưa nay không nhìn thấy, không nghĩ gì về chuyện này. Anh thực sự bị sốc, mặt ngơ ngác như người mất hồn, khiến mọi người nghĩ anh đang ốm. Biết không thể phẫu thuật trong trạng thái như thế, anh đã nhận lời ngay khi trưởng khoa gợi ý có muốn nghỉ phép kéo dài một thời gian không. Trước khi rời bệnh viện, anh moi hết các túi được hơn trăm nghìn đồng, đưa cho một bà mẹ trẻ nông thôn có thằng bé ba tuổi chờ truyền máu nhưng hết tiền, định tối đến ra bến xe bán thân cứu con.
Tú đóng cửa nằm yên trong nhà suốt mấy ngày, suy ngẫm về những sự thật chua xót mà cái khả năng nhìn thấy trước của anh mang lại. Chỉ toàn tai họa. Anh từng sống hạnh phúc với vợ con, đồng nghiệp, mọi chuyện suôn sẻ, thế mà bây giờ phải nằm đây một mình, không việc làm, sắp tới không cả tiền để sống. Anh sực nhớ câu chuyện cổ tích ngày nhỏ về chiếc gương thần biết tố giác những người nói dối. Nhưng rồi tất cả mọi người, kể cả người trung thực và người phát minh ra cái gương kỳ diệu ấy, đã nhất trí đập vỡ nó. Phải chăng trong cuộc sống, sự dối trá cũng cần như sự thật? Liệu xã hội sẽ thế nào khi hoàn toàn không có người nói dối, không có tội ác, đói nghèo, không có những bà vợ, ông chồng lén lút ngoại tình? Những câu hỏi ấy quả rất khó và anh không thể tìm được câu trả lời.
Sao không thử dùng chiếc gương thần kia, cả khả năng kỳ diệu này của anh nữa, vào những mục đích hữu ích, chỉ hữu ích mà thôi? Anh đang cần tiền. Liệu nó có thể giúp anh kiếm tiền được không, tất nhiên chỉ bằng cách lương thiện? Cá cược và số đề bị gạt ngay từ đầu vì thực chất đó là trò cờ bạc. Vậy chơi xổ số chăng, xổ số hợp pháp của nhà nước? Cũng không được. Anh nhìn thấy trước con số trúng giải đặc biệt một trăm triệu đồng, nhưng sau đó lại thấy một ông già nghèo khổ run run bước lên nhận tiền trong tiếng vỗ tay vang dội. Ông cụ sung sướng đến suýt ngất, đôi má nhăn nheo ướt đẫm nước mắt. Không, anh không thể đang tâm cướp đi vận may của người khác. Anh có thể đi lùng mua chiếc vé có con số may mắn kia và trở thành giàu, bề ngoài có vẻ chính đáng, nhưng thực chất cũng là một trò gian lận.
Hay giúp công an phát hiện tội phạm? Giúp các hãng hàng không biết trước tai nạn? Giúp thế giới ngăn chặn khủng bố? Những ý tưởng thật cao đẹp, nhưng làm thế nào thực hiện được? Chắc chắn người ta sẽ nhốt anh vào nhà thương điên nếu tự anh đến đề nghị hợp tác. Cuối cùng anh quyết định giúp những người đang sống quanh mình. Báo trước cho họ những tai nạn sắp xẩy ra chẳng hạn. Anh sẽ không nhìn, không biết, không báo những việc xấu của người thân họ. Chỉ giúp những điều tốt thôi. Tạm thời trước mắt chỉ vậy.
"Hôm nay bác đừng cho thằng Thắng đi trượt pa-tanh. Nó sẽ ngã gãy chân đấy." Anh bảo bà hàng xóm khi đang ngồi uống nước ngoài sân. Hai nhà được ngăn bằng bờ rào khung sắt có lưới mắt cáo. Thỉnh thoảng vào buổi sáng, trước giờ đi làm họ vẫn trao đổi với nhau đôi câu chào hỏi.
Bà kia ngạc nhiên:
"Sao anh biết ?"
"À, tôi linh cảm thấy thế. Dẫu sao, xin bà hãy nghe và đừng cho thằng Thắng đi.".|
Tuy không tin, nhưng vốn mê tín, bà hàng xóm vẫn lặng lẽ giấu đôi giày của con trai. Bà nghĩ bà đã có thêm một bằng chứng khẳng định lời đồn của nhiều người, rằng "dạo này anh Tú thế nào ấy, cứ như người mất hồn. Không khéo lại mắc bệnh tâm thần. Tội nghiệp."
Một hàng xóm khác - ông này làm nghề thầu xây dựng thuộc loại ít chữ nhiều tiền - thì thẳng thừng đốp luôn khi anh bảo ông ta hôm nay cẩn thận kẻo dàn giáo đổ:
"Cậu chỉ được cái nói gở! Tôi mà có chuyện gì, cậu phải chịu trách nhiệm đấy!" Rồi phóng xe đi.
Tối đến thấy có người đèo ông ta về. Quả ông ta có leo lên dàn giáo, và nó đã đổ, may chỉ sái chân. "Cái thằng bác sĩ ấy điên thật rồi, - ông ta bảo một hàng xóm khác. Chẳng trách bị vợ bỏ, bệnh viện bắt thôi việc." Thế là dần dần người ta tin Tú điên. Chí ít cũng tâm thần nặng. Tuy nhiên, từ đấy không hiểu sao trong xóm ai cũng nghe theo lời dặn của thằng điên ấy, và nhờ vậy tránh được tai họa.
Một hôm, ở quán cơm bụi, có cô gái ngồi cạnh anh, ăn xong đang thanh toán tiền với bà chủ. Anh giật mình thấy cô lái xe đi theo bờ đê vắng người rồi bất ngờ bị hai thanh niên đèo nhau ép vào vệ đường. Tiếp đến là tiếng kêu cứu, tiếng quát của một trong hai thằng ấy. Còn thằng kia thì anh thấy cố dằng chiếc túi cô ôm chặt trước ngực mãi không được, bèn giơ con dao sắc nhọn đâm cô.
"Này cô, - anh vội nói. - Cô sắp bị cướp đấy. Chúng còn giết cô. Cô đừng đi nữa. Xin cô hãy tin tôi!"
Cô kia nhìn anh, vẻ nghi ngờ, tư lự một lúc rồi lên xe phóng đi.
"Đừng, tôi nói thật mà. Đừng đi! Nguy hiểm lắm, xin cô đừng đi!"
Tú liền vội vàng đặt bát đũa xuống, lên xe đuổi theo trước con mắt ngạc nhiên của những người xung quanh. Đấy là phản xạ tự nhiên chứ lúc ấy anh không biết đi theo để làm gì. Anh giữ khoảng cách khá xa, cốt không mất hút cô kia. Qua cầu Chương Dương, cô gái rẽ trái theo đường Gia Thượng. Lúc ấy trời nhá nhem tối. Đến đoạn gần Cầu Đuống thì bắt đầu xẩy ra cái việc anh đã nhìn thấy trước...
* Hôm sau báo đưa tin có hai người bị bọn cướp giết lấy tiền và xe ở địa bàn Gia Lâm. Một trong hai người ấy là Tú. Quá lo lắng cho tính mạng người khác, con người lương thiện ấy đã không có thời gian nhìn thêm mấy giây để thấy cảnh chính anh sẽ bị giết. Cũng có thể nhìn thấy nhưng anh đã không coi trọng điều đó.
Hà Nội, 15.6.2002
Đổi đời (Nhưng không phải bằng cách này!) Người viết: Thái Bá Tân 07/01/2010
Đổi đời
Truyện ngắn. Thái Bá Tân
Như ta biết, trong khoa học đôi khi các sự việc tình cờ lại giúp con người có được những phát minh vĩ đại. Xin hãy nhớ quả táo của Niutơn, cuộc chạy trần truồng của Acsimet từ bờ sông về nhà và nhiều thí dụ khác. Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta ai cũng từng gặp những trường hợp tương tự, khác chăng chỉ ở qui mô và ý nghĩa. Và đây là trường hợp của Cái Tý. Một phát hiện giúp nó đổi đời, từ con bé nhà quê chân đất thành "bà quí phái" lọc lõi chốn đô thành, nhiều tiền, nhiều tình và do vậy nhiều cả quyền.
Năm mười sáu tuổi, nó được đưa ra Hà Nội làm ô-xin cho một gia đình khá giả. Chỉ mấy ngày sau, ông chủ, năm mươi tuổi, một người có học và vẻ ngoài rất tử tế, giở trò tán tỉnh rồi cưỡng đoạt nó. Nó sợ tất nhiên, nhưng khốn nỗi nó cũng thích. Thích nhất là sau đó được cho những một trăm nghìn đồng, nghĩa là nửa tháng lương. Không bị quả táo ngẫu nhiên rơi đúng đầu, có thể Niutơn đã chẳng phát minh được định luật vạn vật hấp dẫn. Không bị ông chủ giở trò, tất nhiên nó không biết được nó đang có cái gì và phải khai thác cái ấy như thế nào. Một phát hiện tuyệt vời, có thể nói vĩ đại. Mà khi đã thấy đường đi, biết cách làm thì cứ thế thẳng tiến. Mỗi lần một trăm nghìn đồng ngon ơ, lại còn được thích. Sau đó tuần nào nó cũng đều đều nhận vài lần một trăm nghìn như thế. Số tiền này nó giấu riêng rồi đem gửi nơi khác, chẳng mấy chốc lên tới tiền triệu, rồi nhiều triệu.
Một hôm "xong việc", chỉ đùa thôi chứ chẳng hề có chủ định gì, nó nói: "Cháu có thai!" Ông kia sợ tái mặt, lúc đầu ngồi thần người rồi cuống quýt căn vặn, cuống quýt gợi ý cách "giải quyết". Nó bảo: "Không. Cháu muốn để nuôi!" Cũng buột miệng nói cho vui. Nhưng khi thấy ông chủ hốt hoảng đến líu cả lưỡi thì nó bắt đầu nghĩ. Mà nó nghĩ nhanh lắm, vì nó vốn là đứa thông minh, hay gọi là ranh ma cũng được. Nó nghĩ một khi việc ấy đáng sợ đến thế đối với ông chủ thì tại sao không nhân dịp này kiếm một vố. Một vố lớn chứ không kiểu cò con mỗi lần một trăm nghìn. Rồi nó giả vờ đau khổ và khóc. Điệu bộ và tiếng khóc còn vụng, vì đây mới là bước chập chững đầu tiên trên con đường nghệ thuật chài đàn ông moi tiền rất thành công sau này. Tuy nhiên, sự vụng về ấy cũng đủ bắt ông kia móc túi đưa luôn năm triệu để nó chịu "nạo thai". Nó lấy làm tiếc không đòi luôn mười triệu. Đến bệnh viện, nó dúi cho bà bác sĩ hai mươi nghìn rồi lại leo lên xe ông chủ về nhà. "Người Hà Nội buồn cười thật, - nó nghĩ. - Ở quê mà thế thì được hai mét vải lụa đã mừng rơn, không khéo còn bị đánh, bắt đi nạo".
Nó ngồi trước gương, suy nghĩ rất lung về việc vì sao có thể kiếm được nhiều tiền một cách dễ dàng như vậy. Bỗng nhiên nó phát hiện thêm một điều bất ngờ nữa: Nó xinh! Trời ơi, phải nói là rất xinh! Ông trời bắt đói ăn, làm lụng vất vả từ bé, nay bù lại, ban cho nó một ngoại hình có thể gọi tuyệt mỹ, lại được hoàn thiện thêm nhờ một năm làm đàn bà và ăn ngon. Mặc cũng đẹp hơn, dẫu chỉ quần áo thừa của bà chủ. Người nó cao, tròn lẳn với những đường cong thật khêu gợi; da trắng hồng, khuôn mặt xinh đẹp và thật dễ thương với vẻ thơ ngây hiếm có, thậm chí cả vẻ có học, gia giáo kiểu con nhà lành. Chút việc còn lại phải làm là học cách ăn nói, đi đứng, mồi chài và đưa con mồi vào bẫy. Một việc không khó với nó.
Nó sống thêm một thời gian nữa với ông chủ mà thực chất bây giờ đã thành ô-xin của nó, đòi mỗi lần hai trăm chứ không phải một trăm nghìn như trước. Mê sắc đẹp và cách chiều chuộng của nó, ông kia đành chấp nhận. Cuối cùng, khi cảm thấy đủ lông đủ cánh và thời điểm chín muồi, nó quyết định "ra đời làm ăn lớn". Cái chức ô-xin và khoản thu nhập kia đã không còn làm nó hài lòng.
Thế là một hôm nó tống tiền ông chủ bằng cách dọa mách bà chủ rằng ông đã làm hại cả đời con gái trinh trắng của nó. Tất nhiên nó lại thành công, cầm thêm năm triệu đồng nữa rồi thuê xe ôm dọn đến căn hộ đầy đủ đồ đạc nó mua sẵn trước đó mấy tháng. Ông kia còn tiếp tục đưa tiền cho nó bằng cách thỉnh thoảng đến thăm, bây giờ đã ba trăm nghìn đồng mỗi lần nhưng nó chẳng quan tâm nhiều tới ông, vì người sẵn sàng chịu chơi giá ấy không ít. Tự lúc nào không biết, nó đã lên hàng "thượng lưu", thậm chí "siêu thượng lưu". Ý thức được giá trị bản thân, cả về nhan sắc và nghệ thuật mồi chài, nó muốn một cái gì đấy sang hơn, cao hơn và phải nhiều tiền hơn.
Cái ấy chỉ có thể có được ở giới giám đốc loại cỡ tiêu tiền chùa. Tiếp cận đối tượng này không khó. Nó thường nhắm trước con mồi, tìm hiểu kỹ tính tình, khả năng tài chính rồi xin vào làm thư ký, tất nhiên với vẻ ngây thơ, bẽn lẽn và gia giáo hết mực. Chưa hề có vị nào từ chối. Còn sau đó rút ruột ông ta, hay đúng hơn, rút ruột nhà nước thì nó chỉ cho là chuyện vặt. Trong năm năm kể từ ngày thôi chức ô-xin, nó kịp "làm thư ký riêng' cho ba vị, kiếm được ba xe máy xịn (nó có thể moi được cả ô tô nhưng không muốn), cộng với hai căn hộ, ba chuyến du lịch nước ngoài và vô số quà cáp cùng một tài khoản "nho nhỏ" ở ngân hàng. Một vị tỏ ý sẵn sàng bỏ vợ cưới nó nhưng nó chẳng dại. Vốn còn nhiều, cơ hội làm ăn chưa hết, tội gì phải trói mình với ai. Khi nào cần mới rút, mà nó biết rút đúng lúc và rất êm, nhờ biệt tài đoán gần như chính xác trăm phần trăm lúc nào thủ trưởng sẽ sụp đổ.
* Cái Tý bây giờ đã là Diễm Hạnh (cái tên tự nó đặt sau khi quyết định ra đời "hành nghề" độc lập, chắc hàm ý mình là người kiều diễm và hạnh phúc). Cô Diễm Hạnh, bà Diễm Hạnh, con Diễm Hạnh, mụ Diễm Hạnh. Giới mày râu thường gọi là "nàng". Ta cũng tạm gọi "nàng" cho tiện, vì một người xinh đẹp, giàu có với vẻ ngoài quí phái như thế mà gọi khác e bị coi là nhỏ nhen.
Mấy hôm nay nàng vừa "cắt" một ông. Ông thứ tư. Cái ghế ông này còn lâu mới đổ nhưng nàng ghét vì mụ vợ tỏ ra ghê gớm, còn ông thì keo kiệt đến mức vừa rồi không chịu bỏ mấy nghìn đô mua cho nàng chiếc nhẫn kim cương. Vả lại, nàng phục vụ ông và lấy của ông chừng ấy cũng có thể coi là đủ. Vậy giờ là lúc phải săn con mồi mới. Nhưng nàng không vội. Nàng thừa điều kiện để tự cho phép mình nghỉ ngơi chút ít, cả thể xác lẫn tâm hồn. Kia, nàng vừa bước ra khỏi tắc-xi (nàng ít khi đi xe máy), và đang thơ thẩn dạo quanh Bờ Hồ. Nàng đẹp một cách sang trọng, kín đáo và rất hợp mốt. Đố ai dám nghĩ khác rằng nàng không phải con nhà quyền quí và trong sạch đến từng bước đi, ý nghĩ. Nàng thong thả, kiều diễm lướt qua, thích thú với cảm giác biết bao con mắt ngưỡng mộ, thèm thuồng đang dán lên người nàng. Nàng ghé vào Nhà Thủy Tạ, gọi một ly kem ngoại, châm thuốc hút rồi lơ đãng nhìn ra mặt hồ buổi xế chiều thơ mộng. Tất cả đàn ông có mặt ở cửa hàng quay sang nhìn nàng, trong đó có một người mới vào, chỉ sau nàng khoảng dăm phút. Người này ngồi xuống chiếc bàn bên, cũng gọi một ly kem, châm thuốc và cũng bâng quơ nhìn ra hồ. Kinh nghiệm cho biết điều này không ngẫu nhiên, nhưng nàng không thèm nhìn sang lần nào, dù vẫn thấy hết, nghe hết. Một biệt tài chỉ những người siêu hạng như nàng mới có.
Đó là một người đàn ông khó đoán tuổi nhưng chắc chưa đến năm mươi, mặc toàn đồ xịn, đang cố gắng một cách vụng về để tỏ ra vẻ thạo đời. Những dấu hiệu ban đầu tốt đẹp. Để xem trong túi có đồng nào không đã. Khi cô nhân viên bê ly kem ra, ông ta bo một tờ mười đô còn mới. "Khá. Chịu chơi đấy!" - Nàng nghĩ, biết chắc tờ mười đô được chi hào phóng không vì cô kia mà vì nàng. Chỉ lúc này nàng mới ban cho ông ta một cái nhìn vừa cao ngạo vừa e lệ.
Ông này có khuôn mặt dễ coi, nước da tai tái nhưng may không sần sùi. Mặc dù ít quan tâm đến hình thức con mồi, điều này cũng làm nàng dễ chịu. Đôi mắt ông thật đặc biệt, đẹp, vừa sâu, buồn, đồng thời vừa có ánh đam mê mãnh liệt. Suốt từ nãy đến giờ đôi mắt ấy luôn nhìn nàng, chủ yếu đoạn từ ngực đến đầu gối, nhìn chằm chằm, khiến một người như nàng cũng thoáng chút ngượng ngùng. Bản thân cái nhìn ấy chẳng có gì đáng nói. Xưa nay đàn ông vẫn chiêm ngưỡng nàng cách ấy. Có điều nàng thấy lạ là đôi mắt ông giống hệt mắt một cụ già bảy, tám mươi tuổi nàng gặp hôm kia khi cùng đi thang máy lên tầng hai Tràng Tiền Plaza. Ông cụ cũng nhìn nàng đúng như vậy - sâu, buồn, rực lửa, và cũng chỉ từ ngực tới đầu gối. "Chết đến đít rồi mà còn dê!" lúc ấy nàng nghĩ, mặc dù không ghét cụ chút nào. Đàn ông có "dê" thì nàng mới sống được. Thậm chí cả khuôn mặt hai người cũng có cái gì giông giống. Buồn cười thật, không hiểu sao nhìn ông này, nàng cứ vẩn vơ nghĩ tới cụ già lẩm cẩm đó. Sự quan tâm của nàng tới "con mồi" gia tăng hẳn khi một thanh niên bước vào hỏi ông kia còn phải chờ lâu nữa không để đem ô tô đến bãi gửi. Ông kia bảo còn lâu.
Cân nhắc thêm một chốc, nàng quyết định hành động. Nàng liếc sang bàn bên và...
Nửa giờ sau, nói cười như quen nhau đã lâu, hai người đi bộ tới khách sạn Phú Gia ăn tối. Ăn xong, xe đưa nàng về nhà ông. Rồi một tuần sau, khoảng thời gian cần thiết để không bị chê là quá dễ dãi, nàng dọn đến ở hẳn với ông. Mọi cái đều tốt đẹp. Mọi cái đều đúng như nàng mong muốn. Chỉ tiếc ngôi nhà lớn sang trọng họ đang ở không phải của ông mà nhà thuê, vì theo lời ông, ông là giám đốc một công ty tư nhân ở miền nam có mối làm ăn rộng nên ít khi được ở lâu một chỗ. Về nhiều phương diện, có thể nói đây là con mồi "ngon nhất" của nàng từ trước đến nay. Li dị vợ, nhiều tiền, dễ bảo, mỗi tuần chỉ về nhà một hoặc hai lần. Hơn thế "lão" lại rất yêu, có thể nói si mê nàng một cách chân thành. Điều này lúc đầu có làm nàng chút ít bối rối vì nó nằm ngoài kế hoạch, nhưng sau nghĩ kỹ thấy cũng chẳng sao. Cùng lắm có thể dừng lại ở bến này và lấy "lão" làm chồng nếu "lão" thực sự giàu. Còn trong khi chưa chắc điều ấy thì nàng phải tranh thủ moi càng nhiều càng tốt. Khoản này thì nàng đã thành nghề điêu luyện.
Sống với ông chưa đầy một năm, nàng đã kịp moi được khối thứ, khối tiền. Có lẽ ông giàu thật. Ông chi tiền thoải mái, có khi một lần mấy chục triệu, vì ông thực sự yêu và không thể sống thiếu nàng. Thậm chí không hỏi nàng cần tiền làm gì. Chỉ thỉnh thoáng, khi phải cho nàng một khoản lớn, ông cười, nói: "Em tiêu tiền vậy thì anh chỉ chóng chết mà thôi!" Nàng không hiểu và không muốn hiểu ông nói thế nghĩa là gì, thường chỉ ngăn lại bằng một nụ hôn khêu gợi vào cái miệng đang kêu chết ấy cùng vô số những cử chỉ âu yếm khác. Tuần trước nàng đánh "quả" lớn nhất và quyết định nhất, là xin ông mua ngôi nhà họ đang thuê, tất nhiên đứng tên nàng. Ông chững lại mấy giây, rồi buồn rầu đáp: "Em đang xô anh đến chỗ chết đấy!.." Nàng đã chuẩn bị để nghe câu ấy, cũng như các ngón đòn nàng sẽ tấn công sau đó. Cuối cùng thì nàng cũng đạt được mục đích, chỉ ông hơi buồn, thậm chí nàng thấy như ông gầy sọp và già hẳn đi. Nàng cũng phần nào ái ngại cho ông, nhưng cuối cùng lại nghĩ: "Cho chết. Dại gái cho chết, anh yêu ạ".
Hôm nay, như để bù cho món quà hậu hĩnh ấy, nàng tỏ ra yêu thương ông hơn hẳn mọi lần. Đêm khuya, bốn xung quanh yên tĩnh. Hình như ông đã ngủ, hơi thở nhẹ đều đều, một tay để trên ngực nàng, còn nàng thì nằm bên, mỉm cười hài lòng với số phận và cũng thiếp đi lúc nào không biết.
Gần sáng, chợt tỉnh vì tiếng xe máy rú ngoài đường, nàng quay người, âu yếm xoa ngực ông nhưng liền rút tay lại như bị điện giật. Có cái gì ươn ướt, nhơm nhớp. Có cả mùi tanh lợm. Nàng hoảng sợ nhảy ra khỏi giường, bật đèn rồi đứng đớ người, hai tay ôm miệng: người đàn ông nàng ôm ấp suốt đêm đang nằm kia, dưới ánh sáng rực rỡ của ngọn đèn chùm hai chục bóng. Nhưng lúc này ông ta là một xác chết đang thối rữa, thối rữa rất nhanh và ngay trước mắt nàng. Da thịt ông ngã xám, chương phình rồi từ từ rữa ra, xẹp xuống để nhô hai gò má cao, hai hố mắt sâu dần và chừng năm phút sau chỉ còn lại chiếc sọ dừa trắng hếu. Bộ xương ngực, các xương tứ chi dài ngoẵng cũng trắng như thế. Không bám tí thịt nào. Dần dần mùi tanh lợm cũng biến mất. Cảnh tượng hãi hùng và bất ngờ đến mức một người lõi đời như nàng cũng phải bỏ chạy sang phòng bên, khóa chặt cửa ôm mặt khóc.
* Rạng sáng hôm sau, có người đến gõ cửa nhà nàng. Vẫn co ro ngồi trong phòng riêng, nàng cuống quýt chạy sang phòng ngủ định lấy cái gì che bộ xương, thì ngạc nhiên sao, không thấy nó đâu nữa. Trên giường chỉ còn tấm ga trắng nhàu nát và chiếc chăn rơi một nửa xuống sàn. Tiếng gõ cửa nghe to và có vẻ sốt ruột.
Khách là một ông già nhỏ thó vẻ đáng ngờ, người gầy đét, có con mắt xoi mói và gian xảo.
- Bà là Nguyễn Thị Tý?
- Bà Diễm Hạnh.
- Cũng thế cả. Xin lỗi bà, tôi đến đây để đòi nợ...
- Đòi nợ? Ai nợ, nợ ai? - Nàng ngạc nhiên nhưng cố tỏ ra bình tĩnh và đáo để trước con người mà nàng thấy trước là không phải tay vừa.
- Ông Lương bạn bà có nợ tôi một khoản tiền lớn. Chắc bà không biết, nhưng tôi sẽ chứng minh...
- Ông ấy mà thèm nợ ông? Nếu quả có nợ, sao không tìm ông ấy mà đòi? Hiện giờ ông ấy không có đây.
- Với tôi, bà không cần giấu diếm điều gì. Ông ấy có ở đây, chính xác là cho tới nửa đêm hôm qua. Còn bây giờ thì ông ấy đang ở chỗ cần phải ở, tức là nghĩa trang Văn Điển. Vì ông ấy đã chết cách đây một năm...
- Ông nói gì tôi không hiểu.
- Cũng đúng thôi. - Lão già thích thú nhìn bộ mặt ngơ ngác, bối rối của người đứng trước lão. - Chuyện nghe hơi kỳ, nhưng đúng là có thật. Tôi và ông Lương là chỗ bạn bè thân thiết. Năm ngoái gặp bà ở Tràng Tiền Plaza, ông ấy bị bà hớp hồn. Ông là ngưòi tốt, chỉ tội hơi yếu đuối trước phụ nữ, nhất là một người quyến rũ như bà. Khốn nỗi lúc ấy ông đã trên bảy mươi, lại đang ung thư sắp chết. Ông đến gặp tôi, năn nỉ giúp đỡ - chả là tôi có chút tài vặt mà. Ông thực sự yêu bà, ngưỡng mộ bà, vì sao thì tôi quả không hiểu. Tôi lựa lời khuyên ngăn nhưng ông không nghe. Thôi thì đành giúp vậy. Chẳng dám dấu bà, tôi là thầy thuốc, có loại thuốc làm cho người ta trẻ lại. Không chữa khỏi bệnh, nhưng trẻ lại thì được. Trường hợp ông Lương hơi khó một chút. Ông mắc bệnh ung thư sắp chết như đã nói, nhưng tôi vẫn giúp được ông kéo dài sự sống, dù chỉ sống ảo, vì thực sự ông đã chết cách đây một năm, chính xác là chỉ vài tuần sau khi gặp bà lần đầu. Hơn thế, tôi còn làm ông trẻ lại những ba mươi tuổi để tận hưởng hạnh phúc với bà. Bà đang thắc mắc muốn biết bằng cách nào? Đơn giản thôi, một tuần hai lần ông uống những viên thuốc đặc biệt do tôi bào chế để giữ cơ thể không chỉ không phân hủy mà còn khỏe mạnh thành người tình của bà. Làm được loại thuốc này tốn kém lắm, và dẫu bạn bè thân thiết, ông Lương vẫn phải trả tôi rất nhiều tiền. Ông giàu, bà biết điều ấy, nhưng thậm chí cả khi giàu như ông, đó cũng là một số tiền lớn khó có thể kham nổi trong một thời gian dài. Hơn nữa, bà lại tham lam moi của ông ấy nhiều quá. Ông ấy chẳng bảo bà đang đẩy nhanh ông ấy đến chỗ chết là gì. Nhất là cái vụ bắt mua ngôi nhà này. Vì quá yêu bà, ông ấy không thể từ chối nhưng đồng thời cũng không thể không uống thuốc của tôi, thành ra ông lâm vào cảnh nợ nần, và khi tôi ngừng cấp thuốc thì ông chết, ngay trên giường với bà như bà đã biết. Hôm nay tôi đến đòi lại số tiền thuốc ông ấy còn nợ. Có giấy ghi chép đầy đủ cả đây...
- Nhưng ông ấy đã chết, và tài sản hiện chẳng còn gì.
- Còn đấy, thưa bà, ngôi nhà này chẳng hạn, và nhiều thứ khác.
- Ngôi nhà này đứng tên tôi và là của tôi! - Nàng giận dữ kêu lên.
- Bà nghĩ thế à?
- Tất nhiên. Và đừng hòng ai cướp nổi nó. Đây, ông xem đi, rồi mời ông ra khỏi đây ngay! - Nàng vội móc túi lấy tờ giấy chứng nhận sở hữu ngôi nhà mà nàng luôn giữ chặt bên mình. - Ông đọc đi!
Nàng dí tờ giấy tận mặt lão già.
- Thì nó ghi tên tôi đấy thôi, xin bà hãy xem lại. - Ông kia thản nhiên đáp, rồi đến lượt mình chỉ ngón tay vào tên người sở hữu trên tờ giấy. Nàng trố mắt ngạc nhiên khi thấy đó không phải tên mình mà là một cái tên lạ hoắc. - Thôi, đã đến lúc tôi phải đi, - lão già vừa nói vừa cho tờ giấy vào túi. - Tôi nghĩ ba ngày đủ để bà dọn đi nơi khác. Trường hợp sớm hơn, xin bà báo tôi biết theo địa chỉ này... - Lão đưa cho nàng mẩu giấy có ghi số nhà và một tên phố.
Chờ lão già ra khỏi, nàng chạy bổ vào phòng, run rẩy móc từ chỗ cất giấu một bọc tiền lớn, giở ra chỉ thấy toàn những tập giấy bạc âm phủ. Thử các dây chuyền và nhẫn vàng, cả chiếc có hạt kim cương lớn, cũng thấy chỉ đồ giả. Xót của, nàng kêu to một tiếng rồi ngất xỉu...
* Sau đấy nghe nói nàng ốm một trận phải vào viện nằm cả năm trời chưa khỏi. Có người bảo nàng hóa điên, xé quần áo, bôi đen mặt đi giữa phố. Cả lúc ấy, vẻ đẹp trời cho vẫn hiện ra lồ lộ, và nàng đã mấy lần bị bọn lưu manh lôi vào bụi rậm. Có người lại bảo, điều này nghe có lý hơn cả, rằng mấy năm sau, khi thấy mình không còn trẻ, nàng đã tìm đến lão già kia mua thuốc, nhưng vì vô tình, cũng có thể cố ý, nàng uống quá liều nên lại biến thành Cái Tý tuổi mười sáu đúng như ngày nó lên thành phố làm ô-xin năm nào. Lần này không may nó phải hầu hạ một bà già góa giàu có không con cái, do vậy nó không bị ai cưỡng hiếp nên không có điều kiện biết được cách kiếm tiền dễ dàng. Bà này nổi tiếng nghiêm khắc và thương người. Bà dạy nó đủ điều hay lẽ phải, lại cho tiền ăn học tử tế như con. Vậy là nó đổi đời, từ con bé nhà quê đến ăn không đủ no thành cô tiểu thư thành phố nết na, xinh đẹp. Nó thi đậu đại học, thành hoa khôi trường, hoa hậu thành phố rồi làm kế toán trong một cơ quan nhà nước. Nó, tức là cô Tý, mới lấy chồng năm kia, sinh đứa con rõ xinh và cô có vẻ hạnh phúc lắm. Cô cũng loáng thoáng nghe người ta nói về câu chuyện ly kỳ của một mụ đàn bà xinh đẹp, hư hỏng nào đó tên là Diễm Hạnh, nhưng vì bận việc công, việc nhà, cô chẳng hơi đâu quan tâm tới mụ.
Hà Nội, 22. 8. 2002
Chán đời (Vì do quá nhiều tiền) Người viết: Thái Bá Tân 27/12/2009 Chán đời
Truyện ngắn. Thái Bá Tân
Trên chiếc cổ thon dài và rất trắng của nàng có vài nốt ruồi nhỏ màu hồng hồng, ngay dưới những sợi tóc thưa mềm và ngắn ở gáy. Tóc nàng búi tụm ngược đằng sau theo kiểu của người chững chạc chứ không như các cô mới lớn. Anh đặc biệt nhạy cảm với những sợi tóc như thế trên nền trắng mịn cổ phụ nữ. Theo anh, ở họ đó là chỗ hấp dẫn nhất. Bây giờ sự hấp dẫn ấy được tôn lên bởi mấy nốt nhỏ đáng yêu kia, cộng thêm màng mồ hôi ẩm ướt trông thật quyến rũ, đến mức anh muốn, rất muốn được chạm khẽ đôi môi mình lên đó.
Mấy phút trước nàng còn ngồi một mình ở bàn bên. Một mình với chiếc ly lớn rượu ngoại. Bất chợt nàng đứng dậy, thản nhiên đi đến bàn anh, và cũng thản nhiên như thế, nàng nói: "Anh cho em ngồi cùng nhé?"
Nhà hàng đang lúc vắng người. Đây là một trong những điểm nghỉ ngơi cuối tuần của dân giàu thủ đô, ở vùng đồi núi cách trung tâm thành phố chưa đầy nửa giờ ô tô, có đủ các tiện nghi hiện đại cho nhu cầu ăn ngủ và giải trí. Mọi cái được thiết kế theo kiểu nước ngoài, dù đôi chỗ hơi phô trương, không hợp lắm với cảnh quan xung quanh, nhưng nói chung tao nhã, yên tĩnh và dễ chịu. Nhà hàng nằm ngay bên con suối nước chảy róc rách với tầm nhìn rộng trông ra một vùng xanh ngát nhấp nhô.
Đang tháng Tư, mặt trời chưa quá nóng và vừa mới nhô lên khỏi dãy núi. Có cảm giác như ánh nắng cũng lạnh, ươn ướt như muốn dính vào tay. Trước đó hình như có mưa vì thoang thoảng mùi ẩm, mùi lá mục, thậm chí như có nhà thơ đã nói, cả mùi hoàng hôn, dù lúc này mới buổi sáng. Tức là phảng phất cái gì đó buồn buồn, dìu dịu.
Trước nhà hàng, ngay bên kia đường có mấy con bò đang thong thả gặm cỏ. Không thấy lũ trẻ chăn chúng, tất nhiên cũng không có tiếng sáo mục đồng, nhưng quang cảnh thật điền viên, thơ mộng. Trong phòng ăn hình như nhạc cũng được cố tình chọn bài thích hợp và với âm lượng vừa phải.
"Đừng vội nghĩ xấu về em!" nàng nói rồi uống một hơi hết cốc rượu vừa mang đến.
Anh có thể nghĩ gì về nàng, một cô gái không quen tự nhiên sán đến, uống rượu và chắc chắn chốc nữa sẽ hỏi xin một điếu thuốc. Một phụ nữ xinh đẹp trạc ba mươi, ba lăm tuổi, ăn diện hiện đại nhưng lịch sự. Khuôn mặt nàng thanh tú, hơi buồn, đôi mắt sâu tròn, chiếc mũi thon thẳng, nhìn toàn cục có nhiều nét giống đức mẹ đồng trinh. Tuy nhiên anh không thật chắc lắm khi thầm nhận xét khuôn mặt ấy. Cùng một lúc dường như nó có cả vẻ trác táng lẫn sự thanh khiết thánh thiện. Vì thời buổi này ít người thánh thiện nhiều gái làm tiền nên dẫu không muốn, anh vẫn thiên về nghĩ nàng thuộc loại thứ hai. Càng tốt, vì anh cũng đang cô đơn và nếu gặp dịp sẽ không từ chối để cuốn vào những cuộc phiêu lưu nho nhỏ. Không nhiều, không chủ động tìm, nhưng những cuộc phiêu lưu như thế vẫn có, vì anh cũng thuộc loại có tiền và chưa già.
"Em buồn lắm", nàng lại nói và với tay lấy bao thuốc. Không hỏi xin. Khi vươn người về phía anh, đầu cúi xuống, chiếc cổ trắng nõn của nàng cùng những túm lông mịn kia trên gáy gần như chạm mặt anh. Anh có cảm giác nếu cúi xuống hôn lên đó, chắc nàng không phản đối.
"Làm sao một người như em có thể buồn được?" anh nói thăm dò.
Nàng không đáp ngay, ra hiệu gọi một chai Martelle, rồi thành thục mở nút, rót cho hai người.
Anh thoáng giật mình về sự tự nhiên quá đáng ấy, cả về giá tiền chai rượu ngoại mà chắc chắn anh sẽ phải thanh toán, nhưng anh không nói gì, chỉ nghĩ tới chiếc cổ và thân hình tuyệt mỹ bên trong chiếc áo thun mỏng màu mận chín và chiếc váy đầm xẻ quá đầu gối. Cả ống chân thon thẳng của nàng cũng có những nốt ruồi nhỏ nhưng xẫm màu hơn một chút.
"Đàn bà ai chẳng buồn, nhất là em. - Anh để ý thấy nàng không gọi mình là con gái, mà đàn bà. - Nhưng thôi, chuyện ấy không liên quan gì đến anh. Không quan trọng. Anh là người tử tế. Vì vậy em mới đến với anh..."
"Sao em biết anh tử tế?"
"Cũng vì em là đàn bà. Nhìn là biết. Em còn biết anh đang muốn em. Đúng thế không?"
Anh gật đầu.
"Thế thì ta đi!" Nàng chìa bàn tay nhỏ bé cho anh. Bàn tay rất nóng, khiến anh tưởng như nàng đang sốt.
Ở quầy lễ tân, nàng hỏi xin một phòng, với vẻ thành thục và tự tin khiến anh không còn chút nghi ngờ nàng thuộc loại người nào. Thậm chí anh nghĩ có thể nàng là nhân viên được chủ giăng ra bẫy khách và chốc nữa sẽ có một vụ chém đẹp. Nhưng lúc này điều ấy với anh đã không còn quan trọng.
* "Em không như anh tưởng đâu. Vì Chúa, đừng nghĩ xấu về em! - Nàng nói khi hai người từ cầu thang đi xuống. Rồi như thể giải thích vì sao nhắc đến Chúa, nàng nói thêm: - Em theo đạo đấy. Mà bên đạo những chuyện thế này là tội lớn lắm. Tội chết. Tất nhiên đây là lần đầu và cũng lần cuối. Với anh cũng ngẫu nhiên thôi. Không anh thì người khác". Giọng nàng run run, có vẻ như khóc.
Nàng vội đến quầy lễ tân, rút ví thanh toán tiền phòng, tiền chai rượu và những thứ khác gọi trước đấy. Anh định tranh trả nhưng nàng nhất quyết không chịu. "Không được nghĩ xấu về em! Em nói rồi". Nàng giơ ngón tay trỏ trước mũi. "Có phải anh đang nghĩ em là người đàn bà hư hỏng không?" Nàng hỏi khi hai người ngồi xuống chiếc bàn với chai rượu uống dở lúc nãy.
"Anh không nghĩ gì cả. Càng không nghĩ em hư. Chỉ thấy hơi lạ. Em thật xinh mà cũng thật kỳ lạ".
Nàng rót hai cốc rượu đầy, đẩy một cốc về phía anh, cốc kia uống một hơi hết sạch rồi lại rót cho mình cốc nữa. Mặt nàng đỏ ửng, vì rượu và có lẽ cả vì xấu hổ. Bất chợt nàng ngước nhìn anh, đôi mắt long lanh, ươn ướt.
"Có lúc con người ta thế đấy. Em chẳng hiểu mình ra làm sao nữa. Em thấy ngột ngạt khó thở. Cả hai nghĩa. Thậm chí muốn chết. Buồn cười thật. Đáng lẽ giờ là lúc em đáng sống nhất. Em giàu. Anh không tưởng tượng nổi em giàu đến mức nào đâu. Đúng hơn là chồng em giàu. Cái gì cũng có. Muốn gì cũng được.Thế mà buồn, chán. Muốn chết. Muốn đập phá cái gì đó. Cuối cùng lại đập phá chính cuộc đời mình. Vì vậy mới có chuyện hôm nay. Trước đây em nghèo như mọi người và tất nhiên sống bình thường như mọi người. Nghèo cũng sướng, anh nhỉ? Được có cái vui khi góp đủ tiền mua chiếc áo mới, hay thậm chí thỏi son Hàn Quốc mấy nghìn đồng. Được bon chen tất bật, được thấy người khác nhiều tiền mà thèm. Còn bây giờ..."
"Bây giờ thì sao?"
"Bây giờ tất cả chỉ là sự chán chường, trống trải và vô nghĩa. Chẳng thiết gì. Chẳng muốn làm gì. Chẳng biết làm gì".
"Còn chồng con?"
"Em chưa có con. Chán không muốn có. Chán cả chồng, nhất là cách kiếm tiền và cách nhìn nhận đồng tiền của ông ta. Ông chủ "Công ty vận tải V và T" ở phố Lò Đúc đấy. T là tên em. Tuyết. Một doanh nhân thành đạt và đáng kính. Báo ca ngợi nhiều lần, chắc anh biết. Em biết hơn người khác ông ta "đáng kính" mức nào".
"Còn ông ta đối với em?"
"Yêu. Rất yêu. Gần bằng yêu kiếm tiền. Kể ra không đến nỗi, nhưng bên ông ta em thấy nghẹt thở. Em thấy nghẹt thở cả khi một mình trong tòa nhà bốn tầng ở Hồ Tây. Này, có lần em định giết ông ta đấy, anh có tin không? Giết bằng dao khi ông ta trần truồng nằm bên và ngủ với vẻ mặt lương thiện như một vị thánh. Nhưng em đã không giết. Em chẳng bao giờ dám giết ai. Chỉ ra toa-let nôn thốc nôn tháo. Chắc anh cho em là con điên. Mà có lẽ em điên thật. Không điên ai đem những chuyện này nói với người lạ? Nhiều khi em ước có cánh để bay lên trời như con chim ấy. Bay thật xa khỏi cuộc sống tởm lợm hiện có. Hoặc bỏ tất cả về quê làm ruộng, hay làm cô công nhân bịt khăn kín mặt đổ nhựa đường giữa nắng. Hôm nọ em còn dừng xe hồi lâu ngắm mấy cô làm việc ấy ở Ninh Bình. Việc nặng nhọc nên họ không có thời gian để nghĩ vẩn vơ như em. Và chắc phải vui lắm khi cuối tháng nhận bốn, năm trăm nghìn đồng tiền lương".
Nàng uống cạn cốc rượu và rót thêm cốc nữa.
"Anh uống đi và đừng bực mình vì những lời nhảm nhí của em. Coi như sự đền bù cho việc anh khỏi phải bỏ tiền để lôi một con điếm lên giường. - Rồi nàng ngước nhìn anh với vẻ rất nghiêm túc: - Anh đã bao giờ nghĩ người ta có thể bất hạnh khi có quá nhiều tiền chưa? Và rằng em đã trở thành cái như các cụ nói "sướng quá hóa rồ?"
Anh chẳng biết trả lời thế nào, tò mò nhìn người đàn bà ngồi đối diện. Thường thì người ta khổ vì thiếu tiền chứ không ngược lại. Tiền có thể làm sa đọa người yếu bản lĩnh, gây tội ác và nhiều chuyện khác, nhưng trong trường hợp này, nếu những gì nàng nói là đúng sự thật, thì đau khổ, buồn chán, thậm chí muốn chết chỉ vì quá giàu thì kể cũng lạ. Hay nàng điên thật, chí ít cũng mắc bệnh trầm cảm? Hay quả đúng nàng đang trong cơn tuyệt vọng cùng cực, và còn những bi kịch lớn khác mà nàng chưa nói? Bỗng nhiên anh thấy ái ngại cho nàng.
"Em đừng uống nhiều như thế. Không tốt đâu", anh nói khi nàng lại uống cạn cốc rượu.
"Cảm ơn anh. Cảm ơn cả chuyện trên giường". Nàng đứng dậy, đi về phía chiếc Land Cruser mới tinh mà anh cứ tưởng của ông chủ khu này.
"Em không đi bây giờ được đâu! - Anh chạy theo, cầm tay nàng. - Em đang...".
"Khỏi lo. Có lúc em uống nhiều hơn mà chẳng sao. Vả lại có chuyện gì đi nữa thì cũng thế cả". Nàng đóng dập cửa xe và rồ máy phóng đi.
* Lúc ấy đã quá trưa, cả nhà hàng chỉ còn lại mình anh và một đôi còn rất trẻ đang ăn cơm ở góc xa phía trong. Chai rượu trên bàn còn gần một nửa. Anh ngồi uống một mình, lơ đãng nhìn ra ngoài.
Mấy con bò gặm cỏ bên kia đường lúc sáng không thấy đâu nữa. Con suối vẫn róc rách, thờ ơ và đơn điệu. Con vẹt trong chiếc lồng cầu kỳ treo bên cửa ra vào chốc chốc ngứa miệng lại kêu "Chào khách! Chào khách!" Hình như sắp mưa. Trời bỗng tối hẳn lại. Có thể chỉ do đám mây dày bay ngang che lấp mặt trời. Nhưng gió thì rõ là đang mỗi lúc một mạnh.
Một chiếc lá bị gió thổi vào, rơi ngay trước mặt, cạnh cốc rượu. Anh chẳng biết lá gì. Mà cũng chẳng muốn biết. Anh vẫn không thôi nghĩ về người phụ nữ kỳ cục với cảm giác mơ hồ lẫn lộn. Về khái niệm giàu nghèo, hạnh phúc, khổ đau. Về cả bản thân anh, một người cũng đang gặp thời, thành đạt, chưa đến mức "quá nhiều" nhưng có tiền, đủ để cho phép mình và vợ bỏ việc nhà nước đã ba năm nay. Anh thì lo bận làm ăn. Vợ anh chẳng làm gì, chẳng phải làm gì, và có lẽ cũng không biết làm gì, không thiếu thốn cái gì. Vợ anh có hạnh phúc không? Có cảm thấy cuộc đời vô nghĩa, trống rỗng, nghẹt thở và buồn chán không? Đã bao giờ cô ấy muốn giết anh chưa? Kể cũng lạ, từ trước đến nay đây là lần đầu anh tự hỏi mình những câu như vậy.
Cuối cùng, khi không còn rượu nữa để uống, anh lái xe về Hà Nội theo đường Láng - Hòa Lạc, con đường nàng đã đi trước đó hai giờ, dù đáng lẽ anh còn có việc phải tới thị xã Sơn Tây. Xe của anh chỉ là chiếc Camry, không còn mới nhưng đời chót.
Tới đoạn rẽ vào Chùa Thầy, anh thấy có chiếc xe khổng lồ chở công-te-nơ, gầm thấp, đứng bên đường. Phía sau nó là chiếc Land Cruser bẹp rúm. Xe của nàng. Loại xe này mà bị bẹp như thế thì chắc phải lao vào đuôi chiếc kia với tốc độ rất lớn. Ít có khả năng người lái còn sống. Gần đó chỉ có anh công an áo vàng và vài người hiếu kỳ, chứng tỏ tai nạn xẩy ra đã lâu. Anh rùng mình cho xe đi tiếp.
* Một tuần sau ngẫu nhiên đọc báo, anh thấy có tin ông Nguyễn Đức Việt, chủ "Công ty vận tải V và T" tự tử. Ông để lại bức thư tuyệt mệnh nói rõ ông đi tới quyết định cực đoan này chỉ vì không chịu nổi cái chết bi thảm của người vợ ông yêu quí. Tuy vậy, công an vẫn tiến hành điều tra xem có vấn đề tài chính hoặc thù hằn gì liên quan đến vụ này không.
Hà Nội, 19.4.2003
Gánh xiếc ông Lùn Người viết: Thái Bá Tân 29/10/2006
Câu chuyện tôi sắp kể dưới đây xảy ra đã lâu, chính xác là khoảng giữa những năm bốn mươi. Chuyện có thật nhưng bị cắt vụn thành từng mẩu rời rạc, lại phân tán nhiều nơi nên tôi phải mất công đi tới nhiều nơi ở Nghệ An để thu lượm và chắp vá các mẩu rời rạc ấy thành chuyện. Chuyện về gánh xiếc ông Lùn.
Tên là Lùn, nhưng ông không lùn, chỉ hơi thấp, to ngang, cộng thêm điệu bộ chậm chạp và nghề nghiệp độc đáo nên mới bị người ta gọi thế.
Ông Lùn và gánh xiếc mang tên ông từng một thời rất nổi tiếng ở hai tỉnh Thanh - Nghệ. Ngày ấy ở nông thôn chất phác và lạc hậu, cái gì cũng có thể làm người ta ngạc nhiên... Dễ hiểu vì sao các tiết mục xiếc, dù của một gánh xiếc rong, ngay lập tức được mọi người chú ý. Lời đồn về ông Lùn và gánh xiếc của ông có nhiều và được truyền đi rất nhanh, rằng ông có tài ném dao phi thường, (và bằng cái biệt tài ấy đã giết chết ba bà vợ, có người nói năm), rằng ông có ô tô riêng đi biểu diễn, có hàng tá người giúp việc, có con chó biết nói, cái hộp sắt biết hát và đặc biệt là kiếm được rất nhiều tiền, giàu có đến bạc triệu, vân vân. Những lời đồn ấy - như phần lớn các lời đồn khác - trên thực tế đều không có thật, trừ việc ông có tài ném dao trăm phát trăm trúng, có con chó khá thông minh và chiếc máy hát quay tay ọc ạch với một chiếc đĩa duy nhất. Ông Lùn xuất thân là nông dân, do gặp chuyện phẫn uất hoặc không kiếm nổi miếng ăn nên bỏ làng lên thành phố. Ông đã phải trải qua khá nhiều năm tháng gian khổ, thử đủ nghề trước khi học được nghề xiếc rong này. Người ta chỉ biết khi vào Nghệ rồi "định cư" hẳn ở đó, ông là chủ "Gánh xiếc ông Lùn", gồm ông, hai cậu con trai, chiếc xe kéo có khung bịt vải chở mấy thứ đồ nghề và xoong chảo. Con chó và chiếc máy biết hát mãi sau này mới xuất hiện. Chiếc xe được trang trí lòe loẹt, bốn góc cắm bốn chùm hoa bằng lông gà nhuộm xanh đỏ. Đầu xe treo chiếc chuông, vừa đi vừa kêu leng keng. Cùng chiếc xe ấy, ông lang thang nơi này sang nơi khác, mưa thì ngủ trên xe, nắng trải chiếu nằm dưới đấi, hôm sau lại dậy lại đi tiếp. Thường thì ông Lùn kéo xe, thằng con lớn mười hai tuổi đẩy phía sau, thằng nhỏ bẩy tuổi được ngồi trên xe, nhưng phải vừa luôn tay đánh trống, vừa chốc chốc lại kêu to. "Xiếc! Xiếc đây! Xiếc ông Lùn đây!" Khi con chó được nhập bọn thì nó lẽo đẽo chạy theo sau.
Gánh xiếc của ông thường biểu diễn ở các bãi chợ và sân làng, nếu được nhà chức trách cho phép sau khi nộp một số tiền mà bây giờ gọi là tiền thuê địa điểm.
Ông Lùn lôi từ xe ra tấm vải dày hình tròn rộng bằng mấy chiếc nong, được chắp nối từ các mảnh vải có màu khác nhau. Nếu không gọi tiếng trống dồn dập là tiết mục, thì tiết mục đầu tiên là chiếc máy hát. Nó có nhiệm vụ thu hút khách xem và nếu cần, lấp thời gian trống giữa các tiết mục. Thằng lớn bê nó ra một cách long trọng, nhẹ nhàng và từ từ nhấc tấm vải phủ màu đỏ trước con mắt tò mò háo hức của mọi người. Rồi nó quay tay lên dây cót. Lát sau, cùng tiếng khùng khục lạo xạo là tiếng một bài hát vui nhộn bằng tiếng Pháp bay ra. Bao giờ cũng đúng những thủ tục ấy, cũng bài hát ấy.
Tiếp đến là phần của con chó. Con chó này chân và mõm đều ngắn, lông dài màu xám , người lại nhỏ nên trông như chó nhồi bông. Cổ nó đeo ruy-băng xanh, mỗi chân leng keng chiếc lục lạc bé tí. Ngoài những trò thông thường như đi bằng hai chân, nhào lộn và nhảy vòng, nó còn biết làm các phép tính đơn giản. Đến cái trò trí tuệ này thì thằng lớn ra điều khiển chó thay em, vì em nó chưa biết tính nhẩm. Nó yêu cầu ai đó trong đám người xem ra đề bài, thí du hai cộng hai, năm trừ ba hay thậm chí mười sáu chia cho bốn là bao nhiêu. Nhẩm tính trong đầu xong, nó ra hiệu cho con chó lúc nào thì sủa và lúc nào dừng lại. Tất nhiên cũng có lúc sai. Người xem tưởng lỗi do con chó nên họ rộng lượng bỏ qua, vì trong họ không phải ai cũng biết làm các phép tính phức tạp ấy.
Đến lượt thằng lớn trổ tài. Nó là diễn viên tổng hợp. Trên hình tròn bằng vải sặc sỡ ấy, nó có thể làm rất nhiều trò, từ uốn dẻo tung hứng đến thăng bằng, nhào lộn, nhưng đặc sắc nhất vẫn là trò ảo thuật. Trước con mắt ngạc nhiên của mọi người, nó ung dung hút thuốc rồi nhả khói qua hai lỗ tai, uống xăng phun ra lửa mà không sợ bỏng, hoặc để thằng em trói nó, trói thật chặt khắp người, nó chỉ rùng mình một cái là các sợi dây sổ tung rơi xuống đất.
Cuối cùng đến phần đặc sắc nhất và cũng thường để kết thúc buổi diễn - tiết mục ném dao găm của ông Lùn.
Ông cho bê ra một chiếc bàn và dựng một chiếc bảng cao trên đó. Thằng nhỏ mang đến chiếc hộp đựng đầy dao găm, những chiếc dao nhỏ, ngắn chỉ độ nửa gang, mũi nhọn và rất sắc. Như hai cậu con trai ông Lùn mặc bộ quần áo nhà nghề áo sặc sở ông tự may, tương xứng với tài năng và túi tiền của ông.
Thằng lớn găm lên bảng một quả quýt. Ông Lùn đỡ lấy con dao thằng nhỏ đứng cạnh đưa cho, và ở khoảng cách mười mét, hầu như không ngắm, ông ném một nhát trúng đích, cắt nó làm đôi. Người xem chưa hết ngạc nhiên thì thằng lớn đã lấy phấn gạch một đường chéo trên bảng. Ông lại ném. Cứ thế năm lần liên tiếp. Khi thằng lớn nhổ con dao thứ năm lên thì mọi người chỉ thấy trên bảng một lỗ cắm duy nhất. Tiếp đến ông mời người xem vẽ lên bảng một hình gì đấy. Cũng không ngắm, ông liên tiếp cắm hết mũi dao này đến mũi dao khác theo hình ấy. Không chệch phát nào. Xong, ông ra hiệu thằng lớn cho chiếc máy hát hoạt động trở lại. Một lúc sau mọi người tản đi trong tiếng trống bì bùm và tiếng bài hát Pháp vui vẻ.
Sự thật thì ông Lùn và gánh xiếc của ông rất nghèo. Thời ấy moi được đồng xu của anh nông dân không dễ, phần vì họ keo, phần chẳng có gì để moi. Bán vé thu tiền là điều không thể, vì nếu thế sẽ chẳng ai đến xem, thành ra chỉ còn biết trông chờ vào lòng tốt tự giác của người đời, nghĩa là cũng phải để chiếc mâm xin tiền như anh xẩm mù để mũ, dù đây là một gánh xiếc với những tiết mục hấp dẫn như vậy. Thường thì ngày nào họ chỉ kiếm đủ ăn ngày đó. Nhiều ngày trời mưa không diễn được, hoặc bị xua đuổi không cho diễn. Đấy là chưa kể những lúc ốm đau hay gặp sự cố.
ở Đô Lương có người kể chính ông ta một hôm nhìn thấy thằng bé lẻn vào vườn moi trộm khoai lang, ông tóm được. Khi nhận ra nó là thằng nhỏ gánh xiếc ông Lùn, ông tha cho đi, thậm chí không giữ lại những củ khoai nó vừa moi được.
Thế thì sao lại có lời đồn ông kiếm tiền dễ dàng và "giàu có đến bạc triệu?" Tôi đã thử tìm hiểu điều đó, cả việc vì sao gánh xiếc thiếu vắng phụ nữ, vợ ông hay ai đó chẳng hạn. Tiếc là đến bây giờ tôi vẫn chưa tìm ra sự thật.
Có người quả quyết với tôi rằng trước đây ông Lùn luôn có vợ đi theo. Bà này thay cho các hình vẽ trên bảng, đứng dang tay để chồng ném dao găm theo hình người bà. Đó là tiết mục hết sức mạo hiểm và giật gân, nhờ thế thu hút được nhiều khách, và cùng với khách là tiền. Tiếc rằng bà này một lần vô ý lắc đầu xua con ruồi trên môi, bị mũi dao đâm xuyên qua óc. Từ đó gánh xiếc bắt đầu sa sút. Có người lại nói người bị ông ném chết không phải vợ mà thằng con cả, anh của hai đứa hiện giờ. Còn vợ ông, khi thấy con chết đã ôm đứa bé nhất, đứa thứ tư, bỏ ra Bắc. Cũng có người nói ông Lùn không bao giờ ném người, vì ông tốt bụng, sợ nhỡ người đứng mẫu không chịu nổi sẽ nhúc nhích hay ngất ngã. Tóm lại, ý kiến có nhiều và khác nhau không ít, nhưng tất cả đều thống nhất ở một điểm, rằng ông Lùn và gánh xiếc của ông trước đó từng làm ăn phát đạt hơn nhiều.
Còn lúc này thì nó đang gặp khó khăn. Các tiết mục có lạ mắt, hấp dẫn thật đấy, nhưng vẫn chưa đủ độc đáo để bắt được người nông dân bỏ công việc kéo nhau đến xem, và - điều này mới quan trọng nhất - chịu móc túi lấy tiền, tất nhiên nếu trong túi có tiền.
Cứ thế mấy cha con ông Lùn kéo xe lang thang khắp nơi, hết huyện này đến huyện khác. Chương trình biểu diễn của họ trở nên phong phú hơn. Hai thằng bé lớn lên học thêm được một số trò mới. Bản thân ông Lùn cũng kiêm luôn một số mục khác, như nằm ngửa để hòn đá to lên bụng cho người khác cầm búa đập vỡ, hoặc bắn cung, tung tạ, vân vân. Chiếc máy hát thì ọc ạch hơn trước, tuy vẫn phát ra được bài hát Pháp vui nhộn nọ. Chỉ có hai cái không thay đổi, là con chó thông minh và món tiền ít ỏi thu được sau mỗi buổi diễn.
Vào một năm mất mùa và gánh xiếc đang trong tình trạng tồi tệ nhất, một đêm nọ ở sân ga Vinh, khi bố con ông Lùn đang ngồi ăn phần cơm ít ỏi của mình, thì một người phụ nữ bước đến chìa tay xin ăn. Người này chưa đến ba mươi, ăn mặc khá tươm tất, mặt dễ coi nhưng xanh gầy bởi đói ăn lâu ngày. Cô ta đội chiếc nón tùm hụp, tay nải bên hông, ngượng ngập chìa tay, miệng lí nhí câu gì không rõ. ở cô toát lên cái gì đấy dễ thương và tử tê, chứng tỏ trước đây không lâu còn thuộc con nhà tử tế.
Sau này cô cho biết rằng cô không may lấy phải người chồng giàu nhưng độc ác. Hắn muốn có con trai thừa tự, mà cô chỉ sinh toàn con gái. Sau khi sinh đứa con gái thứ ba, hắn thẳng tay đuổi cả bốn mẹ con ra khỏi nhà. Không nơi nương tựa, mẹ con cô bồng bế nhau đi ăn xin, khi gặp ông Lùn là vừa tròn ba tháng. Vì không muốn con chết đói, cô lần lượt tìm nơi tin cậy cho hết đứa này đến đứa khác. Đứa cuối cùng chưa đầy một tuổi, cô đem cho một bà hàng bún ở Bến Thủy cách đấy vài ngày.
Vốn thương người, ông Lùn mời cô ngồi xuống cùng ăn. Ngày ấy chia cái ăn cho người khác là việc dũng cảm. Lát sau ông quyết định một việc khác còn dũng cảm gấp bội là mời cô đi theo gánh xiếc.
Tên cô là Lý. Từ ngày có cô Lý, gánh xiếc ông đỡ vất vả hơn trong lo toan hàng ngày, còn ông thì thấy đời cũng ấm áp thêm đôi chút. Nhưng cũng dễ hình dung rằng từ đấy, có thêm một miệng ăn, gánh xiếc của ông trở nên túng thiếu thế nào. Thu nhập ngày một ít; người xem bắt đầu chán những tiết mục diễn đi diễn lại nhiều lần. Họ muốn cái gì đấy mới, hấp dẫn và độc đáo. Nhưng cái gì? Ông Lùn ngày càng ít nói. Hai thằng con thấy ít người xem, mất hứng, sao nhãng chuyện tập tành. Còn cô Lý thì vốn nhẫn nhục và hay mặc cảm, nay thấy mình là gánh nặng cho người khác, nên rất khổ tâm. Cô tự cho cô là người duy nhất có lỗi. Cô cố gắng làm vừa lòng mọi người một cách vụng về, nhiều khi định lén học một vài trò nhưng không được. May không ai trách cô. Ngược lại, cô được mọi người yêu mến, đặc biệt ông Lùn.
Thời gian lặng lẽ trôi qua, chiếc xe của gánh xiếc ông Lùn vẫn lọc cọc lăn trên những con đường quanh co của xứ Nghệ, chở theo nó vẫn những khó khăn và lo âu ấy.
Một hôm tình cờ cô Lý nghe ai đó nói nếu có người chịu đứng làm mẫu cho ông Lùn ném dao, người ta sẽ tới xem đông hơn. Suốt ngày cô nghĩ mãi điều này. Phải chăng đây là khả năng duy nhất cô có thể giúp ân nhân mình trong công việc? Cô chỉ việc nhắm mắt đứng yên, dang hai tay hai chân, còn tài ném dao của ông Lùn thì cô không mảy may nghi ngờ. Có điều tính nhút nhát, mới nhìn mũi dao đã bủn rủn chân tay, liệu cô có đứng vững được không? Hình dung chuyện ấy, cô thấy ớn lạnh nơi sống lưng, trống ngực đập thình thịch. Thật kinh khủng, nhưng không còn cách nào khác...
Tối ấy cô nói ướm với ông Lùn, và như ta dễ đoán hiểu, ông cương quyết từ chối. Ông cũng nhất định không thay đổi ý kiến những lần sau, cả khi cô nói gánh xiếc sẽ kiếm được nhiều tiền và có thể giúp cô chuộc lại con.
Thế mà chưa đầy nửa tháng sau, ở chợ Vinh, thằng nhỏ đã oang oang quảng cáo "ném dao găm theo hình người thật, một tiết mục mạo hiểm rùng rợn nhưng vô cùng hấp dẫn mấy năm chỉ diễn một lần của Gánh xiếc ông Lùn"... Nghĩa là cuối cùng cái đói đã thắng tất cả, và bắt được một người tốt bụng, hiền lành như ông Lùn mạo hiểm với tính mạng của người ông yêu quý. Hôm ấy mọi việc diễn ra giống mọi ngày - vẫn trình tự các tiết mục ấy, vẫn con chó và chiếc máy hát ọc ạch ấy. Điều khác duy nhất là người xem, do được quảng cáo và kháo nhau từ trước, lần này kéo đến rất đông,.
Trước con mắt hồi hộp của mọi người, cô Lý đi ra, khẽ mỉm cười yếu ớt rồi bước lên bục, đứng dán người vào chiếc bảng lớn kê sát phía sau. Cô mặc bộ quần áo đen bó sát người, hai tay để thẳng ngang vai, chân choãi ra thành hình chữ V lật ngược. Mặt cô trắng nhợt, đôi mắt mở to không nhấp nháy.
Ông Lùn đứng trước cô ở cách mười mét, bề ngoài vẫn bình tĩnh như mọi ngày. Bên cạnh là thằng nhỏ, hai tay bê hộp dao. Ông với tay lấy một chiếc, hất đầu ra hiệu với cô Lý, rồi nhanh như tia chớp mũi dao lóe lên, cắm phập sát đỉnh đầu cô. Cô cảm thấy như có dòng điện vừa chạy khắp cơ thể. Chưa kịp định thần trở lại, một mũi khác đã chạm nhẹ bên tai trái. Mấy giây sau, mũi dao xuyên xuống cổ, bờ vai rồi chạy theo cánh tay đến đầu ngón, xuống nách, hông... Cô nhắm mắt. Nỗi sợ làm tê liệt các dây thần kinh cảm giác. Thậm chí cô không còn nghe tiếng những mũi dao liên tiếp cắm vào bảng gỗ sắc gọn, và chỉ chợt tỉnh lại khi ông Lùn ném xong mũi dao cuối cùng bên tai phải.
Sau những phút nín thở theo dõi, người xem bùng lên vỗ tay tán thưởng. Cô Lý loạng choạng bước xuống khỏi bục, để lại phía sau một hình người được cắm bằng những mũi dao tua tủa. Sau đó, như một số người kể lại, cô Lý đã ngất trong cánh tay ông Lùn vừa kịp đến đỡ. Cũng có người nói cô ốm liệt giường mấy ngày liền. Nói chung người ta còn nhớ và kể lại nhiều chi tiết giật gân về buổi biểu diễn hiếm có ấy. Tất nhiên chính xác đến đâu là chuyện khác.
Tôi có bà cô già rất mê các trò múa hát. Cô tôi kể rằng hôm ấy, khi mọi người bỏ đi hết, có hai cô gái nông dân bẽn lẽn đến gặp ông Lùn. Sau một hồi đùn đẩy, hai cô xin ông từ nay đừng ném dao theo hình người thật, vì ném thế sợ lắm, nguy hiểm lắm. Ông Lùn nhìn hai cô mỉm cười hiền lành, cảm ơn và hứa sẽ làm theo. Hai cô gái không nói gì thêm, vội giúi vào tay ông mấy tờ giấy bạc cầm sẵn rồi xấu hỏ bỏ chạy. Chuyện này thì tôi tin chắc có thật, vì một trong hai người ấy là bà cô tôi. Cô tôi nói:
- Thế mà chỉ mấy tháng sau ông ta đã ném chết cô Lý. Con người trông bề ngoài hiền lành, thật thà, hóa ra...
Bà cô tôi nói đúng: Ba tháng sau, ở Phủ Diễn, nay là thị trấn Diễn Châu, cũng vì cái đói bắt buộc, ông Lùn và cô Lý lại mạo hiểm lần nữa. Không may lần này, cô Lý ngất đúng khi ông Lùn ném mũi dao vào nách phải. Cô ngã người, và mũi dao đâm trúng trái tim cô lúc ấy đang đập mạnh vì sợ...
* Tôi yêu xiếc, nghệ thuật của cái đẹp và sự dũng cảm. Một phần vì thế mà tôi bỏ công lần theo truyền thuyết về ông Lùn và gánh xiếc của ông. Để làm gì ư? Để ít ra cũng biết được con người của môn nghệ thuật tôi yêu ấy trước kia đã sống và phải trả giá cho nghề nghiệp của mình như thế nào. Tiếc là sau cái chết của cô Lý, tôi không biết gì thêm về ông Lùn, ngoài một điều chắc chắn rằng từ đấy ở quê tôi không ai còn thấy gánh xiếc của ông. Có người nói ông đem con trở về Bắc, chọn nghề khác kiếm sống. Cũng có tin đồn, rằng ông vào một tỉnh nào đấy phía trong, tiếp tục biểu diễn và còn làm chết thêm mấy bà vợ nữa; rằng ông tự tử chết theo cô Lý; rằng ông bị bắt vì tội giết người, vân vân...
Mới đây, một ông giáo ở Quỳnh Lưu nói với tôi là sau khi miền Bắc giải phóng, gánh xiếc ông Lùn đã nhập vào đoàn xiếc Trung ương, hiện giờ chắc hai con ông đang làm việc ở đó. Đây là giả thiết có vẻ tin được. Khi trở ra Hà Nội, tôi tìm đến đoàn xiếc ấy và cả trường xiếc ở Mai Dịch, nhưng không biết gì thêm.
Bây giờ, mỗi lần vào rạp xiếc thưởng thức những tiết mục hấp dẫn của các diễn viên trẻ đẹp, hạnh phúc, tôi không thể không bùi ngùi nghĩ tới ông Lùn và gánh xiếc của ông, một thời lọc cọc lăn trên những nẻo đường nông thôn xứ Nghệ.
Nha Trang, 1985
Các cô gái làng tôi Người viết: Thái Bá Tân 12/10/2006 CÁC CÔ GÁI LÀNG TÔI
Viết truyện này, tức là vô tình tôi đã chạm đến một nỗi đau khác của chiến tranh. Một nỗi đau âm thầm, đặc biệt và khó nói. Cũng vì thế mà xưa nay dù biết, người ta cứ ngài ngại không muốn nhắc tới. Vì tế nhị, và cả vì thương mà đành bất lực. Ðó là việc từ chiến tranh trở về, hàng vạn, có thể hàng triệu các cô gái nhỡ thì không lấy được chồng. Với phụ nữ, thử hỏi còn nỗi đau nào lớn và "khó nói" hơn?
Tôi được nghe kể và biết khá nhiều chuyện như thế. Trong một truyện ngắn gần đây tôi có sử dụng ít chi tiết từ câu chuyện của một bà bạn. Bà kể với tôi mà cứ như xưng tội với cha đạo. Theo bà thì chính bà đã giết chết một cô thanh niên xung phong tội nghiệp.
Số là vào cuối năm 1971, cái cô gái thanh niên xung phong trong một đơn vị toàn nữ suốt nhiều năm liền ở rừng Trường Sơn heo hút ấy đã bị phát hiện "làm chuyện bậy bạ" bên bờ suối khi lén đi tắm một mình. Và bà bạn tôi, lúc đó là người phụ trách đơn vị, chẳng nhiều tuổi hơn bao nhiêu, đã đem cô ra kiểm kiểm trước mọi người. "Chúng tôi "quần" cô ấy ghê lắm. Ðặc biệt là tôi. Chỉ huy mà. Tuy nhiên, miệng nói vậy thôi, chứ trong lòng thì thương. Tôi chủ trì buổi họp ấy. Bây giờ nghĩ lại thấy thật chua xót và cũng buồn cười. Nghĩ một đường, nói một nẻo. Không ít người cũng lớn tiếng phê bình cô gái đó như tôi. Ðem cả đạo đức cách mạng và lý tưởng ra mà phê bình. Cái thời ấy là thế và nó phải thế" Bà buồn bã nói thêm: "Sáng hôm sau chúng tôi thấy cô ấy treo cổ chết trên cành cây sau lán. Tất cả do tôi, do tôi hết!" Bà còn cho biết cũng vì lý do tâm, sinh lý ấy mà đơn vị bà ngày càng có nhiều chuyện kỳ cục, thí dụ bỗng dưng vô cớ mấy đứa cười sằng sặc như một lũ điên, rồi sau lại ôm nhau khóc. "Có đứa điên thật. Cứ trần truồng chạy tồng ngồng giữa rừng. Tội nghiệp."
Ở chiến trường đã thế, về nhà các cô càng khổ hơn, vì phần lớn đã ngoài ba mươi, lại ở nông thôn. Mà nông thôn thì ai lấy gái già, nếu còn người để lấy?
Khoảng mươi năm đầu sau chiến tranh, một số tờ báo mạnh dạn đề cập vấn đề này. Cũng chỉ nói chung chung, thương chung chung, chứ chẳng gợi ra được giải pháp cụ thể nào. Cả xã hội biết. Cả xã hội muốn làm cái gì đó giúp họ, cuối cùng vẫn bất lực. Không lẽ cho quay lại chế độ đa thê? Thế là hàng vạn, hàng chục vạn các cựu thanh niên xung phong cứ lầm lũi sống một mình và chuẩn bị tinh thần để kéo dài như thế suốt đời. May công đoàn và các cấp chính quyền không còn khắt khe như trước về tội chửa hoang. Con ngoài giá thú cuối cùng cũng được luật pháp và người đời thừa nhận.
Tôi nhớ một lần, năm 1983, trên đường đi Bảo Lộc, Cao Bằng, thì xe chết máy và chúng tôi phải ngủ lại qua đêm ở một đơn vị sửa chữa đường bộ, đúng ngày đơn vị này được tuyên dương thành tích gì đấy. Liên hoan, ăn uống vui vẻ lắm. Nhưng chỉ toàn đàn bà, và đều đã ba bốn chục tuổi. Thì ra họ cũng là thanh niên xung phong chuyển ngành. Cụ thể là sau chiến tranh, cả một đơn vị được bê hầu như nguyên xi từ Trường Sơn ra đây.
Ðêm hôm ấy, sau bữa liên hoan mà chúng tôi được mời dự, tôi nghe có tiếng khóc, không phải một mà hình như nhiều người. Thủ trưởng đơn vị, một ông già hom hem đang chờ về hưu, bảo tôi:
- Các bà ấy vẫn thế đấy. Cứ có dịp vui lại đêm nằm ôm nhau khóc. Chuyện chồng con ấy mà. Tội nghiệp.
- Thế quanh đây không có đàn ông à? - tôi hỏi. - Các cơ quan, xí nghiệp hay đơn vị bộ đội nào chẳng hạn?
- Trong vòng bán kính hai mươi cây số thì không. Xa hơn một chút có công trường khai thác đá và một đội biên phòng. Cũng kết nghĩa, giao lưu, thăm hỏi nhau đủ chuyện, nhưng chẳng ích gì. Chỉ thêm nhiều vụ chửa hoang. - Rồi ông thủ trưởng của hơn hai mươi bà công nhân ấy thở dài chép miệng: - Tôi đến khổ với các bà ấy!
Tôi không hiểu ông nói khổ là khổ theo nghĩa nào.
*
Nếu làng là hình ảnh xã hội thu nhỏ, thì làng tôi phản ánh đầy đủ tình trạng này của toàn xã hội. Thời chỗng Mỹ, nhiều cô gái làng tôi là thanh niên xung phong, một số hy sinh nhưng phần lớn sống sót trở về, (bỏ lại đằng sau gần mười năm tuổi trẻ, cái tuổi dễ lấy chồng nhất) và rồi... ế CHỒNG. Ở quê tôi, con gái ngoài hai mươi lăm chưa lấy được chồng thì bị chính thức coi là ế, bị gạt khỏi danh sách những đối tượng có thể đặt vấn đề.
Như những người cùng tuổi thời ấy, từ những cô bé tóc vàng hoe vì chang nắng suốt ngày ngoài đồng để chăn trâu, bắt cua, làm ruộng, tất cả các cô gái làng tôi học xong phổ thông đều đua nhau viết đơn xung phong, rồi ra đi, miệng hát vang bài ca "đường ra trận ngày này đẹp lắm". Mọi người, mọi chuyện thật hồn nhiên, vô tư. Thật vui. Thật đẹp. Và cái cuộc sống dẫu gian nguy nhưng hồn nhiên và vui vẻ ấy chỉ bị hẫng hụt khi chiến tranh kết thúc, họ bất chợt thấy mình đã không còn trẻ, lờ mờ cảm thấy những mối lo đang đợi. Tôi có một bài thơ thế này, viết trong một dịp về quê và gặp một vài người trong số họ.
Các cô gái làng tôi Lên đường đi diệt Mỹ, Khoác ba-lô, và rồi Từ cô, thành đồng chí.
Họ đi vào chiến tranh Mà như đi vào hội, Những cô gái hiền lành, Vui, hồn nhiên quá đỗi.
Nhiều, nhiều năm chiến trường Họ cũng vui như vậy, Dù đói, dù bị thương, Bom rơi và lửa cháy.
Và chỉ ngày hòa bình Họ buồn khi trở lại Bỗng sững sờ thấy mình Không còn là con gái.
Buồn càng buồn gấp đôi, Vì hình như lúc ấy Không người nào làng tôi Biết họ buồn như vậy.
Nói trong làng không ai biết họ buồn là cách nói của thơ, để nhấn mạnh nỗi buồn và sự mặc cảm của họ. Trên thực tế ai cũng dễ dàng nhận thấy điều đó. Gì thì gì, với phụ nữ, nhất là phụ nữ nông thôn, chuyện chồng con vẫn là điều quan trọng nhất. Nó không đơn thuần là hạnh phúc riêng tư, mà còn uy tín của cả gia đình. Dân làng thông cảm và thương họ lắm. Tuy vậy, khi kén vợ cho con trai thì lại chọn những cô mới lớn.
Ở quê tôi người ta lấy vợ gả chồng cho con rất sớm. Ðàn ông ở tuổi các cô mà chưa vợ thì chỉ có thể là mới đi bộ đội về - số này không nhiều do đã hy sinh hay được bố mẹ lo cưới xin trước khi lên đường - hoặc những người "nhỡ nhàng" do vợ chết, li dị, hoặc những người tật nguyền và cả loại thuộc "thành phần bất hảo". Không còn ai khác, một số cô thành vợ những người ấy. Số khác xin đi làm công nhân ở mỏ đá Hoàng Mai để cạnh tranh với những cô khác cũng đang ế chồng ở đấy. Còn phần đông ở lại làng làm ruộng, sống cùng nhà với bố mẹ già, hoặc nếu bố mẹ chết thì thui thủi một mình. Ðơn giản là sự cân bằng của cái quy luật cung cầu tự nhiên về nam nữ trong hôn nhân đã bị phá vỡ.
Thường vẫn thế, trong muôn vàn cái thiếu thốn sau chiến tranh, có một cái thiếu mà phụ nữ thấm thía hơn ai hết. Ðó là thiếu đàn ông để lấy chồng. Thời nào cũng vậy, ở đâu cũng vậy. Viết đến đây, tôi chợt nhớ đến bài thơ của Iulia Ðrunhina về đề tài này. Bà từng là nữ sinh trung học xung phong ra trận trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của nhân dân Liên Xô. Ðời tư bà cũng không mấy xuôn xẻ. Bà mới tự tử chết cách đây mấy năm, nghe nói có liên quan đến sự sụp đổ của nhà nước Xô-viết mà bà đã hy sinh tuổi trẻ mình để bảo vệ.
Thắng trận, trở về nhà, Các nữ sinh - chiến sĩ Mang hai mươi tuổi đời Như hai mươi thế kỷ.
Các huân chương, dù sao, Vẫn ít hơn vết sẹo. Hình như đời còn dài Mà đã thành các "cựu".
Các cô gái về nhà. Nhà không còn, giặc đốt. Không cha mẹ, anh em, Không chiếc dao, cái cột...
Nghĩa là lại từ đầu Bắt đầu vào cuộc sống. Bắt đầu diện đôi giày Kiểu nhà binh thô rộng.
Vâng, nhưng diện với ai Khi khắp làng không thấy Bóng một chàng trai nào? Sau chiến tranh là vậy.
Thiếu đàn ông để yêu Ðã trở thành nỗi khổ. Các thế hệ sau này Chắc khó tin điều đó.
Ba mươi năm sau, ở Việt Nam, các cô gái làng tôi cũng rơi vào hoàn cảnh tương tự. Còn bây giờ, tức là thêm ba mươi năm nữa, chúng ta vẫn cảm thấy khó tin vào cái sự thật ấy, dù nó đã thực sự tồn tại. Ngay trong làng ta, quanh ta, hay thậm chí với người thân của ta. Một nỗi đau nhức nhối mà xưa nay chẳng ai có thể làm gì được để giúp đỡ. Không cả một lời an ủi hay một cử chỉ nhỏ để bày tỏ sự thông cảm âu yếm.
*
Cuối năm 1978, trên đường công tác từ Hà Nội vào Sài Gòn, tôi ghé thăm nhà và được biết cô Duyên đi tu. Cô cũng là một trong những cựu thanh niên xung phong ở làng tôi và cùng cảnh ngộ.
Cô Duyên là con gái nhà hàng xóm, hơn tôi hai tuổi, nhập ngũ từ năm 1965. Không hiểu sao phải hơn một năm sau khi chiến tranh kết thúc mới thấy cô trở về. Cô là người nổi tiếng xinh đẹp trong làng. Nghe nói đã có hẹn ước gì đó với ông anh con bác tôi. Sau này, khi anh tôi hy sinh ở Quảng Trị năm 1968, không thấy ai nhắc đến chuyện ấy nữa. Có thể người ta ý tứ tránh cho cô những phiền toái trong việc chồng con sau này.
Ðúng như trong bài thơ của Ðrunhina, khi cô trở về thì chẳng còn gì. Nhà trúng bom, cả bố mẹ và cậu em trai cô đều chết. Cô cũng phải tự mình làm lại tất cả, bắt đầu từ việc dựng một ngôi nhà lá, sắm sửa đồ đạc, rồi hòa dần vào nếp sống chung của làng và... để ý tìm chồng. Chính xác hơn là chờ người ta đến hỏi mình làm vợ. Nghe kể lại thì cũng có khá nhiều người tìm đến với cô, nhưng vẫn chỉ là những người "có vấn đề", chắc vì thế nên cô từ chối. Có vẻ như cô sẵn sàng sống độc thân suốt đời chứ không chịu lấy những người cô thấy không xứng đáng.
Trước đây, tuy thuộc hạng em út, nhưng nhờ ông anh, tôi thường được cô cho đi chơi cùng, kể cả những đêm hai người và đám thanh niên lớn hơn ra bờ Kênh Nhà Lê hát đối cùng con trai, con gái làng Phúc Nhạn bên kia kênh. Cô hát hay, đối đáp nhanh và sắc sảo. Chắc thời ấy nhiều người mê cô chứ không riêng gì anh tôi. Hơn thế, cô lại chín chắn, có bản lĩnh và luôn được bầu làm bí thư chi đoàn. Sau chiến tranh, dù không tích cực như trước nhưng cô vẫn tham gia đầy đủ các hoạt động xã hội trong làng xã. Cô cũng là người lao động giỏi, biết lo toan, sống hòa thuận với xóm giềng và được mọi người yêu mến. Tóm lại, trừ chuyện chồng con, mọi việc với cô đều ổn. Vậy sao bỗng nhiên cô bỏ đi tu?
Theo người ta kể lại thì cách đấy độ nửa năm có anh cán bộ tỉnh về làm việc ở xã. Chắng hiểu quan hệ hai người thế nào mà sau đó cô Duyên bỏ làng vào Vinh, nói đã xin được việc làm nhà nước ở đấy. Thế mà chưa đầy hai tháng sau thì thấy cô quay về, rồi xin vào nhà chùa, cũng cắt tóc, mặc áo nâu và sống hẳn ở chùa.
Ðó là chùa Yên Quang, nằm cạnh quốc lộ, phía bên kia sông Bùng, chùa lớn nhất trong cả huyện Diễn Châu, cách làng chúng tôi khoảng mười cây số. Cô chẳng giải thích vì sao. Người ta chỉ có thể đoán già đoán non, rằng phải có chuyện gì đấy nghiêm trọng xẩy ra giữa cô và anh cán bộ nọ, nên một người bản lĩnh và yêu đời như cô mới có một quyết định cực đoan như vậy. Có người bảo cô bị lừa, rằng anh kia đã có vợ và chỉ muốn quan hệ với cô như bồ bịch hay một dạng vợ lẽ. Cũng có người nói chuyện phức tạp hơn nhiều.
Dần dần sự kiện giật gân này cũng lắng xuống. Người ta đã ít bàn tán về cô, và cuối cùng chấp nhận mọi việc như nó hiện có. Thay cho hai tiếng "cô Duyên" giản dị trước đây, bây giờ mọi người, cả già lẫn trẻ, đều gọi cô là "sư cô Ðàm Duyên". Không biết nhà chùa có chức danh "sư cô" không, hay chỉ sư ông, sư bà và chú tiểu thôi. Cũng không biết vì đâu có chữ "Ðàm" ấy. Tôi thấy dân làng gọi thế: Sư cô Ðàm Duyên.
Lần ấy vì vội, tôi không có thời gian tới chùa Yên Quang xem cụ thể thế nào, nhân tiện nói chuyện đôi câu với cô Duyên, nếu cô chịu nói. Dù sao cô cũng suýt là chị dâu tôi, và ngày trước chúng tôi từng chơi thân với nhau.
Mãi ba năm sau tôi mới gặp cô, lần gặp thứ hai kể từ ngày cô đi thanh niên xung phong. Hôm ấy trời không mưa nhưng u ám, lại không đúng ngày lễ nên cảnh chùa có vẻ buồn và cô tịch.
Tôi dựng xe vào gốc cây bên đường, định không vào chùa vội mà đứng bên ngoài quan sát một chốc đã. Chùa chỉ có bốn người. Một vị sư già trụ trì, một bà sư nữa cũng già, và hai người khác trẻ hơn. Một trong hai người ấy là cô Duyên, bây giờ là "sư cô Ðàm Duyên".
Khi tôi đến, cô đang quét sân chùa. Mặt cô buồn buồn nhưng thanh thản và vô cảm. Một khuôn mặt còn giữ được nhiều nét đẹp, khiến tôi không thể không nhớ tới một cô Duyên linh hoạt, yêu đời ngày nào, khi cô cho tôi đi theo trong những đêm hát ghẹo bên Kênh Nhà Lê. Tôi thử hình dung mà không được khuôn mặt ấy thế nào suốt mười năm chiến trường khói lửa. Mỗi người một số phận, một hoàn cảnh, tất nhiên. Một khi cô chọn cách sống thoát tục này thì hẳn phải có lý do của nó. Tôi không có quyền và không muốn can thiệp. Tuy nhiên, đứng nhìn cô từ từ đưa những nhát chổi trên sân chùa vốn đã sạch bóng, tôi cbỗng cảm thấy buồn, và thầm nghĩ:
Ðường đời lỡ bước nhân duyên, Cô bước chân vào cửa thiền,
Quét nhặt từng bông hoa đại, Ðể qua cái thời con gái.
Nay già... Nếu không trọc đầu, Chẳng biết tóc bạc đến đâu.
Tôi đứng thêm chốc nữa rồi lặng lẽ đạp xe về làng, không muốn khuấy động sự yên tĩnh trong lòng cô sau bao sóng gió của cuộc đời. Nhưng cô có thực sự cảm thấy thanh thản trong lòng không? Cô có hoàn toàn dửng dưng với những gì sôi động đang diễn ra xung quanh không?
Từ đấy, những lần hiếm hoi về thăm quê (cả nhà tôi từ lâu đã dọn lên thành phố), tôi đều tranh thủ tới chùa Yên Quang. Lần nào cũng chỉ đứng ngoài nhìn vào. Sau lần gần đây nhất, tức là vào năm 1995, trở lại Hà Nội, tôi có viết bài thơ về cô Duyên, một trong những cô gái làng tôi mà cũng là của nhiều làng khác khắp cả nước. Bài thơ đã đăng báo. Tôi nghĩ nó nói đủ những gì tôi muốn nói về nỗi đau này của chiến tranh. Nỗi đau không của riêng ai.
SƯ CÔ ĐÀM DUYÊN
Lại vãn chùa Yên Quang - Vẫn đều đều tiếng mõ, Hoa đại vẫn rơi vàng Trên sân nền gạch đỏ.
Ngoài đường tiếng ô tô Xen lẫn lời niệm Phật. Chỉ sau chùa, ven hồ Không còn ba chậu quất.
Và sư cô Ðàm Duyên Tay vẫn lần tràng hạt Như ngày mới nhập thiền Còn ngỡ ngàng, dút dát.
Là thanh niên xung phong Những năm gian khổ nhất, Về, nhỡ thì, muộn chồng, Cô nương nhờ cửa Phật
Ðể tìm sự thảnh thơi Trong lời kinh, hương khói, Mong rũ sạch bụi đời Ðã làm cô mệt mỏi.
Kia, sư cô đang ngồi Quay lưng ra mặt phố, Quay lưng cả với đời, Lặng yên như tượng gỗ.
Sư cô đang nghĩ gì? Phải chăng còn vương vấn Chút bụi đời, nhiều khi Nhớ những ngày mặt trận?
Phải chăng nơi cửa thiền Sư tĩnh tâm, hạnh phúc, Hay sư cô Ðàm Duyên Vẫn cô Duyên trần tục?
Vẫn thế chùa Yên Quang, Vẫn đều đều tiếng mõ, Hoa đại vẫn rơi vàng Trên sân nền gạch đỏ.
Và tiếng còi ô tô Vẫn bay vào inh ỏi... Tôi đứng nhìn sư cô Thấy mình như có lỗi
Trong việc để sư ngồi Quay lưng ra mặt phố, Quay lưng cả với đời, Lặng yên như tượng gỗ...
Hà Nội, 21.4.2001
Tuyết lạnh Người viết: Thái Bá Tân 12/10/2006 TUYẾT LẠNH
1 - Con đi Mỹ lần này thế nào cũng phải tìm gặp bằng được bà ấy, - mẹ tôi nói, không biết đã là lần thứ mấy. - Tội nghiệp bà lão!
- Làm sao con gặp được? Nước Mỹ lớn lắm, đâu như làng Vĩnh Yên nhà mình. - Tôi đáp, cũng không phải lần đầu. Tôi vừa thấy bực mình vừa buồn cười vì nói mãi mẹ tôi vẫn không chịu hiểu điều đơn giản đó. - Bà ấy sang Mỹ sống với con trai thì sướng, sao mẹ bảo "tội nghiệp"?
Mẹ tôi thở dài, thong thả nhổ vào chiếc ống đồng miếng bã trầu cụ ngậm đã hơn một tiếng đồng hồ.
- Các anh hiện đại, sống ở thành phố, đâu hiểu được lòng người già.
"Bà ấy" là bà cụ Mật, bảy mươi tuổi, bạn thân của mẹ tôi từ thời con gái. Hai cụ quen sống có nhau đã mấy chục năm, nay xa nhau mẹ tôi nhớ cũng dễ hiểu. Tôi biết thế nên cũng muốn gặp bà Mật để sau này kể cho mẹ tôi nghe về bà ấy. Nhưng làm điều này đâu dễ? Trước khi về quê, tôi được báo có tên trong đoàn nhà văn Việt Nam sắp thăm Mỹ. Cụ thể đi đâu, làm gì thì đến bây giờ vẫn chưa biết. Tuy nhiên, hiểu tính khí người già, tôi đành cầm chiếc phong bì có địa chỉ anh con bà Mật ở Mỹ mà một lần anh ta gửi cho họ hàng ở làng tôi. Tôi hứa sẽ cố tìm bà bạn của cụ nếu có thể. Còn gói cau khô và bó trầu xanh thì cương quyết không nhận mang hộ, vì nghĩ khả năng gặp được bà cụ cùng làng ở tít bên ấy là rất ít, nếu không muốn nói là điều không thể.
2 Chuyện bà cụ Mật đi Mỹ một thời từng làm xôn xao làng tôi và cả mấy làng lân cận. Số là cách đây năm năm, đùng một cái, bà cụ Mật được anh con trai cùng cô vợ đầm trắng hếu, tóc vàng và đứa con lai bốn tuổi từ Mỹ về, tuyên bố đón bà sang sống "bên ấy" với anh ta!
Chà, người kéo đến xem cứ như hội. Mọi người ngạc nhiên không chỉ vì thấy anh Hòa con bà, ngày nào còn là một thanh niên làng chài rất ít khi mặc quần áo, gầy và đen chùi chũi, thế mà bây giờ cứ trắng hồng, com-lê, cà vạt nghiêm chỉnh, lại để cả ria mép nữa. Họ còn ngạc nhiên khi thấy "bà đầm" vợ anh nói được tiếng Việt, thậm chí thuộc lòng cả một đoạn Kiều dài. Chưa hết, "bà ấy" rất thoải mái, dễ gần, hay cười và đặc biệt gặp ai cũng chào. Thằng con lai thì về hôm trước, hôm sau đã thấy chổng mông chơi bi với lũ trẻ chân trần, mũi thò lò trong xóm. Hóa ra người Mỹ họ bình dân như ta! Mà "thằng Hòa" cũng chẳng kiểu cách ta đây như ối anh Việt Kiều khác. Trừ vẻ ngoài, "nó" vẫn là "thằng Hòa" ngày xưa như họ biết - chăm làm, yêu thương mẹ, chất phác và biết kính trọng người khác.
"Ðúng là nhà có phúc!"
"Sang bên ấy, tha hồ mà sướng nhé!"
Bà cụ Mật góa chồng từ ngày mới sinh anh Hòa. Từ đó hai mẹ con ở vậy nuôi nhau. Như mọi người khác trong làng, bà làm ruộng, lúc rỗi việc nhà nông, bà cùng mẹ tôi hàng ngày xuống chợ Hôm cách làng mấy cây số ngồi bán mấy mớ trầu, buồng cau, chục trứng hoặc vài thứ lặt vặt khác.
Anh Hòa lúc nhỏ cũng được đi học như những đứa trẻ khác. Anh học giỏi, thi đại học hai lần nhưng không hiểu sao đều trượt. Vì con một phải nuôi mẹ già nên thời chiến tranh anh không bị gọi nhập ngũ, chỉ ở nhà tham gia dân quân và ra biển đánh cá, lúc đầu còn trong hợp tác xã ngư nghiệp, sau hợp tác tan, anh cùng mấy người nữa sắm thuyền đi riêng. Năm 1979, lúc này đã gần ba mươi nhưng vẫn chưa vợ, một lần anh cùng hai người nữa lên thuyền ra biển như mọi ngày. Không may gặp bão lớn không về kịp, thuyền anh bị sóng đánh vỡ, mỗi người dạt đi một nơi.
Ở nhà ai cũng tin họ đã chết. Bà Mật khóc cả tháng trời, sau đó ốm một trận may lắm mới khỏi. Rồi bà được một người cháu đằng nội, nửa khôn nửa dại, không chồng đến ở chung. Cô cháu này tuy dở người nhưng chịu khó, biết điều, nên hai cô cháu sống cũng tàm tạm. Bà vẫn nhận làm sào rưỡi ruộng khoán, lúc nào cũng có bầy gà và đôi lợn trong chuồng, vẫn đều đều đi chợ Hôm cùng bà bạn thân là mẹ tôi.
Một năm sau, bà bất ngờ nhận được thư con trai. Lại từ nước Mỹ. Hóa ra lúc đắm thuyền, con trai bà vớ được tấm ván, lênh đênh trên biển đúng hai ngày hai đêm, và đang lúc sắp chết thì được một tàu nước ngoài vớt lên, đưa tới hòn đảo nào đó bên Malayxia, ở đấy mấy tháng, làm thủ tục và được người ta cho sang Mỹ.
Thư anh viết ngắn, hỏi hai người kia còn sống không, cho mẹ biết anh mạnh khỏe và đang chuẩn bị vào học một trường Ðại học lớn tại Mỹ. Từ đó anh đều đều viết thư cho bà, thỉnh thoảng gửi cả tiền. Cùng với thời gian, anh báo tin học xong, tìm được việc làm, mua ô tô, nhà riêng, lấy vợ rồi có con...
Hôm nay, đúng mười năm kể từ ngày gặp nạn ngoài biển, lần đầu tiên anh về quê thăm mẹ, và như mọi người đang kháo nhau trong làng, sẽ đưa bà sang "bên ấy" sống hẳn.
- Thế con Sáu thì sao? - Bà cụ Mật hỏi. "Con Sáu" là tên cô cháu dở người vẫn sống với bà cụ.
- Thì cô ấy trước ở đâu nay về đấy. Hoặc ở lại nhà này, nếu muốn. Thỉnh thoảng con gửi tiền giúp đỡ.
- Còn đôi lợn và bầy gà?
Anh con cười:
- Không lẽ mẹ định đem theo sang Mỹ?
Thằng con lai đang ngồi cạnh kêu lên thích chí, giọng lơ lớ:
- Ðem đi theo! Ðem đi theo!
- Còn sào rưỡi ruộng và cái ao mùng?
Ðứa cháu lần nữa lại kêu lên:
- Ðem đi theo! Ðem đi theo!
Bà cụ Mật ngồi im. Bà ngồi im rất lâu vì quả không biết nên nghĩ gì, làm gì. Bà mừng vì cuối cùng lại được gặp con. Mừng cả vì người con dâu và đứa cháu, tuy vẫn thấy họ là lạ và sờ sợ. Bà muốn được sống cùng con, muốn biết cái nước Mỹ ấy là gì mà người ta hay nhắc đến thế. Nhưng gì thì gì, bà không thể bỏ quê hương làng xóm mà đi được. Bà đi, ai chăm sóc con Sáu mỗi lần nó lên cơn động kinh? Ai biết rõ hơn bà tính khí đôi lợn, đàn gà và con chó để chiều chúng, cho chúng ăn, hoặc biết lúc nào thì nên hái mùng, những cây mùng bà biết rõ từng gốc? Mà rồi bà sẽ sống thế nào bên ấy? Không lẽ bà sẽ chết đâu đó và không được chôn cạnh ông Mật chồng bà?
Bà Mật đem những điều này tâm sự với mẹ tôi và hỏi nên làm gì.
- Thì bà bảo con và dâu bà ở lại đây, - mẹ tôi nói. - Thế là vừa sống chung, lại vừa được nuôi lợn, làm ruộng như bà muốn. Tôi và bà cũng được đi chợ với nhau!
Bà cụ Mật lặng thinh, chắc nghĩ mẹ tôi nói có lý. Ðêm hôm ấy bà ướm hỏi con trai điều này, tuy tự bà cũng biết việc đó khó có thể xảy ra.
- Trời, mẹ! Làm sao con ở lại đây được? Vả lại có muốn, nhà nước ta cũng không cho.
Bà Mật không tin nước ta không cho con bà về sống với mẹ. Bà nghĩ con bà chỉ tìm cách thoái thác mà thôi, nên im không nói thêm gì nữa. Từ đó, bà cứ thơ thẩn đi lại khắp nhà, lúc xuống bếp, xuống chuồng lợn, lúc ra vườn, có lúc ra cả ngoài đồng xa dù chẳng làm gì. Bà bước đi vật vờ như cái bóng, đầu chít chiếc khăn nâu mỏ quạ, áo gụ sờn vai, quần đen, da nhăn nheo và đen sẫm như màu bờ ruộng bà đang bước lên. Trong cảnh hoàng hôn sắp tàn, bóng bà như hòa lẫn vào đất.
Mấy hôm sau bà theo con ra đi, chỉ mang hai bộ quần áo và chiếc cơi trầu. Cô Sáu ở lại nhà bà, chăm sóc đàn gà, đôi lợn và sào rưỡi lúa chiêm mới cấy. Cả làng ai cũng mừng cho mẹ con bà. Chỉ mấy người, trong đấy có mẹ tôi, thì im không nói gì.
Ðấy, câu chuyện bà cụ Mật làng tôi đi Mỹ cách đây năm năm là thế. Và bây giờ mẹ tôi bắt tôi phải tìm gặp bà cụ bên ấy , cái bên mà tôi chưa một lần đặt chân tới và chỉ biết loáng thoáng qua ti-vi, sách báo.
3 Trong một tháng ở Mỹ, may mắn tôi được tới Chicagô, nơi bà cụ Mật đang sống cùng con trai. Trên chiếc bì thư mẹ tôi đưa có ghi như vậy. Chicago 2180, Lakeside Drive 370-21, State of Illinois, USA. Nhưng đây là địa chỉ cách đây đã lâu, khi anh Hòa gửi thư báo ý định sẽ đưa mẹ đi cùng. Nghe nói người Mỹ thích thay đổi chỗ ở, nên tôi chẳng dám chắc có tìm được họ theo địa chỉ này không.
Chỉ còn mấy ngày nữa là Noen. Ở Chicagô trời rất rét. Gió thổi mạnh không dứt từ phía hồ Michigân. Thành phố hiện đại nhất, và cũng là trung tâm công nghiệp lớn nhất nước Mỹ này, đúng hơn là một rừng những tòa nhà chọc trời bằng bê tông và kính. Ngồi trên tắc-xi, tôi cố nhưng không thể hình dung nổi làm sao một bà cụ nông dân làng tôi có thể sống, chứ chưa nói hòa nhập được với khu rừng đá lạnh lẽo, xám xịt này.
Tôi đang đứng trước cửa căn hộ cần tìm. Nó nằm tít trên tầng 35 của một chung cư năm mươi sáu tầng. Ở Mỹ, nội điều này đủ rõ chủ nhân nó thuộc loại bình dân, nếu không muốn nói là nghèo. Những người thuộc tầng lớp trung lưu thường sống ở những ngôi nhà một hoặc hai tầng xa trung tâm thành phố.
Tôi bấm chuông, đứng chờ. Không có ai trả lời. Tôi cố tình đứng trước lỗ kính nhỏ ở cánh cửa để người bên trong nhìn thấy, sau đó bấm chuông hai lần nữa. Kinh nghiệm dạy tôi phải kiên nhẫn. Chả là cách đây mấy năm, tôi và nhà thơ Phạm Hổ lặn lội tới tận thành phố Thessaloniki, Hy Lạp, để thăm một người bạn từng là lính lê dương Pháp sau chạy sang hàng ngũ Việt Minh. Chúng tôi cũng bấm chuông chờ như rất lâu, nhưng không thấy ai mở cửa nên cuối cùng đã bỏ đi. Thế mà năm sau gặp nhau ở Hà Nội, người bạn Hy Lạp ấy khẳng định đúng lúc chúng tôi gọi, ông đang ngủ trong nhà và khi ông, vốn già và chậm chạp, mặc quần áo xong đi ra thì chẳng thấy ai.
Tuy nhiên, lần này tôi đã chờ đủ lâu để đoán chắc trong nhà không có người. Khả năng nhầm phòng được loại ngay từ đầu, vì trên cửa có tấm biển nhỏ bằng kim loại ghi rõ tên ông bà Robert Nguyễn và Mary Nguyễn, tức là Nguyễn Văn Hòa, cùng làng và cùng học một trường với tôi.
Ðang lúc thất vọng định vào thang máy đi xuống thì tôi thấy phòng bên có người mở cửa. Một bà già da trắng dắt con chó giống bulldog màu nâu, mõm to và ngắn đi ra. Sau khi chào và tự giới thiệu mình, tôi nói với bà mục đích tôi đến đây.
- Bà cụ trong nhà ấy! - bà già đáp.
- Nhưng tôi bấm chuông mãi không thấy ai mở cửa?
- Thì bà cụ vẫn vậy. Ðâu biết gì mà nói. Vả lại có muốn mở cũng không có chìa khóa...
Thấy tôi ngạc nhiên, bà hàng xóm nói tiếp:
- Thằng bé giờ này ở trường. Ông bà Nguyễn đi làm cầm luôn chìa khóa. Một phần sợ ở nhà cụ không biết, mở cửa cho kẻ xấu vào. Thành ra coi như suốt ngày cụ bị nhốt trong ấy. Tội nghiệp. Tối anh lại, chắc chắn họ có nhà.
Bà già hàng xóm là người cởi mở. Ra phố tôi còn đi với bà một quãng. Bà cho biết anh Hòa hiện làm việc tại một công ty điện toán, chị vợ vốn trước học tiếng Việt và văn hóa phương Ðông, nay dạy ở trường tổng hợp Chicagô. Kinh tế gia đình bình thường như nhiều người ở đây. Căn hộ không thuê mà mua theo kiểu trả góp. Cả hai chiếc ô tô cũng vậy. Còn thằng bé thì học lớp ba. Học bán trú, hết giờ làm bố mẹ mới đón về.
- Bà cụ sống thế nào?
- Chúng tôi là láng giềng tốt, nhưng chỉ thỉnh thoảng mới sang thăm nhau vào các dịp lễ. Bà cụ ở riết một mình trong phòng riêng. Chừng ấy năm tôi chỉ nhìn thấy cụ vài lần khi con cháu đưa ra giới thiệu. Không thấy cụ bước chân khỏi nhà bao giờ. Phải nói cả hai ông bà Nguyễn và đứa cháu rất quý cụ. Chỉ tại tính cụ thích thế.
Tôi cảm ơn bà già tốt bụng, thầm mừng vì đã có những thông tin cần thiết về cụ Mật, coi như việc mẹ tôi giao đã làm xong, nếu không quay lại được thì cũng không có gì phải băn khoăn.
4
Nhưng ngay tối hôm ấy tôi quay lại, dù đã quá chín giờ tối. Chỉ mấy giây sau khi bấm chuông, chính anh Hòa ra mở cửa. Anh nhận ngay ra tôi và vồn vã dẫn vào phòng khách, cứ chân giày bám đầy tuyết dẫm lên thảm, theo đúng phong cách Mỹ. Chúng tôi từng là bạn chăn trâu thời bé cho đến khi tôi đi học xa. Sau đó hình như chúng tôi còn gặp nhau vài lần nữa trước ngày anh mất tích trên biển. Anh tíu tít gọi vợ con ra chào khách. Chúng tôi nói với nhau bằng tiếng Việt. Anh Hòa vẫn giữ nguyên giọng Diễn Châu rất nặng.
Chị Mary vợ anh nói giọng miền Nam, chắc thầy dạy trước đây người Nam Bộ. Còn thằng con thì chẳng ra giọng vùng nào, mặc dù nó nói khá sõi.
Sau một lúc ôn lại kỷ niệm xưa, anh Hòa nói:
- Chiều nay đi làm về, bà hàng xóm cho biết có người từ bên nước sang tìm gặp, nghĩ mãi không biết ai, hóa ra là anh.
- Bà cụ đâu? - Tôi hỏi khi mãi không thấy anh nhắc gì về mẹ.
- Cụ ở đây và vẫn mạnh khỏe. Cụ đang ngồi trong phòng mình. Có điều gần đây chắc do tuổi tác, cụ có vẻ bắt đầu lẩn thẩn. Suốt ngày lặng im ngồi một chỗ, đăm đăm nhìn đâu đó và suy nghĩ những gì có trời mới biết. Anh vào thăm cụ đi, kể thật nhiều chuyện quê hương vào, chắc cụ sẽ mừng lắm.
Tôi theo anh đi sang phòng bên.
Ðó là một căn phòng khá rộng, mọi thứ đều trắng toát như phòng bệnh viện. Từ các bức tường, trần nhà, tấm ri đô, chiếc giường đôi phủ ga phẳng phiu cùng chiếc chăn gấp gọn ghẽ, chiếc gối bông, đến chiếc tủ đựng quần áo và chiếc chao đèn đầu giường - tất cả đều màu trắng. Cả chiếc ghế bành rất sâu và lớn kê sát cửa sổ cũng trắng. Và lọt thỏm trong đó là một bà già bé nhỏ đang đờ đẫn nhìn ra ngoài qua tấm kính cửa sổ không che ri-đô. Bên ngoài tuyết đang rơi những bông lớn và dày, nhìn thấy rất rõ nhờ hệ thống đèn chiếu sáng cực mạnh của các tòa nhà bên cạnh. Bà cụ không nhận thấy chúng tôi đang bước vào.
- Mẹ ơi, có anh Lân bên nước sang thăm mẹ đây này! - Anh Hòa nói to. - Anh Lân con bà Hoạt làng ta, mẹ nhớ không? Bà Hoạt vẫn cùng mẹ đi chợ Hôm ấy mà!
Bà cụ Mật quay sang nhìn tôi bằng cái nhìn vô cảm, chắc vẫn chưa dứt khỏi những ý nghĩa triền miên của mình và vẫn chưa nhận ra tôi là ai, hoặc có nhận ra cũng chưa tin là thật.
Anh Hòa kéo chiếc ghế nhỏ lại gần cho tôi ngồi, rồi khẽ nói:
- Cụ vẫn thế đấy, cứ như người mất hồn. Tôi ra ngoài nhé, để anh và cụ nói chuyện tự nhiên.
Tôi ngồi xuống ghế, nhẹ nhàng cầm bàn tay khẳng khiu, đen xạm của bà trong hai tay mình.
- Chào bác. Cháu là con trai cả bà Hoạt làng Vĩnh Yên ta đây. Mẹ cháu bảo đến thăm bác...
Bà cụ vẫn nhìn tôi không chớp mắt. Bàn tay nhỏ bé của bà run run trong tay tôi. Ðôi mắt rưng rưng như muốn khóc, nhưng bà không nói gì.
- Bác vẫn khỏe chứ ạ? Mẹ cháu nhắc bác luôn.
- Ra mẹ anh còn nhớ đến tôi à? Làng xóm vẫn nhớ tôi à? - Cuối cùng bà cụ lên tiếng.
- Có chứ ạ. Ai cũng nhớ và mừng cho bác được sống với con cháu sung sướng bên này. Nhưng bây giờ quê ta cũng khá lắm rồi, không khổ như trước nữa. Nhiều cái mới lắm.
Tôi bắt đầu kể về những thay đổi trong làng, từ việc có điện lưới cách đây ba năm, nhiều nhà có ti-vi, xe máy, đến việc huyện cho xây con đường lớn rải nhựa hẳn hoi, ô tô chạy qua làng hệt như ngoài thị trấn, còn ủy ban xã thì có cả máy điện thoại. Tôi còn cho bà biết ai trong số người già trong làng vừa chết, con nhà ai được hỏi vợ, gả chồng..
- Anh nói làng ta đủ ăn rồi à?
- Vâng, không còn cảnh đứt bữa như trước nữa. Hơn thế, bây giờ nhà nào cũng ăn cơm trắng, không phải độn khoai...
- Và ngày ba bữa?
- Ðúng thế ạ. Ngày ba bữa.
Bà cụ ngồi im, vẻ không tin.
- Cả nhà ông Thíu? Cả cố Chuyên?
- Vâng, cả ông Thíu. Thằng Dũng con ông ấy còn sắm được máy cày cày thuê cho cả làng đấy. Còn cố Chuyên thì chết năm ngoái, chín mươi chín tuổi, nhưng làng báo lên xã một trăm, và được xã đứng ra tổ chức chôn cất chu đáo lắm. Có cả đại diện trên huyện mang tiền về mừng nữa. Bác biết không. Rú Thần bây giờ được biến thành nghĩa trang của làng ta. Mỗi dòng họ một ô riêng. Bao nhiêu mồ mả các cụ kỵ xưa nay đều gom về đây, cứ theo thứ tự trên dưới mà xếp, vừa ý nghĩa lại vừa đẹp mắt.
- Con Sáu dạo này thế nào? Có hay lên cơn nữa không?
- Cháu ở Hà Nội, thỉnh thoảng mới về nên không rõ lắm. Nghe mẹ cháu nói thì cũng bình thường.
- Còn đôi lợn?
Tôi ngồi im vì chẳng biết nói gì.
Bà cụ lại trầm ngâm nhìn ra ngoài, nơi những bông tuyết lớn vẫn không ngừng rơi, thong thả và chập chạp như ý nghĩ trong đầu cụ.
- Cái Sáu đoảng lắm. Không hiểu nó có biết tính con Cụt Ðuôi thích ăn củ mùng không. Ngoài ao nhiều mùng, không khéo nó lại bỏ tiền mua rau lang trong khi để mùng thối cả đống. - Bà cụ nói, với chính mình nhiều hơn là với tôi.
Rồi cụ thong thả lấy từ dưới ghế bành một hộp trầu và cái ống nhổ bằng đồng cáu bẩn đem từ Việt Nam sang. Cũng thong thả như vậy, cụ têm một miếng, có cả vôi và cau tươi, rồi đưa lên miệng nhai.
- Mẹ cháu bảo mang cho bác ít cau trầu quê nhà, nhưng không chắc tìm thấy nên cháu không mang theo.
- Bên này cũng có. Thằng Hòa nó nhờ mua đâu đó từ miền Tây. Tương cà mắm ớt không thiếu cái gì.
Mãi đến lúc này tôi mới nhận thấy bà cụ Mật vẫn mặc chiếc quần lụa đen, chiếc áo vải gụ đã sờn, và đầu vẫn quấn chiếc khăn nhung cũ hệt như ngày nào tôi gặp cụ ở làng. Nếu không có màu trắng của các đồ vật trong căn phòng sạch sẽ, lạnh lẽo ở tòa nhà kính năm mưoi sáu tầng và màu trắng của tuyết Chicagô những ngày cuối năm này, thì khó có thể hình dung bà cụ đang xa quê nhà hàng chục nghìn cây số, ở một đất nước có thể là no đủ, sung sướng đấy, nhưng thật buồn và xa lạ. Bất giác tôi có cảm giác như bà cụ vừa đi cấy về, đang tỏm tẻm nhai trầu, trò chuyện với mẹ tôi, thì bỗng bị bàn tay vô hình nào đó bê nguyên xi sang đây, tách khỏi màu xanh quê hương làng xóm, khỏi những tập tục và việc làm vốn quen thuộc từ ngàn xưa, để tới cái thành phố khổng lồ, xám xịt và lạnh giá này. Cụ như cây mùng từ ao bùn Việt Nam bị nhổ bật rễ đem cấy xuống cánh đồng tuyết quê người. Và dù được giữ trong nhà kính ấm áp, được chăm sóc tốt, cây mùng ấy vẫn ngày một héo quắt. Ðơn giản do bị đặt nhầm chỗ.
- Nước Mỹ rộng và đẹp, bác có hay đi chơi, xem đây đó không? - Tôi hỏi.
- Không. Năm năm nay tôi không bước chân ra khỏi nhà.
Lúc lái ô tô đưa tôi về khách sạn, tôi hỏi anh Hòa vì sao. Anh nói có lẽ do cụ sợ. Chả là hôm mới đến, để cụ biết nước Mỹ là gì, anh đưa cụ lên tận tầng cuối cùng của tòa nhà Sears Tower 110 tầng, cao nhất thế giới. Cụ nhìn xuống chóng mặt suýt ngất. Khi xuống, thang máy chạy nhanh quá, cụ còn nôn cả ra tay áo con. Từ đấy anh rủ đi đâu, cụ nhất định không chịu.
- Bác có nhớ nhà không? Có muốn về thăm quê không? - tôi hỏi.
Bà cụ ngồi im hồi lâu, hai mắt rưng rưng đờ đẫn nhìn những cánh tuyết xốp rơi không dứt ngoài cửa sổ. Lần nữa bà cụ lại chìm trong thế giới những ý nghĩ đau buồn không dứt của mình. Tôi cũng kiên nhẫn ngồi im, không hỏi thêm câu nào nữa. Cuối cùng, cụ chậm chạp, khó nhọc đứng dậy từ chiếc ghế bành lớn màu trắng. Tôi định đỡ nhưng cụ ra hiệu không cần. Và cũng chậm chạp, khó nhọc như vậy, cụ cởi chiếc áo gụ sờn đang mặc trên người, đút vào hai túi hai miếng trầu têm sẵn, cẩn thận vuốt thẳng từng thân áo, ống tay rồi gói vào một tờ báo. Cụ còn lấy sợi len đỏ gấp bốn, cột chéo vuông vức như chiếc bánh chưng.
Xong, cụ kính cẩn đặt chiếc áo vào tay tôi. Lần này thì cụ khóc thực sự. Hai dòng nước mắt hiếm hoi từ từ lăn xuống và nhòe dần theo những lớp nhăn sâu trên khuôn mặt già nua khô quắt. Tôi cũng xúc động không kém và chỉ biết đứng im, chờ xem cụ định làm gì.
- Anh nói hộ với mẹ anh là tôi nhớ bà ấy lắm, nhớ bà con, làng xóm lắm. Bây giờ gặp anh đây, tôi có thể nhắm mắt được rồi. Tôi biết tôi chẳng còn sống bao lâu nữa, và chắc chắn sẽ phải chết ở cái xứ lạnh lẽo, xa lạ này. Vậy nhờ anh mang cái này về chôn cạnh mộ ông lão nhà tôi, bây giờ đã được đưa về Rú Thần, trong nghĩa trang họ Hoàng mới xây như anh nói. Nếu được, bảo người ta đắp cho tôi nấm mộ giả cho có vợ có chồng. Ông ấy đỡ cô đơn, mà cũng đỡ tủi cho tôi...
Tuyết vẫn không ngừng rơi. Ðêm đã khuya, các đường phố Chicagô vốn đã rộng càng thêm rộng. Anh Hòa cầm lái cho xe đi thong thả vì đường trơn. Tôi ngồi yên phía sau. Chiếc áo sờn nhẹ tênh của bà cụ Mật đè nặng trong tay tôi, như thể tôi đang một mình bế cụ vượt hàng vạn cây số đưa về nơi yên nghỉ cuối cùng trên đất mẹ.
Chicago - Hà Nội, 2.1997
Quí bà ăn cắp Người viết: Thái Bá Tân 10/10/2006 QUÍ BÀ ĂN CẮP
Số chủ nhật tuần vừa rồi, ở mục "Bà con hãy cảnh giác", báo"Tiếng còi" có đăng một tin như sau: (trích)
Ăn cắp ở siêu thị, còn mạo danh là Việt Kiều trí thức!
Hôm qua, tại siêu thị Bông Hồng, một phụ nữ trẻ đẹp, ăn diện lịch sự bị bắt quả tang giấu trong người một bánh xà phòng camay, một bàn chải oral-B và hai thỏi son loại hồng nhạt do Xí nghiệp mỹ phẩm Sài Gòn sản xuất. Giá trị vật ăn cắp không lớn, nhưng điều đáng chú ý là sau khi bị nhân viên bảo vệ phát giác, thị tự nhận là Việt Kiều ở Pháp về thăm quê, cho xem cả hộ chiếu và còn giả bắt chước tiếng Việt lơ lớ rất khéo. Khi được hỏi đã vậy sao còn ăn cắp những thứ chẳng mấy giá trị này, thị ấp úng không trả lời được. Nhận thấy đây là trường hợp đáng ngờ, không loại trừ khả năng có âm mưu bôi nhọ uy tín đồng bào ta ở nước ngoài để phá hoại chính sách đại đoàn kết của nhà nước, người quản lý cửa hàng đã đưa thị tới đồn công an. Tại đây, khám người thị, người ta phát hiện thấy có nhiều ngoại tệ và những tờ ngân phiếu giá trị lớn. Những lời khai của thị rất mâu thuẫn và phi lý, khiến nhà chức trách không thể không nghi vấn.. Theo yêu cầu thiết tha của đương sự, và cũng để giúp nhà chức trách làm rõ vụ việc, chúng tôi chưa cho đăng ảnh cũng như chưa nêu rõ đích danh tên tuổi kẻ ăn cắp kỳ cục đó"
Hiện tượng ăn cắp ở siêu thị hiện khá phổ biến và đang có chiều hướng gia tăng. Nhiệm vụ của những tờ báo như "Tiếng còi" là phải kịp thời thổi còi báo động, góp phần ngăn chặn nó. Tuy nhiên, công bằng mà nói, có lẽ cả tờ báo lẫn người đọc sẽ chẳng quan tâm mấy đến một vụ ăn cắp trị giá ba bốn chục nghìn đồng, nếu không vì những chữ giật gân như "Việt Kiều ăn cắp", "xinh đẹp, ăn diện lịch sự" hoặc "trong người thị có nhiều ngoại tệ và những tờ ngân phiếu giá trị lớn". Mà rồi chắc sự "giật gân" cùng "vụ việc" ấy cũng bị người ta quên ngay vào sáng hôm sau như hàng trăm mẩu tin "giật gân" khác đăng nhan nhản trên các báo hiện nay. Thế nhưng "Tiếng còi" số chủ nhật tiếp đã quay lại chuyện này với bài báo dài có nhan đề: "Nói thêm về vụ n cắp siêu thị còn mạo danh là Việt Kiều", với giọng điệu nhã nhặn và thiện chí hơn nhiều.
Thưa bạn đọc, người phụ nữ ăn cắp ở siêu thị Bông Hồng mà chúng tôi đưa tin tuần trước hóa ra đúng là Việt Kiều thật, từ Pháp mới về quê ăn Tết Tân Tỵ này. Hơn thế, sau khi kiểm tra lại, nhà chức trách nhận thấy những lời bà khai không phải không có cơ sở, mặc dù khó tin. Do vậy bà được tự do ngay mà không phải chịu bất kỳ hình phạt nào, ngoài lời nhắc sau này không để xảy ra những trường hợp tương tự. Hôm qua, trước khi lên đường về nước, mặc dù còn mấy ngày nữa mới Tết, bà có đến tòa soạn trao cho bản báo chúng tôi một bức thư dài, được biết cùng một lúc còn gửi cho ông chủ cửa hàng siêu thị Bông Hồng và đồn công an đã xem xét vụ việc của bà. Nhận thấy đây là bức thư đáng chú ý ở vài khía cạnh, và được sự đồng ý của người viết, chúng tôi xin cho đăng toàn bộ để bạn đọc tham khảo.
*
Thưa các ông,
Tôi viết thư này để bổ sung những gì đã khai, hoàn toàn không có ý bào chữa, nếu không muốn nói ngược lại.
Xưa nay những người ăn cắp luôn giấu diếm thói xấu của mình. Trường hợp bị bắt quả tang, họ cũng tìm cách chối cãi nếu chối cãi được. Việc ấy dễ hiểu. Nhưng tôi là một ngoại lệ, vì tôi là kẻ ăn cắp đáng khinh bỉ, và vì cả việc chính tôi đang đem chuyện mình kể với các ông. Xin đừng nghĩ tôi là con ngốc, một mụ tâm thần hay đơn giản muốn trâng tráo tỏ ra khác người. Tôi cũng đau xót lắm, và sau nhiều lần hoãn đi hoãn lại, hôm nay tôi quyết định sẽ nói hết tất cả. Tôi làm thế để phần nào nhẹ bớt trong lòng, để các ông hiểu tôi và nhân tiện thử phân tích tâm lý ăn cắp, nếu quả có một khái niệm tâm lý như thế, và cuối cùng, qua trường hợp của tôi, hy vọng các nhà khoa học có thể rút ra được đôi điều cho công trình nghiên cứu của họ về bệnh ăn cắp. Vâng, bệnh ăn cắp. Hay đúng hơn, bệnh ăn cắp vặt. Và tôi, xét về mọi phương diện, đúng là người đang mắc căn bệnh quái ác ấy. Tôi nói thế không để mong giảm tội, mà thực tình vì không thể gọi cái tính xấu ăn cắp vặt ấy của tôi bằng cái tên nào khác ngoài việc coi nó là một căn bệnh như bao căn bệnh khác.
Vâng, tôi là một người ăn cắp, một mụ ăn cắp chính hiệu, hay các ông có thể gọi là một quí bà ăn cắp. Thực tình, gọi thế không phải không có cơ sở. Vốn là đứa con hoang, tôi không biết và cũng không hề muốn biết bố mẹ đẻ của tôi là ai. Tôi chỉ biết người ta nhặt được tôi đâu đó rồi đưa vào trại mồ côi, lúc lên bốn thì được một cặp vợ chồng người Pháp xin về làm con nuôi. Ðến nay tôi đã 35 tuổi, sống độc thân (không dám lấy chồng vì sợ đẻ ra một lũ ăn cắp giống mẹ).
Tôi nghĩ tôi thừa hưởng gien ăn cắp từ người mẹ đẻ, chắc một mụ đầu đường xó chợ nào đó. Có lẽ nói thế về mẹ mình là không tốt, nhưng tôi thực sự oán ghét bà ta. Thứ nhất vì bà bỏ rơi tôi, thứ hai vì truyền cho tôi bệnh ăn cắp kia. Còn bố mẹ nuôi tôi thì thật là những người tuyệt với. Họ chết từ lâu, để lại cho tôi một gia tài kha khá, đủ sống suốt đời mà không phải làm lụng vất vả. Tôi được nuôi nấng, cho ăn học và dạy dỗ tử tế theo kiểu con nhà giàu.
Như để đền bù số phận con hoang, trời cho tôi bộ óc thông minh và vẻ ngoài ưa nhìn. Vậy là lớn lên, tự lúc nào không biết, tôi trở thành một tiểu thư khả ái trong con mắt nhiều người, cả Pháp lẫn Việt ở Dijon, nơi chúng tôi sinh sống. Có thể nói tôi chẳng có tật xấu nào (trừ cái thói ăn cắp vặt mà chốc nữa tôi sẽ nói rõ), lại chăm học, nên tốt nghiệp khoa luật trường Sorbonne không mấy khó khăn. Sau đấy tôi học thêm để lấy bằng tiến sĩ, có một số công trình nghiên cứu được đánh giá cao trong giới chuyên môn, và không phải không nổi tiếng về phương diện nào đó. Các ông thấy chưa, hóa ra trên đời cũng có những con ăn cắp danh giá. Những quí bà ăn cắp! Những tiến sĩ ăn cắp! Nhưng gì thì gì, ăn cắp vẫn là ăn cắp và đáng bị khinh bỉ.
Nhưng thử hỏi tại sao một người như tôi phải mang hai tiếng nhục nhã ấy? Thì đã nói đây là bệnh, một căn bệnh tôi mắc hàng chục năm nay mà không thứ thuốc hay bác sĩ nào giúp chữa khỏi. Tôi sẵn sàng đánh đổi nó để chịu mắc bệnh ung thư hay bất kỳ một bệnh nan y đau đớn nào khác, để khỏi luôn căng thẳng đề phòng, khỏi đấu tranh chống lại cám dỗ (thường không thành công) rồi sau đó luôn dằn vặt đau khổ.
Theo thuật ngữ chuyên môn, những triệu chứng đầu tiên của bệnh ăn cắp vặt xuất hiện ở tôi ngay những ngày đầu cắp sách tới trường. Cũng có thể sớm nhưng tôi không nhớ.
Cùng ngồi một bàn lớp một với tôi có con bé Marie. Tôi và nó chơi thân với nhau, sống chung khu phố và được bố mẹ hàng ngày đưa đón bằng ô tô, cùng đường, cùng lúc. Nó giúp tôi môn tiếng Pháp, tôi giúp nó những môn khác tôi vốn giỏi hơn nhiều. Tóm lại, chúng tôi là đôi bạn tốt như những đôi bạn khác ở cái tuổi ấy.
Một hôm nó khoe được ai đấy tặng hộp bút màu nhân ngày sinh nhật. Một hộp bút bình thường loại rẻ tiền cho trẻ con học vẽ. Tôi cũng có loại bút ấy, thậm chí không phải một hộp mà hai, nên lúc đầu chẳng chú ý lắm. Tuy nhiên nhìn kỹ, tôi thấy đó là hàng nước ngoài, không hiểu của Nhật hay Trung Quốc, nắp hộp có mấy chữ nho và hình những đứa bé ngộ nghĩnh, bụ bẫm, hai má đỏ hồng như những trái đào. Chỉ thế thôi mà bỗng dưng tôi thấy thích và rất muốn có một hộp bút như thế, đến nỗi suốt buổi học hôm ấy tôi không thể nghĩ về chuyện gì khác. "Mình sẽ bảo bố mẹ mua!" tôi nghĩ rồi tập trung nghe cô giáo giảng bài. Tôi nhìn lên bảng vẻ chăm chú lắm, nhưng chỉ thấy hộp bút kia đang nằm trong chiếc cặp để mở của Marie ngay sát người tôi. Tôi bị nó ám ảnh không sao cưỡng nổi. Có cái gì đấy rất sâu trong tiềm thức cứ quyến rũ, thúc giục tôi cho tay vào cặp của Marie. Tôi biết ngay hôm sau bố mẹ sẽ tìm mua cho tôi một hộp bút như thế ở phố Tàu, hoặc nếu tôi xin, chắc Marie sẽ cho không chút do dự. Chúng tôi vẫn thường cho nhau đủ thứ lặt vặt. Vậy tại sao tôi phải ăn cắp? Ðấy chính là điều tôi không hiểu và không lý giải nổi. Sách vở và người lớn luôn dạy ăn cắp là xấu hổ. Tôi biết. Tôi cũng biết, nếu bị phát giác, tôi có thể bị nhà trường phạt nặng, nhất là bị bêu xấu trước các bạn.
Tôi không biết rượu và ma túy cám dỗ thế nào đối với con nghiện, nhưng rõ ràng tôi đang bị cám dỗ. Một sự cám dỗ ghê gớm. Tất nhiên tôi cố hết sức chống lại sự cám dỗ đó. Mấy lần tôi đã cho tay vào cặp Marie nhưng kịp rút lại. Cuối cùng, như một con ăn cắp lõi đời thực thụ, nhằm lúc Marie đứng dậy trả lời cô giáo, tôi nhanh nhẹn lấy chiếc hộp của nó cho vào cặp mình.
Thật khó diễn tả chính xác cảm giác của tôi lúc ấy. Ngoài nỗi sợ và sự xấu hổ, thật lạ lùng, tôi thấy nhẹ nhõm, thậm chí thỏa mãn, có lẽ giống sự thỏa mãn của con nghiện khi được tiêm chích. Tuy nhiên, sau những giây phút thỏa mãn ngắn ngủi đó, tôi bắt đầu bị lương tâm cắn dứt. Mặt tôi đỏ bừng, người toát mồ hôi, may các bạn và cô giáo không nhận thấy. Bây giờ, điều tôi quan tâm là làm cách nào trả lại hộp bút khốn khổ kia. Nhưng bỗng có chuông báo hết giờ, Marie vội vã đóng cặp và cùng cả lớp chạy ùa ra khỏi phòng học.
Vậy là tôi thành con ăn cắp. Ðể bào chữa cho mình, tôi viện đủ lý do, cuối cùng vẫn phải tự thừa nhận rằng mình đã hành động như một con ăn cắp. Tôi thực sự không hiểu vì sao có thể xẩy ra cái điều kinh khủng đó. Dọc đường về nhà, nhận thấy có gì khác thường, bố mẹ gạn hỏi nhưng tôi ngồi im không nói. Tối đến tôi giả vờ kêu mệt rồi khóa trái cửa ở lỳ trong phòng. Suốt đêm hôm ấy tôi nằm khóc, hối hận và tự xỉ vả mình.
Hôm sau đến lớp, tôi trả lại cho Marie hộp bút, nói tôi cầm xem và bỏ nhầm vào cặp mình. Nó tin, tất nhiên, vì làm sao có thể nghĩ tôi là kẻ ăn cắp.
Sau lần ấy, trong suốt năm cùng học lớp một, tôi còn ăn cắp của nó mấy thứ lặt vặt khác. Lần nào tôi cũng bị ma lực cám dỗ kia thôi thúc, cũng đấu tranh, dằn vặt và cuối cùng vẫn không cưỡng lại nổi. Lần nào tôi cũng khôn khéo tìm được lý do trả lại mà nó không chút nghi ngờ.
Tôi bắt đầu sợ chính bản thân mình. Ðể khỏi bị cám dỗ, từ năm lớp hai, khi Marie theo bố mẹ lên sống ở Paris, tôi xin phép cô giáo cho ngồi riêng một mình một bàn tận cuối lớp. Tôi trở nên sống khép mình, nơm nớp lo sợ. Trong lớp, tôi luôn cố nhìn thẳng lên bảng để khỏi phải thấy cái gì đó của người khác mà tôi có thể nảy sinh sự thèm muốn ăn cắp. THẾ MÀ NHỮNG NĂM tiếp theo tôi vẫn ăn cắp nhiều lần nữa, lúc chiếc bút bi, chiếc cặp tóc, lúc cuốn sách hoặc thậm chí chỉ chiếc tẩy bé tí. Có cái tôi trả lại được, có cái không.
Ở nhà, tôi ăn cắp của cả bố mẹ, toàn những thứ vớ vẩn. Kể cũng lạ, những thứ ấy tôi có thể tự do lấy dùng hoặc hỏi xin, thế mà tôi lại ăn cắp. Vâng, đúng là ăn cắp, vì tôi chọn lúc ông bà đi vắng hoặc không chú ý để lấy chúng. Bản thân hành động ăn cắp ấy tạo cho tôi một cảm giác thích thú đáng kinh tởm không cắt nghĩa nổi. Tất nhiên ở nhà mọi việc đơn giản hơn nhiều. Thường thì sau đó tôi để lại những thứ đã ăn cắp vào chỗ cũ. Nếu không, bố mẹ cũng chỉ rầy la tôi bừa bãi, tự ý lấy cái này, cái nọ của người khác khiến họ phải mất công tìm kiếm.
Lớn lên, tôi lặng lẽ tìm cách lý giải hành vi ăn cắp của mình và cố hiểu nguyên nhân của nó. Phải vất vả lắm tôi mới biết được nguồn gốc xuất thân của tôi ở sở nhập cư, rằng tôi là đứa con hoang bị bỏ rơi khi mới lọt lòng. Bố mẹ nuôi luôn giấu kín việc này, chỉ nói tôi là con gái gia đình một người bạn Việt Nam không may bị tai nạn chết cả bố lẫn mẹ, và ông bà đã nhận tôi về nuôi. Họ còn bịa chuyện như thể bố mẹ đẻ của tôi là người danh giá, có học, thậm chí giàu có. Thật ra tôi cũng không biết mẹ đẻ tôi có phải là một con ăn cắp đầu đường xó chợ hay không. Tôi nghĩ thế đơn giản vì không tìm ra nguyên nhân nào khác ngoài bệnh di truyền, khiến một người như tôi có tính ăn cắp vặt. Hay nói cách khác, sinh ra trên đời, tôi đã mang trong mình gien ăn cắp.
Tôi bỏ công đọc rất nhiều sách về lĩnh vực này. Khoa học đã tìm được mối liên hệ giữa hành vi bạo lực và tội phạm với một loại gien nào đó, và nó có thể truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Thực tế cuộc sống cũng chứng minh điều ấy. Tôi biết Viện nghiên cứu y tế Mỹ ở Washington đang tiến hành nghiên cứu để gạt bỏ hoặc vô hiệu hóa loại gien này ở con cái những người có lý lịch tội phạm. Nếu họ thành công, chắc chắn tỉ lệ tội phạm trên thế giới sẽ giảm hẳn.
Còn gien ăn cắp thì sao? Liệu khoa học có thể làm được gì để giúp đỡ những người như tôi không? Liệu các bác sĩ có thể tiến hành phẫu thuật, cắt bỏ cái gì đó, hoặc tiêm loại thuốc gì đó để tôi khỏi bị giày vò bởi sự thèm muốn ăn cắp không?
Trong tương lai rất có thể điều này sẽ trở thành hiện thực. Tạm thời thì tự tôi phải vật lộn với chính mình. Tôi đang bị bệnh mà không dám cho ai biết, không thể nhờ ai giúp. Nhìn bề ngoài ai cũng tưởng tôi hạnh phúc, trong khi thực ra tôi cảm thấy vô cùng bất hạnh. Tôi tốt nghiệp trường luật mà không dám đi làm. Làm sao tôi có thể đứng ra xét xử hay bào chữa cho ai đấy khi tôi là một con ăn cắp, và bất cứ lúc nào cũng có thể ăn cắp cái gì đấy của đồng nghiệp hay bị cáo? Thậm chí tôi phải tránh chỗ đông người, không dám ở lại một mình khi đến nhà bạn chơi, dù chỉ vài phút, vì trong vài phút ngắn ngủi ấy tôi có thể không cưỡng lại được và sẽ làm cái điều tôi luôn lo sợ.
Trong chừng mực nào đó, có thể nói tôi là người bản lĩnh. Tôi đã vượt qua phần lớn các thử thách. Thế mà đến nay tôi vẫn giữ trong nhà mình vài chục chiếc thìa, dĩa, dao ăn, cũng khoảng chừng ấy chiếc bút và nhiều thứ linh tinh khác mà tôi đã ăn cắp trong nhiều trường họp khác nhau nhưng sau đó không hoàn trả được. Tối nào tôi cũng lấy chúng ra đếm để nhắc mình về sự hiện diện của bản năng ăn cắp trong tôi, và cũng để tăng thêm nghị lực đề phòng nó.
Các cửa hàng siêu thị là nơi cám dỗ tôi nhiều hơn cả, và tôi cũng sợ không dám vào nhất. Mọi thứ mua sắm, từ thực phẩm đến các đồ dùng sinh hoạt, tôi đều yêu cầu người bán mang đến nhà, vì biết nếu tới cửa hàng, rất có thể tôi sẽ phạm tội. Ðiều ấy đã xẩy ra mấy lần, may không bị phát giác. Thường sau đó tự tôi quay lại nói quên chưa trả tiền. Một số người bán hàng tỏ ý nghi ngờ, nhưng thấy vẻ bề ngoài quí phái của tôi, họ chẳng nói gì.
Một lần ở Paris, việc này xảy ra cách đây năm năm, tại một của hàng thời trang nổi tiếng dành cho người giàu, tôi đã bị bắt quả tang khi ăn cắp một chiếc nịt vú. Trước đó một thời gian gian dài, nhờ cố gắng phi thường, tôi cưỡng lại được và không hề ăn cắp một cái gì. Có thể vì thế mà tôi đã chủ quan với mình chăng?
Lần ấy tôi mua một chiếc váy dạ hội hiệu Versace giá 990 đô-la, một chiếc sơ-mi Piere Cardin 200 đô-la, thế mà quỉ thần xui khiến thế nào, tôi lại ăn cắp chiếc nịt vú chưa đầy 20 đô-la mà tôi hoàn toàn không cần đến. Tôi kín đáo giấu nó trong ngực. Vì đây là cửa hàng dành cho giới thượng lưu, giá cao gấp ba, bốn bình thường, nên người ta không đặt camera theo dõi, và nhân viên không được phép có bất kỳ sự nghi ngờ nào đối với khách.
Khi tôi bước ra khỏi cửa hàng, đang định lên ô tô về nhà thì một người đàn ông ăn mặc lịch sự đi lại, gọi đúng tên tôi và mời tôi vào quán cà phê gần đấy "để bàn chút việc".
- Việc gì? - tôi khó chịu hỏi.
Hắn bảo chuyện vặt thôi, vào quán sẽ biết. Tôi không chịu.
- Chuyện về cái bà đang giấu trong ngực ấy! - Cuối cùng hắn nói nhỏ nhẹ, với sự thông cảm cố ý. Hắn còn nghiêng mình chỉ tay về phía quán cà phê. - Không có gì nghiêm trọng đâu, xin bà đừng lo. - Hắn trấn an tôi và mỉm cười lịch sự.
Toàn bộ con người hắn toát lên sự nhã nhặn đểu cáng. Tôi cố đoán hiểu hắn muốn gì khi miễn cưỡng đi theo hắn. "Hắn muốn tống tiền mình đây", tôi thầm nghĩ. Nhưng tôi nhầm. Hắn nói hắn là một thám tử được thuê để theo dõi ở cửa hàng này. Sau một hồi bóng gió xa xôi, hắn trâng tráo đề nghị tôi ngủ qua đêm với hắn để đổi lấy việc hắn giữ kín vụ ăn cắp này, và bằng cách ấy "bảo vệ uy tín một quí bà, một người nổi tiếng" như tôi.
Phản ứng đầu tiên của tôi là muốn tát một cái thật mạnh vào cái mặt đẹp trai đểu cáng của hắn rồi đến tự thú với ông chủ cửa hàng, rồi muốn ra sao thì ra. Thế mà điều duy nhất tôi có thể làm lúc ấy là ngồi lặng người, chua xót và đau đớn. Tôi muốn khóc mà không khóc được. Từ giận dữ, nhục nhã, dần dần tôi chuyển sang lo sợ. Không lẽ điều bí mật tôi vất vả giấu kín bao năm nay bây giờ sẽ lộ ra? Và trong mắt những người vốn yêu mến, kính trọng tôi, tôi bỗng lộ nguyên hình là một mụ ăn cắp vặt đáng phỉ nhổ? Tôi hình dung ngày mai các báo sẽ đăng tin giật gân này và thái độ của người ta sẽ thế nào. Tôi co rúm người không dám nghĩ tiếp. Trong khi đó tên thám tử đểu giả kia vẫn kiên nhẫn chờ con mồi của hắn, với vẻ lạnh lùng và thích thú.
Ðêm hôm ấy, gặp hắn xong, từ khách sạn bước ra, tôi đã nghĩ đến cái chết. Chỉ cái chết mới giải thoát khỏi những đau khổ, dằn vặt tôi phải âm thầm chịu đựng. Trước đấy nhiều lần tôi cũng nghĩ tới việc tự tử, nhưng lần này thì sự nhục nhã đã đẩy quyết tâm của tôi tới đỉnh điểm.
Tôi phóng xe ra bờ sông Seine. Phía dưới, dòng nước đen xẫm vẫn lững lờ chảy như bao đời nay và đang sẵn sàng đón nhận tôi như bao người đàn bà bất hạnh khác suốt hàng trăm năm qua. Có lẽ tôi đã ngồi rất lâu trên cầu. Không phải tôi sợ chết, mà chỉ muốn kéo dài sự sống thêm ít phút để suy ngẫm lại lần nữa toàn bộ cuộc đời mình.
Cuối cùng, khi tôi chưa kịp thực hiện ý định tự tử thì một nhân viên cảnh sát xuất hiện. Ông ta dùng sức kéo tôi xa thành cầu, ấn vào ô tô và đưa tôi về nhà. Chắc thoạt nhìn, ông đã biết tôi định làm gì. Nhiều năm trong nghề, có lẽ ông từng gặp không ít trường hợp tương tự và biết nên cư xử thế nào. Sau đó tôi ốm liệt giường suốt một tháng, và chẳng bao giờ đặt chân vào một cửa hàng nào nữa.
Bây giờ tôi nói về chuyện xẩy ra ở siêu thị Bông Hồng.
Dẫu chẳng còn ai thân thích, nhưng thời gian gần đây tôi hay về Việt Nam, khoảng vài năm một lần. Chẳng phải vì nhớ quê hay yêu nước, đơn giản tôi thích đi đây đó cho đỡ buồn. Tôi vẫn thường du lịch khắp nơi trên thế giới. Những lần trước đến Hà Nội, như ở các thành phố khác, tôi luôn tránh không vào các cửa hàng. Vậy mà lần này tôi vào siêu thị Bông Hồng. Có thể lần nữa vì chủ quan, mất cảnh giác với chính mình. Tôi không cần thứ gì phải mua, chỉ tò mò muốn biết trong đấy người ta bày bán những gì, xem có giống bên Pháp không.
Tôi dạo mấy vòng khắp siêu thị, hai tay cố ý cho vào túi áo khoác. Và rồi, như các ông biết, chuyện ấy đã xẩy ra. Các ông tin hay không thì tùy, nhưng quả thật lúc ấy tôi không làm chủ được bản thân mình. Có thể nói tôi ăn cắp những thứ ấy gần như vô ý thức. Tôi chỉ sực tỉnh khi nhân viên bảo vệ khám người và tìm thấy chúng.
Ở đồn công an ra, tôi lại nghĩ đến cái chết. Hôm sau đọc báo, ý nghĩ tự tử càng thêm nung nấu. Tôi thuê taxi đến cầu Chương Dương. Thực tình tôi không nghĩ ra được cách chết nào khác ngoài việc nhảy xuống sông Hồng. Phụ nữ Paris tự tử ở sông Seine. Ở ÐÂY KHÔNG CÓ SÔNG Seine thì có sông Hồng. Ðơn giản thế thôi.
Lúc ấy trời chưa tối hẳn và cầu luôn có nhiều người xe qua lại. Tôi đứng một chốc, chợt nghĩ nếu bây giờ nhảy xuống sông trước con mắt của bao nhiêu người tò mò thì thật lố bịch. Thế là tôi về khách sạn, định bụng đêm khuya quay lại. Tuy nhiên, vào phút chót, thay vào đó, tôi đã gọi điện đăng ký trở về Pháp bằng chuyến bay sớm nhất. Bị bắt quả tang ăn cắp ở Việt Nam đã nhục, tôi không thể chết một cách nhục nhã ở đây theo cách ấy. Tôi sẽ chọn cách khác, nơi khác. Tôi không thể tiếp tục sống cuộc sống bất hạnh này nữa. Tôi muốn kêu to cầu cứu mà chẳng biết kêu ai. Tôi đang trong cơn tuyệt vọng cùng cực.
Trước khi viết thư này, tôi vừa đọc một truyện ngắn làm tôi rất xúc động của tác giả Hòa Vang, có tên là "Quyền không điên" trong cuốn "Truyện ngắn hay Việt Nam" tôi mua ở hiệu sách Tràng Tiền hôm mới đến Hà Nội.
Truyện nói về một cặp vợ chồng đáng lẽ sẽ rất hạnh phúc nếu anh chồng không bị số phận bắt sinh ra trong một gia đình có "mả điên". Ông nội điên, bố điên, cả nhà điên, cuối cùng anh ta cũng điên. Hạnh phúc đổ vỡ, anh ta đã chết một cách bi thảm. Còn con anh ta, một chàng trai tuyệt vời, muốn cưỡng lại số phận, đòi quyền không bị điên. Nhà văn nhân ái đã để anh con không điên mà chỉ bị tàn phế, dù bà mẹ không có "mả điên" lại hóa điên vì quá đau khổ.
Vậy thì tôi, kẻ bị số phận nghiệt ngã bắt mang trong người gien ăn cắp, tôi cũng đòi quyền không ăn cắp! Tuy nhiên, cuộc sống thực phũ phàng và không dễ thay đổi như tác giả các câu chuyên hư cấu. Tôi biết tôi sẽ không bao giờ có được cái quyền chính đáng ấy. Tôi vẫn mẫi mãi là một con ăn cắp, dù tôi là một tiến sĩ, giàu có, một "quí bà" như người ta vẫn gọi. Nhưng chính vì có học và danh giá, tôi biết tôi không thể tiếp tục sống với hai chữ "ăn cắp" kinh khủng đó.
Mọi người, kể cả các ông, có ai làm được gì để cứu tôi không ?
Quả báo Người viết: Thái Bá Tân 10/10/2006 QUẢ BÁO
Không khí có vẻ lắng xuống, nhưng vì còn sớm nên chưa ai muốn về. Sau mấy chén rượu thuốc bữa tiệc mừng tân gia, mấy ông bạn già vẫn còn hăng lắm. Ít khi được gặp nhau nên họ tranh thủ nói đủ chuyện. Từ chuyện "thời xưa" họ học hành hoặc đi lính với nhau, (cái thời mà khi nhắc lại ai cũng kèm theo hai tiếng "khó khăn" nhưng "tốt đẹp", mặc dù các ông thừa biết cái thời ấy cũng khối thứ chẳng hay ho gì), đến chuyện làm ăn kinh tế "thời nay" cùng trăm nghìn loại tiêu cực của nó. Tuy nhiên nói gì thì nói, các ông vẫn phải thừa nhận một thực tế không thể phủ nhận, là bây giờ các ông sống sướng hơn xưa, nếu không muốn nói đổi đời. Bằng chứng là thỉnh thoảng vài năm một lần các ông lại được gặp nhau để mừng nhà mới cho bạn.
- Các vị có tin chuyện quả báo không? Tức là cái chuyện ân oán ở đời ấy mà? - một ông chợt hỏi, chẳng ăn nhập với những gì họ đang nói . Ông này có cái tên nghe rất kêu - Cao Lý Tưởng, mặc dù ông chỉ làm một nghề rất thực dụng là kinh doanh phế liệu, và sống chẳng có lý tưởng nào cao cả ngoài kiếm tiền. - Tôi hỏi thế là vì vừa mới đọc xong cuốn sách có nói đến chuyện quả báo. Chuyện một tên tri huyện rất gian ác thường cậy quyền thế đánh đập, tù tội dân lành. Sau cách mạng bốn lăm, hắn bị người ta trói quặt cánh khuỷu dẫn đi khắp phố huyện làm nhục, rồi bị một người tức giận quá đập vỡ đầu. Nhưng chính người đập vỡ đầu hắn sau này bị qui là phản động và xử bắn. Còn người tuyên án xử bắn anh ta thì hiện đang ốm nằm một chỗ trên giường hơn mười năm nay... Tác giả cuốn sách đó là một ông nhà văn quân đội hàm tướng cơ đấy.
- Nhà văn mà có đến cấp tướng cơ à? - ai đó ngạc nhiên hỏi.
- Sao lại không? Nước ta có hai ông như thế, còn tá thì đầy.
- Tướng nhà văn chắc phải viết hay lắm nhỉ. - Ông kia lại nói, chậc lưỡi thán phục. - Không biết những ông như Sêkhốp và Tônxtôi thì cấp gì. Bét ra cũng phải nguyên soái. Nguyên soái nhà văn!
Không ai đáp lại vì nghĩ hoặc ông ta đang giễu, hoặc ú ớ đến mức không biết hai nghề viết văn và làm tướng chẳng liên quan gì đến nhau.
- Cái chuyện ân oán ấy mà, tôi thì tôi tin, rất tin nữa là khác. - Ông chủ nhà lên tiếng. Ông là cán bộ nghỉ hưu, trước làm chân gì đó ở ủy ban quận. Ông mới được đứa con trai bên Tiệp cho tiền dựng lên ngôi nhà ba tầng trên diện tích chưa đầy ba mươi mét vuông ở tít trong ngõ này. Vốn mê tín, trước khi xây ông mời thầy địa lý chọn ngày chọn hướng, mặc dù trên mặt bằng hẹp ba bên đã xây nhà, có muốn ông cũng chẳng quay theo hướng thầy chọn. - Các cụ chả nói "Ðời cha ăn mặn, đời con khát nước" là gì. Về chuyện này, các tích tây tàu xưa nay không hiếm. Nói đâu xa, hôm nọ tôi vào bệnh viện thấy có thằng oe con bị ngộ độc phải rửa ruột. Hóa ra do hắn uống một lon cô-ca thó được trong nhà chùa. Bố mẹ hắn lu loa định bắt hãng nước ngọt Mỹ bồi thường. Người của hãng và cán bộ y tế đến kiểm tra phần nước còn lại trong hộp, chẳng phát hiện thấy gì độc hại. Thế mà hắn ngộ độc suýt chết đấy. Các bác bảo hắn không bị thần phật bắt tội là gì? Khi xây cái nhà này, tôi cũng bị mất trộm mấy bao xi măng. Tôi biết thằng nào trộm, - ông đưa mắt nhìn phía ngôi nhà hàng xóm vừa mới nhà xây xong. - Tôi tin là nhà hắn nay mai sẽ đổ vì mấy bao xi măng đó. Không thoát được đâu! - Ông nói một cách dứt khoát và tự tin, đến mức mấy ông bạn ngồi nghe cứ tưởng như nhà ông hàng xóm kia sắp sụp đến nơi, nên vô tình xịch xa bức tường thêm chút ít.
- Còn tôi, tôi chẳng tin. Ðơn giản chỉ là sự ngẫu nhiên. - Một ông khác lên tiếng. Ông này trước ở cùng đơn vị bộ đội với chủ nhà, hiện là trưởng một phòng gì đó ở sở giáo dục, và là người gần đây nhất mời mọi người đến "rửa nhà mới" như ông nói. - Cứ theo ý ông thì ắt con cháu lũ trộm cắp sau này sẽ bị người ta trộm cắp lại, còn bọn lừa đảo, tham nhũng thì sẽ thành ăn mày hết. Thực tế như ông thấy, lại chẳng vậy. Có điều chắc chắn là người làm việc thiện sẽ thấy thư thái hơn, hạnh phúc hơn, và ngược lại. Thế thôi. Nếu có gì xẩy ra thì chỉ là do ngẫu nhiên, ngẫu nhiên hết.
Cứ thế, vô tình chia thành hai phe, mấy ông bạn già tranh cãi hồi lâu về đề tài này, dù chẳng mấy hăng hái, vì cái họ tranh cãi thực ra chỉ chuyện đâu đâu, đúng hay sai chẳng chết ai. Rồi một người trong số họ quay sang một ông già từ nãy tới giờ chỉ ngồi im. Ông là chủ một cửa hàng thuốc tư nhân, trước làm dược sĩ quân y. Ông vốn được mọi người kính nể vì tính chín chắn và hào hiệp.
- Còn ý ông thế nào, ông Bảo?
- Tôi ấy à? - Ông cựu dược sĩ quân y lên tiếng với giọng miễn cưỡng của người bị bắt tham gia góp chuyện. - Tôi cũng không tin, dù từng gặp những trường hợp đáng lẽ khiến tôi phải tin. Năm kia có một gã ăn cắp thuốc ở cửa hàng tôi, về uống không đúng bệnh suýt chết. Nhưng tôi nghĩ đó chỉ do người ta mách cho hắn không phải thứ thuốc hắn cần. Ngẫu nhiên thôi chứ chẳng phải ác giả ác báo gì hết. Mới đây tôi còn biết một trường hợp nữa đại loại như thế. Nếu các vị muốn, tôi sẽ kể.
Tất nhiên mọi người muốn. Ông cựu dược sĩ quân y sửa lại thế ngồi cho thoải mái rồi bắt đầu.
*
Hắn ở khu Bách Khoa, trong căn hộ tập thể cách nhà tôi không xa. Bố hắn chết sớm, bà mẹ về hưu non. Hắn còn đứa em gái học phổ thông. Bản thân hắn chỉ học hết lớp mười rồi phải nghỉ để đi làm, sau này là trụ cột của cả nhà. Hắn làm thợ nề tự do, kiêm nghề chỉ trỏ, nếu có dịp. Có vẻ cũng kiếm được, vì em hắn vẫn đi học và hắn còn dành dụm mua được chiếc xe cúp cũ. Hắn rất ham đọc sách, sách văn học nghiêm túc chứ không phải loại kiếm hiệp rẻ tiền. Tóm lại, so với những đứa khác cùng tuổi ở đây, hắn không ÐẾN NỖI NÀO. Thế mà hắn đã vào tù một lần, mấy lần bị gọi ra đồn, và dưới con mắt chính quyền là thành phần bất hảo. Do tuổi trẻ đua đòi, quấy phá thôi, chứ bản chất hắn không xấu như tôi đã nói. Hắn bị tù vì bọn xấu rủ rê ăn cắp vật liệu xây dựng công trường bên cạnh để tiêu xài nhậu nhẹt. Mà việc này xẩy ra cũng lâu rồi. Bây giờ hắn tu chí lắm, không thấy gây gổ đánh nhau với ai. Hắn đã bước sang tuổi hăm lăm, cái tuổi phải lo làm ăn, trước để nuôi mẹ và em, sau nữa để còn lấy vợ. Có lẽ hắn thấm thía bài học mười tám tháng tù, và đang quyết chí làm người lương thiện.
Một tối nọ đi chơi khuya về, hắn phóng xe nhanh trên đường Nguyễn Khát Chân mới mở, không hiểu thế nào va phải bà công nhân vệ sinh đang gom rác trên đường. Bà kia ngã xuống đất, còn xe hắn chỉ loạng choạng chút ít. Lúc ấy trời đang mưa, phố vắng người. Hắn đã định dừng lại xem sao, nhưng rồi phóng đi luôn. Ngã thì dậy chứ quái gì. Ðứng lại có khi thêm rách việc , hắn vừa đi vừa nghĩ, thực sự tin bà kia cùng lắm chỉ xây xát chút ít.
Ðêm ấy hắn cũng thoáng băn khuăn một tí về chuyện này, nhưng sáng hôm sau thì đã hầu như quên hẳn. Và rồi các vị biết không, chỉ hai ngày sau chính mẹ hắn bị một thằng choai choai phóng xe đánh võng húc ngã ở đường Bạch Mai khi bà đi chợ Mơ về. Lại giữa ban ngày ban mặt lúc phố đông người. Người ta hô hoán, có ông xe ôm còn phóng rượt theo nhưng nó chạy mất. Bà già bị gãy chân, đưa vào bệnh viện bó bột mấy hôm rồi về nhà, phải nằm một chỗ hàng tháng trời.
- Các vị thấy chưa! - ông Cao Lý Tưởng kêu lên, gần như sung sướng. - Ðấy, cứ bảo là không có chuỵện ân oán nữa đi!
Ông dược sĩ chờ mọi người im lặng trở lại:
- Tùy các vị cho thế nào cũng được. Tôi chỉ kể sự việc thôi. Phải nói thêm là thằng cha tôi đang kể đây rất thương mẹ. Lại còn sợ nữa. Hắn chẳng bao giờ dám làm trái ý bà điều gì. Vì vậy dễ hiểu hắn tức giận thế nào cái thằng choai choai đâm mẹ hắn gãy chân rồi bỏ chạy ấy. Hắn thề sẽ tìm bằng được để trị tội. Hắn phác họa trong đầu kế hoạch thực hiện điều này. Tôi dám chắc nếu tìm được, thế nào cũng có án mạng.
Một hôm đang nghỉ trưa, hắn bật ti-vi đúng lúc người ta phát bài phóng sự về những nỗi cực nhọc và nguy hiểm của công nhân vệ sinh đường phố. Hắn định chuyển sang kênh khác thì chợt dừng lại vì thấy nói về trường hợp một bà quét rác bị ai đó đâm xe ngã rồi bỏ chạy, bị thương nặng phải vào bệnh viện. Tôi nghĩ có người trong số các vị đã xem chương trình này. Chỉ cách đây vài tháng thôi. Quả đúng một trường hợp rất thương tâm. Vì làm hợp đồng nên bà ta không có bảo hiểm y tế nên phải chi trả mọi khoản thuốc men và viện phí, trong khi ông chồng thất nghiệp, lại kèm theo ba đứa con còn nhỏ. Bài phóng sự nói rõ ngày giờ, địa điểm xảy ra tai nạn, cả việc hiện công an đang truy tìm thủ phạm.
Hắn lặng người khi nghe tin này. Tối đến, hắn hồi hộp chờ xem phát lại lần nữa. Sau đó, các vị biết không, hắn bắt đầu rơi vào trạng thái ta thường gọi là lương tâm cắn rứt, hối hận hay đại loại như vậy. Thì tôi đã nói hắn bản chất không phải người xấu mà. Hắn ngơ ngác không biết phải làm gì. Cùng cảnh ngộ, hắn thừa biết hắn tội lỗi và đáng bị nguyền rủa thế nào. Hắn nghĩ đến chuyện ra trình công an, nhưng liền gạt ngay ý nghĩ đáng khen đó, vì sợ phải vào tù. Vả lại, hắn không thể vào tù lúc này. Cuối cùng hắn quyết định phải bằng mọi giá giấu việc hắn là thủ phạm, và tìm cách giúp đỡ bà kia. Cách nào thì hắn chưa biết, nhưng phải giúp.
Hắn tìm đến bệnh viện và thấy bà ta thực sự đang ở trong tình trạng rất nguy kịch. Bà ta ngã nhẹ nhưng đầu va phải gờ đá vỉa hè, bị chấn thương sọ não đang hôn mê. Bên cạnh là hai đứa trẻ mười và tám tuổi vừa thút thít khóc vừa gặm bánh mì. Chiếu cố hoàn cảnh, bệnh viện tạm ứng tiền thuốc men, sẽ yêu cầu cơ quan thanh toán sau. Một tuần trôi qua mà hắn vẫn chưa biết phải giúp nạn nhân của hắn thế nào. Nếu có tiền, hắn sẽ tìm được cách đưa cho gia đình bà ta mà không bị phát hiện. Khốn nỗi tiền là cái hắn không có và hiện đang rất cần, để nuôi cả nhà và thuốc thang cho mẹ hắn. Bán xe? Không được. Hắn đang làm phụ xây tận Ðức Giang, hơn mười cây số. Mà rồi hắn biết có bán cũng chẳng được bao nhiêu. Tuần sau hắn tới bệnh viện thì nghe nói bà kia đã chết trước đó hai ngày.
Bây giờ thì hắn hoảng hốt thực sự. Hắn đã là một tên giết người. Giết người chứ không phải trộm cắp vặt hoặc gây gỗ đánh nhau như trước. Hắn nghĩ tới chuyện ân oán mà ớn lạnh dọc xương sống. Hắn sợ mẹ hắn sẽ chết. Mạng đòi mạng mà. Hắn đâm xe vào người ta, mẹ hắn bị người ta đâm xe. Nay người ta chết thì có thể mẹ hắn cũng sẽ chết. Không. Phải làm sao để chuyện này không xẩy ra. Hắn đã giết bà kia, không thể chính hắn lại giết mẹ. Hắn suy nghĩ lung lắm, luôn thẫn thờ cứ như người mất hồn. Cùng một lúc cả dằn vặt lẫn sợ hãi đang ám ảnh, thôi thúc hắn phải làm cái gì đấy.
Một cách khôn khéo, hắn đến bệnh viện dò hỏi được địa chỉ bà quét rác nọ. Ðó là một căn nhà cấp bốn tuềnh toàng sát bờ sông Tô Lịch luôn bốc mùi thum thủm. Hắn thận trọng đứng từ xa nhìn vào.
Nhà không cổng, cửa lại mở toang hoang nên hắn nhận ra ngay hai đứa bé đã gặp ở bệnh viện. Ðứa nhỏ đang khóc, không hiểu vì sao. Còn đứa lớn thì lúi húi trong bếp, khói bốc mù mịt. Bố chúng không có nhà. Thoáng nhìn, hắn biết trong nhà không có gì đáng giá. Ngay sát chiếc giường ọp ẹp là giá thờ với tấm ảnh của ngưòi xấu số và mấy que hương đã tắt. Hắn tự hỏi không hiểu ông chồng bà ta là người thế nào, nhưng đoán chắc chẳng ra gì một khi không kiếm nổi việc làm nuôi vợ con. Không khéo lại là tay cờ bạc, nghiện ngập hoặc vũ phu cũng nên. Hắn thấy tội cho mấy đứa nhỏ. Chưa chắc chúng đã được ăn hàng ngày.
Hắn ra ngồi trong quán nước gần đấy, lân la hỏi thêm cho rõ. Ðúng như hắn đoán, mấy đứa trẻ đang đói. Số tiền ít ỏi cơ quan cũ mẹ chúng giúp đỡ chẳng kéo dài được bao lâu. Cũng may ông bố không phải người xấu, chẳng nghiện ngập gì, chỉ tội hơi đần và hay đau ốm. Trước còn dựa vào vợ, nay vợ chết, đói quá phải bò đi kiếm cái ăn bằng cách nào có trời mới biết.
Vốn tìm đến đây chưa có mục đích cụ thể nào trong đầu, giờ hắn ngồi thần người, cảm thấy cái tội của hắn thật lớn. Hắn không chỉ giết chết người vợ, mà còn có thể đẩy người chồng vào con đường tội lỗi, và quan trọng nhất là bắt mấy đứa con họ phải nhịn đói. Cuối cùng hắn đứng dây. Như người mộng du, hắn lửng thửng quay lại ngôi nhà kia. Hắn cho tay vào túi quần. Còn đúng mười nghìn. Hắn mân mê mấy tờ giấy bạc nhàu bẩn trong tay, rồi bất ngờ với cả chính mình, hắn chọn lúc hai đứa bé quay mặt vào bếp, vứt tiền vào sân rồi bỏ đi. Lúc đầu hắn cố đi bình thường để khỏi gây nghi ngờ. Rồi hắn bước nhanh, dáng sợ sệt và vội vã như một tên ăn trộm.
Sau đó, tuần nào hắn cũng đến để lén lút ném tiền vào nhà người ta theo cách ấy. Tháng đầu hắn đến vào ban ngày, sau sợ lộ chuyển sang ban đêm. Chỉ phóng xe đi ngang rồi ném tiền vào. Thế thôi. Thường chỉ dăm nghìn, nhưng cũng có khi mấy chục. Hắn đoán bố con ông kia phải ngạc nhiên lắm khi mỗi sáng dậy lại thấy tiền ai "đánh rơi" ngoài sân nhà mình. Nhưng đang đói thế, chắc họ chẳng ngạc nhiên lâu.
Cuối cùng, cái phải đến đã đến. Không còn cách nào khác, hắn bán chiếc xe dẫu cà tàng nhưng vô cùng cần thiết ấy của hắn, với giá ba triệu rưỡi. Hắn chỉ dám chi một trăm nghìn mua chiếc xe đạp cũ để đi làm. Hắn để riêng một triệu giúp gia đình người kia. Còn lại hắn dành vào việc thuốc thang cho mẹ và những thứ tối cần thiết trong nhà. Tuy nhiên, sau khi bán xe, hắn cũng tự thưởng cho mình hai vại bia hơi và một bao Vina mà đã lâu hắn không dám mơ tới.
Một thời gian sau mẹ hắn lành chân và đã có thể tập tễnh ra hè phố bán thuốc lá, chè chén như trước. Hơn hai triệu đồng hắn định để dành chi dùng cho gia đình không ngờ lại hết trước số tiền hắn cất riêng cho mục đích sám hối. Nhưng tuyệt nhiên hắn không động tay lấy một đồng nào từ đấy. Vậy mà nó cũng chỉ đủ cho hắn kéo dài được mấy tháng.
Một hôm, hắn chẳng còn tiền để vứt vào nhà kia nữa. Mà hắn thì không thể ngừng việc này được, phần vì cảm thấy vẫn còn trách nhiệm giúp đỡ, tất nhiên không phải suốt đời, nhưng lâu chừng nào hay chừng ấy, phần vì hắn sợ nếu thôi, có thể mẹ hắn sẽ ốm trở lại hoặc thậm chí chết. Rủi nữa, việc làm của hắn dạo này lại hôm có hôm không, nên hắn gần như tuyệt vọng.
"Phải làm gì bây giờ?" Câu hỏi ấy cứ bám lấy hắn suốt mấy ngày liền mà không sao tìm được câu trả lời. Chợt một ý định xuất hiện. Lúc đầu chỉ thoáng qua như một sự điên rồ bị hắn xua đuổi ngay, nhưng nó cứ quay lại, mỗi lúc một rõ nét hơn. Cuối cùng thì hắn quyết định dứt khoát: Phải ăn trộm! Không còn cách nào khác. n trộm để có tiền giúp mấy đứa trẻ kia. Ðúng thế, hắn sẽ không đụng tới một xu trong số tiền ăn trộm được vì bất kỳ mục đích nào khác, cho hắn cũng như gia đình. n trộm một vố thật lớn rồi thôi, thôi vĩnh viễn như trước đây hắn từng thề với mình. "Ngộ nhỡ bị bắt thì sao? Thì coi như mình đi tù thay cho việc làm bà kia chết. Sẽ không khai, nhưng tự biết như thế. Ðời có ân có oán, mình làm mình chịu. Mình chịu còn hơn để mẹ chịu!"
Hắn nghĩ thế và bắt đầu các khâu chuẩn bị cần thiết để hành động. Hắn sẽ rất thận trọng, quyết không để bị bắt. Và hắn đã gặp may. Chọn đúng giờ ít ai ngờ nhất - bảy giờ tối, khi mọi người đang ăn cơm, - hắn đột nhập vào một nhà cạnh đấy được theo dõi từ trước, cậy tủ lấy gần chục triệu đồng và một cây vàng tấm còn nguyên giấy bọc nhựa trong suốt. Hắn lách ra khỏi nhà kia cũng nhẹ nhàng, chẳng bị ai phát hiện như khi vào.
Một chốc sau hắn thở dài nhẹ nhõm đạp xe đi giữa phố, thầm nhẩm tính số tiền vừa trộm sẽ giúp được gia đình nạn nhân hắn trong bao lâu, với mức trăm rưởi, vài trăm nghìn đồng một tháng chẳng hạn. Hắn không muốn đưa nhiều một lúc, dù làm thế sẽ tiện hơn cho hắn, vì sợ ông bố ngù ngờ kia cậy nhiều tiền lại hoang phí, rốt cục con vẫn không có gì ăn. "Mà dạo này sao chẳng thấy lão đi làm đâu cả. - Hắn nghĩ. - Cứ suốt ngày ở nhà chờ người ta ném tiền vào sân cho mình. Sau lần này thì phải tự lo mà sống nhé. Không ai nuôi báo cô suốt đời được đâu..."
Ðúng lúc hắn vừa đi vừa nghĩ như thế thì bỗng ai đó phóng xe máy ngang qua, quệt vào xe hắn, làm hắn ngã xuống đường. Nhẹ thôi. Chỉ xây xát chút ít ở khuỷu tay, và tự hắn đứng dậy được ngay sau đó. Người kia, một thanh niên trạc tuổi hắn, vẻ ngoài tử tế, cho xe dừng lại xem có gì nghiêm trọng không. Thấy không sao, thay cho câu xin lỗi, anh ta văng một câu: "Lần sau nhớ đi cẩn thận, con nhé!"
Từ ngày mẹ bị xe đâm, hắn đã vô cùng căm thù những tay phóng ẩu. Bây giờ nghe thế, hắn lộn ruột, vội nhảy xổ vào người kia, đấm đá túi bụi trong cơn điên khùng không kiềm chế được. Chỉ loáng sau, những kẻ hiếu kỳ đã bu kín xung quanh. Rồi công an đến, đưa cả hai về đồn.
Lúc này hắn mới nhận thấy hắn đã phạm một sai lầm nghiêm trọng thế nào. Người đâm xe được thả ngay sau vài lời cảnh cáo, còn hắn thì bị giữ lại, vì người ta thấy có vàng và tiền trong người hắn, kẻ từng có tiền án, tiền sự...
*
Kể đến đây, ông cựu dược sĩ quân y dừng lại, đưa mắt nhìn quanh một lượt rồi nói:
- Bây giờ thì các vị tha hồ mà kêu lên rằng đời này có báo ân báo oán nhé!
- Tất nhiên! - Ông Cao Lý Tưởng hùng hổ nói. - Còn ông thì không chắc, sau khi chính ông kể câu chuyện này, một câu chuyện nghe như bịa nhưng cũng có thể xẩy ra lắm. Rồi sau đó thì sao?
- Sau đó tôi được mời ra đồn công an.
- Ông? - mọi người nhao nhao hỏi. - Sao lại dính ông vào chuyện này?
- Ðơn giản thôi, - người kể chuyện thong thả đáp, có vẻ như cố tình kéo dài để mấy người kia phải sốt ruột. - Vì hắn ăn trộm nhà tôi, là điều khiến tôi ngạc nhiên. Xưa nay hắn có vẻ quí tôi và thường qua nhà tôi mượn sách. Cũng có thể vì thế mà hắn biết tôi cất tiền ở đâu. Nếu theo cách lập luận của các ông thì tại sao tôi đối xử tốt với hắn mà lại bị hắn ăn trộm? Chính tôi cũng băn khuăn điều đó, vì như đã nói, tôi vẫn luôn nghĩ hắn là người tốt. Nên ở đồn công an, tôi yêu cầu được gặp riêng với hắn một chốc. Hắn đã thành thật kể tất cả những gì tôi vừa cho các vị biết.
- Nghe cứ như trong tiểu thuyết ấy nhỉ ? - Ai đó xen vào.
- Rồi tôi phịa chuyện nói với công an rằng hắn là cháu xa của tôi, rằng hắn tới vay tiền tôi mua xe máy nhưng vợ tôi không cho, nên mới nông nổi làm bậy, và rằng bây giờ tôi bảo lãnh, xin tha cho hắn về giáo dục trong gia đình.
- Sau rồi sao?
- Chẳng sao cả. Tôi lấy lại cây vàng, đưa cho hắn mười triệu kia để làm nốt công việc sám hối của hắn. Bảo cho vay, khi nào có thì trả. Tôi tin hắn sẽ trả, mà không trả được cũng chẳng sao. Vì cái việc ấy mà hắn dám liều mình ăn trộm để có thể bị vào tù lần nữa, thì với tôi, mười triệu đồng cũng không lớn lắm.
Ðể kết thúc câu chuyện của mình và cũng là đề tài tranh luận của mấy ông bạn già, ông cựu dược sĩ quân y nói thêm, vẻ triết lý:
- Tóm lại, tôi không tin mà cũng chẳng phủ nhận chuyện có hay không ân oán ở đời. Tôi chỉ nghiệm thấy rằng nếu mình sống ngay thẳng, làm được điều gì đấy tốt cho đời thì lòng mình sẽ thanh thản. Và đó là sự báo ân lớn nhất theo cái nghĩa các vị nghĩ. Nếu muốn, hôm nào tôi giới thiệu hắn với các vị. Dạo này hắn khá lắm. Khá lắm!
Một người vứt đi Người viết: Thái Bá Tân 10/10/2006 MỘT NGƯỜI VỨT ĐI
Ở Huế, ngoài những chiếc xe lam chạy dầu ma-dút nhả khói mù mịt và kêu tành tạch từng tràng dài như súng máy, phương tiện đi lại chủ yếu trong thành phố là xích lô và xe đạp thồ.
Xe đạp thồ mới xuất hiện mấy năm trước đó, thoạt trông dễ làm người ta mất cảm tình, nhưng rồi nhìn mãi cũng quen. Vả lại, cái chính là sử dụng nó thuận tiện và rẻ. Chỉ cần bước ra phố, giơ tay là lập tức có ngay mấy chiếc xe đói việc cùng đạp đến một lúc. Anh chọn một chiếc trong số đó, thỏa thuận giá cả - một, ba hoặc năm đồng tùy đi xa hay gần - ngồi lên poóc-ba-ga phía sau (thường được lót bằng miếng mút bọc vải nhựa khách ngồi cho êm và cũng để phân biệt với những chiếc xe đạp bình thường, nghĩa là không chở người lấy tiền), thế là người kia sẽ chở anh đi. Nếu anh là khách từ xa đến, anh ta sẽ kiêm luôn vai người hướng dẫn tham quan thành phố. Anh hỏi bất kì điều gì, kể cả việc riêng tư, anh ta đều sẵn sàng trả lời, tất nhiên trong thâm tâm hi vọng anh trả thêm ít tiền cho dịch vụ đó.
Lần ấy, hai ngày sau khi đến Huế, làm xong những việc cần làm, tôi muốn đi thăm các lăng mộ nổi tiếng của Cố Ðô, trước hết là Lăng Khải Ðịnh. Và tôi đã chọn cái phương tiện giao thông tuy thô sơ nhưng thuận tiện và rẻ tiền này.
Thông thường những người nghỉ ở khách sạn "Sông Hương" như tôi, đi tham quan bằng xe con, ô tô buýt, hay bét ra cũng bằng xích lô. Cho nên thấy tôi từ khách sạn bước ra, lại ăn mặc nghiêm chỉnh, đeo máy ảnh, người đạp xe thồ bị tôi ra hiệu dừng lại có vẻ ngạc nhiên khi được thuê chở ra lăng Khải Ðịnh, cách đấy cả chục cây số, chờ xem xong lại đưa về khách sạn.
Tuy nhiên, hai phút sau chúng tôi đã lên đường. Anh ta ngồi đạp phía trước, tôi ngồi sau, hai chân buông thõng hai bên, giống hệt một tay chơi "bản địa".
Anh bạn đường của tôi ít nói, mặt ảm đạm như đang có điều gì khó chịu. Sau vài câu hỏi thăm mang tính xã giao, anh ta không nói gì thêm. Trả lời các câu hỏi của tôi, anh ta hoặc ậm ự tiếng một, hoặc lờ như không nghe thấy. Ðiều này làm tôi - một người tò mò ít nhiều thất vọng. Tôi bắt đầu hối hận về cái quyết định lãng mạn của mình, vì tôi đã có thể đi nhờ xe buýt của một đoàn nghỉ cùng khách sạn.
Hôm ấy trời đẹp, cảnh nên thơ, chỉ tiếc đường lắm dốc và nhiều lúc tôi phải xuống ủn xe từng đoạn khá dài. Anh kia - còn trẻ nhưng gầy yếu, da đen, ngực lép như người ho lao - nhìn tôi với vẻ biết ơn, nhưng vẫn im lặng một cách bướng bỉnh. Cứ thế chúng tôi đi tiếp.
- Anh có lên xem không? - Tôi hỏi khi hai chúng tôi đến nơi, dựng xe, bước vào một quán giải khát.
- Không.
- Tôi để anh chờ ở đây à?
- Không sao, - anh kia đáp. - Ông cứ xem bao lâu tùy thích. Tôi đợi.
Mặc dù còn trẻ, có khi còn ít tuổi hơn, không hiểu sao tôi được gọi bằng ông. Anh ta muốn bộc lộ thái độ bằng cách ấy chăng?
So với các lăng khác, lăng Khải Ðịnh được nhiều người nói đến và hay tới tham quan hơn cả. Cũng có lí do của nó. Toàn bộ khu lăng được xây trên một ngọn đồi từ chân lên đỉnh phải hơn một trăm bậc đá lớn. Ðây cũng là lăng duy nhất xác định được chỗ chôn người chết - tức là ngay dưới ngai vàng đỡ bức tượng ngồi toàn thân bằng đồng mạ vàng của Khải Ðịnh. Phòng mộ trang trí lộng lẫy, với những nét chạm trổ và những hình ghép sứ hết sức tỉ mẩn. Nghe nói phải nhiều người, nhiều năm mới làm nên tác phẩm nghệ thuật độc đáo này. Cũng nghe nói không ít người phải chết vì nó.
Vào phòng mộ, khách phải bỏ giày dép ở ngoài, đi nhẹ, nói khẽ, và nhất thiết phải nghe một bà già người bé nhỏ ngồi cạnh cửa nhắc nhở những điều cần thiết về nội qui tham quan, hoặc mời mua bưu ảnh, thuốc lá, nước ngọt - những thứ bà ta luôn để sẵn trên chiếc bàn con bên cạnh. Nếu anh đi một mình và cần người hướng dẫn, bà ta sẽ làm điều đó, hăng hái trả lời một cách đầy đủ, tỉ mỉ tất cả các câu anh hỏi. Tất nhiên, sau đó anh sẽ phải trả tiền công.
Khi tôi xem xong quay xuống, anh đạp xe thồ vẫn ngồi chỗ cũ, tay chống cằm tì lên góc bàn, hai mắt lim dim - chắc đang ngủ gật. Thấy tôi, anh ta chẳng tỏ ra mừng, tuy phải chờ khá lâu.
Mặt trời đã ngả sang phía Tây, nhưng trời vẫn nóng và ngột ngạt. Anh ta đứng dậy, búng búng vào đôi lốp xe.
- Ngồi nghỉ đã, - tôi nói. - Chốc nữa mát hẵng về. Anh không vội chứ?
Anh ta lắc đầu, và lại miễn cưỡng ngồi xuống. Tôi gọi hai đĩa bánh và hai cốc nước ngọt.
- Anh là dân ở đây, chắc xem lăng này nhiều lần rồi nhỉ?
- Hai lần. Lúc còn bé và năm kia.
- Sao ít thế?
- Tôi không thích.
Hai chúng tôi lại ngồi im. Lát sau, anh ta chợt hỏi:
- Hôm nay cái bà bán bưu ảnh có hướng dẫn ông xem không?
- Không.
- Cũng không kể ông nghe ai xây và bao nhiều người đã chết khi xây cái lăng này?
- Không, - tôi ngạc nhiên nhìn anh ta. - Sao anh hỏi thế?
- Chẳng sao cả. - Anh ta đáp, không lầm lì như trước, nhưng đôi mắt lộ vẻ giận dữ độc ác. Tôi đoán anh ta đang có điều muốn nói ra cho nhẹ người. Tôi kiên nhẫn chờ.
- Tiếc là ông không được nghe bà ta kể, kể một cách say sưa và thích thú, về cái chết thê thảm của ông nội bà ta... Và cũng là ông nội của tôi nữa.
- Ra bà ta là bà con với anh?
- Chị gái tôi.
- Ông nội anh là một trong những người xây lăng này?..
- Vâng.
- Và xây xong cũng bị Khải Ðịnh giết chết?
- Ðúng thế.
Tôi không hỏi gì thêm, chỉ im lặng ngồi uống nước. Tôi từng tiếp xúc với nhiều loại người, trong nhiều hoàn cảnh khác nhau, nên biết gần như chắc chắn rằng trong những trường hợp thế này, người nói chuyện sẽ chẳng bao giờ chịu rời anh, nếu chưa kể hết những gì anh ta vừa bắt đầu.
Ðúng thế, một lúc sau người bạn đường của tôi lên tiếng, vẻ trầm ngâm như tự nói với mình nhiều hơn là với tôi:
- Cũng vì cái lăng này mà chị em tôi giận nhau, thậm chí còn từ nhau. Chị tôi là một người tốt, rất tốt, chứ không phải loại vứt đi như tôi. Không chồng, không con, suốt đời chị ở vậy nuôi em, rồi em lớn - giúp đỡ các cháu. Thế mà ông biết không, chị tôi lại làm cái công việc... - anh ta dừng lại tìm từ, - cái công việc khốn nạn ấy. Tức là tự nguyện đêm ngày hầu hạ chính thằng đã giết ông nội mình. Quét nhà cho nó, lau chân, phủi bụi cho nó! Mỉa mai thay, lại còn say sưa kể người khác nghe việc nó đã giết ông nội mình thế nào! Tôi khuyên ngăn, tôi cấm, chị tôi không nghe, tới nay vẫn tiếp tục làm cái việc như ông thấy. Thật xấu hổ! Thật nhục nhã!...
Tôi vẫn ngồi im, tò mò lắng nghe.
- Ông xem, thế thì hỏi còn chịu sao nổi? Tôi cứ lộn cả ruột khi nghĩ đến cảnh chị tôi xun xoe trước nó, ho không dám ho, nói không dám nói. Nhiều lúc tôi những muốn leo lên, giá có súng, lia cho nó, tức là cái tượng bằng vàng hay mạ vàng gì đó của nó, vài băng vào mặt. Tôi là người dốt nát, không hiểu gì, nhưng cũng biết rằng lúc làm vua, hắn là thằng bán nước và gây không ít tội ác cho nhân dân. Thế mà tại sao bây giờ người ta đua nhau đến đây chiêm ngưỡng hắn? Phải leo đúng một trăm bậc mới được nhìn hắn! Phải nhìn lên, phải nín thở! Phải để dép ngoài cửa! Phải có giờ, có ngày! Có đúng là bất công không? Ðúng, bất công! Một sự bất công được đặt lên ngai vàng! Tôi thật không sao hiểu nổi. Trước kia, thời thằng Mỹ, thằng ngụy là một nhẽ, còn bây giờ các ông - Việt cộng, Cách mạng, - sao các ông chịu thế? Lại nghe nói thế giới định bỏ hàng chục triệu bạc để tô vẽ thêm cho nó nữa. Ðấy, ông nói tôi nghe đi, vì sao, vì sao lại thế?
- Vì ông nhầm lẫn giữa vua Khải Ðịnh và tượng vua Khải Ðịnh. - Tôi đáp. - Cái người ta đến đây xem không phải một con người cụ thể nào đó cùng những việc làm xấu tốt của ông ta, mà là một tác phẩm nghệ thuật do nhân dân tạo ra...
- Ha, ha, ha! Tác phẩm nghệ thuật! - Anh ta cười to ngắt lời tôi. - Vâng, nhưng lẽ nào ông không hiểu rằng chính nhờ cái tác phẩm nghệ thuật ấy của ông mà nó sống được qua các chế độ, sống cho tới ngày nay và sẽ còn sống nữa? Thế mới là vua! Thế mới là Khải Ðịnh! Hắn biết đánh vào chỗ yếu của người khác. Hắn là con mọt biết bám vào bàn thờ tổ tiên người khác mà sống. Mấy ai dễ vứt bỏ tổ tiên mình chỉ vì một con mọt? Nên con mọt ấy cứ đàng hoàng sống. Mà thử hỏi sống ở đâu, sống thế nào? Ha, ha!... - anh ta cười to như một người điên, rồi ngừng một giây, nói tiếp: - Ông không để ý thấy mặt thằng Khải Ðịnh đang vênh lên à? Vì nó biết không những nó được an toàn, cung phụng chu đáo, mà nó còn là ân nhân, hay đúng hơn là nguồn sống của nhiều người khác. Như chị tôi chẳng hạn...
- Và cả những người đạp xe thồ chở khách tham quan nữa, - tôi châm chọc.
- Vâng, cả tôi nữa, - anh ta cụt hứng, cúi đầu thở dài. - Nhưng tôi thì nói làm gì. Tôi là một người vứt đi. Tôi là con số không, con số không cả với năm miệng ăn trong nhà. Tôi ghét chị tôi như thế, nhưng tôi đã làm ngơ để vợ tôi đều đặn nhận tiền giúp đỡ của người tôi ghét... Vâng, tôi là thằng vứt đi. Tôi không bao giờ xem mình ngang hàng với chị tôi, với các ông. Các ông phải khác, phải khác cơ... Ông nói cho tôi hiểu đi!...
Anh ta nhìn chằm chặm vào mắt tôi, mặt mếu máo như muốn khóc. Tôi lấy làm tiếc đã đánh vào chỗ yếu của anh ta. Tôi trả tiền rồi đứng dậy, không muốn kéo dài thêm câu chuyện.
Chúng tôi lại lên xe. Không ai nói thêm câu nào nữa. Ðường trở lại thành phố khó đi hơn, nắng gắt, nhiều dốc ngược. Lần này hầu như chúng tôi đổi chỗ hẳn cho nhau. Tôi ngồi trước còng lưng đạp xe, còn anh ta, con người vứt đi ấy, ngồi phía sau, thỉnh thoảng nhảy xuống ủn xe cho tôi.
Huế - Hà Nội, 1982
Lão Hạ Người viết: Thái Bá Tân 10/10/2006 LÃO HẠ
Theo chỗ tôi biết thì cả xã tôi ai cũng ghét lão. Còn hơi sờ sợ. Phần nhiều người ta sợ lão như sợ một vật dơ bẩn, một cái thây ma hoặc một sự gàn quái. Nhưng cũng có người sợ vì những lý do khác.
Xuống tàu ở ga Mỹ Lý, tôi xách cặp đi bộ về nhà, tới cây đa cụt đầu làng thì gặp một người bạn học cũ và đứng lại trò chuyện mấy phút. Mới được vài câu, anh kia bỗng nhìn quanh, bảo tôi:
- Kìa, lão Hạ đang đến đấy! Tối nay lại nhà mình chơi nhé. Mà cậu cũng đi đi, kẻo dây vào lão ấy khó chịu lắm.
Anh bạn tôi vội vã biến mất sau bờ tre non trước mặt. Tính tò mò cố hữu giữ chân tôi lại.
Trên con đường rải xỉ sắt khúc khuỷu đầy những cọng rơm dính phân súc vật, lão Hạ đang chậm chạp, khó nhọc đi về phía tôi. Ðó là một ông già đã hơn bảy mươi, bé nhỏ và đặc biệt rất gầy. Lão chống chiếc gậy bằng gỗ mun có tay cầm cong cong, chạm trổ những hình thù gì đó không rõ. Ðầu gậy chống xuống đất lâu ngày bị mòn, trở thành quá ngắn, đến mức dùng nó, lão phải cúi thấp cái lưng vốn đã rất còng. Lão đội chiếc khăn xếp đen được gấp thành nhiều nếp. Trên người lão, chiếc áo dài, cũng màu đen, có ba chiếc cúc tròn bên nách phải, tuy đã sờn rách đôi chỗ nhưng nhìn chung còn khá tươm tất. Chiếc quần gụ mặc bên trong cũng vậy. Nhìn lão, tôi không thể không ngạc nhiên, thầm nghĩ chắc phải vất vả lắm lão mới giữ được vẻ bề ngoài thế này - nghĩa là đúng như cách đây mấy chục năm, khi lão còn là chánh tổng, làm mưa làm gió ở xã tôi và các xã lân cận.
Lão Hạ bước lại gần, lặng lẽ nhìn tôi một lượt từ đầu đến chân, từ đôi giày da, bộ com lê mới đến cặp kính trắng. Rồi lão dí chiếc gậy ngắn cụt vào sát bụng tôi, oai vệ hỏi:
- Anh con nhà ai?
Lễ phép, tôi nói tên bố mẹ. Sợ lão không nhận ra, tôi nói cả tên ông bà nội.
- À, ra thế, ra thế... Anh có biết ngày xưa ông anh, rồi sau là bố anh, suốt đời phải làm thuê, hầu hạ ta không? - lão hỏi tôi với vẻ thích thú độc ác. Ðôi mắt lão long lên, sáng và nhanh một cách không tương xứng với khuôn mặt già cỗi, nhăn nheo và cáu bẩn.
Chờ mãi không thấy trả lời, lão nói tiếp, lần này ra chiều an ủi:
- Ừ mà ngày ấy không riêng gì ông và bố anh, cả cái vùng Nho Lâm rộng lớn này ai cũng phải hầu hạ ta... - Ngừng một lát, lão lại nhìn tôi lần nữa từ đầu đến chân. - Thế mà bây giờ con cháu những thằng khố rách áo ôm ấy lại trở về làng thế này đây... Hừ, được lắm! Ðược lắm! Nhưng có ngày chúng mày sẽ biết tay thằng Hạ này! Năm năm mươi tư chúng mày không giết tao, nhưng nay mai mà giành được quyền trở lại thì tao không tha chúng mày đâu. Bắn tuốt! Bắn tuốt! Thôi cút đi! Cút!...
Lão đứng thẳng người, một tay tì lên chiếc gậy, tay kia chỉ về phía làng. Môi lão mím chặt, từ khóe miệng ứa ra dòng nước bọt vàng vàng, nhầy nhầy, từ đó chảy xuống chiếc cằm không râu của lão. Trông lão giống con chó dại bị nhốt trong cũi sắt, biết không bị ai đánh nên càng to tiếng sủa.
Trước tôi có nghe nói lão độc ác, càn rỡ, gặp ai chửi người ấy, nhưng không nghĩ đến mức ấy. Lão điên ư? Có người nói thế. Nhưng những lời đầy hằn học, giận dữ và không phải không lô-gích kia không lẽ là của một người điên? Làm gì với lão bây giờ? Khó dùng lời hay lẽ phải nói chuyện hoặc căn vặn lão. Mắng chửi lại càng không, vì lão là người già.
Tôi đành nuốt giận, lặng lẽ bỏ đi, với cảm giác của người bị xúc phạm mà không được tự vệ.
Lão Hạ chống gậy nhìn theo, với vẻ thích thú và thách thức không che giấu.
- Trông cũng khá đấy! Quan lớn! Hà Nội! Thế mà phải cuốc bộ từ ga Mỹ Lý về làng, còn ta ấy à, ngày xưa ta bắt làm riêng cho ta một ga xép ở Chò Diệc nhé! Chỉ mình ta duy nhất được sử dụng! Ha, ha!...
Tiếng cười của lão theo tôi về tận nhà. Ðôi lúc tôi tự hỏi không hiểu ngày trước, - như lão nói, - vì sao người ta tha chết cho lão, để bây giờ lão cậy già yếu, cho phép mình ăn nói càn rỡ như vậy.
Buổi tối, khi cả nhà quây quần bên mâm cơm, tôi đem chuyện vừa rồi ra kể. Mẹ tôi lên tiếng đầu tiên:
- Gặp lão, anh nên tránh xa thì hơn!
Ðúng như lời anh bạn khuyên lúc chiều!
- Lão thật quá đáng. - Bố tôi thong thả nói. - Chính quyền thì quá nhu nhược. Tại sao không gô cổ lão cho vào nhà giam? Cứ nghĩ già là được phép chửi làng xóm, chửi chế độ à? Ðổi đời được ba, bốn mươi năm nay mà lão vẫn không tỉnh ra tí nào. Năm năm tư người ta tha vì con lão. Bây giờ người ta không động đến vì tuổi già. Nhưng cái gì cũng có giới hạn. Tôi thì cứ đà này tiếp tục là tôi bắn, già cũng bắn!
- Ấy chết, gì mà hăng thế? Bắn người đâu phải chuyện dễ. - Mẹ tôi xen vào.
- Bà thì hiểu thế nào được. Bà không đi ở cho nó, bà không biết.
Cứ thế câu chuyện tiếp tục xoay quanh lão Hạ, cái lão Hạ đáng ghét vô tình tôi để xen vào ý nghĩ của mình, và giờ đây không đâu đưa hắn vào ngôi nhà ấm cúng của bố mẹ. Tuy nhiên, qua câu chuyện tôi cũng biết thêm đôi điều về lão.
Trước năm 1953, tức là năm cải cách ruộng đất ở quê tôi, suốt hai mươi năm liền lão Hạ làm chánh tổng của tổng Nho Lâm rộng lớn. Lão nổi tiếng hách dịch và tàn ác. Trong tổng, từ già đến trẻ, gặp lão ai cũng phải chào "Cụ Lớn", mặc dù lúc ấy lão còn trẻ. Nói chuyện với người khác, lão thường quát tháo, bao giờ cũng xưng "ta" (như chiều nay lão xưng với tôi). Lão có những năm người vợ và rất giàu - điều ấy khỏi nói. Uy và lực lão được tăng gấp bội khi bố lão trở thành quan tứ trụ triều đình Huế. Lão bắt dân trong tổng đắp con đường ô-tô chạy thẳng từ Quốc lộ Một đến tận sân nhà lão. Việc lão khoe lập riêng cho lão một ga xép ở Chò Diệc là điều có thật. Tuy việc này mình lão không làm nổi, phải nhờ ông bố can thiệp.
Sau cách mạng, quê tôi là vùng tự do, tất nhiên quyền lực và thái độ hống hách của lão có giảm, nhưng của cải, ruộng đất và cái chức chánh tổng vẫn được giữ nguyên. Chỉ đến năm 1954 lão mới mất những thứ đó, suýt nữa thì mất cả mạng. Số là lúc ấy lão đã bị kết án tử hình, nhưng đúng hôm đem xử bắn thì trời bỗng mưa to phải hoãn lại. Sáng sớm hôm sau thì có lệnh ân xá từ trên đưa xuống, với lí do lão có người con trai trốn nhà tham gia kháng chiến và ở chiến dịch Ðiện Biên Phủ đã lập công lớn.
Từ ngày ấy lão tỏ ra biết điều hơn. Như con cáo trốn trong hang, suốt ngày lão chỉ ngồi lì ở nhà với một bà vợ duy nhất còn ở lại với lão và nuôi lão. Mấy năm gần đây không hiểu sao lão hay ra khỏi nhà. Lúc đầu chỉ quanh quẩn dạo chơi, sau chống gậy đi hết thôn này, thôn nọ, không mục đích, hay với mục đích nào đó mà người ta không biết. Một điều lạ nữa là bao giờ ra đường, lão cũng mặc những bộ quần áo thời còn làm chánh tổng. Từ lâu người ta đã quên sự tồn tại của lão, thế mà đùng một cái, lão xuất hiện với bộ quần áo lạc lõng kia, khiến mọi người vừa ngạc nhiên, vừa thấy buồn cười. Người ta nghĩ có lẽ tuổi già làm lão quẫn trí. Trẻ con, và cả người lớn, bắt đầu cười giễu, nhưng lão cứ phớt. Hơn thế, thấy không ai làm gì mình, càng ngày lão càng tỏ ra ngang ngược.
Một hôm đi ngang đám thợ cày đang làm việc, lão dừng lại, giơ gậy chỉ xuống ruộng:
- , chúng mày phải cày sâu vào! Gãi đất kiểu ấy sẽ làm hỏng ruộng ta đấy.
Mấy người kia ngơ ngác không hiểu lão nói gì.
- Ruộng của ta! Ngày xưa ruộng này là của ta, bị các người cướp, nhưng sắp tới ta lấy lại hết!
- Sắp tới là bao giờ? - Một người hỏi to, ý châm chọc.
- Cứ đợi đấy, không lâu nữa đâu. Nhưng không vì thế mà chúng mày được phép cày nông, làm ruộng ta bạc màu...
Lão chưa nói hết câu thì - đốp! Một nắm bùn từ ruộng bay lên, rơi ngay trước mặt lão. Lão giận dữ giơ gậy chửi rủa mấy câu rồi bỏ đi.
Lần khác, lão chặn một bà đi chợ, chọc gậy vào bụng bà ta:
- Hồi cải cách, người ta lấy của tôi hai chiếc chum cho bà, bà chưa làm vỡ chứ? Sắp tới đổi đời, tôi sẽ đòi lại, bà nhớ lấy!
Vốn yếu bóng vía, bà kia lúng búng gì đó rồi nhanh chân bỏ đi.
Lại lần khác, lão láo xược chỉ gậy vào mặt một bác nông dân, tuyên bố ngày xưa ông cha bác ta từng cày ruộng rẽ và đã tìm cách ăn bớt thóc của lão. Lão suýt bị đánh một trận nhừ tử, nếu không vì bác nông dân kia sợ mang tiếng đánh người già, và sợ ông bà mình đang mồ yên mả đẹp bỗng dưng bị dựng dậy làm trò cười cho thiên hạ...
Tóm lại, lão Hạ đã nhanh chóng trở thành một nhân vật tai tiếng trong xã, và không phải không có người đến gặp chính quyền đề nghị bắt giam lão. Nhưng lão vẫn tiếp tục khăn xếp, áo the, chống gậy đi khắp nơi, tiếp tục nhắc mọi người nhớ thời kì vàng son xưa kia khi lão làm chánh tổng, và rằng sắp tới đổi đời, lão sẽ trở lại với cái chức đó.
Hai năm sau trở về thăm quê, tôi lại gặp lão.
Lão nằm còng queo bên vệ đường, trên nền cát bẩn loang lỗ nước - chắc lão vừa đái dầm ra đấy. Lão rên ư ử, hai tay ôm đầu làm gối. Chiếc khăn xếp bất li thân không còn trên đầu. Những sợi tóc thưa thớt, đen lẫn trắng, dính vào nhau, hoặc cụp xuống, hoặc chổng lên như những chiếc gai nhọn. Chiếc áo dài bị rách một miếng to phía trước bụng, có thể do chó cắn. Mắt lão nhắm, nhưng khó nói lão ngủ hay đang thức. Nước dãi chảy ra từ khóe miệng, gặp bụi bẩn đóng lại thành một dòng đen đen, luôn có vài con ruồi bay vo vo bên cạnh.
Một người cùng làng cho biết vợ lão, - nguồn sống, người thân duy nhất còn lại của lão, - bị bệnh chết cách đây nửa năm. Thế là lão đâm ra bơ vơ không nơi nương tựa, phải đến xin ăn ở những nhà trước đấy lão thường chửi mắng. Mọi người ai cũng ghét lão, thế mà đến xin nhà nào, dù với thái độ kẻ cả láo xược, người ta cũng cho, lí do dễ hiểu là để tống lão đi càng sớm càng tốt. Còn chính quyền xã thì vì không muốn có người chết đói trên địa phận mình, đành trích công quỹ mua thóc cấp cho lão. Lần nào lão cũng đem già nửa số thóc ấy đổi lấy rượu uống say bí tỉ.
Vẫn nằm yên trên cát bẩn, lão Hạ ngẩng đầu, từ từ mở đôi mắt đỏ ngầu nhìn tôi. Lão nhìn rất lâu, chốc chốc nhíu mày như cố nhớ tôi là ai. Cuối cùng lão nhớ ra:
- , chào anh quan Hà Nội... Chắc lại đi bộ từ ga Mỹ Lý về chứ gì? Ngày xưa... è, è... ngày xưa ta bắt lập riêng cho ta một ga xép ở Chò Diệc... è, è... Anh biết điều ấy chứ?
Rồi quá yếu, lão gục xuống trong tư thế cũ.
Cách đây không lâu, nhận được thư nhà, tôi rất ngạc nhiên khi biết lão Hạ vẫn chưa chết. Thì ra lão sống lâu hơn tôi tưởng.
Diễn Châu, 13.1.1984
Kí sự về một ngọn đèn đã tắt Người viết: Thái Bá Tân 10/10/2006 KÍ SỰ VỀ MỘT NGỌN ÐÈN ÐÃ TẮT
1
Ở công ty S.B, khi được hỏi ai là điển hình tốt của công nhân đèn biển những năm gần đây, mọi người nhất trí nêu tên Nguyễn Thiếu Sơn, đảo trưởng đảo đèn Hòn mực. Sau đây là một số ý kiến nhận xét về anh ta.
Giám đốc công ty:
Một anh chàng tuyệt diệu! "Người hùng" của chúng tôi đấy. Năm năm liền chiến sĩ thi đua. Không phải nhiệm vụ của mình, nhưng cậu ấy tình nguyện ra đảo và ở liền một mạch đến tận bây giờ. Cũng trong chừng ấy năm, chưa để xảy ra sự cố nào, đặc biệt không bao giờ kêu ca khó khăn, không bao giờ xin về đất liền! Một anh chàng ít lời, khiêm tốn, thông minh, có ý thức kỉ luật tốt. THẾ mà trước thuộc loại "có vấn đề" cơ đấy. Thế nào nhà báo cũng phải ra Hòn Mực thăm cậu ấy và nếu có thể, xin viết cho một bài kha khá vào. Chúng tôi muốn mọi người hiểu hơn nữa cái nghề gian khổ thầm lặng này. Vả lại cũng cần nêu gương cho lớp trẻ noi theo, chứ nói thật, chúng quen sung sướng trong đất liền, ra đảo chưa ấm chỗ đã đòi về.
Thư kí công đoàn:
Hiếm có trường hợp nào như cậu Sơn - năm năm liền không đi phép lần nào. Có vẻ cậu ấy không muốn rời đảo đi đâu cả, dù chỉ ít ngày. Cũng chẳng có nhu cầu tiếp xúc với ai. Người ta kể với tôi rằng cậu ta thường cho đứa bạn cùng nhà đèn về đất liền, có khi đến cả tháng. Còn lại một mình, cậu ta đảm nhiệm hết mọi việc. Tất nhiên như thế là vi phạm nguyên tắc, là mạo hiểm, nhưng dù sao theo tôi, phải là người thực sự yêu nghề mới xử sự như VẬY. À mà sáu tháng đầu năm này Công đoàn Tổng cục Ðường biển lại có giấy khen cho Nhà đèn Hòn Mực, khi nào đi các anh nhắc tôi gửi cho cậu ấy.
Một công nhân, bạn cũ của Sơn:
Em thì em nghĩ mọi chuyện không đơn giản như thế. Sống với nhau nhiều, em biết. Ðúng là nó "an tâm công tác" như người ta nói, và năm năm không nghỉ phép lần nào, không kêu ca, không đòi về đất liền. Nhưng thử hỏi vì sao? Nhất là trước kia nó từng hiếu động, ham hiểu biết và ưa giao tiếp. Chính vì thế mà bao lần mang vạ vào thân, để rồi không hiểu sao cuối cùng tình nguyện ra đảo rồi ở rịt ngoài ấy. Nếu có dịp, anh thử tìm hiểu xem.
Một thủy thủ trên tàu VS.735, chuyên tiếp tế cho các đảo đèn khu vực phía Bắc:
Sơn Hòn Mực ấy à? Một thằng hâm tỉ độ.
2
Những tìm hiểu thêm khi đi trên tầu VS.735.
Nguyễn Thiếu Sơn quê ở Thái Bình, 32 tuổi, mồ côi cả cha lẫn mẹ và hiện không còn ai thân thích. Hết phổ thông, được chọn sang Rostok, Cộng hòa Dân chủ Ðức, học trung cấp kĩ thuật ba năm, ngành sửa chữa máy tàu biển. Sau đó ở lại làm việc tại nước bạn bốn năm nữa là bẩy. Về nước được phân công tác ở công ty S.B, theo chuyên môn đã học là sửa chữa máy thủy.
Về công ty chưa bao lâu, Sơn đã nổi tiếng một anh chàng lập dị. Thực ra ở anh mọi cái đều bình thường, kể cả cách ăn mặc lẫn cư xử. Tuy nhiên người ta vẫn thấy có cái gì đấy vừa chương chướng vừa buồn cười. Có lẽ đó là sự thơ ngây cả tin và tính thật thà quá mức, nhiều khi khiến người khác thấy bất tiện. Anh đơn giản hóa mọi chuyện, nghĩ ai cũng như mình nên quá cởi mở, thoải mái, quá thẳng thắn mà không chịu chú ý tới những mối quan hệ phức tạp và rất tế nhị của cuộc sống quanh mình.
Anh là người thông minh, có trình độ chuyên môn giỏi, luôn làm việc hăng hái - quá ư hăng hái - và thường hoàn thành việc được giao nhanh và tốt đến mức ai cũng phải ngạc nhiên. Dễ hình dung anh nổi bật thế nào giữa một tập thể xưa nay vốn trì trệ như phân xưởng nơi anh đang công tác. Sự đời vẫn thế, nếu cả tập thể cùng lười biếng, gian dối thì chẳng sao, ai cũng là người tốt, nhưng có anh chăm chỉ, tử tế xuất hiện thì tình hình lại khác. Có cái để so sánh, sự lười biếng, giả dối trở nên dễ nhận thấy. Vậy thì thằng mới ấy là kẻ thách thức, là tên phá bĩnh và cần phải loại trừ.
Lúc đầu mọi người lặng lẽ quan sát, không khen cũng chẳng chê, nghĩ tay này chẳng mấy mà "xịt" như nhiều lính mới hung hăng trước đó, rồi sẽ tự hòa vào cái không khí chung ở đây và trở thành như họ.
Tuy nhiên thực tế không diễn ra theo hướng ấy. Sơn tỏ ra là người có bản lĩnh. Anh vẫn giữ được phong cách làm việc như những ngày mới đến. Hơn thế, còn bắt đầu công khai phê phán tình trạng kỉ luật lỏng lẻo và những điều bất hợp lí trong quá trình sản xuất của phân xưởng. Những ý kiến anh nêu đều đúng, nhưng phần vì do cách phê bình quá căng, phần vì người bị phê tự ái không chịu tiếp thu, nên dần dần anh rơi vào thế cô lập, một mình chọi cả tập thể. Anh không nao núng, thậm chí còn thích sự cô đơn kiêu hãnh của mình. Mọi người khó chịu nhưng chẳng làm gì được, vì anh làm việc tốt, không có gì để bắt bẻ, cho đến một hôm...
Ðây là lần va chạm lớn đầu tiên. Sơ kết sáu tháng đầu năm, Sơn kiên quyết không nhận danh hiệu Lao động Tiên tiến, nói mình chỉ làm việc bình thường và nhất định từ chối món tiền thưởng phân xưởng "Hoàn thành vượt mức kế hoạch". Theo anh, thực ra phân xưởng không những không vượt, mà còn chưa đạt kế hoạch được giao.
Lần này, vì uy tín và quyền lợi của cả phân xưởng bị đe dọa, ai cũng nhao lên phản đối quyết liệt. Họ kết anh đủ các thứ tội, tìm đủ cách, cả cứng lẫn mềm, cố thuyết phục nhưng anh không nhân nhượng. Lần đầu tiên, sự làm ăn dối trá bị công khai vạch trần bằng những con số không cãi vào đâu được.
Sơn không là người thích chơi trội, cũng không có động cơ cá nhân nào, đơn giản chỉ muốn đấu tranh vì lẽ phải. Anh viết đơn báo cáo tất cả lên công ty. Một thời gian sau càng thất vọng hơn khi thấy phân xưởng vẫn được công nhận vượt kế hoạch, và tất cả trừ anh đều Lao động Tiên tiến và lĩnh thưởng.
Sau vụ này, tình hình phân xưởng vẫn y nguyên. Thay cho thái độ không khen, không chê trước kia, bây giờ người ta bắt đầu để ý những điều nhỏ nhặt nhất ở anh để bới móc. Dễ nhất là đầu tóc và cách ăn mặc. Không thể nói tóc anh quá dài, nhưng trong một cuộc họp nó vẫn bị đem ra phê bình. Anh nhíu trán ngồi nghe, sau không những không cắt ngắn, mà còn cố tình để dài hơn. Kết quả là tóc anh dài thật, dài lút gáy, đến mức một lần bị công an bắt vào đồn cắt trắng nửa đầu. Hôm sau và suốt cả tháng tiếp theo, anh đến phân xưởng với cái đầu bị cắt trọc một nửa ấy, ai khuyên can thế nào cũng không chịu chữa lại. Khi giám đốc công ty nhắc nhở, anh nói: "Ðể tóc thế nào là quyền của tôi. Bị xúc phạm một cách thô bạo, tôi phải để mọi người thấy rõ điều ấy".
Ðợt sơ kết sáu tháng tiếp theo phân xưởng lại vượt kế hoạch, chia thưởng, và Sơn lại từ chối không nhận, sau khi chứng minh chính xác rằng cái vượt kế hoạch ấy chẳng qua là trò ảo thuật của ông quản đốc. Nghĩa là chuyện cũ lặp lại, nhưng lần này anh làm căng. Anh đến văn phòng lãnh đạo công ty, đảng ủy cơ quan, rồi làm ầm lên ở những nơi đó. Người ta lắng nghe anh, tuy không thật chăm chú lắm, và hứa sẽ cho điều tra lại. Trước khi chia tay, họ dành hơn nửa tiếng đồng hồ nhắc anh về tác phong sinh hoạt, về sự khiêm tốn và đoàn kết nội bộ.
Mấy ngày sau, nghe tin phân xưởng vẫn được công nhận vượt kế hoạch, Sơn bỏ không đi làm suốt cả tuần. Lúc trở lại, anh hờ hững nhận quyết định cảnh cáo toàn công ty vì tội tự ý nghỉ việc. Ðang sẵn buồn bực do trục trặc với người yêu, ngay hôm ấy anh viết đơn xin ra đảo làm công nhân gác đèn biển, một việc luôn thiếu người và xưa nay chưa có ai tình nguyện...
3
Hòn Mực là một đảo đá nhỏ nhưng khá cao ở xa ngoài biển, nằm trên luồng tàu chạy vào cảng Cửa Ông. Khi tàu VS.735 chở chúng tôi từ đảo Long Châu đến, trời đã ngả về chiều. Gió thổi mạnh, sóng lớn, có lẽ phải đến cấp năm, cấp sáu - ở đây mùa này bao giờ sóng cũng lớn.
Khác với các nhà đèn khác thường đoán ngày giờ tàu từ đất liền, ra đứng chờ sẵn từ trước, nhà đèn Hòn Mực này tỏ ra thờ ơ. Tàu chúng tôi kéo còi mấy lần mới thấy một bóng người chui ra khỏi ngôi nhà chuồng chim chênh vênh trên vách đá. Người ấy thong thả tuột xuống theo chiếc thang sắt thẳng đứng, rồi bơi về phía chúng tôi bằng chiếc thuyền nan nhỏ.
- Mày lại cho thằng Ba vào đất liền rồi hả Sơn ?
Ông trưởng trạm hỏi, khi chiếc thuyền nan áp vào thành tàu. Ông một ông già nhỏ bé, da đen xạm, nghe nói từng coi đèn ở đảo hơn ba mươi năm. Lần này ông đi kiểm tra khắp một lượt các nhà đèn dưới quyền ông phụ trách. Cùng đi với ông còn một người nữa là thợ chữa máy nổ, nhưng nếu cần chữa luôn cả máy vô tuyến điện.
- Hắn bảo ở nhà có việc quan trọng...
- Lâu chưa?
- Tuần trước.
- Thế sau hắn ra bằng cách nào?
- Chắc đi nhờ tàu Hải quân.
Ông trưởng trạm thở dài rồi buông một câu ông đã nói nhiều lần nhưng không tin lắm vào hiệu quả của nó:
- Cậu phải liều liệu đấy, chứ thế là không ổn ÐÂU. Ở đây một mình, nhỡ cậu ốm chết, ai chịu trách nhiệm? Thôi, - ông hạ giọng, - cậu cho tớ và anh nhà báo này vào trước, rồi đón ông máy nổ và mấy thứ đồ tiếp tế.
Một giờ sau, khi kiểm tra hết mọi việc không thấy có vấn đề gì, ông trưởng trạm giao đồ tiếp tế cho Sơn và Ba (vắng mặt), thông báo sơ qua tình hình công ty. Rồi bất chợt đặt mạnh cốc nước xuống bàn, ông nói:
- Thôi, Hòn Mực thế là được. Bây giờ tranh thủ còn sớm đi luôn ra Cô Tô. Anh nhà báo thấy thế nào? - Ông quay sang tôi. - Ngoài ấy sóng lớn đấy. Nhà đèn Cô Tô lại không có thuyền con ra đón như ở đây. Phải bơi vào bờ, hai trăm mét, không ngại chứ? Hay ở đây một hôm, mai chúng tôi quay lại đón đi Móng Cái luôn thể?
Tôi không sợ sóng lớn, không ngại bơi hai trăm mét, nhưng đã đồng ý ở lại Hòn Mực. Tôi muốn tìm hiểu nhiều hơn về Sơn.
*
Phải nói ngay từ đầu tôi có ác cảm với con người này, dù trong thâm tâm rất muốn ngược lại. Ở anh ta có cái gì đấy vừa lạnh lùng, vừa khinh khỉnh khiêu khích. Người anh ta dong dỏng, quần áo nghiêm chỉnh, là điều ít thấy ở dân đèn biển. Khuôn mặt có thể nói ưa nhìn, nếu không kể đôi mắt mệt mỏi nhiều khi bỗng ánh lên những tia hằn học.
- Tôi không thích những người làm văn, viết báo như anh. - Ðó là câu đầu tiên anh ta nói khi chỉ còn hai người.
- Vì sao?
- Vì các anh nói dối không biết ngượng.
- Có thể cụ thể hơn được không?
Sơn lặng lẽ nhìn tôi từ đầu đến chân, rồi nhếch mép không chút thân thiện:
- Riêng việc anh vờ không biết đủ chứng tỏ anh đang nói dối. - Hình như cảm thấy mình quá lời, anh ta hạ giọng nói tiếp, chân đá vào gói sách báo ông trưởng trạm vừa mang ra còn để ngổn ngang giữa nền nhà cùng mấy quả bí đỏ: - Ra đây yên tĩnh, anh đọc lại cái mớ này sẽ rõ.
Tôi tự ái, muốn đập lại vài câu thật đau, nhưng rồi nghĩ thế nào lại thôi, và bỏ đi rửa ráy. Sơn cũng lẳng lặng xách bộ đồ nghề leo lên đỉnh núi, nơi có ngọn đèn cùng chiếc máy phát điện chạy bằng sức gió.
Ngôi nhà lợp ngói hiện Sơn đang ở được xây trên một chỗ tương đối bằng phẳng ở lưng chừng núi, diện tích khoảng ba mươi mét vuông, gồm nhà ở, sân, bếp và độ hai mét vuông được phủ đất chở từ đất liền ra để trồng rau sam. Ra ngoài giới hạn ba mươi mét ấy, hoặc là rơi xuống biển, hoặc va đầu vào vách đá dựng đứng.
Tôi đưa mắt nhìn một lượt khắp nhà. Có hai chiếc giường. Một chiếc không chiếu, không màn, chỏng chơ mấy cái xoong đen nhẻm. Giữa nhà là chiếc bàn vuông gỗ mọt với hai chiếc ghế, trên bàn có chiếc đèn dầu, chiếc điếu cày, bàn cờ tướng đang đánh dở và một bộ tú lơ-khơ đã quá nhàu nát. Trong một góc tường treo hai khẩu súng trường, chiếc bản đồ ngả vàng và chiếc đài bán dẫn chắc hết pin từ lâu. Ngay phía dưới, trên chiếc hòm gỗ không khóa là chồng sách lộn xộn, có cả mấy cuốn bìa cứng khá dày, tôi đoán là sách kĩ thuật bằng tiếng Ðức.
Ở đất liền, người ta kể với tôi rằng năm 1955, mải rút chạy khỏi Việt Nam, người Pháp quên không tiếp tế cho đảo Hòn Mực và do vậy để ông già coi đèn chết đói. Khi ta ra tiếp quản thì xác ông đã thối rữa nằm trên sàn xi măng. Nghe nói bây giờ gặp hôm trời ẩm, nền nhà lại nổi lên hình người ông già, đủ cả đầu và tay chân. Lúc này, nhớ lại chuyện ấy, bất giác tôi cúi xuống nhìn, nhưng không thấy gì.
Không còn chỗ nào khác, tôi đặt chiếc túi du lịch khá mốt mới mua xuống chiếc gường không màn, không chiếu, cùng một hàng với mấy chiếc xoong bẩn. Bốn giờ chiều, chúng tôi ăn tối, không ai nói với ai câu nào.
Ðây là bữa cơm đầu tiên tôi ăn với công nhân đèn biển trên đảo. Sự kham khổ của nó khiến tôi sửng sốt, dù tôi từng nếm mùi bếp ăn sinh viên những ngày thiếu thốn nhất.
Ðặt trên tờ báo cũ nhàu nát là một bát nước muối màu vàng nhạt (do muối bẩn), một đĩa rau sam luộc hái từ ô đất hai mét vuông nói trên, một xoong canh lõng bõng mấy miếng bí đỏ vừa chở từ đất liền ra, và nồi cơm gạo hẩm bốc mùi sặc sụa. Hay anh ta định thử thách hoặc tỏ thái độ với tôi? Không, sau này đi các đảo khác, tôi hỏi và biết đời sống những người coi đèn bao giờ cũng kham khổ như vậy. Một tháng mới có một lần tàu từ đất liền ra, chủ yếu mang sách báo, tiền lương, gạo và ít rau xanh, thi thoảng thêm đôi cân cá khô. Gạo và nước ngọt thuộc "hàng chiến lược", phải dự trữ ít nhất đủ dùng mấy tháng, nên quanh năm anh em luôn ăn gạo hẩm.
n xong, tôi thong thả mở túi lấy ra tờ giấy khen người ta nhờ mang cho Sơn. Anh ta cầm lấy, ngắm nghía nhìn nó với nụ cười giễu cợt rồi vứt xuống đất. Lát sau anh ra bếp mang vào siêu nước sôi méo mó, đen xịt đang phả hơi phì phì, rồi thản nhiên đặt lên tờ giấy khen sặc sỡ với những dòng chữ nắn nót.
- Anh thật quá đáng! - Không chịu thêm được nữa, tôi lên tiếng.
Sơn im lặng hồi lâu với vẻ khiêu khích. Cuối cùng anh ta nhìn thẳng vào mắt tôi, đáp dằn từng tiếng:
- Cũng như mọi người cả thôi! Các lần trước tôi dành chúng vào những việc còn tệ hơn nhiều.
- Nhưng vì sao? Ðây là phần thưởng, là sự đánh giá của tập thể, là...
- Là sự giả dối đểu cáng và trắng trợn! Tôi không tin những tờ giấy loại này. Tôi không tin những lời các anh nói. Không tin bất kì ai.
- Nhưng chẳng phải mọi người vẫn tốt với anh đấy sao? Họ đánh giá cao việc anh làm, họ thưởng tiền và giấy khen cho anh! - Tôi cũng cao giọng.
- Chính vì thế mà tôi càng kinh tởm họ. Ðó là việc làm đạo đức giả. Trước kia, một thời tôi từng ngu ngốc tin vào những điều nhảm nhí ấy. Nhưng nay thì đừng hòng! Ðừng hòng!
Sơn ném hai chữ cuối cùng ấy vào mặt tôi, với tất cả sự giận dữ bị đè nén lâu nay. Như để ra hiệu chấm dứt câu chuyện, anh ta cầm chiếc bát và đôi đũa của mình, đứng dậy:
- Ở đây có lệ ăn xong, bát người nào, người ấy rửa.
- Thế đĩa và xoong nồi thì sao? - Tôi châm chọc.
Anh ta không đáp, chỉ lẳng lặng đi ra bể nước.
Sau đó, suốt mấy giờ liền tôi và Sơn không ai nói thêm câu nào. Sơn ngồi đánh cờ một mình trong nhà, còn tôi mang sách ra hiên đọc.
Buổi tối, tôi quyết định đi ngủ sớm. Thấy tôi loay hoay sửa soạn giường chiếu, vẫn không thèm ngoái đầu lại, Sơn nói:
- Nếu lười dọn xoong nồi trên gường thì có thể trải chiếu xuống đất mà nằm. Trên chỗ ông già ngày xưa chết ấy! - Anh ta đập mạnh quân cờ xuống bàn. - Chẳng có gì đáng sợ. Không phải hôm nào hình ông ấy cũng hiện lên đâu. Mà có hiện cũng chẳng sao, đúng thế không, ông nhà văn?
Lại châm chọc! Tôi nghiêm mặt nhìn thẳng vào mắt anh ta, cố kìm giận để không buột ra một lời nào đáng tiếc. Sơn vẫn lì lợm không chịu né tránh của nhìn của tôi. Khuôn mặt trẻ, có thể nói đẹp trai của anh ta vênh lên một cách khó chịu. Trong đôi mắt sâu, lạnh lùng và hằn học ấy không còn dấu vết một con người khác hẳn như tôi được biết. Anh ta đã thành kẻ hằn học, cực đoan và luôn sẵn sàng bùng nổ.
Tuy nhiên, ẩn sâu phía trong cái vẻ ngoài khó chịu, giả tạo và ít nhiều bị đẩy lên quá mức kia, tôi vẫn nhận thấy ở Sơn cái gì đó khác hẳn, một nỗi đau nhức nhối thầm kín, một sự thèm khát được trở lại cuộc sống bình thường, được tin vào những điều tốt đẹp như một thời trước kia từng tin.
Bỗng tôi thấy thương hơn giận. Ðể anh ta không nghĩ mình hèn nhát, tôi lặng lẽ quét nền nhà, trải chiếu, tìm cách mắc chiếc màn cá nhân bao giờ tôi cũng mang theo mỗi lần đi công tác, rồi chui vào nằm đúng chỗ Sơn gợi ý, nơi ông già gác đèn biển ngày xưa đã chết.
Sơn im lặng đánh cờ một mình. Dù rất mệt, tôi trằn trọc mãi vẫn không sao ngủ được. Những ý nghĩ rời rạc, hãi hùng cứ bám chặt lấy tôi. Ðâu đó phía dưới, tiếng sóng vỗ vào vách núi dựng đứng nghe đều đều, dữ dội, nhiều khi to như tràng pháo ngân dài. Cuối cùng tôi cũng thiếp đi, nhưng nửa đêm lại chợt thức giấc.
Chiếc đèn dầu vẫn leo lét cháy trên bàn cờ đặt trên giường Sơn, tuy nhiên tôi không thấy anh ta với dáng ngồi quen thuộc bên cạnh. Tôi đưa mắt nhìn quanh. Anh ta đang đứng trong góc phòng, tay mân mê khẩu súng trường mới được lau sạch bóng. "Hắn định làm gì thế nhỉ?"- tôi lo lắng tự hỏi, sống lưng bỗng thấy lành lạnh. Tôi những muốn kêu to hay vùng dậy bỏ chạy, nhưng sực nhớ mình đang ở đâu, đành tiếp tục nằm im giả vờ đang ngủ say. Thật may, một lúc sau, ngắm nghía chán khẩu súng, Sơn treo nó lên tường, rồi leo lên giường với ván cờ bỏ dở.
Anh ta ngồi bất động, đầu ngoẹo sang một bên, một tay chống cằm, tay kia luôn giữ quân cờ bên đen hoặc bên trắng tùy lúc. Cứ thế mình chống lại chính mình, anh ta ngồi hết giờ này đến giờ khác, ngày này đến ngày khác, năm này đến năm khác.
Cảm thấy ngột ngạt khó thở, tôi quyết định dậy, leo lên chòi đèn ngồi một chốc cho mát. Thật lạ lùng, như đọc được ý nghĩ người khác, thấy tôi chui ra khỏi màn, vẫn không quay đầu lại, anh ta nói:
- Ði ủng vào, đường lên trên kia nhiều rắn lắm đấy!
Tôi lặng lẽ tìm ủng rồi đi ra ngoài. Năm phút sau, men theo vách núi, tôi đã lên đến chòi đèn, khoan khoái đứng tựa vào chiếc lan can bằng sắt sơn trắng bao quanh. Ngọn đèn hải đăng cực mạnh vẫn từ từ quay, chiếu ra bốn phía những luồng ánh sáng dài, khi tắt, khi đỏ do được che bởi những miếng kim loại cách nhau đều đặn.
Ban đêm biển thật đẹp. Trời đầy sao. Trăng mới mọc nhưng còn bị che khuất sau một trong vô vàn những ngọn núi nhỏ giữa vịnh. Mặt biển tối đen, lốm đốm những ngọn đèn xanh của các con thuyền đánh cá. Chắc từ đó, hàng trăm con mắt đang hướng về Hòn Mực quen thuộc. Ngọn hải đăng vẫn sáng, nghĩa là tất cả vẫn bình thường. Những người đi biển nhìn nó để định hướng, có thể yên tâm cho tàu thuyền đi lại mà không sợ bị va đá ngầm hay mắc cạn.
Từ xa, một chiếc tàu lớn như tòa nhà nhiều tầng rực ánh sáng từ từ tiến vào cảng Cửa Ông để ăn than. Ðược Hòn Mực chỉ đường, nó vững tin lao lên phía trước.
Bất chợt, tôi bỗng muốn đánh tín hiệu cấp cứu, muốn kêu to, kêu lên thật to với người thuyền trưởng con tàu kia, với những chiếc thuyền đánh cá, với công ty S.B trong đất liền, với tất cả mọi người, rằng ở đây ngọn đèn hải đăng vẫn sáng, nhưng một ngọn đèn khác còn quan trọng hơn nhiều, ngọn đèn chiếu sáng cho nó, ngọn đèn trong trái tim người coi đèn đã tắt và đang cần được nhanh chóng thắp lại! S.O.S!
Quảng Ninh - Ðà Lạt,
Hèn Người viết: Thái Bá Tân 10/10/2006 HÈN
- Nhà báo?
- Gần như thế, - anh đáp. - Chính xác hơn, tôi viết văn.
- Nghe kêu đấy. Nghĩa là thêm một anh đạo đức giả nữa mò đến cái địa ngục thiên đường này. Xin chúc mừng. Dẫu sao thì ở địa ngục hay thiên đường, người ta vẫn cần có bạn. Mà tôi thì ở đây một mình đến phát ngấy lên rồi.
Ðoạn, ông ta chìa bàn tay thô kệch, đen trũi và đầy lông lá cho anh. Anh thấy khó chịu với con người bỗ bã có vẻ ngoài khác thường này: béo, lùn, cụt một chân, tóc bù xù đốm bạc và nét mặt dữ tợn. Cánh tay phải xăm hình chiếc neo khổng lồ. Trên hơn một chút là trái tim với mũi tên xuyên qua. Anh đoán bên trong chiếc áo phông cáu bẩn chắc còn nhiều hình xăm ấn tượng khác. "Thêm miếng vải đen che một mắt thì sẽ là tên cướp biển chính hiệu!" anh nghĩ.
Anh vừa từ Sài Gòn bay ra Côn Ðảo, được bố trí ở ngôi nhà to nhất trên đảo. Nó vốn là tư dinh của bao đời chúa đảo người Pháp ngày trước. Bây giờ là nhà ở và nơi làm việc của trưởng đảo cách mạng. Khi anh đến chẳng có ai, ngoài con người đang ngồi trước mặt.
- Còn ông?
- Tôi là Cướp Biển. Tên chứ không phải nghề. - Ông kia đáp, có vẻ thích thú. - Nhưng tôi hiền, đừng lo. Tôi là nhà hải dương học từ Nha Trang ra, cắm chốt ở đây lâu rồi. Trước lặn dưới biển nghiên cứu biển, nay cá mập xin mất một chân, đành nằm cạn, nghiên cứu cạn.
- Sao ông gọi tôi đạo đức giả?
- Vì năm ngoái một nhà báo như anh ra đây rồi viết một bài tôi không thể gọi bằng cái tên nào khác. Còn tởm hơn cả nói láo. Nhưng lần này thì tôi quyết giúp anh không phạm sai lầm đó.
- Tôi không định viết bài báo nào cả, cũng chẳng hề muốn thành kẻ đạo đức giả.
- Vậy anh ra đây làm gì ?
- Ðể tận mắt thấy Côn Ðảo, và nếu có thể, tìm hiểu thêm về nó.
- Vậy thì gặp may rồi đấy. Tôi là người thích hợp nhất cho anh trong việc này. Có điều xin nói trước: Tôi lắm lời lắm. Chả là bao lâu rồi không có người để nói chuyện mà. Lúc nào không muốn nghe, cứ thẳng thừng ngắt lời. Tôi không tự ái đâu. Tôi còn thích ra lệnh cho người khác nữa. Bây giờ thì anh đi tắm rửa, nghỉ ngơi đi. Phòng số ba, cạnh phòng tôi. Bà Bảy sẽ nấu cơm cho anh. Còn cô Lý, chủ nhiệm kiêm lễ tân, kiêm làm phòng ở đây thì đang ốm nằm ở trạm xá. Chắc tuần nữa mới về.
Tối hôm ấy cô Lý về, nhưng sáng hôm sau anh mới thấy mặt. Ðó là một cô gái đặc sệt Nam Bộ thời kháng chiến, từ bộ bà ba màu đen, chiếc khăn rằn đến giọng nói, cử chỉ. Anh lấy làm lạ sao bây giờ cô vẫn ăn mặc kiểu ấy. Cứ như vừa từ R ra. Cô nhỏ người, thon lẳn, nét mặt buồn buồn, ít nói và hay e thẹn. Toàn bộ con người cô toát ra cái gì đấy rất dịu dàng. "Một cô gái thật xinh và dễ thương", anh nghĩ. Nhưng vừa kịp trao đổi với cô mấy lời thì ông Cướp Biển đã lôi anh đi. Gọi là "làm một vòng tham quan quanh đảo".
*
- Tù đấy, - ông Cướp Biển bảo anh khi họ đi ngang một tốp người đang chơi bóng chuyền.
- Tù? - anh ngạc nhiên hỏi. - Ở Côn Ðảo bây giờ vẫn còn tù à?
- Còn chứ. Nhiều. Không phải tù chính trị hay hình sự, mà tù bất đắc dĩ. Bọn thuyền nhân vượt biên ấy mà. Nhiều đứa vì gặp bão, hết xăng. Nhiều đứa tưởng đây đã là đất tự do, reo hò ầm lên cho đến khi nhìn thấy công an ta. Thế là hòn đảo này phải nuôi báo cô chúng. Hàng ngày đúng giờ đi làm, cuốc xới nhăng nhít gì đấy ngoài Bãi Dương, đúng giờ về điểm danh, chơi bóng, ăn cơm và đi ngủ. Chẳng giam giữ, chẳng quần áo tù, chẳng phải lo canh gác. Chúng còn chạy đi đâu được nữa? Có cấp thuyền cho cũng chịu. Ấy là nói thuyền nhỏ, tất nhiên.
Chốc sau, chỉ tay vào một người đàn ông to béo ngồi bán nước trong quán, ông Cướp Biển lại nói:
- Cũng tù đấy. Chính xác hơn là cựu tù hình sự chế độ cũ. Quá nguy hiểm và chưa hết hạn thụ án nên còn phải ở đây. Loại này cũng nhiều.
Liền lúc ấy một người đàn ông trạc sáu mươi tuổi đạp xe đi ngang, tóc húi cua, dáng gầy gò khắc khổ, mặc bộ quần áo bộ đội mới và rộng thùng thình. Ông Cướp Biển cúi chào cung kính, rồi quay sang bảo anh:
- Cũng tù nốt. Tù chính trị khổ sai. Bây giờ là chúa đảo cách mạng. Ðã hơn ba mươi năm thâm niên ở đây. Vì không có người, vì am hiểu nơi này nên bị người ta yêu cầu ở lại, sau khi về thăm quê đúng một tháng. Không gia đình, không vợ con. Nói chuyện với "cụ" vui lắm. Cứ như người của cái thời cách mạng cách đây ba bốn chục năm. Tháng trước "cụ" vừa ban lệnh cấm uống rượu, cấm để tóc dài, cấm mặc quần loe. Và nhiều lệnh cấm khác. Không tin à? Rồi sẽ biết.
- Như bác nói thì ở đây toàn tù.
- Ðúng thế, trừ mấy ông công an, một đơn vị bộ đội đóng tít trên núi và những người như tớ, cậu và cô Lý. À mà đừng léng phéng rủ cô ấy đi chơi đấy nhé. Ông trưởng đảo sẽ bắt hai người lấy nhau đấy. - Rồi ông hạ giọng nói thêm: - Tội nghiệp con bé. Suy cho cùng, nó cũng là tù nốt...
- Sao lại vậy? - anh ngạc nhiên hỏi.
- Vì năm bảy lăm cô ấy tới đây theo lời kêu gọi ra xây dựng đảo anh hùng, tưởng sáu tháng, một năm, ai dè bây giờ hơn bảy năm rồi vẫn chưa được về đất liền...
- Vì sao?
- Vì không ai chịu ra thay. Tự ý bỏ về thì vướng Ðoàn, Ðảng. Ðịnh đào ngũ à?
- Nhưng không thể kéo dài mãi thế được. Còn chồng con người ta và bao nhiêu chuyện khác nữa.
- Ðúng vậy. Thế mới gọi là tù. Cả ông trưởng đảo cũng tù nốt. Ấy là nói theo cách văn vẻ. Chỉ tớ và cậu thì không. Cậu sẽ bay về Sài Gòn chuyến bay thứ năm tuần tới. Tớ muốn về lúc nào cũng được, nhưng không về. Tớ ghét đất liền. Vả lại còn công việc.
Lúc ấy trời đã xế chiều. Họ ngồi trên tảng đá lớn nhìn ra biển, ngắm mặt trời lặn và nói chuyện. Chủ yếu ông Cướp Biển nói, anh chỉ nghe. Gió thổi nhẹ. Nước biển ở đây sâu và có màu xanh tím. Phía xa xa lác đác một vài con thuyền, không hiểu thuyền đánh cá hay thuyền gì. Nếu không có câu chuyện vừa rồi về những người tù đủ loại và lịch sử rùng rợn của hòn đảo, thì có thể nói đây là nơi tuyệt đẹp. Chí ít cũng là một địa điểm du lịch lý tưởng trong tương lai, với bãi biển cát mịn trắng phau và những dãy núi, những hàng dừa thơ mộng.
Ông Cướp Biển quả "rất hiền" như ông nói, lại xởi lởi, hay chuyện. Chắc túm được anh, ông mừng lắm. Ông kể nhiều điều thú vị về hòn đảo này, đặc biệt về các loài tôm cá và san hô, là cái thực tình anh chẳng quan tâm mấy.
Không hiểu đúng sai thế nào, nhưng theo ông cho biết thì cái tên Côn Ðảo bắt nguồn từ chữ "Condore" của người Pháp trước đây. Mà Condore lại là chữ đọc chệch của "Cundur", cái tên được người Ả-RẬP đặt cho hòn đảo này vào thế kỷ thứ chín. Nghĩa là từ xa xưa nó đã từng in dấu chân của không chỉ các nhà hằng hải phiêu lưu Bồ Ðào Nha, Tây Ban Nha, Anh và Pháp, mà cả đại diện của xứ Trung Ðông ít ai ngờ tới. Thậm chí cả Marco Polo cũng từng có mặt ở đây.
- Vào năm 1294, cả đoàn tàu gồm 14 chiếc của nhà thám hiểm lừng danh người Bồ Ðào Nha này ghé vào Côn Ðảo để tránh một cơn bão khủng khiếp trước đó đã làm chìm tám chiếc tàu khác của ông. Vậy mà sau một mất mát to lớn như thế, ông còn đủ cảm hứng ghi vào nhật ký (sau này viết lại thành những câu chuyện ly kỳ nổi tiếng thế giới) hai chữ "thần tiên" khi nói về hòn đảo xa lạ này. - Ông Cướp Biển vừa hào hứng nói, vừa chỉ ngón tay trỏ múp míp lên trời, như muốn thề rằng ông không phịa.
Anh tin ông, không chỉ vì các con số và tên người cụ thể, mà vì ông có vẻ hiểu biết rất nhiều về hòn đảo nơi ông bị "cầm tù" lâu nay.
- Chưa hết. Cậu là nhà văn, chắc phải thú vị lắm khi tớ cho biết điều này nữa. Tin hay không thì tùy, chứ từng có một nhà thơ lớn châu Âu thời Phục Hưng đã tới Côn Ðảo và viết những vần thơ lai láng về nó. Ngạc nhiên à? Nói có sách, mách có chứng nhé. Cậu đã bao giờ nghe nhắc đến TẬP "Os Lusiadas" của nhà thơ vĩ đại Bồ Ðào Nha Luis Vaz de Campes chưa? Chưa? Thế mà ông ta đã viết nó ở đây đấy, viết vào giữa những năm sáu mươi của thế kỷ mười sáu. Một phần hay tất cả tớ không biết chính xác. Có thể ông ta viết chính nơi ta đang ngồi. Sau đó tàu ông gặp bão, chìm ở cửa sông Tiền. Thế mà bản thảo tác phẩm "Os Lusiadas" bất hủ ấy vẫn được giữ nguyên vẹn và lưu truyền đến tận ngày nay. Nó là một trong những tác phẩm văn học đầu tiên của phương Tây nói về Việt Nam. Tớ định sau này có dịp ra Hà Nội sẽ đến các thư viện lớn, nếu có thì đọc xem sao. Tớ biết tiếng Bồ đấy. Cậu lại không tin? Chả là tớ từng làm chuyên gia ở nggôla mấy năm. Dạy trung học thôi chứ chẳng liên quan gì đến biển.
- Sao bác biết được những chuyện ấy? Tôi chẳng thấy sách báo ta nói gì cả.
- Thì tớ đã bảo tớ biết tiếng Bồ mà lại. Dạo ở nggôla, nội chiến, chẳng dạy dỗ gì được, tớ lên thủ đô nằm dài cả mấy tháng trời và vào thư viện đọc sách. Ngẫu nhiên đọc rồi biết. Thế thôi. Có thể sách báo mình cũng viết nhưng tớ và cậu không đọc nên không biết.
Hôm sau, lúc đi dạo một mình vào buổi sáng sớm, anh phát hiện thêm một điều lý thú nữa về Côn Ðảo mà ông Cướp Biển không biết hoặc quên chưa nói. Trong ngôi nhà gạch to lớn một cách nặng nề sát bờ biển anh thấy có tấm biển bằng đồng đã han gỉ với dòng chữ tiếng Pháp: "Nơi đây nhạc sĩ vĩ đại Camille Saint -Saens đã sống và làm việc từ ngày 20 tháng Ba tới 19 tháng Tư năm 1895". Sau này anh biết thêm là trong quãng thời gian ấy ông đã hoàn tất vở ôpêra nổi tiếng "Brunechilda", và rằng ông tới Côn Ðảo theo lời mời của bạn ông, lúc đó đang làm chúa đảo ở đây.
- Tớ mà còn không biết chuyện ấy! Biết nhiều nữa là khác. - Ông Cướp Biển vội nói khi anh kể với ông. - Ðừng hỏi vì sao tớ biết, nhưng cứ tin đi, rằng con tàu "Fair Margaret" chuyên chạy tuyến Macxây - Sài Gòn và ngược lại, hôm ấy chỉ vì cái ông nhạc sĩ đó mà phá lộ trình, dừng lại ở Côn Ðảo những nửa ngày. Trên tàu người ta thổi kèn tiễn ông lên bờ. Trên bờ, ông bạn chúa đảo bắt lính bồng súng đứng thành hai hàng dài từ cầu tàu cho đến tận nhà khách, nơi có chiếc đàn dương cầm loại lớn màu trắng được ông ta đưa từ đất liền ra đang chờ sẵn. Không có các thiếu nữ Việt Nam xinh đẹp tặng hoa cho khách quí, vì lúc ấy ở đây chỉ toàn tù chính trị, nhưng hai cô con chúa đảo đã làm việc này. Cái tay thực dân khét tiếng ấy cũng mê âm nhạc và quí người tài. Nghe nói trong một tháng nhạc sĩ ở đây, hắn cố tình để ông không nhìn thấy nhà tù và tù nhân, thế mà ông ấy vẫn làm quen được và tranh luận khá nhiều về triết học, chính trị với một nhà cách mạng người bản xứ. Nghe nói ông đã xin tên chúa đảo thả ông ta ra nhưng hắn không chịu. Cũng có thể hắn nghe và làm theo mà ta không biết.
*
Họ lặng lẽ đi bên nhau, đôi lúc tay cầm tay. Mới tám giờ rưỡi mà con đường rải nhựa và cũng là đường phố duy nhất chạy men theo bờ biển Côn Ðảo chẳng còn ai ngoài họ. Các tù nhân bất đắc dĩ đã đi ngủ từ lâu theo kẻng. Hàng quán không có, do vậy không có cả tiếng nhạc và tiếng ồn. Chỉ thấp thoáng đây đó một vài ngọn đèn mờ còn tù mù hơn cả ánh trăng tròn và rất to kề sát mặt nước.
Cuối cùng họ dừng lại ở mép ngoài cầu tàu 787. Nghe nói nó có cái tên này là vì 787 người tù đã bỏ mạng khi cõng đá từ trên núi cao xuống xây nó năm nào. Mặt cầu tàu gồ ghề những hòn đá tròn khiến khi đi anh có cảm giác rờn rợn như đang dẫm lên đầu 787 người đã chết.
- Có phải em ngần ngại mãi không chịu đi chơi với anh vì ở đây có quy định đã đi chơi là phải lấy nhau không? - anh hỏi, nửa đùa nửa thật.
Lý không đáp ngay, vẫn im lặng đi bên anh, mắt không ngắm đêm trăng tuyệt đẹp trên biển mà thường cúi nhìn xuống đất, tay mân mê tà áo phin trắng mà anh để ý cô chỉ mặc những lần đi dạo cùng anh. Ban ngày cô luôn mặc bộ bà ba quen thuộc. Ðôi lúc quàng cả khăn rằn.
- Bác Thắng (ông Cướp Biển) đùa đấy thôi. Anh biết rồi còn gì. - Cuối cùng cô lí nhí nói. Bất chợt ngước lên nhìn anh, cô hỏi: - Thế anh không sợ đi chơi thế này sẽ bị bắt phải lấy em à?
Anh phá lên cười, vòng tay ôm vai cô, định hôn nhưng cô né ra, dù trước đấy họ đã từng hôn nhau.
- Anh đang mong bị bắt làm thế đây. Mà rồi không bị bắt, anh cũng sẽ lấy em và đưa em về đất liền. Về tận Hà Nội cơ.
- Vì thực sự yêu em hay chỉ vì thương em bị tù ở đây như anh nói?
- Cả hai. Em đồng ý chứ?
Lý không đáp, chỉ lặng lẽ quay về phía anh. Anh dịu dàng áp hai tay vào má cô, nâng lên. Dưới ánh trăng rằm, khuôn mặt cô thật đẹp. Hơi nước biển và ánh trăng tạo thành một màng mỏng kỳ ảo nửa xanh nửa vàng phủ lên mái tóc cô. Họ không nói gì thêm, chầm chậm bước đi.
Những gì cần nói đã được nói từ trước. Cả đảo đã biết hết mọi chuyện, kể cả ông trưởng đảo nghiêm khắc. Ông chỉ cười, đó là dấu hiệu tán thành. Còn ông Cướp Biển trong chuyện này thì rõ ràng giữ một vai trò rất quan trọng. Vai trò người làm mối, và ông đã thành công mĩ mãn. Ông giới thiệu họ với nhau, khích lệ, bố trí họ đi chơi. Khi thấy công việc có vẻ tiến triển, chính ông thu xếp để anh nhỡ hai chuyến bay vào đất liền. Chuyến thứ ba tự anh xin hoãn vì tình yêu đã xuất hiện và anh muốn ở lại thêm với cô một tuần nữa. Thứ năm tới, tức là đúng một tháng sau khi tới đảo, anh về Hà Nội thưa chuyện với bố mẹ, một tháng nữa sẽ quay lại cùng Lý về Minh Hải xin phép gia đình cô. Bao giờ cưới bàn sau. Anh đã nói chắc chắn với cô như vậy, với sự chân thành và bồng bột của tuổi trẻ. Ðây không phải mối tình đầu của anh, nhưng là mối tình sét đánh. Anh yêu Lý, yêu từ cái nhìn đầu tiên như người ta vẫn nói, và tin vào tình yêu ấy, không chút tính toán hơn thiệt.
Ðêm trước ngày lên đường, ông Cướp Biển đùa bảo anh:
- Cậu mà không lấy cái Lý thì liệu, thằng cướp biển này sẽ không tha đâu! Nhớ lấy.
Anh chỉ cười, không tin chuyện ấy có thể xẩy ra. Ở sân bay, anh hôn Lý trước mặt mọi người, nhấn thêm một dấu khẳng định nữa cho quyết tâm không gì lay chuyển được của mình.
- Một tháng nữa anh sẽ quay lại với em.
*
Từ ấy đến nay đã hai mươi năm trôi qua. Anh đã là một người đàn ông chững chạc, thậm chí một nhà khoa học nổi tiếng. Tự lúc nào không biết, anh đã thành ông. Ông có vợ và hai con đang học đại học. Việc công, việc tư đều suôn sẻ. Ông chẳng có gì phải than phiền về cuộc đời mình, chỉ tiếc vợ ông không phải cô Lý, và điều này làm ông buồn, đôi khi xấu hổ. Ông đã không quay lại với cô sau một tháng như đã hứa. Chẳng bao giờ quay lại. Chẳng gặp cô thêm lần nào.
Gia đình ông, vốn thuộc loại danh giá và ít nhiều phong kiến ở Hà Nội, đã kịch liệt phản đối khi ông xin phép cưới Lý, một cô gái được coi là không môn đăng hộ đối , làm cấp dưỡng ở tít ngoài Côn Ðảo , không ai biết lai lịch thế nào, thậm chí học hết lớp mấy cũng chẳng rõ! Ông nhất quyết không chịu và mấy lần dọa bỏ nhà ra đi. Nhưng rồi mọi người thuyết phục, bà mẹ suốt ngày than khóc van xin - một đòn tâm lý lợi hại và luôn có kết quả. Cuối cùng, trước khi hết cái thời hạn một tháng đã hứa, ông gửi Lý một bức thư với vẻn vẹn dòng chữ "Hãy tha thứ cho anh, bố mẹ anh không đồng ý". Ông không muốn viết dài, vả lại cũng chẳng biết viết gì thêm. Chưa đầy một tháng sau, ông nhận được thư của ông Cướp Biển với duy nhất một chữ "Hèn!" Chữ ấy được viết hoa, tô đậm ngay chính giữa tờ giấy. Sau đấy họ chẳng liên hệ gì hay biết tin gì về nhau nữa.
Cùng năm tháng, ông cũng nguôi ngoai dần, chỉ thỉnh thoảng nhớ về cô với chút ít lương tâm cắn rứt. Ông biết ông thật có lỗi với Lý. Bằng sự đầu hàng quá nhanh chóng và hèn nhát như vậy, ông đã gây cho cô đau khổ, có thể cả phiền toái khi tiếp tục sống ở Côn Ðảo. Ông Cướp Biển chỉ dùng một từ mà nói đúng thực trạng con người ông lúc ấy. Hèn! Vâng, ông xử sự như một thằng hèn. Nếu can đảm hơn, kiên quyết hơn, ông đã không bỏ rơi cô, có thể không bỏ rơi cả hạnh phúc cuộc đời mình. Ông thực sự yêu Lý, yêu khuôn mặt xinh đẹp được ánh trăng và hơi biển phủ nhẹ một màng xanh vàng kỳ ảo đêm ấy. Nếu không hèn, ông đã với tới được cái đẹp kỳ ảo ấy. Sống ở đời, ông biết, ai cũng phạm sai lầm, nhưng sai lầm dưới dạng hèn nhát thuộc phạm trù khác, phức tạp hơn và cũng khó tha thứ hơn. Có thể một ngày nào đấy ông sẽ quên không nghĩ tới Lý và ông Cướp Biển nữa, nhưng chữ "hèn" ông ta dành cho ông thì chắc chắn còn ám ảnh suốt đời...
*
Lúc này ông đang ở Côn Ðảo. Ông tới đây bằng trực thăng như nhiều khách du lịch khác, và ở khách sạn có điều hòa chứ không phải tư dinh các chúa đảo người Pháp. Côn Ðảo đã thay đổi nhiều, đến mức không còn nhận ra nổi. Cầu tàu 787 nơi ông đang ngồi không còn những viên đá tròn gồ ghề như đầu tử tù ngày xưa ông tưởng tượng. Không còn cô Lý mặc áo bà ba, quàng khăn rằn. Không còn ông Cướp Biển bỗ bã mà tốt bụng. Nhưng vẫn còn đó những lời ông kể về nhà thơ Bồ Ðào Nha thời Phục Hưng cùng bản trường ca bất hủ ông viết ở đây. Còn đó tấm biển đồng nói về nhạc sĩ Camille Saint-Saens vĩ đại. Ông nhắm mắt, hình dung thấy nhạc sĩ đang mỉm cười bước từ tàu "Fair Margaret" xuống, và giữa hai hàng lính bồng súng đứng nghiêm, ông đi về phía chiếc đàn dương cầm lớn màu trắng ... Còn đó tiếng sóng biển rì rào và mặt trăng, cũng tròn và sáng như đêm nào ông ở đây cùng Lý.
Ông khum hai bàn tay, giơ cao nâng ánh trăng. Hơi nước và ánh trăng cũng phủ nhẹ lên tay ông một màng mỏng màu xanh vàng kỳ ảo. Thật tiếc, trong đôi tay đã không còn khuôn mặt xinh đẹp của người ông yêu. Cái còn lại bây giờ là một sự trống rỗng, cả trong tay lẫn trong lòng ông. Cuối cùng, cả sự trống rỗng ấy cũng biến mất để nhường chỗ cho một cảm giác chua xót. Cảm giác rằng mình là một thằng hèn.
Hà Nội, 12. 8. 2001
Đùa Người viết: Thái Bá Tân 10/10/2006 ĐÙA
Như trong những trường hợp tương tự, câu chuyện phiếm của mấy người bạn bia nhanh chóng nhảy từ đề tài nọ sang đề tài kia. Lúc này họ đang kể cho nhau nghe các chuyện đùa, của mình và của người khác.
- Có chuyện này hay lắm, để mình kể các cậu nghe nhé, - một người trạc bốn mươi, mãi bây giờ mới lên tiếng lần đầu. Ông ta cầm cốc bia, tu một hơi thật dài, rồi khoan khoái đưa bàn tay chùi mép.
*
Chuyện xảy ra đã lâu, khi mình mới tốt nghiệp đại học và được phân về dạy ở thị trấn N. Hồi ấy trường mình có cô giáo dạy văn rất xinh, tên Kiều Hoa. Kiều Hoa học tổng hợp, ra trường sau mình một năm, từng nổi tiếng hoa khôi của trường và làm không ít các chàng trai si mê đau khổ. Còn ở cái trường tỉnh lẻ kia của bọn mình thì khỏi nói. Mới xuất hiện, Kiều Hoa lập tức trở nên nổi bật hẳn, thành trung tâm chú ý của cả trường. Ðiều đó dễ hiểu vì như đã nói, cô xinh, rất xinh, lại vốn dân Hà Nội nên biết ăn diện đúng mốt mà thanh lịch. Thêm vào đó, Kiều Hoa không vì thế mà đỏng đảnh, kiêu kì như nhiều cô xinh đẹp khác. Cô còn thông minh, dạy giỏi và chịu khó học tập. Lại khiêm tốn, dịu dàng nữa chứ... Tóm lại, không nói các cậu cũng biết, cánh giáo viên trẻ bọn mình đã chạy theo Kiều Hoa thế nào.
Ðúng, tất cả! Hay ít ra cũng gần như thế. Mình nói hầu như vì có ý trừ mấy ông đã có vợ (nhưng chắc không dửng dưng nếu điều kiện cho phép), và trừ mình. Lúc ấy mình còn quá vô tư, thích đùa nghịch hơn yêu đương thật sự.
Thế mà thật lạ, không hiểu sao Kiều Hoa chẳng thèm để ý tới ai. Trong trường có nhiều cậu cũng khá, nhưng không cậu nào lọt được vào mắt nàng. Hay nàng có người yêu đâu xa chăng? Bọn mình lén lút theo dõi thư từ và những người lạ đến thăm Kiều Hoa. Không phát hiện thấy điều gì khác thường. Cứ thế kéo dài một năm. Các cậu nên nhớ rằng đối với các cô gái, nhất là những cô gái xinh đẹp, một năm là quãng thời gian quá dài để kén chọn một chàng trai nào đấy. Kiều Hoa thì cứ như không, như chẳng hề quan tâm điều ấy. Thói đời, các cậu biết đấy, nhất lại ở tỉnh lẻ, anh càng khác đời, người ta càng tò mò muốn biết, thậm chí ghen ghét, càng dễ trở thành đối tượng của những việc làm ngu ngốc và tai hại mà chuyện mình đang kể là một thí dụ.
Một hôm, sau buổi họp hội đồng giáo viên thường lệ, bà hiệu trường nói bằng giọng tự nhiên và rất dễ nghe hàng ngày bà vẫn nói:
- Cô Kiều Hoa hình như đánh rơi cái này! Lúc nãy vào đây sớm, tôi nhặt được.
Rồi bà chìa ra một tờ giấy gấp đôi. Vì Kiều Hoa ngồi cuối phòng nên trước khi tờ giấy đến tay cô, vài người chuyền nhau đã kịp đọc nó. Ai đọc xong cũng lộ vẻ ngạc nhiên. Còn Kiều Hoa thì khi liếc qua những gì ghi trên đó, mặt cô bỗng đỏ bừng, rồi từ đỏ thành tái nhợt. Cô ngồi im ngơ ngác một phút rồi vụt đứng dậy, vội vã chạy về phòng mình, chắc phải cố lắm mới không òa lên khóc.
Mọi người bàn tán sôi nổi. Thì ra đó là tờ giấy chứng nhận của bệnh viện, ghi rõ rằng cô Kiều Hoa đã đến khám ở bệnh viện X, rằng cô mắc bệnh vô sinh do tắc cái gì đấy, có thể ảnh hưởng đến tính mạng nếu không chú ý giữ gìn. Cuối cùng là câu kết luận, yêu cầu miễn cho cô Kiều Hoa, vì lí do trên, không phải tham gia công việc lao động nặng nhọc. Rồi bác sĩ kí tên, đóng dấu.
Vâng, nội dung tờ giấy kia đúng như thế. Các cậu thấy nó ngớ ngẩn và vô lí chứ gì? Hẳn vậy. Chính bọn mình lúc ấy cũng không thể nào nghĩ khác. Không bác sĩ, bệnh viện nào có thể chứng nhận một điều tương tự. Ðây chắc do một anh chàng tinh nghịch nào đó đùa vui quá trớn mà thôi. Thật láo lếu và ngu xuẩn! Vậy mà các cậu biết không, cái điều láo lếu, ngu xuẩn ấy được truyền đi khắp nơi với tốc độ chóng mặt.
Ở tỉnh lẻ, bất kì tin đồn nhảm nhí nào cũng được lan truyền với tốc độ ấy. Hơn nữa đây lại chuyện liên quan đến cô Kiều Hoa nổi tiếng, về một việc quan trọng có tính giật gân như vậy. Thành ra mấy ngày sau, không chỉ giáo viên và học sinh trong trường mà cả người ngoài thị trấn đều biết hết mọi chuyện, biết một cách tường tận, tất nhiên không thể không kèm theo những chi tiết mới được sáng tác thêm, mỗi người theo cách riêng của mình.
Người ta bắt đầu gắn vào cái tên đẹp đẽ của cô một vài từ kém văn hoá nhưng phải thừa nhận là rất ấn tượng, như Kiều Hoa Ðiếc, Kiều Hoa Tịt! Các nữ đồng nghiệp trẻ ghé tai nhau thầm thì điều gì đó, rồi nhìn cô bạn "tội nghiệp" của mình bằng đôi mắt ái ngại không che giấu. Họ an ủi Kiều Hoa bằng những câu đại loại thế này: "Chà, cái thằng nào đùa đểu thật", hoặc: "Ừ, đau thật, nhưng cứ cho đúng thế thì cũng chẳng quái gì phải buồn! Càng đỡ lo chồng con thêm khổ!" Có người còn nói: "Dù sao đợt lao động sắp tới, nếu cần, Kiều Hoa cứ yêu cầu nhà trường..." Vân vân và vân vân.
Còn thái độ của Kiều Hoa thì sao? Ðiều này mới thực sự làm bọn mình ngạc nhiên. Sau phút choáng váng ban đầu, cô nhanh chóng bình tĩnh trở lại và có vẻ như hoàn toàn thờ ơ với những gì đang xảy ra xung quanh. Cô không thanh minh, cũng chẳng căn vặn ai tung ra tờ giấy ấy. Rõ ràng cô cho những gì xảy ra với cô là trò ti tiện đáng khinh. Cô tự xem cô cao hơn bọn mình, những người cô nghi đã làm cái trò ti tiện đáng khinh đó. Có điều cô trở nên ít hồn nhiên hơn, ít giao thiệp với người khác, và một thời gian sau thì tự tách mình khỏi cái tập thể giáo viên trẻ, vui nhộn đến mức ngu ngốc và nhẫn tâm của trường. Sau này mình mới hiểu Kiều Hoa đã đau khổ và khinh bỉ bọn mình chừng nào!
Tất cả chỉ vì một trò đùa ngu ngốc, các cậu ạ. Tuy nhiên đến đây câu chuyện chưa chấm dứt, đúng hơn, mới bắt đầu. Những lời đồn không hề giảm bớt, phần vì người ta muốn thế, phần do Kiều Hoa im lặng nên càng có cớ để tin là thật. Cuối cùng, như người ta vẫn nói, một điều giả dối được nhắc đi nhắc lại hàng trăm, hàng nghìn lần có ngày sẽ thành điều có thật, cả đối với người nghe lẫn người nói. Thế là dần dần, các cậu tin hay không thì tuỳ, cái chuyện vô lí ấy về Kiều Hoa, rằng cô không có khả năng sinh đẻ, rằng cô hỏng tắc cái gì đó và cần phải tránh việc nặng để bảo vệ sức khoẻ, vân vân, đã không còn làm ai nghi ngờ. Thậm chí mình nghĩ hình như cả Kiều Hoa cũng tin điều đó, vì sau này lần nào có lao động, trường cho nghỉ, cô cũng nghỉ.
Lại một chuyện vô lí nữa chứ gì? Có thể, nhưng quả đúng như vậy. Cuộc đời vốn vẫn thế, nếu cái gì cũng xảy ra đúng lô-gích, cái lô-gích do chúng ta phịa ra, thì cuộc đời chẳng còn là cuộc đời nữa, dù nó ngu ngốc và độc ác. Các cậu thử tưởng tượng xem, một người như Kiều Hoa mới ngày nào được chú ý, ngưỡng mộ nhường ấy, vậy mà bây giờ bị người ta nhìn bằng con mắt khác hẳn. Không một chàng trai nào tìm đến cô với ý định nghiêm túc, mà chỉ để chơi bời thì Kiều Hoa không phải hạng người như thế.
Ở tỉnh lẻ, các cậu biết đấy, không có nhiều chàng trai tử tế để kén chọn, còn ở thị trấn N. này thì có thể nói cánh nam giáo viên trường mình là tinh hoa nhất, nhưng bọn mình lại bị Kiều Hoa ra mặt khinh bỉ. Người từ xa đến không có, nếu có, chẳng bao lâu cũng bỏ đi khi được thông báo một cách tỉ mỉ mọi chuyện. Suy cho cùng, ai muốn lấy một người khi biết trước người ấy "điếc", "tịt", nghĩa là không có khả năng tạo ra những cô bé, cậu bé mũm mĩm để kế tục dòng dõi cao quý của mình, đúng không?
Cứ vậy, một năm, hai năm rồi năm năm trôi qua mà Kiều Hoa vẫn không lấy được chồng. Thật trớ trêu, Kiều Hoa, cô gái xinh đẹp, thông minh, hoa khôi một trường đại học lớn ở thủ đô, cuối cùng suốt đời phải độc thân, không được hưởng cái hạnh phúc gia đình cô có quyền và xứng đáng được hưởng...
- Sao, suốt đời? - Một người ngồi cạnh ngừng uống bia, hỏi.
- Vâng, suốt đời, - người kể chuyện đáp, rồi sau một phút trầm ngâm, nói thêm: - Vì cuộc đời của Kiều Hoa không dài - cô chết khi vừa tròn ba mươi tuổi.
- Chết?
- Ðúng thế, chết. Chết vì băng huyết sau khi sinh... Mình biết các cậu đang ngạc nhiên. Cũng đúng thôi. Số là Kiều Hoa có chửa. Không chồng mà chửa mới ngoan... Chà, nếu các cậu biết điều ấy tác động đến trường mình và thị trấn N. mạnh như thế nào! Cô ấy chẳng hề giấu giếm, có vẻ như muốn phô trương khiêu khích nữa là khác. Cô không chịu nói ai là bố đứa bé. Mãi sau này, khi Kiều Hoa chết mình mới hiểu cô ấy chủ tâm làm thế để trả thù đời, trả thù bọn mình. Phụ nữ rất khó hiểu, Kiều Hoa càng khó hiểu hơn. Không ai biết cô ấy nghĩ gì trong đầu. Một người thông minh, cứng rắn đến thế mà cuối cùng không chịu nổi để làm việc cực đoan, vô nghĩa như vậy!
- Rốt cục người ta vẫn không biết kẻ tung tờ giấy kia là ai à, cái thằng khốn kiếp ấy? - một người hỏi.
- Không, nhưng mình biết. - Người kể chuyện ngừng nói, im lặng hồi lâu. - Thằng khốn kiếp ấy là mình.
Mọi người không ai nói gì. Mãi lúc sau người kể chuyện mới lên tiếng:
- Xin thề với các cậu rằng mình không phải người độc ác. Mình chỉ đùa. Ðùa một tí cho vui thôi mà. Lúc ấy mình có người bà con làm bác sĩ ở bệnh viện X, nơi mình thường đến lấy những tập giấy sẵn có chữ kí và con dấu để ngộ nhỡ muốn nghỉ ngày nào thì điền vào đấy. Một hôm, không hiểu nghĩ thế nào, tiện tay mình viết tờ giấy tai hại kia và lén để nó trong phòng giáo viên trước giờ họp. Tất nhiên sau đó mình rất hối hận. Lúc đầu mình không đủ can đảm tự thú, còn sau, khi sự việc đi quá xa thì có nói ra cũng chẳng giải quyết được gì. Thế là mình im, im suốt chừng ấy năm, cho đến hôm nay lần đầu đem kể các cậu nghe. Phải nói thêm rằng mình rất yêu Kiều Hoa. Yêu ngay từ lúc mới gặp, sau này càng yêu hơn, nhưng mình không dám thổ lộ, trước hết vì xấu hổ với lương tâm, như thể mình bày ra cái trò ấy để chiếm đoạt cô. Sau nữa vì biết chắc Kiều Hoa sẽ khinh bỉ từ chối như sẽ từ chối bất kì anh nào trong bọn mình. Vì sao thì các cậu đã rõ...
- Còn đứa bé? - một người hỏi.
- Rất may đứa bé còn sống. Sau khi Kiều Hoa chết, mình đến báo với tổ chức rằng mình là bố của đứa bé và xin nhận nó về nuôi. Các cậu biết không, người ta tin điều ấy cũng dễ dàng như tin Kiều Hoa vô sinh! Từ đó đến nay nó sống với mình. Bao giờ cũng chỉ hai bố con như các cậu thấy.
- Và suốt đời nó không được biết điều bí mật này của bố mẹ nó?
- Không, nếu các cậu không bẻm mép mách lại với nó, tất nhiên. Mà thôi, cho mình thêm cốc nữa!
-
Hà Nội, 1985
Cuộc trở về của đứa con lầm lỗi Người viết: Thái Bá Tân 10/10/2006 CUỘC TRỞ VỀ CỦA ĐỨA CON LẦM LỖI
1
Hàng năm, cứ vào ngày mồng bảy tháng Giêng âm lịch là cả làng D.T lại nhộn nhịp hẳn lên. Cái nhộn nhịp ấy còn lan sang những làng lân cận. Vào ngày ấy, từ sáng sớm, người ta í ới gọi nhau đi chợ, đến trưa thì nhà nào trên bàn thờ tổ tiên cũng có một mâm cỗ với những que hương trầm nghi ngút khói. Trong khi lũ trẻ hoặc đám thanh niên mới lớn vô tư cười nói bên cạnh, những người già đứng chắp tay trước bàn thờ, cúi đầu lầm rầm cầu khấn điều gì chỉ mình họ biết. Cuối cùng mâm cỗ được hạ xuống, một lần nữa, khi cánh trẻ ăn uống vui vẻ, những người già - thường ngồi riêng với nhau ở mâm trên, - vừa nhấm nháp uống rượu, vừa khe khẽ nhắc lại những gì đã xẩy ra vào cái ngày khủng khiếp ấy...
Ðó là ngày mồng bảy tháng Giêng âm lịch năm 1954, nghĩa là lâu, đã lâu lắm rồi, đến mức bây giờ nhớ lại, người ta không khỏi không mâu thuẫn với nhau về chi tiết, thậm chí cả những chi tiết quan trọng. Mỗi người kể một cách và ai cũng cho mình đúng. Ðại khái sự việc xẩy ra thế này.
Ðộ năm giờ sáng vào cái ngày khủng khiếp ấy, một chiếc máy bay khu trục Pháp bất ngờ từ phía biển bay vào, ném một loạt năm quả bom xuống D.T. lúc ấy hẵng còn là một làng nhỏ nhà cửa đứng sát sít bên nhau. Chiếc máy bay ấy còn lượn thêm hai vòng, sau mỗi vòng lại chúc xuống ném những loạt bom dài và chính xác như trước. Rồi vút lên, nó bay mất hút về phía biển.
Sau đấy là một nỗi kinh hoàng thật sự. Làng D.T nằm dài thành một vệt, bị ba lần ném bom trúng ngay vào ba phần đầu, giữa và cuối, thành ra cả làng, không còn ngôi nhà nào nguyên vẹn. Số người chết lại càng khủng khiếp hơn, vì lúc ấy còn sớm, hoặc người ta ngủ chưa dậy, hoặc dậy rồi nhưng chưa đi đâu khỏi làng. Có người bảo chết hai trăm, có người bảo ba, cũng có người nói nhiều hơn. Còn việc vì sao làng D.T bị ném bom chứ không phải làng nào khác, mà lại một cách dã man, mang tính hủy diệt như thế, trong khi suốt một thời gian dài trước đấy cả huyện Diễn Châu rộng lớn chưa bị ném bom lần nào, thì không ai hiểu nổi, mặc dù người ta đã đưa ra rất nhiều giả thiết khác nhau.
Từ đấy hàng năm đúng ngày mồng bảy tháng Giêng âm lịch là cả làng nhà nào cũng có giỗ. Kèm theo giỗ là những câu chuyện rôm rả, những hồi tưởng đau buồn, những tiếng khóc...
2
Năm nay về D.T dự "giỗ làng" có thêm một người. Người ấy lập tức thu hút sự chú ý của dân làng. Ðó là một ông già khoảng 65 tuổi, tóc bạc trắng, da dẻ hồng hào nhưng hình như không được khỏe, vì ông phải dùng gậy để đi lại. Ông về làng trước ngày có giỗ hai hôm, tức là vào ngày mồng năm. Không ai nhận ra ông, có lẽ ông cũng chẳng nhận ra ai quen trong làng. Ông nói tên những người ông muốn gặp, người ta lắc đầu không biết. Ông phải tìm hỏi người cùng tuổi, tự giới thiệc mình là ai, từ đâu tới, vân vân, lúc ấy người ta mới đồng thanh "ồ", "à" cả lên.
Thì ra ông già là dân làng này, có điều ông xa nó gần ba mươi năm, và nay, sau ba mươi năm dài ấy, ông mới trở lại thăm làng lần đầu. Không phải không muốn, ông nói, mà vì ông ở xa, tận bên nước Thụy Sĩ hay gì gì ấy ở châu Âu. Còn những người ông hỏi gặp thì thuộc gia đình một địa chủ lớn ngày xưa ở vùng này. Có điều bây giờ cái gia đình ấy chẳng còn ai, trừ bà Sen, một bà già đơn độc sống cuối làng.
- Chết hết rồi, - người ta thở dài bảo ông. - Chết vào cái ngày khủng khiếp ấy. Bom, máy bay ném bom... ông biết chứ? - Rồi như để an ủi, người ta ái ngại nhìn ông, nói thêm: - Không riêng gì nhà nhà bác, mà cả làng, nhiều lắm...
- Có, tôi có nghe nói, - ông già lặng lẽ lấy khăn mù-xoa lau lau đôi mắt hoe đỏ vì xúc động. - Cũng vì thế tôi về đây xem thực hư thế nào. Kinh khủng quá, trời, kinh khủng quá...
Ông già lại lấy khăn chấm vào mặt. Giọng ông run run. Ðôi tay khô và nhăn nheo của ông cũng run run. Một chốc sau lũ trẻ dẫn ông chống gậy chậm chạp đi về phía nhà bà Sen.
Ðêm hôm ấy, dĩ nhiên ông và bà Sen trò chuyện với nhau rất lâu.
- Trời, bác Ánh, không lẽ bác còn sống à? - Bà Sen kêu lên khi nhận ra khách là ai. Bà và ông là con chú con bác với nhau, tuy ít hơn ông mấy tuổi, bà có vẻ già yếu hơn. - Chừng ấy năm bác ở đâu? Sống thế nào?
Không chờ khách trả lời, bà vội bỏ đi lấy ghế, múc nước. Còn ông già thì cố tỏ ra bình tĩnh. Ông thong thả đưa cả hai tay bê bát chè vối nguội lên tận miệng, rồi cũng thong thả như thế, ông uống từng ngụm nhỏ cho đến hết bát nước, trong khi bà Sen ngồi đối diện, vừa tò mò quan sát, vừa kiên nhẫn chờ nghe ông nói.
- Bà biết rồi đấy. Năm bốn mươi, tôi ra Hà Nội học. Rồi sang Pháp. Rồi lại về nước, làm cái thằng lính. Ðến năm năm tư thì tôi theo người Pháp rời Việt Nam, sang sống với bố mẹ ở nước ngoài. Ờ, mà hai cụ chết đã lâu, hai mươi năm rồi. Còn tôi vẫn sống một mình, không vợ con, những tưởng chẳng bao giờ được thăm lại quê cũ, thế mà tôi vẫn lần được về. Tôi muốn biết...
- Vâng, - đoán hiểu ý ông, bà Sen vội tiếp lời, - ngày kia là giỗ làng rồi. Cả làng, cậu ạ, - những hai ba trăm người chết chứ đâu ít...
- Nhiều thế cơ à? - Ông Ánh khẽ hỏi.
- Vâng, thật khủng khiếp! Tờ mờ sáng, bác ạ. Một chiếc máy bay... ôi! - Bà Sen thở dài, rồi ngồi im, rơm rớm nước mắt.
- Hai cụ nhà cô cũng chết lần ấy?
- Vâng, cả chồng và con trai tôi nữa. Một quả bom rơi trúng nhà. May tôi lúc ấy ra vườn hái rau chuẩn bị cơm sáng nên mới thoát.
- Còn gia đình bác Vị ? (Bác Vị là anh trai cả bố mẹ ông Ánh, bà Sen).
- Cũng thế. Có điều bác gái bị thương, phải nửa năm sau mới chết được.
- Còn chú Xuân?
- Chú Xuân lúc ấy không ở nhà. Chú ấy trốn đi bộ đội từ hai năm trước, sau này hy sinh ở Ðiện Biên.
- Còn làng xóm?
- Làng xóm thì bác thấy đấy, nhà nào cũng bị, không người này thì người nọ. Ngày kia giỗ, rồi bác xem.
Ông ÁNH không hỏi gì thêm. Ông cúi đầu ngồi im, hai tay ôm mái tóc bạc. Ngoài sân, trời đã tối từ lâu. Trong ánh sáng đỏ nhờ của chiếc đèn dầu ma-dút, bà thấy ở khóe mắt ông có hai giọt nước lấp lánh mỗi lúc một to dần. Bà cũng ngồi im thẫn thờ, cho đến lúc bất chợt vụt đứng dậy vì sực nhớ phải làm cơm mời khách.
Ðêm ấy hai người còn ngồi nói với nhau nhiều chuyện, nhưng như đã hẹn trước, ai cũng cố không nhắc tới đề tài lúc nãy.
Cuối cùng cáo mệt, ông Ánh lên giường. Từ buồng trong, bà Sen nghe rõ tiếng ông nằm trăn trở mãi, cho đến khi bà thiếp đi lúc nào không biết.
Hôm sau, tức ngày mồng sáu, ông Ánh nhờ bà Sen dẫn ra thăm mộ những người bị bom chết trong cái ngày xa xưa ấy. Ðến nơi, ông nói muốn ở lại một mình. Tuy không hiểu ý ông làm gì, bà Sen chẳng hỏi, lẳng lặng ra về.
Nghĩa địa Gia Quán nằm trên mé đồi thoai thoải bao quanh bởi những bụi gai còi cọc thấp tè. Mộ được xếp thành từng hàng dài, mỗi họ một khu, chiếc này dính liền chiếc kia như những luống khoai lớn, phía trên nổi lên những mô đất nhỏ đánh dấu từng chiếc. Phần bị mưa xói, phần do trâu bò xéo, nhiều chiếc sụt lở, méo mó. Ðất cằn, cỏ không mọc nổi, không bóng cây, không lăng bia, mộ chí. Nói chung quang cảnh khá tiêu điều và ảm đạm.
Ông ÁNH thận trọng chống gậy đi đến trước hàng mộ người thân của ông bà Sen vừa chỉ. Tay cầm hộp diêm, run run, ông bật lửa châm mấy bó hương mang theo, cắm xuống đấy năm que. Số còn lại ông chia đều cho tất cả những hàng mộ bên cạnh. Sau đó ông chọn một hòn đá phẳng, ngồi xuống, hồi lâu đờ đẫn nhìn một điểm nào đấy trước mặt...
Tối đến ông chống gậy đi hết nhà này sang nhà khác. Ðến đâu ông cũng gợi để chủ nhà nói về cái sự kiện khủng khiếp xảy ra cách đây mấy mươi năm. Còn ông, ông chỉ im lặng ngồi nghe, thỉnh thoảng thêm đôi lời để câu chuyện khỏi bị ngắt quãng.
Ai cũng ái ngại cho ông già sau chừng ấy năm xa cách nay trở lại quê hương phải nghe những chuyện buồn như vậy.
3
Rạng sáng ngày mồng bảy, khi mặt trời chưa lên và sương mù còn dầy đặc, có một bà gánh rau cải xuống chợ bán sớm. Ðến cây đa cụt cuối làng, vì mải nhìn xuống đường để tránh những vũng nước đọng sau cơn mưa, bà bỗng thấy đầu mình va phải cái gì khô cứng.
Bà ngước nhìn lên, kêu to một tiếng vì ngạc nhiên và sợ hãi, rồi vứt gánh, ù té chạy trở lại. Chưa đầy mười lăm phút sau, một nửa dân làng D.T đã có mặt. Mọi người đứng quanh cây đa cụt, sững sờ nhìn cảnh tượng trước mặt.
Trên cành cây choãi ra phía mặt đường, có một người treo cổ chết, xác lủng lẳng, mồm há hốc, đầu ngoẹo sang một bên, mớ tóc bạc lòa xòa dính bết vào trán - có thể vì mồ hôi, cũng có thẻ vì sương ướt.
Người đó là ông Ánh. Chiếc gậy của ông để tựa gốc cây. Trên gậy là chiếc mũ dạ với tờ giấy được gấp tư cẩn thận, to bằng lòng bàn tay. Theo yêu cầu của mọi người, một thanh niên rón rén lại gần gốc đa, cầm tờ giấy lên, đọc to:
"Thưa bà con dân làng,
Chính tôi là người lái máy bay ném bom làng ta ba mươi năm về trước. Tôi đã xin cấp trên được làm điều đó, vì nghe tin gia đình tôi bị Cộng Sản cướp hết ruộng đất, nhà cửa chia cho dân nghèo. Lúc ấy còn trẻ và nông nổi, tôi thèm khát trả thù, lại sẵn bom đạn trong tay, thế là tôi tự nguyện gây nên tội ác khủng khiếp kia, cái mà từ ngày ấy cho đến nay không để lương tâm tôi thanh thản phút nào. Tôi đã phạm một sai lầm không cứu vãn nổi, là tách rời khái niệm "Cộng Sản" khỏi khái niệm quê hương làng nước...
Bây giờ đã bốn giờ hai mươi phút, nghĩa là tôi còn phải chờ thêm mười phút nữa để tự kết liễu đời mình. Thực ra, tôi xem tôi đã chết vào đúng cài giờ phút ấy cách đây ba mươi năm, khi tôi bấm nút ném quả bom đầu tiên xuống khu làng đã sinh và nuôi tôi lớn.
Tôi chẳng dám xin được bà con tha thứ cho tôi, một đứa con tội lỗi sau bao nhiều năm lưu lạc, nay trở về quê cũ để tự đền tội. Trong túi tôi hiện còn ít tiền, nếu được, nhờ bà con cho thuê người chôn tôi ở nghĩa địa Gia Quán, cạnh những người tôi đã giết.
Nguyễn Văn Ánh
Diễn Châu, 1983
Đừng bao giờ bán tuổi trẻ của mình! Người viết: Thái Bá Tân 15/09/2009 Người bán tuổi
Truyện ngắn. Thái Bá Tân
- Chú mày không còn gì nữa thật à?
- Vâng. Đúng thế, - hắn đáp.
- Vậy sao còn đến hiệu cầm đồ?
Hắn lúng túng đứng im vì chẳng biết nói gì.
Hắn còn trẻ, trẻ lắm, chính xác là hai mươi tuổi. Mới cách đây một tuần hắn kỷ niệm cái tuổi ấy ở quán nước cùng vài thằng bạn như hắn, bằng nước chè chén và kẹo lạc. Chỉ thế thôi vì lúc ấy trong túi không đứa nào có tiền.
Hắn là sinh viên năm thứ ba một trường đại học "con ông cháu cha" ở Hà Nội, mặc dù ông bà cha mẹ hắn bao đời nay chỉ là nông dân nghèo, lại ở tỉnh xa. Hắn vào được trường này đơn giản vì học giỏi, vào thẳng, nhờ trước đó đoạt giải cao trong một lần thi toán quốc tế và ba lần giải nhất nhì trong nước. Hắn khá đẹp trai, lại thông minh và có dáng rất trí thức. Cả con người hắn toát lên điều đó, ai thoạt nhìn cũng nhận thấy ngay. Đôi mắt hắn thật sáng và luôn hấp háy sau cặp kính trắng hình ô-van gọng mạ kền hợp mốt mà không hiểu hắn đeo vì cận thật hay chỉ để tôn thêm cho khuôn mặt vốn đã rất ưa nhìn của mình. Hắn có thói quen chốc chốc đưa ngón tay trỏ nâng cặp kính trên chiếc mũi thon thẳng, dù chẳng mấy khi nó tụt xuống. Da hắn trắng và mịn. Đôi môi chúm chím, mọng và hồng hồng như môi con gái. Dáng điệu và cách nói năng, cư xử của hắn cũng lịch sự. Tóm lại, cả phần trong lẫn phần ngoài, hắn là một người gần như hoàn thiện. Hắn luôn ý thức điều ấy, kể cả việc rất nhiều cô gái để ý đến hắn.
Chỉ tội mỗi cái là hắn nghèo. Sinh viên tỉnh lẻ ai chẳng nghèo? Hẳn thế. Nhưng với người khác thì đó là "khó khăn tài chính", còn với hắn thì vấn đề nghiêm trọng hơn nhiều. Hắn muốn có cuộc sống vật chất (tức sinh hoạt, chi tiêu và nhất là giao du với bạn bè) tương xứng với một người thông minh, đẹp trai và lịch lãm như hắn. Hắn tiếc chứ không oán giận bố mẹ. Hắn biết thân phận mình nên không bao giờ chủ động viết thư xin tiền. Có thì các cụ cho, không thì tự lo lấy. Hắn nghĩ thế và đã tìm mọi cách để có tiền. Toàn những cách lương thiện và sạch sẽ - làm gia sư, viết hộ luận án cho người khác, học giỏi để được nhận học bổng và tham gia các đề tài nghiên cứu, các chương trình, dự án. Nhưng để có được cách sống như hắn mong muốn thì các khoản thu nhập ấy không đủ, dù hắn đã rất cố.
Là người tự trọng, hắn không mua chịu cái gì và cũng không hỏi vay tiền ai, kể cả bạn bè thân thiết. Mà đã tự trọng thì dễ thành sĩ diện. Thế là hắn tìm đến hiệu cầm đồ với cảm giác xấu hổ và chua xót. Đầu tiên hắn cầm chiếc đồng hồ Thuỵ Sĩ chính hiệu được tặng lần đi thi ở nước ngoài, để có tiền mua quà sinh nhật cho một cô bạn gái con nhà giàu yêu hắn và cũng được hắn yêu lại. Tiếp đến là chiếc nhẫn vàng hai chỉ do một bà cô nghèo ở Sài Gòn đã khóc vì mừng và tự hào đưa cho hắn khi được vào thẳng đại học. Có thể dễ dàng đem bán những thứ ấy nhưng hắn không làm thế vì không muốn chia tay với những vật kỷ niệm có ý nghĩa. Hắn từng đem cầm và chuộc lại chúng mấy lần, cho đến khi chẳng kiếm đâu ra tiền để chuộc. Cách đây ba tháng hắn phải đem cái duy nhất còn lại có thể mang tới hiệu cầm đồ này là chiếc xe máy không tốt lắm nhưng cũng chẳng đến nỗi cà tàng, để có tiền hoàn thành dự án do một công ty tư nhân thuê hắn và hai đứa bạn khác làm nhưng không được ứng trước đồng nào. Hắn tin làm xong sẽ có tiền không chỉ đủ chuộc lại xe mà cả những thứ khác. Nhưng cái công ty ấy vỡ nợ, do vậy đẩy hắn vào thế tuyệt vọng.
Chẳng hiểu vì sao hôm nay hắn đến đây, một khi không có tiền để chuộc lại cái đã cầm. Hắn lờ mờ nghĩ số tiền hắn vay chỉ già nửa giá trị chiếc xe, biết đâu lão chủ hiệu cầm đồ thương tình đưa thêm chút ít nữa chăng. Tuy nhiên hắn không muốn hỏi xin điều ấy, vì hắn biết rõ tính lão và mức lãi lão bắt hắn trả. Thành ra hắn cứ nấn ná nửa muốn ở lại, nửa muốn về ngay để khỏi phải nhìn con người hắn đang căm ghét.
- Vậy là quả thật cậu không còn gì nữa? - lão hỏi lại cái câu vừa hỏi lúc nãy.
- Thì tôi đã nói là không rồi! Ông điếc à? - Tự nhiên hắn nổi cáu. Từ trước tới nay hắn luôn lịch sự "bác cháu" với lão, nhưng giờ thì hắn chuyển sang "ông tôi".
Lão giả vờ không nhận thấy thái độ ấy của hắn, vẫn nhỏ nhẹ:
- Tôi thấy hình như cậu vẫn còn cái để cầm hoặc bán cho tôi đấy. Quý và đắt tiền nữa là khác...
Ông ỡm ờ, lảm nhảm gì thế? - Hắn vẫn chưa hết cáu. - Tôi mà không biết mình đang có gì sao? Hay ông biết, ông nói thử tôi nghe. Tôi đang cần tiền.
- Rất cần?
- Vâng, rất cần.
- Cần ngay bây giờ?
- Cần ngay bây giờ.
Lão già chủ hiệu cầm đồ húng hắng ho. Từ nãy đến giờ lão ngồi sau chiếc quầy gỗ cáu bẩn, trên chiếc ghế tròn cao bằng sắt có thể xoay đi xoay lại như ở quầy bar, còn hắn thì đứng cạnh. Lão thong thả bước xuống, pha ấm trà mới rồi mời hắn ngồi xuống bộ xa-lông cũng già nua và nhăn nheo như lão.
- Mời cậu uống nước và hút thuốc, - lão nói, tay chìa bao ba số.
Đây là lần đầu lão đối xử tử tế với hắn. Hắn thầm ngạc nhiên nhưng chỉ lặng lẽ chờ xem lão định giở trò gì.
- Xin được nhắc lại: Cậu không biết cậu còn một cái rất quý mà tôi đang cần. Nếu cậu muốn, ta có thể thương lượng... - Cái gì? - hắn tò mò hỏi.
- Thì cậu hãy uống nước, hút thuốc đi đã. Việc này quan trọng, không vội được, - lão nói, nhìn thẳng vào mắt hắn, một cái nhìn sắc lạnh và đáng sợ, đến mức không chịu nổi, hắn phải cúi mặt. - Thế này nhé, - lão lên tiếng sau hồi lâu hai người im lặng, - cậu đang có cái quý nhất của con người, đó là tuổi trẻ. Cậu có thể đem nó cầm ở cửa hàng tôi, hay tốt nhất là bán hẳn cho tôi, được không?...
- Ông nói gì cơ? Tuổi trẻ? Bán tuổi trẻ của tôi cho ông? - hắn thốt lên, lúc đầu ngạc nhiên, sau phì cười: - Ông điên à?
- Chính xác năm nay cậu bao nhiêu tuổi nhỉ? - lão hỏi như không nghe hắn vừa nói gì.
- Hai mươi.
- Cái tuổi thật đẹp mà tôi rất muốn có, dù phải trả giá đắt. Cậu đồng ý bán nó cho tôi chứ?
"Lão già này điên thật rồi, - hắn thầm nghĩ. - Lão nói lảm nhảm gì vậy không biết".
- Cứ cho là tôi muốn bán đi, nhưng ông cần nó làm gì, và... việc mua bán này thực hiện như thế nào? Đây không phải chiếc xe máy hay một đồ vật cụ thể. Ông hiểu ý tôi chứ?
- Hiểu, rất hiểu, - lão già gật đầu. - Tôi sẽ cho anh biết sau. Biết về các điều kiện mua bán ấy mà. Bây giờ chỉ cần anh nói anh có đồng ý không đã.
"Hay lão ta là phù thuỷ?" hắn tự hỏi rồi mỉm cười, buột miệng thành tiếng:
- Ông nói cứ như ông là phù thủy không bằng.
- Nếu muốn, anh có thể coi tôi là phù thủy cũng được. Không sai nhiều lắm đâu, - lão thản nhiên đáp.
Hắn bắt đầu thấy câu chuyện trở nên thú vị, dù chẳng tin chút nào những điều lão nói. Với hai chữ "phù thủy" lởn vởn trong đầu, hắn đưa mắt nhìn lão một lượt từ đầu đến chân và thấy lão cũng hơi hơi giống phù thủy thật.
Người lão bé choắt, khuôn mặt gầy, đen xỉn lại đầy những nếp nhăn sâu, đặc biệt trên trán và hai bên khóe mắt. Nhìn lão, cái đập vào mắt trước tiên và dễ nhận thấy nhất là một nốt ruồi to, hồng hồng như hạt đậu đỏ với mấy sợi lông không hiểu sao lão không cắt mà cứ để mọc dài, trông rất khó chịu. Chiếc mũi lão nhọn, kéo xuống gần miệng nhưng không khoặm. Trên mũi là chiếc kính trắng mắt tròn và nhỏ như kính thầy bói. Các ngón tay lão dài, chỉ còn da bọc xương nhưng khá sạch và không có móng nhọn như phù thủy. Còn đôi môi lão thì đúng là môi phù thuỷ - mỏng, nhỏ, bên ngoài xám ngoét nhưng càng sâu vào trong càng đỏ, đỏ như máu. Cả đôi mắt và giọng nói cũng đúng của phù thủy. Ở chúng có cái gì đấy độc ác và đáng sợ.
Hắn thầm ngạc nhiên sao mãi bây giờ mới nhận thấy những điều này ở lão. Cũng có thể do bị ám ảnh nên hắn mới thấy thế chăng? Hắn đảo mắt nhìn qua căn nhà. Đúng là hang phù thủy. Nó ở trong một con hẻm sâu hun hút. Một phần bên ngoài lão dùng làm cửa hiệu, hay đúng hơn là nơi giao dịch của cửa hiệu; các bức tường cáu bẩn đến mức không thể nhận ra nó từng được quét bằng loại vôi ve gì, trên đó có treo một cặp sừng nai cong queo, một con đồi mồi, một chiếc mặt nạ màu đen bằng gỗ với đôi nanh trắng hếu, một con chồn nhồi đang bám vào tường và... một giấy chứng nhận gia đình văn hóa mới được lồng trong khung kính. Hắn bĩu môi khi thấy cái vật quá ư đời thường, lạc lõng này. Tất cả đều bị phủ một lớp bụi dày đen xỉn. Hắn chưa bao giờ vào phòng trong, nhưng đoán biết nó rất dài, không có chút ánh sáng nào lọt vào, là nơi cất giữ những thứ người ta đem đến cầm cố, và chắc chắn phải có đủ dụng cụ hành nghề của một lão phù thủy. Hình như lão sống một mình. Ít ra xưa nay hắn chưa hề gặp ai khác ở đây, ngoài khách hàng của lão.
- Thời này không còn phù thủy nữa, tất nhiên,- hắn nhận xét. - Nhưng thực tình tôi thấy ông chẳng khác phù thủy mấy.
- Thì tôi chính là phù thủy thật mà. Tôi biết anh không tin, nhưng quả đúng thế.
- Tôi không ngờ ông là người thích đùa. Đã vậy, tôi cũng xin đùa theo. Tôi đồng ý bán tuổi trẻ của tôi cho ông. Xin cho biết cách thức và giá cả cụ thể!
- Nhưng đây không phải chuyện đùa. Chuyện nghiêm túc đấy.
- Ừ, thì nghiêm túc. Ông nói đi.
Lão già im lặng một lúc như suy ngẫm điều gì.
- Được, vậy là anh năm nay hai mươi tuổi. Anh có thể nhượng lại cho tôi số tuổi này dưới dạng cầm đồ... trong trường hợp này là cầm tuổi, lúc nào có tiền anh chuộc lại. Nhưng tôi muốn và cũng khuyên anh nên bán đứt cho tôi thì được lợi hơn nhiều, lại đỡ rắc rối sau này...
- Tôi đồng ý theo cách thứ hai. Rồi sao nữa?
- Tốt lắm. Bây giờ ta bàn giá cả. Đây là mặt hàng ít mua bán nên không có giá chung. Tôi định trả cho anh mỗi năm tuổi mười triệu đồng, anh thấy thế nào?
- Mười triệu một năm tuổi! - hắn khẽ thốt lên, không hiểu vì nghĩ như thế là quá đắt hay quá rẻ. - Vâng, cứ cho là tôi chấp nhận giá ấy. Tiếp theo là gì?
- Là coi như vụ mua bán này xong xuôi. Hai người sẽ kí hợp đồng. Anh giao hàng, tôi trao tiền. Thế thôi. Như các vụ mua bán bình thường khác ấy mà.
- Giao hàng, nhận tiền? - hắn lại ngạc nhiên và mỉa mai hỏi tiếp: - Thế cái bản hợp đồng ấy có phải đem ra ủy ban phường hoặc phòng công chứng xác nhận không?
- Kể làm được thế thì tốt hơn, nhưng mà thôi, không cần. Tôi là người tử tế và hi vọng anh cũng vậy. Vả lại phù thủy chúng tôi có luật riêng của mình, - lão nói một cách rất nghiêm túc.
Bỗng nhiên hắn ngồi thừ người, im lặng hồi lâu. Hắn vẫn nghĩ lão già chỉ đùa, nhưng hắn không thích kiểu đùa này, nhất là với một người như lão. Cuối cùng hắn hỏi:
- Chuyện gì sẽ xảy ra với tôi sau khi bán tuổi cho ông?
- Sao một người thông minh như anh còn phải hỏi tôi điều ấy? - Lão cười to thành tiếng. - Cái người ta đã bán tất nhiên sẽ không còn thuộc về mình nữa. Anh bán hai mươi năm tuổi trẻ của anh cho tôi thì nghĩa là anh sẽ mất đi hai mươi năm tuổi trẻ ấy. Anh vẫn chưa hiểu à? Nôm na là ngay sau khi nhận tiền, anh trở thành người bốn mươi tuổi chứ không phải hai mươi như bây giờ. Tuy nhiên, để tránh đột ngột và không gây bất tiện cho anh trong cuộc sống, tôi và anh nên thỏa thuận mua bán từ từ thôi, một tháng một tuổi chẳng hạn. Anh sẽ không bị già đi quá nhanh, lại không phải có quá nhiều tiền một lúc, là điều mang tai họa chứ chẳng phải ích lợi.
- Được, cứ cho là thế, nhưng ông sẽ làm gì với tuổi trẻ của tôi sau khi mua nó?
- Lại một câu hỏi ngốc nghếch nữa. Để tôi được trẻ thêm hai mươi tuổi chứ còn gì. - Lão già lại cười, lần này to và có vẻ thích thú.
- Tôi đoán năm nay ông khoảng sáu mươi lăm. Vậy ông sẽ thành một người đàn ông bốn mươi lăm tuổi. Sao ông không chọn mua tuổi của ai đấy ba mươi, bốn mươi để được trẻ hơn?
- Ồ, cái gì cũng phải có giới hạn, anh bạn trẻ ạ. - Lão lại cười. Bây giờ hắn thấy tiếng cười của lão thật đáng ghét. - Anh nghĩ xem, từ một ông già lọm khọm thế này, bỗng dưng tôi thành thằng trai tơ, người ngoài trông vào khó coi lắm.
- Tôi hỏi ông câu cuối cùng: Vì sao ông chọn mua tuổi của tôi chứ không phải của người khác?
- Đơn giản thôi. Vì anh thông minh, khỏe mạnh và quan trọng nhất là chưa nhiễm những thói xấu không thể tha thứ. Nói anh biết, chứ bọn nghiện ma túy và trộm cướp, có cho không tôi tuổi trẻ của chúng tôi cũng chẳng thèm. Là người mua, tôi phải biết chọn hàng. - Lão ngừng nói, tợp một ngụm nước rồi nhìn thẳng vào mắt hắn: - Vậy là ta nhất trí?
Thay cho lời đáp mà rõ ràng lão chủ hiệu cầm đồ đang nóng lòng muốn nghe, hắn đứng dậy, cố tình tỏ vẻ chậm chạp, uể oải để che giấu những ý nghĩ đang rối lên trong đầu.
- Thôi, đùa thế đủ rồi. Ông xem tôi như con nít không bằng. Tôi về đây, - hắn nói.
- Ấy, gượm đã! - Lão vội chặn hắn lại. - Việc mua bán chẳng ai ép ai, hẳn thế. Nhưng tôi xin nhắc lại rằng đây là chuyện nghiêm túc. Rất nghiêm túc...
- Nghiêm túc? - hắn kéo dài giọng một cách mỉa mai. - Ông thử giải thích tôi nghe cái nghiêm túc ấy của ông xem nào. Làm sao trong thời đại tàu vũ trụ và Internet hiện nay bỗng chốc tôi già đi hai mươi tuổi chỉ vì câu đùa ngu ngốc nào đó của một lão già khốn khổ như ông?
- Thì đã nói rằng tôi là phù thủy...
- Phù thủy với cái này treo trên tường? - Hắn chỉ tay vào khung kính có tấm bằng gia đình văn hóa mới.
- Anh cứ chuyện nọ xọ chuyện kia, - lão già đáp, giọng nhún nhường. Rõ ràng lão không muốn mất khách. - Cái ấy chẳng liên quan gì đến việc chúng ta đang bàn. Còn chuyện trẻ ra hay già thêm bằng cách nào thì anh khỏi lo. Đó là việc của tôi. Chỉ cần anh đồng ý là xong, ta sẽ kí hợp đồng...
- Như hợp đồng giữa Faust và Mephisto trong vở kịch thơ của ông Goethe người Đức...
- Vâng, vâng, đúng thế. Quả tôi chọn người không nhầm. Thời buổi này mà một sinh viên trẻ tuổi như anh còn có thì giờ tìm đến tác phẩm này thì kể cũng hiếm. Có điều, Faust bán linh hồn cho Mephisto, còn anh chỉ bán tuổi trẻ của anh mà thôi. Nhân tiện xin được tiết lộ điều này, một khi anh nhắc đến Mephisto. Tôi là hậu duệ của một trong những đồ đệ của ông ta đấy...
- Nghĩa là ông sống trên đời này đã lâu, rất lâu. - hắn ngắt lời lão. - Xin hỏi, ông đã gạ mua tuổi trẻ của bao nhiêu người rồi?
- Anh tò mò quá đấy, anh bạn trẻ ạ. Tất nhiên anh không phải người đầu tiên và chắc cũng chẳng là người cuối cùng, cho đến lúc tôi phải chết vì một lý do ngớ ngẩn nào đó. Tôi biết trước số phận của mình mà. Nhưng thôi, ta quay lại với vở kịch Faust kia của ông Goethe. Anh có nhớ dàn đồng ca của bầy phù thủy trong cảnh Đêm hội quỷ ở miền rừng núi giữa Siec và Elen không, với hai câu kết rất ấn tượng là Qua đá, qua ghềnh; Phù thủy đánh rắm, dê già thối inh? Các cụ kị của tôi đấy. Công bằng mà nói, cái ông phó giáo sư, phó tiến sĩ Đức Soạn nào đó đã dịch Faust ra tiếng Việt cũng thối inh chẳng kém gì mùi rắm tổ tiên chúng tôi. - Nói đến đây, lão già nhăn mũi như ngửi thấy mùi thối thật. - Mà thôi, chuyện ấy không quan trọng. Vì như tôi đã nói, đây là việc nghiêm túc, anh có thể suy nghĩ thêm trước khi trả lời dứt khoát. Tôi chờ anh quyết định. Anh vẫn cần tiền đấy chứ?
- Vẫn, - hắn đáp cộc lốc. - Cần để sống cho ra sống và làm việc tốt hơn.
- Tốt. Xin nhắc lại: Tôi sẵn sàng mua hai mươi tuổi xuân của anh, với giá mười triệu đồng một tuổi. Mỗi tháng giao hàng, nhận tiền một lần. Lần đầu tôi có thể ứng luôn cho anh hai chục triệu để anh vừa chuộc lại xe, vừa có tiền tiêu. Trường hợp cần tiền, nếu anh muốn, trong một tháng tôi có thể mua cho anh hai tuổi hoặc hơn thế. Hi vọng với số tiền lớn này anh sẽ có điều kiện sinh hoạt và làm việc tốt hơn như anh nói. Là người thông minh và cần cù, tôi tin anh sẽ thành tài. Muốn thành tài, ai cũng phải trả giá. Cái giá của anh kể cũng có đắt, nhưng chưa hẳn đã đắt lắm nếu so với nhiều người khác. Vậy nhé. Tôi chờ anh...
* Đang đói tin giật gân, báo chí Hà Nội bỗng vớ được dịp may hiếm thấy để tăng số lượng xuất bản. Các báo tranh nhau đưa tin về một hiện tượng "xưa nay chưa từng thấy" xảy ra ở ngay thủ đô. Vì là tin hiếm nên người ta cố tình kéo dài, mỗi ngày chỉ hé cho bạn đọc một số thông tin nhất định, hôm sau li kì hơn hôm trước.
Ngoài đường, trên tất cả các phố, đội quân bán báo rong vừa đạp xe vừa vặn to hết cỡ những chiếc micro rè chạy pin của họ, dài dòng kể chuyện ở trường nọ không hiểu sao trong vòng một năm (có báo nói mấy tháng, có báo nói hai năm) một sinh viên năm thứ ba bỗng biến thành một "ông già lụ khụ" sáu bảy mươi tuổi (cũng có báo nói chỉ bốn hoặc năm mươi). Rằng chàng sinh viên-ông cụ ấy đã bị y tế nhà trường dùng vũ lực đưa đến một loạt các bệnh viện, kể cả Viện lão khoa trung ương, nơi các chuyên gia đầu ngành khẳng định chàng mắc chứng già trước tuổi, một căn bệnh nan y rất hiếm nhưng không phải không có, mặc dù chàng khăng khăng tuyên bố không hề đau ốm gì. Cái lý do "học thi nhiều nên chóng già" chàng đưa ra để giải thích trường hợp có một không hai này đã bị cả giới khoa học lẫn bạn bè thẳng thừng bác bỏ, cho là "không nghiêm túc và phi lý".
Tiếp đến là những bài báo dài, nói một cách chi tiết, cặn kẽ (chắc không tránh khỏi đôi chút phóng đại) về những nỗi khổ đau, phiền toái trong đời sống thường ngày của anh chàng hai mươi tuổi bỗng chốc thành "ông cụ sinh viên râu ria xồm xoàm" bị người yêu bỏ, bị bạn bè cười giễu, bị từ chối và đuổi thẳng về nước không được tham dự một cuộc thi tin học quốc tế dành cho sinh viên, với lý do khai man tuổi. Thậm chí chàng suýt bị khai trừ khỏi đoàn thanh niên, cũng vì tuổi tác và bộ râu rậm đã lốm đốm nhiều sợi bạc.
Suốt mấy năm sau đó báo chí còn đều đều đưa tin về "cụ sinh viên" này. Có tờ còn coi "cụ" như niềm tự hào dân tộc. Có tờ nêu vấn đề mời đại diện Guiness tới Việt Nam để tận mắt chứng kiến và đưa hiện tượng này vào sách kỷ lục thế giới. Cũng qua báo chí, người ta biết được rằng "cụ" đã tốt nghiệp xuất sắc trường đại học của mình, đủ tiêu chuẩn nhận học bổng du học ở Mỹ để lấy bằng tiến sĩ. Tuy nhiên, lại lần nữa vì tuổi tác, "cụ" bị từ chối không được nhập trường, dù phía Việt Nam đã xuất trình giấy khai sinh gốc được chính quyền địa phương xác nhận bằng dấu tròn màu đỏ. Là nhà khoa học đầy triển vọng, "cụ" được giữ lại trường làm cán bộ giảng dạy. Nay cụ đã là một giáo sư tiến sĩ đáng kính, niềm tự hào của trường và của cả đất nước.
"Cụ" đã lập gia đình, với người vợ hơn mình hai mươi tuổi. Ấy thế mà có kẻ độc mồm còn dám nói sau lưng họ: "Trông cứ như bố con!" Sinh viên rất quý "cụ", cả về kiến thức lẫn đạo đức. Có điều họ hơi lấy làm lạ là hầu như buổi học nào "cụ" cũng nhắc họ một điều chẳng mấy ăn nhập chương trình giảng dạy: "Các em phải luôn nhớ rằng trên đời này không gì quý bằng tuổi trẻ, và bất luận trường hợp nào các em cũng không được để mất nó, cũng như không được đánh đổi nó lấy bất kì cái gì khác!" * Cách đây không lâu, có tờ báo ở Sài Gòn đưa tin một người đàn ông trạc tuổi bốn mươi hay hơn một tí, có nốt ruồi lớn màu hồng hồng bên má trái, bị tai nạn giao thông ở Gò Vấp lúc mười giờ đêm, may được bác xích lô tốt bụng đưa vào bệnh viện. Mặc dù được các bác sĩ hết lòng cứu chữa, người này đã chết một giờ sau đó. Điều đáng nói là lúc ông ta tắt thở, các bác sĩ rất ngạc nhiên khi thấy toàn thân ông ta rữa ra và bốc hơi rất nhanh, cuối cùng chỉ còn lại ít xương mủn trên chiếc giường bệnh trải ga trắng ông ta vừa nằm. Câu chuyện quá kì dị nên người ta không tin, và chỉ coi đó như một trong vô số trò tung tin giật gân câu khách của tờ báo vốn bị nhiều tai tiếng này. | Hà Nội, 20.2.2001
Đọc truyện này để cố gắng mất ngủ. Người viết: Thái Bá Tân 05/09/2009 Mất ngủ (Đọc bản tiếng Anh Ínomnia ở mục Truyện Tiếng Anh)
Truyện ngắn. Thái Bá Tân
Như nhiều người già khác, ông Dụng mắc chứng mất ngủ, đặc biệt thời gian này, khi ông mới về hưu. Mấy chục năm ông làm ở ủy ban chăm sóc, bảo vệ bà mẹ, trẻ em của thành phố. Công việc nhàn, chẳng có gì lý thú, thậm chí "vô bổ" như nhiều khi ông nghĩ. Thế mà bỗng nhiên không còn được làm cái công việc tẻ nhạt và vô bổ ấy nữa, ông cảm thấy hụt hẫng, người cứ thế nào, thừa tay chân, thừa thời gian, thừa những suy nghĩ chẳng đâu vào đâu, đáng lẽ cũng thừa cả ngủ vì ông nằm rất nhiều. Nhưng ông lại mất ngủ.
Vào một đêm mất ngủ như thế, lúc ấy đã khuya, chắc phải đến mười hai giờ, ông bỗng nghe con Mực nhà ông sủa gắt. Thường nó vẫn sủa vu vơ khi có ai trong xóm về khuya. Nhưng lần này thì tiếng nó khác. Tiếng sủa báo có kẻ gian. Nó khôn lắm, về mặt này có thể nói còn khôn hơn cả người. Rồi im. Chừng mười lăm, hai mươi phút sau lại sủa. Ông nghe nó nhảy xổ lên cánh cổng và hình dung thấy nó bám hai chân trước lên thanh sắt nhìn "kẻ gian" với vẻ hăm dọa, cái mõm đầy nanh sắc nhô ra ngoài.
Ngõ nhà ông tối, chỉ được chiếu sáng bằng ngọn đèn tròn tù mù sáu mươi watt treo trước cổng nhà ông Hoạch cuối ngõ theo yêu cầu của tổ dân phòng, nhưng chắc con Mực nhìn rõ. Nghe nói không chỉ mũi mà mắt loài chó cũng tinh lắm. Con béc-giê của vợ chồng ông Bàn giàu nhất xóm này, chủ một quán nhậu lớn ở chân cầu Long Biên, cũng sủa gay gắt không kém. Ở đây nhiều nhà nuôi chó, vậy là chúng đua nhau đánh thức cả xóm dậy. Cả con chó Nhật bé bằng nắm tay nhà ông Hoạch cũng ti toe phụ họa.
Ông Dụng đi ra ban-công, nhìn xuống và thấy hai thằng choai choai đang đèo nhau bằng xe đạp, tới nhà ông Hoạch kịch đường, chúng quay ra rồi biến mất. Bầy chó tiếp tục sủa chốc nữa rồi cũng im. Ngõ phố lại chìm trong im lặng. Đôi nhà còn đỏ đèn. Mọi người chắc đã ngủ, hoặc giả vờ ngủ, coi như không có gì xẩy ra. ít nhất đối với nhà mình. Đây là xóm mới, nằm khuất trong một ngõ cụt sát phố Nguyễn Văn Cừ, gồm mười tám căn nhà riêng biệt do thành phố xây để bán, ai có tiền thì mua, do vậy được coi là khu xịn, thậm chí trong giấy tờ bán nhà ghi là Khu biệt thự, mặc dù nhà cái nọ dính vào cái kia. Người mua là dân các nơi khác đến, thuộc loại khá giả, nhưng nhà ai biết nhà nấy và chỉ giao tiếp ở mức lịch sự vừa phải. Ông Dụng đưa mắt nhìn một vòng, chẳng thấy động tĩnh gì bèn quay vào nằm.
"Cái bọn choai choai này là ghê lắm đấy, - bà vợ ông thường nói. - Chúng nghiện ngập, cờ bạc, giết người như ngóe. Tốt nhất đừng dây, nhỡ gặp chúng phải tránh thật xa!" Ông thấy vợ nói đúng. Chuyện gì bà ấy nói cũng đúng. Cả xóm này mọi người nghĩ như bà. Có lẽ vì thế mà như nhiều hôm khác, hôm nay chẳng ai, kể cả ông trưởng xóm kiêm tổ viên tổ tuần tra mà ông ta không bao giờ tham gia, chạy ra đuổi chúng, chí ít hỏi chúng đêm hôm vào đây làm gì. Nhiều lần chúng ngang nhiên tụm ba tụm bảy đánh bạc hoặc tiêm chích cả ban ngày mà không người nào dám nói một câu. Coi như không thấy. Không biết. Không dây! Dây vào ngộ nhỡ chúng đâm cho một nhát mà chết à?
Lát sau chó lại sủa ran. Chắc hai thằng kia quay lại. "Kệ. Nhà mình không là đối tượng của chúng, - ông nghĩ. - Vả lại con Mực sẽ chẳng chịu để yên cho chúng muốn làm gì thì làm." "Tao thách bọn mày vào đấy!" - Chắc đầu ngõ ông chủ quán nhậu có con béc-giê hung dữ cũng đang nghĩ như ông. Các nhà khác thì có lẽ cảm thấy yên tâm vì nhà mình kín cổng cao tường, cửa đóng chặt cả trên lẫn dưới.
Chó vẫn tiếp tục sủa và mỗi lúc một gay gắt. Con Mực nhảy chồm chồm lên tấm cửa sắt. Chắc có chuyện. Ông Dụng định dậy ra xem, nhưng không hiểu sao lại thôi. Nhiều người trong xóm lúc ấy có lẽ cũng chung tâm trạng như ông, và vẫn nằm yên trong nhà. Sau đấy bỗng có tiếng kêu thất thanh. Tiếng kêu cứu của một đứa bé. Bé gái. Hình như tiếng cái Hồng, con vợ chồng cậu Châu cách nhà ông một nhà về phía phải, sát nhà ông Hoạch. Mọi người, trong đó có ông Dụng, chạy bổ ra ban công, và từ vị trí an toàn ấy, tất cả gần như đồng thanh kêu to: "Trộm! Có trộm!" Chủ yếu để bọn kia thấy động bỏ đi. Rồi mọi người xuống gác, cố nói thật to, cố mở khóa cổng thật chậm để biết chắc mình không là người đầu tiên bước ra nơi nguy hiểm. Nhiều người còn dắt theo cả chó, những con chó trước đấy bị nhốt sau song sắt.
Khi mọi người đổ ra ngõ thì tất nhiên bọn bất lương đã biến mất, vì ít nhất đã năm phút trôi qua kể từ lúc có tiếng kêu cứu, có thể còn lâu hơn. Người ta thấy cánh cổng nhà vợ chồng anh Châu mở toang, còn cháu Hồng, mười ba tuổi, con gái duy nhất của họ thì nằm chết ngay ở bậc tam cấp, máu me đầm đìa. Nó nằm ngửa, bị đâm một nhát khá lớn ở bụng, lòi cả một đống ruột ra ngoài. Đến bây giờ dân trong xóm mới biết nó ở nhà một mình đã ba hôm nay vì cả bố lẫn mẹ đang theo cơ quan Bộ ngoại giao nghỉ mát ở Cửa Lò, nó bận thi học sinh giỏi tin học toàn thành phố nên không đi. Sau này, khi công an bắt được thủ phạm - hai tên lưu manh choai choai ở khu tập thể nhà máy xe lửa Gia Lâm - người ta biết thêm rằng nó bị đâm chết khi vừa kêu cứu, vừa cố giữ chiếc vi tính xách tay bố mẹ mới tặng. Một trong hai thằng kia giật mãi không được, cáu tiết dùng con dao Thái đâm một nhát vào bụng, nó ngã gục làm vết đâm rộng thêm nên ruột mới trào ra. Thằng này sau bị kết án tử hình. Bạn hắn tù mười năm. Còn dân trong xóm thì bị chính lương tâm mình kết án, nặng nhẹ tùy sự nhạy cảm và cách nhìn nhận sự việc của từng người...
* Có lẽ người bị 'kết án" nặng hơn cả là ông Dụng, vì ông hay mặc cảm và bị cái gọi là lương tâm dằn vặt nhiều hơn. Như những người khác, khi công an điều tra hỏi vì sao biết có kẻ gian mà không ra can thiệp ngay, ông nói bình thường chó vẫn sủa như vậy, và rằng ông già, khi tới nơi thì đã muộn. Ông biết ông nói dối. Chừng này tuổi mà còn nói dối một cách trơ trẽn. Ông đã có thể ra ban-công lần chó sủa rộ thứ hai, thứ ba, và nếu vẫn thấy hai thằng ấy mà ông biết chắc đến đây chỉ để ăn trộm, đáng lẽ ông phải ra hỏi chúng, đuổi chúng đi, cùng lắm gọi to mọi người dậy. Chắc chắn lúc ấy chúng không dám ra tay và cháu Hồng sẽ không bị giết một cách thảm thương như vậy. Nhưng ông đã hèn nhát không dám làm thế. Ông sợ bị chúng chém hoặc dùng kim chích ma túy đâm vào người. Sao ông không đi ra cùng con Mực? Chắc nó biết cách bảo vệ chủ. Ừ nhỉ, ông quên không nghĩ tới điều đó. Quên một phần vì "không muốn dây vào chúng", vì đơn giản nghĩ con chó giữ riêng nhà ông đã đủ. Ông chủ cửa hàng nhậu có lần từng chỉ vào con béc-giê của mình, nói:
"Lúc ấy mà tôi kịp thả con này ra thì hai thằng kia chỉ có chết!" nhưng ông ta đã không thả. Người khác cũng không. Lũ chó ngu ngốc, không khôn như người, nhất định chúng sẽ chịu chơi, chịu "dây" với bọn kia và do vậy chắc sẽ ngăn được vụ án mạng. Nếu có lương tâm, lương tâm lũ chó bây giờ trong sạch.
Càng nghĩ, ông Dụng càng buồn và thấy mình có tội. Không nghi ngờ gì nữa, trong cái chết của cháu Hồng ông chịu một phần trách nhiệm. Ông đã tính tới chuyện thú hết với công an, rằng chính ông và những người hàng xóm của ông mới là thủ phạm thực sự. Nhưng liệu tòa án có thể vì thế mà kết tội ông được không? Không có bộ luật nào kết tội những người không kịp ra cứu giúp người khác khi gặp nạn. Không ai bắt bẻ ông được. Vâng, không ai trừ lương tâm, mà lương tâm ông bây giờ đang cắn rứt. Ông đã có thể cứu được đứa bé nhưng ông hèn, ông sợ chết, ông quá khôn. Thế mà hàng chục năm trời ông được gọi là cán bộ bảo vệ trẻ em cơ đấy. Suốt mấy chục năm ấy và cả đời mình thực ra ông chẳng bảo vệ được ai. Việc ông làm chung qui chỉ là nói những lời đạo đức giả, tham dự các cuộc họp triền miên và mỗi năm vài lần trao những túi quà người ta chuẩn bị sẵn. Tên ông là Đinh Hữu Dụng mà thực sự ông là người vô dụng. Bạn bè, đôi khi cả chính ông, cũng nhiều lần nói đùa như thế.
Choáng váng vì cái chết của con gái, vợ chồng anh Châu xin đi làm tại một Đại sứ quán ở châu Phi, để lại ngôi nhà trống rỗng và khu xóm nhỏ đang bối rối dằn vặt với những gì mới xẩy ra. Không ai bảo ai, mọi người cố tránh không nhắc đến chuyện này. Cũng chẳng ai lên tiếng tự bào chữa hay trách cứ mình.
* Chứng mất ngủ của ông Dụng ngày một thêm trầm trọng. Nhiều đêm liền ông không hề chợp mắt. Thậm chí ông bắt đầu xem nó là bệnh, đi khám bác sĩ và uống đủ các loại thuốc vợ ông mua về bắt uống. Dạo này bị công an truy quét, bọn nghiện ngập và tội phạm không dám đến đây nữa, cả ban ngày cũng như ban đêm. Chó cũng ít sủa hơn. Tuy nhiên, ba hôm nay ông nhận thấy một điều khác thường, là lúc gần sáng con Mực nhà ông cứ tru lên khe khẽ. Tiếng tru nghe rất lạ, như thể nó đang sợ hãi điều gì. Con chó Nhật ông Hoạch cũng ngứa mồm sủa theo. Các con chó khác, trong đó có con béc-giê hung dữ của ông chủ quán bia, không thấy lên tiếng. Cả ba hôm ông đều ra xem nhưng không thấy gì.
Đấy, bây giờ con Mực lại sủa đấy, hay đúng hơn, đang rên ư ử. Ông nhìn đồng hồ. Ba giờ sáng. Trời tối, lại có gió lạnh. Xung quanh không tiếng động, trừ tiếng con Mực. Ông rón rén nhỏm dậy. Khác mọi lần, ông không ra hẳn ngoài ban-công mà chỉ đứng bên trong, vén rèm cửa sổ nhìn ra. Lối đi phía dưới vắng tanh. Ngọn đèn sáu mươi watt trước nhà ông Hoạch chiếu tù mù, nhưng cũng đủ sáng để nhìn thấy bất kỳ người nào, nếu có. Nhưng ông nhìn mãi mà chẳng thấy ai. Trong khi đó con Mực vẫn tiếp tục khẽ sủa một cách lo lắng và sợ hãi. Nghĩa là có chuyện. Không ngẫu nhiên nó sủa như thế. Nuôi nó mười năm nay, ông biết.
Ông khoác thêm chiếc áo, lặng lẽ đi xuống, lặng lẽ mở cửa rồi mở cổng bước ra ngoài, không quên mang theo chiếc gậy đề phòng bất trắc. Con Mực thấy ông, vẫy đuôi rối rít. Nó rón rén đi trước, tai cụp, đầu cúi sát đất. Có nó, ông thấy yên tâm hơn. Bên ngoài trời vẫn tối đen và ẩm ướt. Xung quanh yên ắng lạ thường. Bất chợt ông nhìn thấy có cái bóng mờ mờ trước mặt. Ông định kêu to đánh thức mọi người, nhưng nghĩ có thể nhìn nhầm nên lại thôi. Cái bóng nhỏ màu trăng trắng đứng co ro bên cửa nhà anh Châu, chỉ cách ông khoảng mươi mét. Trộm chăng? Hình như không, vì nếu thế nó đã bỏ chạy khi nghe ông cố tình hắng giọng. Vậy thì là cái gì?
"Ai đấy?" - ông hỏi to rồi mạnh dạn bước lại gần. Con Mực đi theo, sủa lên một tiếng đầy hăm dọa. Cái bóng trắng vẫn đứng yên. Nó không có ý bỏ chạy hoặc sợ hãi. Khi lại gần, ông Dụng thấy hình như đó là một đứa trẻ. Nó đứng tựa lưng vào tường rào, hai tay ôm cái gì đấy trước bụng.
"Trời ơi, Hồng đấy à, cháu?" ông khẽ thốt lên, quên mất rằng con bé đã chết hai tháng nay.
Cái bóng gật đầu, không nói gì. Ông Dụng cúi xuống nhìn kỹ thì thấy đúng là nó. Nó đang đỡ mớ ruột bầy nhầy trên tay. Dưới ánh điện tù mù, ông thấy nó khóc, đôi mắt mở to đau đớn nhìn ông.
"Trời ơi!" - ông Dụng lại thốt lên, kinh hoàng nhìn mớ ruột. "Cái gì thế này?" Con bé im lặng, nhìn xuống chiếc bụng bị đâm thủng rồi nhìn ông, vẻ van nài. Con Mực không rên nữa. Nó cuống quýt chạy quanh chủ và cái bóng ma. Ông Dụng chẳng hiểu nó muốn gì. Ông đứng lặng, lúng túng hồi lâu. Cuối cùng ông ngồi xuống ngang tầm đưa bé, nhẹ nhàng nâng từng đoạn ruột bầy nhầy dính máu nhét lại vào bụng nó. Ông làm việc này thong thả, thận trọng như một bác sĩ phẫu thuật và bình tĩnh một cách lạ lùng. Thậm chí tay ông không run. Con bé vẫn lặng lẽ đứng yên, chỉ thỉnh thoảng khẽ co giật như bị đau. "Cháu gắng chịu chút nữa. Bác xong ngay bây giờ. Cháu ngoan lắm. Giỏi lắm!" - Ông dỗ nó như dỗ đứa cháu ngoại năm tuổi mỗi lần bắt uống thuốc đắng.
Con bé mấp máy môi điều gì đó khi ông làm xong, thận trọng đưa cả lòng bàn tay vuốt lại lần nữa như vá chỗ rách ở bụng nó. Ông kéo quần nó cao lên, cài cúc áo thật chặt cho nó rồi ngước mắt, có ý hỏi "Bây giờ cháu đỡ đau rồi chứ?" Con bé gật đầu nhìn ông và con Mực lần chót, rồi từ từ tan trong lớp sương mù ẩm ướt. Ông Dụng ờ lên một tiếng vì ngạc nhiên. Ông thực sự không hiểu chuyện vừa rồi là có thực hay chỉ một giấc mơ. Dạo này ông hay có những giấc mơ kỳ quái như vậy. Khi vào nhà bật đèn, ông thấy hai tay dính đầy máu...
Từ hôm ấy, đêm đêm vào lúc gần sáng, con Mực nhà ông thôi không sủa nữa. Hồn ma cái Hồng không quay lại thêm lần nào. Tuy vậy, chẳng vì thế mà ông Dụng đỡ mất ngủ. Bây giờ đến lượt ông, bị chứng mất ngủ hành hạ, cứ gần sáng ông lại ra khỏi nhà vật vờ đi đi lại lại trong ngõ. Lúc đầu lũ chó sủa ghê lắm, nhưng rồi dần dần chúng quen, không còn làm ầm ĩ bắt mọi người tỉnh dậy.
Hà Nội, 8.8.2002
Truyện này theo thầy rất hay và ý nghĩa. Đọc đi! Người viết: Thái Bá Tân 27/08/2009 Quả bom chưa nổ
Truyện ngắn. Thái Bá Tân.
Sau lễ tân gia đúng ba ngày thì ông Cần được biết rằng dưới ngôi nhà ông mới xây có quả bom chưa nổ. Mà bom to, loại nghìn cân Anh.
Người cho ông biết cái tin khủng khiếp này chính là bạn ông, đại tá pháo binh về hưu, thời chiến tranh chỉ huy một khẩu đội pháo phòng không ở ngay trên nền đất nhà ông.
"Tôi lấy làm lạ sao khi người ta làm móng, nó không phát nổ", ông đại tá về hưu nói.
Ông Cần cười mếu máo:
"Bác đùa. Chắc gì có mà nổ..."
"Không ai đùa những chuyện thế này. Tôi còn lưu được cuốn sổ ghi chép trực ngày ấy. Bác muốn, tôi cho xem. Đó là ngày 17 tháng Tám năm 1967, lúc bốn giờ ba mươi phút chiều. Hai chiếc F-105 từ biển bay vào. Một chiếc chúi xuống ném hai quả bom nhưng chỉ nghe một tiếng nổ. Tôi còn ghi thêm vào sổ: "Nhớ báo trên cho công binh xuống phá". May hôm trước khẩu đội chúng tôi kịp dọn đi nơi khác, chỉ chừa lại trận địa giả. Khi báo yên, tôi đến thì thấy có hố bom rất lớn và một vết lõm hun hút cách đấy không xa, bằng chứng của một quả bom khác chưa nổ".
"Cứ cho là như vậy, nhưng chắc gì nó nằm ngay dưới nhà tôi?"
"Tôi cẩn thận đánh dấu chỗ bom rơi, với mục đích báo người ta tháo gỡ như đã nói. Hướng đông cách cây si trên đường hai trăm mét. Cách giếng làng một trăm năm mươi mét về hướng tây. Căn ra, không đúng nhà bác là gì? Có thể không ngay dưới nhà mà ngoài sân. Nhưng với quả bom nửa tấn thì điều ấy chẳng có gì khác nhau".
"Có thể người ta đã tháo ngòi nổ nó rồi?"
"Tiếc là chưa, vì sau đó chúng tôi được lệnh chuyển ngay đi nơi khác. Tôi không có thời gian báo cấp trên việc này. Rồi dân quân lấp hố bom, lấp luôn cả quả chưa nổ kia".
"Có thể nó sẽ không bao giờ nổ, một khi đã nằm im chừng ấy năm dưới đất."
"Vâng. Với những quả bom loại này thì chuyện gì cũng có thể xẩy ra. Có thể suốt đời nằm im. Cũng có thể năm phút nữa nó sẽ nổ. Cái nguy hiểm và khó chịu là ở chỗ ấy".
Hai người im lặng hồi lâu. Cuối cùng chủ nhà lên tiếng:
"Thế thì tôi phải làm gì bây giờ?"
Ông đại tá về hưu không đáp, có vẻ bứt rứt vì phải báo bạn một tin chẳng mấy dễ chịu.
Ông Cần quả lúng túng không biết phải làm gì.
Đây là ngôi nhà mơ ước cả đời của ông và gia đình. Ba tầng, mái giả ngói, thiết kế kiểu biệt thự Pháp, trên diện tích đất hơn trăm mét vuông bên rìa thị xã và nhìn ra hồ. Hồ nước đục, nông choèn, nhưng vẫn là hồ nên những ngôi nhà xung quanh trở nên có giá. Biết làm sao bây giờ? Đập đi, thuê công binh đến phá bom rồi xây lại? Không ổn. Cứ tiếp tục sống như không có gì xẩy ra? Cũng không ổn. Ông vốn yếu bóng vía, chắc gì không phát điên lên với ý nghĩ đang ngủ trên một quả bom chưa nổ?
Mấy đêm liền ông thức trắng, ban ngày vật vờ như bóng ma. Người ông gầy xọp, mặt mũi hốc hác. Vợ con hốt hoảng, căn vặn mãi nhưng ông không chịu nói. Xưa nay khối người xây xong nhà là lăn đùng ra chết!
Một hôm ông bắn tin bán nhà, bất chấp sự phản đối kịch liệt của bà vợ. "Bà muốn tôi ở đây mà chết à?" Nghe thế, vợ ông bán tín bán nghi, nhưng thôi không ngăn cản nữa, mặc dù không hiểu vì sao chồng bà có thể chết khi được sống trong một ngôi nhà đẹp.
Ngôi nhà được bán một cách nhanh chóng vì giá rẻ. Ông chọn mua một nhà khác nhỏ và xấu hơn, rất xa chỗ cũ. Ông vội vã cho cả nhà dọn đi ngay trong ngày nhận đủ tiền. Đêm hôm ấy lần đầu tiên ông ngủ ngon giấc, tuy không phải không có những giấc mơ toát mồ hôi lạnh.
Mọi việc dần dần rồi đâu cũng vào đấy. Ông hết lo lắng và khỏe mạnh trở lại. Chuyện làm ăn, con cái đều tốt. Hơn thế, khu nhà mới của ông đất bỗng tăng giá vùn vụt vì theo qui hoạch sẽ có một đường phố lớn chạy qua. Thậm chí có ngày ông còn quên không nghĩ đến ngôi nhà cùng quả bom chưa nổ mà ông đã khôn khéo đẩy sang cho người khác.
Tuy nhiên, chưa đầy hai tháng sau, người mua nhà ông tìm đến nhờ viết lại giấy để ông ta bán nó cho người khác. Chả là họ mới chỉ mua bán trao tay chứ chưa làm thủ tục pháp lý.
"Vì sao bác lại bán nó?" Ông Cần giả bộ thản nhiên hỏi.
"Tôi muốn dọn về đâu đấy gần Cầu Giẽ cho tiện việc đi làm", ông kia đáp, cũng cố lấy vẻ tự nhiên, nhưng nét mặt lo lắng và thái độ lúng túng cho thấy ông ta đang nói dối.
"Vậy là họ đã biết và đang tìm cách ủn mối nguy hiểm ấy sang người khác. Như mình". Ông Cần nghĩ bụng, thầm lo bị vạch trần sự thật. Nhưng không, nhận được cái muốn có, ông kia vội vàng xin phép ra về. Thậm chí còn nói rất tiếc phải bán ngôi nhà đẹp trên thế đất tốt như vậy.
"Vâng, tôi cũng rất tiếc khi bán nó cho ông", ông Cần lơ đãng đáp.
Làm sao ông ta biết được nhỉ? Nhất định không thể do ông bạn đại tá cho biết. Vậy chỉ có thể ai đó trong số láng giềng. Điều này khó xẩy ra, vì bản thân láng giềng không dễ mà biết được. Nhưng rõ ràng đã có người biết, và cố ý báo cho người mua nhà ông. Để làm gì? Dụng ý tốt hay xấu?
Mấy hôm sau ông Cần phóng xe tới đó, chọn quán nước đối diện ở khoảng cách khá xa và bắt đầu lặng lẽ quan sát.
Chủ mới là một đôi vợ chồng còn trẻ với hai đứa con thật kháu khỉnh. Có vẻ giàu. Có vẻ trí thức. Cũng có cả vẻ hài lòng với ngôi nhà mới mua. Chắc giá rẻ.
Bỗng ông Cần nhắm mắt, thầm hình dung quả bom phát nổ, xé vụn cả ngôi nhà, cả đôi vợ chồng trí thức, hai đứa trẻ thiên thần cùng cái vẻ hài lòng và hạnh phúc ông vừa chứng kiến.
Từ đêm hôm đó ông lại mất ngủ, với nỗi sợ mơ hồ luôn ám ảnh. Ông có cảm giác như chính ông đang nằm trên quả bom chưa nổ ấy.
Không hiểu cái ông vừa đẩy được nó cho anh chàng trí thức này có mất ngủ như mình không nhỉ?
Mấy tháng sau, ông Cần không chút ngạc nhiên khi thấy anh trí thức kia đến nhờ ông giúp làm giấy bán nhà. Cứ như ông đang chờ vậy. Cả anh này cũng có vẻ vội vã, khuất tất như ông lần trước. Ông Cần không hỏi lý do bán nhà vì đã biết trước câu trả lời. "Anh này coi bộ tử tế. Chắc sẽ không thảnh thơi lắm đâu. Tử tế mà hóa ra không tử tê. Như mình".
* Đến nay, đúng hai năm mười tháng sau khi ngôi nhà mơ ước ấy được xây xong, nó đã qua tay bốn người, và cả bốn người đã đến nhờ ông Cần chữa lại giấy tờ để sang tên cho người khác. Chắc chắn sẽ còn nhiều người nữa tìm đến ông. Ai cũng ra bộ luyến tiếc ngôi nhà, rằng bán nó vì cực chẳng đã, vì những lý do rất xác đáng. Lý do ấy ông biết. Ai cũng biết nhưng không muốn, không dám nói.
Quả bom vẫn chưa nổ. Có thể nó sẽ không bao giờ nổ. Thậm chí có thể không hề có một quả bom như thế. Nhưng vì an toàn, người ta cứ đùn đẩy nó cho người khác. Toàn những người tử tế đùn đẩy cho nhau. Cũng vì tử tế mà sau đó họ trằn trọc hết đêm này đến đêm khác, mặt mũi phờ phạc, lương tâm cắn dứt đến đổ bệnh. Họ khôn khéo thoát được quả bom nằm tít đâu đó sâu dưới lòng đất mà chưa chắc đã có thật, để tạo ra thêm, hiện giờ là bốn, nhưng sau này sẽ là bốn mươi, bốn trăm quả bom khác trong đầu mình, hoàn toàn có thật, chưa nổ nhưng chắc chắn sẽ nổ.
Những quả bom hẹn giờ mà họ, chỉ mình họ nghe được tiếng đồng hồ đếm ngược đang lạnh lùng kêu tích tắc.
Hà Nội, 2003.
Vì sao không nên ăn thit chó? Người viết: Thái Bá Tân 22/08/2009 Ngày đẹp trời
Truyện ngắn. Thái Bá Tân
Hôm ấy là một ngày đẹp trời. Mặt trời đầu xuân ấm áp vừa nhô lên khỏi hàng cây trước nhà. Ông lão mù và con chó ngồi sưởi nắng ngoài sân.
Ông lão đã gần tám mươi. Con chó nằm cạnh sắp bước sang tuổi mười lăm. Nghĩa là qui ra tuổi người, nó cũng già như chủ, đến mức đi đứng không vững, nhìn không rõ, có thể nói gần như mù. Nó là con chó ta lai bẹc-giê, to cao, màu vàng nhạt, ở cái tuổi đáng kính ấy vẫn giữ được dáng vẻ của thời hoàng kim cách đây cả chục năm. Chỉ gầy đi đôi chút. Tất nhiên chậm chạp hơn và hiền chứ không hung dữ như xưa. Suốt ngày nó ở ngoài sân, thích thú tận hưởng cái ấm của mặt trời, lười biếng nằm bẹp xuống nền xi măng, có khi duỗi cả tứ chi ở cái thế chẳng lấy gì làm đẹp mắt. Từ lâu nó đã thôi không thèm sủa. Họa hoằn lắm, có kẻ gian, nếu đôi mắt mờ nhìn thấy, nó chỉ gầm gừ hăm dọa. Hăm dọa thôi chứ chẳng gì hơn. Qua rồi cái thời nó phải làm cái công việc trông coi nhà cửa như lũ con cháu. Con cháu nó chắc cũng nhiều, dù bây giờ không biết ở đâu. Như ông chủ, nó xứng đáng được hưởng những ngày còn lại của cuộc đời trong thanh thản và hạnh phúc. Dường như nó đang hạnh phúc, cái hạnh phúc đơn sơ theo kiểu chó...
Còn ông lão? Thì ông cũng hạnh phúc. Cũng theo cách của riêng ông, tất nhiên. Ông vốn nông dân, suốt đời chân lấm tay bùn, đến năm bảy mươi tuổi bị mù vì bệnh thiên đầu thống, được con trai đưa ra thành phố, cơm bê nước rót, đi đâu có con chó này dắt, bây giờ nó mù thì nhu cầu đi lại của ông cũng chẳng còn. Cách đây mấy năm, do vợ khó dễ, anh con mua cho ông ngôi nhà nhỏ này ở ngoại thành, thuê bà hàng xóm lo cơm nước, giặt dũ, còn mình thì mỗi tháng một lần đến thăm, trừ những tháng quên. Thế thì hỏi ông còn cần gì thêm? Đúng là chẳng cần gì. Ông vốn dễ tính. Tuy nhiên, nếu có được sự ấm áp gia đình thay cho ánh nắng vốn không phải ngày nào cũng có, và tiếng líu lo của những đứa cháu bụ bẫm chứ không phải tiếng gầm gừ của con chó, thì vẫn hơn.
Vậy là cả hai, con người và con chó, đang hài lòng và cùng sưởi nắng bên nhau, không bị ai quấy rầy. Lại vào một ngày nắng đẹp. Nhà bên, cách mảnh vườn nhỏ trồng mấy cây khế còn thấp nhưng um tùm lá, là ông hàng xóm đang lúi húi chữa xe máy. Ông ta, một người tóc húi cua, da đen, thấp mập, khoảng năm mươi, nghe nói về hưu non, không hiểu do giảm biên chế hay bị kỷ luật, hình như cũng vui vì luôn miệng huýt sáo, cả những lúc bất ngờ dấn ga rồ máy nghe đến sợ.
- Cái giống chó nhà mày ấy mà, Vện ạ, đúng là chẳng có chút tình nghĩa nào. - Ông lão lên tiếng, đập đập tay lên đầu con chó, sợ nó ngủ quên không nghe. Ông luôn gọi nó là Vện mặc dù hồi còn ở chung, vợ chồng con ông đặt cho cái tên tây là Micky. - Nghĩ mà xem, mày con đàn cháu đống như thế mà đến lúc già lại chẳng có đứa nào bên cạnh. May còn được tao thương cho ăn, không thì chết, chết đói thật đấy.
Con Vện khẽ gừ một tiếng rồi đưa chiếc lưỡi màu đỏ nhạt liếm tay chủ.
- Còn tao thì mày biết, tao đã kể bao nhiêu lần rồi. Tao chỉ có hai đứa con trai. Một nuôi mẹ, một nuôi bố. Mày không thấy thằng Khánh ăn ở với tao có hiếu à? Mấy năm trước, khi còn ở chung, tao được nó cho ở riêng một mình một tầng nhé. Tầng bốn, tầng cao nhất, mày hiểu chưa? Nó chẳng bắt làm gì, chẳng bao giờ quấy rầy. Chỉ đến giờ ăn thì gọi xuống. Hôm nào có khách còn bê lên cho ăn một mình. Nó dặn mấy đứa con gặp ông phải chào. Chỉ tội chúng hay quên. Con nít mà. Lại còn nhắc vợ phải ăn nói nhẹ nhàng với tao nữa. Mày thấy tao sướng chưa? Ở quê ấy mà, khối người về già bị con bỏ rơi đấy. Tao thì không. Tiếc là hai thằng con không thỏa thuận được với nhau để tao và bà lão nhà tao sống chung một thời gian. Mấy ngày thôi cũng được. Bà lão nhà tao ấy mà, ngu thì ngu thật, nhưng hiền lành và biết điều. Chỉ tội mau nước mắt. Nói mày đừng cười, bà ấy bảo nhớ tao đấy. Cứ như còn trẻ. Cứ như người thành phố không bằng. Tao thì tao chẳng nhớ, nhưng thương. Tội nghiệp bà ấy, chừng ấy tuổi mà còn phải thui thủi một mình. Chả là thằng kia không chịu cho lên thành phố vì chê hay nhổ nước trầu bậy bạ. Mụ nhà quê nào chả mắc cái thói xấu ấy. Nó chỉ gửi tiền về. Nghe nói cũng khá. Nhưng bà ấy ngu lắm cơ, ăn uống chẳng dám, được đồng nào cứ tích góp cho vào cạp quần, khi thành món kha khá thì vợ chồng nó về hỏi vay. Tức là lại cho chúng. Thế mà đã năm năm nay vợ chồng tao chưa gặp nhau đấy. Chả đứa nào chịu đưa đi. Chúng bận làm ăn. Đúng thôi. Già chết đến nơi rồi còn gặp gỡ làm gì. Nhưng kể thỉnh thoảng được thấy nhau, nói với nhau đôi lời cũng hay. Mày nghĩ sao, Vện? Giống người khác giống chó ở chỗ sống có đôi. Chứ như chúng mày thì chỉ bầy đàn, để đến lúc già trơ khấc một mình. Khổ chưa? May mà mày còn có tao. Rồi chết chắc chỉ mình tao đi chôn mày. Ấy là nói nếu mày chết trước. Còn nếu tao chết trước, mày có theo người ta ra mộ tao không? Công bằng mà nói, mày là con chó tốt, và có mày tao cũng đỡ buồn hơn nhiều... Ờ mà sao mày chẳng nói gì cả? Vện, Vện, mày đâu rồi?
Con chó già không đáp vì nó đang bận. Ông lão đưa tay quờ quạng tìm nó.
- Đi ị hả? Nhớ ra tận góc vườn đấy nhá!
Không, lúc ấy con Vện đứng cạnh chủ, chỉ ngoài tầm với một tí. Nó đang chăm chú nhìn miếng mồi trước mặt. Đó là một miếng thịt khá to, nướng sém, dù đã nguội nhưng cái mũi thính của nó vẫn ngửi thấy mùi thơm. Vốn khôn ngoan, lại dày dạn kinh nghiệm của một con chó già, nó cảm thấy có gì đấy bất thường trong miếng mồi này. Nó đang lưỡng lự. Tuy nhiên sự hấp dẫn của miếng thịt, lại khi đang đói, cuối cùng đã thắng. Nó cúi xuống, thè lưỡi liếm liếm, dè dặt liếc nhìn ông lão rồi ngoạm vào miệng, nuốt chửng. Giống chó có thói xấu là ăn không nhai, chỉ nuốt.
Bỗng con Vện khựng lại. Có cái gì đấy vương vướng trong miệng. Một sợi dây. Sợi dây cước màu trắng mãi đến lúc này nó mới thấy. Không phải một đoạn mà cả sợi dài. Đúng lúc nó định tìm cách nhả ra thì sợi dây bị kéo căng, và nó thấy đau buốt trong cuống họng. Đau lắm. Như có cái gì sắc nhọn móc bên trong. Nó há to mồm, cố khạc ra. Không được. Sợi dây bị kéo căng, làm nó càng đau hơn. Vì đau, vì miếng thịt mắc ngay ở cuống họng, nó không sủa được, chỉ rên ư ử và đi theo hướng sợi dây đang kéo, không hiểu chuyện gì đang xẩy ra. Tiếng ư ử của chó, cho dù vì vui hay buồn, đều giống nhau.
- Mày làm sao thế, Vện? - ông lão mù hỏi. - Sướng quá hóa rồ lại hát à? Nhưng mày hát gì mà nghe như khóc ấy. Không sao, thích thì cứ hát. Đời đẹp mà. Hôm nay ngày cũng đẹp. Gớm, tháng trước rét thế. May đêm ngủ có mày, chứ không tao cũng chết rét... Mà thôi, đừng rên thế nữa. Lại đây, lại đây ngồi với tao nào. Vện! Vện!.. Mày đâu rồi?
Lúc này con chó già đã bị kéo ra tới đường làng. Ở đó, khuất sau bụi dâm bụt là một thằng đàn ông còn trẻ đội mũ cối, mặc quần áo màu rêu bộ đội, chân đi dép nhựa, mặt quắt và đầy trứng cá. Hắn nhanh nhẹn túm lấy cổ con Vện, úp vào mõm nó chiếc rọ đã chuẩn bị sẵn, trói cả bốn chân lại rồi vứt vào chiếc giỏ sắt lớn sau yên chiếc xe đạp dựng cạnh. Bình thường, dẫu già con Vện vẫn có thể quật ngã hai tên như hắn, nhưng lúc này nó đang đau, không sủa, không cắn được, dẫy đạp mạnh cũng không. Thằng kia biết nên hắn mới có thể làm mọi việc bình tĩnh và trót lọt như vậy. Chưa nói đến kinh nghiệm, mà kinh nghiêm trong việc này thì hắn có thừa, vì hắn là một thằng câu chó chuyên nghiệp. Vâng, câu chứ không phải bắt trộm. Như người ta câu cá. Nhử cho chó ăn mồi, chờ chiếc lưỡi câu lớn ba cạnh móc vào họng rồi kéo dây. Sợi dây cũng bằng cước, mảnh thôi, chỉ nhỉnh hơn dây câu cá một chút, nhưng thử hỏi khi đã mắc mồi thì có con chó nào, dù to khỏe đến đâu, còn dám chống cự mà sợ đứt?
- Vện ơi, Vện! Mày đâu rồi? Có chuyện gì xẩy ra thế? - Ông lão lại gọi, lần này to hơn và đầy lo lắng. - Vện! Vện! Mày đi đâu đấy?
- Đi Nhật Tân rồi. - ông hàng xóm ngừng sửa xe, nói vọng sang.
- Nhật Tân là gì? Đi Nhật Tân là đi đâu?
- Là tới các quán thịt chó ở trên ấy chứ đi đâu nữa. Cụ lạc hậu quá.
- Nhưng sao con Vện lại đến đấy và đến thế nào được? - ông lão vẫn chưa hiểu.
- Không phải nó tự đến, mà bị bọn trộm bắt...
- Bắt trộm? Con Vện này mà chịu để người khác bắt trộm?
Ông hàng xóm kể rõ thủ đoạn của bọn câu chó. Ông lão nghe xong chỉ khẽ kêu một tiếng "trời" rồi ngồi im. Mãi lúc sau ông mới lên tiếng, giọng run run;
- Sao bác biết, không ra giữ nó lại?
Ông kia suy nghĩ một chốc, đáp:
- Tôi bận chữa xe.
Rồi vô cớ, cho rú máy inh ỏi.
* Trên đời có những người làm điều ác, những điều ác kinh khủng mà chính họ nhận thức rất lờ mờ, thậm chí không coi là điều ác. Do vậy sự khinh khủng càng tăng thêm gấp bội. Thằng câu chó này là một thí dụ. Hắn vốn xuất thân từ một gia đình nông dân bình thường. Nhà nghèo, chỉ học hết lớp ba. Hắn chẳng có thói xấu nào. Không rượu chè, cờ bạc. Gây gỗ cũng không, và chưa từng một lần có vấn đề với pháp luật. Hắn chăm chỉ làm ruộng nuôi vợ con, không mẫu mực nhưng cũng chẳng đáng trách. Quan hệ với bố mẹ, xóm giềng cũng bình thường. Tóm lại, hắn là người không đến nỗi nào, trừ việc lúc rỗi đạp xe đi khắp vùng ăn trộm chó để bán cho các cửa hàng ở Nhật Tân.
Hắn có biết việc này là xấu không? Có lẽ có. Đã ăn trộm là xấu rồi. Nhưng hắn không nghĩ đó là tội ác. Trộm vặt thôi mà. Nhất là trộm chó, cái giống gây bệnh dại mà cách đây không lâu ở quê hắn còn bị cấm nuôi, dân quân thi nhau đi từng nhà đánh chết bằng hết. Hắn chỉ có thể nghĩ đến thế, nên cứ tiếp tục "hành nghề", hết con này đến con khác, hết năm này đến năm khác. Còn về sự man rợ của việc hắn ăn trộm chó bằng cách móc lưỡi câu ba mũi vào họng chúng mà kéo thì quả chưa một lần hắn nghĩ tới. Đầu óc ngu dốt, tăm tối và thơ ngây một cách đáng sợ của hắn đơn giản không cho rằng đó là điều man rợ. Hệt những kẻ ăn thịt người ở các bộ tộc mông muội ngày xưa không chút lương tâm cắn rứt khi xơi thịt đồng loại.
Câu chó và câu cá thì có khác gì nhau? - Có thể hắn nghĩ vậy. Nhưng con cá bị câu, thả xuống nước có thể sống. Còn con chó thì không thể gỡ lưỡi câu ra được, trừ phi sau khi thui bị mố họng. Đấy là chưa nói tới việc không thể ví chó với cá. Gần đây báo đưa tin ở Thụy Điển có anh hàng cá bị phạt tiền vì tội bán cá còn sống, tức là tội hành hạ loài vật. Ở các nước phương tây ăn thịt chó là vi phạm luật bảo vệ động vật. Còn đây, hắn thản nhiên hàng ngày móc lưỡi câu vào họng những con chó tội nghiệp rồi kéo đi. Chưa có luật nào trừng trị hắn tội ấy. Mọi người xung quanh dường như cũng không lên án hắn. Vợ con hắn thản nhiên sống bằng đồng tiền moi họng chó ấy. Dân làng thản nhiên nhìn hắn "đi làm". Các chủ quán Nhật Tân thản nhiên mặc cả giá những con chó với lưỡi câu ba ngạnh trong họng như mọi món hàng bình thường. Thực khách thản nhiên ăn chúng một cách ngon lành. Ông hàng xóm thản nhiên nhìn hắn bắt con Vện với lý do "bận chữa xe máy". Anh con trai ông lão mù thản nhiên nói: "Mất con này thì mua con khác, thiếu gì mà bố phải khổ sở đến thế." Còn chú công an khu vực trẻ măng khi được thông báo vụ việc còn có ý ngạc nhiên sao người ta có thể làm phiền nhà chức trách bằng những chuyện nhỏ nhặt như vậy. Chuyện một con chó bị câu trộm.
* Bạn đọc thân mến, nhưng tôi thì không sao thản nhiên nổi khi viết câu chuyện này. Hy vọng các bạn cũng không thản nhiên đọc nó. Một câu chuyện có thật, vừa xẩy ra ở cái huyện ngoại thành, là nơi, theo cách riêng của mình, vợ chồng tôi đang sống thanh thản và hạnh phúc như ông lão mù cùng con chó gần mù của ông. Hôm ấy đúng là ngày đẹp trời, nhưng với tôi lại là một trong những ngày u ám nhất.
Cho đến tận lúc này tôi vẫn có cảm giác như cổ họng mình đang vướng lưỡi câu ba ngạnh kia. Một sự công phẫn thôi thúc muốn thét to mà không biết thét vào ai, thét rằng trên đời vẫn tồn tại một sự dã man đến thế và người ta vẫn có thể thản nhiên với nó đến thế. Cái ác đang tồn tại khắp nơi dưới nhiều dạng, cả những dạng nhỏ nhặt và "hồn nhiên" nhất.
Chúng ta, kể cả tôi, chúng ta vin đủ cớ để không nhìn thẳng vào chúng, và quan trọng hơn cả là không làm gì để chống lại chúng. Bản thân thái độ thụ động này cũng là một cái ác. Sự ngu dốt không nhận ra cái ác cũng là cái ác. Tôi không bao giờ trộm chó, cả ăn thịt chúng cũng không, vì hàng ngày tôi vuốt ve chúng, mỗi lần đi làm về chúng vẫy đuôi mừng tôi. Nhưng không vì thế mà tôi thấy mình không phần nào có lỗi trong việc con Vện bị giết một cách dã man và ông lão mù bị tước đi người bạn thân thiết duy nhất...
Vậy là tôi đã làm hỏng truyện ngắn này của tôi, bằng cách vô tình biến nó thành một bài tùy bút với những lời ủy mị không hợp mốt. Là nhà văn, lại đang trong cơn hứng "truyện ma", tôi có thể hư cấu những chi tiết ly kỳ làm phần kết cho nó. Nhưng đây là chuyện có thật về một vấn đề nghiêm túc và khẩn thiết, tôi không thể cho phép mình được viết gì khác ngoài sự thật trần trụi và những ý nghĩ thật trong đầu tôi. Khi đọc truyện này, mong các bạn hiểu theo hướng đó.
PS. Ông lão mù mới chết tuần trước. Tôi hỏi ông con thì được báo là cụ bỗng nhiên cảm thấy khó thở, không nói, không ăn mấy ngày rồi chết. Cũng đúng vào hôm đẹp trời. Vợ chồng tôi và cả ông hàng xóm "bận chữa xe" tiễn cụ tới tận nghĩa trang.
Chỉ tiếc không có con Vện.
Hà Nội, 8.10.2002.
Fur Elise
Truyện ngắn. Thái Bá Tân
Chiếc xe buýt du lịch cao ngất ngưỡng sơn màu sặc sỡ chậm chạp đi theo những con đường rải nhựa ngoằn ngoèo trong công viên - vườn thú Safari ở ngoại ô Băng Cốc.
Nếu được phóng tầm mắt chút nữa, người ta sẽ có cảm giác như đang đi trong các vườn quốc gia châu Phi hoặc trực tiếp tham gia quay phim Thế giới Động vật cho chương trình Discovery. Thỉnh thoảng chiếc xe dừng lại nhường đường cho một đàn hươu cao cổ. Một đàn chứ không phải vài con. Những con vật vụng về tuyệt đẹp với chiếc cổ cao lêu đêu ngật ngưỡng đi ngay bên cạnh. Có con còn dừng lại, chạm chiếc đầu bé một cách mất cân đối vào lớp kính thành xe như tò mò muốn biết bên trong cái hộp biết đi kỳ cục này có những gì. Xa hơn chút ít là bầy tê giác, loại một hoặc hai sừng, con nằm con đứng, con trơ trẽn hít hít mông con khác. Mấy con hổ (hoặc sư tử, gấu, tùy lúc ấy xe đi tới đâu) đang nằm phơi nắng trên ô đất cao bên khe nước. Hình như mỗi loài có một khu riêng nhưng không thấy có gì ngăn cách. Lạ một điều là các loài hiền lành như nai, dê sống cạnh những loài ăn thịt mà chẳng thấy cảnh săn đuổi chết chóc.
Trên xe có khoảng bốn chục khách du lịch người Việt, phần lớn gồm các ông, các bà đã có tuổi mới ra nước ngoài lần đầu được cơ quan bao trọn gói cả tua du lịch năm ngày sang Thái Lan. Mỗi cơ quan mấy người, gộp lại thành đoàn. Cũng có gia đình bỏ tiền túi đi riêng, nên hầu hết đến đây mới gặp nhau lần đầu. Hai xe đi trước và sau họ cũng có thành phần tương tự. Sau dịch SARS, theo số liệu của nước chủ nhà, khách du lịch từ Việt nam tới Thái Lan chiếm số đông, thậm chí hơn cả từ Trung Quốc và Hồng Công cộng lại.
Hướng dẫn cho đoàn suốt cả tua là một Việt Kiều sang đây đã hai mươi năm, bốn mươi tuổi nhưng chưa vợ, người gầy, da đen, hóm hỉnh và thích pha trò, tuy đôi khi không thật đúng chỗ. Ngoài ra còn có một cô người Thái trẻ đẹp nói tiếng Anh khá sõi, thứ tiếng ít người biết để trao đổi nên cô luôn im lặng với nụ cười thường trực trên môi. Xe đang đi qua một khu có rất nhiều chim. Anh hướng dẫn người Việt bỗng ngừng lời quảng cáo các trò giải trí ở Băng Cốc, sôi nổi nói:
"Các vị hãy nhìn kia! Đây là loài nổi tiếng chung thủy nhất trong các loài chim. Điều ấy có đáng biểu dương hay không thì lại là chuyện khác, nhưng quả chúng bao giờ cũng sống có đôi, và khi một con chết, con kia sẽ bay tít lên cao để lao đầu xuống chết theo!"
"Tuyệt nhỉ!" một bà thốt lên. Bà mặc chiếc váy sọc to, người đẫy đà, mặt đỏ lự vì hay xúc động.
"Ngớ ngẩn. Thế là ngu!" ông ngồi bên đáp. Ông này nhỏ con, mái tóc bạc gần hết, có vẻ phong trần nhưng giọng nhỏ nhẹ chẳng tương xứng chút nào với câu thô lỗ ông vừa nói.
Bà kia cụt hứng, nhíu trán khó chịu nhưng không nói gì.
Mọi người nhìn theo hướng được chỉ. Trên một cành cây cụt có đôi chim gì đó to lớn đang đậu, màu sặc sỡ và đuôi dài như chim công.
"Tôi dám chắc chỉ con cái lao xuống chết chứ con đực thì không", một ông khác lên tiếng.
Anh hướng dẫn do dự một chốc rồi đáp:
"Rất tiếc rằng quả đúng như thế. Chỉ con cái. Chỉ phái yếu mới biết hy sinh vì tình yêu. Do vậy, trong vấn đề này họ cao hơn hẳn đàn ông chúng ta".
"Và cả khi con cái của mình còn sống," ông đầu bạc nói, "con đực vẫn thường xuyên lăng nhăng với các con cái khác?"
"Tôi không chắc lắm, nhưng có lẽ điều ấy cũng có."
"Vậy tôi nói ngu không đúng ư? Ấy là tôi nói về những con chim cái kia, tất nhiên, chứ không phải các bà. Đơn giản nhiều bà chưa được như thế."
Bà váy sọc quay sang nhìn ông, mặt đã đỏ càng đỏ hơn:
"Ông là người thô lỗ hiếm thấy!"
Xe dừng, vì lại có con rắn lớn nằm chắn đường. Nhân dịp này anh Việt Kiều chuyển đề tài, nói rằng có loài rắn thời gian giao cấu kéo dài những ba mươi tư tiếng đồng hồ. Mọi người có vẻ ngạc nhiên nhưng không ai nói gì. Chỉ một bà khẽ thốt lên "Khiếp", rồi không hiểu sao cười khúc khích một mình.
Buổi trưa ăn xong, khi ngồi nghỉ bên suối nước đầy những con cá to bằng bắp chân đủ màu để chờ buổi biểu diễn mô phỏng một số cảnh trong phim Điệp viên 007, ông đầu bạc quay sang nói với bà váy sọc:
"Bà đừng giận nữa. Tôi nói là nói cho vui thế thôi. Nhưng chắc bà cũng phải đồng ý với tôi rằng trong tình yêu quả có nhiều điều kỳ cục không giải thích nổi."
Bà kia im lặng. Một người xen vào:
"Có thế mới là tình yêu, chứ không thì chán chết."
"Năm ngoái ở phố tôi có người vợ chết, buồn quá mà tự tử đấy. Ông bảo thế cũng ngớ ngẩn sao?" một người nữa hỏi.
"Đúng. Ngớ ngẩn! Chết chưa phải là bằng chứng một tình yêu lớn."
"Thế theo ông thì là gì?"
"Chỉ những người yếu đuối mới chết vì tình. Sống để yêu mới khó!" Ai đó bình luận.
"Tôi thì cho là ngược lại."
Thế là do rỗi việc, cả vì do không có chuyện gì nữa để nói, người ta bắt đầu tranh luận về tình yêu, tuy không mấy hăng hái, có người ngủ gật. Cuối cùng ông đầu bạc lên tiếng:
"Để tôi kể các vị nghe chuyện này. Sau đó ai muốn kết luận thế nào thì tùy."
* Trong tình yêu quả có nhiều sự lạ, mà chủ yếu từ phía phụ nữ. Tôi biết một người có thể nói tuyệt vời về mọi mặt. Xinh đẹp, có học, gia đình êm ấm với một ông chồng trí thức và hai đứa con rất ngoan. Ấy là tôi nói trước đây, khi câu chuyện mới xẩy ra mấy chục năm về trước. Thế mà con người có học, thông minh và đang hạnh phúc ấy bỗng dưng bỏ chồng con chạy theo một gã trai chẳng ra gì. Lúc ấy bà ta đã hơn ba mươi, còn thằng kia mới hăm lăm, chưa vợ nhưng nổi tiếng chim gái nhất nhì thành phố. Các vị muốn biết vì sao? Đơn giản vì một hôm ngẫu nhiên gặp nhau đâu đó và bà ta được hắn (lúc ấy mới tốt nghiệp khoa pi-an-ô Nhạc Viện Hà Nội) chơi cho nghe một bản nhạc ngắn. Vậy mà trời xui đất khiến thế nào, bà ta đem lòng si mê hắn, ba hôm sau thì theo hắn đi chơi xa đúng một tuần. Lúc về cương quyết đòi li dị chồng không được, bà ta liền khăn gói sang ở hẳn với người tình mới.
Chắc có vị bảo tôi phịa vì những chuyện như thế chỉ bên Tây mới có chứ không phải ở ta, nhất là vào cái thời đói khổ ấy. Bản thân tôi cũng không hiểu nhưng sự thật nó xẩy ra đúng như thế. Thì đã bảo sự lạ mà. Tôi nghĩ trong bộ não con người, hay nói trái tim cũng được, có một chỗ nào đấy rất mềm, rất nhạy cảm và dễ bị tổn thương bởi những xúc động mạnh, sau đó thì không sao lành lại được. Có thể trường hợp cái bà tôi đang kể cũng vậy. Bản nhạc kia đã làm bà ta mất trí. Nếu không chẳng sao giải thích nổi những việc bà ta làm sau này. Ở xóm tôi có một ông nhờ đọc sách Luận Ngữ của Khổng Tử và Đạo Đức Kinh của Lão Tử mà trở thành người khác hẳn đấy. Theo hướng tốt hơn, tất nhiên. Tôi cũng đọc nhưng chẳng thay đổi gì. Nghĩa là tùy người, tùy hoàn cảnh.
Đó là bản nhạc cổ điển Fur Elise (Gửi nàng Elise), của ông nhạc sĩ người Đức Beethoven. Nó ngắn thôi, lại đơn giản, nhưng phải nói rất hay và dễ gây xúc động, nhất là khi người nghe được kể rằng ông nhạc sĩ thiên tài già điếc này gửi nó thay thư cho một nàng Elise nào đó ông lặng lẽ yêu say đắm mà không được yêu lại. Chắc thằng kia vừa đàn vừa phịa thêm cho câu chuyện tình lãng mạn đó nhiều chi tiết lâm ly để gây ảnh hưởng với người hắn định tán. Và hắn đã thành công như ta thấy.
Tôi chẳng hiểu chuyện gì xẩy ra trong cái đầu thông minh mà ngu ngốc kia của bà ta. Bản nhạc làm bà mụ người, đến mức có thể yêu, yêu si mê một người như hắn - mặt lưỡi cày, mắt ti hí, gầy nhom như thằng nghiện, lại bản tính thô lỗ, lười nhác và ích kỷ nhất hạng. Sau ba tháng sống với nhau như vợ chồng, hắn chán rồi thẳng tay đuổi người tình ra khỏi nhà. Trong ba tháng ấy bà kiếm tiền nuôi hắn, cung phụng, tôn thờ hắn như một con nô lệ, tất cả chỉ để được thỉnh thoảng hắn chơi cho nghe bản nhạc Gửi nàng Elise kia! May bố mẹ giàu, mua cho ngôi nhà nhỏ trong ngõ chợ nên bà không phải quay lại với chồng cũ, dù ông này đã tha thứ và cố thuyết phục nhưng bà nhất định không nghe. Có thể vì tình yêu với hắn, cũng có thể bà xấu hổ với chồng con nên quyết định đã đâm lao thì phải theo lao.
Vài tuần sau, quen được người cung phụng, thằng kia mò đến tìm. Bà vội vã đi theo hắn như sợ bị thay đổi ý kiến, không một lời căn vặn, trách móc. Có điều lần này hắn trở nên quá quắt, thô lỗ hơn, và tất nhiên không thèm giữ ý tứ, tán tỉnh như trước. Hắn ngang nhiên dẫn gái về nhà, cả khi bà đang có mặt. Thật kỳ lạ, bà vẫn nhẫn nhục chịu đựng tất cả. Vì hắn. Vì cái bài Gửi nàng Elise của hắn! Tôi không là bác sĩ, không biết gì về thuyết phân tâm của Freud, nhưng tôi cho rằng có thể đây là một dạng bệnh tâm thần, đại khái như tâm thần tình yêu chẳng hạn.
Cuối cùng bố mẹ thằng kia bắt hắn lấy vợ. Bà lại lủi thủi quay về với ngôi nhà trong ngõ chợ. Lủi thủi héo hon chờ đợi mỗi tháng đôi lần hắn đến xin tiền. Bà nhịn ăn, ki cóp từng xu, có khi phải đi vay để đưa cho hắn. Những lúc ấy mặt bà rạng rỡ hạnh phúc, nói năng ấp úng vì xúc động. Có thể từ lâu bà nghĩ mình là nàng Elise và người tình là Beethoven chăng? Thằng Beethoven này không thất tình đau khổ mà luôn khinh khỉnh nhìn bà, và hễ có được tiền là tìm cách chuồn ngay.
Cứ thế kéo dài đúng hai mươi năm. Các vị lại ngạc nhiên? Thế tôi mới nói là ngu, là ngớ ngẩn. Trong hai mươi năm ấy bà có thể quay lại với chồng con bất kỳ lúc nào nhưng bà đã không làm thế. Ông chồng đều đặn hàng tháng gửi tiền cho người vợ chưa li dị của mình - chẳng hiểu vì tình yêu hay lòng thương hại. Sau này anh con lớn đi làm thỉnh thoảng cho thêm. Tất nhiên bà đưa hết số tiền đó cho Beethoven của mình. Vì hắn, bà đã bị đuổi việc từ lâu do tự ý nghỉ quá nhiều.
Suốt thời gian ấy bà sống lặng lẽ, không có sự cố gì đặc biệt, trừ hai lần bị đẩy đến tột đỉnh của hạnh phúc và sợ hãi. Chính xác là một hôm cuối năm 1978, để bà đồng ý kiếm cho một khoản tiền không nhỏ, hắn đưa bà vào Nhà Hát Lớn nghe buổi hòa nhạc của một nghệ sỹ dương cầm người Nga. Trong chương trình có bản Fur Elise. Bà dành trọn ba ngày chuẩn bị cho sự kiện trọng đại đó. Sự kiện thứ hai xẩy ra khoảng mấy năm sau. Một sự kiện buồn. Bà bị vợ hắn tạt a-xit do ghen tuông. May không trúng mặt và chỉ bị bỏng nhẹ ở bàn tay phải. Sau đấy vì lo sợ, bà ốm mất một tháng mới khỏi.
Bây giờ bà đã là một mụ già. Một mụ già khốn khổ nhưng mãn nguyện vì đã mười năm nay được sống với người mình yêu. Số là vợ thằng kia không chịu nổi chồng cuối cùng đã bỏ đi, để lại hắn một mình không việc làm, không đồng xu dính túi, hơn thế lại mắc bệnh hen xuyễn và xơ gan nặng vì rượu. Thời gian gần đây thì hắn hầu như nằm một chỗ, thậm chí có muốn cũng không chơi nổi bài Fur Elise để gọi là trả công cho mọi lo toan vất vả của mụ. Vì yếu và bất động, hắn không thể thô lỗ như trước, nhưng thỉnh thoảng vẫn quát mụ bằng giọng khò khè the thé khi cần cái gì đó. Những lúc ấy người đàn bà tội nghiệp này lại cuống lên lo chạy thỏa mãn yêu cầu của hắn, miệng xuýt xoa đến cảm động...
* "Đúng là một mụ điên!" Ai đó lên tiếng khi người kể chuyện dừng lời.
"Dẫu sao cũng là một tình yêu lớn. Người yêu được như thế ít lắm". Một người khác nói, không hiểu sao thở dài rõ to.
Bà váy sọc quay sang ông đầu bạc, thái độ lúc này có vẻ thân thiện hơn:
"Ông không là nhà văn đấy chứ? Ông phịa giỏi lắm. Phi lý nhưng nghe mùi mẫn. Hay ông đọc được đâu đó ?"
"Tin hay không hoặc nghĩ thế nào tùy bà. Tôi đã nói trước rồi mà. Nhưng chuyện có thật đấy. Trăm phần trăm, dù đúng là ngớ ngẩn và phi lý như bà nói. Nhưng rồi suy cho cùng, ở người đàn bà nào cũng có chút ít chất ngớ ngẩn và phi lý ấy, đặc biệt khi chuyện liên quan đến tình yêu. Vấn đề chỉ ở mức độ. Bà không tin, hôm nào về Hà Nội tôi dẫn đến gặp người đàn bà ấy. Bà ta có quán nước trà ở Ngã Năm Lò Đúc. Để có tiền, bà ta còn làm thêm bao nhiêu việc, từ giặt thuê, trông trẻ cho đến trông xe. Không ít khi còn giở trò láu lỉnh tính gian tiền của khách. Bà cứ đến rồi khắc thấy. Vất vả lắm, nhưng mãn nguyện ra mặt. Thậm chí người đã bắt đầu phát phì".
"Thế còn ông chồng cũ?" một người hỏi.
"Chẳng sao cả. Ông ấy không li dị vợ mà cũng chẳng lấy vợ khác. Một người tốt như tôi nói và đến giờ vẫn đều đều hàng tháng gửi tiền cho bà. Nghe nói ông còn tự học pianô để chơi bài Gửi nàng Elise cho bà nghe. Nhưng tiếc tiếng đàn của ông không làm bà xúc động mà quay lại".
"Cũng lại một thằng ngốc nốt!"
"Có thể. Tình yêu cũng biến đàn ông chúng ta thành những thằng ngốc. Ngu ngốc không phải độc quyền của riêng phái nữ. Hơn thế chúng ta dường như không chỉ đau khổ mà còn lấy làm hạnh phúc vì sự ngu ngốc ấy".
"Tôi nghi không khéo ông chính là chồng bà ta?"
Bà mặc váy sọc cười khúc khích, nhưng ông đầu bạc không đáp, chỉ quay mặt hướng khác.
Đến giờ đi tham quan tiếp, không khí chẳng mấy hứng khởi vì bữa ăn no đang gọi cơn buồn ngủ, có lẽ còn cả vì câu chuyện vừa rồi. Không ai nhắc tới nó, nhưng chắc còn vương vấn suy nghĩ, chuyện người khác và chuyện của mình. Thậm chí những con hươu cao cổ, tê giác, hổ báo trước đó làm họ phấn khích đến thế bây giờ dường như cũng chỉ là những con vật bình thường.
* Buổi tối ở khách sạn, trước khi đi dạo phố, ông đầu bạc ngồi xuống trước chiếc đàn pianô loại lớn bóng loáng màu đen tại phòng ăn. Những ngón tay lóng ngóng của ông rón rén dạo trên các phím đàn. Bản Fur Elise của Beethoven! Ông đàn hai lần, may đều lưu loát trừ một chỗ vấp ở đoạn giữa. Tiếng đàn còn vụng về nhưng diễn cảm và đúng nhịp.
Mọi ngưòi quay sang nhìn. Đàn xong, ông đặt tay lên đầu gối rồi nói với mấy bà đang đứng cạnh:
"Không ai si mê tôi à?"
Hà Nội, 16.9.2003
Một chuyện đau lòng Người viết: Thái Bá Tân 14/07/2009
Truyện ngắn. Thái Bá Tân
Vâng, quả đúng đây là câu chuyện đau lòng. Lại khó tin nữa. Bây giờ những chuyện khó tin kiểu này ít xẩy ra, nhưng thời ấy, ý tôi nói cái thời còn chiến tranh, chúng không phải hiếm. Chiến tranh chấm dứt đã lâu, tuy nhiên hậu quả của nó vẫn còn đó và chắc sẽ còn kéo dài. Một câu nhàm chán, nghe cứ như trích từ bài xã luận nào đó, nhưng trong trường hợp này tôi không thể nói cách khác, vì thực sự nó đúng như thế. Nó là một trong vô vàn những hậu quả chiến tranh theo nghĩa ấy.
Các bạn thử hình dung và đặt mình vào hoàn cảnh một bà mẹ hàng chục năm trời phải sống với cảm giác đau đớn mơ hồ, rằng có thể đứa con mình đang nuôi bằng tất cả tình mẫu tử không phải con mình, mà do một sự nhầm lẫn ngẫu nhiên, là con người khác. Nhầm? Nhầm cả chính đứa con mình rứt ruột đẻ ra? Vâng, đúng thế. Thì tôi đã nói là chuyện khó tin, nhưng nó xẩy ra với nhân vật của chúng ta, mà tôi xin được gọi bằng một từ đơn giản là "bà". Không phải không phịa ra được một cái tên nào đó, đơn giản tôi thích gọi thế hơn. Nếu chú ý, các bạn sẽ nhận thấy trong nhiều truyện tôi viết, ở những trường hợp có thể, tôi luôn tránh việc đặt tên cho nhân vật. Thói quen của từng nhà văn thôi, và chẳng mấy quan trọng.
Chuyện thế này. Xin được kể đúng như nó vốn có.
Vào một trong những đêm đáng nhớ cuối năm 1972, khi máy bay B-52 Mỹ ném bom rải thảm Hà Nội, bà được đưa vào khoa sản bệnh viện Bạch Mai, Phòng đẻ đêm ấy ngoài bà còn có mấy bà nữa, đã, đang hoặc chờ đẻ.
Đúng khi đứa con bà ra đời (hay có thể đang ra đời, tôi không biết chính xác) thì bỗng có còi báo động máy bay. Người ta làm nốt những phần việc không thể trì hoãn rồi vội vàng đưa bà ra hầm trú ẩn. Cả con bà cũng vậy. Nó cũng được các y tá đưa đi cùng những đứa trẻ khác. Cả thành phố chìm trong bóng tối. Chỉ có ánh sáng đạn pháo phòng không và bom nổ. Hôm ấy bệnh viện Bạch Mai chưa bị bắn phá. Khi bà ra viện và đã ở nhà, nó mới bị biến thành đống gạch vụn. Cuối cùng có còi hết lệnh báo động và bà được đưa trở lại giường đẻ. Chồng bà đang ở chiến trường. Bà con thân thích đã sơ tán về vùng nông thôn. Bà là công nhân một cơ sở sản xuất bánh mì nên phải ở lại thành phố. Quá mệt mỏi, bà ngủ thiếp lúc nào không biết.
Sáng hôm sau tỉnh dậy, người ta trao con cho bà, một bé gái khỏe mạnh, xinh xẻo và "giống mẹ như đúc!" Cô y tá bảo thế. Cô là người hay chuyện, da trắng hồng, đẫy đà, nếu không muốn nói hơi béo, một điều hiếm vào cái thời đói ăn ấy. Ca đẻ diễn ra bình thường, với những cơn đau bình thường và công việc của các nhân viên bệnh viện cũng bình thường. Thậm chí vào những ngày ấy của năm ấy, việc đẻ giữa chừng phải xuống hầm trú ẩn cũng bình thường nốt.
Được hai ngày, bà thuê xích lô tự về nhà, "mẹ tròn con vuông" như người ta vẫn nói. Cô y tá da trắng hồng tiễn bà ra tận cổng bệnh viện, vẫy tay nói theo:
- Sau này gả chồng cho con nhớ mời em nhé!
- Thì cô hẵng sớm lo chuyện chồng con cô đi đã, rồi nói chuyện ấy sau. - Bà mẹ trẻ hạnh phúc cười đáp. Một nụ cười mệt mỏi.
* Chiến tranh kết thúc, chồng bà đã không trở về. Lúc ấy bà còn trẻ, không xinh đẹp nhưng cũng chẳng xấu. Sau ba năm, bà đi bước nữa và lại vào bệnh viện Bạch Mai, sinh đứa con gái thứ hai. Chồng bà là cán bộ thăm dò địa chất luôn lang thang khắp các vùng núi rừng của đất nước, có mặt ở nhà mỗi năm tổng cộng chưa đầy một tháng, vào dịp nghỉ phép và những lần bất chợt ghé qua nhà vài hôm. Thành ra một mình bà phải quán xuyến hết việc nhà và nuôi dạy con cái.
Như bao đứa trẻ khác cùng thời, các con bà lớn lên trong cảnh thiếu thốn đủ thứ, nhưng đó là cái thiếu thốn chung của cả xã hội nên ít ai lấy thế làm bất hạnh. Bà hài lòng về chúng, đặc biệt đứa con đầu. Lúc nhỏ nó ham ăn chóng lớn, ít đau ốm. Lớn lên nó học giỏi, ngoan ngoãn, lại xinh đẹp như cô y tá kia đã nói. Còn việc nó "giống mẹ như đúc" thì bà không thật chắc lắm. Nhìn kỹ, bà thấy giữa bà và nó hình như có nét giống nhau mà cũng hình như không. Hai người có cùng khuôn mặt trái xoan ưa nhìn nhưng da nó trắng, da bà đen, tạng người nó to chắc, còn bà thì nhỏ và mảnh dẻ. Nó cũng chẳng có nét nào giống con em, cả bề ngoài lẫn tính tình. Còn giống bố thì dứt khoát không. "Ông ấy thuộc loại người khác hẳn. Mà thôi, chuyện ấy chẳng quan trọng. Có phải con cái ai cũng giống bố mẹ cả đâu!" Bà nghĩ thế và không còn để ý tới việc ấy nữa. Còn khối việc khác cấp thiết hơn phải làm.
Vậy mà nhiều khi bà cứ hay suy nghĩ vẩn vơ, để rồi tự cười diễu mình về những suy nghĩ vẩn cơ ấy. Bà nghĩ về cái đêm bà đẻ nó ở bệnh viện Bạch Mai, về quãng thời gian bà và nó xuống hầm trú ẩn, mỗi người một nơi, về cô y tá có nước da trắng hồng, dễ mến, xởi lởi. "Con gái kiểu ấy là hay đãng trí lắm. Để đâu quên đấy, lầm lẫn lung tung". Bà chậc lưỡi, vừa mỉm cười vừa lẩm bẩm một mình. Rồi ý nghĩ bình thường, vô hại ấy bỗng dẫn đến một ý nghĩ khác làm bà co rúm người vì sợ hãi: "Thế nhỡ cô ấy đãng trí hay bất cẩn ấy nhầm con mình với con người khác thì sao?" Bà lắc đầu cố xua cái ý nghĩ kỳ cục ấy và không dám nghĩ tiếp.
Thường vẫn thế, khi một ý nghĩ nào đó, cho dù phi lý nhất, len lỏi chui được vào đầu thì khó mà thoát được nó. Điều này cũng xẩy ra với bà y hệt như thế. Bà cứ luôn quẩn quanh với ý nghĩ có thể người ta đã trao nhầm con cho bà. Đến lúc này bà mới chịu tự thừa nhận rằng từ lâu bà đã linh cảm có cái gì không ổn giữa bà và con bà. Bà ôm nó mà cứ có cảm giác như đang ôm con người khác. Bà thấy ý nghĩ ấy thật ngớ ngẩn nhưng linh tính, vâng, linh tính của người mẹ lại như bắt bà phải tin vào điều ngớ ngẩn ấy.
Là đàn ông, lại chẳng phải chuyên gia về tâm lý, tôi không thể nói gì về linh tính người mẹ. Thậm chí tôi chẳng biết chính xác có tồn tại hay không cái gọi là linh tính ấy. Và nếu có, liệu có thể tin được không. Tôi đơn thuần chỉ nêu lên sự việc, đúng sai xin tùy vào sự phán xét của bạn đọc, nhất là các bạn đọc nữ đã từng làm mẹ. Tôi chỉ biết bà tin vào cái linh tính ấy, một niềm tin không giải thích được bằng lý trí. Có thể ví thế này thì hơi thô lỗ và bất nhẫn, nhưng bà quả như con gà mái bị người ta đánh tráo, bắt nuôi nhờ người con không phải máu mủ mình. Nhưng bà không là con gà vô tâm. Bà là con người và bà mơ hồ đau khổ.
Một hôm, lúc này đứa bé đã mười tuổi và đang học lớp ba, không chịu thêm được nữa, bà quyết định đến bệnh viện Bạch Mai tìm gặp cô y tá nọ để hỏi cho ra chuyện.
- Ấy chết, làm sao có thể thế được! - cô y tá, lúc này đã là bà trưởng khoa sản, một phụ nữ chững chạc, đeo kính trắng vội thốt lên khi bà lựa lời ướm hỏi điều bà băn khuăn từ lâu. Nói chung cô thay đổi không nhiều, vẫn xởi lởi, vẫn nước da trắng hồng, chỉ già hơn và mập hơn chút ít. Bà không ngạc nhiên trước câu trả lời của cô.
- Thế bệnh viện còn lưu được hồ sơ các ca đẻ hôm ấy không?
- Tôi sợ là không. Chiến tranh mà. Vả lại đã mười năm rồi còn gì. - Bà trưởng khoa thở dài đáp. - Nhưng tôi có thể cam đoan với bác là không thể có chuyện nhầm lẫn. Ai có thể nhầm một chuyện tầy trời như thế?
- Nhưng lúc ấy đang báo động máy bay, điện tắt, mỗi người chạy một nơi... - bà rụt rè nói.
- Vâng. Lúc ấy quả có lộn xộn thật, nhưng nhầm lẫn thì không. Hôm ấy tôi là y tá trực duy nhất. Tôi không đỡ đẻ. Bác sĩ Phương Thảo cơ. Chính tôi đã đánh dấu từng cháu và bế ra hầm trú ẩn...
- Chị đánh dấu thế nào và bằng cái gì?
- Đánh dấu con nào mẹ ấy chứ sao nữa. Bằng gì thì tôi không nhớ. Nếu bác thực sự cần, tôi cho lục lại hồ sơ. Biết đâu còn giữ được. À mà hôm ấy là ngày nào nhỉ, bác có nhớ chính xác không ?
- Có. Ngày 22 tháng Mười Hai năm bảy hai.
* Một tuần sau, đích thân bà trưởng khoa tìm đến nhà bà. Thật may, bà này đã không ngại vất vả bới lục cả đống hồ sơ bám đầy bụi bẩn và tìm được cái cần tìm. Bà cho biết đêm ấy trong phòng bà trực có bốn ca đẻ. Một ca thai lưu, tức là khi sinh ra đứa bé đã chết từ trước trong bụng mẹ. Một ca chuyển dạ lâu, đến hai hôm sau mới sinh được. Vậy là ngoài con bà, còn có một đứa trẻ khác chào đời đêm ấy. Bà trưởng khoa cho bà biết họ tên người mẹ và địa chỉ của bà ta, vì trong hồ sơ có ghi đầy đủ những chi tiết ấy.
Tiếp đến là những ngày tìm kiếm lặng lẽ mẹ con người đàn bà nọ, một người bà chưa hề biết mặt và chỉ một lần cùng nằm chung phòng, lại trong hoàn cảnh như thế cách đây những mười năm. Điều duy nhất bà biết là họ tên, ngày tháng và nơi bà ta sinh con. Con trai, theo lời bà trưởng khoa.
Ngôi nhà bà tìm đến theo địa chỉ được đưa, bây giờ là một cửa hàng bán đủ loại tạp phẩm ở khu phố cổ. Nó đã đổi chủ nhiều lần. Mất nửa tháng trời bà lần hỏi dần dần, cuối cùng cũng tìm ra được.
Họ là một gia đình viên chức, sống trong căn hộ tập thể ở khu Giảng Võ. Bà quyết định không vào gặp ngay. Lân la rất lâu ở quán nước một bà già cạnh đó, bà khéo léo dò hỏi và biết được khá nhiều chi tiết về họ. Ông chồng là cán bộ một cơ quan nghiên cứu khoa học ở Nghĩa Đô. Hàng ngày ông đi làm bằng chiếc xe máy Babetta màu đỏ, dấu hiệu của những người khá giả hoặc đã từng ở nước ngoài thời đó. Bà vợ là giáo viên trường cấp hai cách đấy không xa. "Một gia đình tử tế", bà thầm nghĩ, không hiểu sao lấy thế làm mừng. Họ có hai con, một trai, một gái. Cậu con trai kém hơn chị ba tuổi, cùng tuổi với con bà. Tất nhiên, bà chỉ chú ý tới nó.
Khi lần đầu tiên bà già quán nước chỉ nó cho bà, thoạt nhìn, bà bàng hoàng cảm thấy nghẹt thở, đến mức phải cúi xuống, hai tay ôm mặt. Không nghi ngờ gì nữa, nó chính là con bà. Bà biết chắc như thế. Trước hết vì nó giống, rất giống người chồng cũ của bà. Không sai vào đâu được. Cũng tạng người ấy, dáng đi ấy. Cũng những đường nét dễ nhận thấy ấy trên khuôn mặt. Sau nữa vì đơn giản bà biết nó là con bà, đứa con bà rứt ruột đẻ ra và suốt chừng ấy năm không lúc nào không nghĩ đến. Phải chăng lần nữa linh cảm người mẹ mách bảo bà như thế?
"Phải làm gì bây giờ?" Một cách vô thức, bà vội vã đạp xe đi theo thằng bé cho đến lúc nó tới trường và biến mất trong đám bạn bè cùng lớp.
Giờ tan trường, bà lại lén lút chờ nó trước cổng rồi cũng lén lút như thế, theo nó về nhà. Sau này, suốt nhiều năm bà còn phải nhiều, rất nhiều lần lặp lại việc này. Một cách lặng lẽ, vụng trộm, hệt như một mụ ăn cắp. Bà cảm thấy chua xót, xấu hổ về điều đó. Nhưng thử hỏi bà có thể làm được gì khác?
Bà đã từ bỏ ý định gặp bố mẹ nó. Biết nói gì với họ? Không lẽ bảo họ đây là con tôi, kia là con ông bà, ta đổi lại cho nhau? Bằng chứng đâu? Không khéo còn bị họ mắng. Cũng vì lý do thiếu căn cứ xác đáng, bà biết pháp luật chẳng thể làm được gì để giúp bà. Đấy là chưa nói đến việc các con bà, cả đứa bà đang nuôi và đứa người khác nuôi, sẽ phản ứng thế nào khi biết sự thật? Liệu chúng có hạnh phúc hơn không? Bấy lâu nay bà tìm con chỉ vì tình mẫu tử thúc dục, chứ đâu phải vì bà không yêu quí đứa con nhầm. Mà rồi liệu bản thân bà có dễ dàng chia tay với nó không, một đứa bé kháu khỉnh, ngoan và cũng rất mực yêu thương bà?
Cứ thế hết năm này đến năm khác, bà lặng lẽ sống với những câu hỏi day dứt không lời đáp ấy. Bà chỉ còn biết tự an ủi rằng cũng như con họ, con bà đang được nuôi dạy tử tế trong một gia đình tử tế. Phải đến hàng nghìn lần bà lén lút đứng từ xa quan sát con trai. Hàng nghìn lần muốn chạy đến gọi nó bằng tiếng "con" trìu mến. Nhưng cả hàng nghìn lần ấy bà không đủ dũng cảm làm điều đó, một điều dường như bình thường và bà, với tư cách một người mẹ, hoàn toàn có quyền chính đáng để làm.
"Không hiểu đã bao giờ ông bà ấy cũng có cảm giác nhầm con như mình không nhỉ? Nếu có, họ có đau khổ như mình không?" Bà tự hỏi. Cả câu này, bà cũng không trả lời được.
* Thời gian thấm thoắt trôi qua. Lại thêm mười lăm năm nữa bà sống trong tâm trạng ấy. Bà lặng lẽ chịu đựng một mình, không cho chồng con hay bất kỳ ai khác biết.
Với tôi, người viết, và các bạn, người đọc, mười, mười lăm hay hai mươi năm - những con số ấy dường như chỉ là một chi tiết nhỏ. Ta có thể dễ dàng nói bao nhiêu cũng được, nhưng nếu thử gấp sách suy nghĩ một chút và đặt mình vào hoàn cảnh bà, ta sẽ thấy các con số có ý nghĩa khác hẳn. Vâng, vậy là bà đã sống thêm mười lăm năm nữa trong tâm trạng một bà mẹ nuôi nhầm con. Lúc này đứa con nuôi nhầm ấy đang ở xa. Nó đã hăm lăm tuổi, học cao học ở Anh, nhờ suất học bổng thủ khoa trường đại học kinh tế. Còn em cô, hăm hai, vừa tốt nghiệp một trường cao đẳng và sắp sửa đi làm cho một công ty nhà nước ở ngay Hà Nội
* Hôm nay dường như nó có điều gì khác thường, cứ đi ra đi vào mãi. Bà biết nó có chuyện quan trọng sắp nói với mẹ. - Mẹ ơi, - cuối cùng nó lên tiếng. - Con có người yêu rồi đấy. Chúng con quen nhau đã lâu, nhưng con chờ lúc nào chắc chắn mới báo với mẹ. Mẹ có vui không? - rồi nó âu yếm ôm vai bà, cười khúc khích. - Chắc mẹ muốn có cháu bế rồi chứ gì?
- Cha cô, - bà mắng yêu nó. - Chưa lo học hành, công việc tử tế đã nghĩ chuyện chồng con. - Ấy là nói vậy chứ trong lòng bà vui, và nó đã nói đúng. Bà muốn sớm có cháu để bế.
- Anh ấy tốt lắm, mẹ ạ...
- Khi yêu ai chẳng tốt. Hãy cẩn thận, không thì khổ cả đời đấy, con ạ.
- Mẹ đừng lo. Vậy mẹ cho phép con đưa anh ấy về đây giới thiệu với mẹ chứ?
- Có muốn, tôi cũng chẳng cấm được, - bà lấp lửng đáp. Tức là bà bằng lòng.
Mấy ngày sau, nó dẫn người yêu về giới thiệu với mẹ. Đó chính là đứa con đẻ của bà và cũng là anh trai nó!
Tôi xin nhường bạn đọc tự hình dung tâm trạng bà trước việc này. Chỉ xin nói ngắn gọn là bà đã cương quyết không chấp nhận mối tình đó. Bà cấm. Bà dọa. Bà khóc, van xin và thuyết phục. Bà đã làm tất cả những gì có thể làm được để ngăn cản. Nhưng bà lại không làm được điều quan trọng nhất để bào chữa cho thái độ không khoan nhượng một cách phi lý ấy của bà: Bà không thể cho con biết lý do bà nhất quyết không để họ lấy nhau. Mà cô con thì phẫn nộ vì oan ức, cứ luôn miệng kêu lên: Vì sao? Vì sao? Vì sao?...
- Vì nó là anh trai mày! Anh trai ruột của mày, mày biết không? - bà ôm mặt khóc to khi cuối cùng phải nói ra cái sự thật bà che dấu hàng chục năm nay. - Trời ơi. Trời ơi... Sao lại trớ trêu thế này...
Cô gái không dám nghe tiếp, cũng ôm mặt vừa khóc vừa bỏ chạy ra ngoài. * Tôi vốn thích những câu chuyện có hậu, cả chuyện người khác tôi đọc lẫn chuyện chính tôi viết. Hôm nọ có ông bạn già đùa bảo tôi: "Cánh nhà văn các ông sướng thật. Muốn giết ai thì giết mà chẳng sợ bị công an bắt" Tôi không thuộc loại nhà văn như thế. Tôi không thích giết người cả ngoài đời và trong tác phẩm. Nhưng lần này là một ngoại lệ, vì tôi đã hứa sẽ kể đúng sự thật. Cái sự thật đó là: Buổi sáng sau đêm bà nói ra điều bí mật của mình, người ta phát hiện thấy con gái bà và người yêu đã uống thuốc sâu tự tử bên chân đê sông Hồng, đoạn phía bắc cầu Long Biên. Họ chỉ để lại một bức thư tuyệt mệnh ngắn ngủi: "Xin bố mẹ hãy tha thứ cho chúng con. Chúng con không thể làm khác". Bản thân tôi cũng không biết họ chết vì tuyệt vọng không được lấy nhau, hay vì cảm giác tội lỗi của việc loạn luân.
Toàn bộ câu chuyện đau lòng này chỉ có thế, và đã đến lúc tôi có thể đặt dấu chấm hết. Ấy thế mà tôi cứ có cảm giác như còn điều gì chưa nói hết.
Khi viết những dòng này, bất chợt tôi nhớ tới "Sự tích hòn đá vọng phu" của Việt Nam, về chuyện hai anh em ruột do ngẫu nhiên mà lấy nhau. Tôi cũng nhớ tới vở bi kịch nổi tiếng "Ơđip làm vua" của một tác giả cổ Hy Lạp, kể chuyện vua Ơđip bị số phận bắt phải giết cha và lấy chính mẹ mình; cũng như câu chuyện của Hoàng tử chột trong cuốn "Một nghìn một đêm lẻ" về mối tình tội lỗi giữa hai anh em ruột một nước Trung á xa xưa nọ. Cả ba câu chuyện trên đều có kết cục bi thảm.
"Một chuyện đau lòng" của chúng ta cũng không tránh khỏi kết cục ấy. Nó là kết quả tất yếu một bi kịch quá sức chịu đựng của con người do những nguyên nhân khác nhau gây nên. Trong trường hợp câu chuyện tôi đã kể, nguyên nhân ấy là chiến tranh. Chính chiến tranh đã làm cô hộ lý trao nhầm những đứa trẻ sơ sinh. Chính chiến tranh đã làm các bà mẹ những đứa trẻ ấy phải âm thầm đau khổ. Và tất nhiên, cũng vì chiến tranh mà những người cầm bút như tôi buộc phải viết về những chuyện buồn của quá khứ, trong khi có thể và rất muốn viết những chuyện vui hơn của hiện tại và tương lai. Chiến tranh thật kinh khủng và đáng sợ. Đáng sợ hơn cả sự ngẫu nhiên, định mệnh và tình yêu tội lỗi.
Hà Nội, 9.2.2000
Sành điệu (Ai yếu bóng vía không xem truyện này). Người viết: Thái Bá Tân 11/07/2009
Truyện ngắn. Thái Bá Tân
Khoảng chục năm trở lại đây, trong xã hội dần dần xuất hiện và càng ngày càng đông thêm một lớp người có thể nói đặc biệt và khá nổi bật. Đó là những nam thanh nữ tú làm việc cho các văn phòng đại diện và công ty nước ngoài. Họ có trình độ, giỏi ngoại ngữ, mặc những bộ đồng phục đẹp, suốt ngày ngồi trong phòng máy lạnh sạch sẽ với đủ các thiết bị hiện đại. Họ ăn lương nước ngoài, cách cư xử, sinh hoạt cũng phảng phất chất nước ngoài với nghĩa tốt của từ này. Ra đường, người ta dễ nhận ra họ qua chiếc điện thoại di động thời thượng, chiếc cặp da, qua kiểu ăn mặc - nam com-lê, ca-vat, đầu chải bóng, nữ bận váy bó nhã màu, son phấn vừa độ. Họ nói năng lịch sự, có tiền mà không đua đòi mua sắm. Tóm lại, họ là dấu hiệu đáng mừng của đất nước thời mở cửa và hội nhập, sự khởi đầu của một thế hệ công chức mới mà những người thiện tâm thấy họ, không thể không lấy làm mừng.
Phi Hùng là một người như thế. Anh làm việc cho đại diện một công ty luật nổi tiếng đã ba năm nay, vừa được tăng lương thăng chức sau khóa bồi dưỡng nghiệp vụ ở Mỹ. Anh đẹp trai, da trắng, dáng thư sinh, lại có năng lực nên nhanh chóng trở thành đối tượng mơ ươc của nhiều cô gái. Nhưng như phần lớn những người khác cùng địa vị, anh vẫn sống một mình trong căn hộ thuê ở một chung cư hiện đại. Thoạt nhìn ít ai ngờ chỉ mấy năm trước anh còn là một sinh viên nông thôn nghèo. Có lẽ chút "chất quê" còn lại trong anh là tính bẽn lẽn, thật thà một cách dễ thương và ít từng trải. Anh là người nhạy cảm, dễ xúc động, ít giao du và ít (hay không biết) "ăn chơi". Một người chỉn chu, nghiêm túc, chỉ chuyên tâm vào công việc. Tóm lại, anh không thuộc loại "sành điệu", cái thuật ngữ dành cho những người trẻ tuổi biết chơi và chịu chơi.
Một chiều chủ nhật nọ, đang đi giữa đường, Phi Hùng, con người nhút nhát và rất không sành điệu ấy đã gặp một đại diện điển hình của giới ăn chơi sành điệu Hà Thành. Đó là Long, bạn sinh viên cùng khóa, cùng lớp và cùng chia hai ngôi nhất nhì khi tốt nghiệp trường Đại học Tổng hợp Quốc gia. Sau đó hai người đi theo hai ngã và cùng thành đạt theo cách riêng của mình.
Vốn thông minh và có đầu óc kinh doanh, Long nhanh chóng từ bỏ công việc được coi là rất triển vọng ở một cơ quan nhà nước để thành lập công ty riêng, tay trắng và không một đồng vốn. Thế mà làm ăn phất, lúc đầu bằng môi giới, chỉ trỏ, rồi dần dần chuyển sang kinh doanh, cả hợp pháp lẫn bất hợp pháp. Còn bây giờ thì đường đường là giám đốc công ty Bình Long, chuyên nhập thiết bị xây dựng hạng nặng đã qua sử dụng từ Hàn Quốc.
Như Phi Hùng, Long vẫn độc thân, có thể vì mải làm giàu hoặc chưa tìm được ai vừa ý. Tuy nhiên ở tuổi chưa đầy ba mươi, anh ta có vẻ quá già dặn trong đời trường và quá sành điệu trong hưởng thụ. Bằng chứng là lớp da bì bì do thường xuyên hấp thụ quá nhiều bia rượu và các chất béo bổ, đôi mắt lờ đờ thiếu ngủ sau những đêm nhậu nhẹt triền miên và cả bộ ria "a la Fur" như Hitle được tỉa tót rất cẩn thận. Gần đây bạn bè đặt thêm cho cái tên tương xứng với vẻ ngoài ấy - Long Mỡ. Long Mỡ là tip người khác hẳn cậu thư sinh mảnh mai Phi Hùng.
- Lâu lắm mới gặp nhau, chúng mình phải đi chơi một trận mới được. - Long Mỡ hồ hởi nói.
- Đi chơi? Chơi gì?
- Cậu rõ tẩm. Trước sinh viên khổ mãi, bây giờ có điều kiện phải "sành điệu" một chút. Chơi gì cũng chiều. Tớ bao!
- Vấn đề không phải tiền, - Phi Hùng có vẻ lúng túng. - Nhưng quả thực tớ không hiểu lắm. Mà rồi cũng không có nhu cầu...
- Cậu vẫn cù lần như ngày nào. Thôi được, cậu không thích em út thì ta đi ăn nhậu, nhưng phải là thứ đặc biệt, đúng cách ăn nhậu của dân sành điệu.
- Tớ chưa thật hiểu...
- Thì cứ đi, khắc hiểu. Thôi, không dài dòng nữa. Nào đi!
Phi Hùng miễn cưỡng đi theo. Họ từng là bạn thân với nhau, lại cùng quê. "Ừ thì đi cho biết," anh nghĩ, mặc dù không thích nơi đông người, bia rượu và những bữa ăn kéo dài.
Lúc ấy khoảng bảy giờ tối. Long Mỡ đưa bạn đến một phố nhỏ ở khu trung tâm, ngoằn ngoèo mãi, cuối cùng dừng lại trước một ngôi nhà cũ kỹ khuất trong hẻm mờ tối. Thấy bạn có ý thắc mắc, anh ta nói ngay:
- Yên tâm. Tớ đưa cậu đến nơi cần đến. Vào khách sạn Tây mà ăn nhậu chỉ phí tiền, dù ở đó rẻ hơn nhiều. Đây là nơi dành cho giới chọn lọc. Chọn lọc, hiểu không ông tẩm?
Phi Hùng gật đầu dù chẳng hiểu gì, rồi lặng lẽ bước lên một cầu thang gỗ hẹp. Anh nghe loáng thoáng có người nói với nhau bằng tiếng Tàu. Tầng hai hóa ra rất rộng, có nhiều phòng nhỏ riêng biệt. Một ông lùn bước ra, ngưòi béo mập, đầu hói nhẵn lấp lánh dưới ánh điện màu hồng tù mù. Ông này chào Long Mỡ bằng tiếng Việt lơ lớ với sự niềm nở chỉ dành cho những khách quen nhiều tiền, rồi dẫn hai người vào một phòng khá tươm tất. Giữa phòng kê chiếc bàn phủ khăn trắng hồ cứng có để sẵn đồ uống và chiếc lẩu bằng i-nốc sáng loáng.
- Hôm nay mình ăn gì? - Phi Hùng tò mò hỏi.
- Chốc nữa sẽ biết. Tất nhiên phải là món đặc biệt. Món ăn của vua chúa. Mà không phải vua chúa nào cũng được ăn và ăn được. Ở Việt Nam chỉ hai nơi có món này, là đây và Quận Năm Sài Gòn. Bây giờ cứ tự nhiên khai vị bằng các món phụ đã. Món độc chiêu ấy chỉ được đưa ra vào cuối bữa tiệc. Đừng sốt ruột.
Hai người bắt đầu nhâm nhi những thứ các cô gái Tàu, hoặc giả Tàu, mặc quần rộng áo chẽn màu đỏ, liên tục mang lên. Họ ôn lại "một thời sinh viên gian khổ" hoặc nói chuyện làm ăn hiện nay. Thời gian cứ thế trôi qua, có lẽ đã hơn một tiếng. Phi Hùng ăn uống rất ít. Nếu không tò mò muốn biết cái món "độc chiêu của vua chúa" kia là gì, chắc anh đã dục bạn về từ lâu. Chiếc lẩu i-nốc chưa được sử dụng vẫn kiên nhẫn chờ trên bàn.
Cuối cùng thì "nó" cũng đến. Với vẻ trịnh trọng duyên dáng, hai cô gái bê vào một chiếc cũi nhỏ, bốn xung quanh che bằng kính trong suốt. Phi Hùng ngơ ngác không hiểu. Anh cúi xuống nhìn thì thấy trong cũi có con khỉ lông vàng đã được tắm rửa sạch sẽ. Chiếc cũi thấp, đè chặt nó xuống không cựa quậy nổi. Nắp cũi rất phẳng, cũng bằng i-nốc sáng loáng, chính giữa có một lỗ hổng rộng, làm chỗ cho chỏm đầu con khỉ (đã được cạo sạch lông) nhô lên, um um như chóp quả dừa.
- Cái gì thế này? - Phi Hùng ngạc nhiên hỏi, lờ mờ đoán ra đôi điều. Anh lấy mu bàn tay lau mồ hôi trán. Từ trong cũi, ở cái thế không thể cựa quậy nổi ấy, chắc con khỉ biết trước tai họa sắp đến. Nó nhìn anh bằng đôi mắt van xin tha chết. Trong đôi mắt ấy anh đọc thấy nỗi kinh hoàng và nỗi sợ không nói nên lời. Như đứa trẻ yếu đuối, nó chắp hai bàn tay bé xíu đầy lông, liên tiếp vái lạy. Phi Hùng quay mặt, khẽ kêu lên:
- Thả nó ra. Trời ơi, thả nó ra! Cái quái gì thế này?
- Con khỉ và chiếc cũi đựng nó, cậu thấy rồi đấy, thưa cậu tẩm. - Long Mỡ nói, không dấu vẻ tự hào đắc thắng. - Hôm nay chúng ta sẽ dùng món óc khỉ tươi. Đúng kiểu Từ Hy thái hậu ngày xưa chiêu đãi các sứ thần nước ngoài. - Rồi hắn giơ chiếc dao Thái Lan to bản, mỏng dính ngang tầm chém, nghiêng ngươi và...
* Người viết câu chuyện này xin phép không đi vào chi tiết những gì xẩy ra sau đó, vì một việc làm man rợ, một sự suy đồi đạo đức như vậy của những kẻ tự xưng sành điệu, xưa hay nay cũng vậy, chỉ đáng bị chúng ta phỉ nhổ. Chỉ cần nói thêm rằng với vẻ thích thú, điêu luyện, hắn liệng một nhát dao, và chóp sọ con khỉ tội nghiệp bay ra, để lộ mớ óc trắng bầy nhầy. Trong tiếng kêu ai oán của con vật, Long Mỡ, cũng thích thú và điêu luyện không kém, thản nhiên múc từng thìa nhỏ óc khỉ, nhúng vào chiếc lẩu đang sôi rồi cho vào miệng ăn ngon lành. Trong suốt thời gian ấy con khỉ vẫn sống, vẫn không ngớt kêu khóc mỗi lần hắn chọc thìa múc óc nó. Điều này càng làm hắn thích thú và ăn ngon miệng hơn. "Bổ! Đại bổ đấy! Nào, ăn đi cậu!" - hắn bảo Phi Hùng khi anh vừa nôn mửa vừa chạy về phía cửa, nhưng cửa đã bị chốt từ bên ngoài. Cả điều này cũng làm hắn thích thú. "Không sao. Rồi dần sẽ quen. Lúc đầu tớ cũng vậy. Ăn chơi phải tàn bạo, đúng không? Nào, thử một tí. Nào..." Hắn dí chiếc thìa với chút óc bầy nhầy vào sát miệng Phi Hùng. Anh ngả người về phía sau, mặt tái nhợt, thở không ra hơi và đang định giang tay tát vào mặt hắn thì ngã xuống sàn, bất tỉnh trong tiếng cười khả ố của thằng bạn.
* Khi tỉnh dậy, Phi Hùng ngạc nhiên thấy mình đang nằm trên chiếc đi-văng trong phòng khách căn hộ của mình, vẫn nguyên quần áo và giày dép cùng mùi tởm lợm của thức ăn nôn ọe dính trên đó. Anh rùng mình nhớ lại những gì vừa xẩy ra. Sự sợ hãi và kinh tởm khiến anh không thể gượng dậy tắm rửa, thay quần áo hoặc xem đồng hồ. Anh đoán chắc đã khuya. Xung quanh yên tĩnh khác thường. Không một tiếng động nhỏ. Không tiếng muỗi vo ve. Không cả tiếng xe đều đều quen thuộc từ xa vọng lại như mọi ngày. Anh nằm bất động rất lâu, miên man suy nghĩ tại sao người ta, cụ thể là thằng bạn thân của anh, ít ra một thời từng thân, có thể "sành điệu" đến mức ăn uống theo cách ghê tởm ấy. Hơn thế, người ta còn muốn kéo anh vào. Vì sao Long, một thằng nhà quê chất phác như anh, một sinh viên giỏi, một trí thức, một nhà kinh doanh thành đạt, lại trở thành người như anh thấy hôm nay? Vì sao anh ta có thể làm nổi một việc như vậy? Đó là tội ác, là thú tính, là phi đạo đức, là...
Bất chợt Phi Hùng nghe có tiếng động rất khẽ. Hình như tiếng bước chân rón rén. Anh chú ý lắng nghe. Không, không có gì thêm. Xung quanh vẫn là sự im lặng tuyệt đối. Đầu anh ong ong, đau nhức. "Chắc mình tưởng tượng thế thôi. Cửa có chốt tự động, đóng vào là tự khóa luôn. Không người nào, con vật nào, dù nhỏ, có thể lọt vào được." Yên tâm phần nào, vẫn ở tư thế nằm ngửa bất động, anh trân trân nhìn lên trần nhà tối om và lại miên man suy nghĩ. Một chốc sau, tiếng bước chân rất nhẹ và bí ẩn kia lại xuất hiện. Hơn thế, mỗi lúc một rõ hơn, nghe gần hơn. Hình như nó đang bước lại chỗ anh nằm. Chắc chắn như vậy, không thể nhầm được. Tim anh đập loạn xạ, các ý nghĩ như bị tê liệt. Lấy hết can đảm, anh ngoảnh đầu nhìn về phía cửa ra vào, nơi có núm điện công-tắc đang đỏ hồng hồng một cách yếu ớt. Tuy nhiên, trong căn phòng tối om nó cũng đủ sáng để anh nhìn thấy một bóng đen nhỏ, thấp tròn đang di động chậm chạp. Gặp cái nhìn của anh, nó dừng lại và chắc cũng đang chăm chú nhìn anh.
- Ai đấy? - anh hỏi to. Không có tiếng đáp lại. Cái bóng đen bé nhỏ vẫn đứng im. Rồi nó bước lại gần anh, một bên vai sệ xuống. Kiểu đi cà nhắc của người thọt hoặc đau chân. - Ai? Ai đấy? - Anh kêu to lần nữa, rồi trong cơn hoảng sợ tột độ, anh vùng dậy, chạy bổ về phía chiếc công-tắc đèn.
- Ôi!..
Phi Hùng ôm mặt thảng thốt khi dưới ánh đèn sáng rực chợt nhìn thấy một con khỉ nhỏ đang đứng trước mặt mình. Chính con khỉ ở nhà hàng người Tàu. Con khỉ bị chém mất chỏm đầu với hộp sọ bây giờ trống rỗng, và một chân, chân phải, đã bị chặt cụt gần hết cả bàn. Nó không hề có vẻ dữ tợn, không có ý định làm hại ai, là điều khiến anh thấy đỡ sợ. Nó chỉ đứng yên nhìn anh, cũng cái nhìn van xin ấy như ở nhà hàng, chỉ thêm nỗi đau, nỗi đau của con vật tội nghiệp. Chỉ van xin và nỗi đau. Không có tức giận hoặc trả thù. Nó vái anh mấy cái rồi chìa bàn tay để ngửa trước mặt, kiên nhẫn chờ. "Nó xin mình cái gì chăng?" anh nghĩ. Bây giờ sự sợ hãi đã biến mất, thay vào đó là lòng thương và nỗi đau, nỗi đau của con người đang hoảng sợ và bất lực. Đau cho con vật bé bỏng bị con người bắt làm vật hy sinh để thỏa mãn thú chơi đê tiện của mình. "Nhưng nó xin gì? Mình có thể cho nó gì ?"
Lúng túng và một cách vô ý thức, Phi Hùng cho hai tay vào túi áo vét. Chiếc áo mới, là phẳng phiu và chẳng bao giờ anh để gì trong túi, thế mà lúc này chúng hơi cồm cộm. Anh ngạc nhiên lôi cái cồm cộm ấy ra, rồi ngay lập tức vứt chúng xuống sàn nhà. Một bàn chân khỉ còn dính máu và phần chóp hộp sọ bị dao chém sắc gọn còn nguyên vẹn. Thì ra như thể trêu anh thế chưa đủ, thằng Long Mỡ còn lén giấu vào túi áo bạn hai thứ này để làm anh phải khiếp sợ lần nữa.
Trong khi anh bàng hoàng đứng đờ người thì con khỉ nhanh nhẹn nhặt chóp sọ đặt lên đầu và chắp bàn chân cụt vào chỗ cũ. Nó nhìn anh biết ơn, lạy ba cái rồi lặng lẽ đi ra khỏi phòng, chân không còn cà nhắc. Chỉ lúc này anh mới nhận thấy cánh cửa đã bị mở từ bao giờ.
* Ngày hôm sau Phi Hùng được đưa vào bệnh viện. Sau đó một tháng thì anh bị chuyển tới một nhà thương điên của thành phố. Điên nặng, đến mức người ta phải xích hoặc có chế độ giám sát đặc biệt. Thế mà mấy lần anh khôn khéo trốn khỏi bệnh viện.
Từ một thanh niên có học dễ thương, một công chức đầy triển vọng được bạn bè kính nể, trước sự ngạc nhiên của mọi người, Phi Hùng bỗng trở thành một thằng điên quần áo rách rưới bẩn thỉu, ăn bụi nằm bờ, lang thang hết nơi này đến nơi khác, khiến ai nhìn cũng lấy làm ái ngại, đặc biệt các đồng nghiệp và những người quen biết.
Người ta ngạc nhiên nhận thấy thằng điên này hay la cà bãi chợ để nhặt những chiếc mỏm gáo dừa, luôn quấy rầy các cửa hàng thịt chó, năn nỉ xin chân chó. Hai thứ này, chẳng hiểu để làm gì, nó kiếm được khá nhiều, chất đầy chiếc bị cói luôn đeo bên hông. Ai hỏi, nó nhất định không nói, chỉ cười, nhe hàm răng trắng hếu. Nó cười mà trông như khóc. Tội nghiệp.
Còn Long Mỡ thì sao? Hắn có ý thức được rằng chính hắn và cái thói sành điệu tai ác kia của hắn đã đẩy bạn đến nước này không? Có thể có mà cũng có thể không. Tính hắn hay quên, nhất là quên việc hắn đã làm và các hậu quả của nó. Mà rồi cũng có thể hắn lập luận sự việc theo cách riêng của mình. Nhưng một điều có thể xác minh được. Đó là việc hắn cũng thương thằng điên này, một thời từng là bạn thân của hắn. Cụ thể là có lần bất chợt gặp nó, hắn đã hào phóng đãi nó một bữa cơm bụi. Muốn ăn gì thì ăn, sướng chưa! Lúc chia tay, hắn còn dúi cho nó mấy nghìn tiền lẻ, khiến thằng kia mừng run, vừa đi vừa cười. Một nụ cười mếu máo.
Còn Long Mỡ thì đứng nhìn theo, buông một câu:
- Cái thằng này hóa ra thế mà độc đáo. Sống điên. Làm thằng điên. Sành điệu ra phết!
Hắn vẫn tiếp tục làm ăn phát đạt. Vẫn đều đặn tham dự các hội nghị tuyên dương những nhà kinh doanh trẻ. Nghe nói hắn còn là nhà từ thiện lớn. Thỉnh thoảng hắn vẫn đến phố người Tàu kia, có lúc dẫn thêm bạn để khai sáng cho họ đôi chút về cái thuyết ăn chơi sành điệu của hắn. Cũng có thể hắn đã làm nhiều người khác nữa phát điên như Phi Hùng mà chúng ta biết.
Hà Nội, 8.7.2002
Người lính Mỹ mặc thường phục (truyện ngắn đầu tay của Thái Bá Tân, 1979) Người viết: Thái Bá Tân 02/07/2009
Truyện ngắn. Thái Bá Tân
"Xin phép ông. Tôi là Clark, Henry Clark, cựu chiến binh Việt Nam. Hơn thế, tôi là kẻ phạm tội, một tên giết người. Giết đồng bào ông. Và vì thế, hôm nay tình cờ gặp ông, một người Việt Nam phía bên kia, tôi muốn được nói đôi điều.
Tôi nhập ngũ năm 1966, khi còn học dở khoa Luật trường Đại học Tổng hợp Flôriđa. Tất cả xảy ra thật tình cờ và nhanh chóng. Một hôm có người tự giới thiệu là đại diện Nhà Trắng đến trường tôi nói chuyện. Trong suốt ba tiếng liền ông ta nói một mạch không nghỉ về cuộc chiến tranh bảo vệ tự do ở Việt Nam, về sứ mệnh lịch sử của người Mỹ nói chung và của thanh niên chúng tôi nói riêng đối với cuộc chiến tranh đó. Những lần nói chuyện như thế kể ra không phải hiếm ở trường tôi, nhưng lần này tôi đã xúc động thật sự. Kết quả là ngay hôm đó tôi tìm gặp diễn giả, bảo ông ta tôi muốn tình nguyện sang Việt Nam chiến đấu, bảo vệ những gì ông ta vừa nói một cách rất hay và say sưa kia.
Ba tháng sau tôi đã có mặt ở Việt Nam, tức là cuối tháng Tám năm 1966. Tôi được sung vào một đơn vị lính thuỷ đánh bộ, và mấy tuần sau đến Đà Nẵng mà chẳng qua một lớp huấn luyện hay tập trận nào, Mọi việc xảy ra nhanh và đơn giản. Sau này tôi mới biết bố mẹ tôi đã chạy chọt xin cho tôi một chân "văn phòng" ở bộ tham mưu nào đó để khỏi ra trận, và yêu cầu cho tôi sang Việt Nam sớm để nhanh chóng hết hạn trở về Mỹ.
Thế là tôi được làm thư ký riêng cho McPherson, một đại tá trẻ phụ trách công tác bình định các mặt trận phía Bắc, chuyên đóng chốt ở Đà Nẵng, họa hoằn lắm mới dùng trực thăng thị sát tình hình hay về Sài Gòn họp.
Công việc của tôi nói chung không có gì phức tạp, thỉnh thoảng làm một bản tổng hợp tình hình dựa trên tin tức các nơi gửi về cho McPherson. Tôi mau chóng chiếm được cảm tình của ông ta, lại có văn hóa nên nhiều lần được giao cả việc thảo các báo cáo quan trọng gửi lên cấp trên, ông ta chỉ xem lại lần cuối. Tuy nhiên, tôi bắt đầu thấy chán cái công việc nhẹ nhàng, dễ dãi và quá yên tĩnh này. Tôi muốn một cái gì sôi động và mạo hiểm hơn. Lấy cớ đi nắm tình hình thực tế, tôi xin phép McPherson thỉnh thoảng được theo trung đoàn lính thủy đánh bộ Mỹ đóng cạnh tham gia các cuộc hành quân bình định. Ông ta đồng ý. Trước đó tôi đã kịp bắt bạn với một sĩ quan trẻ là trung uý James Franklin ở trung đoàn đó. James là một tay táo bạo và cũng thích phiêu lưu như tôi. Tôi nhiều lần theo anh ta ra các vùng xung quanh Đà Nẵng. Trong các cuộc hành quân đó, lúc đầu tôi chỉ đóng vai một người quan sát, nhưng sau thì tham gia thực sự như những người khác. Mục tiêu của chúng tôi là những vùng được nghi có nhiều vi-xi hoạt động phá rối. Chúng tôi phải tiêu diệt họ để đội quân bình định đến gom dân lập ấp chiến lược. Dần dần tôi cũng bắn và làm những việc khác như những người xung quanh. Thật ra lúc đầu tôi có hơi ngài ngại đôi chút, nhưng cái cảm giác ngại ngùng ấy cũng chóng trôi qua vì tôi nghĩ chiến tranh là chiến tranh, anh không bắn người ta cũng bắn anh. Sau nữa phải thú nhận rằng mỗi lần được bóp cò, được châm lửa đốt nhà, tôi lại có cái cảm giác lâng lâng khó tả. Tôi bị kích thích. Một bản năng tàn bạo nào đấy trỗi dậy trong tôi. Những lúc như thế tôi chợt nhớ các sách báo và phim ảnh ly kỳ, rùng rợn mà tôi đã đọc và xem rất nhiều ở Mỹ. Tôi hãnh diện vì chính mình bây giờ cũng là một nhân vật anh hùng như thế. Nghĩa là tôi đang say, say với đúng nghĩa thật của nó, tức là vì rượu - trong những cuộc hành quân ấy, bao giờ tôi cũng uống, và uống nhiều. Tôi say cả với các ảo ảnh ngây ngất của chính bản thân. Cứ thế tôi tiếp tục sống trong cơn say ấy của mình và gây tội ác. Vâng, gây tội ác mà không hề ý thức gì về điều đó. Chắc chắn tôi sẽ còn lăn thêm trên con đường dốc ấy, nếu không nhờ một hôm, một việc xảy ra làm tôi tỉnh ngộ..."
Người đang ngồi trước mặt tôi ngừng nói. Ông ta trạc bốn mươi tuổi, tóc cắt ngắn nhưng chải mượt, chiếc khăn mỏng màu xanh lơ gấp nếp dắt lé trên chiếc túi áo vét. Ông là Henry Clark, người Mỹ, cựu chiến binh như ông ta, dù không ai hỏi, đã tự giới thiệu.
Vào một trong những đêm trăng nổi tiếng ở Lêningrát, khi tôi đang ngồi một mình uống rượu và nghe nhạc trong khách sạn "Tháng Mười" thì ông ta tìm đến để làm quen. Hình như ông ta đã theo dõi tôi từ trước, chọn lúc tôi ngồi một mình đến để bắt chuyện. Sau ít câu mào đầu xã giao, ông ta đã bắt đầu ngay câu chuyện tự bạch này của mình. Chắc ông ta ấp ủ nó từ lâu và đang rất cần được nói ra. Tôi vốn tốt nghiệp đại học ngoại ngữ Mátxcơva, lúc ấy, chính xác là tháng Bảy năm 1975, tôi được cử làm phiên dịch tiếng Nga - Anh cho một đoàn cán bộ của Miền Nam đang ở thăm Liên Xô và Thụy Điển. Tôi lặng im nghe ông nói, tò mò muốn biết câu chuyện sẽ đi đến đâu.
"Vào một đêm hè nóng nực, khoảng mười tháng kể từ ngày tôi rời Mỹ, - Henri kể tiếp. - James được lệnh dẫn đại đội của mình đến "trừng phạt" một làng nhỏ, rất tiếc tôi không nhớ tên, cách Đà Nẵng đâu hơn năm mươi cây số, vì làng này trước đó mấy ngày đã bất ngờ nổ súng giết chết ba cố vấn Mỹ, một trung tá Việt Nam và cả tiểu đội lính Sài Gòn đi theo bảo vệ. Đó là một vùng an toàn. Ngay sau khi sự việc xảy ra, một trung đội Việt Nam Cộng hòa được phái đến nhưng bị du kích làng này đánh trả và suốt ngày không tài nào vào được. Vì thế mới phải điều đại đội lính thủy đánh bộ Mỹ do James chỉ huy. Tôi theo James hành quân, đến nơi thì trời gần sáng. Như trong những trường hợp tương tự, James gọi pháo cho giã hồi lâu vào làng, và chỉ khi tin chắc trong làng không còn ai sống sót, anh ta mới đốc quân lò dò tiến lên. Lần này quả đúng trong làng không còn ai thật. Cây cối bị chặt ngang tơi tả. Nhà đổ sập, mặt đất bị đạn pháo cày tung nham nhở. Tuyệt không thấy một bóng người nào. Xác chết cũng không. Thì ra hầu hết dân trong làng đã bỏ đi nơi khác từ đêm trước. Bực mình vì không còn ai để trừng phạt, lại bị cái nóng dày vò, chúng tôi ôm súng đi lang thang khắp làng, gặp cái gì bắn cái ấy, thậm chí suýt làm chết một tên trong trung đội lính Sài Gòn làm nhiệm vụ "dò đường" vào làng trước đó, bấy giờ đang tỏa đi vơ vét nốt số gà lợn người ta chưa mang đi kịp.
Tôi theo James sục vào một ngôi nhà lợp tôn nhỏ may mắn chưa bị đạn pháo phá sập. Vì nó lợp tôn nên tôi không thể dễ dàng châm lửa đốt như các nhà khác. Điều này làm tôi rất tức giận. Trong nhà không có ai. James lia một băng vào bức ảnh chụp một ông già mặc áo dài đen, quần trắng, khăn xếp, hai tay để yên trên đầu gối, đang mỉm cười nhìn chúng tôi từ trên tường. Tôi cũng lia một băng tiếp theo vào nải chuối và mấy quả quất bằng nhựa phủ đầy bụi trên bàn thờ. Cả tôi và James hôm ấy uống nhiều hơn ngày thường. Uống trước khi rời căn cứ, trước khi xông vào làng và cả bây giờ, giữa đống đổ nát này. Chúng tôi thấy chân tay ngứa ngáy. Phải bắn, phải phá, phải giết một người nào đó. Để trả thù cho những đồng chủng bị giết hại ư? Vì tự do? Vì lý tưởng? Có thể. Nhưng điều quan trọng nhất là lúc ấy chúng tôi thấy mình là những người chiến thắng, những người anh hùng thực sự, có sức mạnh và có quyền trừng phạt đối thủ. Trong khi James lục lọi trong nhà, tôi bỏ ra phía sau. Một quả pháo rơi trúng vườn, khoét sâu một hố khá lớn. Đất đỏ bắn ra bốn phía. Ở góc vườn, cách chỗ tôi đứng hơn chục mét có mô đất nhô cao, bên cạnh là một bụi cây rậm. Tôi ngất ngưỡng bước lại gần, ngón trỏ tay phải luôn để sẵn trên cò súng khẩu tiểu liên mới toanh.
Bất chợt tôi đứng sững lại. Trước mặt tôi là một đứa bé gái độ sáu tuổi, tóc rối, đang thút thít khóc bên xác một người đàn bà nằm sấp, đầu và lưng bị trúng đạn đầy máu. Tôi không nhìn rõ mặt, nhưng đoán có lẽ là mẹ hay là bà nó. Bà này nằm vắt trên miệng một chiếc hố vôi đã cạn nước, còn đứa bé thì ở phía dưới. Nó mặc chiếc quần đen dài, không áo, người lem luốc đất và nhọ. Thấy tôi và khẩu súng đang chĩa về phía nó, con bé ngẩng lên nhìn với đôi mắt mở to ngơ ngác, như muốn hỏi tôi là ai và tại sao lại ở đây. Tôi cũng đứng im, nheo mắt nhìn nó. Cứ thế kéo dài một lúc lâu. Tất nhiên trong suối thời gian ấy, khẩu tiểu liên cực nhanh của tôi cũng nhìn nó bằng con mắt duy nhất mở to và bất động của mình. Nó hết nhìn tôi lại nhìn khẩu súng. Cuối cùng nó hiểu. Nó bỗng co rúm người, kêu to một tiếng gì đấy tôi không rõ. Rồi vẫn không dám nhỏm dậy, với đôi mắt mở to nhưng không còn ngạc nhiên như trước, mà đầy vẻ hoảng sợ, nó lại nhìn như dán vào họng súng. Nó lần tay sờ sẫm, lê người về phía sau.
Tôi vẫn đứng im. Nghe tiếng kêu, lúc ấy không hiểu từ đâu James chạy ra. Có lẽ sự im lặng làm con bé thêm sợ. Khi đã tới mép bên kia và không thể lùi thêm được nữa, nó đứng khựng lại, hổn hển thở. Nó vẫn không rời mắt khỏi khẩu súng của tôi. Cuối cùng, bất ngờ cho cả tôi lẫn Jamse, nó bỗng líu ríu nói một câu gì đấy thật dài, rồi nhanh nhẹn bò lên miệng hố. Tôi tưởng nó bỏ chạy, nhưng không. Nó đứng sững lại một giây như cân nhắc lần cuối quyết định của mình, rồi rụt rè đi về phía tôi, hai bàn tay bé nhỏ dính đầy đất và máu giơ cao trước mặt. Sau này tôi mới hiểu lúc ấy có lẽ nó chắp tay van lạy tôi tha chết. James là người đầu tiên lên tiếng. Anh ta phá lên cười to, không ngớt miệng kêu "tốt! tốt!" rồi móc túi lấy chiếc "Canon" tí hon lúc nào cũng mang theo người, chụp ngay cái cảnh ngộ nghĩnh và khá độc đáo này. Tôi quên nói James là một tay rất mê chụp ảnh, và ảnh anh ta chụp nhiều lần được giải, trưng bày trong các cuộc triển lãm ảnh ở New Jork và nhiều nơi khác trên nước Mỹ. Còn tôi thì lúc ấy vẫn đứng yên. Tôi như bị thôi miên, vô tri giác. Ôm chặt khẩu súng trong tay, tôi trân trân nhìn vào đôi mắt mở to của nó lúc này để lộ đủ các thứ tình cảm lẫn lộn - ngạc nhiên, hoảng sợ và hy vọng.
Con bé vẫn từng bước nhích dần về phía tôi. Bất ngác, tôi cũng lùi lại, mắt vẫn không rời nó. Cả nòng súng cũng vậy. Tôi sợ. Có lẽ thế. Tôi sợ nó động vào người tôi, níu lấy đầu súng của tôi, hay biết đâu, có thể cắn hoặc giết tôi. Thần kinh tôi hết sức căng thẳng. Khi tôi không thể lùi được nữa vì lưng đã chạm tường nhà, cũng là lúc con bé giơ đôi tay xương xẩu và dướn bộ ngực để trần, gầy gò của nó về phía trước trong một hành động tuyệt vọng cuối cùng Tôi bỗng thấy rân rân ở đầu ngón trỏ tay phải. Và tôi... và tôi..."
"Và anh đã bóp cò?" - Tôi nhìn thẳng vào mắt ông ta, hỏi.
Henry không trả lời ngay, khẽ thở dài, hồi lâu nhìn xuống mặt bàn.
"Vâng, và tôi đã bóp cò... Tôi đã giết nó. Nghĩa là chính tôi cũng đã tự giết và cứu sống tôi..."
Có lẽ sợ tôi không hiểu, ông ta vội nói tiếp:
"Đúng thế, vâng, đúng thế. Tôi giết tôi vì cái chết của đứa bé luôn ám ảnh tôi, không cho tôi có được cuộc sống bình thường như những người khác. Tôi cứu tôi vì chính nó đã đánh thức tôi dậy khỏi cơn say mù quáng kia, biến tôi thành một người khác hẳn. Mà thôi, để tôi kể ông nghe một cách trình tự những gì xảy ra sau đó. Ông không vội chứ?" Tôi lắc đầu, và ông ta lại kể tiếp:
"Thế là tôi bóp cò. Một băng đạn bay ra khỏi họng súng, khỏi cái con mắt duy nhất, đen kịt và im lặng kia mà con bé vẫn nơm nớp lo sợ. Tiếng nổ vang, gọn và chắc. Con bé bị bắn vào ngực khi đang giơ hai tay về phía trước. Hai con mắt mở to nhìn trừng trừng tôi, kỳ lạ lắm. Bắn xong, phải một lúc lâu tôi mới bình tĩnh trở lại, mới ý thức hết việc mình vừa làm. Tôi có một cảm giác mơ hồ, khó hiểu như vừa nhỡ tay đánh rơi cái gì đấy rất quý. Trước đó tôi đã từng giết người, nhưng chưa bao giờ có cảm giác như vậy. Bây giờ tất nhiên tôi cố tìm cách tự biện bạch cho hành động của mình. Tôi bắt tôi phải tin là con bé xông lên để giết tôi, và tôi có quyền tự vệ. Không ổn. Vì nó khóc, nó xin tôi cơ mà. Vả lại, người nó bé thế làm thế nào với tới cổ tôi để bóp? Thế thì tại súng tôi tự động nhả đạn. Nhưng vậy thì sao lại vào nó mà không vào người khác, James chẳng hạn? Hay vì lúc ấy tôi say rượu, và lỗi tất cả chỉ tại cái ngón tay ngu ngốc vô tri giác này? Tôi bất lực, cau có với chính bản thân mình. Cuối cùng tôi cũng tìm được cho mình một cái để bấu víu, tuy không chắc chắn lắm. Tôi lập luận rằng là lính, tôi phải bắn vào đối phương, phải biết tàn bạo, không nên và không có quyền tỏ ra mềm yếu, dù một trước một đứa bé. Và để chứng minh cho ý nghĩ đó của mình, tôi liền nâng súng lia khắp nơi, thậm chí còn hò hét, quát tháo mọi người làm theo. Thật ra tôi đã thầm biết trước tất cả những việc ấy là gượng gạo, và tiếng súng, tiếng quát của tôi không thể át nổi một tiếng gì đó mơ hồ, nhỏ nhẻ thôi, nhưng đang nằm sâu trong đáy lòng và bắt tôi trở lại với chính cái tôi thật của mình.
Lúc đầu tôi nghĩ có lẽ tôi đang bị một cú "sốc" về tinh thần, thầm hy vọng nó sẽ nhanh chóng trôi qua cùng thời gian và hoàn cảnh. Tôi xin phép McPherson đi nghỉ Đà Lạt hai tuần. Ở đấy, tôi cố quên mình trong các trò giải trí như tất cả các sĩ quan Mỹ khác từ các nơi về đây sống và hưởng thụ gấp cho bõ những ngày căng thẳng ở mặt trận. Kết quả không như tôi mong đợi. Tôi bắt đầu nghi ngờ về những suy nghĩ của mình. Như ông biết, từ nghi ngờ bản thân chuyển sang nghi ngờ cái khác cũng là điều dễ hiểu. Cùng một sự việc, một hiện tượng, trước kia và bây giờ tôi nhìn khác nhau. Mỗi lần nghe súng nổ, ngón trỏ tay phải tôi lại rân rân, và trước mắt lại hiện lên hình ảnh đức bé Việt Nam kia. Hơn thế, chính hình ảnh ấy với đôi mắt nhỏ trừng trừng nhìn lên đã buộc tôi suy nghĩ lại về mọi chuyện.
Thế đấy, dần dần ý thức chống chiến tranh được hình thành trong tôi, bắt đầu từ một sự kiện ngẫu nhiên tác động mạnh mẽ về tâm lý, tiếp đến là một quá trình nghi ngờ, dằn vặt, chán nản, cho đến khi tìm ra phần nào sự thực... "
"Ông không nghĩ cái giá để tìm ra sự thật ấy ấy là quá đắt à, thậm chí một phần sự thật như ông nói? - tôi nói xen vào. - Ông xem, nếu để một người lính Mỹ thức tỉnh, một đứa bé như thế phải chết, thì..."
"Vâng, tôi hiểu. Tất nhiên là không thể như thế. Tôi bị dằn vặt, ông biết, ấy thế mà nhiều khi tôi vẫn nghĩ cái ngày đáng nguyền rủa kia cũng không phải không có ích cho tôi. Ông thử tưởng tượng xem, nếu tôi không gặp đứa bé ấy, không buộc phải một lần bắt mình nhìn xuống đôi tay mà suy nghĩ... Nếu tôi cứ thế tiếp tục sống trong cơn say mù quáng ấy và cứ thế tiếp tục đốt, giết, mà không hề nghĩ đang làm gì thì... Thật kinh khủng!"
Henry Clark ngồi im lúc lâu, hai tay để hẳn lên mặt bàn, ngón trỏ tay phải trắng, khá thon và dài miết miệng chiếc cốc cao cổ bằng pha-lê trong suốt. Bất giác trước mặt tôi chợt hiện lên khuôn mặt lem luốc với đôi mắt mở to đầy hoảng sợ của một bé gái đang chắp tay van lạy thằng lính Mỹ to lớn đừng giết nó. Thawngff Mỹ ấy hiện đang ngồi trước tôi. Rồi đứa bé ấy biến mất, nhường chỗ cho tượng Đức bà Maria với đôi mắt xanh cũng ngước nhìn lên với hai tay khép vào nhau trước ngực. Rồi bà ta cũng biến đi nốt, và kia, xác hai đứa bé, cũng gái, một bảy tuổi, một ba tuổi đều là con bác tôi, đang ôm nhau ngủ trong nhà. Máy bay Mỹ ập đến ném bom na-pan, không chạy kịp, chúng bị thiêu cháy, đen xịt và nham nhở như hai đoạn gỗ ngắn đang cháy dở. Lúc đó là đầu năm 1967, đúng dịp tôi về phép thăm nhà. Chính tay tôi tự bới trong đống tro mới dội nước còn bốc khói để tìm xác hai đứa cháu. Không hiểu lần ấy thằng Mỹ ném bom làng tôi có bị hai cái chết này thức tỉnh, ám ảnh như đối với ông người Mỹ này hay không? Chắc không, vì hắn bay cao quá, nhanh quá, và có lẽ tiếng khóc yếu ớt của cháu tôi cũng khó mà át nổi tiếng rú máy bay phản lực để lọt vào tai hắn. Phải chẳng vì thế mà hắn có quyền yên tâm bay tiếp, bắn phá tiếp? Đôi mắt tôi vô tình lại dừng lại trên ngón trỏ tay phải của Henry. "Ông kể tiếp đi" - tôi nhắc ông ta.
Henry vẫn ngồi im như không nghe tôi nói, mãi lúc sau mới lên tiếng:
"Cuối cùng tôi quyết định bỏ về Mỹ, và càng sớm càng tốt. Trước hết để xa lánh cái cuộc chiến mà tôi chán ghét này. Ngoài ra còn nhiều nguyên nhân khác, và một trong những nguyên nhân đó là đôi mắt của đứa bé.
Tuy còn mơ hồ, nhưng có thể nói lúc ấy tôi đã quyết định rời Việt Nam như một người lính phản chiến. Tôi không muốn tiếp tục lặp lại những điều trước đấy vô tình tôi mắc phải. Tôi muốn làm việc gì đó khác hẳn để chứng tỏ với lương tâm, rằng tôi đã nhìn thấy sự thật, đã thay đổi và đang thực sự muốn hối cải. Thế nhưng oái oăm thay, mọi việc xẩy ra không như tôi muốn".
"Sao, - tôi hỏi, - lúc ấy ông không về Mỹ được à?"
"Có. Ba tháng sau tôi có cái quyết định ấy. Tôi đã về Mỹ, về vĩnh viễn, nhưng tiếc thay lại bằng cách khác. Trong một chuyến bay quan sát trận địa, trực thăng của chúng tôi trúng đạn. McPherson và một thiếu tá cùng đi chết ngay, tôi và viên phi công bị thương nặng. Tôi bị gãy một chân, gãy hẳn, tận đầu gối. Khi tỉnh lại, tôi thấy mình đang ở bệnh viện. Sau đó ra viện, tôi trở về Mỹ với một chiếc chân giả, một huân chương mà tôi được thưởng sau vụ tai nạn ấy, và, không nói ông cũng biết, với một tấm lòng nặng trĩu. Tôi định bỏ về Mỹ để phản đối chiến tranh, thế mà nay trong giấy xuất ngũ lại ghi rõ rằng tôi là quân nhân về nước vì "không còn khả năng phục vụ trong quân đội". Tôi đã là người thừa ở đất Việt Nam này, vì tôi không thể tiếp tục càn quét, bắn giết, đốt phá..."
Henry tỳ một tay vào cằm, dáng trầm ngâm.
"Vâng, thế là tôi về Mỹ với một tâm trạng khác hẳn lúc đi. Tôi rất buồn và khổ tâm, nhất là thời gian đầu. Tôi không thể bình tĩnh nhìn con tôi như những người bố khác nhìn con mình, vì mỗi lần nó giơ tay đòi bá cổ, trước mặt tôi lại hiện lên hình ảnh đôi tay bé nhỏ dính đầy cát và máu của đứa bé gái Việt Nam nọ. Nhiều khi tôi nghĩ tất cả tại tôi quá đa cảm và mềm yếu. Phải cứng rắn, phải gạt bỏ những gì liên quan đến quá khứ, và chỉ sống với hiện tại, nếu cần, bất chấp cả lương tâm, đạo đức mà sống. Tôi đã thử, và thú thật với ông, làm thế, tôi cũng quên được phần nào, nhưng quên hẳn thì không bao giờ. Xã hội Mỹ phải khổ sở vì "hội chứng Việt nam". Trong tôi cũng có một hội chứng tương tự.
Cũng với mục đích xóa hết quá khứ, tôi tìm gặp James để xin lại chiếc ảnh kia, nhưng anh ta không chịu, bảo đó là bức ảnh độc đáo, và anh ta sẽ gửi nó tới một cuộc triển lãm sắp tổ chức ở Los Angeles. Cuối cùng tôi phải bỏ tiền ra mua, với giá ngang bằng giải thưởng lớn nhất - 15.000 đô-la. Tôi không trách James. Tiền tôi không thiếu. Tôi chỉ muốn một điều là nếu không vứt bỏ được con bé kia khỏi đầu, thì ít ra cũng phải hủy hết những gì còn lại liên quan đến nó và cuộc chiến tranh Việt Nam nói chung. Tuy nhên, khi cầm tấm ảnh trong tay, tôi mới biết tôi nhầm. Tôi không thể xé nó được, cũng như không thể tự bắn vào đầu mình để hủy bỏ cái nhân chứng lớn nhất của việc làm ghê tởm đó. Thành ra từ đấy tôi phải luôn giữ tấm ảnh ấy trong người, giữ kỹ như một báu vật, mặc dù tôi muốn... rất muốn không có nó. Đây, nó ở đây, cạnh trái tim tôi. Tôi không thể giấu nó ở nơi nào khác... Tôi lấy ông xem nhé?"
Không đợi tôi trả lời, Henry móc túi trong áo vét, rút ra một tấm ảnh đen trắng to bằng lòng bàn tay, được ép plastic cẩn thận. Ảnh chụp khá rõ nét và nói chung đúng như những gì ông ta đã kể.
"Tôi không hiểu tại sao lúc ấy nó không bỏ chạy. Nếu nó chạy, chắc tôi chẳng bao giờ bắn nó"
Tôi đặt tấm ảnh lên bàn. Henry ngước nhìn lên, có lẽ muốn xem thái độ tôi thế nào, rồi cẩn thận cất tấm ảnh vào ví, ông ta kể tiếp:
"Muốn hay không, tôi cũng phải thừa nhận rằng tôi không thể trốn tránh trách nhiệm của mình, và rằng lương tâm nhất định sẽ không để tôi yên. Phải làm một việc gì đó. Đúng. Thế là tôi bắt đầu tham gia các cuộc biểu tình chống chiến tranh ở Việt Nam. Thời sinh viên tôi đã có lần tham gia những cuộc biểu tình như thế, nhưng chưa có ý thức chính trị rõ rệt. Bây giờ thì khác hẳn. Tôi thực sự không muốn thanh niên Mỹ lặp lại bi kịch của tôi. Tôi phải đánh thức lương tâm họ ngay ở đây, trên đất Mỹ khi họ chưa kịp gây tội ác. Tôi phải góp phần bắt chính phủ nước tôi chấm dứt cuộc chiến tranh mà chúng tôi vẫn quen gọi là "bẩn thỉu". Cứ thế trong nhiều năm liền tôi hoạt động khá tích cực, thậm chí còn được bầu vào Ban chấp hành phân hội "Những người bạn Việt Nam " của bang Floriđa quê tôi.
Phải nói là trong quá trình tham gia các hoạt động chống chiến tranh, tôi thấy phần nào đỡ bứt rứt hơn. Tôi hầu như dành toàn bộ thời gian để hội họp, mít-tinh, biểu tình hay tuyền truyền cho Việt Nam. Nhưng, ông biết không, cũng trong suốt mấy năm liền như thế, một nỗi lo sợ mơ hồ, hay đúng hơn, một ngọn lửa cháy âm ỉ, dai dẳng, đôi lúc bùng lên thiêu đốt tâm trí tôi. Đó là việc tôi vẫn dấu kỹ quá khứ tội lỗi của mình ở Việt nam. Tôi không muốn và không đủ can đảm tự thú mình là một tên giết người. Ác thay, cái nhu cầu cần được thổ lộ một ngày một lớn dần trong tôi, như cái thai đến ngày, nhất định đòi được ra khỏi bụng mẹ".
Henry vừa nói đến đây thì có chuông báo giờ đóng cửa. Gian phòng đã vắng khách, chỉ lác đác một vài bàn có người đang khẽ nói chuyện và cũng như chúng tôi, miễn cưỡng đứng dậy, tỏ ý luyến tiếc vì câu chuyện bỏ dở.
Trước khi về phòng, Henry nắm chặt tay tôi hồi lâu:
"Xin lỗi vì hôm nay chắc tôi làm ông mệt vì phải nghe nhiều như thế, mặc dù chưa hét những gì tôi muốn nói. Nếu có thể, mai ông cho phép tôi kể nốt phần còn lại". Rồi ông ta gõ chiếc chân gỗ xuống sàn nhà, tập tễnh đi về phía chiếc thang máy với những chấm đèn khi xanh khi đỏ.
Sáng hôm sau tôi phải theo đoàn về Matxcơva dự hội nghị năm ngày. Trở lại Lêningrát, ông lão trực khách sạn vốn ưa chuyện, vừa thấy tôi đã nói ngay:
"Ồ, tiếc quá, giá biết hôm nay các ông về, tôi đã báo ông Henry ráng chờ thêm chút nữa. Cái ông người Mỹ chân gỗ, có nét mặt buồn buồn ấy mà, ông nhớ chứ? Ngay sáng các ông đi, ông ấy đến tìm tôi hỏi thăm về ông. Nghe tôi báo các ông vừa đi Matxcơva không hẹn cụ thể ngày về, ông ấy buồn lắm. Chắc có chuyện quan trọng muốn nói với ông. Ngày tiếp theo, mấy người bạn Mỹ cùng đi với ông ta đáp máy bay đi Talin, nghe đâu họ định tham quan hết một loạt các thành phố lớn ven bờ Ban-tích cơ đấy. Chà, mùa này ở đấy thì tuyệt. Ông đã bao giờ tới đấy chưa?"
Rồi ông cẩn thận đeo kính, rút ở ngăn bàn ra một chiếc phong bì màu nhạt đưa cho tôi, không quên mỉm cười, thậm chí còn hơi cúi người về phía trước:
"Hôm qua, trước lúc lên đường, ông ta có nhờ tôi chuyển giùm ông cái này".
Tôi cảm ơn rồi lên thang máy về phòng. Vẫn để nguyên cả quần áo, tôi ngồi xuống bàn, mở thư đọc.
"Thưa ông,
Thế là tôi đã nói hết, hay ít ra gần hết câu chuyện của tôi cho ông nghe. Bây giờ quả lòng tôi nhẹ nhõm hơn nhiều. Tiếc là trước khi lên đường về Mỹ, tôi không được gặp ông lần nữa để kể nốt câu chuyên, và nếu có thể, nhờ ông một việc nhỏ. Đó là việc giúp tôi giải quyết bức ảnh kia. Phải nói rằng ngay từ lúc mới gặp ông, tôi đã có ý định xin được chụp chung một bức ảnh thân mật với ông, và tôi sẽ giữ nó làm kỷ niệm, còn bức ảnh kia, tôi sẽ tặng ông, hay nhờ ông giữ hộ, cũng gọi là để kỷ niệm chúng ta đã quen nhau.
Bây giờ trở về nước, tuy không được chụp ảnh cùng ông, nhưng lòng tôi thanh thản hơn, và không hiểu sao tôi vẫn nghĩ là ông tin tôi, thông cảm hoặc thậm chí đã tha lỗi cho tôi. Tôi biết người Việt Nam các ông luôn là nạn nhân của đủ loại xâm lược, áp bức, do vậy các ông phải luôn cảnh giác, cứng rắn để chiến đấu tự bảo vệ mình. Nhưng các ông cũng là những người có trái tim biết tha thứ và giàu lòng độ lượng. Lịch sử dân tộc các ông đã chứng minh điều đó. Một phần do tin như thế nên tôi mới mạnh dạn nói chuyện với ông. Còn bức ảnh, lúc này nghĩ lại, tôi quyết định vẫn trao cho ông, nhưng với một ý nghĩa hoàn toàn khác. Không phải tôi sợ giữ nó trong người, mong ông đừng hiểu nhầm. Tôi muốn sử dụng nó vào việc khác có ích hơn, cho các ông và cả cho tôi. Ông hãy mang tấm ảnh này trưng bày ở viện bảo tàng chống tội ác chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam. Tôi sẽ sẵn sàng chịu đựng tất cả, miễn sao cái việc tôi đã làm sẽ không còn lặp lại, bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào.
Thưa ông, có lẽ điều cuối cùng tôi muốn tâm sự thêm với ông, là việc tôi vẫn nuôi hy vọng một ngày nào đó có thể tôi sẽ được trở lại Việt Nam, tất nhiên với tư cách một người bạn, một người khách đến xin lỗi chủ nhà vì việc làm xấu ngày xưa của mình. Lúc ấy thế nào tôi cũng sẽ tìm đến chỗ tôi đã giết con bé. Còn bây giờ, để cái ngày ấy chóng đến, tôi lại sẽ về Mỹ, làm tiếp công việc của mình ở giai đoạn sau Việt Nam này, tức là tích cực tham gia các phong trào quần chúng, đấu tranh bắt chính phủ chúng tôi phải góp phần hàn gắn những đỏ vỡ do chính mình gây nên ở Việt nam, đồng thời vạch trần những luận điệu tuyên truyền, nói xấu đất nước các ông, mà rất tiếc hiện nay một số giới nhất định ở Mỹ và nhiều nơi khác đang cố làm ầm ĩ.
Kính chào ông,
Henry Clark".
T.B.T Thành phố Hồ Chí Minh, 1979.
Một vấn đề nguyên tắc Người viết: Thái Bá Tân 02/07/2009
Truyện ngắn. Thái Bá Tân
Đến Quảng Ninh lần này, gặp dịp, tôi được bố trí đi X. với đoàn cán bộ chỉ đạo sản xuất của một xí nghiệp hải sản. X. là hòn đảo lớn nằm xa ngoài biển, cách thị xã Hồng Gai hơn một trăm ki-lô-mét. Ở biển thế là xa, vả lại khu vực này thường sóng dữ nên nói chung ra được đấy không dễ, nhất là với những người không thật sự cần thiết như cánh nhà văn, nhà báo chúng tôi.
Tàu xuất phát từ sáng sớm. Thời tiết thật tuyệt. Con tàu chín mươi mã lực tuy nhỏ nhưng khá chắc, nhẹ nhàng lướt trên mặt nước trong xanh gần như tĩnh lặng. Buổi sáng vịnh Hạ Long có vẻ đẹp kì lạ, vừa thơ mộng, huyền bí, vừa như có cái gì nhí nhảnh, trong sáng. Lần đầu tiên trong đời tôi được thấy mặt trời mọc trên biển. Lúc đầu là một vệt sáng, mấy phút sau đã nhú lên hình chiếc bánh mì dài màu đỏ rực. Tàu vòng qua một ngọn núi đá, khi tới đầu bên kia thì chiếc bánh mì đó đã là chiếc mâm khổng lồ được nung đỏ, và vì bị che bởi một màng mỏng sương mù chưa tan, nên có thể ngắm nhìn nó rất lâu mà không chói mắt.
Cùng đi với tôi từ Hà Nội xuống còn có anh nhà báo trẻ. Lần đầu đi biển, lại được chứng kiến một cảnh đẹp như thế, anh ta không ngớt thốt lên những câu thán phục, chốc chốc quay sang hỏi người lái tàu điều gì đó. Người lái tàu, một ông già vui tính, sẵn sàng giải đáp mọi thắc mắc của anh. Thực ra về biển, tôi cũng chẳng hiểu biết gì hơn, nhưng do không muốn tỏ ra ngờ nghệch, tôi chỉ lặng lẽ quan sát và lắng nghe.
Qua Quan Lạn, anh nhà báo chỉ những chiếc cọc đóng thành vòng tròn rộng trên một chỗ nước nông, hỏi cái gì. Người lái tàu giải thích đó là cách dân chài bắt sam. Sam biển vùng này nhiều, thường bằng chiếc đĩa to, nếu biết chế biến sẽ là món ăn vừa rẻ lại vừa ngon. Một đặc điểm khá kì lạ của giống này là bao giờ chúng cũng đi có đôi, một đực, một cái và thường dính vào nhau. Người ta bắt chúng từng đôi, bán chúng từng đôi, và làm thịt chúng để ăn cũng từng đôi, thịt con này trộn lẫn thịt con kia. Ít khi gặp riêng từng con, có gặp cũng không ai bắt vì cho đấy là điềm gở.
- Tuyệt! Lãng mạn quá! - anh kia kêu lên hồn nhiên. - Nếu biết làm thơ, tôi sẽ viết ngay một trường ca lâm li về những con sam kì diệu này. Thế nào cũng phải mua một đôi mang về Hà Nội.
- Để treo lên tường làm biểu tượng tình yêu, hay cho cả đôi uyên ương ấy vào xoong? - Tôi đùa, làm anh chàng phần nào cụt hứng.
Tàu chúng tôi cứ thế đi, đi mãi, chầm chậm vượt hết đảo này đến đảo khác. Tôi có cảm giác như vịnh Hạ Long là vô cùng vô tận, và chúng tôi sẽ không bao giờ thoát ra khỏi cái bát đồ trận rối rắm nhưng đẹp mê hồn này. Thỉnh thoảng xuất hiện những chiếc thuyền con nép vào chân núi đá hoặc đứng chơi vơi giữa vịnh. Tôi ngạc nhiên khi thấy trên thuyền có trẻ con, rất nhiều trẻ con.
- Mỗi thuyền là một gia đình đấy, - ông già lái tàu nói. - Trẻ con sinh ra, lớn lên ngay trên mặt nước, có khi cả năm không đặt chân lên bờ.
- Ở đất liền họ không có nhà sao?
- Phần lớn là không.
- Họ sinh sống bằng cách nào?
- Bằng cách dân chài vẫn sinh sống. Đánh cá đổi gạo. Không đổi được gạo thì ăn cá trừ bữa. Không có cá thì nhịn.
- Và trẻ con không đi học?
Ông già không nói gì, chắc cho câu hỏi ấy của tôi là thừa và ngốc nghếch.
- Sao họ không làm nhà ở đất liền, hàng ngày ra biển đánh cá rồi quay về như những nơi khác?
- Cái ấy thì anh phải hỏi họ mới biết được. Đó là một điều khó hiểu, cũng như người ta không hiểu tại sao có dân tộc miền núi thích nay đây mai đó, mỗi năm làm nhà mới mấy lần.
- Dù sao sống thế cũng rất lãng mạn, - anh nhà báo lên tiếng.
- Vâng, nhưng không đến mức anh tưởng đâu. - Ông già trầm ngâm đáp. - Tháng trước có hai vợ chồng cãi nhau, rồi đánh nhau và cùng ngã xuống nước. Chính mắt tôi nhìn thấy. Còn năm kia thì một đứa bé năm tuổi đêm dậy đi đái, rơi xuống biển, thuyền cứ trôi mà bố mẹ ngủ không hay.
Chúng tôi không ai nói gì thêm. Một lúc sau anh nhà báo hỏi:
- Đi X. có hay gặp tai nạn không bác?
Đó là câu không tế nhị mà khi đi biển người ta không hỏi. Tuy nhiên ông già lái tàu vẫn vui vẻ đáp:
- Ít thôi, nhưng cũng có. Gần đây nhất là lần đắm tàu năm ngoái. Cũng của công ty chúng tôi. Cả tàu sáu người chỉ một người sống sót. Anh ta kia, - ông hất hàm chỉ một người đang ngủ trên chiếc gường nhỏ ở buồng lái, mặt úp vào tường - Một mình giữa biển ba ngày ba đêm. May trời ấm, gió thuận nên mới dạt được vào bờ...
- Ba ngày ba đêm? - anh nhà báo thốt lên. - Kinh khủng thật... Nhưng vì sao tàu lại đắm ạ?
- Vì gần tới X. thì thời tiết bất ngờ thay đổi, biển nổi sóng tới cấp bảy, cấp tám, mà tàu quá cũ. Cũng một chiếc chín mươi mã lực như tàu này. Anh ta bơi giỏi, lại khỏe nên mới sống sót. Anh ta là trưởng trạm chế biến thủy sản ở X., vừa rồi về đất liền họp nay trở lại đảo. Biển ấy mà, anh bạn trẻ ạ, không phải bao giờ cũng đẹp và êm ả thế này đâu. Chốc nữa anh sẽ thấy. Tôi sợ hôm nay trời trở chứng và có thể chúng ta phải nằm lại đâu đó chờ vài ngày không chừng.
Đúng như ông nói, vừa tới cửa vịnh, tàu chúng tôi gặp sóng lớn không dám mạo hiểm đi tiếp, đành quay lại trú ở đảo Ngọc Vừng.
Đêm hôm ấy mọi người lên đảo ngủ.
Ngọc Vừng cũng có một trạm chế biến thủy sản. Ở lại tàu chỉ có ông già lái tàu, trưởng trạm X., - người sống sót sau ba ngày ba đêm một mình giữa biển - và tôi. Tôi xin ở lại tàu không phải không có chủ ý.
* Trưởng trạm X. đã ngoài bốn mươi, người bé và gầy, có khuôn mặt đen đanh lại vì sóng và gió biển. Anh ít nói, đôi mắt bé lại ít khi mở to nên dễ gây cảm giác khó gần.
Ăn xong, ông già lái tàu chui xuống khoang ngủ ngay, có lẽ vì mệt. Còn tôi và anh trưởng trạm thì ra ngồi trên cột neo trước mũi tàu.
Đêm tháng tư, trời nhiều sao. Ngoài biển sao to và sáng hơn ở đất liền.
Chúng tôi nói chuyện với nhau về thời tiết, về vụ cá năm nay, về Hà Nội và về tình hình biên giới. Nói chung câu chuyện rời rạc, chủ yếu gồm những câu hỏi và những câu trả lời ngắn gọn.
- Anh có thể cho biết bằng cách nào anh thoát chết lần đắm tầu năm ngoái không? - Cuối cùng tôi hỏi điều tôi quan tâm. - Gặp may thôi. Đúng giữa lúc sóng dữ nhất thì máy hỏng, con tàu nghiêng ngả, nước ập vào rồi chìm. Mọi người nằm dưới khoang, còn tôi ở buồng lái nên chui ra kịp. Đi biển bao giờ tôi cũng ngồi hoặc nằm ở buồng lái. Sau một hồi vật lộn với sóng, bị trôi dạt khá xa, tình cờ tôi vớ được chiếc phao xăm ô tô. Thế là thoát, nhưng phải lênh đênh trên biển ba ngày ba đêm như anh biết.
- Chắc anh đói và mệt lắm?
- Tất nhiên, lại sợ nữa, sợ gió đổi chiều đưa tôi xa bờ hơn. Cũng may lần ấy tôi nhặt được một con cá rất to không hiểu vì sao bị chết. Đoán có thể còn lâu mới tới bờ, tôi ăn dè sẻn từng tí một, ăn hết chẳng sót cái gì, kể cả phần ruột đắng. Đỡ đói đã đành, nhưng điều quan trọng nhất là đỡ khát. Khát mới thực sự đáng sợ.
- Nghĩa là lần ấy chỉ mình anh sống sót? - tôi hỏi mặc dù ban ngày ông già lái tàu đã cho biết điều đó.
- Vâng, lúc đầu tôi tưởng có thể người khác cũng vớ được phao hay mảnh ván như tôi, nhưng sau hóa ra chỉ mình tôi sống sót.
- Khi tàu chìm, anh không thấy ai xung quanh à?
- Không. Sóng to quá... - anh đáp rồi im lặng như đắn đo điều gì, một lúc sau mới nói tiếp: - Lúc tàu chìm thì không, nhưng khi vớ được phao, tôi nhìn thấy một người đang vật lộn với sóng cách tôi khoảng một trăm mét. Đó là ông trưởng phòng tổ chức cơ quan tôi. Chẳng hiểu lần ấy ông ta ra đảo làm gì để gặp tai nạn thế này. Ông ta cũng là người bơi giỏi, nhưng không có cái may gặp phao như tôi. Lúc đầu tôi tưởng ai đó trong đám thủy thủ, liền vội bơi đến cứu, nhưng khi nhận ra ông ta thì tôi dừng lại. Suy nghĩ một lát, tôi quyết định coi như không nhìn thấy...
Tôi sửng sốt nhìn con người đang ngồi bên, nói câu kia một cách đơn giản và thẳng thừng như vậy.
- Anh ngạc nhiên muốn biết vì sao chứ gì? Tôi sẽ nói. Từ trước tới nay tôi không nói điều này với ai, không phải sợ mà vì không muốn. Nhưng hôm nay tôi nói. Đừng nghĩ tôi thích hoặc tin anh. Không, xin lỗi, nói chung tôi không cảm tình lắm với dân làng văn, làng báo các anh. Vì sao thì các anh tự biết. Dân gian đã nói điều đó. Nhưng thôi, việc các anh các anh làm, việc tôi tôi làm.
Quay lại chuyện ông trưởng phòng kia. Đúng, tôi đã không cứu ông ta, vì ông ra không đáng để tôi trả giá. Cái phao to và chắc thật, có thể cứu sống cả hai, nhưng cũng có thể vì thêm ông ta, tôi sẽ chết. Xin anh đừng quên điều đó và tạm thời không ngắt lời tôi. Tôi sẽ giải thích tất cả. Ông ta, người ngẫu nhiên cũng rơi vào hoàn cảnh hiểm nghèo như tôi, là một người xấu, không những không giúp ích gì cho xã hội mà còn ngược lại. Cái ghế trưởng phòng ông ta đạt được bằng thủ đoạn, nịnh hót và lừa đảo. Làm việc với nhau hai mươi năm nay, tôi lạ gì hắn.
Cuộc sống ở đảo rất vất vả, buồn chán, điều ấy chắc anh biết. Tất nhiên không ai thích ra đảo nếu không bị bắt buộc. Một số người, để được ở đất liền, đã tìm cách đút tiền cho hắn. Hắn nhận, nhưng khôn khéo và tinh vi nên chẳng ai làm được gì. Phần vì hắn phụ trách tổ chức, phần không có bằng chứng. Để thế chỗ kẻ hối lộ cho hắn, hắn cử những người không ăn cánh ra đảo, hoặc bắt các cô gái từ lâu đến hạn được về đất liền phải ở lại thêm một thời gian nữa. Bao lâu có trời mới biết - một năm, hai năm, năm năm, có thể suốt đời. Phần lớn người ở ngoài đảo là các cô gái. Hơn ai hết họ phải trở về để lấy chồng. Bao giờ hắn cũng tìm được lí lẽ không ai cãi được. Các cô ấy đòi về à? Hắn sẽ đem lí tưởng và nghĩa vụ người đoàn viên ra nói. Anh suy bì người này người nọ? Hắn viện đến tinh thần trách nhiệm, đến yêu cầu cấp bách của công tác, và nhất định thế nào hắn cũng nói rằng anh là người không thể thay thế được. Về mặt xảo quyệt có lẽ ít ai bằng hắn.
Vâng, hắn là người thế đấy. Ai cũng biết nhưng ai cũng sợ, không muốn gây sự với hắn. Còn tôi thì không. Tôi đã thẳng thắn đấu tranh với hắn trong một cuộc họp chi bộ. Rồi sau anh biết thế nào không? Trước tổ chức Đảng, hắn "chân thành" nhận "có một vài khuyết điểm trong công tác" và hứa sửa chữa. Có điều mấy tháng sau tôi có quyết định ra đảo phụ trách cái trạm chế biến thủy sản mà ta sắp tới, mặc dù lúc ấy tôi đang theo học hàm thụ năm cuối trường Kinh tế. Cả lần này hắn cũng tìm được những lí do mới nghe có vẻ hợp lí... Vậy thì tôi hỏi anh, vì cớ gì tôi phải liều mạng sống của mình để cứu một con người như hắn, một người mà tôi biết sự tồn tại chỉ mang lại tai họa cho người khác, dưới dạng này hoặc dạng nọ?
Anh trưởng trạm im lặng, nhưng chắc không phải chờ tôi trả lời.
- Anh không bao giờ thấy lương tâm cắn rứt sao?
- Hoàn toàn không. Ngược lại, nếu cứu hắn sống, lương tâm tôi mới cắn rứt.
Chúng tôi im lặng một lúc khá lâu.
- Có thể những điều anh nói là đúng, - cuối cùng tôi lên tiếng, - nhưng về mặt nhân đạo, giữa con người với con người, thì dù sao...
- Vâng, tôi hiểu anh muốn nói gì, - anh trưởng trạm xen ngang. - Tuy nhiên, xin anh chớ quên rằng tôi chỉ không cứu chứ không giết hắn. Hai cái ấy hoàn toàn khác nhau. Vả lại tôi không cứu không phải vì muốn trả thù hoặc lo cho tính mạng mình lúc đó. Vấn đề ở đây lớn hơn nhiều. Một vấn đề có tính nguyên tắc.
Nói đoạn anh đứng dậy, ngước nhìn bầu trời chi chít sao rồi ngáp một cái thật dài. Sau đó cả hai chúng tôi cùng lên giường ngủ.
Nằm trong chăn, chúng tôi nói chuyện thêm chốc nữa. Nhờ đó tôi biết được rằng trưởng phòng tổ chức công ty bây giờ là người khác và công việc tốt hơn xưa. Một số cô gái được chuyển vào đất liền, nhưng phần lớn còn ở ngoài ấy. Đơn giản vì một lúc không thể tìm được chừng ấy người thay thế. Còn anh trưởng trạm đang nằm bên tôi thì năm ngoái được tổ chức cho về đất liền học nốt chương trình đại học hàm thụ, mà thời hạn biệt phái công tác cũng đã hết, nhưng anh tình nguyện ở lại đảo thêm một thời gian nữa.
- Lúc này mà bỏ các cô ấy một mình ngoài kia để chuồn về thị xã thì còn mặt mũi nào. - Anh lẩm bẩm nói, trở lưng quay mặt vào tường và ngủ thiếp.
Còn tôi nằm thao thức mãi. Lơ đãng nhìn lên mảnh trời con hình vuông, bàng bạc trên boong tàu, tôi miên man suy nghĩ như muốn tìm trên đó ý nghĩa về cái lô-gích của "vấn đề nguyên tắc" anh trưởng trạm vừa nói, về việc anh có thể nhẫn tâm bỏ mặc một đồng nghiệp chết đuối giữa biển, nhưng không nỡ bỏ các cô gái khỏe mạnh ở lại trên đảo để về đất liền. Sáng hôm sau biển lặng hơn. Chúng tôi lại đi tiếp.
Vừa ra tới cửa vịnh, anh nhà báo đã say sóng phải nằm yên một chỗ. Anh trưởng trạm vẫn ngủ trên chiếc gường nhỏ ở buồng lái, hai tay ôm đầu như trẻ con. Ông già lái tàu im lặng đứng bên tay lái để điểu khiển con tàu tránh những đợt sóng lớn đang chồm lên giận dữ.
Không hiểu sao một ý nghĩ lạ lùng và rất buồn cười cứ vương vấn mãi trong đầu tôi, ý nghĩ rằng nếu không may lần này gặp tai nạn, không biết con người nhỏ bé có nước da ngăm đen đang ngủ kia có cứu tôi không, tôi, một đại diện của giới văn nghệ mà anh "không thích lắm".
Quảng Ninh, 1984
Con chó hoang Người viết: Thái Bá Tân 02/07/2009
Truyện ngắn. Thái Bá Tân
Con chó nhỏ và đứa bé gái đang chơi với nhau trên hè phố tráng xi măng loang lổ. Cạnh đấy là một chợ cóc đông người nhưng chẳng ai để ý đến chúng. Có lẽ hôm nào chúng cũng ở đây nên thành quen. Con chó nhỏ, nửa Nhật nửa ta, trước màu trắng, giờ chẳng ra màu gì vì quá bẩn. Hơn thế, nó lại có hai vết ghẻ lớn, ở hông phải và đỉnh đầu. Nó là con chó hoang.
Còn đứa bé, nếu dùng được từ này với người, thì cũng có thể gọi là đứa bé hoang hay đại loại như thế. Nó khoảng năm sáu tuổi, không bị ghẻ nhưng cũng bẩn và nhếch nhác như bạn nó là con chó. Nó có khuôn mặt bầu bĩnh, da ngăm ngăm, có thể gọi là xinh nếu được rửa ráy sạch sẽ. Tóc nó rối bù do lâu không gội nên thỉnh thoảng nó đưa tay gãi rất mạnh. Nó mặc bộ quần áo hoa vải phin mỏng, hai ống tay cứng đờ và đen xịt vì luôn được dùng để quệt nước mũi. Chừng ấy tuổi, nó đã là đứa trẻ bụi đời. Cũng có thể không, đơn giản ai đó hàng ngày đưa nó đến đây, mẹ nó chẳng hạn, rồi bỏ đấy đi kiếm sống trong chợ - buôn bán vặt, bưng bê vặt, hay ăn cắp vặt. Những người như thế khó có thể làm khác.
Con chó vừa ăn xong. Nó đã gặm trụi một cục xương lớn tha từ chợ về. Con bé nhìn nó gặm xương mà không có ý thèm. Nghĩa là chưa đói lắm. Lúc này chúng đang chơi với nhau có vẻ rất vui.
Con bé ôm một con búp bê được làm bằng vải vụn nhiều mầu mà người ta thường thấy các bà già xách từng dây rao bán trong các hẻm phố. Con búp bê bị cụt nửa cánh tay, một bên vai rách lòi bông. Nó đang chơi trò ru con, ra chiều âu yếm lắm. Còn ư ử hát. Con chó thì ngồi cạnh, ngoẹo đầu nhìn, thỉnh thoảng ngoe nguẩy đuôi chẳng hiểu muốn gì. A, thì ra nó chờ đến lượt mình. Thấy "con" đã ngủ, con bé nhẹ nhàng đặt nó xuống đất, phủ một mảnh báo rách làm chăn, rồi giả bộ tất bật quay sang làm việc khác như một bà mẹ thực thụ.
Con chó chỉ chờ có thế. Nó rón rén lại gần rồi ngoạm con búp bê kéo đi. Nó dùng chân lật lật con búp bê, chạy đi chạy lại xung quanh, đuôi vẫy tít, rồi khe khẽ sủa như đang trò chuyện. Con búp bê không đứng mà nằm ngửa, cánh tay gãy giơ lên trời. Nó thờ ơ im lặng. Cũng có thể nó đang nói chuyện với các bạn nó mà người ngoài không nghe thấy. Con bé vẫn giả vờ bận công việc "nội trợ". Nhưng nó nghe hết, biết hết. Có điều nó phải chờ đến lúc con chó xong trò "rủ búp bê trốn nhà đi chơi" mới quay lại. Luật chơi là vậy. Lúc ấy nó sẽ giả bộ tức giận, hốt hoảng "gọi con", mắng bạn của nó. Và con chó, dù miễn cưỡng, lại ngoan ngoãn kéo lê con búp bê về chỗ cũ. Con bé bế "con" vào lòng, vừa giả vờ mắng yêu vừa ru ngủ, cuối cùng đặt nó xuống mặt hè phố đầy bụi bẩn và "đắp chăn" bằng mảnh báo rách như cũ. Sau đó lần nữa nó quay mặt để con chó lại lôi búp bê đi.
Cứ thế trò chơi đơn điệu này được lặp đi lặp lại mấy lần cho đến lúc cả hai thấy chán, bỏ con búp bê vô tri giác sang một bên để ngồi cạnh nhau, thân tình như hai chị em ruột. Hình như hai đứa đang tâm sự điều gì. Con bé vừa mấp máy môi vừa bắt chấy cho con chó. Nó còn dùng những móng tay dài cáu ghét gãi gãi lên hai vết ghẻ của nó. Con chó tựa người vào chân bạn với vẻ thỏa mãn lười biếng, thỉnh thoảng lại "gâu" một tiếng góp chuyện. Nó thè cái lưỡi ươn ướt đỏ hỏn liếm tay con bé. Khi con bé cúi xuống nựng, nó liếm cả lên mặt. Những chỗ chó liếm trở nên sạch hơn, như được lau bằng khăn ướt...
Lúc ấy ngày mới ngả sang chiều, mặt trời mùa đông chiếu sáng một cách ấm áp, dễ chịu. Cả hai đứa, một con chó hoang và một đứa bé hoang, cùng thiu thiu rồi thiếp đi lúc nào không biết. Một tay con bé ôm con búp bê bằng giẻ vụn, tay kia để lên lưng con chó ghẻ.
Như mọi bé gái khác cùng tuổi, đứa bé hoang này khi ngủ cũng có những giấc mơ đẹp. Trong mơ, tất cả trẻ con đều hạnh phúc như nhau.
Lần này nó mơ thấy một bà tiên tuyệt đẹp bay đến với nó bằng đôi cánh mỏng như cánh chuồn chuồn. Đến nơi, đôi cánh khép lại sau lưng thành bộ áo dài lấp lánh như được gắn hàng nghìn mảnh gương nhỏ. Bà tiên đưa nó bay một vòng khắp thế giới, đến tận Nhà hàng Thủy Tạ ở Bờ Hồ, nơi nó được ăn một lúc hai mươi que kem có màu khác nhau. Bỗng nhớ tới con chó hoang, nó đòi bà đưa về. Họ lại bay một vòng nữa khắp thể giới để quay về chỗ cũ, nơi con chó đang hậm hực chờ họ.
Con chó không thèm ăn que kem tuyệt ngon bạn nó mang về. Nó dỗi vì không được cho đi chơi cùng. Bà tiên mỉm cười. Để bù lại thiệt thòi ấy, bà vuốt nhẹ tay lên người nó. Ngay lập tức cả hai vết ghẻ lớn biến mất. Bà hỏi con bé muốn gì để bà cho nhưng nó chỉ cười, lắc đầu. Với nó chừng ấy đã quá đủ.
Nhìn thấy con búp bê bằng giẻ nó vẫn ôm khư khư trên tay, bà tiên liền đưa nó vào cửa hàng đồ chơi bên cạnh. Cửa hàng này lớn và đẹp lắm. Đầy ắp búp bê và thú nhồi bông đủ loại. Trước đó nó và con chó nhiều lần đứng ngắm từ xa chứ chẳng dám đặt chân vào. Bà bảo thích cái gì cứ nói nhưng nó chẳng dám. Cuối cùng, bà chọn mua cho nó một con búp bê to bằng người thật, tóc vàng, váy hồng, biết chớp mắt, biết khóc, biết nói chuyện như người thật. Còn con chó thì chẳng được bà cho gì. Nhưng nó không lấy thế làm buồn...
* Khi con bé đang ngủ trên vỉa hè cạnh con chó hoang thì chính từ cái của hàng sang trọng ấy có một ông già và đứa cháu gái khoảng mười tuổi đi ra, tay ôm một bó lớn đồ chơi. Cô bé chợt đứng lại nói gì đấy với ông nó. Ông già mỉm cười gật đầu. Nó vội chạy lại, nhẹ nhàng đặt một con chó nhồi bông rất đẹp cạnh đứa bé tội nghiệp lúc ấy đang mỉm cười trong mơ.
Lát sau, có gã đàn ông mặt mũi sần sùi đi ngang, chốc chốc lại ngoác rộng mồm ngáp. Thấy món đồ chơi đắt tiền bên cạnh một đứa bé đang ngủ và con chó ghẻ, hắn bỗng đứng khựng lại, lấm lét nhìn trước ngó sau rồi cúi xuống cầm lên, rảo bước đi thẳng. Con chó ghẻ thấy hết, biết hết. Nhưng nó vẫn nằm im như không có gì xẩy ra. Trường hợp khác thì nó đã nhảy bổ lên mà cào cắn thằng ăn cắp kia, dẫu nó chỉ là con chó hoang bé xíu. Chắc nó đã kịp hiểu rằng con chó bông kia sẽ là đối thủ đáng gờm trong việc tranh dành tình yêu của con bé bạn nó. Một đứa bạn tốt gớm.
Con bé tỉnh dậy, ngạc nhiên vì không thấy con búp bê bà tiên cho. Nhưng rồi nó cũng hiểu đó chỉ là giấc mơ. Đây không phải lần đầu nó nhận được nhiều thứ trong mơ mà lúc dậy chẳng thấy gì. Con chó ghẻ cũng ỉm chuyện thằng ăn cắp có bộ mặt sần sùi và hay ngáp vặt. Tuy nhiên, hình như nó cảm thấy xấu hổ về thái độ không trung thực của mình, nên đáng lẽ phải rúc vào lòng bạn như mọi lần ngủ dậy trước đấy, bây giờ nó quay mặt, lơ đãng nhìn đâu đó.
Lát sau hai đứa lại chơi cái trò nhàm chán của chúng với con búp bê cụt tay bằng giẻ. Có điều lần này không còn thích thú như trước. Con chó vẫn chưa hết băn khoăn về sự phản bội của nó. Đứa bé thì còn tiếc món quà của bà tiên. Nó cũng buồn vì thấy con chó chưa khỏi ghẻ. Tuy nhiên chúng vẫn tiếp tục chơi, bình thường và vô hại. Chúng không biết một tai họa lớn đang đến gần...
* Lúc ấy khoảng bốn, năm giờ chiều. Hai đứa chơi chán và đang ngồi tán gẫu với nhau theo cách riêng của chúng. Nắng mùa đông vẫn còn rực rỡ. Mọi việc diễn ra theo đúng trình tự và qui luật thường ngày. Phố đông hơn vì đang là giờ tan tầm, nhưng không vì thế mà người ta chú ý hơn tới chúng. Càng tốt. Con bé đang gãi chỗ ghẻ cho con chó, con chó thì nhìn nó vẻ biết ơn, đôi mắt ươn ướt.
Bỗng một chiếc xe hòm từ đâu phóng tới, đỗ xịch phía bên kia đường. Hai gã thanh niên nhảy xuống, một đứa cầm gậy, một đứa cầm chiếc vợt lưới như vợt trẻ con bắt bướm, có điều to hơn nhiều. Trong xe có tiếng rên ư ử như tiếng chó. Nhiều tiếng một lúc.
"Ta làm thật gọn nhé!'" Một đứa nói, rồi cả hai tiến lại gần đứa bé và con chó. Con chó tinh lắm. Nó lờ mờ đoán có chuyện chẳng lành, liền vùng dậy định bỏ chạy, nhưng con bé đã kịp giữ chặt nó. Vì thế mà hai gã kia dễ dàng giật lấy con chó rồi ném vào thùng xe cùng những con chó hoang khác. Chính quyền đang có chủ trương giảm bớt, nếu triệt hết càng tốt, số lượng chó hoang đông đúc trong thành phố. Chúng có vẻ hài lòng, vì thêm một con, chúng được thưởng thêm một số tiền. Rồi chúng rồ máy cho xe đi tiếp. Bầy chó lại tru lên, trong đó chắn chắn có tiếng tru không nhỏ của con chó ghẻ.
Còn con bé tội nghiệp thì mãi lúc sau mới hiểu hết tai họa vừa bất ngờ đổ xuống đầu nó. Người ta đã bắt mang đi và có thể sẽ giết chết con chó ghẻ, người bạn duy nhất của nó. Thế mà lúc ấy nó lại ngu ngốc giữ chặt con chó để người ta bắt. Nếu không, chắc nó đã thoát.
Con bé lặng lẽ khóc. Hai dòng nước mắt chảy trên má. Trước đây mỗi lần nó khóc, con chó liếm nước mắt cho nó. Bây giờ nó còn lại một mình. Từ nay sẽ không có ai chơi, trò chuyện cùng, và quan trọng nhất là vào chợ tha nhặt những mẩu thức ăn thừa cho nó nữa. Mà nó thì đã bắt đầu đói. Vì còn bé, nó chưa có khái niệm thế nào là những con chó hoang và những đứa trẻ hoang như nó. Thế cũng may, nếu không, nó sẽ lo người ta có thể bắt và giết nó như con chó bạn nó.
Khi không còn nước mắt nữa để khóc, nó cúi xuống bắt chấy cho con búp bê cụt tay bằng giẻ rách. Như mọi ngày, mọi người vẫn thản nhiên đi ngang, và vẫn không ai mảy may để ý đến nó.
Hà Nội, 30. 3. 2001
Chiếc khăn Người viết: Thái Bá Tân 24/06/2009
Truyện ngắn. Thái Bá Tân
Nhà ông Phán Lại có cô con gái xinh người đẹp nết, mười bảy tuổi, cái tuổi đầy mơ mộng pha chút lo sợ thầm kín rất đặc trưng cho lứa tuổi ấy. Cô đang yêu, hay cũng gần như thế.
Ông làm thông phán ở thành phố mới dọn về làng, do vậy người ta mới gọi là Phán Lại. Ông vốn người bộc trực, liêm khiết (chắc vì thế mà thành buồn chán rồi từ quan), hồ hởi chào đón cách mạng và sự ra đời của chế độ mới. Dù chẳng còn trẻ, những ngày ấy người ta thấy ông hăng hái tham gia các hoạt động đoàn thể, và là một trong những người đi đầu trong đoàn biểu tình cướp phá Đồn Thủy rồi kéo về Nhà Hát Lớn cuối tháng Tám năm 1945. Khi Pháp trở lại, để tỏ thái độ bất hơp tác, ông đưa con gái, cô Nguyệt Tú, về sống ở làng này, vốn là quê tổ của ông, cách Hà Nội tám mươi cây số về phía Tây, và được xem là khu an toàn kháng chiến.
Cô Nguyệt Tú đã học hết lớp chót trường nữ sinh trung học, khá giỏi tiếng Pháp, bằng chứng là chiều chiều cô ngồi bên cửa sổ đọc tiểu thuyết của các nhà văn tình cảm phương Tây rồi thút thít khóc một mình. Thậm chí cô còn theo học cả đàn pianô như nhiều tiểu thư thị thành thời ấy, nhưng sau do gia đình sa sút đành bỏ. Cô là người nhút nhát hiếm thấy, lại mau nước mắt, và mỗi lần phải nói chuyện trực tiếp với ai, nhất là đàn ông, khuôn mặt xinh đẹp, trắng nhợt của cô lại đỏ rực, đỏ đến cả hai tai. Cô sống khép mình, không có chủ kiến mà dường như cũng chẳng muốn có. Rõ ràng cô sinh ra để được che chở chứ chẳng phải che chở người khác. Cô thực sự sợ hãi khi thấy các cô gái làng thắt quần móng lợn suốt ngày lăn lê bò toài trên sườn đồi, hò hét đâm chém các hình nộm, lại cười rất to và nói những lời cô bịt tai không dám nghe. Các cô kia thì tất nhiên chẳng coi cô ra gì, một con bé tiểu thư thành phố thuộc "giai cấp ăn bám", một phần tử "vô tích sự" không đáng cho họ mời tham gia hội họp và luyện tập.
Thế mà không ai ngờ, không ai biết chính cái cô ăn bám, vô tích sự ấy và đội trưởng đội du kích của họ đang yêu nhau, mà không chỉ mới hôm qua hay tuần trước.
Họ quen nhau vì anh đội trưởng du kích rất cách mạng ấy là thanh niên duy nhất có học trong làng, học xong trường huyện, con một gia đình phú nông có những ba người đang là bộ đội kháng chiến và trước đấy nhiều năm nuôi giấu cán bộ, có người bây giờ đang làm to. Thỉnh thoảng anh sang nhà ông Phán mượn sách. Cũng là điều dễ hiểu. Buồn vì không có người nói chuyện sách vở, hai người thân nhau, có hôm ngồi rất lâu. Ông thấy mến anh chàng này vì mặt mày sáng sủa, có văn hóa và ăn nói lễ phép chứ không như mấy ông bà cách mạng trẻ nông dân ông không dám khinh nhưng thực bụng chẳng mấy thích thú. Khi tủ sách của mình cạn, chính ông giới thiệu anh hỏi mượn sách của cô con, là người luôn lỉnh vào phòng đóng chặt cửa mỗi lần anh đến.
Một hôm, nhận lại cuốn sách anh trả, thờ thẫn cầm nó trên tay như ve vuốt, là việc cô thường làm một cách vô thức chẳng hiểu vì sao, cô chợt thấy ở ngay trang đầu có mảnh giấy nhỏ ghi ba chữ rất nắn nót "Anh yêu em!" Dấu chấm than được tô đậm đến mức suýt thủng tờ giấy pơ-luya mỏng.
Không khó hình dung đôi má cô lúc ấy đỏ lên như thế nào. Cô lặng người một lát, lồng ngực nhô lên hạ xuống vì thở gấp, rồi chạy ù vào giường, nằm ngửa mặt, trân trân nhìn lên trần nhà. Không thể nói lâu nay cô không cảm tình với anh, nhưng để nhận tờ giấy này thì quả cô không ngờ và chưa sẵn sàng đón nhận nó. Cô không biết bây giờ phải làm gì, phải nghĩ gì và nhất là phải có thái độ thế nào đối với anh ấy. Đặt cuốn sách lên ngực, cô mân mê tờ giấy, đọc đến hàng chục lần mấy chữ ngắn gọn, đơn giản mà kỳ diệu ấy. Trước mặt cô hiện lên khuôn mặt sáng sủa của anh với đôi mắt nghiêm nghị, làn da cháy rám vì suốt ngày chang nắng ngoài trời. Cô thấy hơi sợ đôi nghiêm nghị ấy, bây giờ cũng như những lần ít ỏi anh nói chuyện với cô, hầu như chỉ mình anh nói, còn cô thì bẽn lẽn cúi đầu. Anh nói hay, cô thích nghe anh, thích anh đến mượn sách, dù vẫn luôn tự trách và cười diễu mình vì sự thích ấy. Thích mà vẫn sợ, như sợ một cái gì đấy xa lạ chưa lý giải nổi. Anh ấy là người mạnh mẽ, là cộng sản, cách mạng, còn mình thì...
Buổi tối, cô cáo ốm không ăn cơm, rồi thiếp đi với cuốn sách cùng mảnh giấy vẫn trên ngực và môi khẽ thì thầm hai tiếng anh ấy cùng nụ cười nửa hạnh phúc nửa lo sợ mơ hồ.
Mấy ngày sau anh gửi trả một cuốn sách khác, lại kèm tờ giấy trắng với ba chữ "Anh yêu em" như trước, nhưng lần này, rất sâu phía dưới có viết thêm là nếu cô không dửng dưng với anh thì hãy để một tờ giấy trắng vào cuốn sách anh sẽ đến mượn ngày mai. Hôm sau đến nhà ông Phán mượn sách, anh không thấy tờ giấy nào kẹp trong đó. Cuốn sách cũng không được cô đưa tận tay như mọi lần, mà qua ông bố, còn cô thì được bảo khó ở đang nằm trong phòng.
Cuốn sách này, và thêm một cuốn nữa khi nhận lại, cô chợt buồn khi không thấy có tờ giấy với dòng chữ quen thuộc mà cô mong đợi. Nhưng cuối cùng, dẫu nhút nhát và rất sợ, cô cũng nói được anh ấy biết tình cảm của mình. Tình yêu còn lớn hơn cả nỗi sợ và nghi ngại. Một lần, ngồi bên cửa sổ thấy anh đang đến, cô nhanh nhẹn bước ra, dúi vào tay anh một bức thư dài viết sẵn rồi bỏ chạy.
Còn tối nay thì cô đã nhận lời ra gặp anh ngoài bờ đê sau làng. Chả là chỉ ít hôm nữa anh sẽ lên đường đi bộ đội tận chiến khu Việt Bắc, có thể một thời gian dài như anh nói.
Cô đã mất những ba ngày để khâu tặng anh một chiếc khăn mù-soa. Nó được cắt từ thân trước, chỗ che ngực, chiếc áo dài màu trắng cô mặc thời còn ở trường nữ sinh. Cô thẹn thùng với ý định kỳ cục ấy, mấy lần định thay bằng miếng vài lụa mới tinh, nhưng cuối cùng vẫn không thay. Vốn được dạy nhiều về nữ công gia chánh, cô có thể thêu rất nhiều hình đẹp trên đó, nhưng suy đi nghĩ lại, rốt cục cô chỉ thêu chữ cái tên hai người, T và H đan lồng nhau, bằng chỉ hồng, rất tinh tế và rất đẹp. Bây giờ chắc ít người tặng nhau những kỷ vật tình yêu kiểu này, nhưng thời đó là mốt của các cô gái trẻ mơ mộng tỉnh lẻ. Nhiều lần cô đã khóc khi thêu chiếc khăn đó, cũng nhiều giọt nước mắt đã rơi xuống nó, nhưng nghe nói nước mắt con gái mới lớn không mặn nên không để lại vết ố nào. Có thể vì thế mà anh ấy sẽ chẳng bao giờ biết được nó đã từng thấm nước mắt người yêu. Không biết rằng nó cũng từng nhận nhiều, rất nhiều những cái hôn của cô.
Trên đê lộng gió, hơi se lạnh. Trăng cuối tháng mảnh như chiếc lá cỏ voi bị uốn cong, nhưng trời sáng vì rất nhiều sao, những ngôi sao to, đẫm nước. Chếch phía Tây là dãy núi thấp mờ đen có hình con chó nằm phủ phục, đầu hơi ghếch lên, lơ đãng lắng nghe những lời yêu đương của đôi trai gái sắp xa nhau.
Nhưng họ nói với nhau ít lắm. Anh nói:
"Anh đi ít năm rồi về. Chờ anh nhé!"
"Vâng, em chờ", cô đáp.
Rồi anh với tay định cầm tay cô. Theo bản năng, cô né tránh, và tới lần thứ ba anh mới có được bàn tay bé nhỏ, nóng hổi của cô trong tay mình. Bàn tay run run như con chim nhỏ thảng thốt.
Bằng bàn tay kia, cô móc túi lấy ra chiếc khăn.
"Tặng đấy. Hãy giữ và nhớ đến em".
Con chim - bàn tay càng run rẩy, thảng thốt hơn.
"Cảm ơn em", anh nói đơn giản rồi nhét vào túi trên ngực.
Cô chạnh buồn vì anh không mở ra xem hoặc không nói thêm đôi câu nữa về nó. Xem gì, nói gì, chính cô cũng không biết, chỉ thấy hơi buồn.
Họ im lặng khá lâu, tay vẫn trong tay. Trăng đã chếch ngang đầu, trời sao như sà xuống thấp hơn. Ngoài đê, trong bụi duối rậm không xa chỗ họ đứng có con gì cứ tỉ tê đơn điệu.
"Em sợ lắm..."
"Em sợ gì cơ?"
"Không biết, nhưng em thấy sợ, nhất là khi không có anh ở đây".
"Em nói lạ thật đấy".
"Không, thật mà. Em sợ... Em sợ cộng sản, sợ cách mạng..."
Anh phá lên cười:
"Thế thì lại càng lạ. Anh là cộng sản, là cách mạng đây. Em thấy anh có đáng sợ không?"
"Anh thì không, nhưng người khác thì em sợ. Họ không thích những người như em. Em nghĩ có thể tốt hơn nếu em và bố quay lại vùng tạm chiếm".
"Em hiểu nhầm rồi, - anh lại cười. - Tại em không chịu tham gia các cuộc họp của bọn anh đó thôi. Cộng sản, cách mạng mang lại hạnh phúc cho mọi người. Em hiểu chứ? Mọi người! Cách mạng sẽ..."
Rồi anh nói một thôi, gần như nguyên xi những gì ông cán bộ tỉnh mới thuyết giảng tối qua về chủ nghĩa cộng sản, về cách mạng và những điều tốt đẹp của nó.
"Em yên tâm. Cách mạng sẽ bảo vệ em, che chở cho em! Cho gia đình em! Cho toàn dân!"
"Anh nghĩ như thế thật à?"
"Tất nhiên, nếu không anh đã chẳng chịu xa em lên đường bảo vệ cách mạng".
Cô gái khẽ gật đầu, và lần đầu tiên nắm chặt tay anh.
* Sáu tháng sau, tức là cuối năm 1952, trong phong trào "Phát động quần chúng đấu tranh chống phản động" ông Phán Lại bị tòa án cách mạng xử bắn vì tội làm gián điệp cho Pháp. Cô Nguyệt Tú con ông bị đem đấu tố về tội ăn bám, rồi cô treo cổ tự tử vì không chịu để một ông cán bộ cộng sản cưỡng hiếp. Khi chết, cô đã nhắc tên anh, một chiến sĩ cộng sản khác đang chiến đấu bảo vệ cách mạng và chế độ cộng sản tốt đẹp anh đã nói với cô.
Cái tin này mãi về sau anh mới biết, vì lúc đó bản thân anh đang bận chỉ đạo thực hiện phong trào ấy ở một nơi xa. Cũng như trong cuộc cải cách ruộng đất sau này, anh luôn tận tuỵ với công việc được giao, và không chút nghi ngờ sứ mạng cao đẹp của nó. Anh thực sự tin vào sự lãnh đạo của Đảng, vào tính đúng đắn của con đường đã chọn, tin một cách tuyệt đối pha chút ngây thơ và mù quáng, nên không nghĩ tới sự cần thiết phải xem xét, kiểm chứng hoặc chiêm nghiệm lại. Anh là mẫu người cách mạng lý tưởng. Khi lý tưởng cộng sản chui vào đầu anh, một lý tưởng tuyệt đẹp như mọi lý tưởng khác trên đời, anh choáng ngợp trước cái đẹp cao cả của nó và háo hức vươn tới mục đích mà ít chú ý tới phương tiện. Mục đích chi phối phương tiện, người ta dạy anh thế, và một khi mục đích đã cao đẹp thì không có phương tiện nào là xấu, tức là bất kỳ hành động nào cũng có thể biện minh được, cả khi những hành động ấy là tàn bạo và phi lý. Con đường cách mạng không bao giờ bằng phẳng và không thể tránh khỏi một số sai lầm do nhận thức. Cái chết bi thảm đầy oan trái của hai bố con người yêu anh cũng được nhìn nhận dưới góc độ ấy. Và thật lạ, dẫu rất đau xót và căm phẫn, anh thấy lòng mình thanh thản hoặc cũng gần như thế, cả khi nghĩ về những việc anh đã làm trong cuộc vận động ấy. Sai lầm. Sai thì sửa. Chính lãnh tụ cao nhất của Đảng đã nói lời xin lỗi, mắt rưng rưng. Mắt anh cũng rưng rưng khi chứng kiến việc này. Có điều cả anh và lãnh tụ không đả động gì đến việc vì sao và do ai mà những sai lầm tầm cỡ ấy có thể xảy ra, và liệu một lời xin lỗi như thế có thỏa đáng không trước hàng chục nghìn sinh mạng bị giết oan.
Tuy nhiên, anh vẫn bị day dứt bởi một nỗi ám ảnh, nhỏ thôi nhưng dai dẳng và thật bất tiện, rằng chính anh đã gây nên cái chết của Nguyệt Tú và bố cô. Dẫu không chủ ý, nhưng anh đã nói dối họ về việc họ sẽ được cách mạng bảo vệ. Không có anh, chắc họ đã trở lại thành phố và do vậy tránh được bi kịch. Thoạt đầu anh nghĩ đây chỉ thuộc phạm trù đạo đức. Một lời khuyên sai, hay thậm chí một lời nói dối, suy cho cùng cũng chỉ là lời nói dối, tức là ở cấp thấp hơn nhiều so với cả một hệ tư tưởng, và rằng cùng với thời gian nó sẽ nguôi ngoai rồi đi vào quên lãng. Nhưng ác thay, thực tế diễn ra trái ngược hẳn. Như con vi rút chết người, chấm đen mặc cảm tội lỗi ấy không mất đi mà ngày mỗi lớn trong anh. Nó bắt đầu tấn công các tế bào cách mạng đỏ. Nó biến tướng, tù vi rút đạo đức thành vi rút tư tưởng, và vết thương cứ to dần, to dần...
Năm tháng trôi qua, đến nay, anh đã là một ông già. Hơn thế, một ông già cô đơn và bệnh tật. Cùng với vết thương ấy trong lòng, ông đi tiếp con đường cách mạng của mình, qua những năm tháng sĩ quan thời chiến, đến chức vụ trưởng, thứ trưởng một bộ quan trọng. Tiếc rằng đến đây thì bệnh quá nặng và nó đã bộc phát ra ngoài. Ba lần ông viết tâm thư lên trung ương của ông, thật thà trình bày quan điểm của mình cùng những đề nghị thay đổi. Chừng ấy lần ông bị kỷ luật nội bộ, bị cách chức và quản thúc tại gia. Một lần ông nhảy lầu tự tử nhưng không chết, nay có muốn nhảy tiếp cũng không thể vì chân què không còn có thể leo gác. Rồi bệnh đau mắt từ nhỏ tái phát, cộng với nỗi buồn bực, đã biến ông thành người mù.
Cuối cùng, các người ta đã để ông yên vì ông chẳng thể làm gì được nữa. Một ông lão què chân, mù mắt, sống một mình (vì ông chẳng bao giờ lấy vợ nên không con cháu) trong ngôi nhà cấp bốn hai phòng ngay sát Hồ Tây, sống với một bà lão giúp việc hơi giở người nhưng được cái sạch sẽ và chưa một lần quên nấu ăn để ông phải đói. Lúc này trong đầu ông chỉ toàn màu đên, tịnh không sót lại một chút nào màu đỏ hừng hực của thời trẻ.
Ngày nào ông cũng ngồi trên chiếc ghế được làm bằng hai thanh gỗ thô ráp, nhìn ra mặt nước Hồ Tây vô cảm. Ngồi lặng lẽ suốt từ mờ sáng đến tối mịt chứ ông thì không biết và không thèm để ý đến khái niệm thời gian trong ngày. Ông còn minh mẫn, thậm chí minh mẫn hơn cả những ngày trai trẻ, và nếu không mù và còn giấy mực, hoặc chí ít có người viết hộ thì ông còn gửi nhiều tâm thư nữa lên trên nữa. Thời kỳ đầu ông còn lẩm bẩm một mình, có khi gào to với Hồ Tây, nay thì ông im lặng, suốt ngày im lặng, và, cũng theo lời bà già chỉ điểm kia, "lúc nào cũng luôn tay mân mê một chiếc khăn mù-soa bẩn thỉu bị thủng một lỗ bằng ngón tay ở góc". (Đó là vết đạn xuyên trúng phổi ông cuối chiến dịch Điện Biên). May người ta cho đó là dấu hiệu lẩm cẩm của một ông già lẩn thẩn nên nó không bị tịch thu.
Hà nội, 13. 8. 2004
Cogito, ergo sum? Người viết: Thái Bá Tân 24/06/2009
Truyện ngắn. Thái Bá Tân
Vào năm 1955, cùng một lúc làng Vĩnh Lộc được đón hai nhân vật nổi bật. Nói nổi bật là có ý so với mặt bằng rất thấp của cái làng miền trung nghèo đói và lạc hậu này, chứ thực ra họ cũng bình thường, lại là dân gốc của làng, tức là cũng có thời từng làm thằng con nít tồng ngồng chạy ra Bến Kiềng mò hến hoặc sau mỗi trận mưa ra Đồng Chùa mót khoai sót, những mẩu khoai sùng, khoai non bé chỉ bằng ngón tay cái. Sau này lớn lên mỗi người một ngả theo sự dun dủi của số phận.
Ông thứ nhất học giỏi, nghe nói giỏi nhất trong cả ba tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh, được quan Toàn Quyền Pháp đích thân trao học bổng sang Paris học khoa luật ở Sorbonne, năm 1946 trở về Việt Nam cùng một nhóm trí thức yêu nước theo lời kêu gọi của chính phủ cách mạng. Suốt thời gian kháng chiến ông ở Việt Bắc, rồi sau về Hà Nội hai năm, làm gì, giữ chức vụ nào không ai biết, chỉ thấy một hôm ông trở về làng, những tưởng chỉ ở chỉ ít ngày, nhưng rồi ông sửa sang nhà cửa, lại đưa cô Ba Héo cháu ông về ở cùng, vừa giúp vặt trong nhà, vừa để ông dạy chữ cho cô. Vậy là người ta đoán ông về hẳn, chắc do bị kỷ luật. Tuy nhiên không vì thế mà dân làng dám coi thường, vì ông có tiền, do vợ con bên Pháp đều đặn gửi về ba tháng một lần, vì ông từng là giáo sư một trường đại học danh tiếng bên ấy, và vì cả việc ông mở lớp học chữ không mất tiền cho trẻ con trong làng. Cô cháu ông đã hăm lăm mà chưa chồng, tức là sẽ không bao giờ hy vọng có chồng sau cái tuổi ấy. Cô xấu xí, người gầy đét nên mới có cái tên Héo đi kèm. Héo hon. Nhưng bù lại, cô có giọng nói sang sảng và khá chua ngoa. Người ta gọi ông bác cô là Ông Đeo Kính, vì ông này cận thị nặng và luôn đeo cặp kính trắng mắt tròn, gọng kim loại màu đen. Trong làng ông duy nhất là người đeo kính, khiến mọi người thấy vừa ngồ ngộ, vừa kính nể.
Người thứ hai là Ông Mao Chủ Tịch Dạy, do tại ông hay nói câu này, cả khi phát biểu long trọng ở hội nghị lẫn khi giao tiếp hàng ngày. Ông đi bộ đội từ hồi cách mạng, lên đến chức trung đoàn trưởng thì chuyển sang ngành dân chính và vừa mới tham dự một khóa tập huấn cải cách ruộng đất ở Hồ Nam, Trung Quốc. Vậy ông phải là nhân vật quan trọng, một quan to. Ông về cái làng này, tất nhiên chỉ một thời gian ngắn theo nguyện vọng, là cốt để biến nó thành điển hình tốt cho cả tỉnh, nếu không muốn nói cả nước, trong cuộc vận động, như Mao Chủ Tịch dạy, long trời lở đất này. Cuộc cải cách ruộng đất mà chỉ cách mạng mới có thể mang lại, làm cho người cày có ruộng, xóa bỏ tận gốc sự bóc lột và đói nghèo. Dân làng ắt phải lấy làm vinh dự và biết ơn ông lắm. Lúc nào ông cũng mặc bộ đại cán dày cộp, phẳng phiu màu lông chuột, nên đi dứng có vẻ hơi cứng nhắc, khệnh khạng. Cũng có thể ông chủ ý làm ra thế. Hồi rời làng ông không biết chữ, bây giờ thì đọc thông viết thạo, nói năng lưu loát, bàn tay phải luôn vung lên đập xuống khi muốn nhấn mạnh điều gì. Ông về làng sau Ông Đeo Kính sáu tháng, bằng ô tô riêng của tỉnh ủy Nghệ An, nhưng xe phải dừng ở chợ Hôm vì đường nhỏ, khiến ông đi bộ những ba cây số, là điều lãnh đạo xã rất lấy làm ái náy. Để tỏ ra mình quần chúng, ông từ chối không ở căn nhà riêng do xã bố trí, có người phục vụ, mà về ở với ông bố đã bảy mươi tuổi hiện đang sống một mình. Khác với ông con cách mạng triệt để, ông bố nổi tiếng hay ăn nói lung tung và "rất yếu về lập trường giai cấp". Nể tình có con làm to, chứ không thì đã mọt gông từ lâu.
Ông Mao Chủ Tịch Dạy cho mời cán bộ cốt cán trong làng đến nhà mình. Sau một hồi dài dòng thuyết về mục đích, ý nghĩa cuộc cải cách ruộng đất, là điều ai cũng biết vì được học tập rất nhiều trước đó, ông giao cho họ phải tìm bằng được mười gia đình địa chủ cường hào gian ác trong tổng số 200 hộ ở làng Vĩnh Lộc này "Mao Chủ Tịch dạy cái bọn người thối tha ấy ít nhất phải chiếm năm phần trăm dân số mỗi địa phưng. Chúng vô cùng xảo quyệt trong việc che giấu của cải và bộ mặt thật của mình. Nhiệm vụ của các đồng chí là phải tìm ra chúng. Tìm bằng hết, bằng mọi giá!"
Mọi người đưa mắt nhìn nhau. Làng Vĩnh Lộc xưa nay thuần nông mà ruộng thì vẻn vẹn một dải đất trũng dọc theo Kênh Nhà Lê. Phần lớn dân làng phải làm thuê, cấy tô cho thiên hạ, cả làng giỏi lắm chỉ chục nhà có được dăm sào ruộng, tức là nếu không mất mùa thì vừa đủ ăn. Tìm đâu ra mười gia đình địa chủ bây giờ? Lại phải cường hào gian ác! Một vài người tỏ ý băn khuăn, liền bị Ông Mao Chủ Tịch Dạy đè dập ngay bằng cách nói, bàn tay phải vẫn luôn chém vào không khí, rằng dân Trung Quốc cũng nghèo như ta, nhưng do lập trường vững và giác ngộ cao, nên họ vẫn tìm đủ con số năm phần trăm ấy, nhiều nơi còn vượt kế hoạch. Hay lập trường giai cấp các đồng chí thấp? Không, tất nhiên, không, mọi người hùng hổ đáp. Có anh còn lấy làm ngạc nhiên rằng làng mình nhiều địa chủ thế mà xưa nay không biết. Thế là người ta ra nghị quyết nhất định phải đạt hoặc vượt chỉ tiêu được giao.
Khi giải tán, Ông Mao Chủ Tịch Dạy bảo cô Ba (Ba Héo) ở lại. Cô này đang là đối tượng kết nạp Đảng nên hăng lắm, suốt ngày lăng xăng bên mấy ông bà cán bộ xã, bỏ cả việc học chữ và cơm nước cho ông bác đeo kính.
"Đồng chí Ba, ông bác của đồng chí thế nào?"
Cô Ba Héo chúm miệng vắt nước trầu, quệt vào vạt áo:
"Báo cáo, vẫn như mọi ngày. Chỉ đọc sách rồi ngồi thừ người ra".
"Ngồi thừ người ra nghĩa là thế nào? Mà đọc sách gì?"
"Toàn sách Tây, tôi không biết. Đọc rồi ngồi thừ ra suy nghĩ. Thỉnh thoảng chép miệng".
"Toàn những dấu hiệu đáng ngờ. Cô phải luôn để mắt theo dõi. Ông ấy theo cách mạng cả chục năm nay mà vẫn không bỏ được thói xấu đọc sách và suy nghĩ. Chẳng trách bị tống về quê. Mao Chủ Tịch dạy ta không được một phút lơ là. Kẻ thù có thể ẩn nấp dưới những vỏ bọc vô hại nhất, có thể chính là người thân của chúng ta. Tuyệt đối không để tình cảm riêng tư làm sói mòn giác ngộ giai cấp. Đồng chí nhớ thấy gì báo tôi ngay".
Ông nhìn bà cách mạng trẻ đang nhổ toẹt bãi nước trầu xuống nền nhà, khó chịu nói tiếp:
"Theo tôi đồng chí nên giảm bớt, bỏ được càng tốt, cái thói quen ăn trầu luôn miệng ấy đi. Đó là tàn dư của nông thôn lạc hậu. Mà rồi cũng không nên phô vú ra như thế. Đó là một biểu hiện xấu của bọn tư sản đồi trụy. Bên Trung Quốc người ta nịt chặt, phẳng lì như đàn ông".
Từ đó cô Ba Héo có ngực phẳng lì như ngực đàn ông, là điều khiến cô càng gầy và xấu hơn. Nhưng thói ăn trầu và nhổ bậy thì cô không bỏ được, một phần vì cách mạng cũng không quá khe khắt về việc này.
"Thằng Nhất vào đây tao bảo!" có giọng nói ồm ồm từ phòng trong vọng ra, khi cô Ba Héo đã ra về và Ông Mao Chủ Tịch Dạy đang mở xắc-cột lấy tập giấy gì đó định đọc.
Đó là ông cụ bố ông. Ông cụ vẫn ăn nói kiểu ấy với con trai, bất chấp tuổi tác và chức vị của ông ta. Ông ta khó chịu lắm nhưng không làm được gì, chỉ còn biết yêu cầu bố nói nhỏ để người ngoài không nghe thấy.
"Tôi hỏi anh. Anh khoe đi Trung Quốc mấy tháng học hành cái gì bên đó, để bây giờ về làng làm thế à?" Ông cụ cao giọng, lúc ấy đang ngồi uống nước chè xanh trên chiếc chõng tre.
"Bố nói gì con không hiểu. Làm thế là làm gì?"
"Là bắt phải moi ra những mười gia đình địa chủ ở cái làng nghèo rớt mồng tơi này. Ở đây không có ai địa chủ cả. Chuyện khôn không học, lại học điều quái đản gây thù hằn, chém giết lẫn nhau. Mà giả sử tìm được địa chủ, chúng mày định làm gì họ? Bắn hết à?"
"Chuyện ấy để còn xem. Cách mạng sẽ phán xử theo đúng tội từng đứa. Đây là việc của con, chuyện lớn, chuyện chính trị, bố biết gì mà nói". Ông con cũng cao giọng.
"Chuyện của mày nhưng làng của tao. Mày đi Trung Quốc, còn tao thì suốt đời ở đây. Ai thế nào, làm gì, tao không biết hơn mày chắc? Nếu mày bảo đó là cách mạng thì tao không cần cái cách mạng ấy. Nghe chưa? Đất nước được tự do, độc lập là tốt rồi. Bây giờ chúng tao muốn được yên ổn làm ăn. Tao không muốn cảnh đấu tố, bắn giết loạn xạ như ở Đô Lương, Yên Thành. Lại càng không muốn mày, thằng con tao, làm điều đó, ở đây, trên mảnh đất đã đẻ ra mày!"
"Bố im đi. Phản động hay sao mà dám ăn nói thế!" Ông con quát, giận sùi cả bọt mép.
"Nếu thế là phản động thì tao là phản động đấy. Bắt tao đi! Bắn tao đi!"
"Không phải thách. Mao Chủ tịch dạy..."
"Cút mẹ mày đi với Mao Chủ tịch! Nó dạy mày ăn cứt mày cũng ăn à? Nó dạy mày bắn bố mày, dân làng mày, mày cũng bắn à?"
Ông cụ lóng ngóng đứng dậy, tay cầm chặt chiếc điếu cày, nhưng ông kia đã vội bỏ đi, sang ở hẳn bên căn nhà người ta đã chuẩn bị sẵn cho ông.
* Mọi việc diễn ra nhanh chóng, dồn dập, cứ như bị ma đuổi. Có thể vì Ông Mao Chủ Tịch Dạy muốn giải quyết nhanh chóng ở đây để còn đi chỉ đạo nơi khác vì ông là nhân vật quan trọng. Tối nào dân làng Vĩnh Lộc cũng họp từ bảy đến mười một giờ. Sau đó thì cán bộ làng họp với cốt cán xã và một ông nhà thơ kháng chiến được bổ sung từ Vinh về chỉ đạo cải cách ruộng đất. Họp ở ngôi nhà dành cho Ông Mao Chủ Tịch Dạy, tới hai, ba giờ sáng, có hôm thâu đêm. Cô Ba Héo ngoài việc đóng góp những câu tranh luận hùng hồn còn biết lo món cháo gà và rượu Thọ để mọi người họp xong ăn. Dạo này cô hầu như ít khi ở nhà, có hôm không về ngủ.
Không khí trong làng hừng hực, không ai chạy trên đường mà cứ rầm rập, rầm rập. Các cuộc đấu tố diễn ra triền miên, thường vào buổi sáng khi nạn nhân mới bị bắt, kéo dài đến trưa để sau đó giải đi nơi khác xử án, kết án và thi hành án. Phần sau ít ầm ĩ, không kèn trống và cũng đơn giản, chóng vánh hơn. Các làng bên cũng nhộn nhịp không kém. Cứ như hội, như cơn lên đồng tập thể sặc mùi chết chóc. Anh em, cha con, hàng xóm tố nhau loạn xạ, toàn những điều nhảm nhí ai cũng biết nhưng ai cũng tin hoặc vừ tin. Mặt người nào người ấy đỏ phừng, trừ Ông Mao Chủ Tịch Dạy còn giữ được bình tĩnh. Trẻ con cũng được lôi vào cuộc, và như người lớn, chúng làu làu đọc những lời tố được cán bộ mớm từ trước. Chúng thích lắm, vì không phải đi chăn trâu, vì đôi đứa được gọi bằng đồng chí, được mời tham gia một vở kịch người thật việc thật của người lớn. Lúc ấy tôi mới bảy tuổi, do quá nhỏ và cũng do cả việc bố mẹ, ông bà thuộc thành phần "ưu tú" nhất, tức là nghèo nhất, nên tôi chỉ được diễn vai phụ của đám đông hò hét. May không bị bắt đấu tố ai, nhất là người thân trong gia đình, họ hàng. Đến nay, dẫu đã năm mươi năm trôi qua, nhiều đêm tôi vẫn mơ thấy những cảnh rùng rợn ấy. Và tôi luôn tự hỏi vì sao, để làm gì và bằng cách nào người ta có thể bắt được người dân làng tôi làm được cái điều trái đạo lý ấy.
Ông Đeo Kính bị bắt lúc sáu giờ sáng, khi đang ngồi uống nước, đọc sách và "thừ người ra" như mọi ngày. Ông quen dậy sớm, luôn ngồi ở nhà không đi đâu, nhiều hôm đóng kín cửa để khỏi nghe, khỏi thấy những gì đang diễn ra bên ngoài.
Chính thức ông bị buộc tội là địa chủ (không có từ cường hào gian ác), và làm gián điệp cho nước ngoài. Bằng chứng không thể chối cãi là trong nhà ông có mấy cuốn sách chữ Tây (sách triết học phương Tây trong đó có cuốn Tư bản luận đại cương của Cac Mac và ít sách văn học), mấy tờ giấy ông ghi những câu tâm đắc khi đọc, và khoảng mươi bức thư vợ con ông gửi. Tất cả bằng chữ Tây, và vì không ai biết đọc thứ tiếng ấy nên mặc nhiên chúng là tài liệu gián điệp. Ngoài ra ông còn bị buộc thêm một tội nữa, tội này còn lớn hơn mặc dù không được đọc to, không có trong giấy tờ - ông là người có học.
Đêm trước khi quyết định bắt, Ông Mao Chủ Tịch Dạy nói với mấy ông bà cốt cán:
"Mao Chủ Tịch dạy: Trí thức chỉ là cục cứt. Mà cứt thì thối, phải hót đi. Còn cương lĩnh Đảng ta thì Trí Phú Địa Hào đào tận gốc trốc tận rễ, quên rồi à? Thằng này đáng ngờ lắm. Thử hỏi hắn đọc sách làm gì? Đọc rồi ngồi thừ suy nghĩ. Sao phải suy nghĩ? Suy nghĩ gì nếu không phải tìm cách phá hoại, tìm cách chống Đảng, chống cách mạng?"
Ông hùng hồn chém tay vào không khí rồi quay sang cô Ba Héo:
"Theo tôi, đồng chí Ba đã mất cảnh giác khi đồng ý để hắn dạy chữ. Bọn trí thức là thâm lắm. Chúng muốn đồng chí biết chữ rồi đọc sách, rồi suy nghĩ, và cuối cùng là mất lập trường giai cấp. Mất lúc nào không biết. À mà đồng chí nhớ cách tôi dạy đồng chí đấu tranh với hắn thế nào rồi chứ? (Cô Ba Héo ngừng nhai trầu đáp 'Thưa thủ trưởng nhớ ạ". Dao này tự nhiên cô thích dùng cách xưng hô ấy, như thể cô đã là người của cơ quan nhà nước). Sáng mai cô cứ thế mà làm. Tuyệt đối không được để tình cảm riêng tư chi phối. Mao Chủ tịch dạy vì sự nghiệp của giai cấp, người cách mạng phải biết tàn nhẫn, thậm chí cả với cha mẹ mình chứ chưa nói chú bác".
Hôm sau Ông Đeo Kính bị cô cháu tố là đã hiếp cô ta đúng 124 lần trong vòng ba tháng kể từ ngày ông dụ dỗ cô về ở chung. Chính xác chừng ấy lần vì cô ghi đầy đủ (cô quên rằng cô không biết chữ và trong khoảng thời gian ấy chẳng mấy hôm ở nhà). Vâng, hắn hiếp dã man như một tên trí thức đồi trụy.
Ông Đeo Kính bị trói quặt hai tay về phía sau, vào chiếc cột chôn ở sân đình. Chiếc kính của ông bị một anh dân quân lột khỏi mắt rồi dẫm nát dưới đôi chân trần to bè của mình. Suốt buổi đấu tố, từ chín giờ sáng đến hơn mười một giờ, ông im lặng không nói gì. Mái tóc bắt đầu đốm bạc dính bết trên trán, vì mồ hôi và vì cả những bãi nước bọt người ta nhổ vào ông. Đôi mắt ông thật buồn, ngơ ngác nhìn đám người rách rưới điên khùng đang la ó xung quanh. Tôi cũng có mặt hôm ấy, và mặc dù không hiểu gì, mặc dù nghĩ ông là một tên phản động, tôi vẫn cứ thấy thương thương thế nào.
Đứng chạng chân trước mặt bác mình, bộ ngực bằng phẳng kiểu Trung Quốc ưỡn về phía trước, cô Ba Héo chuyển sang phần tố ông làm gián điệp.
"Ngày nào, đêm nào tao cũng rình mày, thấy mày viết báo cáo cho bọn gián điệp nước ngoài, rồi nhận chỉ thị của chúng. Rồi mày bật điện đài bấm tích tích tè tè liên lạc với chúng. Có đúng thế không?"
Người bị tố gật đầu.
"Rồi mày nhận tiền công của chúng. Hàng tập dày tiền đô-la. Phải dày thế này... - cô ta gang tay cho mọi người xem. - Có đúng thế không?"
Gật đầu.
"Thế mày giấu tiền ở đâu? (Im lặng). Mày chôn dưới gầm giường phải không? Và cả ngoài vườn nữa?"
Gật đầu.
Thế là rõ. Một tên phản quốc nguy hiểm đã bị vạch mặt. Bây giờ người ta tố hắn về tội địa chủ. Cô Ba Héo mệt nên người khác làm chuyện này. Nhiều người sẵn sàng tố. Bằng chứng là trong khi cả làng đói ăn thì hắn vẫn có gạo, rau, nhiều khi còn cá thịt. Vậy thì hắn phải là địa chủ, phải nhờ bóc lột mà có. Sau đến lượt trẻ con thi nhau tố ông khi dạy chữ đã đánh đập chúng chết ngất bằng đòn gánh và cán cuốc. Một đứa bé gái nói ngày nào ông cũng sờ bướm nó. Nói chung chúng tố hăng lắm, có điều đôi đứa do quên hoặc do lập trường giai cấp chưa vững nên đã lễ phép thưa 'Con chào thầy ạ' trước khi tố.
Như nhiều người khác trước đó, ngay chiều hôm ấy ông bị đem đi bắn ở Đồng Chùa. Khi vực xác ông dậy để đem chôn, người ta thấy một cuốn sách nhỏ từ trong ngực ông rơi ra. Đó là cuốn "Discourse en Method" của René Descartes. Đó là cuốn sách khổ nhỏ, giấy vàng úa và nhàu nát. Chẳng biết ông giấu nó trong ngực để làm gì. Một viên đạn bắn xuyên qua nó trước khi vào tim ông. Một anh nông dân nhặt nó lên, lật giở đúng trang có câu "Cogito, ergo sum" bằng tiếng La-tinh và câu "Je pense, donc je suis" tiếng Pháp. Cả hai đều có nghĩa "Tôi tư duy, nghĩa là tôi tồn tại", đều được ông gạch chân tô đậm và đánh một dấu hỏi lớn bên cạnh. Anh nông dân mù chữ không biết tiếng Pháp, lại càng không hiểu ý nghĩa luận đề nổi tiếng này của nhà tư tưởng Pháp vĩ đại. Còn dấu chấm hỏi lớn của tên phản động thì đơn giản anh ta không thèm để ý. Trước khi xử bắn, người ta đã lục túi và tìm thấy một cuốn sách, cuốn "L'esprit du lois" của Montesqieu. Nó cũng bị vứt cho trẻ con chia nhau làm giấy dán diều.
Ông Đeo Kính không có được cái may như anh Bính nửa tháng sau đó. Anh này là đảng viên cốt cán, không hiểu thế nào bị tố oan thành địa chủ, kẻ thù của cách mạng, và cũng bị xử bắn tại Đồng Chùa. Đúng khi dân quân dương súng lên cò thì có người từ huyện về thông báo quyết định sửa sai. Giữa đường xe đạp người này hỏng, may sửa nhanh nên mới kịp.
Đôi điều nói thêm về các nhân vật trong câu chuyện này.
Ông Mao Chủ Tịch Dạy rất hậm hực về việc dù được ông đích thân chỉ đạo, làng vĩnh Lộc vẫn không đạt chỉ tiêu tìm ra mười tên địa chủ và phản động. Tuy nhiên, khi có chủ trương sửa sai, ông lại khoe rằng chính nhờ ông tỉnh táo, linh hoạt nên dân làng mới chết ít thế. Ông được khen, được đề bạt, sau này làm to lắm, đến mức suýt được chôn ở nghĩa trang Mai Dịch, Hà Nội, vốn chỉ dành cho lãnh tụ, nếu ông không dính vào một vụ tham nhũng tai tiếng. Người ta định đưa ông về mai táng trong nghĩa trang dòng họ mình ở Rú Thần nhưng ông trưởng họ, vốn có người thân bị ông hãm hại, nhất định không chịu. Thành ra bây giờ xác ông vẫn nằm đâu đó ở xứ người. À quên, trước đó vì giận bố, vì muốn đạt chỉ tiêu, Ông Mao Chủ Tịch Dạy đã đưa cụ vào danh sách địa chủ, có điều dặn kỹ các cán bộ cốt cán không tổ chức đấu tố, không tra tấn và tất nhiên không xử bắn.
Cô Ba Héo được kết nạp Đảng, không mảy may ân hận về việc làm của mình với ông bác, và mặc dù bị hiếp dã man tới chính xác 124 lần, cô vẫn lấy được chồng, lấy ông nhà thơ cán bộ đội cải cách được điều từ Vinh về. Ông này luôn mặc cảm với cái danh nhà thơ của mình (cũng một dạng trí thức), nên quyết định lấy bà nông dân để tăng sức nặng cho lý lịch. Họ mới chết cách đây không lâu, chết già, trong tiếng khóc thương tiếc của cháu con và lời chia buồn chân thành của cơ quan, đồng nghiệp. Báo tỉnh in cáo phó cả hai người như hai cán bộ cách mạng lão thành đáng cho lớp trẻ noi gương phấn đấu, vì trước khi về hưu, bà là phó chủ tịch hội phụ nữ tỉnh, còn ông,trước đó về hư với chức phó chủ tịch hội văn nghệ tỉnh. . Anh Bính may mắn thoát chết trong gang tấc, nhưng đời anh sau này cũng lắm nỗi long đong. Số là sau sửa sai, người ta cho khôi phục đảng tịch nhưng anh không nhận. Từ đó bị coi là kẻ bất mãn. Rồi bị tù ba năm vì tội dùng dao thái thịt rạch miệng một đứa từng tố gian anh. Rạch đúng mỗi bên năm phân như biên bản vụ án ghi rõ. Ra tù, anh trốn vào Nam, có người nói bỏ xác ngoài biển, cũng có người nói anh đang ở Mỹ hay Canađa gì đó.
Ông Đeo Kính được minh oan như nhiều người lúc đó. Có một điều lạ là khoảng chục năm sau, bà vợ người Pháp của ông về làng, thuê người bốc mộ ông rồi đem đốt hài cốt cho vào lọ mang về Pháp mà không xây cho ông một ngôi mộ nào, dù tượng trưng, trong nghĩa trang liệt sĩ của xã. Mọi người ngạc nhiên hỏi vì sao, bà chỉ đáp: "Ông ấy muốn thế".
Hà Nội, 7. 8. 2004
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top