CHƯƠNG 2 - TỬ THÀNH

Hồi thứ nhất

THẦN  VŨ XÀ

Mọi người đi vào cái miệng khổng lồ há rộng của thần Vũ Xà, thâm nhập vào trong lòng núi, thì thấy động đạo khoáng đạt, sâu hút, trên mặt đất và vách tường lổn nhổn vô số tảng đá khổng lồ bằng phẳng, bên trên điêu khắc toàn hình đầu thần mặt quỷ, cả hội liếc mắt xem qua thì thấy nội dung chủ yếu là đề tài con người sau khi chết đi sẽ rơi xuống hoàng tuyền.

Lúc đầu, hội Tư Mã Khôi cứ ngỡ đã bước chân vào miếu thần – nơi đặt tấm bia đá của người Bái Xà, nhưng khi nghe Thắng Hương Lân bảo đây mới chỉ là Tử thành, thì ai nấy đều thất vọng, bước chân bất giác chậm hẳn lại.

Cao Tư Dương giơ cao ngọn đuốc, chăm chú nhìn những hình vẽ trên bức phù điêu, ở đó vẽ đủ các loại thần tiên yêu ma, cô hỏi Hương Lân: “Tử thành là nơi ở của người chết sao?”

Tư Mã Khôi nói: “Có lẽ đó là một tòa thành cổ không có lối ra, không biết miếu thần có trong tòa thành này không nhỉ?”

Thắng Hương Lân nói, người Bái Xà cổ đại sống ở thời văn minh nguyên thủy, mức độ phát triển của họ rực rỡ ngang với nền văn minh Ai Cập cổ đại, họ có quan điểm về sinh tử rất độc đáo. Người Bái Xà tin tưởng sâu sắc vào sự luân hồi chuyển thế, họ cho rằng chỉ cần sau khi chết, hồn phách không bị rơi vào hư vô, thì sẽ có cơ hội hồi sinh. Vậy phải làm sao để hồn phách không bị rơi xuống hư vô? Chỉ có một cách, đó là họ buộc phải chết trong tòa thành cổ được xây dựng ở lòng núi Vũ Xà. Ngay khi còn sống, họ đã vào trong thành để đợi ngày được tử thần rước đi, nếu ai chẳng may chết ngoài thành cổ thì vĩnh viễn khồng có kiếp sau, dẫu đưa xác chết vào trong thành thì cũng vô nghĩa, chính vì vậy, từ vương tử đến thứ dân đều có vị trí huyệt mộ trong Tử thành, họ căn cứ vào địa vị lúc tại thế của người đó để phân chia vị trí huyệt mộ trong thành.

Mọi người nghĩ, hóa ra Tử thành đúng là nơi ở của người chết, e rằng trong thành này, xương khô và cương thi chất cao như núi, không biết nếu đi sâu vào bên trong sẽ còn gặp những nguy hiểm gì.

Tư Mã Khôi giục Nhị Học Sinh cố gắng sửa xong đèn hỏa diệm nhiệt độ cao, có vật này trong tay, cả hội sẽ vững dạ hơn.

Suốt dọc đường đi, Nhị Học Sinh vẫn không ngừng cố gắng, nhưng bất kể cậu ta đập gõ thế nào, đèn vẫn không sáng, xem ra thiết bị tiên tiến này có kết cấu rất phức tạp.

Trong môi trường khắc nghiệt như vậy, cả hội chỉ biết dựa vào mấy khẩu súng lạc hậu để bảo vệ bản thân, vì trong thời gian ngắn như vậy, họ không hi vọng ngọn đèn có thể phát huy tác dụng.

Tư Mã Khôi thầm linh cảm thấy điều chẳng lành, chỉ e trong Tử thành có thứ gì đó mà súng Winchester không thể đối phó nổi.

Anh nghe Thắng Hương Lân tiếp tục giải thích, nội dung cuốn nhật ký còn nhắc đến một chuyện, người Bái Xà cổ đại có thói quen đào huyệt rất sâu dưới lòng đất, hậu quả của việc đó là nơi này đã xảy ra một trận đại hồng thủy, khiến vô số người phải chôn thây trong bụng cá, cầm thú quỷ quái hoành hành khắp cõi nhân gian, dạ xoa ác quỷ cũng mò xuống lòng núi ăn thịt người, những thành trì còn sót lại bị hư hỏng nặng nề, nên không thể ngăn được nước lũ và bọn mãnh thú, những người may mắn sống sót đành trốn vào Tử thành, săn chuột làm thức ăn và làm bạn với núi xương khô chất chồng của tổ tiên, cuối cùng số người sống sót càng lúc càng giảm dần. Đó chính là nguyên nhân chính dẫn đến sự diệt vong của nền văn minh Bái Xà.

Hải ngọng nói: “Mặc kệ bọn người Bái Xà chết hết hay chưa, điều tôi quan tâm nhất bây giờ là làm cách nào tìm thấy tấm bia đá trong miếu thần?”

Thắng Hương Lân lắc đầu nói: “Không ai biết được vị trí chính xác của miếu thần, giờ đây chúng ta chỉ còn cách lục soát từng manh mối trong tòa thành chết này thôi!”

Tư Mã Khôi hỏi Thắng Hương Lân: “Trong cuốn nhật ký có vẽ bản đồ của Tử thành không? Nơi này sâu hút, tối thui, không có bản đồ thì làm sao tìm thấy lối ra được.”

Thắng Hương Lân nói: “Không tìm thấy bản đồ, nhưng dãy núi dưới lòng đất được coi là hóa thân của thần Vũ Xà, chỉ cần tham chiếu tô tem thần Vũ Xà là ta có thể nhận biết được địa thế và phương hướng của tòa thành cổ này.”

Mọi người vừa đi vừa nói chuyện, chẳng mấy chốc, họ đã xuyên qua thông đạo khoáng đạt, nhưng nơi sâu trong lòng núi là bức tường cao dựng đứng, chỗ nào cũng thấy những bức tượng người hoặc tượng thú khổng lồ cao đến mười mấy mét; vách tường không còn bằng phẳng mà lồi lõm, nhấp nhô, trên mặt tường có rất nhiều lỗ hổng giống như hang chuột, rêu khô loang lổ, trong góc tường mọc vô số thân nấm thấp tè với đủ hình dáng cổ quái, cây lớn nhất cũng chỉ to bằng nắm đấm là cùng. 

hoatanhoano.wordpress.com

Mọi người vừa đi vừa không thể ngăn được tiếng tim đập thình thịch như gõ trống. Tòa Tử thành này là nơi chất ngút không biết bao nhiêu thi thể, năm dài tháng rộng qua đi, không chừng những thi thể ấy đã biến thành cương thi rồi cũng nên, nhưng lẽ ra quanh đây ít ra phải gặp mấy bộ xương khô hoặc di hài chứ, sao không hề lưu lại chút vết tích nào? Toàn bộ người chết trong tòa thành đã biến đâu rồi?

Tư Mã Khôi thấy cuốn nhật ký mà Thắng Hương Lân cầm trên tay có hình tô tem Vũ Xà ở lưng chừng lòng núi, bên trên khảm một vòng tròn biểu thị luân hồi sinh tử, anh phán đoán có lẽ tòa Tử thành lún vào lòng núi này cũng hình tròn, đứng ở ngoài cửa động nhìn vào thì không thấy xác chết nào, còn tình hình bên trong ra sao anh lại hoàn toàn không rõ.

Nhị Học Sinh thì thầm: “Lẽ ra xác chết trong này phải chất cao như núi mới phải, sao đến nửa cỗ di hài cũng chẳng trông thấy thế nhỉ?”

Cao Tư Dương nói: “Không chừng người chết đều ở sâu trong thành cổ…”, cô chưa nói hết câu thì bỗng một bầy chuột nhung nhúc kéo đến, con nào con nấy to kềnh càng như mèo rừng, số lượng không dưới ngàn con, chúng giương cặp mắt đỏ lòm như máu chui qua chui lại quanh chân mọi người. Cao Tư Dương là chúa sợ chuột, cô vội vàng vung đuốc xua đuổi.

Hải ngọng nói: “Chuột ở đây to thật, người chết trong thành cổ chắc chắn đã bị lũ này gặm hết rồi, các cậu có nghe lời đồn, con chuột sau khi ăn con ngươi của người chết sẽ trở thành chuột chúa, nó chính là ‘Nhất lộ tiên gia’ đấy!”

Cao Tư Dương mặt biến sắc: “Hải ngọng, sao lúc nào anh cũng thích nói quá lên vậy? Làm gì có chuyện đó!”

Tư Mã Khôi nói: “Trong dân gian, người ta gọi chuột là Khôi bát gia, tương truyên con vật này rất giỏi dự đoán điềm cát hung, nếu cô sống trong ngôi nhà có chuột, ban đêm yên tĩnh, dỏng tai lên có thể nghe thấy tiếng chuột rời tổ đi tìm thức ăn. Trước đó chúng thường thì thầm kêu chít chít trong hang, đó là lúc chúng nhẩm tính xem sau khi ra khỏi hang có gặp phải mèo hay không, bởi vậy dân gian mới có cách nói “chuột gieo quẻ”, nếu bị chuột cắn vào tóc thì là điềm lành, còn nếu bị nó gặm chân hoặc giày tất thì là điềm dữ…”

Nhị Học Sinh thấy Tư Mã Khôi nói vậy, hốt hoảng hỏi lại: “Chết rồi, tôi vừa bị con chuột cắn vào giày, nghĩa là tôi sắp gặp vận đen rồi à?”

Cao Tư Dương nói: “Chỉ có anh mới tin bọn họ nói xằng, không khéo trong thành cổ còn có vô số chuột khổng lồ, nhân cơ hội này thiêu sạch chúng cho sớm!”.

Tư Mã Khôi nói: “Tôi không nói xằng, có thể chuyện chuột gieo quẻ chỉ là lời đồn, nhưng loài chuột rất gần gũi với con người, chỉ chờ người đi ngủ là chúng bắt đầu hoạt động, bởi vậy chuyện quái dị quanh chúng cũng không ít. Bọn chúng là loài có tinh thần cảnh giác cao độ bậc nhất, rất am tường việc đón cát tránh hung”, nói rồi Tư Mã Khôi lấy đuốc soi khắp bốn phía xung quanh, anh nhìn chằm chằm vào hướng di chuyển của lũ chuột trong Tử thành.

Cao Tư Dương thấy Tư Mã Khôi tập trung tinh thần cao độ mà không hiểu anh đang nhìn gì, cô nhỏ giọng hỏi Thắng Hương Lân: “Gã này hơi ấm đầu thì phải, không lẽ anh ta cho rằng người chết trong thành cổ đều biến thành chuột chắc?”

Thắng Hương Lân nói: “Có lẽ anh ấy thấy nấm mọc trong Tử thành hơi kỳ quái, tuy chuột ở đây rất nhiều, nhưng dường như chúng luôn tránh những cây nấm, chứ không dám ăn, có lẽ trong nấm chứa chất kịch độc, mọi người cũng tuyệt đối không được chạm vào nó đấy nhé!”

Tư Mã Khôi gật đầu bảo: “Đó chỉ là một nguyên nhân, ngoài ra, mọi người còn chuẩn bị tâm lý trước, quan sát kỹ những vách tường thành mọc nấm độc”.

Mọi người không hiểu ý, liền soi lửa đuốc vào bức tường đá, giương mắt nhìn suốt hồi lâu, nhưng không phát hiện ra có điểm gì khác thường.

Tư Mã Khôi xua tay nói: “Mọi người có nhìn thấy gì cũng đừng sợ hãi, ai nhát gan thì tốt nhất chớ có nhìn!”

Những thành viên còn lại càng nghe càng ù ù cạc cạc không hiểu, mọi người lui lại mấy bước, bấm đèn quặng chĩa về phía vách tường, khi đã định thần nhìn lại thì ai nấy đều kinh hãi tột độ, mồ hôi vã ra như tắm. Vách tường lồi lõm với vô số hốc lớn nhỏ, chẳng ngờ các vết tích ấy đều là đầu lâu, mọi người giật thót mình, trong thành đắp đống vô số thi hài của người Bái Xà, giờ đây tầng tầng lớp lớp xương khô đã trở thành hóa thạch, điều lạ lùng là làm sao những cây nấm này lại mọc ra từ miệng của đầu lâu? 

hoatanhoano.wordpress.com

Hải ngọng ra vẻ hiểu biểt, kể mình từng đến núi Bạch Sơn đỉnh Hưng An Lĩnh, gặp vô số loại nấm với đủ hình thù kì quái, hình như loại nấm này có tên “nấm thi khẩu”, nghĩa là nấm miệng người chết, sở dĩ có tên này là vì chúng chỉ mọc trong miệng người chết. Nghe mấy tên đi đào nhân sâm kể lại, những người này lúc còn sống thường ăn nhân sâm ngàn năm, nên sau khi chết đi chân khí không tiêu tan mà từ từ cô đọng lại thành cây nấm, loại nấm này vô cùng quý giá, người sống ăn vào có thể kéo dài tuổi thọ, nếu trong quá trình phá quan tài cải táng; hoặc đào huyệt mộ ngẫu nhiên phát hiện thấy một cây nấm thì bọn trộm mộ sẽ thi nhau tranh cướp, nhưng loại nấm này nếu chạm phải tay người là lập tức hóa thành nước đen, có đào lên cũng không cách nào bảo quản, không những vậy bàn tay chạm vào cây nấm lập tức bị tê dại.

Tư Mã Khôi am hiểu thuật tướng vật, vừa nghe Hải ngọng nói đã biết là bốc phét, con người sau khi chết đi làm gì còn chân khí, những cây nấm này chắc chắn được hình thành do tử khí trong địa động ngưng tụ lại, chất độc của nó thuộc hàng kịch độc, chỉ cần ngắt ra, ngâm vào trong nước sẽ thấy hàng ngàn hàng vạn trùng đầu đỏ mõm đen thi nhau bơi lội, tuy bây giờ chúng đều đã hóa thạch, nhưng lũ chuột vẫn không dám đến gần, điều đó chứng tỏ chất độc vẫn chưa tan hẳn.

Lúc này, bọn chuột trong khe nứt lòng núi túa ra ngày một nhiều, con nào con nấy da đen trùi trũi, mình không một sợi lông, rồi một con chuột khổng lồ cũng chui ra, nó to gấp mấy lần đồng loại, lông loang lổ khắp toàn thân, trắng như khối tuyết, nó đái són suốt dọc đường đi, mỗi giọt lại biến thành một con chuột.

Mọi người nhìn cảnh tượng ấy mà dựng tóc gáy, Thắng Hương Lân thì thầm: “Chuột chúa ra rồi kìa!”

Cao Tư Dương sợ hãi, mặt trắng bệch, giương súng Winchester ngắm vào con chuột khổng lồ, định bóp cò.

Tư Mã Khôi ấn cánh tay của Cao Tư Dương, rồi nói: “Đừng lãng phí đạn! Lũ này mà bao vây, thì lửa đuốc không đủ sức ngăn cản bọn chúng đâu, bọn chúng sẽ gặm chúng ta thành đống xương ngay tức thì, hơn nữa mùi tanh của máu chuột chết sẽ lôi kéo càng nhiều đồng loại của nó đến, bọn chuột rất sợ nấm độc trong Tử thành, mọi người chỉ cần đi phía trong hàng nấm độc là được”.

Mọi người lập tức giơ đuốc xua đuổi lũ chuột, bước vào trong, tiến dần vào động đạo. Tuy lũ chuột rất nuối tiếc hơi khí của người sống, nhưng lại bị nấm độc chặn ở ngoài, nên không dám liều chết vượt qua.

Hải ngọng bật đèn quặng đi trước mở đường. Càng vào sâu bên trong, xương khô trong động đạo càng nhiều, che lấp cả phù điêu khắc trên vách đá và tượng thần, tuy địa thế ở đây khá rộng rãi, nhưng không khí không lưu thông khiến người ta cảm thấy vô cùng khó thở, ánh sáng chỉ có thể soi sáng trong vòng mười bước chân. Lúc này, bên tai vang lên tiếng tim đập thình thịch và tiếng thở nặng nề của mọi người, ngoài ra hoàn toàn không còn bất kỳ âm thanh nào khác. Ai cũng thấp thỏm lo sợ, cố gắng bám sát nhau vì sợ mình bị rớt khỏi đội.

Vách ngoài của Tử thành hình tròn, nếu căn cứ vào đường nét tô tem trong bụng thần Vũ Xà để phán đoán, thì trong thành cổ có rất nhiều đường hầm bằng đá macma, thông đạo mà mọi người đang đi chỉ là một trong số đó. Giữa đường có các huyệt động lớn, trên vách tường khắc chi chít những bức phù điêu hoa văn uốn lượn, nhưng tuyệt không thấy một bộ xương khô nào. Tư Mã Khôi dừng bước, lại gần một thảm rêu, quan sát kỹ hồi lâu, anh nhận thấy phần lớn trên vách tường đều khắc hình một vị vương gia đầu đội trang sức bằng vàng, người ta cố ý nhào nặn ông ta thành hóa thân nửa người phàm trần, nửa thần tiên, rõ ràng địa vị của ông ta còn kém thần Vũ Xà một bậc.

Nhị Học Sinh cố gắng lắm mới không bị rớt lại phía sau, nhân lúc Tư Mã Khôi dừng lại xem xét, cậu ta ném ba lô và đèn chiếu nặng trịch xuống đất, ngồi thở hổn hển.

Hải ngọng càm ràm với Tư Mã Khôi: “Tớ thấy loại hàng phế phẩm kia chỉ tổ vướng chân bọn mình, cậu muốn để chim sẻ bay kịp chim yến thì chí ít ra nó cũng phải là chim đã chứ”.

Tư Mã Khôi nói: “Cậu đừng cằn nhằn nữa, có sức thì cậu cõng cậu ta đi! Tớ cũng chẳng kỳ vọng cậu ta sửa được cái đèn chiếu”.

Cao Tư Dương lo bọn chuột đói đuổi theo vào thành cổ, cô nói: “Trong này không có tấm bia của người Bái Xà, cũng không tiện lưu lại lâu, chúng ta mau đi thôi!”.

Tư Mã Khôi không dám nấn ná ở lại, anh kẻo Nhị Học Sinh đang ngồi bệt trên mặt đất đứng dậy, chuẩn bị tiếp tục cuộc hành trình. Nhưng đúng lúc đó, Thắng Hương Lân ngước nhìn bức phù điêu trên vách tường, rồi nói: “Đợi chút! Tôi đã biết vì sao người ta không được phép nhìn, cũng không được phép nói về bí mật khắc trên tấm bia đá của người Bái Xà rồi!”.

Hồi thứ hai

BỘ XƯƠNG KHÔ

Tư Mã Khôi nghe Thắng Hương Lân nói đã phát hiện ra bí mật thì dẫu giờ phút này có mắc chuyện trọng đại cũng phải tạm gác lại, anh cầm lấy bó đuốc giơ về phía trước, thì thấy trên bức phù điêu trước mặt quả nhiên có một chỗ khá tương đồng với hình bia đá vẽ trong cuốn nhật ký của đội trưởng đội thám hiểm, nhưng cảnh tượng trên bức phù điêu trong Tử thành còn hoành tráng hơn. Bức phù điêu vẽ tấm bia đá của người Bái Xà nằm trong một huyệt động rất lớn dưới lòng đất, phía dưới có hình vẽ hao hao giống một cây cổ thụ xum xuê cành lá. Có điều, người ta cố tình đục mất một mảnh, nên không thể nhìn rõ nguyên bản của nó là vật gì, trước tấm bia cổ là đống xương khô chất cao như núi, xung quanh vẽ biển hư vô – tượng trưng cho thế giới sau khi chết, trước mặt biển có một con quái xà đầu người, lưng mọc lông chim, đang chở mấy vị vương gia đầu đội trang sức vàng.

Tư Mã Khôi chỉ hiểu lờ mờ tình hình được miêu tả trong bức phù điêu, anh không thể chỉ ra đích xác rốt cuộc trên tấm bia đá khắc ẩn số kinh thiên động địa gì, tại sao bí mật đó không được phép nhìn và cũng không được phép nói ra?

Thắng Hương Lân biết hội Tư Mã Khôi không đủ kiên nhẫn để quan sát kỹ lưỡng, nên cô nói luôn: “Phần lớn nội dung của bức phù điêu ghi chép sự tích về tấm bia đá, có lẽ nó bị chôn vùi ở một nơi cực sâu dưới hoàng tuyền, người Bái Xà cổ đại tin rằng: Bất cứ kẻ nào nhìn thấy tấm bia, kẻ đó sẽ lập tức sợ hãi mà chết đứng ngay trước tấm bia.”

