CHƯƠNG 3 - BÍ MẬT LỚN NHẤT TRÊN THẾ GIỚI
Hồi thứ nhất
BÍ MẬT
Hội Tư Mã Khôi thấy nơi sâu trong miếu thần không có động tĩnh gì thì liền tắt đèn quặng, mượn ánh sáng yếu ớt của đom đóm nhốt trong hộp thiếc đi vòng qua thanh xà đá để xuống dưới chân tấm bia đá cao sừng sững, đứng đối diện lưng với tấm bia, rồi dừng lại, tim đập thình thịch, không ai dám quay đầu lại nhìn xem bên trên đó khắc chữ gì.
Hải ngọng hỏi Tư Mã Khôi: “Cuối cùng cũng đi đến cuối con đường, cậu mau nghĩ ra cách gì đi, rốt cuộc có xem tấm bia đá hay không?”
Tư Mã Khôi nói: “Xem thì chắc chắn là phải xem rồi, nhưng tớ vẫn chưa nghĩ ra được cách nào để xem”. Anh nói, rồi thò tay ra sờ tấm bia đá nặng nề và lạnh lẽo phía sau lưng, khi đầu ngón tay Tư Mã Khôi chạm vào những vết khắc lõm hẳn xuống, không rõ vì nguyên cớ gì mà tự nhiên da đầu anh lại có cảm giác tê bì.
Lúc này, Hải ngọng nói: “Sao tớ thấy chuyện này cứ tà mị thế nào ấy nhỉ, có đúng tấm bia đá này khiến người ta lăn quay ra chết vì sợ thật không?”
Thắng Hương Lân nói: “Tấm bia đá vô cùng cổ quái, càng đến nước này, chúng ta càng phải cẩn thận hơn, đi sai một bước là càn khôn khó xoay chuyển đấy!”.
Tư Mã Khôi cũng thấy lời Tháng Hương Lân nói rất đúng. Cả hội lúc này chỉ có hai con đường: con đường thứ nhất là không xem bí mật khác trên tấm bia nữa, trực tiếp nghĩ cách xóa những dòng chữ ấy đi, có điều hành động này cũng đồng nghĩa với việc mọi người sẽ mất cơ hội làm rõ chân tướng sự thật, và cũng không thể tưởng tượng được việc làm ấy sẽ dẫn tới những hậu quả gì; con đường thứ hai là chọn ra một thành viên, liều chết nhìn trộm bia đá, nếu lời nguyền chết chóc thực sự tồn tại, thì người này sẽ chết ngay lập tức, những thành viên khác chưa xem tấm bia đá vẫn sẽ không biết bí mật kinh thiên động địa kia rốt cuộc là gì. Có thể thấy, cả hai lựa chọn này đều không phải kế sách vẹn toàn.
Từ trước tới giờ, Tư Mã Khôi luôn là người hành sự quyết đoán, nhưng lúc này anh cùng không tránh khỏi do dự, tiến thoái lưỡng nan. Trong lúc Tư Mã Khôi đang đau đầu nghĩ cách thì Nhị Học Sinh đứng bên cạnh đột nhiên co người thu lu một đống, run rẩy cầu xin Tư Mã Khôi: “Đừng nhìn tấm bia đá nữa, tôi… tôi có chết cũng không dám quay đầu lại đâu…”
Cao Tư Dương nghe thấy vậy liền nhớ lại lời Hải ngọng nói lúc trước cho rằng Tư Mã Khôi là hạng người không coi mạng người ra gì, cô ngỡ anh đang ép buộc Nhị Học Sinh phải nhìn vào tấm bia, nên không nhịn được, cô nhướn lông mày, trừng mắt nhìn anh và nói: “Anh đúng là hạng phát xít mất hết nhân tính!”
Tư Mã Khôi ngớ người chưa hiểu sự tình, anh thấy Hải ngọng và Thắng Hương Lân cũng nhìn mình với ánh mắt quái dị, thì quay sang hỏi Nhị Học Sinh tại sao khi nãy lại nói vậy? Hay sợi thần kinh nào bị chập mạch?
Thì ra, Nhị Học Sinh đứng ngay cạnh Tư Mã Khôi, cũng quay lưng về phía tấm bia đá, trong khi nơm nớp lo sợ mình bị bắt làm bia đỡ đạn, là kẻ sẽ quay đầu lại xem tấm bia đá giết người kia, thì đột nhiên cậu ta cảm thấy phía sau có một bàn tay to lớn động đậy, trong bóng tối, cậu ta cứ ngỡ là Tư Mã Khôi đang cố ý dọa để lừa cậu ta quay đầu lại nhìn tấm bia, cậu ta sợ hết hồn, toàn thân run lẩy bẩy, nên quay sang van xin Tư Mã Khôi nương tay.
https://hoatanhoano.wordpress.com/
Hải ngọng nghe xong, bảo Tư Mã Khôi: “Cậu cũng thật là! Lúc nào rồi mà còn bày trò, nghiêm túc một tí cho tớ nhờ! Cậu phải biết nỗi sợ có sức mạnh giết người đấy biết chưa? Cậu nói xem, cậu vừa trêu trọc gì Nhị Học Sinh đấy? Mà trêu cậu ta thì được nước gì cơ chứ?”
Tư Mã Khôi thầm cảm thấy lạ, anh chửi: “Gà bịt đít thì đẻ thế mẹ nào được! Tớ chạm vào cậu ta lúc nào?”, anh vừa nói xong thì giật mình, trong đầu chợt lóe lên một ý nghĩ, lẽ nào trên tấm bia đá có thứ gì đó đang động đậy?
Lúc này, dưới ánh sáng đom đóm yếu ớt, Nhị Học sinh có thể nhìn thấy hai tay Tư Mã Khôi vẫn ôm chặt khẩu Winchester, thì biết ngay anh ta không thể sờ vào lưng cậu được, phía sau cậu ta giờ đây chỉ có tấm bia đá, trong khi đó bàn tay quái lạ lạnh lẽo vẫn đang ở sau vai. Nhị Học Sinh sợ hãi đến đỉnh điểm, cậu ta hoảng loạn bật đèn quặng quay ra sau nhìn, vừa quay ra sau, cổ cậu lập tức cứng đơ như hóa đá, không thể cử động được nữa.
Tư Mã Khôi đang đứng quay lưng về phía tấm bia đá, thấy Nhị Học Sinh đột nhiên ngoảnh đầu lại phía sau nhìn, anh vội vàng hét lên ngăn cản, nhưng Nhị Học Sinh chỉ đứng trơ ra đó, trừng mắt bất động, trên mặt còn vẹn nguyên nét méo mó do quá sợ hãi. Tư Mã Khôi biết cậu ta đã xảy ra chuyện, bèn giơ tay đẩy Nhọc Học Sinh ngã rầm xuống đất, cậu ta câm lặng không nói gì, cổ vẫn ngoẹo ra sau.
Mọi người kinh hãi, chạy lại gần đỡ Nhị Học sinh lên, lúc ấy họ mới phát hiện không còn thấy hơi thở và nhịp tim. Chẳng ngờ cậu ta lại lăn ra chết ngay trước tấm bia đá.
Hội Tư Mã Khôi từ rừng rậm nguyên sinh Thần Nông Giá xuống cửu tuyền dưới lòng đất, ngoại trừ cậu dân binh Hổ Tử mất mạng trong kho pháo lõi kép ở đinh Thần Nông ra, thì dẫu trên đường gặp nhiều hung hiểm, nhưng vẫn chưa bị tổn thất thêm thành viên nào, không ngờ vừa mới đến được tới tấm bia đá lại đột ngột mất đi một thành viên, nghĩ đến những kỷ niệm đồng cam cộng khổ bao ngày qua, nghĩ đến một người đang sống sờ sờ bỗng dưng biến thành một tử thi lạnh lẽo, mọi người đều thấy đau xót trong lòng.
Cao Tư Dương nhất thời không thể chấp nhận được sự thực, cô vẫn muốn cố gắng cứu sống Nhị Học Sinh, nên dùng tay liên tiếp ấn vào ngực cậu ta, máu đen từ miệng Nhị Học Sinh bất ngờ ùng ục trào ra ngoài. Cao Tư Dương vừa cuống, vừa buồn, nước mắt thi nhau tuôn rơi.
Mọi người thấy cảnh tượng ấy thì đều cảm giác lồng ngực mình nặng trịch như có tảng đá đè lên, rồi nghĩ đến hoàn cảnh trước mắt mà không khỏi lạnh sống lưng: “Xem ra chuyên sợ quá lăn ra chết là hoàn toàn có thật. Lẽ nào tấm bia đá đó có thể giết người thật sao?”
https://hoatanhoano.wordpress.com/
Hải ngọng cảm thán: “Đúng là đàn gẩy tai trâu, sớm biết không được nhìn tấm bia đó, sao tiểu tử nhà cậu vẫn dám quay đầu lại? Thế chẳng phải tự chui đầu vào chỗ chết hay sao hả Nhị Học Sinh?”
Thắng Hương Lân nói: “Tuy tính Nhị Học Sinh rất tò mò nhưng lại cũng rất nhát gan. Tôi dám chắc cậu ta không dám tự tiện quay đầu nhìn tấm bia đâu, nhưng sao khi nãy cậu ta lại đột nhiên quay đầu lại nhỉ? Hay là bị trúng tà?”
Khi trước, Tư Mã Khôi vốn đã quan sát thấy trên tấm bia đá có thứ gì đó khẽ động đậy, nên lúc này anh nín thở nghe ngóng xem quả thật có gì hay không, nhưng chờ hồi lâu mà phía sau vẫn hoàn toàn im ắng, không một tiếng động nhỏ.
Lúc này, Cao Tư Dương lấy tay áo quệt vệt nước mắt còn đọng cuối mi, cô nói: “Nhị Học Sinh là người rất hay sợ bóng sợ gió, nếu Tư Mã khôi và Hải ngọng không dọa, thì cậu ta cũng không đến nỗi vừa nghe thấy gió lay cỏ động đã vội quay đầu lại nhìn đâu”.
Thắng Hương Lân phân trần: “Hai người họ tuy hơi độc miệng, nhưng lòng dạ rất tốt, nhiều khi nói chỉ để nói chứ không có ác ý gì đâu”.
Cao Tư Dương không tin, cô bảo, bí mật khắc trên bia đá có thể giết chết người, không ai có thể phủ nhận chuyện này là sự thật, nhưng chỉ có cách quay đầu lại nhìn mới có thể biết rõ chân tướng của nó mà thôi, giờ đây chúng ta lại cần đi tìm sự thật, ắt phải có người phải hi sinh, chuyện này không cần phải nói ra, nhưng để giải câu đố tấm bia đá, thì nhất định phải thực hiện việc đó.
Tư Mã Khôi nói: “Ban đầu tôi cũng nghĩ giống cô, nếu không nhìn tấm bia đá thì vĩnh viễn không thể biết người Bái Xà để lại bí mật gì, nhưng nhìn rồi sẽ lăn ra chết ngay lập tức, bí mật khắc trên tấm bia giống như một mối nối không thể tháo gỡ, cũng không thể đi vòng qua, chỉ có người đã chết mới biết rốt cuộc trên tấm đá có gì. Tôi thực sự không tưởng tượng được trên đời này lại tồn tại vật như vậy, nhưng trời cao đất rộng, vật lạ gì mà chẳng có, nếu lỡ liếc nhìn một cái là lập tức phái trả giá bằng tính mạng, thì việc vén bức màn của toàn bộ chuỗi ẩn số này còn có tác dụng gì nữa? Có điều tôi cho rằng, sở dĩ chúng ta bị sa lầy trong ‘mối nối chết’ này là vì chúng ta chưa lý giải được quy tắc của bí mật, hay nói cách khác là chưa hiểu được quy tắc của cái chết”.
Mọi người chưa hiểu ý Tư Mã Khôi, liền thắc mắc: “Bí mật khắc trên tấm bia đá… còn có quy tắc sao?”
Để mọi người hiểu được ý mình, Tư Mã Khôi liền nhắc lại rất nhiều manh mối mà mình phái hiện thấy ở dưới cửu tuyền, những manh mối ấy đã giúp anh dần dần hình dung ra được tổng thể của tấm bia đá cổ xưa và quái dị này.
Bản thân tấm bia đá đứng sừng sững dưới lòng đất này không hề gây hại cho con người, nó chỉ là một khối đá macma khổng lồ mà thôi. Thời đó, có một con quái vật đầu người mình rắn, có lẽ đó chính là “xà nữ” bị mắc chứng thoái hóa trở về thời thủy tổ, bản thân nó chỉ là một cương thi vô tri vô giác, nó đã tiết lộ một bí mật kinh động trời đất, không một ai biết nguồn gốc của bí mật ở đâu, chỉ biết nó đến từ hư không, bởi người Bái Xà tin rằng các vị thần đã truyền đạt bí mật đó tới bộ tộc thông qua xà nữ. Cảnh tượng này được mô tả rất sinh động trong các bức bích họa, nếu dùng sự so sánh trực quan để hình dung, thì quái vật đầu người mình rắn giống như một cỗ máy điện đàm có thể thu được tín hiệu truyền đến từ hư vô.
Tư Mã Khôi cho rằng, âm thanh mà xà nữ giống như cương thi kia thốt ra, rất có khả năng chỉ là âm hưởng khác thường phát ra từ cổ họng, chứ chưa chắc đã là do thần Vũ Xà nhập thể. Tuy người Bái Xà cổ đại sùng kính thần quỷ, nhưng thần quỷ thực sự trông như thế nào, e rằng chưa ai tận mắt nhìn thấy, còn về hiện tượng xà nữ kia thì giờ đây chẳng ai tìm ra chứng cứ được nữa. Tóm lại, nội dung câu nói thốt ra từ miệng xà nữ trở thành một bí mật có thể giết hại con người, phàm ai biết toàn bộ nội dung bí mật này đều sẽ bị chết tức khắc, bởi vậy người Bái Xà cổ đại mới áp dụng phương pháp phân chia cho chín vị vương giả lưu giữ từng phần của bí mật, cuối cùng chẳng rõ vì nguyên nhân gì, họ khắc nội dung hoàn chỉnh của bí mật đó lên tấm bia đá đặt ở miếu thần, đồng thời để lại lời nguyền khủng khiếp ‘kẻ nào dám nhìn trộm bí mật, kẻ đó sẽ chết ngay tức khắc’.
Tư Mã Khôi nối những manh mối ấy lại với nhau, anh phát hiện tấm bia đá Bái Xà tồn tại một “quy tắc”, bí mật này đại khái có tám, chín chữ, không ai có thể thông hiểu nội dung của nó từ đầu đến cuối, chỉ cần nắm bắt được toàn bộ bí mật sẽ lập tức lăn ra chết, nhưng nếu chỉ nhìn thấy một phần bí mật thì sẽ không gặp phải nguy hiểm gì, chính người Bái Xà đã sử dụng cách thức này nên mới có thể lưu truyền và giữ gìn bí mật suốt nhiều năm như thế.
Ngoài ra, mọi người chỉ chăm chăm đoán xem bí mật gì có thể gây chết người, mà bỏ qua một chuyện, đó là tất cả các chữ đều khắc bằng chữ triện cổ long ấn, loại chữ triện cổ trông loằng ngoằng như giun dế kia sớm đã thất truyền từ mấy ngàn năm trước, hội Tư Mã Khôi chỉ căn cứ vào những ghi chép mà đội khảo sát Lopnor để lại dần dần đối chiếu từng chút một và phân biệt, nhưng cuối cùng cũng không thể dám chắc có giải đọc được toàn bộ nội dung hay không, hơn nữa những đường nét vết khắc mà người Bái Xà để lại dẫu có cổ quái thế nào chăng nữa, cũng không đến mức gây nguy hại chết người, bởi thế cho dù bây giờ cả hội có đứng trước tấm bia và nhìn chữ triện cổ, thì chắc chắn cũng không gặp phải nguy hiểm gì.
Ý niệm đó cứ luẩn quẩn trong đầu Tư Mã Khôi, chỉ có điều anh vẫn chưa hoàn toàn nghĩ thông suốt, bởi vậy trước khi nói ra cho mọi người biết, anh cũng không vội quay lại nhìn dòng chữ tấm bia đá, mà đợi đến khi có đối sách mới ra tay hành động.
Cao Tư Dương nghe xong, biết là mình đã trách lầm Tư Mã Khôi thì cảm thấy rất áy náy, có điều lời đã nói ra không rút lại được. Nhưng nghĩ cũng thật kỳ lạ, Nhị Học Sinh chắc chắn không biết gì về chữ triện cổ khắc trên tấm bia đá, vậy sao cậu ta lại lăn ra đột tử dưới chân bia?
Tư Mã Khôi cho rằng cơ thể Nhị Học Sinh yếu ớt, gắng gượng suốt chặng đường từ rừng rậm Thần Nông Giá đến đây thì kiệt sức như ngọn đèn cạn dầu, cậu ta phải chịu áp lực trong môi trường không có ánh sáng dưới lòng đất trong thời gian dài, cộng thêm tinh thần lo sợ, hồi hộp quá độ nên khuỵu xuống chết đột ngột cũng không có gì kỳ lạ. Tư Mã Khôi thầm biết việc lớn đang chờ trước mắt, giờ không phải lúc đau thương trước cái chết thảm của người bạn đồng hành, nên anh cùng ba thành viên còn lại bắt đầu hành động. Anh gỡ huy hiệu và chiếc bút máy mà Nhị Học Sinh vẫn cài trên ngực, cho vào trong túi, rồi dỡ chiếc đèn hỏa diệm nhiệt độ cao xuống, giao cho Hải ngọng vác trên lưng, sau đó anh tưới dầu vào thi thể Nhị Học Sinh, châm lửa hỏa thiêu và đẩy di hài xuống dưới thanh xà đá. Cuối cùng cả hội quay người bước đi, nhìn về phía tấm bia đá đang đứng sừng sững ở điểm tận cùng của dãy núi.
Hồi thứ hai
KẺ XUẤT HIỆN Ở PHÍA BÊN KIA
Căn cứ vào cảnh tượng vẽ trong bức bích họa trên tường Tử thành, Tư Mã Khôi suy đoán tấm bia Bái Xà có một quy luật, quy luật đó là: nếu chỉ biết một phần bí mật, thì sẽ tương đối an toàn, hơn nữa không ai trong hội Tư Mã Khôi biết nửa chữ triện cổ Bái Xà khắc chìm trên tấm bia đá, nên tất nhiên không thể hiểu được nội dung tấm bia đá viết gì, điều đó đồng nghĩa với việc dẫu hội Tư Mã Khôi có đứng gần xem thì cũng không gặp phải nguy hiểm, có điều anh không chắc chắn trăm phần trăm về điều này, bởi rốt cuộc Nhị Học Sinh cũng vẫn đột ngột lăn ra chết đấy thôi, sự việc dường như đang phát triển theo hướng không thể lường trước. Tuy vậy, Tư Mã Khôi vẫn là tay liều mạng, dám nghĩ dám làm, dám chấp nhận mạo hiểm, anh ra hiệu cho hội Hải ngọng không được manh động, còn mình quay đầu lại và ngẩng lên nhìn tấm bia đá.
Trên tấm bia đá cao sừng sững như bức tường thành chằng chịt ngang dọc những vết nứt mai rùa chỗ nông, chỗ sâu, trải qua sự mài mòn của tuế nguyệt, những vằn vện trên tấm bia đã trở nên loang lổ đến thảm hại, bề mặt còn mọc thảm rêu khá dày, hàng chữ triện cổ được khắc sâu xuống lòng đá, mỗi chữ to như cái đấu nên dẫu bao năm tháng phôi pha, nhưng các chữ vẫn không bị ảnh hưởng nghiêm trọng lắm.
Tư Mã Khôi soi chùm sáng đèn quặng lên tấm bia, quầng sáng chiếu đúng vào một chữ cổ, cảm giác ngộp thở bỗng đâu ập đến, anh hít một hơi thật sâu, rồi soi đèn quặng ra xung quanh, chỉ thấy từng hàng từng hàng chữ long triện với hình dạng tương tự nhau hiện ra trước mặt, quả nhiên người Bái Xà đã khắc lặp đi lặp lại một câu duy nhất thành nhiều dòng, chỉ cần tiếp cận tấm bia đá, thì dẫu ờ góc độ nào, đều có thể nhìn thấy hàng chữ cổ ấy.
