chương 30 - end
Chương 30
Chàng ngồi đó trọn hai canh giờ.
A Cát nhìn người thanh niên tàn phế đó, rất khâm phục. Rõ ràng chàng còn rất trẻ vậy mà đã rất có định lực, nghiễm nhiên có thể ngồi bất động trên chiếc ghế đó mấy canh giờ.
Khách trong sảnh đã tản đi gần hết, các tiểu nhị đang lau dọn bàn, quét tước nhà cửa, sắp lại bàn ghế.
Đã tới giờ đóng cửa.
Vốn A Cát sẽ dập tắt lò sưởi trong phòng khách để tiết kiệm than củi nhưng nàng không làm thế. Nam nhân kia cứ chốc chốc lại ho khan, thân thể dường như rất yếu đuối, nhìn bộ dạng đó thì căn bản không chịu nổi lạnh.
A Cát vẫn luôn từ xa quan sát chàng. Tay phải của chàng vẫn luôn gắng sức vịn vào tay ghế, có thể nhìn ra chàng ngồi cũng không thoải mái chút nào.
Nàng lặng lẽ ở lại cùng chàng, qua giờ Tí, lại tới giờ Sửu, trong khách sảnh giờ chỉ còn lại mình chàng. Lúc này đến A Cát cũng đã ngáp ngắn ngáp dài rồi.
Nàng bưng cho Mộ Dung Vô Phong một ấm trà, nói: “Khuya lắm rồi, quý khách vẫn chưa đi nghỉ sao?”.
Chàng lắc đầu nói: “Tôi không mệt chút nào”.
“Tôi gọi người đưa ngài lên lầu nhé?”, nàng lại ướm hỏi.
“Tôi không muốn lên lầu”.
“Chẳng lẽ quý khách định ngồi đây thâu đêm?”, nàng kinh ngạc hỏi.
“Thê tử của tôi đã ngủ rồi, tôi không muốn đánh thức nàng”, chàng nhẹ giọng đáp.
“Trong này rất lạnh!”
“Bên cạnh tôi có chậu sưởi đây rồi”.
“Nhưng…”, cuối cùng nàng cũng từ bỏ ý định thuyết phục, đưa cho chàng một cái chuông dặn: “Có việc gì thì chỉ cần lắc chuông gọi tôi. Tôi đi ngủ đây”.
“Thật là hổ thẹn, làm phiền cô rồi. Tôi sẽ không sao đâu”, chàng đưa trả cái chuông cho A Cát.
A Cát vừa định rời khách sảnh về phòng ngủ ở phía sau thì chợt ngoài cửa chính vang lên tiếng gõ cửa.
Khách mới đến là một nam nhân mặc đồ đen, tuổi chừng ba mươi đổ lại, thân hình cao gầy, nhanh nhẹn, đôi mắt lúc nào cũng nheo nheo. Bên ngoài tuyết lớn, người này chỉ khoác một tấm áo bào mỏng màu đen, đeo trên tấm thắt lưng da màu đen rộng bản là một thanh kiếm lưỡi hẹp vỏ cũng màu đen.
Người này nhẹ nhàng tiến vào sảnh, nhìn khắp một lượt rồi liền chú ý tới Mộ Dung Vô Phong đang ngồi một góc phía xa uống trà.
“Quý khách là muốn ở trọ? Hay muốn ăn gì chăng?”, A Cát hỏi.
Nơi này dù là nửa đêm thì vẫn thường có thương đoàn đi qua, nửa đêm có khách tuyệt đối không phải việc gì hiếm thấy. A Cát sẽ chẳng bỏ qua bất cứ người khách nào.
Người áo đen nói: “Tôi muốn ăn, nhân tiện ở đây đợi một người”.
“Mời, mời vào”.
Người áo đen bước hẳn vào trong sảnh, phát hiện trên tất cả các bàn đều có một chiếc ghế dài chồng lên. Đây rõ ràng là các tiểu nhị chồng lên để tiện quét dọn, rồi cứ để thế cho tới khi trời sáng sẽ lại do tiểu nhị trực ban phụ trách kê lại tử tế.
Người này liền bước thẳng tới bàn của Mộ Dung Vô Phong, đang định ngồi xuống.
Mộ Dung Vô Phong lập tức nói: “Nơi đây vẫn còn rất nhiều bàn, hà cớ gì các hạ nhất định phải ngồi cùng bàn với tôi?”.
Chàng vốn rất ghét giao tiếp với người lạ, lại càng không thích nói chuyện với người không quen biết.
“Điều tốt của việc được ngồi cùng bàn với tôi, huynh sẽ nhanh chóng biết thôi”.
Người áo đen cứ mặc nhiên ngồi xuống, không những thế mà còn ngang nhiên ngồi đối diện với Mộ Dung Vô Phong, hai mắt nheo lại nhìn chàng một lượt.
Ánh mắt người này sắc tựa đao, bộ dạng lúc trừng mắt lên quả thật có chút đáng sợ.
A Cát làm sao dám chuốc lấy phiền phức? Vội vàng hỏi: “Quý khách muốn dùng gì?”.
“Hai bát Nạp Nhân, ba đĩa Khách Ngõa Phù, còn Sa Mộc Bồ không?”
“Còn.”
“Cho một cân. Lấy thêm nửa cân Cao Xương nữa”, nhìn người này thì rõ ràng là người Hán chính cống, nhưng tựa như lại rất quen thuộc với ẩm thực nơi đây.
“Tổng cộng là hai lượng ba cắc bạc”, A Cát nói.
Người áo đen tung cho A Cát một đĩnh bạc nhỏ.
A Cát quay người đang định gọi đầu bếp trực ban làm đồ ăn thì người áo đen chợt hỏi: “Chủ quán, tôi muốn hỏi thăm cô về một người”.
“Người nào?”
“Nơi này có nữ nhân nào lưng đeo một thanh kiếm có vỏ màu tím không?”
“Quan khách đi lại ở vùng này, có ai là không mang kiếm đâu? Làm sao tôi nhớ hết được?”
“Có người nhìn thấy cô ta đi vào trong này”.
“Bây giờ mọi người đều đã ngủ cả rồi”.
“Không cần gấp, tôi ở đây đợi cô ta là được rồi. Sớm muộn gì cô ta cũng phải đi ra thôi”, người này lãnh đạm nói.
Nói xong, đôi mắt anh ta lại dừng lại trên gương mặt Mộ Dung Vô Phong.
Một lúc sau, thức ăn nóng hổi được bưng lên, người áo đen bắt đầu từ tốn dùng cơm.
Dáng vẻ của người này khi ăn cơm cũng cực kỳ trang nhã, một miếng đồ ăn, một miếng cơm, một hớp rượu.
Anh ta mới ăn được ba miếng, “binh” một tiếng, cánh cửa lớn bị đạp tung, bốn người áo xám xông vào, thoáng cái đã tới trước bàn.
Bọn họ người cầm đao, kẻ cầm rìu, người cầm thương. Kẻ đạp cửa xông vào đầu tiên cầm trong tay tam tiết côn.
Người áo đen một tay vẫn cầm đũa, tay kia đã “tang” một tiếng rút kiếm ra. Ánh kiếm lóe lên, không một tiếng động, bốn người kia đều đã đổ xuống.
Người áo đen đứng lên, mỗi tay xách một người, mở cửa rồi lần lượt quăng toàn bộ bốn người kia ra ngoài.
Người áo đen đó tiếp tục uống một ngụm rượu, hỏi: “Ngồi một bàn với tôi thấy thế nào?”.
Mộ Dung Vô Phong nhạt giọng nói: “Đích xác không phải là một chuyện tồi”.
Thần thái chàng lạnh lùng, vừa rồi bốn kẻ kia nhe nanh múa vuốt xông vào, chàng cũng chẳng hề bị kinh động.
“Nhìn bộ dạng huynh xem ra không biết võ công, không ngờ định lực quả thật không tồi”, người áo đen nhìn chàng nói.
Mộ Dung Vô Phong phát hiện người áo đen này thường cố tình nhìn ngó khuôn mặt chàng. Điều này khiến chàng rất không thoải mái, nếu là ngày thường chàng đã quay đầu bỏ đi, chỉ đáng tiếc hiện giờ bản thân chẳng thể cử động.
“Ta họ Cố, trong nhà đứng thứ mười ba, người trên giang hồ đều gọi ta là Thập Tam. Huynh tên là gì?”, người áo đen chợt hỏi.
“Ta chỉ là khách qua đường ở đây, việc gì phải hỏi tên tuổi”, Mộ Dung Vô Phong thờ ơ nói.
Cửa lớn của khách sảnh bị đá vỡ một góc, gió lạnh căm căm từ bên ngoài lùa vào trong sảnh. Mộ Dung Vô Phong không chịu được lại bật ho kịch liệt.
Người áo đen lập tức đứng đậy, bê một chiếc bàn tới chắn ở chỗ gió lùa.
“Hình như ngươi là người phương nam. Có uống được rượu không?”, anh ta quay lại bàn hỏi.
“Người phương nam thì không uống rượu sao?”, Mộ Dung Vô Phong hỏi lại.
“Tại huynh toàn uống trà. Huynh nên biết, loại trà này là trà ngọt, là đồ uống của nữ nhân.”
“Thứ cho vào bụng mà cũng phân biệt nam nữ? Tôi lại cứ thích uống loại trà này”, chàng thản nhiên như không.
Người áo đen nhìn chàng, không nhịn được bật cười: “Khẩu khí nói chuyện của huynh thật rất giống một người tôi quen. Mà thật ra, tướng mạo của hai người cũng rất giống nhau. Tôi vừa rồi cứ nhìn huynh chằm chằm, mong huynh không để bụng. Đã hai mươi mấy năm rồi tôi chưa gặp lại người ấy. Vừa thấy huynh, tôi còn cho rằng người ấy đã quay về. Quả thật có chút kinh ngạc, có điều người ấy đương nhiên không phải là huynh. Hai chân người ấy bị tàn phế”.
Cố Thập Tam vẫn luôn ngồi đối diện Mộ Dung Vô Phong, không hề chú ý tới chân của chàng.
“Trên đời, người giống nhau chẳng phải rất nhiều sao?”, Mộ Dung Vô Phong lãnh đạm nói.
“Đương nhiên, là tôi nhận lầm. Người ấy năm đó tuổi tác cũng không khác huynh bây giờ, nhưng ai mà biết được hai mươi mấy năm sau người ấy sẽ trông ra sao.”
Trên mặt Cố Thập Tam thoáng hiện vẻ ôn hòa, tựa như đang nhớ lại một ký ức đẹp đẽ năm xưa.
Mộ Dung Vô Phong nhìn Cố Thập Tam, muốn nói lại thôi.
Cầu thang sau lưng chàng bỗng vang lên tiếng bước chân.
Cố Thập Tam ngẩng đầu nhìn, liền thấy một cô gái nhỏ nhắn từ trên lầu đi xuống, trên mặt đượm vẻ hốt hoảng lo lắng, đến khi nhìn thấy người ngồi trước mặt mình thì mới thở phào nhẹ nhõm.
Cô gái ấy cười với Cố Thập Tam rồi nói với người đối diện: “Chàng nói chuyện với bằng hữu đấy à?”.
Nàng cười trông rất đáng yêu.
“Sớm thế đã tỉnh rồi sao?”, người đối diện dịu dàng hỏi, khác hẳn với khẩu khí lạnh lùng vừa rồi.
“Nhìn kìa, tất của chàng tuột rồi”, cô gái đó quỳ xuống, nhặt một chiếc tất trên tấm đệm lên.
Mộ Dung Vô Phong hơi lúng túng, vội nói: “Để tự ta”.
Chàng tựa vào bàn, đang định cúi xuống, Hà Y đã đưa tay ngăn chàng lại: “Ngồi yên, đừng cử động”.
Nàng đem chiếc tất hơ hơ qua lửa, đợi nó ấm áp rồi mới nhẹ nhàng xỏ vào chân cho chàng.
Khuôn mặt Mộ Dung Vô Phong lập tức hơi đỏ lên bởi vì Cố Thập Tam đang nhìn Hà Y, nhìn thanh Ngư Lân Tử Kim kiếm trên lưng nàng, rồi lại quay đầu đánh giá chàng một lượt, tựa như đang phỏng đoán quan hệ giữa hai người.
Cố Thập Tam nhìn hồi lâu rồi đột nhiên nói với Mộ Dung Vô Phong: “Huynh có biết đôi tay vừa đi tất cho huynh xếp hàng bao nhiêu trênGiang hồ kiếm bảng không?”. Mộ Dung Vô Phong thở dài một tiếng nói: “Xin lỗi, từ trước tới giờ tôi không hiểu rõ việc trong võ lâm cho lắm”.
Cố Thập Tam chỉ thanh kiếm của Hà Y, nói: “Tuy nói ra rất nhiều người không tin, nhưng chủ nhân của thanh kiếm này đứng hàng đệ nhất”.
Hà Y đứng dậy, cảnh giác nhìn Cố Thập Tam.
Cố Thập Tam trừng mắt nhìn Mộ Dung Vô Phong, nhấn giọng từng chữ: “Huynh để đôi tay ấy đi tất cho mình, đây không những là sỉ nhục bản thân cô ấy mà còn là sỉ nhục mỗi một người luyện kiếm”.
Không ngờ rằng Cố Thập Tam đột nhiên nói ra câu này, Mộ Dung Vô Phong hơi sững người một chút rồi đáp: “Vậy sao?”.
Sau đó trong mắt chàng chợt ánh lên nét cười, từ tốn nói tiếp: “Tôi vốn cho rằng, đây chẳng qua chỉ là đôi tay của thê tử mình mà thôi”.
Cố Thập Tam lập tức cảm thấy cực kỳ xấu hổ, nhận thấy câu vừa rồi của mình thật là quá ngu xuẩn.
Người ta là phu thê, đừng nói tới đi tất, những việc còn không tiện nói ra hơn thế cũng đều có thể làm, chẳng làm sao cả. Với lại đôi chân của nam nhân này cử động không tiện, hình như vừa mới bị trọng thương. Thê tử lo lắng cho phu quân, giúp phu quân của mình đi tất cũng là việc hợp tình hợp lý. Trong lòng Cố Thập Tam không những đã không còn xem thường hai người họ mà ngược lại càng thêm đồng tình, cảm động.
Cô gái này hoàn toàn không giống với đại đa số kiếm khách mà anh ta từng gặp, nàng không những là một kiếm khách mà còn là một nữ nhân chính cống!
Khuôn mặt Hà Y ửng hồng lên, khẽ cười nói: “Được rồi. Chàng nên về phòng thôi. Ngồi lâu như thế, người không thấy mỏi sao?”.
Mộ Dung Vô Phong nói: “Lấy nạng cho ta. Ta có lẽ vẫn đi được vài bước”.
Để lão bà của mình trước mặt người khác bế mình lên phòng, Mộ Dung Vô Phong thật sự cảm thấy như thế rất mất mặt.
Hà Y đem nạng tới cho chàng, chàng cặp đôi nạng vào nách, vịn chặt lấy rồi run rẩy đứng lên.
Bây giờ chàng mới phát hiện, bớt đi một chân, cơ thể nhẹ đi khá nhiều, thậm chí lúc chàng đứng dậy còn cảm thấy đỡ mất sức hơn ngày xưa.
Chàng tựa vào Hà Y, cắn chặt răng, miễn cưỡng đi một bước, mồ hôi đã ròng ròng chảy xuống. Đến bước thứ hai chàng đã không sao nhích nổi nữa. Toàn thân như cứng đơ một chỗ. Tim của chàng dội thình thịch, hoa mày chóng mặt.
Hà Y run giọng nói: “Chàng đừng… đừng đi nữa. Đợi khỏe hơn một chút rồi lại thử, được không?”.
“Không”, chàng cắn chặt răng, liều mạng gồng mình bước thêm một bước.
Hà Y chợt nói: “Chàng có phát hiện ra không, đôi nạng này vừa hay rất hợp với chàng”.
Đôi nạng vốn do Lục, Sơn hai người tặng cho họ trước khi xuống núi. Bây giờ xem ra, nó vốn không phải dùng để dò tuyết.
Mộ Dung Vô Phong sững người, cúi đầu xuống, cảm thấy Hà Y nói không sai. Mũi chân của chàng vừa khít chạm đất. Đôi nạng này, bất luận là chiều cao hay là cự li từ tay nắm tới đỡ nách đều rất vừa vặn với chàng, tựa như là đặc biệt làm riêng cho chàng, nhưng rõ ràng nó được dùng rất nhiều năm rồi.
Ngực chàng chợt nhói đau, hai mắt tối sầm, cả người đổ ập xuống.
Cố Thập Tam nhìn Hà Y đưa nam nhân áo xám kia về phòng ngủ trên lầu, gần một canh giờ sau mới thấy nàng trở xuống thu lại đệm ngồi và đệm tựa trên ghế.
“Huynh ấy không sao chứ?”, thấy bộ dạng hớt hải của nàng, Cố Thập Tam không nhịn được hỏi một câu.
“Thần trí còn chút mê man, có điều cũng coi như là ngủ được rồi”, nàng đã lên được vài bậc, nghe gọi liền quay đầu lại cười nhạt trả lời.
“Dịp nào đó chúng ta ước định thời gian tỉ thí học hỏi chút nhé?”, Cố Thập Tam lập tức nói tiếp: “Tôi tới đây chính là để tìm cô nương”.
Nàng nhìn thanh kiếm sau lưng anh ta, hỏi: “Cố Thập Tam?”.
“Không sai”.
“Tôi cũng luôn muốn được thưởng thức ‘Lưu Phong Hồi Tuyết Kiếm’ của Cố đại hiệp”, mắt Hà Y sáng lên.
Cố Thập Tam không những là kiếm khách nổi tiếng nhất trong thế hệ trẻ của vùng Tây Bắc mà đồng thời cũng là một đại hiệp nổi tiếng.
“Vậy sao bây giờ chúng ta không thử một chút?”, Cố Thập Tam nói.
“Bây giờ… không được. Tướng công tôi bệnh rất nặng”.
“Huynh ấy đúng là tướng công của cô?”, sợ nàng hiểu lầm, Cố Thập Tam vội nói thêm một câu: “Tôi muốn nói, hai vị xem ra còn rất trẻ tuổi”.
“Đúng mà, không thể giả được”, nàng cười nói: “Chúng tôi kết hôn chưa lâu, đón lấy!”, nàng tung cho Cố Thập Tam một túi kẹo hạnh nhân nói: “Mời huynh ăn kẹo!”.
“Đa tạ, cung hỷ!”, Cố Thập Tam hơi kinh ngạc nhìn cô gái này, thật nghĩ không ra, gả cho một nam nhân tàn phế như thế, vì sao nàng có thể cười vui vẻ tới như vậy.
“Đúng rồi, quên chưa thỉnh giáo quý tính của tướng công cô.”
“Xin lỗi, vì an toàn của chàng, không thể tiết lộ được. Có điều, chàng không phải là người trong giới chúng ta, không biết một chút võ công nào.”
“Không sao cả. Chỉ là cơ hội tỉ kiếm quả thực khó gặp, tôi sẽ đợi cô nương”, Cố Thập Tam nói.
“Huynh đợi tôi, đây là ý làm sao?”, Hà Y giật mình.
“Bao giờ cô có thời gian thì gọi tôi một tiếng, tôi ở dưới lầu hai người trọ”.
“Sao cơ? Này!”, Hà Y còn định nói tiếp, Cố Thập Tam đã bỏ nàng lại, tự về phòng mình nghỉ ngơi.
Đêm ấy, Mộ Dung Vô Phong vì thân thể suy nhược lại nhiễm thêm phong hàn, đến sáng sớm thì lên cơn sốt cao. Một mạch hai ngày người nóng như than bỏng, đến ngày thứ ba cơn sốt mới dần lui, nhưng lại chuyển thành viêm họng, không kể ngày đêm ho khan không dứt. Thần trí thì lúc tỉnh lúc mê, cả ngày nằm liệt trên giường không dậy nổi. May mà Hà Y đã quen với việc chàng đổ bệnh, tuy lòng như lửa đốt nhưng không còn hoảng loạn như trước nữa, mà đã có thể lo liệu tất thảy đâu ra đấy. Hai người họ vốn chỉ định ở lại Cáp Hùng khách điếm một hai ngày, nay bởi Mộ Dung Vô Phong đổ bệnh, đã ở liền mười ngày trời.
Đợi đến khi bệnh tình của Mộ Dung Vô Phong thuyên giảm, cuối cùng đã có thể rời khỏi giường, Hà Y vẫn bắt chàng ở trên giường điều dưỡng thêm một ngày nữa.
Ngày hôm sau, lúc Hà Y lại bắt Mộ Dung Vô Phong tiếp tục “điều dưỡng”, cuối cùng chàng nói:
“Hà Y, ta đã khoẻ nhiều rồi”.
“Nhưng sắc mặt chàng xem ra hãy còn…hãy còn rất xanh xao”, nàng không yên tâm nói.
“Đấy chính là sắc mặt bình thường của ta”, Mộ Dung Vô Phong từ tốn nói.
“Xin chàng đấy, nằm thêm một ngày đi, đợi thân thể hoàn toàn…”
“Bây giờ ta muốn dậy, nhân tiện tắm rửa một lượt”, chàng ngắt lời nàng.
Hà Y trầm mặc, một lúc sau mới thở dài nói: “Thiếp vừa bảo tiểu nhị chuẩn bị nước nóng rồi. Thiếp đưa chàng đi”.
Hai người họ ở phòng hạng sang cho nên có luôn cả phòng ở bên trong, mỗi ngày đều có tiểu nhị đưa nước nóng tới.
Bệnh nặng mới đỡ, vết thương trên chân chàng cuối cùng cũng hoàn toàn lành lại. Nếu như giữ ấm cho tốt, cơn đau buốt tim cũng sẽ rất ít phát tác. Lúc chàng ngồi dậy đã không còn cảm thấy đau nhói nữa.
Hà Y ôm chàng tới một chiếc sạp nhỏ trong phòng tắm. Thùng tắm nằm ngay bên sạp.
Vẫn theo nếp như lúc chàng bệnh, nàng giúp chàng cởi y phục. Mộ Dung Vô Phong cầm tay nàng ngăn lại, nhẹ nhàng nói: “Nàng ra đi. Để tự ta được rồi”.
“Chàng… nơi đây… không giống trong cốc, chàng cử động không tiện”, nàng nhỏ giọng nói.
“Ta có thể lo được”, chàng lãnh đạm nói.
“Vậy thiếp… thiếp sẽ ngồi trong này, nếu chàng… nếu chàng…”, nàng lại lắp bắp.
“Hà Y, ta sẽ không sao đâu”.
“Không.”
“Hà Y!”, sắc mặt chàng trầm xuống.
“Chàng sẽ có chuyện! Chàng… có thể ngã, chàng có thể đột nhiên phát bệnh, chàng có thể… chết đuối trong thùng tắm!”, tựa như đang nhìn thấy những cảnh tượng ấy, nàng bịt mắt lại.
“Hà Y, đừng nghĩ linh tinh nữa.”
“Thiếp không nghĩ linh tinh! Những chuyện ấy hoàn toàn có thể xảy ra, cho nên thiếp nhất định phải ở bên chàng”, Hà Y lớn giọng.
“Ta từ khi sinh ra đã như thế này, tắm rửa cũng đã tự làm cả mấy vạn lần, chưa bao giờ chết đuối”. Chàng cười lạnh: “Nàng lo cho ta, vậy cũng không sao, chỉ xin nàng đừng tưởng tượng nữa. Tưởng tượng so với lo lắng còn đáng sợ hơn nhiều”.
“Thiếp không đi đâu cả”, nàng cắn răng nhìn chàng.
Hai người tức giận nhìn nhau chằm chằm.
“Hà Y, lẽ nào nàng muốn cả đời ta như một đứa bé phải dựa hết vào nàng sao?”, ánh mắt chàng càng lúc càng lạnh Iẽo, gần như đã quay trở lại vẻ lạnh lùng như lần đầu tiên hai người gặp mặt, nói năng rất mỉa mai trào phúng.
Hà Y nhẹ nhàng cầm ống quần phải trống không của chàng lên giắt vào thắt lưng chàng, rồi lại nhìn cái chân gầy guộc còn lại của chàng. Mất đi một chân, chàng đã không sao đứng lên ngồi xuống ổn định được nữa, phải dùng một tay vịn sạp mới có thể giữ thăng bằng.
“Vô Phong… để thiếp ở lại đây đi, nếu không thiếp sẽ không yên tâm”, nàng run giọng năn nỉ.
“Ra ngoài!”, chàng đột nhiên quát lên: “Ta không gọi, nàng chớ có vào!”.
Sắc mặt nàng tái nhợt, đứng phắt dậy, giậm chân rồi đi ra ngoài.
Ra tới bên ngoài, toàn thân nàng mềm nhũn, tựa vào cạnh cửa, thần kinh căng như dây đàn, nghe ngóng từng tiếng động nhỏ trong phòng.
Không được tưởng tượng, không được tưởng tượng. Nàng lẩm nhẩm nói với bản thân, nhưng trong đầu lại toàn là hình ảnh Mộ Dung Vô Phong nằm liệt trên giường, cử động khó khăn, bộ dạng khổ sở vì muốn cứu nàng mà bò nhoài người trên đất khi ở đỉnh Thiên Sơn. Nàng vừa nhắm mắt vào, liền như lại trông thấy hai vết sẹo tím tái đáng sợ mà mỗi lần thay thuốc cho chàng nàng lại bắt gặp. Bất kể là cảnh tượng nào cũng đều khiến tim nàng đau đớn, vỡ vụn.
Sau đó nàng chợt nghe “bịch” một tiếng, tựa như có vật gì đó rơi. Tim nàng đập mạnh một nhịp, tiếp đến lại nghe thấy một loạt âm thanh không bình thường khác vang lên.
Chàng vẫn không gọi nàng.
“Vô Phong!”, nàng không nhịn được, đứng ngoài cửa gọi với vào.
“Ta không sao”, bên trong vọng ra giọng nói lạnh lùng của chàng: “Nếu nàng thấy không thoải mái, sao không ra ngoài uống chén rượu đi?”.
Tuy khó khăn trùng trùng, lại còn trượt ngã hai lần, cuối cùng chàng cũng đưa được mình vào thùng nước. Chợt nghe tiếng cửa “binh” một tiếng đóng lại, rõ ràng Hà Y tức giận bỏ ra ngoài rồi.
Tắm rửa, thay y phục tươm tất, đang muốn tựa vào ghế băng rời mình tới chiếc sạp, không biết tại sao tay tự nhiên lại nhũn ra, cả người lại nặng nề đổ ập xuống. Chàng chỉ đành cười khổ. Hà Y nói không sai, nơi đây không phải là Trúc Ngô viện, tất cả những bố trí ở đây đều không tiện lợi cho chàng. Nhưng với chàng mà nói, ngã vốn cũng là một việc bình thường mà thôi, chẳng cần ngạc nhiên.
Chàng đang nghĩ cách cố đứng trở dậy, chợt nghe thấy có người gõ cửa.
“Ai thế?”, chàng hỏi.
“A Nhĩ Man. Lão bản”, một giọng đàn ông truyền lại, nói với thứ tiếng Hán cứng ngắc.
“Mời vào. Xin lỗi, tôi đang tắm rửa, không thể tiếp khách”, không rõ đã xảy ra chuyện gì, chàng chỉ đành ngồi dưới đất nói.
“Xe lăn ngài đặt đã làm xong rồi”.
“Đa tạ, liệu có thể phiền ông đưa vào đây cho tôi không, tôi… hiện đang rất cần”, chàng nhạt giọng nói, trong lòng không khỏi cảm thấy áy náy, đó nhất định là Hà Y mấy ngày trước đã thuê thợ làm.
A Nhĩ Man đẩy xe lăn tới cạnh chàng, nhìn chàng đang ngồi bệt trên thảm, liền nói: “Có cần tôi đỡ ngài dậy không?”
“Không cần, tự tôi làm được rồi”, mặt chàng chẳng biểu hiện gì, đáp lời.
Ngoài cửa chợt truyền lại tiếng bước chân rất nhẹ, một đứa bé chạy vào, đưa cho A Nhĩ Man một cái vòng gỗ, nói: “Gia gia, mẹ bảo còn có thứ này cũng là của vị… vị thúc thúc… hu hu hu… cha, con sợ!”, đứa bé ấy vẫn còn rất nhỏ, đột nhiên thấy bộ dạng của Mộ Dung Vô Phong không giống người bình thường, sợ quá khóc rống lên.
“Đi tìm mẹ đi”, A Nhĩ Man vỗ đầu con trai một cái, đuổi nó ra khỏi cửa, rồi áy náy nhìn Mộ Dung Vô Phong.
“Xin lỗi, trẻ nhỏ không hiểu chuyện”, A Nhĩ Man lúng túng nói.
“Hy vọng tôi không làm nó quá sợ hãi”, Mộ Dung Vô Phong nhẹ giọng nói, nói xong di người tới bên xe lăn, hai tay tựa lên mặt ghế, dùng sức đẩy mình một cái đã ngồi được lên. Động tác này của chàng nhanh tới mức khiến A Nhĩ Man cảm thấy không sao tin được. Mộ Dung Vô Phong làm động tác này đã không dưới vài vạn lần, sớm đã thuần thục lắm rồi.
“Cái xe này là mời vị thợ mộc nổi tiếng nhất vùng làm, vốn đã làm rất tốt rồi, lão bà của ngài còn vẫn chưa vừa ý, lại đem tới nhờ vị thợ rèn giỏi nhất vùng dùng đinh đồng cố định lại một lượt tất cả các khớp nối, rồi lại mời thợ thuộc da giỏi nhất vùng làm đệm với tựa lưng, Ngài xem thế này…”, ông ta chỉ vòng đồng trên bánh xe, vốn dùng để tiện cho việc lăn bánh xe, nói: “Trên vòng đồng này có khắc hoa văn, vốn là vị thợ rèn kia nhận rất nhiều tiền đặt cọc của lão bà ngài, cảm thấy không làm thêm một chút thì có phần không xứng với khoản tiền ấy, liền khắc thêm vào đó. Ai ngờ lúc đưa tới chỗ người thợ thuộc da kia, ông ta lại cảm thấy trời đông mà phải đưa tay tiếp xúc với vòng đồng thì thật là quá lạnh, bèn bọc lên đó hai lớp da hoẵng mềm. Kết quả là đem hết tâm huyết của người thợ rèn mà che kín lại”.
Mộ Dung Vô Phong khẽ cười.
“Đầu năm nay chiến tranh loạn lạc, thật không thể hy vọng được gì. Nhưng một nam nhân chỉ cần có được một lão bà tốt thì cũng nên biết thế là đủ rồi”, A Nhĩ Man vỗ vỗ vai chàng nói.
“Ông nói không sai chút nào”, Mộ Dung Vô Phong đồng tình.
“Lúc nãy tôi tới phòng củi bên ngoài khách điếm lấy chút đồ, vừa khéo gặp lão bà của ngài. Hình như cô nương ấy đang ngồi dưới chân tường uống rượu một mình”, A Nhĩ Man cười nói: “Tôi còn có việc, đi trước đây”.
Chương 31
Mộ Dung Vô Phong khoác áo ngoài, lăn bánh xe ra khỏi phòng, ra rồi mới phát hiện bọn họ đã chuyển từ phòng thượng hạng trên lầu xuống tầng trệt. Chàng liệt giường mười ngày, không bước chân ra khỏi cửa, chẳng biết chút gì về việc này.
Trong khách điếm còn có một cửa khác để ra ngoài, không cần đi qua khách sảnh, đương nhiên Mộ Dung Vô Phong không thích thú gì khi có nhiều người cứ nhìn chằm chằm vào mình.
Chàng cật lực đẩy cửa, ra ngoài, bên ngoài tuyết rơi lả tả, không gian trắng xoá. Gió bấc thổi vù vù, gần như muốn cuốn cả người chàng lên không trung. Chàng đã dự liệu được cái lạnh thấu xương này, nên trước khi ra ngoài đã quấn quanh mình một tấm chăn lông rất dày, nếu không vết thương nhiễm lạnh sẽ lại đau mãi không thôi. Đi dọc một vòng quanh khách điếm, cuối cùng chàng cũng thấy Hà Y.
Nàng đang ngồi tựa vào tường, bên dưới kê một tấm đệm da. Nàng đã sớm nghe thấy tiếng bánh xe, liền ngẩng đầu lên, nhìn chàng đang tới bên mình.
“Hà Y, thì ra nàng ở đây”, chàng nhẹ nhàng nói.
“Tắm xong rồi sao?”, khắp người nàng nồng nặc mùi rượu.
“Ừm”, chàng áy náy nói: “Xin lỗi, vừa rồi ta… ta không nên cáu gắt. Nàng… nàng… giận rồi phải không?”.
“Không”, nàng quay đầu, giận dỗi nói: “Sao thiếp lại phải giận?”.
“Bên ngoài lạnh lắm, hay là chúng ta vào trong đi”, nhìn dáng vẻ nàng, chàng cũng không biết phải nói sao mới được.
“Muốn vào thì chàng tự vào đi. Thiếp phụng lệnh ra ngoài này, cũng phụng lệnh ngồi uống rượu”, nàng không thèm để ý đến chàng, ngửa cổ lên, tu ừng ực một ngụm rượu lớn.
“Hà Y… ta…” , chàng ngẩn người nhìn Hà Y. Trên mi nàng vẫn còn đọng nước mắt, dưới trời đông băng lạnh đã biến thành trắng muốt.
Chàng vội kéo tấm chăn trên mình quàng lên người nàng, bao chặt lấy nàng.
“Thiếp là người luyện võ, thiếp không lạnh”, nàng xì xèo lẩm bẩm.
Chàng vẫn cứ cầm tấm chăn cuộn kín lấy nàng, kéo nàng tới trước mặt mình.
“Sau này cho thiếp ở lại trong phòng tắm, thiếp sẽ quay vào”, nàng trừng mắt nhìn chàng.
“Tuy ta cáu giận là không đúng, nhưng ta không nói sai”, Mộ Dung Vô Phong nói: “Huống hồ, bộ dạng ta thế này… bộ dạng ta thế này”, chàng vốn muốn nói: “Bộ dạng ta thế này cũng chẳng có gì hay mà xem”, lại chợt nhớ tới vừa rồi bộ dạng của mình dọa cho một đứa bé phải sợ hãi khóc rống lên, không khỏi chạnh lòng, câu nói kia định nói ra nhưng lại tắc ở họng, không sao nói nốt được.
Hà Y không nói gì nữa. Nàng ủ đôi tay lạnh lẽo của chàng vào trong lòng mình, nhẹ giọng nói: “Trời lạnh thế này, chàng còn chạy ra đây. Chẳng qua thiếp chỉ ở đây uống vài chén rượu thôi mà. Uống xong sẽ quay vào”.
Mộ Dung Vô Phong rút nạng ra, chống nạng đứng dậy, ôm lấy nàng, hôn lên giọt sương trên mi mắt nàng. Hà Y vòng tay ôm lấy eo chàng. Hai người mặt kề mặt. Mộ Dung Vô Phong dịu dàng nói: “Hà Y, chúng ta cứ ở Iại đây một lúc, được không? Ta thích trời có tuyết. Ở Vân Mộng cốc rất ít có tuyết rơi”.
Hà Y nhìn chàng, khe khẽ đáp: “Cũng được, thiếp cũng thích tuyết”.
Đôi môi nàng vẫn cong lên, khuôn mặt hồng hồng nhìn chàng. Trong lòng Mộ Dung Vô Phong chợt xao xuyến, nâng cằm nàng, say sưa hôn lấy, hôn tới lúc không thở nổi nữa.
“Này, môi người ta sắp bị chàng cắn nát rồi”, nàng nhỏ giọng kêu.
“Cắn nát rồi sao? Thế thì thôi vậy”, chàng định buông nàng ra.
“Đâu có được”, nàng lại nhào tới.
“… Hà Y, tay của nàng…”
“A, thiếp chỉ muốn sờ hai con rết lớn ở chân chàng thôi mà”.
Tay của nàng không biết từ lúc nào đã đặt vào hai vết sẹo trên chân chàng, nhẹ nhàng vuốt ve.
Chàng mới ốm dậy, sức lực còn yếu, dù chỉ là chống nạng đứng thôi cũng không sao đứng được lâu. Lúc Hà Y vòng tay lại ôm chàng, đã giúp chàng đứng vững được.
“Còn đau không?”.
“Không đau.”
Chàng đỏ mặt nhìn Hà Y, nhỏ giọng nói thầm vào tai nàng: “Này… thanh thiên bạch nhật…”
“Tuyết lớn thế này, chẳng khác nửa đêm đóng cửa tắt đèn là bao”, nàng không chịu buông tay: “Nói cho thiếp, rốt cuộc là kẻ nào đã chặt chân chàng?”.
“Ta không nhớ rõ”, chàng nhạt giọng trả lời.
“Chàng không nói cho thiếp, sớm muộn gì thiếp cũng sẽ biết. Thiếp chưa xong việc với người của Đường môn đâu”, Hà Y nghiến răng nghiến lợi nói.
“Hà Y, những việc ấy đã qua rồi, đừng nghĩ thêm nữa”, chàng cười khổ: “Huống chi chân ta vốn chẳng động đậy được, nhiều thêm hay ít đi một cái cũng chẳng sao cả”.
“Chàng thì chẳng sao cả! Nhưng không biết là… không biết là người ta nhìn thấy đau lòng muốn chết”, Hà Y lại tức mình kêu toáng lên.
“Hà Y, lòng dạ nàng từ khi nào lại mềm đi thế này? Hồi trước lúc nàng chặt tay người ta, một kiếm là dứt khoát xong xuôi rồi.”
“Đấy là đương nhiên, thiếp chẳng quen cô ta. Chớ nói là chặt tay, cho dù là chặt đầu, thiếp cũng không mảy may do dự. Nhưng… nhưng chàng… chàng…”, vừa nói, tay nàng vừa đặt vào vết sẹo trên chân chàng, nước mắt lưng tròng: “Suýt nữa là chàng đã chết rồi!”.
“Nàng đừng lo, ta sẽ không sao đâu”, chàng dịu dàng an ủi.
“Vậy thì chàng để thiếp ở lại trong phòng tắm đi”, nàng lập tức nói.
“Sao nói một hồi lại quay lại chuyện này rồi?”.
“Ha, thiếp nói nãy giờ chính là vì một câu này đấy.”
“Từ lúc nào đã học được trò gài bẫy lão công rồi?”
“Chàng có đồng ý không.”
“Không đồng ý.”
“Này, Mộ Dung Vô Phong, con người chàng sao lại bướng bỉnh thế! Mềm cũng không được mà cứng cũng không được!”
“Ừm. Có phải là cảm thấy rất khó đối phó không?”
“Còn không à. Chẳng có biện pháp nào cả. Dù sao thiếp cũng là lão bà của chàng, chàng cũng phải nghĩ cho thiếp một chút chứ!”
“Hà Y, tin ta đi, ta có thể chăm sóc bản thân. Bao nhiêu năm nay ta đều sống như thế cả.”
“Nhưng mà thiếp rất lo lắng… lo lắng muốn chết đi được. Chỉ sợ trái tim cũng bị dọa cho nhảy ra khỏi lồng ngực mất.”
“Không sao đâu, ta là đại phu. Nếu thật sự có bệnh tim, ta bảo đảm chữa khỏi cho nàng.”
Nàng trợn mắt nhìn chàng, vừa véo nhẹ vào chân chàng, vừa thở vắn than dài: “Thiếp thật vô dụng, tại sao ở trước mặt chàng thiếp lại chẳng nổi nóng được thế này? Trước đây thiếp vốn rất nóng tính đấy, còn nóng tính hơn chàng nhiều.”
“Hà Y, xem này, ngoài kia tuyết rơi thật lớn!”, Mộ Dung Vô Phong chỉ ngọn núi phía xa: “Thời tiết thế này, nếu có thể tản bộ ngoài kia thì thật thích”. Vừa rồi chàng nằm liệt giường đã một tháng có dư, bởi vì thương thế nghiêm trọng, đừng nói là rất ít khi dậy khỏi giường, mà cho dù chỉ là trở mình trên giường cũng phải nhờ Hà Y giúp đỡ. Tuy chàng sớm đã quen với những ngày tháng bệnh tật, nhưng nói thế nào thì vẫn là một thanh niên trẻ tuổi, lại đến nơi mới lạ, bây giờ sức khoẻ đã dần dần khôi phục, chàng càng không chịu cả ngày nằm trên giường.
Hà Y cười nói: “Chàng có nhìn thấy hơi khói nghi ngút trắng xóa xa xa kia không? Ngọn núi ấy không cao, bên trên còn có mấy suối nước nóng, thiếp đã từng một mình đến đấy tắm mấy lần. Ngâm mình trong nước nóng ngắm tuyết rơi, thế mới thích chứ, chàng có muốn tới thử một lần không?”.
Mộ Dung Vô Phong gật đầu thật mạnh.
Hà Y dìu chàng về xe lăn, đắp chăn cho chàng, đẩy chàng vào sau cửa khuất gió, nói: “Chàng đợi thiếp một chút, thiếp về lấy y phục cho chàng”.
Chẳng bao lâu sau Hà Y đã quay lại, sau lưng nàng đeo một bọc hành lý, còn dắt theo hai con lạc đà.
Mộ Dung Vô Phong ngạc nhiên hỏi: “Lạc đà? Kiếm đâu ra thế?”.
“Tiện tay trộm đấy.”
“Cái gì? Trộm… Hà Y, nhanh trả lại cho người ta.”
“Lừa chàng thôi, là mượn ở chỗ lão bản đấy. Hì hì”, nàng thè lưỡi, làm mặt quỷ.
Hà Y từng áp tiêu ở vùng Tây Bắc, không xa lạ gì với lạc đà nhưng trước giờ vẫn chưa từng thử cưỡi. Còn Mộ Dung Vô Phong thì cũng chỉ được nhìn hình dáng của lạc đà trong sách thôi.
Loại lạc đà hai bướu này tuy không cao nhưng sức chịu đựng cực kỳ dẻo dai, lại có thể chở nặng, là thứ các thương đoàn ắt phải có. Ở hoang mạc hoang vu lạnh giá phương bắc, lạc đà có lúc còn quan trọng hơn cả ngựa. Hà Y nói: “Ha ha, Mộ Dung Vô Phong, loại lạc đà trắng này thật thông minh nhé, chàng nhìn này”, nàng huýt một tiếng, một con lạc đà liền quỳ xuống trước mặt Mộ Dung Vô Phong, ở giữa hai bướu của lạc đà đã được trải đệm dày rất thoải mái, Mộ Dung Vô Phong một tay tựa tay vịn của xe lăn, tay kia vịn lên lạc đà, từ từ chuyển thân tới ngồi chắc chắn giữa hai bướu. Hà Y đem tấm chăn lông khoác lên lưng chàng, phủ kín người chàng, rồi lại choàng thêm một cái áo tơi rộng rãi. Xong rồi gọi một tiếng: “Lên!”, con lạc đà đó liền thong thả đứng dậy.
“Cầm chắc dây cương”, Hà Y đưa dây cương cho chàng, rồi đem xe và nạng buộc lên con lạc đà còn lại. Sau đó, nàng nhảy phắt lên lưng con lạc đà ấy, nói: “Ha ha, chúng ta xuất phát thôi”, nói xong vỗ lạc đà, con lạc đà trắng chạy như bay, chớp mắt đã biến mất khỏi tầm mắt Mộ Dung Vô Phong.
“Này! Hà Y, đợi ta với”, chàng cũng vỗ lạc đà một cái, con lạc đà đó chẳng chịu chạy mà chỉ thong dong đi về phía trước. Hai chân Mộ Dung Vô Phong tàn phế, thân mình lảo đảo trên lưng lạc đà, hai tay phải cố sức vịn chặt vào tay vịn trên bướu mới miễn cưỡng ngồi được thăng bằng. Còn may con lạc đà này đi rất êm, nếu cứ như tuấn mã thì chàng sớm đã ngã từ lâu rồi.
“Luyện tập nhanh lên, đợi sau này chúng ta tới trấn trước mặt ở ổn định, thiếp sẽ mua cho chàng một con lạc đà, để chàng ngày ngày cưỡi nó đi chơi”, Hà Y thúc lạc đà chạy một vòng, thoắt cái lại xuất hiện trước mặt chàng, cười khanh khách nói.
“Tại sao con lạc đà của nàng vừa cất bước là chạy, mà lạc đà của ta lại cứ chỉ đi chầm chậm thế này?”, chàng đã vỗ vài cái vào lưng con lạc đà nhưng nó chẳng thèm ngó ngàng gì tới chàng, cứ đường mình mình đi.
“Như thế mà chàng bảo là vỗ à? Chẳng khác gì gãi ngứa cho nó”, Hà Y cười nói.
“Vậy nàng tới vỗ một cái giúp ta”, Mộ Dung Vô Phong nói.
“Nếu thiếp vỗ, nó sẽ chạy trối chết, không đem chàng quăng thẳng lên trời mới là lạ đấy”, Hà Y nói: “Với lại cũng chẳng có việc gì, chúng ta từ tốn đi cũng được”, nói xong khẽ tung mình một cái, nhảy lên lưng con lạc đà của Mộ Dung Vô Phong, hai người cùng ngồi một chỗ.
“Về đi, về đi, rõ ràng là hai con lạc đà, sao nàng lại qua đây”, Mộ Dung Vô Phong gõ gõ đầu nàng hỏi.
“Thì là muốn cưỡi cùng chàng chứ sao”, thân hình yểu điệu nhỏ nhắn kia gần như ngồi gọn trong lòng chàng.
Mộ Dung Vô Phong liền choàng luôn tấm áo tơi của mình qua nàng, Hà Y chỉ thò mỗi đầu ra khỏi chiếc áo chỗ ngực chàng.
“Chàng có lạnh không?”, Hà Y vui phơi phới hỏi, đón lấy dây cương, cởi găng tay của chàng ra rồi ấp vào lòng mình ủ ấm.
“Về lạc đà của nàng đi”, chàng nhạt giọng than. Hai người thong dong đi trên sơn đạo chừng nửa canh giờ, lúc ấy tuyết lớn ngập trời, gió bấc gào rít, trên đường chẳng có bóng người, đi tới lưng núi chỗ khuất gió, quả nhiên có một suối nước nóng rộng khoảng bốn trượng, hơi nước nghi ngút, đến gần xem kỹ, nước cực kỳ trong. Bong bóng nước từ dưới đáy suối trồi lên liên tục.
Bên suối còn có một căn lều thấp, xem ra là nơi người bản địa lúc tới tắm sẽ dùng để thay y phục. Hà Y liền nhảy xuống, buộc lạc đà rồi dìu Mộ Dung Vô Phong về xe lăn.
“Độ ấm của suối nước này rất vừa phải, những nơi khác nếu không quá nóng thì là quá lạnh”, Hà Y cởi y phục, dưới trời tuyết lớn, nàng chỉ mặc độc mỗi cái yếm.
“Hà Y, chỗ này… quả thật không có người khác chứ?”
“Làm gì có. Nếu có chẳng nhẽ thiếp lại không biết sao?”, Hà Y nói.
Chàng quên mất lão bà của mình là một cao thủ khinh công, tai nghe sáu đường, mắt nhìn tám hướng, trong vòng mười mấy trượng, bất cứ động tĩnh gì cũng không thể qua nổi mắt nàng.
“Cởi đồ ra”, nàng bĩu môi nhìn chàng, bộ dạng nửa cười nửa không.
Mộ Dung Vô Phong lập tức đỏ mặt, ở nơi lạ lẫm lại trống trải thế này, đột nhiên muốn chàng cởi y phục, chàng có chút không thoải mái.
“Nàng xuống trước đi, ta… ta tới ngay đây”, ngập ngừng một lát, cuối cùng chàng cũng mở miệng.
“Đưa xe lăn vào trong lều, bên ngoài tuyết lớn, một chốc thôi là ướt hết đệm ngồi mất. Nào, để thiếp dìu chàng.” Mộ Dung Vô Phong chống nạng, Hà Y đỡ eo chàng, hai người nửa ôm nửa tựa đi tới bên suối. Hà Y giúp chàng cởi áo ngoài ném vào trong lều.
Thân hình của chàng trong gió lạnh cực kỳ mỏng manh, thân dưới không có lực đành để mặc gió lay động. Ống quần trống rỗng giống như một cái cờ cuộn bay về phía sau lật phật.
Mộ Dung Vô Phong nhìn bản thân mình, đột nhiên nói: “Hà Y, chúng ta ở lại đây luôn đi, không cần về Giang Nam nữa”.
“Hay đấy, hay đấy, cả ngày ăn thịt dê xiên, thiếp thích lắm”, Hà Y vỗ tay cười khanh khách, nói rồi đem ống quần cuộn lại giắt vào dây lưng chàng.
“Hà Y, bộ dạng ta thế này… nàng không… nàng không sợ sao?”, chàng chợt cất tiếng.
“Bộ dạng làm sao?”, Hà Y trừng mắt nhìn chàng, nói: “Từ trước đến giờ chàng vẫn là bộ dạng này mà”.
“Ta muốn nói, ta muốn nói…”, chàng nhìn nàng, trong lòng bỗng dâng lên niềm thê lương, cũng chẳng biết phải nói sao nữa.
Hà Y dìu chàng bước xuống nước. Dưới nước đã đóng sẵn mấy thanh gỗ ngang tiện cho người ta nghỉ ngơi.
“Đây đúng là một nơi rất tốt nhỉ?”, nàng ngụp đầu xuống nước làm mái tóc mình ướt hết rồi ngoi lên, cười với chàng: “Thiếp bơi lội cực kỳ giỏi, chàng có biết không?”, nàng dương dương tự đắc nói.
“Có thể nhìn ra”, chàng khẽ cười: “Chỉ đáng tiếc ta không thể bơi. Kiếp sau ta nhất định đầu thai làm một con ếch xanh, bơi lội tung tăng với nàng”.
“Học bơi tại sao lại cần đợi tới kiếp sau? Hôm nay thiếp sẽ dạy chàng là được”, nàng kéo chàng một cái, kéo vào trong nước, thân thể của chàng không tự chủ được liền nổi lên. Trừ một lần đó chèo thuyền, chàng chưa bao giờ tới chỗ nước sâu thế này, bộ dạng không tránh khỏi luống cuống, chẳng cần biết gì cả, cứ ôm chặt lấy Hà Y.
“Chàng cứ ôm thiếp thế này thì học làm sao đây!”, Hà Y cười chàng nói: “Làm theo thiếp, hít vào nín thở, khua tay trong nước thế này là được, đừng lo tới thân chàng, chàng thiếu một chân, càng dễ nổi hơn”, nàng dứt khoát gỡ tay chàng ra, chỉ dùng một tay đỡ eo chàng. Chàng làm theo lời nàng, nín thở, quả nhiên cảm thấy người mình nổi lên, lại duỗi tay khua về phía trước hai cái, người liền tiến về phía trước, rất linh hoạt. Hà Y vội vàng đuổi theo đón lấy chàng, rồi lại dạy chàng mấy câu về quy tắc hít thở. Chẳng đến nửa canh giờ sau, chàng đã có thể một mình bơi từ đầu này tới đầu kia rồi.
“Chàng xem, người thông minh học gì cũng rất nhanh”, Hà Y cười nói.
Không lâu sau, Mộ Dung Vô Phong đã cảm thấy đuối sức, hai người liền ngồi trên thanh gỗ ngang nghỉ ngơi.
“Nàng cứ đi ra bơi đi, không cần lúc nào cũng ngồi đây với ta”, thấy Hà Y ngồi yên bên cạnh mình, ngón chân lại quẫy linh tinh, chàng bèn nói.
Nàng xuống nước, bơi tới giữa suối lặn ngụp vài cái liền cầm vật gì đó ném lại: “Vô Phong, đón lấy!”.
Chàng đưa tay đón lấy nhìn, thì ra là một con ếch trắng như tuyết, liền vội vàng thả nó về rồi nói: “Giờ này sao còn có thể có ếch nhỉ?”.
“Sao lại không có? Chàng không nhớ à, chúng ta đã từng ăn trứng của nó đấy”, tiếng Hà Y từ xa vọng tới, trên mặt suối là một lớp hơi nước đọng thành sương, lại thêm trên đỉnh đầu tuyết không ngừng rơi xuống, bóng hình nàng đã như biến mất rồi.
“Hà Y!”, chàng nhỏ giọng gọi.
Mặt nước lặng như tờ.
Lòng chàng chợt trầm xuống, bỗng cảm thấy có một thứ gì đó vừa nhỏ vừa mềm nhẹ nhàng hôn lên lưng mình. Chàng nghĩ tới con ếch vừa rồi, liền khua tay xuống nước nhẹ nhàng quờ một cái tóm được một cánh tay mềm mại. Chàng đương nhiên biết đây là tay của ai. Đột nhiên chàng cảm thấy cơ thể mình đã hoàn toàn trần như nhộng.
“Hà Y…”, chàng lầm rầm gọi.
Đôi môi kia tiếp tục hôn lên vết sẹo trên người chàng, mái tóc dài của nàng phiêu diêu trong làn nước tựa như một lớp áo che khuất ánh nhìn của chàng.
“Hà Y…”, chàng miễn cưỡng khống chế những xung động của cơ thể.
Quả thật chàng chưa từng gặp một cô gái nào to gan đến thế, dường như chàng cũng chẳng cần khống chế bản thân làm gì. Chàng liền mặc kệ tất thảy, kéo nàng từ dưới nước lên, nói: “Hà Y, nàng tỉnh táo lại đi!”.
“Tỉnh táo cái gì cơ!”, nàng trợn mắt nhìn chàng.
“Nàng uống quá nhiều rượu rồi!”
“Đâu có!”
“Nàng vừa mới… nàng vừa mới…”, chàng lắp bắp nói.
“Thiếp vừa mới làm chuyện xấu, vậy thì làm sao?”, nàng vênh mặt, chống nạnh, cười cực kỳ gian xảo.
“Chẳng sao cả”, chàng từ tốn nói: “Chỉ mỗi mình nàng biết làm chuyện xấu thôi hả?”, nói rồi kéo nàng một cái, hai người lập tức rời khỏi thanh gỗ, đại chiến một trận trong suối nước.
Quấn quít trong nước một hồi, toàn thân Mộ Dung Vô Phong đã ướt đẫm, Hà Y cứ ôm chặt lấy chàng không chịu buông.
“Được rồi, Hà Y”, cuối cùng chàng nói.
“Vô Phong, thiếp rất vui, chàng… chàng không có chết, chàng vẫn còn sống”, nàng đắm mình trong lòng chàng, thủ thỉ nói.
“Từ bao giờ nàng lại cứ dính chặt lấy ta thế này vậy?”, chàng vỗ nhẹ lên má nàng.
“Thiếp yêu chàng, chẳng biết phải làm sao cả”, nàng khẽ nói.
“Ta vẫn luôn cho rằng ở cùng với ta, người phải chịu khổ chắc chắn sẽ là nàng…”, chàng cười ma mãnh nói: “Hiện giờ xem ra, điều này chưa chắc…”.
Chàng cười, khuôn mặt trắng tái bắt đầu có chút huyết sắc, ánh mắt hòa dịu, thâm tình vô hạn. Trong lòng Hà Y, nụ cười của chàng như ánh mặt trời đem trời đông tuyết giá trước mắt tan thành nước mùa xuân.
Nàng cũng cười theo.
Hai người ngâm mình trong suối nước nóng hơn một canh giờ mới thong thả thay y phục, cưỡi lạc đà về khách điếm. Dọc đường hai người bàn nhau tìm một tiểu trấn náo nhiệt đông người một chút để ở lại, đợi qua mùa đông khắc nghiệt, thân thể Mộ Dung Vô Phong hồi phục hơn rồi mới lại lên đường về nam. Về tới khách điếm, ăn xong cơm tối, nhân vừa rồi mới ngâm mình ở suối nước nóng, tâm tình còn sảng khoái, đang muốn tìm hiểu xem những vùng lân cận còn có nơi nào hay ho có thể đi, thì Hà Y lại không ngừng hắt hơi. Thân thể nàng vốn mạnh khoẻ, chỉ vì mấy chục ngày liền trên đỉnh Thiên Sơn chăm sóc vết thương cho Mộ Dung Vô Phong, thường mấy đêm liền thức trắng không hề nhắm mắt, ban ngày lại còn phải giặt đồ, thổi cơm, sức đề kháng không tránh khỏi bị giảm sút, không còn được khoẻ mạnh như trước. Cho dù là thế, nàng vẫn hiếu động không thôi, bảo nàng nằm yên trên giường thật khó bằng lên trời.
“Ai bảo ốm rồi thì nhất định phải nằm yên trên giường?”, nàng bưng chén trà, để chân trần, cứ đi đi lại lại trên tấm thảm lông, bất kể Mộ Dung Vô Phong khuyên bảo thế nào, nàng cũng nhất quyết không chịu ngồi xuống.
“Hà Y, nghe lời ta đi”, Mộ Dung Vô Phong nói.
“Bây giờ còn sớm mà! Bảo người ta làm sao ngủ cho được đây!”
“Ta có bảo nàng ngủ đâu, chỉ bảo nàng ngồi lên giường mà thôi”, chàng kéo nàng tới bên giường, nâng đôi chân nàng lên, vùi vào trong chăn, nói: “Ngoan ngoãn ngồi yên đấy, ta đã bảo tiểu nhị sắc thuốc rồi”.
“Ắt… xì!”, nàng dùng khăn tay của Mộ Dung Vô Phong ôm lấy mũi: “Thiếp nghe ngóng xong xuôi rồi, đi mấy canh giờ về phía trước chính là một trấn lớn, gọi là ‘Tiểu Giang Nam’, ở đấy có rất nhiều người Hán sinh sống, chúng ta cứ tới đó ở là được rồi. Người Hán nhiều, đồ ăn của người Hán cũng nhiều, ít nhất chàng cũng không cần cả ngày ngửi mùi thịt dê nữa”.
“Nàng nói ở đâu thì sẽ ở đó”, chàng giúp nàng dém chăn thật kỹ.
“Chỉ là đi trên con đường đó, ắt… xì! Trên đó có bọn cướp đường rất lợi hại”, Hà Y day day sống mũi.
“Đổi cái khăn này đi”, chàng đưa sang cho nàng một chiếc khăn sạch khác. Chàng đã giặt cho nàng mười mấy cái khăn tay, đã dùng lò hương hong khô hết, chuẩn bị sẵn lúc cần dùng.
“Thiếp hỏi A Cát rồi, cô ấy nói hai ngày nữa sẽ có một thương đoàn đi qua đây, chúng ta chỉ cần đưa một ít tiền, đi cùng bọn họ là an toàn rồi. Thương đoàn người Ba Tư này vận chuyển rất nhiều hàng hóa quý giá, rất chịu bỏ tiền thuê người bảo vệ.”
“Lũ cướp đường ấy đáng sợ thế sao?”, Mộ Dung Vô Phong không nhịn được hỏi.
“Còn không à! Thổ phỉ ở Thái Hành so với giặc cướp ở quan ngoại thì chỉ là trò đùa thôi. Vùng Tây Bắc lạnh lẽo khổ cực này, con người rất dũng mãnh, thuật cưỡi ngựa phi phàm, đến đi không để lại dấu vết. Võ lâm cao thủ miền Tây Bắc so với nhân sĩ trung nguyên lại càng kiệt xuất hơn. Chàng xem Tam tinh tam sát từng bắt cóc chàng đều là người Tây Bắc đấy, đến Tạ Đình Vân cũng chẳng có cách nào bắt được họ. Thiên Sơn Băng vương càng không cần nói, chỉ một chuyến vào trung nguyên hai mươi năm trước đã đánh bại toàn bộ kiếm khách lợi hại nhất của chúng ta khi ấy. Lại còn có Cố Thập Tam đang ở ngoài cửa đợi thiếp, tuy chưa được xem huynh ấy xuất thủ, nhưng mới nhìn thôi cũng biết là hạng không tầm thường”, vừa nhắc tới chuyện giang hồ, Hà Y đã lại tràn trề sinh lực.
Lần nào bọn họ rời phòng cũng đều gặp Cố Thập Tam ngồi ở bàn gần chỗ bọn họ nhất uống trà. Mỗi lần gặp Hà Y, Cố Thập Tam đều rất khách khí chào hỏi nàng. Hà Y không nhắc tới chuyện tỉ kiếm thì anh ta cũng không nhắc, thái độ luôn cực kỳ nhẫn nại. Mộ Dung Vô Phong vẫn luôn cho rằng anh ta có việc khác nên mới cần ở lại đây.
“Hắn ta ở sát vách chúng ta lâu như thế, hóa ra để đợi được tỉ kiếm với nàng?”, Mộ Dung Vô Phong có chút kinh ngạc nói.
“Đúng thế”, Hà Y gật đầu, “Thiếp có cảm giác huynh ấy còn lợi hại hơn cả Hạ Hồi”.
“Hà Y, nói cái gì mà ta có thể nghe hiểu được không? Hắn so với nàng thì sao?”
“Làm sao thiếp biết được? Đấu rồi mới biết chứ.”
“Nàng đừng có động thủ với hắn”, vừa nghe tới tỉ kiếm, chàng đã lại lo lắng.
“Bọn thiếp sẽ chỉ so chiêu thôi, điểm đến là dừng, không phải liều mạng phân sinh tử”, nàng cười nói: “Chàng không cần lo lắng”.
“Nàng đồng ý với hắn rồi?”, Mộ Dung Vô Phong càng lo lắng hơn.
“À, đồng ý ngay ngày đầu tiên rồi. Chàng xem thái độ của người ta rất tốt, trước giờ cũng chẳng thúc giục thiếp. Chỉ là mỗi ngày đều gặp thiếp hỏi một tiếng mà thôi. Thái độ tốt như thế, chúng ta có thể không đồng ý sao?”
Chàng còn muốn nói gì đó, nhưng lại đành ngậm miệng. Hà Y là một kiếm khách, kiếm khách đương nhiên thường phải so kiếm với người khác. Huống chi, những ngày này nàng đâu có được sờ tới kiếm? Cả ngày xắn tay áo chăm sóc cho chàng, giặt đồ, nấu ăn, sắp thành một bà vợ tiêu chuẩn rồi. Những ngày tháng như thế đối với một người hiếu động mà nói, lại chẳng nhàm chán lắm sao?
Nghĩ tới đó, chàng liền nói: “Ngày tỉ kiếm, nhớ gọi ta tới”.
Hà Y bĩu môi cười nói: “Từ bao giờ chàng lại trở nên có hứng thú với kiếm thuật như thế? Từ trước đến giờ cứ nghe tới hai chữ giang hồ là đã nhíu mày nhăn mặt rồi”.
“Chẳng phải chính vì lấy phải một lão bà là người giang hồ sao? Ta cũng tính là con rể của giang hồ rồi”, chàng mặt mày ủ rũ nói.
“Ha ha…”, Hà Y cười lăn lộn trên giường.
“Ngoan ngoãn nằm yên trên giường đi”, chàng giữ nàng lại, bắt nàng nằm vào trong chăn rồi than: “Sao nàng cứ như mang tuổi khỉ thế!”.
Hà Y chỉ đành nằm xuống, nhưng rồi lại thò tay ra nói: “Vô Phong, ắt… xì, bên ngoài có người gõ cửa”.
Là tiểu nhị bưng đến bát thuốc Mộ Dung Vô Phong nhờ sắc.
Thuốc ấy vừa được sắc xong, đặt trong một cái mâm nhỏ sơn đen tinh xảo.
Mộ Dung Vô Phong cảm ơn rồi nhận lấy. Nếu là lúc trước, hai chân còn đủ, chàng có thể đặt mâm thuốc ấy lên đùi mình. Bây giờ thì không được nữa rồi. Cho nên, chàng chỉ đành cầm lấy bát thuốc, tay phải bưng bát, tay trái lăn bánh xe, tự mình đi đến bên giường.
Bát thuốc đó có đáy cao, cũng không cảm thấy phỏng tay, nhưng bưng một bát thuốc đầy ắp đối với một người vẫn còn đang bệnh nặng mà nói thì thật sự vẫn có chút nặng nề. Chàng tới bên giường, định kéo Hà Y dậy, thân thể liền ngã về phía trước, không biết vì sao, cả người lại như không thể khống chế, đổ ập xuống giường!
Cả bát thuốc nóng bỏng lập tức đổ hết lên vai Hà Y!
Hà Y vốn là người luyện võ, phản ứng cực nhanh, nàng chỉ cần phẩy nhẹ một cái là có thể gạt bay bát thuốc, nhưng nếu làm thế, thuốc sẽ bay ngược lại đổ hết lên người Mộ Dung Vô Phong, cho nên nàng chỉ đành ngồi yên.
“Hà Y!”, Mộ Dung Vô Phong liền vịn tay vào thành giường, vội vàng vươn người dậy, vừa nhìn thấy trên vai Hà Y toàn là nước thuốc đen bóng liền cuống quít vén chăn, kéo nàng tới bên giường.
“Thiếp không sao, thiếp không sao. Thuốc này không nóng tí nào”, nàng ôm vai nói.
“Ngồi yên, đừng động đậy”, chàng áy náy nói: “Nhất định là bỏng hết rồi!”
Nói rồi lau hết thuốc trên vai nàng đi, lấy thuốc khác thoa nhẹ lên một lớp.
Da nàng đã bị bỏng sưng phồng lên rồi.
“Tạm thời không thể băng lại, đợi một lúc nữa có thể sưng bọng nước”, chàng cúi đầu nói, rồi kéo tấm khăn trải giường đã ướt sũng thuốc ra, gọi tiểu nhị, nhờ thay một khăn trải giường khác và sắc lại một bát thuốc bưng lên.
“Sưng thành bọng nước? Thế là thế nào?”, sợ chàng lo lắng, nàng cố ý cười hì hì hỏi. Chỗ bỏng đỏ đau rát tựa như ong đốt.
“Là trông rất đáng sợ”, chàng ngẩng đầu nhìn nàng, hồi lâu sau nhẹ nhàng đưa tay chạm vào vai nàng, nói: “Rất đau phải không?”.
“Không đau lắm”, nàng vốn sợ đau, tuy nói cứng như thế nhưng không khỏi mắm môi mắm lợi.
“Đau muốn chết còn nói không đau”, chàng than một tiếng, nói: “Nói chuyện với đại phu mà không thành thật như thế không được đâu. Ta ra ngoài một chút, xem xem thuốc sắc thế nào rồi”.
Chương 32
Chàng ra ngoài rất lâu mà không quay lại.
Hà Y biết tuy bên ngoài chàng vờ tỏ ra bình tĩnh nhưng trong lòng lại áy náy không yên, tự trách bản thân mình. Ở trong phòng đợi chàng nửa canh giờ, rốt cuộc không sao ngồi yên được, nàng khoác áo ra ngoài, đảo qua khách sảnh và nhà bếp một vòng đều không thấy bóng dáng chàng đâu, bèn ra khỏi cửa đi về hướng hậu viện.
Quả nhiên chàng đang ngồi một mình yên lặng dưới một gốc cây ở hậu viện, đầu cúi gằm, bất động.
Trời vẫn đổ một trận tuyết nhỏ, bóng lưng chàng quay về phía nàng. Trong lòng Hà Y thở dài, hiểu rằng lúc này chàng đang rất buồn nên cũng không dám mạo muội đi tới trước mặt chàng, chỉ yên lặng đứng một bên chờ đợi.
Ngồi rất lâu, không gian văng vẳng mấy tiếng thở dài của chàng. Sau đó chàng đột nhiên nắm tay lại, đấm mạnh vào thân cây bên cạnh!
Bản tính chàng vốn sống nội tâm, từ trước tới giờ không muốn giãi bày những phiền muộn của bản thân với người khác, nhưng dù gì chàng vẫn là một người trẻ tuổi, mỗi khi nghĩ tới thân thể mạnh khỏe của người khác, tự do chạy nhảy còn đôi chân mình thì lại tàn phế, đi nửa bước cũng khó thì trong lòng không khỏi đau khổ bi phẫn. Như thế thôi cũng được, đằng này thân thể còn yếu đuối, động tí là đổ bệnh. Cuộc sống xách kiếm rong ruổi, thoả chí giang hồ của Hà Y trước kia, với chàng mà nói giống như một giấc mộng chẳng bao giờ thành sự thật. Chàng cùng Hà Y trải qua bao nhiêu gian khổ, cuối cùng cũng có thể sống cùng nhau, nhưng sức khỏe của chàng lại ngày càng sa sút, hôm sau không bằng hôm trước. Đến như bây giờ, thân là trượng phu, chẳng những đã không có chút sức lực bảo vệ thê tử, mà đến cả việc bưng một bát thuốc tới cho nàng, chàng cũng chẳng làm xong, lại đánh đổ khiến nàng bị bỏng. Cứ nghĩ tới đây, lòng chàng đau như lửa đốt, phiền muộn như muốn phát điên, hận tới nỗi chỉ muốn đập đầu vào thân cây này mà chết quách đi cho xong, nhưng lại chẳng thể làm được.
Sức chàng rất yếu, thân cây chỉ khẽ rung chút xíu, tuyết đọng bên trên rơi lả tả xuống người chàng.
Nước mắt Hà Y đã trào ra tự lúc nào, nhưng vẫn do dự không dám tiến tới.
Tính chàng vốn cao ngạo quật cường, không bao giờ muốn để người khác nhìn thấy bộ dạng sầu muộn của mình.
Cho nên, nàng chỉ có thể tiếp tục đứng từ xa dõi theo chàng một lúc, thấy chàng tựa như đã bình tĩnh trở lại, mới bước những bước nặng nề, đi tới sau lưng chàng, vươn tay vòng qua cổ ôm lấy chàng.
“Làm sao vậy? Một mình ở đây làm gì?”, khuôn mặt nàng áp chặt vào khuôn mặt giá băng của Mộ Dung Vô Phong.
“Ở trong phòng… có chút bức bối, ta muốn ra ngoài ngồi một lát”, chàng lãnh đạm nói, giọng có chút run run: “Sao nàng cũng ra đây làm gì? Rõ ràng đang ốm mà”.
“A… trong phòng buồn bực, thiếp cũng muốn ra ngoài.”
“Quàng chăn lên”, chàng kéo chăn đang phủ trên chân mình, đưa cho nàng.
Nàng tiếp lấy, quàng lên người rồi tiếp tục ở phía sau ôm chặt lấy chàng.
“Vô Phong”, Hà Y thì thầm bên tai chàng: “Từ sau khi chàng… chàng bị thương, sẽ không thể… không thể tùy tiện cúi người xuống nữa. Nhất định phải chống tay đỡ người cho chắc mới được nếu không sẽ ngã đấy”.
Trước đây lúc đôi chân chàng còn nguyên vẹn, tuy không thể điều khiển theo ý muốn nhưng vẫn có thể duy trì thăng bằng của cơ thể khi ngồi trên xe, không cần vịn hay chống tay cũng có thể tùy ý cúi gập lưng xuống. Nhưng bây giờ chàng chỉ còn một chân, lại đang bị trọng thương, sau cơn bệnh nặng càng trở nên yếu ớt, cơ thịt teo hết, chỉ còn lại da bọc xương, cân bằng của cơ thể tất nhiên càng khó duy trì. Do chàng từ đấy đến giờ luôn phải nằm trên giường, ngồi nằm đều do Hà Y dìu đỡ chăm sóc cho nên không hề phát hiện ra thay đổi này. Đến khi chàng bưng bát thuốc, định cúi mình xuống thì thân thể đã hoàn toàn mất khống chế.
Chàng trầm mặc không nói gì.
“Thiếp từ sớm đã định nói cho chàng, chỉ sợ chàng buồn”, nàng hôn lên mặt chàng, sợ chàng thương tâm quá độ, vội vàng thay đổi chủ đề: “Ha ha, chàng có biết lão bà của chàng phóng phi tiêu cũng rất chuẩn không?”.
“Chuẩn như thế nào?”, tâm tình của chàng rất tệ nhưng cuối cùng cũng khá lên được một chút.
“Đây là quả táo, bất kể chàng đặt nó ở đâu phi tiêu của thiếp cũng có thể phóng trúng nó”, nàng lấy ra một quả táo đưa cho chàng, dương dương tự đắc nói.
“Không thể thần kỳ như thế chứ?”, chàng cố tình chọc nàng.
“Chàng cứ thử coi!”
Chàng vận sức ném quả táo “veo” một tiếng, rơi cách hai người không xa.
“Phi tiêu của nàng đâu? Sao ta không thấy?… Hà Y, chớ có nhổ tóc của ta đấy nhé!”, chàng ngó đông, ngó tây nói.
“Xem lão huynh chàng ném như thế, thật chẳng đủ sức chết nổi một con ruồi, lại còn cần dùng phi tiêu sao? Làm ơn ném xa xa một chút có được không?”
“Đấy là xa nhất rồi đó. Hôm nay kể như ta còn có chút sức lực đấy”, chàng uể oải than.
“Thế sao? Thiếp không tin!”, Hà Y chạy lại nhặt quả táo lên cắn một miếng rồi vun một bụm tuyết ném qua, trúng ngay vai Mộ Dung Vô Phong đánh “bộp” một tiếng, quả cầu tuyết vỡ tung tóe, bắn đầy lên áo khoác chàng.
“Ném thật đây!”, chàng nghiêng người gom hai quả cầu tuyết, đẩy bánh xe, dùng sức ném đi, trúng ngay vạt áo dưới của Hà Y.
“Còn ném trúng thiếp cơ đấy!”, Hà Y cao hứng, không kìm được chân tay khua loạn lên: “Để xem hai người chúng ta, ai lợi hại!”, nói xong, ném mấy quả cầu tuyết về phía chàng, tới tấp đến mức làm Mộ Dung Vô Phong tối tăm mặt mũi.
Mộ Dung Vô Phong vội ném trả “bộp bộp” hai tiếng, vừa nhanh vừa chuẩn. Sức chàng có hạn, một tay lăn bánh xe, đã dần dần đến gần Hà Y, nhân lúc nàng không đề phòng, bèn kéo áo nàng một cái, hai người lăn xuống tuyết, tay không cuộn lấy nhau.
“Oa, Vô Phong, chiêu này không tồi nhé! Thật giống chiêu ‘Hắc Hổ Đào Tâm’ đấy!”, Hà Y cười khanh khách nói.
“Nàng trêu ta, có phải không?”, chàng vồ tới, hai người ôm lấy nhau vật lộn mấy vòng.
Lúc ấy, trong nhà đã tối om, chỉ có ánh đèn lồng leo lét phía xa xa còn tỏa ra một đốm sáng mờ mờ.
Hai người đùa nghịch tới khi thở hồng hộc, mồ hôi ướt đẫm mới thôi. Hà Y đã cười nhiều tới mức sắp khản cả giọng rồi.
“Sao nàng cười mãi thế?”, Mộ Dung Vô Phong ngồi trên tuyết hỏi, xe lăn giờ chẳng biết quẳng ở góc nào rồi.
“Thành thật khai ra, lúc nhỏ rốt cuộc chàng đã từng đánh nhau với ai chưa?”, Hà Y cười hỏi: “Xem chiêu thức của chàng, còn chưa đạt nổi mức tệ nữa”.
“Câu này có phải quá xem thường nhau rồi không? Hà Y! Nào nào nào, tới đây đánh một trận nữa”, chàng lại muốn kéo áo nàng.
“Còn đánh gì nữa, ngồi trong tuyết lâu thế này rồi, vết thương ở chân không khéo lại tái phát đấy, đến lúc ấy chàng không đau tới chết đi sống lại mới là lạ”, nàng nhìn bộ dạng của chàng, lại thấy quặn lòng. Nàng đỡ chàng dậy, lấy nạng đặt vào nách cho chàng, nói: “Nếu chàng còn sức, thiếp cùng chàng đi vào”, nói rồi khẽ phủi tuyết trên áo khoác chàng.
Dáng vẻ chàng lúc đứng dậy cực kỳ gắng gượng, cả người đã phải hoàn toàn tựa vào Hà Y mà vẫn không ngừng lảo đảo.
“Làm sao thế?”, nàng vội vàng đỡ lấy lưng chàng.
“Không sao”, chàng khẽ nói, nghiến chặt răng, gồng mình đi về trước một bước: “Nàng đi lấy xe lăn của ta lại đây, ta đi xem thuốc đã sắc xong chưa”.
“Còn xem gì nữa? Thiếp uống xong thuốc từ lâu rồi.”
“Xem ra đúng là uống rồi”, chàng cười nói: “Nếu không, chúng ta đùa nghịch bên ngoài lâu như thế, vẫn không thấy nàng ắt xì cái nào, thế lại không lạ lắm sao?”.
“Thiếp đã nói rồi, thiếp ốm cũng không cần lo, một lúc là khỏe thôi mà chàng cứ không tin, cứ bắt thiếp uống thuốc”, nàng co chân nhảy ba bước nói: “Cả người thiếp bây giờ toàn mồ hôi, đưa chàng về phòng trước rồi thiếp sẽ ra ngoài chơi một lúc. Thiếp cưỡi lạc đà vẫn chưa đã đâu!”.
“Đợi một chút, đợi ta băng vết thương trên vai nàng lại đã rồi hẵng đi”, chàng thở dài.
“Đấy mà cũng gọi là vết thương á! Không cần băng đâu”, Hà Y vội vàng nói, nói xong đã định chuồn đi.
“Nghe lời nào”, chàng kéo nàng một cái. Hà Y đành ngoan ngoãn quay lại, dìu chàng lên xe lăn. Đi vào phòng chàng liền vén ống tay áo của nàng, chỗ bỏng đỏ sớm đã sưng thành mấy bọng nước. Chàng dùng một cây ngân châm châm vỡ rồi thoa lên một lớp cao thuốc, sau đó băng lại cho nàng, xong xuôi mới nói: “Được rồi, đi đi”.
Hà Y ba chân bốn cẳng chạy, loáng cái đã không thấy bóng dáng đâu nữa. Chẳng bao lâu sau, ngoài cửa vọng tới tiếng chuông cổ lạc đà, Hà Y gõ cửa sổ nói: “Vô Phong, thiếp lên núi chơi đây, chàng muốn đi không?”.
“Sao vẫn còn chưa đi? Ta không đi đâu, ta… ta thấy hơi mệt”, chàng nhẹ giọng đáp.
Sức khỏe chàng còn lâu nữa mới hồi phục như trước, hiển nhiên rất dễ kiệt sức. Hà Y nói: “Vậy thiếp đi nhé!”.
Nói rồi, tiếng chuông lạc đà vẳng xa dần.
Mộ Dung Vô Phong đóng cửa lại, cảm thấy thân thể mình thấm lạnh, liền tới khều lại than trong lò sưởi, thu hết khăn tay đã khô ráo ban nãy hong trên lò hương lại, đặt vào dưới gối. Chỗ vết thương của chàng vừa rồi lại chạm vào tuyết, bắt đầu nhói đau từng chập, cơn đau xói vào xương tủy, tựa như đao xẻo kiếm cứa vậy, nửa thân phải lập tức tê dại, dường như lục phủ ngũ tạng cũng đang quặn vào nhau, thoáng chốc đã đau tới toàn thân toát hết mồ hôi lạnh. Chàng vội nuốt một viên thuốc, tránh cho đau quá mà co giật, không khéo bệnh tim lại theo đó phát tác. Nhưng chàng vẫn biết nếu thật sự tới mức tình huống xấu nhất, thuốc đó cũng chẳng có tác dụng gì.
Cơn đau dần dần trở nên kịch liệt, đã có chút không sao chịu nổi, chàng chỉ còn cách nghiến chặt răng, lê vào phòng tắm, ngâm mình trong nước nóng.
Thùng tắm đó không sâu, đại khái chỉ cao khoảng nửa thân người lớn, bốn phía đều có tay vịn, phía gần chiếc sạp còn có băng ghế hình bán nguyệt chìm trong nước để ngồi ngâm mình. Đang ở trong thùng, hai tay của Mộ Dung Vô Phong bỗng nhiên co giật, không sao nắm được nữa, cả người lập tức trượt xuống đáy thùng, trong lúc hoảng loạn chàng đã uống liền mấy ngụm nước, tay vịn phía trên gần trong gang tấc, gần như đã chạm vào đầu ngón tay chàng, vậy mà chàng hoàn toàn chẳng có sức vươn mình khỏi mặt nước mà nắm lấy.
Chàng chìm trong nước, giãy giụa một hồi thì sức cùng lực kiệt, cả người co giật mà co quắp lại.
Đang lúc tuyệt vọng, bỗng cảm thấy có ai đó kéo mình lên khỏi mặt nước, hai cánh tay mềm mại ôm lấy eo chàng, ngả đầu chàng xuống rồi vỗ lên ngực chàng một chưởng. Mộ Dung Vô Phong “ộc” một tiếng, nôn ra mấy ngụm nước rồi ra sức hít lấy hít để.
Một lúc lâu sau, thân thể chàng vẫn cứ co cứng, Hà Y vội vàng đưa chàng về giường.
Mộ Dung Vô Phong vẫn đang cố sức hít thở, chẳng thể nói năng được gì.
Hà Y đi lấy một chiếc khăn sạch, giúp chàng lau khô mái tóc ướt, nhìn chàng thở hồng hộc không thôi bèn nhẹ nhàng xoa nắn thân thể cứng ngắc của chàng nói: “Đau lắm phải không? Lão công tội nghiệp, còn may thiếp về kịp”.
Chàng kiệt sức nhìn nàng, mãi lâu sau, cơn đau dần bớt, mới gắng gượng gom được chút sức để nói: “Tốt rồi, sao mới đi đã quay lại rồi?”.
Nàng gõ gõ vào trán chàng, than: “Thân thể này của chàng, ngày khỏe ngày không, làm sao thiếp an tâm cho được? Đi được nửa đường thì vòng lại. Bây giờ đỡ hơn chút nào chưa?”.
Chàng gặt đầu, hai tay vẫn siết chặt lấy khăn trải giường.
Hà Y dùng khăn ấm nhẹ nhàng chườm lên vết thương của chàng, nhìn chàng đau đớn vật vã trên giường gần hai canh giờ, sau rồi cơn đau mới dần dần lui. Lúc ấy, Mộ Dung Vô Phong mặt mày trắng bệch, ánh mắt tán loạn, sớm đã hoàn toàn kiệt sức.
“Đường môn!”, Hà Y nghiến răng nghiến lợi rủa thầm trong lòng.
Mộ Dung Vô Phong mê man ngủ thiếp đi, một lúc sau lại tỉnh dậy, lúc mở mắt nhìn thấy Hà Y đang ngồi bên giường, từng kim từng kim khâu y phục, trong miệng đang lẩm nhẩm gì đó.
Chàng không kìm được trố mắt ra nhìn, hỏi: “Hà Y, nàng… nàng làm gì thế?”.
Từ trước tới giờ chàng chưa từng thấy Hà Y khâu y phục, vốn luôn cho rằng nàng hoàn toàn không thể làm loại việc này.
Hà Y cười, cầm kéo trong tay “lách cách” mấy tiếng đã cắt phéng một ống quần của chàng sâu tới tận bẹn, nói: “Thiếp đem mấy cái ống quần này cắt hết đi, tránh cho sau này chàng mặc vào thấy vướng víu”, cắt xong, nàng lại xỏ kim khâu kín ống quần lại.
Chàng nhịn không được nói: “Sau này nàng tới tiệm may bảo người ta may y phục, nhớ dặn bọn họ làm ít đi một cái ống quần, có khi còn bớt được chút tiền”.
Mộ Dung Vô Phong vừa nói câu ấy, Hà Y đã phá lên cười: “Làm sao tính như thế được? Đã làm ít đi một ống quần lại còn muốn tính lợi thêm cho mình”.
Chàng đưa tay, vuốt ve bàn tay Hà Y nói: “Từ trước tới giờ chưa từng thấy nàng động tới dao kéo, mấy việc này, nếu nàng không thích thì không phải làm đâu”.
“Chàng biết may vá sao? Thiếp không biết mà chàng lại biết á?”
“Ừm. Ta là đại phu, dù là chưa từng khâu vá y phục thì cũng từng khâu thứ khác rồi. Mà thực ra ta rất hay phải khâu đấy.”
“Câu này sao thiếp nghe mà thấy ớn lạnh thế!”, nàng nhay nhay mấy cái mới cắn đứt được sợi chỉ, nói: “Ngoan ngoãn nằm xuống ngủ đi, cả ngày đùa nghịch với thiếp rồi, vừa nãy chàng nói linh tinh một hồi làm thiếp khâu sai mấy đường rồi đây này”, nói xong, Hà Y lại không cẩn thận đâm kim trúng ngón trỏ, nàng liền đưa ngón tay vào miệng mút.
Không cãi được với nàng, Mộ Dung Vô Phong đành nhắm mắt lại.
Hà Y bỗng vỗ vỗ đầu chàng nói: “Sau lần này chàng nên để thiếp ở lại phòng tắm với chàng rồi chứ?”.
“Không có cửa đâu.”
“Còn bướng à!”
“Bướng đến cùng đấy.”
“Nhỡ chết đuối thì biết làm sao?”
“Chết đuối thì chết đuối.”
“Mộ Dung Vô Phong, thiếp phục chàng rồi. Có điều, chàng nghĩ mà xem, chàng có phải đàn bà con gái đâu, thiếp ở lại trong ấy cuối cùng thì hại gì tới chàng?”
“Trong này có một đạo lý, nàng muốn nghe không?”
“Đạo lý? Nói nghe thử coi?”
“Nàng nói xem, cả đời người chỉ có lúc tắm rửa mới không cần nghĩ xem rốt cuộc mình là cái gì, là nam hay là nữ. Mặc y phục rồi mới bắt đầu nghĩ ngợi cái ấy.”
“Điều này… cũng đúng.”
“Một chút thời khắc quý báu ấy trong ngày, nàng cũng muốn vào phá, thế có phải rất không tốt không?”
“Hình như đúng là không tốt”, Hà Y gật đầu nói: “A, cuối cùng thiếp hiểu rồi. Chàng muốn nói, khi thiếp tắm rửa chàng cũng sẽ không vào”.
“Việc này… ta không hề nói”, Mộ Dung Vô Phong vội rụt đầu vào trong chăn.
Chợt nghe bên ngoài có tiếng ồn ào, Mộ Dung Vô Phong mới thò đầu ra, hỏi: “Sao ngoài cửa ồn thế?”.
“Có lẽ cuối cùng thương đoàn của người Ba Tư kia cũng tới rồi”, Hà Y thu dọn kim chỉ trong tay, tắm rửa một lúc rồi tắt đèn, chui vào trong chăn. Tiếng ồn ngoài cửa càng lúc càng lớn, xen giữa còn có tiếng ngựa phi qua lại.
“Chàng nói xem, liệu có phải là giặc cướp không?”, Hà Y không nhịn được đoán mò, mãi không thấy chàng trả lời liền quay đầu lại, phát hiện Mộ Dung Vô Phong đang nắm chặt một ngón tay mình ngủ ngon lành rồi.
Khó khăn lắm mới rút được tay khỏi bàn tay của Mộ Dung Vô Phong, nàng nhẹ nhàng chuồn xuống giường thay y phục, cầm kiếm, khẽ khàng đi vào khách sảnh.
Trong sảnh quả nhiên ngồn ngộn người, một đoàn người Ba Tư tóc búi, mắt màu bích, dưới sự bảo vệ của mấy chục người Hán lưng đeo cương đao đi vào trong, trong số đó còn có cả một cô gái Ba Tư từ đầu đến chân phủ khăn sa che kín người. Loại khăn sa dài này gọi là “Mộ li”, là trang phục của người Hồ, từng rất phổ biến vào thời Đường. Đám người này chen thêm vào, phút chốc cả khách sảnh đã chật cứng đến nước cũng không len qua được. A Cát bận cuống cuồng, dọn bàn này, dịch ghế nọ, mời khách ngồi cả xuống. Nào là bánh Hồ, bánh bao rán, thịt dê nướng, sữa dê, rượu Cao Xương liên tục được bê lên. Mấy nam nhân Ba Tư đã không khách khí mà ngồi xuống nhai nhồm nhoàm cả rồi.
Trong lòng Hà Y thầm thắc mắc: “Sao bảo thương đoàn Ba Tư này mai mới tới, đêm nay sao lại ở cả đây rồi?”, rồi tóm lấy bà chủ quán đang tất tả chạy trước chạy sau hỏi: “A Cát, đây chính là thương đoàn mà cô bảo lúc trước à?”.
“Đúng rồi, nếu cô muốn đi cùng họ một thể thì nhanh nhanh tìm trưởng đoàn của họ mà nói chuyện, họ ăn xong là sẽ lên đường luôn đấy.”
“Nhưng mà…”, nàng nghĩ tới Mộ Dung Vô Phong vừa nãy mới phát bệnh, ít nhất phải hai ngày nữa mới có thể hồi lại sức lực, hôm nay không dễ dàng gì mới ngủ ngon lành, lẽ nào lại phải đánh thức chàng dậy đi suốt đêm? Nhưng nghĩ lại, nếu bỏ qua cơ hội này, muốn đến Tiểu Giang Nam thì chỉ sợ lại phải đợi rất lâu nữa, mà nếu bản thân đi một mình trên đường ấy thì lại càng nguy hiểm.
Sau đó nàng chợt thấy Cố Thập Tam ôm kiếm, cũng đứng lẫn trong đám người Ba Tư, đang nói chuyện với một người tóc vàng cao lớn. Một lúc sau, anh ta nhìn thấy Hà Y liền bước qua chào hỏi: “Sở cô nương, muộn thế này rồi còn chưa ngủ?”.
“À, chúng tôi muốn đi cùng với thương đoàn Ba Tư này nhưng không biết phải tìm ai nói chuyện? Cố huynh có quen biết bọn họ không?”
“Không quen biết lắm, tôi chỉ là người bọn họ thuê làm bảo vệ mà thôi.”
“Hả?”, Hà Y kinh ngạc.
“Đây chính là nghề của tôi, chuyên hộ tống các thương đoàn trên mấy tuyến đường này, người Ba Tư thường trả công rất cao cho tôi”, Cố Thập Tam còn thong thả bổ sung một câu: “Đương nhiên nguy hiểm gặp phải cũng rất lớn. Đây là một trong những công việc có tính kích thích cao nhất”.
Từ lúc trong tay có một tập ngân phiếu lớn, Hà Y gần như đã quên béng những ngày tháng gian khổ bán mạng kiếm tiền mưu sinh trước đây của mình, nhưng nàng không thể không thừa nhận nàng thực ra rất thích những ngày tháng trùng trùng mạo hiểm đó.
Hà Y nói: “Cố đại hiệp, liệu tôi có thể nhờ huynh giúp một việc được không?”.
“Giúp việc gì?”, Cố Thập Tam chăm chú nhìn.
“Tôi muốn tới tìm trưởng đoàn của người Ba Tư nói chuyện, xin họ cho chúng tôi đi cùng thương đoàn. Tướng công tôi… tướng công tôi không ai chăm nom. Liệu có thể nhờ huynh ngồi trông chàng một lát, tôi đi rồi sẽ về ngay.”
Trong khách sảnh đầy ắp những người xa lạ này, thật hoàn toàn không thể lường hết được mọi chuyện, nếu trong đó có kẻ nào biết được thân phận Mộ Dung Vô Phong, muốn cái đầu của chàng vậy thì đúng là một việc quá nguy hiểm rồi.
“Không thành vấn đề”, Cố Thập Tam nói.
Hà Y dẫn Cố Thập Tam tới phòng ngủ của Mộ Dung Vô Phong, sau đó khẽ lay chàng tỉnh dậy, nhỏ giọng nói: “Thiếp mời Cố đại hiệp tới trông chàng một lúc, thiếp đi tìm người Ba Tư nói chuyện, đi rồi về ngay”.
Mộ Dung Vô Phong nằm trên giường gật đầu, bảo: “Đêm nay chúng ta đi ngay sao?”.
“Có lẽ thế”, Hà Y nói xong, chớp mắt đã mất tăm ngoài cửa.
Mộ Dung Vô Phong nhìn Cố Thập Tam đứng bên giường, liền chỉ chiếc ghế lớn cạnh bàn nói: “Cố đại hiệp, mời ngồi”.
Cố Thập Tam ngồi xuống, hỏi: “Xưng hô với các hạ như thế nào đây?”
“Tôi họ Lâm”, chàng đem cắt đi nửa dưới của chữ Sở[1] làm họ mình.
[1] Chữ Sở (
楚
) có bỏ đi nửa dưới chính là chữ Lâm (
林
).
Sau đó là bầu không khí yên lặng kéo dài, hai người đều chẳng có gì để nói với nhau. Mộ Dung Vô Phong vốn không thích bắt chuyện với người lạ, Cố Thập Tam xem ra cũng không phải người thích nói nhiều.
Củi thơm trong lò hương kêu lách tách, cả phòng phảng phất một mùi hương thanh đạm tựa có tựa không.
Cố Thập Tam chưa từng ngửi thấy một mùi hương nào dễ chịu lại không nồng thế này. Anh ta đưa mắt nhìn xung quanh căn phòng một lượt, phát hiện phòng này không lớn nhưng rất ấm áp, thực ra là có chút hơi quá ấm, chỉ ngồi một lúc là bắt đầu toát cả mồ hôi.
Trong lòng Cố Thập Tam ngầm phán đoán thân phận của người thanh niên trẻ tuổi tàn phế này.
Lấy thân thủ của Hà Y ra xem xét, nam nhân bên cạnh nàng tuyệt đối không thể là hạng tầm thường. Tay họ Lâm này đương nhiên không tầm thường, trong mắt của người bình thường, hắn đơn giản là còn chẳng bằng người tầm thường.
Mộ Dung Vô Phong nằm trên giường, lúc thấy khách liền vươn tay với lấy vòng gỗ treo trên giường, một tay chống, một tay kéo, khó nhọc nhoài người từ trong chăn ra. Ngày nào chàng cũng phải làm thế này mới có thể ngồi dậy.
Cố Thập Tam thật nghĩ không ra tại sao Sở Hà Y lại chọn một nam nhân ngay đến việc ngồi dậy khỏi giường lại cũng gặp trùng trùng khó khăn như thế. Đại khái là vì trong phòng quá nóng, nam nhân này cởi trần nửa người. Cơ thịt anh ta săn chắc, hai tay dài có lực, làn da căng mịn, nhìn là biết không phải là người thiếu rèn luyện. Thân thể tuy hơi gầy gò nhưng không phải bộ dạng yếu ớt chẳng có lấy chút sức lực như lần đầu tiên Cố Thập Tam gặp mặt. Chỉ là làn da của anh ta quá xanh xao, lại được chăm sóc quá cẩn thận rất dễ để người khác cảm thấy người này không khỏe mạnh.
Cố Thập Tam không thể không thừa nhận, nếu nhìn vào dáng vẻ hiện nay thì anh ta quả thật là một nam nhân rất có sức hấp dẫn. Khuôn mặt anh ta rất ung dung bình thản, mang một loại khí chất vừa cao quý lại vừa huyền bí khó tả.
“Xin lỗi, Cố đại hiệp”, chàng chợt quay đầu sang, nói với Cố Thập Tam: “Tôi muốn thay y phục, có thể phiền huynh tạm tránh đi một lát không?”.
Cho dù đang bệnh cực nặng cũng không bao giờ nằm trên giường trước mặt người lạ, đây là nguyên tắc nhất quán của Mộ Dung Vô Phong.
“Quý phu nhân muốn tôi trông chừng bên cạnh huynh, phòng có gì bất trắc”, Cố Thập Tam thản nhiên đáp, chẳng thèm động đậy.
“Nói tới thê tử của tôi, tôi đang muốn thỉnh giáo, Cố đại hiệp định bao giờ tỉ kiếm với nàng?”
“Việc này do cô ấy quyết định”, Cố Thập Tam lạnh nhạt nói.
Mộ Dung Vô Phong lại nói: “Về kiếm…”.
“Huynh biết về kiếm?”, Cố Thập Tam đột nhiên ngắt lời.
Mộ Dung Vô Phong sững người, nói: “Không biết”.
“Người không biết gì về kiếm tốt nhất là không nên nhắc tới chữ ‘kiếm’ ấy”, Cố Thập Tam nói.
Tuy Mộ Dung Vô Phong từng được nghe Hà Y nói tới các kiểu các dạng quái nhân trên giang hồ với các loại sùng bái khác nhau nhưng vẫn bị câu này chọc giận tới tái mặt. Chàng ngồi nghiêng trên giường, chính là đang quay lưng về phía Cố Thập Tam, hai người đều không nhìn thấy vẻ khinh thường trên mặt nhau.
Trầm lặng.
Lại chẳng có gì để nói.
Mộ Dung Vô Phong lật chăn ra, kéo xe lăn lại.
Tuy Mộ Dung Vô Phong quay lưng lại với minh nhưng Cố Thập Tam có thể nhìn thấy chàng một tay chống mép giường, gồng mình ngồi vào xe, mặc áo khoác, quả thật so với nửa thân trên gần như hoàn mỹ, nửa thân dưới của chàng lại tàn tạ đến mức đáng sợ.