Tư Mã Khôi bảo: “Tôi chẳng tìm thấy manh mối nào cả. Theo những gì chúng ta đã biết thì tấm bia đá của người Bái Xà chỉ là một tảng đá khổng lồ nằm ở nơi rất sâu dưới cửu tuyền, nó cũng giống như vô vàn những tảng đá khác dưới lòng đất, nếu ai nhìn thấy tấm bia, kẻ đó lập tức mất mạng, vậy thì nguyên nhân cái chết chắc chắn là do bí mật khắc trên tấm bia gây ra, lẽ nào bí mật đó có thể dọa người đang sống sờ sờ bỗng dưng lăn ra chết hay sao? Tôi chả tin chuyện hoang đường này, mười ngón tay xòe ra còn có ngón ngắn ngón dài, huống hồ là con người, trăm kẻ trăm tính trăm nết, ví dụ hạng người phản ứng chậm như sên kiểu Hải ngọng, mặt dày thế kia thì chuyện gì có thể dọa cậu ấy sợ đến nỗi lăn ra chết được chứ?”

Hải ngọng vội vàng đính chính: “Không phải tớ phản ứng chậm chạp mà là tớ từng trải, có chuyện quái dị nào ông Hải này chưa từng gặp chứ?” 

hoatanhoano.wordpress.com

Cao Tư Dương và Nhị Học Sinh cũng gật đầu cho là phải, nếu trên bia đá khắc hình yêu ma quỷ quái hung tợn quái dị mà bất ngờ nhìn thấy trong bóng tối, không khéo cũng sợ vãi đái, có khi còn mềm nhũn cả chân, khuỵu xuống đất, nói thế còn có khả năng, chứ bảo ai đứng trước tấm bia đá, người đó sẽ sợ hãi chết bất đắc kỳ tử thì đúng là khó tin, huống hồ nội dung khắc trên tấm bia cũng chỉ là mấy chữ tượng hình cổ tương tự như long ấn triều Hạ, chứ nào phải hình yêu ma quỷ quái gì!

Thắng Hương Lân không thể trả lời được thắc mắc của mọi người, cô chỉ biết giải thích theo đúng nội dung khắc trên bức phù điêu. Tấm bia Bái Xà vốn do mấy vị vương gia đầu đội trang sức vàng lưu lại, những người này có địa vị thống trị tối cao trong tộc người Bái Xà, họ chia nhau nắm giữ một phần nội dung khắc trên tấm bia đá, nhưng không ai được phép biết toàn bộ nội dung, càng không được phép tiết lộ bí mật mình nắm giữ cho người khác, bởi vậy họ buộc phải cắt lưỡi. Người Bái Xà nghiêm ngặt giữ bí mật – điều cấm kỵ cổ xưa mà thần Vũ Xà đã đặt ra. Huyệt động khắc đầy phù điêu này chẳng qua chỉ là một trong những chỗ chôn xương người, trong Tử thành có lẽ còn có mấy nơi tương tự như vậy.

Tư Mã Khôi tập trung suy ngẫm, anh cảm thấy tuy nội dung khắc trên tấm phù điêu hoang đường, ly kỳ, nhưng hậu duệ của người Bái Xà vốn sinh sống ở lưu vực sông Hoài Thủy luôn đau đáu thực hiện ý đồ đào tấm bia dưới lòng đất lên, hi vọng có thể nhờ đó để thoát khỏi kiếp nô dịch dưới trướng vương triều nhà Hạ. Điều này hoàn toàn trùng khớp với những ghi chép tổ tiên để lại, nhưng bí mật khắc trên tấm bia khủng khiếp đến mức chỉ cần nhìn một cái là sợ hãi lăn đùng ra chết, thử hỏi sau khi tìm thấy nó ai còn dám xem?

Hải ngọng nói: “Cẩn tắc vô ưu, đến lúc đó chúng ta để Nhị Học Sinh xem tấm bia khắc bí mật gì, nếu cậu ta không khiếp vía mà chết, thì chúng ta xem sau cũng chưa muộn.”

Tư Mã Khôi không đếm xỉa đến “ý tưởng đầu bò” của Hải ngọng, trong đầu anh không ngừng lặp đi lặp lại suy nghĩ: Vì sao Nấm mồ xanh muốn tìm tấm bia của người Bái Xà? Trước khi tìm thấy tấm bia đá, có lẽ anh không thể giải đáp được ẩn số đó. Lúc này, Tư Mã Khôi bỗng thấy hơi do dự, hội anh trải qua bao phen thập tử nhất sinh mới đến được đây, nên tuyệt đối không thể biến mình thành tấm bia đỡ đạn cho Nấm mồ xanh được.

“Kẻ nào dám nhìn bí mật khắc trên tấm bia đá, kẻ đó sẽ lập tức gánh chịu hậu quả chết chóc”, tuy Tư Mã Khôi không tin tà ma, nhưng sau khi trải qua bao nhiêu chuyện như vậy, anh cảm thấy đôi khi không thể không tin được, lòng anh bất giác bị bao phủ bởi chiếc bóng của điềm dữ. Có điều, sau khi suy đi tính lại, anh vẫn thấy phải tiếp tục tìm kiếm tấm bia đá của người Bái Xà, bởi vì, đó là cơ hội duy nhất giúp anh có thể vạch mặt Nấm mồ xanh, còn sau khi tìm thấy tấm bia đá hội anh sẽ xử lý thế nào thì giờ chưa phải lúc nghĩ tới. Việc cần làm trước mắt là xác định chính xác vị trí để tìm ra con đường tiếp cận tấm bia.

Từ những bức phù điêu trong hốc đá, Thắng Hương Lân suy đoán, người Bái Xà có tập tục lấy các vị thần tượng trưng cho địa hình mạch núi, phần đầu và phần thân dưới của vị thần đó sẽ ngầm chỉ phương hướng. Căn cứ vào điều này thì phía dưới Tử thành có lẽ tồn tại một đường hầm đá macma rất dài, ngoằn ngoèo xuyên qua dãy núi dưới lòng đất và dẫn thẳng đến miếu thần chôn bia đá. Độ dài của hành trình thì khó có thể dự tính trước được, môi trường dưới đó còn nguy hiểm hơn trong sơn cốc ốc cúc đá và rừng rậm pha lê. Chỉ đợi Thắng Hương Lân đánh dấu sơ lược những hình vẽ này trên bản đồ xong là mọi người lập tức khởi hành tìm kiếm đường hầm.

Địa thế trong động đạo Tử thành lúc rộng lúc hẹp, có nơi còn không chui qua nổi, mọi người đành đi vòng sang đường khác, rồi tiếp tục tiến về phía trước, bước thấp bước cao lần mò trong bóng tối mịt mùng. Địa hình hao hao giống nhau dễ khiến người ta cảm thấy mệt mỏi, mí mắt trên và mí mắt dưới không tự chủ được cứ díp cả lại. Khi cả hội đi tới lối ra của đường hầm thì thấy trước mắt hiện ra một hố sâu gần như dựng đứng, cái hố với đường kính gần trăm mét này có vẻ là khu vực nội thành, đồng thời cũng là đại điện nằm ở vị trí trung tâm của tòa thành. Không gian dưới đại điện vô cùng rộng rãi, những pho tượng các vị thần cổ đại đứng sừng sững khắp nơi, trông uy nghiêm và tĩnh tại, trên vách tường có vô số cửa động dẫn đến các thông đạo.

Hội Tư Mã Khôi dừng chân ở ngay mép một cửa động, soi đuốc và đèn quặng quan sát tình hình phía bên dưới, chỉ thấy mặt đất dưới đó nhấp nhô lồi lõm, giống như một khuôn mặt quái dị đang ngửa lên nhìn trời, bởi diện tích quá rộng nên từ phía trên, họ không thể nhìn rõ cái gì vào cái gì.

Xương khô trong Tử thành chất cao ngất ngưởng, đủ các loại hình thái cổ quái và đáng sợ, chỗ nào cũng giăng mắc hơi khí quái dị khó có thể hình dung, ánh lửa đuốc càng lúc càng mờ dần, cảm giác bất an và bức bối đè nặng lên tinh thần mọi người. Dường như quanh họ tồn tại một thứ gi đó không thể nhìn thấy, cũng không thể sờ thấy, nó đang lặng lẽ tiến sát đến gần, cả hội đều thấy chỗ này không thể dừng lại lâu, nên lục tục kéo nhau trèo xuống đáy động, lần từng bước tìm đường.

Nhị Học Sinh mệt đến nỗi hai chân mất hết cảm giác, cậu ta chỉ ý thức được mỗi việc bám sát Tư Mã Khôi tiến về phía trước, ngặt nỗi mắt lại cận nặng, không nhìn rõ địa hình dưới chân, nên vừa mất tập trung một cái đã bị ngã chổng vó, nấm độc mọc tua tủa trong miệng đầu lâu lổn nhổn khắp mặt đất, mặt cậu ta úp đúng vào đám nấm, nấm chui đầy miệng, Nhị Học Sinh sợ muốn ngất, cậu ta hoảng hốt nôn ọe hết thứ trong miệng ra, khiếp đảm đến mức không thốt nên lời.

Cả hội lặng người, nấm độc chính là tử khí được ngưng kết lại, chỉ cần sờ một lát là tay đã tê dại suốt hồi lâu, huống hồ là ăn vào miệng?

Tuy Cao Tư Dương xách theo hộp cứu thương, nhưng cô chưa từng biết đến loại nấm độc mọc trong miệng đầu lâu này, nên cũng lúng túng không biết nên áp dụng biện pháp nào để chữa trị, những thành viên còn lại cũng bó tay bất lực.

Mọi người thầm nghĩ, Nhị Học Sinh phen này chết chắc, chẳng ngờ chờ một hồi vẫn không thấy cậu ta có triệu chứng gì khác thường ngoài việc hồn vía lên mây.

Tư Mã Khôi biết loại nấm này chứa chất cực độc, chỉ cần chạm cây nấm vào nước dãi trong miệng là chẳng đầy tích tắc toàn thân đã tím đen, lăn ra chết mà không kịp phản ứng gì. Anh quan sát kỹ thì thấy nấm và những bộ xương khô xung quanh đều đã hoàn toàn biến thành hóa thạch. Nhưng tại sao ngay cả lũ chuột đang đói rã họng cũng không dám bước chân vào Tử thành? Rốt cuộc bọn chúng khiếp sợ điều gì?

Hải ngọng nói với Tư Mã Khôi: “Chỗ này làm người ta sởn hết gai ốc, âm khí của người chết nặng nề quá, nói thật tớ cũng hơi chờn đấy!” 

hoatanhoano.wordpress.com

Tư Mã Khôi thầm nghĩ: “Ngay cả Hải ngọng cũng phát giác thấy điều khác thường, xem ra chỗ này đúng là quái dị thật!”. Anh nắm chắc khẩu súng, đảo mắt nhìn khắp tứ phía, chỉ thấy dưới ánh lửa mờ ảo vô số lỗ hốc trên các đầu lâu trông thật quái đản, những khuôn mặt dị hợm vẹo vọ của người chết nom như những bóng quỷ bập bềnh.

Hải ngọng thấy Tư Mã Khôi nhìn chằm chằm vào mấy bộ xương khô, anh lập tức lên nòng súng: “Cẩn thận đấy! Không khéo trong Tử thành lại có cương thi của người Bái Xà cổ đại!”

Cao Tư Dương và Thắng Hương Lân dìu Nhị Học Sinh đứng lên, rồi quay sang bảo Hải ngọng: “Anh đừng suốt ngày dọa người khác, dọc đường chỉ thấy toàn xương khô, lấy đâu ra cương thi cơ chứ?”

Hải ngọng cố cãi: “Tôi dọa các cô làm gì, xương khô thành tinh sẽ biến thành cương thi đá, mình đồng da sắt, dao chém không đứt, lửa thiêu không cháy, bọn chúng còn khó đối phó hơn mọi cương thi có da có thịt đấy!”

Nhị Học Sinh nghe vậy thì run cầm cập, sợ sệt quay đầu lại nhìn, trong bóng tối không hề có bất kỳ động tĩnh nào, cậu ta căng thẳng nói: “Tôi biết trong tòa thành này có một thứ không nhìn thấy, không sờ thấy nhưng vô cùng đáng sợ…”

Hải ngọng nạt: “Lấy vợ lại đòi cắm phướn à? Văn vẻ lãng xẹt! Chú cứ nói toẹt ra trong này có ma phải hơn không, vòng vo Tam Quốc làm cái mẹ gì?”

Cao Tư Dương trách Nhị Học sinh: “Anh tận mắt nhìn thấy ma bao giờ chưa? Sao cũng nói xằng giống bọn họ?”

Nhị Hoc Sinh thề độc: “Cảm giác sởn hết gai ốc này rất chân thực, nếu tôi nói xằng sẽ bị sét đánh chết ngay lập tức.”

Tư Mã Khôi chửi: “Con mẹ chú, khi không đừng rỗi miệng nói càn, mấy năm nay bao nhiêu người bị sét đánh, thiên lôi cũng mệt chả buồn vung búa, thề thốt làm quái gì. Nhưng đúng là nơi này rất tà mị, rời sớm chừng nào, bớt nguy hiểm chừng ấy”.

Lúc này, mọi người đều cảm thấy bất an, nhưng không thể nói chính xác điểm nào không ổn, họ chỉ mong mau chóng tìm thấy đường dẫn tới tấm bia đá, mau chóng rời khỏi nơi đây. Thế là, cả hội theo chỉ dẫn khắc trên phù điêu, mò mẫm một hồi trong thạch điện. Dưới đáy tòa thạch điện có hình đầu một vị thần đang ngửa mặt lên trời, thể tích to lớn khác thường, khuôn mặt giống như một ngọn núi nhỏ lồi hẳn lên, miệng mím chặt, có điều nó nằm dưới lòng đất từ thuở xa xưa nên rất khó truy tìm gốc gác, bề mặt nứt nẻ như mai rùa. Ngoài ra còn có mấy pho tượng người bằng đá đứng sừng sững xung quanh, năm tháng qua đi, chúng bị đổ xuống, đập vỡ cả mặt đất, nhờ đó mới lộ ra một hang động đá macma sâu không thấy đáy nằm phía dưới, soi đèn quặng xuống chỉ thấy tối thui.

Tư Mã Khôi trông thấy vậy, anh đoán đó chính là đường hầm đá macma, miệng của bức tượng khổng lồ là cửa động. Mấy ngàn năm trước, người Bái Xà đã bịt kín cửa động, nếu không có vụ lở đất thì có muốn chui vào đường hầm cũng không dễ dàng, chỉ cần chui qua hang đá cuối cùng của con đường dài dằng dặc này, là cả hội có thể nhìn thấy tấm bia đá ẩn giấu lời giải của mọi ẩn số.

Thắng Hương Lân khẽ nhắc Tư Mã Khôi: “Chúng ta không biết gì về tình hình trong đường hầm, phải cẩn trọng!”

Tư Mã Khôi gật đầu đáp: “Chỗ này không thể nấn ná lại lâu, tóm lại chúng ta cứ vào đường hầm trước, chí ít phải cách xa tòa thành chất đống xương người này mới có thể dừng lại nghỉ ngơi được…”, mới nói đến nửa chừng, Tư Mã Khôi thấy có người giật giật cánh tay mình, quay lại nhìn thì thấy mặt Nhị Học Sinh khô quắt như người chết. Tư Mã Khôi ngạc nhiên hỏi: “Chú định đóng phim kinh dị à? Sao mặt mũi trông khiếp thế?”

Nhị Học Sinh chỉ Tư Mã Khôi, lập cập nói: “Thực ra, mặt… mặt của anh trông cũng chẳng khác gì đầu lâu”.

Hồi thứ ba

BIẾN THÀNH MA

Tư Mã Khôi cũng cảm nhận thấy những điềm báo bất thường, nhưng không biết cụ thể là chỗ nào bất thường, mãi khi phát hiện ra thì đã muộn. Tuy không nhìn thấy khuôn mặt mình lúc đó trông thế nào, nhưng Tư Mã Khôi có thể nhìn thấy gương mặt của tất cả những thành viên còn lại dưới ánh đuốc bập bùng, anh giật thót một cái khi thấy người nào người nấy hốc mắt lõm sâu vào trong, gò má xanh đen, âm u chẳng khác cương thi là mấy, anh đoán chắc mặt mình cũng giống vậy.

Mọi người đưa mắt nhìn nhau, một cảm giác rùng rợn chạy sượt qua tim, tóc gáy dựng đứng, lúc trước cả hội chỉ mải quan sát tình hình xung quanh mà không để ý những người quanh mình bất giác biến thành hình hài này từ lúc nào. Dẫu ai cũng biết rõ sống trong thế giới tăm tối dưới lòng đất một thời gian dài, sắc mặt sẽ dần dần trở nên nhợt nhạt, nhưng chắc chắn không thể biến thành bộ dạng như thế này được.

Điều duy nhất có thể khẳng định là sự thay đổi này bắt đầu xuất hiện sau khi cả hội thâm nhập vào Tử thành, nếu không nhanh chóng thoát khỏi nơi đây, chỉ e tất cả sớm muộn sẽ trở thành những bộ xương khô di động dưới lòng đất.

Mọi người không ai hẹn ai mà lập tức cùng thả dây thừng xuống khe nứt trên mặt đất để tiếp tục trèo xuống sâu hơn, nhưng mới chỉ tụt xuống hơn hai mươi mét, họ đã chạm đáy. Chẳng ai ngờ cái hố lại nông thế, dưới chân là những tảng đá khổng lồ bằng phẳng, trơn nhẵn, tứ phía khoáng đạt tối đen như mực, cứ cách mấy bước chân lại sừng sững một trụ đá hình người to bằng một vòng tay.

Hội Tư Mã Khôi chỉ biết vị trí đại khái, vừa đi vừa thắc thỏm, không ngờ phần rìa vách đều không có cửa ra, nhìn địa hình thì chỗ cả hội đang đứng có vẻ là một tòa đại điện, phạm vi chiếu sáng của đèn quặng và đuốc bị giảm xuống đáng kể. Trong lúc cuống cuồng chỉ mong mau chóng tìm thấy đường thoát, cả hội lại càng chẳng tìm thấy lối ra, ai nấy nóng lòng như kiến bò chảo lửa, môi khô nứt nẻ, miệng thở hồng hộc đầy khó nhọc, đống ba lô vũ khí trên lưng bỗng trở nên nặng nề lạ lùng, cơ thể họ dần lạnh ngắt, tê dại, chỉ muốn lăn ra nằm bất động trên mặt đất.

Muốn là muốn vậy, nhưng lòng ai cũng rõ – chỉ cần dừng lại ở đây thì vĩnh viễn đừng nghĩ đến việc có thể đứng dậy đi tiếp, ngặt nỗi đi mãi mà vẫn không tìm thấy đường hầm rời khỏi Tử thành, cả hội nhẩm tính dẫu có quay trở lại đường cũ thì cũng chẳng kịp, không khéo chưa được nửa đường đã gục ngã. Không còn cách nào khác, mọi người đành liên tục uống nước để bổ sung thể lực, gắng gượng lần mò từng bước, chẳng bao lâu sau, họ đã đến tận cùng của đáy hố.

Cao Tư Dương đột nhiên phát hiện cây đuốc trên tay bỗng biến thành đốm lửa ma trơi mờ ảo, chiếu vào người không những không nóng mà còn tỏa ra ma khí âm u đến rợn người. Cô giật mình, vội quẳng ngọn đuốc ra xa.

Không để ngọn đuốc rơi xuống đất, Tư Mã Khôi vội chìa tay đỡ lấy, anh ngạc nhiên hỏi: “Sao lửa đuốc lại biến thành thế này nhỉ?”

Nhị Học Sinh kinh hãi nói: “Hình như nơi này có một sức mạnh đáng sợ không thể lý giải được, nó có thể lẳng lặng nuốt chửng tất cả mọi sinh mệnh…”

Hải ngọng mỉa mai: “Anh thấy chú đúng là cái vòi ấm nạm viền vàng, đáng tiền là đáng ở cái miệng vòi. Cái gì mà sức mạnh đáng sợ? Đây chẳng qua chỉ là lửa ma trơi thường thấy ở những ngôi mộ cũ thôi mà”.

Thắng Hương Lân lại cho rằng lời Nhị Học Sinh nói có phần có lý, trong Tử thành không hề có điều kiện để hình thành hóa thạch, vậy mà những bộ xương khô của người Bái Xà ở dưới lòng đất lại đều biến thành hóa thạch, điều đó chứng tỏ ở đây nhất định tồn tại một vật có thể hút cạn sinh khí của người sống và biến thi hài thành hóa thạch chỉ trong một thời gian ngắn, thậm chí ngay cả nhiệt lượng của lửa đuốc cũng bị nó hút hết ánh sáng. 

hoatanhoano.wordpress.com

Tư Mã Khôi thấy cũng phải, nhìn tình hình quầng lửa ma trơi trước mặt, thì vật nuốt chửng hơi khí của người sống chắc chắn đã đến khá gần nơi này. Phải nhanh chóng tiêu diệt nó thì cả hội mới mong có tia hi vọng sống sót.