Chữ tượng hình của người Bái Xà cổ đại là tiền thân của chữ triện cổ triều Hạ, nó còn xuất hiện sớm hơn cả chữ giáp cốt thời Ân Thương. Tư Mã Khôi từng nhiều lần nhìn thấy loại chữ này trong thành Nhện Vàng ờ Miến Điện và trong biển cát ở cực vực Lopnor. Đội khảo sát liên hợp Trung Xô gặp nạn ở kính viễn vọng Lopnor có một chuyên gia khảo cổ tinh thông các loại văn tự bị thất truyền, trước khi chết, ông đã để lại một cuốn sổ ghi chép dùng biện pháp đối chiếu để giải mã ý nghĩa của chữ long triện triều Hạ. Hội Tư Mã Khôi cũng đọc khá kỹ các ghi chép trong cuốn sổ, nhưng vẫn chưa thành thục đến độ chỉ cần nhìn là biết ý nghĩa, mà phải đối chiếu từng chữ mới hiểu được nội dung.
Tư Mã Khôi hồi hộp nhìn tấm bia đá, một lúc sau, anh vẫn không phát giác thấy hiện tượng gì khác thường, anh nghĩ có lẽ dự đoán của mình không sai, nên liền bảo ba người còn lại cũng quay đầu lại nhìn.
hoatanhoano.wordpress.com
Mọi người đứng lặng trước tấm bia hồi lâu, mối nghi ngờ càng lúc càng dâng trào trong lòng, họ không hiểu bí mật ghi chép trên tấm bia đá có thể là gì? Giống như Hải ngọng nói lúc trước, nếu chỉ có mấy chữ thì nói một câu có khi còn chưa rõ nghĩa, chứ làm sao có thể còn ẩn chứa bí mật kinh thiên động địa gì? Hơn nữa, vì sao dòng chữ ấy lại được khắc lặp đi lặp lại nhiều lần? Điểm then chốt nhất ở đây là bí mật này liệu có liên quan gì đến Nấm mồ xanh không?
Hải ngọng nói với Tư Mã Khôi: “Tớ có ý kiến thế này, đã xem thì phải xem hết, vậy mới biết mấy cái ký tự quỷ quái đó rốt cuộc có ý nghĩa gì chứ!”
Tư Mã Khôi nói, nếu xem toàn bộ bí mật chắc chắn sẽ mất mạng, chúng ta không thể không phòng chuyện này được, có điều nếu chỉ xem một phần bí mật chắc sẽ không sao, một phần nghĩa là ít nhất một chữ, nhiều nhất cũng chỉ bốn, năm chữ, tóm lại bí mật khắc trên bia Bái Xà tổng cộng có chín chữ, chúng ta giải được hai, ba chữ là đã có thể tìm ra manh mối để suy đoán rồi, đương nhiên nhìn con cọp qua ống tre, thì cùng lắm cũng chỉ thấy nhúm lông, khác gì chúng ta bây giờ bị bịt kín hai mắt.
Tuy trong tay Tư Mã Khôi có cuốn sổ giải mã chữ triện cổ, nhưng bảo anh đối chiếu từng chữ một thì còn khó hơn lên trời, thế là anh quay sang hỏi Thắng Hương Lân xem cô có thể giải một hai chữ không?
Thắng Hương Lân từng nhìn thấy rất nhiều phù hiệu tượng hình chữ triện cổ trong kính viễn vọng Lopnor và Tử thành của người Bái Xà và cũng thử giải mã khá nhiều chữ, bởi vậy cô có thể cầm chắc tám phần là giải được. Thắng Hương Lân móc cuốn sổ ghi chép chăm chú đối chiếu với tấm bia, chẳng bao lâu sau, cô đã giải được một chữ trong đó.
Hội Tư Mã Khôi thấy sắc mặt Thắng Hương Lân lộ vẻ ngạc nhiên, hồi lâu không nói gì, thì không rõ cô không thể giải mã nổi hay do tình hình xảy ra điều gì ngoài dự kiến, lòng dạ ai nấy đều hồi hộp không yên. Tư Mã Khôi không nhịn được bèn cất tiếng hỏi: “Chữ đó có nghĩa gì?”
Bí mật ghi chép trên tấm bia Bái Xà liên quan đến sự sống chết và quyết định tiến hay lùi của cả hội, bởi vậy Thắng Hương Lân đâu dám bất cẩn. Nhờ cuốn nhật ký, cô giải được một chữ, rồi xác nhận đi xác nhận lại mấy lấy liền, khi đã chắc chắn không thể xảy ra nhầm lẫn, cô mới nói với hội Tư Mã Khôi: “Chữ đầu tiên trên tấm bia đá là 0”.
Tư Mã Khôi không hiểu đầu đuôi thế nào, dồn dập hỏi: “Không… nghĩa là gì?”
Thắng Hương Lân đáp: “Trong hệ chữ triện cổ Bái Xà thì đây là phù hiệu tượng trưng cho hư vô, có thể dùng số 0 trong hệ chữ số Ả Rập để biểu thị”.
Tư Mã Khôi nhíu mày, anh im lặng suy nghĩ, từ chuyện mô tả trong bức bích họa ở thành cổ thì thấy bí mật này do các vị thần cổ đại tiết lộ thông qua xà nữ, mà những chuyện thần tiên quỷ quái thực ra chỉ là hoang đường. Có lẽ tất cả chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên, dù gì nó cũng không có nguồn có gốc, xà nữ nói một câu hoàn chỉnh gồm tất cả chín chữ, không rõ chín chữ đó kinh thiên động địa đến cỡ nào mà người Bái Xà cổ lại phải ghi chép thành nhiều đoạn và giữ gìn suốt nhiều năm cho đến khi họ khắc bí mật đó vào tấm bia đá nặng ngàn cân chìm sâu dưới cửu tuyền thăm thẳm này. Điều kỳ lạ nhất, cũng là điều khó hiểu nhất của bí mật này chính là ‘hễ biết toàn bộ nội dung bí mật sẽ lập tức lăn ra chết’, chính bởi vậy không ai dám nhìn trộm toàn bộ diện mạo của nó, giờ chỉ còn cách giải mã một vài chữ trong dãy chữ, sau đó tìm biện pháp suy đoán nốt phần nội dung còn lại mà thôi, có điều anh không ngờ chữ đầu tiên được giải được lại chẳng mang ý nghĩa gì như thế, nên đành bảo Thắng Hương Lân tiếp tục giải mã thêm vài chữ nữa, xem có thể tìm thấy manh mối gì hữu dụng không.
Thắng Hương Lân soi đèn quặng vào tấm bia đá, lần lượt tìm từng chữ, rồi đối chiếu với nội dung ghi trong cuốn sổ, cô phát hiện ký tự tiếp theo vẫn là một chữ số – số 9.
hoatanhoano.wordpress.com
Hải ngọng sốt ruột, giật mũ xuống, vò đầu bứt tai chửi: “Bọn người cổ đại này định giở trò gì không biết, sao lại khắc bao nhiêu chữ số trên tấm bia thế chứ?”.
Cao Tư Dương nói với Thắng Hương Lân: “Ngoại trừ số ra, trên tấm bia chắc chắn phải có nội dung khác, nếu không người Bái Xà đâu cần thiết phải vùi nó xuống nơi còn sâu hơn cả địa ngục này, cô tiếp tục giải mấy chữ nữa xem sao!”
Ánh mắt Thắng Hương Lân đưa theo chùm sáng, từ từ quét một lượt trên tấm bia đá đầy những vết rạn nứt và rêu khô, thần sắc hoang mang, cô nói: “Không cần tiếp tục giải mã nữa đâu, bí mật trên tấm bia của người Bái Xà chắc chắn là một dãy số”.
Cao Tư Dương lắc đầu, thử nghĩ xem một dãy số thì sao có thể khiến người đang sống bỗng lăn ra chết được? Dãy số này ẩn chứa tai họa lớn đến chừng nào? Vì sao người Bái Xà lại vừa kinh vừa sợ nó? Hơn nữa, Thắng Hương Lân mất không ít thời gian mới giải được hai chữ, vậy sao bảy chữ còn lại, cô ấy chỉ xem chốc lát, mà đã dám chắc những chữ khắc trên tấm bia là một dãy số?
Thắng Hương Lân nói: “Ký tự chữ số trong hệ chữ triện cổ Bái Xà có kết cấu tương tự nhau, nắm được quy luật là biết ngay thôi, tuy tôi không biết cụ thể từng số, nhưng dựa vào hình khắc trên tấm bia, tôi có thể phán đoán rằng, tất cả những ký tự này tượng trưng cho các chữ số, đây là điều không còn nghi ngờ gì nữa”.
Hải ngọng nghiến răng, trợn mắt: “Từ rừng rậm Miến Điện đến cửu tuyền dưới lòng đất, trên đường chết bao nhiêu mạng người, chịu biết bao khổ cực, lòng vòng vạn lý, chết đi sống lại bao phen, khó khăn lắm mới tìm thấy tấm bia đá của người Bái Xà, vậy mà sao bí mật khắc trên đó chỉ là mấy chữ số? Làm gì có trò đùa ác như thế? Tớ nghĩ chắc bọn mình và Nấm mồ xanh đều mắc lừa rồi, ai từng thấy dãy số nào lại giết chết được người không?”, nói xong, anh phẫn nộ từ đáy lòng, nhặt một viên đá định ném thẳng vào tấm bia.
Tư Mã Khôi vẫn rất sáng suốt, anh nhướng vai che trước Hải ngọng: “Đừng vội động thủ, nếu đúng như tớ dự liệu, thì dãy số đó chính là lời giải cho tất cả ẩn số đấy, chỉ có điều bản thân lời giải ấy cũng là một ẩn số”.
Thắng Hương Lân chăm chú nhìn tấm bia đá, nghĩ ngợi một hồi, thấy Tư Mã Khôi nói không sai, cô bèn lần lượt giải từng chữ theo cuốn sổ: 0…9…1…0…
Tư Mã Khôi thấy Thắng Hương Lân sắp đọc hết cả dãy số, anh lập tức lấy cuốn sổ che tấm bia lại và nói: “Không nên xem hết bí mật thì hơn!”
Hải ngọng không hiểu, liền thắc mắc: “Đã đến nước này rồi thì còn sợ bóng sợ gió gì nữa, tốt nhất cứ xem hết xem nó khắc những gì!”
Tư Mã Khôi nói với hội Hải ngọng: “Bây giờ đã biết bí mật trên tấm bia là một dãy số, thế là đủ, nếu giải toàn bộ dãy số đó, ai mà biết sau này sẽ xảy ra chuyện gì? Tuy những ghi chép trong bích họa ở Tử thành về tấm bía đá nghe có vẻ hoang đường, nhưng giờ ngẫm lại thấy cũng không hoàn toàn là bịa đặt cả đâu. Nếu con quái vật đầu người mình rắn đúng là xà nữ, thì tôi nghĩ chắc chắn mụ cương thi đó không thể nói điều gì phức tạp, bởi vậy cổ nhân chỉ nghe được ngắt quãng mấy con số từ miệng xà nữ mà thôi, phân tích như vậy sẽ thấy chuỗi sự việc diễn ra khá hợp tình hợp lý. Mọi người có nghĩ xem vì sao người Bái Xà lại tôn kính dãy số đó như tôn kính thần quỷ vậy không? Hơn nữa, còn chôn vùi nó xuống tận nơi sâu thăm thẳm dưới cửu tuyền và không ngừng cảnh cáo hậu thế rằng tuyệt đối không được nhìn, cũng không được đọc, thậm chí còn không được nghĩ về những chữ khắc trên tấm bia, kẻ nào phá vỡ cấm kỵ, kẻ đó sẽ lập tức chết thảm?”
Hải ngọng nói: “Người xưa mê tín, chuyên môn giả thần giả quỷ, cậu chưa ngốc đến nỗi tin vào mấy chuyện này đấy chứ?”
Tư Mã Khôi nói: “Triệu Lão Biệt, Nấm mồ xanh, các thành viên đội khảo sát kính viễn vọng Lopnor và cả đội thám hiểm đi khinh khí cầu nhiệt xuống lòng đất đều ít nhiều biết về bí mật của người Bái Xà, điều đó cho thấy tuy tấm bia bị vùi xuống lòng đất khá lâu, nhưng bí mật này không hẳn đã được bảo mật kín bưng, vì hậu duệ của người Bái Xà vẫn tiếp tục tồn tại mấy ngàn năm sau mới hoàn toàn bị tuyệt diệt, chỉ có điều thánh hiền từ cổ chí kim chưa ai có thể phá được cửa ải này thôi. Nếu bí mật trên tấm bia đá của người Bái Xà đúng là một dãy số, thì dãy số đó nhất định phải ẩn giấu một thứ gì đó rất ghê gớm”.
Hải ngọng nói với Tư Mã Khôi: “Điên thật! Các cậu kẻ tung người hứng, nhưng nếu chúng ta không xem hết các chữ trên tấm bia, thì làm sao biết được thứ ghê gớm mà cậu nói rốt cuộc là thứ gì?”
Tư Mã Khôi nói: “Bí mật trên tấm bia đá không thể suy đoán ra được, tớ thấy chỉ dựa vào mấy cái đầu bọn mình, e là không thể giải được ẩn số này. Ngoài ra, nếu đọc hết nội dung khắc trên tấm bia sẽ dẫn đến hậu quả gì? Liệu dự báo của bức họa trên vách tường ở Tử thành có trở thành sự thật? Mọi chuyện đều rất khó lường, suốt chặng đường đi, chúng ta đã trải qua bao chuyện ly kỳ, quái lạ, ai biết sắp tới sẽ phải đụng độ với lời nguyền quỷ quái thế nào, nếu chưa đến bước đường cùng, chúng ta tuyệt đối không nên mạo hiểm!”
Thắng Hương Lân gật đầu đồng ý, cô hỏi Tư Mã Khôi: “Theo anh, chúng ta nên làm gì bây giờ?”
Tư Mã Khôi nói: “Tôi thấy, trong các di chỉ của người Bái Xà có rất nhiều ghi chép về tấm bia đá, đương nhiên người ta không nhắc đến bí mật khắc trên tấm bia, nhưng còn một chuyện mà không rõ do vô tình hay cố ý mà từ đầu chí cuối người ta cũng giấu nhẹm — đó là vì sao họ lại cất giấu bí mật trong một miếu thần nằm sâu trong động ngầm dưới lòng đất?”
Hải ngọng ngạc nhiên hỏi: “Chẳng lẽ động ngầm này có gì bất thường sao?”
Điều Tư Mã Khôi đang băn khoăn chính là chuyện này, trong chốc lát không thể giải câu đố trên tấm bia, anh đành phải tìm manh mối từ chỗ khác, thế là anh vừa thì thầm bàn bạc với hai người còn lại, vừa soi đèn quặng quan sát địa hình xung quanh. Bất chợt anh thấy Cao Tư Dương nắm chặt báng súng, mắt nhìn trừng trừng vào tấm bia đá, anh hỏi: “Cô nhìn gì vậy?”.
Tư Mã Khôi hỏi đến câu thứ hai, Cao Tư Dương mới định thần trở lại, nét mặt cô toát lên vẻ khiếp sợ và kinh ngạc tột độ, cô chỉ lên vết rạn nứt của tấm bia, rồi trả lởi bằng giọng run rẩy: “Tôi nhìn thấy người vừa mới chết… đứng ở phía bên kia… bên kia của tấm bia đá!”
Hồi thứ ba
KHE NỨT
Tư Mã Khôi thấy thần sắc Cao Tư Dương kỳ quái anh thầm nghĩ: “Người vừa mới chết ư? Ngoài cậu thanh niên trí thức đến từ lâm trường tên là Nhị Học Sinh ra thì còn ai nữa chứ?”
Trước đây, giới lục lâm kết bè đảng với nhau hoạt động ở những nơi hẻo lánh, người nào không may gặp nạn mất mạng, thì đồng bọn sẽ đem tử thi đi hỏa thiêu, chứ không nhập thổ chôn thây, bởi vì những nơi sơn cùng cốc hẻm có rất nhiều côn trùng, rắn rết và dã thú, lại không có quan tài để đặt thi thể, nên chẳng bao lâu sau thi thể sẽ bị dã thú kéo đi ăn thịt hoặc nếu chết ở sa mạc khô nóng, tử thi sẽ khô quắt lại, da thịt không thể tiêu hủy trong suốt nhiều năm, mà sẽ giữ nguyên ở hình dạng cũ, đừng nói nếu âm hồn biết sẽ đau lòng, mà ngay cả người sống cũng không nỡ nhìn, bởi vậy họ mới chọn cách hỏa thiêu người chết.
Lúc trước, Nhị Học Sinh bất ngờ đột tử trước tấm bia đá, chính tay Tư Mã Khôi đã hỏa thiêu thi thể, rồi thả cái xác đã bị thiêu cháy ấy xuống hố sâu dưới đáy động, vậy sao đột nhiên giờ Nhị Học Sinh lại xuất hiện ở phía bên kia của tấm bia đá được?
Trăm nghe không bằng một thấy, tim Tư Mã Khôi đập thình thình, anh nhìn về phía tay Cao Tư Dương đang chỉ, chính là nơi Nhị Học Sinh vừa đứng. Tấm bia cổ khổng lồ và dày nặng đứng sừng sững cả mấy ngàn năm ở tận cùng địa mạch, do chịu sức nặng không tương xứng, nên chỗ nào cũng chằng chịt những vết nứt hình mai rùa, chỗ nông chỗ sâu; có điều kết cấu tấm bia thì vẫn vô cùng chắc chắn, nếu không xảy ra địa chấn dữ dội thì khả năng nó còn giữ nguyên hình dạng này đến mãi mãi. Thời gian trôi chảy hết năm này qua năm khác, nó vẫn đứng uy nghiêm trong động ngầm, phần phía dưới chân tấm bia có vết nứt ngang, ngoài rộng trong hẹp, Tư Mã Khôi đứng trước vết nứt, chỉ cần khẽ cúi xuống là có thể nhìn xuyên sang phía bên kia của tấm bia.
Hóa ra vết nứt này khá sâu, anh tháo đèn quặng trên đầu xuống để soi cho rõ, lúc ánh sáng xuyên qua khe nứt hẹp, anh có thể nhìn thấy phía bên kia của bia đá, bên đó tối đen như mực, nhưng dường như thông với một lối đi. Phạm vi chiếu sáng của đèn quặng khá nhỏ, góc chiếu lại bị giới hạn trong phạm vi khe nứt, nên rất khó nhìn thấy tình hình ờ phía bên kia, dù vậy vẫn đủ để anh thấy một bóng đen đứng lù lù trong màn đêm dày đặc, dường như kẻ đó đang đứng quay lưng lại với anh. Nhận thấy ánh đèn soi về phía mình, kẻ đó từ từ quay đầu lại, khuôn mặt méo mó vì sợ hãi rất quen thuộc kia nhìn thẳng vào Tư Mã Khôi qua khe nứt của bia đá, rồi anh thấy khuôn mặt đó đột nhiên rụt về phía sau và biến mất.
hoatanhoano.wordpress.com
Tư Mã Khôi hết hồn, anh mở to mắt cố nhìn sang phía bên kia của tấm bia, nhưng trước mặt chỉ còn màn đêm đen ngòm, khi hội Hải ngọng và Thắng Hương Lân lại gần tấm bia đá và nhìn sang, thì không còn thấy gì nữa.
Cao Tư Dương vẫn không dám tin vào những gì mình vừa nhìn thấy, cô hỏi Tư Mã Khôi: “Anh có nhìn rõ không? Rốt cuộc đó là người hay ma?”
Tư Mã Khôi kể lại cảnh tượng mình vừa trông thấy cho ba người còn lại nghe, lòng anh biết rõ kẻ xuất hiện ở phía bên kia của tấm bia đá chính là Nhị Học Sinh – người vừa mới chết cách đây không lâu, đó là sự thật không thể sai được, có điều người chết giống như ngọn đèn đã tắt, hài cốt của Nhị Học sinh đã bị thiêu cháy thành tro, hơn nữa cậu ta lại không phải dị nhân có khả năng thông hiểu yêu thuật như Triệu Lão Biệt, thì làm sao còn có thể hiện hình sau khi đã chết được?
Thắng Hương Lân đoán: “Trong mạch đất tồn tại sương đen mang từ tính, có lẽ vừa rồi chỉ là hư ảnh xuất hiện trong sương mà thôi. Lần trước, dưới hố tế lễ Sở Vương ở biển Âm Dụ phía dưới Đại Thần Nông Giá, chẳng phải chúng ta cũng từng gặp phải hiện tượng này rồi sao?”