Cố Thập Tam đơn giản là không dám tin, một người tàn phế thành ra bộ dạng này rồi mà vẫn có thể tiếp tục sống yên lành. Trong lòng Cố Thập Tam không khỏi có chút thương xót. Kể cả là ngồi trên xe lăn, nam nhân này vẫn không thể cử động thoải mái. Thân thể anh ta chỉ có thể tựa dính vào lưng ghế, cực kỳ bị hạn chế mà duy trì một tư thế ngồi thẳng tắp cứng ngắc. Từ trước tới giờ Cố Thập Tam rất ít khi cảm thông với người khác, nhưng dáng vẻ của nam nhân trước mắt khiến anh ta bỗng cảm thấy buồn lòng. Nam nhân đó còn quá trẻ, cuộc đời gần như chỉ vừa mới bắt đầu vậy mà đã phải chịu khó khăn đến thế.
Thay xong y phục, Mộ Dung Vô Phong đẩy bánh xe quay lại, lạnh lùng nói với Cố Thập Tam.
“Nội tử vẫn thường quá lo cho tôi, thật ra không cần phải như vậy. Xin các hạ cứ quay về đi.”
Tuy là đuổi khách nhưng chàng nói câu này vẫn rất khách khí, đã nghĩ tới thể diện của Hà Y. Rất ít người dám dùng loại khẩu khí khinh thường ấy nói chuyện với chàng, cứ theo tính tình chàng ngày trước, sớm đã nổi giận mà ăn miếng trả miếng rồi. Người trong Vân Mộng cốc đều biết bệnh tim của Mộ Dung Vô Phong mà phát tác lâu ngày thì tâm tình cực tệ. Lúc cáu giận thì rất hay ném đồ đạc trong phòng. Cho nên rất ít người dám chọc giận chàng.
Có điều, người trên giang hồ đều biết, tính khí của Cố Thập Tam cũng rất kỳ quái. Anh ta là một trong những kiếm khách hiếm có trong thiên hạ sùng bái kiếm nhiệt tình như sung bái tôn giáo. Kiếm đối với anh ta mà nói tuyệt đối không phải là công cụ giết người mà là tác phẩm nghệ thuật, một thứ nghệ thuật, một vẻ đẹp chân chính.
“Tôi đã nhận lời trông chừng huynh với người khác, nhất định phải làm tới cùng”, Cố Thập Tam thản nhiên ngồi yên đấy, không có ý định đứng dậy đi ra.
Mộ Dung Vô Phong lăn bánh tới cửa, mở cửa rồi ra ngoài. Lúc đi ra cũng chẳng thèm nhìn Cố Thập Tam lấy một cái.
Cố Thập Tam thì lặng lẽ theo sau, bất kể Mộ Dung Vô Phong đi đâu, anh ta đều ở cách chàng không quá ba thước.
Mộ Dung Vô Phong tới phòng ăn, gọi một ấm trà ngọt, Cố Thập Tam đến ngồi ở một bàn khác cách chàng không xa. Lúc Hà Y quay lại, vừa hay thấy hai người đang chẳng nói chẳng rằng ngồi ở hai nơi.
“Hai người chàng làm sao thế?”, nàng nhìn Mộ Dung Vô Phong rồi lại nhìn Cố Thập Tam.
“Chẳng sao cả”, Mộ Dung Vô Phong nhạt giọng nói: “Bao giờ chúng ta xuất phát?”.
“Không dễ đâu. Tay người Ba Tư ấy sống chết gì cũng không nhận lời, đưa bao nhiêu tiền cũng không được.”
“Sao vậy?”
“Ông ta nói chuyến hàng lần này bọn họ mang theo rất nhiều hàng hóa, trên đường chắc chắn sẽ gặp phải giặc cướp. Theo quy tắc của bọn họ, đến lúc ấy tất cả nam nhân đều sẽ phải cầm đao chống cự. Thiếp nói, chàng đang ốm nặng, không thể giúp gì được, nhưng thiếp có thể thay chàng đánh nhau. Ông ta nhất quyết không đồng ý, nói thiếp là nữ nhân. Nữ nhân chỉ có thể ở lại trong xe. Cho nên, chúng ta phải nghĩ cách khác thôi”, nàng thở dài một hơi, vỗ vỗ vai chàng.
Mộ Dung Vô Phong nói: “Nàng gọi tay Ba Tư ấy tới đây, ta sẽ nói chuyện với hắn”.
“Nói gì nữa đây, thiếp nói rã họng ra rồi mà chẳng làm sao được, đừng đi nữa.”
“Nàng gọi hắn tới đây”, chàng nhắc lại lần nữa.
Hà Y chỉ đành chạy tới giữa sảnh, lôi người Ba Tư vừa nói chuyện với mình tới.
“Không được, không được, không thể làm hỏng quy tắc được”, dọc đường người Ba Tư đó luôn miệng dùng giọng quan thoại cứng ngắc của mình nói. Ông ta nhìn thấy bộ dạng của Mộ Dung Vô Phong, lại càng không ngừng lắc đầu.
Mộ Dung Vô Phong cười nhạt, bỗng đưa tay phải lên ngực, hành lễ với ông ta rồi dùng một giọng Ba Tư rất tao nhã nói một tràng dài.
Người Ba Tư kia kinh ngạc trợn tròn mắt, đột nhiên kích động mà bô lô ba la nói một thôi một hồi không ngừng với chàng.
Mộ Dung Vô Phong ung dung đáp lại lưu loát, nhưng nói ra cái gì, Hà Y với Cố Thập Tam đều chẳng hiểu nổi lấy nửa chữ.
Chuyện trò một lúc lâu, người Ba Tư kia ha ha cười, rồi ôm Mộ Dung Vô Phong một cái, lại kéo tay chàng nói thêm một tràng rồi mới khách khí gật đầu với Hà Y và đi khỏi.
Hà Y có chút đắm đuối nhìn Mộ Dung Vô Phong: “Từ bao giờ chàng lại có thể nói tiếng Ba Tư vậy?”.
“Chỉ có thể nói chút xíu thôi mà.”
“Xem ra ông ta đồng ý rồi hả?”
“Ừm, chuẩn bị hành lý thôi. Nửa canh giờ nữa chúng ta lên đường rồi.”
“Thiếp phải đi cảm ơn Cố Thập Tam, vừa rồi huynh ấy vẫn luôn thay thiếp chiếu cố chàng.”
“Nàng tự đi cám ơn đi”, Mộ Dung Vô Phong đẩy bánh xe, bỏ hai người lại, một mạch đi thẳng về phòng.
Hà Y quay lại hơi áy náy nhìn Cố Thập Tam, ấp úng một lúc mới nói: “Xin lỗi, chàng… tính khí chàng không được tốt lắm. Vừa rồi đa tạ huynh giúp đỡ”.
“Đừng khách khí”, Cố Thập Tam dừng một chút, cuối cùng mới nghi hoặc hỏi: “Lâm tiên sinh làm nghề gì vậy?”.
Hà Y và Mộ Dung Vô Phong đã thoả thuận, dọc đường sẽ đổi họ Mộ Dung Vô Phong thành “Lâm”, tránh gặp phải phiền phức.
“Hiện giờ chàng cũng chẳng làm được gì. Phần lớn thời gian chỉ có thể nằm trên giường”, nàng cười nhẹ, né tránh vấn đề này.
“Vừa rồi tôi có nói một câu hơi quá quắt”, Cố Thập Tam cười khổ: “Không biết chừng đã chọc giận huynh ấy rồi”.
“Chắc là không đâu”, Hà Y nhẹ giọng nói: “Chắc là nể mặt tôi nên chàng không tiện đáp trả thôi”.
Mộ Dung Vô Phong tuyệt đối không phải là người lúc nói chuyện thì chiếu cố tới cách nghĩ của người khác, lần đầu gặp mặt chàng Hà Y đã được lĩnh giáo rồi.
“Xem ra huynh ấy cử động rất khó khăn. Chỉ sợ luôn phải có người chăm sóc, một bước không rời”, Cố Thập Tam thăm dò, trong lòng vẫn tiếp tục phỏng đoán thân phận của Mộ Dung Vô Phong.
“Từ trước đến giờ chàng vẫn như thế”, Hà Y lập tức cải chính, “Chàng có thể tự chăm sóc bản thân”.
Chương 33
Trong xe ngựa đã buông một tấm rèm rất dày nhưng dưới thời tiết này, như thế vẫn chưa đủ để ngăn được cái lạnh.
Hà Y tìm một thanh niên Ba Tư tới đánh xe cho bọn họ, có như vậy nàng mới có thể ở lại trong xe bầu bạn với Mộ Dung Vô Phong. Chuyến đi lần này lộ trình không ngắn, địa hình hiểm trở, xe ngựa lắc lư xóc nẩy rất dữ dội. Hà Y cũng đã tính trước, mua từ chỗ người Ba Tư một tấm thảm mềm rất lớn, rất tinh xảo trải lên lớp đệm da thú rồi dìu Mộ Dung Vô Phong ngồi xuống trên đó. Bên cạnh người chàng còn có một chậu sưởi nho nhỏ để giữ ấm. Có chậu sưởi này rồi, trong xe cũng không quá lạnh nữa nhưng cũng còn xa mới có thể nói là ấm áp. Hai người chỉ có thể cuộn chặt mình trong chăn lông, ngồi tựa sát vào nhau mà thôi.
Chiếc xe ngựa cứ theo đoàn xe từ từ tiến tới trong bóng tối.
Hà Y đưa cho Mộ Dung Vô Phong một chén trà nóng, hỏi: “Uống ngụm nước nhé?”.
Nàng cảm thấy trong xe rất xóc, Mộ Dung Vô Phong không làm sao ngồi vững cho được, một tay chàng từ trước tới giờ vẫn phải tựa chặt lên một cái bàn thấp bên cạnh người.
Không muốn lại lỡ tay làm bỏng nàng, chàng lắc đầu.
Bốn bề yên ắng, chỉ nghe thấy tiếng vó ngựa chậm chạp tiến lên.
“Vô Phong, thiếp mệt rồi”, Hà Y lơ mơ nằm xuống ngủ bên cạnh chàng.
“Vậy thì ngủ đi”, Mộ Dung Vô Phong vuốt mái tóc nàng, nhẹ nhàng nói: “Bọn cướp mà tới, ta sẽ gọi nàng dậy”.
Hà Y nhanh chóng chìm vào giấc ngủ.
Trong xe có trải mấy lớp thảm rất dày rất êm ái dễ chịu nhưng không gian thì không rộng lắm. Cửa sổ xe được che bằng một tấm rèm lông rất dày, không sao nhìn được chút nào tình hình bên ngoài.
Từ trước tới giờ Mộ Dung Vô Phong chưa từng lên phương bắc nhưng trong lòng lại tràn ngập những tưởng tượng về phương bắc xa xôi.
Đêm hôm đó, cuối cùng chàng cũng thấy được trăng trên đỉnh Thiên Sơn. Đấy chính là “lãnh nguyệt” thật sự, tĩnh mịch, yên ổn, tựa như đôi mắt một oán phụ trầm mặc quan sát thế giới bên dưới.
Lúc rời khỏi đỉnh Thiên Sơn, nội thương của chàng phát tác, luôn chìm trong cơn hôn mê, đến lúc chàng mở nổi mắt ra thì đã ở dưới núi rồi. Cho nên chàng cảm thấy có chút tiếc nuối, chàng đã tới Thiên Sơn nhưng đến cả dáng vẻ thật sự của Thiên Sơn rốt cuộc là như thế nào chàng cũng không hề biết.
Đây chính là nguyên nhân chàng không muốn ra bên ngoài.
Phần lớn thời gian, chàng sẽ ngồi trong xe nôn thốc nôn tháo, nôn tới chết đi sống lại bởi những trận xóc. Không dễ dàng gì mới tới được một chỗ nào đó, thì chàng lại bắt đầu ốm, cả ngày nằm trên giường. Đợi đến khi chàng qua được cơn bệnh thì cũng tới lúc phải trở về rồi. Thế là chàng lại phải nếm lại một lượt tất cả những khốn khổ chàng vừa mới trải qua, cứ như vậy cho đến khi rốt cuộc cũng về tới cốc. Cuộc sống “bình thường” của chàng chỉ có thể thực hiện khi chàng ở nhà của mình.
Chàng chợt nhíu mày, chỗ vết thương lại nhói lên những cơn đau dữ dội. Cả cơ thể chàng lại bắt đầu co giật. Chàng cắn chặt răng, cố sức xoa bóp cái chân bị thương đang căng cứng vì chuột rút, những hạt mồ hôi to bằng hạt đậu tong tong nhỏ xuống. Cơn đau như ngấm vào xương tủy, hai vết xẹo dài bảy tấc như căng ra, tựa hồ bất cứ lúc nào cũng có thể vỡ toác.
Cơn đau ấy hệt như khi cái chân phải sớm đã hoàn toàn không còn tồn tại kia vừa mới bị chặt lìa khỏi cơ thể chàng. Cho tới tận bây giờ chàng vẫn không dám nhìn lại cho kỹ nửa thân dưới bị thương của mình. Bản thân chàng là một đại phu, từng nhìn qua các dạng vết thương, các kiểu người chết, bất kể là vết thương hay thi thể đáng sợ thế nào chàng đều từng nghiên cứu qua, mổ xẻ qua, thậm chí còn vẽ lại cất giữ. Nhưng khi phải nhìn chính cơ thể mình thì chàng lại cảm thấy da đầu tê dại.
Đôi mắt chàng mở trừng trừng, tựa như thấy lại ánh đao sáng loáng… thấy Đường Thập dùng một loại băng có mùi xạ hương băng vào vết thương của chàng. Đó là “Phượng Tiên Hoa Cao” đặc chế của Đường môn, có thể lập tức cầm máu nhưng cũng mang một loại độc phát tác chậm. Sau ba canh giờ liền tiếp xúc, chất độc tiến vào trong cơ thể, cứ mỗi khi thời tiết giá lạnh thì sẽ phát tác đau như có ung nhọt trong xương.
Đây vốn là phương thuốc pha chế nổi tiếng của Tiết gia, là loại kim sang dược tốt nhất, quý giá nhất, lúc sử dụng thì nhất định phải phối hợp thêm với một loại phấn hoa gọi là “Vãn Hương” để trừ bỏ độc tính trong cao thuốc, nhưng Đường Thập đã cố ý không dùng loại phấn này.
Trong vòng ba canh giờ vẫn còn tới bảy, tám phương pháp có thể cứu chữa, nhưng sau ba canh giờ đó, nếu không được chữa trị, chất độc sẽ hoàn toàn thấm vào cơ thể, sẽ chẳng còn hy vọng trị hết được nữa.
Tuy gần như loại độc dược nào cũng có thuốc giải nhưng thời gian cũng là một yếu tố tối quan trọng, lỡ mất thời cơ, độc tính phát tác thì chẳng làm sao cứu vãn nổi nữa.
Chàng lặng lẽ bò tới một góc khác trong xe, cách xa Hà Y đang ngủ ngon lành rồi sau đó mặc cho người đổ xuống, co giật tới mức đáng sợ, vừa co giật, vừa nôn mửa, lục phủ ngũ tạng tựa như bị một bàn tay vô hình vặn vẹo giày vò.
Chàng biết bộ dạng mình bây giờ cực kỳ đáng sợ, chỉ hy vọng lúc này không ai nhìn thấy mình.
Chính vào lúc chàng đang vật vã thống khổ, xe ngựa chợt phi như bay một lúc rồi lại đột ngột chậm lại, sau đó bốn bề vang lên tiếng vó ngựa phi loạn, tiếng hò hét huyên náo, tiếng chuông lạc đà, tiếng phụ nữ sợ hãi kêu la.
“Vô Phong, mã tặc tới rồi à?”, chàng nghe thấy tiếng Hà Y kêu lên.
Sau đó, ngoài xe có tiếng một người Ba Tư hét lớn: “Mã tặc tới đấy! Đàn bà, trẻ nhỏ toàn bộ vào trong xe, nam nhân ra hết đây!”.
Thân thể Mộ Dung Vô Phong đang co quắp ở một góc, co giật không ngừng, Hà Y vội bế chàng trở lại đệm, cố sống cố chết giữ chặt lấy chàng, lấy thuốc cho vào miệng chàng. Còn may nàng nhanh tay nhanh mắt kịp rút ngón tay ra trước khi Mộ Dung Vô Phong nghiến chặt răng lại trong trạng thái nửa tỉnh nửa mê.
Đây không phải là lần đầu chàng phát bệnh, trên đỉnh Thiên Sơn cũng từng thế này mấy lần. Kể cả hôm nay, đây cũng là lần thứ hai rồi. Hà Y lờ mờ cảm thấy vết thương của chàng nhất định có gì đó không ổn nhưng cũng không dám hỏi nhiều.
Cứ mỗi lần phát bệnh thế này, chàng đều cắn chặt răng, tuyệt đối không phát ra nửa tiếng rên rỉ nhưng bộ dạng lúc ấy nhìn vào mà khiến người ta chua xót. Nàng chỉ đành giúp chàng thay áo, quăng tấm áo đã bị chàng nôn ra lem luốc sang một bên rồi bọc kín chàng lại trong hai tầng chăn lông.
“Nàng… sao vẫn chưa ra ngoài giúp bọn họ?”, thở hổn hển một lúc, cơn đau dần giảm, cuối cùng Mộ Dung Vô Phong cũng nói được.
“Chàng đang bệnh…”, Hà Y than: “Thiếp không thể rời khỏi chàng”.
“Ta không sao”, chàng bật ho, nói: “Ta là nam nhân nhưng lại không có cách nào… không có cách nào ra ngoài được, hy vọng nàng thay ta ra ngoài giúp họ”.
Cái câu “Nam nhân ra đây hết” kia đâm vào lòng chàng đau nhói.
Hà Y gật đầu, đem chậu sưởi đặt bên người chàng rồi nói: “Chàng tự bảo trọng, thiếp đi đây”.
Tuy đã mệt mỏi tới cùng cực, đau đớn không ngừng nhưng chàng không sao thiếp đi được, chỉ đành mở thật to mắt, cả người chẳng có sức nhúc nhích mà nằm liệt trong xe.
Hà Y vừa ra ngoài không lâu, chiếc xe bỗng hơi lún xuống, một nam nhân khom mình tiến vào xe.
Mộ Dung Vô Phong đưa mắt nhìn, là Cố Thập Tam.
“Cô ấy muốn tôi tới đây trông chừng huynh”, Cố Thập Tam ôm kiếm đứng bên người chàng, mặt mũi lạnh tanh.
“Đa tạ, không cần đâu”, chàng nằm trên đệm dày, cắn chặt răng, lạnh lùng nói: “Tôi ở đây rất tốt rồi”.
Chàng không muốn ai khác nhìn thấy bộ dạng này của mình chút nào.
Cố Thập Tam không để ý tới chàng, cũng không trả lời.
Vào lúc này, chẳng có nam nhân nào chịu ngồi trong xe chăm sóc bệnh nhân. Cố Thập Tam tới đây, nhất định là do Hà Y cầu xin giúp đỡ.
Lúc đó, Mộ Dung Vô Phong không sao khống chế được cơn ho của mình, ho liên miên không dứt, ho tới khô cổ bỏng lưỡi, một tay chàng chống người dậy, định bò sang uống một ngụm nước. Cố Thập Tam đã dùng bao kiếm ngăn lại, nói: “Cô ấy nói, lúc này huynh không thể tùy tiện cử động, cũng không nên gắng sức”, nói xong, đem nước tới, đỡ chàng dậy giúp chàng uống lấy hai hớp rồi lại đỡ chàng nằm xuống trở lại.
Hiển nhiên Cố Thập Tam trước giờ chưa từng chăm sóc ai, động tác đưa nước tới vừa nhanh vừa mạnh, suýt chút nữa làm Mộ Dung Vô Phong sặc.
“Sao các hạ lại còn nghe lời thê tử tôi hơn cả tôi thế?”, Mộ Dung Vô Phong chẳng cảm kích chút nào, lạnh lùng cười.
Cố Thập Tam đang định phản bác, nhưng nhìn lại đã thấy Mộ Dung Vô Phong gục đầu sang một bên, hôn mê mất rồi. Cố Thập Tam tưởng chàng đã chết vội dùng sức nhéo vào huyệt “Nhân Trung” của chàng, rồi đưa tay kiểm tra hơi thở ở mũi.
“Lão huynh, tôi còn chưa chết đâu”, Mộ Dung Vô Phong yếu ớt mỉa mai một câu.
Mã tặc xếp thành một hàng ngang trước mặt.
Thương đoàn Ba Tư đi chuyến này hàng hóa quý giá, nghe trinh sát báo phải có tới mười mấy xe châu báu. Đoàn xe từ Cáp Hùng khách điếm vừa mới xuất phát, mã tặc đã biết tin tức rồi.
Biết được tin tức này tổng cộng có ba nhóm mã tặc thuộc ba tên thủ lĩnh khác nhau, nhưng nhân lúc trời chưa sáng mà tập kích, thì lại là tác phong nhất quán của bọn chúng.
Lúc Hà Y chạy lại chỗ đao khách của đoàn xe, tay người Ba Tư tên là Thác Mộc Nhĩ đang cưỡi một con ngựa đen trông cũng hùng dũng y như hắn đi kiểm tra phòng vệ bên mình.
Thác Mộc Nhĩ là con trai thủ lĩnh Thác Cách Tang của thương đoàn, đã bôn ba làm ăn trên tuyến đường này hơn chục lần rồi, các nhóm mã tặc nơi quan ngoại đều biết đến hắn, truyền nhau gọi hắn là “Tiểu Thác”.
“Tiểu Thác, chuyến này lại là ngươi à? Mang đến hàng gì thế? Năm hòm đá quý lần trước cảm ơn nhé!”
Đây là lời chào mà thủ lĩnh lộ mã tặc phía tây, “Quỷ đầu đao” Long Hải thường dùng.
“Thật tình xin lỗi nhé Tiểu Thác, ngài lại gặp phải bọn ta rồi. Kỳ thực cũng rất xấu hổ phải đi cướp của mấy người, nhưng hơn trăm anh em đều cần ăn cơm cả. Bọn ta cũng không phải quá tham lam, ngài xem hay là thế này đi, để một nửa số hàng lại cho bọn ta, bọn ta sẽ thả cho đi. À còn nữa, bọn ta không đại diện cho sự văn minh của bản quốc, lúc quay trở về đừng có nói bọn ta không phải là nước có lễ nghĩa nhé!”, thủ lĩnh lộ mã tặc phía đông ngoại hiệu là “Tư Văn[1]”, nói chuyện cũng hết sức tư văn, có xuất thân trong quân đội, trong tay cầm một cây lang nha bồng.
[1] Lịch lãm, có học.
Thủ lĩnh lộ mã tặc phía bắc được người ta gọi là “Quang Tiên”, mỗi lần xuất quân, tất cả thủ hạ đều vận áo mới, ngựa hăng, đồ đạc gọn nhẹ, ăn mặc thì hệt như có lễ hội. Binh khí hắn sử dụng nào là lưu tinh chùy, phi tiêu, bọ cạp độc…, đủ những thứ có thể nhanh chóng giết người. Tất cả lưỡi đao của thủ hạ hắn đều được bôi một loại kịch độc không rõ tên, nếu bất cẩn lỡ tay làm bị thương người của mình thì cũng vô phương cứu chữa. Câu mào đầu của hắn khá gọn gàng dứt khoát: “Tất cả nam nhân cuốn xéo, phụ nữ, châu báu, lạc đà, ngựa để hết lại”.
Mỗi lần Thác Mộc Nhĩ đi trên con đường này thì vốn đều chỉ mong có thể giữ lại nửa số hàng hóa mà thôi. Một nửa còn lại kia thì đã chẳng còn hy vọng gì. Tuy vậy, để giữ được nửa số hàng còn lại, hắn cũng phải vắt óc suy nghĩ rất nhiều.
Có điều, lần này hắn vung tiền đưa giá rất cao, gần như toàn bộ đao khách hạng nhất đều được hắn thuê cả, bao gồm cả kiếm khách lợi hại nhất vùng này, người quen cũ của hắn, Cố Thập Tam.
Thác Mộc Nhĩ thân hình cao lớn, mũi thẳng, mắt sâu, chưa tới ba mươi, là một thanh niên Ba Tư anh tuấn, tuy nói tiếng Hán còn gượng gạo nhưng cũng khá thuận tai. Đôi mắt hắn màu xanh da trời, là đôi mắt khiến phụ nữ Ba Tư nhìn thấy là chết mê, hắn giống như bảo bối của đám nữ nhân, từ trước tới giờ chưa từng thiếu đàn bà. Hiện giờ hắn đang đưa đôi mắt xanh biếc của mình quét qua một lượt các đao khách của thương đội.
Sau đó hắn nhìn thấy trong đám người có lẫn một cô gái nhỏ nhắn, đang cưỡi một con ngựa rất lớn, mình khoác một tấm áo da báo, trên lưng còn đeo một thanh kiếm. Con ngựa đó lồng lên, tựa như muốn hất tung cô gái.
Thác Mộc Nhĩ thúc bụng ngựa phóng tới, đưa roi ngựa chỉ vào cô gái nói: “Ngươi! Nữ nhân! Quay về đi! Đây không phải là chỗ cho ngươi ở lại!”.
Cô gái lướt qua, nhìn thấy đôi mắt xanh lam của hắn, có chút ngạc nhiên nói: “Không phải ngươi nói tất cả nam nhân đều phải ra ngoài sao?”.
“Không sai, nhưng ngươi không phải là nam nhân”, Thác Mộc Nhĩ bực mình nói.
“Nam nhân của ta không ra ngoài được, bảo ta thay chàng ra ngoài”, cô gái nói.
“Ngươi tên là gì?”
“Sở Hà Y.”
Cái tên này thật dễ gọi.
“Nam nhân của ngươi sao lại không thể ra ngoài?”
“Chàng… chàng ốm rồi!”
“Hứ, giả vờ! Lâm trận bỏ trốn, đồ thỏ đế, lại còn để nữ nhân của mình ra thay! Loại nam nhân ấy! Không biết xấu hổ! Hứ! Hứ!”, Thác Mộc Nhĩ tức giận chửi mắng, những câu tiếng Hán dùng để mắng chửi chỉ biết có bấy nhiêu đấy thôi.
Hà Y chẳng đáp tiếng nào.
“Ngươi! Quay về! Nam nhân của ngươi không thể tới, ngươi cũng không cần tới!”, hắn nói.
“Ta còn thay một người nữa.”
“Ngươi thay cho ai?”
“Cố Thập Tam.”
“Cái gì?!”, giờ hắn mới phát hiện Cố Thập Tam không có mặt trong đội ngũ, thế này thật không xong!
“Cố Thập Tam? Ngươi thay nổi à? Ngươi có biết ta bỏ bao nhiêu tiền thuê hắn không?”
“Cố Thập Tam phải chăm sóc nam nhân của ta. Một người thay một người, ta tới thay vị trí của huynh ấy”, cô gái kia từ tốn nói.
“Ngươi! Người Hán các ngươi! Điên rồi!”, Thác Mộc Nhĩ tức đến phát điên, gọi lớn: “Người đâu, tìm Cố Thập Tam cho ta!”.
Nhưng đã không kịp nữa rồi, tiếng nhạc ngựa của mã tặc đã vang vang, mã tặc đã sắp giết tới nơi.
“Quay về rồi ta sẽ tìm hắn tính sổ!”, Thác Mộc Nhĩ nghiến răng nghiến lợi nói: “Ngươi đi theo ta! Chớ chạy linh tinh”.
“Ừm”, cô gái thúc ngựa đi theo Thác Mộc Nhĩ.
“Nếu tên của bọn chúng bắn tới, ngươi nấp sau ngựa của ta, hiểu không?”, hắn là đàn ông con trai, bất kể là lúc nào, đàn ông con trai đều phải bảo vệ nữ nhân.
“Hiểu rồi”, tiếng nữ nhân đáp lại rất nhẹ nhàng.
Một nhóm mã tặc phi tới, xông vào trong trận, phía sau bọn chúng là Long Hải của lộ phía tây.
Thác Mộc Nhĩ rút loan đao, dọc đường một mặt chặt liền mấy cái tay của mã tặc. Hắn không thể không thừa nhận, lúc lâm trận đánh nhau, nếu có một nữ nhân theo bên cạnh, sức lực của hắn đặc biệt tràn trề.
Có khi vận khí cũng được may mắn như thế.
Nhóm do hắn dẫn đầu đã xông vào nhóm mã tặc, nghe thấy Long Hải lên tiếng chào hỏi: “Tiểu Thạc, bọn ta lại gặp mặt rồi! Lần trước chút đồ ấy của ngươi, cũng thật không được hay lắm nhỉ? Sao rồi, lấy vợ rồi sao? Cung hỷ, cung hỷ, đánh nhau mà cũng phải đem cả phu nhân cơ à?”.
Lần trước bọn chúng cũng chẳng vớ được là bao, mấy rương hàng bọn chúng cướp được là mấy rương châu báu kém chất lượng đoàn cố ý trộn vào để lừa bọn chúng.
“Đâu có, đâu có!”, câu khiêm tốn này, chẳng biết Thác Mộc Nhĩ học được ở đâu. Hắn vừa quay đầu lại nhìn, cô gái kia đã cười với Long Hải rồi đột nhiên tung mình bay đi ba trượng, ánh kiếm như chớp giật, điêu luyện đâm tới Long Hải.
Nàng vốn chẳng cần đến ngựa, lúc tung mình bay lên không trung, chân phải lại còn nhẹ nhàng cứ thế giậm vào đỉnh đầu Thác Mộc Nhĩ một cái.
“Ái dà!”, Long Hải há hốc miệng kinh ngạc, kiếm đó gần như khiến xương tủy trong người hắn đông cứng, hắn lảo đảo lùi lại mấy trượng, đến sức nhấc tay lên cũng chẳng còn. Hắn chỉ đành đưa chân một cái, đá bay thanh đại đao đeo sau lưng, lúc thanh đại đao đang lơ lửng xoay trên không, hắn vươn tay ra chụp lấy thì bỗng thấy cánh tay mình buốt lạnh, cả tay phải đã bắn tung lên trời, đến lúc ấy, trong tay hắn vẫn còn đang nắm chuôi đao!
Nữ nhân cười lạnh một tiếng, hai chân tung cước, đá bay người Long Hải khỏi lưng ngựa rồi xoay mình ngồi yên vị trên ngựa của hắn, lạnh nhạt nói: “Còn kẻ nào muốn lên đây?”.
Cả đám người kinh sợ, bầy mã tặc vội chạy tới khiêng Long Hải đang nằm dãy dụa trện mặt đất lên, chớp mắt đã chạy biến không còn một tên.
Không chỉ mã tặc sợ hãi ngây ra, mà Thác Mộc Nhĩ và đám đao khách sau lưng cũng kinh ngạc tới sững người!
Kiếm pháp của nữ nhân này biến hóa nhanh kinh khủng, thân pháp cũng nhanh tới kinh người, thật khiến cho người ta không sao tưởng tượng nổi!
Nàng nhảy về ngựa của mình, nói với Thác Mộc Nhĩ: “Giờ ta có thể về được rồi phải không?”.
Thác Mộc Nhĩ nghi hoặc nhìn nàng, hỏi: “Ngươi không phải là nữ nhân thông thường, ngươi là ai?”.
Cô gái nói: “Ta là một kiếm khách, là nhân sĩ trung nguyên”.
“Đúng là một nữ nhân tài ba! Xin hỏi, ngươi có thể gả cho ta không?”, Thác Mộc Nhĩ đăm đăm nhìn nàng, cảm xúc nồng nhiệt nói.
“Ta đã có chồng rồi”, đột nhiên nghe thấy hắn nói câu này, khuôn mặt cô gái thoáng ửng lên.
“Ta không bận tâm việc lấy phụ nữ đã kết hôn!”, Thác Mộc Nhĩ đột nhiên nhảy xuống ngựa, ngẩng đầu nhìn nàng nói.
Cô gái cười nhạt: “Xin lỗi, ngươi không vừa ý ta”.
Lúc về tới trại, trời đã sáng rồi. Tuyết trắng muốt trải dài tít tắp. Có người ở lại trong xe ngựa, có người thu dọn lều trướng.
Dọc đường Thác Mộc Nhĩ bắt chuyện không thôi. Hà Y thì cực ít mở miệng. Từ khi nàng sống cùng Mộ Dung Vô Phong, dường như càng lúc càng ít nói chuyện với người khác.
“Xin nhất định phải tới lều của ta uống trà sữa, ăn chút đồ ăn sáng cho ấm dạ dày. Việc hôm nay ta phải báo với phụ thân, để người liệu đường mà cảm ơn cô cho tốt!”, Thác Mộc Nhĩ nói.
“Xin lỗi, ta không có thời gian, ta còn phải làm cơm sáng cho tướng công ta”, nàng khẽ cười.
“Vậy thì mời hắn cùng tới luôn một thể!”, Thác Mộc Nhĩ rộng rãi nói.
Hắn phát hiện cô gái này căn bản chẳng thèm nghe hắn nói gì, ánh mắt luôn dừng ở một cỗ xe phía xa, bên kia đám đông.
Hắn cũng đưa mắt về hướng cô gái nhìn, chỉ thấy một thanh niên áo trắng ngồi trên một cái ghế cách cỗ xe không xa. Người đó ngồi im không động đậy, khuôn mặt tái nhợt nhưng dung mạo thanh tú, từ xa dõi theo nữ nhân này, ánh mắt ấm áp dịu dàng.
Ánh mắt nữ nhân này vừa chạm tới nam nhân kia liền không rời ra nữa.
“Ta không rảnh”, cô gái lơ đãng đáp trả một câu rồi không để ý tới hắn nữa, nhảy xuống ngựa rảo bước đến bên nam nhân kia, quỳ một chân xuống, nắm lấy tay người ấy, thấp giọng trao đổi với người ấy vài lời.
Lúc nói chuyện, bốn mắt nhìn nhau, thâm tình vô hạn, người áo trắng trước sau trên môi đều điểm một nụ cười nhẹ.
Sau đó cô gái đứng dậy, người áo trắng kia cũng lấy sau lưng ra đôi nạng, đứng dậy một cách khó khăn.
Gió buốt thổi tung vạt áo người ấy, Thác Mộc Nhĩ giờ mới phát hiện người đó bị tàn phế, một chân cụt tới gốc, chân còn lại thì có cũng như không. Người đó gắng sức tựa lên cây nạng, cô gái kia thì dìu sát bên phải, tay đưa vào trong áo, nhẹ nhàng đỡ lấy nửa bên người này của anh ta. Trọng lượng cơ thể anh ta, một nửa tựa lên đôi nạng, một nửa dựa vào tay cô gái. Kể cả như thế, lúc đứng dậy, một tay anh ta vẫn phải tựa lên vai cô gái. Sau đó anh ta chống nạng, khó khăn bước tới trước, cứ mỗi bước, thân thể lại lảo đảo lơ lửng trên đôi nạng, không sao dùng sức nổi, hoàn toàn phải dựa vào tay cô gái kia mới có thể mượn lực đi tiếp được.
Hai người cứ thế dùng tư thế kỳ quái ấy đi tới bên cỗ xe ngựa, sau đó cô gái bế nam nhân tàn phế kia lên, nhẹ nhàng bước vào xe.
Thác Mộc Nhĩ cẩn thận kỹ càng đánh giá nam nhân kia một lượt, thật chẳng nghĩ ra nổi hắn có chỗ nào hấp dẫn người khác. Gả cho người như thế, bất kể là ai cũng phải đối mặt với một trách nhiệm hết sức nặng nề.
“Không cần nghĩ ngợi linh tinh nữa, ngươi không có cơ hội đâu”, bỗng có người vỗ vào vai hắn một cái, ngoảnh đầu lại nhìn, thì ra là Cố Thập Tam.
“Hắn là ai thế? Làm thế nào lại ở trong đội xe của chúng ta?”, Thác Mộc Nhĩ hỏi.
“Ngươi hỏi về nam nhân kia, hay là cô gái đó?”
“Nam nhân.”
“Ta cũng không biết. Nếu ngươi tìm hiểu được gì, nhất định phải báo cho ta, ta cũng thật sự rất tò mò.”
“Chẳng cần tìm hiểu. Bộ dạng nam nhân đó đáng thương, cô nương kia chẳng qua là thương hại hắn mà thôi.”
“Nữ nhân này xem ra không ngốc như thế, ngươi nói xem?”
“Cũng phải”, Thác Mộc Nhĩ dùng tiếng Ba Tư càu nhàu một câu.
“Đúng rồi, hay là ngươi dùng tiếng của các ngươi hỏi hắn. Hắn có thể nói tiếng Ba Tư đấy”, Cố Thập Tam cười nói.
“A! Thì ra là hắn! Phụ thân ta hôm trước từng nhắc tới người này.”
“Hả?”
“Người Hán biết nói tiếng Ba Tư, phụ thân ta cũng biết vài người, nhưng chỉ có người này nói rất trang nhã, rất cao quý. Phụ thân ta bảo, nếu người nhắm mắt lại thì còn tưởng rằng mình đang gặp một quý tộc Ba Tư nữa đấy.”
“Điều này ít nhất cũng chứng minh hắn là một thiên tài”, Cố Thập Tam nói.
“Kỳ nhân ở đất trung thổ các người quả thật quá nhiều!”, Thác Mộc Nhĩ than: “Có cơ hội gặp được bọn họ cũng coi như biết thêm được không ít kiến thức”.
Đoàn xe quyết định dừng ở đây hai canh giờ, vừa nãy bị bầy mã tặc xông vào, đã chết mất mấy con lạc đà khỏe mạnh, hàng hóa cần phải được lấy ra phân phối lại, chất lên những con lạc đà khác.
Để biểu thị lòng kính trọng, Thác Mộc Nhĩ đã sai người đem tới xe của Mộ Dung Vô Phong hai cái chậu sưởi bằng đồng thau cực kỳ tinh xảo. Đây là chế tác của thợ thủ công Ba Tư, bên trên còn điêu khắc nhiều hoa văn kỳ lạ. Than trong chậu cháy hừng hực, phát ra lửa màu xanh lạ mắt. Trong xe thoáng chốc đã ấm lên rất nhiều.
“Hay là chúng ta ra ngoài một chút đi”, một lát sau, đến người cực kỳ sợ lạnh là Mộ Dung Vô Phong cũng đã nóng tới mức có chút không chịu nổi. Nửa thân trên chàng cởi trần, khoanh chân ngồi thẳng lưng, trên đầu mướt mát mồ hôi, đang uống một chút nước lạnh.
“Đừng uống nước lạnh”, Hà Y nhìn chàng, cười nói: “Cẩn thận kẻo lại đau bụng”.
Nàng ngồi tựa vách xe, mê mẩn nhìn chàng.
“Nàng nói xem, Hà Y, lần đầu tiên chúng ta gặp nhau, rốt cuộc nàng có chút ấn tượng nào về ta không?”, phát hiện vách xe do tiếp xúc với không khí bên ngoài nên mát lạnh, Mộ Dung Vô Phong chống hai tay lê mình đến cùng ngồi tựa vào vách.
“Không có”, Hà Y nhìn chàng đáp.
“Lúc đó chắc nàng không hề biết hai chân ta không thể cử động”, chàng tiếp tục nói: “Kể cả như thế nàng cũng không chú ý tới ta?”.
“Không một chút nào”, Hà Y nói: “Lúc ấy thiếp chỉ nghĩ làm thế nào để moi được tiền của chàng”.
“Vậy rốt cuộc là lúc nào nàng mới nhìn trúng ta?”, Mộ Dung Vô Phong lại hỏi.
“Tối hôm ấy.”
“Tối hôm ấy?”, Mộ Dung Vô Phong nghĩ một lúc, nói: “Tối hôm ấy hình như ta chẳng làm gì cả”.
“Chàng chống nạng muốn đi qua sườn núi. Thiếp nhớ lúc ấy thiếp nói: ‘Ngài muốn tự mình đi qua đấy?’, chàng đáp: ‘Lẽ nào tôi không thể đi qua?’.”
“Ta có nói thế.”
“Lúc ấy thiếp nhìn bộ dạng leo núi của chàng, cảm thấy số phận chàng thật bi thảm. Đợi đến sau đó, cuối cùng chàng cũng leo tới nơi, thiếp lại cảm thấy chàng là một người tự do. Từ trước tới giờ thiếp luôn thích ở cùng với người tự do.”
Mộ Dung Vô Phong ngẩn ra nhìn nàng, hồi lâu mới khẽ cười.
“Nàng có nhớ Sơn Thủy không? Trước đây hắn từng cho ta xem một bức họa hắn vẽ”, một lúc sau, Mộ Dung Vô Phong đột nhiên cất tiếng.
“Hắn cũng vẽ tranh sao?”
“Đúng thế. Bức họa đó vẽ một con ốc sên.”
“Con ốc sên như thế nào?”, Hà Y lập tức nhào tới ngồi sấn vào chàng.
“Ngồi ra kia, chúng ta nói chuyện nghiêm túc nào”, chàng đẩy nàng về chỗ.
“Một con ốc sên bình thường, là loại hay gặp nhất.”
“Chỉ mỗi một con ốc sên thôi à?”
“Ừm. Hắn hỏi ta hắn vẽ cái gì. Bởi vì đến ngay bản thân hắn cũng không biết hắn vẽ cái gì.”
“Thiếp biết”, Hà Y nói.
“Nàng biết?”, Mộ Dung Vô Phong có chút kinh ngạc nhìn nàng, “Nói xem nào”.
“Thứ hắn vẽ là nỗi sợ hãi”, Hà Y nói.
Cuối cùng Mộ Dung Vô Phong cũng hoàn toàn ngẩn ra rồi.
“Hồi nhỏ thiếp từng quan sát thật kỹ vỏ của ốc sên. Chàng sẽ tuyệt đối không tin trên đời có thể có thứ gì cân xứng đến thế, đẹp đẽ đến thế. Tựa như ông trời chiếu theo một loại quy tắc phức tạp nào đó cầu kỳ cẩn thận thiết kế ra nó”, Hà Y cười nói: “Nếu như chính lúc đó, thân hình mềm nhũn hoàn toàn chẳng có quy tắc nào của ốc sên đột nhiên từ từ thò ra, đảm bảo sẽ dọa cho chàng hết hồn. Chàng sẽ thật sự nghĩ không thông, tại sao bên trong lớp vỏ cực kỳ quy củ ấy lại có thể có một thân thể chẳng quy củ chút nào như thế. Những thứ không có hình dạng thường khiến người ta cảm thấy sợ”.
“Sao ta cứ cảm thấy nàng hình như nàng đang nói ta thế?”, Mộ Dung Vô Phong nửa cười nửa không nói.
“A, bây giờ thiếp sắp nói tới chàng đây”, Hà Y nhìn Mộ Dung Vô Phong, “Bao giờ chàng mới chịu chui ra khỏi vỏ ốc của mình?”.
Chàng nhìn nàng sâu sắc, trầm tư một lúc rồi nói: “Hà Y, ta đã hiểu hết nàng chưa nhỉ?”.
“Thiếp đói bụng rồi”, Hà Y không trả lời, lảng sang chuyện khác: “Chàng nói xem hôm nay liệu chúng ta có thịt dê xiên nướng ăn không?”.
“Đừng có chỉ nghĩ tới ăn có được không? Chúng ta vừa rồi hình như đang bàn tới một vấn đề cực kỳ thâm sâu đấy”, Mộ Dung Vô Phong bò qua, tóm lấy nàng nói.
“Những cái nàng vừa nói hoàn toàn giống với điều ta nghĩ. Ta vốn luôn cho rằng chỉ có mình ta mới có thể nghĩ ra những thứ ấy”, chàng nói.
“Đừng tự cho mình là giỏi nhé! Vô Phong!”, Hà Y cười nói: “Cho rằng chỉ những người đọc sách mới có thể nghĩ ra đạo lý à?”.
“Được rồi, nàng nói không sai”, Mộ Dung Vô Phong ủ rũ nói.
“Trong này hình như quá nóng rồi”, Hà Y nhìn chàng bảo.
Mộ Dung Vô Phong ngồi thẳng lưng, hai vai buông lỏng, tựa như đang chìm sâu vào suy nghĩ nào đó. Không biết vì sao, Hà Y cảm thấy dáng ngồi của chàng rất đẹp, dáng vẻ suy nghĩ xuất thần của chàng cũng rất đẹp. Kể cả thân thể gầy yếu khôn tả của chàng, hạ thân tàn tạ khiến nàng tan nát cõi lòng của chàng cũng có thể gợi lên những yêu thương và xót xa ở nơi sâu thẳm nhất trong lòng nàng.
Nàng không biết tại sao bản thân có thể đau lòng sâu sắc đến như thế. Có lẽ đây là lần đầu tiên trong cuộc đời, cuối cùng nàng cũng thuộc về một người khác, linh hồn của nàng nhờ vậy mà đã có chỗ nương náu. Mà nơi nương náu ấy cũng luôn mở rộng cửa đón nàng. Không phải linh hồn của bất cứ ai cũng có thể có được tự do trong lòng người mình yêu, nhưng Mộ Dung Vô Phong lại có thể cho nàng loại tự do này. Tự do và tình yêu, chàng đều có thể đồng thời trao cho nàng. Hà Y vừa nghĩ như thế, trong đầu lại đem bản thân gả cho chàng lần thứ năm. Đang ngẩn ngơ, thân thể nàng đã bị kéo đổ ập xuống, hai tay nàng bị chàng giữ chặt lấy.
“Hà Y, ta yêu nàng”, chàng thủ thỉ.
“Bỏ tay ra, đồ ngốc.”
Chàng nhấc một tay ra, hai tay kia vẫn đồng thời giữ chặt lấy hai tay nàng.
Ngón tay chàng nhẹ nhàng mơn trớn trên người nàng, như mưa đêm thấm vào linh hồn nàng.
Thân thể hai người quấn quýt trên tấm thảm trắng như tuyết, sau đó nàng cảm thấy một cơn đau nhè nhẹ, kế đến trong lòng dấy lên một loại ham muốn điên cuồng, tựa như những sợi dây của cây đàn khoái lạc nằm sâu thẳm tận đáy lòng nàng đã được lay động.
“Đau không?”, chàng khẽ khàng hỏi, buông tay nàng ra.
Động tác của chàng trước nay rất êm ái, rất dịu dàng, tựa như hoàn toàn biết hết nàng đang muốn gì. Khuôn mặt nàng đỏ bừng, cắn môi, mở to mắt nhìn chàng, xấu hổ lắc đầu.
Chàng hôn lên mặt nàng, lại khiến nàng cảm thấy bản thân dường như vừa rơi xuống biển khơi cuồn cuộn.
Loại xúc cảm như sóng lớn dào dạt này, niềm khoái lạc liên miên bất tuyệt này, chỉ khi ở cùng Mộ Dung Vô Phong mới có thể cảm thụ được.
Nàng vốn không tin yêu một người lại có thể yêu hơn cả bản thân mình, đợi đến khi thật sự yêu rồi thì cuối cùng nàng cũng đã tin.
Sau đó nàng say sưa ngây ngất chìm sâu vào xúc cảm mỹ lệ ấy.
Chợt có người gõ cửa xe.
“Sở cô nương! Thác Mộc Nhĩ công tử mời cô nương và Lâm công tử tới lều của người ngồi chơi một lát, uống cốc trà sữa”, ngoài cửa xe, một thiếu niên cung kính thưa.
Hà Y nhỏ giọng nói: “Vô Phong, chúng ta phải dừng lại thôi!”.
Mộ Dung Vô Phong nhẹ giọng nói một tràng tiếng Ba Tư với thiếu niên bên ngoài, thiếu niên giúp việc ấy liến rời đi.
“Chàng nói gì thế?”
“Ta nói bọn ta còn bận thu dọn đồ đạc, nửa canh giờ nữa sẽ tới.”
“Lão huynh chàng nói dóc không thèm đỏ mặt nhé!”, Hà Y khoái trá bật cười.
Chương 34
Trời trở rét đậm, thảo nguyên khoác một lớp tuyết trắng mênh mông xa ngút tầm mắt, gió bấc rít gào.
Dưới kiểu thời tiết đáng sợ này, thảo nguyên vừa tựa như một sa mạc hoang vu lại vừa như một đại dương trắng muốt.
Đây là con đường tơ lụa thời cổ, nơi các thương đoàn giao thương hai hướng đông tây buộc phải đi qua.
Một nơi sâu trong thảo nguyên, lại vẫn còn một khu lều trướng bị tuyết che phủ.
Mùng Ba tháng Giêng, sáng sớm.
Long Tuyền vừa mới bước ra khỏi chiếc lều ấm áp dễ chịu của mình, dưới trời tuyết rơi dày đặc, lần theo một con đường nhỏ vừa được dọn tuyết thong thả đi về phía trước. Hắn nhìn những túp lều vẫn chưa thắp nến ở đây, chỗ này là nơi phụ nữ và trẻ nhỏ vẫn đang trong giấc ngủ say, trên mặt hắn chợt thoáng hiện nụ cười thỏa mãn.
Long Tuyền thân cao chín thước, lai lịch phức tạp, từng tham gia chiến trận, đã từng có quân công nên được bổ làm một chức quan nhỏ, sau vì phạm tội, bị tống vào đại lao, vốn sẽ bị xử tử nhưng rồi lại được người anh em từng kết bái huynh đệ với mình là Long Hải cứu từ đại lao ra ngoài. Vì việc này mà cả nhà già trẻ lớn bé của Long Hải phải mất mạng. Ngay sau ngày Long Hải cướp ngục, người nhà hắn bị quan phủ bắt hết, ngày đầu tiên của mùa thu năm ấy, toàn bộ bị xử trảm.
Huynh đệ hai người bị một đám bổ khoái truy lùng gắt gao, phải chạy tới miền Tây Bắc. Để kiếm kế sinh nhai, họ đã từng làm qua đủ mọi loại nghề. Lúc cùng quẫn nhất cũng đã từng làm thợ rèn, thợ gạch, từng phải xin ăn, ngủ vạ vật nơi đầu đường, sau đó cuối cùng là làm mã tặc. Long Tuyền khá hài lòng với nghề này, làm cũng khá thuận tay. Ngoài việc danh tiếng không được tốt cho lắm, thao tác của nghề này thực ra chẳng khác gì đánh trận cả. Bọn họ làm ăn cực kỳ thuận lợi, đại ca Long Hải rốt cuộc cũng lại có được gia đình mới, lại có được hai đứa con trai, nhưng Long Tuyền thì trước sau vẫn độc thân.
Hắn cảm thấy mình không phải với Long Hải, mở to mắt mà nhìn cả nhà lớn nhỏ của Long Hải phải lên đoạn đầu đài. Long Tuyền vốn không mang họ Long, tên cũng chẳng phải Long Tuyền, nhưng từ ngày Long Hải cứu hắn, hắn liền dứt khoát thay tên đổi họ.
Hắn tuyệt đối không phải là kẻ vong ân phụ nghĩa.
Long Tuyền vô thức ngẩng đầu lên, mây trên trời mang sắc hồng cuồn cuộn không dứt, chân trời là một màu đỏ ảm đạm, chẳng còn mấy ánh nắng. Cả thế giới phảng phất bị giam vào một cái lồng băng buốt giá.
Hắn rất thích tản bộ dưới thời tiết này, đối với hắn mà nói, giống như việc chỉ có đối mặt với nước sông cuồn cuộn mới có thể cảm nhận được sự trôi chảy của thời gian. Mây hồng mênh mang là một chút sinh động duy nhất trên thảo nguyên muôn kiếp tĩnh lặng này.
Chỗ này của đám mã tặc bọn họ là nơi sau khi thương đoàn của người Ba Tư tiến vào thảo nguyên sẽ phải đối mặt trước tiên. Tất nhiên, để có được vị trí ưu việt này, hai anh em Long Tuyền đã phải chiến đấu rất nhiều năm, hy sinh rất nhiều huynh đệ, cuối cùng mới đoạt được vào tay.
Long Tuyền gầy guộc nhưng cơ thịt săn chắc, bước đi vững chãi có lực. Hắn là một người tinh lực dồi dào, thái độ nghiêm túc, tướng mạo cực kỳ hung ác. Hắn mặt hẹp, trên đó hầu như chẳng có tí thịt nào, một vết sẹo đao chém từ trán kéo xuống, vạch qua má trái, tới tận cổ. Đôi mắt hắn lạnh lẽo buốt giá, lúc giận dữ thì hiện vẻ hung tàn. Bởi thế tất cả huynh đệ luôn mang một lòng kính sợ sâu sắc đối với hắn hơn cả với Long Hải.
Hắn men theo con đường ấy đi một vòng lớn, rồi mới quay lại khom người chui vào lều của mình, bắt đầu tắm rửa.
Hắn tắm nước lạnh, trên mặt nước còn có một ít tuyết. Từ ngày đầu tiên hắn tới đây, mỗi ngày đều phải tắm bằng nước lạnh thế này một lần, đã kiên trì trọn bảy năm nay.
Mười năm trước, hắn sa vào vòng lao ngục, bị quản lao dùng cực hình tra tấn, đến lúc ra được mới phát hiện bản thân đã không còn khả năng của một nam nhân chân chính. Bất kể hắn nghĩ cách gì cũng không sao cứu vãn nổi.
Đây là bí mật không ai biết, đến cả Long Hải cũng không hay.
Từ lúc ấy, hắn không gần gũi nữ nhân nữa, vừa nhìn thấy nữ nhân thì không kìm chế nổi ánh mắt căm ghét thống hận trên mặt. Trong trại, chỉ trừ có vợ của Long Hải, tất cả đàn bà con gái đều sợ hắn tới vỡ mật.
Hắn mặc lên mình một bộ đồ gọn gàng, choàng thêm áo ngoài, đang chuẩn bị nghênh đón Long Hải áng trừng cũng sắp trở về, nhưng bỗng nghe thấy có tiếng kêu kinh hãi thê thảm xa xa vọng tới.
Hắn lập tức lao ra ngoài nhanh như một con báo, leo lên ngựa, phi tới xem.
Một đám người ôm Long Hải đang vật vã điên cuồng trong cơn đau đớn, phóng như bay trở về.
Long Tuyền đón lấy tấm thân be bét máu tươi, run rẩy không thôi của Long Hải, bê thẳng vào trong lều, dùng chăn lông cuốn chặt lấy hắn.
Miệng vết thương quá lớn, kim sang dược vừa bôi lên liền bị máu ồng ộc trào ra trôi hết. Hắn cắn răng, với lấy một thanh khều lửa còn nóng đỏ trong lò dứt khoát dí vào chỗ vai đứt của Long Hải.
“Xì xì…”
Khi làn khói xanh mang mùi của da thịt bị đốt cháy bốc lên, Long Hải hoàn toàn lịm đi.
Long Tuyền nhanh nhẹn giúp Long Hải băng bó gọn gàng vết thương rồi đưa hắn lên chiếc giường gỗ ấm áp của mình, sau đó hết sức cẩn thận đắp chăn cho hắn.
Mười mấy tay thủ hạ đứng chật trong lều nhìn thấy động tác này của Long Tuyền, trong lòng đều không khỏi cảm động.
Sau đó, Long Tuyền bình tĩnh ngồi xuống, trầm sắc mặt hỏi: “Là kẻ nào chặt tay huynh ấy?”.
“Một nữ nhân nhỏ người đi cùng với Thác Mộc Nhĩ.”
Ở nơi đây bám rễ đã gần bảy năm, dải đất này rốt cuộc có những ai lợi hại hắn đều nắm rõ như lòng bàn tay. Hắn biết Thác Mộc Nhĩ đã thuê hai mươi chín đao khách và cả kiếm khách nổi danh nhất ở đây là Cố Thập Tam, còn chính thương đội của Thác Mộc Nhĩ, cộng thêm cả đàn bà con gái cũng chẳng hơn mười lăm người.
Hắn biết trong số những đao khách ấy có mười người là những nhân vật mà chính bản thân hắn cũng cảm thấy khó đối phó, trong đó kẻ lợi hại nhất là một thiếu niên mười tám tuổi, chỉ biết người ta gọi hắn là “Tiểu Phó”, nghe nói có quan hệ thân thích nào đó với đệ nhất đao pháp trên giang hồ năm xưa, Phó Hồng Tuyết.
Đao pháp của hắn từng được Phó Hồng Tuyết đích thân chỉ dạy.
Hắn có được toàn bộ đao pháp của Phó Hồng Tuyết nhưng lại không có bệnh như Phó Hồng Tuyết. Cho nên Long Hải đi chuyến này vốn chỉ để hư trương thanh thế, thăm dò xem thực hư thế nào mà thôi. Hắn mang theo gần bảy mươi người, nhưng thực ra không hề có ý định ra tay cướp hàng.
Ba mươi tên hộ vệ kia đương nhiên khó đối phó, nhưng không ngờ trong đó còn có một nữ nhân lợi hại tới mức này.
Nữ nhân chỉ là nữ nhân. Long Tuyền thầm nghĩ.
“Thám báo đâu?”
“Thuộc hạ có mặt.”
“Theo dõi nữ nhân ấy cho ta.”
“Thuộc hạ đã phái người theo dõi rồi.”
Một canh giờ sau, Long Tuyền nhận được tin tình báo, biết được nữ nhân đó từng là du khách ở trọ tại Cáp Hùng khách điếm, tướng công của ả là một kẻ tàn phế.
“Tướng công của ả cũng ở trong thương đội?”
“Thuộc hạ tận mắt nhìn thấy ả dìu tướng công của mình vào trong lều của Thác Mộc Nhĩ, lúc đi vào, kẻ tàn phế đó không sao đi được, vẫn phải nhờ ả đích thân bế vào.”
Long Tuyền gật đầu, nói: “Có những hàng hóa gì?”.
“Ba mươi rương đồ, đoán chừng là châu báu. Lần này chắc chắn hàng rất lớn, nếu không hắn đã chẳng bỏ nhiều tiền thuê người áp tải đến thế”, mấy kẻ thủ hạ nghĩ ngợi rồi nói.
“Người đâu, chuẩn bị ngựa”, Long Tuyền ra lệnh.
Thủ hạ dắt tới cho hắn ba con ngựa khỏe. Mỗi lần hắn ra ngoài chí ít cũng đem theo ba con ngựa, thay cưỡi liên tục, đảm bảo cho hắn lúc nào cũng đủ sức ngựa để đối phó với tình huống gian nan nhất, tiêu hao thể lực nhất.
Lều trướng rất lớn, rất rộng, trong lều có bốn chiếc rương sơn đen bóng rất nặng.
Mộ Dung Vô Phong ngồi bên một chiếc rương, đưa tay sưởi lên chậu lửa bằng đồng để giữ ấm.
Vừa rồi chàng và Hà Y ngồi trong lều của Thác Mộc Nhĩ không lâu, chàng còn đang cảm thấy buồn nôn vì mùi trà sữa nồng nặc trong đó thì đột nhiên có vô số phi tiễn bắn về phía căn lều, dày đặc như mưa rào, thoáng cái đã bắn căn lều thành cái tổ ong. Mũi tên gần nhất bắn trúng lưng ghế chàng, cách đầu chàng chưa tới nửa tấc, khiến cho Hà Y đang cuống quýt gạt tên bên cạnh sợ tới hồn siêu phách lạc.
Trong lúc hỗn loạn, chàng bị Hà Y đẩy vào đây, nàng đặt chàng vào giữa bốn cái rương lớn.
“Ta không thích ngồi ở chỗ này”, Mộ Dung Vô Phong nói, chàng cảm thấy bản thân mình thật chẳng khác một cái rương.
“Chỉ còn hai căn lều chàng có thể đến. Một căn trong đó có năm cô gái Ba Tư đang ngồi, căn thứ hai chính là đây. Chàng chọn nơi nào?”
“Chỗ này không tệ”, Mộ Dung Vô Phong lập tức nói.
Hà Y không quên thuận tay bê tới cho chàng một cái chậu sưởi bằng đồng. Căn lều này vốn là nơi để hàng hóa, trong lều lạnh hệt như bên ngoài.
“Xe ngựa của chúng ta…”, chàng lại hỏi.
“Ngựa bị bắn chết rồi, xe cũng bị đốt cháy sạch”, Hà Y quay đầu định đi.
“Hà Y”, Mộ Dung Vô Phong lại gọi nàng: “Cẩn thận một chút”.
“Ừm. Chàng cũng cẩn thận, sẽ lập tức có người tới đón chàng”, nói xong Hà Y loáng cái đã không thấy đâu nữa.
Tiếng của nàng chưa dứt, chàng đã nghe có tiếng bước chân. Một thiếu niên áo đen chậm chạp bước vào, kéo ghế, ngồi đối diện với chàng.
Thân hình của thiếu niên không hề cao lớn, trên lưng còn giắt một thanh đao đen bóng.
Chuôi đao màu đen, vỏ đao cũng sơn đen, đen tựa như đôi mắt thiếu niên vậy.
Tay của thiếu niên đó vẫn luôn đặt lên chuôi đao, dáng vẻ tựa như chuẩn bị bất cứ lúc nào cũng có thể rút đao ra.
“Đệ họ Phó, người ở đây đều gọi đệ là Tiểu Phó”, thiếu niên lên tiếng.
“Ta họ Lâm”, Mộ Dung Vô Phong nói. Thực sự trong này quá lạnh, tuy đã khoác áo dày, trên chân phủ chăn lông, bên trái còn có chậu sưởi giữ ấm nhưng cả người chàng vẫn không sao khống chế được mà run lên cầm cập. Chàng chỉ đành nhích xe lăn, chuyển nửa người bị thương của mình đến gần chậu sưởi hơn.
Còn thiếu niên kia chỉ mặc một chiếc áo đơn, thế nhưng dáng vẻ lại như chẳng thấy lạnh chút nào.
Tiểu Phó nhìn chàng, rồi lại nhìn mấy cái rương xung quanh.
Mộ Dung Vô Phong cảm thấy thái độ thiếu niên này nhìn mình với nhìn mấy cái rương thật chẳng có chút gì khác biệt.
Chàng cười khổ, bản thân quả nhiên là người đi tới đâu cũng mang lại phiền phức cho người khác.
Ngoài lều có tiếng đánh nhau. Tên từ bốn phía không ngừng vun vút bắn tới, găm đầy lên bốn cái rương gỗ lớn.
“Đệ nên ra ngoài xem xem”, Mộ Dung Vô Phong đề nghị.
Còn đang nói, chợt có tiếng “bình” vang lên, nóc lều đã bị loạn tiễn bắn thủng thành lỗ lớn, có thứ gì đó từ trên rơi xuống, nhắm thẳng vào đỉnh đầu Mộ Dung Vô Phong mà nhào tới!
Thân thể chàng không được linh hoạt, đang chuyển bánh xe, định tránh ra thì chợt thấy ánh đao lóe lên, “xoẹt” một tiếng, mấy con bọ cạp to lớn rơi xuống đất, đã bị đao xẻ thành mấy khúc.
Mấy con bị cạp này cả người trắng phau, cái đuôi độc còn cong cong, lóe lên ánh xanh biếc.
Mộ Dung Vô Phong nhíu mày, nói: “Mấy con bọ cạp này cực độc, chạm vào người ắt là chết”.
“Đây là bảo bối của Quang Tiên. Lúc đệ vào đây đã có bốn người trúng độc chết ngoài cửa”, Tiểu Phó hừ một tiếng.
Đao của thiếu niên này nhanh như chớp giật, Mộ Dung Vô Phong ngồi đối diện cậu ta, lại còn mặt đối mặt, vậy mà không sao nhìn rõ động tác rút đao của cậu ta, cũng không sao nhìn thấy được cậu ta thu đao lại như thế nào.
Cứ như thanh đao ấy tự nhảy ra khỏi vỏ vậy.
Mộ Dung Vô Phong cúi người nhặt nửa con bọ cạp lên, xem xét kỹ lưỡng: “Loài bọ cạp tuyết của Thiên Sơn này quả thật rất hiếm thấy, trước đây ta chỉ được nghe nói trong sách thôi”.
“Nó có độc, huynh không sợ à?”, thiếu niên kinh ngạc hỏi.
Mộ Dung Vô Phong bật cười, nói: “Ta có thuốc giải”, chàng lấy một thứ trong cái hộp bên tay vịn xe lăn, ném qua cho Tiểu Phó, nói: “Đệ uống nó vào thì sẽ không việc gì”.
Tiểu Phó đón lấy nhìn kỹ, nó chỉ như một viên kẹo trẻ con thường ăn mà thôi, lại còn dùng giấy gói kẹo màu mè hoa hoét bọc lấy. Tiểu Phó không khỏi ngẩn ra, hỏi: “Đây đúng là thuốc giải sao? Huynh không lấy nhầm chứ?”.
“Không sai”, chàng khẽ cười: “Thê tử của ta không chịu ăn bất cứ thứ gì có vị đắng, ta chỉ còn cách chế giải dược thành dạng này”.
Tiểu Phó bỗng hô lên: “Cúi đầu sang trái!”.
Mộ Dung Vô Phong lập tức cúi đầu sang trái, ánh đao kia lại lóe lên, một bàn tay không biết từ đâu bắn ra, vạch một đường trên không trung rồi rơi xuống cái rương đối diện.
Quả lưu tinh chùy nằm trong bàn tay đó còn có dư lực cực lớn, đánh vào nắp của chiếc rương gỗ làm vỡ một lỗ to tướng.
Nếu như động tác của Tiểu Phó chậm một chút, quả lưu tinh chùy kia sớm đã đập nát đầu Mộ Dung Vô Phong rồi.
Sau chiếc rương vang lên tiếng gào thét điên cuồng, kế đến là tiếng ám khí vun vút bay tới, hình như có viện binh chạy tới. Tiểu Phó đã nhào qua, bên kia chiếc rương tiếng đao kiếm va nhau chan chát, lửa tóe bốn phía.
Sau đó máu me phun ra như suối, vấy cả lên áo ngoài trắng phau như tuyết của Mộ Dung Vô Phong, chàng chẳng làm sao tránh được, đúng vào lúc còn đang lung túng, một kẻ áo đen từ một góc khác đột nhiên xông tới, trên tay cầm một thanh đại đao.
Sau lưng bị chắn bởi hai chiếc rương khác, Mộ Dung Vô Phong đã không còn đường lui nữa. Chàng chỉ đành ngồi yên nhìn thanh đao lớn kia bổ về phía mình. Chiêu này gọi là “Hoành Tảo Thiên Quân”, đủ để khiến chàng đầu một nơi thân một nẻo.
Trong lúc nguy cấp, chàng bèn cầm cái chậu lửa quăng về phía kẻ kia!
“Xoảng” một tiếng, cái chậu ấy đập trúng chân của hắn, lửa than bên trong lập tức văng ra tung tóe, chỉ nghe “xì” một tiếng, than củi nóng bỏng, kẻ kia thét lên đau đớn, gần như ngã quỵ xuống.
Nhân lúc ấy, Mộ Dung Vô Phong rút cái nạng sau lưng ghế ra, chặn lấy thanh đai đao của kẻ kia vung tới.
“Tang!”, hai thứ ấy va vào nhau, phát ra một tiếng chói tai. Chiếc nạng kia tựa như được làm bằng vật liệu đặc biệt, cứng rắn lạ thường, không những không bị thanh đao chặt đứt mà ngay tới một vết xước cũng chẳng có!
Mộ Dung Vô Phong sững người, thân thể bị luồng lực lớn của thanh đao truyền tới làm chấn động, suýt nữa ngã văng khỏi xe lăn.
Trong chớp mắt, kẻ kia nhảy tới, tiếp tục vung đại đao chém đến!
Bên người Mộ Dung Vô Phong đã không còn bất cứ thứ gì có thể ngăn cản nhát đao này nữa rồi.
Kẻ kia cười điên cuồng, nâng đao nhắm đỉnh đầu Mộ Dung Vô Phong bổ xuống!
Động tác của hắn rất nhanh, lúc ánh đao chém tới còn mang theo đao phong thổi mái tóc dài của Mộ Dung Vô Phong bay lên phơ phất.
Ánh đao lóe lên rồi biến mất.
Đồng thời cùng với thanh đại đao bắn tung lên trời, còn có cả thủ cấp của kẻ kia.
Cái thủ cấp ấy bay qua đỉnh đầu Mộ Dung Vô Phong, “bộp” một tiếng rơi xuống đất. Mộ Dung Vô Phong quay đầu lại, nhìn thấy Tiểu Phó đưa tay đón lấy thanh đại đao kia rồi quẳng sang một bên.
Mộ Dung Vô Phong nói: “Tuy người ta đầy máu nhưng không hề bị thương”.
“Đương nhiên huynh không bị thương”, Tiểu Phó từ tốn nói.
Âm thanh đánh nhau càng lúc càng lớn, bên ngoài dường như đã đánh tới nghiêng trời lệch đất.
Bọ cạp tuyết đang từ bốn phương tám hướng bò tới, có mấy con đã trèo lên tấm chăn lông trên đùi Mộ Dung Vô Phong. Ánh đao lại lóe lên, bọ cạp bị xẻ làm đôi, rơi hết xuống đất.
Tiểu Phó “cạch cạch” vài tiếng, đã giẫm chết thêm mấy con nữa, rồi nói với Mộ Dung Vô Phong: “Huynh không thể ở lại chỗ này, bên ngoài kia đại khái sắp không trụ nổi nữa rồi, trong này đã thành nơi nguy hiểm nhất”.
Mộ Dung Vô Phong cười khổ: “Ta chẳng thể đi đâu được cả”.
Lúc nói câu này, chỉ nghe thấy “tang tang” mấy tiếng, chiếc rương sau lưng chàng đã găm thêm một hàng tên! Tới lúc chàng kịp hoàn hồn, nóc lều trên đỉnh đầu đã “phừng” một tiếng bốc lên một ngọn lửa lớn, Tiểu Phó chụp lấy chàng nhấc lên, mà thân thể chàng thì đang cột chặt vào chiếc xe lăn, thế là hai người một xe cùng bay ra khỏi căn lều, rơi đúng vào tấm lưới đang giăng sẵn đón lõng trước mặt!
Tiểu Phó vung đao chém mạnh xuống, chiếc lưới ấy tuy mềm, nhưng là dùng sợi kim loại đan thành, căn bản không cắt đứt được!
Tấm lưới đó càng động càng siết lấy, đã bó chặt hai người vào một chỗ!
Lúc này bọn họ mới thấy được tình hình bên ngoài, tất cả lều trướng lẫn xe cộ đều đang hừng hực cháy, tất cả nữ nhân Ba Tư sớm đã bị trói lại thành một đám, bên ngoài lều của bọn họ là bảy, tám xác người bị loạn tiễn bắn chết, hoặc bị trúng độc của bọ cạp mà chết, nhìn thật kỹ thì đều là đao khách theo hộ vệ đội xe.
Tiểu Phó bây giờ mới phát hiện, hai kẻ ngồi trên lưng ngựa trước mặt mình, một là Long Tuyền, một là Quang Tiên. Sau lưng bọn chúng còn có không dưới ba trăm tên lâu la, hai lộ mã tặc dốc toàn bộ lực lượng bắt tay nhau tập kích thương đội của bọn họ!
Đây hiển nhiên là lần đầu tiên từ trước tới nay mã tặc hợp tác với nhau. Cứ theo Tiểu Phó biết, ba lộ mã tặc này vì tranh nhau mối hàng mà thậm chí còn có cừu thù, trước giờ không hề qua lại.
“Tổng cộng ba mươi rương đồ, bên trên bọn ta đã đánh dấu rồi, đây là bốn rương hàng quan trọng nhất, các ngươi lấy một, bọn ta lấy hai, để lại một rương cho Tiểu Thạc. Hai mươi sáu rương còn lại, bốc thăm quyết định, Phong huynh thấy thế nào?”
Tác phong của Long Tuyền không giống Quang Tiên, hắn thường không giết người Ba Tư trong thương đoàn, cũng không bao giờ cướp bóc sạch sẽ hàng hóa mà luôn để lại cho bọn họ chút gì đó gọi là “Lần sau bọn họ còn tới nữa, không nên cắt đứt nguồn hàng”.
Không rõ tên tuổi thật sự của Quang Tiên là gì, chỉ biết hắn họ Phong.
Quang Tiên nói: “Long huynh thật công bằng, tại hạ bội phục, vậy cứ làm theo cách huynh nói đi, bọn ta sẽ lập tức áp tải hàng về”.
Rút thăm xong, kiểm hàng hóa, Quang Tiên mở cờ trong bụng, chỉ huy thủ hạ cột từng rương hàng một lên lưng lạc đà chở đi.
Thủ hạ của Long Tuyền cũng đã sớm ba chân bốn cẳng trói ghì Tiểu Phó lại, thấy hai chân Mộ Dung Vô Phong tàn phế nên cũng chẳng thèm để tâm, chỉ đem chàng buộc lên lưng ngựa.
Mộ Dung Vô Phong nói với tên lâu la đang buộc mình: “Liệu có thể làm phiền lão huynh buộc luôn xe lăn của ta lên không?”.
Tên lâu la trợn mắt nhìn chàng.
Mộ Dung Vô Phong nói: “Lẽ nào huynh sẵn lòng cả ngày khiêng ta đi đi lại lại à?”, tên lâu la thở dài một tiếng, cũng đem chiếc xe lăn của chàng buộc luôn lên lưng ngựa, cả đám người xuất phát, tiến sâu vào trong thảo nguyên.
Mộ Dung Vô Phong đảo mắt nhìn bốn phía, phát hiện theo sau đoàn ngựa còn một cỗ xe lớn, sau cỗ xe lớn là một đám lâu la đang dắt một con ngựa, trên ngựa có buộc một cô gái nhỏ nhắn, cô gái cúi gục đầu, bóng hình nàng nhỏ nhoi trong gió tuyết to lớn.
Chàng đương nhiên nhận ra bóng hình ấy, cho dù bóng hình nàng có biến thành một chấm nhỏ, chàng vẫn có thể lập tức nhận ra.
Lòng Mộ Dung Vô Phong chợt trầm xuống.
Chương 35
“Tình hình lão đại thế nào rồi?”, Long Tuyền vừa xuống ngựa đã lập tức hỏi Tưởng Thất đang ở lại giữ trại.
Chen chân trong bầy thổ phỉ dưới chân núi Thiên Sơn, nếu chỉ dựa vào mình hai anh em họ Long thì đương nhiên là không đủ. Cho nên bọn họ tổng cộng có bảy người kết bái huynh đệ, luận về tuổi tác Tưởng Thất là nhỏ nhất, nhưng luận về võ công thì lại xếp thứ hai, vì ở lại chăm sóc Long lão đại bị trọng thương nên lần hành động huy hoàng nhất trong bảy năm tới thảo nguyên này hắn không hề tham gia.
“Lão đại vốn là người cứng cỏi, đã sớm tỉnh lại rồi”, Tưởng Thất cất giọng trầm đục nói.
Long Tuyền bước vào trong lều, phát hiện Long Hải không những đã tỉnh lại mà còn đã xuống giường, khoác áo choàng, ngồi bên chậu sưởi bằng đồng thau khều lửa. Trong chậu sưởi, những đốm lửa xanh chập chờn, ánh lửa chiếu lên khuôn mặt đang nhíu mày, nghiến răng, đau tới không ngừng co giật của hắn.
Long Tuyền đưa mắt quét qua vai phải của Long Hải, một cơn đau lòng không sao khống chế nổi trào lên trong đáy lòng hắn. Bọn họ là mã tặc, là những kẻ có cuộc đời gập ghềnh nhất trên thảo nguyên. Kể từ ngày đầu tiên sinh ra, hắn đã phải nếm trải cuộc đời khốn khổ bị kẻ khác chèn ép, hắn đã đem chút tình cảm ấm áp giành cho thế giới này từng chút từng chút quẳng ra khỏi đầu.
Thế giới của Long Tuyền là một đám cỏ hoang lộn xộn, lộn xộn tới mức bản thân hắn cũng chẳng thể nói rõ được nhân quả trong ấy, mỗi giờ mỗi khắc, hắn đều cảm thấy bản thân như một thứ lòng đỏ trứng trôi nổi trong lòng trắng, thế giới của hắn là một khoảng hỗn độn.
Trong cái khoảng hỗn độn ấy, chỉ có một thứ là rõ ràng, là ấm áp, là thứ hắn có thể dễ dàng dùng tâm cảm nhận được, dùng tay sờ mó được, đó chính là quan hệ giữa hắn và Long Hải. Nếu bây giờ Long Hải cần tay của hắn, hắn sẽ không do dự chặt tay mình xuống đưa cho Long Hải. Nếu Long Hải muốn hắn chết, hắn sẽ tuyệt đối không nhíu mày.
Bởi vì Long Hải cũng từng là quan, quan chức còn cao hơn hắn nhiều, nhưng vì tình nghĩa huynh đệ, Long Hải đã vứt bỏ mọi thứ của bản thân, bao gồm cả tiền đồ, bao gồm cả tính mạng cả gia đình.
Kể cả vào lúc gian khổ nhất, sa cơ lỡ vận nhất, Long Hải cũng có thể đem bát cơm cuối cùng, ngụm nước cuối cùng trong tay đưa cho Long Tuyền.
Cảm tình của Long Hải đối với hắn, có lúc ngay cả chính bản thân Long Tuyền cũng không hiểu rõ.
“Đại ca”, Long Tuyền cúi đầu đi tới bên Long Hải, cảm nhận được hơi thở nặng nề vì đau đớn của hắn.
“Hàng đã đoạt được rồi chứ?”, Long Hải ngẩng khuôn mặt tiều tụy của mình lên.
Long Tuyệt gật đầu, có chút do dự nói: “Tình huống khó giải quyết, đệ đã tìm tới Quang Tiên”.
“Đệ không nên tới tìm hắn”, Long Hải sầm mặt nói.
Tiếp đó là một khoảng trầm mặc khó chịu.
Qua một lúc, Long Hải quay đầu sang, ánh mắt sắc nhọn: “Lẽ nào đệ đã quên đầu của lục đệ là do Quang Tiên chặt xuống sao? Giữa chúng ta và hắn thù sâu như biển, không đội trời chung”.
Long Tuyền thấp giọng nói: “Đệ hiểu”.
Hắn ngừng một lát rồi nói tiếp: “Đệ vốn cũng không muốn làm như thế. Chỉ là… chỉ là muốn bắt được kẻ đã chặt tay phải của đại ca, báo thù cho đại ca… thù của lục đệ, sớm muộn gì đệ cũng sẽ báo”.
Long Hải khép mắt lại, phảng phất như thấy lại ánh kiếm mang sắc tía ấy, thân thể hắn khẽ run lên, cánh tay kia đã rời khỏi người hắn văng về phía trước. Nữ nhân kia thân hình rất nhỏ nhắn, dùng kiếm cũng gọn gàng hơn người bình thường.
“Đó là một nữ nhân, một nữ nhân nhỏ nhắn”.
“Không sai. Đệ đã tóm được ả, còn cả tướng công của ả. Ngoài ra còn có những đao khách khác, trong đó có Tiểu Phó”.
“Tiểu Phó? Chính là Tiểu Phó đã giết lão tam? Ông Trời cũng tính là công bằng! Những kẻ hôm nay đệ bắt được đúng là không ít”, Long Hải nở nụ cười: “Vậy sao vẫn chưa đem bọn chúng vào đây?”.
“Bọn chúng ở ngay ngoài cửa”.
“Mời các huynh đệ vào đây, nhân tiện đem theo chút rượu ngon. Cái loại thời tiết quỷ quái lạnh chết người này, mọi người không có việc gì thì chỉ đành bó chân trong lều, phải có chút gì tiêu khiển mới được.”
Nói xong câu ấy, Long Hải lại rên một tiếng, chỗ tay đứt quả thật đau không chịu nổi.
Sở Hà Y và Tiểu Phó bị trói chằng trói chịt giải vào trong lều. Mộ Dung Vô Phong thì ngồi trên xe lăn, được một tên lâu la đẩy vào, hai tay chàng bị trói chặt một chỗ.
“Tên tàn phế này là tướng công của ả?”, Long Hải nhìn Mộ Dung Vô Phong, hơi sững lại rồi quay đầu hỏi Long Tuyền.
“Không sai”, Long Tuyền cúi đầu, cung kính đáp.
“Ha ha ha…”, đám lâu la trong lều liền phá lên cười lớn.
“Ta nghe nói trên giang hồ có nhiều kẻ tàn phế võ công rất khá, võ công lão bà của tên tiểu tử này đã cao như thế, phải chăng hắn cũng là kẻ luyện võ?”.
“Hắn không phải. Hắn không biết lấy nửa điểm võ công, ngay đến việc nhấc chân lên cũng chẳng thể. Nếu huynh đẩy hắn xuống đất, hắn chỉ có thể bò lăn bò lê như một con giun mà thôi”, Long Tuyền khinh rẻ quét mắt nhìn Mộ Dung Vô Phong, chợt phát hiện Mộ Dung Vô Phong cũng đang nhìn mình, ánh mắt lạnh lẽo như băng tuyết vạn năm trên đỉnh Thiên Sơn.
Long Tuyền đã gặp qua đủ mọi hạng người, cũng thấy qua các loại ánh mắt nhưng ánh mắt của Mộ Dung Vô Phong khiến hắn rất không thoải mái. Đó là một sự hờ hững hoàn toàn, mang theo một loại chế nhạo tận xương tủy, nhưng lại phảng phất lúc ẩn lúc hiện, mơ hồ như mây mù trên đỉnh núi xa xăm.
Ngay lập tức hắn nhận ra người này tuy là một kẻ tàn phế, nhưng lúc ngồi lưng hoàn toàn thẳng tắp, đầu cũng ngẩng rất cao, mang một tư thế rất cao quý, cũng cực kỳ ngạo nghễ. Người này nghe câu nói của Long Tuyền cũng chẳng mảy may tức giận, chỉ lãnh đạm đáp trả một câu:
“Nói cho cùng không nhấc nổi chân lên so với việc không ngóc được một thứ khác lên còn tốt hơn nhiều, Long tiên sinh, ông nói xem?”
Chàng vừa nói câu này, trong lều lập tức im bặt.
Yên ắng tới mức có thể nghe thấy tiếng tuyết rơi ngoài lều.
Dù có là kẻ ngu si đến mấy cũng hiểu câu này là ý gì, huống chi bao nhiêu năm nay Long Tuyền không gần nữ sắc, với việc này, người xung quanh hắn từ lâu đã đoán già đoán non.
Tim Hà Y đã thót lên tận cuống họng, nàng biết Mộ Dung Vô Phong tuyệt đối không phải là người dễ dàng chịu để kẻ khác sỉ nhục, nhưng chí ít chàng cũng lên nghĩ tới hậu quả sau khi nói ra câu ấy chứ.
Long Tuyền mặt đỏ bừng, hầm hầm siết chặt nắm đấm, tiếng xương khớp vang lên răng rắc, trong đầu hắn thoáng chốc đã nghĩ ra cả trăm cách đầy đọa Mộ Dung Vô Phong.
“Còn ngươi nữa”, Mộ Dung Vô Phong nói với Long Hải: “Ngươi cho rằng bị chặt mất cánh tay ấy thì còn có thể sống được bao lâu? Trên kiếm của thê tử ta có thoa độc, không có thuốc giải, ngươi tuyệt đối không sống được qua ngày hôm nay”.
Long Hải cười lạnh: “Tên tiểu tử ngươi nghĩ bọn ta là trẻ con ba tuổi hay sao? Lại dám bày trò trước mặt ông mày à!”.
“Nếu ngươi dùng nội lực đồng thời đưa vào hai huyệt ‘Dụ Hải’ và ‘Thần Tuyền’, sẽ phát hiện hai huyệt đạo này đã tự động phong bế. Đây chính là triệu chứng của việc trúng độc. Không tin ngươi có thể thử”.
Ngoài mặt Long Hải tuy nói không tin nhưng vẫn không nén được mà ngấm ngầm vận khí nhẹ nhàng thử đưa nội lực tới hai huyệt vị ấy, đột nhiên bỗng cảm thấy trời đất quay cuồng, toàn thân mềm nhũn rồi “xoạch” một tiếng ngã lăn xuống đất, hôn mê bất tỉnh.
Cặp mắt Long Tuyền như nứt ra, chợt rống lên một tiếng rồi xông tới xách Mộ Dung Vô Phong lên khỏi xe lăn ném mạnh xuống đất, một chân hung ác đạp lên ngực chàng.
Tất cả mọi người đều nghe thấy tiếng xương sườn Mộ Dung Vô Phong đứt gãy.
Sau đó hắn rút một que khều lửa bằng sắt đỏ rực trong chậu sưởi, “xèo” một tiếng, gí thẳng vào vai phải của Mộ Dung Vô Phong, nói: “Giao thuốc giải ra! Nếu không ta sẽ giết ngươi!”.
Mộ Dung Vô Phong cắn chặt răng, nén chịu cơn đau bỏng rát, chẳng biến sắc mặt nói: “Đã muốn có thuốc giải, sao còn không mau cởi trói cho ta?”.
“Ngươi cho rằng ngươi có thể thoát nổi sao?”, Long Tuyền vung kiếm cắt đứt dây thừng trói tay chàng rồi kề mũi kiếm vào cổ họng chàng nói.
Trong tay Mộ Dung Vô Phong quả nhiên có một viên thuốc màu đỏ tươi.
Long Tuyền vươn tay ra vừa định nhận lấy, Mộ Dung Vô Phong đã đột nhiên vung tay quăng thẳng viên thuốc đó vào chậu sưởi!
Long Tuyền giận dữ hét lên: “Ngươi…”, hắn vốn định một kiếm chém bay đầu Mộ Dung Vô Phong nhưng rồi chợt phát hiện tay chân mình đã tê dại, tiếp đến là hoa mày chóng mặt, cả người mềm nhũn đổ gục xuống đất.
Chớp mắt, người trong lều, ngoại trừ Hà Y, toàn bộ đều đã ngã gục.
“Vô Phong! Chàng… chàng mau tỉnh lại!”, Hà Y nhìn Mộ Dung Vô Phong nằm bất động trên mặt đất còn bản thân mình thì bị trói gô lại như một cái bánh tét, chỉ đành từ xa gọi chàng. Nhìn bộ dạng vừa rồi của chàng, tim nàng đã sớm tan nát. Nàng thà nguyện để người phải chịu giày vò là chính mình, nàng biết vừa rồi tất cả cố gắng của Mộ Dung Vô Phong là muốn thu hút sự chú ý của huynh đệ họ Long kia khỏi nàng.
Chàng nhất định đã bị nội thương rất nặng, Hà Y gọi liền mấy tiếng rồi dừng lại, quả thật không đành lòng gọi chàng tỉnh lại nhưng người đang nằm trên mặt đất kia cuối cùng đã cử động, từ từ bò về phía nàng!
Tay chân nàng lạnh buốt nhìn chàng khó khăn lê lết thân mình trên mặt đất, trong lòng lo lắng tới mức toàn thân mềm nhũn đi, giọng run rẩy nói: “Chàng chầm chậm một chút, đừng… đừng gắng sức quá!”.
Mộ Dung Vô Phong nghe tiếng nàng nhưng lại lo người bên ngoài mà xông vào thì một phen cố gắng vừa rồi của mình sẽ thành công cốc liền cắn răng, ra sức bò nhanh hơn, chẳng để ý tới cơn đau trên người, cố gắng bò tới bên Hà Y, dùng thanh kiếm tiện tay quờ được cắt đứt dây trói cho nàng.
“Thiếp quên mất chúng ta hãy còn một viên ‘Hoan Tâm’”, Hà Y thở phào nói.
Mộ Dung Vô Phong thường phải uống các loại thuốc, để tiện cho việc lấy dùng, Hà Y đã đem tất cả các loại thuốc phòng thân thường ngày đựng trong một cái hộp nhỏ trên tay vịn chiếc xe lăn của chàng. Vừa rồi hai tay Mộ Dung Vô Phong bị trói chặt, chỉ có thể miễn cưỡng cử động ngón tay, chàng liền nhân lúc nói chuyện với huynh đệ họ Long lén lấy viên “Hoan Tâm” ngày trước lúc Hà Y tới Đường môn cứu người đem theo dùng còn thừa lại.
“Hoan Tâm” là thuốc mê đặc chế của Vân Mộng cốc, chỉ có cho vào trong lửa mới có thể phát huy dược lực.
Hà Y vội đỡ Mộ Dung Vô Phong dậy, đưa tay vào trong áo chàng kiểm tra thương thế. Tay vừa đụng tới ngực, chàng đã nhíu chặt mày, đau tới toát mồ hôi.
“Đừng cử động, chàng gãy mất hai xương sườn rồi!”, Hà Y sợ hãi nói.
“Còn may… ta là đại phu”, Mộ Dung Vô Phong hít vào một hơi rồi lách cách vài tiếng, tay nhanh như cắt nắn lại xương gãy trong lồng ngực mình.
Tuy nói như thế, nhưng chàng vẫn không nhịn được “ọe” một tiếng nôn ra một ngụm máu tươi.
Hà Y xót xa nhìn chàng.
Vết bỏng trên vai chàng thê thảm tới nỗi không dám nhìn, trong lúc vội vã, Hà Y chỉ có thể băng qua loa lại rồi đem thuốc giải bỏ vào miệng Tiểu Phó đang nằm gục một bên. Một lát sau, Tiểu Phó rốt cuộc cũng có thể đứng dậy, hai người bèn nhặt lấy binh khí của mình.
Đám lâu la từ bên ngoài xông cả vào.
“Tỷ đưa huynh ấy đi, đệ sẽ chặn hậu”, Tiểu Phó vung đao, mở ra một con đường máu, Hà Y dìu Mộ Dung Vô Phong, dưới sự hộ vệ của Tiểu Phó, nhảy lên một con ngựa khỏe, đang định thúc ngựa bỏ chạy thì chợt thấy trước mặt có một bóng đen tung người nhảy về phía mình, mũi chân điểm nhẹ trong không trung, lại phóng đi nhanh như chim cắt, một bước mười trượng, nhảy tới bên cạnh Tiểu Phó.
Cố Thập Tam.
Hà Y không nén được thở ra một hơi lạnh. Nàng vốn luôn cho rằng khinh công của mình rất giỏi, nhưng thân thủ linh hoạt, động tác đẹp đẽ của Cố Thập Tam tựa như còn hơn cả nàng.
Sau đó nàng nhìn thấy kiếm của Cố Thập Tam.
Hà Y không thể không thừa nhận, ngoài Lục Tiệm Phong ra, đây là thanh kiếm nhanh nhất, ác liệt nhất nàng từng được thấy qua. Kiếm của Cố Thập Tam vừa dài vừa hẹp, lúc đâm ra chỉ thấy cổ tay chớp động mà tuyệt nhiên không có lấy một chút âm thanh. Không chỉ nhanh mà động tác cũng ung dung tùy ý, mỗi một chiêu một thức đều tự nhiên như xuân hoa thu nguyệt.
Lúc Cố Thập Tam vung kiếm, mắt vẫn luôn khép hờ, căn bản chẳng thèm nhìn người trước mặt. Hà Y ngờ rằng anh ta vốn chẳng cần quan sát đối thủ của mình, tựa như cảm quan toàn thân Cố Thập Tam đều có thể cảm nhận được địch nhân. Nhưng những chiêu thức Cố Thập Tam dùng đều tuyệt đối mãnh liệt, có hiệu quả!
“Ngươi thừa nhận cũng được, không thừa nhận cũng được”, Thác Mộc Nhĩ tới bên cạnh Hà Y nói: “Kiếm của lão Cố là thanh kiếm nhanh nhất mà ta từng được thấy”.
Hà Y hừ một tiếng, không phục nói: “Thế sao?”.
Thác Mộc Nhĩ vội vàng sửa: “Đương nhiên đấy là trước khi ta gặp được Sở cô nương. Ài, nếu hai người các ngươi có so kiếm, lúc ấy chớ quên gọi ta đấy”.
Lúc Hà Y đưa Mộ Dung Vô Phong vào trong xe ngựa, chàng đã hôn mê rồi.
Vết thương nơi ngực của chàng đã sưng phồng lên. Hà Y không dám di động thân thể chàng, chỉ đành cẩn thận từng li từng tí, dùng nước nóng lau đi vết máu trên người chàng, đắp lên một lớp cao thuốc rồi băng bó lại.
Đắp chăn kĩ lưỡng cho chàng xong, nàng liền bất động túc trực bên cạnh chàng.
Nửa canh giờ sau, Thác Mộc Nhĩ ở ngoài xe gọi: “Sở cô nương, hàng đã thu về rồi, bây giờ chúng ta sẽ lên đường”.
Không có tiếng đáp lại.
Cố Thập Tam vén rèm xe, thấy Hà Y cúi gục đầu, lệ tuôn lã chã.
Hắn hơi có chút ngạc nhiên. Kiếm của nữ nhân này vung lên tuyệt đối không thua kém bất cứ nam nhân nào, nhưng dáng vẻ của nàng khi khóc thì cực kỳ nữ tính.
Cố Thập Tam hỏi: “Thương thế của huynh ấy nặng lắm sao?”.
Hà Y nghẹn ngào nói: “Tôi không biết… chàng… hơi thở của chàng không được bình thường”.
Cố Thập Tam lập tức dừng xe lại, nhảy vào bên trong, đưa tay nắm lấy mạch môn của Mộ Dung Vô Phong.
“Huynh chỉ có thể dùng một tầng công lực. Chàng chỉ chịu được có từng ấy thôi”, Hà Y khẽ than.
Hơi thở của chàng càng lúc càng yếu, nhịp tim thì lúc nhanh lúc chậm, tình hình cực kỳ hiểm nghèo.
“Xe ngựa rung lắc mạnh quá, chỉ sợ huynh ấy chịu không nổi”, Cố Thập Tam nói rồi đưa mắt đảo quanh một vòng. Chợt anh ta dùng dây thừng buộc vào bốn góc của tấm thảm da trải dưới đất, rồi lại đem bốn sợi dây thừng ấy lần lượt chăng lên những cái móc ở hai bên cửa sổ xe. Tấm thảm da ấy được căng lên, treo lơ lửng, tựa như có thêm một cái võng bên trong xe. Sau đó Cố Thập Tam bế Mộ Dung Vô Phong đặt lên cái võng ấy.
“Như thế này huynh ấy sẽ dễ chịu hơn một chút chăng?”, Cố Thập Tam quay lại nhìn nàng hỏi.
“Đa tạ”, cô gái gật đầu, cảm kích nhìn hắn, miệng khẽ nở nụ cười rồi ngồi xuống bên cạnh cái võng, nhẹ nhàng nắm lấy tay Mộ Dung Vô Phong.
Lúc nàng cười, trên hàng lông mi dài còn đọng đầy nước mắt.
Cố Thập Tam chợt phát hiện, tuy cô gái này không có dung nhan kinh thế hãi tục nhưng lại có nụ cười cực kỳ động lòng người, cực kỳ quyến rũ.
Chương 36
Cứ như thế, cuối cùng thương đoàn cũng tới được Tiểu Giang Nam.
Lúc trước, Thác Mộc Nhĩ đã cướp lại được một nửa hàng hóa, cứu về được năm nữ nhân Ba Tư.
Khi sắp tới Tiểu Giang Nam, bọn họ còn gặp Tư Văn nhưng cũng chẳng có đánh nhau gì lớn. Cứ khi có Cố Thập Tam và Tiểu Phó, Tư Văn thường sẽ không dám cướp hàng. Tiểu Phó đã từng cắt mất một tai của hắn, lại còn bắt hắn thề chỉ cần là thương đoàn do Tiểu Phó hộ tống, Tư Văn không được đụng chạm. Đây cũng là nguyên nhân tại sao Thác Mộc Nhĩ bất luận có phải bỏ ra bao nhiêu tiền cũng nhất định phải mời bằng được Tiểu Phó.
Thác Mộc Nhĩ từ biệt các đao khách, tiếp tục lên nơi hắn muốn tới là Ili, cách nơi đây không xa, dọc đường lại đã có trọng binh của quan phủ đóng quân.
Được Cố Thập Tam giúp đỡ, buổi chiều hôm ấy Hà Y đã tìm được một gian nhà cho thuê.
Đó là biệt viện của một người giàu có, có một cánh cửa riêng hướng ra đầu phố, sàn nhà còn lát lớp giữ nhiệt cho nên kể cả lúc lạnh giá nhất trong phòng vẫn cực kỳ ấm áp. Xung quanh tòa nhà là một dãy hành lang, ở giữa là một khoảnh sân không lớn không nhỏ, một miệng giếng, bốn phía có trồng dương liễu, cây dâu và cây hạnh. Những công trình phụ khác đều rất đầy đủ, bài trí trong nhà lại rất tinh tế, tuy còn xa mới sánh được với Trúc Ngô viện nhưng trên khắp dải đất này, nhà như thế cũng chỉ đếm trên đầu ngón tay.
Người giàu có ấy thấy thuê tòa biệt viện này là hai người phương nam trông rất trầm tĩnh, lúc nói về tiền thuê cũng không nhiều lời nên trong lòng ông ta rất cao hứng, liền vui vẻ nhận lời mỗi ngày sẽ cung ứng cho phu thê hai người họ nước nóng và nước lạnh. Thế là mỗi ngày đều có người giúp việc tới giúp bọn họ múc nước trong giếng chứa đầy lu vại trong nhà bếp, đến nhá nhem tối lại có người đun sẵn nước nóng để tắm rửa.
Mộ Dung Vô Phong hôn mê trọn hai ngày, lúc tỉnh lại thì phát hiện bản thân đang nằm trên một cái giường mềm bằng gỗ tùng kê gần cửa sổ.
Khăn trải giường trắng như tuyết, tấm chăn trên mình cũng trắng muốt trong phòng ấm áp tới đáng ngạc nhiên, cửa sổ buông mành nhẹ nhưng còn để hở một khe nhỏ. Một luồng không khí trong lành mới mẻ sau trận tuyết theo khe hở ùa vào phòng, ánh nắng chói mắt xuyên qua giấy dán cửa trắng phau chiếu lên chăn của chàng.
Mộ Dung Vô Phong ngoảnh đầu lại, nhận ra bên giường còn có một lư hương thơm, lửa than tí tách cháy trong lư, hơi ấm chầm chậm tỏa, đem cái rét căm căm ngăn ở ngoài cửa.
"Tỉnh rồi sao?", một giọng nói êm ái dịu dàng khẽ vang lên bên tai chàng, đồng thời một bàn tay nhỏ nhắn ấm áp áp vào má chàng.
Chàng quay đầu, cười với Hà Y: "Cuối cùng chúng ta cũng tới nơi rồi?".
"Tới rồi. Chúng ta sẽ ở lại đây một thời gian."
"Đây là nơi nào?"
"Tiểu Giang Nam. Là nơi có nhiều người Hán nhất vùng này. Người ở đây ngoài thịt dê ra thì còn ăn cả những thứ khác nữa", Hà Y chớp chớp mắt nhìn chàng.
Chàng khó khăn gượng cười rồi lại nhíu chặt mày, toàn thân đau khôn tả. Lúc chàng hít thở, lồng ngực luôn đau buốt khó chịu.
"Đau lắm phải không?", Hà Y ngồi xuống trước mặt chàng có chút lo lắng hỏi.
"Không cần lo", chàng từ từ thở ra một hơi dài, cố gắng để lồng ngực phập phồng hít thở một cách bình thường, sau đó mới lại cười gượng.
"Cố Thập Tam mỗi ngày đều tới đây thăm chàng. Huynh ấy một mực muốn chờ chàng tỉnh lại", Hà Y nói.
"Ta với hắn không hề thân thiết."
"Xem ra, hẳn huynh ấy có việc muốn hỏi chàng."
"Nói với hắn, hiện ta không cách nào dậy được", Mộ Dung Vô Phong thử cử động, phát hiện quả thật mình chẳng nhúc nhích nổi, không khỏi cảm thấy có chút u buồn. Chàng trước giờ không nằm trên giường tiếp khách.
Hà Y nhẹ than một tiếng: "Lần này, chàng cứ ngoan ngoãn nằm yên trên giường đi".
Mộ Dung Vô Phong khó khăn trùng trùng mới hớp được mấy ngụm canh gà rồi miễn cưỡng nuốt xuống nửa bát cháo. Nói chuyện với Hà Y một hồi, ngẩng đầu lên, qua khe hở rèm cửa sổ đã thấy Cố Thập Tam đứng trong sân viện.
"Hà Y, nhà này chỗ chúng ta trước giờ không khóa cửa sao?"
"Thiếp vừa đi mua thức ăn về, quên mất."
"Nàng mời hắn vào đi."
"Mời ai vào?"
"Cố Thập Tam."
Hà Y đang định ra mở cửa, Mộ Dung Vô Phong đã gọi nàng lại.
"Nàng đỡ ta dậy khỏi giường trước đã. Lúc ta tiếp người khác, chí ít cũng phải ngồi trên ghế", chàng nói.
Hà Y không để ý tới chàng, đẩy cửa, đi thẳng tới nói với Cố Thập Tam: "Tôi biết huynh có việc muốn tìm chàng, có điều hiện giờ chàng không thể tiếp khách".
Cố Thập Tam hỏi: "Không phải huynh ấy tỉnh rồi sao?".
"Nhưng chàng vẫn chưa thể ngồi dậy dược."
"Không cần đa lễ, nằm nói chuyện cũng như nhau thôi."
"Chàng không muốn nằm tiếp khách."
Cố Thập Tam ngây ra, hỏi: "Đây là cái tật gì vậy?".
"Tật của chàng rất nhiều, tôi cũng chẳng có cách gì."
Hai người cứ đứng trong viện đôi co một lúc, chỉ nghe thấy trong phòng truyền ra một giọng nói cực mỏng, cực yếu ớt.
"Hai người không cần tranh cãi. Cố huynh, mời vào. Hà Y, đi pha trà đi."
Hà Y giậm chân, chỉ đành tới nhà bếp đun nước.
Cố Thập Tam đẩy cửa phòng ngủ, thấy Mộ Dung Vô Phong đã ngồi dậy trên giường, tựa lưng vào hai cái gối.
"Xin lỗi, quả thật thân thể bất tiện, nếu không nên mời Cố huynh tới phòng khách ngồi một lúc, thưởng thức tay nghề nấu ăn của Hà Y", Mộ Dung Vô Phong cười nói.
Là kiếm khách thuộc hàng đệ nhất, vậy mà cứ thế vì người này pha trà rồi lại nấu cơm. Cố Thập Tam cảm thấy Mộ Dung Vô Phong quả thật rất biết hưởng thụ, cũng rất xa xỉ.
"Hà Y nói, chúng tôi có thể bình an tới được nơi này, dọc đường toàn phải nhờ Cố huynh chiếu cố", Mộ Dung Vô Phong lại nói.
"Thật không dám."
"Cố huynh gấp gáp muốn gặp tôi, phải chăng có việc gì?"
"Tôi đến trả huynh đôi nạng", Cố Thập Tam nhìn chàng nói, rồi rút sau lưng ra đôi nạng bằng hắc mộc mà Lục Tiệm Phong tặng cho chàng.
Mộ Dung Vô Phong gật đầu nói: "Đa tạ, tôi còn tưởng nó đã thất lạc trên đường rồi".
Hà Y mang tới cho Cố Thập Tam một tách trà, nhận lấy đôi nạng từ tay anh ta, trong lòng bực bội, thầm mắng: Người này xem ra rõ ràng có việc gì rất quan trọng muốn nói, sao bây giờ mở miệng lại biến thành việc trả nạng rồi?
Cố Thập Tam hỏi: "Liệu huynh có thể nói cho tôi biết đôi nạng này là do ai tặng huynh không?".
Mộ Dung Vô Phong cười nói: "Cố huynh khinh công tuyệt thế, tựa như không nên có hứng thú với những thứ như đôi nạng này mới phải".
Cố Thập Tam nói: "Bởi vì tôi biết đôi nạng này không phải của huynh, nó vốn thuộc về một người khác".
Cố Thập Tam nói câu này rất chân thành, thần thái nghiêm túc, đến Mộ Dung Vô Phong cũng bị thái độ nghiêm túc của anh ta làm cho giật mình.
Mộ Dung Vô Phong nói: "A? Đôi nạng này vốn thuộc về ai?".
Cố Thập Tam nói: "Đôi nạng này vốn thuộc về sư phụ của tôi".
Mộ Dung Vô Phong biến sắc mặt, giọng khàn đi hỏi: "Sư... sư phụ huynh là ai?".
Hà Y chen vào hỏi: "Sư phụ huynh có phải một người họ Ngô không, là Ngô Phong?".
Cố Thập Tam ngẩng mặt nhìn nàng, hỏi: "Không sai, sao cô nương biết?", anh ta còn muốn tiếp tục hỏi nữa nhưng lại thấy sắc mặt của Mộ Dung Vô Phong bắt đầu tím tái, hơi thở cũng bắt đầu dồn dập.
"Hà Y, nàng mời Cố huynh hãy cứ về trước đã. Ta...ta…", chàng vốn định nói "Ta không được khỏe lắm" nhưng chỉ cảm thấy trong ngực nôn nao lạ thường, câu định nói cũng không nói ra nổi nữa.
"Thuốc ở đây", Hà Y cuống quít đưa thuốc vào miệng chàng, sờ lên trán chàng, nói: "Nhìn thiếp đi, đừng nói nữa".
Chàng nhìn nàng, khó nhọc hít lấy từng hơi.
Hổn hển hồi lâu, chàng sức cùng lực kiệt đổ gục xuống giường.
Cố Thập Tam đành đứng dậy cáo từ: "Mấy ngày nữa tôi lại tới".
Mộ Dung Vô Phong túm lấy một góc áo Cố Thập Tam, nói: "Huynh ngồi lại đây đã, chớ đi vội".
Cố Thập Tam ngần ngại nhìn Hà Y.
Mộ Dung Vô Phong hỏi: "Sư phụ huynh... ông ấy... ông ấy vẫn khỏe mạnh chứ?".
Lúc chàng hỏi câu này, trong lòng xáo động không dứt, tựa như sắp chạm tới được cái bí mật chàng đã chờ đợi bao nhiêu năm nay.
Cố Thập Tam cười khổ: "Tính tình sư phụ vẫn khoáng đạt, cả đời thích ngao du núi cao sông lớn, tựa như thân long thấy đầu không thấy đuôi. Tuy tôi đã không gặp người hai mươi năm rồi nhưng vẫn luôn tin người vẫn đang ở một nơi nào đó trên thế giới này, tin rằng sẽ có một ngày người sẽ trở về Thiên Sơn, nhân tiện ngó tới tên đệ tử không ra gì này một chút".
Sắc mặt Mộ Dung Vô Phong trắng bệch, hỏi: "Nói như vậy, ông ấy... có thể ông ấy vẫn còn sống?".
Hà Y nắm chặt tay chàng, nhẹ giọng nhắc: "Chàng... chàng đừng hy vọng quá nhiều".
Cố Thập Tam nói: "Kể từ lần đầu tiên tôi gặp huynh, tôi đã đoán huynh có quan hệ nào đó với sư phụ. Chỉ đáng tiếc trước giờ tôi chưa từng nghe sư phụ nhắc tới người còn có một đứa con trai. Đôi nạng này làm bằng gỗ hắc mộc ở Nam Hải vừa cứng vừa nhẹ, đao kiếm không thể chặt. Tôi vốn sớm đã nhận ra rồi, chỉ là bên trên lại có một lớp đệm mềm", hắn bật cười nói: "Tuy hai chân sư phụ tôi tàn phế nhưng lại cứ thích đày đọa bản thân. Nạng của người là đẽo nguyên cây, chỗ này cũng rất cứng rắn. Tôi đoán lúc người dùng nó chắc chẳng dễ chịu chút nào. Có đều, võ công người cực cao, đôi nạng này cũng chưa hề rời tay. Bây giờ vật này lại ở trong tay huynh, có thể thấy người... người đa phần là đã... đa phần là đã...", Cố Thập Tam nhìn Mộ Dung Vô Phong, nửa câu sau không sao nói nốt được.
Mộ Dung Vô Phong trầm ngâm một lúc, nói: "Cho tới bây giờ, tôi vẫn chưa nghĩ ra giữa tôi và sư phụ huynh có mối quan hệ trực tiếp gì không".
Cố Thập Tam nói: "Tướng mạo, hình dáng của hai người gần như giống hệt nhau. Lúc tôi gặp sư phụ, người vẫn còn rất trẻ, chỉ độ hai mươi mấy tuổi. Thời gian tôi sống với người, cộng lại cũng không quá ba năm".
Mộ Dung Vô Phong hừm một tiếng, nói: "Trong thiên hạ, những người có tướng mạo giống nhau chẳng phải nhiều lắm sao?".
Cố Thập Tam nói: "Nhưng những bệnh trên người sư phụ, dường như trên người huynh cũng đều có cả. Đây chẳng phải quá trùng hợp rồi sao?".
Mộ Dung Vô Phong trầm xuống.
Hà Y nói: "Sư phụ huynh võ công cao cường, thân thể hẳn là rất khỏe mạnh mới phải".
Cố Thập Tam nói: "Chỉ cần người không phạm bệnh, thân thể rất khỏe mạnh, Nhưng người giống hệt tướng công của cô, lúc kích động sắc mặt trở nên tím tái, ngoài ra còn có bệnh phong thấp. Người tới Thiên Sơn vốn là vì nghe nói suối nước nóng ở đây chữa bệnh phong thấp rất có hiệu quả, cho nên mới thường qua lại nơi này. Có điều, tính tình người hài hước, cởi mở, rất ít khi tức giận, cho nên tôi cũng hiếm thấy người phát bệnh".
Mộ Dung Vô Phong nói: "Hà Y, nàng lấy cây nạng ấy qua đây cho ta xem xem".
Hà Y nhấc cây nạng đưa cho chàng.
Người chàng không còn chút sức lực nào, chỉ có thể đưa tay khẽ vuốt nhẹ lớp đệm trên cây nạng chỗ tựa vào nách. Lớp đệm làm bằng da thú tuyền một màu đen, thêu thùa cực kỳ linh xảo, bên trong được nhồi một lớp bông dày.
Bên trên lại còn có hình thêu hoa.
Tay chàng lần nhẹ trên đó, chợt phát hiện phần đáy lớp nệm có chỗ hơi gập ghềnh không bằng phẳng.
Hay là ở chỗ khuất mắt này mà cũng thêu hoa?
Trong lòng chàng chợt động, bỗng cất giọng: "Hà Y, nàng lấy một hộp mực ấn, một tờ giấy trắng qua đây".
Hộp mực ấn là vật bắt buộc phải có ở những gia đình có người đọc sách. Lúc Hà Y mới dọn vào đây, trên bàn viết trong phòng còn đặt mấy bộ Văn phòng tứ bảo. Mực ấn chu sa cũng còn mấy hộp.
Mộ Dung Vô Phong thoa chu sa lên chỗ lồi lõm kia rồi đem tờ giấy trắng khẽ ấn lên, in lấy hoa văn nơi đó.
Ở đó có hai chữ Hán: "Như Anh".
Sắc mặt Mộ Dung Vô Phong tái đi, tay với cái nạng còn lại, cũng ở chỗ ấy lại thoa một lớp chu sa, lấy giấy nhấn vào, vẫn là hai chữ Hán: "Như Anh".
Sau đó chàng ngồi dậy, trầm mặc không nói, ôm chặt đôi nạng vào lòng, nước mắt nhạt nhòa, thần tình vô cùng bi thương.
Chàng siết chặt đôi tay, trên trán đã nổi gân xanh, hiển nhiên đang cực kỳ kích động nhưng cố gắng kìm nén tình cảm và nhịp tim của mình. Một lúc lâu sau, chàng mới nghẹn ngào nói: "Bọn họ... bọn họ chắc đã... chắc đã cùng nhau qua thế giới bên kia rồi".
Hà Y đỡ nhẹ lấy chàng, hỏi: "Như... đây là chữ Anh trong hoa anh đào đúng không? Như Anh là ai thế?".
Mộ Dung Vô Phong than dài một tiếng, nói: "Đó là tên tự của mẫu thân ta".
Cố Thập Tam thấy dáng vẻ thống khổ của chàng, không nén được lại lên tiếng: "Bất luận thế nào, đệ cũng đã thành sư đệ của ta. Tuy ta không biết sư mẫu nhưng ta dám đảm bảo từ những gì ta được thấy, phụ thân đệ là một bậc tuyệt thế kỳ tài, làm nhi tử của người, là một điều cực kỳ may mắn, cực kỳ đáng kiêu ngạo. Ta thật sự rất ghen tị với đệ".
"Nên là đệ ghen tị với huynh mới phải", Mộ Dung Vô Phong thở dài một hơi: "Ít nhất huynh còn được gặp ông ấy, còn từng nói chuyện với ông ấy".
Cố Thập Tam nói: "Lẽ nào đệ đúng là họ Lâm".
"Đệ họ Mộ Dung, là Mộ Dung Vô Phong."
Cố Thập Tam kinh ngạc nói: "Đệ chính là vị thần y Mộ Dung đó?".
Hà Y vội vàng nói: "Đúng đấy! Không sai! Ai muốn làm phụ thân của thần y, cũng là một việc không hề dễ dàng nhé!", lời còn chưa dứt, trán đã bị Mộ Dung Vô Phong gõ cho một cái, lại nghe chàng thở dài thườn thượt, nói: "Cái gì mà 'không sai', cái gì mà 'không hề dễ dàng', cùng không biết đường mà khiêm tốn thay lão công một chút!”.
Cố Thập Tam đưa câu chuyện trở về đề tài trước: "Đệ vẫn chưa nói cho ta biết, đôi nạng này là do ai tặng đệ".
Mộ Dung Vô Phong nói: "Là Lục Tiệm Phong".
Cố Thập Tam nói: "Nói như vậy, Lục Tiệm Phong nhất định là người cuối cùng từng gặp sư phụ ta".
Mộ Dung Vô Phong nói: "Đệ cũng cho là vậy".
Hà Y nói: "Thiếp đoán chắc là Lục Tiệm Phong... chắc là Lục Tiệm Phong...", nàng vốn muốn nói "Chắc là Lục Tiệm Phong đã giết Ngô Phong, rồi thu lấy đôi nạng bất li thân của ông ấy", nhưng nghĩ lại, Ngô Phong giờ đã biến thành phụ thân của Mộ Dung Vô Phong, mình nói như vậy tựa hồ không ổn, liền nuốt câu định nói xuống.
Mộ Dung Vô Phong lại hoàn toàn hiểu được ý nàng, nhìn nàng một cái rồi gật đầu nói: "Ta cũng nghĩ như thế".
Hà Y lại nói: "Nếu thế...", nàng vốn định nói "Nếu thế bây giờ chúng ta tới Thiên Sơn tìm Lục Tiệm Phong, hỏi cho rõ ngọn nguồn", rồi lại nghĩ, hiện giờ nhất định Mộ Dung Vô Phong còn sốt ruột muốn gặp Lục Tiệm Phong hơn mình, chỉ là chàng đang bệnh không dậy khỏi giường nổi, vẫn là không nên nhắc tới chuyện này thì hơn.
Mộ Dung Vô Phong lại như đã hiểu được ý tứ của nàng, than rằng: "Không sai".
Cố Thập Tam chẳng hiểu đầu đuôi gì, chỉ biết nhìn hai người trước mặt đang nói chuyện như đánh đố người khác.
Hà Y nói: ''Nhưng mà Cố...", nàng muốn nói: "Nhưng mà Cố đại ca có thể thay chúng ta chạy tới đó một chuyến hỏi cho rõ ràng. Huống chi huynh ấy cũng muốn biết tung tích của sư phụ mình ở nơi đâu".
Mộ Dung Vô Phong lại phiền não ngắt lời nàng, kiên quyết nói: "Không được, nhất định ta phải tự mình đi".
Trong hoàn cảnh này, Cố Thập Tam chỉ đành ngối uống trà.
Hà Y lại hỏi: "Cố đại ca, huynh có từng nghe qua cái tên Mộ Dung Tuệ?".
Vừa nghe tới câu hỏi này, ngụm trà Cố Thập Tam vừa uống suýt chút nữa bị sặc ra: "Mộ Dung Tuệ và Mộ Dung Vô Phong…".
Hà Y đáp: "Là mẹ con".
Cố Thập Tam nói: "Hỏng rồi. Bây giờ ta đã biết tại sao Lục Tiệm Phong lại muốn giết sư phụ".
Hà Y và Mộ Dung Vô Phong cùng ngạc nhiên hỏi: "Tại sao?".
Cố Thập Tam đáp: "Mộ Dung Tuệ là thê tử của Lục Tiệm Phong".
Hà Y hỏi lại: "Thế sao?".
Cố Thập Tam kể: "Sư phụ từng đưa ta tới gặp Lục Tiệm Phong một lần. Người nói là đi thăm một người quen. Lục phu nhân cũng có ở đó. Ta nhớ hồi đó ta còn rất nhỏ không hiểu việc cho lắm, chỉ là nghe giọng thì biết bà ấy không phải người bản địa, liền hỏi bà ấy là người ở đâu tới. Bà ấy nói cho ta, bà ấy họ Mộ Dung, còn làm cho ta một bát mì trứng. Loại họ kép này rất hiếm gặp, cho nên ta nhớ mãi không thôi".
Tằng tổ của Mộ Dung Vô Phong là người đất Thục, người làm và đầu bếp trong cốc đều rất thích món ăn đất Thục, còn chàng bởi thân thể không được khỏe, rất ít khi ăn những thứ có vị nặng. Chàng nhớ ông ngoại thường nói, hồi nhỏ mẫu thân thích ăn nhất là những thứ như mì trứng.
Nghe câu này, sắc mặt Mộ Dung Vô Phong lại càng tái nhợt, tay chàng vốn đang chống lên thành giường, giờ không tự chủ được mà run rẩy. Hà Y đỡ lấy vai chàng, nhẹ nhàng nói: "Đây đều là việc hai mươi mấy năm về trước... của đời trước, chàng không nên... không nên quá đặt nặng trong lòng".
Mộ Dung Vô Phong khàn giọng nói: "Nói như vậy, đến mẫu thân đệ huynh cũng đã gặp qua".
Cố Thập Tam nói: "Bà ấy là một phụ nữ cực kỳ mỹ lệ, bất kỳ ai từng nhìn thấy bà ấy một lần là sẽ nhớ mãi không quên".
Mộ Dung Vô Phong trầm tư một lúc rồi hỏi: "Lúc huynh gặp bà ấy, trông bà ấy có được vui vẻ không?".
Cố Thập Tam nghĩ một chút, đáp: "Rất vui vẻ... bà biết rất tốt với ta. Bây giờ nghĩ lại, chắc là bởi vì sư phụ ta".
Mộ Dung Vô Phong nói: "Đợi qua một thời gian nữa, thân thể đệ khỏe hơn một chút. Đệ sẽ đi Thiên Sơn một chuyến".
Cố Thập Tam gật đầu, nói: "Ta vốn định ngày mai đi luôn... nhưng chúng ta cùng đi vẫn tốt hơn, trên đường có thêm người chăm sóc nhau. Nếu như quả thật sư phụ ta không còn nữa, nếu như hung thủ sát hại người quả đúng là Lục Tiệm Phong, ta nhất định sẽ báo thù cho người!".
Lúc Cố Thập Tam nói câu này, ngữ khí rất bình tĩnh, tựa như việc này sớm đã được quyết định xong.
Mộ Dung Vô Phong cười khổ: "Cho dù quả đúng là ông ta giết phụ thân đệ, bộ dạng đệ thế này, cũng chẳng thể làm gì ông ta".
Hai tay chàng siết lấy tấm khăn trải giường, gân tay nổi lên xanh lè, khuôn mặt kích động tới đỏ ửng. Lời nói ra tràn đầy nỗi chua xót và trào phúng.
Hà Y nắm lấy tay chàng, nói: "Thiếp có thể thay chàng báo thù".
Tay của nàng ấm áp, còn bàn tay của chàng lại giá buốt tựa băng.
Chàng cúi đầu, cố gắng hết sức khống chế niềm bi phẫn trong lòng.
Tuy từ nhỏ chàng đã không ngừng tưởng tượng ra câu chuyện của phụ thân và mẫu thân mình, nhưng tới thời khắc sắp biết được chân tướng, chàng lại do dự.
Dường như chàng đã ngầm đoán được sự đáng sợ của chân tướng mọi việc, dường như đã ngửi thấy mùi máu tanh.
Nhưng điều đáng buồn nhất chính là chàng chỉ có một thân thể tàn phế, dù câu chuyện này có kết quả thế nào thì cũng đều chẳng thể làm gì được.
Đây không phải câu chuyện chàng muốn nghe.
Chàng ngẩng đầu, nhìn Hà Y, rất lâu sau mới lên tiếng, nhấn từng chữ một:
"Hà Y, chuyện này không có chút gì liên quan tới nàng. Ta không cho phép nàng có ý nghĩ ấy."
Hà Y đứng phắt dậy: "Đương nhiên có liên quan, thiếp là thê tử của chàng".
Mộ Dung Vô Phong nói: "Ta và Cố đại ca sẽ cùng nhau tới Thiên Sơn, nàng ở lại đây".
Hà Y nói: "Thiếp nhất định phải đi cùng chàng, bất kể chàng đi tới đâu, thiếp cũng sẽ không rời chàng một bước".
Lúc nói ra câu này, thái độ của Hà Y vô cùng dứt khoát.
Mộ Dung Vô Phong than: "Thế thì cùng đi vậy", nói xong có chút lúng túng quay sang nhìn Cố Thập Tam.
Cố Thập Tam híp mắt lại, trong mắt mang một nét cười khó nhận ra.
Mộ Dung Vô Phong nghiêng người dựa trên cái giường nhỏ, dõi qua song cửa sổ điêu khắc tinh xảo đang mở hé, ngắm nhìn một góc sân vườn ngoài song.
Bao nhiêu ngày qua, đó là nơi duy nhất chàng thấy thân thuộc trong căn phòng này.
Cách sân vườn không xa hình như sẽ là một con đường rợp bóng hoa dẫn tới một cánh cửa nhỏ. Mỗi ngày Hà Y đều ra ngoài mua thức ăn, chính là từ con đường này đi ra, rồi lại quay về trên con đường ấy.
Trời nắng, nàng rất thích ngồi ở góc sân giặt quần áo.
Bởi vì bệnh ưa sạch của Mộ Dung Vô Phong, mỗi ngày nàng đều phải giặt một chậu quần áo to đùng, nào là khăn trải giường, vỏ gối, áo trong, áo ngoài, khăn tay, khăn mặt, băng trắng, bít tất...
Nàng thường phải tốn hơn một canh giờ mới giặt được tất cả mọi thứ đến mức độ "sạch sẽ" mà Mộ Dung Vô Phong chấp nhận được.
Phơi xong quần áo, nàng sẽ chạy ù ra ngoài mua thức ăn, bởi vì cũng đã gần tới giờ làm cơm trưa rồi.
Mộ Dung Vô Phong ăn rất ít mà cũng chỉ ăn những món có vị thanh đạm như ngó sen, măng, nấm, đậu phụ thôi. Khổ nỗi mấy thứ rau ấy chỉ sinh trưởng ở phương nam, vận chuyển tới được phương bắc thì đều đã thành thực phẩm khô rồi. Chàng rất ít ăn thịt, chỉ ăn thịt gà và một vài loại cá. Thịt dê thì chàng vừa ngửi thấy đã liền hoa mắt chóng mặt rồi.
Cũng may chàng cũng chẳng có yêu cầu gì đặc biệt với việc xào nấu thức ăn. Mấy thứ ấy, chỉ cần đem trộn lại với nhau, cho thêm ít muối, ít dầu rồi xào chín thì bình thường chàng đều có thể ăn hết.
Chàng uống trà thì lại rất cầu kỳ, lá trà bình thường chàng chẳng buồn động vào, kể cả là lá trà ngon cũng phải theo lời dặn dò của chàng mà đi pha, trải qua bảy tám công đoạn tỉ mỉ kỹ lưỡng chàng mới chấp nhận có thể uống.
Từ khi Hà Y học được cách pha trà, nàng đã tự thề với mình sẽ không bao giờ uống trà nữa, đổi sang uống nước sôi còn hơn.
Uống có ngụm trà mà cũng phải phiền phức như thế, đúng là thần kinh!
Chàng ăn cơm rất nhỏ nhẹ thong thả, Hà Y đã ăn xong hai bát, chàng vẫn còn hơn nửa bát chưa ăn.
Nếu như có người hỏi chàng tại sao lại ăn chậm thế, chàng sẽ nói ăn như thế mới có lợi cho tiêu hóa. Nàng chỉ đành kiên nhẫn đợi chàng ăn xong, thu dọn bát đũa rồi tới nhà bếp rửa bát.
Mặc dù như thế, Hà Y vẫn cho rằng một ngày của Mộ Dung Vô Phong quả thật quá nhàm chán.
Từ khi ngực bị thương, trên vai lại có thêm một vết bỏng lớn, nửa thân trên của chàng bị sưng phù rất khủng khiếp, đau tới mức không sao cử động nổi đôi vai.
Hoạt động duy nhất hàng ngày của chàng chính là, buổi sớm Hà Y sẽ bế chàng từ giường lớn mà hai người ngủ tới giường mềm bên cạnh cửa sổ, chàng sẽ nằm đó qua hết buổi sáng và buổi trưa, tới giờ thắp đèn, tắm rửa xong, Hà Y sẽ lại bế chàng về giường lớn.
Hà Y thời thời khắc khắc đều đề phòng chàng bị nhiễm lạnh, ho khan hoặc co giật do vết thương ở chân tái phát, những chấn động cơ thể kiểu ấy là tối kỵ cho người bị thương xương cốt đang trong giai đoạn phục hồi.
Sống kiểu đó, Hà Y chỉ cần trải qua một ngày là đã đủ phát điên, vậy mà Mộ Dung Vô Phong lại có thể cứ nằm yên không động đậy như vậy suốt cả hai tháng trời!
Chàng rất bình thản, từ đấy đến giờ không hề cáu giận, luôn giữ một vẻ thuận lòng cam chịu. Chỉ có một lần chàng thật sự thấy có chút buồn bực mới để Hà Y dìu mình lên xe lăn, hai người cùng tản bộ một vòng trên hành lang quanh viện.
Có những lúc chàng nhớ tới Vân Mộng cốc, nhớ tới Trúc Ngô viện, rồi nói, từ sau khi chàng đi, bệnh án tồn lại chẳng phải sẽ chất đầy tới tận nóc thư phòng sao? Sau đó chàng lại lầm rầm nói một mình, nói Sái Tuyên và Trần Sách nhất định có thể thay chàng lo liệu tốt y vụ trong cốc.
Hà Y bắt đầu thầm đoán, rốt cuộc chàng có còn sức mà về nhà không, bao nhiêu năm nữa mới có thể về nhà.
Thân thể chàng chịu bao nhiêu tổn thương, đang ngày nối ngày tụt dốc.
Mỗi ngày Hà Y đều giúp chàng xoa bóp cơ thịt đang ngày một teo rút. Chàng ngồi yên không động đậy nhìn nàng nắn bóp cơ thể chân tay mình, cố gắng giữ vẻ thản nhiên nhưng kỳ thực trong lòng lại day dứt vô cùng.
"Hà Y, nàng không cần vì ta mà tốn nhiều công sức như vậy", có một ngày chàng bỗng nói.
"Như thế này chàng mới nhanh khỏi được", nàng lại càng làm càng hăng hái hơn.
Mộ Dung Vô Phong lặng lẽ nhìn nàng, trong lòng dâng lên niềm thương cảm không nói nên lời.
Chứng phong thấp của chàng đã dần dần lan tới vai trái. Vai trái là nơi duy nhất trên cơ thể chàng hoàn toàn khỏe mạnh. Viết chữ, chẩn bệnh, chàng đều dùng cánh tay trái này. Nhưng giờ chàng đã cảm thấy nó đang dần dần trở nên không còn linh hoạt nữa. Cứ mỗi khi rét buốt, các đốt ngón tay và cổ tay lại dấy lên cơn đau thấu xưong. Có lẽ trong một ngày không xa nữa, khi chàng tỉnh dậy sẽ phát hiện hai tay mình vì phong thấp mà biến thành cứng đơ. Tới lúc ấy đến cả những động tác đơn giản như ăn cơm, chàng cũng sẽ thấy cực kỳ khó khăn.
Mộ Dung Vô Phong cố gắng không để những suy nghĩ ấy vào sâu trong đầu mình nhưng hàng đêm chàng lại cứ không ngừng nghĩ về những điều đó.
Bất kế thế nào, chàng cũng sẽ kết liễu chính mình trước khi bản thân hoàn toàn trở thành một phế nhân. Nhân lúc mình vẫn còn sức để chết, chàng nhất định phải chết đi. Chàng tuyệt đối không thể sống cuộc sống như một hài nhi, ngay tới một chút tôn nghiêm tối thiểu cũng không có nổi.
Nửa đêm, chàng nghĩ tới những khó khăn gian khổ sắp phải đối diện mà thao thức không ngủ được, cứ mở to mắt ngắm nhìn màn đêm vô hạn. Người bên cạnh thì vẫn bình yên chìm vào giấc ngủ, dáng vẻ của nàng khi ngủ trông thật ngon lành.
Ban ngày, lúc nào nàng cũng tràn đầy lòng tin.
"Vô Phong, chàng nghĩ xem, bao nhiêu người phải trải qua những ngày tháng bị cha mẹ quở mắng, bi thảm mà tuân theo ý của bề trên. Không có cha mẹ, loại vận khí này không phải ai cũng có đâu nhé", có một hôm nàng ngang nhiên nói ra những câu đại nghịch bất đạo như thế.
Đương nhiên, nàng là đứa bé bị bỏ rơi không tránh khỏi có sự oán hận đối với cha mẹ.
Trên người nàng không có bất cứ dấu vết gì đủ để cho phép nàng lần tìm lai lịch bản thân. Nàng tựa như một đám không khí phiêu bồng, chẳng có nơi quay về.
"Hà Y, nếu như có một ngày, cuối cùng nàng cũng tìm được cha mẹ mình, phát hiện ra rằng họ vẫn còn sống, nàng có vui không?", có một đêm nọ, hai người nổi hứng nói chuyện, nói tới tận khuya, chàng bỗng hỏi như thế.
"Thiếp không biết, bởi vì thiếp vốn không định đi tìm cha mẹ thiếp, với lại cũng đã sớm tự thề với bản thân sẽ không nghĩ tới việc này nữa", nàng nhạt giọng đáp.
"Ta sẽ nghĩ cách giúp nàng. Chúng ta thuê người, dù có phải lật tung ba thước đất cũng sẽ tìm bằng được cha mẹ ruột của nàng", chàng nói.
"Vô Phong, trên đời này không phải ai ai cũng nghĩ giống như chàng", nàng khúc khích bật cười.
Có những lúc Mộ Dung Vô Phong cảm thấy chàng không hề hiểu Hà Y. Dường như trong sâu thẳm nội tâm nàng vẫn còn có một nơi đóng chặt không sao mở ra được.
Chương 37
Mùa đông dài dằng dặc cuối cùng cũng sắp qua, tuy ngoài phòng vẫn là một không gian lạnh giá nhưng cây nhỏ trong sân đã bắt đầu hé mầm. Cơn gió phả vào mặt đã không còn buốt tận xương.
Tới đầu tháng Ba, vết thương nơi xương cốt của Mộ Dung Vô Phong về cơ bản đã lành lại. Cuối cùng chàng đã có thể cử động, có thể tự mình xuống giường, đẩy xe lăn đi tứ phía.
Trung tuần tháng ấy, ba người cùng nhau tới Thiên Sơn.
Ở một dải núi nằm sừng sững tĩnh lặng nơi tận cùng của thảo nguyên ấy, trên đỉnh núi là băng tuyết đọng lại cả năm không tan, nhưng dòng chảy đầu nguồn của con sông nhỏ dưới chân núi thì đã dồi dào trở lại. Bốn phía xung quanh con đường núi là những khe nhỏ, dòng nước rỉ rách trôi.
Tới gần tòa thạch thất to lớn kia, mái hiên uốn lên cao tựa như muốn móc ghì dải mây phiêu lãng chốn chân trời kia lại.
"Bọn đệ nói Lục Tiệm Phong ở nơi này?", Cố Thập Tam chợt lên tiếng hỏi.
Mộ Dung Vô Phong nói: "Lẽ nào đây không phải là nơi huynh gặp mẫu thân đệ?".
Cố Thập Tam thở dài nói: "Năm xưa, khi ta tới đây, trời đổ một trận tuyết lớn, nhìn trong trời tuyết hẳn căn nhà này trông không giống thế này".
Hà Y gật đầu, không thể không thừa nhận tòa thạch thất này đã thay đổi tới mức có chút không nhận ra nữa.
Cửa lớn mở ra, giữa nhà có đặt một cái ghế mây.
Một người áo trắng đang thung dung ngồi trên ghế uống trà.
Ánh mặt trời ấm áp đầu xuân tỏa xuống, rọi lên vai người này. Đứng bên cạnh ông ta là Sơn Mộc trong bộ đồ đen.
"Ta biết ngươi nhất định sẽ quay lại tìm ta", Lục Tiệm Phong nhìn Mộ Dung Vô Phong, lãnh đạm nói: "Cho nên ta ở đây đợi ngươi".
Lần đầu tiên Mộ Dung Vô Phong chú ý nhìn vào mắt Lục Tiệm Phong, đôi mắt ông ta có màu tro nhạt lúc nhìn người khác không hề chuyên chú. Tựa như những kẻ đủ tư cách để ông ta nhìn thật kỹ trên đời này không nhiều.
Mộ Dung Vô Phong lăn bánh xe, đi tới trước mặt ông ta nói: "Ta có việc muốn hỏi ông".
Lục Tiệm Phong đưa mắt sang nhìn Hà Y và Cố Thập Tam một lượt, nói: "Ngươi còn đưa tới một vị khách nữa, hẳn là cũng tới tìm ta".
Cố Thập Tam trầm giọng nói: "Ta họ Cố, Nam Hải thần tiên[1] Ngô Phong là ân sư của ta".
[1] Tiên ở đây là cây roi (
鞭
) chỉ vũ khí thành danh của Ngô Phong chứ không phải tiên (
仙
) trong tiên ông.
Sơn Mộc nói: "Cố Thập Tam là đệ nhất kiếm khách miền Tây Bắc, Ngư Lân Tử Kim kiếm của Sở cô nương hiện đang đứng số một trong Giang hồ kiếm bảng. Người tới tìm chúng ta hôm nay, cũng xem như đủ tư cách".
Hà Y nói: "Hẳn các hạ chính là vị kiếm khách thần bí hai mươi năm trước tới Phi Diên cốc xem trận tỉ kiếm. Nghe mọi người truyền nói ông là người của Nam Hải Kiếm Phái. Cứ như tôi thấy, cho dù ông không phải là người phái ấy nhưng kiếm của ông tuyệt đối là của phái đó".
Phái Nam Hải từ trước tới giờ nổi tiếng về kiếm pháp ngoan độc, biến chiêu quái lạ, kiếm mà bọn họ dùng đều là loại vừa hẹp vừa mỏng.
Sơn Mộc nói: "Ngươi nói không sai".
Cố Thập Tam nói: "Trước đây ta từng gặp ông. Lần đó sư phụ mang ta tới Thiên Sơn thăm một người quen, người quen đó chính là ông".
Sơn Mộc cười khổ: "Ngô Phong là sư đệ đồng môn của ta. Hắn tới đây vốn là do ta gọi hắn tới".
Mộ Dung Vô Phong giương mắt nhìn trừng trừng ông ta.
Sơn Mộc nói: "Ngươi không cần trợn mắt với ta, ta gọi hắn tới là vì suối nước nóng ở đây có thể trị được chứng phong thấp của hắn. Ai mà ngờ nơi đây cuối cùng lại trở thành quỷ môn quan của hắn".
Mộ Dung Vô Phong lạnh lùng nói: "Lẽ nào không phải các người bắt cóc mẫu thân ta tới đây sao?".
"Bắt cóc?", Lục Tiệm Phong nói: "Mẫu thân ngươi không phải là nữ nhân tầm thường. Một đêm hai mươi ba năm trước, là nàng tới tìm ta, muốn ta đưa nàng đi. Nàng ấy nói nàng hận phụ thân mình, chỉ muốn trốn khỏi ngôi nhà ấy. Ta đưa nàng tới Thiên Sơn, thành hôn với nàng. Nàng vốn đã gả cho ta, nhưng chẳng bao lâu sau lại phải lòng phụ thân ngươi. Bất kể là trước hay sau khi kết hôn, nàng đều rất to gan".
Lúc nói ra câu này, khẩu khí của Lục Tiệm Phong đầy vẻ trào phúng.
Hà Y nhướn mày, nhạt giọng nói: "Như thế có gì mà kỳ quái? Con người ông xem ra chẳng có chút gì thú vị tôi thực nghĩ không ra sao một cô gái lại bằng lòng gả cho ông".
Nàng nắm lấy tay Mộ Dung Vô Phong, phát hiện tay chàng không ngừng run rẩy.
Tất cả mọi người trong phòng bỗng không ai lên tiếng nữa.
Băng vương, một nhân vật tựa như trong thần thoại, kiếm khách tuyệt thế ngụ trên đỉnh Thiên Sơn, đây tuyệt đối không phải là người có thể chịu bị sỉ nhục.
Trầm mặc hồi lâu, Lục Tiệm Phong nói: "Ngươi nói không sai. Ta là một kiếm khách, cả năm trời có tới chín tháng sống cách li nhân thế, tới một nơi hoang vu không người luyện công. Kiếm pháp và công pháp môn phái của ta vốn truyền từ Thiên Trúc, chỉ có bế quan khổ công, suy nghĩ bỏ đi lý trí, đoạn tuyệt dục vọng mới có thể ngộ đạo! Nàng chịu gả cho ta chính là vì nàng không hiểu ta. Nàng muốn gả cho một kiếm khách tuyệt thế thì vốn cũng chính là phải chịu đựng sự tĩnh mịch tuyệt thế".
Mộ Dung Vô Phong nói: "Ân oán giữa mẫu thân ta và các hạ chẳng liên quan gì tới ta. Ta chỉ muốn biết, phụ thân ta có phải là do ông giết hay không?".
Lục Tiệm Phong nhấc một vật từ dưới đất lên, quẳng sang cho Mộ Dung Vô Phong.
Đó là một cái roi da rắn đen óng, chuôi roi còn đính một quả cầu vàng lấp loáng sáng.
Đồng tử của Mộ Dung Vô Phong đột nhiên thu hẹp lại, hô hấp cũng đồng thời trở nên gấp gáp.
"Không sai, là ta giết hắn. Ta nghĩ phụ thân ngươi cũng sẽ chẳng oán hận, bởi đó vốn là một cuộc quyết đấu của bọn ta. Nếu người chết không phải là hắn thì sẽ là ta. Ngươi xem đây!"
Ông ta cởi áo, phơi ra tấm lưng mình, trên đó còn đan xen mấy vết roi đã thành sẹo, ngang ngang dọc dọc, vừa sâu vừa dài.
"Lúc đó ta vừa mới thắng Quách Đông Các, tự cho rằng kiếm pháp của bản thân là độc bộ thiên hạ. Nhưng phụ thân ngươi mới chân chính là một cao thủ vô danh. Sau khi ta giết được hắn, nguyên khí cũng bị đại thương, phải mất trọn mười năm mới khôi phục lại được."
Hà Y nói: "Nếu ông ấy đã là cao thủ vô danh, ông làm thế nào mà thắng được?".
Lục Tiệm Phong nói: "Đáng tiếc đôi chân hắn bị tàn phế. Chỉ cần hắn có một chân lành lặn thôi, sợ rằng ta không phải đối thủ của hắn. Huống chi, cho dù đôi chân hắn tàn phế, bọn ta vẫn phải đấu hơn sáu trăm chiêu. Tới cuối cùng, khí lực của hắn bỗng dưng đứt đoạn, ta mới một kiếm đâm trúng tim hắn".
Hà Y nói: "Khí lực bỗng dưng đứt đoạn? Liệu có phải bệnh tim của ông ấy đột nhiên tái phát?".
Lục Tiệm Phong nói: "Có lẽ thế. Cho nên lúc hắn chết, cả khuôn mặt tím tái. Cao thủ giao đấu với nhau, thắng bại chỉ trong khoảnh khắc, nếu hắn đột nhiên đổ bệnh, vậy cũng chỉ có thể trách vận khí hắn không tốt. Lúc hắn sắp chết còn cầu xin ta đừng nói tin ấy với mẫu thân ngươi. Nói rồi mới tự mình lao xuống vực sâu vạn trượng".
Mộ Dung Vô Phong tức giận gào lên: "Sao ta phải tin lời của ngươi? Lời của ngươi một câu ta cũng không tin!".
Sơn Mộc nói: "Lời ông ta nói hoàn toàn là sự thật, lúc ấy ta ở bên cạnh quan chiến".
Hà Y nói: "Ông trơ mắt nhìn sư đệ mình chết đi?".
Sơn Mộc nói: "Hắn là sư đệ ta, không sai, Lục Tiệm Phong cũng là bằng hữu của ta. Ai ta cũng không thể giúp".
Mộ Dung Vô Phong lạnh lùng cười, nói: "Loại bằng hữu gì? Lẽ nào là loại bằng hữu giống như Sơn Thủy và biểu đệ của hắn?".
Hà Y kinh ngạc nhìn Mộ Dung Vô Phong. Trong mắt chàng là một loại thần sắc gần như điên cuồng.
Chàng lạnh lùng nói với Lục Tiệm Phong: "Nếu như phụ thân ta thật sự đoạt lấy người phụ nữ ngươi yêu thương tại sao ngươi lại không hận ta? Lại còn ba lần bảy lượt cứu ta? Lẽ nào chẳng phải vì trong lòng ngươi có chút áy náy? Ngươi không yêu bà ấy, nhưng lại không muốn bà ấy yêu người khác, ta nói đúng không? Ngươi sợ bọn họ bỏ trốn rồi đem bí mật của các ngươi nói ra ngoài nên liên thủ giết ông ấy, đúng không? " .
Cố Thập Tam kinh hãi nhìn Lục Tiệm Phong và Sơn Mộc, lắp bắp nói: "Các người... các người... ".
Lục Tiệm Phong trầm mặc.
Mộ Dung Vô Phong lạnh giọng nói: "Sơn Mộc, ngươi có dám cởi áo cho mọi người xem lưng của ngươi một chút không?".
Sơn Mộc trầm mặc.
Hồi lâu sau ông ta mới nói: "Nơi đây chính là quê hương của ngươi", kiếm của ông ta điểm xuống đất, "Ngươi ra đời chính trong ngôi nhà này. Tiệm Phong, ta nghĩ chúng ta nên đưa hắn tới thăm mẫu thân hắn".
Khuôn mặt tái nhợt của Mộ Dung Vô Phong bắt đầu đổ mồ hôi lạnh, tay chàng siết chặt lấy tay vịn của xe lăn, run giọng hỏi: "Mẫu thân của ta... người... người còn sống sao?".
Sơn Mộc nói: "Ngươi đi theo bọn ta là biết".
Hà Y đẩy xe cho Mộ Dung Vô Phong, mọi người theo chân Sơn Mộc men theo vách núi trong viện đi vào một địa dạo.
Trong địa đạo buốt lạnh thấu xương, còn lạnh hơn lúc lạnh giá nhất trên Thiên Sơn tới mười lần. Địa đạo rất nông, đi không bao lâu trước mắt lại mở ra một gian thạch thất cực lớn.
Vừa bước vào gian phòng ngầm lạnh lẽo dưới lòng đất này, lòng Hà Y đã trầm xuống. Đây tuyệt đối không phải là nơi con người có thể ở được, chỉ có thể là táng phòng của Mộ Dung Tuệ mà thôi.
Ánh nến lập lòe ảm đạm, lờ mờ nhận ra bốn cái giường đá trắng như tuyết đặt ở chính giữa phòng. Nhìn thật kỹ thì giường này không phải tạo bằng đá mà là bốn khối băng cực lớn.
Trên một trong bốn chiếc giường đó có một nữ nhân mình mặc y phục màu ngó sen đang nằm rất yên tĩnh.
Hà Y đang định đẩy xe cho Mộ Dung Vô Phong tới bên giường băng thì tay chàng đã giữ chặt bánh xe. Toàn thân chàng lạnh giá nhưng trái tim lại đang đập quá nhanh, đã cảm thấy có chút không khống chế nổi. Chàng chỉ đành dừng yên đó, cúi đầu xuống, đợi cho hô hấp của mình bình tĩnh trở lại.
Hà Y khom lưng, giúp chàng đắp lại chăn lông đang phủ trên chân, cảm thấy thân mình chàng không ngừng run lẩy bẩy bèn thì thầm bên tai chàng: "Trong này lạnh qua. chàng có chịu nổi không?".
"Không sao đâu", chàng nói.
Một lúc sau, nhịp thở của chàng đã dần chậm lại lúc ấy mới hít sâu một hơi, đẩy bánh xe tới bên chiếc giường băng.
Đó là một phụ nữ có đôi chân, đôi tay thanh mảnh, thân hình thon thả, một khuôn mặt trắng ngần với đường nét mềm mại dịu dàng giống hệt Mộ Dung Vô Phong. Mái tóc dài của bà buông xõa, trên mặt đã đóng một lớp băng mỏng. Hiển nhiên người này qua đời đã rất lâu, làn da sớm đã mất đi sự đàn hồi vốn có, toàn thân cứng nhắc tựa như một bức tượng điêu khắc bằng băng.
Hà Y cảm thấy y phục của người phụ nữ này dường như là được mặc vào sau khi chết, có rất nhiều chỗ có thể nhận ra không phải tự mình mặc vào. Nét mặt của người này cũng rất kỳ quái, cơ thịt trên khuôn mặt nhăn nhó, mày nhíu chặt, rõ ràng là bộ dạng đang cực kỳ đau đớn nhưng khóe miệng lại hơi nhếch lên, giống như đang khẽ cười.
Bất cứ ai nhìn thấy dáng điệu ấy đều cảm thấy có chút lông tóc dựng đứng.
Bên phải người nữ nhân ấy có đặt một đứa trẻ sơ sinh.
Hà Y đẩy xe chàng tới bên phải giường, khẽ hỏi: "Nơi đây sao lại còn một đứa bé nữa?".
Đứa bé ấy được cuốn trong một tấm chăn nhỏ trắng như tuyết, mắt nhắm chặt, Hà Y định bế nó lên thì phát hiện đã bị hàn băng gắn chặt vào giường. Nàng khẽ vận sức, chỉ nghe "tách" một tiếng, băng nứt vỡ, cuối cùng cũng ẵm được đứa bé ấy lên.
Đó là một thi thể của trẻ sơ sinh, mặt mày còn nhăn nhíu, rõ ràng chết chẳng bao lâu sau khi sinh.
Nàng nhìn đứa bé, rồi lại nhìn Mộ Dung Vô Phong, phát hiện hai người có nét giống nhau, bèn đưa đứa bé tới cho Mộ Dung Vô Phong.
Chàng chăm chú nhìn sinh mệnh bé nhỏ đã sớm rời trần thế trong tay mình rất lâu rồi quay đầu lại nhìn Sơn Mộc hỏi: "Nó là ai?".
"Em song sinh của ngươi. Mẫu thân ngươi đẻ khó, lúc ngươi được sinh ra thì cũng miễn cưỡng còn có được chút lực, đứa trẻ đó sinh ra sau, chỉ sống được không tới một canh giờ."
Tay Mộ Dung Vô Phong không kìm được mà run lên. Sau đó chàng cẩn thận lật tấm chăn đã đông cứng ra, nhìn vào đôi chân đứa trẻ. Tim chàng chợt nhói lên một trận đau buốt tới đáng sợ, gần như làm chàng đứt hơi. Đôi chân đó rõ ràng bị dị dạng, vừa nhìn là biết nếu còn sống cả đời nó cũng sẽ không thể đi lại. Đường nét trên khuôn mặt non nớt của đứa bé có tới bảy tám phần giống với Mộ Dung Vô Phong, nếu như nó lớn lên, tướng mạo hẳn sẽ y chang Mộ Dung Vô Phong.
Mộ Dung Vô Phong chìm vào một cơn bi thương không sao thoát ra được, tay khẽ run lên, "đình đang" một tiếng, đứa bé kia đã rơi xuống đất.
Âm thanh đó thật khiến cho người ta khiếp sợ.
Hà Y vội vàng nâng đứa bé đó lên, chợt phát hiện một cánh tay của nó vì cú rơi vừa rồi đã đứt ra hệt như một pho tượng đá bị gãy mất tay vậy.
Mộ Dung Vô Phong lạnh lẽo nhìn nàng tay chân lóng ngóng đặt cánh tay đứt gãy của đứa bé vào trong chăn, bọc lại như cũ.
"Nàng sợ?", chàng nhìn Hà Y, lặng lẽ hỏi.
"Không... không sợ", tuy nói thế, giọng nàng vẫn run run.
Chàng thở dài, nói: "Nàng không nên theo ta tới đây nhìn những... người chết này".
Hà Y nắm lấy tay chàng, nói: "Bọn họ... cũng là thân nhân của chàng".
Mộ Dung Vô Phong nghĩ một chút, chợt quay phắt lại, nói vói Sơn Mộc: "Ngươi nói mẫu thân ta đẻ khó, nhưng đứa con của người rõ ràng đã được sinh ra rồi".
Sơn Mộc nhìn chàng, ngần ngừ nói: “Việc này...".
Mộ Dung Vô Phong lãnh đạm nói: "Hà Y, đỡ ta lên giường băng, ta muốn xem xem rốt cuộc bà ấy là kiểu đẻ khó gì".
Hà Y cắn môi, nhẹ giọng can ngăn: "Bên trên toàn là băng giá, chân chàng thực sự không thể chịu được lạnh... ".
Mộ Dung Vô Phong mặc kệ Hà Y, tự mình rút nạng ra. Hà Y chỉ đành đem tấm chăn lông trên chân chàng phủ lên giường băng rồi đỡ chàng ngồi lên đó.
Mộ Dung Vô Phong nhẹ nhàng cởi bỏ y phục nơi bụng của nữ nhân, thân thể chàng bỗng chấn động, chỉ cảm thấy trước mắt nổ đom đóm, trời đất đảo điên. Hà Y vội giữ chặt thân thể vì phẫn nộ mà run bắn lên của chàng nhưng chính nàng cũng bị cảnh tượng trước mắt làm cho kinh hãi ngây người!
Lớp y phục che phần bụng được lật ra, trên bụng Mộ Dung Tuệ là một vết dao dài!
Nhìn qua những đường khâu còn có thể thấy rõ nội tạng bên trong!
Như có ai đó giáng mạnh một đấm vào bụng Mộ Dung Vô Phong, chàng ngã ập xuống, nôn mửa tới chết đi sống lại.
Hà Y chỉ có thể đỡ chàng về lại xe lăn.
Chàng nghiến răng, nhào tới trước mặt Sơn Mộc, túm lấy áo ông ta, gầm lên: "Là ai giết bà ấy? Là ai! Lẽ nào các người đến phụ nữ với trẻ nhỏ cũng không tha?".
Lục Tiệm Phong lạnh lùng nói: "Ngươi buông ông ta ra, mẫu thân ngươi cũng là do ta giết! Nhưng là do nàng cầu xin ta giết nàng!".
Mộ Dung Vô Phong tức giận tới run bắn người, gần như không mở miệng nói nổi nữa, một lúc sau mới khàn giọng hỏi: "Vì sao bà ấy lại muốn ngươi giết mình? Lẽ nào bà ấy điên rồi?".
Lục Tiệm Phong nói: "Vì nàng đẻ khó, vật vã hai ngày trời, đứa bé vẫn không chịu ra. Cuối cùng nàng... nàng cảm thấy mình cũng sắp không xong rồi mới xin ta giết nàng đi, mổ bụng nàng cứu lấy huynh đệ hai ngươi! Ta chỉ làm theo lời nàng mà thôi".
Cả căn phòng lặng ngắt như tờ, mọi người đều kinh ngạc tới tắt tiếng!
Mộ Dung Vô Phong không kiềm chế nổi, lệ tuôn ướt đẫm, nấc nghẹn nói: "Đó không phải sự thật! Không phải sự thật! Sao bà ấy lại muốn làm như thế?".
Lục Tiệm Phong nói: "Bản thân ngươi cũng là đại phu, đương nhiên biết đấy là thật".
Hà Y nhẹ nhàng nói: "Nhưng sao các người không chôn cất cho bà ấy, để bà ấy được yên nghỉ dưới đất?".
Lục Tiệm Phong đáp: "Nàng nói, nàng muốn được hợp táng với phụ thân ngươi, nhưng phụ thân ngươi sớm đã nhảy xuống vực sâu ngàn trượng rồi. Tuy bọn ta vẫn luôn giấu tin tức về cái chết của hắn nhưng mẫu thân ngươi đã đoán được hắn có điều bất trắc, lúc ấy nàng đã mang thai năm tháng rồi".
Sơn Mộc nói: "Trước khi mẫu thân ngươi qua đời, còn dặn dò bọn ta đưa ngươi tới Vân Mộng cốc, giao ngươi cho ông ngoại nuôi dưỡng. Tên của ngươi do bà ấy trước đó đã đặt sẵn. Ta liền đem ngươi cùng tín vật mẫu thân ngươi giao cho tới Vân Mộng cốc. Ta không nói gì cho ông ngoại ngươi hết, chỉ nói mẫu thân ngươi đẻ khó nên đã qua đời".
Lục Tiệm Phong nói: "Bất kể như thế nào, mẫu thân ngươi cũng là người phụ nữ dũng cảm nhất ta từng gặp".
Ngón tay Mộ Dung Vô Phong chợt điểm nhanh, thoáng cái đã điểm lên huyệt đạo trên người Sơn Mộc.
Lục Tiệm Phong giận dữ thét lớn: "Ngươi muốn làm gì?".
Mộ Dung Vô Phong nói: "Huyệt đạo ta điểm chẳng ai có thể giải được, tốt nhất ngươi đừng có qua đây", nói xong, chàng liền vạch lưng áo của Sơn Mộc.
Dưới ánh nến tù mù, trên lưng ông ta vẫn hiện lên rõ ràng ba vết roi mờ mờ.
Mộ Dung Vô Phong siết chặt nắm đấm, gằn giọng nói: "Quả nhiên ta đoán không sai! Rõ ràng phụ thân ta đã ra tay nương tình với ngươi, vậy mà ngươi lại cùng... cùng kẻ vô sỉ này liên thủ giết hại ông ấy!".
Sơn Mộc nói: "Ta vốn chỉ đứng một bên xem, nhưng sau đó hắn gần như sắp giết Lục Tiệm Phong rồi, ta chỉ đành nhảy vào giúp, đánh tới thời khắc cuối cùng, bọn ta đều biến thành dã thú, đều chìm vào cơn điên cuồng, mất đi lý trí. Bây giờ bất kể ngươi muốn làm gì ta cũng chẳng sao cả. Ta với phụ thân ngươi vốn cũng là... vốn cũng là bằng hữu rất tốt".
Mộ Dung Vô Phong lạnh lùng nói: "Bằng hữu! Hay cho ngươi nói được ra câu ấy! Thì ra ngươi đối đãi với bằng hữu tốt như vậy đấy!".
Sơn Mộc nhạt giọng nói: "Phụ thân ngươi quá mức cao ngạo, trong mắt hắn vốn chẳng hề có ta, nhưng hắn không nên...".
Mộ Dung Vô Phong thét lớn: "Câm miệng! Không cho phép ngươi sỉ nhục phụ thân ta!".
Lục Tiệm Phong nói: "Ngươi chớ quên Sơn Mộc cũng đã từng cứu mạng ngươi. Lần đó ngươi tự chìm thuyền giữa hồ, nếu không phải ông ta cứu ngươi từ dưới nước lên...".
Hà Y run giọng hói: "Chàng... tự chìm thuyền lúc... lúc nào?".
Mộ Dung Vô Phong gào lên: "Im đi! Không được nhắc tới chuyện này!".
Hà Y lại dứt khoát: "Ông nói đi! Nói cho ta biết!".
Lục Tiệm Phong nói: "Chuyện giữa hai ngươi ta làm sao biết được? Tối hôm ngươi tỉ võ với Hạ Hồi, tự hắn... tự hắn nghĩ không thông, một mình chèo thuyền ra giữa hồ rồi đục thuyền định tự vẫn...".
Hà Y cầm lấy tay Mộ Dung Vô Phong, mắt đẫm lệ nói: "Vô Phong, đấy... đấy là sự thật sao? Sao chàng lại làm như thế? Nếu chàng có mệnh hệ gì, vậy chàng bảo thiếp... bảo thiếp phải làm sao?".
Mộ Dung Vô Phong nói: "Việc đó đã qua lâu rồi".
Hà Y nói: "Vô Phong, chúng ta không ở lại chốn này nữa, chúng ta về nhà, được không?".
Mộ Dung Vô Phong nói: "Chúng ta phải chôn... chôn cất xong cho bọn họ rồi đi".
Trên đỉnh núi giờ có thêm một ngôi mộ nho nhỏ. Bọn họ đã an táng cho Mộ Dung Tuệ và đứa bé sơ sinh trên đỉnh ngọn núi Ngô Phong nhảy xuống năm xưa.
Lúc làm xong mọi việc cũng là lúc bóng tịch dương chỉ còn lưu lại vài ánh chiều tà dịu dàng trải lên đỉnh mộ.
Cố Thập Tam lặng lẽ đứng sau lưng bọn họ.
Mộ Dung Vô Phong nói: "Bọn đệ chuẩn bị xuống núi bây giờ. Huynh có đi cùng bọn đệ không?".
Cố Thập Tam nói: "Việc của đệ đã xong rồi nhưng việc của ta vẫn chưa".
Mộ Dung Vô Phong hơi sững người, nói: "Lẽ nào huynh thật sự muốn báo thù cho sư phụ mình".
Cố Thập Tam gật đầu.
Hà Y nghĩ ngợi rồi nói: "Muội đã thấy ông ta ra tay, cũng từng xem huynh ra tay rồi. Thứ cho muội nói thẳng, huynh không phải đối thủ của Lục Tiệm Phong. Nếu như hai người chúng ta liên thủ, có lẽ còn có được một tia hy vọng".
Mộ Dung Vô Phong lãnh đạm nói: "Hà Y, ở đây không có chuyện của nàng".
Chàng quay đầu sang, nói với Cố Thập Tam: "Chuyện của kiếm khách bọn huynh, đệ không hiểu, nhưng chết dưới tay kẻ ấy quả thật không đáng. Huống chi bọn họ sớm đã đi rồi".
Cố Thập Tam kinh ngạc hỏi: "Đi rồi?".
Mộ Dung Vô Phong nói: "Bọn họ luôn muốn đi Thiên Trúc, có lẽ bây giờ đã tới nơi rồi".
Cố Thập Tam hỏi: "Sao có thể tới nhanh thế được?".
Mộ Dung Vô Phong nói: "Đường lên thiên đàng trước giờ luôn rất nhanh".
Cố Thập Tam ngây ra nhìn chàng, hồi lâu sau mới lên tiếng: "Đệ đã nghĩ cách giết được bọn họ rồi sao?''.
Mộ Dung Vô Phong nói: "Người bị hại chết là phụ thân đệ, muốn báo thù cũng phải đến phiên đệ trước".
Cố Thập Tam không nhịn được hỏi: "Đệ? Đệ cũng có thể giết người?".
Mộ Dung Vô Phong lãnh đạm nói: "Trong lúc phẫn nộ, ai cũng có thể giết người. Đệ cũng không phải ngoại lệ".
Cố Thập Tam nói: "Đệ dùng cách gì giết được bọn họ?".
Mộ Dung Vô Phong nói: "Dùng cách mà sau này đệ vĩnh viễn không thể dùng lại được nữa. Việc này coi như đã kết thúc rồi".
Hà Y nói: "Thiếp còn cho rằng chàng đã tha thứ cho bọn họ rồi".
Mộ Dung Vô Phong nói: "Ta không tha thứ cho ai hết".
Trên đường quay về, Mộ Dung Vô Phong tựa như biến thành một người khác, chàng một mực cúi đầu trầm tư, cũng rất ít trò chuyện cùng Hà Y.
Bởi vì vừa rồi lên giường băng bị lạnh, vết thương ở chân chàng lại phát tác kịch liệt nhưng chàng đã sớm quen với việc lặng lẽ chịu đựng loại đau đớn này, chỉ ngã xuống một bên mà co giật nhưng thần thái thì cứ như mình là người ngoài cuộc.
Về tới Tiểu Giang Nam, mọi người ai cũng sức cùng lực kiệt, lập tức leo lên giường ngủ trọn một ngày.
Hà Y đã học được sự trầm mặc, cũng không truy hỏi cặn kẽ điều gì nữa. Mộ Dung Vô Phong thì trầm mặc tới đáng sợ. Nàng cảm thấy sắp có chuyện gì đó xảy ra.
Sáng ngày thứ hai, hai người vừa ăn xong cơm sáng, nàng đang định thu dọn bát đũa, Mộ Dung Vô Phong chợt gọi nàng lại.
"Hà Y..."
Nàng cười hỏi: "Việc gì thế?".
Mộ Dung Vô Phong lãnh đạm nói: "Ta thỉnh cầu nàng, xin nàng hãy rời xa ta".
Hà Y kinh ngạc hỏi: "Tại sao?".
Mộ Dung Vô Phong nói: "Ta nợ nàng quá nhiều, từ nay về sau cũng chỉ có thể càng làm khổ nàng. Huống chi ta chẳng thể cho nàng cái gì, đến đứa con mà nàng luôn mong có nhất cũng... cũng không thể cho nàng".
Lúc chàng nói câu này, giọng nói nghẹn ngào nhưng trong đó lại như có sự giải thoát, dường như đã suy nghĩ rất lâu, cuối cùng cũng nói ra được điều mình muốn nói.
Hà Y run giọng phủ định: "Không! Thiếp không đi!".
Mộ Dung Vô Phong nhìn nàng, trầm mặc rất lâu mới nói tiếp: "Ta là một phế nhân, nàng sống cùng với ta chẳng có lấy điều gì tốt đẹp. Ta nhìn nàng cả ngày vì ta mà lo trước lo sau, trong lòng... trong lòng vô cùng áy náy. Nàng là một người vui vẻ, xứng đáng có được một cuộc sống thoải mái hơn nữa. Không nên vì chăm sóc ta mà chôn đi nửa đời còn lại của mình".
Rồi không để nàng đáp lời, chàng nói tiếp: "Nàng vốn nghĩ thoáng hơn ta, những việc vừa rồi... những việc không vui, những việc phiền não khi ở với ta nàng sẽ nhanh chóng quên được thôi. Ta xin nàng hãy quên ta đi".
Hà Y nói: "Thiếp sống cùng chàng rất hạnh phúc không phiền não chút nào".
Chàng nhìn nàng, thần sắc thê lương, trong mắt ánh lên vẻ cầu khẩn.
Hà Y chợt cười nói: "Chỉ khi thiếp rời xa chàng, chàng mới có thể dễ chịu, đúng không?".
Mộ Dung Vô Phong cúi xuống, một lúc sau thì gật đầu.
"Chàng thấy thiếp cả ngày phải chăm sóc chàng, cảm thấy thiếp dường như đang phải chịu tội, bèn đau lòng, cảm thấy bản thân mình không phải một nam nhân tốt, một người chồng xứng đáng, đúng không?"
Mộ Dung Vô Phong im lặng.
Hà Y nói: "Chàng không cần lo, đương nhiên thiếp có thể rời xa chàng. Bất kể thế nào, thiếp cũng không thể để chàng khó chịu".
Nàng đứng lên, đi lấy bọc hành lý của mình tới, mở ra, rồi tới tủ quần áo bắt đầu thu dọn từng bộ y phục của mình xếp vào.
Mộ Dung Vô Phong nhìn thấy bộ y phục Hà Y mặc lần đầu tiên hai người gặp mặt, liền nói: "Bộ y phục này có thể tặng cho ta không?".
Hà Y cầm bộ y phục ấy gấp gọn lại rồi đặt vào bọc hành lý.
"Đã muốn quên thì nhất định phải quên bằng hết mới được."
Chàng cười khổ: "Ta chỉ xin nàng quên ta đi. Ta vĩnh viễn cũng không quên nàng".
Hà Y nói: "Không được nói như thế. Chúng ta phải quên nhau đi mới có thể cùng cảm thấy dễ chịu".
Mộ Dung Vô Phong lặng lẽ nhìn nàng thu dọn đồ đạc của mình. Đồ đạc của Hà Y không nhiều, thoáng chốc đã đóng gói gọn gàng.
Chàng trầm ngâm một lúc: "Ngân phiếu nàng cùng đem theo hết đi. Ta là đại phu, kiếm tiền ở đây rất dễ. Bao giờ nàng dùng hết tiền, có thể đem chiếc nhẫn ta tặng nàng tới cửa hiệu của hai tiền trang ta nói với nàng mà rút tiền. Một lần có thể rút tối đa năm nghìn lượng bạc. Nàng chỉ cần ký tên của mình lên là được".
Hà Y nhạt giọng nói: "Nhẫn thiếp sẽ cầm đi, ngân phiếu thì chúng ta mỗi người một nửa. Tuy chàng có thể kiếm được tiền nhưng trước khi sức khỏe hoàn toàn hồi phục thì vẫn không nên làm việc quá sức mới được".
Chàng nhìn nàng, lòng đau như muốn rách, run giọng nói: "Nàng không cần lo cho la, ta tự mình có thể sống rất tốt. Từ trước tới nay ta đều có thể tự chăm sóc bản thân".
Hà Y cười: "Không sai. Chàng sống trong Trúc Ngô viện, vốn cũng là sống một mình".
Mộ Dung Vô Phong cũng cười, cố gắng làm ra vẻ nhẹ nhõm, nói: "Ta cũng không lo cho nàng. Nàng võ công cao cường như thế, bất kể gặp phải kẻ nào, thì kẻ ấy mới phải lo lắng, tuyệt đối không phải là nàng".
Chàng lấy một cái hộp nhỏ trong ngăn kéo bàn, rồi lấy trong đó ra một cái lọ gỗ màu đen, đưa cho nàng, nói: "Nếu như có một ngày, có nam nhân nào đó vừa ý nàng, nàng muốn gả cho hắn thì trước ngày đại hỷ một ngày, đừng quên uống một viên thuốc này vào, ít nhất tân lang sẽ tưởng rằng... tưởng rằng... nàng chưa từng bị nam nhân khác chạm đến".
Chàng ngừng một lát rồi nói tiếp: "Đương nhiên, ta biết dối trá không phải việc tốt lành gì. Nhưng dối trá để cho mọi chuyện được yên ổn còn hơn nói thật mà gây nên thị phi, có đúng không?".
Hà Y nhận lấy cái lọ gỗ, khẽ nói: "Vô Phong, loại thuốc này nhất định sẽ bán rất chạy, chàng hoàn toàn có thể đem bán trên thị trường đấy!".
Mộ Dung Vô Phong nói: "Ta không muốn làm tội đồ của đạo đức, cũng không muốn phải ngồi đại lao".
Hà Y khoác bọc hành lý lên vai, giắt Ngư Lân Tử Kim kiếm lên lưng, nói: "Vậy thì... xin từ biệt!".
Trong lòng Mộ Dung Vô Phong đau đớn, gần như không chịu đựng nổi, run giọng nói: "Hà Y, nàng sẽ... nàng sẽ đi đâu?".
Hà Y gãi gãi đầu, nghĩ ngợi một lát rồi nói: "Thọ Ninh".
"Thọ Ninh?", đứng hơi ngẩn ra, từ trước tới giờ Hà Y chưa từng nhắc tới nơi này, đó là một huyện nhỏ thuộc tỉnh Phúc Kiên, cách chỗ này hơn ba nghìn dặm.
Khẩu âm của Hà Y giọng nam giọng bắc đều có thể nói được, nàng có thể nói cả bảy tám loại phương ngữ, dù là khẩu âm đất Thục của Mộ Dung Vô Phong, nàng cũng chỉ cần chưa tới một tháng là có thể nói lưu loát tám chín phần mười rồi.
"Ừm, nơi đó đại khái là quê của thiếp... Con của chúng ta cũng chôn ở đó. Lâu lắm rồi thiếp chưa tới thăm nó", nàng nhạt giọng nói.
Mộ Dung Vô Phong gật đầu, nói: "Một ngày nào đó, khi nàng đã có cuộc sống ổn định, muốn ra ngoài chu du, dọc đường mà qua chỗ ta, đừng quên ghé vào thăm ta nhé".
Hà Y cười, vỗ vai chàng, nói: "Chàng không định về Vân Mộng cốc sao?".
"Ừm. Ta thích nơi này. Đây vốn cũng là nơi ta sinh ra", chàng từ tốn nói.
Hà Y nhìn chàng, chợt ngồi xuống, nắm lấy tay chàng, chăm chú nhìn vào đôi mắt chàng nói: "Vô Phong, thiếp muốn chàng nhận lời với thiếp một chuyện".
Chàng cũng chăm chú nhìn nàng, hỏi: "Là chuyện gì?"
Hà Y nói: "Chàng phải gắng sức sống cho thật tốt, vĩnh viễn không dược nghĩ tới chữ 'chết' ấy".
Mộ Dung Vô Phong im lặng, một lúc lâu sau mới nghiến răng, cố gắng đè nén nỗi thương cảm và tuyệt vọng đang dâng lên trong lòng, gật đầu: "Ta nhận lời với nàng".
Hà Y nói: "Vậy... tạm biệt, chàng cẩn thận giữ gìn", nói xong nàng quay người định đi.
Chàng vội vàng đẩy bánh xe, nói: "Để ta tiễn nàng".
Hà Y ngăn chàng lại, nói: "Không cần, thiếp không thích đưa tiễn".
Nói rồi thân hình khẽ phiêu động, thoáng cái đã không thấy đâu nữa.
Mộ Dung Vô Phong đuổi theo ra tới cửa, muốn nhìn bóng dáng nàng thêm một lần nhưng chỉ thấy ánh nắng rạng rỡ tĩnh lặng trải trên con đường hiu quạnh xa tít tắp.
Chương 38
Chàng trở vào trong phòng, bắt đầu lục tìm bất cứ thứ đồ gì của nàng lưu lại, nhưng lúc đi hình như nàng đã đem theo tất cả những gì thuộc về nàng, chỉ còn lại mấy sợi tóc dài vương trên gối là còn mang theo mùi hương thân thể nàng... Chàng cẩn thận từng li từng tí, gói chúng vào khăn tay.
Đây là thứ nàng lưu lại, thứ duy nhất thuộc về nàng còn lại nơi đây.
Chàng đi vào nhà bếp, căn bếp đã được dọn dẹp sạch bong, trong cái vò sứ Thanh Hoa còn có mấy chùm tỏi, mấy củ gừng khô. Chai lọ, bình vại rất nhiều, cái nào cái nấy đều bóng loáng không chút bụi, cứ như chỉ vừa mới được mua về. Vì bệnh ưa sạch của chàng, chính nàng cũng dần dần biến thành một người ưa sạch.
Chàng một mình dạo quanh viện, buồn bã tới mức muốn điên lên.
"Ta đã làm đúng, làm thế tuy nàng sẽ buồn nhưng đối với nàng thế mới tốt", chàng tự nói với bản thân.
"Từ trước tới giờ Hà Y là một người nghĩ rất thoáng, cái gì cũng không thể trói buộc nàng. Nàng nhất định có thể dần quên ta."
"Ta vốn là một kẻ tàn phế, vốn không nên vướng bận nàng quá nhiều."
"Nếu ngươi đã yêu một người thì không được ích kỷ, phải thời thời khắc khắc nghĩ cho hạnh phúc lâu dài của người ấy."
Cứ như thế, chàng có thể nghĩ ra cả ngàn lý do chứng minh bản thân mình đã làm đúng. Nhưng chàng lại không sao hiểu được, bởi lẽ gì mà chàng trở nên mềm yếu như thế, đột nhiên lại không làm sao rời được người con gái ấy.
Ra khỏi cửa, đi về bên phải không xa là một quán rượu nhỏ. Chàng mua ba vò rượu lớn rồi quay về phòng mình, một chén rồi lại một chén dốc xuống, cho tới khi bản thân say khướt thì thôi.
Chàng say túy lúy tới mức ngã gục xuống đất rồi cũng lười chẳng buồn bò dậy, liền nằm luôn đấy ngủ qua một đêm.
Tới nửa đêm, chàng rút trong người ra một con dao nhỏ, điên cuồng muốn tự kết liễu bản thân, nhưng rồi bên tai lại văng vẳng giọng Hà Y.
"Chàng phải gắng sức sống cho thật tốt, vĩnh viễn không được nghĩ tới chữ 'chết' ấy!"
Chàng chăm chú nhìn ánh thép sắc lạnh của con dao trong tay rất lâu rồi lại dúi nó xuống dưới gối.
Lúc tắm rửa, nhìn thân thể tàn phế của mình, chàng chỉ cảm thấy đầu óc choáng váng, nghĩ không ra vì sao Hà Y vẫn có thể chẳng màng tất cả mà yêu thương mình, nghĩ không ra lúc giúp mình tắm rửa, thay thuốc, nàng làm thế nào mà đối mặt được với những vết thương đáng sợ thế này.
Hình như nàng cũng giống bản thân mình, đang chìm đắm vào tình ái nồng nhiệt mà đánh mất đi lý trí.
Tới khi những nồng nhiệt qua đi, còn lại sẽ chỉ là sự chịu đựng dai dẳng, những lo âu vô hạn, và nỗi vất vả khôn cùng mà chẳng có lấy nổi dù chỉ một chút niềm vui đáng kể.
Hãy còn may, chàng đã chấm dứt tất cả trước khi ái tình biến thành vô vị!
Ngày hôm sau, chàng tỉnh lại từ cơn say bí tỉ, ánh mặt trời nhức mắt rọi qua song cửa sổ, chiếu thẳng lên mặt chàng.
Chàng chỉ đành lồm cồm bò dậy, trèo lên xe lăn, thay một bộ y phục sạch sẽ khác rồi dọn dẹp những thứ mình nôn ra.
Chàng mở toang cửa sổ để mùi rượu nồng nặc trong phòng tan đi rồi gom lấy chút tinh thần, đi tới nhà bếp rán cho mình hai quả trứng gà.
Chàng cắn chặt răng, đem bi thương chôn thật sâu tận đáy lòng.
Sống tiếp, chỉ cần vẫn còn sống thì phải tiếp tục sống?
Mà đã muốn tiếp tục sống thì đương nhiên phải nghĩ xem bản thân nên sống thế nào!
Tuy là có tiền nhưng chàng trước giờ vốn chẳng phải loại người chỉ biết ngủ trên đống tiền. Chàng không có chân nhưng vẫn còn đôi tay này, cũng xem như chưa phải một phế nhân hoàn toàn.
"Tất cả những thứ ông Trời cho ta, ta đều dùng hết rồi. Cũng xem như không uổng phí một chuyến ngao du nơi cõi người này", chàng thầm nhủ với bản thân.
Thế rồi chàng tìm bút mực, rồi lại kiếm một tấm gỗ to, để lên đó bốn chữ lớn: "Lâm thị y quán", sau đó treo lên cạnh cửa lớn nhà mình.
Lúc chàng treo tấm biển gỗ ấy lên, vừa khéo có người đi qua, người này kéo chàng bảo: "Tiên sinh, ngài điên rồi chăng? Trong trấn đã có y quán lớn nhất cả một dải đất này, lão tiên sinh nơi ấy họ Diệp, danh vang khắp miền Tây Bắc, xưng tụng là 'Tái ngoại y tiên'. Ngài treo tấm biển này lên, há chẳng phải có ý muốn cướp miếng ăn của lão nhân gia sao?".
Mộ Dung Vô Phong sững người, hỏi: "Có phải là Diệp Sĩ Viễn tiên sinh, người viết cuốn Diệp thị mạch độc không?".
Người kia đáp: "Không sai. Người làm dưới tay lão tiên sinh cũng có cả đống, nhưng tính tình lão tiên sinh kỳ quái cho tới nay vẫn chưa thu nhận một đệ tử nào".
Mộ Dung Vô Phong cười khổ, hỏi: "Thế là vì làm sao?".
"Lão nhân gia thường nói, nếu học trò mà thông minh bằng sư phụ thì dù có học rồi, cũng chỉ có được một nửa thành tựu của sư phụ mà thôi. Chỉ có người học trò thông minh hơn cả sư phụ mới đáng để truyền dạy. Cho tới bây giờ lão nhân gia vẫn chưa tìm được một học trò nào thông minh hơn mình, cho nên người theo ông ấy học y thuật không ít nhưng chẳng có một ai được hành lễ bái sư."
Mộ Dung Vô Phong hỏi: "Đó vốn là thiền lý của người xuất gia, người hành nghề y cũng không nhất thiết phải kỹ càng thế chứ?".
Người qua đường kia đáp: "Nếu ngài nói với ông ấy như thế, lão nhân gia sẽ trợn mắt nói ngài thô tục".
Mộ Dung Vô Phong bật cười, vẫn cứ tiếp tục đóng đinh treo tấm biển gỗ lên.
Rất lâu rồi chàng không cười như thế.
Người qua đường kia nhìn chàng một lượt hỏi: "Ngài chính là vị 'Lâm thị' này?".
Chàng gật đầu đáp: "Ừm".
Người kia hỏi: "Bộ dạng ngài thế này mà cũng là đại phu?".
Chàng xoay người lại, nhìn người kia chằm chằm, dáng vẻ hung dữ hỏi: "Ta như thế này thì làm sao?".
Người kia sững ra, nói: "Tấm biển này dù có muốn treo cũng phải treo cao lên một chút".
Hiện Mộ Dung Vô Phong vẫn rất khó đứng lên, liền nói: "Tôi chỉ treo cao đến thế thôi".
Người kia hỏi: "Lẽ nào ngài muốn để bệnh nhân phải cúi gập xuống nhìn biển hiệu của mình?".
Chàng đáp: "Trị được bệnh, có phải khom lưng xuống cũng có gì đáng sợ?".
Người kia nói: "Tôi có thể giúp ngài treo biển lên nóc cửa".
Mộ Dung Vô Phong đáp: "Tấm biển gỗ này treo đây được rồi".
Người kia thở dài nói: "Thôi được rồi, tôi xem tiên sinh ngài không phải người ở đây, làm ăn cũng chẳng dễ dàng gì, tôi có một cô em gái đang bệnh, ngày mai sẽ đưa tới chỗ ngài khám".
Mộ Dung Vô Phong hỏi: "Sao ông không đưa cô ấy tới chỗ Diệp tiên sinh?".
Người kia đáp: "Đưa đến chỗ ông ấy, riêng tiền khám một lần đã tốn ba lượng rồi".
Mộ Dung Vô Phong nói: "Tiền khám chỗ tôi là mười lượng một lần".
"Lão huynh điên rồi à? Bệnh nhân đầu tiên cũng nên nhẹ tay một chút chứ!"
"Chính là giá ấy, không có bớt đâu. Muốn thì ngày mai đưa cô ấy tới, không thì tùy ông".
"Tên của ngài là?", người kia hỏi.
"Lâm Xử Hòa", chàng lãnh đạm nói: "Cũng chính là ý sống chan hòa với người khác".
Miệng người kia như sắp lệch đi rồi.
Sau khi treo biển hiệu lên, chàng liền tới tìm chủ nhà ở kế bên. Thương lượng một lát chủ nhà liền đồng ý mỗi ngày người giúp việc của mình ra chợ mua thức ăn sẽ nhân tiện mua về cho chàng một phần, tất cả chi phí tính hết vào tiền nhà.
Chàng biết ra khỏi cửa rẽ trái, đi thêm nửa dặm sẽ là một khu chợ rất lớn. Hà Y vẫn thường mua thức ăn ở đấy. Khu chợ đó là nơi đông đúc náo nhiệt nhất của trấn này, ngày nào cũng mở cửa từ lúc trời chưa sáng. Tiểu thương bốn phía ùn ùn kéo vào, tiếng người huyên náo, người đẩy xe thì đẩy xe, người dắt ngựa thì dắt ngựa, ngày nắng thì bụi đất mù mịt, ngày mưa thì bùn lầy ướt nhẹp.
Cái chàng ghét nhất chính là ồn ào. Những nơi tạp nham ồn ả như thế chàng sẽ không bao giờ đặt chân tới.
Ông chủ cho thuê nhà họ Vạn, mọi người thường hay gọi la Vạn viên ngoại, là một nam nhân vừa cao vừa béo, râu ria đầy mặt. Giọng nói ông ta rất vang, tính tình cực kỳ hào sảng.
"Hay là ngài có cần vài đứa nha hoàn chăng? Tôi có thể đi mua giúp ngài, tiểu cô nương mười hai tuổi, ngoài chợ cùng lắm là ba lượng bạc một đứa."
Mộ Dung Vô Phong nhíu mày, người này rõ ràng đang nói về một người sống, vậy mà khẩu khí cứ như đang bàn về một con ngựa.
"Tôi không cần nha hoàn nhưng muốn mua một con lạc đà", chàng nói.
Chàng bỗng nhiên nghĩ, nếu mình muốn ra ngoài, có lạc đà cưỡi thì khá là tiện.
Con đường lát đá xanh ở đây tuy miễn cưỡng thì vẫn có thể đi xe lăn nhưng đằng trước đằng sau đâu đâu cũng là cống rãnh, lên dốc xuống dốc. Mà kể có là cưỡi lạc đà, những nơi chàng có thể tới vẫn rất hạn chế.
"Lạc đà thì đắt đây. Loại hảo hạng chỉ sợ cũng phải ba mươi lượng bạc. Tôi sẽ nhờ người sành sỏi giúp ngài chọn một con, ngài có thể nuôi nó trong chuồng ngựa của tôi, lúc cần dùng thì cứ dắt ra là được", Vạn viên ngoại nhìn bộ dạng yếu ớt của chàng, nói với vẻ cảm thông.
"Cứ như ngài nói đi, đây là ba mươi lượng bạc. Đa tạ ngài", chàng đưa ngân phiếu qua rồi cáo từ rời đi.
Ông chủ Vạn quả nhiên nói được làm được, gần tới trưa thì phái người đưa tới thức ăn chàng nhờ mua ngày hôm đó, còn thông báo là lạc đà đã mua xong.
Chàng tới nhà bếp vật lộn hồi lâu, đánh vỡ mất hai cái bát nhỏ, cuối cùng cũng làm cho mình được một đĩa thức ăn mùi vị không tệ.
Cũng may trước đây lúc chàng và Hà Y bị kẹt trong sơn thôn, chàng đã từng nấu cơm gần mười ngày, lúc gặp khó khăn cũng rất thật thà thỉnh giáo Tân đại nương, có chút công phu đó làm nền tảng, rốt cuộc lúc chàng thổi lửa nấu cơm cũng không đến nỗi làm cháy lông mày mình, lúc băm gừng cũng không cắt phải tay mình, lúc xào nấu thức ăn cũng không để dầu bắn ra làm bỏng mặt mình.
Lúc này chàng mới phát hiện, thì ra làm những việc ấy không hề khó, chỉ là hồi ở Trúc Ngô viện chàng chưa từng có cơ hội thử làm mà thôi.
Tiếp đến chàng định ra giếng múc nước, giặt quần áo buổi sáng thay ra.
Ròng rọc kéo nước trên giếng lắc lư hơn xa chàng tưởng tượng. Lúc nó lắc lư thì buộc phải đồng thời dùng sức hai tay mà giữ lấy, nhưng hai tay chàng mà rời tay vịn của xe lăn thì thân người sẽ rất khó ngồi vững được, chỉ có thể dựa chặt lên lưng ghế mà thôi. Thùng nước kia cứ đánh qua đánh lại trong giếng, rất nặng nề, khó khăn lắm mới kéo lên khỏi miệng giếng. Chàng cúi người đón lấy cái thùng, cảm thấy dùng một tay thì sẽ không sao xách nổi, chàng trầy trật lắm mới vươn nốt tay kia lên được, nhưng lại không để ý tuột mất tay này khỏi dây ròng rọc, thùng nước liền tuột đi. Chàng lập tức níu lấy sợi dây nhưng không đủ sức, chỉ đành buông ra, thùng nước lại cứ thế rơi trở lại giếng. Cứ như thế ba lần, chàng thử bảy tám tư thế cẩn thận tính toán thăng bằng, cuối cùng mới kéo được thùng nước ra khỏi miệng giếng, hai tay đang giữ lấy thì lưng lại chợt mềm nhũn, tay chợt buông lỏng, thế là cả thùng nước dội thẳng vào người, khiến chàng ướt sũng.
Đầu xuân, nước trong giếng cũng không quá lạnh, nhưng tưới lên người vẫn khiến chàng rùng mình, run lên cầm cập.
Chàng chỉ đành quay vào phòng cởi đồ ướt ra, thay một bộ y phục khô ráo trắng tinh. Tấm đệm ngồi trên xe lăn cũng đã ướt nhẹp, chàng đành phải lấy ra, đặt gần lò sưởi để hong khô.
Hơ xong một mặt chàng đảo mặt kia qua rồi chợt sững người.
Một góc của tấm đệm có thêu hai hình đầu người nho nhỏ bằng chỉ đỏ.
Đường thêu vụng về, đường chỉ xiên xiên xẹo xẹo, nhìn một cái liền biết, đây chính là tác phẩm của Hà Y.
Cái đầu bên trái, trên đỉnh đầu còn thêu thêm mấy sợi dài, đại khái là tóc, bên cạnh còn thêu hai chữ "Hà Y". Cái đầu bên phải, trên đầu không thêu tóc dài, nhưng thêu một cái búi tóc tròn tròn, bên cạnh thêu hai chữ "Vô Phong" Hai cái đầu dụi sát vào nhau, khuôn mặt tươi cười, bộ dạng rất vui vẻ hớn hở.
Chàng nhìn chăm chú vào hai hình thêu đơn giản mà vui tươi, trong mắt thấy cay cay.
Từ trước tới giờ nàng không sao viết chữ "Vô" cho ra dáng được, bởi vì nét chữ quá nhiều nên viết ra phải béo gấp đôi chữ "Phong". Nàng vốn cũng không viết cho ổn thỏa được chữ "Mộ", viết ra rồi thì phải dài gấp đôi gấp ba chữ còn lại.
Nàng còn nói, đứa con đã chết của hai người, tên của nó là "Mộ Dung Đinh Nhất". Tuy hai chữ đầu lằng nhằng nhiều nét phức tạp là không thể tránh được, nhưng rốt cuộc hai chữ phía sau viết ra cũng đơn giản hơn khối rồi.
Chàng còn nhớ lúc ấy mình bật cười hỏi: "Sao nàng không dứt khoát gọi nó là 'Mộ Dung Nhất' luôn cho gọn?".
"Việc này... hình như không được ổn lắm? Nó tên là 'Mộ Dung Nhất', vậy chẳng nhẽ gọi đứa thứ hai là 'Mộ Dung Nhị'? Thiếp nghe cứ thấy sao sao ấy?"
Mộ Dung Vô Phong ngắm nhìn những hình thêu ấy, mắt nhòa đi. Chàng chợt cảm thấy mình sai rồi. Hai người bọn họ ở với nhau đích xác là có rất nhiều lúc vui vẻ. Bây giờ nhớ lại, niềm hạnh phúc Hà Y cho chàng mới hai năm nay còn vượt xa niềm vui hai mươi mấy năm cuộc đời chàng cộng lại.
Nhưng, liệu Hà Y cũng được vui vẻ chăng?
Thân thế của nàng so với chàng còn thê lương hơn, tuy luôn mang dáng vẻ tràn đầy sức sống nhưng chính bản thân chàng cũng không biết được, cuối cùng nàng có thực sự vui vẻ hay không.
Có! Nàng có hạnh phúc!
Nếu không nàng đã chẳng thêu thế này, hy vọng bọn họ vĩnh viễn hạnh phúc cùng nhau.
Nếu hai người đều cùng vui vẻ, sao lại không thể ở cùng một chỗ? Sao còn phải nghĩ nhiều như thế?
"Người đọc sách cứ thường bị cảm giác cao thượng chi phối, thân mình có chút lý lẽ thì cứ muốn làm thánh nhân. Những người thô lỗ không chịu đọc sách như bọn thiếp cuối cùng lại phải chịu bị bọn chàng hành hạ", từng có lúc Hà Y đã nói như thế.
Chàng cười khổ, không thể không thừa nhận, lời nàng có lúc cũng thật chuẩn.
Chàng sai rồi! Đơn giản là sai đến mức hồ đồ!
Nghĩ tới đây, chàng vươn người dậy, ra ngoài cửa, đem theo xe lăn, cưỡi lạc đà, men theo cửa hiệu, quán rượu khách điếm dọc phố hỏi từng nhà từng nhà một.
"Xin hỏi vị đại ca này, ngày hôm qua có từng nhìn thấy một cô gái nhỏ nhắn mặc đồ màu tím nhạt không? Trên lưng cô ấy khoác một bọc hành lý màu đỏ, eo giắt một thanh kiếm màu tía?"
"Cô gái nhỏ người à? Không có."
Chàng lại lăn bánh xe, dưới ánh mắt chăm chăm của đám đông rời đi, tới bên chân lạc đà vỗ nhè nhẹ. Lạc đà quỳ xuống, một tay chàng vịn xe lăn, tay kia níu lấy bướu lạc đà, gồng sức vươn người lên yên, sau đó treo xe lăn lên một cái móc móc vào yên, xong việc lại vỗ lưng lạc đà, con lạc đà từ từ đứng dậy rồi tiếp tục thong thả đi về phía trước.
Tới một nhà khác, chàng lại lặp lại quy trình phức tạp gian nan ấy một lượt nữa, đi vào từng cửa hàng cửa tiệm, hỏi cùng một câu hỏi, đợi người ta lắc đầu trả lời "không thấy", rồi lại vòng ra leo lên lưng lạc đà, tiếp tục tiến lên phía trước.
Chàng tự biết bộ dạng mình thật không bình thường, rất nhiều người trên đường chú ý tới chàng, có những người khoanh tay đứng hẳn sang một bên, không e dè gì, theo dõi chàng từ đầu tới cuối.
Đây là giang hồ, không phải Vân Mộng cốc, chàng chỉ có thể cố chịu đựng những ánh mắt hiếu kỳ ấy.
Trông thấy bên đường có mấy tiệm nhỏ bán Khách Ngõa Phù, chàng cũng ngồi trên lạc đà cúi người xuống hỏi thăm.
Hà Y tới nơi đây, thứ thích ăn nhất chính là thịt dê xiên nướng. Với lại trước giờ nếu tâm tình nàng càng không tốt, ăn sẽ càng nhiều.
Nhưng ông lão bán Khách Ngõa Phù lại cứ một mực lắc đầu: "Lão đây nướng thịt dê ở chỗ này đã mấy mười mấy năm, chưa từng gặp vị cô nương nào như thế".
"Nói bừa, nói bừa rồi, lão đầu ông nướng thịt, khói cứ gọi là bay mù mịt, cho dù có một con gấu to đùng bò tới trước mặt, ông cũng chẳng thấy được nữa là!", người ở quầy hàng bên cạnh nói: "Công tử, người chớ tin lời ông ta. Tôi đã nhìn thấy cô gái công tử vừa nói. Cô ấy còn tới chỗ tôi mua bốn xiên Khách Ngõa Phù nữa cơ".
Chàng vội hỏi: "Thật sao? Là lúc nào thế?".
"Chiều tối qua."
"Cô ấy có nói gì với huynh không?"
"Chẳng nói chẳng rằng. Cô nương ấy trông mặt mày ủ rũ, mua xong đồ thì tiếp tục đi về phía trước rồi."
"Đa tạ", chàng chán nản lấy một lượng bạc quẳng cho người kia.
Chủ gánh hàng kia mừng rỡ ngoài mong đợi hỏi: "Công tử, ngài lấy mấy xiên?".
"Tôi không ăn, anh lấy bán cho người khác đi", chàng vỗ vỗ lạc đà, không nản chí tiếp tục tiến về phía trước hỏi thăm từng nhà.
Đoạn cuối con phố nối liền với một quan đạo dài tít táp vắt qua một thảo nguyên, thông tới một khu thành thị khác.
Đoạn đường bắt đầu của quan đạo có một khách điếm không lớn không bé, cũng là cửa tiệm buôn bán cuối cùng trên con phố này.
Tiểu nhị nói cho chàng, đích xác là có một vị cô nương như chàng tả vào khách sảnh gọi một bát trà sữa, còn hỏi thăm anh ta xem muốn đi về phía đông tới khu vực giáp biển thì đi như thế nào. Tiểu nhị liền chỉ cho nàng con đường quan đạo này. Nàng uống xong trà, trả tiền rồi đi luôn.
Nghe thấy vậy, Mộ Dung Vô Phong chỉ đành kéo dây cương, như người mất hồn mà quay trở về nhà.
Ánh nắng đầu xuân êm ái chiếu qua cửa sổ, ngoài song còn văng vẳng tiếng chim hót.
Chàng đã sức cùng lực kiệt, ủ rũ nằm xuống giường, trong đầu là một khoảng trống rỗng.
Thân thể chàng vốn yếu đuối, vừa rồi bị nước giếng tưới ướt, rồi lại thêm cả đêm qua rượu vào ngủ gục dưới đất bị nhiễm lanh, đến chiều thì toàn thân bắt đầu nóng bừng.
Chàng định cắn răng xuống giường, tìm cho mình ít thuốc, nhưng đầu váng mắt hoa, cả người mềm nhũn đành nằm đơ trên giường, mê mê man man mà thiếp đi.
Tới nửa đêm thì toàn thân chàng nóng rực, miệng lưỡi khô khốc muốn uống nước nhưng mí mắt nặng trĩu không mở ra nổi, vươn tay quờ quạng trên cái bàn cạnh giường một lát cũng chẳng sờ thấy bình nước đâu, chỉ đành tiếp tục gục đầu xuống mê man.
Cũng không biết ngủ tới lúc nào, đột nhiên có người lay mạnh thân chàng. Chàng miễn cưỡng mở mắt ra, trời đi sáng từ lâu, một người trung niên mặc áo xanh đang đứng trước mặt chàng.
Trong cơn mơ hồ, chàng hỏi: "Các hạ là ai? Sao lại chạy tới phòng tôi?''.
Người kia nói: "Lâm đại phu, ngài không nhận ra tôi à? Tôi là người nói chuyện với ngài hôm qua lúc ngài treo biển hiệu đó. Tôi họ Phí, gọi là Phí Khiêm".
Mộ Dung Vô Phong nhắm mắt lại, nói: "Bất kể là phí tiền hay không phí tiền[1], hôm nay tôi không khai trương".
[1] Phí Kiêm và phí tiền trong tiếng Trung có cùng một âm đọc.
Phí Khiêm kêu lên: "Này! Con người ngài sao nói rồi lại không giữ lời thế? Hôm qua rõ ràng ngài đã nhận lời khám bệnh cho muội muội tôi mà".
Mặc kệ hắn khua môi múa mép, Mộ Dung Vô Phong hạ đầu xuống ngủ luôn, chẳng thèm để ý tới hắn nữa.
"Bây giờ sắp chiều rồi! Sao ngài vẫn chưa xuống giường? Có loại đại phu lười biếng như ngài sao? Tôi đưa người bệnh từ xa xôi tới dễ dàng lắm hả? Họ Lâm kia, rốt cuộc hôm nay ngài có khám bệnh hay không?", Phí Khiêm tức mình đứng chống nạnh giạng chân bên giường Mộ Dung Vô Phong to mồm mắng mỏ.
Giọng hắn to kinh người, hét tới mức Mộ Dung Vô Phong chẳng làm sao ngủ nổi.
Bất chợt có một giọng nói khác rất nhỏ nhẹ, rất nho nhã cất lên: "Ca ca, chúng ta... hay là chúng ta về đi. Vị đại phu này... muội thấy hình như ốm rồi".
"Ốm rồi? Nói linh tinh, bản thân hắn là đại phu, sao mà ốm được?"
"Huynh xem người ta mặt mũi đỏ rực thế kia... chẳng phải đang... đang sốt hay sao?"
Phí Khiêm đưa tay sờ trán Mộ Dung Vô Phong một cái, giật thót mình, nói: "Quả nhiên hắn ốm rồi".
Nói rồi lay lay chàng, hỏi: "Này, ở đây ngài có thân thích nào không? Tôi sẽ giúp ngài gọi tới. Ngài ốm rồi, cứ phải có người chăm sóc vẫn hơn".
Mộ Dung Vô Phong chẳng biết làm sao, chỉ đành mở mắt ra, trông thấy có một cô bé nhỏ nhắn đang đứng sau lưng Phí Khiêm, trên đầu còn đội một chiếc mũ lớn. Cô bé này mặt trái xoan, đường nét thanh tú, thân hình gần giống như Hà Y.
Vừa nghĩ tới Hà Y, đầu chàng thoáng mê muội, lại khép mắt lại.
Cô bé nói: "Ca ca, chúng ta về đi. Vị này hình như bệnh không nhẹ. Mấy hôm nữa chúng ta... chúng ta lại tới".
Phí Khiêm không có cách nào khác, đang định quay người đi thì thấy Mộ Dung Vô Phong trở mình ngồi dậy.
"Đại phu, ngài không sao chứ?'', Phí Khiêm dò hỏi.
"Không sao, chỉ là chút phong hàn mà thôi", Mộ Dung Vô Phong bật ho vài tiếng, nói: "Xin lỗi, tôi chẳng cách nào xuống giường được. Làm phiền ông lấy một chiếc trường kỷ vào đây, bảo bệnh nhân ngồi trước mặt tôi".
Phí Khiêm vội vàng bê ghế tới, nói: "Tiểu Mẫn, lại đây, mau ngồi xuống đây".
Cô bé kia ngập ngừng do dự, mặt mũi ngượng nghịu tới đỏ bừng, gượng gạo đi tới rồi ngồi xuống ghế.
Mộ Dung Vô Phong thờ ơ không chút biểu cảm, nhìn cô bé rồi nói với Phí Khiêm: "Làm phiền mang một chậu nước vào đây, tôi cần rửa tay".
Chàng cẩn thận kỹ lưỡng rửa tay thật sạch rồi lấy khăn lau khô.
"Năm nay bao nhiêu rồi?", chàng vừa bắt mạch, vừa hỏi.
Cô bé rụt rè nói: "Mười lăm".
"Bỏ mũ xuống đi", chàng lại nói.
Khuôn mặt cô bé càng đỏ hơn, đầu cúi thấp, ngần ngừ hồi lâu mới kéo mũ xuống.
Trên đầu cô bé toàn là ghẻ lở, không có lấy một cọng tóc.
Chàng ngơ ngẩn nhìn những vết lở xấu xí, cái cao cái thấp ấy, không biết vì sao, tâm tư lại lâng lâng nhớ tới Hà Y.
Mãi một lúc sau, chàng mới từ từ tỉnh táo trở lại, liền với một cái bút trên chiếc bàn bên cạnh, chấm lên chút chu sa rồi lần đưa tay sờ lên những vết lở trên đầu cô bé, từng cái từng cái một. Vừa sờ vừa hỏi:
"Cái này đau không?"
Nếu cô bé nói "Đau", chàng liền sờ lên cái tiếp theo. Nếu cô bé nói "Không đau nhưng ngứa", chàng sẽ dùng bút khoanh lại một vòng. Nếu cô bé nói "Không đau cũng không ngứa", chàng sẽ đánh dấu chéo. Trong đó có một chỗ, cô bé nói: "Vừa đau vừa ngứa", chàng liền khoanh lại rồi đánh thêm dấu chéo.
Sau khi sờ xong hết những chỗ lở loét, chàng lại rửa tay thật kỹ rồi lấy bút mực, viết ra bốn đơn thuốc đánh dấu là Giáp, Ất, Bính, Đinh.
Cô bé kia vội vàng đội mũ lên.
Xong xuôi Mộ Dung Vô Phong nói: "Đem thuốc trong bốn phương thuốc này sao riêng ra thành cao. Chỗ khuyên tròn thì dùng Giáp, chỗ dấu chéo thì dùng Ất, vừa khuyên tròn vừa dấu chéo thì dùng Bính. Những chỗ còn lại dùng Đinh. Một ngày ba lần, cách một ngày lại dán cao. Trong vòng một tháng có thể khỏi hẳn".
Phí Khiêm nói: "Trên đầu nó có bao nhiêu vết như thế, làm sao tôi nhớ được chỗ nào đau, chỗ nào ngứa?".
Mộ Dung Vô Phong nói: "Có tổng cộng hai mươi ba vết lở loét. Tôi sẽ vẽ lại cho ông", nói rồi chàng lấy giấy vẽ lại hình dáng đầu, ở từng vị trí lở loét cũng đánh dấu như trên.
Chàng vẽ liền một hơi là xong xuôi, tựa như vị trí mỗi vết lở loét đều đã ghi nhớ kỹ trong đầu rồi.
Phí Khiêm không nhịn được hỏi: "Liệu ngài có nhớ nhầm không? Có cần bảo nó bỏ mũ xuống kiểm tra lại một lượt không?".
Mộ Dung Vô Phong lườm hắn một cái: "Tôi không nhớ nhầm được. Nếu ông muốn đếm lại thì về nhà mà đếm cũng chưa muộn".
Phí Khiêm nghĩ một lát rồi hỏi: "Thuốc trong bốn đơn này, có đắt lắm không?".
Mộ Dung Vô Phong hỏi: "Trong tay ông giờ có bao nhiêu tiền?".
Phí Khiêm nói: "Hai mươi lượng. Mười lượng là phí khám bệnh, mười lượng mua thuốc. Chẳng giấu gì đại phu, bệnh này của tiểu muội tôi đã bị bảy tám năm nay rồi, tiền bỏ ra chữa chạy cứ tuôn đi như nước. Loại thuốc kỳ lạ hiếm có nào cũng thoa qua rồi, chẳng có chút tác dụng nào cả. Bộ dạng nó như thế, thật muốn gả củng chẳng gả cho ai được, của hồi môn cũng sớm đã bị tiêu sạch rồi. Bây giờ trong nhà chỉ còn lại chút tiền, thật không sao chịu nổi chi tiêu như thế. Nhưng, ài... cuối cùng vẫn là người có học mà. Ai bảo nó là tiểu muội của tôi cơ chứ".
Mộ Dung Vô Phong nhìn Phí Khiêm một cái, cầm lại đơn thuốc, loạt xoạt vài nét gạch đi mấy loại thuốc, rồi lại thêm vào mấy vị, nói: "Cô bé là bệnh nhân đầu tiên của tôi, tiền khám miễn đi. Vị thuốc quý, chỉ cần không quá quan trọng tôi đã bỏ đi rồi, đổi thành vài vị khác rẻ hơn một chút. Tính ra, hai mươi lượng đại khái cũng đủ rồi".
Phí Khiêm nhìn chàng, nói: "Trông ngài quả đúng là một đại phu cao minh. Trước đây mấy vị đại phu khác xem bệnh đều chỉ kê có một đơn thuốc".
Mộ Dung Vô Phong cười nhạt nói: "Vết lở loét trên đầu cô bé đâu phải chỉ có một loại. Phải dùng các loại thuốc khác nhau chữa riêng mới được".
Phí Khiêm cúi đầu nói: "Vậy xin đa tạ. Bây giờ bọn tôi sẽ đi mua thuốc, cáo từ".
Truyền Hạnh đường.
Phùng Lão Cửu tay cầm đơn thuốc, tay kia luân chuyển trên kệ thuốc lớn hình bát giác đầy ắp thuốc, chớp mắt đã lấy đủ phân lượng vị thuốc theo bốn đơn thuốc Phí Khiêm đưa cho.
Đợi tới lúc đang bọc thuốc lại, ông ta đột nhiên dừng tay thắc mắc: "Lạ thật, phương thuốc này hình như không phải do Diệp lão tiên sinh kê!".
Loại giấy Diệp lão tiên sinh hay dùng để kê đơn thuốc thống nhất dùng giấy Tố Vân Hoa Tiên, ở góc dưới bên phải còn có đóng ấn ba chữ "Truyền Hạnh đường".
Trong vòng trăm dặm quanh đây cũng có tới mười mấy tiệm thuốc nhưng y quán thì chỉ có một nơi, chính là Truyền Hạnh đường của Diệp thị.
Người một dải quanh đầy đều biết, thuốc, ở kho của Truyền Hạnh đường là đầy đủ nhất; đại phu, Diệp lão tiên sinh của Truyền Hạnh đường là tốt nhất.
Ở Truyền Hạnh đường, trừ Diệp lão tiên sinh ra cũng chỉ còn hai vị đại phu ngồi khám bệnh trong y quan là có thể kê đơn, tuy nhiên bất kể hai người họ cần xin khẩn khoản thế nào, Diệp tiên sinh cũng kiên quyết không đồng ý thu nhận bọn họ làm học trò.
Hai vị đại phu này, một vị họ Trương, một vị họ Cảnh, tuổi đều đã xấp xỉ bốn mươi.
Giấy mà bọn họ dùng cũng là giấy Hoa Tiên chuyên dụng của Truyền Hạnh đường.
Phí Khiêm cũng là khách thường xuyên của Truyền Hạnh đường. Mọi người đều biết hắn có một người em gái nhan sắc không tệ nhưng đầy đầu lở loét. Chỉ vì căn bệnh này của em gái, Phí Khiêm tới nơi đây bốc thuốc chưa phải một trăm thì cũng đã chín mươi lần rồi.
Nhưng lần này, tờ đơn thuốc trong tay Phùng Lão Cửu chỉ là một tờ giấy Mai Hoa tùy tiện mua từ một tiệm bán giấy nào đó, chữ trên đó là Triệu thể được viết ngay ngắn mềm mại, bên dưới đề "Lâm Xử Hòa" ba chữ, cũng là một cái tên cực kỳ xa lạ.
"Vị Lâm đại phu này là ai?", Phùng Lão Cửu không nhịn được hỏi.
"Là một đại phu mới tới, vừa khai trương hôm nay", Phí Khiêm thật thà trả lời.
"Vừa mới tới? Sao tôi chẳng nghe ai nói? Có ai tiến cử à?"
Hành nghề đại phu đều phải có người trong nghề tiến cử thì mới có chỗ đứng chân. Người này vừa mới tới, cho dù không muốn chào hỏi đồng nghiệp thì chí ít cũng phải gửi tới một tấm thiếp thông báo một tiếng. Cứ thế ngang nhiên khai trương, há chẳng phải cố ý không thèm để Diệp lão tiên sinh vào mắt sao?
"Tôi không biết, hình như không có", Phí Khiêm đáp.
"Thế thì ngươi không đúng rồi", Phùng Lão Cửu nghiêm mặt nói: "Lẽ nào hắn nói hắn là đại phu thì hắn đúng là đại phu sao? Mấy năm nay những kẻ đi lừa gạt còn ít à? Bọn lang băm giang hồ hành nghề y là thô bỉ nhất, kê một đơn thuốc, ôm tiền vào tay là chạy, nào có quản tới sống chết của người bệnh? Ngươi xem phương thuốc này, đều là vị nặng. Lão đầu này đây bốc thuốc đã mấy chục năm cũng chưa từng nhìn thấy đơn thuốc nào mạnh thế này. Muội muội ngươi mới chỉ là một nha đầu mười ba, mười bốn tuổi, có chịu nổi không? Nếu như thoa vào rồi có mệnh hệ gì, thế thì phải làm sao?".
Ông ta nói một hồi, làm Phí Khiêm cũng bị dọa sợ tới không dám mở miệng. Mãi một lúc sau mới ấp a ấp úng nói: "Không phải chứ? Xem ra hắn còn rất trẻ tuổi. Đại khái là mới hơn hai mươi. Phí khám bệnh lại đòi những mười lượng, không giống bọn lang băm giang hồ đâu!".
"Cái gì? Mười lượng một lượt khám? Thế còn không phải muốn giết người sao? Diệp lão tiên sinh tuổi cao đức lớn, hành nghề đại phu đã mấy chục năm cũng chỉ mới thu ba lượng một lần khám thôi. Người trẻ tuổi muốn phát tài cũng không thể vội vàng đến thế chứ!", Phùng Lão Cửu cực kỳ bực bội, cảm thấy việc này là việc lớn, bèn cầm phương thuốc đi vào trong nhà, xin Diệp lão tiên sinh xem qua.
Phí Khiêm chỉ đành đứng ngoài cửa đợi, tim đập không yên. Trong lòng thầm cảm thấy may mắn vì tên họ Lâm kia không hề thu phí khám bệnh, nếu không số bạc trắng phau kia lại chẳng phải là ném xuống sông xuống biển rồi sao?
Một lúc sau, Diệp Sĩ Viễn từ trong nhà bước ra.
Đó là một lão nhân dáng cao, mặt mũi đầy đặn, ánh mắt bức người, tay vuốt chòm râu, vừa gặp Phí Khiêm liền hỏi: "Phí huynh đệ, vị Lâm đại phu mà ngươi nói sống ở đâu?".
"Vâng, việc này... hắn sống ở ngõ Xuyên Sơn Giáp, kế bên nhà Vạn viên ngoại", Phí Khiêm nói: "Bên cửa có treo một tấm bảng hiệu, viết là Lâm thị y quán".
"Ừm, liệu có thể mời huynh đệ tới trước thông báo một tiếng, nói là có Diệp Sĩ Viễn ta muốn tới nhà thăm hỏi không?"
Phùng Lão Cứu nghe thấy câu này không khỏi sững người. Thăm hỏi? Câu này có phải quá khách khí rồi không?
"Điều này... điều này... hôm nay sợ không được tiện lắm. Hình như hắn đang bệnh rất nặng. Với lại... với lại chân của hắn cũng không được tiện cho lắm... hình như hắn chỉ có một chân, chân kia cũng không thể đi lại được", Phí Khiêm lắp bắp nói.
"Ái chà!', Diệp Sĩ Viễn thầm giật mình.
"Ngài ấy ở một mình, hay là cùng ở với người khác nữa? Có gia quyến gì không?"
"Hắn ở một mình. Theo tôi thấy thì trong nhà không còn ai khác. Lúc bọn tôi đi khỏi, hắn còn đang mê man trên giường, hình như ốm đã lâu lắm rồi, cũng không ai chăm. Bộ dạng... đáng thương lắm."
"Vậy ta càng muốn tới xem xem. Người đâu, chuẩn bị kiệu. Phùng Cửu, ngươi chỉ cần bốc thuốc theo đơn ấy đưa cho hắn là được. Vị Lâm Xử Hòa này có lẽ không phải là một đại phu bình thường đâu."
Chương 39
Kiệu đi lòng vòng bảy tám lượt cuối cùng cũng dừng trước cửa Lâm thị y quán. Diệp Sĩ Viễn xuống kiệu, sai kiệu phu đợi bên ngoài, đích thân bước tới gõ cửa.
Không có ai trả lời.
Chẳng lẽ Lâm Xử Hòa ốm quá nặng? Hay là bất tỉnh nhân sự rồi?
Cửa viện hoàn toàn không khóa, chỉ khép hờ, Diệp Sĩ Viễn chỉ đành đẩy cửa bước vào, phòng khách không có ai, sân viện tĩnh lặng, đang là giờ cơm trưa, vậy mà trong bếp củi lửa nguội ngắt, cảnh vật tuyền một vẻ tĩnh mịch.
Ông ta đi vào phòng trong, lại gõ cửa, lần này thì nghe thấy bên trong vọng ra một giọng nói trầm thấp, kèm theo cơn ho kéo dài, hỏi: "Ai thế?".
"Diệp Sĩ Viễn", ông ta đáp.
“Là Diệp lão tiên sinh?", Mộ Dung Vô Phong đang trong giấc ngủ, đầu óc mơ màng, vừa nghe thấy cái tên ấy thì lập tức tỉnh táo trở lại, nói: "Xin đợi một chút, tôi... tôi lập tức ra đây".
Chàng liền thay áo, ngồi lên xe lăn, ra ngoài mở cửa.
Diệp Sĩ Viễn chỉ thấy một thanh niên mặt mũi xanh xao nhưng tướng mạo cực kỳ anh tuấn, dáng vẻ thanh tú, tay dài, eo thon, thân người ngay thẳng, ngồi trên một chiếc xe lăn tinh xảo. Có vẻ như người này rất sợ lạnh, đang lúc đầu xuân mà thân dưới vẫn đắp một tấm chăn lông.
Diệp Sĩ Viễn cảm tạ ngồi xuống nhìn chàng hỏi: "Lâm tiên sinh không phải người phương bắc?".
"Vâng, vốn chỉ là khách ngụ cư nơi đây, muốn kiếm chút tiền trả tiền thuê nhà mà thôi."
"Nhân tài trung nguyên nhiều không kể xiết, lão phu sớm đã nghe qua. Vừa rồi được xem đơn thuốc của Lâm tiên sinh, cao minh, quả là cao minh, thật bội phục, bội phục."
"Diệp thị mạch độc của Diệp tiên sinh, vãn sinh từng đọc đi đọc lại, quả đúng là tác phẩm lưu truyền hậu thế. Đặc biệt là quyển sáu, quyển bảy về mạch pháp là tinh túy nhất, thật khiến người ta tỉnh ngộ, hôm nay được gặp thật còn gì hân hạnh hơn! Xin mời ngồi, tôi đi pha trà."
Chàng nói câu này, thật trúng lòng Diệp Sĩ Viễn, vốn hai chương ấy là có sáng tạo nhất, ông ta rất lấy làm đắc ý, ngay lập túc cảm thấy tâm đầu ý hợp.
Chàng đẩy xe tới bên lư trà đỏ hồng, bỏ thêm mấy viên than thơm vào rồi đặt ấm trà lên, sau đó dùng nước sạch rửa hai chén trà.
Diệp Sĩ Viễn nhìn chàng hơi cúi mình mà một tay cứ phải nắm chắc lấy tay vịn xe lăn, cử động cực kỳ bất tiện, trong lòng không khỏi thương cảm mà thở dài.
"Vãn sinh nghe nói tiên sinh từ trước tới giờ hành nghề y ở một dải Tần Phượng, sao lại tới nơi này rồi?", Mộ Dung Vô Phong hỏi.
"Ài, thời vận không tốt, số mệnh đa đoan. Đắc tội với quan phủ nên phải chạy tới nơi này. May là những người ờ đây đều là những kẻ từng đắc tội với quan phủ, nếu không phải là một vài chính khách sa cơ thì là dăm tay văn nhân thất ý. Đất này tuy hẻo lánh, lại là đất của phường man di nhưng lão phu lại như cá gặp nước, sống rất thoải mái. Lâm lão đệ quả thật tài cao, ngay đơn thuốc vừa rồi, lão phu nhìn một cái là biết, đó không phải thứ kẻ phàm nhân có thế làm đuọc Chỉ là lão đã ở nơi xa xôi này quá lâu, đối với sự tình trung nguyên càng ngày càng ít biết, xin hỏi lão đệ nhà ở vùng nào, quê quán nơi đâu?", Diệp Sĩ Viễn cười hỏi.
Mộ Dung Vô Phong tinh tường các nhân vật trong ngành y, những người lợi hại dưới gầm trời này, đếm đi đếm lại cũng chỉ có mấy người. Mà ba chữ Lâm Xử Hòa này quả thật quá xa lạ, liền nói: "Vãn sinh nhà ở Giang Đông[1], nhiều đời hành nghề y, lại tuân theo gia huấn, 'thuật nhi bất tác[2]', cho nên chẳng có tên tuổi gì, chỉ là một lang y tầm thường mà thôi".
[1] Giang Đông là một địa danh lịch sử của Trung Quốc, để chỉ khu vực phía đông của sống Dương Tử, còn được gọi là Giang Tả.
[2] Chữ trong thiên Thuật nhi, sách Luận ngữ, nghĩa là chỉ thuật lại thành tựu của cổ nhân mà không sáng tác thêm vào
Diệp Sĩ Viễn gật đầu nói: "Vùng Giang Tả nhiều anh tài, đời nào cũng có danh gia. Tàng long ngọa hổ, không màng danh lợi. Thật chẳng phải điều kẻ thô dã như lão phu có thể tường tận hết được. Đấy gọi là 'Nói theo cái học chính thống, không đem cái học sai trái lòe đời[3]', cái học chính thống của trung nguyên lão phu ngưỡng mộ đã lâu".
[3] Lời trong Nho lâm liệt truyện sách Sử ký của Tư Mã Thiên.
Mộ Dung Vô Phong nói: "Lão tiên sinh không nên tự khiêm. Diệp thị mạch độc tất sẽ lưu truyền y sử".
Diệp Sĩ Viễn hỏi: "Lão đệ sống ở trung nguyên, có từng bái vọng Mộ Dung tiên sinh ở Vân Mộng cốc chăng?".
Mộ Dung Vô Phong đang uống trà, nghe thấy câu này thiếu chút nữa thì sặc, vội vàng nói: "Chưa từng. Vãn sinh đi lại không được thuận tiện, rất ít ra ngoài. Chuyến này... chuyến này đi xa là vì nhận lời mời của bằng hữu”.
Diệp Sĩ Viễn than rằng: "Lão phu rất muốn gặp người này một lần, hỏi xem thiên kế tiếp sách Vân Mộng nghiệm án loại thuyết của anh ta bao giờ mới ra. Chỉ đáng tiếc vài ngày trước lão phu nghe được một tin, nói rằng mấy tháng trước vị này đã đột ngột qua đời rồi. Vân Mộng cốc vì việc này đã cử hành lang lễ cực kỳ long trọng, bạn hữu trong giới Hạnh lâm[4] nghe tin cũng lũ lượt tới phúng viếng. Thật là trời ghét người tài, đáng tiếc, đáng tiếc".
[4] Từ phiếm chỉ cho giới Y học Trung Quốc ngày xưa. Điển xuất phát từ thời Tam Quốc, nước Ngô cỏ một vị y sinh tên là Đổng Phụng. Vị này chữa bệnh cứu người nhưng không nhận tiền cảm ơn. Nếu người bệnh nặng được ông ta chữa khỏi thì sẽ trồng năm cây hạnh, nếu người bệnh không nặng được chữa khỏi, sẽ trồng một cây hạnh. Cứ như thế sau mười năm nơi đó đã có tới mười mấy vạn cây hạnh. Đổng Phụng nhìn rừng hạnh cảm thấy rất vui liền làm một ngôi nhà cỏ ở nơi ấy. Đến khi quả hạnh chín, ông nói với mọi người, ai muốn mua hạnh thì không cần nói với ông, chỉ cần đem một thúng gạo đổ vào kho gạo của ông là có thể lấy một thúng hạnh về. Đổng Phụng đem hạnh đổi lấy gạo rồi lại đem gạo đi cứu tế cho nông dân nghèo khổ. Về sau người ta nói tới “Hạnh lâm" là để ca tụng người làm nghề y. Y đường của Diệp Sĩ Viễn trong truyện cũng nhân đó mà lấy lên Truyền Hạnh đường, ý muốn nói tới việc noi theo y đức của Đổng Phụng mà hành nghề y.
Mộ Dung Vô Phong chỉ đành nói theo: "Đáng tiếc, thật đáng tiếc".
Thầm nghĩ Hà Y khuấy đảo Đường môn đất Thục một trận rồi ôm mình nhảy từ vách đá xuống, chỉ sợ đã có người nhìn thấy. Người ở Vân Mộng cốc cho rằng hai người đã cùng nhau qua đời cũng chẳng phải việc gì kỳ lạ.
Diệp Sĩ Viễn nói: “Lão phu cũng đã phái một tên đồ đệ kém cỏi đi trước rồi, đến được đó đại khái cũng phải mất bốn tháng. Nhân tiện cũng tìm hiểu luôn trong Vân Mộng cốc liệu có còn sách mới nào mà người ấy chưa viết xong không".
Mộ Dung Vô Phong nói: "A... việc này chỉ sợ là không có rồi. Có điều nơi ấy vẫn còn hai vị Sái đại phu và Trần đại phu, cũng rất hay viết sách".
"Đương nhiên, đương nhiên, lão đệ nói tới Sái Tuyên và Trần Sách hả? Trước đây lão phu từng gặp qua tiểu Sái một lần rồi. Tên tiểu tử đó mắt để trên trán, quá mức cao ngạo, phụ thân hắn nói chuyện với lão phu hãy còn vài phần khách khí, hắn nói chuyện thì nửa điểm khách khí cũng chẳng có. Làm ta tức muốn chết. Người trẻ tuổi cậy tài phóng đãng, chẳng có chút khuôn phép nào cả. A, nói thế thôi chứ tên tiểu tử ấy cũng đúng là thông minh thật. CuốnTrừng minh y giải của hắn và Úy phong tam cấp của Trần Sách vẽ mặt ngoại khoa và tạp bệnh cũng xem như rất có kiến giải rồi. Đương nhiên so với mấy cuốn sách kia của Mộ Dung Vô Phong - nghe nói người này còn rất trẻ, cũng tương đương với lão đệ - thì vẫn còn thua xa lắm. Ta thấy hắn cũng chưa tìm được học trò nào thông minh hơn mình, khà khà."
Mộ Dung Vô Phong cũng cười nhạt, cúi đầu không nói năng gì.
Diệp Sĩ Viễn lại nói: "Nghe nói nơi ấy còn có một vị Ngô đại phu rất nổi tiếng về nhi khoa và phụ khoa”.
Mộ Dung Vô Phong đáp: "Vâng, là Ngô Du. Cô ấy cững có viết một cuôn sách".
"Đọc qua rồi, đọc qua rồi, là Ấu khoa tạp luận. Nghe nói Ngô đại phu cực kỳ xinh đẹp, cả đời sùng bái nhất là sư phụ Mộ Dung tiên sinh của mình. Trong lời tựa của cuốn sách ấy, có quá nửa là để dành khen sư phụ của mình, lúc lão phu mới đọc sách ấy còn cho rằng sách này là do Mộ Dung tiên sinh giúp cô ấy viết ra. Ai ai cũng nói sớm muộn gì cô ấy cũng gả cho Mộ Dung tiên sinh, nhưng không biết trước khi Mộ Dung tiên sinh qua đời cô ấy rốt cuộc đã gả cho người hay chưa?”
Mộ Dung Vô Phong thầm lấy làm may mắn vì Hà Y không ở bên cạnh lúc này, nếu không nàng nghe thấy mà để yên cho chàng mới là lạ.
Ban đầu vị Diệp Sĩ Viễn này là danh sĩ vùng Tây Bắc, từ nhỏ đã có tài văn chương, tự thị rất cao, tuy vốn xuất thân từ danh y thế gia nhưng lại yêu thích nghiệp học hành, nhất quyết không chịu lấy nghề y làm nghiệp chính. Không ngờ, khoa cử hắc ám, mấy lần thi chẳng được, lúc ấy mới trong cơn phẫn nộ mà vứt bỏ nghiệp khoa cử, chuyên tâm làm một vị đại phu. Lúc đến nơi này, xa gần trong ngoài, tới một người có thể cùng ông ta bình luận về y thuật cũng không có. Bây giờ gặp được Mộ Dung Vô Phong, thấy chàng là người trong nghề, trình độ cũng chẳng thấp hơn mình thì lập tức cảm thấy như có được tri kỷ, không nén được mà mừng ra mặt, liền đem chuyện trong nghề, những hay dở của sách y, những giai thoại của ngành y bao nhiêu năm nay tích trong lòng không có người để nói mà đàm đạo thảo luận hết với chàng. Cứ liên miên bất tuyệt mãi, nói tới hơn một canh giờ vẫn không sao khép nổi miệng lại. Nếu không phải vì thấy sức khỏe Mộ Dung Vô Phong còn kém, chỉ sợ ông ta đã cùng ngủ chung giường, thắp đèn nói chuyện thâu đêm với chàng rồi.
Mộ Dung Vô Phong thì vốn là một người ít nói ít cưòi, không thích trò chuyện với người xa lạ. Chỉ có ở trước mặt Hà Y mới hoạt bát tự do, dám bầy trò đùa vui. Lúc gặp người trong nghề, chàng lại trở thành bộ dạng nói năng thận trọng, chỉ bàn việc công.
Gần tời giờ thắp đèn, Diệp Sĩ Viễn mới từ biệt, về đến nhà lại nghĩ tới Mộ Dung Vô Phong cô đơn một mình, ốm đau nơi đất khách, không khỏi chạnh lòng, liền vội sai tiểu đồng đem tới một hộp bánh điểm tâm và vài loại thuốc bị phong hàn, rồi lại hẹn chàng ngày sau bệnh khỏi nhất định phải tới Truyền Hạnh đường tụ họp với mấy tên đệ tử của ông ta "trao đổi thân tình". Mộ Dung Vô Phong tuy không thích ồn ào nhưng thấy lão tiên sinh thịnh tình như thế mà bản thân cũng là đêm dài vò võ một mình, thấy thật khó từ chối liền theo hẹn mà tới.
Cứ thế, năm tháng trời loáng cái đã qua. Chớp mắt một cái đã vào đầu tháng Tám. Khí hậu miền Tái Băc mùa này sớm đã nóng chẳng khác gì Giang Nam. Việc làm ăn của “Lâm thị y quán" cũng cực kỳ tấp nập, ngoài cửa lúc nào cùng đông đúc, càng ngày càng bận rộn. Mộ Dung Vô Phong không muốn cướp mối làm ăn của Diệp tiên sinh, thêm vào đó thân thể chàng cũng yếu ớt, không chịu nổi vất vá quá độ thế là cứ hết lần này tới lần khác tăng tiền khám bệnh đẻ giảm bớt bệnh nhân tìm tới. Nhưng chẳng ngờ y thuật chàng quá cao, một truyền mười, mười truyền trăm, chàng đã hô một lần khám sẽ thu năm mươi lượng bạc, thế mà bệnh nhân đợi ngoài cửa lớn vẫn chỉ tăng không giảm, mà tiền vung ra cũng càng lúc càng hào phóng. Cực chẳng đã, chàng dứt khoát dán một cáo thị ngoài cửa lớn, nói rõ bản thân một ngày chỉ khám tối đa là mười bệnh nhân, tuyệt đối không hơn. Ban đầu mọi người đều cho là chàng đang đùa. Tiền khám đã đòi cao như thế, không kiếm thì quá uổng. Không ngờ, sau khi cáo thị được dán lên, khám xong mười bệnh nhân, tuy mới tới trưa, chàng đã đóng kín cửa lớn, mặc kệ người ta ở bên ngoài kêu gào van xin thế nào cũng tuyệt đối không ngó ngàng tới. Tính khí của Mộ Dung Vô Phong thế nào, lúc đấy mọi người mới biết.
Vạn viên ngoại cũng rất hay tới hàn huyên. Thì ra ông ta thấy việc làm ăn của Mộ Dung Vô Phong cực tốt, bèn lập tức mở một quán ăn bên cạnh y quán, rồi lại đem một hậu viện bỏ trống làm một khách điếm đơn giản. Tiền bạc nhờ thế cũng càng ngày càng nhiều. Đối với Mộ Dung Vô Phong lại càng quan tâm hơn, không những để bảo tiêu của nhà mình bảo vệ luôn tòa tiểu viện của Mộ Dung Vô Phong, lại còn ba lần bảy lượt muốn tặng chàng mấy đứa nha hoàn giúp việc.
"Lão đệ, không phải lão ca ta nói đệ. Việc y vụ của đệ rõ ràng bận tối mắt, tới nước cũng không kịp uống, vậy mà bên người đến một đứa coi cửa cùng không có. Cơm ngày ba bữa cũng vẫn là lão đệ tự mình lo liệu, đến việc xách nước, giặt quần áo cũng không chịu để người khác tới giúp. Lão đệ ngươi chỉ cần động ngón tay là một ngày đã kiếm được năm trăm lượng bạc. Đấy vẫn chỉ là thích kiếm thì kiếm không thích thì thôi. Nói ra thật khiến mã tặc ở quan ngoại nhìn muốn đỏ con mắt. Đứa sai vặt đó giá chẳng mấy đồng, năm lượng bạc là có thể mua được một đứa nhanh nhẹn hoạt bát rồi. Ngón tay này của đệ, chỉ vào đâu là nơi đó biến thành bạc trắng xóa, thật đúng là vật quý giá biết bao nhiêu! Vậy mà hàng ngày vẫn cứ dùng để nấu ăn, giặt quần áo. Chân của đệ cũng không được tiện lắm, dịp nọ chẳng phải còn mệt tới mức thở không ra hơi sao. Mấy việc lặt vặt kia cứ để nha hoàn làm, bảo đảm vừa nhanh vừa gọn. Dứt khoát như thế này đi, ta tặng đệ hai đứa nha hoàn, một đứa sai vặt, thế nào? Nha hoàn để giặt giũ nấu nướng, xoa lưng bóp chân. Sai vặt để coi cửa tiếp khách, chạy đi mua đồ. Cũng chẳng phải đệ không nuôi nổi! Ta tặng cho đệ đấy, ngày mai sẽ đưa đến."
Mộ Dung Vô Phong thong thả đáp: “Ý tốt của Vạn huynh, đệ xin nhận nhưng quả thật đệ không cần .
Vạn viên ngoại trố mắt nhìn chàng, khẽ hỏi: "Phu nhân đệ đâu rồi? Lâu lắm rồi ta chẳng thấy cô ấy đâu?".
Mộ Dung Vô Phong nói: "Cô ấy về nhà mẹ đẻ rồi".
Vạn viên ngoại nói: "Có câu này không phải là huynh đệ thân thiết, ta chẳng nói với đệ. Ta có một đứa cháu gái nhà thì bần cùng nhưng rất xinh đẹp. Ta thấy đệ vốn cũng là người đọc sách, lại có thế kiếm tiền, sau này nhất định không đến nỗi để nó chết đói. Ta sẽ đi hỏi giúp đệ nhé? Lấy làm tiểu thiếp?"
Mộ Dung Vô Phong lập tức lắc đầu lia lịa nói: "Không dám, không dám. Đệ trời sinh sợ vợ, lão bà mà biết được sẽ giết đệ mất".
"Ha ha ha... cô nào gả cho đệ, thật sự là có phúc", biết chàng nhất quyết không chịu, Vạn viên ngoại cũng không để bụng liền trêu chọc chàng một trận, cười ha hả rồi rời đi.
Chạng vạng tối, trong trấn đã sớm điểm đèn, nhà nhà khói bếp nghi ngút, thật là một cảnh tượng yên bình. Mộ Dung Vô Phong đã ăn xong cơm tối, tự mình rửa bát, tắm táp rồi nằm ngả trên chiếc giường mềm trước cửa sổ, lặng lẽ ngắm nhìn những đốm sao sáng trong bốn góc song cửa. Hoa trong sân đã nở rộ từ lâu, cây cối xanh tươi, rậm rạp lá, bao phủ xuống trang viện nhỏ một không gian trong mát.
Chàng thong dong nhấp một ngụm trà, thưởng thức đêm hè phương bắc trước giờ hiếm có.
Trong mùa ấm áp chàng luôn tràn trề tinh lực, từ trước tới giờ đa số sách chàng viết ra đều là vào mùa hè. Trong trấn nhỏ lại ấm áp tình người, càng khiến chàng cảm thấy từng ngày trôi qua cũng không hề cô đơn. Đấy là còn chưa nói ông chủ cho thuê nhà của chàng luôn luôn quan tâm tới chàng, chỉ cấn chàng mở miệng thì chẳng việc gì là khó làm cả. Lại cả Diệp Sĩ Viễn nữa, cứ ba ngày hai bữa dẫn theo đám đệ tử tới chuyện phiếm, luận đàm y vụ. Hai người họ khâm phục lẫn nhau, càng nói càng thân, cuối cùng bỏ ra bốn tháng trời, cùng nhau viết một cuốn sách về những dược liệu hiếm gặp vùng Tây Bắc, Mộ Dung Vô Phong kiên quyết muốn dặt tên sách là Truyền Hạnh đường bản mộc tập lục. Tháng trước vừa mới giao bản thảo mang đi in. Mấy ngày trước Diệp Sĩ Viễn đã đem một bản còn thơm mùi mực, trang đầu có đề "Diệp Sĩ Viễn, Lâm Xử Hòa" tới trao tận tay cho chàng, vô cùng đắc ý: "Lâm lão đệ, lần này có lẽ đệ phạm vào gia huấn rồi. Rõ ràng nói 'thuật nhi bất tác', nhưng trong cuốn này của chúng ta thì đã là 'vừa thuật vừa tác' rồi. Lúc về mà để phụ thân đệ nhìn thấy, lại chẳng lấy gia pháp ra giáo huấn một trận sao?".
Nếu như hai người không gặp nhau độ năm ngày, Mộ Dung Vô Phong thì chẳng sao chứ Diệp Sĩ Viễn chắc chắn sẽ cả nghĩ tới phát hoảng, ắt phải tìm một lý do nào đó tới kéo chàng ra quán uống rượu, không thì rẽ vào quán nhỏ ven đường làm vài chén qua loa. Một đám người say túy lúy thêm đồ nhắm nào là lạc, nào là đậu khô, nào lã hạt điều, liền có thể tán chuyện đến khi trời sáng.
Mộ Dung Vô Phong dần dần cảm thấy ở cùng đám người ấy, thời gian trôi qua cũng rất nhanh nên chẳng muốn nghĩ ngợi gì quá nhiều, cười cười nói nói ồn ào, cứ thế qua ngày. Những ngày tháng như thế, trước đây chàng chưa từng trải qua, bây giờ nghĩ lại cũng không đến nỗi tệ.
Chỉ là mỗi khi đêm xuống, người người đã say ngủ, còn chàng thì không tự chủ được cứ nhớ tới Hà Y, mỗi khi nhớ tới nàng, ký ức trong đầu cứ cuồn cuộn trào dâng. Chàng nhớ từng chi tiết nhỏ lúc mình và nàng sống cùng nhau, y phục cùa nàng, ánh mắt của nàng, nụ cười của nàng, bàn tay của nàng... dáng vẻ nàng khi say ngủ, khi ăn cơm, lúc giặt đồ...
Nếu như trong một ký ức nào đó có chỗ mơ hồ, thậm chí chàng còn cố gắng nghĩ đi nghĩ lại nhớ tái nhớ hồi, cho đến khi mỗi một tình tiết trong đầu lại rõ ràng như cũ mới thôi. Có những khi chỉ để nhớ cho được trong sự kiện nọ rốt cuộc nàng mặc chiếc váy nào, khuy áo trên đó là dạng gì, hoa văn thêu ở bên trên hay là bên dưới mà chàng vắt hết cả đầu óc. Chàng như còn sợ mình quên mất, còn vẽ lại nàng trên giấy tuyên, vẽ liền một mạch sáu bức, dán hết lên tường phòng ngủ. Rồi lại sợ để Diệp Sĩ Viễn nhìn thấy sẽ lại nói linh tinh, thế là cố ý vẽ thêm dưới người Hà Y một con hổ hoặc một con báo. Thật ra thần thái trên khuôn mặt Hà Y đã không giống thục nữ, lại tuyệt đối không như Hoa Mộc Lan, mấy kiểu truyền thống như trong các bứcĐấu Miêu đồ, Triển Tú đồ hay Du Xuân đồ đều không sao lột tả hết được thần thái của nàng. Nếu hỏi chàng vẽ cái gì đó, chàng sẽ đáp “Sơn Quỷ".
"Lão đệ à, bức họa Sơn Quỷ này của đệ rất khá nhé! Không ngờ họa pháp cúa tiểu tứ ngươi lại tốt đến thế. Sớm biết như vậy, mấy loại cây thuốc cổ quái trong cuốn sách kia cùa chúng ta đã để đệ vẽ hết. Chữ đề bên cạnh cũng viết rất đẹp. Tặng ta một bức nhé", Diệp Sĩ Viễn vuốt vuốt chòm râu dài, gật gù tán thưởng nói.
"Đây không phải bức tốt nhất, để vãn bối vẽ một bức khác tặng cho người là được", Mộ Dung Vô Phong vội vàng nói.
Đêm hôm ây chàng trằn trọc không ngủ được, trời vừa sáng đã dậy khỏi giường.
Tiết hè oi nóng, trời sáng rất nhanh. Chàng dậy tắm rửa rồi khoác lên một chiếc áo xám, cưỡi lên lạc dà, thong dong đi dạo trên con phố dài.
Tuy bình thường rất ít ra ngoài nhưng tên tuổi của Mộ Dung Vô Phong thì nhà nhà đều biết. Bộ dạng của chàng cũng khác xa người bình thường, cho nên lúc đi trên đường, người nhận ra chàng cũng chào hỏi mà người không nhận ra chàng cũng tới hỏi thăm.
"Lâm đại phu, ra ngoài đi dạo à? Chào buổi sáng!"
Chàng nhìn kỹ một lượt nhưng không nhận ra người đang chào hỏi, chợt cảm thấy cực kỳ xấu hổ, chỉ đành đáp qua loa lấy lệ.
Chàng buông lỏng dây cương, suốt dọc đường đầu óc cứ suy nghĩ vẩn vơ, con lạc đà đã đưa chàng rẽ vào một ngả đường khác. Càng đi càng xa, lúc đầu chàng vẫn không để ý, sau đó mới từ từ phát hiện con đường càng ngày càng thấy xa lạ, không còn nhận ra nữa.
Chàng quay trái quay phái, cuối cùng cũng xác định được muốn quay về phải đi đường nào, có điều con đường ấy bắt buộc phải đi qua khu chợ ồn ào tạp nham kia.
Chẳng thể làm khác, chàng đành theo đám con buôn từ bốn phương tám hướng đổ tới tụ tập đi vào chợ.
Đưa mắt nhìn một lượt, xung quanh đầu người lúc nhúc, đầu kề đầu, vai kề vai, thật là một cánh tượng náo nhiệt, lộn xộn phi thuờng.
Hãy còn may là chàng đang cưỡi lạc đà, ngồi cao hơn hẳn những người xung quanh, nhờ thế mới không đến nỗi bị không khí ngột ngạt nơi đây hun chết.
Chàng theo dòng người tiến về phía trước, rồi mới phát hiện, thật ra đám tiểu thương này vẫn coi là có quy củ, bọn họ đều theo mặt hàng của mình mà đứng vào một chỗ nhất định, để ra một con đường nhỏ cát bụi tung mù mịt trước mặt để khách qua đường và người mua hàng đi lại xem xẻt
Tiếng mời chào đây đó vang lên không ngớt:
"Sữa ngựa mới vắt đây! Sáu văn tiền một bát!"
"Hạt tiêu hảo hạng đất Thục đây, không thơm không lấy tiền!''
"Khách Ngõa Phù đê! Khách Ngõa Phù đê!"
"Rượu Cao Xương đây! Hai lượng năm vò!"
"Đồ trang sức bằng bạc của phường Tân Long đê! Vừa rẻ vừa đẹp, bây giờ không mua ngày mai chẳng còn đê!"
Chàng bật cười, cảm thấy nơi đây tuy chen chúc khó chịu, nhưng cũng không phải là nơi không thế đến.
Mấy tiểu thương này vì một xu tiền mà cũng bằng lòng rã bọt mép thương lượng với khách. Một xu cũng là tiền, một người cố gắng kiếm tiền nuôi gia đình, bất kể nghề nghiệp của anh ta là gì thì đều đáng được tôn trọng.
Sau đó, trong âm thanh ồn ào inh ỏi nơi chợ búa, bỗng có một giọng nói lanh lảnh rất trong, rất rõ cất lên, cứ thế vọng thẳng vào tai Mộ Dung Vô Phong:
"Bánh nướng, bánh nưóng đi, bánh nướng nóng hổi mới ra lò. Đại ca này, huynh mua một cái à? Bánh này có hai lớp đây, bên trong còn nhồi thịt dê, lại còn thêm mười bảy loại gia vị với bơ và tương ớt nữa. Huynh ăn một cái thì cả ngày hôm nay không cần xuống bếp luôn. Rẻ thôi, mười xu một cái. Hai cái tôi lấy huynh mười tám xu."
Mộ Dung Vô Phong vừa nghe thấy giọng nói này, toàn thân chấn động, vội dừng lạc đà lại đưa mắt tìm bốn phía. Chỉ thấy người đông nghìn nghịt, so vai kề lưng, ùn ùn như một con sông bùn chảy vòng qua chàng. Trong không gian vang lên cả ngàn thứ âm thanh: tiếng chào hàng, tiếng lừa, ngựa khít mũi, tiếng lạp xưởng nướng trong lò, tiếng mua bán mặc cả, tiếng kim loại leng keng. Đủ các kiểu âm thanh không gọi tên nổi, tựa như sóng biển cuộn dâng, dội tới người chàng, còn tiếng chào hàng bánh nướng kia thì lại mất tăm không thấy đâu. Một lúc sau, chàng không còn phân biệt nổi rốt cuộc giọng nói ấy tới từ phía trước hay phía sau mình nữa.
Chàng liền nín thở, nhắm mắt, đợi cho giọng nói ấy vọng tới tai mình một lần nữa.
Một lúc sau quả nhiên giọng nói kia lại rao lên: "Bánh nướng! Bánh nướng đi! Bánh nướng nóng hổi vừa mới ra lò đây!".
Mí mắt chàng khẽ động, dòng người chen chúc qua lại bỗng như nhạt đi, xa xa có một bóng người áo xám tựa như nét chấm phá trong tranh thủy mặc, trên nền là khung cảnh chợ búa bụi bặm hiện lên thật rõ ràng.
Mắt chàng lập tức đăm đăm ghim chặt vào bóng người áo xám hãy còn cách chàng mấy trượng kia. Bóng lưng đó lại là của một cô gái thấp béo, dáng vẻ hoàn toàn xa lạ. Từ đằng sau nhìn lại, bụng nàng to tựa như một cái thùng nước vậy.
Nghe thấy giọng nói ấy, cả người chàng kích động tới run lên, gần như sắp ngã khỏi lưng lạc đà. Chàng vỗ lạc đà, từ từ đi tới sau lưng cô gái vẫn đang vô tư buôn bán kia.
Chỉ thấy một tay nàng đỡ lưng, đang vùi đầu vào đếm tiền, đếm xong thì nhét tất tần tật vào túi áo rồi lại rút ra một cái kẹp lớn, gắp từ trong lò ra một cái bánh nướng vừa to vừa dày, lớn tiếng chào hàng: "Bánh nướng! Bánh nướng đi! Bánh nướng nóng hổi đây!".
Có một người đàn ông đi qua trước mặt nàng, nàng liền không do dự kéo hắn lại, nói: "Bánh nướng mới ra lò đây, đại ca, lấy một cái đi! Chỉ có mười xu thôi!".
Nam nhân đó chẳng thèm quan tâm, gạt tay nàng ra, nói: "Ta không mua, đừng có lôi lôi kéo kéo nữa!".
Cô gái mặc kệ, liền tiếp tục kéo một phụ nữ đứng tuổi nói: "Đại tẩu, bánh nướng mới ra lò, mười xu một cái. Xem người tuổi cũng lớn, lấy rẻ đi một chút, trả tám xu là được".
Người phụ nữ đứng tuổi kia nhìn cái bánh nướng, ngẫm nghĩ một lát rồi nói: "Năm xu thì ta mua".
"Năm xu? Thế có phải quá... quá rẻ rồi không? Xem người có lòng, tôi chịu lỗ một chút vậy, cắn răng căn lợi chịu thiệt đấy nhé, bảy xu được chưa", nàng hừng hực khí thế ra giá.
Người phụ nữ đứng tuổi kia liễn quay phắt đầu đi luôn.
"Này... này... đại tẩu, đừng đi chứ. Đưọc rồi, năm xu thì năm xu vậy, tôi bán đấy!", nói rồi nhận tiền, lấy một tờ giấy gói bánh nướng lại bỏ vào trong túi của bà ta.
Mộ Dung Vô Phong cứ nhìn tấm lưng ấy mãi, tới khi cô gái xoay người lại, chuẩn bị găp thêm một cái bánh nướng trong lò ra.
Bụng của nàng rất lớn, xem ra đã mang thai được bảy, tám tháng rồi, mặc trên người một tấm áo thụng rõ ràng là sửa lại từ quần áo cũ, phần bụng bị bó lại, hiển nhiên là rất không vừa người. Thân thể nàng, trừ khuôn mặt ra, những nơi khác trông đã béo hơn ngày xưa tới gấp đôi. Chỉ là thần thái của nàng vẫn nguyên vẻ oai phong hoạt bát. Mái tóc của nàng vẫn dài như cũ, buộc qua loa lại thành một túm, dùng trâm gỗ búi lên mà hình như lâu lắm rồi cũng chẳng buồn gội, bên trên có ám một lớp dầu khói ẩn ẩn hiện hiện. Khuôn mặt tuy bởi sán vào nướng bánh trong lò mà nhễ nhại mồ hôi nhưng vẫn vừa sáng vừa rạng rỡ. Cả người nàng nồng nặc mùi dầu mỡ.
Mộ Dung Vô Phong ngây ngẩn nhìn nàng, gắng sức khống chế nhịp tim mỗi lúc một nhanh của mình, nước mắt như sắp trào ra lại bị chàng ép mình ngăn lại!
“Hà Y”
Giọng của chàng xưa nay rất thấp, vừa cất lên đã bị âm thanh ồn ào xung quanh nuốt gọn nhưng cô gái bụng lớn kia lại lập tức quay người, vừa nhìn thấy chàng thì có chút kinh ngạc rồi liền nở nụ cười, bước tới chào hỏi:
"Xin chào! Mộ Dung Vô Phong!"
Chàng vỗ vỗ lạc đà để nó ngồi xuống rồi lê người lên xe lăn, lăn bánh tới trước mặt nàng, chẳng quản tất thảy, cứ sống chết túm chặt lấy bàn tay đầy dầu mỡ cùa nàng.
"Làm gì thế? Bỏ tay ra đi! Người ta còn phải làm ăn nữa nhé! A! Bánh nướng đây!", nàng muốn rút tay lại nhưng phát hiện tay của chàng dứt khoát nắm chặt lấy tay mình, chẳng chịu buông ra.
"Hà Y... nàng... nàng mang thai từ lúc nào?", chàng ngắm nhìn cái bụng to đùng của nàng, hỏi.
Hỏi vớ vẩn, chàng là đại phu, đương nhiên biết thân hình đó là của người đã mang thai tám tháng rồi. Lúc Hà Y rời khỏi chàng, nàng đã thụ thai hai tháng. Trong lòng chàng tự mắng chửi mình một trận. Lúc ấy chàng chỉ để ý tới việc dưỡng thương, một lòng chỉ nghĩ tới chuyện của mình, nếu không nên sớm nhận ra rồi.
"Thiếp...", Hà Y đang định trả lời, chợt thấy có một người đàn ông tới hỏi: "Bánh nướng bao nhiêu tiền một cái”.
Hà Y đáp: "Mười….”
Mộ Dung Vô Phong đã ngắt lời nàng, quăng một đĩnh bạc cho người kia, nói: "Đây là năm lượng bạc, chỗ bánh nướng này anh lấy hết đi".
Người đàn ông đó trợn mắt há mồm nhìn chàng, trong lòng nhủ: "Vừa cho tiền vừa tặng bánh nướng, thằng cha này nhất định điên rồi. Trên đời còn có việc tốt thế này sao?", rồi lại sợ chàng đổi ý, lập tức đem tất cả bánh nướng dốc hết vào bao của mình rồi co chân chạy biến như gió.
Hà Y tức tối giậm chân, nói: "Mộ Dung Vô Phong, sao chàng lại phá việc làm ăn của thiếp!".
Chàng mặc kệ, lại quay sang hỏi một ông lão bán bánh nướng bên cạnh: "Cái lò này ông có thích không?".
Lão đầu đó nói: "Lò tốt thế này ai mà không thích?".
Chàng liền đưa cho ông ta một tấm ngân phiếu nói: "Tất cả những thứ trong lò đều tặng cho ông hết, tôi còn đưa thêm hai mươi lượng bạc chỉ mong ông nhanh chóng lấy nó đi".
Lão đầu kia nhận lây ngân phiếu, rồi chất lò nướng của Hà Y lên xe đẩy, ba chân bốn cẳng chuồn thẳng.
Hà Y lớn tiếng kêu: “Này! Này! Lão đầu, ông đứng lại! Trả lò của tôi đây!".
Lão đầu kia vừa nghe thấy, lại càng chạy nhanh hơn, thoắt cái đã chẳng thấy bóng dáng đâu nữa.
Hà Y giậm chân, quay lại véo vào vai Mộ Dung Vô Phong: "Mộ Dung Vô Phong! Chàng trúng tà rồi hả? Sao lại bán hết gia sản của thiếp? Sao thiếp cứ gặp chàng là xúi quẩy thế này!".
Mộ Dung Vô Phong bảo: "Tùy nàng nói sao cũng được. Nói cho ta biết, sao nàng... sao nàng...", trong lòng chàng dấy lên một cơn chua xót, hỏi: "Bụng đã lớn nhường này rồi mà vẫn muốn bán bánh kiếm sống sao?".
Hà Y càng ưỡn bụng cao hơn, nói: "Chàng quản nổi à? Từ nhỏ thiếp đã thích bán bánh đấy. Thiếp cứ thích bán đấy!”
Mộ Dung Vô Phong lại nói: "Sao nàng không đi Thọ Ninh? Sao vẫn còn ở đây mà không chịu tới tìm ta? Thời gian vừa rồi... nàng sống ở đâu? Lại phải... lại phải chịu bao nhiêu khổ cực rồi?".
Mộ Dung Vô Phong nhìn nàng, nhẹ nhàng chạm vào cái bụng nhô lên của nàng, cảm thấy rất đau lòng.
"Khổ cực gì đâu? Thiếp thế này chẳng phải rất tốt sao?", lòng nàng lại mềm nhũn, bèn vuốt ve mái tóc chàng, hỏi lại: "Những nơi như thế này trước giờ chàng chẳng bao giờ tới, hôm nay lại lên cơn quái gở gì thế?".
Chương 40
Chàng không lên tiếng, chỉ cứ thế nhìn nàng, một lúc sau mới hỏi: "Nàng sống ở đâu?".
Hà Y cắn môi: "Sao thiếp phải nói cho chàng biết? Có khi chàng cũng chẳng muốn biết".
Mộ Dung Vô Phong cúi đầu, hai tay nắm chặt lấy tay vịn xe lăn, lòng rối như tơ vò, gần như không có cách nào khống chế nổi bản thân.
Mãi lâu sau chàng mới gượng bình tĩnh lại: "Nói cho ta, ta muốn biết".
“Ở ngay bên cạnh khu chợ này."
Chàng nói: "Nàng đưa ta tới đó xem".
"Không nên", Hà Y co chân định chuồn.
Mộ Dung Vô Phong lập tức kéo nàng lại, bàn tay túm chặt cổ tay nàng: "Đi lối nào?".
“Không phải chàng muốn thiếp đi sao? Kéo thiếp làm cái gì? Bỏ tay ra, bây giờ thiếp đi đây", nàng trợn mắt lườm chàng một cái, dùng sức dằng tay ra.
"Muốn đi cũng đuợc, nàng đi tới đâu ta theo tới đấy", chàng lãnh đạm nói, tay càng lúc càng siết chặt.
Đó là một dãy phòng để tiện việc làm ăn mà dựng tạm lên, rất nhiều phòng là để chứa hàng hóa. Trong đó mấy gian trước cửa có mấy cái bếp lò đơn giản, đấy là mấy phòng có người ở. Cửa của những gian phòng ấy đồng loạt quay ra phía chợ, cả ngày đều nghe thấy tiếng chợ búa ỏm tỏi ầm ĩ.
Hà Y mở khóa một trong nhũng gian phòng ấy, rồi đẩy cửa ra, Mộ Dung Vô Phong liền theo nàng tiến vào.
Bởi vì bụng Hà Y bây giờ quá lớn, không thể ngồi trên lưng lạc đà, dọc đường Mộ Dung Vô Phong cũng chỉ đành lăn bánh xe lặng lẽ đi bên nàng, hai người đều đi rất chậm nhưng suốt quãng đường lại chẳng nói với nhau câu nào.
Căn phòng đó rất bé, chỉ có một cái giường gấp, một cái bàn, một cái ghế, tất cả chỉ có thế mà thôi. Cái giường gấp kia, như Mộ Dung Vô Phong ước chừng chỉ miễn cưỡng chịu được thân thể hiện giờ của Hà Y mà thôi, còn như muốn trở mình, chỉ sợ lập tức sẽ lăn xuống đất. Còn cái bàn kia, đặt lên một cái bát, một đôi đũa, hai cái đĩa là coi như chẳng để thêm được cái gì lên nữa. Có điều mỗi một đồ vật trong căn phòng đều được đặt rất chỉnh tề, rất sạch sẽ. Trên cái cửa sổ be bé có treo một tấm rèm màu tím nhạt bên cạnh song cửa còn trồng một chậu hoa nhỏ.
Hà Y ngồi lên giường nói: "Thế nào? Phòng cùa thiếp trông cũng không tồi nhỉ? Ngày nào thiếp củng quét dọn đấy. Xem này, cái này là do thiếp thêu đây! Tiến bộ rất nhanh phải không?", nàng chỉ một đám họa tiết ở góc tấm rèm cửa sổ.
Không biết vì sao, tự nhiên nàng lại bật cười khanh khách.
Chàng ngắm nghía thật kỹ một lượt, cái đám lộn xộn ấy nhìn trái nhìn phải, nhìn thế nào cũng cứ na ná như một bầy gián, chàng mở miệng tán tụng: "Oa, đây là bướm vờn hoa phải không? Thật không tồi nhé! Hà Y, từ lúc nào mà tay nghề thêu thùa của nàng tốt thế này rồi?”
"Ha! Chàng nhìn một cái là nhìn ra liền, nhãn quan thật khá. Vị đại nương phòng kế bên cứ nhất quyết bảo không phải”
“Làm sao bà ta nhìn ra được!"
"Được rồi, Mộ Dung Vô Phong! Thiếp là thêu một bầy gián đấy. Cái cửa sổ ấy lúc nào cũng có gián bò tới bò lui thiếp cố ý thêu một bầy gián để bọn chúng cho rằng đấy là kẻ thù, dọa cho chúng bỏ chạy hết. Lão huynh chàng lại cứ thế mà bảo là bướm vờn hoa, ha...", nàng lại cười tới lăn lê bò toài.
Mộ Dung Vô Phong không nhịn được mà cũng mỉm cười.
Nàng vẫn mang dáng vẻ hài lòng thoái mái, vô tư sảng khoái như trước, cho dù là đang phải ở trong một gian phòng chật hẹp, bức bối thế này.
Một lúc sau, khó khăn lắm mới đợi được Hà Y thôi cười, chàng mới nói: "Hà Y, rốt cuộc là xảy ra chuyện gì rồi? Có kẻ lấy trộm hết tiền của nàng rồi sao?".
Nàng trưng ra vẻ mặt đau buồn khốn khó “Ừm. Bị trộm sạch rồi, đến y phục cũng bi trộm hết nữa”.
"Chỗ ta có tiền, sao nàng... sao nàng không tới tìm ta?"
"Thì chính là cái tối tới tìm chàng thì bị trộm hết đấy."
Đó là một khoản tiền rất lớn, lúc Triệu Khiêm Hòa giao cho nàng có nói đây là trích từ phí khám bệnh mà Mộ Dung Vô Phong thu khi trước. Từ bé tới giờ chưa khi nào được cầm nhiều tiền như thế, nên đương nhiên cũng chưa bao giờ đánh mất lắm tiền như vậy. Cứ nghĩ tới đây, trong lòng cực kỳ khó chịu, không khỏi lắp ba lắp bắp kể: “Hôm đó, người ta... người ta lén lút quay lại thăm chàng, thấy chàng cả người nóng rực, đem chàng... đem chàng ngâm xuống nước chàng cũng không tỉnh lại... vật vã hết đêm, khó khăn lắm mới qua cơn sốt. Người ta... người ta về tới khách điếm thì đã chẳng còn gì nữa. Cả bọc đồ đều bị trộm sạch. Chàng nói xem, tên trộm đấy sao vô lương tâm đến thế…”.
Mộ Dung Vô Phong cắn chặt răng, cảm thấy phiền muộn, một lúc sau lên tiếng: "Đấy là việc ngày thứ hai sau khi nàng đi. Đã từ biệt xong xuôi rồi, sao nàng còn không đi.. sao vẫn còn muốn tới quan tâm đến ta?".
Hà Y nói. "Rõ ràng chàng bảo thiếp đi rồi trong lòng chàng mới cảm thấy dễ chịu, vậy sao khi thiếp đi chàng lại uống rượu? Lại còn uống tới say mèm? Thân thể chàng… thân thể chàng như thế này có thế chịu được kiểu uống đấy sao?".
Mộ Dung Vô Phong nói: "Đêm hôm đó nàng... nàng cũng vẫn...".
Hà Y nói: "Người ta lôi chàng đang ngay đơ như xác chết tới cống khuất để chàng nôn thốc nôn tháo... rồi lại trông chàng mấy canh giờ, chàng khá hơn được một chút, vừa mới tỉnh lại thì liền đi tìm chủy thủ[1]. Thiếp càng nhìn càng tức, chán chẳng buồn để tâm đến chàng nữa, liền quăng chàng trở lại dưới đất".
[1] Chủy thủ: Kiếm ngắn hoặc dao găm.
Mộ Dung Vô Phong nói: "Được rồi, Hà Y, thì ra nàng lúc nào cũng tới thăm ta nhưng lại... không để ta biết. Con người nàng bị làm sao thế? Sao đuổi cũng không đi vậy?".
"Chàng còn nói nữa!"
“Lẽ nào nàng định một mình sinh đứa con này?"
"Thế thì có gì đáng ngạc nhiên? Lẽ nào thiếp không sinh được chắc?", nàng ngẩng đầu, trợn mắt nhìn chàng.
"Nàng...", chàng cứng lưỡi.
"Thôi được rồi, chàng gặp thiếp rồi, mọi người đều là người quen biết cả, cũng hàn huyên xong rồi, chàng về đi thôi. Vừa rồi chàng phá việc làm ăn của thiếp, ngày mai thiếp còn phải đi mua lò mới. Tiền ấy chàng phải đền cho thiếp, hai mươi lượng", nàng đứng dậy khỏi giường, bộ dạng như muốn tiễn khách.
"Hà Y, nàng còn muốn làm tiếp sao?"
"Sao lại không làm? Bánh nướng thiếp làm bán khắp Tiểu Giang Nam, là bánh nướng ngon nhất xứ này. Lần sau chàng đến, thiếp sẽ bán cho chàng một cái nếm thử, giảm giá một xu."
Chàng chẳng nói chẳng rằng, kéo tấm khăn trải giường của nàng ra, đem mấy thứ quần áo đồ dùng để ở đầu giường tất cả cuốn vào thành một bọc, buộc thành một túi hành lý.
"Này, chàng làm cái gì đấy? Đem y phục của thiếp đi đâu thế? Người ta ngày mai còn phải mặc đấy nhé!"
Chàng chẳng thèm để ý tới nàng, ra ngoài thuê một cái kiệu tới.
"Lên kiệu đi", chàng bảo nàng.
"Đi đâu?"
"Đi về nhà.”
“Hả, việc này... bảo đi thì đi, bảo về thì về, Hà Y thiếp chẳng phải quá mất mặt sao?", nàng ấm ức lớn tiếng kêu.
"Ngồi xuống trước đã", chàng vỗ vỗ đầu nàng: "Đâu ra lắm lời thế”.
Hà Y sợ nhất là bị chàng vỗ vào sau đầu, vỗ một cái là liền mất hồn ngay.
Nàng cười một cái, cúi đầu xuống ngoan ngoãn ngồi lên kiệu.
Lúc cỗ kiệu nhỏ tiến vào Lâm thị y quán, trời đã sáng rõ. Tranh thủ bệnh nhân còn chưa tới, Mộ Dung Vô Phong vội vàng treo ngoài cửa tấm biến gỗ "Đóng cửa ba tháng" rồi đun một thùng nước nóng, xắn tay áo lên, chẳng nói chẳng rằng tắm rửa cho Hà Y.
Gội ba vòng, mái tóc dài bị khói dầu mỡ hun cho khô cứng của nàng cuối củng mới lộ ra vẻ sáng bóng.
Hà Y nói: "Thật ra tự thiếp có thể tắm..”.
Mộ Dung Vô Phong hạ lệnh: "Ngồi yên không được động đậy", nói xong chàng bắt đầu cọ rửa thân thể nàng, kỹ lưỡng từng li từng tí, cứ như thế nàng là cây củ cải mới lôi từ trong bùn ra vậy.
"Chàng thật sự giết hai người đó rồi sao?" nghi vấn này đã lưu lại trong lòng rất lâu, bây giờ nàng mới dám hỏi.
"Không", chàng nhạt giọng nói.
“Tại sao?", nàng có chút kinh ngạc nhưng có vẻ như câu trả lời này vẫn nằm trong dự đoán. Mộ Dung Vô Phong bình thường chẳng thể giết người nhưng lúc phẫn nộ thì khó nói rồi. Còn như giết người bất kể thủ đoạn, chỉ sợ chàng giết một người còn nhanh hơn Hà Y.
"Bất kể thế nào bọn họ cũng xem như từng cứu nàng. Lần đó nàng từ trên vách núi nhảy xuống, bọn họ…bọn họ còn chuẩn bị một chiếc thuyền bên dưới..."
Nàng khẽ cười, không nói gì.
"Bọn họ thực sự muốn đi Thiên Trúc sao?"
"Chí ít trước khi đi bọn họ đã nói với ta như thế."
"Vậy có phải chàng đã tha thứ cho bọn họ rồi không?"
Chàng đáp: "Không hề, ta chỉ muốn nhanh nhanh quên bọn họ đi mà thôi".
"Chàng còn đau lòng không? Vì chuyện của cha mẹ chàng ấy?"
Chàng thở dài, lắc đầu: "Nỗi thống khổ của hai người ấy đã theo cái chết của bọn họ mà biến mất rồi. Người còn đang sống không nên vì những chuyện đã qua mà cảm thấy quá nặng nề”.
"Cái chàng cảm thấy nặng nề không phải chuyện đã qua mà là chính chàng", không biết tại sao, nàng cũng thở dài theo.
"Con ốc sên ta đây, có phải đã thò đầu khỏi vỏ rồi không?", chàng cười khổ.
“Lão huynh, đời người vừa khổ vừa ngắn mà", lần này tới phiên nàng vươn tay vỗ vỗ vào gáy chàng.
"Tắm xong rồi, ta bế không nổi nàng, nàng tự mình trèo ra khỏi thùng đi", chàng vội vàng đổi chủ đề.
Chưa dứt lời Hà Y đã tay chống mép thùng, chớp mắt một cái đã từ trong thùng nhảy ra. Tuy bụng nàng rất to nhưng nhảy vẫn rất cao, rất nhanh, lúc tiếp đất cũng nhẹ nhàng hệt như lông vũ.
Chàng bị dọa tới mặt mũi trắng bệch, vội vươn tay ra đỡ lấy eo nàng, nói “Thời gian này không cho phép nàng dùng khinh công".
"Biết rồi”, nàng thè lưỡi.
Hà Y nằm trên chiêc giường mềm, trên người đắp một lóp chăn mỏng. Mộ Dung Vô Phong cầm lược lên, giúp nàng chải mái tóc dài cho chỉnh tề ngay ngắn, sau đó dùng một sợi vải buộc lại, đặt sang một bên.
"Bây giờ đã thoải mái hơn chưa?", chàng ngồi bên giường, nhìn nàng, cười nhẹ.
“Ừm”, nàng kéo tay chàng đặt lên má mình, gật đầu.
"Có khát không? Ta đi pha trà cho nàng."
"Thiếp đói..."
"Chết thật, vẫn chưa ăn cơm sáng. Ta đi rán trứng."
"Không ăn trứng rán, thiếp muốn ăn bánh rán."
"Quán rượu bên cạnh có bán, ta đi mua đây. Có muốn uống trà sữa không?"
"Muốn…”
Lúc chuẩn bị đi, chàng còn dứt khoát hỏi lại: "Hà Y, nàng sẽ không nhân lúc ta ra ngoài mà chuồn đi chứ?".
"Không đâu..."
"Chắc chắn không chứ?"
"Chắc chắn”
"Nàng ngẩng đẩu lên", chàng chỉ một cái xà nhà cách đỉnh đầu nàng không xa nói: "Có thấy cái xà gỗ kia không?".
"Thấy rồi”
"Nếu như nàng lén chuồn đi, ta sẽ treo cổ ở đấy."
Chàng quăng ra câu ấy rồi đẩy xe lăn đi ra.
Phòng của Mộ Dung Vô Phong trang nhã sạch sẽ dễ chịu hệt như con người chàng vậy. Trên một cái bàn con không bắt mắt phía xa xa còn đặt mấy cuốn sách, mấy cây bút trên giá gỗ tử đàn tuy thường dùng cũng vẫn sạch như li như lau.
Bàn ghế lúc nào cũng được lau sạch không dính một hạt bụi, chăn gối trên giường cũng ngay ngắn chỉnh chu. Cho dù là chăn màn trong khuê phòng của con gái có lẽ cũng chẳng được ngăn nắp quy củ như phòng của chàng.
Căn phòng này tuy không rộng, nhưng để quét dọn một lượt chỉ sợ chàng cũng phải toát hết mồ hôi.
Nàng không khỏi bật cười. Người này làm sao thế nhỉ? Rõ ràng cử động không tiện, vậy mà cứ thích bỏ thời gian làm mấy thứ việc nhà vặt vãnh này. Chẳng biết rằng, để giữ thói quen sạch sẽ của bản thân, từ trước đến giờ Mộ Dung Vô Phong chẳng ngại phiền hà.
Chàng lại sợ người khác cho rằng mình không thể lo liệu cho bản thân nên càng làm hăng hái hơn.
Nếu có ai bảo chàng mệt, chàng sẽ chống chế nói chàng thích thế, thế mới vui.
Tóm lại, chàng có chút tự gây khó dễ cho bản thân.
Hà Y đang nằm trên giường nghĩ ngợi vẩn vơ, Mộ Dung Vô Phong đã bưng một cái khay tiến vào, đem bữa sáng đặt lên cái bàn nhỏ cạnh giường.
Nàng rất ít khi thấy chàng cười, cho dù là chàng đang rất vui cũng rất ít khi cười, nhưng tâm tình của chàng thì Hà Y có thể lập tức cảm nhận dược.
"Ăn nhanh cho nóng", chàng đỡ nàng ngồi dậy, còn kê thêm sau lưng nàng hai cái gối.
Nàng hít một hơi thật sâu, bắt đầu hưởng thụ một bữa sáng ấm áp đời này khó có được.
Trà sữa thơm nồng, bánh rán đã được cắt thành miếng nhỏ, vừa thơm vừa giòn.
Chàng cứ thế lặng lẽ ngắm nhìn nàng, không nói năng gì.
"Có ngon không?", qua một lúc, thấy nàng đã chén sạch những thứ trên khay, chàng mới hỏi.
"No chết đi được", nàng cười.
"Hà Y, ta sai rồi", chàng đột nhiên ôm lấy nàng, một tay khe khẽ vuốt ve bụng nàng.
"Đứa bé này… bất kể… bất kể như thế nào, sau này nó cũng có thế tìm thấy hạnh phúc của riêng mình."
"Vô Phong... chàng chớ có dọa thiếp. Vừa rồi lúc tắm rửa, chàng cứ sờ mạch của thiếp mãi. Có phải đứa bé này có chỗ nào không ổn không?", mặt nàng lập tức biến thành tái nhợt: "Nó ở trong bụng rất ngoan, không… không quấy nhiễu".
"Đó là con gái", chàng khẽ nói: "Nàng đừng lo".
Tay chân nàng chợt run bắn, lo lắng nhìn chàng hỏi.
"Nó sinh ra rồi liệu có...?”, nàng thấp thỏm lo lắng hỏi.
"Không đâu", chàng cười, dịu dàng an ủi nàng: “Con bé sẽ rất khỏe mạnh”.
Thật ra trong lòng chàng cũng chẳng chắc chắn chút nào. Đứa bé chỉ khi sinh ra rồi mới có thế biết duợc.
Nàng bán tín bán nghi nhìn chàng, nghĩ ngợi một lát lại sợ khơi lên tâm sự của chàng, liền nói: "Bất kể thế nào, chí ít con bé cũng được sống", nói xong lại vui phơi phới lấy từ trong túi đồ ra mấy bộ đồ bé xíu nàng học theo vị đại nương sống bên cạnh may ra, nói: "Chàng xem này, để con bé mặc có dễ coi không?",
Trên cái áo bé xíu màu trăng rằm có thêu mấy bông hoa nho nhỏ, ống tay áo bên trái, bên phải xem ra cũng không may nhầm. Đường kim nét chỉ vừa nhỏ vừa khít, so với "bầy gián" trên rèm cửa sổ kia cũng đã tiến bộ rất nhiều rồi.
Sau đó nàng lại rút ra hai đôi giày vải với bít tất chỉ nhỏ bằng nửa lòng bàn tay, đắc ý nói: "Còn đây nữa, cũng là do thiếp làm đấy".
Bởi vì không biết là nam hay nữ, trên một đôi thêu hình con hổ, đôi kia thêu hình con mèo. Nhưng khác biệt giữa chúng, đại khái cũng chỉ có mình Mộ Dung Vô Phong là có thể nhận ra.
Chàng ngắm nghía chúng, chợt cảm thấy đầu óc choáng váng từng đợt từng đợt.
"Chàng làm sao thế?", nàng vội vàng đỡ lấy chàng.
"Không sao", chàng cố bình tĩnh nở nụ cười, nhưng tim lại vô cớ đập thình thịch loạn lên.
"Thuốc ở đây này", nàng đưa mấy viên thuốc vào miệng chàng, lấy cho chàng cốc nuớc.
"Đừng lo lắng, sẽ không sao đâu", nàng nắm lấy tay chàng.
Đến trưa, chàng ở bên giếng giặt đồ nàng thay ra ban sáng. Nàng nhìn chàng vất vả chật vật múc nước khỏi giếng.
"Đứng yên một bên, ở đây không có việc của nàng", Mộ Dung Vô Phong không để nàng nhúng tay giúp.
Lúc giặt xong y phục, Hà Y chợt ôm chặt lấy chàng, lớn tiếng kêu lên: "Vô Phong, chúng ta sẽ không rời xa nhau nữa!", nói xong liền mặc kệ tất thảy mà hôn chàng.
Ngày hôm đó khí trời trong lành, gió mát nắng vàng. Hoa trong vườn nở rộ, ve kêu râm ran khắp nơi. Trận mưa lớn đêm hôm trước đã rửa sạch lớp đá xanh lát sân tiểu viện.
Hai người hôn nhau đắm đuối như mê như say rất lâu, hôn tới khi gần như ngạt thở mới chợt nghe thấy có người hắng giọng bên cạnh.
Đôi môi hai người vội vàng rời nhau, quay lại nhìn đã thấy Diệp Sĩ Viễn dẫn hai học trò đứng ở cửa viện. Cửa không hề khóa, ông ta lại thường qua lại, nhân vì Mộ Dung Vô Phong cử động không được tiện nên cũng lười chẳng buồn gọi cửa, cứ thế đẩy cửa đi vào, nhìn thấy cảnh vừa rồi, đã định tránh đi nhưng không được, chỉ đành hắng giọng một tiếng.
Khuôn mặt Hà Y lập tức đỏ lựng lên.
Diệp Sĩ Viễn tươi cười không nói năng gì.
Mộ Dung Vô Phong tính vốn hướng nội, trước mặt nhiều người thì nói rất ít, cũng chưa từng nhắc tới Hà Y với bọn họ. Mọi người chỉ cho rằng chàng vẫn còn trẻ, vẫn chưa lấy vợ. Bây giờ lại thấy chàng ôm một cô gái bụng đã to vượt mặt thì đều cực kỳ kinh ngạc, nhất thời ngây đơ hết cả ra, mãi lâu sau Diệp Sĩ Viễn mới đột nhiên tỉnh ngộ, hớn hở nói: “Vị cô nương này hẳn chính là Sơn Quỷ mà lão đệ ngươi hay vẽ rồi...".
Mộ Dung Vô Phong có hơi lúng túng nói: "Đây là thê tử tôi... nàng mới quay về".
Hi Y đã sớm biết đấy là Diệp Sĩ Viễn, vội nói: "Mời các vị vào nhà ngồi. Thiếp đi pha trà”, nói xong, mặt mũi đỏ lừ, chuồn êm như khói xuống nhà bếp.
Thấy vợ chồng họ đoàn tụ, Diệp Sĩ Viễn không dám làm phiền lâu, nói vài câu, uống mấy ngụm trà liền cáo từ ra về. Chẳng bao lâu sau, lại sai gia nhân đem đến tặng một hộp điểm tâm, mấy súc lụa. Ông ta quả nhiên là người tinh ý, thấy Hà Y mặc áo bào trắng của Mộ Dung Vô Phong đi tới đi lui thì biết nàng không đủ quần áo dùng, liền vội sai người đi mua về tặng.
“Vị Diệp tiên sinh này đúng thật là đối đãi nhiệt tình.'', lúc Mộ Dung Vô Phong cùng nàng thong thả tản bộ trong sân viện, Hà Y thốt lên.
“Trong nghề này của ta, người tốt đặc biệt nhiều", chàng cười nói.
“Cố Thập Tam có thường lui tới không?", nàng hỏi.
"Thỉnh thoảng huynh ấy có đưa Tiểu Phó tới. Chuyến hàng lần đó, người Ba Tư kiếm dược không ít. Mùa hè này bọn họ nghỉ ngơi. Huynh ấy vẫn thường hỏi nàng, còn nói muốn đi Thọ Ninh tìm nàng so kiếm nữa."
"Người này liệu có gàn dở quá rồi không? Giờ này thiếp nào có tâm trạng ấy đây", nàng nắm tay chàng, khẽ trách.
Hoàng hôn xuống, Mộ Dung Vô Phong làm cho nàng món thịt kho tàu nàng thích ăn nhất.
Đến tối, trời đêm giăng đầy sao, hai người ngồi bên giếng hóng mát, chuyện phiếm.
Trấn nhỏ xa xa, đường phố mờ tối, trong đêm khuya, tất cả dường như đều đã ngon giấc.
Uống hết tách trà cuối cùng, hai người tay nắm chặt tay, cùng chìm vào mộng dẹp.
Thời gian hạnh phúc thường trôi rất nhanh, chớp mắt đã qua hai tháng, đúng hai hôm trước ngày Hà Y lâm bồn, nàng đột nhiên biến mất.
"Chàng đừng đi tìm thiếp, thiếp ở trong trấn. Đợi sinh con xong sẽ quay về. Thiếp nhất định sẽ bình an."
Đây là mấy chữ nàng lưu lại. Nàng biết, nếu để Mộ Dung Vô Phong ở bên cạnh mình, vạn nhất đứa trẻ có mệnh hệ gì, chàng nhất định sẽ chịu không nổi.
Thấy mấy hàng chữ này, Mộ Dung Vô Phong lo tới sắp phát điên. Trấn này thật ra không hề nhỏ, tính ra cũng phải trên vạn hộ. Còn Hà Y thân hình nhỏ nhắn, sinh con chỉ sợ sẽ không được thuận lợi, trước đây chàng không dám nói, sợ nàng hoảng sợ. Chàng cũng không dám đi đâu, nếu Hà Y xảy ra chuyện, nàng nhất định sẽ nhờ người tới tìm chàng. Cho nên chàng chỉ có thể một mình quanh quẩn trong nhà. Cứ như thế không ăn không ngủ, lòng lo như lửa đốt đợi hết một ngày một đêm mà cũng chẳng có lấy chút tin tức.
Chắc là nàng vẫn chưa sinh đâu. Chàng tự an ủi bản thân.
Tới sáng sớm hôm sau, chàng nghe thấy ngoài cửa có tiếng ngựa phi, đến cổng nhà chàng thì dừng phắt lại. Chàng đang đợi ngay cửa, thấy người bước vào lại chính là Cố Thập Tam.
"Hôm nay huynh có việc gì cũng chớ tìm đệ, đệ không rảnh”, Mộ Dung Vô Phong nói.
Cố Thập Tam lập tức lôi chàng đặt lên yên ngựa, nói: "Muội ấy sinh khó, suốt một ngày rồi mà đứa bé vẫn chưa ra".
Nói rồi vung roi thúc ngựa phi như bay đưa chàng tới một trang viện yên tĩnh.
Vừa mở cửa, chàng đã nghe thấy tiếng rên la của Hà Y.
Nang mồ hôi đầm đìa, ánh mắt tán loạn, sớm đã bị hành cho chẳng còn sức lực nữa.
Hai bà đỡ ở cạnh nàng, một người đang giữ chân nàng, người kia đang ra sức ép nàng rặn đẻ.
"Mộ Dung Vô Phong! Tôi muốn gặp Mộ Dung Vô Phong!”, nàng đột nhiên hét lên: "Mộ Dung Vô Phong!".
Chàng vội xông đến, nắm lấy bàn tay đang khua khoắng loạn xạ của nàng.
"Hà Y, nàng đừng sợ, ta ở đây", chàng bình tĩnh nói.
"Liệu thiếp có chết không?", nàng khóc lóc hỏi: "Thiếp không muốn chết... chàng mau cứu thiếp! Mau cứu đứa bé!".
"Có ta ở đây, nàng không thể chết được", chàng bình tình nói, vừa nói vừa nhúng tay vào chậu nước sạch rửa tay.
"Thiếp không muốn giống mẹ chàng... như thế... có điều, nếu thật sự thiếp không xong, chàng cũng... chàng cũng giết thiếp đi!", nàng thấp giọng nói, mắt từ từ khép lại.
Chàng lay nàng thật mạnh, nói: "Hà Y, nàng tỉnh táo lại chút đi. Mẹ ta... nếu lúc ấy bên cạnh người có một đại phu, dù chỉ là đại phu bình thường nhất, bà ấy cũng sẽ tuyệt đối không chết thảm như thế. Tin ta đi, con cũng sắp ra rồi. Hít vào nào, nghỉ ngơi một lúc, đợi ta bảo rặn thì nàng cố găng rặn một lần cuối cùng. Một lần là đủ rồi, hiểu chưa?", nàng nhìn dáng vẻ bình tĩnh của chàng, gật đầu, chợt cảm thấy lại có thêm lòng tin.
Mộ Dung Vô Phong châm cho Hà Y hai châm, giảm đi một chút đau đớn, giúp nàng khôi phục lại chút sức lực, hai tay nhẹ nhàng xoa đẩy khoảng một nén nhang, sau đó nói: "Rặn đi!".
Nàng nín thở, dùng sức, bỗng nhiên cảm thấy người nhẹ bẫng...
“Oa…”, Mộ Dung Vô Phong cắt dây rốn, vỗ cho đứa bé một cái, đứa bé liền khóc rống lên một cách khỏe mạnh.
Hà Y hồi hộp nhìn Mộ Dung Vô Phong.
Chàng ôm lấy đứa bé, không nói năng gì chỉ nhìn trái nhìn phải.
Hà Y run rẩy hỏi: "Nó... nó vẫn ổn chứ?".
Mộ Dung Vô Phong tươi cười thốt lên: "Tốt quá rồi!".
"Cười ngốc nghếch gì thế! Chàng mau xem xem chân con bé...”, nàng không yên tâm nói.
"Con bé đang ra sức dùng chân đạp ta đấy", lúc nói câu này, mắt chàng đã hồng lên: "Hà Y, vận khí của chúng ta rốt cuộc cũng không quá tệ", chàng bọc đứa trẻ vào một tấm chăn, đưa tới trước mặt nàng: "Nó lớn lên chắc chắn sẽ rất giống ta"
Hà Y vui vẻ nói: "Giống chàng là tốt. Giống thiếp thì hỏng bét chàng trông dễ coi hơn thiếp nhiều. Thiếp thì có hay gì đâu, đi đến đâu người ta cũng cho rằng là một đứa nha hoàn".
“Cho ta ngắm với", Cố Thập Tam không biết đã lẻn vào từ bao giờ, cũng tới nhìn đứa bé, ngó trái ngó phải.
"Ngó cái gì? Còn chưa tìm huynh tính sổ nhé! Có phải huynh đưa Hà Y tới chỗ này không?'', Mộ Dung Vô Phong hỏi.
"Hà Y, muội đồng ý tỉ kiếm với ta rồi đấy nhé!", Cố Thập Tam quăng lại một câu rồi vội vàng chuồn mất.
"Cố đại ca đi thong thả", Hà Y gọi với theo một tiếng.
Cứ thế hai người cùng đứa con ở lại Tiểu Giang Nam thêm nửa năm, rồi được Cố Thập Tam và Tiểu Phó hộ tống, trở về Vân Mộng cốc xa cách đã Iâu. Cho tới lúc ấy, bọn họ rời Vân Mộng cốc đã gần hai năm rồi.
Người đầu tiên gặp Mộ Dung Vô Phong là Triệu Khiêm Hòa, hôm đó ông ta đang ở cửa lán tiếp đãi các thương nhân buôn thuốc như lúc thường. Khi Mộ Dung Vô Phong tiến vào cửa, ông ta còn cho rằng chàng mượn xác hoàn hồn, một người đã hơn năm mươi tuổi, lại kích động tới mức tay chân múa loạn lên, phải uống liền hai cốc nước mới bình tĩnh lại nổi.
Tất cả người trong cốc đều vì tin tức tốt lành trên trời rơi xuống này mà kinh ngạc, mừng rỡ như phát điên.
Tất cả các quán rượu trong Thần Nông trấn ngày hôm đó cũng vì tin ấy mà giảm giá tất cả món ăn còn một nửa.
Vân Mộng cốc không thay đổi gì nhiều, trước đây Mộ Dung Vô Phong vẫn thuờng hay sinh bệnh, mọi người sớm đã quen với những ngày tháng cốc chủ "vắng mặt". Ai nấy đều theo chức trách của mình mà làm việc, hai năm nay, bọn họ chỉ coi như Mộ Dung Vô Phong lại đang ốm nặng mà thôi.
Ngày hôm sau, Mộ Dung Vô Phong gọi Triệu Khiêm Hòa tới thư phòng cùa mình nói: "Ta với Hà Y tuy đã thành thân nhưng vẫn chưa làm một bữa chúc mừng cho ra trò, tối nay ta muốn mời mọi người cùng uống một trận, náo nhiệt một phen.”
"Việc này là đương nhiên! Bây giờ thuộc hạ lập tức đi an bài, bảo đảm cốc chủ hài lòng", Triệu Khiêm Hòa gật đầu dứt khoát
Không ngờ, câu tiếp theo của Mộ Dung Vô Phong mới thật là nan giải:
"Có điều ta với Hà Y đều không thích ồn ào. Cho nên bữa này các vị cứ thoải mái ăn uống, hai nguời bọn ta không tham gia đâu."
Triệu Khiêm Hòa nói; "Việc này có khi không ổn, rõ ràng là cốc chủ với phu nhân mời khách... chủ nhân lại không lại...”.
Mộ Dung Vô Phong nói: "Cứ như thế đi, những việc còn lại, ông tự nghĩ cách lo liệu”.
Chàng đã lại trở về dáng vẻ ngày trước rồi.
Đêm hôm đó, tất cả đèn lồng đều đổi thành màu đỏ. Bên ngoài Trúc Ngô viện là cảnh huyên náo ồn ào hiếm có.
Lại một đêm giữa hè trời trong gió mát.
"Tử Duyệt đã ngủ rồi sao?", Mộ Dung Vô Phong khe khẽ hỏi.
Con gái hai người được đặt tên là Mộ Dung Tử Duyệt
Hà Y gật đầu.
Cô bé mặc một cái yếm màu tím, đầu ướt đẫm mồ hôi, đang ngủ rất say sưa. Đứa bé còn rất nhỏ, da dẻ trắng bóc, bộ dạng cực giống Mộ Dung Vô Phong.
Cô bé có một nhũ mẫu gọi là Phượng Tẩu. Lúc Hà Y có việc, con sẽ do Phượng Tẩu chăm sóc.
"Ra ngoài đi dạo không?’, Hà Y giao đứa bé cho Phượng Tẩu, chợt quay sang hỏi chàng.
Mộ Dung Vô Phong gật đầu, Hà Y liền đẩy xe cho chàng, hai người thong dong tản bộ tới cửu khúc kiều.
Tòa tiểu đình giữa hồ vẫn còn nguyên, chỉ là đã đổi hết rèm mới.
Hương hoa sen thơm ngát mặt hồ, tiếng sóng xa xa vang vọng.
“Ngày hôm ấy, chàng xuống thuyền ở đây sao?", nàng đưa chàng tới tiểu đình, cười hỏi.
Nàng vịn lan can ngó xuống.
"Đã nói không nhắc tới việc ấy nữa mà?", chàng không vui nói.
“Lạ thật, lúc ấy chàng làm thế nào mà xuống đó được? Chỗ này vừa trơn vừa dốc như thế?", nàng cứ tiếp tục truy hỏi.
"Chống nạng đi xuống thôi", chàng đáp.
"Mộ Dung Vô Phong, chỗ này vừa hay có một chiếc thuyền", nàng đột nhiên chỉ xuống bên dưới, vui vẻ nói.
Trên chiếc thuyên ấy còn thắp hai cái đèn lồng màu đỏ, bên trong có trải chăn lông với đệm da, lại còn có cả một lò sưởi than đỏ hồng.
Chàng vừa nhìn thấy thì sững người, lắp ba lắp bắp hỏi; "Hà Y... nàng nghịch ngợm gì thế? Chỗ này từ lúc nào lại có một chiếc thuyền rồi?".
“Thiếp không nói cho chàng biết đâu! Thiếp muốn xuống thuyền đi chơi", nàng tung người khẽ nhảy một cái, lộn một vòng trong không trung rồi nhẹ nhàng đáp xuống thuyền.
Mộ Dung Vô Phong đuổi theo, kêu lên: "Nàng lên đi! Chiếc thuyến đó... không biết là có chắc hay không".
Hà Y ngồi xuống đầu thuyền, cười khanh khách nhìn chàng.
Chàng chỉ đành rút nạng ra, tựa lên lan can chật vật đi tới cạnh đình. Chàng đi lại vẫn rất khó khăn, không có gì để tựa thì chẳng làm sao đi nổi dù chỉ một bước.
Nàng tung người nhảy về cạnh chàng, nói: "Tựa vào vai thiếp", nói rồi vòng tay ôm eo chàng, cùng chàng từ từ đi xuống bậc đá rồi đỡ chàng nhẹ nhàng lên thuyền.
"Chiếc thuyền này là do thiếp bố trí đó, thế nào?", nàng đưa cho chàng một tách trà.
"Không tồi", chàng uống một ngụm, trong đầu vẫn chưa đoán ra nàng muốn làm trò gì.
Không nhịn được thầm nghĩ, nha đầu này sau khi gả cho mình, chủ ý quái quỷ trong bụng sao lại bỗng nhiên nhiều thế cơ chứ?
"Vậy thiếp chèo đi đâỵ", nàng cầm lấy mái chèo, thật sự chèo đi.
Thuyến khẽ lướt, vững vàng tiến về hướng trung tâm hồ.
Giữa đêm hè, nước hồ khẽ sóng sánh, giữa khoáng trời đất là không gian tĩnh mịch.
Tiếng chèo khua nước vang lên như một khúc nhạc đêm hợp xướng.
“Là chỗ này sao?", đến giữa hồ, Hà Y buông chèo hỏi.
"Cái gì mà chỗ này chỗ kia?"
“Hôm ấy chàng từ chỗ này trầm mình xuống hả?", nàng lại hỏi lại chuyện kia.
"Ùm", chàng thuận miệng nói. Việc mấy năm trước rồi, ai mà còn nhớ được rõ ràng chứ.
"Mộ Dung Vô Phong, này, nói với chàng đây, đừng có ngó đông liếc tây nữa được không? Người ta đang nói chuyện nghiêm chỉnh đấy", nàng giữ lấy đầu chàng quay về phía mình.
"Chuyện nghiêm chỉnh? Nói đi, ta đang nghe đây", chàng nhìn nàng.
"Chàng nói coi, sau lần đầu tiên chàng bị uống nước nơi này, có phải bất luận là gặp chuyện gì thì cũng đột nhiên biến thành cực kỳ xui xẻo không?"
Chàng ngẫm nghĩ một lát rồi đáp: "Ừm".
Nàng lại nói: "Chàng có biết đấy là vì sao không?”.
“Vì sao?”
Nàng đáp: "Đấy là vì chàng mất hồn rồi".
Chàng bật cười.
“Mộ Dung Vô Phong, chớ có cười!"
"Được rồi, hồn của ta mất rồi, bây giờ người đang ngồi uống trà cạnh nàng, thật ra là một cương thi."
"Dù thế nào, chúng ta cũng phải ở đây bắt hồn của chàng về", Hà Y mặc kệ chàng đùa cợt.
"Bắt về? Làm thế nào để bắt?", chàng cười hỏi, "Nàng mau nói cho ta biết, ngày mai ta sẽ đem nó viết vào y thư, rồi chú thích: Sở thị hoàn hồn tiêu tai pháp, đã kiểm nghiệm, cực kỳ hữu hiệu".
"Cách ấy hả, có nhiều lắm. Loại hay gặp nhất chính là chàng lại nhảy xuống lần nữa, thiếp sẽ kéo chàng lên."
"Hà Y, ta đã tắm táp đâu vào đây rồi."
"Đương nhiên còn có biện pháp khác", nụ cười của Hà Y bắt đầu hiện ra vẻ gian tà, đột nhiên bò tới bên người chàng, ngồi sát vào người chàng.
"Còn có cách nào nữa?", chàng hỏi.
Nàng chẳng nói gì nữa.
Mộ Dung Vô Phong ngẩn ra nhìn nàng, ánh mắt tựa như muốn lần tìm trong đầu nàng xem rốt cuộc nàng có ý đồ gì. Mãi một lúc sau mới khẽ cười, nói: "Hà Y, nàng lại muốn làm càn rồi… lật thuyền mất đấy".
Hà Y đáp: "Thế thì cứ để nó lật đi".
Mộ Dung Vô Phong nghĩ một lát, bỏ tách trà xuống, nói: "Cũng đúng. Đằng nào thì ta cũng biết bơi".
**THE END**
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top