Mọi người gấp gáp như thể đang chạy đua với thần chết, không ai dám nấn ná nửa giây. Họ lập tức khua đuốc lục soát tìm kiếm khắp nơi trong đại điện tối om, không bỏ sót một góc nào. Trong một góc động hõm sâu vào trong có vài cỗ xác khô cổ đại đầu đội trang sức vàng, cỗ nào cũng cúi gục xuống, da thịt khô quắt như vỏ cây, không thể nhìn rõ diện mạo được nữa. Từ cái miệng ngoác rộng của họ liên tục chảy ra thứ nước vàng, trong lòng các xác chết đều ôm một cây nấm lớn, thân nấm đỏ au như máu, tán xòe như cái ô, dịch nhãi chảy ra từ miệng cái xác đều rớt xuống phần đỉnh cây nấm, gốc nấm thì dính chặt thành một thể với cái xác.

Hội Tư Mã Khôi càng tiến lại gần càng thấy ngạt thở, hai mắt anh díu lại, mọi thứ trước mắt trở nên mơ hồ. Anh biết loại nấm này chính là “nấm thi khẩu”. Lớp sương khí mờ mịt tỏa ra xung quanh thực ra là những con trùng nhỏ miệng đen đầu đỏ, chỉ khi lấy nước tạt vào thì mắt thường mới trông thấy chúng, nom chúng chẳng khác nào sương khí tỏa ra từ xác chết. Lũ côn trùng này tụ tập ở đây, rồi tỏa ra bốn hướng, hút cạn sinh khí tồn tại trong tòa Tử thành này. Sở dĩ những cây nấm mọc ra từ miệng xác khô của người Bái Xà là do cơ thể người chết đã hít phải lũ côn trùng. Trong khi đó, hội Tư Mã Khôi lại xâm nhập nơi này trong trạng thái không hề được phòng bị chút nào.

Tư Mã Khôi nhớ lại trong điển tịch tướng vật có đoạn chép rằng: thời Tùy Đường có tay thợ săn vào núi săn bắn, anh ta đuổi theo linh dương và rơi xuống một huyệt động. Trong huyệt động, anh ta nhìn thấy một khóm linh chi tươi, biết đây là dị vật, anh ta liền hái xuống và định nuốt ăn, không ngờ một con ma núi bỗng đâu chạy vọt tới cướp lấy khóm nấm, tay thợ săn sống chết tranh cướp lại, cuối cùng cũng xua được con ma núi đi. Ma núi mà người xưa vẫn gọi có khả năng chỉ là một loài khỉ vượn hoặc sơn tiêu thông minh nào đó, nó định chờ cây linh chi lớn lên mới ăn, ai ngờ lại bị gã thợ săn nẫng tay trên. Đuổi được con ma núi, gã thợ săn không đợi thêm được nữa, vội nuốt hết cây nấm linh chi vào miệng, vừa nuốt trôi khỏi miệng, cơ thể anh ta bỗng nhiên không ngừng to ra, chỉ mỗi cái đầu còn chui lọt ra khỏi động, phần thân từ cổ trở xuống không thể nhúc nhích được nữa, kết quả anh ta bị nhốt trong huyệt động cho đến chết. Chuyện này tuy rất hoang đường nhưng lại chứng minh – trên đời tồn tại một loại thực vật có công dụng kỳ lạ như cây nấm linh chi, có lẽ những cái xác cổ của người Bái Xà đầu đội trang sức vàng này lúc còn sống đã từng ăn một loại nấm hiếm gặp nào đó mọc dưới vực sâu, nên sau khi họ chết đi, nước rỉ ra từ miệng những cái xác khiến những khóm nấm độc vốn đã chết khô nay bỗng hồi sinh và bất tử suốt ngàn năm.

Tư Mà Khôi càng nghĩ lại càng sợ, may mà phát hiện kịp thời, nếu không chắc hội anh đã trở thành những bộ xương khô chôn thây trong tòa thành cổ. Anh nhanh trí ra hiệu cho mọi người mau bịt miệng và mũi lại, không được tới gần thêm, rồi bảo Hải ngọng lấy súng săn bắn nát khóm “nấm thi khẩu” khổng lồ, phần tán nấm giống cái ô của nó lập tức hóa thành nước đen, mùi hôi thối tỏa ra nồng nặc, không thể ngửi nổi.

Sau đó, mọi người thấy, tuy làn sương mỏng giăng bốn bề vẫn chưa tan hẳn, nhưng ánh đuốc đã tỏa ra quang nhiệt như lúc đầu, cảm giác tê bì trên cơ thể cũng dần dần mất đi, đến lúc này cả hội mới hơi yên lòng một chút, có điều khí huyết bị tổn thương nặng nề, không thể phục hồi ngay được trong chốc lát. Vừa mới ngồi thở hổn hển trên mặt đất chưa được bao lâu, mọi người bỗng thấy mấy cỗ cổ thi bỗng lún dần xuống, thì ra phía dưới khóm nấm khô là một cửa động, trước đây nó mọc che cả lối vào khiến không ai nhìn thấy.

Tư Mã Khôi soi đèn quặng vào trong, bên trong dường như không có sương khí tử thi, có vẻ hơi khí này chỉ bốc lên trên, những cỗ tử thi cổ đại kia đều là xác chết của những thủ lĩnh có chức vị cao trong tộc người Bái Xà, trước khi chết họ đã bịt kín cửa động lại. Đi tiếp xuống phía dưới mới là đường hầm chính của mạch núi này, Tư Mã Khôi dự đoán con đường hầm dưới lòng núi và các hang động khác đều là những dấu vết địa chất do sự vận động dòng dung nham hàng ngàn tỉ năm về trước để lại, quy mô vô cùng to lớn, hình dạng vô cùng kì dị, đó là những kiến trúc ngoài tầm hiểu biết cùa con người, bởi thế không thể nói người Bái Xà là tác giả tạo ra đường hầm này, cùng lắm họ cũng chỉ là kẻ thừa kế mà thôi.

Vì tử khí trong đại điện không thể tản hết nên mọi người phải cắn chặt răng tiếp tục cuộc hành trình. Tư Mã Khôi thấy cơ thể Nhị Học Sinh suy nhược, đến giờ cậu ta muốn bò cũng không bò nổi, anh đành đến xốc nách cậu ta kéo đi.

Ba người còn lại cũng đi gần trợ giúp, chỉ duy Hải ngọng trước giờ luôn ác khẩu, lúc này tuy thở chẳng ra hơi, anh cũng không thể nhẫn nhịn được, bảo Tư Mã Khôi: “Trông bộ dạng thế kia thì trụ sao nổi, hay quẳng mẹ nó đi cho xong. Tớ chẳng tin thiếu quả trứng thối này, chúng ta lại không làm nổi bánh ga tô!”

Trong khi Hải ngọng cất giọng nói mấy câu hổn hển không rõ lời ấy, mọi người vẫn tiếp tục xuống sâu hơn giữa những trụ đá sụt nghiêng, cả hội đã đi đến phần đáy hố nhưng vẫn nhìn thấy có rất nhiều đoạn tường, vách thành sụp đổ, trên mặt đất vương vãi hằng hà sa số vụn đá, bụi đất tích lại dày đến vài phân, mấy cỗ cương thi của người Bái Xà rơi xuống đáy động đã biến mất không tăm tích.

Dưới đáy huyệt động có có vô số thành quách, nhà cửa, tuy đã đổ nát không còn hình dạng, nhưng phía dưới lớp đất bụi vẫn còn lờ mờ ẩn hiện hình hài của những thông đạo, cư xá, dường như chỗ nào cũng vùi chôn bí mật cổ xưa của người Bái Xà, cùng với sự trôi chảy của thời gian, chúng dần dần bước đến điểm tận cùng của số mệnh và sắp sửa bị hủy diệt ở dưới lòng đất không bao giờ nhìn thấy ánh mặt trời. 

hoatanhoano.wordpress.com

Tư Mã Khôi giơ đuốc soi sáng bốn phía xung quanh anh thấy không gian chỗ này khoáng đạt, không hề có vật gì cản trở tầm nhìn, vậy mà sao mấy cỗ cương thi kia vừa rơi xuống đã đột nhiên biến mất? Anh thầm linh cảm thấy sự không lành, liền lập tức lên nòng khẩu Winchester 1887.

Những thành viên còn lại cũng thắc thỏm sợ hãi, thần kinh căng như dây đàn, môi khô nứt nẻ, trong não như có vô số con côn trùng nhỏ đang nhay cắn, năm cơ quan cảm giác trở nên vô cùng chậm chạp, họ kiệt sức đến độ hồn sắp lìa khỏi xác, ngặt nỗi bình nước không còn lấy một giọt, trong tòa Tử thành lại vô cùng khô nóng, nhất thời chưa thể tìm thấy nguồn nước, nên cả hội đành phải tiến vào đường hầm mong tìm được nơi an toàn ngồi thở trong chốc lát, đợi khí huyết dần dần phục hồi mới đi tìm nguồn nước. Nhưng tình hình lại xảy ra ngoài dự liệu, khi mọi người thâm nhập đến tận tầng cuối mới phát hiện, họ vẫn chưa thoát ra khỏi Tử thành. Không hiểu nơi quỷ quái này rốt cuộc sâu bao nhiêu?

Cao Tư Dương phát hiện, trên bức tường sụp đổ bên cạnh có vật gì đó lồi lõm gồ ghề, bên trên phủ lớp bụi dày. Tới gần cô mới thấy trên vách tường đá lộ rõ bức phù điêu quỷ quái mình trần, phần lớn đều giơ nanh giương vuốt, dáng điệu quái dị, khuôn mặt hướng về một phía, những bức phù điêu này hoàn toàn khác với các bức cô đã từng thấy trước đây. Cao Tư Dương hỏi Thắng Hương Lân: “Cô xem những hình vẽ này có ý nghĩa gì?”

Thắng Hương Lân quan sát một hồi và mau chóng hiểu ra vấn đề, người Bái Xà tin rằng sau khi chết đi, ngoài một số người được chuyển thế luân hồi trong bụng thần Vũ Xà, thì số còn lại đều biến thành ma quỷ, hài cốt vụn nát, linh hồn phiêu dạt xuống cửu tuyền, cuối cùng trôi về cõi hư vô, đây mới là ý nghĩa đích thực của cái chết. Huyệt động sâu nhất trong Tử thành chính là vùng đất vùi chôn những hài cốt không thể chuyển thế siêu sinh, rất có thể đường hầm đá ở đáy dãy núi sẽ chạy xuyên từ đây đến đó, còn chỗ đặt tấm bia đá lại chính là hắc động chứa đầy hư vô.

Tư Mã Khôi thấy phương hướng suốt chuyến hành trình của cả hội không bị sai lệch thì trong lòng cũng mừng thầm, nhưng trông sắc mặt mọi người bây giờ dường như đã đến tận cùng sức chịu đựng, mắt người nào người nấy sắp bốc khói đến nơi, trong khi đó điểm cuối của đường hầm là đâu và ở đó có gì thì khó mà đoán được, nếu không bổ sung nước kịp thời, không chừng chưa đầy một ngày nữa, mọi người sẽ chết vì khát. Anh thầm nghĩ, xung quanh đây chắc cũng có vô số hài cốt của người Bái Xà, chỉ có điều hiện giờ trong tầm mắt, họ không nhìn thấy cỗ di hài nào mà thôi. Tứ phía chỉ thấy tường thành đổ nát cùng đá vụn và bụi đất chỗ nào cũng toát lên vẻ cổ quái, không rõ trước đây nơi này từng xảy ra biến cố gì, mấy cỗ cương thi vừa rơi xuống đây thì đều biến mất một cách kỳ lạ. Nhiều khả năng những vị vương gia người Bái Xà đầu đội trang sức vàng lúc sinh thời đã ăn loại nhục chi hiếm có dưới lòng đất, nên trải qua ngàn năm, thể xác họ vẫn không mục ruỗng, móng tay và lông tóc mọc rất dài, móng tay cong vút như móng vuốt quái vật, dài tưởng chừng sắp vươn ra gãi lưng, dịch dãi rỉ ra từ miệng ngưng tụ và kết thành những khóm nấm độc khổng lồ, che phủ cả con đường tăm tối dẫn xuống đáy tòa thành cổ. Trong môi trường đặc biệt thế này, nói không chừng mấy cỗ hài cốt kia đã xảy ra chuyện gì đặc biệt, bây giờ mọi người đã sức cùng lực kiệt, nếu dừng lại ở đây chỉ e lành ít dữ nhiều.

Ý nghĩ vừa lóe lên trong đầu, đột nhiên Tư Mã Khôi cảm thấy có giọt nước nhỏ xuống cạnh chân, như thể nước thẩm thấu từ vách đá dưới mặt đất ngấm xuống, nhưng cùng lúc ấy anh cũng ngửi thấy một luồng khí hôi thối của tử thi xộc tới. Tư Mã Khôi vội vàng giơ cao cây đuốc lên xem, thì thấy trong bóng tối thấp thoáng ẩn hiện một khuôn mặt của xác chết cổ đại người Bái Xà, nó treo ngược từ trên cao xuống, hai mắt lồi ra như mắt cá, da mặt khô như vỏ cây, dòng nước vàng hôi thối vẫn đang rỏ tong tong từ miệng xuống.

Hồi thứ tư

GIẤC MỘNG QUÁI DỊ

Mọi người dựng đứng tóc gáy, đồng thanh hét lên một tiếng rồi cùng giương súng ngắm bắn, bên tai văng vẳng vang lên âm thanh nghe rào rào, đá vụn và bụi đất rơi lả tả xuống mặt, cỗ cương thi đột nhiên thụt lùi vào trong bóng tối, mất tăm mất dạng.

Chẳng ai dám đứng lại xem tiếp, Tư Mã Khôi xốc nách Nhị Học Sinh đang dở sống dở chết cùng cả hội loạng choạng chạy trốn vào tít sâu trong thành cổ. Vừa mới chạy được mấy chục bước thì họ bỗng thấy giữa vách tường đổ nát có một quả cầu sắt lớn đen sì sì nằm lõm thụt vào trong, dường như đó là khoáng thạch thiên nhiên trong mạch đất, bề mặt nó lồi lõm, xù xì, đường kính dễ chừng tới chục mét, có lẽ vật thể khổng lồ đó từ trên trời rơi xuống thông đạo trong tòa thành cổ, khiến mặt đất lún sâu, trông giống như một dấu hỏi lớn không thể lý giải mà người cổ đại để lại cho hậu thế.

Tuy Tư Mã Khôi đi nhiều biết rộng nhưng khi nhìn thấy quả cầu sắt lớn như vậy xuất hiện trong tòa thành cổ, anh vẫn không khỏi hít ngược một hơi lạnh, lòng thầm nghĩ: “Không hiểu thứ quái này từ đâu rơi xuống nhỉ?”

Mọi người cũng thấy run chân, nhưng đầu không xuôi thì đuôi khó lọt, chạy được đến đây cũng đã gắng gượng lắm rồi, chân ai nấy đều nặng trịch như bị đổ nhựa đường, nhìn thấy vách tường cạnh quả cầu sắt bị ép vỡ thành một khe nứt, phía trong là một hốc đá tuy chật hẹp nhưng vẫn đủ chỗ cho mọi người nương thân, thế là cả hội mặc kệ mọi sự, ra dấu cho nhau lách qua khe nứt, trèo vào trong rồi chen chúc năm vật xuống đất, lấy ba lô bịt kín lối vào lại. Cả hội toàn thân mệt bã như bị ai rút kiệt sức lực, ngay cả ngón tay cũng không thể cử động nổi, lúc này lỡ cương thi có bò đến, thì cũng đành phó mặc số phận, giờ cứ phải ngồi thở giây lát đã rồi mới tính tiếp. Bên ngoài lặng ngắt như tờ, không hề có một tiếng động nhỏ.

Tư Mã Khôi nghĩ thầm, đợi cơ thể ổn trở lại, cả hội sẽ lập tức đi tìm nguồn nước, nếu không sẽ chết vì khát mất, có điều đã mấy ngày nay Tư Mã Khôi chưa hề chợp mắt, tuy trong đầu biết rõ giờ không phải lúc ngủ nhưng ý chí nào điều khiển nổi bản năng, anh vô thức chìm sâu vào giấc ngủ, rồi một cơn ác mộng khủng khiếp hiện ra…

Trong lúc chập chờn, Tư Mã Khôi thấy mình trở về Miến Điện, lúc đó quân đội Miến Điện cộng hòa nhân dân đã bị đánh tan tác trong chiến dịch Kunlong, cũng không hiểu các chiến hữu khác như Tuyệt và Hải ngọng đã tử trận hay bị bắt làm tù binh, tóm lại giờ chỉ còn mình anh cô độc. Lòng vừa lo lắng vừa tuyệt vọng, anh liền chạy trốn vào rừng rậm nguyên sinh quanh năm không thấy ánh sáng mặt trời, loạng choạng tiến sâu vào trong núi không biết bao lâu. Giữa đường đi, anh nhìn thấy một ngôi chùa cổ tan hoang đổ nát, anh thắc mắc không hiểu ở tận nơi sâu trong rừng rậm không dấu chân người, cũng chẳng có đường đi lối lại này, sao lại mọc ra một ngôi miếu tự? Tư Mã Khôi lẩm bẩm chắc là mình gặp phải tà ma gì rồi, nhưng anh đã giết bao nhiêu người như thế còn sợ gì ma quỷ, nghĩ vậy anh quyết định trốn trong ngôi chùa cổ một đêm rồi hãy tính. Tư Mã Khôi giương súng chầm chậm bước vào cửa, bên trong có một vị tăng nhân trẻ, mình khoác cà sa, thấy Tư Mã Khôi bước vào, ông ta không hề ngạc nhiên hay hoảng sợ, miệng vừa niệm Phật hiệu vừa chủ động bước tới gần chào hỏi. Tư Mã Khôi đang mặc quân phục quân Miến Điện, nên không cách nào che giấu được lai lịch, anh đành kể rõ sự thật với vị tăng nhân rồi hỏi ông ta xem trong rừng còn con đường nhỏ nào có thể thoát thân được không? Vị tăng nhân không đáp mà chỉ dẫn Tư Mã Khôi đến trước một miệng giếng nằm phía sau chùa. Ông ta nói đây là cái giếng máu, sâu không thấy đáy, mỗi lần có người sắp chết đến viếng thăm chùa, thì nước trong giếng lập tức biến thành màu đỏ máu, chuyện này cứ lặp đi lặp lại hàng ngàn năm nay, chưa bao giờ sai dù chỉ một lần. Nói xong, ông ta lấy dây thừng thả gầu gỗ xuống giếng, múc lên một gầu nước, nước trong gầu quả nhiên đỏ au như máu. Tư Khôi thấy vậy liền hỏi: “Giờ nước trong giếng đã biến thành máu, lẽ nào đó là dấu hiệu sắp có người chết sao?”. Vị tăng nhân nói: “Xem ra đường của anh… đã tận rồi”. Tư Mã Khôi lắc đầu không tin: “Trong chùa có hai người là tôi và hòa thượng, làm sao biết chắc ai là kẻ sắp chết?”. Vị tăng nhân điềm tĩnh nói: “Tôi quanh năm chỉ ở trong ngôi chùa cổ này thờ phụng Phật tổ, chẳng tranh giành gì với thế nhân. Còn anh, anh đã gây ra những nghiệp chướng nào, e rằng trong lòng anh rõ hơn ai hết. Phật tổ từ bi, xét tình xét lý, anh mới là người đáng chết”.

Tư Mã Khôi nói: “Hay cho một cao tăng thờ phụng Phật tổ, thầy nói thầy quanh năm sống trong ngôi chùa này, vậy sao trong Phật điện bụi đắp dày đến cả đốt ngón tay, cũng chẳng nhìn thấy nửa vết tích hương khói?”. Vị tăng nhân bị hỏi vặn thì ngớ người, lắp bắp không đáp thành lời, thẹn quá hóa giận bèn chỉ mặt Tư Mã Khôi quát tháo: “Cái miệng giếng này bắt ngươi chết thì ngươi phải chết!”. Tư Mã Khôi đã cố nén giận mà đối phương còn không biết đường làm anh lộn tiết lên đầu, trong lòng bất giác nổi tia sát cơ, anh lập tức giương súng xung phong bắn vị tăng nhân lỗ chỗ như tổ ong, rồi đạp xác xuống miệng giếng, sau đó quay đầu bỏ đi, nhưng chưa đi được mấy bước anh bỗng nghe thấy từng tràng cười gian ác vang lên khe khé phía sau lưng. 

hoatanhoano.wordpress.com

Tư Mã Khôi vội vàng quay người lại nhìn, chỉ thấy cổ của vị tăng nhân đột nhiên vươn dài ra mãi, cái đầu be bét máu ở đáy giếng thò cả ra bên ngoài, thần sắc khuôn mặt vô cùng quái đản, cái miệng há rộng ngoác, lộ toàn răng lao tới cắn xé. Tư Mã Khôi vừa kinh hoàng, vừa bấn loạn, ngặt nỗi chân tay anh khi đó đã mềm nhũn không điều khiển nổi, muốn ngăn cản nó cũng không vung tay được, muốn chạy trốn cũng không thể nhấc nổi chân lên, anh đành để mặc nó cắn vào vai, rồi cả người anh bị nó kéo đến sát miệng giếng, cuối cùng lộn cổ rơi tõm xuống giếng máu.

Tư Mã Khôi giật thót mình bừng tỉnh giấc, thoát khỏi cơn ác mộng, lòng thầm nghĩ cơn ác mộng về cái giếng máu quá sức cổ quái, hơn nữa cảm giác lại thật đến khiếp người, anh đoán, chắc do mình không tìm thấy đường hầm trong tòa thành cổ, cũng chẳng tìm thấy nguồn nước, con đường phía trước vô định không thể tiên liệu trước, trong lòng tràn ngập sự bất an lo lắng, nên anh mới mơ thấy giấc mộng quái đản đến vậy, may mà đó không phải sự thật.

Lúc này, hội Hải ngọng cũng lần lượt tỉnh giấc, sắc mặt ai cũng toát lên vẻ kinh hoàng, khiếp sợ. Mọi người hỏi thăm nhau, mới biết người nào cũng nằm mơ thấy ác mộng, tuy cảnh trong ác mộng không giống nhau, nhưng đều là những cảnh kinh dị, đáng sợ, cuối cùng đều bị cơn ác mộng của chính mình làm tỉnh giấc, giờ ngồi nghĩ lại ai cũng thấy lạnh gáy.

Thắng Hương Lân vừa run vừa nói: “Vừa nãy liều quá, sao cả hội dám ngủ ở nơi nguy hiểm thế này cơ chứ…”

Tư Mã Khôi thấy Nhị Học Sinh cũng đã đi lại đươc liền bảo: “Tôi cũng cảm thấy tòa thành cổ này tỏa ra toàn mùi tà khí, may mà vẫn chưa xảy ra sơ sẩy gì, giờ mọi người đã hồi phục sức khỏe, phải nhanh chóng rời khỏi đây thôi, mong là có thể tìm ra nguồn nước trong đường hầm này”.

Hải ngọng nói: “Chỗ này tà mị bỏ mẹ. Cậu nói xem bọn cương thi tộc người Bái Xà đã rơi xuống đây, sao đột nhiên lại chạy mất tiêu được? Rồi cả hội đều nằm mơ thấy ác mộng là sao?”

Cao Tư Dương cũng thêm vào: “Còn quả cầu sắt khổng lồ nữa chứ? Rốt cuộc nó là vật gì? Sao lại xuất hiện dưới lòng đất?”

Thắng Hương Lân giải thích: “Người chết đã mấy ngàn năm làm sao còn sống lại được? Theo các ghi chép tôi đọc được trên các bức phù điêu trên vách Tử thành, thì xung quanh đây có lẽ chôn vùi rất nhiều xương cốt của người Bái Xà, tuy chúng vẫn chưa thành hóa thạch, nhưng trong môi trường khô nóng thế này ít nhiều vẫn phải để lại chút tàn tích, kỳ lạ là suốt dọc đường, chúng ta không nhìn thấy nửa khúc xương khô, ở giữa các khe vách trong đoạn tường đổ nát phân bố rất nhiều lỗ lớn, trên mặt đất vương vãi đầy vụn đá, hoàn toàn không có dấu vết nào do địa chấn tạo thành; bởi vậy, tôi đoán dưới lòng đất tồn tại loài động vật ăn xác thối nào đó, bọn chúng đã ăn sạch bách xương cốt trong tòa thành này, mấy cỗ cương thi đầu đội trang sức vàng kia có lẽ cũng bị bọn chúng kéo đi thanh toán gọn rồi!”

Mọi người đều biết khả năng Thắng Hương Lân vừa nêu ra nhiều phần là sự thật, nhưng vật gì có thể tạo ra nhiều hố lỗ to như vậy, lại còn kéo cả cỗ cương thi di chuyển lên đỉnh động nữa chứ? Hơn nữa, tung tích của quả cầu sắt đường kính trên chục mét kia cũng thật đáng ngờ, họ nghĩ nát óc mà cũng không ra nguồn gốc lai lịch của nó.

Tư Mã Khôi quyết đoán đưa ra kế hoạch hành động: “Theo kế hoạch, chúng ta sẽ đi xuyên qua tòa Tử thành, hướng về đường hầm dưới lòng đất, rồi bắt tay tìm kiếm tấm bia đá của người Bái Xà, đừng đứng núi này trông núi nọ kẻo đêm dài lắm mộng, nhân lúc chân còn lết được thì mau đi thôi!”. Nói xong, anh vác ba lô và súng lên vai, xuyên qua khe nứt của bức tường, vừa định tiếp tục cuộc hành tình, bất giác anh phát hiện, mình chưa hề tỉnh khỏi cơn ác mộng.

Hội Hải ngọng bám theo sau nhìn thấy cảnh tượng trước mắt thì đều đứng thần người ra, độ sâu của khe nứt hẹp trong vách tường vốn dĩ dài chưa tới chục mét, chỉ cần bước ra là đã đến thông đạo rộng rãi trong tòa thành cổ hoang phế, nhưng cả hội đã lần sờ vách tường đá đi mấy chục bước chân, mà địa hình dài hẹp của khe nứt vẫn chưa thấy điểm tận cùng. Mọi người lại quay lại điểm xuất phát để dò lại đường, nhưng cũng không thấy điểm tận cùng.

Tư Mã Khôi ngẫm nghĩ, khe nứt của vách tường đâu có sâu đến vậy, rõ ràng chỉ trong ác mộng mới gặp phải tình huống này, anh véo vào cổ tay mình một cái thật mạnh nhưng cảm giác thật mơ hồ, anh không thấy đau, ngoài nỗi hoảng sợ, bất an thì chẳng còn cảm giác gì hết, như thể anh vẫn chìm đắm trong cơn ác mộng, chưa tỉnh dậy được dẫu cho đầu óc đang vô cùng tỉnh táo.

Những thành viên còn lại cũng có chung cảm giác như vậy, lúc này ngoài ý thức tỉnh táo ra, thì mọi hiện tượng vật lý khác đều hoàn toàn biến mất. Thực ra, giấc mơ được chia ra thành rất nhiều loại, đôi lúc do chịu sự tác động của tiềm thức, nên ngay khi não đang rơi vào cõi mơ ly kỳ khủng khiếp, thì đầu óc vẫn giữ độ tỉnh táo nhất định. Hoàn cảnh hiện tại của đội khảo cổ có lẽ rơi vào trường hợp này.

Tư Mã Khôi tạm thời yên tâm đôi chút, anh nói với những người còn lại: “Lúc trước, tôi mơ thấy trong giếng máu ở Miến Điện có con yêu tăng, nên giật mình tỉnh dậy, nào ngờ đó lại là con ác mộng kỳ quái đến cực điểm, ác mộng lồng trong ác mộng, bây giờ vẫn chưa tỉnh dậy khỏi cơn ác mộng tầng thứ hai, có điều may mà đây chỉ là cơn ác mộng đáng sợ, chứ không phải sự thật!” 

hoatanhoano.wordpress.com

Hải ngọng trách móc: “Cả đời chúng ta ngày nào hễ mở mắt là tính mạng lại ngàn cân treo sợi tóc, lên trời xuống đất chịu bao khó khăn nguy hiểm thì thôi cũng đành, nhưng ngay cả mơ cũng mơ phải ác mộng xui xẻo, cậu nói xem sao số chúng ta chó ỉa thế không biết?”

Tư Mã Khôi hùa theo: “Tớ nghĩ, đầu thai phải có tí kỹ thuật mới được, nói thật sống những ngày tháng thế này tớ cũng ngán đến tận cổ rồi, nếu may mắn sống sót chui ra khỏi lòng đất, tớ nguyện tìm một ngôi chùa xuống tóc đi tu, ngày ngày thành tâm hầu hạ Phật tổ, biết đâu kiếp sau lại giành được suất đầu thai thành địa chủ”.

Hải ngọng châm chọc: “Cái ngữ cậu có mà tu hú. Thôi! Cậu tuyệt đối đừng đến làm phiền Phật tổ người ta”.

Tư Mã Khôi đang định nói tiếp thì chợt ý thức, đây chỉ là giấc mơ của mình, Hải ngọng trước mặt cũng đâu phải người thật, việc gì phải lãng phí nước bọt? Hơn nữa, giấc mơ này hình như kéo dài cũng khá lâu rồi, sao mình vẫn chưa tỉnh lại nhỉ?

Thực ra, không chỉ Tư Mã Khôi, những thành viên còn lại cũng chung ý nghĩ như vậy, nhưng mọi người đều mau chóng phát hiện giấc mơ này không hề giống giấc mơ bình thường, dường như năm người đều đang cùng trải qua một cơn ác mộng quái dị, hơn nữa không ai có thể tỉnh dậy khỏi cơn ác mộng của chính mình. Thông đạo dài bất tận không điểm đầu không điểm cuối này chỉ là không gian trong cơn ác mộng, do nó chỉ là sản phẩm của tưởng tượng trong tiềm thức nên nó hoàn toàn không có quy luật logic hay tính chất vật lý nào, dẫu bây giờ có đập đầu vào tường, cả hội cũng không thể nào tỉnh lại được, bởi vì tất cả những hành động ấy không hề xảy ra ngoài đời thực.

Tư Mã Khôi biết rõ nấm mọc ra trong miệng của đầu lâu chỉ có thể dần dần hút kiệt khí huyết của con người chứ không thể sản sinh ra các ảnh hưởng khác, nói không chừng cơn ác mộng này lại liên quan đến quả cầu sắt khổng lồ trong tòa thành cổ, vì mới nhìn vật thể to lớn đen sì sì đó thôi người ta đã có cảm giác không lành rồi, vì vậy rất có khả năng nó chính là căn nguyên của cơn ác mộng.

Lúc đầu, mọi người chỉ coi đó là phỏng đoán chưa có căn cứ, nhưng Hải ngọng vừa nghe đã tin chắc chắn là vậy, bởi anh rất hiểu bản thân, dẫu có nằm mơ anh cũng không thể tự mình nghĩ ra giả thiết cao siêu chừng ấy, nên xem ra phán đoán của Tư Mã Khôi không thể sai được – giờ đây mọi người đang bị nhốt trong cùng một cơn ác mộng – việc cần làm bây giờ không phải ngồi nghĩ xem tại sao cơn ác mộng lại xuất hiện, mà phải mau chóng tìm cách tỉnh dậy để thoát khỏi cơn ác mộng, vì nếu cứ tiếp tục chìm sâu vào giấc ngủ trong tòa thành cổ vùi đầy hài cốt người Bái Xà, thì không biết cả hội sẽ phải gánh chịu hậu quả gì?

Thực ra, không cần Hải ngọng thức tỉnh, Tư Mã Khôi và những người còn lại cũng tự hiểu, nếu bị nhốt mãi trong cơn ác mộng thì chẳng khác nào cận kề cái chết. Không chỉ vậy, thời gian trong giấc mơ còn trôi nhanh hơn cả thời gian thực tế ngoài đời thật, cũng có nghĩa là các thành viên đội khảo cổ đang ngày càng rơi nhanh hơn theo hình xoắn ốc xuống điểm tận cùng của cái chết.

Hồi thứ năm

TRÙNG LẶP

Hội Tư Mã Khôi lánh nạn trong khe nứt hẹp giữa vách tường, rồi bất giác ngủ thiếp đi, không ngờ lại bị nhốt trong giấc mộng chung quái đản kéo dài bất tận, dẫu cả hội đã nghĩ hết mọi cách, nhưng rốt cuộc vẫn không thể thoát khỏi cơn ác mộng ma mị ấy. Nếu chỉ nhờ vào ý thức của bản thân, thì họ không thể nào tỉnh dậy được, mà cần phải có một ngoại lực tác động vào, ngặt nỗi khắp nơi trong tòa thành cổ dưới lòng đất toàn xương khô, đến một bóng ma còn không có nữa là. Xem ra, mọi cách đều rơi vào ngõ cụt, họ chỉ còn biết đợi chờ chiếc bóng của thần chết viếng thăm trong nỗi sợ hãi và dày vò.

Giữa cái khó, Hải ngọng chợt ló cái khôn: “Lúc trước, mấy cỗ cương thi cũng rơi vào thành cổ rồi đột nhiên biến mất dạng, sau đó lại thình lình xuất hiện ngay trên đỉnh động, nhất định có con vật nào đó đã kéo chúng lên đó, chắc bọn này là loài động vật ăn xác thối dưới lòng đất, chúng đã đục được cái hố to thế trong vách tường, thì không chừng chúng sẽ lần theo mùi hơi, chui vào trong khe tường, chỉ cần chúng chạm vào người một cái là bọn ta có thể tỉnh dậy ngay tức thì”.

Tư Mã Khôi lắc đầu bảo: “Cậu tưởng hễ đeo kính cận là thành bác học được chắc, trí thức dỏm? Cậu nghĩ kỹ xem nếu bọn quỷ ăn xác thối săn mồi dưới lòng đất chui vào trong khe tường, thì mẹ kiếp, chúng nó còn để cho cậu yên chắc? Không khéo lúc cậu tỉnh lại, thì nửa cái sọ của cậu đã chuyển chỗ đến dạ dày chúng nó xong đâu vào đấy rồi!”

Thắng Hương Lân nói: “Đừng hi vọng xảy ra trường hợp ấy! Vì đề phòng bất trắc nên ngay từ lúc đầu chúng ta đã lấy ba lô bịt chặt miệng khe nứt, dẫu bên ngoài có con gì thì chúng cũng không thể chui vào trong này được đâu”.

Cao Tư Dương lo lắng nhìn Tư Mã Khôi: “Thường ngày anh nổ ghê lắm cơ mà, sao vào giờ phút then chốt lại tắc tịt thế?”

Tư Mã Khôi cũng không cam tâm chờ chết, bụng bảo dạ: “Bao gian nan nguy hiểm dọc đường đều đã vượt qua, giờ cái bia đá đã lù lù ngay trước mắt, làm gì có chuyện chịu chết tức tưởi ở đây? Lúc này có lo sợ hay hoảng loạn thì cũng vô ích, chi bằng ta phải tìm hiểu rõ hoàn cảnh trước mắt, xem có cách nào phá giải được cơn ác mộng quái đản này không… nghĩ đến đây, anh bảo mọi người lần lượt kể lại cơn ác mộng xem họ đã mơ thấy gì.

Xuống đến đáy Tử thành, rồi trốn vào trong khe nứt giữa bức tường để lánh nạn, lúc này cả hội đã mệt nhoài, cổ họng khát cháy, từ lúc bắt đầu rơi vào trạng thái ngủ mê mệt, mỗi người đều mơ thấy một cơn ác mộng vô cùng đáng sợ và kỳ lạ.

Cơn ác mộng của Nhị Học Sinh xảy ra trong núi Đại Thần Nông Giá, khi ấy cậu ta vẫn đang làm việc trong khu lâm trường Hầu Tử Thạch. Để kiếm thêm chút công điểm, cậu ta đi canh ruộng ngô vào ban đêm cùng một người bản địa họ Trần, biệt danh là Trần “liều”. Lâm trường khai hoang được mấy chục mẫu đất trên núi để trồng ngô, đến đêm mùa hạ, họ phải dựng một gian nhà tranh, rồi tìm người canh ngô hòng tránh dã thú và kẻ trộm. Nhưng nơi đó rừng sâu núi thẳm, bóng người thưa thớt nên khó tránh khỏi những lời đồn đại về hồn ma bóng quế, bình thường chẳng ai dám đi canh đêm, bởi thế người nào trong lâm trường chịu đi sẽ được gấp đôi công điểm. 

hoatanhoano.wordpress.com

Trần liều là người không tin chuyện ma mãnh, càng nghèo lại càng liều, gặp cơ hội tốt thế không tranh đi mới lạ. Hôm đó đến phiên anh ta và Nhị Học Sinh canh đêm, hai người mang theo súng tự chế để tránh thú dữ, rồi vào núi. Ban ngày, hai người đặt bẫy được một con thỏ hoang, liền lột da rửa sạch, đợi đêm xuống mới lấy chiếc nồi gốm trong gian nhà tranh vách đất mang ra hầm thỏ, hai người vừa canh nồi vừa chấm chấm mút mút, thịt thỏ trong nồi càng hầm càng thơm nức mũi. Trần liều không khỏi cảm thán kể, nhà anh ta lít nhít một đống con, đứa nào đứa nấy cứ như là những con ma đói đầu thai, thường ngày nếu anh có săn được lợn hay thỏ rừng thì cũng phải nhường con ăn trước, đợi đến khi kẻ làm cha là anh ta được động đũa thì đến khúc xương cũng chẳng còn, bây giờ ra ngoài canh đêm đúng là tự do, cứ việc ăn no căng bụng thì thôi, nói xong anh ta liền gắp một miếng thịt thỏ to đùng đút vào miệng.

Bụng Nhị Học Sinh cũng lép kẹp, đói mờ cả mắt nhưng cậu ta nào dám thò đũa ăn tranh với Trần liều, mắt nhìn chằm chằm đối phương đang ngon lành nhét miếng thịt thỏ vào mồm. Đột nhiên, cậu ta nghe thấy tiếng “ầm” vang lên, rồi vách đất bỗng thủng một lỗ lớn, một bàn tay to như cái quạt, lông lá đen sì thò từ ngoài vào, bàn tay xòe rộng khua khoắng khắp nơi, có vẻ như muốn tìm nồi thịt thỏ đang bốc khói nghi ngút. Hai người biết mình không may gặp phải dã nhân ở Thần Nông Giá, thì sợ mềm nhũn cả chân tay. Trần liều thường ngày tuy rất liều, nhưng giờ cũng sợ vãi đái ra quần, cuống cuồng đặt nồi thịt thỏ xuống đất, mặc cho cánh tay đen sì toàn lông lá khua khoắng, vớt lên ăn. Nào ngờ, gã người rừng ăn hết thịt trong nồi nhưng vẫn chưa chịu bỏ đi, nó tiếp tục thò cánh tay vào trong gian nhà tranh sục sạo. Nhị Học Sinh và Trần liều đành đâm thủng vách tường phía sau, xách theo khẩu súng tự chế rồi chui ra ngoài chạy trốn. Họ nghe thấy tiếng bước chân gấp gáp đuổi theo, liền ngoái đầu lại nhìn, vừa nhìn thấy cảnh tượng trước mắt, hai người suýt nữa thì lăn ra ngất xỉu tại trận, cách đó không xa là con quái vật hình người đứng thẳng bằng hai chân, lông dài thượt phủ kín toàn thân, tóc tai rũ rượi, dáng hình cao lớn, trông lừng lững chẳng khác nào người khổng lồ, có điều dưới ánh trăng bàng bạc, họ cũng không nhìn rõ mặt mũi nó ra sao. Trần liều hoảng quá hóa liều, cuống quýt giương súng săn lên bắn, trong lúc hoảng loạn dường như anh ta bắn mù một mắt con dã nhân, nó ôm đầu dừng bước, không đuổi theo hai người nữa.

Hai người loạng choạng bỏ chạy, chạy đến một khe núi, thì hai chân cứng đơ không thể nhích được nữa, đến lúc sắc trời hửng trắng như bụng cá, đoán chắc giờ đã bình an vô sự, Trần liều mới thở phào nhẹ nhõm, huênh hoang nói với Nhị Học Sinh: “Chắc nó không phải dã nhân đâu, dã nhân làm sao cao to thế được? Không chừng là sơn tiêu hay ma cây gì đấy. May mà chú đi cùng Trần liều anh đấy, chứ nếu là người khác thì lấy đâu ra dũng khí giương súng lên bắn nó?”, anh ta miệng nói tay khua, đang lúc thao thao bất tuyệt thì đột nhiên bên tai vang lên một âm thanh quái lạ, rồi một bàn chân khổng lồ lông rậm rì giẫm xuống khe núi. Trần liều đáng thương bị giẫm nát bét, thân thể bấy máu. Cái đùi to lớn của con vật đó lại nhấc lên chuẩn bị giẫm vào Nhị Học Sinh. Cậu ta sợ hãi trân mắt đứng nhìn, hồn vía bay chín tầng mây, kinh hoàng tỉnh dậy, lúc ấy mới biết đó chỉ là một giấc mơ. Điều quái lạ là cơn ác mộng này lại lồng trong một cơn ác mộng khác, mà tầng thứ hai của cơn ác mộng đến giờ vẫn còn chưa tỉnh.

Trong thực tế cũng từng diễn ra sự việc này, điều khác biệt duy nhất là, hôm đó lẽ ra Nhị Học Sinh phải đi gác đêm với Trần liều, nhưng cậu ta lại mắc chứng Khắc Sơn, lúc ấy đột nhiên thấy khó chịu trong người, nên phải ở lại lâm trường, một mình Trần liều vác súng tự chế vào bãi canh ngô, kết quả ngày hôm sau người khác đến thay ca thì phát hiện Trần liều đã mất tích, trong gian nhà tranh chỉ còn chiếc nồi gốm vỡ nát, trên vách có nhiều lỗ thủng rất to. Cuối cùng người ta phát hiện thấy Trần liều chết thảm trong khe núi, thi thể nát bét nom rất đáng thương, như thể bị người khổng lồ dùng chân giẫm chết, súng tự chế văng sang một bên, người trong lâm trường nghi thủ phạm là dã nhân, nên tập hợp dân binh mang theo súng săn lùng sục trong núi dọc theo dải Hầu Tử Thạch trong suốt nửa tháng, nhưng từ đầu chí cuối chẳng tìm thấy nửa sợi lông của dã nhân, rồi vụ án cũng khép lại, từ đó trở đi không ai dám canh đêm ở bãi ngô nữa. Nhị Học Sinh tận mắt thấy bộ dạng nằm chết thảm thương của Trần liều, hình ảnh ấy khắc sâu vào trí não cậu ta, nên giờ mắc kẹt dưới lòng đất này cậu lại nằm mơ thấy cảnh tượng đó, nhưng có lẽ vì giấc mơ chịu sự tác động của tiềm thức, nên Nhị Học Sinh mới mơ thấy mình trực tiếp cùng Trần liều trải qua sự kiện bị dã nhân giẫm chết năm ấy. 

hoatanhoano.wordpress.com

Cơn ác mộng của những thành viên còn lại đều liên quan đến những sự kiện bản thân từng trải qua, mỗi cơn ác mộng đều có điểm ly kỳ, đáng sợ riêng, người nào người nấy kể vanh vách giấc mơ của mình như thể vừa mới thực sự trải qua.

Tư Mã Khôi biết rõ mình có thể mơ thấy giếng máu trong rừng rậm Miến Điện, nhưng không thể mơ thấy chuyện gặp phải dã nhân ở Thần Nông Giá, mà dẫu có mơ thấy cũng không thể chi tiết, sống động như vậy được, điều đó đủ để chứng minh giờ đây mọi người đang cùng trải qua một cơn ác mộng trùng lặp. Giải mộng, xem phong thủy, bói toán đều là đạo thuật trong Kim Điển, bởi vậy Tư Mã Khôi cũng thông hiểu ít nhiều. Anh nhớ cổ nhân từng giải thích cặn kẽ từng loại giấc mộng, trên đời ngoài cương thi ra, không người nào không nằm mơ, nếu tỉnh dậy cảm thấy không hề mơ thì chẳng qua là do trí não đã hoàn toàn quên hết. Giấc mơ thường chia ra thành hai loại, giấc mơ nông và giấc mơ sâu. Tầng thứ nhất của giấc mơ là tầng nông nhất, thường gọi là “thân cảnh” tức giấc mơ cõi người, những chuyện xảy ra trong giấc mơ này liên quan đến bản thân người ngủ mơ và nó chịu sự ảnh hưởng của môi trường xung quanh, ví dụ khi cơ thể bị trói thì trong giấc mơ thường thấy rắn xuất hiện, nếu mái nhà bị dột, thì sẽ mơ thấy mình bị rơi xuống nước, cái này gọi là “ngày ra sao, đêm chiêm bao là vậy”. Tầng thứ hai của giấc mơ sâu hơn, gọi là “linh chúc” tức ngọn nến cõi tâm linh, căn nguyên của giấc mơ này xuất phát từ nội tâm, chủ yếu chịu sự tác động của tiềm thức, bởi vậy đôi khi những chuyện ngày thường không làm, đột nhiên lại xuất hiện trong giấc mơ. Tầng thứ ba của giấc mơ là tầng sâu nhất, gọi là “hồn yểm” tức là chỉ hồn rời khỏi xác đi chu du trong cõi mơ, lỡ gặp phải trường hợp này, thì chỉ còn cách đợi người khác đánh thức mình dậy mà thôi.

Tư Mã Khôi nhớ trong cổ tịch tướng vật có ghi chép rằng, ở núi Côn Lôn có loại sắt huyền thiết, loại sắt này có khả năng nhốt người ta vào cơn ác mộng khó lòng tỉnh giấc. Nghe nói, Hán Vũ Đế cũng từng có một viên. Quả cầu sắt to lớn đen sì nằm lún trong thành cổ có lẽ chính là loại dị vật kiểu này, mọi người nhất thời sơ ý, lăn ra ngủ mê mệt ngay trong khe nứt giữa vách tường, nên đều lần lượt chìm vào ác mộng, khi giật mình bừng tỉnh giấc, thì lại trượt vào một tầng ác mộng khác sâu hơn, không những vậy tiềm thức của tất cả mọi người chồng chéo, trùng lặp tại một điểm. Tuy đã hiểu ra vấn đề, nhưng cả hội nghĩ nát óc vẫn không thể tìm được cách hóa giải nút thắt hóc búa này.

Lúc này, Hải ngọng lên tiếng bảo đã tìm ra kế sách giúp cả hội thoát khỏi không gian của cơn ác mộng quỷ quái. Thường ngày, ác mộng sẽ kết thúc khi ta sợ hãi quá độ và giật mình tỉnh giấc…

Thắng Hương Lân không đợi Hải ngọng nói dứt lời, đã hiểu ý anh muốn nói gì, cô vội vàng xua tay gạt đi. Cơn ác mộng quái đản này vô cùng bất thường, hoàn toàn khác với những ác mộng con người từng mơ thấy, nó đã khiến chúng ta sợ hãi đến tột độ, nhưng vẫn không thể đánh thức chúng ta dậy, ngược lại còn kéo chúng ta xuống tầng mộng sâu hơn.

Tư Mã Khôi thầm nghĩ, com ác mộng quái lạ này quả thực diễn ra quá dài và dường như không có khởi đầu, cũng chẳng có kết thúc, chắc điểm tận cùng là mọi người sẽ dần dần biến mất, từng người từng người một, bởi một khi cơ thể chết đi, thì tiềm thức cũng không thể tồn tại. Để tìm con đường sống, cách gì cũng phải thử mới được, ngay cả ý tưởng ngu ngốc của Hải ngọng cũng phải thử một lần. Đang lúc Tư Mã Khôi còn mải đăm chiêu suy nghĩ, thì anh lờ mờ phát hiện tựa có bóng người thấp thoáng trốn sau lưng Cao Tư Dương, bóng người ấy co rúm, ngồi xổm trong góc tối, án binh bất động, nom bộ dạng khá quen mắt, có điều trong chốc lát anh không thể nhớ ra đã từng gặp ở đâu.

Tư Mã Khôi bỗng lạnh gáy, trong tòa Tử thành này, ngoại trừ năm thành viên của đội khảo cổ ra, chẳng lẽ còn có người thứ sáu may mắn sống sót? Nghe nói, mộng là hệ quả của quá trình ngủ động mắt nhanh(1) và tiềm thức tầng sâu, chính vì vậy người nào cũng phải ngủ mơ, thậm chí cả chó mèo cũng vậy. Mỗi người, mỗi loài có một giấc mơ riêng biệt, nói theo quan niệm mê tín thì bản thân trong giấc mộng chính là “hồn sống”, còn giấc mộng là không gian hỗn độn giao thoa giữa cõi âm và cõi dương, dương hồn của người sống có thể nằm mơ, âm hồn của người chết cũng có khả năng đi vào giấc mộng, bởi vậy mới xảy ra chuyện người chết thác mộng cho người sống. Chẳng lẽ kẻ mới đến là âm hồn của người đã chết cách đây mấy ngàn năm, đang đi nhầm vào cõi mộng của các thành viên đội khảo cổ? Hay hắn chính là linh hồn của Nấm mồ xanh đang tàng hình ẩn trốn? Nếu là vậy thì chẳng lẽ hồn phách của Nấm mồ xanh cũng bị nhốt trong cơn ác mộng ư?

1 Ngủ động mắt nhanh: là một trong hai giai đoạn mang tính chu kỳ của giấc ngủ, gồm có: ngủ động mắt nhanh và ngủ không động mắt nhanh.

Suy nghĩ ấy vừa lóe lên, Tư Mã Khôi đã xách súng, bước nhanh đến gần, thò tay tóm lấy kẻ lạ mặt. Gã đang cúi đầu rất thấp, khi bị tóm mới chầm chậm ngẩng lên, mặt đối mặt với Tư Mã Khôi. Có điều, khuôn mặt đó nhẵn thín như mặt thớt, khồng hề có mắt mũi tai miệng, nom như dán một lớp giấy trắng rất dày lên mặt vậy. Tư Mã Khôi có cứng gan đến đâu, thì trong khoảnh khắc đó, tim gan cũng thấy thấu lạnh. Anh hiểu, đó là âm hồn nhập mộng, nhưng không hiểu âm hồn không có mặt đó là ai?

Hồi thứ sáu

CHẠY THOÁT KHỎI TỬ THÀNH

Trong cơn ác mộng, Tư Mã Khôi nhìn thấy một con ma không có mặt, đang lúc lạnh người vì kinh hãi thì không biết ai đó đã đột ngột đẩy anh một cái thật mạnh. Tư Mã Khôi sợ vã mồ hôi và lập tức tỉnh mộng. Trước mắt anh, không gian tối đen như mực, vách tường đá bên cạnh tỏa hơi âm lanh, anh thấy miệng cháy khô, môi nứt nẻ, thân thể cứng đơ, tứ chi mềm nhũn, trong đầu như có hàng ngàn hàng vạn con kiến đang thi nhau bò chạy loạn xạ. Anh gắng sức lắc đầu thật mạnh, vươn tay bật đèn quặng gắn trên mũ Pith Helmet, thấy hội Hải ngọng đều đang ở cạnh, mới biết khi nãy chính Thắng Hương Lân đã lay mình tỉnh dậy.

Tư Mã Khôi vẫn hoảng loạn tinh thần, lòng tự hỏi không biết có phải vì sợ quá nên lại chìm vào một tầng ác mộng sâu hơn chăng? Nhưng sao mọi giác quan đều phục hồi rồi nhỉ?

Thì ra, Nhị Học Sinh mắc chứng Khắc Sơn, căn bệnh này thường bị chuột rút khi ngủ, lúc nãy do nằm cứng đơ trong một tư thế suốt thời gian dài, nên bắp chân của cậu ta bắt đầu bị chuột rút, đây là phản ứng tự phát của cơ thể không chịu sự chi phối của ý thức chủ quan, bởi vậy cậu ta đã lập tức tỉnh dậy, những thành viên khác nằm sát gần nhau nên va chạm phải nhau và cùng tỉnh dậy.

Từ tận đáy lòng, Hải ngọng cảm thấy vô cùng may mắn, anh quay sang bảo Nhị Học Sinh: “Trời mênh mang, đất mênh mang, thế giới rộng lớn thế này mà chẳng ai nói cho ta biết con đường sống ở đâu. Ngạn ngữ có câu: “Mọi con đường đều dẫn đến thành Rome”, nhưng đó là chân lý cổ xưa, chứ thực ra trên đường còn có vô số vách đá cheo leo, hố sâu cạm bẫy, chỉ cần đi sai một bước, sẽ lập tức ngã lộn cổ, rồi thịt nát xương tan. Sự việc vừa rồi chính là bài học nhớ đời. Anh ngẫm ra một điều, may mà dọc đường anh chưa quẳng chú đi, bắt đầu từ tháp canh ở Đại Thần Nông Giá, rồi đến rừng rậm tiền sử dưới lòng đất ở biển Âm Hải, động tế lễ Sở U Vương, lại xuyên qua thủy thể mênh mông và đảo núi Âm Sơn ở 30 vĩ Bắc, sau đó tiến thẳng tới vùng đất vùi xương của người Bái Xà trong cửu tuyền sâu thăm thẳm, suốt chặng đường dài dặc, chú chả phát huy được tí tác dụng nào, không ngờ đến lúc rơi vào cơn ác mộng quái ác, vì bắp chân đột nhiên bị chuột rút, chú lại cứu được cả hội thoát khỏi tuyệt cảnh. Nếu không nhờ món sở trường đặc biệt nhà chú, thì chắc chúng ta đã bỏ mạng oan uổng ở nơi chết tiệt này rồi, thật không ngờ “áo gấm” lại có lúc “đi ngày”. Chỉ cần riêng điểm này thôi, về sau đợi anh Hải ngọng của chú lên làm lãnh đạo, bất luận thế nào, anh cũng sẽ đề bạt chú vào làm một chân trong đội khảo cổ. Có điều, giỏi mỗi chiêu chuột rút là chưa ổn đâu, xem ra anh còn phải truyền nghề cho chú thêm vài món sở trường khác. Trên đời hàng trăm đường mưu sinh, ngoài mỗi cái sự học là vô bổ ra, còn lại biết nghề nào thì ấm thân nghề nấy, kém thì cũng lo đủ cho mấy khẩu no cơm ấm cật, giỏi giang thì an bang trị quốc. Nếu chú chẳng có sở trường gì, thì không kiếm nổi hạt cơm nhét vào dạ dày đâu, lúc đấy có than trời oán đất thì cũng chẳng tìm thấy lối thoát, nói trắng ra là dẫu chết đói cũng chả ma nào thèm thương…”

Nhị Học Sinh ngây người ngồi nghe, không hiểu Hải ngọng đang khen hay đang chửi mình, nhưng dù sao cậu ta cũng không khỏi bái phục Hải ngọng đúng là nhân vật phi phàm, mồm khát khô cháy, môi nứt rướm máu mà vẫn có thể thao thao bất tuyệt bài trường ca dài thế.

Cao Tư Dương và Thắng Hương Lân vẫn chưa hết sợ, bởi cơn ác mộng quái đản kia thực ngoài sức tưởng tượng của họ, suýt chút nữa cả hội vĩnh viễn không thể tỉnh dậy. Hai người họ giúp Nhị Học Sinh xoa bóp bắp chân bị chuột rút cho đỡ hẳn, rồi nhấc ba lô súng ống, sắp xếp gọn gàng, chuẩn bị khởi hành theo đường hầm đá macma, rời xa tòa Tử thành nặng mùi chết chóc.

Hải ngọng thấy thần sắc Tư Mã Khôi vẫn ngơ ngác, phản ứng chậm chạp, liền quay sang hỏi: “Cậu sao thế? Tớ nhớ lúc trước cậu đâu có vậy? Hồi xưa…”

Tư Mã Khôi biết Hải ngọng mà bắt đầu kể “hồi xưa” thì chẳng khác nào cái đài hỏng nút tắt, anh vội vàng chặn lại: “Đừng nhắc hồi xưa nữa, hồi xưa đã xưa như Trái đất rồi”, nói xong anh kể cho mọi người nghe chuyện mình vừa găp trong mơ khi nãy. Anh phát hiện thời điểm mình nhìn thấy con ma không có mặt xảy ra gần như cùng lúc với thời khắc mọi người tỉnh dậy khỏi cơn ác mộng, chẳng hiểu hai sự kiện đó có liên quan gì với nhau không, cũng chẳng thể tiên liệu được chuyện gì sẽ xảy ra, bởi vậy anh chỉ có thể nhắc nhở mọi người không được sơ ý, đề phòng ma quỷ trà trộn vào trong hàng ngũ.

Lúc này, mọi người không rõ mình đã ngủ bao lâu dưới lòng đất, nhưng cảm giác tê dại tay chân dần dần biến mất, thể lực cũng đã hồi phục ít nhiều, có điều tình trạng cơ thể mất nước càng lúc càng nghiêm trọng, mình mẩy khô nóng khó chịu, chỉ mong mau chóng tìm thấy nguồn nước. Thế là, cả hồi lần lượt chui ra khỏi khe tường theo ánh đèn quặng.

Mọi người lồm cồm bò ra khỏi khe tường và thấy quả cầu sắt lún xuống đất chừng một nửa, giơ tay ra là có thể chạm tới, trông nó đen sì sì khiến người ta cảm thấy ngộp thở, có lẽ nó rơi từ trên trời xuống. Quan sát xung quanh, họ thấy rất nhiều nhà cửa, tường thành bị vật thể khổng lồ này đập nát, chứng tỏ thành cổ có trước, khối sắt này có sau, nhưng sao nó lại bị rơi xuống hố động dưới lòng đất này? Và nó rơi xuống từ đâu?

Tư Mã Khôi nghĩ nát óc vẫn không tìm ra câu trả lời. Anh từng nhìn thấy người sắt đứng sừng sững trong biển cát dưới cực vực, nhưng dường như tọa độ chỉ đường mà người Bái Xà để lại dưới lòng đất cũng không thần bí bằng quả cầu sắt ánh màu đen trong tòa thành cổ này. Đứng gần quả cầu sắt cứ thấy đầu ngâm ngẩm đau, anh nghĩ, nhiều khả năng “món đồ chơi” này tương tự loại sắt huyền thiết ở Côn Lôn, nó có khả năng giam giữ dương hồn trong cơn ác mộng cho đến chết. Mà thôi, mặc kệ nguồn gốc của nó ra sao, tốt nhất là phải tránh nó càng xa càng tốt.

Tư Mã Khôi liên tiếp ra dấu tay, ý bảo Hải ngọng và mọi người đi vòng qua nó, mau chóng tiến lên phía trước. Đột nhiên, anh cảm thấy có một vật thể khổng lồ trên quả cầu sắt đang bò lại gần mọi người. Cả hội ngẩng đầu, soi đèn quặng lên nhìn và kinh hoàng khi phát hiện thấy một cái đầu cương thi thấp thoáng ẩn hiện trong bóng tối, cái đầu đội trang sức vàng, mặt khô quắt như vỏ cây khô, ngũ quan khó phân biệt rõ ràng, cái cổ dài như con rắn lớn đang thò ra ngoài, nom chẳng khác nào yêu tăng thò đầu ra từ miệng giếng máu trong cơn ác mộng của Tư Mã Khôi.

Tư Mã Khôi hơi sững người, trong khoảnh khắc, cái đầu cương thi đã vươn đến ngay trước mặt mọi người. Dưới chùm sáng của mấy chiếc đèn quặng, trông cái cổ đen bóng, trơn nhẫy, đeo từng khoang từng khoang vòng đỏ. Nó nuốt bộ xương khô vào trong bụng, nhưng mấy món trang, sức vàng đội trên đầu cương thi lại mắc trong miệng, giờ nuốt thì không trôi, mà nôn thì cũng không nôn ra được, nó đành phải ngậm cái đầu cổ thi trong miệng. Nếu nhìn thoáng qua lại tưởng nó là quái vật mình rắn đầu người. Nó nấp ở nơi sâu trong bóng tối, dài ngoằn ngoèo không biết mấy mét.

Năm xưa, Tư Mã Khôi và Hải ngọng cùng đám lính cũ đi khắp nơi bắt rắn ở Miến Điện, nghe nói dưới lòng đất có một loại rắn, gọi là mãng nhân xà. Loài rắn này trông giống rắn, nhưng thực ra không phải rắn, mà chỉ là một loại côn trùng rất dài, tương tự như con giun, nó không chỉ nuốt cả thịt lẫn xương của động vật sống, mà ngay cả cương thi cũng không chừa. Có điều, hôm nay con rắn này gặp vận rủi, chỉ nuốt được nửa người, còn một nửa vẫn phải ngậm trong miệng, nó đang tìm một hang động âm lạnh để nôn cương thi ra, rồi chui vào trong cỗ cương thi để đẻ trứng, từ đó sinh sôi nảy nở, duy trì giống nòi. Những người không rõ lai lịch của nó, thấy cảnh tượng ấy lại tưởng mình tìm thấy huyệt động mai táng cương thi vô chủ, bởi vậy nó mới có tên mãng nhân xà.

Tư Mã khôi thấy con quái xà ngậm cái đầu của cương thi bò xuống với tốc độ thần tốc, bộ dạng hung hãn, anh thầm nghĩ, chắc hội anh gặp phải mãng nhân xà, hài cốt ở dưới đáy tòa thành cổ có lẽ đều bị nó ăn sạch bách, anh vội vàng rút đuốc ra, định dùng ánh lửa xua đuổi con quái vật, nhưng ánh lửa vừa sáng lên thì các hình dáng các phê tích xung quanh đều chập chờn hiện lên từ bóng tối, quả cầu sắt lún trong thành cổ cũng hiện rõ mồn một, mọi người nhìn mà ngẩn người kinh ngạc.

Bên cạnh quả cầu là đầu một bức tượng thần đổ nghiêng, to như trái núi, hư hại chẳng còn hình hài gì, phần thân pho tượng không đầu còn lại đứng sừng sững bên cạnh như vốn vậy, mình phủ đầy đất cát và đá vụn, một bên mắt hõm xuống thành hố sâu. Thì ra, quả cầu sắt vốn để khảm thành con ngươi của một bên mắt, có lẽ hàng trăm ngàn năm trước, pho tượng trong tòa thành cổ cao sừng sững như một ngọn tháp khổng lồ này bị gãy đầu, rơi lăn lóc xuống đất và nứt vỡ, quả cầu sắt trong hốc mắt pho tượng cũng bị rụng ra, rơi xuống và lún sâu vào trong thông đạo. Tại sao trong tòa thành mà người Bái Xà vùi xương lại có loại tượng thần khổng lồ này nhỉ?