Tư Mã Khôi lại cảm thấy lần này dường như không giống lần trước, vì chỉ khi tiếp xúc với sương đen, một vật mới có thể để lại hư ảnh của nó trong sương, nhưng xung quanh tấm bia nào có sương mù dày đặc, hơn nữa khe nứt trên tấm bia rất hẹp, người thường, không thể chui qua được, nên trước khi chết chắc chắn Nhi Học Sinh chưa từng chui qua khe nứt để sang phía bên kia của tấm bia đá.
Hải ngọng nói: “Thế thì chắc là ma rồi, nghe nói người nào chết bất đắc kỳ tử, thì oan khí lúc sinh thời không thoát ra được, nó khiến cho âm hồn mãi mãi không thể tiêu tan…”
Tư Mã Khôi nói: “Tớ thấy Nhị Học Sinh ở phía bên kia bia đá rõ ràng là người sống, ít nhất khi cậu ta quay mặt lại thì vẫn còn đang sống, nhưng thoáng một cái sinh khí đó vụt biến mất, rồi bộ dạng cậu ta y hệt như lúc sợ quá mà chết ấy!”
Cao Tư Dương sợ hãi nói: “Hay những chuyện đã xảy ra ở bên này của tấm bia, sẽ xảy ra lần nữa ở phía bên kia của tấm bia?”
Lời nói của Cao Tư Dương tuy chỉ vô tình, nhưng hội Tư Mã Khôi nghe mà thấy lạnh hết tóc gáy – những chuyện đã xảy ra sẽ diễn lại một lần nữa ở phía bên kia tấm bia sao?
Lẽ nào đây chính là bí mật của tấm bia đá? Rốt cuộc phía bên kia của tấm bia tồn tại thứ khủng khiếp gì?
Thắng Hương Lân nói, người Bái Xà cho rằng thế giới chia ra thành hai phần hư và thực, chúng tồn tại tương ứng, vạn vật vạn sự mà chúng ta biết thuộc về thế giới thực, còn những thứ tồn tại ở thế giới hư thì không ai biết, lẽ nào phía bèn kia của tấm bia chính là thế giới hư?
Tư Mã Khôi nói: “Trước đây nghe giáo sư Nông địa cầu nói về thuyết âm dương và thái cực đồ, đó là một vòng tròn có hai sắc đen trắng, mỗi màu chiếm một nửa, trong phần đen có một chấm tròn trắng, còn trong phần trắng có một chấm đen, ở giữa là dải phân cách hình chữ S tượng trưng cho hỗn độn giữa hai cõi âm dương, đen trắng, hư thực, dải chữ S cong cong đó gọi là đường gì ấy nhỉ? Tóm lại tấm bia đá của người Bái Xà chính là ranh giới giữa hai cõi hư thực giống như dải phân cách hình chữ S kia.”
Thắng Hương Lân nói, có lẽ đó là đường cong lưu chuyển thái cực, nếu thực sự tồn tại đường cong này thì phía đối diện của tấm bia chính là thế giới hư.
Hải ngọng kinh ngạc nói: “Chỗ chúng ta đang đứng đã sâu đến mức không thể sâu hơn nữa, nếu tiếp tục đi xuống dưới sẽ là biển lửa, suối nóng đủ luộc chín người, trách gì phía sau tấm bia đá vẫn còn thông đạo để có thể đi sâu hơn nữa, không những vậy còn thấy hàn khí âm lạnh bốc lên, thì ra nơi đó thông với cái gì mà… “hư”… đó sao?”
Tư Mã Khôi im lặng, anh vẫn không thể xác định tấm bia đá này rốt cuộc có điểm gì cổ quái, bởi vậy anh lại ngó đầu vào khe nứt nhòm sang phía bên kia sâu hút, nhưng ở đó chỉ có màn đêm mênh mang, không nhìn thấy gì hết, nơi sâu thẳm đó chứa đầy hơi thở của cái chết tuyệt vọng, nó khiến người ta thấy thấu lạnh tim gan. Nhưng nếu theo phương pháp suy đoán này, thì tấm bia đá dường như tồn tại ở đây để ngăn chặn thứ gì đó bò ra từ thế giới hư, có điều tấm bia đá của người Bái Xà cũng chỉ là một tảng nham thạch khổng lồ, bị vùi hàng ngàn năm dưới cửu tuyền, khắp bề mặt lỗ chỗ toàn vết rạn nứt loang lổ, trên tấm bia khắc lặp đi lặp lại một dãy số, nhưng dẫu vậy cũng làm sao có thể ngăn chặn nổi thứ gì? Hơn nữa, nếu suy đoán như vậy thì hoàn toàn không khớp với truyền thuyết về tấm bia đá của người Bái Xà. Vấn đề then chốt của tấm bia chính là không ai được phép nhìn, cũng như không được phép nghĩ về dãy số đó, bí mật này nhất định có liên quan đến tên Nấm mồ xanh không bao giờ dám lộ mặt, mọi suy đoán một chiều dường như chỉ khiến tư duy sa vào ngõ cụt, không biết bây giờ nên tìm manh mối từ đâu? Xem ra chỉ có cách mạo hiểm leo sang phía bên kia của tấm bia mới có cơ hội tìm ra chân tướng sự thật.
hoatanhoano.wordpress.com
Tư Mã Khôi nghĩ vậy liền vác súng lên vai, bám vào các vết nứt trên tấm bia để trèo lên chỗ cao, rồi soi ánh đèn quặng, đưa mắt tìm kiếm. Anh phát hiện tấm bia đá được đặt như găm sâu vào vách đá, nhưng giữa phần đỉnh của tấm bia đá bị sụt xuống và tầng đá phía trên có một khe hở vừa sâu vừa hẹp, nơi cao nhất trong khe hở cũng gần một mét, chỉ cần khom lưng xuống là có thể chui qua đó để sang mặt bên kia tấm bia, phần phía trên tấm bia dày mấy mét cũng khắc đầy những kỳ tự số cổ quái, nét vẽ cổ xưa, thô cứng, đặc biệt là khắc rất sâu, tuy nó cũng bị đất cát và rong rêu phủ lấp, nhưng vẫn có thể lờ mờ nhìn thấy dấu tích văn tự trên mặt bia, Tư Mã Khôi muốn đứng từ nơi cao nhìn xuống phần chân tấm bia, nhưng chùm sáng đèn quặng đã bị bóng tối nuốt chửng, nên tầm nhìn của anh gần bằng không, tuy vậy mũi thoang thoảng ngửi thấy mùi thối của xác chết, luồng âm phong lạnh thấu xương thổi thốc lên làm anh cảm giác như mình đang đứng trước miệng vực dựng đứng và sâu hút.
Lúc này, hội Hải ngọng cũng lồm cồm bò lên đến phần trên cùng bia, nhìn về phía hang động đen ngòm. Tuy cả hội toàn những người cứng gan, nhưng trèo lên đến đây vẫn thấy tim đập chân run.
Hải ngọng xách súng săn liếc mắt nhìn xuống dưới mấy lượt, càng không nhìn thấy gì trong lòng anh lại càng thấy rờn rợn, anh bảo Tư Mã khôi: “Sao chỗ này cứ có mùi người chết thế nhỉ? Tớ thấy mặc kệ phía dưới có thứ gì, nhưng đây chắc chắn là nơi có đi mà không có về, chi bằng ta nghĩ cách cạo sạch dãy số mà Nấm mồ xanh đang muốn tìm cho xong, sau đó chạy trốn càng xa càng tốt, có chết cũng đừng chết ở nơi đến ma cũng không thể tìm thấy thế này”.
Tư Mã Khôi lắc đầu nói: “Bây giờ còn không rõ vì sao Nấm mồ xanh muốn tìm tấm bia đá, cho nên trước khi xác định rõ ý nghĩa của dãy số, không ai được động tay vào tấm bia!”
Tư Mã Khôi vừa nói vừa chuẩn bị lửa đuốc chiếu sáng, anh đang định chui vào động tối phía bên kia của tấm bia để tìm hiểu cho rõ.
Thắng Hương Lân vẫn là người chu đáo hơn cả, cô nhắc nhở Tư Mã Khôi, chính vì không đoán được ý đồ của Nấm mồ xanh, nên mỗi hành động trước tấm bia đá đều có thể tạo ra một kết quả không thể cứu vãn được, mà chưa biết chừng mục đích của Nấm mồ xanh chính là… muốn những kẻ may mắn sống sót chúng ta chui xuống cửu tuyền để vén bức màn bí mật này cũng nên.
Tư Mã Khôi nghe xong, tim chợt hụt đi một nhịp, cách hành xử của Nấm mồ xanh quái dị, khó lường nên khả năng đó cũng chưa hẳn không thể xảy ra, vì sao bí mật khắc trên tấm bia không được phép nhìn, cũng không được phép nói ra? Đằng sau dãy số kia ẩn giấu bí mật khiếp người nào? Vì sao rất nhiều nhà thám hiểm và nhà khảo cổ đều cho rằng nó chính là bí mật lớn nhất thế giới? Nó là mật mã? Tín hiệu? Ám ngữ? Lời nguyền? Hay một loại tần số sóng điện nào đó? Bất kể đáp số là gì, thì làm sao nó có thể giết người được? Hang động ở phía đầu bên kia của tấm bia có phải thế giới hư vô? Khuôn mặt chưa bao giờ dám để người khác trông thấy của Nấm mồ xanh liệu có mối quan hệ gì với chuỗi ẩn số này? Góc chết trong lòng mọi người bây giờ chính là một loạt câu đố không thể né tránh nhưng cũng không thể đáp, nó dày vò, buộc họ phải tìm ra chân tướng, có điều họ đều không biết sau khi làm vậy xong thì hậu quả sẽ ra sao?
Tuy Tư Mã Khôi có tài ứng biến, nhưng anh chưa bao giờ chiếm được thế thượng phong trong những lần giao đấu với Nấm mồ xanh. Chỉ vì không biết người biết ta, nên một Triệu Lão Biệt có những ba sinh mệnh, một gã hái thuốc quái nhân ở núi Thần Nông Giá, đội thám hiểm Corrot thâm nhập vực sâu bằng khí cầu nhiệt và cả mấy người hội Tư Mã Khôi dường như đều là những quân cờ trong tay Nấm mồ xanh, những quân cờ quay cuồng trong sức mạnh thấu hiểu mọi quy luật nhân quả, và bất luận họ giãy giụa thế nào cũng không thể thay đổi được vận mệnh. Có điều giờ phút này vẫn còn đường lui cho hội Tư Mã Khôi nếu họ lựa chọn cách cuối cùng, đó chính là từ bỏ cơ hội vén tấm màn bí mật, dẫu cho không thể sống sót tháo chạy khỏi lòng đất, thì cũng phải lập tức rời xa tấm bia đá.
Vì muốn phá giải ẩn số về Nấm mồ xanh và tấm bia đá của người Bái Xà, hội Tư Mã Khôi đã phải trả một giá đắt đến nỗi không thể đắt hơn, giờ trong lòng ai cũng chuẩn bị sẵn tâm lý quyết tử, trước mắt chỉ còn một bước cuối cùng nữa thôi, nếu đột ngột thay đổi quyết định quay đầu trở lại, thì quả cũng không dễ dàng gì.
Đang lúc do dự, đột nhiên cả hội nghe thấy một tiếng động phát ra từ trong hố sâu phía dưới thanh xà đá. Biết có điều lạ, mọi người liền dùng tay ra hiệu rằng tất cả sẽ bò xuống chân tấm bia theo đường cũ. Cả hội giữ chắc súng, tiến về phía xà đá, rồi cúi đầu xuống quan sát, nhưng ở đó xương khô chất đống cao như núi. Họ giơ đuốc về phía ấy nhưng chỉ thấy một khối sáng nhờ nhờ, bỗng trong góc tối mà chùm sáng đèn quặng không thể chiếu tới vọng ra tiếng người với âm sắc lạnh lùng, giọng nói này không hề xa lạ với hội Tư Mã Khôi, đó chính là gã Nấm mồ xanh thoắt ẩn thoắt hiện như ma quỷ, ngặt nỗi đối phương trốn trong góc chết, không nằm trong tầm ngắm súng ngắn của họ.
Đầu Hải ngọng muốn bốc hỏa, anh định nhảy ngay xuống tóm cổ Nấm mồ xanh.
Tư Mã Khôi thầm nghĩ, sao Nấm mồ xanh chẳng xuất hiện sớm hơn hoặc muộn hơn, mà nhằm đúng lúc mình đang một bụng nghi ngờ, do dự không biết nên tránh xa tấm bia đá hay không để xuất hiện? Điều đó chứng tỏ phán đoán của Thắng Hương Lân hoàn toàn chính xác. Xem ra, bí mật khắc trên tấm bia đá của người Bái Xà quả nhiên không được phép tiết lộ, lúc này nếu hành sự lỗ mãng, chưa biết chừng lại trúng kế của đối phương, thế là anh ra hiệu cho Hải ngọng không được rời khỏi xà đá.
Nấm mồ xanh cười khan mấy tiếng sau đống xương khô, rồi bảo Tư Mã Khôi: “Các ngươi đúng là còn ranh hơn ma, không ngờ lại phát hiện ra ý đồ của ta vào giờ khắc then chốt cuối cùng, đúng là ta muốn bọn mi xóa hết bí mật trên bia đá. Đến nước này thì ta cũng chẳng ngại nói thẳng toẹt ra với các ngươi, nếu ta nói cho bọn mi biết vì sao dãy số kia là bí mật lớn nhất thế giới, chỉ e ngay cả các ngươi cũng không muốn để nó tiếp tục tồn tại trên cõi đời này nữa đâu”.
Hồi thứ tư
HỐ QUẶNG SỐ 111
Nấm mồ xanh nói ý đồ của hắn là để hội Tư Mã Khôi phá giải câu đố, nhưng khi thấy mọi người nảy lòng nghi ngờ muốn bỏ chạy, thì hắn đành xuất hiện và đích thân tiết lộ bí mật về tấm bia đá.
Hội Tư Mã Khôi biết rõ chẳng lời nào thốt ra từ miệng Nấm mồ xanh có thể là sự thật, dẫu ép phải nói sự thực thì phía sau chắc chắn cũng phải gài đặt rất nhiều hố bẫy không đáy chết người, bởi vậy không ai dám tin lời hắn. Cả hội nấp trên xà đá, quan sát tình hình, thầm nghĩ phen này bất kể thế nào cũng không được để đối phương chạy thoát lần nữa.
Có điều, bí mật mà Nấm mồ xanh định tiết lộ lại chính là điều hội mấy người Tư Mã Khôi muốn biết nhất, họ thầm thắc mắc, không hiểu tấm bia Bái Xà có thể giết chết người bằng cách nào? Vì sao không được nhìn cũng không được nói về bí mật đó? Những logic cổ quái tồn tại trong vô vàn ẩn số khiến người ta không thể suy đoán được từ bất kể góc độ nào, giờ không rõ Nấm mồ xanh sẽ giải mã “đáy đại dương” như thế nào đây, nên ai cũng nóng ruột được muốn nghe xem rốt cuộc nguồn cơn là thế nào.
Nấm mồ xanh trốn trong góc tối dưới đáy hố và nói:
“Sở dĩ trước đây ta không nói rõ nội tình là vì thời cơ chưa chín muồi, giờ đây dù sao các ngươi cũng đã đến trước tấm bia đá, nên cũng không cần tiếp tục che giấu nữa. Những lời ta nói hôm nay tuyệt đối không có nửa lời giả dối, các ngươi nghe xong tự khắc sẽ hiểu. Dãy số khắc trên tấm bia Bái Xà là do xà nữ nói ra từ mấy ngàn năm trước, bất kể là ai, chỉ cần biết hết nội dung của dãy số, thì sẽ chết ngay tức khắc, ngay cả ta cũng không dám nhìn, do vậy chỉ có thể nói cho các ngươi biết bản chất của bí mật mà thôi, ví như vì sao nó có thể khiến người ta sợ quá mà chết, rồi vì sao nhất định phải hủy bỏ nó? Ta tin hễ các ngươi hiểu được nguồn gốc của nó, thì không cần ta nói nhiều, các ngươi cũng nhất định tìm cách để bí mật khắc trên tấm bia biến mất hoàn toàn, bởi bí mật lớn nhất cõi đất trời này hoàn toàn nằm ngoài khả năng chịu đựng của tâm trí loài người. Muốn hiểu rõ chân tướng bí mật cổ xưa này một cách thực sự, thì phải bắt đầu từ câu chuyện “hố quặng số 111” ở Tân Cương, Trung Quốc.
Tư Mã Khôi, Hải ngọng và Cao Tư Dương đều chưa từng nghe nói đến hố quặng số 111 ở Tân Cương bao giờ, chẳng lẽ hắn muốn ám chỉ kính viễn vọng Lopnor?
hoatanhoano.wordpress.com
Riêng Thắng Hương Lân đã từng nghe nói đến nó khi còn làm việc trong phân đội trắc họa, cô biết hố quặng số 111 nằm ở lưu vực sông Irtysh thuộc dãy núi Altai, phía bắc Tân Cương. Nghe nói, ngay từ thời Sa hoàng, một phần của hố quặng đã được người Nga phát hiện, dưới mỏ quặng có nhiều nguyên tố quý hiếm và nhiều loại đá quý. Hàng chục hố quặng khác nhau phân bố theo hình xoắn ốc trong lòng đất từng bị Nga hoàng cướp trắng trong suốt nhiều năm. Mãi sau giải phóng, mỏ quặng mới được Trung Quốc thu hồi về và đặt tên là “hố quặng số 3”, hố quặng này hoàn toàn không liên quan đến kính viễn vọng Lopnor.
Thời kỳ quan hệ Trung Xô bước vào giai đoạn đối đầu, đất nước mới thành lập phải gánh một khoản nợ khổng lồ, cộng thêm liên tiếp ba năm thiên tai hoành hành, nhân dân cả nước phải thắt lưng buộc bụng sống qua ngày mới trả được 60% khoản nợ nước ngoài, vậy mà chỉ cần khai thác số đá quặng quý hiếm trong hố quặng này là đủ trả nốt số nợ còn lại. Không những vậy, nó còn có công lao to lớn trong việc thiết lập quốc phòng, từ đó có thể thấy nguồn tài nguyên phong phú tiềm tàng trong hố quặng số 3, nó chính là hố quặng lớn nhất thế giới, những tư liệu về nó trở thành hồ sơ tuyệt mật tầm cỡ quốc gia, người ngoài hiếm ai biết được. Giáo sư Tống Tuyển Nông từng có thời gian làm việc trong hố quặng, bởi vậy Thắng Hương Lân cũng biết sơ sơ về nó, nhưng cô hoàn toàn không biết vị trí chính xác cũng như phân bố các tầng quặng trong hố. Tuy vậy, từng đó thôi cũng đủ để cô hiểu những gì Nấm mồ xanh vừa nói về địa điểm hố quặng là hoàn toàn chính xác, có điều thời Sa hoàng nó có tên là “hố quặng số 111”, chứ không phải “hố quặng số 3”, điều đó chứng tỏ câu chuyện Nấm mồ xanh sắp kể ít nhất phải xảy ra trước năm 1949.
Quả nhiên, Nấm mồ xanh nói: “Dã tâm của Sa hoàng rất lớn, lãnh địa ông ta thống trị đã vô cùng rộng lớn, nhưng lòng tham xâm chiếm lãnh thổ của ông ta thì mãi mãi không có điểm dừng. Thời kỳ Pyotr đại đế I(1) còn tại vị, ông ta đã coi kế hoạch chinh phục vùng Trung Á và xâm chiếm Tân Cương là quốc sách, ông ta vũ trang cho một đội qụân gồm toàn dân thất nghiệp và tội phạm vượt núi Altai, qua sông Irtysh, không ngừng xâm nhập vào vùng rốn bắc Tân Cương, đồng thời mượn cớ là khảo sát, thám hiểm để tiến hành trắc họa bản đồ và khai thác mỏ vàng ở khắp mọi nơi.
Tuy quân đội Sa hoàng xâm chiếm Tân Cương suốt nhiều năm và đội thám hiểm của Sa hoàng cũng đã phát hiện thấy hố quặng 111, nhưng khi đó đã là gần cuối thời kỳ thống trị của Sa hoàng, chế độ Sa hoàng ở Nga đang hứng chịu khá nhiều phong ba bão táp, bị thảm bại trong chiến tranh Nga – Nhật, lại chịu đòn nặng nề do cách mạng giai cấp tư sản giáng xuống, có thể nói giai đoạn này chế độ Sa hoàng phải trải qua tình cảnh quốc sự nhiễu nhương, ngoài nạn trong loạn.
[1] Pyotr đại đế: hay còn gọi là Pie đại đế.
Khi ấy có một sĩ quan quý tộc Sa hoàng mạt vận tên là Rasputin, ông ta là người học rộng tài cao, có chí hướng, thông hiểu thiên văn địa lý, ngặt nỗi không có đất dụng võ, nên đành theo đội quân đi tìm vàng tiến về dãy Altai ở Tân Cương, mong may mắn trúng quả lớn kiếm món tiền. Đoàn người men theo rừng rậm núi cao thuộc lưu vực sông Irtysh, tìm kiếm suốt mấy tháng ròng, nhưng không phát hiện ra mỏ vàng nào, trong khi đó trời mỗi lúc một lạnh, tuyết sắp rơi và những ngày tháng giá rét khắc nghiệt dài dặc đang đến gần, nếu trời đổ tuyết thì đường vào núi sẽ bị bịt kín, khi đó đừng hi vọng tìm thấy mỏ vàng nữa. Tối đó, mọi người cắm trại nghỉ ngơi trong một hẻm núi, ai nấy đều chán chường mệt mỏi, nhưng vẫn quyết tâm sáng sớm mai sẽ tiến sâu vào trong lòng núi.
Rasputin sầu não vì tiền đồ mờ mịt của mình, ông cuốn thảm ngồi uống rượu làm ấm cơ thể trước ánh đom đóm. Qua ánh sáng chập chờn nhàn nhạt, ông đột nhiên nhìn thấy nơi lõm vào trên vách đá đối diện dường như có một hình vẽ gì đó, tựa hồ một chuỗi những bức họa bằng đá nguyên thủy, lòng hiếu kỳ thúc giục khiến ông đứng dậy kiểm tra. Ông phát hiện bức hình vẽ một con quái vật mà ông chưa từng nhìn thấy bao giờ, con quái vật đó mình dê, đầu chim, nó ngẩng đầu giơ chân như thể đang bị một luồng sáng trói chặt, treo lơ lửng giữa không trung. Trên thế giới chưa từng phát hiện thấy loài động vật nào có thân hươu đầu chim, lẽ nào con vật được mô tả trên vách đá nguyên thủy từng tồn tại trong khu rừng rậm núi cao này trước thời tiền sử? Rasputin thầm nghĩ, nếu săn được vật sống rồi làm thành tiêu bản hoặc đào được xương hóa thạch của nó thì cũng không uổng công một chuyến lặn lội vào chốn rừng thiêng nước độc.
Rasputin vội vàng hỏi thăm người hướng đạo của cả đội, người hướng đạo này vốn là dân chăn thả gia súc bản địa, anh ta từng nhìn thấy nhiều bức bích họa bằng đá vẽ những hình họa quái dị trong núi. Nghe người hướng đạo nói, trong ngọn núi này có rất nhiều điều kỳ lạ, vào những ngày thời tiết vô cùng khắc nghiệt, đôi lần có người còn nhìn thấy con quái vật đầu chim mình hươu bay lượn trên bầu trời mây đen vần vũ, sấm rung chớp giật. Đến khi trời trong nắng vàng trở lại, mọi người đổ xô đi tìm thì thấy trên mặt đất có những con ngựa và con hươu mất đầu, có lẽ đã bị yêu quái trên trời ăn mất. Mấy năm trước cũng có người tận mắt nhìn thấy cảnh tượng này, còn về niên đại cụ thể của bức họa đá ấy thì không ai biết rõ, có thể nó đã có ở đó từ thời cổ đại.
Rasputin nghe vậy, liền nhớ lại câu chuyện “Thiên liệp” mà một vị trí giả từng kể cho nghe.
Ở vùng sơn khu nọ có người tận mắt chứng kiến cảnh nhiều con vật bị luồng sáng thẳng đứng hút lên không trung, rồi sau đó bị ném xuống chết tươi. Hiện tượng nhiều con vật bị thế lực thần bí săn giết gọi là “Thiên liệp”, nghĩa là “trời săn”. Hình ảnh con quái thú đầu chim mình hươu khả năng là một con hươu, lúc bị hút lên trời thì áp lực của dòng khí đối lưu đã kéo dài phần mõm hươu thành hình mỏ chim, từ xa nhìn lên lại tưởng đó là con quái vật mình hươu đầu chim chăng? Trong mắt của người cổ đại khó tránh khỏi ngộ nhận hiện tượng này là yêu quái trên trời ăn mất đầu hươu trên không trung, thực tế đó chỉ là một hiện tượng tự nhiên. Việc xuất hiện dòng khí đối lưu mạnh như thế chứng tỏ dưới lòng đất có hang động, nghĩ vậy Rasputin bảo người hướng đạo dẫn đường cho đoàn mình vào trong sơn cốc nơi từng xảy ra hiện tượng “Thiên liệp” để tìm hiểu rõ ngọn nguồn.
Mờ sáng hôm sau, nghe theo chủ kiến của Rasputin, cả đoàn chuyển hướng đi vào sơn cốc. Rasputin tin rằng những khu vực có sương mù và ánh sáng dị thường, thì phía dưới chắc chắn phải tàng trữ mỏ vàng hoặc mỏ pha lê. Mọi người không từ gian khổ, đội trời lạnh giá, lùng sục suốt sáu ngày, cuối cùng họ phát hiện một gò cao trơ đất trụi cỏ trong khi xung quanh nó là rừng rậm um tùm. Cả đội liền khoan một hố sâu, lấy mẫu đá kiểm định thì phát hiện trong núi quả nhiên có đá quý màu sắc vô cùng hiếm có, còn người hướng đạo xấu số kia chẳng bao lâu sau liền bị lũ người Nga giết người diệt khẩu.
Từ đó, bất kể mùa đông giá rét khắc nghiệt thế nào, Rasputin đều dẫn đoàn người vào núi khai thác đá quặng, ông ta tiến hành bước đầu thám trắc mỏ quặng, đồng thời đặt tên cho mỏ quặng này là “mỏ quặng số 111”. Một lần nọ, sông Irtysh xảy ra lũ lụt, lòng núi gần hố quặng bị sạt lở với quy mô lớn, lộ ra một huyệt động rất sâu, dưới đó có mấy phiến đá bằng phẳng, bên trên khắc đầy kí hiệu kỳ quái tựa hình nòng nọc, khi ghép lại thì dường như nó là một tấm bia đá cổ đại đã bị vỡ nát.
Rasputin cảm thấy tấm bia đá được người cổ đại vùi trong động, rất có khả năng sẽ ghi chép nhiều dữ liệu về kho báu trong núi, với lòng tham không đáy, ông ta muốn tìm mọi cách để phá giải ý nghĩa những dòng chữ này. Kỳ thực, đây chính là nửa còn lại của tấm bia Bái Xà đã bị hủy hoại, cho dù cố gắng lắm cũng chỉ nhận ra được bốn, năm chữ trên tấm bia là cùng. Thời đó, vẫn còn rất ít người bản địa lai vãng ở vùng núi Altai, tổ tiên của họ chắc có tiếp xúc với người Bái Xà, nên đến ngày nay vẫn giữ gìn được hệ ngôn ngữ và chữ viết tượng hình nguyên thủy của mấy ngàn năm trước, những người này có thể căn cứ vào dòng chữ trên tấm bia đọc được chữ triện cổ, nhưng chẳng ai có thể lý giải được ý nghĩa hàm chứa trong đó. Rasputin như bị ma xui quỷ khiến, trong lòng ông ta không thể quên được tấm bia đá như một ẩn số kia. Vậy là, ông ta ghi lại tỉ mỉ quá trình phát hiện và mày mò tìm hiểu về tấm bia. Nhưng lúc Rasputin chuẩn bị tiến hành bước tiếp theo để kiếm tìm đáp án, thì cách mạng Nga bùng nổ, trong tiếng pháo bắn ầm ầm vào cung điện Mùa đông, chế độ thống trị Sa hoàng hủ bại và chuyên quền cuối cùng cũng bị lật đổ. Rasputin đành phá hủy tấm bia còn sót lại đó, buông tay về nước. Trước lúc về nước ông ta dùng thuốc nổ phá tan tành hố quặng số 111. Suốt nhiều năm sau, không ai còn biết đến sự tồn tại của hố quặng ở bắc Tân Cương nữa, mãi đến năm 1935, cục thám trắc Liên Xô bất ngờ phát hiện thấy tài liệu mà Rasputin để lại, họ phát động cuộc tìm kiếm hố quặng số 111 ở Tân Cương, đồng thời tổ chức khai thác với quy mô lớn, do công nhân khai thác đến đây quá nhiều nên bản địa dần dần hình thành thị trấn khu quặng với nhân khẩu khá đông.
Người đầu tiên phát hiện ra hố quặng số 111 là sĩ quan Sa hoàng Rusputin cũng đã kiếm được món tiền lớn, nhưng ông ta lại không có phúc hưởng nó, vì một thời gian sau, ông ta bị ép phải về nước tham chiến; sau khi quân Nga thất bại, ông ta phải tháo chạy sang nước khác, tuy trở thành triệu phú dắt lưng vô số tài sản, không cần lo lắng về cuộc sống lưu vong chốn đất khách quê người, nhưng bí mật ghi chép trên tấm bia đá giống như một cơn ác mộng đeo bám ông ta mãi mãi không chịu buông tha.
hoatanhoano.wordpress.com
Hội Tư Mã Khôi thầm thấy tình hình không ổn, Nấm mồ xanh tiết lộ toàn bộ tiền nhân hậu quả của bí mật này một cách tường tận như vậy, tựa hồ muốn kéo dài thời gian để đợi một điều gì đó sắp xảy ra. Có điều, cả hội không thể kiềm chế được lòng hiếu kỳ, chỉ muốn nghe kết quả. Họ nghĩ rốt cuộc chỉ mình hắn mới nắm được bí mật của tấm bia Bái Xà, nếu bỏ qua cơ hội trước mắt, e rằng vĩnh viễn không bao giờ còn biết được đáp án, mà nếu không hiểu được đáp án của ẩn số, thì sẽ không thể tìm ra cách đối phó với Nấm mồ xanh.
Lúc này chỉ nghe thấy giọng lạnh lùng, khàn đục của Nấm mồ xanh đang tiếp tục nói: Vì muốn tìm kiếm mỏ quặng lớn hơn dưới lòng đất, viên sĩ quan Sa hoàng Rasputin tìm trăm phương ngàn kế phá giải dòng chữ khắc trên tấm bia đá tìm thấy ở núi Altai, nhưng cuối cùng vẫn không tìm được bất cứ manh mối nào có giá trị, tuy nhiên trên thực tế ông ta đã vô tình giải được bí mật của tấm bia đá Bái Xà, mà cái giá để giải được bí mật ấy chính là cái chết.
Hồi thứ năm
DÃY SỐ
Tư Mã Khôi im lặng nấp trên thanh xà đá, lòng thầm nghĩ, tuy viên sĩ quan quân đội Sa hoàng kia đã phát hiện thấy phần còn lại của tấm bia trong hố quặng số 111, nhưng thứ nhất chữ viết trên tấm bia là chữ triện cổ, thứ hai nội dung lại khuyết, không còn toàn vẹn, hơn nữa sau khi phá hủy tấm bia, ông ta lại lưu vong ở nước khác, mấy năm sau mới chết, xem ra cái chết của ông ta hoàn toàn không liên quan đến lời nguyền sẽ chết lập tức sau khi nhìn thấy tấm bia, lẽ nào Nấm mồ xanh đang bịa chuyện?
Nấm mồ xanh cũng biết hội Tư Mã Khôi bắt đầu nghi ngờ, bèn nói: “Các ngươi không cần đa nghi thế, nghe tiếp câu chuyện tự khắc sẽ hiểu thôi. Cựu quý tộc Sa hoàng Rasputin tháo chạy sang một nước khác ở châu Âu, nhưng vẫn còn tâm niệm nghĩ đến kho báu khổng lồ nằm dưới lòng đất trong hố quặng số 111. Năm đó, việc ông ta phá hủy tấm bia cũng là vì không muốn để kho báu này bị bại lộ ra ngoài.
Cứ khi màn đêm buông xuống, Rasputin lại trốn trong phòng, giở cuốn sổ ghi chép ra xem đi xem lại, hi vọng sẽ giải mã được ẩn số trên tấm bia, ngặt nỗi ông ta chỉ biết mang máng cách đọc mấy chữ tượng hình bí ẩn và cổ quái kia mà thôi, ngay cả thứ tự trước sau của chúng thế nào, ông ta cũng không rõ, nên cứ lộn lên lộn xuống xem không biết bao nhiêu lần, thậm chí ngay cả trong mơ ông ta cũng mơ thấy mình đang giải chữ. Nhưng mãi mà Rasputin vẫn không có thêm bất cứ phát hiện gì, hơn nữa trong lòng ông lại khôn nguôi nỗi nhớ cố hương. Những việc này khiến Rasputin luôn cảm thấy âu sầu, nên cuối đời, ông thường mượn rượu giải buồn.
Một buổi tối chủ nhật, ông ta đến một nhà hàng gần đó ăn tối, trong nhà hàng có một tay chơi dương cầm thuận tay trái đang tấu nhạc khúc phục vụ khách ăn. Rasputin xuất thân từ tầng lớp cựu quý tộc Sa hoàng, nên được hưởng nền giáo dục khá cao cấp, ông ta không chỉ hiểu về âm luật, mà còn giỏi chơi dương cầm, đặc biệt là các tác phẩm của Tchaikovsky. Rasputin vừa nghe đã phát hiện tay chơi dương cầm thuận tay trái này chỉ là tay chơi hạng thường, không có khả năng thiên phú, thế là ông ta bảo người đánh đàn tránh sang một bên, tự mình lên tấu khúc, chẳng ngờ tiếng đàn xuất phát từ tiếng lòng, trong đầu Rasputin khi đó bất giác lại nghĩ đến các văn tự khắc trên tấm bia cổ, khiến một đoạn âm luật vô cùng quái dị đã hòa vào trong khúc nhạc.
Lúc ấy, quán ăn đang đầy khách, nhưng suốt thời gian Rasputin tấu khúc, cả gian phòng bỗng chốc im phăng phắc. Tấu xong khúc nhạc, ông ta rời khỏi quán ăn với khuôn mặt cực kỳ u ám, về đến nhà, ông ta lập tức châm lửa tự thiêu. Cả tòa nhà và toàn bộ tài sản của ông đều cháy rụi trong ngọn lửa rừng rực, không ai hiểu vì sao ông ta đột nhiên lại dùng cách tàn khốc như vậy để kết liễu sinh mệnh của chính mình, trong khi trước đó ông ta không hề có dấu hiệu muốn tự tử.
Không những vậy, những chuyện đáng sợ hơn còn ở phía trước, tất cả thực khách nghe khúc dương cầm trong quán ăn lúc ấy đều bước vào tuyệt lộ một cách kỳ bí. Liên tiếp trong vòng ba ngày, người thì nhảy lầu, kẻ thì treo cổ, cứa cổ tay tự tử, mọi người lần lượt tìm đến cái chết. Nhưng vì những người này ngoại trừ cùng ăn trong quán ăn tối hôm ấy ra, thì không hề có mối liên quan gì với nhau, nên không tạo rạ sự chú ý cho cộng đồng thời bấy giờ.
Chỉ duy tay chơi dương cầm thuận tay trái nọ may mắn thoát nạn, bởi anh tạ bị Rasputin làm mất mặt, trong lòng bực bội nên nhanh chóng rời khỏi quán ăn. Đi đến nửa đường, anh ta mới phát hiện mình quên mang theo áo khoác, nên đành quay trở lại lấy áo. Lúc quay trở lại quán, anh ta chỉ nghe được một đoạn trong khúc nhạc của Rasputin, nhưng tiếng nhạc với những âm luật kỳ quái đó như khắc sâu trong trí não anh ta, muốn xóa bỏ cũng không thể xóa nhòa được. Trong sát na, anh ta cảm thấy đất trời u tối, không khí tuyệt vọng và sợ hãi bao trùm khắp nơi, tay chơi đàn tay trái kinh sợ, vội vàng bỏ đi khỏi quán.
Sau đó, tay chơi đàn thuận tay trái soạn ra một khúc dương cầm, đặt tên là “Gloomy Sunday” cũng chính là ca khúc “Chủ nhật buồn”. Mấy ngày sau đó, anh ta tấu khúc nhạc này cho bạn gái nghe, cô bạn gái mới nghe được một nửa thì mặt đã tái đi như xác chết, lập tức chia tay với tay chơi dương cầm, vài tháng sau cô ta tự sát. Hàng trăm người nghe khúc nhạc đã tìm đến cái chết, chuyện này lan truyền khắp đàu đường cuối phố, hễ nhắc đến nó, mọi người lại biến sắc, ngay cả giới cảnh sát phụ trách điều tra vụ án cũng đều thiệt mạng, tay chơi dương cầm thuận tay trái Seress Rezso đương nhiên không thoát khỏi vận đen, anh ta cũng nhảy lầu tự tử không lâu sau đó.
Do gây ra cái chết bất thường của hàng trăm người, nên “Gloomy Sunday” bị mệnh danh là “Bài hát thần chết” và nghi mang theo lời nguyền, nó bị cấm lưu hành và thu hồi để tiêu hủy trên phạm vi toàn thế giới. Trên thực tế, Seress chỉ dựa vào một đoạn ngắn mà mình nghe được trong quán ăn khi ấy và cải biên lại mà thôi, có thể nói nó chỉ là hợp chất diễn sinh của tam bia đá Bái xà. Viên sĩ quan quân đội Sa hoàng Rasputin căn bản chưa hiểu nhiều về bí mật của tấm bia đá, cùng lắm mới vô tình đọc được một nửa, trong khi đó “Chủ nhật buồn” là diễn sinh gián tiếp từ một nửa bí mật ấy, nó sớm đã mất đi bản chất vốn có, vậy mà vẫn khiến nhiều người phải bỏ mạng đến vậy, từ đó có thể thấy bí mật khắc trên tấm bia đá khủng khiếp và đáng sợ đến mức nào.
hoatanhoano.wordpress.com
Hội Tư Mã Khôi nghe đến đây thì từng ẩn số xoắn kết trong lòng dần dần được gỡ ra. Thì ra, dãy số trên tấm bia và đáp án của nó không phải là nội dung, mà là âm thanh, chỉ khi dùng hệ ngôn ngữ nguyên thủy để đọc nội dung tấm bia thì nó mới khiến người ta mất mạng.
Nấm mồ xanh nói, người Bái Xà cổ đại biết đến bí mật này từ miệng một xà nữ giống như cương thi, não của ả đã khô quắt, chỉ có thể phát ra những âm thanh thì thào trong miệng, một vài người Bái Xà thấy xà nữ nói thì ghé tai vào nghe, những người này nghe xong, hai mắt lập tức trợn ngược, não hóa lỏng chảy xuống khoang mũi. Những người Bái Xà khác thấy vậy, trong lòng vô cùng kinh hãi, cho rằng những người này đều bị bí mật thần bí kia giết sống ngay tại chỗ, nên đành áp dụng phương pháp cho mỗi người nghe từng đoạn một, rồi ghi chép lại bí mật vốn không nên tồn tại trên cõi đời và khắc trên bia đá. Ngàn năm dâu bể trôi qua, chỉ duy có phiến đá bị chôn vùi dưới cửu tuyền này là tránh được muôn vàn kiếp nạn và nguyên vẹn tới ngày nay.
Người Bái Xà cổ đại đào đất quá sâu, dẫn đến nạn lũ lụt và họa diệt vong, may nhờ Vũ Vương khai phá Long môn nên họ mới sống sót, nhưng họ lại bị bắt làm tù bịnh, trở thành nô lệ, chuyên làm việc dưới lòng đất để dẫn nước lũ vào Vũ khư. Đám nô lệ này không cam tâm chịu đựng ách thống trị tàn khốc của vương triều nhà Hạ, bèn nảy sinh ý nghĩ tìm lại tấm bia đá bị chôn sâu dưới cửu tuyền để đối phó với Hạ Vũ nhưng lũ lụt lại bịt kín thông đạo ban đầu, mãi đến khi hậu duệ cuối cùng của tộc người Bái Xà hoàn toàn bị diệt vong, họ vẫn chưa được thỏa nguyện, bí mật cổ đại ghi chép trên tấm bia Bái Xà dần dần bị cát bụi của lịch sử vùi lấp cùng tuế nguyệt.
“Chủ nhật buồn” sớm thu hút sự chú ý của Liên Xô ngay từ thời kỳ đầu chiến tranh lạnh, thông qua nhiều con đường, bộ phận gián điệp đã nắm được cội nguồn của tín hiệu chết người này xuất phát từ mảnh vỡ trên tấm bia cổ đại chôn dưới lòng đất Tân Gương, tuy những ghi chép của viên sĩ quan quân đội Sa hoàng Rasputin đã bị tiêu hủy và những mảnh còn lại của tấm bia Bái Xà cũng không còn tồn tại, nhưng người Liên Xô vẫn không từ bỏ ý đồ của mình. Họ hợp tác với Trung Quốc tiến hành khai quật hố quặng số 111 với quy mô lớn, đồng thời bắt dầu thực hiện “kế hoạch kính viễn vọng địa cầu”. Căn cứ vào suy đoán của phía Liên Xô, trong não người tồn tại hơn một trăm tỉ nơron thần kinh, bình thường con người chỉ sử dụng một phần nhỏ trong số đó, phần còn lại sẽ nằm trong trạng thái say ngủ mãi cho đến khi họ chết đi. Chỉ cần hiểu cách đọc ngôn ngữ Bái Xà, bất luận là nhìn hay đọc, thậm chí trong đầu nghĩ đến bí mật của tấm bia Bái Xà, thì tự khắc trong não sẽ sản sinh ra một tín hiệu khiến những tế bào thần kinh ở nơi sâu nhất sẽ bài tiết với tốc độ chóng mặt, chẳng bao lâu quá trình đào thải ấy sẽ vượt quá sức chịu đựng, cuối cùng dẫn đến hậu quả đại não bị tan chảy trong xương sọ.
Mọi người nghe xong đều sợ hãi đến lạnh người, nếu nói vậy thì dãy mật mã chết người này sẽ khiến não người hóa lỏng. Tư Mã Khôi không tin điều này, anh đâu hiểu thế nào là nơron thần kinh, nhưng nghe nói thời cổ đại cho rằng trong cơ thể con người có “tam thi cửu trùng”, nếu những người trong môn đạo mong muốn trường sinh bất tử, thì trước hết cần phải chém chết tam thi(1), sau đó loại bỏ cửu trùng, trong đó thượng thi có tên gọi là Bành Cư, sống trong não người, lúc thường nó chỉ ẩn thân bất động, thỉnh thoảng mới xuất hiện trong giấc mơ làm loạn thần trí của con người, nhưng một khi nó thực sự tác oai tác quái thì sẽ nuốt chửng tủy não, khiến con người nhanh chóng mất mạng. Bí mật trên tấm bia đá Bái Xà giống như một loại tín hiệu “đánh thức Bành Cư dậy.”
[1] Tam thi: hay còn gọi là Tam Bành, gồm Bành Cự, Bành Chất, Bành Kiện, ba vị thần này lần lượt cư trú trong đầu, bụng, tim của con người, chuyên xúi giục con người làm điều xấu.
Tư Mã Khôi không lạ lẫm gì với tam thi, nghe nói tam thi trông giống như sợi thịt, trong đó thượng thi là kẻ tàn độc nhất. Thời Tống có một viên chỉ huy cấm quân tên là Triệu Minh Dương thường hay luyện khí, thông qua các cổ tịch, ông ta biết được có ba vị thần tam thi trốn trong cơ thể con người, làm hạn chế tuổi thọ của con người, thế là ông ta âm thầm uống thuốc, dần dần khống chế được các thi thần, về sau ông ta dẫn binh ra ngoài chinh phạt, đêm xuống khoanh gối ngồi một mình trong màn luyện khí, bỗng thấy một luồng khí thanh trong ngực dội ngược lên, ông không tự chủ, được hét to lên một tiếng. Trong đêm thanh vắng, tiếng hét đó nghe vang như tiếng rồng gầm trong đầm lớn, binh lính khắp doanh trại không ai không run sợ. Tới khi quân lính chạy tới trại của tướng quân xem xét, thì thấy Triệu Minh Dương đã thoát hình mọc cánh. Từ xa xưa đã xuất hiện rất nhiều truyền thuyết kiểu này, đa phần đều nói về một dị sĩ nào đó chặt chém tam thi để giải thoát khỏi sự ràng buộc của kiếp sinh tử, cuối cùng từ thi thể phàm trần hóa thành thánh nhân. Những chuyện như vậy thực ít hư nhiều, nhưng nếu đứng từ góc độ này thì Tư Mã Khôi thấy không khó để lý giải bí mật của bia đá Bái Xà. Nói tóm lại, nội dung khắc trên tấm bia là một chuỗi âm thanh tuyệt đối không thể phát ra từ miệng người bình thường, âm thanh này tựa hồ tín hiệu chết chóc đến từ vực sâu, khi nó xuất hiện trong não người ở bất cứ ý thức nào, thì đều khiến thượng thi ẩn sâu trong não người tỉnh dậy tác quái, khiến con người mất mạng.
Tư Mã Khôi tin rằng đây chính là đáp án đích thực của tấm bia đá Bái Xà, quả nhiên đó là một bí mật không được phép nói ra, không được phép nhìn, cũng không được phép nghĩ đến. Nấm mồ xanh không hề nói dối mọi người, bởi rốt cuộc chỉ có cách giải thích này mới hợp logic, nếu đối phương không nói thẳng ra, thì với hiểu biết của hội Tư Mã Khôi chắc chắn không thể tìm được đáp án, mọi người nghe xong đều khiếp sợ, không ai thốt được lên lời.
hoatanhoano.wordpress.com
Nấm mồ xanh thấy bốn người đều im lặng không thốt được câu nào, hắn cười khan một tiếng rồi nói: “Bây giờ các ngươi đã biết bí mật khắc trên tấm bia đá Bái Xà nguy hiểm như thế nào rồi chứ? Ngay cả ta cũng chỉ mới biết về lai lịch của bí mật này, hoàn toàn không biết nội dung của nó, nếu không mạng này làm sao còn tồn tại tới tận bây giờ? Nguyện ước kiếp này của ta rốt cuộc đã trở thành sự thực, có thể hủy hoại bí mật vốn không nên tồn tại trên cõi đời này, bởi vì một khi tấm bia đá Bái Xà bị người khác phát hiện, thì ít nhất nửa dân số trên cõi đời này sẽ bị thiệt mạng, điều lợi hại của nó không nói ra các ngươi tất cũng hiểu, bởi vậy trước đây ta không dám tiết lộ nửa chữ. Từ cổ chí kim những người làm được đại sự đều không câu nệ tiểu tiết, ta khuyên chư vị không nên ghi nhớ thù cũ, chuyện giữa chúng ta ngày sau nói cũng chưa muộn, đây gọi là “quân tử báo thù mười năm chưa muộn, tiểu nhân báo thù chỉ tính hôm nay”, đợi sau khi triệt tiêu được mầm họa động trời từ tấm bia đá, ta hứa sẽ cho các người một… vừa ý. Bây giờ cơ hội hiếm có, bên người các người chẳng phải có thuốc nổ hay sao? Hãy nắm bắt thời gian, mau chóng phá hủy tấm bia đá Bái Xà, hành động này sẽ giúp các người tích được không ít dương đức đâu, nói không chừng lại có cơ hội sống sót thoát ra khỏi lòng đất cũng nên.”
Tuy Tư Mã Khôi liều mạng và không sợ chết, nhưng sau khi biết bí mật của tấm bia đá, anh cũng không khỏi cảm thấy ớn lạnh, anh không sợ sự nguy hiểm của tấm bia đá mà anh cảm thấy cùng với lời giải dần dần được sáng tỏ, thì ẩn số về lai lịch Nấm mồ xanh càng trở nên đáng sợ hơn. Lúc này, Nấm mồ xanh đã mở lời tiết lộ về chân tướng sự thật và mong muốn hội anh giúp hắn phá hủy tấm bia đá, xóa bỏ triệt để tín hiệu chết người kia khỏi cõi đời. Xem ra, đối phương không hề muốn chiếm hữu bí mật động trời ấy làm của riêng, nhưng cách hành sự của Nấm mồ xanh từ trước đến giờ đều vô cùng nham hiểm, độc ác, tâm địa khó lường, sao bỗng dưng hắn lại sinh lòng thiện như thế? Khuôn mãt thật sự của hắn rốt cuộc là gì? Làm sao hắn biết được tất cả ngọn nguồn của chuyện này? Lẽ nào giống như lời Triệu Lão Biệt từng nói, hắn là một người nào đó mà đội thám hiểm cùa anh từng gặp trước đây?
Tuy Tư Mã Khôi không thể nhìn thấu lai lịch của Nấm mồ xanh, nhưng có một điểm anh có thể dám chắc, đó là phía sau tấm bia đá ở nơi sâu dưới cửu tuyền này ẩn giấu một ẩn số còn sâu hơn cả cửu tuyền, việc Nấm mồ xanh không dám đọc nội dung của tấm bia, chứng tỏ hắn thông hiểu hệ ngôn ngữ cổ đại đã bị thất truyền từ rất lâu, trên đời làm gì còn tồn tại nhân vật nào như vậy? Nói không chừng bản thân hắn chính là con quỷ bị nhốt trong tấm bia đá. Trước đây hội Tư Mã Khôi đã để lỡ mất hai cơ hội ở thành Nhện Vàng, Miến Điện và trên hòn đảo cổ dưới lòng đất ở 30° vĩ Bắc, không thể quá tam ba bận, bất luận đối phương là người hay ma, phen này anh nhất quyết phải lột mặt nạ của hắn!
Hồi thứ sáu
TIỆM CẬN VÔ HẠN
Tư Mã Khôi biết rõ tầm quan trọng của tấm bia đá, nên trước khi tìm ra được điều cổ quái còn ẩn giấu phía sau hang động, anh tự như mình tuyệt đối không thể manh động, nhưng đồng thời anh cũng không cam tâm để Nấm mồ xanh cứ thế chạy thoát. Tư Mã Khôi cố gắng phân biệt phương hướng và vị trí âm thanh phát ra trong bóng tối, hố sâu phía dưới cách xà đá khoảng hơn chục mét, anh áng chừng có thể thi triển chiêu “Bọ cạp đảo đầu leo tường” bò xuống vách, rồi tóm thẳng cổ Nấm mồ xanh lôi ra khỏi đám xương khô. Nghĩ vậy, Tư Mã Khôi bèn ra hiệu cho ba người còn lại chuẩn bị hành động.
Hải ngọng đã mất kiên nhẫn từ lâu, anh không thể đợi chờ thêm nữa, đầu nghĩ thầm: “Bất kể Nấm mồ xanh là người hay ma, thì ông đây cũng phải làm lông nó rồi hẵng tính!”, lúc này thấy Tư Mã Khôi phát tín hiệu, anh lập tức bật nút đèn quặng trên đầu, lên nòng kim hỏa khẩu súng săn gấu hai nòng.
Cao Tư Dương lặng lẽ giơ đuốc lên, sẵn sàng thắp sáng và ném xuống đáy hố bất cứ lúc nào, vị trí cả hội đang đứng là trên cao nhìn xuống, chỉ cần thấy rõ địa hình, cô chắc chắn có thể xuyên vài cái lỗ trên người Nấm mồ xanh.
Súng lục của Thắng Hương Lân đã lên đạn, thấy Tư Mã Khôi và hai người kia đều chuẩn bị lâm trận, đột nhiên cô cảm thấy có một dự cảm chẳng lành. Mọi người vốn không cách nào đoán được đáp án của ẩn số trên tấm bia đá, nhưng Nấm mồ xanh đã chủ động tiết lộ bí mật ấy, vì thế mọi người mới trực tiếp ý thức được sự nguy hiểm của tấm bia. Việc đã đến nước này, ai cũng có thể thấy rõ, trong hang động bị tấm bia đá chặn ngay phía trước nhất định tồn tại một bí mật còn đáng sợ hơn cả tấm bia đá, bởi vậy bất luận xảy ra chuyện gì, mọi người đều không được động đến tấm bia đá, nếu không sẽ gây ra hậu họa sụp trời khó lòng cứu vãn. Vấn đề là với kẻ tâm địa thâm hiểm như Nấm mồ xanh, thì chắc chắn mỗi bước đi của hắn đều kín kẽ không một khe hở, việc mọi người không định nghe theo lời đối phương phá hủy bia đá chắc cũng không nằm ngoài dự định của hắn, chẳng ai đoán thấu ý đồ thực sự của hắn cả. Thắng Hương Lân suy tính đến đây, liền vội vàng lấy tay ra hiệu cho ba người còn lại không được vội vàng manh động, tình cảnh bây giờ nguy hiểm như đứng ở miệng vực ngó xuống, như đi trên mặt băng mỏng, chỉ cần bước sai một bước sẽ lập tức rơi vào vùng đất vạn kiếp không thể siêu sinh.
Tư Mã Khôi hiểu vì sao Thắng Hương Lân lại sợ hãi như vậy, cả hội đã đặt cược sinh mệnh mình vào trận đấu này với Nấm mồ xanh, chỉ có điều, một phe ở ngoài ánh sáng, còn một phe lại nấp trong bóng tối, trước mắt mọi người bây giờ chỉ một màu đen, đi bước nào hay bước đấy, trong khi đó Nấm mồ xanh lại thông hiểu tất cả tiền nhân hậu quả, chí ít có thể nhìn trước ba bước. Xưa có câu “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời”, Nấm mồ xanh cũng không hẳn nắm ưu thế tuyệt đối, bí mật tồn tại trên người hắn chính là nhược điểm lớn nhất, đặc biệt là hắn cần sự trợ giúp của đội thám hiểm mới có thể phá hủy tấm bia đá, mà miếu thần lại nằm ở tận cùng của mạch đất, sâu không thể với tới, những kẻ may mắn sống sót thâm nhập khe cửu tuyền giờ chỉ còn lại bốn người mà thôi, dựa vào những nhân tố có lợi này thì có lẽ hội Tư Mã Khôi vẫn còn cơ hội để xoay chuyển cục diện.
hoatanhoano.wordpress.com
Nấm mồ xanh thấy hội Tư Mã Khôi không nói cũng không hành động gì, thì cất tiếng cười nham hiểm và lạnh lùng: “Không ngoài dự đoán của ta, chắc các vị đã nghĩ ra vài manh mối rồi chứ gì, không định lại gần bia đá nữa phải không? Nhưng ta có thể khẳng định..”
Hải ngọng không kìm được cơn tức, lập tức lớn tiếng chửi: “Khẳng cái mẹ mày!”, cùng lúc ấy anh thò người ra khỏi thanh xà đá, chĩa khẩu súng săn hai nòng và ngắm bắn, xương cốt trong hố sâu đen ngòm vỡ vụn, nhưng Hải ngọng chẳng nhìn thấy rõ Nấm mồ xanh nấp ở đâu, anh chỉ dựa vào âm thanh để xác định phương hướng, hai nòng súng của Hải ngọng bắn đi một loạt đạn, không ngờ địa hình dưới đáy hố lại cộng hưởng âm mạnh như vậy, tiếng đạn bắn tạo thành âm thanh ầm ầm rung chuyển, vang hơn lúc thường gấp mấy lần, âm thanh vọng lại giữa hai vách đá tựa nước triều dâng, mãi vẫn còn văng vẳng bên tai.
Tư Mã Khôi thấy Hải ngọng ra tay trước, dẫu biết cơ hội chưa chín muồi, nhưng anh vẫn huýt sáo ra hiệu cho Thắng Hương Lân và Cao Tư Dương nhất loạt xông lên.
Cao Tư Dương nhanh chóng vứt bó đuốc xuống hố, quầng lửa xé toang màn đêm quánh đặc, giúp cả hội lờ mờ thấy Nấm mồ xanh đang nấp phía sau đống xương khô.
Nhờ ánh đuốc, Tư Mã Khôi có thể nhìn rõ địa hình, ba chân bốn cẳng lao lên trên thanh xà đá, bò vèo vèo xuống nhanh như gió cuốn chim bay, trong nháy mắt đã xuống đến đáy hố.
Hải ngọng đỏ mắt, anh không kịp nạp thêm đạn đã vội xách súng săn rồi trượt xuống vách đá, theo chân Tư Mã Khôi phóng đến nơi ẩn nấp của Nấm mồ xanh.
Dưới hố, khắp nơi đều là xương vụn, hôi thối nhức mũi, mỗi bước ai người họ giẫm lên đều phát ra tiếng lạo xạo dưới chân, lại gần mới thấy lẫn trong đám xương người chất cao như núi có lẫn cả xương thú, nhiều bộ xương còn dính cả máu thịt, dường như nó bị một hàm răng sắc nhọn gặm xé.
Tư Mã Khôi và Hải ngọng thầm kinh ngạc, lúc trước họ cứ ngỡ đây là một hố tế lễ vừa sâu vừa rộng, là nơi người Bái Xà cổ đại dùng để giết mổ tuẫn táng vật tế cho tấm bia đá, xương bên dưới đã tích tụ ở đó hàng mấy ngàn năm, dẫu không vụn nát hóa cát bụi thì cũng đã chóng biến thành hóa thạch; nhưng bây giờ xem ra cách đây chưa lâu, không ít bộ hài cốt có lẽ bị xé thịt lột da trong lúc còn sống rồi bị vứt xuống hố này. Hai người vừa ngẩn người trong giây lát thì bóng dáng Nấm mồ xanh đã hoàn toàn biến mất tăm tích.
Hải ngọng đành nhặt bó đuốc, yểm trợ Tư Mã Khôi lục soát những đống xương cốt gần đó. Hóa ra dưới đáy hố có khá nhiều thông đạo ngang dọc, chúng đều nằm ở đầu bên kia của tấm bia đá, một mé đường hầm gần miếu thần có rất nhiều cửa động bị xương chồng lên bịt kín, phía ngoài còn có cánh cửa đá và những bức tượng thần đã đổ nát, tô tem rắn bay khắc trên đó vẫn lờ mờ nhận ra được, phía trong đường hầm ngoằn ngoèo thâm u, cũng chẳng biết nó dẫn đến nơi nào. Xem ra Nấm mồ xanh đang ẩn nấp ở một trong những thông đạo ấy.
Việc Tư Mã Khôi vượt bao nhiêu cây số dưới lòng đất để tìm miếu thần cũng chỉ vì muốn lột trần khuôn mặt thật sự của Nấm mồ xanh, nên giờ làm gì có chuyện anh chịu buông tay bỏ qua. Tư Mã Khôi thấy Thắng Hương Lân và Cao Tư Dương cũng xuống đến đáy hố thì bảo hai người đó ở lại tiếp ứng, còn mình và Hải ngọng thì tiến sâu vào trong lục soát từng thông đạo.
Cao Tư Dương lo lắng hỏi Tư Mã Khôi: “Dưới đáy hố có nhiều cửa động thế, làm sao anh biết Nấm mồ xanh trốn ở chỗ nào? Ngoài ra, tôi thấy hắn đâu giống người sống…”
Tư Mã Khôi hiểu ý Cao Tư Dương muốn nói Nấm mồ xanh là ma, hoặc giả hắn là một u hồn có hình mà không có chất.
Điều này trước đây anh cũng từng nghĩ đến vô số lần, tuy Tư Mã Khôi không nhìn thấu được bí mật trên người Nấm mồ xanh, nhưng lời nói và hành động của gã Triệu Lão Biệt tâm địa hẹp hòi thì không thể che giấu được anh. Triệu Lão Biệt sợ Nấm mồ xanh đến cực điểm, đồng thời bảo với Tư Mã Khôi là ông ta từng nhìn thấy khuôn mặt thực sự của Nấm mồ xanh, chỉ có điều trong lòng Tư Mã Khôi dường như tồn tại một góc chết nên anh không nghĩ ra được lai lịch của hắn mà thôi. Những lời của Triệu Lão Biệt có lẽ là thật, nhưng lạ là ở chỗ Tư Mã Khôi đã điểm danh từng khuôn mặt mình từng gặp trong đời, bất luận là người sống hay người chết, anh đều cố gắng lục lọi trong trí nhớ đến hàng trăm hàng ngàn lần, mà vẫn không tìm thấy người nào trùng hợp với các đặc điểm của Nấm mồ xanh, có thể thấy hắn trốn rất kỹ. Càng nghĩ, anh càng không thể tìm ra lý do vì sao đối phương không dám để lộ khuôn mặt thật của mình.
Có điều bây giờ, trong đầu Tư Mã Khôi đã bắt đầu thấp thoáng ẩn hiện gương mặt thật của Nấm mồ xanh, bởi cùng lúc đối phương tiết lộ bí mật về tấm bia đá, hắn cũng vô tình để lộ một vài đặc trưng then chốt nhất về lai lịch của mình. Thứ nhất, hắn là người thông hiểu hệ ngôn ngữ cổ đại, nên không dám nhìn thẳng vào tấm bia đá, nhưng đồng thời hắn cũng nắm hết mọi bí mật liên quan đến tấm bia đá của người Bái Xà. Thứ hai, hắn không dám lộ diện trước mọi người, nguyên nhân vì sao thì vẫn còn là một ẩn số. Điểm thứ ba cũng là điểm quan trọng nhất, hắn là người mà anh và Triệu Lão Biệt cùng đã từng nhìn thấy mặt. Thử hỏi trên đời này có mấy người hoàn toàn phù hợp với những điều kiện trên, bởi vậy phạm vi đối tượng đã thu hẹp lại khá nhiều.
Khi nãy, Tư Mã Khôi nhất thời hăng máu đuổi theo hắn vào thông đạo, nhưng giờ bình tĩnh nghĩ đi nghĩ lại anh lại thấy hãi hùng, chẳng lẽ Nấm mồ xanh là kẻ đó?
Hải ngọng nghe Tư Mã Khôi bảo đã biết thân thế của Nấm mồ xanh, liền vội hỏi: “Rốt cuộc hắn là ai? Tớ từng nhìn thấy bao giờ chưa?”
Tư Mã Khôi kể lại với mọi người những điều kiện mà anh vừa suy đoán, rồi kết luận gọn gàng với ba người bạn đồng hành: “Trên đời này chỉ có một người duy nhất phù hợp với tất cả những điều kiện trên”.
Thắng Hương Lân và Cao Tư Dương đều kinh ngạc, nhưng họ không biết kẻ Tư Mã Khôi từng gặp là ai, bởi vậy cũng chẳng thể suy đoán gì hơn, đành hỏi: “Hắn… là ai?”
Thực ra, bản thân Tư Mã Khôi cũng không dám tin đáp án này, nhưng ngoại trừ quốc vương Chăm Pa Anagaya – kẻ bị lột mất da mặt, thì còn ai vào đây?
hoatanhoano.wordpress.com
Vị quốc vương Chăm Pa có khuôn mặt như thần Phật, được tôn là “người cận kề Thiên quốc nhất”, ông ta từng phát hiện thấy địa cùng cung di vật kỷ Devon ở sâu trong khe cốc nứt vỡ, vật đó từng là di tích mà người Bái Xà để lại. Thông qua lời của thánh tăng – người sau này bị ông ta giết chết diệt khẩu thì quốc vương Chăm Pa đã giải mã được những cổ văn tượng hình trong mật thất dưới địa cung, bởi vậy ông ta có thể thông hiểu bí mật về tấm bia đá của người Bái Xà, đồng thời cũng có thể đọc được dòng chữ viết trên tấm bia.
Sau khi chết, quốc vương Chăm Pa được an táng trong lăng tẩm dưới lòng đất, mấy chục năm trước, vương lăng đó đã bị bọn trộm mộ đào xới. Tuy nhiên sau đó, toàn bộ bọn đạo tặc định mở quan tài lấy cắp bảo vật đều chết bất minh, bởi vậy quan tài vẫn được niêm phong kín và chưa hề bị mở ra. Trải qua bao năm vật đổi sao dời, thi thể trong quan tài quốc vương Chăm Pa lại mất tích trong khói lửa chiến tranh. Còn về chuyện lột da mặt của quốc vương để có được may mắn vô song thì chỉ là lời nói một phía từ Nấm mồ xanh, nếu bản thân kẻ đó chính là Nấm mồ xanh, thì những lời nói ấy đương nhiên trở thành bức màn che mắt thiên hạ. Trong khi đó khuôn mặt trông giống như thần Phật của quốc vương Chăm Pa trông quá quái dị, âm u và vô cùng đặc biệt, e rằng từ cổ chí kim dưới vòm trời này không có mấy người sở hữu dung mạo giống như ông ta, điểm then chốt là Tư Mã Khôi và Triệu Lão Biệt cùng từng nhìn thấy khuôn mặt ấy.
Tư Mã Khôi không chỉ nhìn thấy chân dung trên bức bích họa trong thành cổ, mà anh còn tận mắt nhìn thấy khuôn mặt ấy ở cự ly gần dưới địa cung, bây giờ nhớ lại phút giây ấy, anh vẫn thấy toàn thân lạnh ngắt. Còn về Triệu Lão Biệt nhìn thấy quốc vương Chăm Pa vào thời điểm nào, thì e rằng chỉ mình lão tặc ấy mới biết mà thôi, nhưng không có gì phải nghi ngờ về việc Triệu Lão Biệt chắc chắn đã từng nhìn thấy khuôn mặt quái dị ấy, đồng thời lão cũng biết Nấm mồ xanh chính là quốc vương Chăm Pa đã chết từ hàng ngàn năm trước, nếu không, lão đâu đến nỗi vừa mới nhắc đến kẻ đó đã sợ mất mật như thế?
Vấn đề là quốc vương Chăm Pa đã chết từ ngàn năm trước, sao có thể chạy thoát ra khỏi quan tài? Giờ rốt cuộc hắn ta là ác ma âm hồn không thể siêu thoát hay là con quái vật chết đi sống lại? Và vì sao hắn lại muốn dụ đội khảo cổ phá hủy tấm bia đá Bái Xà dưới lòng đất? Những cụm ẩn số diễn sinh từ kết quả này khiến mọi người không hẹn mà cùng cảm thấy ngộp thở.
Hải ngọng càng nghĩ lại càng thấy sợ, anh nói trong nỗi hãi hùng: “Hẳn nào trên người Nấm mồ xanh lúc nào cũng nặng mùi tử khí, thì ra hắn vốn không phải người sống. Đúng là chúng ta gặp phải cương thi thành tinh rồi, nhưng vì sao hắn lại muốn tìm tấm bia đá Bái Xà?”
Thắng Hương Lân ngẫm nghĩ giây lát, rồi quay sang nói với Tư Mã Khôi: “Căn cứ vào chiều hướng phát triển của sự việc, thì mấy điều kiện anh giả định có lẽ không sai, nhưng Nấm mồ xanh chưa chắc đã phải quốc vương Chăm Pa, thử hỏi trên đời này có ai đã chết rồi mà còn sống lại được không? Hay vẫn còn người nào khác phù hợp với ba điều kiện trên nhưng anh lại không để ý tới?”
Đến lúc này, Tư Mã Khôi có thể khẳng định lai lịch của Nấm mồ xanh chắc chắn không thể khác xa ba điều kiện mình vừa nêu ra, về điểm này anh có thể lấy mạng sống ra đảm bảo, nhưng ngẫm đi nghĩ lại, anh vẫn thấy quả thực không thể nghĩ ra ai khác ngoài quốc vương Chăm Pa, ngoại trừ con ma ở âm thế này ra thì còn ai khác nữa? Thân phận giống như một ẩn số của Nấm mồ xanh tựa hồ sự tồn tại có thể tiếp cận vô hạn nhưng vĩnh viễn không thể chạm tới.
Hồi thứ bảy
HƠI THỞ BỎNG RÁT
Tư Mã Khôi vốn cho rằng Nấm mồ xanh chín phần chính là quốc vương Chăm Pa, bởi những người mà anh và Triệu Lão Biệt cùng gặp chỉ đếm trên đầu ngón tay, theo lý mà nói dung mạo giống như thần Phật trên trời giáng phàm của quốc vương Chăm Pa vẫn được lưu giữ đâu đó trên các di tích lịch sử hoặc trên các bức bích họa ở đền chùa miếu mạo. Năm đó, khi ở khe cốc núi Dã Nhân, đội trưởng đội tìm kiếm máy bay tiêm kích Ngọc Phi Yến vừa nhìn một cái đã liền nhận ra, trộm nghĩ, Triệu Lão Biệt xông pha nam bắc chắc đương nhiên cũng biết. Ngoài ra, đội khảo cổ từng kể trải nghiệm ở Miến Điện của đội thám hiểm cho Triệu Lão Biệt nghe lúc trong biển cát dưới cực vực, bởi vậy lão mới biết Tư Mã Khôi từng nhìn thấy khuôn mặt của quốc vương Chăm Pa.
Trước đây, Cao Tư Dương đã nghe chuyện hội Tư Mã Khôi trải qua ở núi Dã Nhân, Miến Điện. Tuy cô chưa bao giờ nhìn thấy khuôn mặt của quốc vương Chăm Pa, nhưng chỉ tưởng tượng thôi đã thấy lạnh thấu tim gan, cô hỏi: “Thế kẻ vừa ở dưới hố nói chuyện rốt cuộc là cương thi hay âm hồn vậy?”
Hải ngọng thêm mắm thêm muối: “Theo tôi, lão quốc vương Chăm Pa kia chính là thây ma tu luyện hàng ngàn năm. Ngày trước ở vùng đông bắc, người ta thường hay nói, phàm con người sau khi chết thi quàn trong quan tài, nếu vì nguyên nhân nào đó không thể hạ táng được thì nhiều năm qua đi, người chết trong quan tài không bị mục rữa, nếu gặp hơi khí của người sống, nó sẽ dễ biến thành cương thi. Tùy vào môi trường thủy thổ ở từng nơi khác nhau, mà xảy ra nhiều loại thi biến khác nhau, nghe nói có cương thi gió, cương thi đá, cương thi huyết và cương thi bột, trong đó ghê gớm nhất là cương thi bột, phần lớn nó là ma nữ. Đặc biệt, loại xác chết cổ đại khắp mình máu huyết trong suốt là đáng sợ nhất. Loại cương thi này có khuôn mặt như phết một lớp bột vôi nên mới bị gọi là cương thi bột, ban ngày chúng ẩn nấp, ban đêm mới ra ngoài lộng hành, bọn này có thể bay vèo vèo trên không trung, chụp được người sống sẽ ôm chặt há mồm hút máu, nếu chưa hút cạn máu chúng sẽ không chịu buông tay, dẫu có vác gậy sắt ra nậy cũng không thể nậy được. Điều đáng sợ hơn là bọn cương thi này còn có ý thức, bắt chước được tiếng người, chắc lúc sinh thời chúng đều tu luyện được chút đạo hành, sau khi chết có thể khiến âm hồn nhập tràng không siêu thoát, xuất ra thì thành ma, nhập vào thì thành cương thi, thời gian tu luyện càng lâu thì đạo hành càng uyên thâm. Tôi đồ rằng lão quốc vương Chăm Pa chính là loại yêu quái này, lúc trước trong mật thất dưới địa cung ở Miến Điện, thi thể của lão đã nổ tan tành rồi cháy rụi, nên chẳng còn thấy mặt mũi gì nữa, sau này Nấm mồ xanh mà chúng ta gặp đều là ác ma lộng hành trong bóng tối”.
Tư Mã Khôi lắc đầu: “La trại chủ, cậu hiểu nhiều biết rộng thật đấy nhỉ, hóa ra người chết đút trong quan tài lại là yêu quái loại này, không những thế, khi biến thành cương thi rồi mà vẫn còn phân ra thành các chủng loại nữa cơ đấy?”
Hải ngọng trọn mắt nói: “Chính cậu bảo Nấm mồ xanh là quốc vương Chăm Pa trước còn gì, sao giờ nháy mắt một cái đã đổ vấy sang cho tớ?”
Thắng Hương Lân giảng hòa: “Các anh đừng đấu khẩu nữa, Nấm mồ xanh chắc chắn không thể là quốc vương Chăm Pa được, tuy quốc vương Chăm Pa phù hợp với ba điều kiện anh nêu, nhưng tiền đề là sau khi con người chết đi phải thực sự biến thành ma, hơn nữa phán đoán này chưa chắc đã vững vàng, các anh nghĩ kỹ mà xem, quốc vương Chăm Pa đã chết cách đây hàng mấy ngàn năm, bất luận hắn là âm hồn không siêu thoát hay là cương thi tác oai tác quái thì rốt cuộc vẫn chỉ là người chết, một người đã chết sao còn sợ nhìn thấy tấm bia đá? Mật mã khắc trên tấm bia là một tổ hợp tín hiệu chết chóc, nếu giải mã nội dung của nó sẽ khiến người đang sống bỗng chốc lăn ra chết, nhưng nó không thể khiến một người đã chết lại chết thêm một làn nữa được”.
hoatanhoano.wordpress.com
Tư Mã Khôi nói: “Quả thực tôi cũng không dám tin quốc vương Chăm Pa đã chết rồi mà vẫn có thể bò ra khỏi quan tài chạy lông nhông như vậy”.
Nhưng dưới vòm trời này chỉ có hắn mới phù hợp với ba điều kiện của Nấm mồ xanh, thực ra nói chính xác hơn là hắn phù hợp với hai điều kiện, bởi vì quốc vương Chăm Pa rất coi trọng dung mạo như thần Phật của mình, dẫu hắn đã bị thiêu cháy thành tro trong mật thất của thành Nhện Vàng, thì một cô hồn dạ quỷ như hắn cũng không có lý do gì cần phải giấu khuôn mặt thật sự của mình. Trong khi đó, lý do khiến Nấm mồ xanh không hề đám lộ mặt là vì khuôn mặt thật sẽ làm lộ ra yếu điểm của hắn, còn nguyên nhân vì sao thì có lẽ chỉ có thể tìm thấy đáp án ở phía bên kia của tấm bia đá mà thôi.
Hải ngọng nói: “Phía bên kia của tấm bia trông giống hệt một cái động không đáy, nói dại miệng, tớ chỉ ngó vào trong đó một cái đã cảm thấy suýt nữa thì rớt mất hồn phách rồi, cậu định vào trong đó thật à?”
Thắng Hương Lân cũng lo rằng Nấm mồ xanh đang muốn dụ mọi người sang phía bên kia của tấm bia đá, hoàn cảnh lúc này đúng là tiến thoái lưỡng nan. Theo lý mà nói chỉ cần lộ chút dấu vết chân tơ kẽ tóc thì sẽ lần ngược ra được lai lịch của Nấm mồ xanh, nhưng giờ cả hội nắm trong tay bao nhiêu manh mối như thế mà mọi chuyện dường như vẫn nằm trong đám sương mù dày đặc, không hề thấy rõ chân tướng, đây cũng chính là điểm Nấm mồ xanh khiến người khác lạnh gai ốc nhất. Suy đoán theo mấy lời mập mờ của Triệu Lão Biệt thì dường như chỉ một mình quốc vương Chăm Pa mới có thể giải mã được văn tự cổ trên tấm bia, vì cho dù những thành viên đội khảo sát Lopnor năm xưa còn sống, thì cùng lắm họ cũng chỉ nhận biết được phần nội dung mà thôi, nếu không hiểu cách phát âm của hệ ngôn ngữ cổ này, thì dẫu có nhìn thấy bí mật trên tấm bia cũng không bị chết, nhưng nếu là vong hồn hàng ngàn năm của quốc vương Chăm Pa đang tác quái thì quả thực không thể nghĩ ra lý do vì sao hắn phải cố tình giấu kín khuôn mặt thật sự của mình như vậy. Trong những người Tư Mã Khôi từng gặp trước đây, rốt cuộc còn ai phù hợp với những điều kiện giống quốc vương Chăm Pa nữa? Bây giờ hội anh không phải không dám đoán mà là không thể đoán ra, nếu cứ suy luận theo chiều hướng này thì chẳng khác nào chui vào ngõ cụt, trừ phi làm rõ bí mật ở phía đầu kia của bia đá rốt cuộc là gì, nếu không mãi mãi không thể phả giải được vòng tròn quái dị luẩn quẩn kia. Nấm mồ xanh cố tình tiết lộ những thông tin bí mật với ý đồ mượn tay đội khảo cổ để phá hủy tấm bia đá, điểm này rất dễ thấy, mọi việc tiến triển đến đây thì sa vào ngã ba, rốt cuộc hội anh nên phá hủy tấm bia hay từ bỏ cơ hội tìm ra chân tướng sự thật và tháo chạy khỏi miếu thần? Nhưng con đường nên lựa chọn thực ra cũng rất dễ thấy, mọi người chắc chắn sẽ không làm theo lời Nấm mồ xanh ra tay phá hủy tấm bia đá, lạ một điều là tại sao Nấm mồ xanh hành sự vốn kín kẽ và chu đáo là thế mà lại không lường trước được điểm này?
Tư Mã Khôi biết hội anh chịu thiệt chính là vì không thể mò ra gót chân Asin của Nấm mồ xanh, điều ấy khiến mọi người luôn lâm vào tình thế bị động và chịu khống chế, chẳng khác nào để người ta bịt mắt muốn dắt tay đi đâu thì đi. Khi nãy vì muốn nghe đối phương nói ra bí mật trên tấm bia đá mà cả hội vô tình không biết mình đã để lỡ khá nhiều thòi gian, chi sợ trong miếu thần sắp xảy ra biến cố nguy hiểm nào đó, không khéo giờ đây việc nghĩ xem có nên lại gần bia đá hay không đã trở thành vô nghĩa vì cả hội không còn đường nào để lựa chọn nữa.
Hải ngọng không tin, anh nghiêng đông ngó tây một hồi, rồi nói: “Biến cố gì cơ? Gã kia chắc chắn nấp trong đường ngầm dưới đáy hô tìm cách chạy thoát thân, nếu còn không đuổi theo thì hắn sẽ chạy xa tít mù khơi cho xem…”, nói xong, anh liền giơ đuốc, rướn người vào trong thông đạo quan sát.
Tư Mã Khôi thấy xương người vương vãi khắp nơi dưới đáy động, anh đoán trong miếu thần còn ẩn nấp loài sinh vật ăn thịt nào đó, liền vội vàng nhắc Hải ngọng chú ý an toàn.
Hải ngọng cậy có khẩu súng săn họng lớn hỏa lực mạnh nên không coi lời Tư Mã Khôi vào đâu, nhưng dưới đáy hố toàn là thông đạo trông như những lỗ động, phạm vi chiếu sáng của bó đuốc lại chỉ rộng chừng bốn năm cửa động, thêm vào đó các vết nứt giữa các tầng nham thạch cũng khá lớn, thực không thể biết Nấm mồ xanh đang ẩn nấp ở nơi nào. Hải ngọng sốt ruột, hai mắt muốn tóe lửa, cổ họng khô khốc, anh lập tức lấy bình nước giắt ở hông, mở ra tu ừng ực một mạch đến hết nhẵn.
Lúc này, Tư Mã khôi phát hiện xung quanh càng lúc càng nóng, không những vậy nhiệt độ tăng cao một cách vô cùng nhanh chóng khiến mồ hôi trên người cả hội toát ra đầm đìa, anh lo thầm: “Chuyện gì thế nhỉ?”, ý nghĩ vừa xẹt qua đầu, đột nhiên trong thông đạo bên cạnh có rất nhiều bóng đen đang nhảy vọt ra, trông như ma núi nửa người nửa sói, tứ chi bò lồm ngồm, trong phút chốc đã ập đến ngay trước mặt, anh vội vàng liệng mình, chộp lấy Hải ngọng kéo giật lại sau né nạn.
Hội Tư Mã Khôi liên tục thối lui mấy bước, họ còn ngỡ mấy con quái vật từ thông đạo chui ra giống như lũ cương thi trong núi Âm Sơn dưới vực sâu, nhưng dưới ánh lửa bập bùng bất định, anh thấy bọn chúng trông hao hao giống loài sơn tiêu, da mặt đều bị lột mất, đôi mắt chỉ còn lại hai hốc đen ngòm, trên mặt đầy răng sắc lẻm, nhọn hoắt chìa ra ngoài, chúng lũ lượt trèo lên nơi cao trên vách đá.
Mọi người kinh ngạc tột độ, xem ra sinh vật nửa người nửa quỷ này là những người Bái Xà cổ đại ở lại canh miếu, không ngờ nhánh tộc này có thể nấp trong môi trường khắc nghiệt, thoát khỏi bao kiếp nạn long trời lở đất để tiếp tục sống sót cho đến tận ngày nay. Sử cũ ghi chép, người Bái Xà “xuyên hắc thủy, sống ở địa cùng, mắt sáng như nến, không quen hỏa tính”. Những người Bái Xà ở lại canh miếu này rõ ràng ngay từ lúc mới sinh ra đã bị móc mất mắt, nguyên do có lẽ vì họ không dám nhìn tấm bia đá, nhưng đời này nối tiếp đời khác sống lâu trong địa động sâu thăm thẳm dưới cửu tuyền, cách biệt với thế giới bên ngoài, nên giờ họ gần như đã bị thoái hóa giống bọn cương thi trong dãy núi Âm Sơn. Có lẽ họ không còn nhớ đến bí mật trên tấm bia đá Bái Xà nữa, thậm chí còn quên hẳn mệnh lệnh của tổ tiên là phải ngăn cản không cho người ngoài lại gần bia đá, chỉ có điều thói quen khoét bỏ đôi mắt đã ăn sâu bén rễ trong trí não, hố sâu dưới tấm bia đá có lẽ chính là mảnh đất vùi thân truyền đới của họ.
hoatanhoano.wordpress.com
Tư Mã Khôi từng nghe kể thợ săn ở biên giới có lần đã mục kích thấy ma núi, tương truyền bọn chúng vô cùng tà ác, đồn rằng chúng là những người chết trong mộ cũ biến thành. Theo quan điểm hiện đại thì ma núi chỉ là một loài vượn cổ hoặc dã nhân sinh sống trong huyệt động mà thôi, thỉnh thoảng mới tìm thấy bộ xương khô không còn nguyên vẹn. Lần này, bất ngờ gặp được người Bái Xà trong miếu thần dưới lòng đất, hội Tư Mã Khôi mới hiểu truyền thuyết và thông tin ma núi xuất hiện nơi địa đầu hoang vắng là có cơ sở của nó, có điều anh không không thể lý giải được vì sao những con quái vật trông như ma núi này lại đột ngột chui ra khỏi động đạo, cũng may chúng không nhìn thấy gì, nếu không chúng mà nhất tề xông lên thì chỉ dựa vào mấy khẩu sủng lục ắt hội anh chẳng thể cản trở được chúng. Nghĩ vậy, Tư Mã Khôi lập tức ra dấu cho ba người còn lại không được phát ra tiếng động.
Tư Mã Khôi đang định bảo Hải ngọng lẳng lặng tắt đuốc, ai ngờ mấy người Bái Xà dung mạo như ma núi bò gần đó bỗng quay ngoắt lại, đột nhiên há to mồm lao đến định cắn với tốc độ thần tốc, khả năng phán đoán và định vị phương hướng chính xác đến kỳ lạ.
Hải ngọng nhanh tay nhanh mắt, giương súng, lên nòng khẩu súng, săn, rồi ngắm thẳng mục tiêu, trong tiếng nổ đinh tai nhức óc, đạn của khẩu súng săn họng lớn xé tan một con ma núi thành đôi mảnh, máu thịt vương vãi khắp mặt đất. Dưới ánh sáng của đèn quặng, ba người còn lại cũng lần lượt giương súng bắn, đồng thời nép vào những đống xương khô chất đầy dưới đáy động, vội vàng lui về sau.
Tư Mã Khôi phát hiện cánh tay trái của thắng Hương Lân bị thương trong lúc hỗn loạn, nhưng tình thế cấp bách, không có thời gian ngồi băng bó vết thương cầm máu cho cô, nhìn cảnh này, Tư Mã Khôi không ngăn được nỗi lo lắng dấy lên trong lòng. Trong khi đó, hố sâu dưới tấm bia đá càng lúc càng khô nóng vượt mức chịu đựng, trước mắt giống như có một bức tường thép nung đỏ rực đang dần dần đè xuống, thật chẳng khác nào vầng mặt trời chuẩn bị áp sát họ, ngay cả tóc và lông mày cũng bị sấy khô đến sắp cháy rụi.
Hải ngọng khản giọng nói: “Không xong rồi! Suối nước nóng dưới lòng đất sắp phun trào, không chạy mau là biến thành gà luộc cả lũ bây giờ!”
Tư Mã Khôi thầm nghĩ: “Nơi này nằm ở nơi tận cùng của cửu tuyền, phía dưới làm gì còn suối nước nóng nào nữa, phía dưới miếu thần có lẽ là đại dương mênh mông do thể khí nóng bỏng tụ hợp thành. Vùng biển này không hề tĩnh lặng bất động từ thời hằng cổ, mà thủy triều cũng lên xuống giống như hít vào thở ra vậy, cứ cách một khoảng thời gian nhất định, dòng nhiệt lưu lại chảy ào vào miếu thần, với nhiệt độ này thì người thường không thể nào chịu đựng được. Giờ cả hội mới phát hiện ra điều này, e rằng có muốn chạy trốn cũng không kịp nữa. Sở dĩ Nấm mồ xanh chịu nói ra bí mật của tấm bia đá là vì hắn muốn kéo dài thời gian để đợi dòng nhiệt lưu dâng cao, buộc bọn ta phải chạy sang đầu kia của tấm bia đá tránh nạn, không ngờ hắn còn nắm rõ thời gian cụ thể lên xuống của nước triều như trong lòng bàn tay vậy”.
Hồi thứ tám
BÊN KIA TẤM BIA ĐÁ
Khi cả hội tiếp xúc với dòng khí đối lưu được hình thành bởi hải triều của dòng biển nóng thì trên người bắt đầu lấm tấm những mụn phỏng, trong khi đó lũ ma núi ở xung quanh vẫn đang tháo chạy tứ tán, lũ lượt chui vào trong các khe nứt trên cao của huyệt động, nhưng tịnh không một con nào dám bén mảng lại gần tấm bia đá Bái Xà.
Bức đến bước đường cùng, Tư Mã Khôi đành vứt bó đuốc, dìu Thắng Hương Lân đang bị thương, vừa lăn vừa bò từng bước rút về sau trong đống xương khô, rồi lại theo đường cũ trèo lên đỉnh tấm bia đá Bái Xà. Anh phát hiện phía sau tấm bia đá vẫn lạnh lẽo và vô cùng thâm u, có lẽ do yếu tố địa hình nên dòng khí đối lưu bỏng rát trào lên nhưng không thể chạm đến được nơi này.
Bốn người lê từng bước cố thoát thân, sau khi trèo lên phía trên tấm bia đá, ai nấy đều mệt bã người, thở hổn hển nặng nhọc, không thể lê chân thêm nổi nữa.
Tư Mã Khôi lồm cồm bò dậy kiểm tra vết thương của Thắng Hương Lân, thì ra những mành xương vụn trong hố sâu đã rạch đứt một đường trên da Thắng Hương Lân khiến cô mất máu khá nhiều, nhưng may mà vết thương không sâu lắm, thấy vậy anh và Hải ngọng mới yên tâm, quay sang nhờ Cao Tư Dương xử lý vết thương cho Thắng Hương Lân. Sau đó, cả hội chia nhau chút nước ngọt còn lại uống cho đỡ khát, rồi ngồi trên đỉnh tấm bia nghỉ trong giây lát.
Mọi người đứng ở ven rìa nhìn vào hang động lớn phía sau tấm bia đá, khoảng cách đèn quặng có thể chiếu sáng chỉ đạt khoảng mấy mét, phía dưới tối om, không nhìn thấy gì, nhưng dường như không gian ở đó rất trống trải, khoáng đạt và sâu hun hút, ai nấy đều không tránh khỏi cảm giác nổi gai ốc rùng mình. Tư Mã Khôi ngẫm nghĩ, phía dưới ngôi miếu thần đã là vùng hải lưu nóng, vậy sao lối ra vẫn sâu đến thế?
Lúc đầu, khi nhìn thấy tấm bia đá Bái Xà, Tư Mã Khôi đã cảm thấy bí mật cổ xưa này không nên bị người đời phát hiện, bởi vậy khi ấy anh đã có ý định rút lui, nhưng giờ đường lui đã chẳng còn, cả hội chỉ còn cách quyết tâm sang phía bên kia của tấm bia đá để nhìn rõ xem ở đó rốt cuộc chứa đựng bí mật gì, nhưng nếu làm vậy, hội anh không thể không tính đến khả năng xảy ra điều xấu nhất, bởi rốt cuộc mọi ẩn số đều sinh ra từ đây, kết quả thế nào chẳng ai có thể lường trước được. Sau khi đã chắc chắn với quyết định của mình, anh liền nói tình hình trước mắt cho ba người bạn đồng hành nghe.
Nhiệt độ dòng biển nóng dưới lòng đất đạt tới 4000°C đến 6000°C, tuy hải triều lên xuống theo quy luật cố định nhưng cụ thể thời gian nước biển dâng hạ thế nào thì anh lại không biết, dẫu có ở trên đỉnh tấm bia đợi đến khi thủy triều rút đi mới chạy ra ngoài qua thông đạo, thì cũng chưa chắc đã may mắn như lúc đến. Chỉ cần bị tấn công, thì với lượng súng đạn ít ỏi còn sót lại, chắc chắn hội anh chẳng thể chống đỡ lại được, đương nhiên sẽ không thoát khỏi số mệnh bị ăn sống nuốt tươi. Vì thế, bây giờ họ chỉ còn cách tiến vào hang động phía sau tấm bia đá mới có cơ hội sống sót, thoát ra khỏi vùng đất tử thần. Trước mắt, tấm bia đá khắc những ký hiệu chết chóc chính là sợi dây cứu mạng duy nhất của họ, bởi vậy bất luận tiếp sau đây có xảy ra tình huống gì, cả hội cũng buộc phải bảo vệ nguyên vẹn tấm bia đá.
Hải ngọng nói: “Trong hang động toàn là đá hộc lấp kín lối ra cửa động, ở phía ngoài lại bị bia đá chặn lại, hay là ở người Bái Xà cổ muốn ngăn vật gì ở bên trong thoát ra ngoài?”
Tư Mã Khôi nói: “Hải ngọng, lúc thường gặp chuyện cậu chẳng bao giờ chịu động não, giờ ngay cả cậu cũng nhận ra vấn đề, rõ ràng ở đây chứa nhiều uẩn khúc, nơi này âm khí nặng nề, không biết thời cổ đã tuẫn táng bao nhiêu người? Mà rốt cuộc đối tượng mà người Bái Xà tế lễ là tấm bia đá… hay còn có thứ gì khác nữa?”
Cao Tư Dương nhớ lại sự việc quái dị xảy ra lúc trước trong khe nứt của tấm bia đá thì rùng mình ớn lạnh, khi nãy rõ ràng cô đã tận mắt nhìn thấy Nhị Học Sinh trợn ngược mắt rồi lăn ra chết, vậy mà cậu ta lại đột ngột xuất hiện ở phía bên kia của tấm bia đá, lẽ nào lúc ấy cô nhìn nhầm vì căng thẳng quá độ?
hoatanhoano.wordpress.com
Nhưng Tư Mã Khôi cũng nhìn thấy tình hình xuất hiện ở mặt bên kia của tấm bia đá, nên có thể khẳng định Cao Tư Dương hoàn toàn không bị hoa mắt. Điều duy nhất có thể chắc chắn là Nhị Học Sinh đi cùng đội thám hiểm xuống cửu tuyền thực sự đã chết, bởi vậy bất luận kẻ xuất hiện phía sau tấm bia đá Bái Xà là ai, thì hắn cũng chỉ trông giống Nhị Học Sinh mà thôi, chắc chắn đó không phải cậu thư sinh đến từ nông trường Đại Thần Nông Giá.
Hội Hải ngọng lẳng lặng gật đầu. Tư Mã Khôi thấy Thắng Hương Lân tiều tụy, mất sức quá, nên quyết định bảo cả hội ngồi nghỉ trên đỉnh tấm bia đá thêm nửa giờ nữa.
Mọi người đều bị nước bỏng bắn lên làm phỏng rộp, giờ ngồi nghỉ mới thấy toàn thân đau rát, nhưng ai cũng cố nén đau tắt đèn quặng, họ vừa chỉnh đốn lại vũ khí đạn dược, vừa thì thầm thảo luận bước hành động tiếp theo dưới ánh đom đóm mờ ảo.
Tư Mã Khôi ngờ rằng tấm bia đá có khả năng chính là đường phân cách ranh giới giữa hư vô và hiện thực, phần lớn bích họa kéo dài đến tận cửa động đều miêu tả cảnh người chết biến thành ma, rồi đi qua đây rơi xuống biển hư vô, bởi vậy phía sau tấm bia đá có lẽ là hư vô.
Hải ngọng không hiểu vậy nghĩa là gì, bèn hỏi: “Nơi người chết đến… chẳng phải chính là hoàng tuyền dưới âm phủ sao?”
Tư Mã Khôi nói, anh cũng chỉ suy đoán thôi, sự việc có khi không đơn giản như vậy, còn hư vô là gì thì không thể giải thích rõ bằng dăm ba câu được. Năm đó, giới lục lâm có một tích cũ, nói rằng những năm cuối thời Minh, bọn thảo khấu làm loạn ở Thiểm Tây, triều đình huy động quân binh đi tiễu phỉ. Trước đây, triều đình gọi nhóm người này là “phỉ lưu động”, nhưng người về sau thì gọi là nhân dân khởi nghĩa. Khi ấy nghĩa quân chuyển vùng hoạt động ở nhiều tỉnh, liên tục chiến đấu ác liệt với quan quân triều đình, nên mãi không có cơ hội nghỉ ngơi, chỉnh đốn quân ngũ. Quân khởi nghĩa thương vong rất nhiều, nhưng điều quan trọng nhất là thiếu quân lương trầm trọng, tình hình nguy kịch như thỏ sa hang cọp, lúc nào cũng có khả năng bị tiêu diệt toàn quân.
Năm đó, cương triều bại hoại, lòng dân bất mãn, nơi nào cũng có người âm thầm giúp đỡ nghĩa quân, đến đâu họ cũng được cung cấp thêm lương thực, quân dụng. Một ngày, có một người con gái giang hồ đến phủ Khai Phong ở Hà Nam hát dạo. Cô nương ấy dung mạo tuyệt sắc, khiến người dân địa phương tranh nhau đến xem. Cô bày một hũ sành cổ trên đường phố, rồi bảo ai có thể thả đầy tiền xu vào hũ sành thì nàng sẽ cam tâm tình nguyện lấy người ấy. Bất kể thời nào thế nào, bất kể năm tháng có nhiều biến động đến đâu thì dưới vòm trời này chưa bao giờ thiếu những kẻ lắm chuyện thích hóng hớt xem vui. Mọi người vừa thấy cái hũ sành chỉ bé bằng bát cơm, thì nghĩ chẳng đựng được bao nhiêu tiền, nếu có thể lấy một tiểu cô nương yêu kiều duyên dáng nhường kia về làm vợ thì đúng là phúc lớn. Nghĩ vậy, mọi người chen chúc nhau ném ba đồng, bảy xu vào trong hũ, có người còn dốc cả chuỗi tiền đồng, chẳng ngờ hũ sành cổ như cái động không đáy, ném vào bao nhiêu cũng không thấy đầy, tiền xu cứ một đi không trở lại nào khác gì ném bánh bao đánh chó. Dân chúng vây quanh lấy làm kinh ngạc, đều nói cô nương nọ đúng là một dị nhân, chắc phải am hiểu dị thuật tà ma gì đó. Thế là chẳng ai dám đâm đầu làm con ma chết oan.
Vừa lúc ấy, có một quan quân áp giải ngân tiêu đóng thuế, dẫn theo một đội binh sĩ đi ngang vùng, thấy bên cạnh xảy ra sự việc ly kỳ, vị này cũng không tin vào tà ma, mà chủ yếu cũng là thèm mỹ nhân nhỏ dãi. Anh ta cho rằng hũ sành cổ chẳng qua chỉ giống như phép che mắt, quân ngân của quan phủ đều được đóng dấu, dẫu có dùng thuật dịch chuyển thì cũng khó lòng ăn cắp nổi. Thế là, anh ta chen qua đám đông vào gần thả ngân tiêu vào hũ sành, thả một thỏi mất một thỏi, thả hai thỏi mất cả đôi.
Vị quan quân nọ thẹn quá hóa giận, khăng khăng không tin cái hũ vỡ tầm thường kia có thể đựng được cả xe thuế ngân, anh ta bèn đẩy cả xe đựng đầy bạc tới, cởi dây thừng buộc từng hòm bạc, dốc thẳng vào hũ, vốn nghĩ nhiều bạc như vậy sẽ chôn được cả hũ sành xuống dưới, nào ngờ dưới lòng đất như có một hố lún xuống, cái xe đột nhiên chìm xuống, cả ngựa lẫn ngân tiêu đều rơi vèo một cái vào trong hũ, mất tăm mất dạng. Vị quan quân nọ đứng nghệt mặt tại chỗ, hồi lâu mới định thần trở lại, vội vàng hét quân lính bắt cô nương kia lại. Anh ta bỗng dưng bị mất hết quan ngân, ít ra cùng phải trói yêu nữ lại bắt đền tội. Cô nương khẩn khoản cầu xin: ‘‘”Nếu đã là thuế ngân của triều đình, thì xin hãy cho tiểu nữ dốc hũ đổ ngân tiêu ra trả, đảm bảo không thiếu một xu”. Sau đó, cô ta bước đến trước hũ sành, nhân lúc quan binh không để ý, cô liền thu nhỏ người lại, trong chớp mắt đã chui vào hũ sành cổ. Vị quan quân áp giải xe ngân và quân lính hét to xông lên đập vỡ hũ sành, nhưng trong đó rỗng không, chẳng có gì, người con gái hát dạo và cả ngân sa như trâu đất xuống biển, như diều đứt dây, tất cả đều mất tăm mất dạng.
Hải ngọng nghe xong cũng tròn mắt ngạc nhiên, anh hỏi: “Có chuyện này thật á? Hay đây là phép che mắt mà chồn thành tinh hay thi triển nhỉ?”
Tư Mã Khôi nói, dẫu sao đây là tích cũ từ hàng trăm năm trước, bây giờ kể lại chẳng qua chỉ là móc lại chuyện cổ kim, nghe nói người con gái ấy là kỳ nhân trong nghĩa quân, nàng thi triển phép vận chuyển để lấy quan ngân bổ sung quân lương, cái hũ sành giống như động không đáy của nàng giống như bích họa mà Triệu Lão Biệt nhìn thấy ở chân núi Himalaya, một tiên nữ có thể nuốt chửng cả tòa thành lớn vào bụng. Nếu quả thực trước đây xuất hiện phép vận chuyển này, thì nói không chừng, người con gái ấy có thể nắm được phương pháp ra vào hư vô, mà tình hình trong hư vô thì không một ai biết, vì đó là nơi mà ngay cả người sở hữu Phật nhãn nhìn thấu mọi cõi, mọi kiếp cũng không thể nhìn thấy nổi, bởi vậy hội anh rất khó đoán – nếu vào trong đó sẽ gặp phải những tình huống gì.
Tuy Hải ngọng trong lòng thấy gờn gợn, nhưng vẫn cứng miệng ra vẻ hảo hán: “Thần Phật khắp cõi trời không nhìn thấu cũng chả sao, Hải ngọng tớ nhìn thấu là được. Cứ thử xem vận may của anh em ta lớn đến cỡ nào, nếu mở hàng đóng quan tài thì tớ chắc tám phần là trong thành chẳng ma nào chết. Xuống dưới đó, sợ cái gì gặp cái nấy, thì còn gì đáng phải bất ngờ nữa?”
hoatanhoano.wordpress.com
Thắng Hương Lân cũng phục hồi tinh thần được mấy phần, nghe Tư Mã Khôi và Hải ngọng toàn nói chuyện rợn người, cô liền đứng dậy nói: “Tấm bia đá của người Bái Xà đã bị lún trong lòng đất hàng mấy ngàn năm, mặt đá nứt nẻ khắp nơi, giữa đường viền và vách động cũng tồn tại rất nhiều khe nứt, hư thực tương giao sao có thể chỉ cách một bức tường vỡ hỏng thế này? Bây giờ, lương thực, nước, đạn dược và pin đèn mà bốn chúng ta mang theo chẳng còn lại bao nhiêu, muốn tìm hiểu bí mật phía đối diện của tấm bia đá, thì không nên chần chừ nữa, phải nhanh tay hành động thôi!”
Thấy sắc mặt Thắng Hương Lân trắng bệch, Tư Mã Khôi chẳng rõ cô còn gắng gượng được bao lâu, nên trong lòng lại gợn lên nỗi lo âu, ngặt nỗi cứ ở mãi dưới lòng đất cũng chẳng có cách gì chữa trị, anh chỉ biết dặn cô bám sát ngay sau lưng mình, không được rời nửa bước, giả sử có gặp phải hung hiểm gì thì chí ít cũng có thể trợ giúp bất cứ lúc nào.
Thắng Hương Lân gật đầu đồng ý : “Hang động phía sau tấm bia sâu một cách kì lạ, mọi thứ đều mờ mịt, phạm vi hành động của mấy người chúng ta cố gắng giữ trong khoảng cách có thể nhìn thấy nhé!”
Hải ngọng lật tung mấy cuộn ống kíp và dây dẫn nổ trong ba lô, bó thành một bó thuốc nổ đơn giản, thuốc nổ hạng nặng tìm thấy trong kho vật tư trên khinh khí cầu nhiệt đã dùng hết lúc phá nổ ở cổng dẫn vào Tử thành, nhưng việc quấn mấy ống kíp thành vật phát nổ cũng đủ giúp anh cứng gan hơn, nếu gặp phải yêu ma quỷ quái, dẫu không giết chết được chúng thì chí ít cũng làm chúng sợ mà bỏ chạy.
Tư Mã Khôi nói: “Tuy tấm bia rất to và dày, nhưng đã bị vùi lấp nhiều năm dưới lòng đất, chỗ nào cũng toàn khe nứt và vết rạn mai rùa, nếu đứng ở khoảng cách quá gần thì cuộn thuốc nổ này cũng có khả năng làm sụp cả tấm bia, bởi vậy lúc sử dụng thuốc nổ, chúng ta phải thật thận trọng mới được”.
Bốn người chuẩn bị đâu vào đấy, mới cẩn thận tụt xuống chân mặt sau của tấm bia, phát hiện phía trong là động không đáy vừa cao vừa khoáng đạt, áng chừng đường kính của động đạo và chiều rộng của tấm bia đá tương đương nhau, trong động tối om, che khuất tầm mắt, phạm vi nhìn thấy hẹp hơn ở phía ngoài mấy lần, đèn quặng chỉ có thể chiếu sáng được trong vòng năm, sáu bước. Trong động này, bóng tối như nước triều vô biên không chỉ nuốt ánh sáng, mà dường như còn nuốt chửng tất cả âm thanh trên cõi đời.
Mọi người không dám liều lĩnh bước vào ngay mà đứng dựa lưng vào tấm bia đảo mắt quan sát xung quanh, họ phát hiện mặt sau tấm bia cũng khắc chữ cổ, hai bên vách động còn có dấu tích khắc vẽ tranh mà người Bái Xà để lại, dường như họ muốn ghi chép những cảnh ngộ mà tổ tiên mình từng gặp phải trong hang động cổ, chỉ mấy chữ triện cổ sót lại là còn có thể nhận dạng được.
Thấy Thắng Hương Lân lôi cuốn sổ ghi chép ra đối chiếu dưới ánh đèn quặng, lần lượt giải mã nội dung còn sót lại trên bích họa, mọi người liền tranh thủ ngó nghiêng ra phía ngoài qua khe nứt trên tấm bia. Họ lờ mờ cảm thấy dòng nhiệt lưu đang trào lên, ngoài ra không có hiện tượng khác thường nào hết. Thấy vậy, mọi người đều nghĩ, lúc trước có lẽ mình đã quá đa nghi, bèn quay lại hỏi Tháng Hương Lân xem trên vách động khắc những gì?
Thắng Hương Lân bảo, vách động bị rong rêu xâm thực bào mòn nghiêm trọng, nội dung có thể giải mã được rất ít. Phần có thể dịch ra được có lẽ là “Sẽ nhìn thấy… sự thật… không thể chịu đựng nổi”.
Hồi thứ chín
SỰ THẬT KHÔNG THỂ CHỊU ĐỰNG
Vách trong của tấm bia đá khắc mấy chữ cổ không trọn vẹn, Thắng Hương Lân chỉ nhận ra mấy chữ trong số đó, còn phần lớn đã bị rong rêu xâm thực nên đã mờ nhạt không còn rõ nữa.
Tư Mã Khôi mơ hồ không hiểu “Nhìn thấy sự thật không thể chịu đựng nổi” rốt cuộc muốn ám chỉ điều gì? Tô tem và những chữ tượng hình khắc trên vách đá còn cổ xưa hơn cả tấm bia đá, nội dung ghi chép trên đó rất có khả năng nói về cảnh ngộ gặp phải trong hang động của tổ tiên người Bái Xà, bởi vậy dòng chữ này không phải chỉ tín hiệu chết chóc trên bia đá, mà ám chỉ hang động phía sau tấm bia, nơi ấy đen ngòm, sâu hút không thấy đáy, nào ai thấy được bên trong có thứ gì?
Thắng Hương Lân cũng băn khoăn không hiểu, cô soi đèn quặng lên vách động, rồi nói với hội Tư Mã Khôi: “Quanh đó còn có những hình vẽ kỳ quái, dường như đây là nghi thức tế lễ trong hang động của tổ tiên người Bái Xà”.
Tư Mã Khôi hướng mắt về phía tay Thắng Hương Lân chỉ, anh thấy trên vách động khắc hình ảnh một đám người đứng xếp hàng, tất thảy đều lấy tay che mặt, thần sắc đượm vẻ sợ hãi. Cấu tứ bức tranh tuy đơn điệu cổ phác nhưng lại ẩn hiện truyền đạt một hơi thở thần bí và ma quái, một hàm ý mà người hiện đại không thể nào giải mã được.
Tư Mã Khôi ngạc nhiên hỏi: “Trong này còn có thứ khiến người Bái Xà sợ hãi hơn cả tấm bia đá ư?”
Thắng Hương Lân nói: “Căn cứ vào những chi tiết khắc trên vách đông, xem ra tổ tiên người Bái Xà từng phát hiện thấy một sinh vật vô cùng đáng sợ tồn tại trong hang, đầu tiên do quá khiếp sợ nên họ tế lễ, nhưng sau đó họ lấy bia đá bịt cửa động lại, không hiểu trong động không đáy này tồn tại… thứ gì nhỉ?”
hoatanhoano.wordpress.com
Mọi người không biết phải suy đoán thế nào, liền quyết định cứ vào trong tìm hiểu trước đã. Thấy xung quanh toàn là vách đá bị rong rêu che phủ, Tư Mã Khôi liền đi trước dẫn dường, Hải ngọng đi sau cùng, bốn chiếc đèn quặng đều bật hết lên, cả hội men theo vách đá mò mẫm đi sâu vào trong hang.
Trên người Tư Mã Khôi luôn mang theo một hộp thiếc rỗng, bề ngoài đục nhiều lỗ, bên trong đựng mấy con đóm đóm anh bắt được trong huyệt động, tạm thời sử dụng làm đèn trại, nhưng loài đom đóm đuôi dài này đều không có miệng, không thể lấy thức ăn để duy trì sinh mệnh, nên thời gian tồn tại của chúng vô cùng ngắn ngủi, tuổi thọ sớm nở tối tàn chẳng khác nào một đóa phù dung, chỉ khoảng hai mươi tiếng sau khi ra đời, chúng sẽ chết. Từ đầm dạ quang đến tấm bia đá, cả hội đi mất gần hai ngày, mấy con đom đóm đuôi dài bắt ở đầm giờ đã dần mờ ánh sáng, rồi lần lượt chết, còn lại hai con sống sót, nhưng ánh sáng cũng chỉ le lói mờ ảo, không thể phát huy tác dụng chiếu sáng được nữa, cũng chẳng thể tận dụng để đo hàm lượng oxy dưới lòng đất.
Tư Mã Khôi thấy mang theo cái hộp bên người chỉ tổ phiền phức, anh bèn phóng sinh cho hai con đom đóm, mặc chúng tự sinh tự diệt, chỉ thấy hai con đom đóm sải rộng đôi cánh, quét vệt sáng mờ màu vàng chanh ở đuôi lướt qua đỉnh đầu mọi người, chúng lượn quanh nửa vòng rồi mất hút trong bóng đêm vô biên, chỉ còn lại chiếc hộp rỗng không, Tư Mã Khôi tiện tay quẳng luôn xuống đất.
Lúc này, Thắng Hương Lân giơ tay nhìn đồng hồ, kim ngắn vừa vặn chỉ mười một giờ đúng. Ở dưới cửu tuyền cách biệt với thế giới bên ngoài, mọi người vốn chẳng cần phân biệt ngày và đêm, chỉ có điều Thắng Hương Lân muốn lấy thời gian làm điểm tham chiếu, lúc tiến sâu vào trong có thể tính toán độ sâu của hang động.
Bốn người lần theo tấm bia chậm chạp tiến về phía trước, Hải ngọng đi sau cùng, vô tình vấp phải hộp thiếc mà Tư Mã Khôi vừa vứt khi nãy, chân đứng không vững, liền bổ nhào ngã ụp xuống đất, đầu đâm cả vào ba lô Cao Tư Dương đang khoác trên lưng, ba người còn lại được phen hú vía, cùng quay phắt người lại xem chuyện gì xảy ra.
Hải ngọng lồm ngồm bò dậy, trách Tư Mã Khôi: “Cậu vứt cái hộp sao chả vứt xa một chút. Nơi tối lửa tắt đèn thế này giẫm phải ngã gãy xương chứ chẳng chơi, may mà tớ đã luyện võ…”
Tư Mã Khôi thấy không có chuyện gì, thì không đếm xỉa đến Hải ngọng nữa, anh quay người đang định tiến về phía trước, thì đột nhiên phát hiện trước chùm sáng đèn quặng thấp thoáng hiện ra khuôn mặt của một người.
Trong động tối đen như mực, chỉ cần ở cách mấy bước chân đã không nhìn thấy tia sáng cũng như không nghe thấy bất cứ âm thành nào rồi, bởi vậy đến khi cách người trước mặt rất gần, Tư Mã Khôi mới nhận ra. Tuy khuôn mặt kẻ mới đến trông chỉ lờ mờ, nhưng các đường nét vô cùng quen thuộc, rõ ràng đó là Nhị Học Sinh, người mới chết cách đây không lâu lúc ở phía ngoài bia đá. Tư Mã Khôi vốn bạo gan cứng vía nên anh chỉ lặng lẽ quan sát, rồi đột ngột thò tay ra phía trước tóm thật nhanh, lôi cổ kẻ mới đến lại gần nhìn cho rõ.
Nhị Học Sinh dường như đang hoảng hốt, loạng quạng bước về phía này, do mắt cận nặng nên cậu ta không nhìn thấy người ở trước mặt. Tư Mã Khôi ra tay nhanh như gió, khiến cậu ta không né kịp, Tư Mã Khôi tóm chặt cổ cậu ta chẳng khác nào đại bàng quắp chim sẻ, rồi anh vật mạnh Nhị Học Sinh xuống, khiến mặt cậu ta vàng như nghệ, ngồi co ro thành một đống.
Ba người còn lại phát hiện động tĩnh bất thường, đều quay đầu lại, lúc đèn quặng soi sáng khoảng không gian trước mặt, mới thấy tay Tư Mã Khôi đang tóm cổ một người, mà người này lại chính là Nhị Học Sinh, cả hội thấy da đầu bỗng dưng tê bì, da gà nổi toàn thân.
Hải ngọng vừa kinh ngạc vừa tò mò, bước lại gần Nhị Học Sinh nhìn không chớp mắt, tình hình lúc này thật chẳng khác gì đang trải qua một cơn ác mộng, nhưng những vết phỏng trên người do dòng nhiệt lưu bắn lên vẫn đau rát như nhắc anh – rõ ràng không phải đang mơ, anh không kiềm được lẩm bẩm tự hỏi: “Gã này là người hay ma không biết?”, lời vừa thốt ra ngay cả bản thân cũng thấy không đúng. Cậu Nhị Học Sinh kia cơ thể vốn đã mong manh yếu ớt, lại thêm phải chịu bao nỗi vất vả, bao phen sợ hãi dọc đường, cậu ta kiên trì đến được bia đá thì như ngọn đèn hết dầu, chết gục trước tấm bia, ngay cả thủ cấp cũng bị mọi người tẩm dầu, hỏa thiêu thành tro để phòng người chết không bị côn trùng, chuột bọ gặm nhấm, chỉ lưu lại mấy di vật tùy thân như chiếc bút máy, huy hiệu… Nếu cả hội có thể sống sót thoát khỏi lòng đất, thì sẽ mang những di vật này về cố hương lập áo quan, coi như cậu ta không bị chết nơi đất khách quê người, đây cũng là một cách an táng từ thời xưa truyền lại. Cổ nhân có câu “người chết như đèn tắt”, một người đã bị hóa xương cốt thành tro, sao bỗng dưng có thể chạy ra từ động không đáy phía sau tấm bia đá? Nếu không phải yêu quái biến thành, thì hẳn cũng là ma hiện hồn, nghĩ đến đây anh lập tức giương khẩu súng săn hai nòng dí thẳng vào đỉnh đầu Nhị Học Sinh, chuẩn bị bóp cò bắn sọ đối phương nát như tào phớ.
Nhị Học Sinh sợ vãi đái, hai chân mềm nhũn khuỵu xuống đất, lúng búng van xin: “Đừng… đừng đừng… xin đừng nổ súng, tôi… tôi… tôi…”
Cao Tư Dương thấy người chết sống lại, trong lòng hãi hùng cực độ, nhưng cô thấy người ấy dung mạo và thần thái, cả động tác, lời nói nữa đều giống y chang cậu thư sinh Nhị Học Sinh đến từ Đại Thần Nông Giá, cô nhớ Tư Mã Khôi từng nói cách phân biệt giữa người và ma, “dưới đèn có bóng, áo mặc có đường may” thì chắc chắn là người chứ không phải ma, nếu xét như vậy thì người trước mặt rõ ràng là người sống sờ sờ không còn nghi ngờ gì nữa. Cô nghĩ chắc có nguyên do, nội tình gì đó ẩn chứa bên trong, nên vội vàng đẩy khẩu súng săn gấu đã lên nòng của Hải ngọng sang một bên.
Hải ngọng nóng mắt quát lớn: “Nhị Học Sinh có phải Triệu Lão Biệt biết găm biệt bảo trong người đâu mà có thể chết đi sống lại được, hắn không phải ma thì cũng là yêu quái, cô tuyệt đối không được nhất thời mềm lòng mà bị nó làm mờ mắt, tránh ra để tôi ‘bòm’ một phát cho sạch sẽ nào!”
Thắng Hương Lân đứng bên quan sát, trong lòng cũng thầm kinh ngạc tột độ, tấm bia đá Bái Xà rốt cuộc là vật vô cùng cổ quái, khó lòng dùng các lý thuyết thông thường để xét đoán. Chẳng lẽ người chết ngoài bia đá sẽ xuất hiện phía trong bia đá và ngược lại? Cô lại thấy Nhị Học Sinh vẫn gài bút và huy hiệu trên người, trông không khác gì di vật mà mọi người mang theo, cô bèn khuyên Hải ngọng đừng vội động thủ, cứ hỏi cho rõ rồi xử hắn sau cũng chưa muộn.
Tư Mã Khôi không nói gì, tóm cổ Nhị Học Sinh lại gần nhìn chăm chú một hồi lâu, nhưng không nhận thấy điểm gì khác thường. Người đã chết lại xuất hiện phía trong tấm bia đá, bản thân chuyện này vốn đã bất thường, anh bèn ra dấu bằng mắt cho Hải ngọng: “Xử đẹp thằng này đi!”
hoatanhoano.wordpress.com
Hải ngọng vốn đã muốn giết hắn, nên lại giơ họng súng săn chĩa thẳng vào Nhị Học Sinh, trợn mắt nói: “Đừng trách anh lòng lang dạ sói, chú mày nghĩ mà xem, chú mày như ngọn đèn đã tắt, còn lưu luyến gì trên cõi đời này nữa mà phải trở lại nhập tràng? Bây giờ anh Hải ngọng chỉ còn cách tiễn chú một đoạn mà thôi…”
Nhị Học sinh bị họng súng đèn ngòm chĩa thẳng vào trán, cậu ta sợ run cầm cập, há hốc mồm, không thốt ra được nửa lời.
Cao Tư Dương chặn trước họng súng, nói với Tư Mã Khôi và Hải ngọng: “Sao các anh cứ động một tý là ra tay giết người, hỏi cho rõ đã rồi tính sau!”
Thắng Hương Lân cũng nói: “Người này lai lịch bất minh, chúng ta nên làm rõ xem rốt cuộc đang xảy ra chuyện gì trước đã!”
Tư Mã Khôi nghĩ thầm: ‘‘Từ sau bia đá bò ra không phải ma mới lạ, làm sao hỏi được cái cóc khô gì, nếu để lại hậu họa sẽ khôn lường”, anh lo phạm vi sát thương của đạn ghém hoa cải trong khẩu súng săn gấu hai nòng quá rộng, nên đẩy Nhị Học Sinh vào vách động, lấy khoảng không cho Hải ngọng tiện ngắm bắn.
Nhị Học Sinh bị đẩy mạnh đập cả người vào vách đá, mắt thấy hội người này định hạ thủ thật, thì sợ hãi đến nỗi chẳng giãy giụa được gì, cuống cuồng dùng cả tay lẫn chân vừa bò vừa lăn chạy tháo mạng.
Hải ngọng không chút chậm trễ, giương súng bóp cò, một tiếng “pằng” vang lên, đạn ghém cỡ tám trong họng súng siêu lớn bắn trúng vào lưng Nhị Học Sinh. Loại súng săn kiểu cũ của Canada này có thể hạ gục cả loài gấu nâu nặng ngàn cân thường lảng vảng trên dãy Rocky ở khoảng cách gần, nay bắn vào người thì làm gì có chuyện còn sống sót?
Nhị Học Sinh đứng cách mũi súng có mấy bước, cả cơ thể như chiếc lá bị cuồng phong giật tung lên, đạn xuyên thủng một lỗ lớn, người đập mạnh vào vách động, rồi mới rơi phịch xuống.
Cả hội lại gần xem, thì thấy Nhị Học sinh nằm thẳng cẳng trên mặt đất, đạn ghém cỡ tám đâm một lỗ từ sau lưng ra đến trước bụng, lòi cả phèo ruột ra ngoài, hai mắt mở trừng trừng vô định và chan chứa nỗi tuyệt vọng, miệng ùng ục nôn ra toàn bọt máu, tay chân co giật một hồi thì đoạn khí.
Cao Tư Dương thấy Nhị Học Sinh rõ ràng có máu có thịt, lại còn mang hơi khí của người sống, chẳng giống ma quỷ chút nào, cô phẫn nộ oán trách Tư Mã Khôi và Hải ngọng chưa hỏi rõ trắng đen đã ra tay hạ độc thủ luôn, rất có thể cả hai đã phạm phải sai lầm không cách nào cứu vãn.
Thắng Hương Lân cũng muốn khuyên nhủ cũng đã muộn, thấy cảnh tượng này thê thảm quá mức, nên cô không dám lại gần xem, nhưng người chết phía ngoài tấm bia đá lại xuất hiện ở đây, rõ ràng chuyện này có nguyên do của nó, không biết tiếp theo còn xảy ra những biến cố gì nữa?
Hải ngọng đã quen nhìn bao người chết trên chiến trường Miến Điện với đủ tư thế, anh biết lúc giết gà, con gà bị cắt cổ vẫn có thể nhào lên chạy mấy vòng, người chết chân tay co giật cũng là chuyện bình thường, chỉ một lát nữa thôi sẽ không còn cử động được gì nữa, có điều bộ dạng phèo ruột lòi cả ra ngoài thì đúng là cũng hơi khác so với những cái chết khác, lẽ nào anh thực sự đã ra tay giết người vô tội?
Tư Mã Khôi bảo Hải ngọng đừng nghĩ nhiều, anh vẫn kiên định với câu nói trước đây, Nhị Học Sinh đi cùng đội khảo cổ ở rừng rậm nguyên sinh Thần Nông Giá thực sự đã chết rồi, bất kể thứ bị nhốt trong hang động phía sau bia đá có giống cậu ta cỡ nào thì cũng không được tin đó là thật, nếu không dẫu có bao nhiêu cái mạng cũng không đủ lấp đầy hang động này đâu.
Hải ngọng nói: “Cậu đã nói vậy thì tớ yên tâm, chúng ta tiếp tục đi sâu vào trong chứ?”
Cao Tư Dương thấy Tư Mã Khôi không hề đếm xỉa gì đến lời nói của mình, cô chau mày bảo: “Muốn đi thì các anh tự đi. Tôi không hành động với lũ thổ phỉ bọn anh nữa!”
Lúc này, thấy Nhị Học Sinh đang nằm thẳng cẳng trên mặt đất, chân tay đã dần dần ngừng co giật, chút hơi tàn cũng đã trút hết, đúng lúc này, đèn quặng trên đầu bốn người đột nhiên tối sầm lại, trong nháy mắt tất cả chìm vào bóng đêm sâu thẳm và dày đặc không thể nào xuyên qua.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top