t2

“Nhặt chiếc nhẫn lên, trả cho ta!”, Hà Y hung dữ nói

Hai người gườm gườm nhìn nhau.

Qua một lúc Mộ Dung Vô Phong mặt mày nhợt nhạt lăn bánh xe, nhặt chiếc nhẫn lên, ném cho Hà Y: “Nàng gả cho hắn cũng tốt. Thương thế của hắn đã không còn đáng ngại lớn, nơi này đã không cần tới ta nữa”.

Nói xong quay người ra khỏi cửa. Một lúc sau, Hà Y nghe thấy tiếng vó ngựa, xe ngựa của Mộ Dung Vô Phong đã nhanh chóng đi.

Khuôn mặt nàng đẫm nước mắt, ngồi bệt xuống sàn, thương tâm khóc lớn

Chương 21

Một cánh tay nhẹ nhàng quàng qua vai Hà Y, nhét vào tay nàng một chiếc khăn tay.

Hà Y ngẩng đầu, thấy Tần Vũ Mai đang đứng trước mặt mình.

“Cãi nhau với hắn hả? Có vẻ như hắn rất giận, đùng đùng bỏ đi rồi.”

“Chàng nói… Vũ Tang không sao nữa rồi. Chỉ cần tĩnh dưỡng cho tốt ba tháng là sẽ khỏe lại”, nàng thở dài một tiếng, mắt vẫn còn đỏ mọng.

“Tỷ qua đây ngồi một lát, uống ngụm nước đã”, Vũ Mai kéo Hà Y tới phòng khách, để bệnh nhân trên giường lại cho vợ chồng Tần Triển Bằng chăm sóc.

Nước mắt Hà Y vẫn cứ giàn giụa mãi.

Tần Vũ Mai hỏi: “Hai người… quen nhau?”.

Hà Y gật đầu

“Hai người tỷ… rất gần gũi?”

Hà Y lại gật đầu.

“Lọ thuốc đeo trên cổ tỷ là của hắn?”

Hà Y cuối đầu, nói: “Sức khỏe chàng… không tốt, đặc biệt là tim… tim rất yếu”.

Nói xong câu đấy, nàng bỗng toát mồ hôi lạnh. Đường vừa rồi tuy không xa, nhưng chàng cứ nôn mãi, vừa rồi lại mệt mỏi một chặp, sau đó lại một phen giận dữ. Liệu chàng có…?

Ý nghĩ này chỉ mới lướt qua đầu, thân người nàng đã phóng vút đi rồi, nàng lao ra khỏi cửa, nhảy lên ngựa, điên cuồng đuổi theo.

Nàng liều mạng thúc ngựa phóng đi, trong đầu là một khoảng trống rỗng.

Dần dần cũng thấy đoàn xe ngựa từ từ đi phía trước, Hà Y nhìn thấy Tạ Đình Vân nhưng không thèm để ý đến ông ta, nàng giục ngựa một mạch chạy tới, vòng lên trước xe của Mộ Dung Vô Phong, gõ cửa xe.

Không có tiếng trả lời.

Lẽ nào thực sự tái phát bệnh rồi?

Tim của nàng đập loạn nhịp, chẳng quản gì nữa mà cứ xông thẳng vào.

Mùi trầm hương thoang thoảng, trong xe phảng phất một thứ không khí thanh đạm mà yên tĩnh. Trên lò là một ấm nước sôi âm ỉ, hương trà nhàn nhạt bốc lên.

Mộ Dung Vô Phong vừa hãm cho mình một tách trà, vừa mới nâng chén lên, thử độ ấm, đang chuẩn bị thưởng thức thì liền thấy “binh” một tiếng, cửa bị đẩy bật ra, có người từ ngoài xông vào.

Chàng nhíu mày, không vui khi bị người khác làm phiền vào lúc này. Khi bốn mắt nhìn nhau, người kia hóa ra là Hà Y. Trên mặt nàng mang đầy vẻ sợ hãi, nhìn thấy dáng vẻ Mộ Dung Vô Phong an nhiên như thế thì ngạc nhiên mà ngây ra, lắp ba lắp bắp nói: “Chàng… chàng…”

Chàng đợi nàng nói tiếp nhưng Hà Y đã “bịch” một tiếng, đột ngột ngã quỵ xuống.

Lúc tỉnh lại Hà Y phát hiện bản thân đang nằm trên một cái giường rất dễ chịu, rất ấm áp. Đưa mắt nhìn quanh, căn phòng hoàn toàn xa lạ, nhưng chăn và rèm trên giường thì dường như đã từng thấy.

Trên trán nàng có dán một miếng cao, đưa tay sờ một cái thì thấy có chỗ sưng, đã nhô lên thành một cục to tướng, giờ hãy còn đau rát.

Gian phòng rất sạch sẽ, sàn trải thảm lông màu đỏ tươi, trên bàn có thắp đèn, ánh sáng leo lét, tựa hồ chỉ miễn cưỡng chiếu tới người áo trắng đang ngồi yên lặng bên cạnh bàn.

Ngoài song cửa ánh trăng tuôn chảy vào như nước, hơi lạnh buôn buốt của mùa thu từng chút, từng chút ngấm vào phòng.

Hà Y ngồi dậy, nhận ra trên người mình đang mặc một bộ đồ trắng muốt bằng lụa.

“Ta đã giúp nàng thay quần áo. Lúc nàng ngã, trà của ta rơi đổ hết lên người nàng. Còn may ấm trà đó không nóng lắm”, Mộ Dung Vô Phong ngồi trên ghế cách giường gần một trượng.

“Nàng đột ngột ngã, chẳng may đầu đụng vào góc sạp”, chàng lạnh nhạt bổ sung thêm một câu: “Ta vốn có thể đỡ được nàng, chỉ là hoàn toàn không ngờ rằng nàng cũng có thể ngã quỵ như thế”.

Hà Y không nói gì, mãi một lúc sau mới từ từ mở miệng: “Tim của chàng càng lúc càng vững hơn, đây chẳng phải chuyện tốt sao?”, tiện tay kéo chăn, nằm dựa trên giường.

“Ở với ai đó, không có một quả tim vững thì không được”, chàng bóng gió một câu.

Nàng cười nhạt một tiếng.

“Tìm ta gấp như thế, lại có việc gì cần ta dốc sức chăng?”, chàng quay đầu đi, lãnh đạm hỏi tiếp.

Nàng nghĩ một chút rồi nói: “Không có”.

“Nếu không có việc gì, nàng nghỉ ngơi một chút là có thể quay về rồi”, mặt chàng lạnh tanh nói: “Chúng ta đang ở trong một khách điếm, cách tiêu cục của nàng không xa. Ta đã phái người báo cho tiêu cục, không lâu nữa bọn họ sẽ mang quần áo sạch sẽ đến”.

Khi nói câu này chàng đã xoay mình, chuyển động xe lăn, chuẩn bị ra khỏi phòng.

Nàng sững người nhìn chàng, không biết phải làm thế nào mới được.

“Chàng… chàng đừng có đi”, nàng cuống quýt gọi lớn: “Nếu như chàng bỏ đi, không thèm để ý tới ta nữa, ta sẽ… ta sẽ cắt hết tóc cho mà xem”.

Nói xong nàng đưa tay với thanh kiếm của mình ở đầu giường, rút kiếm cắt mái tóc dài của mình xuống.

Đến lúc chàng chạy tới, mái tóc đen tuyền suôn dài, mềm mượt như tơ đã bị cắt xuống một đoạn dài. Chàng giữ lấy tay nàng, đem thanh kiếm ném xuống đất, than: “Nếu nàng không vui thì cứ cắt tóc ta, sao lại tự cắt tóc mình? Để ta xem, còn lại được bao nhiêu đây? Sau này chớ có làm việc ngốc ngếch như thế nữa”.

Nàng không nói gì, chỉ lặng lẽ xuống giường, ngoan ngoãn quỳ xuống, đầu gối lên hai chân chàng, nước mắt giàn giụa nói: “Chàng… chàng đừng bỏ mặc ta…”.

Chàng nhẹ nhàng vuốt tóc nàng, hồi lâu mới dịu dàng hỏi: “Trán còn đau không?”.

“Trán không đau, tim đau”, nàng nói.

Chàng cười khổ: “Tim của nàng cũng đau?”.

“Chàng… chàng làm người ta lo muốn chết”, nàng lẩm nhẩm.

Bàn tay chàng nâng nàng dậy, ôm nàng vào lòng, đưa về giường, kéo chăn cho nàng: “Bên ngoài lạnh, cẩn thận kẻo nhiễm lạnh”.

Tiếp đến, chàng lấy trong người ra một vật, ướm lên tay nàng.

Đó là một chiếc nhẫn hồng ngọc nhỏ, hơi rộng một chút. Thử một lượt, chỉ có ngón giữa mới đeo vừa. Nàng hạnh phúc nhìn chàng, mặt đỏ ửng lên rồi dịu dàng vuốt ve mặt nhẫn, bên trên lồi lồi lõm lõm, hình như có khắc mấy chữ nhỏ.

“Bên trên là những chữ gì thế?”, nàng đưa lên gần mắt, tỉ mỉ xem xét.

“Nàng không nhận ra?”, chàng nhìn nàng hỏi, có chút lúng túng.

“Không nhận ra. Hình như là bốn chữ.”

Chàng thở dài thườn thượt, lấy bút, viết lên giấy bốn chữ triện thư.

Hà Y nhìn trái ngó phải, vẫn lắc đầu quầy quậy.

“Đây là triện thư, có lẽ nàng không nhận ra. Khải thư sẽ viết như thế này”, chàng lại viết một lượt.

Hà Y nheo mày, nghĩ rất lâu, nói: “Nhiều nét thế này, người ta làm sao nhận ra được? Có điều, bên trong hình như có một chữ ‘trùng’[1]… phải không? Vô Phong, sao chàng lại ra sức bứt tóc mình làm gì?

[1]Chữ Phong trong Mộ Dung Vô Phong, ở giữa có chữ / bộ trùng.

Mộ Dung Vô Phong nói: “Sau này kể cả nàng quên sạch tất cả những chữ nàng biết cũng không sao, nhưng bốn chữ này nàng nhất định phải nhớ”.

“Hử!”, nàng nói.

“Bởi vì đây là bốn chữ ‘Mộ Dung Vô Phong’.

Hà Y nhìn bộ dạng sốt ruột của chàng, ngẩn ra một chút rồi “hi hi” một tiếng, đột nhiên cười phá lên, cười đến mức chân đạp loạn trên giường, không ra hơi nữa.

“Nàng cười cái gì!”

“Ha ha… ha ha… làm gì có chuyện ta không nhận ra bốn chữ này?

Cho dù xé thành tám mảnh ta cũng nhận ra. Người ta đùa chàng thôi!”

Chàng ngẩn người, tiếp theo cũng bật cười: “Một năm không gặp, nàng trở nên gian xảo thế này từ bao giờ vậy?”, chàng nhìn nàng nằm trên giường cười tới run hết cả người, chiếc áo lụa từ vai trượt xuống một đoạn, bộ ngực thanh khiết như đóa sen lúc ẩn lúc hiện bày ra dưới lớp áo lụa. Lòng chàng chợt rung động, không nhịn được cúi xuống nhẹ nhàng hôn lên.

Nàng vuốt tóc chàng, nói: “Lúc ta không ở bên, chàng sống như thế nào? Ngọn núi lần trước chúng ta đi, chàng có thường quay lại không?”.

“Không đi nữa.”

“Chàng cả ngày chỉ biết làm việc… trước giờ chẳng chịu nghỉ ngơi cho tốt”, nàng than.

“Nếu nàng chịu theo ta trở về, chúng ta sẽ lên ngọn núi đó chơi một chuyến. Lần trước chúng ta cũng chỉ mới tới có một nơi mà thôi”, chàng thì thầm bên tai nàng.

“Nghe nói trong núi ấy có dã nhân đấy, chỉ đáng tiếc chúng ta chưa được thấy”.

“Gặp qua rồi. Sao lại chưa từng thấy?”, chàng nói.

“Gặp lúc nào?”, nàng ngạc nhiên nói.

“Trước mặt nàng không phải có một con đấy sao?”.

Nàng bật cười ha ha, nói: “Sao lại không! Con người này rất là ngốc ngếch ngờ ngệch, đúng là một đại dã nhân”.

“Hà Y, về cùng ta đi”, chàng lại nói

“Tháng sau ta còn một chuyến tiêu, đã nhận lời từ trước rồi. Áp xong chuyến tiêu ấy ta sẽ nói với Tần lão tiên sinh, ta không làm nữa”, nàng thở dài một tiếng nói: “Dù ta không yên tâm về chàng nhưng cũng không thể nói đi là đi luôn được”.

“Nàng sẽ không đổi ý nữa chứ?”.

Nàng vuốt ve mặt chàng, nói “Không đâu. Ta phải ở bên cạnh chàng trông chừng chàng, nếu không chàng sẽ… sẽ không uống thuốc đúng giờ, không ăn uống tử tế, không nghỉ ngơi, suốt ngày đổ bệnh. Ngày ngày ở bên cạnh chàng, còn hơn là ta phải ở đây thấp tha thấp thỏm”.

“Nàng… sao nàng lại tốt với ta đến thế?”, chàng cúi đầu, giọng có chút run rẩy.

Hà Y nắm tay chàng, dịu dàng nói: “Bởi vì ta yêu chàng”.

“Nhưng ta… ta… là… nàng sống cùng với ta, sẽ… sẽ rất phiền phức”, chàng lại càng cúi đầu thấp hơn.

Nàng nâng khuôn mặt chàng lên, nhìn vào mắt chàng, khẽ nói: “Không ở cùng với chàng, ta sẽ chết mất, sống mà như chết”.

Hai người lại siết chặt lấy nhau.

“Ta phải đi. Ta không thể ở đây cả đêm được, để thuộc hạ của chàng nhìn thấy thì biết nói sao”, nàng cắn vành tai chàng, nói.

Chàng giữ lấy cánh tay nàng, nói: “Nàng còn sợ cái gì? Hôm đó trong phòng khám của ta, là ai đã hét toáng lên, để toàn bộ người trong cốc biết chúng ta ngay đến con cũng từng có rồi?”.

“Ta nói gì sao à? Ta nói sai sao?”, nàng lập tức nhảy dựng lên quát.

“Không sai, không sai”, chàng cuống quýt kéo nàng, chỉ sợ nhắc tới việc này nàng lại nổi trận lôi đình, giận dỗi bỏ đi.

“Hai người chúng ta ở cùng nhau cũng chẳng có gì sai!”, nàng tức giận nói: “Chúng ta cũng hoàn toàn giống như những người khác, chỉ là trình tự có chút tráo đổi mà thôi”.

“Chẳng có gì sai?”.

“Hoàn toàn không sai!”.

“Một chút xíu cũng không?”.

“Ai muốn nói gì thì cứ mặc kệ hắn.”

“Kẻ nào dám nói, ta sẽ bảo hắn cút ra khỏi cốc.”

“Này, từ bao giờ chàng lại đứng về phía ta như thế rồi?”

“Chúng ta cùng phe mà. Mấy việc đó, không có ta, nàng làm thế nào được?”

“Nhưng lúc bắt đầu, là chàng không đúng!

“Sao lại không đúng?”

“Ngày hôm ấy, ở… ở trong khách điếm mà ta không nhớ nổi tên, chàng… chàng không thành thực trước!”

“Đó không phải là bắt đầu.”

Hà Y hỏi: “Sao lại không phải là bắt đầu?”.

“Bắt đầu là vào ngày nàng đứng trong thư phòng của ta, mặc một bộ váy màu tím nhạt. Nàng có nhớ không? Bên dưới bộ váy đó còn thêu một đóa hoa tròn tròn nho nhỏ. Cổ áo bên trái có một hàng nút màu đỏ? Nàng nói ‘Xin chào, Mộ Dung tiên sinh. Tôi họ Sở, tên là Hà Y. Là một kẻ bôn tẩu giang hồ, ngoại hiệu là Độc hành tiêu’.”

Hà Y nghe mà ngơ ngác, nói: “Chàng… chàng bảo ta đến ở Thính Đào Thủy Tạ, là bởi vì… bởi vì.. chàng sớm đã… sớm đã mang ý đồ xấu?”.

“Ha ha”, chàng cười nói: “Chúng ta thương lượng chuyện tiếp theo đi”.

Hà Y nói: “Tiếp theo còn chuyện gì nữa?”.

“Về đến cốc, chúng ta không thể lại chẳng nói chẳng rằng cứ thế ở với nhau được, tóm lại vẫn phải để mọi người biết.”

“Chàng muốn nói, làm đám cưới?”

“Tuy ta ghét nhất là ồn ào, nhưng đây nói gì cũng là việc trọng đại đầu tiên của nàng ở kiếp này, nếu như nàng thích náo nhiệt một phen, ta cũng không phản đối”, chàng nắm tay nàng nói.

Nàng chợt cúi thấp đầu, không nói gì nữa.

“Làm sao thế?”, chàng vội vàng hỏi.

“Vô Phong, từ trước đến giờ ta chưa từng nói với chàng về thân thế của ta, giờ chàng muốn nghe không?”, nàng chợt yếu ớt tựa lên vai chàng.

“Nếu nàng không muốn nói thì đừng nói. Ta không thật sự cần biết”, chàng vỗ về nàng, dịu dàng nói: “Ta chỉ muốn làm người thân của nàng, thế thôi”.

“Ta không biết cha mẹ mình là ai. Sau khi được sinh ra liền được người ta vứt bên hồ. Người ta thường đem dìm chết các bé gái ở đó. Ta nghĩ đại khái cha mẹ ta cũng định làm như thế, chỉ có điều đến thời khắc cuối cùng lại không thể xuống tay nổi… Người nhặt ta về là một ni cô, tên của ta cũng là do bà ấy đặt cho.”

Đôi tay chàng nhẹ nhàng vòng qua ôm lấy eo nàng, than thở: “Những việc này, nhất định là nàng chưa từng kể với bất kỳ ai”.

Hà Y gật đầu, nói: “Chàng nghe rồi, sau này liệu có coi thường ta không?”.

“Đương nhiên là không.”

“Ni cô đó pháp hiệu là Tố Thủy Nguyệt, tính khí rất cổ quái, thường vô duyên vô cớ nổi giận với ta. Cho nên, năm lên bốn ta quả thực không chịu nổi nữa, liền chạy khỏi am ni cô. Lúc ấy, vừa may ở đầu đường có một đoàn xiếc thú đi qua, ông chủ đoàn liền thu nhận ta, dạy ta với mấy đứa trẻ khác học uốn dẻo. Chẳng bao lâu, ta đã có thể biễu diễn trên phố rồi.”

Mộ Dung Vô Phong hỏi: “Thế nào gọi là uốn dẻo?”.

Hà Y vươn tay ra, nói: “Chàng cầm ngón tay ta kéo ngược lại”.

Chàng cầm ngón tay nàng kéo nhè nhẹ, phát hiện ra ngón tay của nàng có thể gập lại rất thấp, gập ở một góc người bình thường vốn chẳng thể nào làm được.

“Luyện môn công phu này nhất định rất cực khổ, trẻ con sao có thể nguyện ý luyện đây”, chàng không kìm được than.

“Có roi da ở phía sau quất chàng, chàng sẽ bằng lòng thôi”, nàng cười khổ: “Ta sống ở đoàn xiếc thú tới năm tám tuổi, người bán nghệ ngoài đường nghèo khó, so với ăn mày cũng chẳng khác là bao. Bọn ta rất hay phải sống những ngày có bữa sáng không bữa tối. Những đứa trẻ cùng luyện xiếc với ta có một nửa không chịu nổi đòn roi, đứa chạy được thì chạy, đứa trốn được thì trốn, cũng không biết sau này ra sao. Nửa còn lại, lúc biểu diễn bị thương, sinh bệnh không có tiền chữa, dần dần không đi được nữa, liền bị quẳng lại ven đường, tự sinh tự diệt. Sau cùng cả sư phụ cũng bệnh chết, ta thành một đứa lang thang.”

“Sao nàng không chạy?”, chàng hỏi, nhớ lại những vết roi mờ mờ trên người nàng.

“Ta vốn từ am ni cô chạy tới đó, đại khái sợ chạy rồi.”

“Sau đó Trần Thanh Đình thu nhận nàng?”, chàng đón lời nàng.

“Ừm”, Hà Y không nói tiếp nữa, có lẽ những ngày tháng ở Trần gia cũng chẳng lưu lại cho nàng ấn tượng gì tốt đẹp.

“Hà Y, sẽ không có những ngày tháng đày đọa ấy nữa đâu. Hãy tin ta”, chàng ôm nàng thật chặt, thân thể nàng khẽ run rẩy trong lòng chàng.

“Nếu chàng chịu thương lấy thân mình, thế… thế là tốt nhất rồi”, nàng hôn chàng, nói.

Ngày hôm sau, trời còn chưa sáng, hai người ngọt ngọt ngào ngào tỉnh lại, Hà Y liền nhảy qua cửa sổ chuồn đi. Trên đường trở về tiêu cục, nàng lại gặp được Tần Vũ Mai. Hai người vừa gặp liền nhìn nhau cười.

“Vừa mới về hả?”, Hà Y có chút ngượng ngập hỏi.

“Ừm”, Tần Vũ Mai thì không xấu hổ chút nào, nói: “Tỷ trốn ra cửa sau hay nhảy cửa sổ?”.

“A… việc này… là nhảy cửa sổ.”

“Muội cũng thế. Vốn nên là huynh ấy nhảy, đáng tiếc huynh ấy không biết võ công, đành phải để muội thôi.”

“Không sao, ai nhảy cũng thế.”

“Việc hôm trước muội hỏi tỷ có lẽ sắp thành sự thật rồi.”

“Không thành vấn đề. Muội cứ tìm Mộ Dung Vô Phong là được.”

“Từ bao giờ tỷ lại có thể thay mặt hắn nói chuyện như vậy?”, nàng nheo nheo mắt, cười nói: “Xem huynh ấy dáng vẻ văn nhã như thế, thật không thể ngờ lại có khả năng khiến tỷ phải rơi lệ cơ đấy.”

“Chàng hung ác lắm ấy!”

“Hung ác chỗ nào? Muội lấy thương đâm hắn!”

“Đừng… người ta… người ta đến một con muỗi cũng không đánh chết nổi.”

“Ài, vị kia của muội cũng thế. Bao giờ chúng ta đến chỗ huynh ấy nếm những món huynh ấy thường làm được không?”

“Được thôi. Vị kia của ta nhất định phải dùng đĩa của mình, Tiết đại sư chắc không phiền chứ?”

“Buồn cười, huynh ấy xào đồ ăn chứ có phải xào đĩa đâu. Có điều, vị kia của tỷ cũng quá kỹ tính thì phải? Xem lần trước bày đồ ra là biết.”

“Cũng là ưa sạch thôi mà.”

“Đêm qua như thế nào?”, hai người từ phía sau nhảy qua tường vào phủ, Vũ Mai nằm xoài lên giường của Hà Y, y phục của hai người đều ướt đẫm sương sớm, mỗi người đành cuốn một cái chăn, ngồi trên giường tâm sự.

“Nói chuyện thôi.”

“Nói chuyện suông à?”

“Ừm.”

“Thuần khiết thế sao?”

“Lại không à, đến tay còn không hề đụng đấy.”

“Nói chuyện như thế nào?”

“Muội ngồi trên ghế của muội, huynh ấy ngồi trên ghế của mình, cách một cái lò, trên đấy đun trà, hai người bọn muội mỗi người một tách trà, cứ thế mà nói chuyện cả đêm.”

“Nếu đã nói chuyện kiểu ấy, muội cứ từ cửa lớn ngẩng cao đầu mà ra vào là được rồi, cần gì phải nhảy cửa sổ nữa?”, Hà Y bật cười.

“Tỷ thật sự muốn gả cho huynh ấy sao?”

“Ừm.”

“Chân của huynh ấy… xem ra thì đến một bước cũng chẳng đi nổi, tỷ thật sự không bận tâm sao?”

“Sao lại không đi nổi lấy một bước? Chống nạng thì có thể đi được mấy bước đấy. Bọn ta còn cùng nhau leo núi rồi cơ.”

“Nhìn mặt tỷ đỏ hồng thế kia, cứ như bị người ta dùng Sưu Hồn[2] Đại Pháp rồi đấy.”

[2]Bắt hồn.

“Sưu Hồn Đại Pháp, cũng chẳng phải nam nhân nào cũng dùng được đâu nhé.”

“Vậy cứ quyết định như thế đi, ngày bọn tỷ uống rượu hỷ cũng là ngày muội bỏ trốn.”

“Cha mẹ muội cưng chiều muội như thế, bọn họ cũng không phải là người không nói lý lẽ đâu.”

“Hừm. Tỷ có biết bọn họ đối xử thế nào với người yêu trước kia của muội không?”

“Trước đây muội còn có một người yêu nữa?”

“Cho nên mới nói kể cả là người thân của tỷ, cũng chỉ tới lúc quan trọng tỷ mới biết bọn họ có thật sự yêu thương tỷ hay không?”

Nghe thấy Vũ Mai nói câu lạnh lẽo như thế, Hà Y cũng thoáng rùng mình: “Đến lúc đó muội cứ tới Vân Mộng cốc tìm ta. Chỗ chàng… ngay ngoài chỗ chàng có một thị trấn lớn, ở đó có không ít tửu lâu, mưu sinh chắc không có vấn đề.”

“Được, thế là tốt rồi”, Vũ Mai vỗ vỗ vai Hà Y.

Mộ Dung Vô Phong ở lại phủ Thái Nguyên bầu bạn với Hà Y thêm ba ngày nữa, ngày thứ tư mới lưu luyến chia tay, quay về nam.

Hà Y cứ theo kế hoạch áp tải chuyến tiêu cuối cùng của năm nay, vì muốn nhanh chóng đoàn tụ với Mộ Dung Vô Phong, nên bất kể ngày đêm, đi thẳng một mạch, về tới Thái Nguyên cũng đã là đầu tháng Mười một. Thay xong y phục, trở về phòng thì thấy trên bàn có một phong thư, lạc khoản đề sáu chữ “Vân Mộng, Mộ Dung Vô Phong”. Hỏi thì biết phong thư được gửi đến đã lâu, nhưng vì nàng áp tiêu bên ngoài, không sao gửi tới tay nàng được. Nàng mở bao thư, bên trong có một chiếc hộp be bé, mở hộp, bên trong là một chuỗi hồng đậu, tuy có dùng chỉ xuyên lại những vẫn có chút xô lệch.

Nàng nhớ trong sân Trúc Ngô viện có một cây hồng đậu, đem từ phương nam về trồng, trồng rất nhiều năm nhưng vì khí hậu không hợp, trước giờ chưa từng nở hoa, cũng chưa hề kết hạt.

Một tờ giấy, bên trên có mấy hàng chữ của chàng:

“Hà Y,

Cây hồng đậu trong sân nhà chúng ta cuối cùng đã nở hoa rồi. Những hạt đậu này đều là của cây ấy kết được. Bao giờ nàng áp xong chuyến tiêu ấy, lập tức về với ta, ta sẽ làm thịt kho tàu cho nàng ăn. Nếu như nàng trì hoãn không về, chỉ biết ham chơi bên ngoài, vậy thì kiếp này chớ có nghĩ đến việc ăn thịt kho tàu do ta nấu nữa.

Vô Phong viết.”

Cách mấy hàng, lại viết thêm một dòng nhỏ:

“Mấy hạt hồng đậu đó là do ta tự trèo lên cây hái xuống. Nếu nàng muốn xem bộ dạng ta lúc trèo cây vậy thì lập tức về đây, ta lại trèo cho nàng xem. Về quá muộn, vậy cũng đừng hòng được xem nữa.

Tái bút.”

Lúc đọc thư, Tần Vũ Mai đang đứng ngay bên cạnh.

Hà Y úp thư xuống, nhìn nhìn Vũ Mai, hai má đỏ ửng lên.

“Cưỡi ngựa của muội ấy, ngựa của muội phi nhanh”, Vũ Mai cười khẽ, nói: “Huynh ấy quả nhiên có Sưu Hồn Đại Pháp.”

“Còn cha muội…”

“Tỷ đi trước đi, muội sẽ đi nói với cha.”

“Vậy đa tạ muội. Nhớ đến tìm ta nhé.”

“Vâng”, nàng ôm lấy Hà Y đột nhiên bật khóc.

Chương 22

Cứ như thế, đến y phục cũng chẳng buồn thay, Hà Y lại chạy ngày chạy đêm về nam.

Vốn cần tới bảy ngày đường, vậy mà đến chiều ngày thứ tư nàng đã vượt qua con sông mây mù dày đặc, không lâu sau thì nhìn thấy cổng lớn màu đỏ tía của Vân mộng cốc.

Thiếp về rồi đây!

Tim nàng đập thình thịch, mồ hôi mồ kê ròng ròng nhưng đang được bao bọc trong niềm vui hạnh phúc

Đi qua cửa lớn, nàng chỉ cười một cái với người giữ cửa đang há hốc mồm kinh ngạc rồi chẳng thèm xuống ngựa mà chạy thẳng tới Trúc Ngô viện.

Cửa viện đóng chặt.

Nàng mỉm cười. Tính tình của chàng chẳng thay đổi chút nào, vẫn cứ giữ bộ dạng chẳng muốn gặp ai.

Nàng đẩy cửa, chợt phát hiện cửa đã bị khóa, không khỏi nảy sinh chút cảm giác kỳ quái. Nàng đành gõ cửa. Một lúc lâu sau, cửa viện “két” một tiếng được đẩy mở, người mở cửa lại là Triệu Khiêm Hòa. Khuôn mặt Hà Y chợt tái đi.

“Cốc chủ…”, nàng run rẩy hỏi: “Không ở đây?”

“Sở cô nương!”, Triệu Khiêm Hòa cũng giật nảy mình nói: “Mấy hôm trước bọn tôi vừa phái người đến Thái Nguyên tìm cô, sao hôm nay đã về tới rồi?!”.

“Chưa thấy ai tới tìm tôi cả! Tôi vừa áp tiêu xong, nhận được thư của cốc chủ liền quay về.”

“Thư của cốc chủ? Thư nào, gửi bao giờ? Viết gì thế?”, ông ta sốt ruột đến mức mồ hôi tứa ra ướt đẫm trán, rồi chẳng thèm để ý tới việc nam nữ thụ thụ bất thân, túm tay áo nàng kéo thẳng đến phòng khách. Tạ Đình Vân và Sái Tuyên đang ở đó

“Rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì rồi?”.

“Thư của cốc chủ, bọn tôi nhất định phải xem!”, Triệu Khiêm Hòa nói

“Đó là thư riêng gửi cho tôi. Rốt cuộc là có chuyện gì?”, Hà Y lạnh lùng nói, vô thức sờ chuỗi hồng đậu đeo trên cổ.

Triệu Khiêm Hòa suy sụp tinh thần cúi gằm đầu xuống.

Tạ Đình Vân bước tới nói: “Triệu tổng quản, Sở cô nương là người trong võ lâm, gan dạ hơn người bình thường nhiều, chúng ta nên nói thật cho cô ấy biết.”

Hà Y lo lắng nhìn ba người, trong lòng biết Mộ Dung Vô Phong có chuyện rồi.

“Sở cô nương, cốc chủ mất tích rồi”, Tạ Đình Vân sầu thảm nói.

“Mất tích!”, Hà Y kinh hãi, “Lúc nào?”.

“Ba ngày trước”, Tạ Đình Vân đau xót nói.

Hai chân của Mộ Dung Vô Phong hoàn toàn bị liệt, đi nửa bước còn khó, không thể có chuyện chàng tự mình đi khỏi được. Huống chi từ trước đến giờ chàng đều không muốn người trong cốc phải lo lắng, bất kể là đi đâu cũng sẽ nói rõ từ trước.

Chàng mất tích, chỉ có một khả năng duy nhất, cũng là việc đã từng xảy ra, chính là bị kẻ khác bắt đi.

“Năm ngày trước người trong phủ cửu gia tới, nói rằng cửu gia lâm bệnh nặng. Cốc chủ nghe thế vội đi ngay trong đêm. Nơi cửu gia ở cách Thần Nông trấn không xa, bọn tôi đã phái hai mươi người đi cùng, hai mươi người này đều là cao thủ trong cốc. Tôi vốn cũng định đi cùng nhưng mấy ngày này thê tử của tôi đang lâm bồn, cốc chủ nhất định bắt tôi phải ở nhà”, ông ta ngừng một chút rồi nói tiếp, “Cốc chủ tới nhà cửu gia, xem bệnh cho lão nhân gia, rồi bốc thuốc, nói là không có gì đáng ngại, tới ngày hôm sau thì quay về. Cốc chủ chính là mất tích trên đường quay về. Cả một đoàn người, từ người đánh xe, tùy tùng cho tới cả ngựa đều trúng loại thuốc mê rất lạ. Đến khi mọi người tỉnh lại thì phát hiện ra cốc chủ đã không còn trên xe nữa.”

Hà Y thở ra một hơi khí lạnh: “Là Đường môn?”.

Tạ Đình Vân gật đầu, nói: “Không sai. Trên giang hồ, kẻ thù của Vân Mộng Cốc không nhiều, nhưng Đường môn lúc nào cũng như hổ đói gằm ghè chúng ta. Nhất là năm nay cốc chủ còn ra một cuốn Vân Mộng nghiệm án loại thuyết, bên trong có một chương chuyên nói về độc dược của các đại môn phái và phương pháp giải độc”.

Hà Y thở dài một tiếng, hỏi: “Thân thể chàng đã không được khỏe… mà cũng viết sách?”.

Tạ Đình Vân cười khổ nói: “Cốc chủ học thức uyên bác, lại thông minh cần cù hơn người, sách của người trước giờ bán chạy khắp thiên hạ, là thứ những người hành nghề y phải đọc. Từ xưa đến nay người luôn căm ghét nhân sĩ trên giang hồ vì thù oán nhất thời mà dùng độc hại đến người vô tội. Cho nên trong cuốn sách kia, người đã công bố một vài loại độc dược phổ biến và cách giải. Với nhiều loại độc dược kỳ lạ hiếm gặp của Đường môn, tuy người biết cách giải, nhưng cũng chiếu cố tới thể diện của Đường gia nên không hề đem viết vào trong sách. Nhưng kể cả như thế, việc này vẫn chọc giận tới Đường môn. Lúc cốc chủ tới gặp cô nương, dọc đường bọn tôi đều hết sức cảnh giác. Chỉ là sau khi quay về, cốc chủ cả ngày đều rất vui vẻ, phân phó bọn tôi chuẩn bị lo liệu… lo liệu… hôn sự. Bọn tôi cũng vui tới mức hồ đồ cho nên mới mất cảnh giác”.

Mặt Hà Y hơi đỏ lên, than rằng: “Nếu đúng là Đường môn, tôi nghĩ ông có đi cũng chẳng có cách gì. Thư của chàng viết từ một tháng trước, lúc ấy tôi còn đang áp tiêu bên ngoài, xem ra không có liên quan gì tới việc này”.

Triệu Khiêm Hòa nói: “Chúng tôi vẫn luôn đợi cô nương quay về”.

Hà Y nói: “Theo các vị thấy, rốt cuộc bọn chúng muốn làm gì chàng? Đổi lấy một món tiền lớn chăng?”

Triệu Khiêm Hòa thở dài một tiếng: “Nếu như việc này có thể dùng tiền giải quyết, thì sớm đã giải quyết xong rồi. Nếu như có thể đổi cốc chủ về, kể cả là đem bán Vân Mộng cốc cũng chẳng thành vấn đề”.

Sái Tuyên nói: “Bây giờ tiên sinh đang nằm trong tay bọn chúng, chúng ta không thể hành động tùy tiện”.

Hà Y run giọng nói: “Bọn chúng… bọn chúng có hành hạ chàng không?”.

Ba người kia đột nhiên cùng im lặng, cúi gằm đầu xuống.

Tim Hà Y chùng hẳn xuống: “Bọn chúng dọa là sẽ hại chàng, đúng không?”

Ngập ngừng hồi lâu, Tạ Đình Vân mới ngẩng đầu, mặt mày đau xót, nói từng chữ một: “Có thể bọn chúng đã hại cốc chủ rồi”

“Ông nói sao?”, Hà Y run bắn người, gần như không đứng nổi nữa.

“Sở cô nương, cô không sao chứ?”.

Hà Y bình tĩnh lại, nói: “Không sao. Gan của tôi không nhỏ. Bất kể đã có chuyện gì, xin các vị nhất định phải nói cho tôi biết chân tướng”.

Tạ Đình Vân sa sầm mặt mày, nói: “Được. Sở cô nương xin đi cùng tôi”.

Bốn người lặng lẽ ra khỏi cửa viện rồi rẽ trái, đi trên một hành lang khác. Đi cũng không xa bỗng thấy một cánh cửa nhỏ màu lục. Hà Y không quen thuộc lắm với địa hình Vân Mộng cốc, những nơi từng biết tới, đa phần cũng chỉ trong Ngô Trúc viện. Cánh cửa nhỏ này nàng chưa từng thấy qua.

“Nơi đây gọi là ‘Băng thất’, là nơi cốc chủ từng tới nhưng nhất định là chưa từng nhắc tới với cô nương”, Triệu Khiêm Hòa nói.

Cửa phòng mở ra, bên trong là một bờ dốc thoai thoải, một bên là bậc thang, song song với bậc thang là một đường dốc trơn phẳng, hai bên đều có tay vịn và lan can, lại buộc lụa trắng, hiển nhiên là để Mộ Dung Vô Phong chuyên dùng.

Bốn người xuống đáy dốc, lại có một cánh cửa, cạnh cửa có một tủ áo, mỗi người đều từ trong ngăn tủ của mình lấy ra một tấm áo da rồi khoác vào. Sái Tuyên lấy từ một ngăn trong đó ra một tấm áo lông chồn tuyền một màu trắng đưa cho Hà Y, nói: “Đây là của cốc chủ, xin cô nương mặc vào, bên trong rất lạnh”.

Mặc xong áo, mở cánh cửa đó ra, một luồng hơi lạnh buốt phả thẳng vào mặt.

“Có ba nam nhân chúng tôi ở bên cạnh, hy vọng cô nương không cần sợ. Nơi đây chuyên dùng để các đại phu giải phẫu, nghiên cứu các chứng bệnh. Bên trong lưu trữ không ít thi thể vô danh. Thường thì cốc chủ hễ đến đây là ở liền một mạch mấy canh giờ. Chứng phong thấp của ngài không khỏi nổi mà còn càng ngày càng nặng cũng có liên quan tới chuyện này.”

Hà Y chợt hiểu vì sao Mộ Dung Vô Phong có bệnh ưa sạch rồi.

Lúc mở cánh cửa cuối cùng ra, bên trong là một khoảng không gian rộng và cũng rất sáng sủa, bốn bức tường xung quanh đều thắp những ngọn nến lớn.

Trong căn phòng lạnh lẽo buốt xương đặt khá nhiều bàn đá, có vài cái để trống.

Người là người chết. Nam có, nữ có.

Mọi người đi vòng qua bàn đá tới một gian phòng khác nhỏ hơn, trên cái bàn đá giữa phòng có đặt một hộp gấm hình chữ nhật. Như Hà Y thấy, nó giống như hộp chứa đàn mà những người phú quý thường dùng.

Ba người đồng loạt quay qua nhìn Hà Y, thần sắc cực kỳ nặng nề, không ai nói gì.

Tựa như cảm thấy mình sắp phải nghe một tin cực kỳ tồi tệ, Hà Y không tự chủ được, lùi lại dựa lưng vào tường.

“Lão Tạ, ông nói đi”, Triệu Khiêm Hòa thở dài, cuối cùng cũng mở miệng.

“Xin lỗi, tôi biết đây là một tin rất tồi tệ, có điều cô nương không thể không biết.”

Hà Y nhìn ông ta, nói: “Nói đi”.

“Bọn chúng đã chặt một chân của cốc chủ, bỏ vào cái hộp này gửi tới đây”, Tạ Đình Văn nhìn nàng chằm chằm không chớp mắt, rồi đưa tay ra phòng trường hợp nàng đột nhiên ngất đi.

Thân hình Hà Y lay động, nói: “Mở hộp ra, để tôi xem xem”.

Trong hộp quả nhiên có một cái chân, một cái chân gần như hoàn chỉnh.

Nếu là một cánh tay, có thể Hà Y sẽ không nhận ra ngay lập tức, nhưng chân của Mộ Dung Vô Phong vốn không giống người thường.

Tạ Đình Vân hít thật sâu, nói: “Từ nhỏ hai chân của cốc chủ đã tàn phế, tuy người sớm đã quen với sự bất tiện ấy nhưng đối với sự tàn phế của mình, từ trước đến giờ người đều rất kiêng kị. Người tuyệt đối không dễ dàng để người khác chạm vào người mình”

Triệu Khiêm Hòa nói: “Cho nên ở trong cốc, những người từng nhìn thấy đôi chân của cốc chủ cũng chỉ có mấy người chúng tôi đây mà thôi”.

Sái Tuyên nói: “Người cuối cùng nhìn thấy đôi chân của cốc chủ khi người còn ở trong cốc là tôi, đó là hơn một năm trước. Có điều tôi nhớ rất rõ, chân của người không hề có những vết sẹo lớn như thế. Cho nên cái chân này… liệu có phải là giả không?

Nói xong, ba người cùng quay sang nhìn thẳng vào Hà Y. Mọi người đều biết, mấy tháng trước Mộ Dung Vô Phong đã đi Thái Nguyên.

Hà Y nhắm mắt lại, nhẹ nhàng sờ vào cái chân lạnh giá, dường như nó vẫn đang nằm trên người Mộ Dung Vô Phong, run rẩy nói: “Trên chân chàng đúng là có vết sẹo này. Tôi còn từng hỏi chàng”.

Sái Tuyên vẫn chưa bỏ cuộc, lại nói: “Sẹo cũng có thể làm giả”.

Hà Y nói: “Móng chân cũng là do tôi cắt. Tôi có thủ pháp dùng dao của riêng mình”.

Tạ Đình Vân tuyệt vọng nói: “Nói như vậy, đây… khẳng định là chân của cốc chủ”.

Hà Y gật đầu.

Gốc của chân có dùng một mảnh vải lụa che lại. Hà Y căn bản không dám đưa mắt nhìn về hướng đó, càng không dám mở tấm vải ra xem kỹ. Nàng cảm thấy bản thân mình đã tới ranh giới của sự suy sụp.

Ba người kia lặng lẽ nhìn khuôn mặt nàng tái nhợt đi, mồ hôi lạnh túa ra đầy đầu, ngực phập phồng gấp gáp.

Qua một lúc lâu, nàng mới từ từ định thần lại hỏi: “Vết thương ấy, Sái đại phu, ông có nhìn ra vết thương ấy gây ra thế nào không?”.

“Dùng đao. Một đao chặt đứt.”

Nàng cắn chặt môi tới sắp bật máu, sau đó lại hỏi tiếp một câu:

“Sau khi chịu một đao này, thân thể chàng còn có thể chịu đựng nổi không?”.

Sái Tuyên nói: “Vết thương như thế này, cho dù là người thường, nếu không được chữa trị kịp thời thì khả năng sống sót là rất thấp, huống chi thân thể tiên sinh vốn thiếu máu, lại còn những bệnh khác nữa”.

Hà Y nói: “Nhưng đây là Đường môn. Nếu Đường môn không muốn để một người chết, nhất định sẽ có cách, đúng không?”.

Người trên giang hồ đều biết, Đường môn luôn thích kết thân với các đại y gia, độc dược vốn cũng thuộc về y học. Những cao thủ điều chế độc trong Đường môn toàn bộ đều tinh thông y thuật.

Sái Tuyên nói: “Đương nhiên. Nếu bọn họ muốn tiên sinh chết, kỳ thực không cần phí công phí sức đến vậy, làm thế này có lẽ là mang hàm ý uy hiếp”.

Hà Y nói: “Vô Phong chàng… chàng rất ít nói với tôi về chuyện Đường môn. Thực lực của Vân Mộng cốc so với Đường môn rốt cuộc ra sao?”

Tạ Đình Vân nói: “Cốc chủ từ trước tới nay không có ý đưa Vân Mộng cốc gia nhập bất cứ kệ phái nào trên võ lâm cả, người chỉ luôn muốn biến nơi đây thành một y cốc theo đúng nghĩa. Hơn nữa nhân khẩu trong cốc hoặc là đại phu tay trói gà không chặt và gia quyến của họ, hoặc là các gia nhân cũ. Mấy năm gần đây tuy thu thập không ít nhân thủ nhưng cốc chủ… cốc chủ chung quy vẫn không muốn vì việc ấy mà chiêu binh mãi mã, gióng trống khua chiêng. Cho nên nói tóm lại, chúng ta tài lực hơn Đường môn, nhưng về võ lực thì kém xa. Đây cũng là lý do mấy năm nay chúng ta không tùy tiện va chạm với bọn họ”.

Hà Y đóng cái hộp lại, nói: “Bây giờ chúng ta phải bàn bạc xem nên làm thế nào”

Ba người kia nghe thấy đều thầm kinh ngạc.

Nữ nhân này quả nhiên không tầm thường! Trong lúc nguy cấp như thế mà nàng vẫn cực kỳ bình tĩnh, còn có thể bàn bạc.

Tạ Đình Vân nói: “Chúng ta không thể tùy tiện hành động. Đường môn chỉ đưa đến một chân của cốc chủ, cũng không hề nêu điều kiện gì, rõ ràng bọn chúng không định trả cốc chủ lại cho chúng ta”.

Sái Tuyên nói: “Bởi vì chỉ có giữ tiên sinh lại Đường môn, tất cả công thức độc dược và bí mật dùng độc của bọn chúng mới được an toàn. Thậm chí bọn chúng có thể ép tiên sinh điều chế, nghiên cứu cho bọn chúng những loại độc dược lợi hại hơn”.

“Những việc ấy liệu chàng có đồng ý không?”, Hà Y hỏi.

“Tuyệt đối không. Cốc chủ ghét cay ghét đắng độc dược, mỗi một học sinh của người, trước khi nhập môn đều phải thề cả đời sẽ không phối chế hay sử dụng bất cứ loại độc dược hại người nào. Thật ra trong cốc có mấy vị đại phu tinh thông giải độc, để họ phối chế một hai loại độc dược không hề khó”.

Triệu Khiêm Hòa nói: “Gần mười năm nay, vì có Vân Mộng cốc mà Đường môn không gượng dậy nổi, địa vị trên giang hồ tụt xuống ngàn trượng. Muốn quật khởi trở lại, việc đầu tiên bọn họ phải làm là đối phó cốc chủ”.

Tạ Đình Vân nói: “Chúng ta không thể dùng sức, chỉ có thể phái người trà trộn vào Đường môn tìm cốc chủ, lén cứu người ra ngoài. Tôi đã chuẩn bị kế sách liên hoàn. Để Triệu, Quách hai vị tổng quản đưa người tới Đường môn bàn điều kiện, đánh lạc hướng bọn chúng; cùng lúc đó tôi sẽ dẫn người đột nhập Đường môn cứu cốc chủ”.

Hà Y lập tức nói: “Người Đường môn thấy trong đám người đàm phán không có ông sẽ lập tức nghi ngờ. Ba người các vị ở ngoài đánh lạc hướng bọn chúng, việc bên trong để tôi lo liệu”.

Tạ Đình Vân cười nói: “Đây chính là lý do bọn tôi một mực muốn chờ cô nương quay về. Vào lúc như thế này, người có thể cứu được cốc chủ e là chỉ có mình cô nương”.

Hà Y nói: “Tôi cần hai trợ thủ, không thể là ông nhưng võ công không được kém ông”.

“Được”.

“Tôi cần một bọc đồ, bên trong có ba món đồ: thứ nhất, tất cả những thứ có thể giúp chàng tạm thời trì hoãn thương thế, bảo vệ tính mạng. Thứ hai, ba bộ y phục thường ngày của chàng. Thứ ba, thuốc giải độc hữu hiệu nhất.”

“Sái đại phu sẽ lập tức chuẩn bị tốt.”

“Tôi muốn hai loại độc dược, một loại dùng để thoa lên vũ khí, một loại dùng để giết người, còn cả thuốc mê lợi hại nhất nữa.

“Thuốc mê không thành vấn đề. Còn độc dược…”, Sái đại phu do dự nói.

Hà Y nói: “Vô Phong là đại phu, Sở Hà Y tôi không phải. Các vị yên tâm những thứ ấy tôi sẽ dùng nhưng tuyệt đối không để chàng biết”.

“… Vâng.”

“Sau cùng, cũng là quan trọng nhất. Tôi cần một tấm bản đồ của Đường môn. Càng chi tiết càng tốt, bất kể phải bỏ ra bao nhiêu tiền, các vị cũng phải tìm cách kiếm cho được.”

Tạ Đình Vân nói: “Thứ đó bây giờ tôi sẽ có cách.”

Hà Y chằm chằm nhìn ông ta, hỏi: “Ngay bây giờ ông sẽ có cách?”.

Tạ Đình Vân nói: “Sở cô nương có lẽ là vẫn chưa từng gặp thê tử của tôi”.

“Thê Tử của ông.”

“Trước khi gả cho tôi cô ấy gọi là Đường Phi Yên, đứng thứ hai trong Đường gia. Là chị ruột của Đường Tam.”

Hà Y chợt nhớ lại lần đầu tiên giao thủ với Tạ Đình Vân chính là do bị hiểu nhầm là người của Đường môn.

Dung Vũ các.

Tạ Đình Vân dẫn Hà Y đến một gian phòng ngủ ấm áp.

Lúc bước vào phòng, Hà Y nhìn thấy hai cậu bé chưa tới mười tuổi đang chạy loạn khắp nơi.

“Đây là hai đứa con của tôi”, khuôn mặt của Tạ Đình Vân lộ ra vẻ tự hào.

Ông ta nói tiếp: “Còn có hai đứa trong bụng mẹ chúng nó nữa. Ngô đại phu nói cũng là con trai, song sinh”.

Hà Y vội nói: “Chúc mừng, chúc mừng”.

Thị nữ kéo rèm lên, Hà Y nhìn thấy một phụ nữ mỹ lệ nằm trên giường. Nàng kinh ngạc nhận ra người phụ nữ này chỉ có một cánh tay phải, cô đang cố gắng đỡ lấy cái bụng lớn. Cánh tay phải đã cụt tới vai.

Tạ Đình Vân vội kéo ghế cho Hà Y, bản thân mình thì ngồi lên giường, ngắm người phụ nữ, nhẹ nhàng nói: “Phi Yên, vị này là Sở cô nương mà ta từng kể với nàng, cô ấy sắp là Mộ Dung phu nhân rồi”.

Người phụ nữ kia quay mặt lại, có chút ngượng ngùng nhìn Hà Y, nói: “Sở cô nương, xin lỗi, thân thể tôi hiện thực sự quá nặng nề, không sao… không sao thi lễ được”.

Hà Y áy náy nói: “Thật xin lỗi, giờ này tôi thực không nên làm phiền phu nhân…”

Người phụ nữ đó vẻ mặt dịu dàng nói: “Cô nương nói gì thế? Nếu không phải năm đó cốc chủ chịu thu nhận bọn tôi, chỉ sợ tôi và Đình Vân sớm đã thành quỷ dưới đao của Đường môn rồi”, cô ta lấy từ bên giường ra một tấm bản đồ da dê, thần sắc chợt chuyển thành nghiêm túc: “Cô nương có lẽ đã biết, Đường môn đã có lịch sử ba trăm năm trên giang hồ”.

Hà Y gật đầu.

“Cho nên mặc dù những năm gần đây uy danh của bọn họ suy giảm trầm trọng, nhưng chính như cái gọi là con rết trăm chân chết rồi vẫn còn ngọ nguậy, Đường môn tuyệt đối không phải là nơi mà người khác có thể dễ dàng tiến vào được.

Cô ta chỉ vòng tường ngoài mép bản đồ, nói: “Bức tường này cao mười trượng, bên trên cây thanh đằng leo bám đầy, dưới tường là một con hào. Nước trong hào có độc, cây thanh đằng trên tường cũng có độc”.

Hà Y nói: “Cho nên nếu tôi muốn tiến vào trong sẽ rất nguy hiểm”.

“Với võ công của cô nương, từ đây tiến vào sẽ không nguy hiểm nhưng sẽ nhanh chóng bị phát giác. Bốn phía đều có vọng gác và chó canh. Địa hình của Đường môn rất giống với Vân Mộng cốc, ba mặt tựa núi đều là những vách núi dốc đứng cao vạn trượng, bên ngoài là sông lớn. Con đường tiến vào trong trống trải, dễ thủ khó công.”

Hà Y nhìn bản đồ, nói: “Tôi có thể men theo núi tiến vào, như thế sẽ không bị người khác phát hiện”.

Tạ Đình Vân nói: “Ý cô là, trèo lên từ vách núi dựng đứng tới đỉnh rồi lại trèo xuống?”.

“Ừm.”

“Đây cũng là một biện pháp.”

“Điều tôi cần biết bây giờ là, bọn chúng có thể giam giữ Vô Phong ở nơi nào?”

Đường Phi Yên nói: “Những vòng tròn đỏ này là ký hiệu của tôi, đều là những nơi có khả năng. Có điều có khả năng nhất chỉ có hai nơi. Nếu các vị tổng quản định đến Đường môn đàm phán, bọn họ nhất định sẽ áp giải cốc chủ tới một trong hai nơi ấy”.

Hà Y nhìn hai nơi ấy, nhận thấy hai chỗ đó cách nhau rất xa.

“Một chỗ ở phía đông, là một căn phòng hình tròn, bên trong có ba vị tiền bối võ công cao cường nhất Đường môn tọa trấn. Rất có thể bọn chúng sẽ giao cốc chủ cho bọn họ trông coi. Chỗ kia ở phía tây, đi theo cánh cửa này vào lòng đất, là một thủy lao. Nơi đó tổng cộng có mười gian. Bên trong giam cầm phản đồ và kẻ thù của Đường môn. Có nhiều người đã bị giam từ rất lâu rồi.”

Nói xong cô ta cười thảm một tiếng, nói: “Gia pháp của Đường môn đương nhiên cô nương đã từng nghe qua. Cánh tay này của tôi chính là bị bá phụ chấp hành gia pháp mà chặt đi. Nếu tôi bị người của Đường gia bắt về, sẽ bị nhốt trong thủy lao cho tới chết”.

Tạ Đình Vân nói: “Tôi không nghĩ rằng cốc chủ bị nhốt trong thủy lao. Nếu người thật sự bị nhốt ở đấy, chỉ sợ đến một ngày cũng không chịu nổi”.

Đường Phi Yên tiếp tục nói: “Đặc điểm của thủy lao chính là nằm dưới lòng đất, một khi cửa lớn đã bị khóa, ai cũng không thể tiến vào được. Người canh gác ở đây thực ra không nhiều. Trừ con cháu Đường gia, người ngoài tuyệt đối không biết vị trí thủy lao”.

Hà Y đột nhiên hỏi: “Phu nhân nói xem, liệu bọn họ có dự liệu được việc phu nhân biết vị trí hai nơi ấy mà đưa cốc chủ tới giam ở nơi khác không?”.

Đường Phi Yến nói: “Chưa chắc. Một là phản đồ của Đường môn không phải chỉ có mình tôi, hai nơi này vốn thiết kế để giam giữ kẻ khác, cạm bẫy trùng trùng, phòng vệ nghiêm ngặt, kể cả bị người khác biết, muốn vào được để rồi thoát ra cũng cực kỳ khó khăn. Những nơi khác thì lại không hoàn toàn chắc chắn”

Hà Y nói: “Nói như vậy thì tôi sẽ phải chia binh làm hai đường, một đi tìm tam đại cao thủ, một tới thủy lao?”

Đường Phi Yên lắc đầu hỏi: “Có bao nhiêu người sẽ đi cùng cô nương?”.

“Hai người”.

“Ba người liên thủ đối phó với ba đại cao thủ này e là vẫn rất khó. Hai người tới thì chỉ có thể chết uổng. Ba vị tiền bối này không những võ công cao cường mà còn giỏi dùng độc dược.”

Hà Y gật đầu nói: “Nếu như tôi đã cứu được chàng, vậy làm thế nào để ra ngoài?”.

Đường Phi Yên cười khổ: “E là cô nương chỉ có thể theo đường mình tiến vào để trở ra mà thôi”.

Hà Y nói: “Như vậy không được đâu. Lúc quay trở ra bọn tôi còn phải đem theo một người hoàn toàn không thể đi lại được. Trở ra theo lối đó thì quá khó. Đến lúc ấy tôi sẽ xem tình hình mà nghĩ biện pháp vậy”.

Đường Phi Yên nói: “Tôi rời khỏi Đường môn đã mười mấy năm, bản đồ này giờ có thể có chút sai khác nhưng thay đổi sẽ không quá lớn”.

“Vì sao vậy?”

“Các gia tộc lâu đời thích giữ gìn truyền thống, không thích thay đổi. Mỗi khi Đường môn muốn xây một kiến trúc mới đều sẽ nghĩ tới việc kiến trúc đó có thể dùng tới trăm năm.”

Tối đó, Tạ Đình Vân báo cho Hà Y biết, những thứ nàng cần đều đã được chuẩn bị ổn thỏa.

“Đây là mười viên thuốc giải độc, bây giờ cô nương uống vào, đến lúc đó, đa số độc dược của Đường môn sẽ không thể ảnh hưởng tới cô.”

“Kiếm của cô nương đã được thoa lên một loại độc được gọi là ‘Hoa Tiếu’. Không nên tùy tiện rút ra, mũi kiếm chỉ cần vạch một vết thương nhỏ trên da bất kỳ ai thì người đó sẽ lập tức mất mạng. Nhưng cô cũng không cần phải lo, cô chỉ cần uống thuốc giải trước là được. Nếu cô muốn giải trừ độc trên kiếm cũng rất dễ.”

“Viên thuốc màu đỏ này gọi là ‘Hoan Tâm’. Là một loại thuốc mê cực kỳ hữu hiệu, chỉ cần bỏ vào đèn hay nến mê dược lập tức sẽ theo khói tản ra. Người hít phải nó sẽ lập tức gục ngã, ba ngày sau mới có thể tỉnh lại.”

Hà Y kiểm tra tất cả một lượt rồi bỏ vào trong bọc, nói: “Ai sẽ đi cùng tôi?”.

Tạ Đình Vân chỉ hai thanh niên áo xám đang đứng trong phòng khách: “Chính là hai người họ”.

Hà Y nhìn một lượt nói: “Tôi từng gặp một người trong đó”.

“Không sai. Hắn chính là một người trong Tam tinh tam sát, tên gọi là Sơn Thủy. Hiện là người làm vườn trong cốc.”

“Hắn không phải là người của Đường môn sao?”

“Hắn chỉ là một sát thủ mà thôi. Sát thủ giết người chỉ xem giá tiền, không thuộc về bất kỳ môn phái nào cả. Huống chi hắn hiện giờ cũng đã đổi nghề rồi.”

“Cốc chủ biết việc này sao?”

“Chính cốc chủ nhận hắn vào cốc. Cốc chủ nói, Sơn Thủy là bằng hữu của người.”

“Chàng cũng có bằng hữu sao?”, Hà Y không khỏi có chút kinh ngạc rồi hỏi: “Người kia thì sao?”.

“Người kia là biểu đệ[1] của Sơn Thủy.”

[1]Biểu đệ: Em trai con dì con cậu

“Biểu đệ?

Hắn không có tên gọi nào khác sao?”

“Không có. Hắn vào cốc cùng Sơn Thủy. Cùng ở một phòng, cùng làm vườn.”

Hà Y nhìn hai người áo xám, nói: “Chúng ta sẽ lên đường ngay đêm nay”

Hai người đồng thanh đáp: “Vâng”.

Hà Y nói: “Nếu ba người chúng ta chia ra hành động, các vị chỉ cần tùy cơ ứng biến, nếu ba người chúng ta đi cùng nhau thì sẽ nghe theo lệnh của tôi”.

“Được”, hai người kia đáp rõ ràng.

Hà Y lại nói: “Huynh gọi là Sơn Thủy, biểu đệ của huynh tên gọi là gì?”.

“Gọi tôi là ‘Biểu đệ của Sơn Thủy’, hoặc gọi tắt là ‘Biểu Đệ’”, Biểu Đệ đáp.

Mưa nhỏ dai dẳng rả rích suốt cả ngày hôm đó.

Ba người Hà Y đã vào tới đất Thục.

Bọn họ bỏ ngựa thuê thuyền, chèo thuyền trên một con sông gọi là Tố Long Thủy.

Suốt chặng đường Hà Y không nói một lời, trước khi đi chỉ dặn dò hai người Sơn Thủy nhớ kỹ bản đồ Đường Phi Yên vẽ, lúc gần tới đất Thục nàng liền đem hủy tấm bản đồ.

Thuyền đi ngược dòng, làn mưa vừa lạnh vừa dày sớm đã nhuốm ướt mái tóc của Hà Y. Nàng kéo chuỗi hạt hồng đậu trên cổ từ trong áo ra, đưa lên hôn nhẹ vào nó. Tựa như đang tiến hành một nghi thức gì đó, miệng nàng lẩm nhẩm niệm.

Trời tối dần. Lúc lên thuyền tới chân một ngọn núi, nàng khẽ nói: “Lên”.

Ba bóng đen vút đi mười trượng, tựa như thạch sùng bám trên vách núi mà trèo lên.

Trong lòng Hà Y không khỏi thầm cảm thấy may mắn. Tạ Đình Vân nói không sai, khinh công của hai người này quả nhiên rất tốt.

Việc tiếp theo vừa căng thẳng lại vừa nhàm chán: leo núi. Giẫm lên bất cứ cạnh đá nào có thể đặt chân, bám vào bất cứ bụi cây nào có thể bám. Gần tới giờ Tý nửa đêm, ba người cuối cùng cũng đã lần lượt đặt chân lên đỉnh núi.

Từ trên đỉnh núi nhìn xuống, tường thành của Đường môn sừng sững lặng lẽ ẩn trong bóng đêm. Ánh đèn bên trong dưới cơn mưa cực kỳ leo lét, tối tăm.

Theo kế hoạch, ba người đã tìm thấy cửa vào thủy lao nọ. Bọn họ dự định sẽ ra tay ở đây trước, bởi vì nơi này xem ra khá yên ắng, cho dù Mộ Dung Vô Phong không ở đây, bọn họ đi vào kiểm tra một vòng cũng sẽ không gây ra động tĩnh gì lớn. Nếu như tìm tới ba đại cao thủ kia trước, xảy ra đánh nhau, chỉ sợ sẽ kinh động tới toàn bộ người trong cốc.

Cửa vào hầm ngục là một cánh cửa nhỏ xem thì cực kỳ bình thường, gần giống một cái cửa phòng bếp, chỉ khép hờ.

Hà Y nói với Biểu Đệ: “Huynh ở ngoài này trông chừng. Tôi và Sơn Thủy tiến vào”.

Hai người vô thanh vô tức lẻn vào

Phía cuối của căn phòng nhỏ là một cánh cửa đá nặng nề. Dưới ánh đèn leo lét, Hà Y phát hiện bên cạnh cửa có một bánh xe tròn lớn, nàng vận sức kéo nó một cái, cánh cửa kia chầm chậm chuyển động, lộ ra một khe cửa. Một chút ánh đèn từ trong khe cửa hắt ra.

Không cần nói cũng biết, bên trong có người.

Hai người lách qua khe cửa tiến vào. Sau cánh cửa là một hành lang dài, một con dốc dài, tận cuối con dốc lại là một cánh cửa nhưng chỉ là cửa gỗ mà thôi.

Cánh cửa gỗ này chỉ khép hờ, Hà Y đẩy cánh cửa liền nhìn thấy một người trung niên ngồi cạnh bàn. Người này trông rất nho nhã, rất ôn hòa, cứ như là một người đọc sách chân chính.

Trên tay ông ta cũng cầm một cuốn sách, vừa nghe thấy có tiếng động liền ngẩng đầu, dùng đôi mắt đen thâm trầm nhìn hai người họ, rất khách khí nói: “Xin chào hai vị”

Chương 23

Sơn Thủy nhìn người này chằm chằm, lạnh lùng hỏi: “Nơi này chỉ có một mình các hạ?”. Lúc Sơn Thủy mở miệng nói chuyện, một dải lụa trắng từ trong tay áo Hà Y bay vút ra, cuộn lấy xâu chìa khóa đeo bên hông người trung niên, dải lụa nhẹ nhàng thu về, xâu chìa khóa kêu lên leng keng, người trung niên kia vươn tay ra muốn chụp lấy xâu chìa khóa, Hà Y vội vàng tung ra hai mũi phi tiêu chặn lại. Xâu chìa khóa cuối cùng cũng nhẹ nhàng rơi vào lòng Hà Y.

Nàng đang định ném một hạt “Hoan Tâm vào đèn dầu thì người trung niên kia đã cười lạnh một tiếng, phất ống tay áo một cái, chỉ nghe “vụt vụt” mấy tiếng, tất cả đèn dầu trong phòng đột nhiên tắt ngóm. Bốn phía thoắt cái đã tối om.

Sơn Thủy nói: “Cẩn thận ám khí của hắn, hắn là người mù”.

Hà Y nói: “Tôi sẽ vào đó xem xem, tên mù này để lại cho huynh”.

“Cửa ở bên trái”, Sơn Thủy nói.

“Trước khi đèn tắt tôi đã nhìn thấy rồi.”

Chỉ nghe thấy trong bóng tôi tiếng đao kiếm vang lên bốn phía, có vẻ như Sơn Thủy đã bắt đầu giao thủ với kẻ mù kia. Hà Y thừa lúc hỗn loạn lẻn vào một cánh cửa hẹp khác.

“Két” một tiếng, cánh cửa gỗ nhẹ nhàng mở ra, một luồng không khí ô uế khiến người khác buồn nôn phà vào mặt.

Tối đến mức không nhìn được năm đầu ngón tay của chính mình.

Không khí bên trong mang mùi gần như mùi của thây người phân hủy, tựa như đã tích lại rất nhiều năm, một luồng gió âm u xuyên suốt lùa qua hành lang.

Hà Y nhóm một ngọn lửa nhỏ, ép mình nén cảm giác buồn nôn đang trào lên trong ngực xuống. Nàng phát hiện ra hai bên trái phải con đường trước mặt mình mỗi bên có năm gian ngục thất, những gian ngục thất này có một nửa nằm chìm dưới đất.

Có tiếng u u cực nhỏ tựa như tiếng ruồi muỗi kêu không biết từ đâu truyền tới, Hà Y nghe thấy mà da đầu có cảm giác tê tê.

Nàng cố gắng trấn định thần trí, mở cánh cửa gian ngục thất đầu tiên bên phải, hướng vào trong nhỏ giọng gọi: “Mộ Dung Vô Phong, Mộ Dung Vô Phong!”.

Không có tiếng người đáp lại. Gian ngục thất này sâu mà âm u, có một nửa chìm dưới nước. Đóm lửa trên tay không biết tại sao đột nhiên tắt ngóm.

Trong lòng Hà Y kiên định quyết ý: “Bất kể thế nào ta cũng phải tiến vào xem xem, bên trong có đúng là không có người không? Người bên trong liệu có phải Mộ Dung Vô Phong không?”, sau đó xốc lại lòng can đảm, lội xuống nước, mò mẫm trong bóng tối, dò dẫm về phía trước. Chẳng bao lâu đã đi tới tận cùng, Hà Y lần mò ở giữa, dường như có một vật gì đó mềm mềm đang bị buộc trên một cây cột gỗ. Vật đó tỏa ra mùi hôi thối, làm nàng suýt nữa ngất đi. Nàng không nhịn nổi thét lên một tiếng rồi bắt đầu nôn mửa.

Tay

của nàng quờ quạng lung tung, phát hiện ra vật mềm mềm ấy dường như là một đám bùn, không giống con người.

Nàng run rẩy rút mồi lửa trong người ra, nhóm một đóm lửa nhìn rồi “á” một tiếng, thét lên kinh hãi!

Thì ra trên cây cột quả là có buộc một người nhưng đã sớm phân hủy biến dạng, chiếc đầu thối rửa vẫn treo lơ lửng trên thân mình của chính anh ta. Trên tay Hà Y ban nãy sờ phải là thịt thối đang dần bong ra. Nàng sợ tới mức đánh rơi cả mồi lửa, cắm đầu bỏ chạy như bay khỏi gian ngục thất đó.

Ra khỏi gian ngục, nàng vẫn cảm thấy hồn vía trên mây, hai chân mềm nhũn, tim đập thình thịch dữ dội, cơ hồ đến sức lực để đứng cũng không còn nữa. Mùi thây người phân hủy lại cứ như ma quỷ ám trên người nàng.

Gian ngục thất thứ hai vẫn phải đi

Nàng ổn định lại tinh thần, quyết định không châm lửa nữa, mở tung cánh cửa thứ hai, hướng vào trong gọi: “Xin hỏi bên trong có ai không? Có người xin đáp một tiếng, không có người tôi sẽ đi đây!”.

Một thoáng sau, chỉ nghe có một giọng nói yếu ớt từ xa xa vọng lại, nói: “Cô là ai? Là người tới cứu tôi ra ngoài hả?”.

Trong lòng Hà Y chợt nảy lên, đó là giọng đàn ông, khẩu âm không giống Mộ Dung Vô Phong lắm. Hà Y đành hỏi lại: “Ngươi là Mộ Dung Vô Phong?”.

Người kia đáp: “Không phải… cầu xin cô, cứu tôi ra khỏi đây… nếu không tôi sẽ bị lũ chuột gặm tới chết ở đây mất!”.

Hà Y nói: “Xin lỗi, tôi chỉ có thể cứu một người, ông… nếu ông có võ công, tôi có thể cắt dây thừng giúp ông, để ông chạy ra ngoài”.

Người kia nói: “Tôi không chạy được, bọn chúng… bọn chúng chặt… chặt hai chân của tôi rồi. Cô là người tốt đúng không? Cầu xin cô cứu tôi với, nhà tôi rất giàu, nếu cô cứu tôi ra, bất kể cô muốn bao nhiêu bạc người nhà tôi đều có thể cho cô!”.

Hà Y run rẩy nói: “Xin lỗi, tôi rất muốn cứu ông. Nhưng đối với tôi người tôi phải cứu quan trọng hơn ông”.

“Người cô muốn cứu là Mộ Dung Vô Phong ư?”.

Hà Y vui mừng nói: “Vâng, ông… ông biết chàng ở đâu ư?”.

Người kia nói: “Hắn không ở đây, nếu cô cứu tôi ra, tôi sẽ nói cho cô biết”.

Hà Y thầm nhủ, người này nhất định muốn thoát ra tới phát điên rồi. Liền hỏi: “Ông bị giam ở đây bao lâu rồi?”.

“Bảy… bảy năm rồi.”

“Vậy làm sao ông có thể biết được tin tức về Mộ Dung Vô Phong?”

Người kia bịa đặt nói: “Ba năm trước ở đây từng giam một người tên là Mộ Dung Vô Phong, không lâu đã chuyển đi nơi khác rồi”.

Hà Y “binh” một tiếng, sập cửa đi ra ngoài.

Gian ngục thất thứ ba không có bất cứ tiếng động nào, Hà Y bạo gan lội xuống nước đi đúng một vòng, phát hiện ra nơi đây hoàn toàn trống rỗng.

Nàng mở cửa gian ngục thất thứ tư, gọi một vòng không có nửa tiếng đáp lại. Nàng lại lội xuống nước, cảm thấy trong nước có hàng đàn hàng đàn chuột đang chạy qua chạy lại giữa hai chân mình, kèm theo đó là một thứ âm thanh “u u” đáng sợ.

Nàng lần mò trong bóng tối, đi tới tận cuối, cánh tay run rẩy sờ về phía trước.

Lần này, nàng chỉ vươn ngón trỏ ra, chuẩn bị hễ chạm phải thứ đang thối rữa sẽ lập tức chạy ra ngoài.

Ngón trỏ nhè nhẹt chạm phải một làn da mềm mại. Mềm và có tính đàn hồi.

Người này vẫn còn sống!

Nàng nhóm một đóm lửa, chỉ thấy trên cây cột trói một người phụ nữ bị chặt đứt hết chân tay. Mái tóc dài đen bóng rủ xuống trước ngực, bên trên không ngờ lại có hai con chuột to đùng bám lên! Nhưng đôi mắt của người phụ nữ ấy đang dùng một ánh mắt rất mực dịu dàng nhìn nàng.

Hà Y “oa” một tiếng nhảy dựng lên, đóm lửa trên tay lại rơi xuống nước, nàng hỏi: “Này… này… cô… cô… không sao chứ?”.

Giọng nói kia lại rất văn nhã, đáp: “Không… không sao cả. Ta ở đây… rất tốt”.

Hà y nói: “Vạn lần xin lỗi, không phải là tôi đến cứu cô!”.

Người phụ nữ kia điềm đạm nói: “Người đến cứu ta sớm đã chết vì cứu ta rồi. Cho dù cô có cứu ta ra ngoài, ta cũng không muốn sống nữa”.

Lòng Hà Y mềm nhũn đi, nói: “Bên ngoài kia tôi còn một người bạn, có lẽ tôi… tôi thật sự có thể cứu cô ra ngoài”.

Người phụ nữ kia nói: “Cô đừng quan tâm tới việc không đâu, tôi chỉ muốn nhanh nhanh chết đi mà thôi.

Hà Y hỏi: “Cô… cô có muốn tôi giúp gì không?”.

Người phụ nữ kia hỏi: “Cô có mang theo đường không? Rất lâu rồi tôi không được nếm vị đường”.

Hà Y sờ sờ trên người, nói: “Tôi không có đường, có vài hạt đậu phộng… cô có muốn không?”.

Người phụ nữ đáp: “Đậu phộng cũng được. Rất lâu rồi tôi cũng không được ăn đậu phộng. Tôi không có tay, làm phiền cô cho vào miệng tôi”.

Hà Y lấy ba hạt đậu phộng trong túi đưa vào miệng cô ta. Người phụ nữ ấy vui mừng nhau chúng, nói: “Cảm ơn cô, tiểu cô nương. Nếu cô không phải tới tìm tôi, vậy thì mau đi đi!”.

Hà Y dợm bước, quay đầu đi ra.

Gian ngục thất thứ năm truyền lại tiếng chít chít đáng sợ của bầy chuột. Hà Y gần như đã không còn dũng khí đi vào nữa rồi. Nàng run rẩy khẽ gọi một tiếng: “Mộ Dung Vô Phong, chàng… chàng có trong đó không?”.

Trả lời nàng, chỉ có tiếng chít chít của lũ chuột.

Nàng nghiến răng, quyết tâm không thấy quan tài không bỏ cuộc, rồi lại lội xuống nước đi vào.

Nước ở đây không sâu, chỉ tới ngực của nàng mà thôi nhưng trong nước có mùi gì đó rất đáng sợ. Nước không hề sạch sẽ, Hà Y cứ bước thấp bước cao mà tiến tới, tựa như đang đi trong bùn lầy vậy. Nàng không dám nhóm lửa lên, sợ phải nhìn thấy một cảnh tượng đáng sợ hơn nữa, bèn làm như lúc trước, đưa ngón tay trỏ chạm vào cây cột gỗ một cái.

Ngón tay lại chạm vào thứ gì đó mềm mềm

Nàng không dám sợ tiếp nữa, đành nhóm lửa lên, thấy sờ sờ trước mắt lại là một xác chết bắt đầu thối rửa khác! Người này trước khi chết hẳn đã phải chịu đau đớn cực độ, khuôn mặt méo mó, miệng đã banh ra tới mức không thể rộng hơn nữa, tựa như muốn gào thét thật lớn.

Cảm ơn trời đất, người này không phải là Mộ

Dung Vô Phong!

Hà Y đang định quay ra, xác chết kia chợt động đậy. Từ trong lỗ mũi của xác chết bò ra một thứ giống như là rắn! Thứ đó bỗng bật một cái, nhảy thẳng lên người Hà Y!

Hà Y thét lên một tiếng chói tai, trượt chân vùi đầu xuống nước, trong lúc kinh hoàng uống liền mấy ngụm nước. Thừa dịp mình chưa kịp nôn mửa, vội điên cuồng lao ra khỏi gian ngục. Vừa ra khỏi nàng đã quỳ rạp xuống đất, nôn thốc nôn tháo, nôn cho tới khi dạ dày hoàn toàn trống rỗng.

Cuối cùng nàng cũng tin câu: Người có thể bị dọa chết

Sau đó nàng toàn thân mềm nhũn ngồi dưới đất, nhìn vào cánh cửa gian ngục thất thứ sáu.

Nàng đã bị dọa tới mức không còn sức đứng dậy nữa, nhưng vẫn cắn răng vịn vào tường đứng dậy, run rẩy đẩy cánh cửa gian ngục thất, nức nở gọi vào trong: “Mộ Dung Vô Phong, Mộ Dung Vô Phong, Mộ Dung Vô Phong, chàng có trong đó không? Nếu có, xin chàng… xin chàng trả lời ta đi. Nếu không trả lời, vậy ta… ta đi đây! Ta không muốn… không muốn nhìn thấy xác chết nữa đâu! Hu hu… ta sắp sợ chết rồi!”.

Một trận gió âm u lạnh lẽo từ bên trong lùa ra ngoài, trong làn nước, trong làn nước lại vang lên tiếng chít chít của lũ chuột.

Không có ai trả lời.

Chân của Hà Y bắt đầu nhũn ra. Nàng lấy hết toàn bộ mồi lửa còn lại ra, vừa mới nhóm được lửa lên đã thấy bốn phía trôi lềnh bềnh xác một bầy chuột trương phềnh. Nàng chỉ cảm thấy mắt tối đi, cơ hồ muốn ngất. Lúc ấy trong nước đột nhiên có một đàn chuột lớn bơi về phía nàng, phút chốc đã leo lên người nàng, lên vai nàng. Nàng hoảng loạn, liền rút kiếm chém bừa, bởi vừa rồi quá sợ hãi nên đã đánh rơi hết mồi lửa xuống nước.

Không biết làm sao, nàng đành đi về phía đầu kia của ngục thất. Nước tuy chỉ ngang ngực nhưng bầy chuột kia sống chết không chịu bỏ qua nàng, bám theo không thôi, cắn loạn xạ trên người nàng. Nàng vung chưởng, khua loạn lên trong nước, không dễ gị mới mò được tới đầu bên kia nhưng chân bỗng đạp hụt vào một khoảng trống. Thì ra, đáy nước tới đoạn cuối của ngục thất thì đột nhiên lại lún sâu, Hà Y không kịp phản ứng gì đầu đã chìm vào trong nước, trong cơn hoang mang, nàng chỉ đành cố bám lấy cây cột gỗ trong nước kia!

Nàng biết trên cây cột gỗ này đang buộc một cái xác hình thù đáng sợ, nhưng đến lúc này rồi cũng chẳng để ý nhiều nước. Tay của nàng sống chết với lấy cây cột, chợt phát hiện tay mình vừa quờ được một góc áo.

Bên tai nàng vang lên một giọng nói yếu ớt nhưng quen thuộc:

“Hà Y, đừng sợ, ta ở đây.”

Giọng nói này đối với Hà Y tựa như đến từ thiên đường.

Chàng ở nơi này! Chàng còn chưa chết! Chàng… chàng vẫn có thể nói chuyện!

Nàng mừng tới phát điên! Không sợ gì nữa, đem tất cả những thứ vừa nhìn thấy lúc trước quẳng hết ra khỏi đầu, ôm chặt lấy thân thể kia, không biết là do vui hay do buồn mà nước mắt tuôn không ngừng: “Vô Phong… cuối cùng thiếp tìm thấy chàng rồi! Chàng vẫn… vẫn còn sống!”.

Nàng đưa tay sờ lên mặt chàng, chỉ nghe thấy chàng thở dài một tiếng, nói: “Hà Y, nàng điên rồi sao. Nơi nguy hiểm thế này, sao nàng lại… sao nàng lại chạy đến đây!”.

Nàng không thèm để ý tới lời chàng, chỉ một mực sờ toàn thân chàng. Đôi tay của chàng bị trói cao trên cây cột gỗ, phần thân dưới ngâm trong nước. Hà Y nhẹ nhàng sờ xuống dưới, chân trái có vết sẹo hằn lớn của chàng, may mà vẫn còn. Nơi đáng nhẽ là chân phải thì trống không, trong lòng nàng chợt như có vạn tiễn xuyên tâm, không kìm được, chạm vào vết thương của chàng, khóc nói: “Chân phải của chàng… quả nhiên mất rồi. Lũ khốn kiếp đó! Thiếp sẽ giết bọn chúng! Chàng còn đau không? Vết thương lớn thế này, liệu có đáng lo không? Bọn chúng… bọn chúng sao lại… sao lại hành hạ chàng đến mức này…”.

Nàng ôm lấy chàng, cứ thế khóc lóc thảm thiết, Mộ Dung Vô Phong đành nhẹ nhàng an ủi nàng: “Ta… không sao. Nàng đừng buồn”.

Chàng chưa dứt lời, Hà Y đã nói: “Vừa rồi… vừa rồi thiếp đứng ngoài cửa gọi chàng, sao chàng không trả lời?”.

Mộ Dung Vô Phong trầm mặc, một lúc lâu sau mới nói: “Hà Y, đem theo ta, chắc chắn nàng sẽ không thể thoát nổi”.

“Cho nên chàng không lên tiếng, đúng không? Chàng hy vọng thiếp không tìm thấy chàng thì sẽ bỏ đi, phải không?”

Chàng không nói gì.

“Chàng… đến lúc này rồi mà chàng vẫn chỉ nghĩ cho thiếp!”, nàng thương tâm nói: “Nơi này… nơi này là nơi con người có thể ở sao? Thiếp đưa chàng ra ngoài, dù phải chết cùng nhau cũng phải tìm nơi sạch sẽ rộng rãi, dù thế nào… dù thế nào cũng còn hơn ở lại đây!”.

Nàng ôm lấy chàng, dùng kiếm chặt dứt dây thừng trói hai tay chàng, thân hình chàng liền mềm nhũn mà ngã vào người nàng.

Hà Y ôm Mộ Dung Phong ra ngoài hành lang, lấy ra thuốc men đã chuẩn bị trước, bỏ vào miệng chàng, nói: “Đây là thuốc để giữ mạng, chàng nhất định phải nuốt xuống”.

Mộ Dung Vô Phong nhẹ giọng nói trong bóng tối: “Hà Y, ta… không nuốt nổi bất cứ thứ gì…”, nói xong liền “ộc” một cái, nhổ toàn bộ số thuốc trong miệng ra rồi còn phun ra một ngụm máu lớn.

“Thiếp mặc kệ! Chàng không nuốt được cũng phải nuốt!”, Hà Y nhặt mấy viên thuốc dưới đất lên, ra sức nhét vào miệng chàng rồi mở bình nước ra, trút một miếng nước lớn vào miệng chàng, ép chàng phải nuốt số thuốc kia xuống.

“Hà Y… trong này rất… bẩn…”, Mộ Dung Vô Phong lại nói.

“Thiếp có mang đồ để chàng tắm rửa”, Hà Y thuần thục cởi bỏ y phục của chàng, đem y phục sạch sẽ đã chuẩn bị trước mặc lên cho chàng.

Phần thân dưới của chàng được băng bó một lớp băng rất dày, toàn bộ đều ướt sũng, lại ngâm trong nước đã lâu hiển nhiên không sạch sẽ chút nào

Hà Y khẽ nói: “Chàng… chàng chịu đau một chút, thiếp có mang theo kim sang dược tốt nhất”, nói xong, nàng lấy một ngọn phi đao trong người, rạch lớp băng quấn trên người chàng.

Chàng giữ tay nàng lại, nói: “Nàng… nàng đừng tháo băng, cũng… cũng đừng động vào đấy. Cứ… cứ tìm cách nhanh chóng thoát ra”.

Nàng thoáng ngây ra, rồi hiểu chắc hẳn vết thương đó trông rất đáng sợ, thê thảm tới không dám nhìn, Mộ Dung Vô Phong sợ nàng trông thấy sẽ sợ hãi nên không cho nàng động vào. Nàng dịu dàng nói: “Vô Phong… thiếp không sợ, nơi đây… nơi đây cũng tối đen, thiếp thay thuốc cho chàng… băng lại vết thương, chàng nhất định. Nhất định sẽ cảm thấy khá hơn một chút”.

Tay

chàng vẫn cố sống cố chết nắm lấy cổ tay của Hà Y, nói: “Ta nói không thể động vào thì không nên động vào, hai chúng ta, cuối cùng ai là đại phu?”.

Hà Y nói: “Nhưng… nhưng… có lẽ phải một lúc nữa chúng ta mới thoát ra được… chàng… thân thể chàng liệu có chịu nổi không?”.

“Giờ chúng ta phải mau thoát ra, nàng lại còn ở đây… rể rà… rề rà đòi làm mấy việc ấy… thật là lãng phí thời gian”, trong bóng tối, chàng thở hổn hển, nói đứt quãng.

Giọng nói của chàng càng lúc càng yếu ớt, Hà Y chỉ đành ngừng lại, ôm lấy chàng, đẩy mở cánh cửa gỗ, lúc bước ra, trong căn phòng có kẻ mù lòa ban đầu không có lấy một tiếng động. Hà Y thử gọi khẽ một tiếng: “Sơn Thủy?”.

Không ai trả lời. Kẻ mù kia có vẻ như cũng không ở trong phòng. Hà Y đạp tung cánh cửa nối ra hành lang dài, mượn ánh đèn mờ mờ phía xa nhìn thấy Sơn Thủy nằm bên cạnh cánh cửa đá, còn tên mù thì bị đao của Sơn Thủy đâm chết nằm phía bên kia.

“Sơn Thủy!”, Hà Y kéo Sơn Thủy dậy, anh ta xem ra vẫn còn hơi thở nhưng trên mặt lại thoáng đen đi.

“Cô… tìm thấy… hắn rồi. Vận khí của chúng ta… xem ra cũng không tệ”, Sơn Thủy chẳng còn chút sức lực, nói.

“Huynh đã trúng độc rồi?”, Hà Y thất thanh kêu lên.

“Ta trúng một mũi tụ tiễn của tên mù kia, ở… ở vai”, hắn kéo thanh đơn đao chống bên cạnh, người mềm đi nhưng vẫn gắng gượng giữ không cho mình ngã xuống.

“Hà Y, xé áo hắn ra”, Mộ Dung Vô Phong nói.

Hà Y theo lời xé mảnh áo trên vai Sơn Thủy.

“Điểm ba huyệt ‘Kiên Tinh’, ‘Thiên Xung, ‘Thần Đường’ của hắn, sau đó rút mũi tụ… tụ tiễn ra”, Mộ Dung Vô Phong thở gấp, nói.

Hà Y nói: “Trước khi đến đây, bọn thiếp đã uống không ít thuốc giải để dự phòng”, nàng rút mũi tụ tiễn ra.

“Thế cũng không ăn thua. Loại độc dược này không nằm trong số đó. Đem… đem toàn bộ thuốc giải nàng mang trên người… lấy ra cho ta xem.”

Hà Y mở một chiếc hộp gỗ, bên trong bày các loại dược hoàn ngang dọc ngay ngắn.

“Lấy ba viên dược hoàn màu lục và viên dược hoàn mà hồng kia để vào một chỗ… bóp nát, trộn vào với nhau, thoa… thoa lên miệng vết thương của hắn.”

“Rồi lại cho hắn uống viên thuốc màu… màu đỏ…”, chàng chỉ cảm thấy trước mắt nổi đom đóm, đầu váng mắt hoa.

Hà Y nhanh tay đem viên thuốc màu đỏ bỏ vào miệng Sơn Thủy.

“Giải… huyệt…”

Nàng giải huyệt cho Sơn Thủy. Quả nhiên Sơn Thủy đã có thể đứng dậy.

Hà Y cười nói: “Huynh xem, có thần y ở bên cạnh, dù là độc gì cũng không cần sợ”.

Sơn Thủy than: “Tên mùa kia quả là rất lợi hại. Trước khi chết không biết hắn đã khởi động cơ quan gì, cửa đá đã bị khóa chặt rồi”.

Tâm trạng Hà Y trở nên nặng nề.

“Biểu Đệ ở bên ngoài, hắn… có lẽ hắn có thể mở cửa cho chúng ta.”

Sơn Thủy lắc đầu: “Cơ quan mở cửa và đóng cửa nhất định không giống nhau. Hắn… hắn không sao chứ?”, vừa nhìn thấy dáng vẻ của Mộ Dung Vô Phong, Sơn Thủy cũng bị dọa cho nhảy dựng lên.

“Ta không biết. Khó nói lắm”, Hà Y cười khổ, một mực ôm chặt lấy Mộ Dung Vô Phong vào lòng.

Thần trí chàng đã dần dần có chút không tỉnh táo. Hà Y đặt tay lên lưng chàng, truyền cho chàng một chút chân khí. Cuối cùng chàng cũng tỉnh táo trở lại, đôi mắt uể oải đưa lên nhìn hai người trước mặt, nói: “Tại sao… tại sao còn không đi ra?”.

Sơn Thủy nói: “Chúng ta đã bị nhốt trong này rồi. Hình như cánh cửa đá này đã bị người ta khóa lại”, hắn đã cố sức đẩy mấy lần, cánh cửa đó vẫn cứ trơ trơ bất động.

“Tìm… tìm cơ quan. Thạch môn này hẳn là do mấy bánh răng khống chế. Không có chuyện không thể mở.”

Sơn Thủy chỉ một vòng sắt bên cạnh cửa nói: “Đây chính là cơ quan. Ta tận mắt nhìn thấy hắn ta xoay nó một lúc, cửa liền bị khóa lại. Quay trái, quay phải, ta đều đã thử hết rồi, cửa vẫn không mở”.

“Hà Y…”, Mộ Dung Vô Phong miễn cưỡng mở mắt ra, nói: “Ta muốn đến… xem cái vòng đó”.

Hà Y nhẹ nhàng đỡ lấy trán chàng, dịu dàng nói: “Chàng đừng bận tâm nữa, mau nhắm mắt lại, ngủ một lúc đi. Nơi đây để hai người bọn thiếp nghĩ cách là được rồi”.

“Đưa… đưa ta tới xem”, chàng nhắm mắt lại, nói.

Hà Y ôm chàng tới trước vòng sắt, đưa tay chàng đặt lên cái vòng đó.

Chàng sờ sờ cái vòng, lại sờ tới cái trục.

“Ngươi xoay nó một vòng, để ta nghe thử tiếng… tiếng nó chuyển… chuyển động.”

Cái vòng “két két két” xoay một vòng.

Chàng cười yếu ớt, nói: “Cái cơ quan lâu đời này… chỉ sợ đã có hai trăm năm lịch sử rồi”.

Hà Y sững sờ, hỏi: “Chàng cũng có hiểu biết về cơ quan?”.

“Ừm.”

“Chàng thật quá đáng yêu rồi”, Hà Y không nhịn được hôn chàng một cái.

“Ngươi… kéo cái vòng sắt ra ngoài, nếu kéo được, vậy là ta… ta đoán đúng rồi.”

Sơn Thủy nắm lấy cái vòng sắt, một chân đạp lên tường, dùng sức kéo ra ngoài một cái, “lách cách” mấy tiếng, cái vòng được kéo ra một đoạn!

“Nhấc cái vòng ấy lên… lên đúng vào vết khắc trên tường đá này, sau đó quay về bên trái đúng ba vòng thì dừng lại.”

“Cách, cách, cách…”

Sơn Thủy nói: “Đã hết ba vòng”.

Mộ Dung Vô Phong nói: “Kéo cái vòng xuống dưới về vị trí cũ, rồi xoay phải một vòng”.

“Cách cách…”

“Ngươi xem thử xem… bây giờ cánh cửa đã có thể kéo ra chưa?”

Sơn Thủy dùng sức kéo một cái, cuối cùng cánh cửa cũng từ từ chuyển động, mở ra một con đường hẹp. Ba người mừng rỡ, vội len qua đi ra ngoài.

Ngoài cửa vọng lại tiếng người giao đấu.

Một mình Biểu Đệ đang lăn xả đấu với ba lão nhân. Hà Y thất sắc nói: “Chẳng lẽ ba đại cao thủ của Đường môn cũng chạy tới đây rồi?”.

Sơn Thủy nói: “Cô đem Mộ Dung Vô Phong chạy trước, tôi với Biểu Đệ ngăn cản mấy người này”, nói xong rút đơn dao xông vào trận chiến. Hà Y co chân chạy ngay, chợt thấy một lão nhân áo xám đã chuyển người đuổi theo nhanh như cắt.

Đuổi giữa chừng thì bị Sơn Thủy chạy tới một đao chặn lại, lão áo xám không thể không quay người đối phó với Sơn Thủy. Hà Y vội nhân cơ hội này ôm lấy Mộ Dung Vô Phong lướt đi mười trượng một, chạy sâu vào bên trong Đường môn. Nàng đoán hẳn người của Đường môn sẽ cho rằng nàng muốn chạy về đồng hoang ít người lui tới sau núi để ẩn náu, cho nên bản thân nàng sẽ làm ngược lại, chạy thẳng vào trong những phòng ốc san sát của Đường môn.

Mưa giăng kín như tơ

Nàng cảm thấy bàn tay vốn đang bám chắc lấy vai mình của Mộ Dung Vô Phong dần dần lỏng ra, dần dần tuột đi. Hơi thở của chàng cũng càng lúc càng mảnh.

Nàng sợ hãi gọi chàng vài tiếng, chàng không hề trả lời. Không những thế tim chàng đập càng lúc càng yếu. Khi chân khí của nàng truyền vào thân thể chàng thì phát hiện nội tức bên trong người chàng tán loạn, đã nguy hiểm lắm.

Máu bắt đầu thấm khỏi lớp băng dưới thân chàng, phút chốc đã nhuốm ướt tay nàng.

Nàng hoảng hốt lao vào một hành lang, mượn ánh đèn nơi ấy xem tình hình của chàng, thấy đôi mắt chàng nhắm chặt, mặt xám như tro, môi đã chuyển màu nhợt nhạt như sắc mặt.

Nàng kéo vạt áo của chàng, thấy chỗ băng bó nơi chân phải của chàng đã sớm bị nước bẩn ở thủy lao nhuốm thành màu đen, mà từ trong lớp băng chảy ra một thứ chất lỏng vừa đen vừa dính nhưng không rõ là máu hay là… hay là thứ gì đó khác.

Hà Y sợ tới toát mồ hơi, trong đầu trống rỗng.

Bình tĩnh, bình tĩnh, bình tĩnh. Nàng ra lệnh cho bản thân.

Nàng vô thanh vô tức lẻn vào một gian phòng rất lớn, vừa vào cửa liền ném một viên “Hoan Tâm” vào cây đèn. Nàng đợi ở cửa một lúc, chỉ nghe thấy hàng loạt tiếng “bịch bịch”, tựa như có người trúng thuốc mê, ngã xuống đất.

Đó là một gian phòng của nữ nhân, cực kỳ xa hoa, bên trong quả nhiên có bốn nha hoàn mười bốn, mười lăm nằm ngã la liệt trên mặt đất.

Trên giường có một người phụ nữ đang nằm, có vẻ như cũng đã hôn mê.

Hà Y cài cửa phòng lại, phát hiện một cánh cửa khác trong phòng có mùi hơi nước tỏa ra, nàng tiến vào xem thì thấy có hai bồn tắm đầy nước nóng. Ở bốn phía có đốt một loại hương thơm để xông người.

Đến lúc này Hà Y mới phát hiện trên người mình có một thứ mùi đáng sợ. Ở trong cái nơi tựa như địa ngục kia quá lâu, lại sờ phải rất nhiều thứ mà trước giờ mà chưa từng chạm tới, nàng đương nhiên biết mùi trên người là thứ mùi gì.

Hà Y cởi bỏ y phục cho Mộ Dung Vô Phong trước, đặt chàng vào trong nước, cẩn thận tắm rửa từng tấc từng tấc da thịt của chàng. Nàng cắn chặt răng, gỡ từng lớp từng lớp băng bó ở thân dưới chàng.

Vết thương đã thành một mảng đen kịt, cũng không được khâu lại gì hết, tựa hồ chỉ tùy tiện bôi lên một lớp kim sang dược loại làm đông máu nhanh nhất để cầm máu mà thôi. Thậm chí nàng có thể nhìn thấy một đoạn xương trắng đang chuyển đen. Không dám nhìn kỹ nữa, nàng đưa mắt đi, chỉ đưa tay nhẹ nhàng vuốt rửa, làm sạch chỗ vết thương.

Sau khi tắm rửa kỹ càng cho chàng một lượt, nàng lại đưa chàng vào bồn nước nóng thứ hai, lại tắm rửa thật sạch cho chàng thêm một lần nữa. Làm xong tất tần tật nàng mới tìm một tấm khăn lớn bọc lấy chàng, đặt lên một chiếc sạp gỗ ở bên cạnh còn bản thân cũng nhảy vào bồn nước tắm qua loa, rồi tìm ở tủ quần áo lớn bên cạnh được hai bộ y phục mặc vào. Lúc ấy thứ mùi đáng sợ trên người mới coi như biến mất.

Chương 24

Trong phòng tắm quá mức ẩm ướt, Hà Y chỉ sợ Mộ Dung Vô Phong không chịu nổi, liền ôm chàng vào phòng ngủ của nữ nhân kia. Nàng định dẹp người phụ nữ ấy sang một bên, đặt Mộ Dung Vô Phong lên giường rồi nghĩ cách lo liệu vết thương cho chàng. Vừa cúi xuống liền phát hiện hai mắt của người phụ nữ này vẫn đang mở.

“Thuốc mê của cô rất linh nghiệm, chỉ tiếc là không có tác dụng với ta”, người phụ nữ nằm trên giường không hề động đậy, trông cô ta chưa tới bốn mươi, dáng vẻ rất mỹ lệ.

“Nếu cô dám mở miệng kêu lên, ta sẽ một kiếm đâm chết cô”, Hà Y lạnh lùng nói.

Người phụ nữ lãnh đạm nói: “Vậy cô cứ đâm chết ta đi. Ta sớm đã không muốn sống nữa rồi”.

Hà Y cũng chẳng buồn đâm chết cô ta, liền nói: “Dậy đi, nhường giường”.

người phụ nữ nói: “Ta không cử động được”.

Hà Y nhíu mày hỏi: “Sao lại không cử động được?”.

Người phụ nữ cười nói: “Sao cô không lật chăn ra tự mình xem?”.

Hà Y cầm lấy tấm chăn lật phắt ra, chợt hoảng sợ.

Tuy người phụ nữ đó đang mặc đồ ngủ nhưng nhìn là biết tay chân của cô ta đã bị chặt hết, chỉ còn lại mỗi cái đầu lộ ra khỏi chăn, nếu chỉ nhìn bên ngoài chăn thì thật không khác gì người thường.

Hà Y có chút áy náy nói: “Xin lỗi, cô vẫn phải nhường giường thôi”, nàng ôm cô ta, đặt xuống cái ghế bên cạnh rồi tiện tay lấy một chiếc chăn lông đắp lên người cho cô ta.

Tiếp đến nàng nhẹ nhàng đặt Mộ Dung Vô Phong xuống giường, đắp chăn cho chàng, sau đó quỳ xuống bên giường, lo lắng cầm chặt tay nhìn chàng.

“Người này là tình lang của cô?”, người phụ nữ trên ghế hỏi.

“Ừm”.

“Dáng vẻ cũng rất anh tuấn. Chỉ đáng tiếc…”.

Hà Y không để ý tới cô ta, nàng mở bọc đồ đem theo bên người, mở lớp giấy dầu, lấy ra toàn bộ kim sang dược, băng gạc và một túi cứu thương nhỏ. Nàng nghiến răng, vén một góc chăn lộ ra vết thương đáng sợ trên chân phải của Mộ Dung Vô Phong.

Nước mắt nàng ứa ra, tuôn rơi rất lâu, không biết phải làm thế nào.

Nàng nghĩ đi nghĩ lại rồi quyết định bôi lên đó một lớp kim sang dược rồi sau đó băng chặt vết thương lại.

Nghĩ xong, nàng mở hộp thuốc, đang định thoa lên vết thương thì người phụ nữ kia đột nhiên nói: “Không được”.

Hà Y quay đầu sang hỏi: “Sao lại không được?”.

“Vết thương của hắn sâu tới xương, ắt phải cắt bỏ xương thối, rửa sạch miệng vết thương, sau khi khâu lại mới thoa thuốc rồi băng bó. Nếu không cốt tủy đã hỏng, tủy độc lại theo xương chạy ngược lên, chạy vào lục phủ ngũ tạng thì hắn phải chết không nghi ngờ gì”.

Hà Y nói: “Sao cô biết rõ ràng vậy? Ta dựa vào cái gì mà phải tin cô?”.

Người phụ nữ đáp: “Bởi vì ta là một đại phu”.

Hà Y lại giật mình hỏi: “Cô cũng là một đại phu?”.

Người phụ nữ nói: “Danh tiếng của thần châm thế gia Tiết gia bảo, thiết nghĩ chắc hẳn cô có nghe qua. Nếu luận về y thuật, khắp thiên hạ chỉ sợ có mình thần y Mộ Dung mới sánh bằng”.

Hà Y nói: “Cô chính là ‘Tiết thần châm’?”.

Người phụ nữ nói: “Tiết thần châm là phụ thân của ta. Tên ta là Tiết Văn”.

Hà Y nói: “Sao cô lại ở chỗ này? Lại còn bị người ta chặt… chặt…”, trong lòng nàng run lên, không khỏi nghĩ tới cảnh ngộ của cô ta cũng tương tự như Mộ Dung Vô Phong, liền sau đó không sao nói ra được nữa.

Tiết Văn nói: “Ta được gả vào Đường gia, nhưng đây chẳng qua cũng chỉ là một vụ giao dịch giữa Tiết gia và Đường gia mà thôi. Ta vừa tới đây đã yêu một người khác. Đây chính là kết quả của việc ấy. Bọn chúng không muốn tống ta vào thủy lao, bởi vì chúng cần ta. Người của Đường gia tuy nhiều, nhưng người tinh thông y thuật và dược thuật cũng chẳng được bao nhiêu. Lũ con cháu khác chẳng qua là một bọn ăn hại mà thôi”.

Hà Y run rẩy hỏi: “Cô… cô chịu giúp tôi cứu chàng sao?”.

Tiết Văn nói: “Đương nhiên là có điều kiện”.

Hà Y nói lớn: “Chỉ cần cô cứu được chàng, kể cả muốn ta lập tức chết ở đây ta cũng bằng lòng”.

Tiết Văn thở dài một tiếng, nói: “Cô cũng là một kẻ si tình. Cô nên biết người si tình từ trước đến giờ đều chẳng có kết cục gì tốt. Ta cũng chẳng cần cô phải chết, cô chỉ cần đồng ý giúp ta giết một người, kẻ thù của ta, ta sẽ giúp cô”.

Hà Y thầm nhủ, biến Tiết Văn thành như thế này, kẻ thù của cô ấy cũng chẳng phải là loại tốt đẹp gì, liền chấp thuận: “Được, ta đồng ý”.

Tiết Văn nói: “Trước tiên cô đưa ta đến bên cạnh hắn”.

Hà Y kéo ghế của Tiết Văn tới bên giường. Tiết Văn xem kỹ vết thương ở chân của Mộ Dung Vô Phong, lại thở dài: “Tuy ta có thể giúp cô xử lý vết thương của hắn, để hắn không chảy máu nữa nhưng sau khi băng bó, hắn còn có thể sống thêm bao lâu, rất khó nói. Xem ra thân thể hắn rất kém, lại còn mất quá nhiều máu nữa”.

Hà Y nói: “Tim chàng cũng không tốt…

Tiết Văn nhìn nàng, muốn nói lại thôi, nghĩ một lát rồi nói: “Trước tiên cô lấy châm châm vào tất cả các huyệt đạo để cầm máu của hắn. Ngoài ra, lấy ba mũi châm vàng cắm vào ba huyệt ‘Trung Khu’, ‘Thần Đình’, ‘Mệnh Môn’ của hắn. Hắn sẽ hoàn toàn hôn mê”.

Hà Y tuân lời mà làm, không kìm được mở miệng hỏi: “Một lúc nữa chàng… chàng sẽ rất đau đớn?”.

Tiết Văn nói: “Nếu không hôn mê, hắn sẽ đau tới chết đi sống lại”.

Hà Y nghe thế, chợt cảm thấy toàn thân mềm nhũn: “Chân của chàng… vốn… vốn đã bại liệt, vốn… vốn không có bất cứ cảm giác gì”.

Tiết Văn cười lạnh nói: “Vết thương sâu đến thế, làm sao có chuyện không có cảm giác?”.

Hà Y không dám nghe tiếp, liền nói: “Cô nói thế nào… ta sẽ làm như thế”.

“Hiện giờ ngàn vạn lần cô không được coi người trước mặt là tình lang của mình, mà phải nghĩ hắn là một người hoàn toàn không quen biết, hoặc dứt khoát coi hắn là một xác chết. Bất luận cô làm gì trên người hắn, đều là hắn đau, không phải cô đau”.

Sau đó, Hà Y chỉ biết theo lời chỉ dẫn của Tiết Văn, đặt Mộ Dung Vô Phong nằm nghiêng, cắn răng giúp chàng làm sạch vết thương rất lâu, rồi mới dùng ngân châm và chỉ sạch túm lấy lớp da ở bên dưới lại, khâu thành hai đường sẹo dài bốn tấc.

Tiết Văn ở một bên nhìn nàng, than: “Cô thật thà mà khai ra cho ta, trước đây rốt cuộc cô đã từng khâu vá cái gì chưa?”.

Hà Y nói: “Chỉ mới khâu qua nút áo”.

Tiết Văn nói: “Còn may đường khâu không ở trước mắt hắn, nếu không khi hắn mở mắt tỉnh lại, nhìn thấy hai vết sẹo xiên xiên xẹo xẹo cứ như hai con rết to đùng này của cô, lại không tức đến chết mới lạ”.

“Ta là người ngoài nghề, không nên yêu cầu quá cao có được không?”.

“Bộ dạng hắn thế này mà cô vẫn muốn gả cho hắn sao?”.

“Hai đường khâu này là do ta khâu, đương nhiên ta phải gả cho chàng. Nếu ta không gả cho chàng, chàng nhất định sẽ tìm ta bắt đền”, nàng khe khẽ nói. Vết thương của Mộ Dung Vô Phong vốn đã được bôi một lớp kim sang dược cực tốt, không còn chảy máu nữa, nhưng sau khi nàng xử lý lại một lượt, máu tươi chảy ra đã sớm ướt sũng giường.

Nhìn dáng vẻ xanh xao gầy yếu của chàng lúc trước, nàng đơn giản là không tưởng tượng ra được trong người chàng lại vẫn có nhiều máu thế này để mà chảy ra.

Nàng bôi một lớp thuốc, dùng băng trắng bó chặt lấy vết thương, rồi đem số thuốc còn lại bôi lên một vết thương khác trên chân trái của chàng, sau đó thu dọn giường, thay một tấm trải giường mới, rồi lại thay cho chàng một bộ y phục khác.

Mộ Dung Vô Phong nhắm mắt nằm yên trên giường.

Hà Y nắm lấy tay chàng, phát hiện nhịp tim của chàng cực kỳ yếu, không khỏi có chút lo lắng, không nhịn được hỏi: “Tim của chàng không tốt… hiện giờ đập rất… đập rất yếu. Liệu có sao không?”.

Tiết Văn do dự một lúc mới nói: “Ta đang định nói với cô về chuyện này. Cho dù bây giờ vết thương của hắn đã không sao nữa, hắn vẫn… vẫn rất khó sống được qua ngày mai”.

“Cái gì!”, Hà Y kinh hãi, gần như nhảy bật lên, nói: “Không phải cô nói cô có thể giúp ta cứu chàng sao?”.

“Nếu chúng ta không làm những việc vừa rồi, hắn đã lập tức bỏ mạng. Làm xong, hắn còn có thể sống thêm mấy canh giờ. Đây không phải là cứu hắn sao?”.

“Nhưng… nhưng chàng trông rất yên ổn mà!”, Hà Y không kìm được, nước mắt đã lăn dài.

“Đấy là bởi chúng ta đã điểm huyệt đạo của hắn. Hắn đang hôn mê mà thôi. Thân thể hắn quá yếu, không thể điểm huyệt quá lâu. Đợi một lúc nữa giải huyệt, hắn sẽ bắt đầu co giật. Tim của hắn hiển nhiên không thể chịu nổi loại co giật này. Cho nên… sớm muộn… hắn cũng sẽ phải đi. Cô… cô nên nghĩ thoáng một chút. Huống chi vết thương của hắn, kể cả đã hoàn toàn lành lặn, nhưng bởi đã phơi ra ngoài quá lâu, lại bị ngâm trong nước, sau này cứ vào những lúc thời tiết lạnh lẽo hay ẩm ướt sẽ lại phát tác, đau tới chết đi sống lại. Sớm biết sẽ phải chịu giày vò như thế, theo ta, chẳng bằng bây giờ chết đi còn tốt hơn”.

Hà Y run rẩy hỏi: “Cô muốn nói, chàng không có chút hy vọng nào sao?”.

Tiết Văn nói: “Ừm. Mỗi lần co giật, tim của hắn sẽ phải chịu thử thách lớn. Hắn tuyệt đối không chịu được hơn ba cơn co giật”.

Tựa như hy vọng đột nhiên bị giập tắt, Hà Y không kìm được, ôm lấy Mộ Dung Vô Phong, khóc lóc thương tâm: “Nếu chàng chết, ta sẽ chết cùng chàng”.

Tiết Văn than: “Cô có biết, hai mươi năm trước, ta cũng giống hệt cô không? Chính tay ta đã đẩy tình lang của mình xuống vực sâu vạn trượng”.

Hà Y kinh ngạc nhìn Tiết Văn, nói: “Cô… cô thật độc ác”.

“Ha ha, ta vốn định cùng chết với chàng. Hai người chúng ta chạy lên đỉnh núi, đằng trước không còn đường, sau lưng là truy binh. Chàng đã vì ta mà bị trọng thương. Ta biết nếu như chàng bị chúng bắt, thì sẽ… vậy thì sẽ chết rất… chết rất thê thảm. Ta chỉ đành đẩy chàng từ trên đỉnh núi xuống! Cô nên biết, lúc ấy tim ta đã chết theo chàng rồi! Bản thân ta vốn cũng muốn nhảy xuống, nhưng không nhịn được muốn báo thù cho chàng. Quay trở lại, muốn giết… giết kẻ đó! Đáng tiếc võ công ta không đủ cao, vẫn bị hắn bắt được”, cô ta lạnh lùng nói, ngực phập phồng, tâm tình cực kỳ kích động.

Hà Y nói: “Hắn… tại sao hắn không lập tức giết cô?”.

“Giết ta? Vậy không phải dễ dàng cho ta quá sao?”,

Tiết Văn cười lạnh: “Hắn không giết ta, mà chặt hết tay chân ta, tiếp tục nuôi ta, lại còn phái một đám nha đầu tới chăm sóc ta nữa. Cô nên biết, cứ cách một thời gian hắn lại tới nơi này một lần, cho tới bây giờ ta đã sinh cho hắn tổng cộng mười đứa con. Con vừa sinh ra đã bị đem đi, ta không được nhìn lấy một cái, là nam hay là nữ cũng không biết. Cô có thể tưởng tượng ra, một kẻ không có chân tay như ta, lúc sinh con, sẽ là thứ bộ dạng gì?”.

Hà Y nói: “Kẻ mà cô muốn ta giết chính là hắn?”.

Tiết Văn nói: “Không sai. Kẻ đó chính là chồng ta”.

Hà Y nói: “Giết loại người như vậy, thực ra cô không cần điều kiện với ta. Kẻ như vậy ta bằng lòng giết miễn phí”.

Tiết Văn nói: “Đa tạ. Ta nghĩ hắn cũng sắp vào đây rồi”.

Ngoài hành lang chợt vọng tiếng bước chân. Hà Y ôm Mộ Dung Vô Phong trốn ra sau giường, nhanh chóng thu dọn những thứ trên giường rồi đưa Tiết Văn trở lại trong chăn. Nàng ra cửa đem mấy nha hoàn hôn mê giấu vào phòng tắm, bản thân thì rút kiếm, trốn sau một tủ quần áo lớn bên cạnh giường.

Quả nhiên cánh cửa khẽ mở ra, một nam nhân áo xanh trung tuổi tiến vào.

Namnhân này rất cao, tuy đã gần năm mươi nhưng vẫn rất phong độ. Hà Y chợt cảm thấy thần sắc của người này cực kỳ giống Đường Tam. Gia pháp của Đường gia đối với con cháu trong nhà xưa nay không hề nương nhẹ, nếu không gia tộc này cũng không thể sừng sững đứng trong giang hồ ba trăm năm mà không đổ. Một chân của Đường Tam chỉ sợ cũng do phạm phải gia pháp mà bị chặt đi.

“A Văn, ta tới thăm nàng đây. Hôm nay nàng vẫn khỏe chứ?”, giọng nói của nam nhân này lại rất dịu dàng, rất dễ nghe.

“Rất khỏe. Như ta bây giờ, lại có cái gì ‘khỏe’ với ‘không khỏe’ đây?”, Tiết Văn nằm trên giường lạnh lùng nói.

“Hôm nay trong cốc xảy ra chuyện, cho nên ta sẽ làm rất nhanh thôi. Mấy năm nay, nam đinh của Đường gia thật sự càng ngày càng ít. Mấy thê thiếp lão đại, lão tam lấy về toàn bộ cộng lại cũng chẳng bằng một mình nàng sinh được nhiều như thế”, nam nhân đó vừa nói vừa tiến đến giường rồi lột áo của Tiết Văn.

“Ta vốn chỉ là một con lợn nái của Đường gia các người mà thôi”, Tiết Văn nói.

“Nàng hiểu được điều này là tốt. Đời sau của Đường gia phải nhờ cậy cả vào nàng rồi”.

“Ngươi có thể nói cho ta biết, cuối cùng ta đã sinh cho ngươi bao nhiêu con trai, bao nhiêu con gái? Tên của bọn chúng rốt cuộc là gì?”.

“Nàng muốn biết những cái đó làm gì? Lẽ nào nàng vẫn muốn gặp bọn chúng? Nàng là đồ đàn bà hư hỏng, nàng nghĩ nàng cũng xứng làm mẹ chăng?”.

“Chẳng phải phụ thân của chúng cũng là kẻ mọc sừng sao?”.

Khuôn mặt nam nhân trở nên hung dữ, vung tay tát vào mặt Tiết Văn.

Hà Y bất thình lình phóng một ngọn phi đao qua trúng vào cổ tay hắn, lực đao rất lớn, gần như chặt đứt cả bàn tay của nam nhân xuống. Không đợi nam nhân kịp hoàn hồn, Hà Y đã điểm vào huyệt đạo toàn thân hắn, nam nhân lập tức ngã ập xuống giường.

Tiết Văn nói: “Hay lắm, tay chân của cô cũng rất nhanh nhẹn! Phiền cô cắt đứt gân tay gân chân của hắn”.

Hà Y dùng một ngọn phi đao cắt bốn phát lên tứ chi của hắn.

“Còn nữa, cả thứ kia nữa”, Tiết Văn lại nói

“Thứ nào?”.

“Thứ của nam nhân!”.

Mặt Hà Y lập tức đỏ bừng lên.

“Cô đã đồng ý giúp ta”.

Nàng đành rút kiếm, quét qua một cái.

Namnhân kia đau đớn, vật vã kêu gào trên giường. Hà Y vội vàng điểm vào huyệt câm của hắn.

“Được rồi, đem hắn tới trước mặt ta, mặt đối mặt”.

Hà Y đem nam nhân đặt lên giường đúng theo yêu cầu của Tiết Văn.

“Các người đi đi. Đi theo cửa sau, đằng sau là hậu sơn. Trên núi có một ngôi miếu thổ địa. Tuy ta không biết các người có thể trốn theo lối nào nhưng chỗ đó là nơi trước đây ta và… tình lang của ta… bỏ trốn. Chí ít cô có thể yên ổn nghỉ ở đấy một đêm rồi nghĩ cách mà trốn ra ngoài”.

“Đa tạ”, Hà Y ôm Mộ Dung Vô Phong lên, không tìm được một bộ y phục khác, chỉ đành với một chiếc chăn lông thật dày bao bọc lấy thân thể chàng.

Trước khi đi, nàng quay nhìn hai người trên giường lần cuối, chợt nhớ ra Tiết Văn hoàn toàn không còn tay chân, không nhịn được lại hỏi: “Cô chuẩn bị giết hắn như thế nào?”.

“Ta sẽ cắn chết hắn”, Tiết Văn cười nhạt nói: “Hẹn gặp lại… thật ra là sẽ không gặp lại. Chúng ta sẽ vĩnh viễn không thể gặp lại nữa rồi”.

Lúc Hà Y chạy ra theo cửa sau, xa xa ở một góc khác của Đường môn vọng lại tiếng đánh nhau nhưng khi nàng ôm Mộ Dung Vô Phong chạy ra sau núi, không hề có ai phát hiện ra hai người. Nàng nhanh chóng tìm được ngôi miếu đổ đó, rồi nhanh chóng nhận ra vì sao Tiết Văn lại chọn nơi này làm nơi lén lút gặp gỡ tình lang.

Ngôi miếu nhỏ này nằm ở một chỗ rất xa lại cực kỳ khuất trên sườn núi, sau lưng còn có một sườn núi khác, vừa hay chắn trước cửa sổ của miếu, cho dù có người thắp đèn trong miếu, người dưới núi cũng hoàn toàn không thể nhìn thấy. Ngôi miếu ấy nhiều năm không tu sửa, trông rất điêu tàn. Bên trong hình như có một bức tượng Phật, một cái hương án, mấy lư hương. Trong bóng tối, Hà Y cũng không để ý nhìn kỹ, nàng nhấc lấy cái mặt của hương án, kê xuống mặt đất ẩm ướt, sau đó nhẹ nhàng đặt Mộ Dung Vô Phong lên đó, rút mồi lửa trước khi đi Sơn Thủy đưa cho, nhóm một đống lửa. Nàng ngồi xuống, ôm Mộ Dung Vô Phong vào lòng, dùng hơi ấm của mình sưởi cho chàng.

Hơi thở của chàng vừa mỏng vừa gấp, tựa như đến cả sức lực để thở cũng đang dần dần tuột đi mất.

Cả thân thể chàng dưới cơn đau kịch liệt không ngừng run lên bần bật rồi bắt đầu co giật. Hà Y kinh hãi nhìn chàng đau đớn tới mức vặn vẹo cơ thể, cảm thấy dường như có một ngọn roi vô hình không ngừng quất vào nàng. Đầu và cổ chàng cứng đơ thẳng tuột nhưng cả thân mình từ vai đổ xuống lại co giật kịch liệt.

Nàng giữ chặt lấy chàng, phát hiện cơn co giật này không thể dùng sức mà khống chế được, đành chuyển sang dùng chân khí của mình bảo vệ tâm mạch cho chàng nhưng mọi nỗ lực đều không có lấy chút hiệu quả nào. Lúc đầu, tim của Mộ Dung Vô Phong đập rất dữ dội, dần dần, tựa như không sao chịu nổi gánh nặng đang phải mang, càng lúc càng yếu đi. Đợi đến khi cơn co giật khó khăn lắm mới dừng lại, môi và mười ngón tay của chàng đã tím tái đến đáng sợ.

Đây là triệu chứng thường thấy khi bệnh tim đột nhiên phát tác.

Hà Y hoang mang tuyệt vọng nhìn người đang giãy giụa vật vã bên bờ cái chết trong lòng mình. Nước mắt như muốn chảy hết còn bản thân thì hoàn toàn bất lực.

Điều duy nhất nàng có thể làm được chỉ là dùng khăn tay nhẹ nhàng lau đi mồ hôi trên trán chàng, dịu dàng nhìn chàng. Nàng không còn xa xỉ cầu mong cho chàng được tiếp tục sống nữa, chỉ lặng lẽ khẩn cầu ông Trời cho chàng chịu ít đớn đau đi một chút, để trên thời khắc cuối cùng trên đời, chàng có thể bình yên chết trong lòng nàng. Nàng quả thực không thể chịu được việc phải tiếp tục nhìn dáng vẻ quằn quại khi đau đớn của chàng nữa. Dáng vẻ đó khiến nàng đau lòng muốn chết, không sao chịu nổi.

Nàng nắm tay chàng, đưa lên môi mình, hôn nhẹ. Bàn tay đó vẫn gầy, vẫn xanh xao như ngày xưa nhưng đối với nàng nó lại luôn mang theo một vẻ đẹp và sức sống không thể hình dung. Tựa như xúc tu linh mẫn nhất của côn trùng, lại như đôi cánh mỏng manh nhưng nhanh nhẹ trên lưng chuồn chuồn, bàn tay từng dạo trên người nàng, tạo nên vô số âm thanh tuyệt diệu.

Số mệnh lại đùa cợt người ta như vậy, khó khăn lắm mới để một người hoàn toàn xa lạ trở thành người yêu thương của nàng, nhưng lại bắt nàng mất đi người ấy.

Trên đời còn có chuyện đáng sợ hơn thế này nữa chăng?

Nàng ngồi bất động bên đống lửa, rất rất lâu. Khuôn mặt nàng áp vào mặt chàng, chăm chú lắng nghe từng hơi thở yếu ớt của chàng.Tayhai người vẫn nắm chặt nhau.

Tới nửa đêm, Mộ Dung Vô Phong bỗng nhiên mở mắt tỉnh lại.

Nàng nhìn chàng như mất hồn, đã quên mất cả việc phải kinh ngạc.

“Hà Y…”, chàng thều thào gọi nàng.

Nước mắt nàng không nghe lời lại ứa ra, từng giọt từng giọt nhỏ lên mặt chàng.

“Đừng nói gì cả, ta ở đây”, nàng ôm chặt lấy chàng.

Mộ Dung Vô Phong nhìn nàng, gắng sức cười nhẹ, nói: “Chúng ta… chúng ta vẫn chưa thoát… thoát được ra ngoài sao?”.

Nàng lắc đầu, nói: “Thiếp sợ chàng… quá mệt. Chúng ta nghỉ ngơi ở đây một lúc trước. Chàng đau lắm phải không?”, nàng đưa tay nhẹ nhàng sờ vào vết thương của chàng.

Chàng cắn chặt răng, chịu đựng cơn đau đớn dội ập tới nhanh như chớp gần như khiến chàng muốn ngất, nói: “Vẫn… khỏe”. Tim chàng dội lên một cơn quặn thắt, khiến chàng cảm thấy không thể hít thở nổi nữa.

“Hà Y… tên… tên tiểu tử… họ Tần…, thật ra… thật ra không tệ. Nếu nàng sống cùng… cùng hắn…, hắn sẽ đói xử tốt với nàng”, chàng đột nhiên bật ra câu này.

Hà Y khẽ đáp: “Sao chàng lại nói vậy? Tên tiểu tử đó rất ngốc, đến một cái móng chân cũng chẳng bằng chàng…”.

“Sái… Sái đại phu rất thông minh. Hắn với ta… thông minh như nhau”.

Hà Y bực bội nói: “Chàng từ bao giờ lại thích đi mai mối thế? Sái đại phu… làm sao đẹp trai bằng chàng?”.

Chàng thở dài một tiếng, tiếp tục nói: “Hà Y… không cần quá khắt khe. Bọn họ chí ít… chí ít… cũng nhiều hơn ta một đôi chân”, chàng thở dốc rồi nói tiếp: “Tính tình của họ… so với ta… tốt hơn nhiều”.

Hà Y rơi nước mắt nói: “Thiếp chỉ yêu mình chàng, kẻ khác có tốt bằng trời thiếp cũng không thích. Chàng… chàng đừng nói nữa!”.

Mộ Dung Vô Phong than: “Nàng… sao… không chịu hiểu?

Hà Y… ta… không xong rồi”.

Hà Y nghe câu này, cảm thấy như vạn tiễn xuyên tâm, nói: “Nếu chàng thực có mệnh hệ gì, thiếp sẽ chết cùng chàng… trên đường xuống suối vàng, thiếp sẽ chăm sóc cho chàng”.

“Nói… nói bậy!”, chàng nổi nóng nói, “Không cho phép nàng… không cho pháp nàng nghĩ như thế!”.

“Thiếp không muốn sống nữa rồi, không muốn sống nữa rồi!”, Hà Y thương tâm hét lên.

“Nàng…”, Mộ Dung Vô Phong lo tới mức muốn ngất đi.

Một lúc sau chàng gom hết chút sức lực cuối cùng của mình, nói: “Ta đã sớm lập di chúc… sau khi ta chết, Vân Mộng cốc giao… giao cho nàng làm… làm của hồi môn. Nàng vốn… vốn không có nhà, lần này… lần này coi như… coi như là có rồi”.

Nàng khóc lóc: “Thiếp không cần Vân Mộng cốc! Thiếp không cần nhà! Thiếp chỉ cần chàng! Xin chàng đấy! Chàng đừng chết! Chàng đừng bỏ thiếp!”.

Mộ Dung Vô Phong hổn hển nói: “Ta… không vứt… vứt bỏ nàng. Nàng đem ta chôn ở… chôn ở trong cốc, ta… ta chẳng phải sẽ… chẳng phải sẽ luôn bầu bạn với nàng sao?”.

“Không!”, nàng đột nhiên ôm lấy chàng, đứng trước bức tượng Phật, nói: “Bây giờ thiếp muốn làm thê tử của chàng. Chúng ta… chúng ta sẽ thành thân trước mặt Bồ Tát, có được không?”, nói xong, nàng thủ thỉ: “Kỳ thực thiếp nên sớm gả cho chàng sớm một chút, chàng sẽ không… sẽ không bị bọn người Đường môn bắt đi”.

Mộ Dung Vô Phong cười yếu ớt, nói: “Nàng xem… vị Bồ Tát này đến đầu cũng chẳng có…”.

Hà Y ngẩng đầu, phát hiện quả nhiên đầu của bức tượng không biết đã rơi ở nơi nào, chỉ còn mỗi thân mình xiêu xiêu vẹo vẹo ngồi trên đài sen. Hà Y bước tới vung chân đá một cái thùng gỗ rơi đúng lên chỗ đầu tượng Phật, nói: “Đây chẳng phải là đầu sao?”.

Mộ Dung Vô Phong im lặng nhìn nàng.

Hà Y ôm chàng quỳ xuống, mặt hơi đỏ lên, thành khẩn nói: “Quan Thế Âm Bồ Tát đại từ đại bi, con Sở Hà Y nguyện cùng Mộ Dung Vô Phong đời đời kiếp kiếp kết thành phu phụ, đời này không hối hận, người thần cùng chứng giám!”.

Nói xong nàng cúi đầu xuống, khẽ nói: “Vô Phong, chàng… chàng có bằng lòng lấy… lấy thiếp không?”

Mộ Dung Vô Phong run giọng nói: “Không… không…”.

Hà Y nhẹ nhàng hôn chàng, nói: “Chàng bằng lòng, đúng không? Chàng luôn bằng lòng đúng không?”.

Mộ Dung Vô Phong nhìn nàng thật lâu rồi chớp mắt. Chàng đã không còn sức để nói nữa rồi.

Hà Y cười nói: “Nếu chúng ta đều nguyện ý, vậy từ giờ trở đi chúng ta đã là vợ chồng rồi”, nói xong nàng dìu Mộ Dung Vô Phong hành lễ trước mặt Bồ Tát.

Xong việc, nàng lại ôm lấy chàng, buồn rầu ngồi xuống cạnh đống lửa, thê lương nhìn chàng bắt đầu cơn co giật thứ hai.

Lần này không dữ dội như lần đầu tiên, nhưng rõ ràng đã cướp nốt chút nguyên khí cuối cùng của Mộ Dung Vô Phong. Khuôn mặt chàng giờ đã xám như tro. Sau cơn run rẩy kịch liệt, toàn thân hoàn toàn bại liệt. Tim của chàng đập càng yếu đi. Hơi thở của chàng trở nên mỏng manh và gấp gáp.

Lời của Tiết Văn quả nhiên không sai. Cơn co giật thứ hai đã đủ để lấy mạng Mộ Dung Vô Phong, thực sự không cần tới lần thứ ba.

Hà Y ôm lấy chàng ngơ ngác đi ra ngoài, mưa đã tạnh từ lâu, chân trời hiện ra một đường sáng rạng rỡ. Nàng loạng choạng trèo lên đỉnh núi, tìm một tảng đá lớn rồi ngồi xuống. Dưới chân chính là vách núi mà khi trước nàng trèo lên, bên dưới sóng reo ầm ầm, xa xa còn có thể nghe thấy tiếng sóng dội vách đá vọng tới.

Nàng tháo thắt lưng buộc chặt Mộ Dung Vô Phong vào người mình. Nhảy xuống chính là táng thân vào bụng cá, nhưng nàng vẫn muốn được cùng chàng vào bụng một con cá.

Sau đó nàng lại ngồi xuống, siết chặt chàng vào lòng, lặng lẽ đợi tới thời khắc cuối cùng của chàng.

Khuôn mặt chàng vì khó thở mà dần dần tái xanh. Hồi lâu sau, tựa như hồi quang phản chiếu, chàng lại miễn cưỡng mở mắt ra.

“Chàng tỉnh lại rồi sao?”, khuôn mặt tái nhợt của Hà Y chợt có chút sắc hồng.

Chàng chớp mắt, tựa hồ có nét cười.

“Thiếp đã đưa chàng tới nơi chàng thích nhất. Chàng còn nhớ lần chúng ta ở trên đỉnh Thần Nữ không? Một lúc nữa, chúng ta lại có thể ngắm mặt trời mọc rồi. Chàng xem, bầu trời có phải đã dần dần sáng lên rồi không?”.

Ánh mắt chàng dõi theo hướng ngón tay nàng, nhìn ra xa.

Mặt trời tròn vo đo đỏ, ẩn trong tầng mây giờ đã lộ ra một quầng nắng.

Ngón tay chàng muốn động đậy nhưng chẳng có một chút sức lực, dần dần một hơi thở cũng không hít vào nổi nữa, phổi của chàng bắt đầu co thắt vì thiếu không khí.

Hà Y vuốt nhẹ ngực chàng, dịu dàng nói: “Chàng đừng sợ. Thiếp sẽ… thiếp sẽ mãi mãi ở bên chàng”.

Sau đó Mộ Dung Vô Phong phát hiện thân thể của mình đã buộc chặt với thân thể Hà Y, kể cả tay của bọn họ cũng được dùng dây quấn vào nhau. Tim chàng chợt chùng xuống. Chàng ngắm khuôn mặt nàng, trái tim bỗng đập rất nhanh. Tuy đã không thể nói chuyện, chàng vẫn cố gắng mở to mắt, đau lòng nhìn nàng.

Mái tóc dài của nàng phất phơ trong gió, khẽ lướt qua má chàng hệt ngày hôm đó, nhưng bây giờ thần sắc trên khuôn mặt nàng chỉ còn tuyệt vọng.

Chàng biết, nàng đang đợi thời khắc cuối cùng của chàng, chỉ đợi chàng nhắm mắt, nàng sẽ ôm theo chàng từ đây nhảy xuống.

Cho nên chàng cố giữ lấy hơi thở cuối cùng, buộc bản thân phải mở mắt. Nhưng đôi mắt chàng càng lúc càng nặng, ánh sáng dần tắt, cuối cùng, đôi mắt ấy từ từ khép lại.

Trái tim chàng cuối cùng đã không còn đập nữa.

Nàng ôm lấy chàng, không do dự, nhẹ nhàng nhún mình lao xuống vực sâu vạn trượng.

Chương 25

Tốc độ rơi xuống rất nhanh, gió lướt vù vù bên tai Hà Y, y phục của nàng bay phần phật. Một tay nàng ôm thật chặt Mộ Dung Vô Phong, tay còn lại vẫn giữ chắc tấm chăn đang bọc lấy người chàng, hình như nàng quên mất người chết thì làm gì còn hơi ấm, bởi thế cũng chẳng cần tới chăn làm gì.

Nàng giữ chặt cho mắt mình mở, luôn cố gắng quay mặt về phía vầng mặt trời. Nàng có cảm giác, dường như trước khi hòa vào con sông, nàng và Mộ Dung Vô Phong sẽ tan trong ánh dương đang lên cao.

Đang thất thần, đột nhiên có ai đó kích vào người nàng, khiến nàng bay về một hướng khác. Chưởng lực này đã làm giảm lực rơi cùng tốc độ rơi cực lớn của nàng và Mộ Dung Vô Phong.

Sau đó, rất đột ngột, Hà Y cảm thấy bản thân nhẹ bẫng đi, một thanh kiếm cắt đứt dải áo buộc nàng và Mộ Dung Vô Phong, chàng đã tuột khỏi lòng nàng!

Nàng hoảng hồn tái mặt, phất ống tay áo một cái, dải lụa trắng bay ra, lại cuốn lấy chàng. Nhưng một bóng đen đã cắp lấy Mộ Dung Vô Phong, nhún mình một cái, lộn hai vòng trong không trung rồi từ từ đáp xuống một chiếc thuyền nhỏ. Hà Y vừa lo vừa giận, điểm nhẹ chân vào vách đá, phóng đuổi theo. Cuối cùng nàng cũng nhẹ nhàng đáp xuống chiếc thuyền đó.

“Cô vợ nhỏ, không nghĩ ngợi gì đã nhảy xuống sao? Thằng chồng nhỏ của ngươi rõ ràng vẫn chưa chết mà!”.

Hà Y nhìn kỹ một lượt, bỗng đâu trên thuyền đã có hai người, một áo đen, một áo trắng, chính là hai người nàng và Mộ Dung Vô Phong từng gặp trên đỉnh Thần Nữ.

“Chàng… chàng thật sự chưa chết sao?”, Hà Y vừa thương tâm quá độ, giờ không nén được mà vui mừng, bèn nhẹ nhàng giữ lấy cổ tay Mộ Dung Vô Phong, quả nhiên mạch của chàng vẫn khẽ khàng đập.

Nàng không biết rằng con tim của Mộ Dung Vô Phong đúng là đã ngừng đập, lúc nàng ôm chàng nhảy xuống, trái tim chàng đột ngột bị hẫng một cái, tựa như chịu kích thích đột ngột, đã lại đập trở lại.

Nhìn chàng chăm chăm một lúc, Hà Y lại khóc lớn, nói: “Chàng như thế này… cũng không biết còn có thể chịu đựng được thêm bao lâu nữa, không bằng để bọn tôi chết cùng nhau, một lần là xong hết”.

Người áo trắng nói: “Nếu ngươi bằng lòng giao hắn cho bọn ta, ta bảo đảm hắn tạm thời chưa chết được, có lẽ còn có cơ chuyển biến”, lúc nói, tay của ông ta vẫn luôn áp vào lưng Mộ Dung Vô Phong, dường như đang truyền cho chàng một loại chân khí nào đó.

Hà Y nói: “Ông muốn nói… ông muốn nói ông có thể cứu được chàng?”.

Người áo trắng nhìn nàng chằm chằm, một lúc sau mới từ từ gật đầu.

Cũng không biết là do quá vui mừng hay là do cuối cùng cũng có hy vọng, Hà Y kích động tới mức toàn thân run rẩy, nói: “Ông muốn đưa chàng đi đâu?”.

Người áo trắng nói: “Thiên Sơn”.

“Thiên Sơn?”, nàng sững người, rồi lại sợ ông ta đổi ý vội nói: “Được, ông đưa chàng đi. Có điều tôi cũng sẽ đi theo”.

Người áo trắng nói: “Đương nhiên ngươi có thể đi theo, nhưng ngươi đi quá chậm so với ta”.

Hà Y đương nhiên từng được thấy võ công và khinh công của hai người này.

Người áo đen nói: “Ông mang tên tiểu tử này đi trước. Ta với cô vợ nhỏ sẽ theo sau”.

Người áo trắng gật đầu rồi lại nhìn Hà Y nói: “Ngươi có đồng ý không?”.

Hà Y cắn môi, ngập ngừng hỏi: “Ông… ông bảo đảm chàng sẽ không… sẽ không…”.

Người áo trắng nói: “Ta sẽ cố hết sức”.

Hà Y nói: “Thế thì… thế thì ông đi đi”.

Lời của nàng vừa dứt, người áo trắng đã cắp Mộ Dung Vô Phong tung người khỏi chiếc thuyền, hai chân điểm nhẹ trên nước, nhấp nhô mấy cái đã hoàn toàn biến mất trong khói sóng.

Thiên Sơn.

Từ nhỏ Hà Y đã theo một đám nghệ nhân vào nam ra bắc, lớn lên thì một mình áp tiêu, kể cả trung nguyên lớn như thế, nơi nàng chưa từng đến thực sự rất ít.

Nhưng Thiên Sơn trong tâm tưởng của nàng thì chỉ là một nơi xa xôi trong thần thoại mà thôi.

Vùng đất này thuộc quyền quản hạt của nước Vu Điền Hắc Hãn, ngày xưa gọi là Tây Vực. Không ít người Hán ở đây là phạm nhân do triều đình lưu đày tới.

Gần một trăm năm nay, truyền thuyết trên giang hồ về dải đất ấy, đại khái chỉ giới hạn về những việc liên quan tới Thiên Sơn Băng vương và Côn Lôn nhị lão mà thôi.

Nếu không phải hai mươi năm trước đột nhiên xuất hiện một Thiên Sơn Băng vương oanh oanh liệt liệt đánh bại Quách Phi Các, truyền nhân của “Cao Dương thiết kiếm”, hay một năm trước “Côn Lôn song kiếm” bỗng dưng quật khởi thì chỉ sợ người trên giang hồ cho tới bây giờ vẫn không chịu tin, tại nơi xa xôi nhường ấy, những kiếm khách thần bí trong thần thoại kia vẫn tồn tại.

Những kiếm khách ấy ít khi đặt chân lên trung thổ nhưng mỗi lần tới đều tạo nên một cơn oanh động.

Những cơn “oanh động” ấy làm sống lại ký ức đã bị giang hồ dần dần quên lãng, khơi lại sự kính trọng của họ với mảnh đất thần bí này.

Từ trận chiến ở Phi Diên cốc hai mươi năm trước, Thiên Sơn đã trở thành thánh địa mà kiếm khách trong thiên hạ hướng về.

Nghe nói, cứ cách mấy năm lại có một vài thanh niên nhiệt huyết, không quản ngại xa xôi mà tìm tới Thiên Sơn mong gặp Băng vương, chỉ vì muốn gặp ông ta một lần, thử kiếm thuật của chính mình.

Đương nhiên, bọn họ chưa tìm thấy, cũng chẳng bao giờ gặp được Băng vương.

Băng vương đương nhiên chỉ là ngoại hiệu của ông ta mà thôi, chẳng có ai biết được tên tuổi thật sự của ông ta.

Dọc đường, tâm tư của Hà Y hoàn toàn chẳng đặt vào mấy truyền thuyết trên giang hồ. Nàng quất ngựa thục mạng, trong lòng chỉ nghĩ tới sự an nguy của Mộ Dung Vô Phong mà thôi.

Người áo đen kia vốn rất lắm lời, cũng rất thích trêu đùa, nhưng nhìn bộ dạng như mất hồn, hỏi một đằng đáp một nẻo của nàng, cũng chẳng buồn nói chuyện với nàng nữa. Vậy là hai người gần như chỉ có một việc, thúc ngựa chạy, rồi lại thúc ngựa chạy. Bọn họ chạy đi suốt ngày đêm, cứ ba ngày mới nghỉ một lần, cho đến khi tới được chân Thiên Sơn, tuyết đã ngập nửa thân ngựa, bọn họ không thể không bỏ ngựa thi triển khinh công mà đi lên núi, đến lúc này Hà Y đã mệt đến mức chẳng nhấc nổi chân lên nữa. Nàng gần như phải để người áo đen kia nửa kéo nửa dìu mới lên được đến đỉnh.

Sớm đã vào đông, tuyết rơi đầy trời, gió lạnh thấu xương.

Băng đóng dày trên đường núi, trơn khôn tả, chỉ cần sơ suất một chút cũng đủ để vùi thân trong tuyết. Hai người dè dặt bước đi trong băng tuyết, hết một canh giờ cuối cùng cũng tới được ngôi nhà nằm một bên đỉnh núi, quay lưng về hướng gió.

Ngôi nhà do đá lớn xây thành, băng tuyết đã phủ kín từ lâu. Nếu không phải ở hành lang phía trước cửa có cắm hai cây cột đá, Hà Y còn tưởng mình đang ở trước một băng cung.

Căn nhà này có vẻ như đã tồn tại cả trăm năm lịch sử, liếc nhìn là biết cực kỳ kiên cố, cực kỳ bền vững nhưng Hà Y thì vẫn cảm thấy lo lắng không thôi. Nơi tận cùng phương bắc, lạnh lẽo khắc nghiệt này vốn không phải là nơi Mộ Dung Vô Phong có thể lưu lại, huống chi là trên đỉnh Thiên Sơn lạnh lẽo nhất. Chứng phong thấp của chàng, lại còn bệnh tim theo đó mà tái phát nữa, chỉ sợ lại càng có dịp phát tác thường xuyên.

Nàng nơm nớp lo sợ đi vào thạch thất, vào tới chính đường mới phát hiện trong phòng có đốt lò sưởi, cực kỳ ấm áp. Tất cả cửa sổ đều được che bằng da thú, đến sàn nhà cũng được trải mấy lớp thảm da quý giá.

Nội thất bên trong rất đơn giản nhưng có thể nhận ra trình độ thưởng thức của chủ nhân tuyệt đối không thấp.

Người áo trắng ngồi trên một chiếc ghế lót da sói, ông ta đã nghe thấy tiếng bước chân của bọn họ từ lâu, cũng sớm biết chính là bọn họ đang tới.

“Hắn vẫn còn sống”, ông ta mở miệng nói luôn.

Hà Y vui mừng hỏi: “Chàng… đang ở đâu?”.

Người áo trắng không trả lời mà nói: “Hắn vẫn đang trong cơn bạo bệnh, chưa thể nói chuyện được lại kiên quyết không cho ta chạm vào. Ta chỉ đành mỗi ngày điểm huyệt hắn một lần, nhân lúc hắn hôn mê mà thay thuốc. Đáng tiếc cơ thể hắn không chịu được việc bị điểm huyệt quá lâu, cho nên mười ngày nay sau khi tỉnh lại, hắn vẫn chưa tắm rửa qua một lần nào”, nói xong, ông ta không nhịn được hỏi: “Rốt cuộc hắn lấy đâu ra thứ tính khí kỳ quái ấy vậy?”.

Hà Y trợn mắt khinh thường, nói: “Tính khí của chàng chẳng kỳ quái tí nào, chẳng qua là ưa sạch sẽ mà thôi”.

“Ưa sạch sẽ thì cũng phải xem là lúc nào chứ, ngươi nói xem nào?”, người áo trắng đã bị tính khí của Mộ Dung Vô Phong hành cho phát cáu, khinh khỉnh nói.

Hà Y chẳng buồn cãi nhau với ông ta, thở dài một tiếng nói: “Chàng có ăn được gì không?”.

“Gần như chẳng ăn gì. Còn may là ta nhân lúc hắn hôn mê cũng cho hắn nuốt vài viên Tuyết Liên”, Mộ Dung Vô Phong ăn uống cũng rất miễn cưỡng, khiến cho người áo trắng phí rất nhiều công sức, cho nên khẩu khí lúc ông ta nói cứ tức anh ách, tựa như cả đời chưa từng gặp ai khó hầu hạ như vậy.

Hà Y mềm giọng nói: “Bất kể thế nào, tôi cũng phải đa tạ tiền bối đã cứu mạng tướng công tôi. Vợ chồng tôi nợ tiền bối hai cái mạng này”.

Nàng trước một câu “tướng công”, sau một tiếng “vợ chồng”, vừa nghĩ tới việc mình và Mộ Dung Vô Phong vẫn còn hy vọng được tiếp tục sống với nhau, trong lòng nàng sớm đã mừng như hoa nở, chỉ hận chưa thể cho toàn bộ người trong thiên hạ biết tin hai người họ đã thành hôn.

Hai người kia vội vàng nói: “Chúc mừng, chúc mừng!”, nhưng trên mặt lại chẳng có chút ngạc nhiên nào.

Hà Y nói: “Từ trước đến giờ tôi và Vô Phong vẫn quên chưa thỉnh giáo quý tính của hai vị tiền bối”.

Người áo đen nói: “Không cần gọi bọn ta là tiền bối, cứ gọi đại thúc là được rồi. Ta họ Sơn, tên là Sơn Mộc. Ông ta họ Lục, gọi là Lục Tiệm Phong”.

Hai cái tên này Hà Y chưa từng nghe qua, đành nói: “Chúng tôi có một vị bằng hữu tên là Sơn Thủy, Sơn đại thúc có quen biết Sơn Thủy chăng?”.

Sơn Mộc nói: “Nó là con trai ta, có điều bọn ta đã không gặp nhau mười mấy năm nay rồi”.

Hà Y không còn thấy lạ vì sao mình ở Vân Mộng cốc lâu như thế mà không hề gặp hai người này. Nếu đã là việc nhà không vui vẻ gì, nàng cũng không hỏi thêm nữa mà chỉ đổi đề tài, nói: “Chỗ các vị có gà không?”.

Lục Tiệm Phong dẫn nàng tới nhà bếp, chỉ vào một vật trắng trắng nói: “Gà bình thường thì không có, đây là Thiên Sơn tuyết kê”.

Hà Y hỏi: “Mùi vị ra sao?”.

Lục Tiệm Phong trả lời: “Giống gà”.

Nàng rửa tay, xắn ống tay áo, đem con gà ra làm thịt, nấu một nồi canh gà, bên trong còn bỏ thêm một củ nhân sâm.

Sau đó nàng gọi Sơn Mộc vào, nói: “Làm phiền đại thúc giúp tôi coi chừng lửa một lát”.

Sơn Mộc cười khì khì nói: “Trông chừng lửa không thành vấn đề, trông xong liệu ta có được ăn một bát không?”.

Hà Y cười nói: “Nhiều lắm chàng cũng chỉ có thể ăn được nửa bát thôi, chỗ còn lại hai vị cứ ăn hết đi”.

Sơn Mộc nói: “Tiểu nha đầu ngươi cũng hào phóng đấy”.

Lục Tiệm Phong dẫn nàng tới một căn phòng khác, khi đó trời cũng dần tối.

“Hình như hắn có vẻ sợ ánh sáng cho nên ta không thắp đèn trong phòng. Nhưng trong đó có một lò lửa, nhờ vào ánh lửa ấy ngươi có thể nhìn rõ mọi vật”.

Căn phòng đó không lớn, nhưng ấm áp hơn bên ngoài, trên sàn trải mấy lớp thảm dày, thảm này toàn bằng lông thú quý, dày phải tới mấy tấc. Hà Y cởi giày ra, quỳ xuống đưa tay vào chăn của Mộ Dung Vô Phong.

Chàng nằm rất yên bình, tựa hồ đang mê ngủ.

Vết thương của chàng lành rất chậm, sưng phù nặng nề, bên trên vẫn còn một lớp băng trắng rất dày và chặt. Thân thể chàng gầy gò đến đáng sợ, chạm vào chỉ thấy trơ xương.

Tay của nàng lướt trên người chàng hồi lâu, chàng đột nhiên hoảng hốt tỉnh lại, giận giữ nắm lấy tay nàng. Hà Y biết bình thường Mộ Dung Vô Phong rất ghét bị người khác chạm vào mình, có lẽ nàng là người duy nhất từng cùng chàng tiếp xúc thân mật.

Cho nên nàng không hề bỏ tay ra.

Tay của chàng lần sờ lên tay nàng một lúc, tựa như đang đoán định gì đó, cuối cùng, chàng nhẹ nhàng nắm ngón tay giữa của nàng khẽ vặn ngửa về phía sau. Ngón tay mềm dẻo uốn cong. Tay chàng cuối cùng cũng lỏng ra mặc cho bàn tay mềm mại kia tiếp tục đặt trên người mình.

Một lúc sau, nàng đỡ chàng dậy, đi qua một hành lang, vào một gian phòng khác.

Nơi đó có một suối nước nóng, suối nước nóng này có nhiều khoáng chất lạ, nước màu đỏ tươi như màu máu. Nàng đưa ngón tay chàng nhúng vào nước, thử độ ấm. Ngón tay chàng không có phản ứng gì, điều này có nghĩa độ ấm đã thích hợp cho chàng.

Nàng bèn giúp chàng cởi bỏ y phục, tháo lớp băng trắng trên miệng vết thương, rồi đưa chàng xuống nước, nhẹ nhàng cọ rửa cho chàng. Mộ Dung Vô Phong chỉ có thể bất động, yếu ớt dựa vào người nàng.

Nàng lặng lẽ, tỉ mỉ tắm rửa sạch sẽ từng nơi từng chỗ trên thân thể chàng rồi lại lấy một tấm chăn bọc lấy người chàng, đưa về giường. Nàng lấy thuốc mới thoa lên vết thương, rồi lại lấy băng băng cho chàng. Lúc băng gần xong, nàng khẽ dùng lực thắt một nút, khuôn mặt chàng lập tức tái nhợt đi. Giờ nàng mới phát hiện, tấm khăn trải giường phía dưới đã bị chàng nắm rách mấy lỗ trong cơn đau đớn. Hai tay chàng cuốn chặt thành nắm đấm, vì quá đau mà dùng sức rất mạnh khiến khớp xương kêu “rắc rắc”.

“Xoẹt” một tiếng, khăn tải giường lại bị chàng xé rách một mảng.

Trong lòng nàng trăm mối tơ vò, nhìn chàng mà không biết phải làm sao.

Chàng cố nghiến răng, lặng lẽ chịu đựng, không phát ra tiếng kêu nào.

Trán chàng đã ướt đẫm mồ hôi.

Trong cơn đau đớn chàng vật vã một lúc, cuối cùng sức cùng lực kiệt mà lịm đi.

Hà Y biết vào lúc này chàng nhất định phải ăn gì đó, liền dằn lòng lay tỉnh chàng, lấy canh gà đã nấu xong từng thìa từng thìa một đút cho chàng, sau đó là uống thuốc. Thứ cuối cùng chàng phải nuốt xuống chính là một túi mật báo Lục Tiệm Phong đem tới.

Sau khi sống lại, Mộ Dung Vô Phong có thể kiên trì được tới bây giờ hoàn toàn nhờ vào việc cứ cách ba ngày lại ăn loại mật báo này.

Loại tuyết báo này chỉ Thiên Sơn mới có, chúng nhanh nhẹn hung mãnh, tuy sống thành bầy nhưng muốn bắt được phải cực kỳ khó khăn. Trong thời tiết ngập tuyết thế này, muốn tìm được một con thật khó bằng lên trời, đừng nói tới việc sau khi tìm thấy còn trong một kiếm phải kết liễu nó, rồi lại phải chạy như bay mang về. Mọi thứ trên người báo tuyết đem xuống dưới núi đều bán rất được giá nhưng mật của nó chỉ có thể trong vòng một tiếng sau khi nó chết uống vào mới có hiệu quả trị liệu. Hai canh giờ sau sẽ trở thành thứ chẳng đáng lấy một xu, chẳng qua chỉ là một túi nước đắng ngoét màu xanh lục mà thôi.

Cho chàng dùng xong thuốc, bản thân Hà Y cũng mệt muốn ngất rồi. Tắm rửa qua loa xong một lượt, nàng mới nhẹ nhàng tới ngủ bên cạnh Mộ Dung Vô Phong.

Bị nàng quay cho một trận, Mộ Dung Vô Phong tỉnh lại.

Trong bóng tối, chàng chỉ thấy lò lửa cách giường không xa. Hà Y vừa đặt đầu xuống gối đã không động đậy gì nữa, dường như đã ngủ say như chết rồi. Mặc kệ thân dưới đau như lửa đốt, chàng cắn chặt răng, hai tay vịn giường, ra sức lăn mình qua một bên, nhường cho nàng chỗ rộng hơn một chút.

Tay Hà Y lại vươn tới, nhẹ nhàng sờ lên vết thương của chàng, hỏi: “Chàng tỉnh rồi à?”.

Chàng vừa nhìn thấy Hà Y, trong lòng vui mừng, cuối cùng cũng có được một chút khí lực để mở miệng, bèn nói: “Nàng mệt rồi, ngủ đi”.

“Thiếp không ngủ được”, mắt nàng mở to trong bóng tối: “Thiếp không dám tin chàng vẫn còn sống”.

“Ta cảm thấy khỏe hơn nhiều rồi”, chàng khẽ nói.

“Đừng quên chúng ta đã bái thiên địa rồi nhé”, Hà Y vui vẻ nhắc chàng.

“Lúc nào thế?”, chàng từ tốn nói.

Hà Y ngồi bật dậy, tức giận hét lên: “Chàng muốn nuốt lời hả? Chàng hối hận sao?”.

Chàng vươn tay ra, ngăn miệng nàng lại, than: “Sao nàng ngốc thế? Nhất định phải gả cho ta sao?”.

“Thiếp chẳng ngốc tí nào. Không gả cho chàng mới là ngốc đấy”, nàng vùi đầu vào lòng chàng, một tay ôm lấy eo chàng, ngọt ngào nói.

“Tay của nàng sao cứ thích đặt lên vết thương của ta vậy?”, chàng vừa xoa đầu nàng vừa hỏi.

“Vì vết thương của chàng là do thiếp khâu. Thiếp… thiếp không cho chàng sờ”, nàng cắn nhẹ tai chàng nói tiếp: “Cũng không cho chàng nhìn”.

Mộ Dung Vô Phong thoáng ngây ra, hỏi: “Tại sao?”.

“Thiếp… thiếp khâu… khâu khó coi chết đi được. Hai vết sẹo lớn ấy, chàng… chàng vĩnh viễn cũng không được nhìn”.

Chàng khẽ than: “Làm khó nàng rồi. Lúc trước ta khâu cho người khác, nàng còn sợ tới mức mắt cũng không dám mở”.

Hà Y cười nói: “Bây giờ thiếp hối hận chết đi được, sớm biết như thế, lúc ấy đã chăm chỉ học một chút”.

Chàng cười khẽ, nghĩ tới việc mình bẩm sinh tàn phế, thân thể yếu ớt, vốn định cả đời không lập gia đình tránh liên lụy tới người khác. Như bây giờ chết đi sống lại, bộ dạng nửa người nửa ngợm, tuy Hà Y cười nói như không, không để ý trong lòng mà còn càng yêu thương, nhưng trong thâm tâm chàng vẫn không khỏi thương cảm.

Hà Y thấy chàng đang nói thần sắc chợt sa sút liền dịu dàng bảo: “Chàng cứ từ từ mà khỏe lại, thiếp… thiếp sẽ không rời xa chàng nữa”.

Chàng tựa người dậy, thấy hai mắt nàng nhìn mình sáng long lanh, dáng vẻ hạnh phúc thỏa mãn, nghĩ tới việc bất kể như thế nào, rốt cuộc hai người cũng qua được kiếp nạn này, không kìm được xúc động, cúi xuống thâm tình hôn nàng.

“Hà Y, nói cho ta, hôm đó… hôm đó trên đỉnh núi, có phải nàng thật sự đã nhảy xuống không?”, một lúc sau chàng chợt hỏi.

“Đã nhảy”, Hà Y nằm trong lòng chàng trả lời.

“Đã nhảy?”, chàng nóng ruột nói: “Nàng hồ đồ rồi à? Người sắp chết là ta, không phải nàng, sau này… sau này không cho phép nàng được ngốc như vậy nữa!”.

“À, lúc ấy chàng hôn mê mất rồi, không tỉnh táo. Nếu không thiếp nhất định sẽ gọi chàng dậy, cảm giác nhảy xuống dưới thật sự rất hay”, sợ chàng lo lắng, nàng còn bồi thêm một câu: “Nhất là khi rơi giữa chừng lại có người cứu lên”.

“Là hai người đó cứu chúng ta?”.

Hà Y gật đầu.

“Hiện giờ chúng ta đang ở đâu?”, chàng đưa mắt nhìn xung quanh, cảm thấy căn phòng này cực kỳ xa lạ.

“Thiên Sơn. Chàng nằm ở đây hai mươi mấy ngày trời rồi”.

“Thiên Sơn?”, chàng còn định hỏi tiếp nhưng người nằm trong lòng chàng đã ngọt ngào mà thiếp đi.

Sáng sớm hôm sau, lúc Mộ Dung Vô Phong còn đang chìm trong giấc ngủ, Hà Y đã theo Lục Tiệm Phong vào sâu trong núi. Nàng không muốn tiếp tục làm phiền ông ta, nhất định đòi đích thân mình bắt tuyết báo.

Dọc đường, để giúp nàng chạy nhanh hơn, Lục Tiệm Phong đã dạy nàng vài chiêu bộ pháp khinh công cùng phép hít thở hoán khí. Sau đó ông ta bảo nàng dừng lại, đứng trong tuyết, yên lặng nhìn về phía trước.

Tuyết lớn phủ khắp, trước mặt chỉ là một khoảng trắng mênh mang.

“Ngươi nhìn thấy gì?”, ông ta hỏi.

“Tuyết”, Hà Y đáp.

“Nhìn cho kỹ”.

“Vẫn là tuyết”, nhìn một lúc Hà Y đành đáp thế, rất xấu hổ vì nhãn lực của mình.

Lục Tiệm Phong nói: “Ngươi còn nhận được đường quay về chứ?”.

Hà Y gật đầu.

Lục Tiệm Phong nói: “Bên trái ngươi khoảng mười mấy trượng về phía trên, có hai đụn trắng đang chuyển động. Ngươi có thấy không?”.

Hà Y nói: “Có”.

“Rơi từ trên xuống dưới chính là tuyết, di động qua lại hai bên chính là tuyết báo. Bây giờ ngươi có thể nhận ra chưa?”.

Hà Y gật đầu.

“Kiếm của ngươi chỉ được đâm vào chỗ mắt báo xuyên từ sau gáy đâm ra. Da tuyết báo cực kỳ quý giá, ta không muốn ngươi đâm thủng lỗ chỗ. Tốt nhất là công kích trước khi nó kịp phát hiện, sau đó nhanh chóng giết nó, nếu không dịch mật của nó sẽ biến vị”.

Hà Y nói: “Tôi hiểu rồi”.

Lục Tiệm Phong nhìn nàng nói: “Sao giờ ngươi còn chưa ra tay đi?”.

Hà Y nói: “Đợi đại thúc đi tôi sẽ lập tức ra tay”.

Nàng vừa quay đầu lại, Lục Tiệm Phong đã không thấy đâu nữa.

Trong mười ngày kế tiếp, gần như ngày nào Mộ Dung Vô Phong cũng có mật báo tươi để phối thuốc. Tuy thân thể chàng vẫn rất yếu nhưng rõ ràng đã qua được giai đoạn nguy hiểm nhất.

Ngày hôm đó, lúc Mộ Dung Vô Phong tỉnh lại hãy còn rất sớm nhưng chàng không sao biết được lúc ấy chính xác là giờ nào. Đèn trong phòng lờ mờ, cửa sổ bốn bề đều bị rèm da dày che kín.

Hà Y đã không còn nằm bên cạnh. Nàng có thói quen dậy sớm, hồi bọn họ ở cùng nhau lúc trước, Hà Y lần nào cũng dậy trước chàng. Nàng quen luyện kiếm vào lúc bình minh, luyện xong trở về phòng, thường thì Mộ Dung Vô Phong vẫn chưa dậy.

Trước khi đi Hà Y còn đắp chăn thật kín cho chàng. Thân thể chàng yếu ớt sợ lạnh, lúc ngủ thường dán chặt lấy Hà Y, nàng qua trái chàng cũng theo qua trái, nàng sang phải chàng lại nhào sang phải, bởi vì khi ngủ thân thể Hà Y ấm áp tựa như một lò sưởi vậy.

Hiện chàng đang bị thương, nằm trên giường chẳng thể cử động, nơi này chẳng có xe lăn, cho dù chàng có muốn ra ngoài xem rốt cuộc Hà Y đi đâu cũng chỉ là mơ tưởng.

Đúng lúc này chàng nghe thấy có tiếng gõ cửa.

Đã là gõ cửa thì người bên ngoài đương nhiên không thể là Hà Y, Hà Y không cần gõ cửa đã vào luôn rồi.

Chàng liền nói: “Mời vào”.

Tiếng của chàng cực nhỏ, cực thấp, bởi chàng bị thương quá nặng, không còn sức lực, mãi trở thành quen.

Cửa mở ra, Sơn Mộc và Lục Tiệm Phong tiến vào.

Người tiến vào là hai vị tiền bối võ lâm, Mộ Dung Vô Phong cảm thấy bản thân dù thế nào cũng không nên tiếp tục nằm nữa. Chàng là một người rất có tu dưỡng, lúc bị bệnh tuyệt đối không gặp khách, càng không bao giờ nằm trên giường tiếp khách.

Nhưng hiện giờ bộ dạng của chàng như thế, quả thực cũng chẳng biết làm thế nào mà ngồi dậy nổi.

May mà không biết từ lúc nào có một cái vòng gỗ được treo lủng lẳng phía trên giường, vòng gỗ không thiên không lệch, nằm ngay phía trên ngực chàng. Chàng liền vươn tay phải nắm lấy vòng gỗ, tay trái cố sức vịn thành giường, cuối cùng cũng chật vật kéo được mình ngồi dậy.

Đây là lần đầu tiên chàng ngồi dậy được, vết thương bên dưới tức thì đau buốt như dao cắt, mồ hôi lạnh túa ra ướt đẫm.

Sơn Mộc nhìn dáng vẻ gắng gượng của chàng, không nhịn được nói: “Thật ra ngươi cũng không nhất thiết phải ngồi dậy”.

Mộ Dung Vô Phong tựa lên đầu giường, lựa thế ngồi thật vững, tay trái chống xuống giường gắng sức đỡ cho thân hình lảo đảo muốn đổ của mình, lãnh đạm nói: “Hai vị tới vừa khéo, xin mời ngồi. Tôi đang có vài việc muốn hỏi hai vị”.

Sơn Mộc nói: “Ngươi hỏi đi”.

Mộ Dung Vô Phong nói: “Ngày hôm đó, ở Vân Mộng cốc, là hai vị đã cứu tôi khỏi hồ nước phải không?”.

Sơn Mộc nói: “Bọn ta vốn chưa đi xa. Thật ra lúc hai ngươi nói chuyện, bọn ta ngồi ngay trên nóc đỉnh”.

Mộ Dung Vô Phong lạnh lùng nói: “Hai vị trước giờ cứ thích đa sự, luôn thích ngồi trên đầu người ta, lấy việc nghe lén chuyện riêng của người khác làm vui”.

Lục Tiệm Phong nói: “Lão Mộc, ông nghe rõ chưa? Người ta không hề nhận món ân tình này của chúng ta”.

Sơn Mộc nói: “Tên tiểu tử này trước giờ tính tình rất thối, chúng ta đâu cần chấp hắn làm gì”.

Mộ Dung Vô Phong nói: “Sao ta phải nhận món ân tình ấy của hai người? Ta xin hai người cứu ta sao? Lúc ấy nếu ta chết đi, Hà Y sẽ nhanh chóng quên được ta, cũng không có kiếp nạn này, nàng sẽ không… sẽ không vì ta mà muốn tự tử. Tất cả mọi việc hoàn toàn bởi các ngươi mà đa sự!”, vừa nghĩ tới tình cảnh Hà Y ôm chàng nhảy xuống vực sâu vạn trượng, chàng không rét mà run.

Lục Tiệm Phong nói: “Nếu giờ ngươi vẫn muốn chết, thì cứ việc chết. Lần này bọn ta tuyệt đối không ngăn ngươi”.

Mộ Dung Vô Phong cười lạnh, nói: “Bây giờ ta còn có thể tùy tiện chết sao? Cho dù là… cho dù là nửa người nửa quỷ, ta cũng vẫn phải tiếp tục sống. Các người nghĩ bản thân là gì? Anh hùng à?”, nói xong, bởi tâm tình quá mức kích động, chàng liền bật ho dữ dội.

Cơn ho này khiến người chàng mềm nhũn đi, thân hình lập tức đổ ập xuống giường.

Bọn họ đành ngậm miệng đợi chàng dứt cơn ho, sau đó vịn giường, nắm lấy vòng gỗ kéo người mình dậy, ngồi tựa trên giường.

Sơn Mộc nói: “Bọn ta cứu ngươi, đương nhiên không phải vì muốn làm anh hùng”.

Lục Tiệm Phong nói: “Bọn ta cứu ngươi là bởi bọn ta có việc phải nhờ ngươi giúp đỡ”.

Mộ Dung Vô Phong chế giễu nói: “Hai vị là tiền bối võ công cái thế, còn có việc gì mà phải nhờ tới kẻ tàn phế không biết lấy nửa điểm võ công như ta?”.

Sơn Mộc ngập ngừng một lát, hồi lâu sau mới cất tiếng: “Bình thường bọn ta đều sống ở đây, chỉ vì mấy chục năm trước, bọn ta vô tình có được một bộ bí tịch của võ lâm. Bọn ta luyện tập theo sách, hiện đã luyện tới tầng thứ chín, chỉ còn một tầng sau cùng là đại công cáo thành. Có điều… có điều…”.

Lục Tiệm Phong nói: “Bộ sách này tổng cộng có mười quyển, chín quyển đầu bọn ta đều hiểu, nhưng chỉ duy nhất quyển cuối cùng từ ngữ uyên ảo, lại lẫn vào rất nhiều thuật ngữ y học, bọn ta lần từng chữ từng chữ, tham ngộ ba năm cũng đi các nơi thỉnh giáo nhiều bậc thầy nhưng đều không rõ rốt cuộc là nói gì”.

Sơn Mộc nói: “Bộ sách này rất cao thâm, luyện tới sau cùng, càng luyện càng nguy hiểm, chỉ sơ sẩy một chút là tẩu hỏa nhập ma. Bọn ta tất nhiên phải hết sức thận trọng”.

Mộ Dung Vô Phong chỉ buông miệng một tiếng: “Hừm”.

Sơn Mộc nói: “Nếu ngươi chịu giúp chúng ta làm rõ rốt cuộc cuốn sách ấy muốn nói về cái gì, hai người bọn ta xem như đã nợ ngươi một món ân tình lớn”.

Mộ Dung Vô Phong lãnh đạm hỏi: “Sách ở đâu?”.

Sơn Mộc rút trong người ra một cuốn sách không dày, đưa cho chàng.

Một tay Mộ Dung Vô Phong tựa giường, tay kia cầm sách, mượn ánh đèn trên bàn xem qua một lúc, nói: “Rõ ràng cuốn sách rất dễ hiểu, sao hai người xem lại hoàn toàn không hiểu?”.

Sơn Mộc vui mừng, nói: “Ngươi nói xem, thế nào là rất dễ hiểu? Sao bọn ta xem không hiểu chút nào?”.

Mộ Dung Vô Phong nói: “Trong sách nói, ở tầng cuối cùng, phải chọn một ngày rất lạnh, đem khí trong ‘Đan Điền’ men theo kinh mạch, dựa vào lộ trình đóng mở tự nhiên của các huyệt đạo theo phép Tí Ngọ lưu chú[1] mà vận hành năm chu thiên tì có thể đại công cáo thành”.

[1] Tí Ngọ lưu chú: thuật ngữ dùng trong châm cứu, đại ý là căn cứ theo thời gian đóng mở của huyệt đạo hằng ngày để tiến hành tác động lên huyệt đạo.

Hai người kia đồng thanh thốt lên: “Không sai! Nhưng toàn thân có cả trăm huyệt đạo, cái gọi là ‘lộ trình đóng mở tự nhiên’ rốt cuộc là thế nào?”.

Mộ Dung Vô Phong nói: “Cái gọi là đóng mở tự nhiên, đương nhiên là chỉ việc không được miễn cưỡng mở huyệt đạo vốn đang đóng. Nội tức phải tuân theo thời điểm huyệt đạo tự nhiên mở ra trong ngày để tiến vào, đúng thời điểm huyệt đạo tự nhiên đóng lại mà tiến ra”.

Lục Tiệm Phong nói: “Mấy chi tiết huyệt đạo đóng mở này, người trong võ lâm từ trước đến giờ không ai biết. Kể cả trong sách y cũng chưa thấy ai đề cập tới”.

Sơn Mộc tiếp lời nói: “Ngươi không cần ngạc nhiên. Mấy năm nay, để làm rõ vấn đề này, sách y của các nhà, bọn ta ít ra cũng tra trăm quyển rồi, hoàn toàn chẳng có mảy may manh mối”.

Mộ Dung Vô Phong nói: “Chỉ mới tra có trăm quyển, đương nhiên là không có manh mối. Trong những sách ta đã đọc, ít nhất có hai cuốn đề cập tới chi tiết huyệt đạo tự nhiên đóng mở theo Tí Ngọ lưu chú. Trên thực tế mỗi huyệt đạo trên cơ thể con người đều giống như một đóa hoa, đóng mở theo những giờ xác định mỗi ngày. Các ngươi chỉ cần nhớ tất cả thời gian đóng mở, rồi án theo vị trí và trình tự trước sau của chúng tính ra mấy đường vận khí là được”.

Lục Tiệm Phong nói: “Thứ nhất, bọn ta không biết thời giờ đóng mở của từng huyệt đạo. Thứ hai, cho dù là biết, muốn từ đó tính ra một đường vận khí an toàn cũng là một việc cực khó. Mấy trăm huyệt đạo đóng mở bất định, vốn cực kỳ khó tính chuẩn xác, gần như là tính không ra được”.

Sơn Mộc vội vàng nói thêm: “Không phải sao? Đầu tiên, một ngày có mười hai canh giờ, bất kể bọn ta chọn canh giờ nào để bắt đầu thì tình hình huyệt đạo đóng mở của giờ đấy và của giờ khác hoàn toàn khác nhau. Nếu như canh giờ ấy không tìm được lộ trình để đem chân khí vận hành tự nhiên thành một chu thiên, bọn ta lại phải bắt đầu lại từ đầu mà tìm một giờ khác. Đấy là còn chưa nói, cho dù chọn được giờ rồi, tiếp đó còn cả nghìn vạn khả năng nữa”.

Mộ Dung Vô Phong nói: “Các hạ nói như vậy, tức là đến cả việc tính toán nhàm chán ấy cũng muốn nhờ ta làm?”.

Hai người vội nói: “Phải nhờ vả rồi! Phải nhờ vả rồi!”.

Mộ Dung Vô Phong nói: “Ta khát”.

Sơn Mộc vội vàng cuống quýt nói: “Ta đi pha trà cho ngươi”, chẳng bao lâu sau, ông ta bưng đến cho chàng một chén trà Thiết Quan Âm nghi ngút khói.

Ông ta biết thói quen của Mộ Dung Vô Phong, chén dùng đựng trà chính là cái mà Hà Y thường dùng để pha trà cho chàng. Sau đó ông ta mang tới cho Mộ Dung Vô Phong một tập giấy, một cái bút, để chàng dùng tính toán.

Mộ Dung Vô Phong vươn một tay ra nhận lấy chén trà, nói: “Chi tiết huyệt đạo đóng mở, nói ra cũng rất nhàm chán, các vị không nhớ cũng được. Lộ trình ta đã tính hộ hai vị rồi, tổng cộng có tám đường”.

Hai người kinh ngạc nói: “Ngươi đã tính xong rồi? Làm sao mà tính được? Dùng cái gì để tính thế?”.

Mộ Dung Vô Phong nhấp một ngụm trà, nói: “Tính nhẩm”.

Sơn Mộc trợn tròn mắt, không nhịn được hỏi: “Thứ phức tạp như thế, làm sao ngươi có thể tính nhanh như vậy?”.

Mộ Dung Vô Phong không thèm để ý tới ông ta, lãnh đạm nói: “Tuyến thứ nhất, bắt đầu từ giờ Thìn hai khắc, đi qua huyệt ‘Chương Môn’, ‘Kỳ Môn’, ‘Trung Phủ’, ‘Nhân Nghênh’ tới huyệt ‘Thiên Đột’ thì dừng một khắc, rồi lại tới ‘Toàn Cơ’, ‘Đãn Trung’, ‘Trung Quản’. Dừng ở huyệt ‘Trung Quản’ ba khắc, rồi tới ‘Kê Vĩ’, ở ‘Lương Môn’ dừng một khắc, ở ‘Thủy Phân’ dừng nửa khắc, ở ‘Thần Khuyết’ dừng một khắc rồi vào ‘Khí Hải’ về ‘Đan Điền’”.

Sơn Mộc vội vàng nói: “Ngươi đợi một chút, nói chậm lại đi, ta nhớ không kịp, có phải là ‘Chương Môn’, ‘Kỳ Môn’, ‘Nhân Nghênh’?”.

Lục Tiệm Phong nói: “Ta lấy bút ghi lại”.

Mộ Dung Vô Phong bực mình cầm cuốn sách ném xuống đất, nói: “Vừa nói dứt lời cũng nhớ không nổi, người đã ngu ngốc đến thế còn luyện tuyệt thế võ công làm gì?”.

Mặt Lục Tiệm Phong tức thời giận đến đỏ tía, ông ta bản tính cao ngạo, cả đời chưa từng bị một ai sỉ nhục như thế, huống chi đó lại là tên tiểu tử còn chưa ráo máu đầu, lập tức lạnh giọng đáp trả: “Ngươi đúng là kẻ thông minh, chỉ đáng tiếc vẫn cứ là một thằng tàn phế”.

Mộ Dung Vô Phong vừa nghe câu đó chạm vào chỗ đau trong lòng, liền tức tới nghiến răng ken két, lập tức vung chén trà trong tay ném thẳng vào ông ta.

“Lá gan của tên tiểu tử này quả nhiên không nhỏ!”, Lục Tiệm Phong phất ống tay áo một cái, chén trà kia xoay chuyển trong không trung rồi lại bị ông ta nhẹ nhàng đẩy một cái, vững vàng rơi xuống bàn, đến một giọt trà cũng không sánh ra ngoài.

“Hai vị chớ cãi cọ! Chớ cãi cọ! Lão Lục, ông nhường hắn một chút đi”, Sơn Mộc vội vàng nhảy ra giảng hòa.

Mộ Dung Vô Phong vừa rồi quá tức giận, tim lại đập dữ dội, chàng vốn đang cơn bạo bệnh, sức kiềm chế kém xa ngày xưa, nhất thời máu huyết trào lên, “ọe” một tiếng, phun ra một ngụm máu. Cả người không sao trụ nổi nữa bèn đổ ập xuống giường.

Lục Tiệm Phong nhanh nhẹn vươn tay ra đỡ lấy người chàng, từ từ đặt xuống. Mộ Dung Vô Phong nằm trên giường gào lên:

“Đừng động vào ta! Đùng động vào ta!”.

Sơn Mộc kéo Lục Tiệm Phong ra, đứng thế vào rồi đưa Mộ Dung Vô Phong vào lại trong chăn, nói: “Nằm yên chớ động đậy. Nếu ngươi có mệnh hệ gì, lúc quay về cô vợ nhỏ của ngươi sẽ tới tìm bọn ta liều mạng đấy”.

Chưa dứt lời, đã thấy Hà Y vui mừng hớn hở đẩy cửa đi vào, nói: “Vô Phong, thiếp về rồi”.

Vừa vào tới cửa, Hà Y liền cảm thấy không khí trong phòng có vẻ không ổn, rồi lại thấy vạt chăn trước mặt Mộ Dung Vô Phong có vết máu, nàng biến sắc, vội chạy tới trước mặt chàng hỏi: “Chàng sao thế này? Sao ở đây… ở đây toàn là máu? Chàng nôn… nôn ra máu à? Vô Phong… chàng không khỏe ở chỗ nào?”.

Mộ Dung Vô Phong lắc đầu, nói: “Ta không sao, nàng giúp ta thay… khụ khụ… thay một cái chăn khác”, chàng nói trong cơn ho, do hít thở không kịp nên mặt mày đỏ lựng lên. Hà Y bèn lấy một chiếc khăn sạch khác đắp lên người chàng. Người chàng vốn đã gầy đến đáng sợ, bây giờ lại càng gầy yếu hơn, đến việc ngồi dậy cũng rất khó khăn, nghĩ tới những ngày này chàng phải chịu khổ. Lòng nàng không khỏi đau quặn lại, nhưng sợ bản thân quá đau buồn lại khiến chàng thêm thương cảm bèn nhẹ nhàng nói: “Sức khỏe chàng còn chưa được tốt, đừng cử động tùy tiện, cẩn thận động tới vết thương”, nói xong quay đầu lại, lạnh lùng nhìn Sơn, Lục hai người, nói: “Hai vị ngồi trong này là có việc gì?”.

Sơn Mộc nói: “Bọn ta đang… đang nói chuyện với tướng công của ngươi. Còn chưa nói hết”.

Hà Y nói: “Chàng bệnh nặng đến thế này rồi, còn có gì để nói, đợi chàng khỏe lên một chút rồi hẵng nói tiếp”.

Sơn Mộc nói: “Yên tâm đi, bọn ta không nói lâu đâu”.

Hà Y nói: “Nếu không phải vừa rồi hai vị chọc giận chàng, chẳng lẽ chàng lại tự nhiên phát bệnh sao?” nàng gắt, giọng chát chúa, dáng vẻ như chuẩn bị cãi nhau to đến nới.

Sơn Mộc vội nói: “Vậy bọn ta đi đây”, nói xong kéo Lục Tiệm Phong chuồn khỏi cửa nhanh như gió.

Chương 26

Hà Y cài cửa lại hỏi: “Bọn họ tìm chàng có việc gì thế?”.

Mộ Dung Vô Phong hừ lạnh một tiếng, nói: “Không có gì, chẳng qua bọn họ có một vấn đề muốn hỏi ta mà thôi”, một lúc sau chàng thoáng nghĩ ngợi rồi nói tiếp: “Hà Y, đem giấy bút qua đây, ta muốn viết mấy chữ”.

Hà Y đem bút mực tới bên cạnh, dìu chàng dậy, chàng vừa thở hổn hển viết lên giấy mấy hàng chữ xiêu xiêu vẹo vẹo, một tờ không hết, lại viết thêm một tờ, viết xong, quăng bút qua một bên, nói: “Nàng đem hai tờ giấy này giao… giao cho tay họ Sơn, nói… nói ngày mai chúng ta… ngày mai chúng ta đi khỏi đây”.

Hà Y khẽ hỏi: “Chàng vẫn chưa khỏe lại, bên ngoài gió to tuyết lớn, không ở đây, chúng ta… chúng ta biết ở đâu?”.

Mộ Dung Vô Phong nói: “Dưới núi không xa chỗ nào cũng có thành trấn, tùy tiện tìm một chỗ ở là được”.

Hà Y chỉ cho rằng chàng với hai người Lục, Sơn không hợp nhau, nhưng không biết thực ra Mộ Dung Vô Phong lo cho nàng hàng ngày mạo hiểm săn báo, chỉ cần không cẩn thận một chút là sẽ chôn thây dưới núi tuyết. Thấy chàng quyết tâm như thế, Hà Y chỉ đành nói: “Vâng”.

Lúc nàng quay lại, Mộ Dung Vô Phong đã chìm vào giấc ngủ, tới đêm không biết tại sao lại lên cơn sốt. Sốt cao liên tiếp ba ngày, nằm trên giường luôn miệng mê sảng, dọa cho Hà Y sợ tới mất hồn vía, túc trực bên cạnh không dám rời chàng lấy nửa bước, đến áo cũng không thay, một mực chăm sóc chàng. Hai người Sơn Mộc và Lục Tiệm Phong hổ thẹn trong lòng, sớm chiều luôn đến hỏi thăm, chủ động làm cơm ngày ba bữa, đến việc bưng canh đổ nước cũng nhận hết vào mình.

Đến ngày thứ tư, Mộ Dung Vô Phong mới hồi phục chút ít, quyết ý xuống núi. Sơn, Lục hai người cũng nhất quyết đòi theo tiễn. Hà Y đuổi bắt tuyết báo lâu ngày, sớm đã quen thuộc đường đi lối lại, lên núi, xuống núi như lòng bàn tay, cũng cố chấp không muốn làm phiền hai người thêm nữa.

Sơn Mộc nói: “Bất luận thế nào, các ngươi cũng phải ở lại đây thêm một tối, đêm nay chỉ sợ là đêm gió to tuyết lớn nhất trong năm, đến mai có nắng lên, xuống núi sẽ dễ dàng hơn nhiều”.

Lục Tiệm Phong nói: “Một lúc nữa hai người bọn ta có việc ra ngoài, ba ngày sau mới về. Cho nên nếu hai vị quyết ý muốn đi, vậy chúng ta tạm biệt từ đây”.

Sơn Mộc nói: “Mọi thứ trong phòng các ngươi, chỉ cần muốn thứ gì thì cứ lấy đi. Đúng rồi!”, ông ta chỉ một đôi nạng đặt ở góc phòng, nói: “Đôi nạng này hai vị hãy đem đi. Trên đường tuyết dày, lấy chúng dò đường tránh để trượt chân”.

Mộ Dung Vô Phong nói: “Đa tạ. Về cuốn sách đó, hai vị còn nghi vấn gì không?”.

Lục Tiệm Phong nghĩ ngợi một lúc nói: “Việc này liên quan tới tính mạng của ta và Sơn Mộc, chúng ta chỉ muốn hỏi một câu, tám tuyến lộ trình vận khí kia, liệu có gì sai sót không? Ngươi cũng biết, chỉ một sai lầm nhỏ thôi, hai người bọn ta sẽ lập tức tẩu hỏa nhập ma”.

Quả nhiên ông ta vẫn không yên tâm.

Mộ Dung Vô Phong cười nhạt, nói: “Việc liên quan đến tính mạng, nếu hai vị không thấy yên tâm đương nhiên ta cũng hiểu. Đổi lại là ta, chỉ sợ cũng phải cân nhắc đi cân nhắc lại. Không bằng như thế này đi, hai cuốn sách có nhắc tới việc đóng mở của huyệt vị, một cuốn làDiệp thị mạch độc, cuốn kia là Vân Mộng cứu kinh. Cuốn sau là do ta viết, hai vị muốn tìm cũng không khó khăn gì. Khi đối chiếu tất cả những chỗ liên quan tới sự đóng mở của huyệt đạo theo Tí Ngọ lưu chú trong hai sách ấy, hai vị sẽ có được bản liệt kê như thế này. Hà Y, đem tờ giấy ta viết tới đây”.

Hà Y đưa cho bọn họ một tập giấy đầy những chữ tiểu khải li ti. Sơn Mộc cẩn thận nhận lấy.

Mộ Dung Vô Phong tiếp tục nói: “Bản liệt kê này là do ta dựa vào trí nhớ chép lại, không ngại nói với hai vị, tuy tim ta không tốt, cũng hôn mê khá nhiều ngày nhưng với những chi tiết này ta vẫn nhớ rất rõ ràng. Còn như làm thế nào để tính ra được, ta cũng đã viết rõ ràng từng bước từng bước rồi, tiện cho hai vị đối chiếu”.

Chàng ngừng một lát rồi nói tiếp: “Sau khi hai vị xem xét kỹ lưỡng sẽ thấy, tám đường lộ tuyến ta nói tuyệt đối không sai. Tất cả khả năng ta đều tính hết, không thừa một tuyến, không thiếu một đường. Mộ Dung Vô Phong ta trước giờ không lấy việc liên quan tới tính mạng người khác làm trò đùa”.

Lúc chàng nói, dáng vẻ rất bình tĩnh, rất tự tin. Lục Tiệm Phong ngẩng đầu nhìn chàng rất lâu, đột nhiên nói:

“Có lúc ta thật sự hy vọng ngươi là con trai ta. Ai cũng muốn có một đứa con thông minh”.

Ông ta nói câu này khiến Mộ Dung Vô Phong lại không vui. Chàng tuyệt đối không phải là người tùy tiện nhận người khác làm cha.

Lục Tiệm Phong nói: “Ngươi không cần mất vui, lời ta vừa nói chẳng làm nhục tới ngươi đâu. Từ tuổi tác tới bối phận, ta đều đủ để làm phụ thân ngươi. Tên thật của ta có lẽ vẫn xa lạ với ngươi, có điều người trên giang hồ đều gọi ta là ‘Thiên Sơn Băng vương’”.

Ông ta nói tiếp: “Cả đời ta từ trước tới giờ chưa có kẻ nào dám bảo ta ngu ngốc. Ngươi là người đầu tiên, cũng là người cuối cùng”.

Hà Y trố mắt nhìn ông ta, đột nhiên hỏi: “Tiền bối đã là Thiên Sơn Băng vương, vậy xin hỏi ông có quen biết một người phụ nữ tên là ‘Mộ Dung Tuệ’ không?”.

Nàng vừa nói câu ấy ra, trong lòng Mộ Dung Vô Phong liền chấn động, run giọng hỏi: “Hà Y, ông ta… ông ta và… và… bà ấy có quan hệ gì?”.

Hà Y không để ý tới chàng, một mực nhìn chằm chằm vào Lục Tiệm Phong, từng chữ từng chữ hỏi: “Hai mươi hai năm trước, chính vào cái đêm ông và Quách Đông Các tỉ võ, có một cô gái tên là Mộ Dung Tuệ đã biến mất khỏi Vân Mộng cốc, ông có biết việc này chăng?”.

Lục Tiệm Phong nhìn thẳng vào mắt nàng, mặt không biến sắc nói: “Ta không biết ngươi đang nói gì. Ta vốn không quen biết nữ nhân mà ngươi vừa nhắc tới”.

Nói xong, ông ta không để Hà Y kịp hỏi tiếp, nói: “Cáo từ”.

Cửa vừa khép lại, Mộ Dung Vô Phong đã lại kiệt sức mà ngã xuống.

Hà Y chỉ đành dìu chàng trở lại giường, kéo chăn đắp cho chàng, nhẹ nhàng hỏi: “Chàng đã không chịu nổi, việc gì cứ phải gồng mình lâu như vậy? Cả người thương tích, lại sốt cao mấy ngày liền, khó khăn lắm mới tỉnh lại được lại nằm bò ra giường mà viết bao nhiêu chữ. Thiếp chỉ nhìn chàng thôi mà cũng thấy mệt”, nói xong bèn đưa tay sờ trán chàng, quả nhiên lại lên cơn sốt, nàng vội vàng lấy một chiếc khăn tay nhúng vào nước mát rồi đắp lên trán chàng.

Mộ Dung Vô Phong mở đôi mắt mệt mỏi, nhìn xung quanh hồi lâu rồi hỏi: “Giờ này là giờ nào rồi? Bên ngoài còn sáng không?”.

Hơn một tháng nay, đừng nói tới việc ra khỏi cửa, trừ những lúc Hà Y ôm chàng tới phòng tắm để tắm rửa thay quần áo hàng ngày ra, đến giường chàng cũng chưa từng xuống. Sức khỏe của chàng so với lúc vừa tới đây đúng là đã có chuyển biến tốt, nhưng so với ngày trước vẫn yếu hơn rất nhiều. Không những không sao tự mình ngồi dậy được mà chỉ cần nhiễm một chút gió lạnh là lại lập tức lên cơn ho và phát sốt, tim cũng không chịu nổi nửa điểm kích thích.

Cho nên phần lớn thời gian chàng chỉ có thể nằm trên giường.

Hà Y vén một góc nhỏ tấm rèm bằng da thú, nhìn ra ngoài rồi nói: “Xem ra đã là hoàng hôn. Bên ngoài tuyết rất lớn nhưng trời vẫn chưa tối hẳn”.

Nói xong bèn tới nhà bếp, đem hâm nóng qua loa chỗ thức ăn thừa buổi trưa còn lại rồi ăn sạch sẽ. Nàng cũng nấu cho Mộ Dung Vô Phong một bát cháo, bắt chàng ăn hết mới thôi.

Sau đó nàng ngồi bên giường, dùng ngón tay nhẹ nhàng chải tóc cho chàng, nói: “Ngủ một chút đi được không? Hôm nay chàng quá mệt mỏi rồi”.

Giọng của nàng cứ như thôi miên, khiến chàng dần dần chìm vào giấc ngủ.

Ngoài song, tiếng gió, tiếng tuyết hòa vào nhau nghe như tiếng gào thét, làm lay động ánh đèn lập lòe trong phòng, càng làm toát lên một sự yên tĩnh đáng sợ.

Nàng không dám tin trong đêm gió tuyết này, bản thân và Mộ Dung Vô Phong lại cùng cô độc trên đỉnh Thiên Sơn, nơi gần với thiên đường nhất mà đời này nàng từng trải qua. Ở nơi đây lại có một căn phòng nhỏ ấm áp, đủ để người bị trọng thương được nghỉ ngơi yên ổn, lại còn có linh thảo kỳ dược, đủ để cứu lại tính mạng của chàng.

Nàng cúi thấp đầu, trong lòng thầm khấn, cảm tạ trời cao đã cho nàng một cơ hội sống trong cơn tuyệt vọng.

Gió càng lúc càng lớn, gầm rú điên cuồng tựa như muốn cuộn tung mái phòng.

Hà Y vốn đã quen thuộc với phương bắc, cũng đã từng nếm qua những cơn gió bấc khốc liệt vào mùa lạnh nhất trong năm, nhưng tiếng gió nơi đây còn ghê gớm hơn, liên miên không ngừng không nghỉ khiến nàng cảm thấy sợ hãi.

Nàng vốn muốn thuyết phục Mộ Dung Vô Phong ở đây thêm vài ngày, đợi bệnh tình thuyên giảm rồi hãy xuống núi. Bây giờ, nghe tiếng gió rít đáng sợ này, nàng lại thấy dao động, ngày mai hai người nhất định phải xuống núi. Nhưng kể cả ở dưới núi, nàng cũng vẫn lo thân thể Mộ Dung Vô Phong chịu không nổi thời tiết rét mướt khắc nghiệt miền cực bắc này. Theo kế hoạch của nàng, chí ít chàng còn phải nghỉ ngơi an dưỡng thêm nửa năm nữa mới có thể miễn cưỡng lên đường về cốc. Chàng vốn dĩ không chịu nổi sự xóc nẩy, từ Thiên Sơn về Vân Mộng cốc, lộ trình xa xôi, dọc đường cứ đi rồi nghỉ, nghỉ rồi lại đi, kể cả là thuận buồm xuôi gió đi nữa, đối với chàng mà nói, ít nhất cũng phải mất năm tháng mới về được tới nơi.

Nhưng nơi đây là một nơi xa lạ, thậm chí là một đất nước xa lạ.

Nghĩ tới đây nàng chợt cảm thấy trách nhiệm của mình rất nặng nề.

Chăm sóc người bệnh tuyệt đối không phải là một công việc dễ dàng. Nếu như Hà Y chưa từng thật sự sống cùng Mộ Dung Vô Phong, có lẽ nàng sẽ vĩnh viễn không sao hiểu được những đau khổ và sầu muộn ẩn giấu đằng sau thái độ lạnh lùng của chàng.

Từ xưa đến nay chàng đều không muốn làm phiền người khác, nhưng nàng biết mỗi ngày chàng đều phải vất vả gian nan, khó khăn trùng trùng làm những việc người bên cạnh chớp mắt là làm xong. Chàng dậy khỏi giường khó, trở mình cũng khó, rất nhiều nơi không thể đi, lại còn cả bệnh ưa sạch nữa. Mỗi ngày chàng phải tắm rửa ít nhất một lần, nếu như có tiến hành chữa trị cho ai đó, chàng sẽ tắm nhiều hơn. Việc tắm rửa của chàng đương nhiên cũng rất không tiện. May mà tất cả những việc ấy ở Vân Mộng cốc đều không phải vấn đề lớn. Nhiều năm nay, các vị tổng quản không ngừng phái thợ khéo vào Trúc Ngô viện, tu sửa lại tay vịn, giá đỡ, lan can, đường dốc ở các nơi, bất cứ chi tiết nào có thể giúp Mộ Dung Vô Phong cảm thấy thoải mái hơn đều từng được bọn họ suy nghĩ xem xét kỹ càng. Cho đến cuối cùng, những phương tiện mới tăng thêm, đến chính Mộ Dung Vô Phong cũng chẳng biết dùng để làm gì.

Cho nên chỉ có ở trong nhà mình, chàng mới cảm thấy tất cả sinh hoạt đều đơn giản, tính khí cao ngạo, tuyệt đối không xin người khác giúp đỡ kia của chàng mới có thể tiếp tục. Bây giờ thân thể chàng thương tật, đi một bước cũng khó khăn, tất tần tật mọi việc đều phải trông cậy vào Hà Y chăm sóc, chàng làm sao có thể cảm thấy dễ chịu cho được. Huống chi bản thân đang ở xứ lạ, thói quen ăn uống khác hẳn ở nhà, rốt cuộc liệu chàng có thể chịu đựng tiếp hay không?

Nghĩ tới đây, nàng cảm thấy lo lắng không thôi.

Cũng bởi thời gian bọn họ sống với nhau quá ngắn. Trong quãng thời gian ngắn ngủi đó, mọi việc sinh hoạt hằng ngày của mình, Mộ Dung Vô Phong đều có thể tự lo liệu, thậm chí chàng còn rất chiều chuộng Hà Y, đến mức nàng thường quên rằng hai chân chàng không tiện cử động.

Nàng cũng không nghĩ tới việc, sau khi quen biết chàng nàng cũng thay đổi rất nhiều. Từ xưa đến nay nàng vốn là người thoáng đạt, qua loa, bây giờ phải chăm sóc cho Mộ Dung Vô Phong nàng mới chợt nhận ra mình cũng rất tỉ mỉ, rất dịu dàng. Những phẩm chất này vốn không liên quan gì tới nàng, nhưng thoáng cái tất cả những thứ ấy đều đã được “hô biến” ra rồi.

Sau này nàng cũng dần phát hiện, Mộ Dung Vô Phong hiện thực và Mộ Dung Vô Phong trong truyền thuyết rất khác nhau. Trước mặt nàng chàng rất khiêm tốn, cái gì cũng nhường nhịn nàng. Có lúc chàng cũng rất thích chuyện trò, một khi đã nói là sẽ nói liên miên không dứt. Kỳ lạ nhất chính là chàng rất hiếu động, rõ ràng không đi nổi vài bước nhưng chàng rất thích chống nạng kéo Hà Y đi tản bộ trong viện. Rất nhiều việc chàng làm không tiện nhưng vẫn thích tự mình làm. Nhưng nàng cũng đã từng chứng kiến chàng ở trước mặt học trò rất ít cười, ngữ khí nói năng cũng rất lạnh lùng, còn nếu như trước mặt chàng là một kẻ xa lạ, chàng sẽ trầm mặc ít nói, tính khí lại rất khó chịu. Bởi thế nàng thường rất mơ hồ, không biết đâu mới là Mộ Dung Vô Phong thật sự.

Con người cả ngày lạnh lùng cao ngạo ấy, bộ dạng lúc ngủ lại rất giống một đứa bé. Khi Hà Y ở bên cạnh chàng, chàng thường bất giác sán lại gần nàng, sau đó cả đêm chàng sẽ giữ chặt lấy một ngón tay hoặc một góc áo nàng, dường như sợ nàng sẽ biến mất. Đến nỗi khi nàng tỉnh lại rồi phải bỏ rất nhiều thời gian để nghĩ cách gỡ tay chàng ra.

Nàng nắm lấy tay Mộ Dung Vô Phong, nghĩ ngợi miên man, bất giác đã ngồi bất động bên giường hơn một canh giờ, cho tới khi bàn tay kia chợt động đậy.

“Đang nghĩ gì vậy?”, chàng chợt tỉnh lại, nằm trên giường hỏi.

“Không có gì, nghĩ linh tinh”, nàng cười đáp.

“Ngủ sớm một chút, hai mắt nàng thâm quầng rồi đấy”, chàng áy náy nhìn nàng.

Ba ngày liền nàng không hề chợp mắt.

Nàng tắm rửa qua loa một lượt, thay quần áo rồi trèo lên giường, leo lên người chàng, nằm tựa như một chú ếch xanh, nàng áp tai lên ngực chàng, nghe tiếng tim chàng đập.

Hằng đêm nàng vẫn thường làm thế để kiểm tra xem tim chàng có đập bình thường hay không.

“Nàng biến thành một chú ếch xanh to tướng từ bao giờ thế?”, chàng vỗ vỗ đầu nàng, cười hỏi.

Một lúc sau, nàng lại quay ra ôm lấy vai chàng, tựa như một chú thạch sùng dán chặt lên thân trái của chàng.

“Dính chặt lấy ta thế này để làm gì?”, chàng khó khăn lắm mới lật được người lại, mặt đối mặt với nàng.

Tay của Hà Y lại chạm lên hai vết sẹo sưng đỏ dưới chân chàng.

“Vô Phong, thiếp có phải lão bà của chàng không?”, nàng đột nhiên hỏi.

“Ừm”.

“Ừm tức là sao?”.

“Phải”, chàng đành đáp.

Mấy ngày nay nàng cứ như bị ma nhập, không ngừng hỏi chàng câu này.

“Sao nàng cứ hỏi ta câu này mãi thế?”, chàng không nhịn được hỏi.

“Bởi vì chàng đang muốn hối hận”, nàng bắt đầu véo cánh tay chàng: “Rốt cuộc có đúng là chàng đang hối hận rồi không?”.

“… Ừm”.

“Ừm là ý gì?”, nàng sốt ruột hỏi.

“Không phải”, chàng khẽ cười.

“Vậy thì chắc chắn rồi nhé!”, nàng áp đầu lên ngực chàng.

“Chắc chắn rồi”, chàng dịu dàng nói: “Đừng quấy nữa, nhanh nhanh ngủ đi”.

“Kiếp sau thiếp lại gả cho chàng có được không?”, nàng lại ngọt ngào hỏi.

“Không mệt hả Hà Y? Một kiếp còn chưa đủ sao?”.

“Chưa đủ”.

Chàng cười khổ, trong lòng vừa chua xót lại vừa cảm thấy ngọt ngào.

“Hà Y, ta là một người hạnh phúc”.

“Thiếp cũng thế!”.

Hai người ôm chặt lấy nhau.

“Kể cho thiếp nghe một chuyện đi, bây giờ còn sớm”, nằm yên một lúc, nàng lại hỏi.

“Ta đang đợi nàng kể chuyện cho ta đây. Nàng nói có khả năng Lục Tiệm Phong quen với mẹ ta, tại sao thế?”.

Nàng cười nói: “Người trong Thần Nông trấn đều kháo nhau Thiên Sơn Băng vương trong truyền thuyết là phụ thân chàng”, nói rồi đem câu chuyện Tôn Phúc kể ở Thính Phong lâu hôm trước kể lại kỹ càng một lượt.

Chàng nghe xong nhíu chặt mày, cảm thấy quá sức hoang đường.

Hà Y nói: “Truyền thuyết tuy vô bằng vô cớ nhưng thiếp lại là người thích tin vào truyền thuyết”.

“Hử?”.

“Bởi vì từ nhỏ thiếp đã làm quen với phố lớn ngõ nhỏ, biết rằng tin tức ở quán trà quầy rượu thường truyền đi rất nhanh. Có những tửu lâu còn lập một ban riêng chuyên chép lại các câu chuyện giang hồ để khách tới có thêm chủ đề mà bàn luận, rồi nhân đó uống thêm vài chén rượu, ăn thêm vài món ăn”.

“Nàng muốn nói những chuyện ấy vốn là giả?”.

“Đại khái thì bắt đầu đều không có thật, nhưng về sau, người có hứng thú càng lúc càng nhiều, chuyện càng thêm thắt lại càng như thật, bởi vì không ngừng có tin mới để bổ sung vào. Sau cùng, câu chuyện được dựng lên không sai bao nhiêu so với sự thật”, nàng ngừng một chút rồi nói tiếp: “Cho nên, tuy Thiên Sơn Băng vương không nhất định là phụ thân chàng nhưng thiếp cho rằng ít nhiều ông ấy cũng có liên quan tới việc này”.

Mộ Dung Vô Phong nhìn nàng, tựa như đang có suy nghĩ.

“Thiếp vừa nghe xong câu chuyện ấy, ngày hôm sau liền lên núi Nga My”.

Mộ Dung Vô Phong nói: “Việc này cũng liên quan tới phái Nga My sao?”.

“Từng nhìn thấy Thiên Sơn Băng vương ở dịp tỉ kiếm tại Phi Diên cốc năm xưa, bây giờ còn sống trên đời chỉ còn một người, đó chính là chưởng môn phái Nga My, Phương Nhất Hạc”.

“Ta từng gặp Phương Nhất Hạc một lần”, Mộ Dung Vô Phong nhạt giọng nói: “Ta giúp ông ta điều trị vết thương một lần. Bây giờ nghĩ lại, đó hẳn là vết thương ông ta bị khi tỉ kiếm với sư phụ nàng”.

Hà Y hơi biến sắc, hỏi: “Ông ta cũng từng bị trọng thương sao?”.

Nếu không phải là người mắc bệnh nguy kịch, thường sẽ không được chuyển tới phòng khám của Mộ Dung Vô Phong.

Mộ Dung Vô Phong gật đầu nói: “Là Hạ Hồi đưa ông ta tới”.

“Nói như vậy Phương Nhất Hạc nợ chàng một mạng rồi?”.

“Từ trước tới giờ ta trị bệnh thì chỉ thu tiền khám, chưa hề bắt ai nợ mạng như nàng nói”, chàng lãnh đạm nói.

Hà Y cười: “Trên giang hồ, giết người tất nhiên phải đền mạng, mà cứu người chính là người ta nợ mình một mạng”.

Mộ Dung Vô Phong nói: “Tóm lại quy tắc trên giang hồ thật cổ quái, có lúc rất không có lý lẽ”.

Hà Y trợn mắt nhìn chàng.

Mộ Dung Vô Phong nói: “Cho dù nàng trợn mắt nhìn ta, ta cũng vẫn cứ nghĩ như thế”.

Hà Y cười nói: “Ai trợn mắt nhìn chàng? Mà người ta chính là trợn mắt nhìn chàng đấy, cũng không được à?”, nói rồi tiếp tục kể: “Khi thiếp gặp Phương Nhất Hạc, ông ta nói đúng là đã gặp Thiên Sơn Băng vương, lại cũng đã gặp chàng, từ dung mạo mà nói, hai người không giống phụ tử chút nào. Cho nên manh mối đến đây là đứt”.

Mộ Dung Vô Phong véo véo mũi nàng: “Là manh mối đứt, hay là do người nào đó không chịu cố gắng đi tìm?”.

Hà Y nói: “Thiếp tìm rồi. Nếu manh mối này đã đứt ở đây, tất nhiên thiếp sẽ phải đi tìm manh mối khác. Cũng chính là ngày đầu tiên chàng tới Vân Mộng cốc, là do người khác đưa tới, lúc ấy chàng chẳng qua chỉ là một đứa bé mấy tháng tuổi mà thôi, người biết rõ chuyện này cũng chỉ có một người”.

Mộ Dung Vô Phong nói: “Tôn Thiên Đức”.

“Không sai. Nghe nói ông ấy là người được ông ngoại chàng tín nhiệm nhất, là lão tổng quản của Vân Mộng cốc, nhưng không biết vì sao không tiếp tục đảm nhiệm chức vụ ấy nữa mà lại trở thành một đầu bếp xa gần nghe tiếng”.

“Ngày đầu tiên nàng tới Vân Mộng cốc, chắc đã nếm qua món ‘Tùng Thử Quyết Ngư’ ông ấy làm rồi”, chàng nhẹ giọng nói.

“Ông ấy là phụ thân của Tôn Thanh, đúng không?”, Hà Y chợt nhớ ra.

“Không sai. Tôn Thiên Đức chính là do ta tống cổ ra đấy. Bởi vì ta đã từng hỏi ông ta việc ấy, nhưng ông ta sống chết gì cũng không chịu nói. Ông ta từng thề với ông ngoại ta, tuyệt đối không tiết lộ chuyện này với bất kỳ ai”.

Hà Y nói: “Ông ta không chịu nói cho chàng, đương nhiên cũng không thể nói cho thiếp. Cho nên thiếp hiểu, đầu mối này cũng bị đứt rồi. Từ lúc ấy, thiếp đã định tới Thiên Sơn tìm Băng vương. Chỉ là… về sau phát sinh nhiều việc như thế, thiếp trở thành… trở thành càng ngày càng không thể rời khỏi chàng”.

Mộ Dung Vô Phong than thở: “Bây giờ việc này đối với ta mà nói đã không còn quan trọng đến thế. Ta không muốn nàng tiếp tục bôn ba tứ xứ, vì ta mà mạo hiểm”.

“Ha, từ bao giờ đã biết đau lòng xót xa cho lão bà rồi?”, Hà Y trêu đùa.

“Là đầu ta không tỉnh táo hay là thật vậy? Hà Y? Vừa rồi hình như có người gõ cửa”, chàng đột nhiên nói.

Hà Y ha ha cười lớn, nói: “Đương nhiên là chàng không tỉnh táo rồi, vào giờ này thì làm gì có ai mò tới chỗ này chứ? Với lại, đây há là nơi người bình thường tới được sao?”.

Còn chưa dứt lời, mặt nàng chợt biến sắc.

“Bình, bình, bình!”, quả nhiên có người gõ cửa.

Tiếng gõ cửa rất nhẹ, rất lịch sự, cũng không phải là gõ liên tục mà là gõ một lúc rồi ngừng một lúc.

“Là quỷ đó!”, Hà Y vùi đầu vào trong chăn, rúc chặt vào lòng Mộ Dung Vô Phong.

“Đừng sợ”, chàng rất muốn tự mình ra mở cửa, xem xem rốt cuộc là có chuyện gì, nhưng hiện giờ chàng chẳng nhích nổi lấy nửa bước, đến ngồi dậy còn khó nữa là.

“Chàng đừng động đậy. Chúng ta… chúng ta chết cũng không mở cửa, nó sẽ đi thôi”, Hà Y thấy chàng vịn vào thành giường, cố sức gồng mình định ngồi dậy liền vội vàng ngăn lại.

“Bình, bình, bình!”.

“Vô Phong, thiếp thú nhận, gần đây thiếp giết quá nhiều tuyết báo với tuyết kê, còn ăn không ít thạch sùng nữa”, Hà Y vội vàng tự thú.

“Nàng ăn thạch sùng lúc nào thế?”, vốn đang căng thẳng, chàng vẫn không nhịn được cười.

“Cái này… trong phòng này có rất nhiều thạch sùng, với lại… mùi vị rất ngon! Nướng qua lửa, rắc thêm một ít ớt bột… rất thơm nhé”.

“Không cần nói nữa, con quỷ này nhất định là thạch sùng tinh tới tìm nàng”.

“Cũng chưa chắc, trong bụng chàng toàn là mật báo đấy nhé! Không biết chừng đó lại là báo tinh thì sao?”, nàng cãi lại.

“Tuy là ta ăn, nhưng báo không phải là do nàng giết sao?”.

Nói vài câu, hai người đã quên hết mọi việc xung quanh mà hôn nhau thắm thiết.

“Bình, bình, bình!”. Ngoài cửa lại vang lên tiếng gõ, người gõ cửa có vẻ như rất kiên nhẫn.

Hà Y mặt mũi đỏ hồng, toàn thân mềm nhũn, nhìn Mộ Dung Vô Phong.

Không biết chàng đột nhiên lấy đâu ra khí lực, thân thể hai người bất giác đã cuốn chặt lấy nhau.

“Đồ ngốc, cẩn thận chút đi, chàng vẫn đang bệnh đấy! Chỗ này có đau không?”.

Lúc này nàng không thể không thận trọng mà bảo vệ chỗ vết thương của chàng.

Nàng biết vết thương của chàng bên ngoài tuy vẫn sưng nhưng đã dần khép miệng, nhưng nội thương thì cực kỳ nặng, bất cứ lúc nào cũng có thể phát tác.

“Hà Y, ta cảm thấy người gõ cửa ngoài kia là kẻ xấu, đợi chút nữa không chừng hắn sẽ vào lấy mạng hai chúng ta. Tranh thủ lúc này chũng ta vẫn nên tận hưởng chút hạnh phúc cuối cùng đi”, không biết từ đâu chàng lại moi ra được cái thứ lý do này.

“Làm cũng làm rồi, còn nói gì nữa? Lần nào cũng như thế, chẳng bao giờ đánh tiếng trước cả”, nàng bực bội nói.

Chàng cười cười, có chút xấu hổ.

Nàng bò dậy, giúp chàng lau mồ hôi toàn thân, thay một bộ y phục khác, rồi lại đỡ chàng nằm xuống, tiện tay tháo móc buông rèm ngủ.

Trên rèm có thêu hoa văn tựa như những chùm nho. Những hoa văn chùm nho viền quanh, một trái một phải, bao lấy hai họa tiết tựa như một loài động vật biển nào đó.

“Hà Y, ra mở cửa đi”, cuối cùng chàng nói: “Người này chịu khách khí gõ cửa lâu như vậy mà cũng không phá cửa xông vào, ít nhất cũng nên coi là khách của chúng ta”.

Hà Y nghiêm chỉnh mặc lại quần áo, đeo kiếm lên lưng, ngập ngừng một chút rồi ra mở cửa.

Mặc dù sớm đã có chuẩn bị đối mặt với một phen kinh ngạc lớn, Hà Y vẫn cứ bị kinh ngạc như thường. Bởi vì người gõ cửa là một nữ nhân, lại là một nữ nhân cực kỳ xinh đẹp.

Cô ta xem ra lớn tuổi hơn Hà Y nhưng cũng tuyệt đối chưa quá ba mươi. Thời tiết đã lạnh tới mức này mà cô ta vẫn chỉ khoác một tấm áo lông chồn rất mỏng. Loại áo này thông thường người ta chỉ mặc vào lúc đầu đông, trời lạnh hơn, bên ngoài nhất định phải khoác thêm một tấm áo dày, nếu không tuyệt đối không chặn nổi khí lạnh thấu xương. Tấm áo lông chồn này tuyền một màu đen, chất lượng cũng tuyệt hảo, cô ta mặc vào trông cực kỳ tao nhã.

Trong tay cô ta còn cầm một chiếc ô, trên ô là một lớp tuyết dày, thấy cửa mở ra cô ta bèn thu ô lại đặt nghiêng ngoài cửa, tuyết trên ô theo đó mà rơi lả tả.

“Xin lỗi, ta thấy ngoài hành lang có ánh đèn nên mạo muội tới gõ cửa. Bên ngoài gió to tuyết lớn, liệu ta có thể vào xin một cốc nước nóng chăng?”, giọng của cô ta rất ôn hòa, lúc nói chuyện cũng rất ôn tồn lễ độ.

Hà Y cười nói: “Đương nhiên, xin mời vào”.

Người lạ mặt tiến vào rồi cởi áo khoác ra, thân hình cô ta thon thả, mặc một tấm lụa tuyền là màu đen, phối hợp với làn da sáng trong như tuyết trông cực kỳ đẹp mắt.

Hà Y đưa cho cô ta một chiếc khăn trắng nói: “Trên tóc cô toàn là tuyết, lấy cái này mà phủi đi”.

Không những trên đầu cô ta có tuyết mà toàn thân phảng phất cũng mang theo hơi lạnh của tuyết, lúc mới đi vào, thân thể cô ta tựa như chìm trong một lớp sương khói lạnh buốt.

Hà Y đứng bên cạnh cũng không khỏi cảm thấy rùng mình ớn lạnh.

Mộ Dung Vô Phong lại lên một cơn ho dữ dội.

Hà Y nhẹ nhàng nói: “Xin lỗi, tướng công ta đang ốm, không thể ngồi dậy”, nói xong nàng đi tới bên giường, đem một tấm chăn lông nữa đắp thêm lên người chàng.

Chàng càng ho dữ dội, không ngừng được chút nào.

Hà Y quay lại, phát hiện lớp sương lạnh bao quanh nữ nhân kia đã biến mất, nhiệt độ trong phòng cũng dần dần ấm trở lại. Nàng cúi xuống định cho chàng uống chút thuốc, chàng lại nhỏ giọng nói: “Ta… khụ khụ… không sao cả. Nàng đi tiếp khách đi”.

Người lạ mặt ngồi yên bên lò, vươn tay ra sưởi trên lửa.

Hà Y lại cảm thấy cử chỉ của cô ta có chút làm bộ, nhìn cô ta rõ ràng chẳng hề lạnh chút nào.

Hà Y đưa cho cô ta một cốc trà nóng, người kia đón lấy, cảm ơn rồi từ từ nhấp một ngụm.

“Qúy khách đang đêm tới đây, phải chăng có việc gì?”, Hà Y ngồi xuống bên cạnh hỏi.

“Ta đến thăm bạn cũ thôi”, cô ta cười.

Thì ra là bằng hữu của Lục Tiệm Phong và Sơn Mộc, Hà Y yên tâm hơn một chút, thái độ khách khí hơn nhiều.

“Nơi đây vẫn còn vài phòng nữa, nếu cô nương thấy không tiện xuống núi có thể ở tạm một đêm. Trong này cũng có một suối nước nóng nữa, tắm rửa rất thuận tiện”, Hà Y đề nghị.

“Liệu có thể cho ta ăn chút gì đó được không? Ta thực sự rất đói bụng”, cô ta đáp.

“Nếu cô chịu vào bếp giúp ta, ta rất vui lòng nấu vài món cho cô”, Hà Y nói. Người này chưa biết là bạn hay là thù, nàng không thể để cô ta và Mộ Dung Vô Phong ở một mình với nhau.

“Rất xin lỗi, ta thật sự không chịu nổi mùi dầu mỡ”, người lạ mặt dứt khoát cự tuyệt.

Hà Y cười lạnh: “Vậy cũng rất xin lỗi. Ta muốn ở lại đây chăm sóc tướng công của ta”.

Người lạ mặt lại nói: “Nếu cô không đi nấu ăn, ta sẽ giết tướng công cô”.

Hà Y đứng bật dậy.

Mộ Dung Vô Phong trên giường lên tiếng: “Hà Y, đi nấu đồ ăn mời khách”.

Hà Y giậm chân nói: “Vậy chàng…”.

“Đi đi. Chúng ta với vị khách này không quen không biết, cô ta sẽ không làm hại chúng ta đâu”.

Nàng chỉ đành hậm hực vào bếp.

Chương 27

Trong phòng còn lại Mộ Dung Vô Phong và nữ nhân xa lạ kia.

“Tính nội tử[1] hay lo lắng chứ không cố ý thất lễ với quý khách. Quý khách chớ trách”, Mộ Dung Vô Phong vừa nói vừa đưa tay vịn vào vòng gỗ, tay kia chống xuống giường, kéo nửa người ra khỏi chăn ngồi dậy tựa nghiêng lên đầu giường.

[1] Nội tử: vợ.

Cố sức như vậy là đã dùng hết tất cả khí lực của chàng, không tránh khỏi lại thở dốc.

Người lạ mặt kia ngồi ở xa nhìn chằm chằm vào chàng, một lúc sau mới cất giọng xa xôi nói:

“Không ngờ cái vòng gỗ trên giường ấy tới bây giờ hãy còn, lại vẫn dùng được.”

Mộ Dung Vô Phong sững người rồi khẽ cười: “Vòng gỗ này là có từ trước sao? Ta còn cho rằng đây là do thê tử của ta treo lên đấy”.

Nữ nhân kia lắc đầu: “Đương nhiên không phải”.

Chàng không nhịn được hỏi: “Nghe như quý khách rất quen thuộc với căn phòng này”.

Cô ta lãnh đạm nói: “Đương nhiên quen thuộc. Đây vốn là phòng của ta. Bài trí bên trong, xem ra cũng không thay đổi gì”.

Mộ Dung Vô Phong kinh ngạc hỏi: “Ý cô là, đây vốn là khuê phòng của con gái?”.

“Nếu không phải là khuê phòng của nữ nhân, sao có thể có bàn trang điểm?”.

“Trong này còn có một bàn trang điểm?”, chàng bật cười.

“Rõ ràng ngươi đang ở trong căn phòng này, sao tới một cái bàn trang điểm lớn thế kia cũng không nhìn thấy? Lẽ nào mắt ngươi mù rồi?”, nữ nhân cười lạnh.

“Mù thì không phải, chỉ là ta rất ít khi xuống giường mà thôi”, chàng than.

“Ngươi ở nơi này lâu chưa?”

“Đã hơn một tháng.”

“Ngươi mắc bệnh gì? Sao hơn một tháng rồi mà còn không xuống nổi giường?”

Mộ Dung Vô Phong không trả lời mà hỏi lại: “Kể cả nơi này có một bàn trang điểm, cũng chưa thể khẳng định đây là phòng của cô”.

Chàng đang nghĩ, nữ nhân xa lạ này tới đây liệu có phải muốn đuổi hai người bọn chàng đi không.

Nữ nhân đáp: “Dưới lớp đệm đầu kia giường còn có một cái túi nhỏ thêu hoa. Chính là do ta để ở đấy. Nếu ngươi không tin, sao không thử tìm xem”.

Đầu bên kia giường tuy gần trong gang tấc nhưng chàng quả thực chẳng với qua nổi.

Thật ra, chàng vẫn chưa quen với việc thân thể mình hiện giờ thiếu đi một chân. Đến tận bây giờ, chàng cũng chưa dám thực sự nhìn cho rõ thân dưới tàn tạ của mình. Trước giờ đều do Hà Y lo liệu hết cho chàng, nào là thay thuốc, bó thuốc, rửa sạch, cắt chỉ, thay đồ. Đối với phần thân thể ấy, Hà Y còn thân thuộc hơn cả chàng.

Cho nên, chàng chỉ đành nói: “Hiện giờ ta… cử động không tiện. Đợi thê tử ta quay lại, cô ấy sẽ tìm cho cô”.

“Đợi khi thê tử ngươi quay lại, liệu các ngươi có thể nhanh nhanh một chút dọn ra khỏi đây không? Ta quả thật không thích có nam nhân khác ngủ trên chiếc giường đó”, mỹ nhân kia đứng lên, đưa tay chạm vào từng đồ vật trong phòng, tựa như đang chìm vào trong hồi ức nào đó.

Cuối cùng Hà Y cũng bưng một tô cơm và hai đĩa thức ăn đi vào phòng.

“Đồ ăn tới rồi, mời dùng bữa”, Hà Y nói.

“Một mình ta muốn yên tĩnh ở đây, xin hai vị tránh đi”, nữ nhân kia lạnh lùng nói.

Hà Y khẽ biến sắc, nói: “Ý cô nương là sao?”.

Nữ nhân nói: “Nơi đây vẫn còn những phòng khác, phiền hai vị chuyển ra ngoài”.

“Sao cơ?”, Hà Y nhanh như gió bưng mấy đĩa thức ăn vừa xào xong lên, mở cửa ném cả thức ăn cả đĩa ra ngoài.

Ngón tay mảnh mai của nữ nhân kia búng một cái giữa không trung, Hà Y chỉ vừa kịp rút kiếm ra, thân thể đã không nghe lời mà nhũn xuống.

Năm ngón tay cô ta chụp tới, trong nháy mắt đã điểm hết huyệt đạo trên cơ thể Hà Y, rồi ném nàng vào góc tường. Xong việc, cô ta thản nhiên quay về bên lò sưởi, tiếp tục uống trà.

“Hà Y! Hà Y!”, Mộ Dung Vô Phong nằm cách một tấm rèm, nóng ruột gọi. Chàng không nhìn rõ sự tình bên ngoài, chỉ cảm thấy đột nhiên Hà Y im lặng liền biết hỏng việc rồi, không kìm được giận dữ mắng: “Nàng tốt bụng làm cơm cho cô, cô… cô lại còn đả thương nàng!”.

“Trên đời này, lòng tốt vốn chẳng có báo đáp gì hay ho”, nữ nhân kia lạnh lùng cười.

Mộ Dung Vô Phong cắn răng trèo ra thành giường, lăn xuống đất, vết thương va xuống đau tới mức suýt khiến chàng ngất đi. Chàng lê tấm thân tàn phế bò dưới đất ra ngoài. Bò được một lúc, trái tim lại bắt đầu đập loạn, chàng lại bắt đầu tức ngực, lại bắt đầu chóng mặt, thoáng cái mồ hôi lạnh đã thấm ướt áo. Nhưng chàng vẫn kiên trì bò tới cạnh Hà Y.

“Ngươi cho rằng ngươi có thể cứu được cô ta sao? Huyệt đạo ta điểm, từ trước tới giờ chẳng ai có thể giải”, người lạ nhìn bộ dạng của chàng thì rất kinh ngạc, ngữ khí rõ ràng đã mềm đi rồi.

Chàng miễn cưỡng ngồi thẳng lên, ngón tay khẽ vung một lượt liền giải hết huyệt đạo trên người Hà Y.

“Nàng có bị thương không?”, chàng vuốt ve khuôn mặt nàng, thiết tha nói, “Giữ lấy ‘Đan Điền’, hiện tại đừng vận khí. Trên người nàng có một cây châm, bây giờ ta sẽ lấy ra”.

Chàng rút một cây trâm trên đầu nàng ra, ngón tay xuôi theo mạch máu ở gáy lần xuống dưới, dừng lại ở một điểm, khẽ chích một cái rồi nhanh tay rút ra một cây châm, sau đó xé vạt áo, buộc chặt vết thương lại.

“Giờ thì không sao rồi”, chàng nhẹ nhàng đỡ nàng dậy, để người nàng dựa vào tường.

“Sao chàng lại tự mình bò ra đây? Ngã rồi phải không? Ngực có đau không?”, vừa hít được một hơi nàng đã lo lắng nhìn chàng hỏi.

“Không sao cả”, chàng cười điềm đạm nhưng đã cảm thấy vết thương của mình lại bắt đầu xuất huyết. Chẳng bao lâu sau, ống quần trống rỗng bên chân phải đã loang lổ vết máu, máu nhanh chóng thấm ướt áo ngủ của chàng. Chàng không chịu nổi nữa, gục đầu vào lòng Hà Y.

Mộ Dung Vô Phong đã chẳng còn chút khí lực để trèo về giường, sức lực của Hà Y cũng chưa hồi phục trở lại, hai người chỉ đành dựa vào nhau ngồi yên một chỗ. Lúc ấy, mặt Mộ Dung Vô Phong lại vừa khéo hướng về phía nữ nhân lạ mặt kia, người nữ nhân ấy cũng đang dùng một loại ánh mắt kỳ lạ nhìn chằm chằm vào chàng, quan sát chàng rất kỹ. Mộ Dung Vô Phong bị cô ta nhìn tới mức mất tự nhiên.

Nhìn thật kỹ khuôn mặt chàng xong, ánh mắt kia lại chuyển xuống chân chàng.

Mộ Dung Vô Phong lại càng thấy mất tự nhiên.

Hà Y hừ lạnh một tiếng nói: “Đây là tướng công của ta, ngươi chớ có nhìn chàng chằm chằm như vậy”.

Nữ nhân kia vốn chẳng thèm để ý tới nàng.

Ánh mắt cô ta càng lúc càng mê muội, cuối cùng thì hoang mang hoảng hốt, tựa như đã tới một thế giới khác.

Cô ta si ngốc nhìn chàng, nước mắt tuôn trào, thương tâm nói: “Vô Phong, chàng… chàng quay về từ bao giờ thế? Chàng… chàng cuối cùng cũng chịu về rồi!”.

Nữ nhân xa lạ nói ra câu này khiến Mộ Dung Vô Phong và Sở Hà Y trố mắt nhìn nhau.

Mộ Dung Vô Phong lập tức nói: “Xem ra cô nương chắc là nhận lầm người rồi, ta vốn chưa từng gặp cô”.

Hà Y khinh khỉnh nói: “Không quen biết chàng? Không quen biết chàng, vậy tại sao lại gọi được tên chàng?”, nói xong tức tối quay đầu sang hướng khác.

“Hà Y, hãy nhìn vào mắt ta”, chàng quay đầu nàng lại, nhìn vào mắt nàng nói: “Ta không quen ả”.

Nàng lập tức cười, nói: “Đúng mà. Trên đời này, người cùng tên cùng họ nhiều lắm”, nói xong níu chặt cánh tay chàng, dựa vào lòng chàng.

Nữ nhân kia buồn rầu hỏi: “Chàng bị thương sao? Là ai… là ai chặt chân chàng rồi?”.

Hà Y nói: “Việc này không liên quan tới cô!”.

Hai tay của nữ nhân kia lại chộp về phía Hà Y!

Mộ Dung Vô Phong cản lại, nói: “Không được động vào cô ấy”.

Hai bàn tay kia liền ngoan ngoãn buông xuống.

“Ta… ta nghe lời chàng”, nữ nhân kia nhẹ nhàng nói: “Chàng về rồi, ta… ta rất vui. Chàng có cần ta dìu về giường không?”, nữ nhân kia bước tới, quỳ gối xuống trước mặt Mộ Dung Vô Phong, muốn bế chàng lên. Hà Y đã nhanh nhẹn bế chàng lên trước, đưa về giường.

Nữ nhân đó có chút xấu hổ, đứng yên tại chỗ, từ xa dõi theo, u buồn nhìn hai người.

Mộ Dung Vô Phong nhỏ giọng nói: “Thần trí của cô ta có chút không bình thường”.

Hà Y nói: “Sao chàng biết?”.

Mộ Dung Vô Phong nói: “Ta là đại phu”.

Hà Y chỉ đành ngậm miệng.

Mộ Dung Vô Phong nói với nữ nhân kia: “Bây giờ có phải cô vẫn muốn đuổi chúng ta đi không?”

Người kia đáp: “Chiếc giường ấy, chàng từng ngủ trên đó, cái vòng gỗ kia cũng là ta đã làm cho chàng, lẽ nào chàng quên rồi?”.

Mộ Dung Vô Phong hỏi: “Ta từng ngủ ở đây là từ bao giờ?”.

Nữ nhân nói: “Lần đó, chúng ta… chúng ta đấu võ. Chàng đánh bại ta, ta… ta nhất thời tức giận, bèn nhân lúc chàng tắm rửa đánh lén chàng một chưởng. Chàng… liền… liền đổ bệnh rất nặng. Là ta… là ta đã chăm sóc chàng. Việc này… chàng cũng quên rồi sao?”.

Cô ta nói vậy, trong lòng Hà Y đã có thể hoàn toàn khẳng định người đang được nhắc tới không phải là Mộ Dung Vô Phong.

Mộ Dung Vô Phong hỏi: “Sau đó thì sao?”.

Nữ nhân kia yếu ớt nói: “Sau đó, chàng khỏe lại, bèn đuổi ta ra khỏi đây. Không… không cho quay lại”.

“Tại sao?”.

Cô ta cúi thấp đầu, không nói gì nữa, mặt hơi hồng lên.

Mộ Dung Vô Phong thở dài một tiếng, nói: “Xin lỗi, cô thật sự nhận nhầm người rồi”.

Nữ nhân kia ngẩng đầu lên, đôi mắt tuyệt đẹp u oán nhìn chàng: “Không. Ta không nhận lầm”.

Mộ Dung Vô Phong trầm ngâm hồi lâu, nói: “Chí ít người mà cô biết hẳn cũng không phải là người hai chân tàn phế như ta”.

Người kia ngập ngừng một lúc, run giọng nói: “Chàng… chàng vốn rất ghét kẻ khác nói ra từ này”.

Trong đầu Mộ Dung Vô Phong kêu “bang” một tiếng, chỉ cảm thấy máu tươi trào lên, sau đó chỗ vết thương của chàng dấy lên cơn đau kịch liệt. Chàng cắn chặt răng, túm lấy tấm khăn trải giường, không sao kiềm chế được, mạnh tay xé rách tấm khăn ấy.

“Cô qua đây”, chàng chợt đưa tay ra, yếu ớt vẫy nữ nhân kia.

Hà Y bèn lùi sang một bên.

Nữ nhân kia đi tới đầu giường, chàng chợt vươn tay túm chặt cô ta, ngón tay khẽ động, đã điểm huyệt đạo của ả.

Nữ nhân kia lại không ngạc nhiên chút nào, dịu dàng nói: “Chàng… cần gì điểm huyệt ta. Ta… ta sẽ không bao giờ làm chàng bị thương nữa”.

“Ý cô là, người đàn ông từng nằm trên chiếc giường này, bề ngoài trông… trông rất giống ta?”

Cô ta nhẹ giọng nói: “Vô Phong, chàng… thật sự không nhận ra ta sao? Ta là… ta là Tử Vi đây!”.

Chàng kích động tới mức lồng ngực phập phồng thở hổn hển, lớn tiếng hỏi: “Cô muốn nói người ấy, ông ta… ông ta vẫn còn sống? Ông ta đang ở đâu?”.

Tử Vi khẽ than: “Chàng… không nhận ra ta thật rồi. Nhất định là chàng lại tỉ thí với người khác, bị đánh tới hồ đồ rồi”.

Khuôn mặt Mộ Dung Vô Phong đã kinh ngạc mà tái xanh, nghe thấy câu này, sầu thảm hỏi: “Ông ấy… ông ấy còn có thể đánh nhau với người khác?”.

Tử Vi khẽ cười, tựa như vừa thoáng nhớ lại chuyện xưa, trong mắt lấp lánh niềm hưng phấn, nói: “Khinh công của ta là do chàng dạy mà. Chàng còn nhớ không, bộ pháp chàng dạy ta quá khó, ta… ta bước mãi cũng không được, chàng bèn lấy nạng đánh ta?”.

Trong đêm gió tuyết như thế này, cô ta có thể ung dung thoải mái cầm ô lên núi băng vạn trượng, cho dù là Hà Y cũng chẳng thể dễ dàng làm được, khinh công như thế quả là không tầm thường.

Căn phòng chợt chìm vào yên lặng.

Chỉ nghe thấy tiếng Mộ Dung Vô Phong cố sức hít thở.

Tử Vi than rằng: “Bao nhiêu năm không gặp. Bệnh cũ của chàng vẫn hay tái phát như thế. Chàng vẫn còn giận ta sao? Hôm ấy, không phải ta cố ý muốn đả thương chàng… ta không biết chàng… chàng đang tái phát bệnh”.

Hà Y không nhịn được lên tiếng: “Xin hỏi, cô có biết một người tên là Mộ Dung Tuệ không?”.

Tử Vi chẳng phản ứng gì, đáp luôn: “Không biết”.

Mộ Dung Vô Phong đã chẳng nói được nữa. Vết thương của chàng đang chảy máu, đôi môi cũng đã chuyển màu tái nhợt.

Hà Y kéo nữ nhân kia tới bên cửa rồi quay lại giường, lặng lẽ rửa sạch vết thương cho chàng rồi cẩn thận băng lại, sau đó giúp chàng thay một tấm áo ngủ sạch sẽ.

Vừa rồi quá kích động, lại thêm va chạm vào vết thương, cuối cùng chàng đã không trụ nổi, đầu ngả sang một bên, hôn mê bất tỉnh.

Hà Y chỉ đành ghé bên tai, khe khẽ gọi tên chàng.

Rốt cuộc chàng cũng miễn cưỡng mở mắt ra.

“Chàng đỡ hơn chưa?”, nàng vuốt ve vầng trán chàng.

Chàng mệt mỏi khép mắt lại, khẽ nói: “Hà Y, nàng đi… đi phế võ công của cô ta”.

Hà Y nhỏ giọng nói: “Tại sao? Xem ra cô ta… cô ta hình như có quen phụ thân chàng. Đợi chàng khỏe hơn một chút, chúng ta hỏi lại cô ta xem sao”.

Chàng nói ngắt quãng: “Nàng đừng có mềm lòng, nghe ta nói này. Một châm lúc trước của cô ta ác độc vô cùng, thiếu chút nữa… thiếu chút nữa đã lấy mạng nàng rồi!”.

Hà Y nói: “Thiếp… thiếp không ra tay nổi”.

Chàng nói: “Vậy để ta. Nàng đưa cô ta đến đây”.

Hà Y nói: “Từ bao giờ chàng lại trở nên nhẫn tâm như thế? Cô ta chẳng qua cũng chỉ là một cô gái si tình mà thôi”.

“Đấy chỉ là lúc đầu óc cô ta mơ hồ thôi. Một lúc nữa cô ta tỉnh táo rồi sẽ lại đòi mạng chúng ta.”

“Thiếp cảm thấy, chỉ cần cô ta thấy chàng là sẽ không thể tỉnh táo nữa.”

“Hừ!”

“Vô Phong, người mà cô ta nhắc tới, liệu có phải là phụ thân chàng không?”, nàng thận trọng hỏi chàng.

“Nàng muốn nói, ta là kẻ tàn phế, cho nên phụ thân ta hẳn cũng là một người tàn phế!”, chàng lạnh lùng nói.

Hà Y ngơ ngác nhìn chàng.

Lồng ngực chàng phập phồng, tâm tình lại kích động.

Hà Y đi tới bên cửa, kéo Tử Vi đến đặt bên giường chàng, nói: “Chàng là đại phu, ít nhất chàng sẽ có cách chữa cho cô ấy”.

“Hà Y, nàng điên rồi!”

“Chàng không thấy người ta rất đáng thương sao? Bộ dạng vừa rồi của cô ấy, thiếp nhìn mà muốn rơi lệ.”

“Không.”

“Đây là châm của chàng, cầm lấy đi!”, nàng đưa cho chàng một cây ngân châm.

Chàng sững người nhìn nàng hồi lâu rồi thở dài, cầm cây châm châm ba mũi lên đỉnh đầu của nữ nhân kia.

“Giải huyệt đạo cho cô ấy.”

“Không.”

“Vô Phong!”

“Hay là chúng ta đánh cược. Ta giải huyệt đạo xong, cô ta sẽ giết nàng.”

“Cô ta sẽ không làm vậy đâu!”

Chàng vỗ lên huyệt đạo của nữ nhân.

Cô ta đứng dậy, người hơi run rẩy.

Hà Y nói: “Cô đi đi”.

Tử Vi hỏi: “Cô nói gì?”.

Hà Y nói: “Ta biết, nơi này từng là nơi khiến cô thương tâm. Cô rời khỏi đây, tâm tình sẽ khá hơn nhiều”.

Tử Vi lạnh lùng nói: “Nam nhân của cô tuy rất giống nam nhân của ta, nhưng bọn họ rõ ràng không phải cùng một người”.

Tử Vi khinh khỉnh nói: “Nam nhân của ta tâm cao khí ngạo, cho dù cô đánh chết chàng, chàng cũng nhất quyết không chịu bò trên đất như một con giun như thế. Ta quả thật không nghĩ ra, nam nhân như hắn, cả ngày nằm trên giường như đứa trẻ, chẳng thể động đậy, tại sao vẫn muốn sống trên thế gian này? Sao không chết quách đi?”.

Hà Y tức tới run bắn người, rút kiếm ra, giận dữ thét lên: “Giờ ta muốn cô phải chết!”.

Tử Vi lạnh lùng cười: “Cô cho rằng cô xứng là đối thủ của ta sao?”.

Mộ Dung Vô Phong nằm trên giường kêu lớn: “Hà Y!”.

Tiếng chàng vừa dứt, chỉ nghe cửa “binh” một tiếng bật mở, rồi lại “binh” tiếng nữa sập lại. Trong phòng yên tĩnh trở lại, hai nữ nhân kia đã chẳng thấy đâu nữa. Chàng bỗng cảm thấy toàn thân lạnh toát.

Trăng lạnh.

Bốn bề mênh mang tuyết trắng. Dưới ánh trăng, ngọn núi sừng sững phía xa chọc thẳng vào không trung, trong sắc đêm đen kịt, đỉnh núi lại phảng phất một màu xanh thăm thẳm.

Hà Y cười nói: “Hôm nay ông trời cũng gọi à công bằng với chúng ta, tuyết đã ngừng rơi. Phải rồi, quên chưa thỉnh giáo quý tính của cô nương”.

Tử Vi nói: “Ta họ Đỗ”.

Hà Y nói: “Ta họ Sở, Sở Hà Y”.

“Hà trong hoa sen? Y trong y phục?”

“Không sai”.

“Lấy chữ trong Sở từ[2], tên rất hay.”

[2] Sở từ (楚辞): tác phẩm trứ danh do đại thi nhân thời Chiến Quốc của Trung Quốc, Khuất Nguyên (~340-278 TrCN) sáng tác. Tên của Hà Y lấy chữ trong bài Thiếu tư mệnh (少司命) thiên Cửu ca (九歌) của Sở từ, trong câu: Hà y hề huệ đới, Thúc nhi lai hề hốt nhi thệ. (Mặc áo hoa sen chít khăn hoa huệ; Đến cũng thật nhanh mà đi cũng gấp)

“Xin lỗi, ta chưa từng đọc sách, cũng biết rất ít chữ.”

“Cô dùng kiếm?”

“Không sai? Vũ khí của cô là gì?”

“Tay không.”

“Coi thường ta?”

“Một kẻ đến chữ cũng không rành, kiếm của kẻ đó liệu có thể đến được cảnh giới gì chứ?”

“Kẻ đọc sách đều nói kiểu đó.”

“Cô dám ra tay tức là muốn chết rồi!”

“Chưa chắc. Vừa rồi chẳng qua cô dùng ám khí đánh lén ta.”

Đỗ Tử Vi đưa tay ra, làm một động tác mời rồi tao nhã nói: “Mời động thủ đi”.

“Xin lĩnh giáo.”

Một kiếm đâm tới liên miên lạnh lẽo như nước, trong sương mờ phát ra một thứ sát khí lẫm liệt. Thân thể nàng cũng bay theo thanh kiếm, biến ảo trong không trung tựa như bươm bướm dập dờn. Chỉ trong chớp mắt nàng đã đánh tới ba mươi sáu kiếm! Thân hình Đỗ Tử Vi chớp động, tà áo đen phiêu phất, rốt cuộc cũng bị thế kiếm lăng lệ ép cho phải lùi mấy bước!

Cô ta khẽ búng nhẹ trong không trung, “tinh” một tiếng, tựa như có vật gì xé gió bay tới, Hà Y nhắm chuẩn vị trí, khẽ lùi lại, vung ra một kiếm, vật kia liền bắn ngược lại. Nàng cười nói: “Thì ra vũ khí của cô là ám khí!”.

Đỗ Tử Vi tái mặt, thất sắc nói: “Quả nhiên ngươi cũng có chút bản lĩnh”.

Hà Y nói: “Chỉ có chút thôi à? Nếu cô chỉ dùng ám khí đối phó với kiếm của ta, ta bảo đảm cô không qua nổi mười chiêu”.

Thực ra, trong khoảnh khắc vừa rồi hai người đã đấu cả trăm chiêu. Đỗ Tử Vi rốt cuộc cũng rút từ eo ra một cây nhuyễn tiên[3], “vút” một tiếng, cây nhuyễn tiên đã như một con linh xà cuộn về phía Hà Y.

[3] Nhuyễn tiên: roi mềm.

“Cuối cùng cũng giở bản lĩnh ra rồi, trông cũng không tệ”, Hà Y lãnh đạm nói.

Nàng chưa từng thấy qua chiêu đánh roi nào như thế. Mũi roi kia tựa như trước sau dính chặt lấy người Hà Y như hình với bóng. Cuối cùng “chát” một tiếng, lưng nàng đã ăn một cú nhớ đời, lập tức cả thân thể đau như bỏng rát.

Hà Y cực kì tức giận! Nàng chợt nhớ lại cuộc sống roi vọt lúc còn nhỏ của mình, kể cả không làm gì sai, cái roi kia vẫn vụt lên người nàng.

Mụ đàn bà quái gở không biết đạo lý đó!

Nàng quát một tiếng, điên cuồng đâm tới bảy kiếm, nhát kiếm cuối cùng xuất ra, nàng nhảy bật lại, xoay người một vòng lướt qua ánh roi dày đặc, mũi chân khẽ điểm vào mái hành lang, người liền phóng vút đi như chớp giật đâm thẳng tới cổ họng Đỗ Tử Vi!

Trong lúc nguy cấp, Đỗ Tử Vi đã không sao tránh khỏi nhưng phản ứng vẫn còn rất nhanh. Cô ta ném cây roi của mình về phía Hà Y, chuôi cây roi bằng gỗ, vừa khéo đập vào mũi kiếm đang đâm tới, kiếm lệch đi một chút, “phập” một tiếng đâm vào vai cô ta. Máu tươi thấm ướt ống tay áo, từng giọt từng giọt nhỏ xuống tuyết. Những giọt máu nóng ấy rơi xuống tuyết mềm, chớp mắt đã chìm xuống thành những lỗ nhỏ.

Hà Y trỏ kiếm vào mặt Đỗ Tử Vi nói: “Cô thua rồi”.

Đỗ Tử Vi nói: “Ta không thua”.

Hà Y nói: “Là ta không muốn giết cô, nếu không cô tránh không nổi kiếm vừa rồi của ta đâu”.

Đỗ Tử Vi nói: “Nếu tính cả một roi ta đánh trúng cô thì trận vừa rồi chúng ta chỉ ngang tay thôi. Cô đâm ta kiếm này chẳng qua chỉ là ngoại thương nhưng roi vừa rồi ta đánh cô, tuyệt đối là nội thương. Chắc hẳn cô cũng từng nghe qua Bắc Minh Thần Công và Băng Phách Thần Châm”.

Hà Y thầm hít một hơi khí lạnh. Hai môn võ công này là tuyệt học đã thất truyền nhiều năm trên giang hồ, vốn chẳng ai tin rằng còn có truyền nhân của hai môn này sống trên thế gian.

Sau lưng nàng đã ngâm ngẩm tê dại.

Hà Y cười, cũng không hạ kiếm xuống, nói: “Bất kể thế nào, nếu bây giờ cô không biến đi, ta chí ít vẫn còn sức giết chết cô. Tướng công ta không biết võ công, ta tuyệt đối không để cô tiến vào căn phòng ấy dù chỉ nửa bước”.

Đỗ Tử Vi nói: “Ta thừa nhận, kiếm pháp của cô thuộc hàng nhất lưu. Cô như thế này, nên tìm một kẻ ra dáng một chút làm tướng công mới phải”.

Hà Y khẽ cười, khuôn mặt lộ vẻ hạnh phúc: “Tướng công của ta cũng là nhất lưu. Chàng là nam nhân thú vị nhất mà ta từng gặp. Cho dù bây giờ ta có chết đi, kiếp sau vẫn muốn được gả cho chàng”.

Đỗ Tử Vi thoáng ngây người, nói: “Ta thích câu này của cô. Nam nhân của ta cũng rất thú vị, tuy nhiên chân của chàng cũng không thể đi lại”.

“Xem ra có vẻ chúng ta nên ngồi lại một chỗ uống vài chén rượu. Trên đời này, nam nhân thú vị vốn không nhiều, nam nhân không có chân nhưng vẫn thú vị lại đã ít càng thêm ít.”

“Rượu thì không có, nhưng công phu tán chuyện thì vẫn còn thừa”, Đỗ Tử Vi cười.

Dáng vẻ cô ta khi cười rất động lòng người, đôi mắt sinh động, ánh mắt mềm mại long lanh, đến ngay cả Hà Y nhìn vào mà cũng có chút ngây ngốc.

Đỗ Tử Vi hỏi: “Cô có muốn biết tình cảnh lần đầu tiên ta gặp chàng không?”.

“Tình cảnh lúc đó ắt hẳn rất thú vị.”

Chương 28

Ánh mắt Đỗ Tử Vi mơ màng, tựa như đã lại đắm mình vào ký ức: “Lúc ấy, suối nước nóng ở đây nằm trơ trọi sau nhà, vẫn chưa xây phủ lên thành ra trong nhà như bây giờ. Có một hôm ta lấy quần áo đang định tới đó tắm rửa thì lại phát hiện ra sớm có một nam nhân không mảnh vải che thân đang ngâm mình trong đó. Nước màu đỏ tươi cho nên chàng tuy… tuy không mặc đồ nhưng… nhưng cũng không thấy gì cả. Quần áo của chàng cùng với một đôi nạng để ngay ngắn sau lưng. Chàng khoan khoái ngâm mình trong nước, ngắm nhìn đỉnh núi phía xa tới xuất thần, trên tay còn đang cầm một chén rượu, dáng vẻ thoải mái nhàn hạ cứ như đang ngồi ở vườn sau của nhà mình phơi nắng”.

Hà Y nói: “Nam nhân này hẳn cũng cực kỳ anh tuấn”.

“Trước nay ta chưa từng gặp nam nhân nào anh tuấn đến thế, chỉ mới nhìn chàng một cái, ta đã hồn xiêu phách lạc rồi. Thú vị nhất là, lúc nhìn thấy ta, chàng lại chẳng lấy làm xấu hổ tẹo nào, cũng không có ý định đứng dậy nhường chỗ, đã vậy lại còn chào hỏi ta. Chàng nói: ‘Xin chào! Hoan nghênh tới đây!’, lúc ấy ta bị bộ dạng tùy tiện của chàng chọc tức, ta nói: ‘Đây là suối nước nóng của ta’. Chàng cười bảo: ‘Đây hình như là suối nước nóng thiên nhiên’. Ta đáp: ‘Suối nước nóng thiên nhiên, trên Thiên Sơn này có rất nhiều, nhưng chỉ có một cái này là của ta’. Chàng nói: ‘Xem ra ta tới nhầm chỗ rồi. May mà ta cũng ngâm mình đủ lâu, cũng nên về rồi. Ta đang ở trần, làm phiền cô quay người lại’. Ta tức lắm, lại sợ chàng nhân lúc ta quay người sẽ lén tập kích, bèn nói: ‘Ngươi đẹp đẽ lắm sao? Ta cứ không quay người đấy!’.”

Hà Y nói: “Nếu ta là cô, ta cũng tuyệt đối không xoay người. Thân thể của nam nhân anh tuấn, không phải người nào cũng có may mắn được ngắm nhìn”.

“Chàng cũng chẳng thèm giận, liền chống nạng đứng dậy ngay trước mặt ta! Ta sợ quá vội vàng nhắm mắt lại. Đến lúc mở mắt ra, chàng đã mặc xong một bộ đồ màu xám. Đôi chân của chàng có vẻ như đã tàn phế từ lâu, còn gầy gò yếu ớt hơn cả đôi vai chàng, hơn nữa lại hoàn toàn không thể cử động. Nhưng bộ dạng chàng thì vẫn rất thản nhiên, tựa hồ chẳng cảm thấy buồn cho bản thân chút nào. Chàng còn quay đầu nhìn ta, khẽ cười nói: ‘Nhường chỗ cho cô nương rồi đấy, thong thả dùng nhé. Rượu cũng còn nửa bình, để lại cho cô luôn’, nói xong chàng khẽ chống đầu nạng xuống đất một cái đã nhẹ nhàng lướt vút đi. Ta vốn nghĩ rằng bộ dạng của chàng khi đi lại sẽ cực kỳ khó coi, ngờ đâu thân pháp của chàng quá linh hoạt, lại có vẻ như không tốn sức chút nào, tốc độ cũng cực nhanh, còn nhanh hơn ta đi đường nhiều.”

Hà Y nhẹ nhàng nói: “Khinh công của người ấy nhất định không tồi”, nói xong lại cảm thấy những điều cô ta kể thật quá mức khó tin. Chí ít nàng cũng đã từng thấy dáng vẻ của Mộ Dung Vô Phong khi chàng đi lại. Một người cùng với đôi chân như thế, dù có luyện khinh công gì cũng khó như lên trời.

“Cho nên ta liền gọi với theo lưng chàng, nói: ‘Ngươi nói không sai, suối nước nóng này đúng là của tự nhiên. Lúc nào ngươi tới cũng được’.”

Hà Y bĩu môi cười: “Cô đổi thái độ cũng thật nhanh đấy”.

“Con người đến lúc ấy rồi há còn có thể tiếp tục ngu ngốc sao? Tự nhiên có một nam nhân tốt nhảy tới trước mặt cô như một chú thỏ hoang, nếu cô không lập tức túm lấy nó, thoáng cái là sẽ không thấy nó đâu nữa rồi.”

“Sau này người ấy có quay lại nữa không?”

“Không. Ta ở đấy đợi chàng mười ngày, đến cái bóng của chàng cũng chẳng thấy đâu. Cuối cùng, ta chỉ đành đi tìm chàng khắp núi. Ta đã đặt chân tới tất cả các suối nước nóng ở đây, cả Thiên Trì, Hỏa Long Động cũng tới rồi, nhưng vẫn không gặp chàng. Một tháng sau, một hôm, cuối cùng ta cũng gặp lại chàng trên đỉnh một ngọn núi.”

“Hắn ta ở trên đấy làm gì?”

“Ta không biết. Chàng ngồi trên một phiến đá lớn, nhìn xa xăm tới xuất thần, tâm tình tựa như đang bay tới chân trời khác. Nhưng khi ta lặng lẽ tiến lại gần, chàng lập tức phát hiện ra, quay đầu lại, chỉ vào đỉnh núi ấy nói: ‘Sao nào? Đỉnh núi này cũng là của cô nương à?’, ta bèn tới trò chuyện với chàng vài câu. Ta hỏi chàng là người nơi nào, chàng liền hát cho ta nghe một khúc ca ngắn: ‘Vô phong thủy diện lưu li hoạt, Bất giác thuyền di, Vi động liên y, Kinh khởi sa cầm lược ngạn phi[1]’, nhờ vậy mà ta biết được chàng là người Tây Hồ.”

[1] Khúc dưới bài từ Thái tang tử - Khinh chu đoản trạo Tây Hồ hảo của Âu Dương Tu (1007-1072) , đại ý:

Gió im mặt nước lung linh mượt,

Bất giác thuyền lay,

Sóng gợn miên man,

Kinh động chim bờ hoảng hốt bay.

Đỗ Tử Vi ngâm nga hát lại khúc ca ấy, âm điệu uyển chuyển êm dịu, du dương trầm bổng, nghe rất hay.

Hà Y không nhịn được hỏi: “Đây chỉ là một khúc ca ngắn, làm sao cô biết được người ấy là người Tây Hồ?”.

“Cho nên mới nói, nếu cô không đọc sách, những lúc như thế liền bó tay rồi”, Đỗ Tử Vi có chút đắc ý nói.

Hà Y hỏi: “Người ấy… người ấy tên là gì?”.

“Vô Phong.”

Trong lòng Hà Y chợt xao động, hỏi: “Vô trong hữu vô? Đây cũng là họ sao?”.

Đỗ Tử Vi hơi nhíu mày, nói: “Sao lại là ‘vô trong hữu vô’? Đương nhiên là khẩu thiên – Ngô[2] rồi”.

[2] Chữ Ngô 吴 (họ) và chữ Vô无 (trong Mộ Dung Vô Phong) trong tiếng Trung có âm đọc giống nhau nên lúc đầu Đỗ Tử Vi gọi Ngô Phong, Hà Y và Mộ Dung Vô Phong đều cho rằng cô ta gọi Vô Phong. Chữ Ngô 吴 có tự hình là bộ khẩu口nằm trên chữ thiên 天, cho nên Đỗ Tử Vi tả là “khẩu thiên – Ngô”.

Hà Y hồi hộp, tim đập thình thịch, hỏi: “Người ấy đang ở đâu? Ông ấy còn sống không?”.

Vẻ mặt Đỗ Tử Vi lại lập tức hiện ra thần sắc mơ màng, buồn bã nói: “Ban nãy ta vừa nhìn thấy chàng… chàng bị thương rồi, đang nằm trên giường, ta phải đi chăm sóc chàng”, nói xong định đi vào phòng Mộ Dung Vô Phong.

Hà Y hoảng sợ, biết thần trí cô ta lại trở nên mơ hồ, liền vội vàng ngăn lại, nói: “Người đó… người đó đã đi rồi, xuống núi rồi”.

“Chàng bị thương thành ra như vậy, còn đi đâu được đây?”, Đỗ Tử Vi nhẹ than một tiếng, khuôn mặt toát ra vẻ thương yêu: “Nhất định… nhất định là kẻ khác mang chàng đi rồi. Nói cho ta biết, là ai? Là ai đã mang chàng đi?”.

Hà Y nói: “Là Lục Tiệm Phong. Ông ta mang người ấy tới núi Côn Lôn. Người ấy bị thương rất nặng, cô phải nhanh nhanh mà đuổi theo, nếu không… nếu không…”.

Nàng còn định nói thêm hai chữ “nếu không” một lượt nữa, thân hình Đỗ Tử Vi đã chớp động, thoáng cái không thấy đâu nữa.

Nơi đây là đỉnh Thiên Sơn vốn vắng bóng người, những dấu vết của trận đấu vừa rồi loáng cái đã bị cuồng phong, tuyết đổ quét sạch.

Thoáng chốc, cứ như chưa từng có chuyện gì xảy ra, trời đất lại quay về vẻ yên tĩnh.

Gió thổi càng lúc càng lớn, tuyết lại bắt đầu rơi dày đặc.

Hà Y lội tuyết, trở vào trong nhà, chợt nghe thấy có tiếng ho khẽ vọng tới từ một góc hành lang. Mượn ánh đèn leo lét, nàng lờ mờ có thể nhìn ra một bóng trắng cuộn mình ở một góc khuất gió. Tiếng ho này, nàng đương nhiên rất quen thuộc, chỉ là không dám tin người đang bệnh tới mức không dậy nổi khỏi giường kia lại có thể lê mình bò ra đây.

Đến khi nàng đi tới, quả nhiên phát hiện Mộ Dung Vô Phong cuốn mình trong một lớp áo lông dày ngồi dựa vào tường bên cạnh cửa, rõ ràng chàng đã một mực đợi nàng ở đây.

Hà Y hoảng hốt, vội vàng chạy lại, quỳ xuống hỏi: “Chàng ngồi đây đợi thiếp à?”.

Mộ Dung Vô Phong nhìn nàng, gật đầu.

“Nơi đây quá lạnh!”, nàng kêu lên, áp đôi tay ấm áp của mình sưởi ấm cho khuôn mặt đã lạnh như băng của chàng.

“Ta mặc đủ y phục rồi, với lại, nàng đừng cười, ta bò rất lâu rồi, vừa mới bò ra đây, hiện giờ mình mẩy toàn mồ hôi đấy”, chàng tự trào phúng bản thân: “Nàng có để ý không? Vừa rồi tuyết ngừng rơi một lúc, ánh trăng lại ló dạng. Ngắm trăng trên đỉnh núi tuyết, đây không phải là điều ai cũng có cơ hội gặp qua”.

Tâm tình của chàng đúng là không giống với người khác!

Hà Y không nhịn được bật cười: “Còn không nhanh vào phòng, thời tiết lạnh thế này, không đóng băng chàng mới lạ đấy”.

Chàng nhìn nàng rất lâu mới than một tiếng: “Xin lỗi, mỗi lần xảy ra chuyện, nàng đều phải một mình lo liệu. Ta… không sao giúp được nàng”.

Nói tới đây, đôi mắt chàng cụp xuống, âm điệu có chút thương cảm.

Trong lòng Hà Y chua xót, nước mắt chực trào ra rồi lại miễn cưỡng ngăn lại, cười nói: “Chàng không tin vào võ công của thiếp? Sợ thiếp thua sao?”.

Vừa hỏi, nàng vừa đưa chàng trở lại giường.

Chàng ngả người trên giường nói: “Tới đây, để ta xem vết thương cho nàng”.

Nàng ngoan ngoãn cởi áo cho chàng xem.

“Mụ đàn bà đáng ghét đó!”, nhìn vết roi tựa như trầy da lóc thịt ấy, chàng không nhịn được buột miệng rủa.

Chàng rửa tay rồi nhẹ nhàng dán cao thuốc lên vết thương cho nàng. Tay của chàng chỉ chạm rất nhẹ lên mà Hà Y đã “ai da” kêu toáng.

“Đau lắm hả?”, chàng hoảng hốt hỏi.

“Đương nhiên đau rồi!”, nàng kêu lớn: “Thiếp bị trúng Bắc Minh Thần Công của cô ta đấy!”.

Mộ Dung Vô Phong biết nàng sợ đau, dù chỉ đau có chút thôi là cũng kêu toáng lên rồi, ở sơn thôn ngày trước cũng như thế. Chàng chỉ đành điểm các huyệt giảm đau trên người nàng.

“Cái gì mà Bắc Minh Thần Công? Cô ta lừa nàng đấy. Nàng chẳng qua chỉ bị quất cho một roi mà thôi. Đây là ngoại thương, thoa lên kim sang dược của ta sẽ mau chóng lành lặn trở lại.”

“Sao cơ?! Thật vậy sao? Cô ta dám lừa thiếp! Sao vừa rồi lưng thiếp tê dại vậy?”

“Lưng của nàng bị người ta quất cho một roi, không thấy tê chẳng lẽ lại thấy ngứa?”, chàng cười nói.

“A, Mộ Dung Vô Phong, chàng nghiêm túc chút đi! Làm sao chàng biết thiếp không trúng Bắc Minh Thần Công?”, bị chàng trêu chọc, nàng tức tối hỏi.

“Bởi vì ta là đại phu. Tuy không hiểu lắm về cách thi triển các loại võ công, nhưng việc khi chúng đánh lên người khác sẽ có thương tích như thế nào thì ta có chút nghiên cứu. Còn viết một cuốn sách chuyên nói về việc này nữa.”

“Oa, thiếp biết rồi! Cuốn sách đó gọi là Vân Mộng thương khoa tạp luận, thiếp từng nhìn thấy cuốn ấy trong thư phòng của sư phụ thiếp rồi. Lúc sư phụ thụ thương, mấy vị sư huynh của thiếp suốt ngày lấy cuốn ấy ra để nghiên cứu. Cuốn sách vừa rách vừa cũ, sớm đã bị giở tới nát bươm, xem ra đúng là rất có tác dụng”, nàng ngoảnh lại, cụng đầu vào mặt chàng, nét mặt vui cười nói.

“Hình như nàng đang nịnh ta”, chàng khẽ cười.

“Đâu có, là thiếp đang tự dương dương đắc ý. Nhãn lực của thiếp thật là tốt”, nàng vênh váo nói.

Chàng vỗ vỗ đầu nàng, nói: “Người có nhãn lực tốt, liệu có thể đi pha cho ta chén trà không?”.

Nàng đứng dậy, pha cho chàng một chén trà nóng, hai tay bưng tới, trêu đùa: “Tướng công, mời từ từ thưởng thức”.

“Cảm ơn nhé!”

Nàng thay một bộ y phục khác rồi chui vào trong chăn, nằm sát lại bên chàng, tựa đầu vào lòng chàng.

“Nàng khóa cửa chưa?”

“Rồi. Lần này cho dù là ông Trời mò tới, thiếp cũng không mở cửa đâu”, Hà Y nói.

Ánh nến nhỏ như hạt đậu. Đêm đã rất khuya. Hai người dựa sát vào nhau, vì chuyện vừa xảy ra mà không sao ngủ được.

“Vô Phong, chàng có biết tên của chàng là do ai đặt không?”, Hà Y đột nhiên hỏi.

“Không biết. Lẽ nào không phải do ông ngoại ta đặt?”

“Tình lang của nữ nhân kia tên gọi là Ngô Phong, là khẩu thiên – Ngô, cùng âm đọc với tên của chàng.”

“Trên đời này người cùng tên cùng họ rất nhiều”, chàng nhạt giọng nói.

“Nhưng mà người này… tướng mạo người này với chàng hẳn rất giống nhau, với lại cũng… cũng…”, nàng vốn định nói “cũng là người hai chân tàn phế”, nhưng cuối cùng cảm thấy câu này không thể nói ra được.

“Đấy chỉ là trùng hợp mà thôi”, chàng nhấp một ngụm trà, từ từ nói.

“Liệu có phải chàng còn một vị ca ca?”, nàng đoán mò.

“Hà Y, ngủ đi”, chàng bắt đầu bực mình.

“Nữ nhân kia xem ra cũng chỉ mới hai mươi bảy, hai mươi tám tuổi, tình lang của cô ta lớn tuổi hơn một chút, nếu là ca ca chàng, tuổi tác cũng thích hợp”, nàng không để ý tới thái độ của chàng, vẫn lẩm nhẩm phỏng đoán.

“Cái gì mà hai bảy, hai tám. Người ta đã bốn mươi hai rồi”, chàng trừng mắt nhìn nàng.

“Bốn mươi hai, chàng làm sao biết?”, Hà Y nhướng mày.

Mộ Dung Vô Phong nói: “Ta là đại phu, nhìn một cái là biết”.

Hà Y véo tay chàng, hỏi: “Vậy chàng nói xem, thiếp bao nhiêu tuổi?”.

Mộ Dung Vô Phong vội vàng nói: “Không biết”.

“Chàng lừa thiếp?”

“Không hề.”

“Nói đi, thiếp muốn xem chàng nhìn có chuẩn hay không”, Hà Y nói.

“Ta thật sự không biết”, chàng nói.

“Thế thì lạ rồi. Tại sao chàng nhìn người khác lại rõ ràng như thế, còn nhìn thiếp lại không ra?”

“Nàng là trường hợp đặc biệt.”

“Lẽ nào thiếp là quái nhân, xương cốt nhiều hơn người bình thường?”

“Quái nhân thì không phải, chỉ là ta cứ nhìn nàng là liền bị hồ đồ.”

“Chàng thật sự không chịu nói hả?”

“Không biết thì nói sao đây?”, chàng chết cũng không chịu nói.

Hà Y vừa tức vừa buồn cười, nhìn chàng bất lực, tiếp tục nói: “Nói như vậy, người đó rất có khả năng là phụ thân chàng. Ít nhất thiếp cũng biết ông ấy là người Dư Hàng. Quê của chàng, chính là ở Dư Hàng rồi”.

“Việc này nàng lại nghe từ đâu thế?”

“Nữ nhân kia nói, ông ấy thường hát một khúc dân ca, là khúc ‘Vô phong í a thủy diện a, Lưu a í lưu li hoạt… tình tang cái gì đó tình tang, tang tính cái gì đó tình tang…’”, nàng quên béng mất mấy từ phía sau, liền tùy tiện ghép bừa thêm mấy điệu dân ca mà hồi nhỏ trong lúc mãi nghệ ven đường thường hát.

“Ha ha ha…”, Mộ Dung Vô Phong nghe thấy mà cười lăn cười lộn, tí nữa thì lao đầu ngã khỏi giường.

“Chàng cười cái gì. Lúc ấy đúng là cô ta hát thế mà”, Hà Y liền giữ chặt lấy thân thể đang lăn lộn của chàng.

“Nàng còn hát được gì nữa, mau hát thêm mấy bài đi, hay chết đi được”, khó khăn lắm chàng mới nhịn được cười.

“Đúng là hay hả?”

“Đúng vậy.”

“Vậy thiếp hát cho chàng nghe bài sở trường nhé”, nàng hắng giọng, yểu điệu hát lên:

Túc tích bất sơ đầu

Ty phát bị lưỡng kiên,

Uyển thân lang tất thượng,

Hà xứ bất khả liên.

Triêu đăng lương đài thượng,

Tịch túc lan trì lý,

Thừa nguyệt thái phù dung,

Dạ dạ đắc liên tử.

Uyển băng hậu tam xích,

Tố tuyết phúc thiên lý.

Ngã tâm như tùng bách,

Quân tình phục hà tự.

Đô sáp vô nhân hành,

Mạo hàn vãng tương mịch.

Nhược bất tín nùng thời,

Đãn khan tuyết thượng tích.

Thán lư khước dạ hàn,

Trùng bão tọa điệp nhục.

Dữ lang đôi hoa tháp,

Huyền ca bỉnh lan chúc.

(Đêm xưa chẳng chải đầu,

Tóc buông xõa hai vai.

Dịu dàng gối chân chàng,

Chỗ nào không đáng yêu?

Sớm lên hiên mát ngồi,

Tối về ao lan nghỉ,

Cưỡi trăng hái phù dung,

Tối tối hoa sen nở.

Vực băng dày ba thước,

Tuyết phủ trắng bao la,

Lòng thiếp như tùng bách,

Tình chàng thì thế nào?

Đường trơn chẳng ai bước,

Chẳng quản lạnh tìm nhau.

Nếu không tin lời thiếp,

Trên tuyết dấu còn in.

Lò than trong đêm lạnh,

Ngồi cuộn mình trong chăn.

Giường hoa chàng với thiếp,

Đàn ca dưới nến lan.)

Khúc ca này có mấy chục câu, toàn là lúc nhỏ nàng theo sư phụ mãi nghệ ven đường mà học được. Nàng hát bằng giọng đất Ngô, uyển chuyển mỹ lệ, lại đúng chữ chuẩn nhịp. Chỉ là khi nàng hát bài này, trong sự u oán vốn có lại thêm vào mấy phần nhu mì, vui vẻ. Mộ Dung Vô Phong nghe tới mức trợn mắt há miệng, hồi lâu mới than: “Bài Tử Dạ tứ thời ca[3] này ta mới chỉ đọc qua trong sách. Phối với khúc điệu dễ nghe thế này, hát lên ý vị thật khác hẳn”.

[3] Tử Dạ ca là ca khúc trong Nhạc phủ thời Lục Triều, thuộc phần Ngô ca (ca khúc đất Ngô), tương truyền do một người con gái tên gọi là Tử Dạ tạo ra.

Hà Y nói: “Sư phụ thiếp bảo, đây là Ngô ca. Thiếp vẫn tưởng đây là khúc ca thôn dã, không ngờ trong sách cũng có ghi. Đúng rồi, cái câu‘Vô phong thủy diện’ rốt cuộc là điển cố nào?”.

“Câu đó nằm trong một khúc từ ngắn, gọi làThái tang tử. Tổng cộng có mười câu, toàn tả cảnh sắc Tây Hồ”, Mộ Dung Vô Phong nói.

“Cho nên, ông ấy là người Dư hàng phải không?”, Hà Y đoán hỏi.

“Không phải. Đấy không phải là Tây Hồ ở Dư Hàng, mà là Tây Hồ ở Dĩnh Châu. Phong cảnh cũng rất đẹp.”

“Chàng từng tới rồi?”

“Chưa đâu. Chỉ là có thể từ mười câu từ ấy tưởng tượng ra được.”

“Nói như vậy, cuối cùng cũng coi như chàng đã biết được quê gốc của mình ở đâu. Hì hì, vẫn còn hơn thiếp”, nàng tự chạnh lòng về thân thế của mình, không kìm được mà than.

“Quê gốc cái gì? Hai người đó vốn không có liên quan gì với ta. Tất cả những việc ấy chẳng qua chỉ là trùng hợp thôi”, chàng lãnh đạm nói.

“Nhưng mà…”

“Hà Y, ta mệt rồi”, chàng quay đầu sang hướng khác, rúc vào trong chăn, không màng tới nàng nữa.

“Giận rồi à? Thiếp chỉ đoán thôi mà”, nàng vươn tay ôm lấy eo chàng, thì thầm bên tai chàng: “Chàng không thích thì thiếp sẽ không nói nữa”.

Chàng không nói gì.

“Ngày mai chúng ta xuống núi nhé, được không?”, thấy chàng hồi lâu không trả lời, Hà Y không nhịn được lại lay lay chàng.

Chàng vẫn nằm nghiêng một bên, không nói năng gì.

“Vô Phong?”

Nàng liền cầm lấy tay chàng bắt mạch, chàng đã không nói năng nổi nữa, bắt đầu gắng sức hít thở, hai tay níu chặt tấm khăn trải giường.

Hà Y vội đổ thuốc ra bát đưa vào miệng chàng, rồi nhẹ nhàng vuốt ngực cho chàng. Sau một nén hương, hô hấp của chàng cuối cùng đã bình thường trở lại, chàng cũng mê man dần dần chìm vào giấc ngủ.

Hà Y thì bị dọa cho sợ toát hết mồ hôi.

Đêm ấy, nàng lo ngay ngáy mà túc trực bên chàng, chỉ sợ bệnh tim của chàng lại tái phát, một tay bắt mạch cho chàng, cứ cách nửa canh giờ lại tới nghe tiếng tim chàng đập, không dám chợp mắt chút nào.

Chương 29

Cáp Hùng khách điếm. Giờ Tuất.

Bà chủ A Cát đang ngồi sau quầy hàng, vừa uống trà sữa nóng, vừa gẩy bàn tính.

Cứ vào mùa đông tuyết rơi nhiều, doanh thu của khách điếm rất hạn chế, nhưng hôm nay trời lại nắng to, thoáng cái đã có không ít người vào khách điếm. A Cát vừa sai người giúp việc đi đun thêm cho đủ nước nóng, cỏ cho ngựa cũng phải chuẩn bị đầy đủ. Những sư phó trong bếp đang xào xào nấu nấu, khách sảnh thơm nức mùi thịt dê nướng.

A Cát là một phụ nữ hai mươi lăm tuổi, mặc áo dài không cổ, bên ngoài khoác thêm áo khoác da mèo rừng. Tuy không phải là trang quốc sắc thiên hương nhưng trong chu vi mấy chục dặm, cô ta cũng là nhân vật nổi tiếng. Rõ ràng là “khắc thỉ[1]” của một gia đình nghèo kiết nhưng nhờ vào khuôn mặt sáng sủa mà được gả vào nhà A Nhĩ Man có khách điếm lớn nhất trong trấn nhỏ này, từ đó không phải lo việc cơm áo nữa, từ một đứa con gái gia đình nông dân biến thành bà chủ lớn của một vùng.

[1] Tiếng Hán chính là “khuê nữ”.

Áo quần của nàng đều dùng chỉ vàng thêu hoa, trên tay cũng phải đeo năm sáu cái nhẫn, hồng ngọc trên đó là mua từ đội lạc đà của thương nhân Ba Tư, A Cát miệng lưỡi nhanh nhẹn, lại thêm lúc mặc cả đôi mắt cứ lúng liếng đánh qua đánh lại, thiếu điều câu mất hồn phách của mấy thương nhân Ba Tư đó. Cuối cùng, sau khi làm xong giao kèo, đến cả tay Ba Tư không biết làm ăn nhất cũng cảm thấy giá đó rẻ tới không tưởng tượng nổi.

Nàng quả thực rất thích miếng hồng ngọc có màu hoa hồng đó, kể cả lúc đang gẩy bàn tính, thỉnh thoảng vẫn đưa mắt liếc ngón giữa thon dài của mình, một chút sắc màu hồng nhạt trên chiếc nhẫn đó cũng đủ để khiến nàng cảm thấy thoải mái. Nàng đã qua thời thiếu nữ, đã sinh cho A Nhĩ Man hai đứa con trai, nhưng thân hình nàng càng nhìn càng thấy vẫn thon thả yểu điệu như một thiếu nữ. Đây chính là điều nàng tự hào nhất về bản thân. Cho nên mỗi lần nàng ngồi quầy, lơ đãng nhìn khách khứa trong khách sảnh thì đều có thể bắt gặp cái nhìn của mấy nam nhân to gan lớn mật. Sau đó nàng bèn tới mời rượu, nói vài câu, thế là mấy nam nhân vốn chỉ dự định ở lại đây một ngày ấy liền đổi ý ở thêm mấy ngày nữa.

Đương nhiên, tất cả chỉ vì bạc mà thôi. Con gái nhà nghèo, từ nhỏ đã biết không có bạc là chuyện đáng sợ đến mức nào.

Tuy hôm nay là ngày nắng ráo hiếm hoi, nàng vẫn biết tuyết ngoài cửa rất dày, thời tiết lại lạnh giá khác thường, so với lúc tuyết rơi còn lạnh hơn vài phần. Trong khách sảnh, lửa trong lò sưởi cháy bừng bừng mà vẫn không sao xua được cái lạnh thấu xương. Nàng không muốn cho thêm than củi vào, mùa đông than củi rất đắt, trong vòng mấy chục dặm quanh đây cũng chi có khách điếm này của nàng là có đủ than củi để đốt lò sưởi không ngừng suốt cả mùa đông. Phần lớn những nơi khác là đốt phân dê, phân lạc đà, khói đã nhiều mà lại còn có mùi lạ.

Nàng tính toán xong sổ sách liền ngẩng đầu lên, thấy trước quầy đã có một cô gái nhỏ nhắn đứng đấy từ lúc nào. Cô gái này nhìn bề ngoài thì hoàn toàn giống một thiếu nữ, nhưng tóc lại để búi cao, bên trên còn cài một chiếc trâm màu ngọc bích, đây rõ ràng là phục trang của một cô gái đã có chồng. Có vẻ như cô gái vừa từ xa tới, trên lưng còn đeo một bọc đồ lớn rất không tương xứng với thân hình nhỏ nhắn. Cô gái đang đứng nhìn A Cát, trên mặt đã ướt đẫm mồ hôi.

Cô gái không có dung nhan tuyệt thế nhưng vẫn đủ khiến người khác nhìn vào liền cảm thấy rất dễ chịu, rất ưa nhìn. Đôi mắt cực kỳ sinh động, lúc cười thì long lanh như nước hồ thu, rất động lòng người.

Đầu tiên A Cát nói bô lô ba la một tràng, nhưng thấy cô gái kia không có phản ứng gì bèn vội vàng đổi sang dùng thứ tiếng Hán cứng ngắc của mình chào hỏi.

“Quý khách muốn dùng cơm? Hay là muốn thuê phòng? Chỗ chúng tôi đây rượu ngon, thức ăn ngon, bao nước nóng, bao ăn cho ngựa, có phòng hạng sang, người phục vụ cũng nhiều.”

Cô gái cười nói: “Chúng tôi muốn ăn đã, rồi sẽ nghỉ ngơi. Xin hỏi, liệu có thể cho tôi mượn ghế của cô một lát không?”.

A Cát vừa nghe thấy nàng nói “chúng tôi” liền biết ngay khách hàng không chỉ có một người, càng vui vẻ nói: “Đương nhiên, đương nhiên!”.

Cái ghế nàng ngồi là một cái ghế mềm có tay vịn, lại có một lớp đệm lông sói cực dày, tấm đệm lưng là đồ thêu tay, cực kỳ tinh xảo. A Cát phải ngồi cả ngày sau quầy, ghế của nàng đương nhiên thoải mái hơn nhiều so với những chiếc ghế gỗ cứng ngắc trong khách sảnh. Nhìn mặt cô gái còn đầy bụi đường, A Cát liền giúp nàng đưa chiếc ghế tới bên một chiếc bàn gần lối lên cầu thang. Nơi đó khá xa cửa, là nơi yên tĩnh nhất trong khách sảnh.

Cô gái nói lời cảm ơn rồi mở bọc đồ, đầu tiên lấy một tấm đệm da thú trải lên nền đất, rồi lại lấy một tấm khác trải lên nền ghế. Tấm đệm này là da báo thượng hạng. A Cát đương nhiên có biết về hàng da thuộc, nhận ra được tấm da đó cực kỳ quý giá. Làm xong những việc ấy, cô gái còn đặt một cái gối ngay ngắn vuông vắn lên chiếc đệm trải trên đất rồi quay đầu lại nhìn A Cát đang kinh ngạc, cười một cái nhưng không nói gì.

A Cát đương nhiên hiểu, cái ghế này nhất định là để cho một người rất kỹ tính ngồi, trong lòng không khỏi thêm mừng rỡ. Trong mắt nàng, người kỹ tính thì với cái gì cũng kỹ tính, cho nên người kỹ tính chính là những người tiêu nhiều tiền nhất.

Xong việc cô gái liền ra ngoài cửa, ôm một người cao gầy, toàn thân bọc trong một lớp áo màu xám vào phòng. A Cát nhìn ra, bên trong lớp áo xám kia có lót một lớp áo lông chồn đáng giá ngàn vàng.

Sở dĩ loại áo lông chồn này quý giá là bởi nó vừa nhẹ vừa mềm, lại giữ ấm cực tốt. Mặc một cái áo lông chồn như thế trong thời tiết lạnh giá thế này thì chẳng cần phải khác thêm áo sống gì khác nữa.

Người kia mặt mũi xanh xao, nhưng hai gò má lại hơi đỏ, mái tóc để xõa, không những cả người yếu ớt không có sức lực mà còn không ngừng ho khan.

A Cát vốn cho rằng người cô gái kia đang ôm là một cô gái khác nhưng nhìn kỹ mới thấy người đó rõ ràng là một nam nhân. Sau đó nàng nghe thấy cô gái kia nhỏ nhẹ nói với người đang dựa trong lòng mình: “Chàng có thể ngồi một lúc không? Chúng ta ở lại đây kiếm chút gì bỏ vào bụng mới được”.

Người kia gật đầu.

Thế là cô gái đặt người này lên ghế. Nam nhân đó vịn chặt vào hai bên tay vịn, tựa như muốn giảm gánh nặng cơ thể mình cho cô gái, rồi mới từ từ hạ người xuống ghế, bộ dạng rất chật vật, lại tựa như động tới vết thương, đôi môi lập tức trở nên tái nhợt.

Cô gái kia không đành lòng, tiện tay đưa tấm đệm mềm mình mang theo kê vào lưng cho nam nhân.

“Như thế này có dễ chịu hơn không?”, nàng nhẹ nhàng hỏi.

Nam nhân kia nhẹ giọng nói: “Không sao đâu”, nói xong liền tựa mình xuống lưng ghế.

A Cát phát hiện phần thân dưới ẩn trong chiếc quần xám của nam nhân gần như trống không, thương thế rất nặng, kể từ lúc nam nhân đó ngồi xuống, tay phải luôn gắng sức tựa lên tay ghế, dường như muốn nhờ thế để giảm áp lực của trọng lượng cơ thể lên vết thương.

Nhưng phải nói, nam nhân này không nghi ngờ gì nữa, chính là hán nhân anh tuấn nhất mà nàng từng gặp.

Tuy thân thể yếu ớt nhường ấy nhưng thái độ bên ngoài vẫn cực kỳ điềm đạm. Lúc nhìn người khác, đôi mắt chàng lạnh lẽo, nghiễm nhiên tự có một loại ngạo khí lầm lẫm. Người này rõ ràng đến ngồi cũng khó khăn, nhưng khi ngồi lưng vẫn thẳng tắp. Chàng ngắm nhìn cô gái đem một tấm chăn lông đắp lên chân chàng, bao lấy thân dưới chàng, rồi lại lấy một tấm khăn trắng trải lên bàn. Cô gái ấy tất bật trước sau, nhưng nam nhân thì không sao nhúc nhích nổi, chỉ đành dùng ánh mắt dịu dàng ấm áp nhìn nàng.

“Ta không sao, nàng đừng lo lắng nữa”, cuối cùng chàng cất giọng dịu dàng nói.

Giọng chàng trầm thấp, rất ôn tồn dễ nghe.

Cô gái cười, ngừng tay, ngồi xuống bên chàng. Vừa đặt mông xuống đã lại đứng bật dậy, nói với A Cát: “Bà chủ, liệu có thể đem thêm một chậu sưởi tới không, chỗ này lạnh quá,… chàng… chàng đang bệnh, chỉ sợ… chỉ sợ không chịu nổi”.

A Cát nói: “Tôi sẽ bảo tiểu nhị đem tới. Hai vị muốn ăn gì?”.

Cô gái cười ngọt ngào nói: “Chúng tôi là người ngoài tới, chưa từng nếm qua đồ ăn nơi này. Thật ra… thật ra đúng là không biết nên gọi món gì”.

“Có Khách Ngõa Phù, Nghệ Khắc Man, Thác Khách Tây, Cát Cách Đức, Ba Lao, Mạt Nhĩ Mộc Đinh, Nạp Nhân, Bì Đặc Nhĩ Man Đạt, Sa Mộc Bồ, Mễ Trường Tử, Diện Phế Tử, Du Đáp Tử, La Điều Tử. Còn có trà sữa, trà đun, rượu Cao Xương…”, đầu lưỡi A Cát cứ như có thoa dầu, vừa mở miệng là tuôn ra một tràng tên món ăn, hai người kia ngồi bên bàn trố mắt nhìn nhau.

Đôi mắt tròn to của cô gái khẽ chuyển động: “Món ăn nổi tiếng nhất ở đây là món nào?”.

“Mã lạp trường[2].”

[2] Lạp xưởng

“Cái gì trường?”

“Lấy ruột của ngựa, lừa ba, bốn tuổi, nhồi đầy thịt và gia vị, tưới nước ngũ vị vào, cứ ba thước một khúc, nướng lên. Mùi vị cực kỳ ngon.”

Cô gái cười: “Vậy thì cho một đĩa lạp xưởng đó đi. Món Khách Ngõa Phù này là thứ gì?”.

“Thịt dê xiên nướng.”

“Cho một đĩa.”

“Ba Lao?”

“Thịt dê trộn cơm.”

“Mễ Trường Tử, Diện Phế Tử?”

“Các món làm từ phổi dê, dạ dày dê.”

“Nạp Nhân.”

“Mì thịt dê.”

“Vậy cho thêm một bát Nạp Nhân đi!”, tuy không biết các món ăn đó mùi vị, hình dáng trông thế nào nhưng cô gái vẫn dứt khoát gọi ba món đó.

“Vị công tử này muốn gọi gì?”, A Cát lại hỏi.

“Xin lỗi, tôi không ăn thịt dê”, nam nhân kia lãnh đạm nói.

“Lạp xường ngựa thì sao?”

“Tôi cũng không ăn thịt ngựa.”

A Cát tuyệt vọng nhìn chàng.

“Không có món nào không dùng hai loại thịt ấy sao?”, cô gái nhẹ giọng hỏi.

“Trà.”

“Chàng không thể chỉ uống trà không”, cô gái than một tiếng, quay về phía A Cát hỏi: “Xin hỏi, thông thường trong mì thịt dê còn cho thêm gì nữa?”.

“Trứng gà, rau, hạt tiêu, tỏi, giấm, nước thịt, mỡ dê, tương ớt.”

Cô gái lập tức nói: “Liệu có thể làm cho chàng một bát mì trứng với nước dùng thôi không? Chỉ cho thêm rau và giấm, những thứ khác không cần”.

“Tương ớt cũng không cho?”

“Không cho. Xin lỗi, chàng quả thật không ăn được rất nhiều thứ, làm phiền cô rồi. Cô cứ tính tiền như một bát Nạp Nhân bình thường là được.”

Cô gái áy náy xin lỗi.

“Không sao cả. Vị này có thể ăn chút hoa quả tươi chăng? Chỗ chúng tôi có táo, nho, dưa vàng. Có muốn gọi một đĩa không?”

Nam nhân đó vừa nghe đã gật đầu, nói: “Vậy chỉ cần hoa quả tươi là được rồi, mì trứng xin miễn đi”.

Cô gái vừa nghe thế vội nói: “Đây chỉ là hoa quả mà thôi, ăn vào làm sao no bụng được”.

Nam nhân nói: “Ta không thích ăn mì”, lại nghĩ gì đó rồi bổ sung thêm một câu: “Ta ghét ăn mì”.

Cô gái thở dài thườn thượt nói: “Người phương nam đúng là cứng đầu cứng cổ khó dạy dỗ!”.

A Cát chớp chớp mắt, nói: “Chỗ chúng tôi còn có cá nướng. Nếu quý khách không quen ăn đồ bột, chúng tôi có thể làm vài món xào. Có điều cá rất đắt đắt, thông thường rất ít người gọi”.

Nam nhân nói: “Tôi không ăn đồ xào”.

A Cát cười khổ, gật đầu. Nàng cảm thấy thú vị, quả thật chưa từng gặp ai ăn uống kén chọn như người này.

Cô gái có chút xấu hổ nhìn A Cát, nói: “Vậy cho một bát cơm nóng, một đĩa cá nướng nhỏ, một đĩa hoa quả, một ấm trà là được rồi. Chàng ăn rất ít”.

“Trà ở đây bên trong có lá trà, đường phèn, nho khô, hạt đào, táo đỏ, long nhãn, những thứ ấy quý khách có ăn được không?”

“Tôi không ăn hạt đào”, nam nhân lãnh đạm nói.

“Vậy thì bỏ hạt đào”, A Cát nói: “Gọi từng này, đúng không?”.

“Tạm thời cứ thế này đã.”

“Tổng cộng hai lượng bạc.”

“Xin hỏi ở đây có dùng ngân phiếu không?”

“Đây là nơi các thương đoàn hay qua lại, hầu hết các loại ngân phiếu đều dùng được. Nếu như là ngân phiếu của bốn đại tiền trang Đại Thông, Bách Hối, Long Nguyên, Bảo Phong thì càng không có vấn đề gì.”

Cô gái rút ra một đĩnh nguyên bảo nói: “Đây là năm lượng bạc”, nàng còn đang định nói “Cô trả lại tôi hai lượng là được rồi” thì nam nhân bên cạnh đã lãnh đạm lên tiếng: “Không cần trả lại. Tôi muốn dùng bát đĩa mình đem tới có vấn đề gì không?”.

“Ngài dùng gì cũng được”, A Cát cầm tiền trong tay, nhận lấy một cái chén cô gái kia đưa cho, mặt mày hớn hở rời đi.

A Cát vừa đi, Hà Y liền nói: “Này, lão huynh, chàng có hào phóng quá không đấy? Bữa cơm này chẳng qua chỉ có hai lượng bạc mà thôi, chàng lại đi tặng không người ta ba lượng”.

Mộ Dung Vô Phong nói: “Không phải nàng nói chúng ta thừa đủ tiền sao?”.

“Kể cả vậy thì cũng không cần vung tay như thế chứ? Có bao nhiêu tiền cũng sẽ bị chàng ném hết đi mất thôi.”

“Hà Y, chúng ta không cần bận tâm tới tiền.”

“Nói thì nói thế, nhưng cũng phải tiết kiệm.”

“Thế là ta đã rất tiết kiệm rồi đấy. Ra khỏi cửa, tiền có thể giúp giảm đi không ít phiền phức. Nàng càng cho cô ta nhiều tiền, đợi chút nữa, cô ta sẽ chăm sóc chúng ta đặc biệt chu đáo”, chàng từ tốn nói.

“Trước lúc thiếp đi, Triệu tổng quản có đưa cho thiếp một tập ngân phiếu, bây giờ thiếp vẫn chưa nghĩ ra đó là ngân phiếu của nhà nào.”

“Không cần nghĩ nữa, không phải ‘Đại Thông’ thì là ‘Long Nguyên’ thôi.”

Hà Y cười hì hì nói: “Chàng không phải con sâu trong túi thiếp, làm sao biết rõ như thế?”.

Mộ Dung Vô Phong nói: “Hai tiền trang ấy đều là sản nghiệp của Vân Mộng cốc, chỉ là người ngoài không ai biết mà thôi”.

Hà Y không nhịn được, nhỏ giọng nói: “Thảo nào người của Đường môn muốn bắt cóc chàng, thì ra chàng có nhiều tiền đến thế”.

Mộ Dung Vô Phong nói: “Có tiền thì làm được gì?”.

Hà Y than dài một tiếng, nghĩ tới những ngày tháng ấu thơ phải bôn ba tứ xứ của bản thân: “Có tiền vẫn luôn tốt hơn là không có tiền”.

Quả nhiên, một tiểu nhị lập tức đem chậu sưởi tới, đặt bên cạnh Mộ Dung Vô Phong, lại còn đưa tới thêm một lò hơ tay nhỏ. Không lâu sau, tất cả đồ ăn đều được dọn lên. “Khách Ngõa Phù” vừa được nướng xong, hãy còn nghi ngút mùi dầu, khẩu vị của Hà Y vốn mạnh, vừa thấy những xiên thịt dê nướng vừa thơm vừa cay thì khoái trá ăn tưng bừng, chớp mắt đã ăn sạch bách. Lạp xường ngựa cũng là món vừa chua vừa cay, vừa nướng từ trong lò ra, giòn tan, ăn đầy một miệng, lại chiêu thêm một ngụm canh Nạp Nhân, mùi vị thật ngon khôn tả. Nàng vừa nhồm nhoàm ăn, vừa tán thưởng: “Vô Phong, chúng ta ở lại đây đi! Đồ ăn ở đây thật ngon, thiếp không muốn đi nữa! Mùi vị của cá nướng thế nào?”.

“Tạm được.”

Hà Y gắp một miếng nếm thử rồi thốt lên: “Ngon thế này mà chàng chỉ bảo là tạm được!”.

“Nàng nói ngon, vậy thì ăn hộ ta một ít. Ta quả thật không đói chút nào”, chàng thấy nàng ăn tới mức bên mép dính đầy tương ớt, liền khẽ cười.

Nàng ngẩng đầu nói: “Chàng vẫn ăn ít như thế sao? Thiếp thật không hiểu, rốt cuộc chàng ăn gì mà lớn được từng này?”.

“Mỗi bữa ta thường ăn rất ít, nhưng một ngày ta ăn rất nhiều bữa.”

“Nhưng… nhưng… thiếp không biết việc này! Mấy ngày nay, thiếp… thiếp chỉ nấu cho chàng ngày ba bữa. Có phải chàng ăn không quen không?”, Hà Y áy náy nói.

“Không sao cả, lấy gà thì theo gà mà”, chàng cười.

Hà Y đỏ mặt, cúi thấp đầu, khẽ hỏi: “Sao chàng cứ… cứ chỉ nghĩ cho thiếp thôi?”.

Chàng không đáp, nói: “Ăn cơm đi, nói nhiều thế làm gì?”.

Một lúc sau, Hà Y cắn môi, nói: “Thiếp uống chút rượu, có được không?”.

“Được chứ. Nàng muốn uống gì cũng được.”

“Vô Phong, sao thiếp ở với chàng lại cảm thấy thoải mái thế nhỉ?”

“Không thoải mái, nàng ở với ta làm gì? Hả?”

“Vô Phong, nhích tai qua đây, thiếp cũng có một câu muốn nói.”

Chàng nghiêng đầu qua.

“Thiếp thật sự rất vui vì được gả cho chàng”, nàng cười hi hi, dương dương tự đắc.

Mộ Dung Vô Phong cũng khẽ cười, không nói gì.

Rượu được bưng lên, đây là rượu Cao Xương đặc sản vùng này.

“Chàng có biết tửu lượng của thiếp rất cao không?”, Hà Y nâng chén, nói với Mộ Dung Vô Phong.

“Không biết. Ta đang muốn xem rốt cuộc tửu lượng của nàng đến đâu”, chàng cố ý nói.

Hà Y ngẩng đầu, một hơi uống cạn, rồi đưa chén không ra cho chàng nhìn.

“Mùi vị thế nào?”, chàng hỏi.

“Không mạnh lắm, hình như là rượu gạo”, để thể hiện tửu lượng của mình, Hà Y lại tự rót một chén.

“Không phải chứ. Trong sách nói, loại rượu này dư vị rất mạnh đấy. Có lẽ nàng chỉ uống được đến chén thứ ba là say rồi”, chàng lại cố ý khích.

“Thông thường mà nói, thiếp uống năm chén mới bắt đầu say”, nàng lập tức uống thêm chén nữa.

“Bắt đầu hoa mắt chưa?”, chàng nhìn nàng.

“Sao thế được chứ!!!”, nàng cười khanh khách nói, dứt lời, đầu đảo sang một bên gục xuống bàn luôn, đã say như chết rồi.

“Ta quên nói cho nàng, biệt danh của loại rượu này là ‘Tam bôi đảo[3]’”, Mộ Dung Vô Phong xoa xoa đầu nàng, khẽ nói.

[3] Uống ba chén thì gục.

Chàng cố ý để nàng uống say. Bởi vì chàng biết, Hà Y chí ít đã năm ngày liền không được ngủ ngon. Thân thể chàng rất không biết điều, ban đêm thường phát bệnh. Càng như thế, Hà Y càng không dám ngủ, thường phải thức trọn đêm chăm sóc chàng. Cho nên bây giờ nàng nhất định phải nghỉ ngơi tốt một chút, chỉ có cách này mới có thể khiến nàng ngủ một giấc yên ổn.

Chàng vẫy tay gọi, A Cát lập tức tất tả chạy lại.

“Làm phiền rồi, xin hỏi chỗ các vị có còn phòng trống không?”

“Còn, còn, phòng hạng sang đều ở trên lầu.”

“Liệu có thể làm phiền cô đưa cô ấy lên lầu nghỉ ngơi một chút không? Cô ấy vất vả cả một ngày rồi, lại còn say nữa.”

“Được, được, phòng chữ Thiên số một được không?”

“Lấy phòng ấy đi. Phiền cô đưa cô ấy lên giường, đắp chăn cho cô ấy.”

“Không thành vấn đề, quý khách muốn ở mấy ngày?”

“Một ngày là đủ rồi, cũng có thể hơn, cô ấy rất thích đồ ăn ở chỗ cô.”

A Cát nghe thế vui lắm, nói: “Phòng hạng sang ba lượng một ngày, giảm giá cho hai vị, hai lượng năm tiền một ngày là được rồi.”

Mộ Dung Vô Phong cười rất lịch lãm, có chút xấu hổ nói: “Tôi lấy tiền cho cô đây”.

Chàng đưa tay định lấy bao tiền trên eo Hà Y, vừa vươn tay ra chợt lại sợ A Cát hiểu lầm, vội vàng giải thích: “Cô ấy là thê tử của tôi, tiền ở trên người cô ấy”.

“Xin cứ tự nhiên, xin cứ tự nhiên”, A Cát nhủ thầm trong đầu: “Hai người không phải phu thê mới là lạ ấy. Bộ dạng thân mật như thế cơ mà.”

Chàng lấy một đĩnh bạc, đưa cho A Cát, nói: “Nếu còn thừa, thì cứ coi như chút tâm ý của tại hạ. Làm phiền cô rồi”.

Đĩnh bạc ấy có khi phải tới mười lượng bạc, A Cát vừa nhìn thấy, mắt như muốn nở hoa, vội vàng gật đầu lia lịa. Sau đó dìu Hà Y lên lầu, giúp nàng cởi đồ, đắp chăn, hạ rèm ngủ rồi khóa cửa phòng, đưa chìa khóa cho Mộ Dung Vô Phong.

Mộ Dung Vô Phong đón lấy chìa khóa, không yên tâm hỏi thêm một câu: “Cô ấy có bị nôn không?”.

“Không, chỉ ngủ rất ngon lành thôi. Yên tâm đi”, A Cát nói: “Còn việc gì cần tôi làm không?”.

“Làm phiền cô tới chuồng ngựa lấy đôi nạng trên xe ngựa của chúng tôi tới đây.”

A Cát vội vàng chạy đi lấy nạng.

Chàng nhận lấy, đặt cạnh mình, nhạt giọng nói: “Đúng là cái này rồi. Đa tạ”.

A Cát vừa định rời đi, nhưng rồi lại không nhịn được quay lại dặn một câu: “Thân thể của quý khách cử động không được tiện, nếu cần giúp gì, xin cứ thoải mái gọi”.

“Tạm thời thì chưa. Cứ để tôi ngồi đây là được”, chàng lãnh đạm nói.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: