Phần Không Tên 9

bên phải Kim tứ đồ. Ta sẽ giải thích chi tiết từng quy tắc kiểm soát đầu tư dể con có

thể hiểu được cách suy nghĩ của nhà đầu tư lão luyện."

Mười quy tắc kiểm soát đầu tư

1. Kiểm soát chình mình

2. Kiểm soát thu / chi trên tài sản / nợ

3. Kiểm soát việc quản lý đầu tư

4. Kiểm soát về thuế

5. Kiểm soát khi nào nên bán và khi nào nên mua

6. Kiểm soát các giao dịch thông qua môi giới

7. Kiểm soát về hình thức kinh doanh, thời gian và đặc điểm

8. Kiểm soát các điều kiện, điều khoản hợp đồng

9. Kiểm soát nguồn tiếp cận thông tín

10.Kiểm soát về các hoạt động từ thiện và phân chia của cải

"Cần hiểu rõ là nhà đầu tư lão luyện có thể chọn không nhất thiết đạt đến cấp bậc

đầu tư bên trong hay thực thụ. Thay vào đó, họ chỉ cần hiểu được ích lợi của mỗi quy

tắc kiểm soát,

" Người nói. "Họ càng có nhiều cách kiểm soát chừng nào thì cơ hội đầu

tư của họ sẽ càng ít rủi ro chừng nấy."

QUY TẮC KIỂM SOÁT ĐẦU TƯ #1 – KIỂM SQÁT CHÍNH MÌNH

"Kiểm soát quan trọng nhất mà con cần phải có là kiểm soát chính mình." Điều đó

quyết định sự thành công trong đầu tư của bạn và cũng là lý do tại sao mà tôi đã dành

trọn phần 1 của quyển sách bàn về chủ đề này. Người bố giàu thường nói,

"Không

phải cơ hội đầu tư là rủi ro, mà chính bản thân người đầu tư mới là rủi ro."

Ở trường hầu hết chúng ta đều được dạy để trở thành người lao động, được dạy chỉ

có một câu trả lời đúng duy nhất và phạm lỗi là một điều phải tránh. Chúng ta không

được dạy về những hiểu biết tài chính. Do đó, bạn có thể cần nhiều thời gian và công

sức dể thay đổi nếp tư duy của mình và tích lũy sự hiểu biết tài chính.

Nhà đầu tư lão luyện biết rằng có nhiều câu trả lời đúng, biết quá trình học hỏi tốt

nhất là phải kinh qua những sai lầm của mình, và sự hiểu biết tài chính là cốt lõi của

mọi sự thành công. Họ biết rõ tình trạng tài chính của mình, và họ biết mỗi quyết định

tài chính của mình sẽ ảnh hưởng thế nào đến tình trạng tiền bạc của họ.

Để trở nên giàu có, bạn phải tự huấn luyện cho mình cách suy nghĩ như một

người giậu.

QUỴ TẮC KIỂM SOÁT ĐẦU TƯ #2 - KlỂM SOÁT THU / CHI TRÊN TÀI SẢN / NỢ

Sự kiểm soát này được phát triển qua sự hiểu biết về tiền bạc. Người bố giàu đã

dạy tôi ba cấu trúc tiền bạc của người nghèo, người trung lưu và người giàu. Ngay từ

nhỏ, tôi đã quyết định phải có cấu trúc tiền bạc của người giàu.

Đây là cấu trúc tiền bạc của người nghèo:

Người nghèo chi tiêu mỗi đồng thu nhập kiếm được - họ không có tài sản và cũng

không mắc nợ.

Đây là cấu trúc tiền bạc của người trung lưu:

Những người trưng lưu càng tích lũy nhiều nợ hơn khi họ thành công hơn. Lương

tăng cho phép họ có thể vay ngân hàng được nhiều hơn cho các hạng mục sinh hoạt

như ô tô, nhà nghi mát, du thuyền, V.V. Thu nhập từ lương họ dùng để trang trải các

chi phí sinh hoạt và trả nợ tiêu dùng.

Khi thu nhập tăng, nợ của họ càng tăng.

Còn đây là cấu trúc tiền bạc của người giàu:

Người giàu sở hữu nhiều tài sản làm việc lại cho họ. Họ có khả năng kiểm soát chi

phí và tập trung tích lũy hay xây dựng tài sản. Gác doanh nghiệp của họ trả phần lớn

các chi phí cho họ, và họ có rất ít nợ tiêu dùng.

Bạn cũng có thể có một cấu trúc tiền bạc hỗn hợp giữa 3 cấu trúc này. Bản tóm tắt

tài chính của bạn sẽ nói lên được điều gì? Bạn có khả năng kiểm soát các chi phí của

bạn không?

Mua Tài Sản Chứ Không Mua Nợ

Nhà đầu tư lão luyện mua những tài sản đem lại thu nhập cho mình, vấn đề chỉ

đơn giản như thế.

Biến Chi Phí Cá Nhân Thành Chi Phí Kinh Doanh

Nhà đầu tư lão luyện biết rằng các doanh nghiệp được phép trừ các chi phí kinh

doanh bình thường và cần thiết vào doanh thu của doanh nghiệp. Dĩ nhiên, không

phải chi phí nào cũng dược phép khấu trừ.

Hãy xem xét các chi phí cá nhân và kinh doanh của bạn cùng với các nhà tư vấn tài

chính và thuế vụ để có thể tối đa hóa các khoản chi phí hợp lý, hợp lệ trong kinh

doanh. Dưới đây là một số thí dụ về chi phí cá nhân có thể được khai là chi phí kinh

doanh một cách hợp pháp:

Trên đây là một số ví dụ về các loại chi phí kinh doanh hợp lý, hợp lệ của các chủ

doanh nghiệp. Những chi phí này sẽ không đựợc phép khâu trừ giảm thuế thu. nhập

của người làm công. Các chi phí của bạn phải có đầy đủ các chứng từ hợp lệ và sử

dụng cho các mục đích kinh doanh hợp pháp. Bạn có thể nghĩ những chi phí cá nhân

nào của bạn hiện tại được phép khấu trừ thành chi phí kinh doanh nếu bạn đang kinh

doanh hay không?

QUY TẮC KIỂM SOÁT ĐẦU TƯ #3 – KIỂM SOÁT VIỆC QUẢN LÝ ĐẦU TƯ

Nhà đầu tư bên trong thường là người có khả năng kiểm soát này vì nhà đầu tư đó

sở hữu quyền kiểm soát các quyết định quản lý liên quan đến đầu tư. Nhà đầu tư bên

trong bao gồm chủ doanh nghiệp, hoặc thành viên hay cổ đông nắm giữ số lượng lớn

cổ phần của doanh nghiệp đủ cho phép họ tham gia vào hội đồng quản trị.

Những kỹ năng học được qua quá trình xây dựng kinh doanh thành công bằng

cách áp dụng tam giác C-Đ rất quan trọng đối với các nhà đầu tư ở cấp bậc này.

Một khi có những kỹ năng này, nhà đầu tư có thể phân tích và đánh giá hiệu quả

quản lý của những cơ hội đầu tư tiềm năng khác. Nếu việc quản lý được coi là thỏa

mãn và thành công, nhà đầu tư sẽ tự tin hơn khi đầu tư vào các cơ hội này.

QUY TẮC KIỂM SOÁT ĐẦU TƯ #4 – KIỂM SOÁT VỀ THUẾ

Nhà đầu tư lão luyện có kiến thức về thuế nhờ tự học hoặc học hỏi từ các nhà tư

vấn giỏi. Phía bên phải Kim tứ đồ có nhiều ưu thế về thuế mà nhà đầu tư lão luyện có

thể tận dụng để giảm thuế thu nhập hoặc hoãn trả thuế bất cứ khi nào được phép.

Ở Mỹ, những người thuộc các nhóm phại bên phải Kim tứ đồ có nhiều ưu thế về

thuế mà các nhóm phía bên trái không được phép. Có ba ưu thế về thuế như sau:

1. Thuế 'bảo hiểm xã hội' KHÔNG đánh trên thu nhập thụ động và thu nhập từ

danh mục đầu tư, nhừng đánh trên thu nhập từ sức lao động.

2. Có thể hoàn trả thuế đến vô thời hạn bằng cách tận dụng những quy định

cho phép liên quan đến bất động sản và sở hữu doanh nghiệp.

3. Công ty cổ phần có thể trả một số chi phí bằng thu nhập trước thuế, trong

khi người nhóm L phải trả bằng thu nhập sau thuế. Một số ví dụ được trình

bày trong Quy tắc Kiểm soát đầu tư số 2.

Nhà đầu tư lão luyện nhận thấy mỗi quốc gia, mỗi tiểu bang đều có những quy

định thuế khác nhau, và họ có thể chuẩn bị trước để chuyển các hoạt động kinh

doanh của mình đến những nơi mà họ có thể đạt được mục tiêu của mình nhiều nhất.

Nhận thấy thuế là chi phí lớn nhất đối với các nhóm L và T, nhà đầu tư lão luyện

tìm cách giảm thu nhập của mình để giảm thuế và tăng vốn đầu tư. Xem ví dụ trong

Quy tắc Kiểm soát đầu tư 7.

QUY TẮC KIỂM SOÁT ĐẦU TƯ #5 – KIỂM SOÁT KHI NÀO NÊN BÁN VÀ KHI

NÀO NÊN MUA

Nhà đầu tư lão luyện biết cách kiếm tiền trong mọi tình hình thị trường lên xuống.

Khi xây dựng kinh doanh, nhà đầu tư lão luyện rất kiên nhẫn. Tôi gọi tính kiên

nhẫn này là "sự kềm hãm các thỏa mãn cá nhân". Một nhà đầu tư lão luyện hiểu rằng

sự giàu có thực sự chỉ xảy ra sau khi cơ hội đầu tư hay doanh nghiệp của họ có lời và

sang nhượng lại cho người khác hoặc được cho phép phát hành cổ phiếu.

QUY TẮC KIỂM SOÁT ĐẦU TƯ #6 – KIỂM SOÁT CÁC GIAO DỊCH THÔNG QUA

MÔI GIỚI

Khi nhà đầu tư lão luyện hoạt động như nhà đầu tư bên trong, họ có thể quyết định

một cơ hội đầu tư nên bán đi hay phát triển như thế nào.

Khi đầu tư vào các công ty khác từ bên ngoài/ nhà đầu tư lão luyện theo dõi sát các

khoản đầu tư của mình và đặt lệnh cho người môi giới phải bán hay mua theo ý mình.

Ngày nay, nhiều người đầu tư chỉ dựa vào những người môi giới để biết khi nào

nên bán hoặc mua. Và đó chính là lý do mà họ không phải là những nhà đầu tư lão

luyện.

QUY TẮC KIỂM SOÁT ĐẦU TƯ #7- KIỂM SOÁT VỀ HÌNH THỨC KINH DOANH,

THỜI GIAN VÀ ĐẶC ĐIỂM

"Sau sự kiểm soát chính mình, sự kiểm soát về 3 yếu tố - hình thức kinh doanh,

thời gian và đặc điểm đứng hàng quan trọng thứ nhì,

người bố giàu thường nhắc đi

nhắc lại như thế. Để có thể kiểm soát các yếu tố này, bạn cần phải có kiến thức về luật

thuế, doanh nghiệp và chứng khoán.

Người bố giàu hiểu rằng nếu chọn một hình thức kinh doanh đúng, có tài khóa phù

hợp và chuyển thu nhập từ lương thành thu nhập thụ động và đầu tư sẽ đem lại cho

Người sự giàu có. Điều đó, cộng với khả năng đọc hìểu báo cáo tài chính cũng như

suy nghĩ bằng 'báo cáo tài chính' đã giúp Người xây dựng nên vương quốc của mình

một cách nhanh chóng.

Để minh họa sự ích lợi khi biết lập kế hoạch trên cơ sở 3 yếu tố này, chúng ta hãy

thử xem xét các tình huống sau đây của anh James và chị Cathy.

Trường hợp l

James và Cathy là chủ một nhà hàng nhưng không đứng quản lý trực tiếp. Hai

người đã chọn hình thức kinh doanh cá thể. Họ có 2 đứa con. Thu nhập ròng từ nhà

hàng là 60.000 đô. Hai người chỉ có một báo cáo tài chính như sau:

Trường hợp 2

James và Cathy tìm gặp các chuyên viên thuế và tài chính để lập kế hoạch cơ cấu

kinh doanh nhằm tối đa hóa lưu lượng tiền mặt và giảm thiểu mức thuế thu nhập của

mình.

James và Cathy giờ đây sở hữu hai doanh nghiệp: một làm chủ nhà hàng, và một

làm chủ tòa nhà cho thuê làm nhà hàng.

James là tổng giám dốc của cả 2 doanh nghiệp.

Họ có 2 đứa con. Giờ đây, họ có 3 bản báo cáo tài chính.

Ích lợi khác nhau như thế nào giữa 2 trường hợp?

Khi James và Cathy lập ra 2 công ty TNHH theo kế hoạch của các chuyên viên thuế

và tài chính đề nghị:

1. Họ có thể chuyển một số chi phí cá nhân của mình thành chi phí kinh doanh

hợp lý, hợp lệ như bảo hiểm y tế, phí tư vấn luật/kế toán, học phí, một phần

chi phí nhà và đi lại.

2. Họ có thể tiết kiệm không đóng thuế một khoản $7.885.

3. Họ có thể bỏ $12.000 vào quỹ hưu trí.

4. vẫn có thể thực hiện được 2 và 3 cho dù thu nhập cá nhân của họ giảm bằng 0.

5. Họ có thể bảo vệ tài sản cá nhân của mình bằng hình thức công ty TNHH: 1

công ty do James sở hữu 100% và 1 công ty do Cathy sở hữu 100%.

* Tổng thuế: $6.315

Bây giờ chúng ta hãy so sánh trường hợp 1 và trường hợp 2:

Kết quả cuối cùng từ kế hoạch tài chính của James và Cathy là họ tăng thêm lợi

nhuận một khoản $7.885 nhờ giảm thuế thu nhập. Tuy nhiên, điều quan trọng hơn là

họ bảo vệ được tài sản của mình bằng cách sử dụng hình thức công ty TNHH.

Hai ví dụ trên khá dơn giản và chỉ nhằm mục đích minh họa. Điều hết sức quan

trọng cần lưu ý là bạn phải tìm tư vấn về thuế và luật trước khi hoạch định và xây

dựng một kế hoạch tài chính cho mình. Bạn cần phải xem xét nhiều vấn đề phức tạp

để chắc chắn những gì bạn làm đều hợp pháp.

Những con số trên trông quá phức tạp đối với tôi, cho nên tôi đưa thêm dưới đây

những sơ đồ đơn giản mà người bố giàu đã vẽ và giải thích cho tôi về những công ty

nhà hàng và địa ốc của mình. Có thể những sơ đồ ấy giúp bạn nắm được vấn đề

nhanh hơn.

NHIỀU KIỂM SOÁT HƠN CHỨ KHÔNG ÍT HƠN

Người bố giàu nói,

"Một khi con có thể nghĩ được bằng báo cáo tài chính một cách

tự động, con có thể vận hành nhiều công ty cùng lúc cũng như đánh giá nhanh các cơ

hội đầu tư khác. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất là con sẽ đạt được rất nhiều cách

kiểm soát cuộc sống tài chính của con và kiếm tiền nhiều hơn."

Tôi nhìn vào sơ đồ rồi nói,

"Chi phí của bố đi đến nơi mà bố kiểm soát. Trong

trường hợp này, công ty-nhà hàng trả tiền thuê nhà cho công ty địa ốc của bố."

Người bố giàu gật đầu rồi hỏi,

"Về mặt kỹ thuật, ta đang làm gì thế?"

"Bố đang chuyển thu nhập từ sức lao động trong công ty-nhà hàng thành thu nhập

thụ động trong công ty địa ốc. Nói cách khác, bố đang tự trả cho chính mình."

"Và đó chỉ mới là điểm bắt đầu con ạ,

" Người nói. "Thế nhưng, ta muốn con lưu ý

từ đây là con cần phải có những tư vấn về thuế và kế toán giỏi nhất. Thường đây là

chỗ mà các nhà đầu tư không chuyên gặp khúc mắc. Họ có vấn đề bởi vì cơ cấu kinh

doanh trong sơ đồ đơn giản mà ta vẽ cho con thấy có thể được làm một cách hợp

pháp, và có thể bất hợp pháp. Phải luôn luôn có mục đích kinh doanh thực sự trong

mỗi giao dịch giữa các công ty

13

, và những vấn đề sở hữu theo nhóm kiểm soát cần

phải được xem xét khi con nắm giữ các cể phiếu trong nhiều công ty. Kiếm tiền hợp

pháp không khó, cho nên con hãy mướn những chuyên viên tư vấn giỏi nhất, mà qua

đó con sẽ học hỏi được nhiều hơn làm thế nào mà người giàu mỗi lúc một giàu hơn

một cách hợp pháp."

QUY TẮC KIỂM SOÁT ĐẦU TƯ #8 – KIỂM SOÁT CÁC ĐIỀU KIỆN, ĐIỀU KHOẢN

HỢP ĐỒNG

Nhà đầu tư lão luyện có khả năng kiểm soát các điều kiện, điều khoản hợp đồng

chỉ khi nào họ nằm ở bên trong một cơ hội đầu tư. Chẳng hạn, khi tôi dùng lợi nhuận

thu được từ việc bán nhiều căn hộ nhỏ để mua một khu chung cư, tôi sử dụng điều

luật về giao dịch 1031 của Mỹ để hoãn trả thuế đánh trên lợi nhuận đó. Tôi không

phải trả thuế ngay bởi vì tôi đã kiểm soát được các điều kiện của hợp đồng mua bán

đó.

QUY TẮC KIỂM SOÁT ĐẦU TƯ #9 – KIỂM SOÁT NGUỒN TIẾP CẬN THÔNG TIN

Khi hoạt động như một nhà đầu tư bên trong, nhà đầu tư lão luyện có khả năng

kiểm soát nguồn tiếp cận thông tin. Ở đây, các nhà, đầu tư cần phải nắm rõ các quy

định luật pháp về đầu tư nội gián để tránh rơi vào tình huống bất hợp pháp.

QUY TẮC KIỂM SOÁT ĐẦU TƯ #10 – KIỂM SOÁT VỀ CÁC HOẠT ĐỘNG TỪ

THIỆN VÀ PHÂN CHIA CỦA CẢI

Nhà đầu tư lão luyện nhận thấy trách nhiệm xã hội trong sự giàu có của mình và

đóng góp ngược lại cho xã hội thông qua hình thức các hoạt động quyên góp từ thiện.

Hình thức đóng góp khác có thể là tạo ra công ăn việc làm, giúp phát triển nền kinh tế

trong ngành hay cả nước.

CHƯƠNG 38

Phân tích đầu tư

"Câu chuyện nằm ở phía sau các con số,

" người bố giàu nói. "Nếu con có thể học

cách đọc hiểu các báo cáo tài chính, con có thể nhìn thấy những gì đang xảy ra bên

trong một doanh nghiệp hay một cơ hội đầu tư."

Người bố giàu đã dạy tôi cách sử dụng các tỷ số tài chính để quản lý kinh doanh.

Cho dù đó là một cơ hội đầu tư vào cổ phiếu của công ty hay mua một miếng bất

động sản, tôi luôn phân tích các báo cáo tài chính. Tôi có thể biết một doanh nghiệp

nào có lời, hay doanh nghiệp có mức nợ như thế nào chỉ bằng cách xem xét các báo

cáo tài chính và tính toán các tỷ số tài chính.

Trong chương này, tôi sẽ đề cập đến một vài quá trình tư duy quan trọng của một

nhà đầu tư lão luyện khi phân tích chọn lựa các cơ hội đầu tư cho kế hoạch tài chính

của mình.

PHẦN NHẬP ĐỀ

Để tính toán các tỷ số tài chính, đòi hỏi sử dụng những con số được thống kê trong

bản tóm tắt lợi nhuận và bản cân đối tài chính. Các bản báo cáo này có hình thức tổng

quát như sau.

BẢN TÓM TẮT LỢI NHUẬN

Cho giai đoạn kết thúc ngày/tháng/năm

$

Doanh thu bán hàng X

Trừ đi: Chi phí vốn hàng bán X

Hàng tồn kho cuối năm trước X

Cộng với: Chi phí mua vật liệu sản xuất X

Trừ đi: Hàng tồn kho cuối năm nay (X) (X)

Doanh thu thuần

Trừ đi:

Chi phí cố định X

Chi phí kinh doanh X (X)

Lợi nhuận X

Trừ đi: Thuế & lãi suất trả nợ (X)

Lợi nhuận sau khi trừ thuế & lãi suất X

BẢNG CÂN ĐỐI TÀI CHÍNH

Cho giai đoạn kết thúc ngày/tháng/năm

$

TÀI SẢN

Tài sản lưu động

Tiền mặt tại quỹ X

Phải thu của khách hàng X

Hàng tồn kho (cuối năm nay) X

Các tài sản lưu động khác X

Tổng số tài sản lưu động X

Tài sản cố định

Đất đai, địa ốc, cơ sở kinh doanh X

Máy móc, dụng cụ X

Trừ đi: Hao mòn lũy kế (X) X

Các tài sản cố định khác X

Tổng số tài sản cố định X

Tổng số tài sản X

NỢ

Nợ ngắn hạn (trong vòng 1 năm)

Nợ vay ngân hàng (X)

Phải trả người bán (X)

Các nợ phải trả khác (X)

Tổng số nợ ngắn hạn (X)

Nợ dài hạn (từ 2 năm trở lên)

Nợ ngân hàng (X)

Nợ từ các nguồn khác (X)

Tổng số nợ dài hạn (X)

Tổng số nợ (X)

Tài sản ròng X

VỐN TỰ CÓ

Vốn tự có bỏ vào kinh doanh X

Lợi nhuận năm nay sau khi trừ thuế & lãi suất X

Lợi nhuận tích lũy từ năm trước X

Trừ đi: Lượng tiền mặt rút ra (X)

Tổng số vốn tự có X

Trong bản, cân đối tài chính, tổng số vốn tự có của bạn phải cân bằng với tài sản

(nợ) còn lại (hay thường được gọi là tài sản ròng).

CÁC TỶ SỐ TÀI CHÍNH CỦA MỘT DOANH NGHIỆP

Tỷ lệ này cho bạn biết phần doanh thu còn lại bao nhiêu sau khi trừ đi các chi phí

vốn hàng bán, Tôi còn nhớ người bố giàu từng nói,

"Không có doanh thu thuần tức là

sẽ không có lợi nhuận."

Tỷ lệ doanh thu thuần cao hay thấp phụ thuộc vào cơ cấu tổ chức của doanh

nghiệp và các chi phí kinh doanh khác. Phần doanh thu thuần còn phải trang trải cho

các chi phí khác như tiền thuê phân xưởng, kho bãi hay cửa hàng, chi phí điện nước,

lương nhân viên, lê phí đóng cho Nhà nước, V.V., đồng thời còn phải đủ một khoản

trả lãi cho vốn đầu tư ban đầu bỏ ra.

Trong các doanh nghiệp Internet hiện nay, những chi phí sản xuất cũng như hoạt

động kinh doanh này thường thấp. Do đó, các doanh nghiệp có khả năng kiếm lợi

nhuận cao hơn và doanh thu thuần nhiều hơn.

Tỷ lệ lợi nhuận cho chúng ta biết khả năng sinh lời của doanh nghiệp trước khi

thực hiện nghĩa vụ nộp thuế và trả các chi phí liên quan đến vốn. Lợi nhuận ở đây

bằng doanh thu trừ đi các chi phí sản xuất, hoạt động kinh doanh và không bao gồm

các chi phí lãi suất, thuế và trả lãi tức cho cổ đông.

Những doanh nghiệp nào có tỷ lệ lợi nhuận cao thường chứng minh khả năng hoạt

động mạnh mẽ hơn những doanh nghiệp có tỷ lệ thấp.

Tỷ lệ này càng cao càng tốt.

Khi một doanh nghiệp có tỷ số đòn bẩy hoạt động bằng 1, điều đó cho biết doanh

thu của doanh nghiệp ấy chỉ vừa đủ trang trải các chi phí cố định và không có lời cho

chủ doanh nghiệp.

Để tính toán được tỷ số này, bản tóm tắt lợi nhuận cần phải được báo cáo dưới một

hình thức khắc như sau:

Chi phí biến đổi là bất kỳ chi phí sản xuất và hoạt động kinh doanh nào thay đổi

theo số lượng sản phẩm làm ra. Trong khi đó, chi phí cố định là bất kỳ chi phí hoạt

dộng kinh doanh nào cố định và không thay đổi theo số lượng sản phẩm làm ra,

chẳng hạn như lương nhân công, tiền điện nước, tiền thuê phân xưởng/kho bãi/trụ sở,

v.v.

Tỷ số đòn bẩy hoạt động này càng cao càng tốt.

Tổng vốn doanh nghiệp là giá trị sổ sách hoặc kế toán của mọi khoản nợ vay có trả

lãi suất (nhưng không bao gồm các khoản phải trả như mua nguyên vật liệu, trả lương,

thuế và các chi phí khác đã phát sinh nhưng chưa thanh toán) và vốn đóng góp của

các chủ sở hữu. Chẳng hạn, nếu bạn đi vay 50.000 đô và bỏ tiền túi của mình 50.000

đô để lập doanh nghiệp, tỷ số đòn bẩy tài chính của bạn sẽ bằng 2.

Tỷ số đòn bẩy tài chính này càng thấp càng tốt vì mức rủi ro kinh doanh dựa vào

vốn vay không cao.

Tổng đòn bẩy = Tỷ số đòn bẩy hoạt động X Tỷ số đòn bẩy tài chính

Tổng đòn bẩy này đo lường toàn bộ mức độ rủi ro trong hoạt động kinh doanh của

một doanh nghiệp. Giá trị này sẽ cho bạn biết khi có một thay đổi nào đó trong hệ

thống doanh nghiệp, thay đổi ấy sẽ ảnh hưởng chung như thế nào đối với chủ sở hữu

và các cổ dông. Nếu bạn là chủ doanh nghiệp, tối thiểu bạn cũng phải có khả năng

kiểm soát tổng đòn bẩy của doanh nghiệp mình.

Nếu bạn xem xét thị trường chứng khoán, giá trị tổng đòn bẩy sẽ giúp bạn quyết

định nên đầu tư hay không. Những công ty có bộ máy quản lý giỏi và cẩn trọng được

niêm yết ở Mỹ thường giữ giá trị tổng đòi bẩy này không quá 5.

Tỷ số này dùng để đánh giá toàn bộ vốn kinh doanh của doanh nghiệp dược cấu

thành bao nhiêu từ phần vay nợ bên ngoài (vốn vay) và phần vốn góp của các chủ sở

hữu (vốn tự có). Hầu hết các doanh nghiệp đều cố giữ tỷ lệ này từ mức 1:1 trở xuống.

Nhìn chung, tỷ số nàỹ càng thấp càng chứng tỏ cơ cấu vốn của doanh nghiệp theo

khuynh hướng bảo thủ (tức là không lệ thuộc nhiều vào nợ vay bên ngoài).

Tài sản thanh khoản là những tài sản có tính thanh khoản cao, có thể được quy đổi

thành tiền mặt một cách dễ dàng (như tiền mặt tại quỹ, các tài sản có giá trị thị trường

cao, V.V.). Ỷ nghĩa quan trọng của hai tỷ số này là chúng cho bạn biết một doanh

nghiệp có đủ tài sản thanh khoản để trả các khoản nợ trong những năm tới hay không.

Nếu một công ty không có nhiều tài sản lưu động so với các khoản nợ ngắn hạn, điều

đó thường là dấu hiệu cho biết doanh nghiệp đang có vấn đề về tài chính. Mặt khác,

các tỷ số này nếu có giá trị 2:1 chứng tỏ doanh nghiệp có sức mạnh tài chính nội bộ và

vững vàng.

Tỷ lệ này thường được coi là tỷ lệ quan trọng nhất. Căn cứ vào tỷ lệ này, bạn có thể

so sánh giữa mức lời của một doanh nghiệp đối với vốn đầu tư, với mức lời của các cơ

hội đầu tư khác.

CÁC TỶ SỐ CHO TÔI BIẾT ĐIỀU GÌ?

Người bố giàu dạy tôi phải luôn xem xét các tỷ số này ít nhất trong 3 năm hoạt

dộng của một doanh nghiệp. Hướng lên xuống và xu thế của các tỷ số doanh thu

thuần, lợi nhuận, đòn bẩy, và tỷ lệ lời trên vốn sẽ cho tôi biết được nhiều điều về

doanh nghiệp, bộ máy quản lý cũng như các đối thủ cạnh tranh của nó.

Nhiều báo cáo công ty niêm yết không tính toán các tỷ số và chỉ số này. Nhà đầu tư

lão luyện học cách tính toán các các tỷ số này (hoặc mướn người khác có chuyên

môn) khi chúng không được cung cấp trong các báo cáo đó.

Nhà đầu tư lão luyện hiểu rõ ý nghĩa của các tỷ số và có thể sử dụng chúng để

đánh giá các cơ hội đầu tư. Thế nhưng, các tỷ số sẽ không có ý nghĩa nếu chúng chỉ

được sử dụng một mình, do đó bạn cần phải xem xét chúng trong bối cảnh chung của

ngành hay của nền kinh tế. Khi so sánh các tỷ số giữa 3 năm, hay so sánh giữa một

doanh nghiệp với các doanh nghiệp khác, bạn có thể đánh giá nhanh sức mạnh tương

đối của một doanh nghiệp.

Chẳng hạn, một doanh nghiệp có những tỷ số tuyệt vời trong 3 năm liên tiếp vừa

qua và có mức độ lợi nhuận cao, đó có thể là một cơ hội đầu tư tốt. Tuy nhiên, khi

xem xét đến tình hình trong ngành, bạn phát hiện các sản phẩm chính của công ty vừa

mới bị một sản phẩm mới của một đối thủ cạnh tranh làm cho lạc hậu. Trong trường

hợp này, cho dù doanh nghiệp đó có một quá khứ kinh doanh vững mạnh đi chăng

nữa, bạn có thể quyết định thôi đầu tư vào công ty bởi vì có nguy cơ thị phần của

công ty đó sẽ bị sút giảm mạnh.

Mặc dù những tỷ số này trông có vẻ phức tạp lúc ban đầu, bạn sẽ ngạc nhiên khi

thấy mình có thể học cách phân tích một công ty nhanh đến mức nào. Nên nhớ những

tỷ số đó chính là ngôn ngữ của nhà đầu tư lão luyện. Bằng cách tự tích lũy kiến thức

tài chính cho mình, bạn có thể học "nói và suy nghĩ" bằng các tỷ số.

CÁC TỶ SỐ TÀI CHÍNH TRONG ĐẦU TƯ ĐỊA ỐC

Trong lĩnh vực đầu tư địa ốc, người bố giàu thường hỏi 2 câu như sau:

1. Bất động sản đó có đem lại tiền hay không?

2. Nếu có, bạn đã xem xét những điều cần kiểm tra hay chưa?

Tỷ số tài chinh quan trọng nhất trong phân tích đầu tư bất động sản của người bố

giàu như sau:

Chẳng hạn, bạn mua một khu chung cư cho thuê trị giá 500.000 đô. Bạn trả trước

100.000 đô, và mượn ngân hàng cho số tiền 400.000 đô còn lại bằng cách sử dụng

chính khu chung cư đó làm tài sản thế chấp. Sau khi trừ hết mọi chi phí, kể cả tiền trả

nợ thế chấp/ bạn thu được một khoản tiền 2.000 đô mỗi tháng. Như vậy, tỷ lệ lời tiền

mặt của bạn ở đây là 24%, tức là $240.000 ($2.000 X 12 tháng) chia cho $100.000.

Trước khi mua bất động sản đầu tư, bạn cần phải quyết định nên mua nó như thế

nào. Bạn sẽ mua nó dưới hình thức công ty cổ phần, công ty TNHH hay công ty hợp

doanh có thành viên góp vốn? Bạn hãy nên tìm tư vấn với các chuyên viên thuế và

luật để chắc chắn hình thức kinh doanh dùng để mua miếng địa ốc đó sẽ mang lại sự

bảo vệ tài sản và các ưu thế nhất về thuế cho bạn.

Danh sách những điều cần kiểm tra khác trong đầu tư địa ốc.

Theo tôi,

'những điều cần kiểm tra' chỉnh là những từ quan trọng nhất trong sự hiểu

biết tài chính. Chính nhờ quá trình kiểm tra cẩn thận này, nhà đầu tư lão luyện nhìn

thấy được mặt bên kia của đồng tiền. Khi mọi người hỏi tôi làm thế nào tôi tìm được

những cơ hội đầu tư tốt, tôi đáp,

"Nhờ quá trình kiểm tra cẩn thận." Người bố giàu

nói,

"Nếu con có khả năng kiểm tra nhanh hơn đối với một cơ hội đầu tư, cho du đó

là doanh nghiệp, địa ốc, cổ phiếu, trái phiếu, hay quỹ hỗ tương, con sẽ có thể tìm

được nhiều hơn những cơ hội đầu tư an toàn nhất có khả năng kiếm nhiều tiền nhất."

Dưới đây là một danh sách những điều cần kiểm tra do Cindy Shopoff lập ra. Tôi

đã dùng danh sách này dể phân tích và kiểm tra các cơ hội đầu tư địa ốc của mình.

Nếu có những mục tôi chưa hiểu hay chưa biết, tôi thường đem những vấn đề đó hỏi

các chuyên gia, luật sư hay kế toán viên để đánh giá cơ hội đầu tư ấy.

Danh sách kiểm tra

_____1. Người mướn trả tiền thuê đến thời điểm hiện tại.

_____2. Tiền đặt cọc.

_____3. Thông tin về nợ thế chấp.

_____4. Danh sách đồ đạc nội thất.

_____5. Bản vẽ.

_____6. Bảo hiểm (chính sách và công ty bảo hiểm).

_____7. Thỏa thuận về sửa chữa, duy tu.

_____8. Thông tin về người thuê (qua hợp đồng thuê, V.V.).

_____9. Các công ty điện nước (bao gồm tài khoản khách hàng).

_____10. Hồ sơ kỹ thuật về thay đổi hay sửa chữa kết cấu.

_____11. Hồ sơ khảo sát và thiết kế kỹ thuật.

_____12. Môi giới, phí hoa hồng.

_____13. Hợp đồng cho thuê.

_____14. Hợp đồng xây dựng công trình phụ.

_____15. Bản đồ quy hoạch phát triển (bao gồm bản vẽ thiết kế, bản vẽ hoàn côrig).

_____16. Giấy phép xây dựng, hay quy định cấm phát triển xây dựng trong vùng mà

có thể ảnh hưởng đến việc mở rộng bất động sản.

_____17. Hợp đồng quản lý.

_____18. Thông báo nộp thuế của cơ quan thuế.

_____19. Hóa đơn điện nước.

_____20. Các sổ ghi thu chi liên quan đến bất động sản.

_____21. Các sổ ghi thu chi liên quan đến bất động sản trong 5 năm qua.

_____22. Tóm tắt tài chính liên quan đến bất động sản trong 2 năm qua.

_____23. Báo cáo tài chính, hồ sơ nộp thuế liên quan đến bất động sản.

_____24. Hồ sơ kiểm định mối mọt và kết quả đạt yêu cầu.

_____25. Mọi hồ sơ, kỷ lục khác của người bán cần thiết hay hữu dụng liên quan đến

tình trạng chủ quyền, vận hành và duy tu bất động sản.

_____26. Khảo sát thị trường đối với khu vực xung quanh bất động sản.

_____27. Chi phí thi công.

_____28. Hồ sơ về người thuê, hay hồ sơ điều tra thăm dò người thuê.

_____29. Báo cáo tài khoản củạ ngân hàng 2 năm qua liên quan đến bất động sản.

_____30. Giấy chủ quyền.

_____31. Bản sao các thỏa thuận bảo hành thiết bị hay đồ đạc nội thất còn hạn.

_____32. Báo cáo giám định về ảnh hưởng môi trường liên quan đến bất động sản

(nếu có).

TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN

Nhiều nhà đầu tư lão luyện còn xem xét các cơ hội đầu tư đối với nguồn tài nguyên

thiên nhiên như dầu, khí đốt, than và kim loại quý.

Người bố giàu luôn tin vào sức mạnh của vàng. Vàng là một tài nguyên thiên nhiên

với nguồn cung có giới hạn. Người bảo tôi nhân loại trong các thế kỷ qua đều đã coi

trọng vàng. Người cũng tin rằng có vàng trong tay sẽ thu hút các nguồn của cải khác

đến với mình.

NỢ TỐT HAY NỢ XẤU?

Nhà đầu tư lão luyện phân biệt, rõ nợ tốt, chi phí tốt và lỗ tốt. Tôi nhớ người bố

giàu đã hỏi tôi,

"Nếu con mỗi tháng lỗ 100 đô, con có thể làm chủ được bao nhiêu căn

hộ cho thuê?". Tôi đáp,

"Dĩ nhiên là không nhiều." Và khi Người hỏi tôi,

"Nếu con

mỗi tháng lời 100 đô, con có thể làm chủ được bao nhiêu căn hộ cho thuê?"

, câu trả

lời là "bao nhiêu tùy theo khả năng con kiếm được!".

Chẳng hạn, bạn của tôi là Jim vay nợ thế chấp mua một khu chung cư trị giá

600.000 đô. Mỗi tháng, anh ta trả góp cho ngân hàng 5.500 đô. Anh ta nhận vào mỗi

tháng khoảng 8.000 đô tiền thuê nhà. Sau khi trừ hết mọi chi phí, anh ta kiếm được

một khoản lời 1.500 đô hàng tháng từ khu chung cư cho thuê đó. Đối với tôi, nợ thế

chấp của Jim chính là nợ tốt.

TIẾT KIỆM KHÔNG PHẢI LÀ ĐẦU TƯ

Nhà đầu tư lão luyện phân biệt sự khác nhau giữa tiết kiệm và đầu tư. Chúng ta hãy

thử xem xét 2 trường hợp dưới đây của John và Terry.

John là một chuyên gia lương cao và đầu tư tối đa vào kế hoạch hưu trí 401 (k).

Hiện tại, John 42 tuổi và tích lũy được 250.000 đô trong tài khoản hưu trí 401(k) trong

suốt 11 năm qua. Ông không nhận được bất cứ thu nhập gì từ tài khoản tiết kiệm hưu

trí đó cho tới khi ông về hưu, và khi đó toàn bộ số tiền hưu trí ông nhận được sẽ bị

đánh thuế ở mức thu nhập cá nhân.

Chi tiết về John như sau:

Thu nhập từ lương: 100.000 đô/năm

Thuế TNCN: Giả sử mức thuế trung bình là 25% (thấp)

Đầu tư: Kế hoạch hưu trí 401(k) - đóng góp ở mức tối đa là 15% lương, tức

15.000 đô /năm. Mức lãi suất của kế hoạch này là 8%/năm.

Thu nhập từ đầu tư: Không có

Terry bằng tuổi John và có mức lương như John. Cô ta đầu tư vào các bất động sản

trong suốt 11 năm qua, và chỉ trả trước 250.000 đô cho các bất động sản này trong

tổng trị giá 1 triệu đô. Tỷ lệ lời tiền mặt của Terry từ các khoản đầu tư này là

10%/năm, trong khi mức tăng giá bất động sản trung bình khoảng 4%/năm. Khi về

hưu, cô ta dự định sử dụng điều luật 1031 để chuyển vào một tài sản địa ốc khác có

mức thu nhập cao hơn. Terry không bao giờ tham gia kế hoạch hưu trí 401 (k), và thu

nhập từ các khoản đầu tư của Terry hiện tại đều bị đánh thuế.

Chi tiết về Terry như sau:

Thu nhập từ lương: $100.000 đô/năm

Thuế TNCN: Giả sử mức thuế trung bình là 25% (thấp)

Đầu tư: Mua bất động sản trị giá 1 triệu đô nhưng chỉ trả trước 250.000 đô. Tỷ

lệ lời tiền mặt là 10%. Trượt giá bất động sản hàng năm tăng 4%.

Thu nhập từ đầu tư: 25.000 đô/năm từ bất động sản

Bảng dưới đây tóm tắt giá tai tài sản tích lũy, lượng tiền mặt thu được sau thuế từ

đầu tư dùng cho sinh hoạt, và nguồn tiền mặt hưu trí hàng năm sau thuế cho cả John

và Terry.

Như bạn thấy, gia đình của Terry hàng năm có nhiều tiền để chi tiêu hơn gia

đình của John một khoảng 10.000 đô, và trong suốt 20 năm như vậy.

Khi về hưu ở tuổi 62, sau 31 năm làm việc, John bắt đầu rút 8% tiền lời từ tài

khoản hưu trí 401 (k) và hàng năm nhận một khoản thu nhập là 118.100 đô (tức thu

nhập trước thuế 157.400 đô), nhờ không hề rút một khoản nào từ tài khoản hưu trí

trong suốt thời gian đóng góp 15% lương của mình mỗi năm.

Mặc dù Terry chỉ trả trước 250.000 đô cho bất động sản, cô ta lại có lời do tài sản

trị giá 1 triệu đô này mỗi năm tăng khoảng 4%. Trong suốt 20 năm, thu nhập từ tài sản

cho thuê sẽ trả phần nợ vay ngân hàng 750.000 đô. Do đó, khi Terry về hưu, cô ta có

thể chuyển toàn bộ tài sản địa ốc này của mình vào một bất động sản lớn hơn (mà có

trị giá sẽ vào khoảng 8.892.000 đô theo cách tính trên). Bất động sản này sẽ đem lại

nguồn thu nhập cho Terry mỗi năm vào khoảng 342.700 đô.

Trong khi kế hoạch đầu tư của John là đạt được mục đích tiện nghi khi nghỉ hưu

thì Terry sẽ trở nên ngày càng giàu có.

Nếu vì một lý do nào đó, John cần nhiều thu nhập hơn khi về hưu, ông ta sẽ rút

thêm vào phần vốn gốc đóng góp của mình từ tài khoản hưu trí. Trong khi đó, Terry

chỉ cần thực hiện một giao dịch miễn thuế khác để đổi lấy một tài sản địa ốc có giá trị

cao hơn đem lại thu nhập thuế cao hơn.

Trường hợp của John sẽ là dạy con mình đi đến trường, đạt điểm cao, tìm một việc

làm tốt, làm việc siêng năng, và thường xuyên "đầu tư" vào kế hoạch hưu trí của

mình. Kết quả là đạt dược mức sống tiện nghi ở tuổi về hưu.

Trường hợp của Terry sẽ dạy con mình biết cách đầu tư từ những cơ hội nhỏ, lo

chuyện của mình, và bắt đồng tiền làm việc cực lực cho mình. Kết quả sẽ là mức sống

giàu có ở tuổi về hưu.

Dễ dàng nhận thấy kế hoạch đầu tư vào địa ốc sẽ đem lại tiền và thu nhập cho

Terry hơn là vào tài khoản 401 (k) của John. Theo tôi, Terry mới chính là nhà đầu tư,

còn John chỉ là người tiết kiệm.

Nhà đầu tư lão luyện hiểu rõ sự khác nhau giữa đầu tư và tiết kiệm, và đều có cả

hai như một phần trong kế hoạch tài chính của mình.

CHƯƠNG 39

Nhà đầu tư thực sự

Vậy câu hỏi là làm thế nào một người như Bill Gates có thể trở thành một doanh

nhân giàu nhất trên thế giới chi mới ở tuổi ba mươi? Hay làm cách nào mà Warren

Buffet trở thành nhà đầu tư giàu nhất nước Mỹ? Cả hai người đó đều xuất thân từ gia

đình trung lưu, cho nên họ không được hưởng những bí quyết làm giàu. Thế nhưng,

mặc dù không có một gia tài đồ sộ của gia đình hậu thuẫn, họ đã đạt đến đỉnh cao của

sự giàu có chỉ trong một vài năm. Họ làm điều đó bằng cách nào thế? Câu trả lời là họ

đã đi theo con đường của những người giàu nhất trong quá khứ, cũng như những

người giàu nhất trong tương lai sẽ đi theo. Họ trở thành những nhà đầu tư thực sự bằng

cách tạo ra một tài sản trị giá hàng tỷ đô.

Tạp chí Forttine số ra ngày 27/09/1999 đã đăng một bài báo với nhan đề "Trẻ và

Giàu có - 40 người Mỹ giàu nhất dưới tuổi 40." Một số các nhà tỷ phú này bao gồm:

Bạn có thể nhận thấy 10 người đứng đầu trong danh sách 40 người giàu và trẻ đều

thuộc lĩnh vực công nghệ thông tin hay Internet. Thế nhưng có những ngành nghề

khác cũng có những doanh nhân giàu có được liệt vào danh sách này:

Tôi cảm thấy thích thú khi phát hiện những thanh niên giàu có thuộc những ngành

nghề kinh doanh như một công ty bán pizza, công nghiệp nhạc rap, và thể thao.

Những người khác đều thuộc lĩnh vực công nghệ thông tin hay Internet.

Bill Gates và Warren Buffet không được liệt vào danh sách bởi vì cả 2 người đều

quá tuổi 40. Vào năm 1999, theo tạp chí Forbes, Bill Gates tròn 43 tuổi với tổng tài sản

trị giá 85 tỷ đô, còn Warren Buffet tròn 69 tuổi với tổng tài sản trị giá 31 tỷ đô.

HỌ LÀM THEO CÁCH CŨ

Làm thế nào những người này lại có thể gia nhập vào câu lạc bộ những người giàu

nhất khi còn trẻ đến như thế? Họ đã làm theo cách cũ, đi theo con đường của những

nhà tỷ phú như Rockefeller, Carnegie và Ford. Họ xây dựng công ty và phát hành cổ

phiếu của công ty ra công chúng. Họ làm việc cực lực để trở thành những cổ đông bán

cổ phiếu hơn là những cổ đông mua cổ phiếu. Nói cách khác, họ in ra tiền cho mình

một cách hợp pháp. Người bố giàu đã dạy tôi cách phát minh ra tiền từ bất động sản

hay những doanh nghiệp nhỏ. Kỹ năng đó chính là sở trường của những nhà đầu tư

bên trong và nhà đầu tư thực sự.

10% DÂN SỐ SỞ HỮU 90% CỔ PHIẾU

Sở dĩ những người giàu nhất chiếm 10% dân số lại sở hữu 90% cổ phiếu theo như

tường thuật của tạp chí Phố Wall, là vì những người giàu nhất đó bao gồm những nhà

đầu tư thực sự đã tạo ra cổ phiếu. Một lý do khác là vì chỉ có nhóm này, theo quy định

của SEC, được phép đầu tư vào một công ty ngay từ khi công ty này chưa được niêm

yết trên thị trường chứng khoán.Trong nhóm những nhà đầu tư này bao gồm những

thành viên sáng lập công ty (tức là cổ đông sáng lập), bạn bè của họ và một số nhà

đầu tư khác. Chính những người này mỗi lúc một giàu hơn, trong khi đa số mọi người

còn lại phải vật lộn với cuộc sống tiền bạc chật vật của mình và đầu tư những dồng

bạc ít ỏi như những cổ đông mua cổ phiếu, nếu như họ có thể để dành được.

SỰ KHÁC NHAU GIỮA BÁN VÀ MUA

Khi bạn đọc một bản cáo bạch của một công ty, những nhà đầu tư thực sự chính là

những người được liệt tên trong bản cáo bạch đó như những cổ đông sáng lập. Và vì

bạn có thể biết được số tài sản sở hữu của họ trị giá bao nhiêu, bạn có thể thấy ngay

sự chênh lệch to lớn giữa những người bán và những người mua cổ phiếu.

CHÂN VẠC CUỐI CÙNG

Vào năm 1994, tôi cảm thấy mình đã thực hiện thành công khá nhiều kế hoạch mà

tôi và người bố giàu đã lập ra từ năm 1974. Tôi cảm thấy khá thoải mái với những khả

năng quản lý hầu hết các chân vạc trong tam giác C-Đ. Tôi có một kiến thức về luật

doanh nghiệp đủ để trò chuyện với luật sư và kế toán viên. Tôi hiểu được sự khác

nhau giữa các hình thức kinh doanh và khi nào nên áp dụng một hình thức này hay

hình thức khác! Trong bất động sản, tôi có thể tự tin với những khả năng mua bán và

quản lý của mình. Vào năm 1994, các chi phí của chúng tôi được kiểm soát sao cho có

thể trở thành các chi phí kinh doanh hợp lý, hợp lệ. Chúng tôi không bị đánh thuế cao

chỉ vì chúng tôi không có việc làm theo nghĩa thông thường. Hầu hết thu nhập của

chúng tôi đều dưới dạng thu nhập thụ động, và một ít thuộc dạng thu nhập từ danh

mục đầu tư chủ yếu bao gồm cổ phần các quỹ hỗ tương. Chúng tôi cũng có thu nhập

từ các khoản đầu tư vào các công ty của người khác.

Thế nhưng một ngày nọ, trong khi đánh giá lại khối tứ diện của mình, tôi phát

hiện, một chân vạc trong khối tứ diện đó còn rất yếu: đó chính là các tài sản đầu tư

danh mục.

Từ năm 1994 đến 1995, tôi dã dàrih nhiều thời gian suy nghĩ làm thế nào để củng

cố chân vạc đó - những tài sản đầu tư danh mục. Tôí phải quyết định xem tôi có thực

sự muốn làm mọi công việc cần thiết để xây dựng chúng vững mạnh hay không. Khi

ấy, tình trạng tài chính của tôi rất tốt, và trong suy nghĩ của mình, thực sự tôi không

cần những tài sản đó để có thể bảo đảm hơn cho tôi về mặt tiền bạc. Cuộc sống hiện

tại của tôi rất tuyệt vời, và tôi có thể mỗi lúc một giàu hơn mà không cần những tài

sản danh mục đầu tư đó.

Sau một năm phân vân lưỡng lự, tôi quyết định tập trung củng cố chân vạc tài sản

đó. Tôi còn tự mình ra quyết tâm nếu tôi không làm được điều dó, thì tôi không còn là

tôi nữa.

Tôi cũng phải quyết định xem tôi có muốn đầu tư từ bên ngoài giống như hầu hết

mọi người mua cổ phiếu trên thị trường chứng khoán, hay học hỏi đầu tư từ bên trong

không. Nhưng dù đầu tư kiểu nào đi nữa, tôi cũng phải bắt đầu học hỏi mọi thứ gần

như từ đầu.

Thâm nhập vào bên trong một cơ hội đầu tư địa ốc hay một doanh nghiệp nhỏ

không phải là một điều khó khăn. Đó là lý do tại sao tôi đề nghị những người có thái

độ học hỏi nghiêm túc về mười cách kiểm soát đầu tư, nên bắt đầu từ những cơ hội

đầu tư nhỏ đó. Thế nhưng, để có thể thâm nhập vào bên trong một công ty lớn chuẩn

bị lên sàn, đó lại là một câu chuyên khác hẳn. Hơn nữa, những cơ hội đầu tư như thế

chỉ được chào mời giới hạn với một số nhà đầu tư, mà tôi lại không phải là một trong

những người đầu tư đó. Tôi chưa đủ giàu, và mức thu nhập tôi kiếm được chưa đủ lâu

để có thể đưa tôi gia nhập vào câu lạc bộ những nhà đầu tư như thế. Ngoài ra, tôi

không xuất thân từ một gia đình nổi tiếng hay tốt nghiệp một trường đại học lừng

danh. Dòng máu chảy trong tôi màu đỏ chứ không phải màu xanh; da tôi lại vàng chứ

không trắng; và đại học Harvard lại không hề có tên tôi trong danh sách các sinh viên

đăng ký nhập học. Tôi phải học cách gia nhập vào câu lạc bộ đó để được chào mời

đầu tư vào những công ty tốt nhất trước khi lên sàn.

Tôi cảm thấy buồn, thấy mặc cảm, và mất tự tin. Người bố giàu đã qua đời mà tôi

lại không có ai khác để khuyên bảo. Sau một thời gian bị nhấn chìm trong những cảm

xúc bi quan đó, tôi chợt nhận ra mình dang sống trong một đất nước tự do. Nếu Bill

Gates có thể bỏ học giữa chừng, xây dựng một công ty và niêm yết nó, vậy tại sao tôi

lại không thể làm được như thế? Chẳng lẽ chúng ta không thể giàu hay nghèo như

mong muốn hay sao? Vào cuối năm 1994, tôi quyết định vì không có ai thèm mời tôi

gia nhập vào câu lạc bộ, tôi sẽ tìm một thành viên tìm hiểu để được mời gia nhập, hay

thậm chí lập một câu lạc bộ cho riêng mình, vấn đề khó khăn là tôi không biết bắt đầu

từ đâu, nhất là ở Phoenix, Arizona cách phố Wall hai ngàn dặm.

Vào ngày Tết dương lịch 1995, tôi và người bạn thân nhất của tôi, Larry Clark,

cùng đi bộ lên một ngọn núi gần nhà. Khi lên tới đỉnh, chúng tôi ở đó suốt ba giờ

đồng hồ để làm nghi thức đón mừng năm mới: bàn bạc về những điều chúng tôi đã

làm trong năm qua, lập kế hoạch cho năm mới, và viết xuống giấy những mục tiêu mà

chúng tôi muốn đạt được trong năm tới đây. Larry và tôi là bạn thân của nhau trong

suốt 25 năm qua (chúng tôi từng là đồng nghiệp ở Xerox tại chi nhánh Honolulu từ

năm 1974). Anh trở thành người bạn thân mới của tôi bởi vì tôi có nhiều điểm tương

đồng với anh ta hơn là với Mike. Vào thời điểm đó, Mike đã trở nên rất giàu, trong khi

tôi và Larry chi vừa mới bắt đầu với hai bàn tay trắng và một ý chí làm giàu mạnh mẽ.

Ngày hôm đó, tôi cho Larry xem khối tứ diện của mình và ý đinh của tôi củng cố

chân vạc tài sản đầu tư danh mục đó. Tôi cũng đã kể với anh ước muốn đầu tư vào

những công ty trước khi lên sàn, hay thậm chí xây dựng một công ty và đem niêm yết.

Sau khi lắng nghe chăm chú những gì tôi giải thích, Larry chỉ nói: "Chúc may mắn."

Đến phiên Larry, anh cho tôi biết dự định sang nhượng công ty phát triển nhà của

mình và về hưu. Tôi cũng chúc anh may mắn sau khi anh chia sẻ hết với tôi tâm sự

của mình. Sau đó, chúng tôi viết xuống những mục tiêu của mình cho năm tới trên

một tấm card kích thước 3x5, rồi bắt chặt tay nhau. Sở dĩ chúng tôi viết ra những mục

tiêu của mình là bởi vì người bố giàu luôn căn dặn tôi,

"Mục tiêu cần phải rõ ràng,

đơn giản và phải được viết ra. Nếu chúng không được viết ra trên giấy và lchông

được xem mỗi ngày, chúng không phải là mục tiêu mà chỉ là ước muốn."

Mục tiêu của tôi lúc đó rất đơn giản. Mục tiêu đó như thế này,

"Đầu tư vào một

công ty trước khi lên sàn với số lượng từ 100.000 cổ phiếu trở lên ở mức giá dưới 1

đô/cổ phiếu."

Vào ngày Tết dương lịch năm 1996, tôi và Larry leo lên núi và trao đổi về những

kết quả của năm qua. Công ty của Larry sắp được bán nhưng vẫn chưa thực hiện. Như

vậy, trong suốt năm 1995, chúng tôi đã không đạt được mục tiêu của mình. Mặc dù

vậy, Larry sắp tới gần mục tiêu của anh, nhưng riêng tôi thì còn quá xa để đạt tới. Anh

hỏi tôi có muôn bỏ mục tiêu ấy đi và thay vào một mục tiêu khác hay không. Khi

chúng tôi bàn bạc về mục tiêu, tôi nhận ra rằng mặc dù tôi đã viết nó ra giấy, tôi vẫn

không tin nó có thể đạt được. Tận đáy lòng mình, tôi thực sự không tin rằng tôi có đủ

khôn ngoan và kinh nghiệm, hoặc có ai đó muốn tôi gia nhập vào câu lạc bộ đó. Càng

nói về mục tiêu của tôi, tôi càng trở nên giận dữ với chính bản thân mình vì đã quá

nghi ngờ và hạ thấp chính mình. Tôi quyết định vẫn giữ mục tiêu ấy cho mình trong

năm 1996. Sau khi viết lại mục tiêu và bắt tay với Larry, tôi đi xuống núi với một tâm

hồn nặng trĩu những băn khoăn, lo lắng và nghi ngờ. Hơn bao giờ hết, tôi càng muốn

đạt được mục tiêu đó của tôi.

Trong sáu tháng liền hoàn toàn không có gì xảy ra. Mỗi sáng, tôi đều đọc mục tiêu

đó trước khi rời khỏi nhà và lao vào các hoạt dộng hàng ngày. Trong thời gian này, tôi

đã sản xuất ra trò chơi Cashflow. Một ngày nọ, bà hàng xóm Mary gõ cửa nhà tôi và

nói,

"Tôi có một người bạn mà tôi nghĩ là chú nên gặp." Tôi hỏi tại sao. Bà ấy chỉ nói,

"Tôi cũng không biết nữa. Tôi chỉ nghĩ là hai người có thể hợp nhau dấy. Ông ta cũng

là một nhà đầu tư như chú vậy." Tôi tin tưởng vào bà Mary, cho nên tôi đồng ý gặp

người bạn ấy của bà trong một bữa ăn trưa.

Peter là một người đàn ông to lớn, phúc hậu, nói chuyên rất hay và bằng cỡ tuổi bố

ruột tôi nếu như Người còn sống đến bây giờ. Qua bữa ăn trưa, tôi phát hiện Peter đã

làm việc rất lâu năm ở phố Wall, là chủ của một công ty chứng khoán chuyên thành

lập công ty và bảo lãnh phát hành ra công chúng. Peter còn có công ty của mình được

niêm yết trên thị trường chứng khoán Mỹ, Canada, NASDAQ và NYSE. Ông không

những là người tạo ra tài sản, mà còn là người đầu tư vào thị trường chứng khoán từ

phía bên ngoài. Tôi biết ngay ông có thể hướng dẫn tôi vào một thế giới mà rất ít nhà

đầu tư có thể thấy được.

Sau khi về hưu, Ông và vợ dời về sống ở Arizona, ẩn dặt trong một trang trại hẻo

lánh trong sa mạc, cách xa sự ồn ào và xô bồ của thành phố Scottsdale đang trên đà

phát triển. Khi Peter bảo tôi ông đã từng bảo lãnh phát hành cổ phiếu cho gần 100

công ty trong suốt thời gian làm việc của mình, tôi biết ngay lý do tại sao tôi lại đến

dùng cơm trưa với ông.

Tôi đã cố gắng hết sức để kềm chế mình, không lộ ra sự nôn nóng hay ham muốn

một cách thô thiển. Peter là một người sống rất riêng tư và chỉ dành thời gian cho một

số rất ít người. (Đó là lý do tại sao tôi chỉ gọi ông là Peter chứ không nêu họ tên đầy

đủ của ông. Ông vẫn muốn giấu tên mình trên sách). Bữa ăn trưa kết thúc thật tuyệt

vời cho dù tôi không thảo luận được những điều tôi muốn học hỏi.

Hai tháng sau, tôi gọi điện cho ông và xin một buổi gặp mặt khác. Sau khi nhiều

lần lịch sự thoái thác mà không được, cuối cùng ông đồng ý và chỉ tôi đường đi đến

nhà ông. Chúng tôi hẹn một ngày cụ thể, và tôi bắt đầu tập dợt những điều tôi muốn

nói.

Buổi gặp với Peter diễn ra không mấy suôn sẻ lúc đầu. Tôi hỏi Peter rằng tôi có thể

làm người tập sự cho ông và tham gia đầu tư bên trong với ông được không. Tôi bảo

tôi sẵn sàng làm việc không công cho ông nếu như ông dạy tôi những gì ông biết về

quá trình phát hành chứng khoán của một công ty. Tôi giải thích lý do là hiện tại tôi

hoàn toàn tự do về tiền bạc, và tôi không cần làm việc cho ông vì tiền. Peter tỏ thái độ

nghi ngờ suốt gần một tiếng đồng hồ. Ông và tôi cứ bàn di bàn lại thời gian của ông

bỏ ra có ích lợi hay không, và tôi có khả năng tiếp thu nhanh và sẵn sàng theo đuổi

quá trình đó hay không. Ông e sợ là tôi sẽ bỏ cuộc nửa chừng một khi tôi thấy khó

khăn và phức tạp, bởi vì nền tảng kiến thức của tôi trong lĩnh vực các thị trường tài

chính lớn như phố Wall còn rất yếu. Ông cũng nói,

"Ta chưa bao giờ thấy có ai đến

tìm ta xin làm việc không công chỉ để học hỏi cả. Những người đến tìm ta chỉ để

mượn tiền hay xin việc." Tôi cam đoan với ông là những gì tôi muốn chỉ là cơ hội làm

việc và học hỏi từ ông. Tôi đã kể cho ông nghe về người bố giàu đã hướng dẫn tôi

hàng năm trời và bắt tôi làm việc không công. Cuối cùng, ông hỏi,

"Thành tâm của

anh muốn học hỏi về lĩnh vực này đến mức nào?" Tôi nhìn thẳng vào mặt của ông và

trả lời,

"Cháu rất muốn học."

"Thôi được,

ông nói. "Ta hiện dang xem xét một công ty khai thác vàng bị phá sản

nằm trên dãy núi Andes ở Peru. Nếu anh thực sự muốn học hỏi từ ta, anh hãy bay đến

Lima vào thứ Năm này, điều tra công ty cùng với nhóm của ta, tiếp xúc ngân hàng, tìm

hiểu xem họ muốn điều gì, sau dó quay trở lại và báo cáo với ta những gì anh thấy và

phát hiện. Ngoài ra, toàn bộ chi phí chuyến di này phải do anh gánh chịu."

Tôi sững sờ nói,

"Bay đến Peru vào thứ Năm này à?"

Peter mỉm cười,

"Anh có còn muốn gia nhập vào nhóm của tôi và học hỏi về việc

phát hành ra công chúng hay không?"

Tôi có cảm giác dạ dày của mình bị thắt lại và toát mồ hôi. Tồi biết sự thành tâm

của tôi đang được thử. Hôm nay là thứ Ba và tôi lại có những cuộc họp đã lên lịch vào

thứ Năm. Peter kiên nhẫn ngồi đợi khi tôi đang tính toán những khả năng của mình.

Cuối cùng, ông hỏi nhẹ nhàng với niềm vui thích ẩn phía sau giọng nói và nụ cười,

"Thế nào? Anh vẫn muốn học hỏi từ tôi chứ?"

Tôi biết mình đang ở giây phút quyết định quan trọng. Hoặc là lao vào cuộc, hoặc

là im miệng và đi về. Tôi đang thử chính mình. Sự lựa chọn của tôi chẳng liên quan gì

đến Peter cả, mà đúng hơn chính là cuộc cách mạng kế tiếp trong sự phát triển cá

nhân của tôi. Vào những lúc như thế, tôi thường nhớ lại một bài thơ của thi sĩ

W.N.Murray với tựa đề là "Sự Quyết Tâm. Ông ấy đã viết bài thơ này khi chuẩn bị

cuộc hành trình leo lên đỉnh Hy Mã Lạp Sơn. Tôi đã dán bài thơ đó trên tủ lạnh của

mình, để mỗi khi cả con người tôi đều nói "Ngừng lại"

, tôi vẫn còn một điều gì đó để

lấy tinh thần và can đảm đi tiếp. Tôi có thể nhớ lại một đoạn bài thơ như thế này:

"Cho tới khi ta đã quyết tâm nhưng vẫn còn lưỡng lự,

vẫn còn một cơ hội rút lui.

Xem xét mọi hành động từ lúc bắt đầu,

có một chân lý cơ bản duy nhất

mà nếu không nhìn thấy chân lý đó

mọi giấc mơ trong sáng và kế hoạch tuyệt vời đều sẽ bị tiêu tan.

Chính giây phút khi ta hạ quyết tâm với chính mình,

là lúc ý trời cùng ở bên ta."

Chính hàng cuối của bài thơ đã giúp tôi tiến tới trước trong khi những phần khác

trong tôi muốn tôi quay bước. Webster đã định nghĩa "ý trời" được coi như là 'một sức

mạnh duy trì và hướng dẫn số phận của con người'. Giờ đây, tôi không có ý định cầu

nguyện hay nói rằng ý trời ở bên tôi. Những gì tôi muôn nói là bất cứ khi nào tôi đang

đứng ở bờ vực của sự chọn lựa, khi tôi sắp sửa đi vào một thế giới mà mình không hề

biết như thế nào, khi ấy tôi chỉ còn biết đặt trọn niềm tin của mình vào một sức mạnh

lớn hơn tôi. Chính những giây phút đó, tôi hít hơi thật mạnh và bước tới, một bước đi

của lòng tin hơn là ý thức. Theo tôi, những bước đi như thế đã làm cho cuộc đời tôi

khác hẳn.

Những kết quả ban đầu không phải luôn luôn là những điều tốt đẹp, thế nhưng đời

tôi đã thay đổi tốt hơn nhiều khi về lâu về dài. Bài thơ ấy đã giúp tôi thật nhiều khi tôi

phải rơi vào những giây phút chọn lựa như thế.

Bài thơ kết thúc thế này:

"Ta tôn vinh sâu sắc những vần thơ của Goethe:

Bất cứ những gì bạn có thể lức mơ hay thực hiện,

hãy bắt đầu ngay đi

Sự dũng cảm sẽ dẫn đến sự thiên tài,

sức mạnh và những điều kỳ diệu."

Khi những dòng thơ ấy nhạt nhòa dần, tôi ngẩng đầu và nói,

"Cháu sẽ có mặt ở

Peru vào cuối tuần này."

Peter mỉm cười rạng rỡ,

"Đây là danh sách những người mà anh cần gặp và địa

điểm gặp. Khi nào trở về, anh hãy gọi cho ta."

ĐÂY KHÔNG PHẢI LÀ ĐIỀU MÀ TÔI ĐỀ NGHỊ VỚI BẠN

Đây tuyệt đối không phải là con đường mà tôi đề nghị với bất cứ một ai muốn học

hỏi quy trình niêm yết một công ty ra thị trường. Có những con đường thông minh

hơn và dễ dàng hơn. Thế nhưng, đây chính là con dường duy nhất trải ra trước mắt

tôi. Do đó, tôi sẽ thành thật mô tả với các bạn quá trình mà tôi trải qua để đạt được

mục tiêu của mình. Theo tôi, mỗi người phải thực lòng với những cảm xúc mạnh yếu

của mình. Quá trình tôi đi qua không phức tạp trên khía cạnh duy lý, nhưng rất thách

thức về mặc cảm xúc khi phải đối diện với những thay đổi lớn trong cuộc đời mình.

Người bố giàu thường nói,

"Thực tế của một người là biên giới giữa niềm tin và sự

tự tin." Người vẽ ra sơ đồ như thế này:

Người nói tiếp,

"Ranh giới thực tế của một người thường không thay đổi cho đến

khi người đó vứt bỏ hết sự tự tin của mình và nhắm mắt đi tới với niềm tin trong lòng.

Rất nhiều người không trở nên giàu có bởi vì họ tự giới hạn mình trong sự tự tin của

chính họ, mà lẽ ra họ cần phải có một niềm tin vô bờ bến."

Vào thứ Năm đó trong mùa hè năm 1996, tôi bay đến dãy núi Andes để khảo sát

một mỏ vàng mà người Incas và người Spaniard đã từng khai quật trước đây. Tôi đã

mạo hiểm bước một bước vào một thế giới mà tôi không biết tí gì cả, chỉ bằng tất cả

niềm tin của mình. Thế nhưng, chính nhờ bước đi đó, cả một chân trời mới về thế giới

đầu tư mở rộng trước mặt tôi. Từ đó trở đi, cuộc đời của tôi không còn như trước nữa.

Thực tế của tôi về những phương diện tài chính không còn như cũ. Thực tế của tôi về

cách làm giàu đã được mở rộng. Khi tôi làm việc chung với Peter và nhóm của ông

nhiều hơn, những sợi dây bó buộc sự giàu có mỗi lúc một nới lỏng với tôi.

Ngày hôm nay, tôi tiếp tục mở rộng những giới hạn của mình, và tôi có thể nhớ lại

những lời nói của người bố giàu,

"Một người bị giới hạn bởi thực tế của mình về tài

chánh. Sẽ không có gì thay đổi nếu thực tế đó của người ấy không thay đổi. Và thực tế

của một người sẽ không thay đổi cho tới khi người ấy dám vượt qua những nỗi sợ hãi,

nghi ngờ của mình về những giới hạn tự bó buộc trên cuộc đời mình."

PETER GIỮ LỜI HỨA

Sau khi trở về từ chuyến đi, tôi đã báo cáo với Peter. Đó là một mỏ vàng lớn, có

nhiều mạch vàng trữ lượng cao. Thế nhưng công ty khai thác mỏ vàng đó đang gặp

nhiều khó khăn về tài chính và có vấn đề trong hệ thống vận hành. Tôi đề nghị không

đầu tư bởi vì mỏ vàng có quá nhiều vấn đề xã hội phát sinh, cũng như nhiều khó

khăn về vấn đề môi trường có thể tốn hàng triệu đô để giảm thiểu tác động ảnh

hưởng. Muốn mỏ vàng hoạt động có hiệu quả, bất kỳ người chủ đầu tư mới nào cũng

buộc phải sa thải ít nhất 40% lực lượng lao động. Thế nhưng điều đó sẽ giết chết nền

kinh tế trong vùng. Tôi nói với Peter,

"Những người dân đó đã sống ở độ cao gần

1,800m trển mực nước biển trong nhiều thế kỷ. Nhiều thế hệ đã sống và chết tại đây.

Cháu nghĩ sẽ không khôn ngoan chút nào nếu chúng ta buộc họ rời khỏi đất ông bà

của mình và tìm việc ở những thành phố dưới chân núi. Cháu nghĩ chúng ta sẽ gặp rất

nhiều vấn đề hết sức khó khăn."

Peter dồng ý với những điều báo cáo của tôi. Nhưng quan trọng hơn hết, ông đã

đồng ý dạy tôi.

Từ mùa hè năm 1996 đến mùa thu năm 1997, tôi trở thành người tập sự cho Peter.

Ông đang tập trung phát triển một công ty dầu khí của mình, công ty EZ Energy (xin

được phép giấu tên thực), và chuẩn bị dưa nó niêm yết trên thị trường chứng khoán

Alberta. Vì tôi gia nhập trễ vào nhóm của ông, tôi không thể mua các cổ phiếu của

công ty ở giá nội bộ trước khi phát hành. Dĩ nhiên, sẽ không thích hợp cho tôi khi đầu

tư với các cổ đông sáng lập một khi tôi còn mới mẻ và chưa được thử thách. Thế

nhưng khi công ty phát hành lần đầu ra công chúng, tôi có thể mua một số lượng cổ

phiếu ở giá 50 xu/cổ phiếu (đồng Canada).

Sau khi phát hiện dầu ở California, và khả năng khám phá một mỏ dầu và hơi đốt

lớn ở Bồ Đào Nha, giá cổ phiếu EZ Energy vào khoảng từ 2 đến 2,35 đô (đồng

Canada). Nếu khám phá ở Bồ Đào Nha là đúng như kết quả thử nghiệm, giá cổ phiếu

có thể tăng lên 5 đô vào năm 2000. Và nếu như khám phá đó cho thấy mỏ dầu có trữ

lượng lớn, giá cổ phiếu có thể tăng vọt từ 15 đô đến 25 đô trong vòng hai đến ba năm

tới. Đó là khía cạnh lạc quan của công ty. Dĩ nhiên, trường hợp xấu nhất có thể xảy ra

là giá cổ phiếu giảm tụt xuống mức zero trong cùng thời gian đó. Mọi chuyện đều có

thể xảy ra khi những công ty dang trải qua thời kỳ phát triển như thế.

Mặc dù EZ Energy là một công ty rất nhỏ, giá trị tăng trong những khoản đầu tư

'đặt trước' lại khá lạc quan đến thời điểm hiện tại. Nếu mọi việc xảy ra đúng như dự

đoán, những nhà đầu tư này sẽ kiếm được rất nhiều tiền. Những nhà đầu tư này (còn

gọi là nhà đầu tư đủ diều kiện tham gia hùn vốn trước khi công ty được niêm yết) mỗi

một người bỏ ra một khoản tiền 25.000 Mỹ kim cho mỗi một lô 100.000 cổ phiếu, tức

là 25 xu Mỹ/cổ phiếu. Họ đầu tư vào là nhờ tên tuổi của Peter, sức mạnh của hội đồng

quản trị, và trình độ kinh doanh lão luyện của nhóm chuyên viên khảo sát. Tại thời

điểm gọi vốn tư này, và thậm chí tại thời điểm niêm yết, không có gì bảo đảm hay có

một giá trị nào cho các khoản đầu tư. Nói cách khác, cơ hội đầu tư này ngay từ đầu

chỉ căn cứ trên giá chứ không phải lợi nhuận. Cơ hội đầu tư đó chỉ dành cho những

người bạn của Peter và những nhà đầu tư mà ông quen biết.

Ở giai đoạn còn rất sớm trong chu kỳ đầu tư này, các nhà đầu tư chỉ đầu tư trên cơ

sở giá trị của nguồn nhân lực. Con người - chứ không phải là sản phẩm như dầu khí,

vàng, Internet, có ý nghĩa quan trọng hơn bất cứ phần nào khác trong phương trình

đầu tư dó. Trong giai đoạn phát triển như thế của một công ty, quy tắc vàng "Tiền theo

sau quản lý" trở nên quan trọng nhất.

Bộ phận quản lý của EZ Energy đã làm việc hết sức tài giỏi. Thay vì bàn về những

hy vọng, ước mơ của công ty này, tôi nghĩ tốt nhất cung cấp cho bạn những sự thực về

công ty.

Các thành viên sáng lập của công ty đã bỏ thời gian và trình độ chuyên môn của

mình để đổi lấy cổ phiếu của công ty. Nói cách khác, hầu hết các thành viên sáng lập

đều làm việc không lương, nhưng đổi lấy bằng cổ phiếu. Khi mới phát hành, giá trị cổ

phiếu của họ rất thấp, và gần như họ không có thu nhập từ lương gì cả. Thay vào đó,

họ làm việc cực lực để phát triển công ty và làm cho nó có giá trị hơn, mà từ đó họ sẽ

làm tăng giá trị cổ phiếu của công ty và kiếm được nhiều tiền sau đó.

Các cổ dông sáng lập là những yếu tố rất, rất quan trọng đối với sự thành công của

quá trình niêm yết, bởi vì tên tuổi và trình độ kinh nghiệm của họ sẽ mang lại sự tin

tưởng, động cơ thúc đẩy và tính hợp pháp của một dự án mới chỉ tồn tại trên giấy. Một

khi công ty được niêm yết và phát hành cổ phiếu thành công, một số thành viên sáng

lập sẽ rút ra khỏi hội đồng quản trị và lấy phần cổ phiếu của mình. Một đội ngũ quản

lý mới sẽ thay thế họ, còn họ thì bắt đầu tập trung vào một cơ hội khác và lặp lại quá

trình.

LỊCH SỬ CỦA EZ ENERGY

Dưới đây là diễn biến các sự kiện đã xảy ra sau khi công ty được thành lập:

1. Gọi vốn tư ban đầu, với mỗi một cổ phần là 100.000 cổ phiếu trị giá 25.000 Mỹ

kim, tức 25 xu Mỹ /cổ phiếu. Ở giai đoạn này, công ty chỉ mới có kế hoạch

khai thác và chưa có tài sản. Gác nhà đầu tư lúc này chủ yếu đầu tư vào nguồn

lực quản lý của công ty.

2. Cổ phiếu hiện đang được giao dịch ở mức giá từ 2 đô đến 2,35 đô/cổ phiếu

(đồng Canada).

3. Như vậy, 100.000 cổ phiếu của các nhà đầu tư ban đầu nay trị giá từ 200.000

đô đến 235.000 đô (đồng Canada), tức vào khoảng từ 160.000 đến 170.000 Mỹ

kim. Công việc của các giám đốc hiện giờ là tăng giá trị của công ty và giá cổ

phiếu thông qua các hoạt động khai thác, sản xuất dầu và tìm kiếm các mỏ dầu

mới. Trên giấy tờ, các nhà đầu tư ban đầu đã kiếm được một khoản lời 140.000

Mỹ kim từ 25.000 Mỹ kim đầu tư cách đây 5 năm. Như vậy mức lời hàng năm

của họ là 45% nếu họ bán cổ phiếu.

4. Vấn đề với những nhà đầu tư này là công ty nhỏ nên cổ phiếu có tính thanh

khoản kém. Nếu một nhà đầu tư buộc phải bán hết 100.000 cổ phiếu ngay lập

tức, người ấy sẽ rất khổ bán vì số lượng bán đó sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng

đến giá cổ phiếu. Do đó, giá trị của toàn bộ cổ phần gồm 100.000 cổ phiếu đó

hiện chỉ có giá trị trên giấy.

Nếu mọi việc xảy ra như dự kiến, công ty sẽ tăng trưởng và sẽ có nhiều người hơn

nhảy vào. Khi đó, giao dịch cổ phiếu với khối lượng lớn sẽ trở nên dễ dàng hơn.

TẠI SAO LẠI LÀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN Ở CANADA?

Khi tôi bắt đầu làm việc lần đầu với Peter, tôi hỏi ông tại sao sử dụng thị trường

chứng khoán Canada mà không phải là thị trường NASDAQ hay phố Wall. Ông giải

thích các lý do như sau:

1. Thị trường chứng khoán Canada dẫn đầu thế giới về các công ty khai thác

khoáng sản nhỏ. Ông sử dụng những thị trường này bởi vì ông chủ yếu phát

triển công ty thuộc lĩnh vực đó. Peter giống Warren Buffet ở chỗ ông có

khuynh hướng đầu tư vào những ngành nghề kinh doanh mà ông hiểu rõ. "Ta

hiểu về dầu, hơi đốt, vàng và bạc,

" Peter nói. "Ta hiểu khoáng sản và kim loại

quý." Nếu Peter có phát triển một công ty thuộc lĩnh vực công nghệ thông tin,

có thể ông sẽ sử dụng thị trường chứng khoán Mỹ.

2. NASDAQ và phố Wall là những thị trường quá lớn để một công ty nhỏ bé có

thể thu hút được sự chú ý ở đó. Peter nói,

"Khi ta bắt đầu từ ngành này vào

những năm năm mươi, một công ty nhỏ có thể thu hút được sự chú ý của các

nhà môi giới ở các thị trường lớn. Ngày nay, các công ty Internet, mà nhiều

công ty trong số đó không có lợi nhuận, đòi hỏi có nhiều vốn hơn những công

ty lớn hơn từng được biết đến trong thời đại Công nghiệp. Do đó, nhiều nhà

môi giới lớn không quan tâm đến những công ty nhỏ chỉ cần gọi vốn vài triệu

đô. Các nhà môi giới lớn ở Mỹ chỉ quan tâm chủ yếu đến những đợt phát hành

từ 100 triệu đô trở lên."

3. Các thị trường Ganada cho phép những nhà doanh nghiệp nhỏ ở lại cuộc chơi.

Tôi nghĩ Peter sử dụng các thị trường này chủ yếu là vì ông về hưu. Ông

thường nói,

"Ta không cần tiền, cho nên ta không cần thiết phải xây dựng một

công ty lớn. Ta chỉ thích tham gia cuộc chơi mà thôi. Trò chơi đó giúp ta trẻ

trung và năng động. Hơn nữa, có nơi nào khác đâu để bạn bè ta có thể tham

gia đầu tư ban đầu với cổ phần 100.000 cổ phiếu chỉ với giá 25.000 đô? Ta làm

điều đó bởi vì tá yêu trò chơi đó, thích được thử thách, và phần thưởng lại

xứng đáng. Ta ưa thích xây dựng công ty, niêm yết chúng và theo dõi chúng

tăng trưởng. Ta cũng ưa thích khi nhìn bạn bè ta và người thân của họ trở nên

giàu có."

4. Peter đưa ra một điều lưu ý cẩn thận,

"Ghi bởi vì thị trường Canada nhỏ nhưng

không phải ai ai cũng có thể tham gia cuộc chơi. Một số thị trường Canada có

tiếng tăm không tốt do các giao dịch bê bối trong quá khứ. Để thành công

trong các thị trường này, một nhà đầu tư cần phải nắm rõ mọi ngóc ngách của

quy trình niêm yết công ty."

Hiện tại, hệ thống các thị trường chứng khoán Canada đang được thắt chặt lại bởi

những quy định nghiêm ngặt hơn về giao dịch và đầu tư. Trong một vài năm tới, tôi

nghĩ các thị trường Canada sẽ tăng trưởng nhanh hơn khi càng có nhiều công ty nhỏ

trên khắp thế giới tìm đến để tăng vốn cần cho kinh doanh.

Hãy cẩn thận chú ý những người quảng cáo về cổ phiếu: Tôi đã từng có kinh

nghiệm trong lĩnh vực này một vài năm trước đây. Tôi đã gặp ba nhà quảng cáo có

chút tiếng tăm, kể những câu chuyện vĩ đại, gọi vốn hàng chục triệu đô nhưng lại

không biết một tí gì cách xây dựng kinh doanh từ con số không. Trong nhiều năm

trời, những người này bay vòng quanh nước Mỹ ở ghế hạng nhất hay đi phi cơ riêng, ở

những khách sạn 5 sao, mở những tiệc chiêu dãi xa xỉ, dùng những loại rượu ngon

nhất, và sống vương giả trên đồng tiền của nhà đầu tư. Công ty do họ lập chẳng bao

lâu sau bị sập tiệm vì không có sự phát triển thực sự. Lượng tiền mặt cuối cùng bị tiêu

xài hết. Những người này lại nhảy sang xây dựng một công ty khác và lặp lại quá trình

kiếm tiền đó. Làm thế nào bạn có thể phân biệt được giữa một doanh nhân thực thụ và

một kẻ mơ mộng xài lớn? Điều đó tôi không biết được. Đối với tôi, tôi đã từng bị hai

lần lường gạt và chỉ vỡ lẽ khi công ty mà tôi đầu tư bị phá sản. Lời khuyên tốt nhất mà

tôi có thể cho bạn là hãy hỏi họ một kỷ lục thành tích trước đây, kiểm tra những người

giới thiệu họ, và hãy dùng giác quan thứ sáu hay bản năng của mình làm kim chỉ nam.

5. Nếu một công ty nhỏ tăng trưởng và lớn mạnh, nó có thể chuyển sang niêm yết

ở những thị trường tài chính lớn hơn như NASDAQ hay NYSE do thành công

vượt bực đó. Những công ty được niêm yết ở thị trường Canada chuyển sang

niêm yết ở thị trường Mỹ thường có giá trị tăng vượt bực (một vài trường hợp

có thể lên tới mức hơn 200%).

Hầu hết những công ty có tên tuổi lớn hiên nay đều bắt đầu từ những công ty nhỏ

vô danh. Vào năm 1989, Microsoft chỉ là một công ty nhỏ có cổ phiếu giá 6 đô. Cổ

phiếu đó đã tách đi tách lại đến 8 lần. Vào năm 1991, cổ phiếu của công ty Cisco chỉ

khoảng 3 đô, nhưng đến nay cũng được tách đến 8 lần. Những công ty đó đã sử dụng

tiền của các nhà đầu tư một cách khôn ngoan và phát triển thành những tập đoàn hùng

mạnh trong nền kinh tế thế giới.

GHI CHÚ CỦA SHARON – ĐỒNG TÁC GIẢ

Điều kiện phát hành cổ phiếu lần đầu ở các thị trường chứng khoán lớn ở Mỹ rất

khắt khe và rất cao. Theo quyển Hướng Dẫn Phát Hành Cổ Phiếu của Ernst & Young,

thị trường chứng khoán New York (NYSE) đòi hỏi một công ty muốn niêm yết phải

có tổng tài sản hữu hình trị giá thực là 18 triệu đô và lợi nhuận trước thuế là 2.500.000

đô. Thị trường chứng khoán Mỹ (ASE) đòi hỏi vốn chủ sở hữu của công ty phải là 4

triệu đô, và tổng giả trị thị trường của đợt phát hành phải từ 3 triệu đô trở lên. Và thị

trường quốc gia NASDAQ đòi hỏi tổng tài sản hữu hình trị giá thực tối thiểu phải là 4

triệu đô và tổng giá trị thị trường của đợt phát hành phải từ 3 triệu đô trở lên.

Ngoài ra, chi phí phát hành ước tính khoảng từ 400.000 đến 500.000 đô cho mỗi thị

trường chứng khoán. Các chi phí này bao gồm phí đăng ký, phí trả cho tư vấn luật sư,

kế toán viên, và phí bảo hiểm mua cổ phiếu trong trường hợp cổ phiếu phát hành

không bán hết tại thời điểm kết thúc phát hành.

Nhiều công ty nhỏ và vừa không đáp ứng đủ các điều kiện này có thể tham gia

niêm yết bằng cách sát nhập với một công ty dã được niêm yết. Nhờ quy trình này, các

công ty đó có thể trở thành công ty niêm yết nhờ nắm giữ quyền kiểm soát của công ty

niêm yết sát nhập.

Các công ty cũng có thể tìm đến những thị trường chứng khoán ngoài nước, như thị

trường Canada chẳng hạn mà ở đó các điều kiện niêm yết tương đối dễ dàng hơn.

KHÔNG PHẢI LÚC NÀO BẠN CŨNG THÀNH CÔNG

Không phải mọi công ty đều có thể thành công như EZ Energy. Một số thậm chí

không cất cánh được ngay cả khi đã được niêm yết, và các nhà đầu tư mất gần như

toàn bộ số tiền đầu tư ban đầu của mình. Do dó, đòi hỏi những nhà đầu tư này phải

'có đủ điều kiện'

, đồng thời các nhà đầu tư cần phải được cảnh báo trước là các cơ hội

đầu tư này có thể 'ăn cả hoặc ngã về không'.

Với tư cách là một đối tác của Peter, giờ đây tôi tham gia diễn thuyết trước các nhà

đầu tư tiềm năng về những cơ hội đầu tư ban đầu đó. Tôi giải thích mức độ rủi ro

trước khi bàn đến kế hoạch kinh doanh, đội ngũ quản lý và khả năng lợi nhuận. Tôi

thường bắt đầu một buổi báo cáo với các nhà đầu tư như thế này,

"Cơ hội đầu tư mà

tôi sắp trình bày với quý vị đây là một cơ hội đầu tư có mức độ rủi ro cao và chi dược

chào mời với những nhà đầu tư đủ điều kiện." Nếu một người không hiểu nhà đầu tư

đủ điều kiện nghĩa là gì, tôi sẽ giải thích các quy định hướng dẫn của SEC. Tôi cũng

nhấn mạnh khả năng họ có thể bị lỗ sạch và lặp đi lặp lại điều đó nhiều lần. Nếu họ

vẫn còn quan tâm, tôi sẽ tiếp tục giải thích bất cứ khoản tiền nào họ đầu tư vào chúng

tôi đều không nên vượt quá 10% tổng vốn đầu tư của họ. Sau đó, nếu họ vẫn còn

quan tâm, tôi mới trình bày chi tiết cơ hội đầu tư, rủi ro, đội ngũ quản lý và mức lời

dự đoán.

Cuối buổi thuyết trình, tôi mời mọi người đặt câu hỏi. Sau khi trả lời mọi thắc mắc,

tôi nhấn mạnh lại mức độ rủi ro. Trước khi kết thúc, tôi nói,

"Nếu quý vị mất tiền,

những gì tôi có thể bù đắp cho quý vị là sẽ mời quý vị tham gia đầu tư trước tiên vào

cơ hội đầu tư khác của chúng tôi." Đến lúc này, phần lớn mọi người mới ý thức được

đầy đủ mức độ rủi ro của nó, và thông thường hết 90% mọi người đều quyết định

không đầu tư với chúng tôi. Đối với 10% các nhà đầu tư còn lại, chúng tôi cung cấp

thêm thông tin cũng như cho họ có thêm nhiều thời gian hơn để suy nghĩ và rút lui

nếu họ muốn.

Tôi nghi ngờ nhiều công ty Internet cao giá hôm nay sẽ bị sụp đổ trong vài năm

tới. Các nhà đầu tư sẽ mất hàng triệu đô, thậm chí hàng tỷ đô. Mặc dù Internet mở ra

một chân trời thế giới mới to lớn, quy luật của kinh tế thị trường chỉ cho phép một vài

công ty tiên phong tồn tại và chiến thắng. Cho nên, dù công ty được niêm yết có thuộc

ngành gì đi chăng nữa - khai thác vàng, cấp thoát nước hay Internet, các lực lượng thị

trường vẫn có nhiều ảnh hưởng và kiểm soát hơn.

MỘT SỰ HIỂU BIẾT LỚN

Quyết định bay đến Peru đã trở thành một quyết định đúng vĩ đại trong đời tôi. Tôi

đã học được rất nhiều từ Peter cũng như đã từng học với người bố giàu. Sau một năm

rưỡi tập sự với Peter, ông đã đề nghị tôi làm đối tác với ông trong một công ty liên

doanh của ông.

Từ năm 1996, tôi đã rút được một kinh nghiệm đáng giá cả đời trong suốt quá trình

công ty EZ Energy được niêm yết và phát triển thành một công ty vững mạnh, mà có

khả năng vươn lên thành một tập đoàn dầu khí hàng đầu trên thế giới. Tôi không

những trở thành một doanh nhân khôn ngoan hơn nhờ vào sự hợp tác đó, mà còn học

hỏi được rất nhiều về hoạt động của các thị trường chứng khoán. Một trong những

chiến lược của tôi là đầu tư 5 năm vào chuyện học hỏi, và hiện nay tôi đã trải qua 4

năm trong giai đoạn này. Đến thời điểm này, tôi vẫn chưa kiếm được lời thực sự, tức là

số tiền thực mà tôi bỏ vào túi của mình. Lợi nhuận của tôi vẫn còn nằm ở trên giấy,

thế nhưng sự hiểu biết về kinh doanh và đầu tư thực sự vô giá. Một ngày nào đó biết

đâu tôi sẽ xây dựng một công ty và niêm yết nó trên thị trường chứng khoán ở Mỹ.

CÁC ĐỢT PHÁT HẦNH LẦN ĐẦU TRONG TƯƠNG LAI

Hiện tại, Peter và nhóm nhà đầu tư mà tôi là một đối tác trong đó đang phát triển

ba công ty khác để đem niêm yết ra công chúng: một công ty khai thác kim loại quý ở

Trung Quốc, một công ty khai thác dầu khí ở Argentina, và một công ty khai thác bạc

cũng ở Argentina.

Khi mọi người hỏi tôi tại sao dám hoạt động ở Trung Quốc khi mà mức độ rủi ro

cao, chúng tôi trả lời,

"Chẳng bao lâu sau, Trung Quốc sẽ trở thành nước có nền kinh

tế lớn nhất trên thế giới. Mặc dù rủi ro cao, nhưng tiềm năng lợi nhuận sẽ rất khổng

lồ."

Quy trình niêm yết một công ty trên thị trường chứng khoán thường mất từ 3 đến 5

năm. Nếu mọi chuyện suôn sẻ, chúng tôi có thể niêm yết 2 trong số 3 công ty dó vào

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: #doc9218