Mọi người bị chấn động bởi thần thái đáng sợ của pho tượng, cảm giác tựa bị ma nhập, chân bất giác đứng như trời trồng. Con mãng xà lúc trước đã bị cả hội bắn thủng bụng, máu chảy loang lổ, lúc này nó bò ngoằn ngoèo từ trong khe đá trên đỉnh động xuống, thấy ánh lửa nhưng nó không trốn chạy, mà dũng mãnh lao về phía trước, trong nháy mắt đã cách cả hội chỉ gang tấc.

Tư Mã Khôi đã từng nhìn thấy hình con Bạch Xà miêu tả trong sơn hải đồ trên đỉnh đồng Vũ Vương. Nghe nói, Bạch Xà bản tính rất tham ăn, nó có thể nuốt gọn cả một con voi rừng, ba năm sau mới nhả xương. Không rõ thời xưa có loài răn to như vậy thật không, chứ con mãng nhân xà ngay trước mặt đây tuy đã bị thương đến nỗi không khép nổi miệng nhưng vẫn hừng hực khí thế muốn lao tới ăn thịt người, vẻ hung hăng, tham ăn của nó có lẽ không hề thua kém Bạch Xà trong truyền thuyết. Tứ phía trong hang động đá macma vang lên những tiếng sột soạt, mùi máu tanh trên cơ thể con rắn tỏa ra đã lôi kéo càng nhiều đồng bọn của nó bò đến.

Tư Mã Khôi biết chắc một khi đã bị bọn chúng bao vây thì đừng nghĩ đến chuyện thoát thân, nên anh lập tức dúi ngọn đuốc về phía con rắn, nhân lúc con mãng nhân xà co mình thụt lùi về phía sau, anh vội vã gọi các thành viên còn lại quay người chạy thục mạng, men theo con đường bám đầy rêu giữa các hẻm nhỏ trong thành cổ xông thẳng về phía trước, nơi nào trong bóng tối vang lên tiếng động là cả hội liền giương súng bắn về phía đó để áp chế, may mà kết cấu của tòa thành hoang phế này khá rõ ràng và vẫn còn giữ nguyên hình khối cơ bản trước đây, nên cả hội mới không bị lạc đường trong đêm tối. Điểm tận cùng của con đường là một hang động lớn bị bịt bởi một phiến đá lớn, cao chừng chục mét, pho tượng thần bị đổ gục trong thành cổ lẽ ra nằm ở chính giữa cửa động. Mọi người phỏng đoán con đường hầm thông tới miếu thần chắc cũng nằm trong đó, nên tất cả ngẩng đầu lên soi đèn quặng thì thấy trên vách tường đá có mấy chỗ bị sụt lở sụp xuống, lộ ra một miệng khuyết, cả hội vội vàng dùng cả tay lẫn chân bò lên vách đá, đá vụn bị đạp xuống rơi rào rào như vụn bàng. Sau khi đi xuyên qua khe nứt chật hẹp, mọi người lại khuân đá để chặn miệng khe lại như cũ, đề phòng lũ mãng nhân xà trong thành cổ bám đuổi theo.

Mọi người hít phải mùi xác thối trong thành cổ, giữa đường lại chạy thục mạng đến kiệt sức, tưởng như chết nửa con người, cầm cự tháo chạy được đến đây đã là hết sức gắng gượng, giờ cả hội thở hổn hển muốn đứt hơi, mắt tóe lửa, mồm bốc khói, khắp người đau nhức như bị hoen rỉ từng đốt xương, các khớp tựa hồ bị đổ bê tông chặt cứng, khẽ cử động đã kêu lách cách, vậy mà họ vẫn chưa tìm ra nguồn nước, chỉ cần dừng bước thì đừng nghĩ đến chuyện có thể tiếp tục đứng dậy đi tiếp, thế là, không còn cách nào khác, hội Tư Mã Khôi đành lôi kéo, xốc nách nhau tiến về phía trước con đường hầm đá rộng rãi. Bề mặt vách đá nhẵn bóng, bằng phẳng, địa hình ở đây gần giống dạng phễu ngược, tầng nọ nối tiếp tầng kia xuyên thẳng vào bóng tối vô biên. Trong hang động đá macma hình vòm cao thấp nhấp nhô xuất hiện những bức rèm đá treo ngược nặng nề, địa nhiệt đã phết một lớp men sứ lên vách đá, bên trên phủ bột mica trắng, bởi vậy những nơi đèn quặng soi đến đều phản chiếu quầng sáng kỳ dị.

Bước thấp bước cao, đội khảo cổ cũng đi được hai dặm, địa hình càng lúc càng trở nên khoáng đạt, rộng rãi, đỉnh động cao đến mấy trăm mét, nom gống như một hố giếng sâu hình nón, sương mù bay là là từ cửa núi phía trên đáp xuống đáy động, hơi nước nghi ngút, lạnh buốt thấu xương, khiến vách đá đọng hàng ngàn vạn giọt nước, lấp lánh tựa châu sa. Hội Tư Mã Khôi nhìn thấy nước, mừng rỡ như bắt được vàng, ngửa cổ hứng từng giọt trong vắt thẩm thấu rỏ xuống từ huyệt động, nhờ vậy mấy khuôn mặt quắt queo như mặt người chết của cả hội mới dần dần phục hồi thần sắc. Mọi người tìm một phiến đá tương đối khô ráo ngồi nghỉ và giở lương khô, đồ hộp ra ăn cho ấm dạ. Sau khi mắt đã thích nghi được môi trường trong động đá, họ mới kinh ngạc phát hiện, ở nơi sâu trong đường hầm có một điểm sáng xanh u tối.

Hồi thứ bảy

ĐẦM LẦY DẠ QUANG

Dưới tầng đáy của núi dưới lòng đất, động lồng trong động này lại có đường hầm đá macma nối liền nhau, tạo thành một hành lang huyệt động ngoằn ngoèo và dài tít tắp. Cái hang thẩm thấu nước này chẳng qua chỉ là một đoạn trong hệ thống đó. Địa hình ở đây sâu hút, khoáng đạt, không khí lưu thông tốt, có thể nhìn thấy một dải sáng mờ ở đằng xa.

Hội Tư Mã Khôi thầm thấy lạ, liền giơ ống nhòm quan sát hồi lâu, nhưng nhìn mãi vẫn không biết vật thể nào đang phát sáng, cũng không biết con đường hầm trong rốn núi này rốt cuộc sâu bao nhiêu, nhưng cả hội đều biết, chỉ cần xuyên qua đường hầm đá macma này, tiến thẳng về phía trước là sẽ tìm thấy miếu thần – nơi đặt tấm bia đá của người Bái Xà, đến được đó là mọi người có thể tận mắt đọc được đáp án của mọi ẩn số. Có điều, hình vẽ đáng sợ và quái dị khắc trên vách Tử thành đã nói rõ, bất kỳ kẻ nào nhìn thấy bí mật khắc trên phiến đá, kẻ đó sẽ sợ hãi lăn ra chết tại chỗ. Thắng Hương Lân nhắc nhở: “Có vẻ không phải lời nguyền hoặc lời hù dọa thông thường, chúng ta phải đề phòng mới được.”

Hải ngọng đứng bên, vỗ vai thân mật bảo Nhị Học Sinh: “Đến lúc ấy, mọi sự trông cả vào chú đó, chú cần chuẩn bi tâm lý trước mới được!”

Nhị Học Sinh giật thót mình, đây đâu phải chuyện đùa, cậu ta cuống lên, hỏi Hải ngọng bằng giọng đầy căng thẳng: “Chuẩn bị gì cơ?”

Hải ngọng tưng tửng đáp: “Chú dẹp cái bộ mặt ấy đi, làm như anh bắt nạt chú không bằng. Lúc trước đã thỏa thuận với nhau rồi còn gì, muốn chứng tỏ lòng trung thành phải thể hiện bằng hành động, hành động, chú hiểu chưa?”.

Tư Mã Khôi nói: “Này! Chỉ mình Hải ngọng nhà cậu mới dám cởi truồng trèo lên giá treo cổ thôi, chứ người khác làm gì có gan mà vừa chịu mất mặt vừa chịu mất mạng như thế! Cậu đừng dọa cậu ta nữa, hứng đầy nước vào bình quân dụng nhanh lên, lát nữa còn đi tiếp!”.

Hải ngọng nghe vậy không nhịn được cục tức, vờ như không nghe thấy, tiếp tục quay sang thủng thẳng bảo Nhị Học Sinh: “Chú đừng tưởng Tư Mã Khôi là thầy tu ăn chay niệm Phật thật nhé! Tuy cậu ta nói sẽ vào chùa hầu hạ Phật tổ, nhưng anh bảo ‘có chó nó tin!’, chú biết cậu ta giết bao nhiêu người, đốt bao nhiêu nhà rồi không? Bây giờ còn nhẫn tâm không cho cậu thời gian chuẩn bị tâm lý, đến lúc đấy kiểu gì chẳng hối thúc cậu mau lên đoạn đầu đài làm bia đỡ đạn. Anh thì cho rằng, làm như thế mới là vô nhân đạo!”, nói xong, Hải ngọng thản nhiên xách bình đi hứng nước ở cách đó không xa.

Nhị Học Sinh thì thẫn thờ ngồi phịch xuống đất, lúc này cậu ta chẳng biết nên tin ai, đành tiếp tục chọc chọc ngoáy ngoáy cái đèn hỏa diệm nhiệt độ cao như để chứng tỏ mình vẫn còn giá trị sử dụng.

Mọi người thay nhau nghỉ ngơi chốc lát trong khi đợi nước chảy đầy bình, tiếp đó tiến hành kiểm tra nhiên liệu và đạn dược còn sót lại, sau cùng, họ bắt đầu lần mò từng bước trong đường hầm tăm tối, ẩm ướt, tiến dần về phía phát ra ánh sáng. Đốm sáng càng lúc càng rõ. Thì ra, ở hố lõm của đường hầm là một đầm lầy màu xanh lấp lánh, được hình thành bởi một loại khoáng vật thiên nhiên, dưới đầm lắng đọng lượng lớn bột dạ quang, trên vòm động và khu vực xung quanh nhấp nháy từng dải đom đóm mang theo dạ quang, có dải hình con sâu minh linh(1), có dải hình chiếc đèn lồng đuôi dài, dải nào cũng ánh lên vệt xanh lục âm u, lay động, lúc sáng lúc tối. Trong đầm lầy khoáng vật có hằng hà sa số loài động thực vật hiếm gặp, chúng sinh sôi nảy nở, với nhiều hình thù kỳ quái, phần lớn nom giống như thực vật thân cỏ, nhưng thực tế, đó là các loài côn trùng ăn hợp chất hóa học. Cả hội đi vào sâu bên trong, cảm giác chẳng khác nào đang lướt trên dải ngân hà giữa trời đêm thanh vắng, khắp không gian lấp lánh, lung linh.

 

Con sâu minh linh: là một loài sâu trông giống như con nhện. Tục truyền con tò vò bắt thứ nhện này về nuôi trong tổ, khi lớn nó bay đi. Vì thế, dân gian mới có câu “Tò vò mà nuôi con nhện, đến khi nó lớn nó quyện nhau đi”, và cũng vì thế từ “minh linh” thường được dùng để chỉ con nuôi.

Bất chấp nguy hiểm, mọi người đều tắt đèn quặng, đi xuyên qua đầm lầy dưới ánh sáng dạ quang, ai nấy đều trầm trồ trước sự thần kỳ của tạo hóa, không ngờ dưới đáy vực sâu tối đen, rộng vô biên này, họ lại được chứng kiến cảnh đẹp đến ngỡ ngàng đến vậy!

Thắng Hương Lân nói: “Khả năng dưới đầm lầy là hồ acid sulfuric, nên kết cấu rất yếu, chỉ cần địa chấn xảy ra gây trào hồ acid, thì tất cả nơi đây sẽ biến mất”. Cô lại nhắc nhở mọi người, nếu hít phải nhiều bụi dạ quang, sẽ dễ bị ho dị ứng, trường hợp nặng thậm chí còn mất mạng, bởi vậy mọi người phải lấy khăn bịt mũi miệng, rồi tìm đường tắt nhanh nhất đi xuyên qua khu đầm.

Hội Tư Mã Khôi y lời, lấy khăn tay bịt kín mặt, nhưng không tìm thấy đường tắt nào gần cả, vậy là họ đành mò mẫm từng chỗ đặt chân và tiến dần về phía trước. 

Hoatanhoano.wordpress.com

Đầm lầy dạ quang kéo dài trên chục cây số trong đường hầm đá macma, trên đường đi, mọi người nhìn thấy vô số loài sinh vật phát sáng mà trước đây chưa ai từng được nhìn thấy hay nghe thấy, trong đó có một loài côn trùng có cánh, chỉ to như ngón tay cái, luôn tìm cách xông thẳng vào con người.

Tư Mã Khôi và Hải ngọng nhìn thấy loại côn trùng này, ban đầu còn tưởng là ong đất thường sống trong huyệt động, nên trong lòng cũng thấy hơi chờn. Trước đây, hai người từng theo anh Thiết Đông xuống vùng Vân Nam tham gia cải tạo lao động, hàng ngày đều phải làm việc vất vả trong lâm trường miền nhiệt đới, công việc chủ yếu là vào núi dùng xèng đào đất trồng cao su, do giới hạn của môi trường khí hậu, nên cây cao su chỉ có thể sinh trưởng trong phạm vi vĩ độ 20 Nam Bắc quanh xích đạo. Khi đó, Trung Quốc là nước nghèo cao su đích thực, ngoại trừ đảo Hải Nam trồng cao su với số lượng khiêm tốn ra, thì nguồn nguyên liệu chủ yếu là ngoại nhập, mà dựa vào việc nhập khẩu đồng nghĩa với việc bị chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động bóp cổ. Để phá vỡ sự phong tỏa kinh tế, các nông trường và binh đoàn sản xuất tỉnh Vân Nam đã phát động phong trào tự lực tự cường với tín điều “nhân định thắng thiên”, họ trồng cao su rộng rãi từ 25 độ vĩ Bắc trở về Nam, toàn bộ cây cao su giống được lấy về từ lưu vực sông Amazon ở Brasil xa xôi. Nhưng trồng mười gốc cũng chỉ sống sót được một gốc, cứ chết rồi lại trồng, trồng rồi lại chết, ngày này qua ngày khác không ngừng lặp đi lặp lại công việc đơn giản đến tẻ nhạt ấy, tỷ lệ sống sót còn chưa đến một phần trăm, gặp phải ngày mưa cầy bão xới thì tất cả đều đi tong.

Nhiệm vụ của lâm trường mà hội Tư Mã Khôi tham gia cải tạo lao động là mở núi khai hoang, chặt cây và đào hố, những nơi họ phải đặt chân tới toàn là nơi thưa vắng bóng người, lần đầu vào núi, bọn họ chỉ thấy trong rừng rậm có từng đống đất to tổ bố như nấm mồ. Có một người lớ ngớ không hiểu, lấy xẻng xúc lên, thì mặt đất bỗng nhiên lún xuống thành một cái động lớn, bên trong lúc nhúc vô số con ong rừng thân dài trên chục centimet, chúng đông nghìn nghịt, hàng ngàn hàng vạn con, chẳng ai ngờ dưới lòng đất lại có tổ ong, không những thế con nào con nấy to lớn khác thường. Người vác xẻng đào tổ ong ấy cũng là công nhân lâm trường, đã lao động kiệt sức, thêm vào đó, giữa lúc tinh thần bấn loạn, hoảng sợ nên anh này sẩy chân ngã xuống tổ ong, trong chốc lát anh ta đã bị bầy ong đang kinh động cắn chết, những người khác ở gần đó cũng bị ong đốt sưng u đầu, số người bị chết và bị thương lên đến mấy chục. Sau đó, nghe anh Thiết Đông kể, những năm năm mươi từng có hai nhà khoa học người Mỹ thâm nhập rừng rậm châu Phi, trong quá trình thám hiểm, họ phát hiện một loài ong rừng rất lớn, to gấp mấy lần đồng loại của nó, thông thường những con vật đào hang ổ dưới lòng đất đều có hàm răng đặc biệt sắc nhọn, cắn rách thịt như chơi, thậm chí có thể hạ gục cả con bò rừng ngàn cân, dân bản địa gọi giống ong này là “ong sát nhân”. Thực ra, chúng vẫn thường lảng vảng xuất hiện quang khu vực biên giới hoang vu ở Vân Nam, hơn nữa còn được phát hiện từ khá sớm, có điều người Vân Nam quen gọi chúng là ong đất, những đống đất lừng lững tựa nấm mồ kia chính là đám đất vụn tích tụ dần trong quá trình ong đất đào tổ.

Lúc ấy, Tư Mã Khôi và Hải ngọng đều từng bị ong đất đốt, tuy hai người thường xuyên vào sinh ra tử, sớm coi nhẹ chuyện sống chết, nhưng nghĩ lại lần bị ong đốt mà vẫn thấy lạnh người. Nhìn đám ong túa ra bay về phía mình, hai người giật nảy người, ba người còn lại cũng sợ hết hồn. Mãi lúc sau, cả hội mới phát hiện, đám ong đất phát sáng này không có miệng, chỉ bay lượn lòng vòng trong bóng đêm, chập chờn giống như những đốm lửa ma trơi u linh, hình như chúng không phải ong đất, mà là loài đom đóm hang động khổng lồ nào đó họ chưa từng gặp bao giờ.

Tư Mã Khôi thấy hội Thắng Hương Lân có vẻ kinh ngạc, thì xua tay ra hiệu bảo không có gì đáng ngại, rồi chỉ vài con côn trùng khác đang bay gần đó, lại ra hiệu bảo loài côn trùng này anh cũng chưa gặp bao giờ. Trấn an mọi người xong, anh tiếp tục để ý quan sát các cảnh vật dọc hai bên đường. Anh thấy trong đám thực vật đầm lầy vương dính rất nhiều mạng tơ giống như mạng nhện, bức mành đá ở trên đỉnh động cũng giăng mắc đầy loại tơ rủ phát sáng này, bên trên lưới lấm tấm phủ kín ấu trùng của loài đom đóm hang động, chu kỳ sinh mệnh của loài côn trùng phát sáng này rất ngắn ngủi. Sau khi ấu trùng thành bọ cánh cứng thi chúng đã không có miệng và cũng không thể ăn uống, chỉ có thể bay lượn giữa không trung, cuối cùng kiệt sức và rơi xuống đám thực vật đầm lầy, cái xác đã mất đi sự sống vẫn tiếp tục phát sáng, nhưng cái xác ấy cũng nhanh chóng trở thành thức ăn cho ấu trùng. Ấu trùng ăn xác xong sẽ biến thành bọ và đẻ trứng. Cứ thế đời nọ tiếp nối đời kia. 

hoatanhoano.wordpress.com

Đây là lần đầu tiên Tư Mã Khôi nhìn thấy loài côn trùng kỳ lạ như vậy, trong cổ thuật tướng vật cũng chưa bao giờ đề cập đến chúng, còn vì sao chúng có tên là đom đóm hang động, thì anh lại càng không thể giải thích được, quá trình sinh sôi nảy nở không hề tuân theo quy luật sinh lão bệnh tử thông thường, quá trình ấy tàn khốc và bi thương, có điều bởi sinh mệnh quá ngắn ngủi, nên cũng như loài phù du nguyên thủy trong rừng rậm tiền sử ở biển Âm Dụ, chúng vĩnh viễn không thể hiểu được số mệnh mà mình từng trải qua biến động như thế nào, chỉ có những người đứng ở góc độ bàng quan mới nhìn thấy mà thôi.

Nhìn những sinh vật nhỏ bé trước mắt, mọi người không khỏi dấy lên suy nghĩ: “Giá như chúng ta cũng giống như loài đom đóm kia thì tốt biết bao, chẳng cần nhìn thấu số mệnh của chính mình”, hiềm nỗi cả hội đang bịt kín mặt, nên không thể trò chuyện, cũng không tiện dừng lại ở đây lâu, nên suy nghĩ ấy ai cũng chỉ giữ trong lòng cho riêng mình, rồi lại vội vã tiếp tục cuộc hành trình.

Trong con đường hầm giữa bụng núi dưới lòng đất có những hố động khổng lồ giống như cánh cửa đá hình vòm, hố động nọ nối tiếp hố động kia, cứ cách mấy cây số lại có một đầm lầy dạ quang, chỗ nông, chỗ sâu, trong đầm mọc từng lùm thực vật chứa đầy chướng khí, còn có hổ phách trầm tích dưới những vũng lưu huỳnh sền sệt, trông chúng như những tòa mê cung khổng lồ muôn hình vạn trạng. Cả hội bước thấp bước cao đi mãi trong môi trường khắc nghiệt dưới lòng đất, mò mẫm lúc đi lúc nghỉ, cứ như vậy trong suốt mấy ngày, lương khô tìm thấy trong quả khí cầu nhiệt Corot Maar đã hết từ lâu, nhưng con đường hầm dài dặc dường như vẫn muốn kéo dài đến vô tận. Tuy Tư Mã Khôi đã chuẩn bị tâm lý trước, nhưng độ sâu của đường hầm vẫn vượt xa dự tính của anh, niềm hi vọng giờ chẳng khác nào mò kim đáy bể.

Dựa vào kinh nghiệm tích lũy từ trước đến nay, Tư Mã Khôi cố gắng dẫn đội tránh xa mọi nguy hiểm và chướng ngại có thể gặp phải, đi thẳng một mạch xuyên qua đầm lầy dạ quang. Bởi pin đã tiêu hao cạn kiệt, nên anh phải bắt mấy con đom đóm bay ở dọc đường, ngắt lấy bộ phận phát sáng, rồi thả vào hộp thiếc rỗng để thăm dò chất lượng không khí khi tiếp cận khu vực bị phong bế. Để tiết kiệm nhiên liệu đèn quặng và đuốc, dành đến lúc then chốt mới đem ra sử dụng, mọi người buộc phải nhặt nhạnh những mẩu gỗ đen vẫn chưa cháy hết thành than làm vật chiếu sáng thay thế.

Mọi người cứ đi như vậy giữa hành lang dài bất tận trong hang động dưới lòng đất, mãi đến khi trước mặt có một vách đá dày chắn ngang ngay trước mặt, vách đá được ghép bằng nhiều phiến đá cổ, xếp khít lại với nhau, không một kẽ hở nhỏ, trên mỗi phiến đá đều khắc hình thần thú, dáng dấp tướng mạo trông cổ xưa và đáng sợ. Do bề mặt đá phủ lớp địa y rất dày, nên mọi người chỉ nhìn thấy hình dáng đại khái của nó, nó khiến người ta có cảm giác như đâu đâu cũng đầy những đôi mắt âm hiểm đang dõi theo mình.

Trong phút chốc, Tư Mã Khôi không thể đoán được đây là chỗ nào, anh soi đèn quặng lên cao, phía trên tối mịt mùng không thấy điểm tận cùng, anh lại sờ lần tìm kiếm mặt cạnh của vách đá chắn ngang, thì thấy có một động đạo khoáng đạt dẫn vào sâu bên trong, hai mặt khắc đầy hình vẽ tấm bia đá của người Bái Xà. Nhìn thấy mấy hình vẽ này, tim anh chợt đập thình thịch như trống trận: “Chẳng lẽ đây chính là miếu thần?”

Từ biển Âm Dụ đến đây, mọi người đã trải qua vô số khảo nghiệm tàn khốc, đến giờ này ai nấy đều cạn kiệt sức lực, chỉ mong mau chóng được giải thoát, nhưng khi miếu thần bất thình lình đứng sờ sờ ngay trước mặt, thì trong lòng họ lại bất chợt trào lên cảm giác vừa kích động, vừa lo lắng, bất an.

Khuôn mặt chưa ai từng nhìn thấy của Nấm mồ xanh rốt cuộc có liên quan gì đến những bí mật kinh thiên động địa không được phép nhìn và cũng không được phép nói khắc trên tấm bia đá của người Bái Xà? Có thật kẻ nào nhìn thấy tấm bia của người Bái Xà, kẻ đó sẽ lập tức chết bất đắc kỳ tử? Thân phận thực sự của Nấm mồ xanh cuối cùng là gì? Nếu mọi suy đoán đều chính xác, thì chân tướng đang ở ngay trước mắt và đang nằm trong ngôi miếu thần cổ kính kia, nhưng chỉ cần giẫm một chân vào đó là vĩnh viễn không còn đường quay đầu, thứ chờ đợi mọi người ở phía trước chính là số mệnh và những điều chưa biết.

                                                          <strong style="color: #000000; line-height: 1.5em; text-align: center;">Hồi thứ tám

MIẾU THẦN

Mọi người đang ở dưới hoàng tuyền, trong khi núi từ ở 30 độ vĩ Bắc đã bị phá hủy, hiện tượng dị thường trời đất xâm thực lẫn nhau không còn xuất hiện nữa, bây giờ muốn từ cực vực lên lại mặt đất còn khó hơn bắc thang lên trời, bởi vậy, sau khi suy đi tính lại, đội khảo cổ quyết định, trước tiên phải bắt vài con đom đóm hang động còn sống, nhốt vào hộp thiếc, đục một cái lỗ nhỏ cho lưu thông không khí để chúng phát sáng thay đèn, sau đó tiến thẳng vào thông đạo dẫn đến miếu thần.

Miếu thần của người Bái Xà cổ đại cao lớn hùng vĩ, bốn mặt có bốn bức tượng khổng lồ, đứng sừng sững và đối xứng nhau. Bên trong thông đạo khoáng đạt, rộng rãi, địa thế hơi dốc xuống, dường như cả ngôi miếu thần chỉ là một cửa động, bích họa bên trong và các vết tích màu sắc của tượng đá còn lưu lại khá rõ, đề tài trong các bức họa và điêu khắc chủ yếu là các loại cầm thú kỳ dị và yêu ma thần tiên.

Tư Mã Khôi thấy mọi người kiệt sức đến độ bước chân xiêu vẹo, loạng choạng, trong khi miếu thần lại sâu hun hút và rộng mênh mông, nên anh bảo mọi người tìm góc khuất nghỉ ngơi giây lát, nhân tiện nghĩ xem làm cách nào để nhìn được tấm bia đá kỳ bí kia. Anh phân công cho Thắng Hương Lân và Cao Tư Dương kiểm đếm lại lương thực và đạn dược, còn mình và hai thành viên còn lại lục tìm mẩu xà phòng nhỏ, chia thành ba phần, lấy dao săn để tranh thủ cạo râu, con đường sắp tới sẽ dẫn đến địa ngục hay thiên đường thật khó đoán, nếu phải chết trong lúc mặt mũi bẩn thỉu, râu ria xồm xoàm thế này cũng thật khó coi. So với ba đấng nam nhi, Thắng Hương Lân và Cao Tư Dương sống ở thành phố, , nên được hưởng nền giáo dục văn minh, hai cô bài trừ mọi thói quen và hành vi mất vệ sinh, thiếu văn minh từ tận sinh lý đến tâm lý, tuy ở dưới lòng đất thiếu ánh sáng mặt trời đã bao ngày, còn phải chịu đói chịu khát, kiệt sức đến tiều tụy, bị côn trùng độc cắn chi chít khắp người, khăn áo cũng rách bươm, thân hình gầy guộc, nhưng nom hai người vẫn sạch sẽ, gọn gàng hơn hội Tư Mã Khôi nhiều.

Mọi người kiểm đếm lương thực, những thứ không cần dùng đến đều nhất loạt vứt bỏ. Tư Mã Khôi lại cho phân chia số pin đèn, đạn dược và đuốc còn lại cho các thành viên, vì thế ba lô nhẹ đi rất nhiều. Tuy lương thực và pin đèn không còn bao nhiêu, nhưng vẫn đủ để duy trì cuộc sống trong vòng dăm ba ngày, có điều đạn dùng cho khẩu Winchester và khẩu súng săn gấu Canada thì dùng phát nào là hao tổn đạn phát đấy.

Tư Mã Khôi thấy Thắng Hương Lân lo lắng vì đạn dược không đủ dùng, anh nhớ lại lúc cả hội còn ở nông trường khai hoang số 34 ở Tân Cương, rồi trải qua bao biến cố sinh tử ở kính viễn vọng Lopnor, không biết bắt đầu từ khi nào, anh không còn nhìn thấy Hương Lân cười nữa, dường như ngay cả trong giấc mộng, gương mặt cô cũng chỉ nhuốm một vẻ u sầu, đó là hệ quả do cô phải chịu đựng áp lực quá lớn trong suốt thời gian dài, mà đúng là những việc đã xảy ra thực sự vượt quá sức chịu đựng của một cô gái liễu yếu đào tơ như Hương Lân, thế là anh bèn bảo mọi người nghỉ ngơi trong thông đạo năm tiếng để lấy lại sức, rồi mới đi tiếp.

Tư Mã Khôi gác ca đầu tiên, anh ôm súng, châm điếu thuốc, dựa vào vách tường cạnh đó. Trong bóng đêm, dưới ánh sáng le lói của đom đóm, anh nhìn thấy hình người hình thú trên các bức bích họa trong miếu thần hiện ra vô cùng quái dị. Những gì anh biết về tín ngưỡng sùng bái thần bí của tộc người Bái Xà vô cùng có hạn, anh chỉ có cảm giác những truyền thuyết và ghi chép cổ quái ấy quá ư kỳ dị, chi bằng cứ đến thẳng tấm bia đá đó xem một lần có phải đơn giản hơn không. Nhưng khi chăm chú quan sát các bức bích họa trên tường, Tư Mã Khôi phát hiện nội dung của nó cũng khá trực quan, thần hệ của tộc người Bái Xà thuộc về thần hệ tiền sử, hoàn toàn khác biết với hai thần hệ lớn thời Viêm Đế và Hoàng Đế, tô tem thần thị mà họ sùng bái còn nguyên thủy cổ xưa hơn nhiều, đó là các tô tem kiểu như cây cổ thụ và mãng xà. Những dãy bích họa trước mắt đều miêu tả nguồn gốc của bí mật khác trên tấm bia đá. Người đầu tiên nói ra bí mật là một cô gái đầu người mình rắn, cô nằm phủ phục ở một nơi trong hang động, dường như đang mở miệng thầm thì với mấy vị vương gia trong tộc người Bái Xà đứng ở bên cạnh, họ chăm chú lắng nghe từng lời của cô gái.

Tư Mã Khôi đang tập trung quan sát, đột nhiên anh nghe thấy Cao Tư Dương nhỏ giọng hỏi: “Yêu quái đầu người mình rắn… sao lại biết nói chuyện nhỉ?”. Thì ra trong lòng Cao Tư Dương cũng đang bề bộn những nỗi lo lắng không yên, nên không thể chợp mắt nổi, cô ngồi dậy quan sát các bức bích họa khắc trên vách tường của miếu thần.

Tư Mã Khôi nói: “Có lẽ người cổ đại có một loài rắn đầu giống đầu người, gọi là nhân xà, nó có thể nói được tiếng người, sau đó bị tuyệt chủng không còn dấu tích gì nữa”.

Hải ngọng thả lỏng đầu óc, đánh một giấc thật đã. Nhị Học Sinh kiệt sức, hai mí mắt dính chặt vào nhau, không thể cạy ra nổi, còn Thắng Hương Lân không cách nào cố ru mình vào giấc ngủ được, cô nói: “Tôi lại không nghĩ cô gái ấy là quái vật, cô ấy là người rắn”.

Thắng Hương Lân vừa nhắc, Tư Mã Khôi liên sực tỉnh. Nghe đồn, thời Hạ Thương có truyền thuyết về người rắn, cũng có nơi gọi nó là “xà nữ”, nhưng sau thời Xuân Thu chiến quốc thì bị tuyệt diệt. Thực ra xà nữ cũng là người, đồng thời chỉ thấy có giống cái, không có giống đực. Lúc mới sinh ra, xà nữ cũng bình thường như bao em bé khác, nhưng đến thời kỳ phát dục trưởng thành, thì các khớp xương trên người bắt đầu dần dần thoái hóa, cuối cùng chỉ còn sót lại cột sống và xương cổ, từ đó người con gái ấy chỉ có thể trườn bò giống như loài rắn, lớp da thịt của tứ chi vẫn còn tồn tại, nhưng não thì hoàn toàn biến mất, nó không biết khóc, cũng chẳng biết cười, càng không thể nói được. Có lẽ đó là một căn bệnh thoái hóa trở về thời thủy tổ quái lạ và hiếm gặp, chứ không liên quan gì đến loài rắn. Người xưa thường mê tín thái quá, họ tin rằng đó là dấu hiệu yêu dị của việc người hóa rắn.

Rất có khả năng, cô gái đầu người mình rắn trên bức họa trong miếu thần chỉ là sản phẩm của sự tô vẽ về bí mật của xà nữ. Trong nhật ký của đội thám hiểm Corot Maar cũng có tài liệu tương tự nói về việc này, nhưng xà nữ trông có vẻ giống cương thi vô tri vô giác, làm sao có thể nói ra bí mật kinh thiên động địa gì được chứ?

Tư Mã Khôi kể chuyện về xà nữ cho Cao Tư Dương nghe, rồi quay sang nêu thắc mắc của mình với Thắng Hương Lân.

Thắng Hương Lân xách hộp thiếc có mấy con đom đóm bên trong, giơ lên cao, nửa trên của bức tranh hiện ra trước mắt. Thì ra, phía đỉnh đầu của xà nữ và mấy vị vương gia chính là thần Vũ Xà đang ở trong biển sương.

Tư Mã Khôi bỗng nhiên sáng tỏ: “Chẳng lẽ vị thần cổ đại mà tộc người Bái Xà tín ngưỡng lại truyền tin thông qua nữ xà? Những chuyện ma quỷ thực ra chỉ là hư cấu, thần Vũ Xà chẳng qua là một tô tem cổ xưa, dường như bức bích họa muốn kể rằng, xà nữ giống như xác chết biết đi kia chính là chiếc cầu nối để giao tiếp giữa thế giới hiện thực và thế giới hư vô, nó đã nói ra một bí mật vô cùng khiếp đảm, bí mật ấy được lần lượt kể cho năm vị vương gia của tộc người Bái Xà nghe, nhưng mỗi người chỉ được nghe một phần khác nhau. Tư Mã Khôi lại nhìn bức bích họa bên cạnh, nội dung đại khái là bí mật này truyền đến hậu thế, cũng lần lượt do chín vị vương gia nắm giữ, cuối cùng toàn bộ bí mật đó được khắc trên tấm bia đặt trong miếu thần. Lúc khắc bia, người ta che kín phần người trước đã khắc, người sau chỉ được phép tiếp tục khắc phần bí mật mà mình nắm giữ, bởi vì bí mật này không được phép nói, cũng không được phép nhìn. Bất kỳ kẻ nào cả gan xem trộm, người đó sẽ sợ hãi đến nỗi lăn ra chểt tức thì. Nội dung bức bích họa ở đây hoàn toàn trùng khớp với nội dung bích họa khắc trong thành cổ, có điều ngôi miếu thần này dường như không hề thờ phụng vị thần nào, tác dụng duy nhất của nó là trở thành nơi đặt tấm bia đá. Bức bích họa này cũng chứng tỏ lời nói của Triệu Lão Biệt hoàn toàn là sự thật, bí mật ghi chép trên tấm bia đá chỉ có mấy chữ, nhưng được khắc lặp đi lặp lại rất nhiều lần.

Thắng Hương Lân thầm nghĩ, bích họa trong miếu thần nhiều vô số, những gì tầm mắt họ có thể nhìn thấy chỉ là một bộ phận nhỏ, nhưng cũng có thế thấy người Bái Xà vừa kính cẩn vừa sợ hãi trước bí mật khắc trên tấm bia, có điều tại sao tấm bia ấy lại bị chìm dưới lòng đất trong ngôi miếu thần nhỉ? Chẳng lẽ ngôi miếu thần này chứa đựng điều đặc biệt gì sao? Hơn nữa, Nấm mồ xanh sẵn sàng trả mọi giá để tìm ra tấm bia đá vùi sâu dưới lòng đất, chắc chắn hắn có mưu đồ gì đó mà người thường không thể đoán ra nổi. Chúng ta đều cho rằng bí mật trên tấm bia đá có liên quan đến Nấm mồ xanh, chẳng lẽ bí mật ấy lại chính là thân thế của Nấm mồ xanh? Có điều, nghĩ kỹ lại, khả năng này gần như không thể xảy ra, bời vì tấm bia đá của người Bái Xà đã bị hủy diệt theo khói mây lịch sử. Nếu Nấm mồ xanh không ra tay hành động liên tiếp như vậy, thì chẳng ai ngờ dưới lòng đất sâu lại có cổ vật này. Dường như Nấm mồ xanh nắm rõ tấm bia đá của người Bái Xà như trong lòng bàn tay, thậm chí còn tường tận hơn cả những ghi chép trên bích họa ở nơi này này. Hắn đã biết bí mật khắc trên tấm bia đá, thì hẳn phải biết lời nguyền về cái chết bất đắc kỳ tử với bất cứ kẻ nào có ý đồ nhòm ngó nó, vậy mà tại sạo hắn lại liều mạng lặn lội mò xuống tận lòng đất để kiếm tìm nó? Rốt cuộc, tấm bia cổ chỉ là một tảng đá khổng lồ, mấy chữ khắc trên đó mới là mấu chốt vấn đề. Thực ra, chỉ cần giải được bí mật khắc trên phiến đá, thì mọi ẩn số đan cài chồng chéo lên nhau sẽ tự khắc có đáp án, vấn đề là hễ nhìn vào bí mật đó, là lập tức lăn ra chết, giờ phải làm sao mới vẹn toàn được đây?

Cao Tư Dương lại nghĩ, đội thông tin của họ vốn có ba người, định đến tháp canh ở Thần Nông Giá để sửa đường dây điện thoại, kết quả bất ngờ bị cuốn vào chuyện của Nấm mồ xanh, bây giờ lại ở dưới vực sâu cách mặt đất cả chục ngàn mét, chỉ sợ phen này vĩnh viễn chẳng còn nhìn thấy hi vọng sống sót trở về nữa. Cao Tư Dương xuất thân trong gia đình quân nhân, từ trước đến giờ luôn hãnh diện với bộ quân phục mặc trên mình, tuy bên ngoài cô luôn tỏ ra kiên cường, dũng cảm, nhưng tận sậu thẳm trong lòng, cô vẫn không thể át chế được nỗi sợ hãi và tuyệt vọng. Cô biết hàng năm vẫn có vài ba trường hợp mất tích trong núi rừng Đại Thần Nông Giá ngút ngàn này mà không rõ nguyên nhân, họ biến mất như một làn khói nhẹ bị gió thổi tan, vĩnh viễn không bao giờ trở lại mà chẳng một ai buồn bận tâm kiếm tìm, bởi không ai và không có cách gì có thể tìm thấy họ giữa cánh rừng già mênh mông. Những sinh mệnh đang ấm hơi thở cuộc sống cuối cùng chỉ lưu lại vỏn vẹn hai chữ “mất tích” khô cứng và lạnh lùng trên bảng thống kê hàng năm. Cao Tư Dương cũng đã chuẩn bị tâm lý từ trước, hơn nữa lại đặt niềm tin tuyệt đối vào hội Tư Mã Khôi, có điều khi tới ngôi miếu này, cô bỗng nảy sinh một dự cảm không lành khó diễn tả thành lời, dường như một trận gió tanh mưa máu khiến người ta rùng rợn đang sắp sửa ập đến, lòng cô cồn cào sóng cuộn, nên nhất thời không thể ngủ được. Thế là Cao Tư Dương bảo sẽ thay Tư Mã Khôi gác ca thứ hai, rồi cứ thế thất thần nhìn chằm chằm vào bích họa vẽ trên vách tường của miếu thần.

Tư Mã Khôi cũng không thể ngủ ngon, mọi người thay phiên nhau ngả lưng mấy tiếng đồng hồ rồi bắt đầu chuẩn bị lên đường. 

hoatanhoano.wordpress.com

Nhị Học Sinh lo mình bị ép phải nhìn tấm bia đá, nên cậu ta bảo với Tư Mã Khôi, chẳng mấy chốc nữa sẽ sửa xong đèn hỏa diệm nhiệt độ cao thôi, chỉ cần cho cậu thêm chút thời gian nữa là được.

Tư Mã Khôi nhận ra ngay ý của Nhị Học Sinh. Quả vậy, lúc này không có đạn dược, nếu muốn phá hủy tấm bia đá, thì cần phải dựa vào đèn hỏa diệm nhiệt độ cao.

Hải ngọng thấy bộ dạng tham sống sợ chết của Nhị Học Sinh thì rất chối mắt, anh hỏi: “Nếu thằng Khôi ép chú phải nhìn tấm bia đá, thì chú tính sao?”

Nhị Học Sinh im lặng hồi lâu, không biết trả lời thế nào, chỉ run rẩy hỏi lại Hải ngọng: “Thế… thế… tôi nên tính sao?”

Hải ngọng nói: “Chưa gì đã sợ vãi tè ra quần, miệng lắp ba lắp bắp. Anh thấy, khéo đến lúc ấy chú mày chẳng cần nói gì, mà sẽ khóc như mưa như gió, dù sao bản thân việc khóc cũng là một sự tố cáo không lời, là hình thức biểu hiện cao nhất của sự đau khổ…”

Lúc này, Tư Mã Khôi đã soi đèn quặng đến điểm tận cùng, dường như thông đạo bị vách đá chắn lại, không rõ có phải vách đá đó chính là tấm bia đá của người Bái xà hay không, anh xua tay bảo Hải ngọng đừng nói năng lung tung nữa.

Mọi người không dám liều lĩnh tiến lại gần mà dừng quan sát từ xa, họ thấy bên trong thông đạo khoáng đạt chất đầy những tảng đá lớn đen sì sì, bịt kín lối ra, những tảng đá đen này rất to và nặng, lại vô cùng kiên cố, đủ hình đủ dạng nhưng ở các góc đều có khe hở và trên mặt đất họ thấy còn sót lại chút cát đen.

Cao Tư Dương nói: “Trong thông đạo của miếu thần lấp đầy đá macma thế này, chắc là không muốn để người ngoài xâm nhập vào đây mà”.

Tư Mã Khôi lại cho rằng chưa hẳn là vậy, những khối đá đen rõ ràng chưa hề được đẽo gọt, nếu không muốn người ngoài xâm nhập vào trong, thì người ta không thể để lại những khe hở to như vậy được. Có lẽ những khối đá này không phải dùng để phòng bị, trông nó giống như ngăn không cho vật bên trong thoát ra ngoài, có lẽ thứ bị nhốt ở bên trong có cái đầu rất to, xem ra trong miếu thần không chỉ có một mình tấm bia đá của người Bái Xà, ở nơi sâu nhất vẫn còn thứ gì khác chăng? Nói rồi, Tư Mã Khôi lấy hết can đảm, chui qua khe hở giữa các khối đá. Thông đạo tiếp tục vươn dài chếch xuống phía dưới, Tư Mã Khôi mới đi được hơn chục bước mà lòng đã thấy rờn rợn, anh tự hỏi rốt cuộc phía dưới miêu thần còn sâu bao nhiêu? Những tảng đá khổng lồ trong thông đạo dùng để ngăn cản vật gì thoát ra ngoài?

Hồi thứ chín

TẤM BIA ĐÁ

Miếu thần giống như một hang động hình ống, thông đạo bên trong bị những khối đá khổng lồ chắn ngang, mọi người đành chui qua mấy khe hở giữa các khối đá, thâm nhập vào bên trong thạch điện, phần thông đạo nằm ở phía đối điện với thạch điện lại tiếp tục vươn dài xuống dưới.

Mọi người ngẩng đầu, hướng đèn quặng soi lên vách đá, những bức phù điêu của người Bái Xà hiện ra với đủ hình thái quái dị, trong bức phù điêu có vô số hình người xếp thành hàng ngũ nghiêm trang, đứng nghiêng người, mặt hướng theo chiều dốc của thông đạo. Trên mặt đất ngổn ngang toàn chum vò bằng gốm đất, phủ đầy bột đá ráp màu đen, chỉ cần chạm nhẹ là vỡ tan tành, lộ ra cỗ thi thể khô quắt ngồi bên trong và rất nhiều minh khí bằng vàng ngọc, bề mặt chạm khắc các họa tiết cổ phác hình chim bướm, cá rùa…

Hải ngọng nói: ‘‘Mấy món đồ này khá cổ đây, ai từng nói ấy nhỉ – cướp đồ của người chết thì không tính là ăn cướp – tôi nẫng vài món về kính biếu lão Lưu Hoại Thủy mới được…”, nói xong anh liền thò tay định nhặt.

Thắng Hương Lân thấy vậy vội ngăn lại: ‘Trên ngọc có vết máu, tốt nhất anh đừng sờ vào, kẻo rước họa vào thân đấy!”

Tư Mã Khôi ngồi xổm xuống quan sát, phát hiện vân ngọc cổ có sắc hồng tươi, không giống vết máu của tử thi. Thông thường, sau khi ngọc ra khỏi lòng đất, nếu ngâm trong nước thì thường có màu trắng vân sương, nếu chìm trong đất sẽ có màu vàng, nếu ngâm trong thủy ngân sẽ chuyển màu đen, nếu ngâm đồng ngọc sẽ có màu lục, còn nếu nhiễm khí tử thi thì nó sẽ chuyển màu tím đen. Trong thân ngọc có vô số lỗ nhỏ, nếu quanh năm vùi dưới lòng đất hoặc chôn dưới mộ cổ, ngọc sẽ nhiễm sắc theo môi trường xung quanh, đặc biệt là miếng ngọc đeo trên người tử thi. Trong quá trình tử thi rữa nát, tử khí sẽ truyền nhiễm, xâm lấn, khiến ngọc xuất hiện các vết đốm màu tím thẫm, tục gọi là “thi tẩm”. Nếu trên ngọc khí có màu đỏ, điều đó chứng tỏ xác chết đựng trong vò gốm đều bị trói, đút vào trong vò, rồi bị ai đó dùng dao nhẫn tâm chặt nạn nhân ra làm mấy khúc khi người đó vẫn còn sống, máu tươi chảy ra, thấm vào trong ngọc, và biến mảnh ngọc đó thành loại ngọc “huyết tẩm”. Xem ra, rất nhiều bình trong thạch điện này đều là tế phẩm của miếu thần, họ bị giết chết.

Cao Tư Dương thắc mắc: “Trong ngôi miếu thần này không hề có tượng thần, vậy những đổ tế lễ này dùng để hiến tế cho tấm bia đá sao? Hơn nữa, sao thông đạo trong miếu thần lại sâu thế? Lẽ nào đây là động không đáy?”

Tư Mã Khôi nói: “Cô hỏi thế làm tôi nhớ lại lúc Triệu Lão Biệt trong biển cát ở cực vực từng nói ở đây có một cái động không đáy. Tất nhiên, khi ấy lão ta cũng không biết tường tận, lão chỉ kể lại lời đồn đại không rõ thực hư thế nào mà thôi”.

Nhị Học Sinh nói với hội Tư Mã Khôi, trên đời quả thực có tồn tại “động không đáy”, cậu ta từng đọc một tài liệu trong thư viện nói rằng, Hi Lạp có một hang động lớn trong núi ở gần biển, bên trong sâu không thấy đáy, hàng ngày khi triều dâng, nước biển lại chảy ào ào như trút vào trong miệng dộng. Người ta suy đoán, hàng ngày có khoảng ba, bốn vạn tấn nước biển chảy vào huyệt động. Điều kỳ lạ là, nước biến chảy nhiều như thế, nhưng chưa bao giờ có thể làm đầy miệng động, cũng không thấy nước tràn ra ngoài. Người ta đoán, nơi sâu của hang động này có địa mạo Karst được hình thành bởi đá vôi, địa hình tương tự với động thoát nước hình phễu dựng đứng, bất kể bao nhiêu nước biển cũng không thể đổ đầy. Có điều thủy hệ trong địa mạo Karst có phức tạp đến đâu, thì chắc chắn cũng tồn tại một lối thoát nước. Vậy rốt cuộc, lượng nước lớn như vậy đổ vào huyệt động đã chảy đi đâu? Để giải đáp nghi vấn này, có một nhà thám trắc đã tạo ra hàng chục ngàn phao tiêu bằng cao su mang theo những kí hiệu đặc biệt, rồi ném xuống biển theo từng đợt, để chúng bị sóng triều cuốn xuống động, chỉ cần một phao tiêu xuất hiện ở một nơi khác, ông sẽ phát hiện thấy lối thoát nước của động không đáy, nhưng hàng chục ngàn phao tiêu kia đi vào dường như đều đã bị động không đáy nuốt chửng, cho đến ngày nay, người ta vẫn không thể tìm thấy, dẫu chỉ là một cái phao tiêu trong số đó.

Tư Mã Khôi nói: “Kết cấu địa tầng ở đây vô cùng phức tạp, dù là địa mạo Karst cũng có thể tồn tại những vũng mù không có lối thoát ra ngoài, nói không chừng những phao tiêu kia đã trôi đến nơi đó rồi cũng nên. Tất nhiên, điều này chưa thể chứng minh trên thế giới tồn tại động không đáy. Tôi cảm thấy biển Âm Dụ ở vành đai 30 độ vĩ Bắc cũng là động không đáy không có lối ra, nhưng thực ra nó vẫn không hẳn là không có đáy một cách đúng nghĩa, vị trí hiện tại của đội khảo cổ còn nằm bên dưới xung quyền, nếu còn xuống sâu hơn nữa sẽ không thấy nước ngầm và tầng đá nữa, mà chỉ có đại dương mênh mông được hình thành bởi thể khí nóng bỏng, nó có thể biến vạn vật trên đời tan tành thành mây khói, bởi thế miếu thần chắc chắn không thể là động không đáy, có lẽ chỉ cần đi thêm mấy bước nữa là tới đáy thôi”.

Cao Tư Dương gật gù bảo: “Thì ra vậy, tấm bia Bái Xà nằm ở điểm tận cùng của thông đạo. Lẽ nào bao nhiêu bộ xương khô được khâm liệm trong vò gốm là dùng để tế lễ tấm bia đó sao?” 

hoatanhoano.wordpress.com

Thắng Hương Lân nói: “Có lẽ trong miếu còn tồn tại thứ gì khác, chỉ như vậy mới có thể giải thích vì sao họ lại lấy đá chặn thông đạo lại, bởi tấm bia đá không thể tự mình mọc chân chạy mất được”.

Cao Tư Dương nghe Thắng Hương Lân giải thích thì bỗng thấy rùng mình, không hiểu ở nơi sâu trong miếu thần còn có thứ gì khác được chứ? Lẽ nào là “xà nữ” mà bức bích họa đã vẽ?

Tư Mã Khôi cũng không dám chắc chuyện xà nữ của Cao Tư Dương có khả năng xảy ra hay không, vì ngay cả việc miếu thần của người Bái Xà cổ đại đã tồn tại bao nhiêu niên đại cũng nào ai biết? Từ trước khi Vũ Vương đúc đỉnh đồng Đồ Sơn đến nay, tộc người Bái Xà đã trải qua hơn 4700 năm, chưa nói đến xà nữ, mà bất kỳ thể loại yêu quái nào cũng không thể sống lâu như vậy được.

Tư Mã Khôi lại không lo sẽ gặp phải nguy hiểm trong miếu thần, bắt đầu từ khi đào thoát khỏi khe cốc khổng lồ trong núi Dã Nhân, những ngày bất thường đối với anh đã trở nên quá đỗi bình thường. Chỉ có điều, sau khi gặp được chân thân của Triệu Lão Biệt dưới lòng đất, mọi sự việc dường như đều tiến triển thuận lợi ngoài sức tưởng tượng của họ, đầu tiên là việc cả hội tìm thấy trang thiết bị vật tư, lương thực bổ sung của một đội thám hiểm khác trên khinh khí cầu nhiệt bị lâm nạn, sau đó đi xuyên qua mê cung với vô số đụn pha lê giao thoa chằng chịt, rồi lại may mắn thoát thân khỏi Tử thành chôn thây của tộc người Bái Xà, tiến vào đường hầm nằm dưới đáy dãy núi rồi đi một mạch đến đây và tìm thấy miếu thần. Tuy cả hội chịu không ít gian nan vất vả cùng bao phen sợ hãi, hoảng loạn, nhưng so với những gì trải qua trước đây thì như vậy vẫn quá thuận lợi, mà ở nơi đây mọi sự bình thường lại là điều bất thường lớn nhất. Lẽ nào lúc này mọi hành động của đội khảo cổ trong miếu thần đều nằm trong vòng kiểm soát của Nấm mồ xanh? Bởi chẳng ai có thể lường trước được kết quả của định luật Murphy – càng sợ điều gì, điều ấy lại càng dễ xảy ra – trong cuộc đời vĩnh viễn không thể tránh được hai chữ “rủi ro”.

Hải ngọng phản đối: “Không phải! Chúng ta tuy đói nhưng đầu gối chưa bao giờ chịu bò, cũng chưa từng phản bội nhân dân hay phản bội Đảng, chưa bao giờ làm chuyện gì xấu xa, vậy sao kiếp này chúng ta phải chống nạng mò xuống hố quặng bới mấy viên than ghẻ còn sót lại này? Ông trời còn chẳng nỡ để con sẻ mù đói ăn nữa là, ai quy định chúng ta không có ngày gặp vận may? Theo tớ, nhân lúc vận may đang đến, chúng ta đừng chần chừ nữa, mau phá hủy tảng đá đó đi kẻo đêm dài lại lắm mộng!” 

hoatanhoano.wordpress.com

Tư Mã Khôi thấy Hải ngọng xách súng định chạy về phía trước, thì lập tức giơ tay giật lại, chửi: “Tiên sư Hải ngọng, cậu vội đi ăn chém thế cơ à? Chốc nữa, tôi chưa đồng ý, cấm ai được động vào tấm bia đá đấy!”

Tư Mã Khôi biết bí mật khắc trên tấm bia Bái Xà là manh mối duy nhất giải đáp vô số ẩn số, nhưng anh thực sự không thể tưởng tưởng nổi trong đó ẩn chứa mối logic cổ quái kỳ dị như thế nào. Giờ đây, hội anh chỉ có thể đi đến đâu hay đến đó. Đầu tiên, anh đi xuyên qua đường hầm của thạch điện, ở nơi sâu hơn lại là một tòa đại điện tương tự như lúc trước, sau đó họ lại đi khoảng trăm bước, trèo qua vài tảng đá đen chắn đường và tiến vào đại điện ở tầng thứ ba phía dưới cổng miếu thần. Nơi này địa hình lún xuống theo chiều thẳng đứng và chính là hốc macma rỗng sâu nhất trong rốn núi, bên trong đủ sức chứa một sân bóng đá, ở giữa có một thanh xà đá dài chừng trăm mét, có thể đi qua được, ở đầu bên kia là một phiến đá bằng phẳng khổng lồ hình chữ nhật hiện lên sừng sững trên vách, chiều rộng và độ cao đều tầm vài chục mét. Mặt đá xanh thẫm, vân nổi loang lổ, phủ đầy những vết nứt hình mai rùa, nông sâu không đều nhau, xung quanh khắc hình dị thú, đó chính là tấm bia Bái Xà khiến người ta chết khiếp vì sợ.

Quả nhiên hội Tư Mã Khôi đã nhìn thấy tấm bia đá nằm ở nơi sâu trong miếu thần, bí mật cổ xưa đang gần ngay trước mắt, ngón tay ai nấy đều không tự chủ run rẩy từng hồi, cũng chẳng rõ là do lúc này đang kích động hay căng thẳng. Họ chiếu chùm sáng đèn quặng lên tấm bia Bái Xà, nhưng vẫn giữ khoảng cách nhất định để không nhìn rõ dấu vết của các văn tự trên đó, họ không dám bước lại gần nửa bước, mà chỉ dừng lại quan sát từ xa vị trí và hình dáng đại khái của tấm bia đá.

Tấm bia đá của người Bái Xà là phiến đá khổng lồ khắc đầy chữ triện cổ, mỗi chữ to như cái đấu, nét chữ tựa con bọ nhậy, cũng không giống với loại bia đá mà con bí hí cõng trên lưng mà hậu thế vẫn thấy, người xưa chỉ tận dụng phiến đá bằng phẳng có sẵn dưới lòng đất để khắc chữ lên mà thôi, tuy xung quanh cũng trang trí phù điêu mặt thú, nhưng vẻ nguyên thủy bề ngoài cùa phiến đá nham thạch tự nhiên thì vẫn chưa được mài giũa hoàn chỉnh nên trông nó vẫn nặng nề và thô sơ. Do văn tự được khắc rất sâu lên tấm bia, nên nhìn từ xa, nom nó giống vô số hố lõm chi chít, thời gian và đất bụi vẫn chưa thể mài mòn và che phủ lên nó. Thạch điện tối om làm người ta có cảm giác đè nén muốn ngộp thở.

Hải ngọng thấy tấm bia Bái Xà không có điểm gì khác thường, thì soi đèn quặng lên thanh xà đá nhìn ngó, anh phát hiện hài cốt chất đống như núi dưới đáy động đen ngòm, anh rùng mình, hít ngược một hơi lạnh, xem ra phỏng đoán lúc trước của cả hội không sai, tấm bia đá Bái Xà này đúng là tấm bia bị nguyền rủa.

Tư Mã Khôi cũng nhìn xuống theo, anh không thể hiểu tại sao bí mật trên tấm bia đá lại có khả năng tước đi sinh mạng của con người, nhớ thời kỳ đánh nhau ở Miến Điện, nghe Chu Tử Tài, một chiến hữu từng tham gia lao động thời vụ ở khu quặng Vân Nam nói rằng, ở biên giới Vân Nam có một khe núi gọi là khe Đà Mộc với địa mạo rất kỳ quái. Theo tiếng bản địa thì khe Đà Mộc có nghĩa là khe núi mọc nhiều cỏ dại, sau này người ta cho đào một mỏ quặng trong khe núi. Do đãi ngộ công nhân khai thác mỏ khá tốt, một năm phát hai bộ đồng phục, mỗi tháng cho một túi đường trắng với nửa cân thịt lợn gọi là quà bồi dưỡng, không những vậy, công việc ở đây cũng không nặng nhọc lắm, cho nên các thành viên ở nông trường và binh đoàn tranh nhau đi. Nhưng công việc ở đây không giống với công việc đào than, đối với công việc đào than, bạn chỉ cần nhìn bằng mắt thường là phát hiện thấy tầng than ở dưới giếng quặng, nhưng hố quặng ở khe Đà Mộc thì lại cần dùng một thiết bị hình vuông, đen sì sì đi khắp nơi đo đạc, nghe chiếc hộp phát ra âm thanh cảnh báo tút tút, thì lấy cuốc đào lên, thời gian lâu dần bắt đầu có người xuất hiện hiện tượng buồn nôn, chóng mặt, rồi rụng tóc, rụng từng nắm một. Lúc đó, người ta đề xướng tinh thần “thứ nhất không sợ khổ, thứ hai không sợ chết”, đàn bà ở nông thôn sinh con không cần đi bệnh viện, thì rụng mấy sợi tóc sao có thể coi là bệnh được? May mà trong những thành viên tham gia khai thác quặng ở khe Đà Mộc còn có một thầy giáo từng giảng dạy ở Học viện địa chất Bắc Kinh, bị đẩy về đó cải tạo lao động. Ông khá thân thiết với Chu Tử Tài, thường ngày Tài cũng rất quan tâm đến ông, tình cảm của hai người chẳng khác nào tình thầy trò. Một ngày, thầy dạy địa chất kéo Chu Tử Tài ra một chỗ vắng người, thì thầm bảo: “Chỗ này không ở được lâu đâu, nếu cậu có thể đi, thì mau đi đi!”. Chu Tử Tài cũng sớm cảm thấy nơi đây có gì đó bất thường, nhưng không biết cụ thể là ở điểm nào, anh ta bèn hỏi thầy giáo xem tóm lại có chuyện gì. Thầy giáo nói: “Chúng ta đang ở trong hố quặng Uranium, phóng xạ trong giếng cực kỳ mạnh, cho nên cỏ trên mặt đất không thể mọc được nửa cọng, thiết bị thám trắc lúc thường mình hay dùng gọi là thiết bị đo tia

gama, tia xạ gama vượt quá năm mươi, sẽ gây ra nguy hiểm cho cơ thể con người. Chưa nói đến độ phóng xạ trong giếng cao bao nhiêu, chỉ riêng ở giường ngủ dưới lòng đất, thì độ phóng xạ đã vượt quá hai trăm, tiếp tục ở lại trong mỏ quặng nhất định sẽ mất mạng”. Thầy giáo địa chất nọ tuổi đã ngoại ngũ tuần, ông chấp nhận số phận, không muốn chạy trốn, bởi vậy chỉ tiết lộ bí mật cho một mình Chu Tử Tài, ông thấy cậu thanh niên này tuy trẻ tuổi, nhưng chắc sẽ có tiền đồ. Sau khi nghe được thông tin ấy, anh ta liền chạy đến Miến Điện tham gia đội du kích quân Cộng hòa nhân dân, sau đó anh cũng không bao giờ gặp lại người thầy giáo tốt bụng ấy nữa.

Tư Mã Khôi nghĩ đến đây thì nêu nghi vấn với mọi người: Phải chăng tấm bia đá Bái Xà là một loại tầng quặng nằm trong lòng đất giống như mỏ quặng ở khe Đà Mộc? Không những vậy phóng xạ còn cực mạnh, có thể nhanh chóng khiến con người tử vong, đáng tiếc đội khảo cổ không có thiết bị thám trắc đo tia gama ở đây nên không chứng thực được điều này.

Thắng Hương Lân nói: “Anh không cần lo lắng về chi tiết này, phía dưới tấm bia đá có vết rêu mọc, điều đó cho thấy đây không phải tảng đá hàm chứa tia phóng xạ, riêng điểm này tôi có thể bảo đảm”.

Tư Mã Khôi nghe vậy liền gật đầu, lòng thầm nghĩ: “Vậy tấm bia mang đến lời nguyền chết chóc này cũng chỉ là ở bí mật khắc trên nó. Nếu nhìn thấy nó mà lập tức lăn ra chết, thì chúng ta phải thăm dò bí mật ấy bằng cách nào đây?”

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: