TCDN TIN DUNG
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
1. Khái niệm
TCDN la he thong cac moi QHKT duoi hinh thai gia tri phat sinh trong qua trinh tao lap , phan phoi vas u dung cac nguon TC, cac quy tien te cua DN nham gop phan thuc hien cac muc tieu cua DN
Bieu do: Nguoi tieu dung , nha nuoc, DN khac, Noi bo DN... deu co moi lien he voi DN.
NNuoc: gop von, tro cap tro von KD
DN khac: Nha cung cap. Mua bao hiem
Ng TDung: mua hang hoa, tra tien
Noi bo DN : tra luong cho CN, QHTC giua cac chi nhanh cua doanh nghiep.
2. DAC DIEM CUA TCDN:
TCDN luon gan lien va phuc vu voi hoat dong kinh doanh cua doanh nghiep
TCDN gan lien voi hinh thuc phap ly cua tung DN
TCDN gan lien voi che do hach toan KD: lay thu bu chi va phai co lai
3. Vai tro cua TCDN:
TCDN la cong cu khai thac, thu hut nguon TC nham dap ung nhu cau von cua DN
TCDN thuc hien vai tro nay trong viec tim kiem kenh huy dong von, xacdinh nhu cau von cho daung dan trong tung thoi ky., Lua chon Phuong phap , hthuc huy dong von thich hop de dap ung kip thoi nhu cau von cho DN
TCDN la cong cu giup DN su dung von tiet kiem va hieu qua. Vai tro duoc thuc hien thong qua chuc nang phan phoi cua tai chinh, no duoc thuc hien thong qua cac hoat dong :
++ lua chon kenh huy dong von voi chi phi thap\
++Phan b ova su dung nguon von 1 cach hop ly de phat trien nhanh vong quay cua von, tang khan gag sinh loi cua von
++ TCDN la cong cu kich thich dieu rtiet hdong kinh doanh cua DN: DN co von nguoi gd thuc hien gd phan bo nguon von vao cac hoat dong khac nhau,..loi nhuan cao nhat
De thuc hien vai tro nay thi TCDN das u dung 2 chuc nang gd va phan phoi thong qua hoat dong.
Tao suc mua hop ly de thu hut von dau tu
Phan phoi nguon on hop lit u do dieu tiet hd kinh doanh cua dn
XD gia ban cho hang hoa , dv cua minh cho hop li
Phan phoi quy cua DN: khen thuong phuc loi..
+++ TCDN la cong cu de ktra , giam sat hdong cua DN de thuc hien vai tro nay thi TCDN da van dung chuc nang giam doc cua TC.
TCDN thuc hien vai tro nay thong qua viec ktra, giam sat ra soat bang dong tien, doi voi hdong san xuat, kdoanh cua DN thon g qua viec phan tich, danh gia chi tieu cua TC
Doanh nghiệp là một tổ chức kinh doanh nhằm mục đích sinh lời được pháp luật thừa nhận, được phép kinh doanh trên một số lĩnh vực nhất định, có từ một chủ sở hữu trở lên và chủ sở hữu phải đảm bảo trước pháp luật bằng toàn bộ tài sản của mình, có tên riêng, có trụ sở giao dịch ổn định.
Trong nền kinh tế thị trường các loại hình doanh nghiệp phát triển một cách đa dạng, phong phú. Có nhiều cách tiếp cận về doanh nghiệp. Nếu xét trên một góc độ cung cầu vốn trong nền kinh tế thì doanh nghiệp được chia thành doanh nghiệp tài chính kinh doanh tiền tệ và doanh nghiệp phi tài chính kinh doanh hàng hoá dịch vụ thông thường. Nếu dựa vào quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất thì doanh nghiệp được chia thành doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân và công ty cổ phần. Nếu dựa vào hình thức pháp lý tổ chức của doanh nghệp thì doanh nghiệp được phân chia thành doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp tư nhân.
Dù là cách phân chia nào thì đối với một doanh nghiệp khi tiến hành hoạt động kinh doanh đều phải sử dụng tài chính doanh nghiệp để thực hiện mục tiêu kinh doanh. Trong chương này chỉ đề cập đến doanh nghiệp phi tài chính. Để tiến hành hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp cần phải có những yếu tố cần thiết là tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động, đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lượng vốn nhất định. Muốn vậy doanh nghiệp phải hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ. Quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cũng là quá trình hình thành, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp. Trong quá trình đó, phát sinh và hình thành các luồng tiền tệ gắn liền với các hoạt động đầu tư và hoạt động kinh doanh thường xuyên của doanh nghiệp. Các luồng tiền tệ bao hàm các
luồng tiền tệ đi vào và các luồng tiền tệ đi ra khỏi doanh nghiệp, tạo thành sự vận động của các luồng tài chính doanh nghiệp.
Bên trong quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp là các quan hệ kinh tế, các quan hệ này được gọi là các quan hệ tài chính và bao gồm các quan hệ như:
- Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với các chủ thể khác thể hiện trong việc góp vốn, vay vốn, cho vay vốn..., trong việc thanh toán cho việc mua hoặc bán tài sản, vật tư, hàng hoá, dịch vụ...
- Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với người lao động trong doanh nghiệp: trả lương, thưởng, phạt vật chất.
- Quan hệ giữa các bộ phận trong doanh nghiệp như thanh toán giữa các bộ phận trong doanh nghiệp, phân phối lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp, hình thành và sử dụng quỹ của doanh nghiệp.
- Quan hệ tài chính nảy sinh trong các hoạt động xã hội của doanh nghiệp như tài trợ cho các tổ chức xã hội, các quỹ từ thiện, thể dục, thể thao, văn hoá...
- Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp nước ngoài như liên doanh liên kết với doanh nghiệp nước ngoài hoạt động ở Việt Nam, thanh toán xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ...
Từ các dạng quan hệ tài chính trên có thể kết luận tài chính doanh nghiệp xét về nội dung vật chất là quỹ tiền tệ trong doanh nghiệp được tạo lập, sử dụng cho mục đích kinh doanh của doanh nghiệp, xét về thực chất là những quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp với các chủ thể kinh tế xã hội trong và ngoài nước. Từ đó, có thể khái quát tài chính doanh nghiệp là các quan hệ kinh tế phát sinh gắn liền với quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ trong quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhằm đạt tới mục tiêu của doanh nghiệp.
2. Đặc điểm của tài chính doanh nghiệp
Tài chính doanh nghiệp là một khâu của hệ thống tài chính và là khâu cơ sở, nên có những đặc điểm sau đây:\\
Thứ nhất, gắn liền với quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có các quan hệ tài chính doanh nghiệp đa dạng phát sinh như quan hệ nộp, cấp giữa doanh nghiệp với nhà nước, quan hệ thanh toán với các chủ thể khác trong xã hội, với người lao động trong doanh nghiệp.
Thứ hai, sự vận động của quỹ tiền tệ, vốn kinh doanh có những nét riêng biệt đó là: sự vận động của vốn kinh doanh luôn gắn liền với các yếu tố vật tư là lao động: ngoài phần tạo lập ban đầu chúng còn được bổ sung từ kết quả kinh doanh; sự vận động của vốn kinh doanh vì mục tiêu doanh lợi.
Cũng giống như các khâu tài chính khác, tài chính doanh nghiệp có chức năng khách quan đó là chức năng phân phối và chức năng giám đốc. Nhờ có chức năng phân phối mà doanh nghiệp có khả năng động viên khai thác và thu hút các nguồn tài chính trong nền kinh tế để hình thành vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Sau khi đã hình thành vốn kinh doanh, để sử dụng vốn, một lần nữa phải có sự tham gia của chức năng phân phối. Lúc này phân phối vốn lại đồng nghĩa với việc đầu tư vốn: đầu tư bên trong hay đầu tư bên ngoài. Lợi nhuận thu được là yếu tố quan trọng nhất, quyết định phương hướng và cách thức đầu tư của doanh nghiệp. Mục tiêu cuối cùng của mọi quá trình kinh doanh của doanh nghiệp là thu lợi nhuận, vì thế bên cạnh khả năng phân phối để thoả mãn về vốn kinh doanh, tài chính doanh nghiệp còn có khả năng giám sát dự báo hiệu quả của quá trình phân phối. Chức năng giám đốc của tài chính doanh nghiệp có khả năng phát hiện những khuyết tật trong khâu phân phối để từ đó điều chỉnh quá trình phân phối nhằm thực hiện phương hướng mục tiêu chiến lược sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Song chức năng khách quan đó của tài chính doanh nghiệp phát huy đến mức nào thì phụ thuộc vào sự nhận thức một cách tự giác và hoạt động chủ quan của người quản lý. Đó chính là vai trò của tài chính doanh nghiệp.
3. Vai trò của tài chính doanh nghiệp
Trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, tài chính doanh nghiệp có những vai trò chủ yếu sau đây:
- Huy động đảm bảo đầy đủ và kịp thời vốn cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Để thực hiện mọi quá trình kinh doanh của doanh nghiệp trước hết phải có một yếu tố tiền đề đó là vốn kinh doanh. Vai trò của tài chính doanh nghiệp trước hết được thể hiện ở việc xác định đúng đắn nhu cầu vốn cần thiết cho hoạt động của doanh nghiệp trong từng thời kỳ. Tiếp đó phải lựa chọn các phương pháp và hình thức huy động vốn thích hợp, đáp ứng kịp thời các nhu cầu vốn để hoạt động của các doanh nghiệp được thực hiện một cách nhịp nhàng liên tục với chi phí huy động vốn thấp nhất.
- Tổ chức sử dụng vốn tiết kiệm và hiệu quả. Việc tổ chức sử dụng vốn tiết kiệm và hiệu quả được coi là điều kiện tồn tại và phát triển của mọi doanh nghiệp. Tài chính doanh nghiệp có vai trò quan trọng trong việc đánh giá và lựa chọn dự án đầu tư tối ưu; huy động tối đa số vốn hiện có vào hoạt động kinh doanh, phân bổ hợp lý các nguồn vốn, sử dụng các biện pháp để tăng nhanh vòng quay của vốn, nâng cao khả năng sinh lời của vốn kinh doanh.
- Đòn bẩy kích thích và điều tiết kinh doanh. Vai trò này của tài chính doanh nghiệp được thể hiện thông qua việc tạo ra sức mua hợp lý để thu hút vốn đầu tư, lao động, vật tư, dịch vụ, đồng thời xác định giá bán hợp lý khi phát hành cổ phiếu, hàng hoá bán, dịch vụ và thông qua hoạt động phân phối thu nhập của doanh nghiệp, phân phối quỹ tiền thưởng, quỹ tiền lương, thực hiện các hợp đồng kinh tế...
- Giám sát kiểm tra chặt chẽ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tình hình tài chính của doanh nghiệp là một tấm gương phản ánh trung thực nhất mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thông qua các chỉ tiêu tài chính thực hiện mà các nhà quản lý doanh nghiệp dễ dàng nhận thấy thực trạng quá trình kinh doanh của doanh nghiệp, để từ đó có thể đánh giá khái quát và kiểm soát được các mặt hoạt động của doanh nghiệp, phát hiện kịp thời những vướng mắc, tồn tại để từ đó đưa ra các quyết định điều chỉnh các hoạt động kinh doanh nhằm đạt tới mục tiêu đã định.
Vai trò của tài chính doanh nghiệp sẽ trở nên tích cực hay thụ động trước hết là phụ thuộc vào sự nhận thức và vận dụng các chức năng của tài chính, sau nữa còn phụ thuộc vào môi trường kinh doanh, cơ chế tổ chức tài chính doanh nghiệp và các nguyên tắc cần quán triệt trong mọi hoạt động tài chính doanh nghiệp.
TỔ CHỨC TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
Để sử dụng tốt công cụ tài chính, phát huy vai trò tích cực của chúng trong sản xuất kinh doanh cần phải tổ chức tài chính. Tổ chức tài chính doanh nghiệp là việc hoạch định chiến lược về sử dụng tài chính và hệ thống các biện pháp để thực hiện chiến lược đó nhằm đạt được mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định. Song việc tổ chức tài chính doanh nghiệp lại chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố (như sự khác nhau về hình thức pháp lý tổ chức doanh nghiệp, đặc điểm kinh tế kỹ thuật của ngành, môi trường kinh doanh...) và các nguyên tắc cần quán triệt.
1. Các nhân tố ảnh hưởng đến tổ chức TCDN
1.1. Hình thức pháp lý của tổ chức doanh nghiệp
Theo hình thức pháp lý tổ chức doanh nghiệp, ở nước ta hiện nay có các loại hình doanh nghiệp sau đây:
- Doanh nghiệp nhà nước.
- Công ty cổ phần.
- Công ty trách nhiệm hữu hạn.
- Công ty hợp danh.
- Doanh nghiệp tư nhân.
- Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Các loại hình doanh nghiệp khác nhau chi phối đến việc tổ chức, huy động vốn cũng như việc phân chia lợi nhuận cũng khác nhau. Chẳng hạn, doanh nghiệp nhà nước được Ngân sách nhà nước đầu tư vốn toàn bộ hoặc một phần vốn điều lệ ban đầu. Ngoài vốn nhà nước đầu tư, doanh nghiệp được quyền huy động vốn dưới các hình thức phát hành trái phiếu, vay vốn, nhận góp liên doanh... nhưng không thay đổi hình thức sở hữu của doanh nghiệp. Việc phân phối lợi nhuận sau thuế được thực hiện theo quy định của chính phủ. Đối với doanh nghiệp tư nhân thì vốn là do chủ doanh nghiệp tư nhân tự bỏ ra, cũng có thể huy động thêm từ bên ngoài dưới hình thức đi vay. Loại doanh nghiệp này không được phép phát hành một loại chứng khoán nào trên thị trường để tăng vốn. Phần thu nhập sau thuế thuộc quyền sở hữu và sử dụng của chủ doanh nghiệp. Còn đối với công ty trách nhiệm hữu hạn
2. Nguyên tắc tổ chức tài chính doanh nghiệp
Tổ chức tài chính của doanh nghiệp không những chỉ dựa vào các nhân tố trên mà còn phải quán triệt đầy đủ các nguyên tắc sau đây:
Thứ nhất: Nguyên tắc tôn trọng luật pháp
Trong nền kinh tế thị trường, mục tiêu chung của các doanh nghiệp là đều hướng tới lợi nhuận. Vì lợi nhuận tối đa mà các doanh nghiệp có thể kinh doanh với bất cứ giá nào có thể phương hại tới lợi ích quốc gia, đến lợi ích của các doanh nghiệp khác. Do đó, song song với bàn tay vô hình của nền kinh tế thị trường phải có bàn tay hữu hình của nhà nước để điều chỉnh nền kinh tế. Nhà nước đã sử dụng hàng loạt các công cụ như luật pháp, chính sách tài chính, tiền tệ, giá cả... để quản lý vĩ mô nền kinh tế. Các công cụ đó một mặt tạo điều kiện kích thích mở rộng đầu tư, tạo môi trường kinh doanh, mặt khác tạo ra khuôn khổ luật pháp kinh doanh rất chặt chẽ. Vì vậy, nguyên tắc hàng đầu của tổ chức tài chính doanh nghiệp là phải tôn trọng luật pháp. Doanh nghiệp phải hiểu luật để đầu tư đúng hướng - nơi được nhà nước khuyến khích (như giảm thuế, tài trợ tín dụng...)
Thứ hai: Nguyên tắc hạch toán kinh doanh
Hạch toán kinh doanh là nguyên tắc quan trọng nhất, quyết định tới sự sống còn của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Yêu cầu tối cao của nguyên tắc này là lấy thu bù chi, có doanh lợi. Nó hoàn toàn trùng hợp với mục tiêu của các
2. Nguyên tắc tổ chức tài chính doanh nghiệp
Tổ chức tài chính của doanh nghiệp không những chỉ dựa vào các nhân tố trên mà còn phải quán triệt đầy đủ các nguyên tắc sau đây:
Thứ nhất: Nguyên tắc tôn trọng luật pháp
Trong nền kinh tế thị trường, mục tiêu chung của các doanh nghiệp là đều hướng tới lợi nhuận. Vì lợi nhuận tối đa mà các doanh nghiệp có thể kinh doanh với bất cứ giá nào có thể phương hại tới lợi ích quốc gia, đến lợi ích của các doanh nghiệp khác. Do đó, song song với bàn tay vô hình của nền kinh tế thị trường phải có bàn tay hữu hình của nhà nước để điều chỉnh nền kinh tế. Nhà nước đã sử dụng hàng loạt các công cụ như luật pháp, chính sách tài chính, tiền tệ, giá cả... để quản lý vĩ mô nền kinh tế. Các công cụ đó một mặt tạo điều kiện kích thích mở rộng đầu tư, tạo môi trường kinh doanh, mặt khác tạo ra khuôn khổ luật pháp kinh doanh rất chặt chẽ. Vì vậy, nguyên tắc hàng đầu của tổ chức tài chính doanh nghiệp là phải tôn trọng luật pháp. Doanh nghiệp phải hiểu luật để đầu tư đúng hướng - nơi được nhà nước khuyến khích (như giảm thuế, tài trợ tín dụng...)
Thứ hai: Nguyên tắc hạch toán kinh doanh
Hạch toán kinh doanh là nguyên tắc quan trọng nhất, quyết định tới sự sống còn của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Yêu cầu tối cao của nguyên tắc này là lấy thu bù chi, có doanh lợi. Nó hoàn toàn trùng hợp với mục tiêu của cácngược lại. Điều này đòi hỏi các nhà tài chính phải có những quyết sách đúng đắn trong các thời cơ thích hợp để lựa chọn phương án đầu tư vừa đảm bảo an toàn, vừa mang lại hiệu quả cao. Ngoài các giải pháp lựa chọn phương án an toàn trong kinh doanh, cần thiết phải tạo lập quỹ dự phòng (quỹ dự trữ tài chính) hoặc tham gia bảo hiểm. Mặt khác, việc thành lập công ty, hình thức phát hành cổ phiếu cũng là biện pháp vừa để tập trung vốn, vừa để san sẻ rủi ro cho các cổ đông nhằm tăng độ an toàn vốn trong kinh doanh của doanh nghiệp.
Trên đây là những nguyên tắc rất cơ bản cần được quán triệt trong công tác tổ chức tài chính doanh nghiệp. Để sử dụng tốt công cụ tài chính doanh nghiệp, cần thiết phải tìm hiểu những nội dung hoạt động của tài chính doanh nghiệp.
III. NHỮNG NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA HOẠT ĐỘNG TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP.
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động của tài chính doanh nghiệp có vị trí quan trọng đặc biệt, chi phối tất cả các khâu của quá trình kinh doanh của một doanh nghiệp.
Tuỳ từng loại hình doanh nghiệp mà có những nội dung hoạt động tài chính khác nhau, trọng tâm và mức độ quản lý trong từng khâu cũng khác nhau. Ở phần này chỉ giới thiệu nội dung hoạt động tài chính của doanh nghiệp phi tài chính (doanh nghiệp sản xuất kinh doanh). Hoạt động tài chính của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh bao gồm những nội dung chủ yếu sau đây:
1. Quản lý sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp
Trong nội dung hoạt động tài chính của doanh nghiệp, quản lý và sử dụng vốn kinh doanh là khâu quan trọng nhất, có tính chất quyết định tới mức độ tăng trưởng hoặc suy thoái của một doanh nghiệp. Quản lý sử dụng vốn kinh doanh bao gồm nhiều khâu như xác định nhu cầu vốn kinh doanh, khai thác tạo lập vốn kinh doanh, đầu tư sử dụng và bảo toàn vốn kinh doanh...Vậy vốn kinh doanh là gì, nó có những đặc trưng gì trong quá trình vận động của nó. Nhận thức được vấn đề này không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa trong việc định ra ngược lại. Điều này đòi hỏi các nhà tài chính phải có những quyết sách đúng đắn trong các thời cơ thích hợp để lựa chọn phương án đầu tư vừa đảm bảo an toàn, vừa mang lại hiệu quả cao. Ngoài các giải pháp lựa chọn phương án an toàn trong kinh doanh, cần thiết phải tạo lập quỹ dự phòng (quỹ dự trữ tài chính) hoặc tham gia bảo hiểm. Mặt khác, việc thành lập công ty, hình thức phát hành cổ phiếu cũng là biện pháp vừa để tập trung vốn, vừa để san sẻ rủi ro cho các cổ đông nhằm tăng độ an toàn vốn trong kinh doanh của doanh nghiệp.
Trên đây là những nguyên tắc rất cơ bản cần được quán triệt trong công tác tổ chức tài chính doanh nghiệp. Để sử dụng tốt công cụ tài chính doanh nghiệp, cần thiết phải tìm hiểu những nội dung hoạt động của tài chính doanh nghiệp.
III. NHỮNG NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA HOẠT ĐỘNG TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP.
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động của tài chính doanh nghiệp có vị trí quan trọng đặc biệt, chi phối tất cả các khâu của quá trình kinh doanh của một doanh nghiệp.
Tuỳ từng loại hình doanh nghiệp mà có những nội dung hoạt động tài chính khác nhau, trọng tâm và mức độ quản lý trong từng khâu cũng khác nhau. Ở phần này chỉ giới thiệu nội dung hoạt động tài chính của doanh nghiệp phi tài chính (doanh nghiệp sản xuất kinh doanh). Hoạt động tài chính của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh bao gồm những nội dung chủ yếu sau đây:
1. Quản lý sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp
Trong nội dung hoạt động tài chính của doanh nghiệp, quản lý và sử dụng vốn kinh doanh là khâu quan trọng nhất, có tính chất quyết định tới mức độ tăng trưởng hoặc suy thoái của một doanh nghiệp. Quản lý sử dụng vốn kinh doanh bao gồm nhiều khâu như xác định nhu cầu vốn kinh doanh, khai thác tạo lập vốn kinh doanh, đầu tư sử dụng và bảo toàn vốn kinh doanh...Vậy vốn kinh doanh là gì, nó có những đặc trưng gì trong quá trình vận động của nó. Nhận thức được vấn đề này không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa trong việc định ra
1.2 Đầu tư vốn kinh doanh
Căn cứ vào mục đích kinh doanh của doanh nghiệp, vốn đầu tư được đồng nghĩa với vốn kinh doanh. Đó là số vốn được dùng vào kinh doanh trong một lĩnh vực nhất định nhằm mục đích sinh lời. Đầu tư vốn là hoạt động chủ quan có cân nhắc của người quản lý trong việc bỏ vốn vào một mục tiêu kinh doanh nào đó với hy vọng sẽ đưa lại hiệu quả kinh tế cao trong tương lai. Việc bỏ vốn vào mục đích
Trong mục tiêu đầu tư cụ thể của doanh nghiệp, đầu tư của doanh nghiệp được chia thành các loại sau:
- Đầu tư cho việc tăng năng lục sản xuất của doanh nghiệp.
- Đầu tư cho đổi mới sản phẩm.
- Đầu tư thay đổi thiết bị công nghệ.
- Đầu tư để mở rộng tiêu thụ sản phẩm, tăng năng lực cạnh tranh.
- Đầu tư tài chính ra bên ngoài.
1.3. Nguồn vốn kinh doanh
Để tiến hành sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần có vốn: vốn đầu tư ban đầu và vốn bổ sung để mở rộng sản xuất kinh doanh. Đối với một doanh nghiệp, vốn đầu tư được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau. Có thể có các nguồn vốn do Ngân sách Nhà nước cấp, nguồn vốn do chủ kinh doanh bỏ ra, nguồn vốn tích lũy được trong quá trình kinh doanh, nguồn vốn do liên doanh, nguồn vốn từ phát hành cổ phiếu và nguồn vốn huy động khác.
Nguồn vốn từ Ngân sách nhà nước: là nguồn vốn do Ngân sách nhà nước cấp cho các doanh nghiệp nhà nước lúc mới hình thành doanh nghiệp. Nguồn vốn Ngân sách nhà nước cấp phát cho các doanh nghiệp nhà nước sẽ có xu hướng giảm đáng kể cả về tỷ trọng và số lượng. Các doanh nghiệp nhà nước phải chủ dộng bổ sung vốn bằng các nguồn tài trợ khác.
Nguồn vốn tự có là nguồn vốn do chủ đầu tư bỏ ra. Nguồn vốn gốc của vốn tự có là tiền để dành, tích lũy được từ lợi nhuận hàng năm của doanh nghiệp hoặc huy động vốn cổ phần do phát hành cổ phiếu. Cổ phiếu là giấy chứng nhận quyền sở hữu của số vốn đã góp vào công ty cổ phần và nhờ đó được hưởng những quyền lợi của doanh nghiệp. Huy động vốn bằng cách phát hành cổ phiếu là một phương thức huy động có hiệu quả các nguồn tài chính trong xã hội để có một số vốn lớn, ổn định cho đầu tư kinh doanh.
Theo luật kinh doanh, để được kinh doanh trong một lĩnh vực nhất định, vốn tự có của doanh nghiệp đạt đến một quy mô nhất định. Nhà nước quy định bắt buộc khi doanh nghiệp ra đời phài có vốn pháp định ở mức mà luật pháp quy định cho từng ngành nghề, đồng thời phải có vốn điều lệ để hoạt động với yêu cầu vốn điều lệ không nhỏ hơn vốn pháp định.
Nguồn vốn liên doanh: là những nguồn đóng góp theo tỷ lệ giữa các chủ đầu tư để cùng kinh doanh và cùng hưởng lợi nhuận. Việc góp vốn liên doanh có thể được hình thành từ nhiều nguồn tùy theo từng loại hình doanh nghiệp, có thể là liên doanh giữa nguồn vốn ngân sách với các nguồn vốn tự có của tư nhân, liên doanh giữa vốn ngân sách của quốc gia này với quốc gia khác hoặc liên doanh giữa tư nhân với nhau ... Hình thức góp vốn liên doanh thích hợp với các công ty có quy mô nhỏ, tổ chức quản lý sản xuất và quản lý vốn, chia lãi giản đơn.
Nguồn vốn tín dụng: là khoản vốn mà doanh nghiệp có thể vay dài hạn của các ngân hàng thương mại, công ty tài chính, công ty bảo hiểm hoặc các tổ chức tài chính trung gian khác, huy động của cán bộ công nhân viên làm việc trong doanh nghiệp hoặc vay nước ngoài theo cơ chế tự vay tự trả, cũng có thể bằng hình thức doanh nghiệp phát hành trái phiếu để huy động vốn cho đầu tư kinh doanh. Trái phiếu là phiếu nhận nợ do doanh nghiệp phát hành khi vay vốn của người khác để kinh doanh, cam kết trả lợi tức và hoàn trả vốn vay theo thời hạn nhất định. Theo định kỳ, doanh nghiệp phải trả cho người có trái phiếu một khoản lợi tức cố định và
1.4. Sử dụng và bảo toàn vốn kinh doanh
Căn cứ vào công dụng kinh tế thì vốn kinh doanh của doanh nghiệp được chia thành vốn cố định, vốn lưu động và vốn đầu tư tài chính. Các loại vốn này có đặc điểm chu chuyển khác nhau. Chính sự khác nhau về đặc điểm chu chuyển đó đã chi phối đến phương thức quản lý, phương thức bù đắp và bảo toàn vốn cũng khác nhau.
1.4.1. Vốn cố định
Vốn cố định của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền toàn bộ TSCĐ của doanh nghiệp. TSCĐ của doanh nghiệp là những tài sản có giá trị lớn, thời gian sử dụng dài, có chức năng là tư liệu lao động.
TSCĐ của doanh nghiệp có thể chia thành
1.4.2. Vốn lưu động
Vốn lưu động là biểu hiện bằng tiền toàn bộ tài sản lưu động của doanh nghiệp phục vụ cho quá trình kinh doanh của doanh nghiệp.
Tài sản lưu động của doanh nghiệp chia làm hai loại:
- Tài sản lưu động sản xuất (nguyên nhiên vật liệu, bán thành phẩm, sản phẩm dở dang ...)
- Tài sản lưu thông (sản phẩm thành phẩm chờ tiêu thụ, các loại vốn bằng tiền, vốn trong thanh toán, chi phí trả trước ...)
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, tài sản lưu động sản xuất và tài sản lưu động lưu thông luôn vận động, thay thế và chuyển hoá lẫn nhau, đảm bảo cho quá trình sản xuất được tiến hành liên tục.
Đặc điểm của tài sản lưu động là tham gia vào từng chu kỳ sản xuất, tài sản lưu động bị tiêu dùng hoàn toàn trong việc chế tạo ra sản phẩm và thay đổi hình thái biểu hiện.
1.4.3. Vốn đầu tư tài chính
Một bộ phận vốn kinh doanh của doanh nghiệp được đầu tư dài hạn ra bên ngoài nhằm mục đích sinh lời gọi là vốn đầu tư tài chính của doanh nghiệp.
Có nhiều hình thức đầu tư tài chính ra bên ngoài như: Doanh nghiệp bỏ vốn mua cổ phiếu, trái phiếu của các công ty khác, góp vốn liên doanh với các doanh nghiệp khác. Mục đích của đầu tư tài chính ra bên ngoài là nhằm thu lợi nhuận và đảm bảo an toàn về vốn. Đối với doanh nghiệp, trước khi đi tới quyết định đầu tư tài chính ra bên ngoài cần phải hết sức thận trọng, cân nhắc độ an toàn và độ tin cậy
2. Chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản phẩm của doanh nghiệp.
2.1. Chi phí sản xuất kinh doanh
Thực hiện các mục tiêu của kinh doanh, doanh nghiệp phải bỏ ra những chi phí trong quá trình sản xuất kinh doanh. Chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là biểu bằng tiền của các yếu tố phục vụ cho quá trình sản xuất và kinh doanh của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định. Chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra bao gồm chi phí cho việc sản xuất sản phẩm, chi phí tổ chức tiêu thụ sản phẩm và những khoản tiền thuế gián thu nộp cho nhà nước theo luật thuế quy định (thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu ...). Tuy nhiên, các doanh nghiệp thuộc các ngành kinh tế kỹ thuật khác nhau thì nội dung cơ cấu chi phí sẽ không giống nhau. Điều quan trọng đối với tất cả các doanh nghiệp là phải luôn quan tâm đến tiết kiệm chi phí vì nếu chi phí không hợp lý, không đúng với thực tế của nó đều gây ra những trở ngại trong quản lý và đều giảm lợi nhuận của doanh nghiệp.
2.2. Giá thành sản phẩm của doanh nghiệp
Giá thành sản phẩm của một doanh nghiệp biểu hiện chi phí cá biệt của doanh nghiệp để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Giữa chi phí sản xuất sản phẩm và giá thành sản phẩm có sự giống nhau và khác nhau. Chi phí sản xuất hợp thành giá thành sản phẩm nhưng không phải toàn bộ chi phí phát sinh trong kỳ đều được tính vào giá thành sản phẩm. Giá thành sản phẩm chỉ biểu hiện lượng chi phí để hoàn thành việc sản xuất và tiêu thụ một đơn vị sản phẩm hay một khối lượng sản phẩm. Còn chi phí sản xuất và tiêu thụ thể hiện số chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra để sản xuất và tiêu thụ trong một thời kỳ nhất định.
3. Doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp
3.1. Doanh thu của doanh nghiệp
Kết thúc quá trình kinh doanh , doanh nghiệp thu được một khoản tiền nhất định, đó là doanh thu của doanh nghiệp. Doanh thu của doanh nghiệp là toàn bộ số tiền mà doanh nghiệp thu được nhờ đầu tư kinh doanh trong một thời kỳ nhất định.
Doanh thu từ các hoạt động liên doanh liên kết với các đơn vị và tổ chức khác, từ các nghiệp vụ đầu tư tài chính.
Doanh thu khác như thu về nhượng bán vật tư ứ đọng, các khoản được bồi thường, các khoản nợ vắng chủ hay nợ không ai đòi...
3.2. Lợi nhuận của doanh nghiệp
Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng từ hoạt động sản xuất kinh doanh, là chỉ tiêu chất lượng để đánh giá hiệu quả kinh tế các hoạt động của doanh nghiệp. Lợi nhuận của doanh nghiệp là khoản tiền chênh lệch giữa doanh thu và chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra để đạt được doanh thu đó từ các hoạt động của doanh nghiệp đưa lại.
Nội dung lợi nhuận của doanh nghiệp bao gồm: lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh, lợi nhậun từ các hoạt động khác như hoạt động liên doanh, liên kết, các hoạt động thuộc các dịch vụ tài chính...
IV.QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
Quản lý nhà nước về tài chính là một trong những nhiệm vụ quan trọng để Nhà nước XHCN điều hành và quản lý nền kinh tế đất nước, hình thành và đảm bảo các cân đối chủ yếu và tỷ lệ phát triển của nền kinh tế quốc dân. Nhà nước sử dụng tài chính, tiền tệ để kích thích doanh nghiệp quan tâm đến việc hoàn thành nhiệm vụ kế hoạch, nâng cao tối đa hiệu quả sản xuất xã hội và thực hiện việc kiểm soát của nhà nước đối với hoạt động sản xuất kinh doanh.
van de chung cua TD
6.1.1. Sự ra đời và phát tríen cua TD
Tín dụng là một phạm trù kinh tế, ra đời và phát triển gắn liền với nền kinh tế sản xuất hàng hoá và là sản phẩm của nền sản xuất hàng hoá.
Sù ra doi: Lực lượng sản xuất phát triển + sự phân công lao động xã hội à Chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất à cơ sở hình thành nên quá trình phân hoá xã hội. Để duy trì cuộc sống của mọi thành viên trong xã hội, tất yếu phải diễn ra quá trình điều hoà sản phẩm từ nơi thừa đến nơi thiếu và hiện tượng vay mượn (tín dụng) xuất hiện.
Quá trình phát triển của tín dụng:
- Tín dụng nặng lãi: hình thức TD sơ khai nhất, lãi suất rất cao, thường phục vụ nhu cầu tiêu dùng cấp bách và thường dẫn đến tình trạng phá sản của người vay.
- Tín dụng trong nền kinh tế thị trường: đáp ứng nhu cầu vay vốn của các chủ thể kinh tế, lãi suất hợp lý, thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Khai niệm:
Hẹp : TD là quan hệ vay mượn giuẵ người cho vay và người đi vay về 1 lượng giá trị nhất định dưới hình thái tiền tệ hoặc hiện vật
Rộg: TD là hệ thống QHKT phát sinh tong quá trình chuyển quyền sử dụng 1 lươngj giá trị nhất định từ chủ thể này sang chủ thể khác trên ngtắc hoàn trả.
SO SANh giua bao hiem va tin dung ta thya khac nhau ro rang o nguyen tac hoan tra..
2LOAI : TD nang lai va TD theo co che thi truong:
TD nang lai: Lai suat cao, phuc vu cho muc dich tieu dung la chu yeu, QH TD duoi hinh thai hien vat la chu yeu, khong co tinh thong nhat tren toan lanh tho.
TD theo co che thi truong : Lai suat dua tren co so cung cau von tren thi truong, phuc vu cho muc dich kinh doanh la chu yeu, QHTD duoi hinh thai gia tri la chu yeu, co tinh thong nhat tren pham vi toan lanh tho.
ĐẶC ĐIỂM:
TD mang tính hoàn trả : Lượng vốn chuyển nhượng phải được hoàn trả đúng hạn cả gốc lẫn lãi.
Trong QHTD, quyền sở hữu, quyền sử dụng vốn tách rời nhau.
Lợi tức TD là 1 laọi giá cả đặc biệt, mà giá cả là biểu hiện của giá trị
PHÂN LOẠI :
Can cu vao doi tuong cap tin dung : Tin dung hang hoa ( doi tuong cap tin dugn la hang hoa)va tin dung tien te ( la tien)
Can cu vao chu the cap tin dung : TD ngan hang, nha nuoc, ca nhan, cac to chuc tai chinh quoc te
\Can cu vao thoi han tin dung : ngan han, va dai han
Pham vi phat sinh cac QHTD : trong nuoc va quoc te.
Can cu vao muc dich sd von vay:TD SX va TD tieu dung.
Vai tro cua TD:
TD thuc day qua trinh tai Sx mo rong nen KTE
Thong qua hoat dong TD, von da duoc cap kip thoi dam bao choqua trinh san xuat kinh doanh dien ra 1 cach thuong xuyen lien tuc.
TD la cong cu dieu tiet nen KT vi mo cua nha nuoc.NN sdung TD lam ptien can doi thu chi NSNN, thong qua viec thay doi, dieu chinh lai suat TD dan den thay doi quy mo TD va chuyen huong van dong cua nguon von TD.
NN su dung TD de dieu tiet, huy dong tien te qua do on dinh gia ca hang hoa, can doi tien hang.
Lãi suất tín dụng là một chỉ tiêu biểu thị mối quan hệ giữa tổng giá cả tín dụng với tổng số tiền cho vay trong một thời gian nhất định.
Tổng giá cả tín dụng trong kỳ
Lãi suất TD = x 100%
Tổng số tiền cho vay trong kỳ
Đơn vị tính của lãi suất tín dụng là %/ năm (ngày, tháng)
Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất tín dụng:
+++Quan hệ cung cầu vốn trên thị trường, Duong cung von va cau von giao nhau tai diem xac dinh muc lai suat TD tren thi truong( qua bieu do)
CUng hon cau, Nguoi cho vay nhieu hon nguoi div ay, day muc lai suat xuong thap.
Cung va cau von se tac dong den xu the hinh thanh cho vay theo 2 huong..
Cung hon cau: I giam , cung be hon cau, I tang
+++ Lam phat:
LP tang, I tang.
Khi LP tang, NN muon giam luong tien trong luu thong, tang I de giam quy mo TDung.
Voi cac chu the khac: LP tang, di rut tien, cung von giam, I tang,...de dam bao lai suat cua NHang... can co nhung chinh sach hop ly.
++++++ chinh sach cua Ngan hang:
Ket hop giua tai khoa: va tien te:
++ Rui r ova ky han TD: rui ro cang cao lai suat cang cao, ky han cang lau lai suat cang cao.
CAC HINH THUC TD CHU YEU:
TD thuong mai, ngan hang, nha nuoc, thue mua
+Lãi suất tiền gửi có kỳ hạn: là loại lãi suất áp dụng đối với những khoản tiền gửi có xác định rõ thời hạn gửi tiền ( 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng...)
Lãi suất cho vay: là loại lãi suất quy định tỷ lệ lãi mà người đi vay phải trả cho người cho vay. Về nguyên tắc, trong điều kiện bình thường, lãi suất cho vay không được nhỏ hơn lãi suất huy động để đảm bảo cho tổ chức kinh doanh tín dụng có lãi.
Lãi suất chiết khấu: là lãi suất cho vay ngắn hạn của ngân hàng thương mại đối với khách hàng dưới hình thức chiết khấu các giấy tờ có giá chưa đến thời hạn thanh toán.
Lãi suất tái chiết khấu: là lãi suất cho vay ngắn hạn của Ngân hàng trung ương ấn định cho từng thời kỳ, căn cứ vào mục tiêu chính sách tiền tệ. Lãi suất này được dùng để kiểm soát và điều tiết sự biến động lãi suất trên thị trường. Đối với ngân hàng thương mại, lãi suất tái chiết khấu là lãi suất gốc để từ đó ấn định lãi suất chiết khấu và lãi suất cho vay khác.
Lãi suất thị trường liên ngân hàng: là lãi suất mà các ngân hàng áp dụng khi cho nhau vay vốn trên thị trường liên ngân hàng. Lãi suất thị trường liên ngân hàng được ấn định hàng ngày vào mỗi buổi sáng. Nó được hình thành bởi quan hệ cung cầu vốn của các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng khác và chịu sự chi phối bởi lãi suất chiết khấu.
Các loại lãi suất tín dụng khác:
Lãi suất LIBOR và PIBOR là lãi suất trên thị trường liên ngân hàng London và Paris, là lãi suất đối với tiền gửi bằng đôla hay ngoại tệ khác mà theo đó các ngân hàng lớn làm căn cứ để đi vay và cho vay trên thị trường tiền tệ châu Âu. LIBOR phản ánh điều kiện thị trường nên được các ngân hàng sử dụng rộng rãi làm cơ sở để ấn định lãi suất các món vay.
Quan hệ cung cầu về vốn trên thị trường:
Quan hệ cung cầu tín dụng tác động và làm thay đổi lãi suất trên từng loại thị trường tín dụng (ngắn hạn, trung hạn, dài hạn), loại tiền cho vay, khu vực và trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Nếu cung lớn hơn cầu tín dụng thì mức lãi suất tín dụng sẽ hạ xuống, còn cung tín dụng nhỏ hơn cầu tín dụng thì mức lãi suất sẽ tăng lên
Lạm phát: lạm phát ảnh hưởng rất lớn tới lãi suất, khi lạm phát tăng lên trong một thời kỳ nào đó thì lãi suất có xu hướng tăng lên. Thực tế khi lam phát tăng, NHTW sẽ tăng lãi suất tín dụng để "hút" bớt lượng tiền trong lưu thông, đồng thời người có vốn và các nhà kinh doanh vốn sẽ không dám cho vay vì họ sợ vốn của mình bị "mất giá", do đó thay vì cho vay vốn họ chuyển sang dự trữ hàng hóa, ngoại tệ, kim loại quý hoặc đầu tư ra nước ngoài, dẫn đến cung vốn giảm cho nên lãi suất tín dụng tăng.
Rủi ro và kỳ hạn tín dụng: : mức độ rủi ro của các khoản vay càng cao thì lãi suất cho vay càng lớn do phần bù rủi ro làm cho lãi suất tăng lên. Kỳ hạn cho vay càng dài thì lãi suất cho vay càng cao, do thời hạn cho vay dài thường làm rủi ro đối với các khoản vay lớn hơn như rủi ro thanh khoản, rủi ro lạm phát ...
Chính sách vĩ mô của Nhà nước:
+ Chính sách tài khóa (thuế và chi tiêu của chính phủ): Bội chi ngân sách là một bộ phận trong cầu quỹ cho vay nên khi bội chi ngân sách tăng làm cho cầu quỹ cho vay tăng theo kéo theo lãi suất có xu hướng tăng.
+ Chính sách tiền tệ ( dự trữ bắt buộc, lãi suất tái chiết khấu, nghiệp vụ thị trường mở) : nhằm kiểm soát lượng cung tiền, kiểm soát lạm phát và tác dộng tới lãi suất để thực hiện các mục tiêu cơ bản ổn định tăng trưởng kinh tê, phát triển bền vững...trong đó có chính sách ổn định giá trị đồng nội tệ, ổn định lãi suất tín dụng, chông thâm hụt ngân sách nhà nước. Vì vậy một sự thay đổi trong chính sách tiền tệ của chính phủ sẽ tác động lớn đến nhiều mặt của nền kinh tế mà trước hết là sự thay đổi của lãi suất tín dụng
Tỷ suất lợi nhuận bình quân của nền kinh tế: hoạt động của các doanh nghiệp là nền tảng của hoạt động tín dụng. Do đó tỷ suất lợi nhuận bình quân của nền kinh tế là cơ sở để xác định lãi suất tín dụng hợp lý. Thông thường mức lãi suất tín dụng nhỏ hơn tỷ suất lợi nhuận bình quân. Đó là hài hòa lợi ích giữa người đi vay và người cho vay.
Một số nhân tố khác: mức độ phát triển của các thể chế tài chính trung gian và mức độ cạnh tranh trong hoạt động cung cấp dich vụ tín dụng và sự phát triển thị trường tài chính cùng với phát triển mạnh mẽ công nghệ thông tin thông tin góp phần giảm chi phí quản lý, giao dịch...kéo theo lãi suất có xu hướng giảm xuống. Bên cạnh đó, tình hình về chính trị cũng như biến động của tài chính quốc tế như khủng hoảng tài chính tiền tệ ... cũng ảnh hưởng đến sự thay đổi của lãi suất.
6.3.1. TÝn dông th¬¬ng m¹i
Kh¸i niÖm: Tín dụng thương mại là quan hệ tín dụng giữa các nhà SXKD với nhau, được biểu hiện dưới hình thức mua - bán chịu hàng hóa.
§èi t¬îng tÝn dông: là hàng hóa, nó là lượng vốn ở khâu cuối cùng của chu kỳ SXKD, đang chuẩn bị chuyển hóa thành tiền.
Chñ thÓ tÝn dông: là các doanh nghiệp trực tiếp SXKD hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ. Trong đó, bên cho vay là doanh nghiệp bán chịu và bên đi vay là doanh nghiệp mua chịu hàng hóa.
Cơ sở pháp lý xác định quan hệ nợ nần trong tín dụng thương mại là giấy nợ, còn được gọi là kỳ phiếu thương mại hay thương phiếu.
6.3.2. TÝn dông ng©n hµng
Kh¸i niÖm: tín dụng ngân hàng là các quan hệ vay mượn vốn tiền tệ phát sinh giữa các ngân hàng với các chủ thể kinh tế khác trong nền kinh tế theo các nguyên tắc của tín dụng.
§Æc ®iÓm:
• Tín dụng ngân hàng huy động vốn và cho vay đều thực hiện dưới hình thức tiền tệ.
• Trong tín dụng ngân hàng, các ngân hàng đóng vai trò là tổ chức trung gian trong quá trình huy động vốn và cho vay vốn.
Ưu điểm của tín dụng ngân hàng
• Về khối lượng tín dụng: Tín dụng ngân hàng có khả năng cung ứng những khoản vốn lớn đáp ứng đầy đủ nhu cầu vay của khách hàng.
• Do đối tượng của tín dụng ngân hàng là tiền tệ và các hình thức huy động vốn phong phú nên có thể huy động tiền tệ tạm thời nhàn rỗi từ mọi chủ thể của nền kinh tế, kể cả nguồn vốn giữa các ngân hàng với nhau. Điều đó đã tạo cho ngân hàng có khả năng tài chính lớn để đáp ứng nhu cầu vay của khách hàng.
• Về thời hạn tín dụng: Một đặc điểm ưu việt của ngân hàng là có thể dùng các khoản vay ngắn hạn để cho vay dài hạn với lãi suất chênh lệch nhờ có quỹ dự trữ của ngân hàng. Do vậy, ngân hàng có điều kiện đáp ứng nhu cầu của người tích luỹ cũng như người đầu tư.
• Về phạm vi tín dụng: Tín dụng ngân hàng có phạm vi huy động vốn cũng như cho vay rất lớn, liên quan đến nhiều chủ thể khác nhau trong xã hội. Do đó, đối tượng cũng như phạm vi của tín dụng rất rộng.
Hạn chế của tín dụng ngân hàng
• Mức độ rủi ro: Hạn chế cơ bản của ngân hàng là có độ rủi ro cao, do việc ngân hàng có thể cho vay số tiền lớn hơn nhiều so với số vốn tự có hoặc có sự chuyển hóa thời hạn và phạm vi tín dụng rất rộng. Những rủi ro về khả năng thu hồi vốn vay hoặc đầu tư vào dự án có lợi nhuâj thấp...có nguyên nhân cơ bản từ sự lựa chọn đối nghịch hay rủi ro đạo đức.
• Tỷ suất lợi nhuận: thường thấp hơn tỷ suất lợi nhuận của các hình thức đầu tư khác như đầu tư chứng khoán...
6.3.3. TÝn dông nhµ n¬íc
Khái niệm: là hình thức tín dụng phản ánh mối quan hệ tín dụng giữa nhà nước với dân cư và các chủ thể kinh tế khác, trong đó nhà nước là người đi vay (thông qua việc phát hành công trái, phát hành trái phiếu chính phủ...) đồng thời nhà nước cũng là chủ thể cho vay để đảm bảo chức năng và nhiệm vụ của nhà nước trong quản lý kinh tế xã hội
Đặc điểm
• Đối tượng của tín dụng Nhà nước là tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong xã hội. Nhà nước huy động lượng tiền tệ này để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của mình, đồng thời tiến hành cho vay đối với một số ngành, lĩnh vực nhất định và thường là cho vay ưu đãi.
• Nhà nước vừa là người đi vay, vừa là người cho vay, trong đó nhà nước là người đi vay là chủ yếu.
• Công cụ sử dụng trong tín dụng Nhà nước là trái phiếu chính phủ. Ở nước ta hiện nay, vay nợ của Chính phủ được thực hiện chủ yếu dưới hình thức phát hành trái phiếu chính phủ do bộ tài chính phát hành
Ưu điểm và hạn chế của tín dụng Nhà nước
• Tín dụng Nhà nước có độ an toàn cao và các công cụ huy động vốn (tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc...) thường có tính thanh khoản cao.
• Tín dụng Nhà nước không chỉ bù đắp bội chi NSNN mà nó còn là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế, góp phần điều chỉnh lạm phát, điều hoà lưu thông tiền tệ, thực hiện chính sách xã hội của Nhà nước.
• Tuy nhiên, nếu mức độ huy động không hợp lý thì có thể dẫn đến tình trạng chèn lấn đầu tư của tư nhân do Chính phủ huy động vốn qua phát hành trái phiếu, gây sức ép tăng lãi suất khiến cho đầu tư của tư nhân giảm xuống.
6.3.4. Thuª tµi chÝnh (tÝn dông thuª mua)
Kh¸i niÖm
Cho thuê tài chính là một dịch vụ tín dụng trung dài hạn thông qua việc cho thuê tài sản trên cơ sở hợp đồng giữa hai bên cho thuê với bên thuê, trong đó bên cho thuê nắm giữ quyền sở hữu tài sản và chuyển giao quyền sử dụng tài sản cùng với các rủi ro và lợi ích gắn liền với quyền sở hữu tài sản cho ng¬ười đi thuê trong một thời gian nhất định. Khi kết thúc thời hạn thuê, quyền sở hữu tài sản, quyền chọn mua hoặc quyền thuê tiếp ®¬îc ng¬êi đi thuê lựa chọn theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng.
§Æc ®iÓm
- Bên cho thuê cam kết mua máy móc thiết bị, tài sản thuê theo yêu cầu của bên thuê và nắm quyền sở hữu đối với tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thoả thuận.
- Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được quyền lựa chọn mua lại tài sản thuê hoặc tiếp tục thuê theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng thuê tài chính.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top