Tao Thao Thien Ba

CHƯƠNG X

LÀM QUAN, ĐIỀU KỴ NHẤT LÀ "UY HIẾP THIÊN TỬ, SAI KHIẾN CHƯ HẦU"

Trời về khuya, gió bấc thổi càng lạnh. Tiếng trống cầm canh rời rạc, khiến cho thành Duyện Châu trở nên yên tĩnh lạ thường.

Tào Mạnh Đức bước lên mặt thành. Bóng đêm lặng lẽ trùm lên tất cả.

- Chúa công, xin ngài đi nghỉ. - Tuân Úc tha thiết nói.

Như không nghe thấy Tuân Úc nói gì, Tào Tháo đang mải nghĩ: sáu năm đã trôi qua, kể từ lúc đánh Đổng Trác đến nay, lập nghiệp trong gian khổ, đủ mùi chua xót khi thấại, mừng rỡ ngày thắng lợi, và những nỗi kinh hoàng không cận kề bên cái chết... Ngày nay, đã có chút thảnh thơi! Nhưng Tào Tháo lại nghĩ tiếp: đâu đâu cũng cảnh tang thương, dân biết nhờ đâu mà sống, xã tắc cậy ai mà tồn tại, đến ngày nào trăm họ mới được yên ổn! Tào Mạnh Đức lại thở dài.

- Chúa công, ngài đã có cảm hứng thơ rồi! - Tuân Úc vừa nói vừa khoác lên người Tào Tháo một chiếc áo rét bằng lông cừu.

Tào Mạnh Đức nới rộng cổ chiếc áo lông, rồi quay lại hỏi Tuân Úc:

- Tuân Úc cảm thấy thơ của ta như thế nào?

Tuân Úc không trả lời ngay. Nhiều năm, trước sau ở bên Tào Tháo, Tuân Úc hiểu rằng, mỗi khi hỏi ai điều gì, Tào Tháo sẵn có đáp án trong lòng.

- Một câu hỏi đơn giản như vậy, tại sao lại không trả lời? - Tào Tháo hỏi tiếp.

Mọi người cho Tuân Úc là một mưu sĩ hiểu Tào Tháo hơn ai hết. Nhưng lúc này không có thì giờ suy nghĩ nhiều, ông đành trả lời một vài câu cho xuôi tai:

- Trong toàn quân ai mà không biết tài thơ, phú của chúa công.

Tào Mạnh Đức hoàn toàn không hài lòng với câu trả lời đó. Nhìn vào bóng đêm đen kịt, Tào Mạnh Đức lại thở dài:

- Nếu như ta chỉ biết ngâm, vịnh thì hay biết bao!

Tuân Úc hiểu rõ Tào Mạnh Đức đã suy nghĩ những gì

Lúc đó, Đinh phu nhân cùng Tào Nhân, Hạ Hầu Đôn và Mãn Sủng cũng bước lên mặt thành.

- Xin chúa công về phủ nghỉ ngơi! - Đinh phu nhân đứng ngay sát cạnh Tào Mạnh Đức.

Đinh thị là vợ cả của Tào Mạnh Đức, năm nay đã hơn ba mươi tuổi. Trước sau, nàng vẫn không sao hiểu được chồng mình. Có thể vì cuộc sống nơi chiến trường gian khổ, và chém giết, khiến người chồng trở nên lạnh lùng. Đối với nàng, Tào Mạnh Đức không có nhiều tình cảm đằm thắm. Nàng là người thuộc sách Kinh Thư, hiểu điều lễ nghĩa, xuất thân từ nơi gia phong, thế tộc. Nàng yêu nồng nàn Tào Mạnh Đức, hết lòng quan tâm, chăm sóc. Đổi lại nàng chỉ nhận được sự đối xử ngày càng lạnh nhạt.

Tào Mạnh Đức là người đàn ông khác thường, ác cảm với những phụ nữ chỉ biết phụ thuộc vào chồng, muốn giữ rịt lấy chồng trong đôi tay của mình. Đối với Đinh thị, Tào Mạnh Đức chỉ kính phục mà không yêu.

- Nàng về phủ đi, đêm nay ta ở trên tường thành Duyện Châu này sắp xếp những việc lớn trong thiên hạ. - Tào Mạnh Đức thản nhiên trả lời như vậy.

- Đêm lạnh như băng, chúa công phải giữ gìn sức khoẻ. - Đinh phu nhân nói nhỏ nhẹ, nghe thật ai oán.

Tào Mạnh Đức đưa mắt nhìn vào khoảng trời mênh mông, không trăng không sao, chẳng buồn quay lại.

Tào Mạnh Đức như đang đắm chìm trong bầu tâm sự của mình:

- So với Đổng Trác, Vương Doãn, Viên Thiệu, Lưu Biểu thì Tào Mạnh Đức ta như thế nào?

Bàn về những người này, Tuân Úc thường thao thao bất tuyệt, thật là hùng biện.

- Đổng Trác ức hiếp Hiến đế, không ngại dã tâm tiếm quyền kế vị, làm tên hôn quân. Về tình về lý chỉ là một tên nghịch tặc trong thiên hạ. Vương Doãn mượn tay Lã Bố giết giặc Đổng. Bề ngoài coi như là thuận ý dân, một nhà chính trị tầm cỡ. Nhưng đáng tiếc là quá độc ác, không hiểu được điều người xưa đã dạy: "Thời loạn coi trọng lòng khoan dung". Vì thế ngày càng bị cô lập, khiến cho Lý Thôi và quân Tây Lương có cơ làm cho Hiến đế rơi vào tay bọn lang sói. Còn như bọn Viên Thiệu, Lưu Biểu, quân nhiều lương đủ, nhưng là loại thiển cận, lại nhu nhược, khiến sự nghiệp có nhiều cơ nguy. Bọn họ không thuộc loại người kinh bang tế thế.

Đoạn kết lời hùng biện của Tuân Úc làm cho Tào Mạnh Đức cảm thấy thú vị. Thực ra, Tào Mạnh Đức muốn mượn lời của Tuân Úc nói lên tâm sự của mình, hoặc ít ra cũng là kiểm nghiệm lại những ý kiến của mình khi đánh giá Đổng, Vương, Viên và bọn họ Lưu.

Tào Mạnh Đức còn nhớ lời nói nổi tiếng của Mạnh Tử: "Thiên tướng là người, trước hết có tâm trí, phải làm việc cật lực, chịu thương chịu khó...", và cảm thấy như có một sức mạnh to lớn, Tào Mạnh Đức thích đọc Mạnh Tử. Đó là những triết lý sâu sắc, những lời hùng biện không thể bác bỏ. Từ nhỏ, Tào Mạnh Đức đã có những tình cảm sâu nặng đối với lời văn của Mạnh Tử, nhưng chưa bao giờ Tào Mạnh Đức hiểu được lời bàn về nhân nghĩa của Mạnh Tử

- Cha à! Thế nào gọi là "nhân"? - Năm mười bốn tuổi Tào Mạnh Đức đã hỏi cha như vậy.

Tào Tung vuốt râu, cười nói:

- Không nhẫn tâm với người khác là "nhân", "nhân" tức là thiện.

- Vua Trụ, Tần Thuỷ Hoàng, Cao Tổ người nào "nhân" nhất?

- Cao Tổ có nhân, người đời đều phục. Vua Trụ, Thuỷ Hoàng vô đạo, khiến người đời mãi mãi trách cứ.

- Cha à! Con nghĩ chữ "nhân" của Khổng Mạnh tuy tốt thật, nó giống như bông hoa trong gương, mặt trăng dưới nước, chỉ có thể nhìn mà không lấy được. Một đấng quân vương thâu tóm thiên hạ, chỉ bằng nhân, nghĩa để cai trị thì e không được. Lúc đầu Cao Tổ ở cùng Hạng Vũ. Khi thời cơ chín muồi, chỉ cần một hành động là thôn tính xong Tây Sở, thật là trí dũng cơ mưu!

Tào Tung vuốt râu cười lớn. Không ngờ con trai mới có mười bốn tuổi đã nhận xét về những điều trị quốc như vậy.

Tuân Úc nhìn thấy Tào Mạnh Đức đang đăm chiêu suy nghĩ. Phương thức tư duy của Tào Tháo cũng đặc biệt. Nghĩ một vấn đề nào đó đã xong, không bao giờ nói ý kiến của mình. Để người dưới nói trước, nếu nói đúng thì Tào Tháo yên lặng thừa nhận. Tào Tháo nói:

- Tuân Úc, "nhân chính" so với "bạo chính" cao thấp thế nào chưa rõ? Ta muốn nghe ý kiến của ông về nhân chính.

Tuân Úc đáp:

- Xưa Mạnh Kha chủ trương nhân chính: bớt hình phạt nhẹ thuế má, chăm chỉ làm lụng. Dạy điều nhân nghĩa thương yêu cha mẹ, quý trọng người trên.

Tào Mạnh Đức hỏi tiếp:

- Vậy thì sau nhân chính, viễn cảnh như thế nào?

- Làm ruộng, trồng dâu, nhà nhà giầu có. Trăm họ an cư lạc nghiệp, tôn thờ quân vương.

Tuân Úc trả lời vậy. Nhưng luồng suy nghĩ của Tào Mạnh Đức đã chuyển sang một không gian khác. Đúng vậy, dân lấy miếng ăn làm chính. Quân vương lấy đức để lôi kéo người khác. Đó là lẽ thường có tự ngàn xưa, ai ai cũng hiểu. Như Trần Thắng, Ngô Quảng, chặt gỗ làm quân, vót que làm cờ, hoặc như những người nông dân đầu chít khăn vàng kia, chỉ vì miếng cơm manh áo, họ đâu có muốn làm loạn! Nghĩ tới đây, Tào Mạnh Đức cảm thấy như chính mình có lỗi. Năm hai mươi tám tuổi được Triều đình bổ nhiệm chức Điển quân Tướng uý, dưới vó ngựa của mình đã có bao nhiêu oan hồn, vì miếng cơm manh áo bị vùi thây nơi hoang sơn cùng cốc vùng Dĩnh Châu.

Nghĩ lại bỗng Tào Mạnh Đức cảm thấy rùng mình.

"An cư lạc nghiệp, có trách nhiệm với thiên hạ, làm ruộng, trồng dâu, nhà nhà giầu có..."

Tất cả như những lời ngạn ngữ, vang lên trong đêm khuya thanh vắng.

Tào Tháoại lời Mao Giới cách đây ba năm, "Tướng quân! Trong tình thế hiện nay, nên phụng mệnh Thiên tử, tiến đánh những chư hầu không thuần phục. Ra sức phát triển nông nghiệp, tăng cường sức chiến đấu, giành lấy nghiệp bá".

Ba năm đã trôi qua, tình hình diễn ra như thế nào? Những người phụng mệnh Thiên tử kế tiếp nhau, là Đổng Trác rồi đến Vương Doãn. Sau khi quân Tây Lương giết chết Vương Doãn, Giả Hủ hiến kế: "phụng mệnh Hoàng đế chỉnh đốn thiên hạ". Kết quả là hết quân Tây Lương cướp bóc và chém giết lại đến quân Quan Trung vơ vét, khiến cho kinh tế của nhân dân hoàn toàn phá sản, nguồn thu bằng tiền thuế của Triều đình không còn nữa. Sau đấy, Thứ sử Kinh Châu Mã Đằng nhìn thấy Lý Thôi bá chiếm công việc triều chính, nhưng không hề có phản ứng nào với quân Tây Lương. Chỉ sau mấy lần cử sứ giả đến giao thiệp, Lý Thôi vẫn không chịu phân chia quyền lợi, Mã Đằng mới kết hợp với Hàn Toại, lãnh tụ người Khương, mượn danh nghĩa cần vương tiến đánh Quan Trung. Lý Thôi cho Phàn Trù dẫn quân đánh trả. Hồi còn ở Lương Châu, Phàn Trù và Hàn Toại thân tình với nhau, nên Phàn Trù cố ý để lộ quân cơ, khiến Mã Đằng vào được Lương Châu. Lý Thôi bèn tìm cách ám hại Phàn Trù. Từ đó quân Tây Lương, quân Quan Trung xâu xé lẫn nhau. Quách Dĩ nghi Lý Thôi có tâm địa khác bèn tấn công Lý Thôi trước tiên. Thành Trường An rơi vào cảnh binh khói. Để có địa vị hợp pháp, Quách Dĩ định đánh vào cung, buộc Hiến đế về doanh trại của mình. Lý Thôi nghe tin đưa hàng ngàn quân đến bao vây hoàng cung ép Hiến đế theo mình.

Có đến mấy năm, người ta thường diễn vở cướp Hoàng đế. Thật hết sức khôi hài. Tào Mạnh Đức lấy làm khó chịu vì những động cơ giành giật ông vua của tướng lĩnh các nước chư hầu. "Uy hiếp thiên tử, sai khiến chư hầu" là sự sống còn của bọn chư hầu. Ai mạnh người đó sẽ có địa vị hợp pháp. Sức mạnh cộng với thiên tử, trở thành cái gọi là nghiệp

Dưới ánh đèn lồng treo trên tường thành, có thể nhìn thấy nụ cười hiếm hoi trên khuôn mặt gầy guộc của Tào Mạnh Đức, kể từ ngày tranh giành Duyện Châu đến nay. Phương đông hửng sáng. Tào Mạnh Đức xoa đôi mắt tỉnh táo định thần chốc lát, rồi tay cầm bút uốn lượn như rồng:

Vằng vặc như trăng, bao giờ thô vụng?

Lo ở bên trong, chẳng nỡ dứt ngưng.

Vượt núi băng sông, uổng sức đều còn.

Luận bàn ngang dọc, ân nghĩa cũ càng

Trăng tỏ sao mờ, chim tước nam bay.

Ba vòng quanh cây, nào đâu cành đỗ?

Núi chẳng ngại cao, sông chẳng e sâu

Chu công thổ bọt, thiên hạ quay đầu.

(Cung Khắc Lược dịch)

Đó là một đêm đặc biệt. Một đêm Tào Mạnh Đức không ngủ định ra những quyết sách vĩ đại. Đấy không phải là nhiệt huyết ngẫu nhiên mà là những suy nghĩ chất chứa lâu ngày, nay bột phát. Không phải là linh cảm, mà là những mưu sâu, kế xa. Những điều các chư hầu đều muốn làm, có điều làm không nổi.

° ° °

Thời cuộc biến hoá đến chóng mặt. Sau khi Đổng Trác ở Quan Trung chết. Quân Tây Lương nội chiến kéo dài, khiến lực lượng nhanh chóng suy yếu. Lãnh tụ quân Quan Đông khu bắc là Viên Thiệu, trước đây từng bị Công Tôn Toản và Viên Thuật cùng tấn công, nguy khốn vô cùng, nhưng sau nhiều lần giao chiến đã có thể chuyển bại thành thắng. Trước mắt Thiệu vẫn còn tranh chấp với Công Tôn Toản ở U châu, nhưng đã có ưu thế cao. Chẳng bao lâu sẽ thành bá chủ ở vùng bắc sông Hoàng Hà, hoặc có đủ thực lực thống nhất thiên hạ. Lực lượng của Viên Thuật, lãnh tụ liên minh chống Đổng Trác ở phía nam khu Quan Đông vốn rất mạnh, nhưng trong trận chiến ở Khuông Đình với Tào Mạnh Đức đã bị thua hoàn toàn. Hiện Viên Thuật đang luyện quân ở Thọ Xuân. Còn Tào Mạnh Đức suýt nữa trắng tay vì bị Trương Mặc làm phản, may nhờ có Tuân Úc, Trình Dục mưu lược mới lấy lại được Duyện Châu.

Đứng trước tình thế đó, Tào Mạnh Đức tránh sao khỏi bồn chồn lo lắng. Đấy là nguyên do làm Tháo đắn đo suy nghĩ suất đêm trên mặt tường thành. Trong một thời gian dài, Tào Mạnh Đức vì thế mà biếng ăn nhác uống, không gần gũi phụ nữ. Trong doanh trại có người hầu gái tên là Thu cũng đầu mày cuối mắt, nhưng Tào Mạnh Đức vẫn chẳng thích thú gì. Hơn nữa lại bị bệnh đau nửa đầu, nên suốt ngày cứ âm thầm chịu đựng.

Sáng nay, Tào Mạnh Đức dậy sớm hơn mọi ngày. Chờ cho cô Thu sửa sang quần áo xong, thì Tào Mạnh Đức đã múa được mấy bài kiếm.

- Chúa công! Đã đến giờ uống nước sen rồi? - Thị nữ đưa chiếc khăn lau trước.

Tào Mạnh Đức mồ hôi nhễ nhại, tay bưng bát nước sen nóng hổi, và uống một hơi hết ngay, cảm thấy rất dễ chịu.

- Đã lâu lắm rồi, hôm nay mới thấy chúa công ngủ một giấc ngon lành! - Cô Thu đang ở sát bên Tào Mạnh Đức.

- Vì có cô ở bên cạnh ta mà.- Tào Mạnh Đức cầm tay cô Thu vừa vuốt ve vừa nói nhẹ nhàng.

- Trước đây tiện nữ ở cạnh ngài, nhưng ngài có... - cô Thu vừa dễ thương vừa nũng nịu. Tất cả những cái đó đều không có ở Đinh thị. Tào Mạnh Đức không yêu Đinh thị. Tuy rằng nàng có phủ riêng của mình ở Duyện Châu, song đã lâu rồi nàng chưa hề được nhòm ngó tới!

- Cô thông minh lắm! - Tào Mạnh Đức hôn lên khuôn mặt vừa tròn vừa mỡ màng của cô Thu, giọng nói trở nên nghiêm nghị hơn: - Đàn ông có việc của đàn ông. Trong lòng người đàn bà chỉ cần chứa đựng hình bóng của một người đàn ông là đủ rồi. Trong lòng người đàn ông chứa mọi việc của thiên hạ. Cô hiểu không?

Cô Thu gật đầu, nửa như hiểu nửa như chưa hiểu.

Tào Mạnh Đức coi trọng việc yêu thương một người phụ nữ. Tào Mạnh Đức cho rằng nhờ có phụ nữ con người mới điều tiết được âm dương, không mất thăng bằng. Nam giới như một dòng sông, nữ giới như những hạt nước trong dòng chảy. Ầm ĩ vì một ngư̖ thậm chí phải dùng đến vũ lực, người trượng phu không bao giờ làm thế!

Vào năm mất mùa, Duyện Châu trải qua nhiều tai hoạ cũng lâm vào cảnh đói kém. Hai hôm trước, Tào Mạnh Đức đã lệnh mở kho trong phủ phát chẩn cho dân. Tuy không bị triết học nhân ái của đạo Nho ảnh hưởng nhiều song Tào Mạnh Đức cũng hiểu rõ chủ trương chính trị của Mạnh Tử "Dân là quí nhất, mới đến xã tắc, quân vương". Bởi vậy từ lâu Tào Mạnh Đức đã nhìn xa hơn, nhìn khắp non sông đất nước. Câu nói "phải có trách nhiệm với non sông đất nước", như một ngọn lửa bùng cháy làm nóng bỏng trái tim Mạnh Đức.

Hôm nay là ngày cuối năm.

Các tướng lĩnh, các nhân vật quan trọng ở Duyện Châu đều có mặt ở phủ Tào Mạnh Đức.

Sau khi phân tích sơ qua về thời cuộc, Tào Mạnh Đức yêu cầu mọi người có ý kiến về việc nghênh đón Thiên tử.

Trình Dục nói trước:

- Theo tin mới nhất, Hiến đế đã rời Quan Trung, dưới sức ép của Dương Phụng và Đổng Thừa đến An Ấp. Nếu nhân cơ hội này nghênh đón sẽ có nhiều ưu thế.

Tuân Úc nói ngay:

- Hiện nay chúng ta đã khống chế được nửa phần đất đai Dự Châu. Nếu nghênh đón Hoàng thượng, cũng không hơn gì Lạc Dương và Hứa Xương. Bởi vậy cần phải nhanh chóng tiêu diệt các lực lượng khác ở Dự Châu.

Mãnh tướng Tào Nhân có ý kiến khác:

- Tuy là thế lực của Trương Mạc còn, nhưng Lã Bố, Trần Cung vẫn hùng cứ ở Từ Châu, câu kết với Viên Thuật, luôn luôn uy hiếp Duyện Châu. Nên thuộc hạ cho rằng cần phải ổn định chiến tuyến phía đông, tiêu diệt hoàn toàn lực lượng của Viên Thuật, Lã Bố, sau đó hãy tính đến Dự Châu.

Tuân Úc ngồi chống cằm, trầm tư hồi lâu, mới thủng thẳng nói:

- Đơn thuần về mặt quân sự, Dự Châu gần khu Tư Lệ và Kinh Châu. Hiện nay có bộ phận đang xung đột nhỏ với các toán quân của Viên Thuật và Lưu Biểu, làm cho áp lực của họ đối với quân ta có dịu đi. Nếu đánh Dự Châu chúng ta sẽ rơi vào vòng vây tầng tầng, lớp lớp của Viên Thuật ở phía bắc, Lã Bố ở phía đông, Lưu Biểu ở phía nam, các đoàn quân Tây Lương ở phía tây và khu Tư Lệ. Như vậy thì thật bất lợi.

Tào Mạnh Đức không ngừng gõ ngón tay xuống mặt bàn, chờ cho Tuân Úc phát biểu xong mới nói như không nhìn thấy những người ở xung quanh.

- Các vị đã phát biểu ý kiến, còn bây giờ thì xin vui vẻ, tự nhiên ăn tết.

Một câu nói như vậy, làm cho không khí nhẹ nhõm hẳn đi.

Tào Nhân nói rõ ràng hơn:

- Nghênh đón Thiên tử chưa hẳn đã có lợi. Đổng Trác đã trở thành kẻ thù của mọi người. Với thực lực hiện có của chúng ta, nghênh đón Thiên tử chắc gì các chư hầu đã nghe theo. Và nếu không chắc tay thì từ cái lợi sẽ trở thành cái hại.

nhủ thầm, sao lại có thể xem Đổng Trác ngang bằng với Tào Công! Tuân Úc không muốn nói lý với họ, bởi vì ông đã đoán được chủ trương của Tào Mạnh Đức.

Tào Nhân lại nói:

- Điều quan trọng đầu tiên là phải theo dõi mọi động tĩnh của Viên Thiệu. Về việc nghênh đón Thiên tử thì Viên Thiệu là người có thực lực nhất. Nếu bây giờ chúng ta gây sự với Viên Thiệu, chắc sẽ có nhiều nguy hiểm.

Cuối cùng Tào Mạnh Đức lên tiếng:

- Tin tức từ phủ Ký Châu cho hay, ý kiến nghênh đón Thiên tử trong đại bản doanh Viên Thiệu không thống nhất. Các bậc nguyên lão phản đối hoàn toàn. Vì thế Thiệu cũng không thích thú lắm. Hơn nữa, cuộc chiến giữa Viên Thiệu và Công Tôn Toản đang hồi gay cấn. Như vậy, nếu chúng ta nghênh đón Thiên tử chắc Viên Thiệu sẽ không có ý kiến gì!

Tuân Úc không tự kiềm chế được nữa, bèn lớn tiếng nói:

- Việc nghênh đón Thiên tử không đơn thuần chỉ vì công lợi. Trước kia Cao Tổ đánh Hạng Vũ ở phía đông là để báo thù cho Nghĩa đế. Bởi vậy các chư hầu trong thiên hạ đều hưởng ứng. Thời Đổng Trác làm loạn, Thiên tử phải lưu vong đến Quan Trung. Tướng quân là người khởi xướng nghĩa quân cần vương. Tiếc rằng Sơn Đông hỗn loạn, mới khiến chúng ta chưa lấy được Quan Trung. Tuy chiến tranh liên miên, nhưng tôi tin rằng tướng quân vẫn một lòng với vương thất, lấy việc bình định thiên hạ làm nhiệm vụ của mình! Ngày nay Hoàng thượng đã thoát khỏi bàn tay của quân Tây Lương, đây là thời cơ tốt đẹp, ủng hộ Hoàng đế hợp với lòng dân, đó là điều đại thuận. Làm theo đạo lý trong thiên hạ sẽ thu phục được hào kiệt, đấy l đại lược. Kiên trì giữ đại nghĩa, chiêu tập hiền sĩ, đó là điều đại đức. Ai nấy đều chuẩn bị, thì dù hiện nay lực lượng cua ta đang mỏng, cũng có thể thành thế chẻ tre. Nếu cứ chần chừ, để người khác làm trước sẽ lỡ mất cơ hội. Lúc ấy, lấy danh nghĩa gì để dấy binh đánh những kẻ vô đạo khác.

Không khí trong phòng trở nên sôi động hẳn. Tiếng bàn luận của mọi người át hẳn tiếng người đang nói.

Trong tiếng tranh luận ồn ào không dứt, Tào Mạnh Đức nhớ lại câu chuyện với Viên Thiệu hôm thành lập liên minh chống Đổng Trác mấy năm trước.

Viên Thiệu hỏi:

- Mạnh Đức! Lần xuất quân này mà thất bại, thì chúng ta chọn cứ điểm ở đâu là thích hợp nhất?

Tào Mạnh Đức hỏi lại:

- Ý kiến ngài như thế nào?

Viên Thiệu nói:

- Chúng ta nên chọn cứ điểm ở vùng núi Ký Châu, phía bắc sông Hoàng. Hà. Chúng ta sẽ được sự giúp đỡ của các dị tộc phương bắc, để giành bá quyền ở phương nam.

Nghe Viên Thiệu nói Tào Tháo chỉ cười. Trong thâm tâm, Tào Tháo xem thường năng lực chính trị của Viên Thiệu. Loại người này chỉ có đánh đấm vài trận thì còn được chứ tầm nhìn hạn hẹp, tính tình nhu nhược như vậy, thì nói gì đến trị quốc, bình thiên hạ. Tào Mạnh Đức hiểu sâu sắc một nguyên tắc bất di bất dịch "thiên thời địa là quan trọng, nhưng thành trì dù kiên cố đến đâu cũng có lúc bị công phá. Vậy cái quan trọng nhất phải là lòng người. Khi đã thu phục được lòng người thì đã đánh là phải thắng.

Tình thực thì Tào Mạnh Đức đã hiểu hết những phân tích đầy tình lý của Tuân Úc. Đúng như Tuân Úc đã nói, từ lâu Hán Hiến đế chỉ có danh mà không có thực, nhưng trong thời buổi khủng hoảng hỗn loạn này thì Hiến đế vẫn là người mà nhân dân còn ngưỡng vọng.

Tào Mạnh Đức không nén nổi xúc động trong lòng nên vùng đứng dậy, lấy tay vê vào không trung một hình cánh cung, và bằng một giọng nói không cho ai tranh cãi:

- Ta đã nghe hết ý kiến của các vị. Mấy hôm nay ta cũng thường nghĩ về chuyện này. Hôm nay là lúc chúng ta quyết định một việc lớn. Nghênh đón Hiến đế là cách làm hay nhất.

Với nét mặt nghiêm túc, và một khẩu khí kiên định khác thường của Tào Mạnh Đức, ai nấy đều yên lặng.

° ° °

Đã lâu lắm Tào Mạnh Đức không trở về phủ của mình. Mấy đứa con đều ở trong quân. Đương nhiên là tình cảm lưu luyến gia đình của họ Tào không tha thiết lắm. Tào Tháo không có tình cảm lắm với bà vợ cả là Đinh phu nhân và mấy bà vợ thứ là Lưu thị, Biện thị, và Trương thị... Phải chăng Đinh phu nhân không đẹp? Ngay đến Tào Mạnh Đức cũng không thể phủ nhận được dáng dấp bên ngoài của Đinh thị. Bá quan văn võ, thuộc hạ đều trầm trồ với nhau, họ là một cặp vợ chồng trai tài, gái sắc tuyệt vời. Còn mấy bà khác cũng không phải vì tuổi nhiều, sắc kém mà vì quá hiền thục. Nếu không vì tình cảm với những đứa con gái thì có lẽ Tào Mạnh Đức đã quên họ từ lâu rồi. Có lần trong tiệc rượu Tuân Úc nói với Tào Mạnh Đức, có mặt Đinh phu nhân:

- Chúa công, số ngài thật đào hoa, tìm được phu nhân đây vừa nhan sắc vừa trí tuệ.

Đó không phải là lời nịnh bợ, mà là lời nói chân thành của Tuân Úc. Nghe xong, Tháo cười, nói:

- Nói sai rồi! Sai rồi! Cứ đẹp thì ai cũng thích hay sao?

Tuân Úc nhìn thấy một nét buồn khó phân biệt thoáng qua trên khuôn mặt Đinh phu nhân.

- Chúa công uống quá nhiều rồi!

Đinh phu nhân vừa nói, vừa giơ những ngón tay ngọc ngà lấy mất chén rượu của Tào Mạnh Đức. Trong ánh mắt của Tào Mạnh Đức lộ vẻ không vui, nhưng lại tươi tỉnh ngay và nói:

- Ông xem, người đàn bà này thật đáng ghét, ngay đến rượu cũng không được thoải mái.

Còn Đinh phu nhân thì đi vòng qua chiếu rượu đến rót cho Tuân Úc đầy một chén và nói:

- Ông thì không cần phải hạn chế. Thày thuốc dặn không được để chúa công quá chén, ngộ nhỡ bệnh đau nửa đầu lại tái phát.

Tất cả những việc diễn ra nơi chiếu rượu của vợ chồng họ Tào không qua được con mắt tinh tường của Tuân Úc. Một mặt Tuân Úc hiểu được tâm trạng của Tào Mạnh Đức, mặt kháchiểu rõ những yếu tố phức tạp trong tính cách của Tào Mạnh Đức. Bởi vậy, hai câu nói đánh giá người phụ nữ của Tào Mạnh Đức lại như rất mới mẻ.

Đó là câu chuyện của rất nhiều năm về trước.

Đúng như Tào Mạnh Đức nói, "cứ đẹp thì ai cũng thích hay sao?". Tài mạo tuyệt vời như Đinh phu nhân, mãi mãi khó lòng hiểu được mảnh đất nội tâm của người chồng mà vẻ ngoài hết sức bình thường. Đấy là nỗi bi ai lớn đối với những người phụ nữ mỹ miều muốn chế ngự người chồng của mình.

° ° °

Chạng vạng hôm đó, sau khi đã có quyết sách lớn lao, Tào Mạnh Đức có một tình cảm mơ hồ xui khiến đi dần đến phủ của mình, mà đã lâu không về!

Phủ Tào công nằm ở phía bắc thành Phùng Châu, nguyên là trang viên của một đại địa chủ. Theo sự thế biến động, phủ đường cũng thay đổi nhiều chủ. Từ trang viên có thể nhìn về hai hướng bắc nam. Trước cổng lớn có một đôi sư tử bằng đá, trông thật uy nghiêm. Trang viên không đến nỗi âm u, sâu thẳm. ánh nắng có thể chiếu vào tận ngôi nhà lớn. Ngôi nhà lớn đã trải qua nhiều năm tháng, một số cây cột đã xiêu xiêu. Những cọng cỏ, những cây hoang trên mái ngói cũng vật vờ trước gió. Gió bấc thổi về lạnh lẽo, cây lá trong phủ cũng xào xạc tạo nên một không khí thật hợp điệu với thành Duyện Châu trải qua nhiều năm tháng chiến tranh.

Cái đáng nhắc tới ở phủ Tào công là một cái hồ nhỏ được xây dựng ở sau phủ. Trên hồ là một hòn núi nhỏễu rủ quanh hồ. Những cành liễu hồng hồng với đủ hình dáng, cùng hình quả núi nhỏ đổ bóng xuống mặt nước lung linh, tạo thành một bức tranh thuỷ mặc trông thật sinh động. Cách hàng liễu ba, bốn bước có một chiếc ghế đá bóng loáng, trước đây Tào Mạnh Đức thường ngồi đọc "Tôn Tử binh pháp", đọc Quản Xúc, đọc Mạnh Tử, đọc Hàn Phi.

- Phu nhân, chúa công đã về. - Thị nữ Hồng Đàn nhanh như chim sẻ, đến báo với phu nhân.

Đinh thị đang ngồi nói chuyện phiếm với mấy thị nữ, nghe Hồng Đàn vào báo, liền ra tận cửa nghênh đón. Nhìn thấy bộ mặt kém vui của Đinh thị, tự nhiên Tào Mạnh Đức cảm thấy xót xa. Cái chết của Tào Ngang để cứu cha trong cuộc phản loạn của Trương Tú là nỗi nhớ thương suốt đời của Tào Mạnh Đức. Một người đàn ông như Tào Mạnh Đức có thể cắn răng vượt qua nỗi đau khổ khi mất con. Còn đối với người mẹ, nỗi đau khổ mất con sẽ dằn vặt mãi mãi. Dù cho Đinh thị không phải là người sinh ra Tào Ngang. Mẹ Tào Ngang là Lưu thị đã mất sớm. Có thể vì Đinh thị vô sinh, nên đã nuôi dưỡng Tào Ngang chẳng khác gì ruột thịt của mình. Tào Ngang chết, tính cách của Đinh thị trở nên cô đơn, trầm mặc. Tào Phi, Tào Thực lại không ở bên cạnh. Hơn nữa giữa họ và Đinh thị lại không có mấy tình cảm. Bởi vậy Đinh thị trải qua những năm tháng thật nặng nề.

Sau mấy câu thăm hỏi sức khoẻ lẫn nhau, hai người gần như không còn chuyện gì để nói nữa, họ lặng lẽ dạo quanh ven hồ.

Cuối cùng thì Đinh thị nói với một giọng nghiêm trang:

- Còn mấy hôm nửa là đến tết. Ở đây thật bộn bề, có lẽ mình phải cho người đến dọn dẹp mới

Tào Mạnh Đức nghe xong cảm thấy khó chịu. Với một chút tình cảm xót thương, Tào Mạnh Đức về phủ. Những tưởng nhờ sự dịu dàng của người vợ, để nguôi đi nhiều nỗi phiền muộn trong lòng, để được nhẹ nhàng bước vào trận mới, thực hiện quyết sách lớn lao, nghênh đón Thiên tử. Nào ngờ Đinh thị lại vô tình, trở nên gay gắt, khiến cho ngọn lửa tình cảm vừa nhen nhóm lên trong lòng Tào Mạnh Đức bỗng lại tan biến như không có gì cả.

Câu nói của Tào Mạnh Đức như giội một gáo nước lạnh vào Đinh thị:

- Đại trượng phu không lo việc thiên hạ, chỉ chú ý đến mấy việc vặt vãnh trong gia đình, khiến mọi người chê cười!

Tiếp đó, họ nói với nhau những việc chẳng đâu vào đâu. Một người hỏi, một người trả lời. Những câu đối thoại thiếu tình cảm, khiến Tào Mạnh Đức cảm thấy nhạt nhẽo.

Đêm hôm đó, Đinh thị có dịu dàng hơn. Còn Tào Mạnh Đức thì vội vã làm xong trách nhiệm của một người chồng. Một thời gian dài, Đinh thị vốn sống trong cảnh phòng không, trong lòng suy nhĩ rất nhiều về sự lạnh nhạt của chồng, nên những đòi hỏi về mặt sinh lý vẫn mãnh liệt hơn. Tào Mạnh Đức sẵn có chút tình cảm thương xót, do vậy cũng dễ dàng hoà hợp với vợ. Sau đó, Đinh thị nhanh chóng chìm vào giấc ngủ ngon lành.

Tào Mạnh Đức tỉnh táo, lặng lẽ nhìn lên trần nhà.

° ° °

Trăng đã khuất. Phủ đường chìm vào bóng đêm. Đôi khi có những tiếng động rất khẽ khàng, đó là tiếng gặm cỏ của lũ cá con ở dưới hồ. Ban ngày chúng không dám ra, vì sợ những con cá to ăn tươi nuốt sống. Trong cái thế giới cỏn con đó, đồng loại cũng sẵn sàng ăn thịt lẫn nhau.

Tào Mạnh Đức khoác lên người chiếc áo lông cừu và đi lén ra hồ ngồi trên chiếc ghế đá lạnh như băng, để dòng suy tư của mình phiêu bạt trong bóng đêm.

Xưa kia Văn Vương trên bờ sông Vị Thuỷ gặp được Khương Thượng hơn tám mươi tuổi dấy binh đánh Trụ. Chẳng bao lâu lập nên chính quyền Tây Chu. Còn ta phải đến bao giờ mới dẹp được loạn, lập nên cơ nghiệp như Hán Cao Tổ xưa kia. "Ngày tháng trôi nhanh, xuân thu kế tiếp", Tào Mạnh Đức bỗng cảm thấy đời người thật ngắn ngủi, thật vô vị. "A Man là văn nhân, ngâm thơ, vẽ tranh thì quá dễ. Cần phải nắm được bản lĩnh an bang trị quốc, mới có thể trở thành những đại phu tên tuổi". Lại như có một âm thanh khác vẳng bên tai Tào Mạnh Đức. Đó có lẽ là những lý luận của cha là Tào Tung đã thấm dần vào tâm trí Tào Mạnh Đức từ khi mới biết chữ.

"Thiên hạ sự tri kỳ bất khả vi nhi vi chi", việc trong thiên hạ biết không làm được nhưng vẫn cứ làm. Khuất đại phu tức Khuất Nguyên, một bậc thư sinh không sợ chết để giảng giải về đại nghĩa ở khắp nước Sở. Khổng Phu Tử, một bậc hủ nho, đã chu du khắp cả nước, truyền bá tư tưởng giúp nước bằng lòng nhân nghĩa. Thực là kỳ công và gian khổ? Còn Tào Mạnh Đức ta, lưng đeo ba tấc kiếm, chiêu hiền nạp sĩ lẽ nào không bằng một bậc hủ nho hay sao?

Tào Mạnh Đức nhặt một hòn đá ném mạnh xuống hồ, một tiếng động nhỏ vang lên, phá tan sự yên ắng của thành Duyện Châu. Nhưng chỉ trong chốt lát cảnh vật lại tĩnh mịch như cũ.

Tết đến. Dân chúng vui vẻ, tạm thời được no ấm. Còn cuộc sống từ nay sẽ ra sao? "Thóc gạo đầy đủ thì biết lễ nghĩa, dân thiếu thốn sẽ khó trị, từ xưa đến nay thường là như vậy". Lời nói trên của Quản Trọng thật sâu sắc.

Những người nông dân từ đời này qua đời khác, mặt nhìn đất, lưng đội trời, có đòi hỏi gì quá nhiều đâu! Ăn uống qua ngày, thờ cúng tổ tiên, thế là đủ rồi! Một khi họ không còn đất đai, ăn không đủ no, mặc không đủ ấm, họ sẽ cầm liềm, cầm cuốc đi tìm những người thống trị để tính nợ.

Lúc này, dòng tư tưởng của Tào Mạnh Đức lại trở về với thành Duyện Châu.

Năm đó, có một tiểu đầu mục quân Khăn vàng, gọi là Trương Nhị Cẩu, đang bị trói trước doanh trại của Tào Mạnh Đức.

Tào Tháo hỏi:

- Tại sao lại dám phạm thượng, làm loạn? Ai là kẻ chủ mưu?

- Chúng tôi là bọn người dân ngu, khu đen, một nửa chữ cũng không biết, không hề muốn chống lại Triều đình. Triều đình muốn chúng tôi giữ gìn lễ nghĩa và pháp luật, nhưng chúng tôi không thể đói bụng, ở trần để nói chuyện lễ nghĩa và pháp luật! Chẳng có ai là người chủ mưu. Nếu có thì đó là tất cả những người bụng rỗng!

Trương Nhị Cẩu ngẩng đầu nhìn Tào Mạnh Đức bằng con mắt oán hận.

Tào Mạnh Đức nhìn người thanh niên nông dân đói ăn gầy gò, nét mặt vàng vọt, lại được nghe những lời anh ta nói, liền động lòng trắc ẩn. Nhưng vẫn phải bằng một giọng nghiêm khắc, Tào Mạnh Đức quát lớn:

- Mang đi chém đầu cho ta. - Nhưng tiếp đó Tào Mạnh Đức lại vẫy tay nói "khoan đã" và đi đến trước mặt Trương Nhị Cẩu, tự mình cởi trói rồi dặn tả hữu:

- Cho hắn ăn cơm thật no. Không vinh dự gì khi phải giết một thằng chết đói.

Trương Nhị Cẩu ăn ngấu nghiến hết hai bát cơm, rồi quì xuống, khóc nức nở trước mặt Tào Mạnh Đức:

- Đa tạ đại nhân đã cho tôi ăn một bữa no. Trương Nhị Cẩu tôi sẽ báo đền ân đức đại nhân.

Tào Mạnh Đức quay đi phẩy mạnh tay, giọng như lạc hẳn đi:

- Chém!

Tào Mạnh Đức đã cho chém đầu không biết bao nhiêu quân Khăn vàng, như chém những quả dưa. Có thể nói mỗi mảnh đất ở Duyện Châu đều âm vang từ "chém" do miệng Tào Mạnh Đức ra lệnh. Duy chỉ có người thanh niên nông dân có tên là Trương Nhị Cẩu để lại một ấn tượng thật sâu sắc trong ký ức của Tào Mạnh Đức. Từ cái đêm chém đầu Trương Nhị Cẩu, Tào Mạnh Đức đã bị những cơn ác mộng đến giày vò. Tào Mạnh Đức mơ thấy từng đoàn nông dân cụt đầu đi vào phủ, họ ăn cơm, họ lôi kéo những đứa con của Tào Mạnh Đức. Kể từ hôm đó, lại tái phát.

° ° °

- Chúa công, lâu ngày mới về phủ, sao không ở cùng phu nhân, lại ra đây ngồi một mình, trăng sao không có, bầu trời đen kịt.

Tào Mạnh Đức giật mình sợ hãi. Mãi khi nghe rõ tiếng Hồng Đàn mới thấy yên tâm.

- Đêm khuya yên tĩnh Hồng Đàn cũng không ngủ được hay sao?

- Tiện nữ nghe thấy có tiếng động ở hồ, nghĩ là có kẻ trộm, nên chạy ra xem...

Tào Mạnh Đức thu nhặt Hồng Đàn từ Dĩnh Châu. Cô gái vốn họ Trương, Hồng Đàn là tên từ bé. Cha cô là một thầy giáo, có tham gia vào nhóm quân Khăn vàng nên đã bị giết. Đinh thị nhìn thấy cô bé Hồng Đàn dễ coi, lại thông minh, mồm mép nhanh nhẩu ngọt ngào, bèn giữ lại ở bên mình. Hồng Đàn nhanh nhẹn, ngoan ngoãn. Hồng Đàn đánh đàn, đọc sách đều rất khá, khiến Đinh thị rất thích thú. Quan hệ chủ tớ trở nên thắm thiết và không câu nệ.

Mới chỉ có mấy năm, Hồng Đàn đã trở thành một cô gái như hoa như ngọc. Lời ăn tiếng nói, như một cô gái đã thành thục. Chẳng trách về đến nhà, nhìn mãi mà TàoÂ� Mạnh Đức vẫn không nhận ra.

Cha Hồng Đàn thường kể chuyện các anh hùng hào kiệt, danh nhân chí sĩ trong lịch sử cho cô nghe, như chuyện về Mao Toại, Kinh Kha, Lưu Bang, Hạng Vũ, Tiêu Hà, Hàn Tín. Những câu chuyện đó đã cuốn hút cô "gió nổi mây trôi, dũng sĩ đi bốn phương" những câu ca này, vào năm bảy, t tuổi Hồng Đàn đã có thể kể lại cho mọi người nghe. Cái tên Tào Mạnh Đức từ lâu đã vẳng đến tai cô như một tiếng sấm. Cô ngưỡng mộ con người tài hoa ấy. Cô không ngờ khi cha chết ở thành Dĩnh Châu, cô lại được con người đó cứu giúp.

Mấy hôm trước, khi đưa Đinh thị đi dạo chơi ở thành Duyện Châu, cứ nghe ở ngoài đường người ta nhắc đến ba chữ "Tào Mạnh Đức". Có người nói Tào Mạnh Đức là anh hùng hào kiệt, có thể làm chủ được thiên hạ hỗn loạn này; có người nói Tào Mạnh Đức biết thương trăm họ, mở kho cứu tế, là một hành động nhân đức, là Chu Văn Vương sống lại. Nghe như vậy, Hồng Đàn lấy làm sung sướng. Bởi vậy, Hồng Đàn luôn miệng hỏi Đinh thị về Tào Mạnh Đức. Đinh thị cũng chẳng buồn trả lời. Bị hỏi nhiều quá, Đinh thị liền giận và không vui.

Đôi khi Hồng Đàn có ý nghĩ thật kỳ quặc: giá như mình cũng như phu nhân, có một người chồng danh vọng tiếng tăm, tâm chí cao xa, thì thật thoả mãn!

Hồng Đàn biết chúa công lao tâm khổ tứ vì công việc trong thiên hạ. Những người đàn ông bình thường không thể rời khỏi chăn đệm và người phụ nữ ấm áp, nhất là vào những đêm rét buốt như thế này. Ở vào cái tuổi dậy thì như hôm nay, Hồng Đàn miên man nghĩ ngợi rất nhiều.

Và cứ thế, không biết từ lúc nào, Hồng Đàn đã mê mê hoặc hoặc, tựa hẳn vào vai Tào Mạnh Đức. Tào Mạnh Đức đã cảm nhận được mùi thơm từ cơ thể của cô gái. Qua làn tóc mềm mại, mùi thơm đó thấm dần vào máu, lan ra toàn thân.

Tào Mạnh Đức kéo cô ta vào lòng, như điên như cuồng hôn vào đôi môi hé nở, hôn bộ ngực trẻ trung căng đầy, và không ngần ngại gì sờ vào cả những nơi thầm kín của Hồng Đàn

Hồng Đàn hổn hển và nỉ non. Bóng đêm không làm cho cô gái hiến thân phải e lệ. Không đơn thuần là sự e lệ, có cả sự kính trọng, yêu thương và ngưỡng mộ.

Tào Mạnh Đức tìm thấy một cảm giác hoàn toàn mới lạ từ trên cơ thể của Hồng Đàn. Cảm giác ấy không bồng bột như ở cô Thu, không máy móc, cứng đơ như ở Đinh thị. Nó mượt mà, mềm mại, nóng bỏng và trong suốt...

Bỗng Tào Mạnh Đức có ý nghĩ cưới Hồng Đàn làm thiếp. Nhưng đấy chỉ là ý nghĩa, phút chốc đã tan biến.

° ° °

Mùng một tết. Từ sáng sớm, Tào Mạnh Đức đã cho mời Tuân Úc, Tào Nhân và một số quan văn võ đến phủ. Chỉ mới mấy ngày không gặp, mà Tào Mạnh Đức như tươi và trẻ trung hẳn ra. Mọi người không hiểu chúa công đã có điều gì cực kỳ vui vẻ. Hạ Hầu Đôn hỏi trước:

- Năm mới vừa đến, không hiểu chúa công triệu tập chúng tôi đến đây để bàn chuyện gì?

Tào Mạnh Đức nói luôn:

- Ta định mời các vị đi săn ở Thọ Sơn. Ta không có gan như Tôn Quyền, bắn hổ để tiếng anh hùng được truyền tụng. Ta có thể săn được mấy con thỏ hoang, mấy con gà rừng. Trên đường đi có thể ngắm nhìn phong cảnh đồng ruộng, vườn tược của trăm họ. Không biết các vị có thích như vậy không

Tào Nhân nói:

- Mùng một đầu năm đã đi bắn, giết, e rằng...

Từ mấy chữ "phong cảnh đồng ruộng, vườn tược", Tuân Úc đã nhìn thấy một ý khác nữa của Tào Mạnh Đức. Vùng Thọ Sơn là vùng đói kém, người người cắn xé lẫn nhau, còn có gì gọi là phong cảnh. Tuân Úc đã suy nghĩ về vấn đề này. Muốn củng cố hậu phương, phải ưu tiên phát triền sản xuất. Nhưng làm thế nào để có thể củng cố và phát triển nông nghiệp thì còn phải suy nghĩ thêm. Bởi vậy Chúa công nói là đi săn, không bằng nói là đi quan sát thực địa những vùng nông thôn, tìm hiểu ý dân về vấn đề đại nghiệp. Đó là những điều thường thấy ở những người anh hùng, cho nên Tuân Úc nói:

- Chúa công nghĩ rất hay. Ngày đông tháng giá, thỏ hoang và gà rừng hoạt động kém, không phải bắn giết, có thể đuổi bắt được.

Tào Nhân làu bàu:

- Đi thì đi. Chỉ sợ thỏ và gà cũng chết đói hết rồi!

Tào Mạnh Đức nhìn Tào Nhân rồi lại nhìn Tuân Úc đang suy nghĩ, vuốt râu cười lớn...

° ° °

Cánh đồng mênh mông, đồi núi chập chùng, những cảnh hoang tàn sau chiến tranh, thôn xóm tiêu điều ngập chìm trong tuyết trắng. Đâu đó có tiếng chó sủa từ một xóm nhỏ hoang vắng làm cho cảnh vật càng thêm thê

Gót sắt của thần chiến tranh đi qua đâu, thì nơi đó làm gì còn có không khí của ngày tết.

Đoàn người của Tào Mạnh Đức ngồi trên mình ngựa, đi trên tuyết và băng, phát ra những tiếng lạo xạo.

- Tuân Úc, ta nghe Trình Dục nói có một người tên là Quách Gia, tự là Phụng Hiếu, Viên Thuật không thích nên cho làm chân thư lại. Ông ta không phục, hai cha con bỏ về ở ẩn tại miền Đông Hà này. Nghe nói người đó văn thao vũ lược, thân tình với Trình Dục, coi nhau như tri kỷ. Có được người này, chúng ta như hổ thêm vuốt.

Tuân Úc nói:

- Suýt nữa tôi quên mất việc đó. Trí nhớ của chúa công thật là siêu việt. Chúng ta nên xuống ngựa dò tìm xem sao.

Vùng Đông Hà nằm trong phạm vi hàng mười dặm, xóm làng thưa thớt, người chết đã chết, kẻ bỏ đi đã đi, tìm kiếm một người đâu có dễ!

Tuân Úc nói:

- Người kỳ tài bao giờ cũng có cái đặc biệt, có thể chúng ta sẽ tìm thấy.

Tào Mạnh Đức xuống ngựa trước, và dặn mọi người đưa ngựa vào một chiếc tàu ngựa đã bỏ không, nhờ một bà nông dân gần đấy trông giúp và biếu tiền bà. Sau đó đoàn người đi trên tuyết thẳng tới một căn nhà ở phía xa. Một cái sân thật rộng. Ngày mùng một tết mà không thấy có một thứ gì ngoài một ông già đang lặng lẽ quét dọn những đống t

- Chào cụ, xin chúc cụ một năm mới khoẻ mạnh.

Tuân Úc đi lên trước chào hỏi.

Cụ già vẫn quét dọn tuyết. Có thể cụ điếc, cũng có thể cụ giả vờ như không nghe thấy.

Tào Nhân nói:

- Xin cụ cho nấu nhờ một ít cháo, hoặc một ít canh để chúng tôi ăn với lương khô. Xin biếu cụ vài lạng bạc.

- Cháo thì không có. Canh thì nấu được.

Cụ già không cầm tiền trước. Cụ đến chỗ chái nhà lấy một ít hạt tiêu rồi đi vào phòng. Tào Mạnh Đức đi theo sau. Cụ già mở vung một chiếc nồi ra. Mùi cỏ mục khó ngửi tràn ngập căn phòng.

Ai nấy cố nhìn xem, thấy trong nồi chỉ có vỏ và lá cây. Hạ Hầu Đôn bịt mũi quay đi. Duy có Tào Mạnh Đức và Tuân Úc thì chăm chú nhìn.

Cụ già múc vỏ cây và rau dại cho vào bát gỗ, chuẩn bị rắc hạt tiêu.

Tào Mạnh Đức bảo Tào Nhân lấy lương khô ra, và tự tay bỏ một gói lương khô vào trong nồi và nói:

- Xin cụ từ từ. Hôm nay chúng ta cùng ăn tết cho vui.

Không nói một lời nào, cụ già đậy vung lại và đi lấy thêm một ít củi khô cho vào l

Tuân Úc nhìn khắp lượt, và để ý đến một cây đàn cổ để trên một chiếc bàn cũ kỹ. Chiếc đàn tuy đã cũ, nhưng lại rất sạch, mặt đàn bóng nhoáng. Tuân Úc bỗng nghĩ: có thể là...

Trong lúc Tuân Úc đang chăm chú nhìn chiếc đàn, thì cụ già cũng lén nhìn những vị khách đến thăm nhà vào hôm mùng một này. Cụ già chú ý đặc biệt người khách đã đứng tuổi, vừa lùn vừa bé nhỏ, có đôi mắt sáng và khuôn mặt vuông vức. Cụ già suy nghĩ, ở cái thành Duyện Châu hàng mấy ngàn dặm, hết toán lính này đi qua, thì toán lính kia lại đến. Chúng tha hồ đốt, giết, cướp và hãm hiếp. Còn những người khách có dáng dấp quân nhân này cử chỉ lại hết sức lễ độ. Nhất là vị khách bỏ lương khô vào nồi có vẻ khang khác mọi người. Năm ngoái cụ già có vào thành Duyện Châu, đâu đâu người ta cũng nhắc đến nghĩa cử của Tào đô uý mở cửa kho phát gạo cho dân. Lẽ nào ông ta lại là... không, không phải! Cụ già lại tự phủ nhận những nhận xét của mình. Tào A Man là người đã từng giết hại bao nhiêu nghĩa quân ở Dĩnh Châu, Thanh Châu, không thể lại là con người hiền hậu này. Ông cụ còn nhớ rất rõ những câu chuyện người ta kể về Tào A Man khi còn nhỏ. Ngày nhỏ Tào A Man hay chơi bời quá độ, thích ca múa và gái đẹp. Đối với mọi người hay trí trá, lòng dạ không ngay thẳng. Một hôm ông chú đã mách với Tào Tung, cha của Tào A Man, những chuyện không hay của cậu. Khi bị cha mắng, cậu liền đảo mắt nghĩ ngay ra một quỷ kế. Một hôm thấy chú đến, Tào Mạnh Đức giả bộ ngã xuống đất, kiểu như người trúng gió. Chờ cho chú đi khỏi, Tào Mạnh Đức lại khoẻ mạnh như thường. Tào Tung nói: "Chú bảo con trúng phong, bây giờ đã khoẻ rồi sao? "Tào Mạnh Đức nói: "Có bao giờ .con bị như vậy đâu. Có điều là chú ghét, chú mới bảo con như vậy". Quả nhiên, Tào Tung tin lời con, nên bỏ ngoài tai những lời ông chú nói. Vì thế, Tào Mạnh Đức ngày càng phóng túng. Bấy giờ có người tên là Kiều Huyền nói với Tháo:

- Thiên hạ sắp loạn, phi có tay tài giỏi hơn đời thì không sao dẹp được loạn. Làm được như thế có lẽ chỉ có cậu!

Tào Mạnh Đức cho rằng Kiều Huyền châm chọc mình, nhưng không giận. Tào Mạnh Đức lén đến Nhữ Nam, tìm gặp Hứa Thiệu được coi là "thần bói" lúc bấy giờ. Tào Mạnh Đức hỏi:

- Như tôi là người thế nào?

Hứa Thiệu nhìn một lát từ đầu đến chân Tào Mạnh Đức rồi nói:

- Cậu là năng thần của đời trị và gian hùng của đời loạn!

Câu chuyện này làm cho hình tượng của Tào Mạnh Đức dần dần mờ nhạt trong tâm trí cụ già.

- Chúa công, chuẩn bị ăn thôi. - Hạ Hầu Đôn nói to để còn thức tỉnh cụ già và Tuân Úc đang suy nghĩ điều gì đó.

Tào Mạnh Đức xới một bát cơm thật đầy đưa đến tận tay cụ già. Cụ không từ chối và bắt đầu ăn ngay.

- Cụ thích đánh đàn phải không? - Tuân Úc bắt đầu gợi chuyện.

Cụ già thấy những người này không giống bọn người hay cướp phá. Họ thường giữ lễ với nhau, nên cụ yên tâm trò chuyện.

- Đàn là của con tôi, bỏ không đã lâu. - Cụ già trả lời.

Tuân Úc đã hiểu được ít nhiều nên không hỏi gì nữa

- Xin hỏi tướng quân là ai? Để sau này có thể đền đáp.

Tào Mạnh Đức đáp lễ rồi mới nói:

- Bỉ nhân họ Tào, tên là Tháo, tự Mạnh Đức, lúc nhỏ gọi là A Man.

Bát cơm trong tay cụ già rơi xuống. Lát sau, cụ quì trước mặt Tào Mạnh Đức mà nói:

- Lão phu có mắt như mù, làm phiền đến tướng quân, thật đáng tội.

- Miễn lễ, xin cụ đứng dậy. - Tào Mạnh Đức vội vàng đỡ cụ già dậy.

- Cha à! Hôm nay con gặp may, lúc đào rễ cây lại vớ được con thỏ đang bị rét cóng. Cũng làm được một bữa đây.

Lời nói vừa dứt, ở ngoài cửa đã xuất hiện một người thanh niên khoảng hai mươi sáu, hai mươi bảy tuổi, dáng người thanh tú, quần áo tuy có phần rách cũ nhưng trông vẫn khác hẳn những người thường. Cử chỉ tỏ ra nhanh nhẹn và dứt khoát, nhất là giữa hai hàng mi lộ ra một cái gì đó thông minh khác thường.

Không để cụ già kịp nói chuyện với người thanh niên. Tuân Úc đã đi lên trước.

- Mùng một đầu năm, đệ có nên tấu một khúc đàn để được may mắn không?

Người thanh niên thủng thẳng đ

- Tiên sinh cũng biết Bá Nha không còn nữa nên lâu nay đệ không muốn cầm đàn.

Tào Mạnh Đức, Tào Nhân và Hạ Hầu Đôn đều ngẩn người vì câu trả lời đơn giản của chàng thanh niên.

- Bá Nha chưa chết. Ông đang phò tá cho người cứu nguy xã tắc, dân sinh.

Câu nói của Tuân Úc có nhiều ẩn ý.

Tào Mạnh Đức hiểu được những lời nói đó.

- Con không đến chào Tào tướng quân đi. - Lúc này cụ già mới kịp lên tiếng.

Người thanh niên nhìn kỹ Tào Mạnh Đức đang vuốt râu, cười, rồi mới đi đến trước mặt lễ phép nói:

- Tiểu nhân không biết có đại tướng quân đến thăm, xin nhận của Quách Gia này một lạy!

Tào Mạnh Đức đi lên trước đỡ Quách Gia dậy và nói:

- Quách hiền sĩ, Tào Mạnh Đức ta từ lâu đã mong được gặp mặt.

- Tào tướng quân, Trình Dục huynh vì sao không đến?

- Trước đây, Trình hiền sĩ có theo ta đi đánh Viên Thuật và Lã Bố, mệt mỏi quá sức, nên đang điều dưỡng ở trong thành Duyện Châu.

Tuân Úc nói:

- Tào tướng quân đang trên đường hỏi thăm, may mắn được gặp Quách hiền sĩ ở đây. Thật là không uổng công. Không hiểu là Quách hiền sĩ có chịu ra giúp Tào tướng quân hoàn thành công cuộc hưng quốc an bang, lập đại nghiệp cho đời sau không?

Quách Gia nói:

- Cho tôi được mạo muội hỏi Tào Tướng quân về tình trạng hiện nay.

Tuân Úc nói:

- Cách đây mấy hôm, tướng quân đã có quyết sách lớn nghênh đón Thiên tử. Nhưng hiện nay Hoàng thượng còn ở trong tay bọn Lý Thôi, Quách Dĩ. Phần nữa, chiến tranh liên miên, dân tình điêu đứng, kho tàng rỗng không, quân lương thiếu thốn, còn có khó khăn.

Quách Gia nói:

- May mắn được Tào tướng quân yêu mến! Tôi hiểu được lời nói của Khổng phu tử: "Bất sĩ vô lễ" 1. Loài nấm biết chọn gỗ mà sinh sản, người hiền tài phải chọn chủ mà làm việc. Những việc mà Trình huynh làm được, Quách Gia này chắc cũng làm được.

Những lời tâm huyết đó, khiến Tào Mạnh Đức cảm động không nói nên lời, mãi về sau mới run run cầm lấy tay Quách Gia nói nghẹn ngào:

- Thật là lòng trời sắp đặt. Trời đã không phụ ta. Xã tắc còn có hy vọng, còn có hy vọng.

Quách Gia nói:

- Xin các vị cử đi trước. Sắp xếp xong công việc của cha tôi, tôi sẽ đến Duyện Châu.

Tuân Úc nói:

- Cũng được. Chờ cho Tào tướng quân săn bắn ở Thọ Sơn về, chúng tôi sẽ đi Duyện Châu trước.

° ° °

Trời đã quá trưa. Những bông tuyết cuối cùng đã hết. Mặt trời đã ở tận đỉnh đầu không biết tự bao giờ. Tuyết ở miền Đông Hà đã tan dần. Cha con Quách Gia ra tiễn Tào Mạnh Đức cùng đoàn người đi đã xa, mãi đến lúc họ khuất bóng vào trong hẻm núi.

Nhờ được ăn no, ngựa lại khoẻ, nên chẳng mấy chốc đoàn người đến chân núi phía nam Thọ Sơn.

Một hòn sơn môn chắn mất lối đi vào Thọ Sơn. Thiên nhiên tạo nên hai con suối rất sâu hai bên sơn môn. Hai cánh núi thật hùng vĩ. Có một chiếc thang cũ, dài và cao nối với con đường rất hẹp đi vào trong núi.

- Một người khép lại, trăm người không mở ra được! - Tào Mạnh Đức nói như vậy.

Dưới chân phía nam Thọ Sơn, những sườn đồi thoai thoải ở phía đông cũng như ở phía tây đều có mầu hồng. Tuyết đã tan. Cảnh vật, dưới những tia nắng mùa đông, dìu dịu và ấm áp, trông thật thích mắt.

Phía trong sơn môn là những khoảnh đất rộng rãi, cây cỏ xanh tươi, khác hẳn với những cánh đồng hoang trơ trụi, cây cỏ lơ thơ ở bên ngoài dãy núi. Xung quanh những khoảnh đất màu xanh ấy là những lều trại, khác hẳn với những căn nhà của người nông dân.

- Thật là một thế giới khác lạ. Lẽ nào lại có người ở trong sơn môn này. - Tuân Úc cảm thấy buồn bã. Ngọn lửa chiến tranh đã đi qua mảnh đất này, nếu không phải là những người sống sót sau các cuộc tàn sát, cướp bóc vừa qua, thì hẳn là những binh sĩ từ đâu đến đây sinh sống.

Tào Mạnh Đức và những người cùng đi buộc ngựa nơi lùm cây phía ngoài sơn môn, để mấy tên lính theo hầu ở lại trông nom, sau đó đi về phía sơn môn. Tào Mạnh Đức dặn mọi người phải hết sức cẩn thận, tuỳ cơ mà dùng cung tên hay đao kiếm.

Sơn môn đóng chặt. Đây là lối đi duy nhất dẫn đến chân núi phía nam Thọ Sơn. Hạ Hầu Đôn nói:

- Chúa công, chúng ta nên quay về phủ. Ở đây địa hình phức tạp, dân tình hỗn loạn, đói kém, đến nỗi phải ăn thịt người họ cũng không từ.

- Khi còn nhỏ ta đã đi săn, không mấy khi có được dịp như thế này, làm sao có thể bỏ về được!

Tào Mạnh Đức đến gõ vào sơn môn.

Một sự yên lặng đến kỳ cục. Trong sơn môn không có một tiếng động nào cả. Tào Nhân nóng nảy, bước nhanh tới sơn môn và đấm mạnh bằng cả nắm đấm của mình. S môn rung lên một chút, rồi lại yên tĩnh như cũ.

Mọi người đang chưa biết làm cách nào, thì trong sơn môn đã có tiếng động, tiếng va chạm của dao, kích và gậy gộc.

Tào Mạnh Đức kinh ngạc, lùi xuống mấy bậc đá. Hạ Hầu Đôn vội lên đứng chắn ngang trước mặt.

Riêng Tào Nhân thì không né tránh gì cả, vẫn đứng như một cột thép ngay ở cửa sơn môn.

Sau một tiếng hô nào đấy, một lũ người tay cầm dao, kích và gậy gộc xông ra. Cầm đầu là một người tay cầm dao to, rắn chắc hơn Tào Nhân, sau chiếc áo rét là những cơ bắp nổi lên cuồn cuộn.

- Bọn cướp ở đâu dám đến đây gõ cửa sơn môn mạnh như vậy? - Giọng người đó vang như chuông.

Tuân Úc chạy lên trước đáp lễ và nói:

- Tráng sĩ, chúng tôi từ xa tới. Nghe nói săn bắn ở đây rất tốt. Không ngờ làm kinh động đến các vị. Vậy xin tráng sĩ bớt giận!

Tráng sĩ khịt một tiếng như có sấm ở trong mũi rồi nói:

- Sơn môn này chỉ mở cho những ai đi lấy vỏ cây, đi đào rễ cây. Xem ra các người không phải là đám nông dân nghèo khổ. Chắc là sung sướng quá rồi, tìm đến đây để tiêu khiển! Mau mau nộp ra đây vài lạng bạc rồi hẵng nói chuyện.

Tào Nhân đã nổi nóng, nên giọng nói rất nghiêm

- Là nhân sĩ ở vùng nào? Sao không ở nhà cày cấy làm ăn, mà lại đến đây chiếm núi xưng vương.

- Ta không bao giờ phải giấu giếm, ta là Hứa Chử, người nước Bái. Quan quân bức hại chúng ta phải đến đây. Ta không muốn lừa dối mọi người, chỉ muốn mượn mảnh đất này để nuôi sống những anh em cùng cảnh như ta. Nhà ngươi thì khỏi phải nói, ngay cả Tào Mạnh Đức có đánh đến đây ta cũng sẽ đánh cho không còn một mảnh giáp.

Hứa Chử làm bộ như không có ai dám động đến mình.

Tào Nhân không chịu được nữa, rút kiếm ra ngay.

Hứa Chử cười như điên:

- Hứa Chử ta đã lâu không được chém giết. Giết hết lũ quan kẻ cướp chúng mày để ăn tết cho vui.

Nói chưa dứt Hứa Chử đã vung dao khai chiến.

- Hứa đại ca, đại ca, đừng tay đã!

Quách Gia hét lớn từ trên lưng ngựa và nhanh chóng nhảy xuống, lên mấy bậc đá, đứng vào giữa Tào Nhân và Hứa Chử:

- Hứa đại ca, suýt nữa đại ca gây ra tai hoạ lớn. Đây chính là người mấy hôm trước, vất vả đi hàng trăm dặm đường truyền tin Tào tướng quân mở cửa kho phát chẩn cho dân.

Quách Gia dẫn Hứa Chử đNớc mặt Tào Mạnh Đức. Hứa Chử cúi đầu bái lạy:

- Hứa Chủ này là người thô lỗ, không biết là Tào tướng quân đến thăm. Xin nhận của đệ một lạy.

Tào Mạnh Đức cầm cánh tay trơn bóng của Hứa Chử và nói:

- Tráng sĩ không phải bối rối. Thật khó có được một người anh vũ như thế này. Xin hãy đứng dậy!

Quách Gia nói:

- Đệ đã nghĩ đến đại ca, sợ đại ca kinh động tướng quân, nên mới phóng ngựa ra đây, nếu chậm một chút nữa, e đại ca đã gây ra hoạ lớn.

Hứa Chử ngập ngừng:

- Làm sao mà biết được...

- Đệ có ý lo mọi việc cho cha xong, sẽ theo Tào tướng quân về Duyện Châu cùng lo việc lớn. Không biết Hứa đại ca nghĩ như thế nào?

Hứa Chử có phần do dự.

Quách Gia lại nói:

- Chiếm núi xưng vương không phải là ý nguyện của người đại trượng phu. Trước đây đệ không nghe huynh dọn vào trong núi cũng vì lẽ đó. Huynh xem, chiếc đàn cổ của đệ đã ở trên lưng ngựa. Huynh trưởng Trình Dục đã theo Tào tướng quân trước chúng ta rồi. Huynh còn do dự gì nữa. Tào tướng quân là anh tài cái thế. Huynh làm gì cũng dứt khoát, nhanh nhẹn, hôm nay làm sao cứ như cô dâu về nhà chồng vậy!

Hứa Chử nghe biết một người như Trình Dục cũng đã đi theo Tào Mạnh Đức, giờ lại nghe lời khuyên có tình có lý của Quách Gia nên vội nói luôn:

- Hiền đệ khỏi phải nói nữa, ta về núi thu xếp, ngày mai sẽ đưa mấy trăm anh em về Duyện Châu.

Hứa Chử, Quách Gia đi trước mở đường dẫn Tào Mạnh Đức và những người khác vào trong núi.

Tào Mạnh Đức nói nhỏ với Tuân Úc.

- Cuộc săn lần này thế nào?

Tuân Úc chỉ cười.

° ° °

Mấy ngày tết trôi qua rất nhanh.

Theo ý Tuân Úc và Trình Dục lập đô ở Hứa Xương là tốt nhất. Hứa Xương ở về phía đông nam thành Lạc Dương, thuộc vùng Dự Châu. Một năm làm cho Hiến đế thoát khỏi ảnh hưởng của quân khu Tư Lệ, quân Tây Lương. Mặt khác Hứa Xương rất gần huyện Tiêu, quê hương của Tào Mạnh Đức. Ở đây con người thật thà chất phác, Tào Mạnh Đức dễ dàng gần gũi với bà con. Nhưng điều kiện tiên quyết là phải tiêu diệt bằng hết thế lực các đoàn quân khác ở phía nam Dự Châu, nhất là các quận huyện thân Viên Thuật.

Ngày mười lăm đầu năm, Tào Mạnh Đức dẫn quân đóng đồn ở Vũ Bình. Trần Quận thừa tướng Viên Tự, thân Viên Thuật, phái hai viên đại tướng Từ Kiệt và Trương Cảm ra nghênh chiến. Hứa Chử chẳng khó khăn gì đã chém giết hai viên tướng đó. Tào Mạnh Đức ban thưởng Hứa Chử, phong làm Vạn kỵ tướng quân. Viên Tự mất hết khí thế, nghĩ rằng tình cảnh Viên Thuật cũng chẳng còn bao lâu, nên đã đưa quân đầu hàng Tào Mạnh Đức. Tào Mạnh Đức lệnh cho Tuân Úc giữ Thành Duyện Châu, phái Tào Hồng dẫn ba nghìn quân đến An Ấp nghênh đón Hán Hiến đế, chuẩn bị tiến vào Hứa Xương. Và bản thân Tào Mạnh Đức cùng Quách Gia, Hứa Chử, Hạ Hầu Đôn bố trí lực lượng ở vùng Trần Quận, chuẩn bị đối phó với các đạo quân thân Viên Thuật ở vùng Nhữ Nam, Dĩnh Châu.

- Quách Gia, ta bố trí quân như thế nào? Hiện nay, quân của Lưu Tích và Hoàng Thiệu tuy mạnh nhưng lại phân tán, không kịp kết thành một sợi dây thừng, chúng ta tập trung lực lượng tiêu diệt từng anh một.

- Chúa công nói rất đúng. Cần phải vận dụng linh hoạt như trong binh pháp của Tôn Tử.

- Phụng Hiếu đã nói quá lời, chỉ là tài mọn có đáng kể chi.

Mới có nửa tháng, Tào Mạnh Đức đã quét sạch binh lính của Lưu Tích và Hoàng Thiệu. Hà Nghị, Hà Mạn và một số toán quân nhỏ cũng lần lượt xin hàng. Tào Mạnh Đức đối đãi khoan dung, chỉnh đốn lại hàng ngũ, từng người đóng quân tại chỗ, đề phòng quân của Viên Thuật, Lưu Biểu xâm nhập.

Đồng thời với việc đó, các lực lượng khác ở gần Hứa Xương đã bị quét sạch. Tào Mạnh Đức lệnh cho Tuân Úc chuẩn bị dời đô về Hứa Xương, và đổi tên Hứa Xương thành Hứa Đô.

° ° °

Trong lịch sử, cứ mười vị Hoàng đế thì có đến chín vị bất hạnh. Có thể Hán Hiến đế là một trong các vị đó. Hơn mười tuổi đã phải khoác lên mình tấm áo hoàng bào, nhưng chưa một lần có quyền thực sự. Chủ tể thiên hạ là Đổng Trác. Đến khi Vương Doãn giết Đổng Trác, những tưởng tình thế sẽ đổi thay, nào ngờ lại rơi vào tay bọn Lý Thôi, Quách Dĩ. Hiện nay bọn Đổng Thừa lại đang làm chủ. Hán Hiến đế từ lâu đã nghe danh Tào Mạnh Đức ở Dĩnh Châu. Gần đây mới nhận được mật thư của Tào Mạnh Đức từ Duyện Châu gửi tới: "Dân không thể một ngày vắng chủ - Ngày nay trong nước loạn lạc. Thần vô cùng lo lắng. Phò trợ thánh chủ, vỗ yên thiên hạ là nguyện ước của Mạnh Đức này. Xin Hoàng thượng giữ gìn long thể, không quá ưu lo. Chờ khi Mạnh Đức bình định quân giặc ở Dự Châu sẽ chọn ngày lành tháng tốt, thân đến nghênh đón xa giá". Đọc xong thư mật, Hán Hiến đế cảm kích khôn nguôi. Quý hoá quá, thật là quý hoá! Trong lúc sơn hà điêu đứng, thật khó có một nhân tài, chí khí cao xa, yêu nước , thương dân như thế này.

Một buổi sáng tháng hai, trong thành Lạc Dương tiêu điều và lạnh lẽo, Hán Hiến đế được Đổng Thừa đưa lên mặt thành. Ở đây từng khóm mẫu đơn đang đâm chồi nẩy lộc xanh tốt. Lẫn trong gió xuân dìu dịu một mùi thơm thoang thoảng. Mẫu đơn Lạc Dương là nhất thiên hạ. Mùa hè đến, thành Lạc Dương là vương quốc của mẫu đơn. Hán Hiến đế nhìn những đàn chim én, lướt qua mặt thành, bay về phương nam mà lòng đầy cảm khái. Người không phải là thảo mộc, đó là nhân tính bình thường nhất. Làm một vị đế vương những lúc hô phong hoán vũ thật là oai phong. Nhưng hễ bước chân xuống khỏi điện Kim Loan là gặp ngay những điều bất trắc. Muốn sống một ngày như người dân thường cũng không được. Ở đây, anh cướp, tôi đoạư một khối thịt biết đi, chẳng có suy nghĩ và cũng chẳng có tự do. Nếu được tái sinh nhất định ta sẽ là một thứ dân. Cho dù cuộc sống có khốn khó, hoang dã bao nhiêu đi nữa, vẫn hơn cuộc sống của ta hiện nay rất nhiều. Và khi phóng tầm mắt vượt qua núi non trùng điệp, nhìn về hướng Hứa Xương, trong lòng Hiến đế như có một luồng ánh sáng mới mẻ, hình như bầu trời nơi Hứa Đô kia cũng sáng láng hơn, xinh đẹp hơn.

Lúc bấy giờ, lòng dạ Hiến đế chỉ có một mong muốn: ngày mà quân Tào dẹp yên thiên hạ chóng đến hơn. Ngày vui ca khúc thanh bình cũng chóng đến hơn.

Thái uý Dương Bưu tiến lên trước tâu với Hiến đế.

- Tào Mạnh Đức ở Sơn Đông là người có thực lực hùng mạnh, có thể truyền gọi về triều phò tá vương thất.

Hiến đế mừng rỡ nói:

- Ta sẽ giáng chiếu, truyền Tào tướng quân vào cung bàn bạc việc nước. Dương Bưu lo liệu việc này ngay.

° ° °

Viên Thiệu tự thấy lực lượng của mình mạnh hơn bên Tào Mạnh Đức nhiều lần, nên rất không hài lòng việc Tào Mạnh Đức nghênh đón Hoàng thượng. Nhiều lần gửi thư cho Tào Mạnh Đức, trong thư chỉ gọi là A Man, và có lời lẽ ác động, nhục mạ. Tào Mạnh Đức nói: "Chim sẻ đòi có ý chí của hồng hạc!". Không phải bận tâm. Tào Mạnh Đức tuy không thèm đọc thư của Viên Thiệu, nhưng trong lòng vẫn có điều gì đó không yên. Vào buổi hoàng hôn hôm đó, Tào Mạnh Đức cho mời Quách Gia đến để thổ lộ những nỗi khổ tâm của mình.

- Ta rất muốn cho anh chàng vô phép tắc đó một bài học, nhưng hiềm vì lực lượng của chúng ta còn yếu, làm thế nào bây giờ?

Từ sau khi theo Tào Mạnh Đức, Quách Gia cảm thấy thích thú. Con người này tuy bé nhỏ, lùn nhưng cường tráng, tư duy vô cùng nhạy bén. Có lần Quách Gia đã vui vẻ nói với Trình Dục:

- Đó mới thực sự là một ông chủ để đệ phù trợ.

Quách Gia nói với Mạnh Đức:

- Hàn Tín chịu được cái nhục chui qua háng, mấy câu chửi mắng đó có nghĩa lý gì! Chúa công như biển cả dung nạp được hàng trăm con sông. Viên Thiệu nhỏ mọn chỉ là một kẻ tiểu nhân. Trong lòng chúa công chứa cả thiên hạ, việc gì phải đối đáp với một kẻ hèn như vậy.

Tào Mạnh Đức rót thêm cho Quách Gia một chén rượu. Quách Gia lại nói:

- Về mặt lực lượng Lưu Bang thua xa Hạng Vũ. Chúa công biết rõ điều đó. Nhưng về mặt trí tuệ Lưu Bang hơn hẳn Hạng Vũ. Cho nên Hạng Vũ tuy mạnh nhưng rốt cuộc cũng phải bỏ mình ở Ô Giang. Sau khi quan sát tỉ mỉ tình hình giữa chúa công và Viên Thiệu, tôi nghĩ hai người cũng giống như Lưu Bang và Hạng Vũ. Viên Thiệu có mười phần bại, chúa công có mười phần thắng. Bề ngoài Viên Thiệu có vẻ mạnh, nhưng hoàn toàn không phải là đối thủ của chúa công.

Tào Mạnh Đức nghe xong cảm thấy thú vị. Song Tào Mạnh Đức lại rất muốn biết những điều phân tích của Quách Gia có gì khác với sự đánh giá của mình. Tào Mạnh Đức ngửa cổ uống một hơi hết chén rượu và hỏi dồn:

- Thế theo cách nhìn của ngài, ta có cái gì gọi là mười phần thắng và Viên Thiệu có mười phần thua là ở chỗ nào?

Quách Gia vừa đi lại vừa phân tích:

- Viên Thiệu xử sự khách khí với người khác, chuộng cái bề ngoài, lễ nghĩa phiền phức, khiến cho những người tài hoa khó chịu. Tào công chân thành và tự nhiên đối với mọi người, không chuộng hình thức, "đạo" như vậy là thắng. Viên Thiệu cắt đất xưng hùng, coi mình là nhất. Tào công nghênh đón Thiên tử, hợp với lòng người, "nghĩa" như vậy là thắng. Từ hai đời vua Hoàn, Linh đế đến nay, quyền lực nhà nước suy yếu, trật tự xã hội đảo lộn, Viên Thiệu xem thường pháp luật, thích làm những việc có lợi. Tào công thì chỉnh đốn pháp luật, giành lại quyền lực cho nhà nước, như vậy là thắng về "trị". Viên Thiệu đối ngoại tỏ ra khoan dung, đối nội thì ghen tỵ, nghi hoặc, bởi vậy, trong chính trường gồm toàn thân thích và anh em. Tào công dung nạp nhân tài, dùng người không kể huyết thống xa gần, như vậy là thắng về "độ". Viên Thiệu tuy đa mưu, nhưng việc làm không quyết đoán, thua xa Tào công biết ứng biến, trong thiên biến vạn hoá công việc vẫn có hiệu quả, "mưu" như vậy là thắng. Viên Thiệu thích bàn luận những điều viển vông, chuộng hư danh, thích thú và tin dùng những kẻ tràng ba khoát bẩy. Trái lại Tào công luôn là người chân thành, xem thường hư vinh, trọng người hiền tài, như vậy là thắng về "đức". Viên Thiệu nhìn thấy người cơ hàn, khổ cực thì động lòng ngay. Nhưng Thiệu không nhìn thấy những nỗi khốn khổ của trăm họ. Tào công không bị ảnh hưởng vì những việc nhỏ trước mắt, luôn nắm việc lớn của thiên hạ, có ơn với mọi người, thấu hiểu nỗi khổ của nhân dân, như vậy là thắng về "nhân". Viên Thiệu hốt hoảng khi nhìn thấy cảnh các đại thần trong triều tranh giành cướp đoạt. Tào công có nhận thức độc đáo và toàn diện đối vớiệc cục bộ, "minh" như vậy là thắng...

Quách Gia thao thao bất tuyệt. Tào Mạnh Đức càng nghe càng hiểu thêm nhiều điều.

Đã xong ba tuần rượu. Nét mặt Quách Gia hồng hào trông càng nho nhã, tuấn tú.

- Quách hiền sĩ năm nay bao nhiêu tuổi?

- Đã hai mươi tám tuổi.

- Việc hôn nhân thế nào?

- Trước đây bốn biển là nhà, chưa có dịp nghĩ tới chuyện đó.

Tào Mạnh Đức thuận miệng nói luôn:

- Ta có một đứa con nuôi tên là Hồng Đàn, cầm, kỳ, thi, hoạ đều thông. Phu nhân thường coi như khuê nữ. Nếu được cùng Quách hiền sĩ cầm sắt, xướng hoà, khiến lòng ta cũng đỡ day dứt, không biết ý hiền sĩ thế nào?

Quách Gia chối từ nói:

- Tào công đã hậu tình với tôi, tôi không dám nhận thêm ân lớn ấy nữa.

Tào Mạnh Đức nói:

- Giai lấy vợ, gái gả chồng là chuyện thường tình. Sao phải...

Quách Gia nói rõ thêm:

- X đừng quá bận tâm. Tôi chỉ là một hàn sĩ, đến một tấc đất cắm dùi cũng chưa có, chỉ sợ làm thương tổn đến danh vọng của Tướng công.

Tào Mạnh Đức nói:

- Ban nãy Quách Gia vừa tán dương ta biết xử nhân với người dưới, ăn ở không phân biệt sang, hèn. Vả Quách hiền sĩ tiền đồ còn rộng lớn.

Quách Gia đã bị bức đến không còn đường rút lui nên đành nói:

- Chúa công đối xử như vậy, Quách Gia tôi có phải đến mười lần chết vì Tướng công cũng cam lòng. Nhưng hiện nay công danh chưa thành, nên chưa dám nhận ân lớn đó. Chờ sau này mọi việc thay đổi, sẽ nói tới chuyện ấy cũng chưa muộn!

Tào Mạnh Đức bỗng cảm thấy ngỡ ngàng khi nói ra những điều như vậy. Qua ý kiến của Quách Gia, Tào Mạnh Đức bỗng chuyển hướng câu chuyện:

- Một người có nhân phẩm như Quách hiền sĩ thật là khó hiếm. Đã nói vậy thì ta cũng không ép buộc. Hơn nữa ta cũng chưa nói chuyện này với Hồng Đàn. Người con gái ấy cũng có những nhận thức độc đáo về con trai, chưa chắc là... Nào, nâng cốc! Chuyện vừa rồi coi như là chuyện nói vui!

Quách Gia lặng lẽ nâng cốc rượu.

Sau khi thiên cung về Lạc Dương, Hán Hiến đế xuống chiếu đổi hiệu Hưng Bình thành Kiến An năm đầu. Đúng vào năm mất mùa, thành trì phồn hoa xưa kia gồm mấy trăm hộ dân, nay đều rơi vào cảnh đói kém. Người người bỏ ra ngoài thành đào rễ cây, nhặt rau dại về ăn qua ngày.

Tào Mạnh Đức nghe nói Hán Hiến đế đã định cung ở thành Lạc Dương, bèn cùng với Tuân Úc bàn chuyện nghênh giá. Tuân Úc nói:

- Thời cơ không nên để mất, thời gian không chờ đợi chúng ta. Trước kia Tấn Văn Công thu nạp Chu Văn Vương, chư hầu bái phục, Hán Cao Tổ phát tang Nghĩa đế, thiên hạ qui tâm. Ngày nay Thiên tử gặp cảnh lao đao, tướng quân không ngại nguy hiểm, khởi xướng nghĩa binh phù hợp lòng người. Nay thời cơ đến mà không quyết, e người khác sẽ giành mất.

Tào Mạnh Đức nói:

- Nhanh chóng tiến về Lạc Dương tiếp giá!

° ° °

Lúc này, Lý Thôi, Quách Dĩ chẳng mấy chốc sẽ đuổi đến Lạc Dương. Đổng Thừa bàn với Hiến đế đi tránh nạn ở Sơn Đông. Đoàn người cùng Thiên tử mới đi khỏi Lạc Dương một hai dặm thì trước mặt đã có đại quân. Đó là Hạ Hầu Đôn dẫn đại quân đến trước. Thấy vậy Hiến đế mới yên tâm. Giờ đại quân của Lý Thôi, Quách Dĩ cũng kịp đến ngoài thành Lạc Dương. Hạ Hầu Đôn và Tào Nhân chia quân thành hai đạo kẹp lại, quân lính của Lý Thôi, Quách Dĩ bị đánh tan tác. Thiên tử trở về Lạc Dương. Ngày hôm sau, Tào Mạnh Đức dẫn quân về thành Lạc Dương. Sau khi cắt đặt xong xuôi mới vào thành gặp Hiến đế.

- Thần trước nay chịu ơn mưa móc của Hoàng thượng, ngày nay mới có cơ hội tốt lành. Thần đã dẫn quân dẹp yên lũ nghịch tử, gian thần khắp nơi. Mong bệ hạ coi x tắc làm trọng, giữ gìn long thể.

Hiến đế thấy Tào Mạnh Đức tuy lùn, nhỏ, nhưng cử chỉ và lời nói dứt khoát, minh mẫn, cho rằng người này về sau sẽ làm nên nghiệp lớn, nên phong Tào Mạnh Đức làm Tư Lệ Hiệu uý.

Ngay hôm đó Tào Mạnh Đức và thuộc hạ mật bàn về chuyện dời đô. Sau đấy có người đến triệu Tào Mạnh Đức vào cung bàn việc. Tào Mạnh Đức thấy người đó mi dài, mắt đẹp, sắc mặt hồng hào, tinh thần phấn chấn, liền nghĩ thầm: quan lại, quân dân ở Lạc Dương ai ai cũng vàng võ vì thiếu ăn, người này liệu có cách điều dưỡng gì mà được như thế? Tào Mạnh hỏi vui:

- Ngày nay trời làm đói kém, từ quân đến thứ dân, ai ai cũng có vẻ đói. Trông ngài thật khoẻ mạnh, xin dám hỏi điều dưỡng thế nào mà được như vậy?

Người đó đáp:

- Thưa tôi cũng không có phép gì lạ cho lắm, vốn chỉ ăn nhạt ba mươi năm nay.

Thế rồi Tào Mạnh Đức cùng người ấy bàn về những chuyện lớn trong thiên hạ. Người đó trình bày rõ những ý kiến riêng của mình. Anh ta tên là Đổng Chiêu, người ở Định Đào, Lạc Dương. Trước đây làm việc ở chỗ Viên Thiệu. Về sau nghe nói Thiên tử đã dời đô, bèn tìm đến Triều đình và được phong Chính nghị lang.

Đổng Chiêu nói:

- Các chư tướng trong triều nhiều người nhiều ý, chắc gì đã phục tùng việc dấy binh trừ bạo của ngài. Nên việc di giá về Hứa Đô là kế sách vẹn

Nghe Đổng Chiêu nói, Tào Mạnh Đức càng quyết tâm, nên ngày hôm sau vào cung tâu với Hiến Đế.

- Đông đô Lạc Dương hoang phế. Việc vận chuyển lương thực quá khó khăn. Hứa Đô của Lỗ Dương thành quách, cung thất, tiền bạc vật dụng, tất tất đầy đủ, nên thần cầu xin Hoàng thượng cho dời cung về Hứa Đô.

Hiến đế từng sai Thi Trung thái sử lịch là Vương Lập tính toán về đường trời đất xem sao. Vương Lập nói:

- Mệnh trời đã định, nhà Hán lấy mệnh hoả của vua, Hứa Đô thuộc thổ. Thay hoả là thổ, thay nhà Hán có lẽ là ở đất Nguỵ.

Hiến đế đồng ý. Trời đã định thế, còn nói gì nữa!

--------------------------------

1

Không phò tá kẻ tiểu nhân (ND).

CHƯƠNG XI

LƯU, QUAN, TRƯƠNG ĐI NGỰA TỚI

Sau khi nghênh đón Thiên tử, bước đầu chính quyền được ổn định, Tào Mạnh Đức quyết tâm giải quyết vấn đề cơ bản nhất là đời sống của trăm họ.

Tào Mạnh Đức hỏi Quách Gia:

- Theo ngài, nhiệm vụ cấp bách trước mắt của chúng ta là gì?

Quách Gia trả lời ngay:

- Phát triển sản xuất, ổn định lòng dân, làm cho người người no đủ thì mới chinh phục được thiên hạ.

Đúng vậy, phải lo cái ăn cho dân. Không có lương thực thì lòng người không phục. Quân Khăn vàng cũng vì cái dạ dày mà sinh sự đấy thôi. Trương Nhị Cẩu trước khi chết còn muốn được ăn no; cảnh tượng nhìn thấy hôm đi săn thú, tất cả những cái đó, một lần nữa lại lướt qua đầu óc Tào Mạnh Đức. Ký Châu là vùng đất trù phú nổi tiếng, nhưng quân của Viên Thiệu đôi khi còn phải nhờ vào lá cây để sông, quân Viên Thuật đóng ở Thọ Xuân vẫn phải bắt cua mò ốc. Các đạo quân khác đều phải chạy ngược, chạy xuôi, thần đói đang rình rập khắp nơi. Không có lương thực các cánh quân nhỏ sẽ tự tan rã, còn nói gì đến thắng lợi. Quách Gia phân tích thêm như vậy.

Tào Mạnh Đức sốt ruột hỏi luôn:

- Nhưng ai là người có kinh nghiệm về phát triển nông nghiệp đây?

Quách Gia nói:

- Tảo Tử là người thích hợp nhất.

Tảo Tử nguyên là viên quan một vùng ở Duyện Châu. Thời kỳ Trương Mạc, Trần Cung làm phản, Tảo Tử cố thủ ở thành Đông A, giúp Tào Mạnh Đức lậpược công lớn. Tào Mạnh Đức nhanh chóng cho mời Tảo Tử đến, và hỏi thẳng về vấn đề sản xuất lương thực. Tảo Tử nói:

- Quân Thanh Châu biên chế cách đấy bốn năm đều là nông dân, cho họ sản xuất ở đồn điền khi đóng quân ổn định; đồng thời chiêu mộ những người dân lang thang cho tiến hành trồng trọt. Bề trên đầu tư hạt giống, nông cụ... Sau khi thu hoạch chia phần theo một tỷ lệ nào đó. Có như vậy mới làm cho mọi người phấn khởi, tích cực phát triển nông nghiệp.

Tào Mạnh Đức nắm chặt tay Tảo Tử và nói:

- Ngài nói rất có lý. Duyện Châu trải qua loạn lạc, đất không có chủ, nhà không có người. Chúng ta có thể đưa ruộng đất về cho nhân dân, lại có sự cung cấp bên quân đội, đấy mới thật là những đảm bảo vững chắc.

Tảo Tử lại nói thêm:

- Cùng với sự phát triển nông nghiệp, chúng ta sửa chữa đê điều làm cầu cống, khơi dòng chảy, đào mương máng v.v... Xin cho Hàn Hạo trợ giúp tôi, vì ông ấy giỏi về mặt thuỷ lợi.

Hàn Hạo vốn làm quan dưới quyền Viên Thuật. Trong chiến dịch Khuông Đình, Hàn Hạo ra hàng Hạ Hầu Đôn. Hiện nay ông là quan trong Ngự lâm quân của Tào Mạnh Đức.

Thế là dòng suy nghĩ của Tào Mạnh Đức lại rơi vào một việc rất lớn. Họ Tào phấn khởi vô cùng: "Trời đã không phụ ta, người người đã giúp đỡ ta!".

° ° °

Trong khi Tào Mạnh Đức đang xúc tiến thành lập các đồn điền, củng cố lực lượng nội bộ thì hai địch thủ ở phía đông nam liên minh quân sự với nhau là Lã Bố và Viên Thuật phản kích mạnh mẽ. Sau khi bị Tào Mạnh Đức đánh bại ở chiến dịch Khuông Đình, Viên Thuật chạy về Hoài Nam chỉnh đốn quân lực. Vào cuối đời Hán, Hoài Nam là vùng đất không bị chiến tranh tàn phá, nên sản vật phong phú, nguồn thuỷ sản dồi dào, khiến lực lượng của Viên Thuật hồi phục nhanh chóng.

Sau khi bị Tào Mạnh Đức đánh cho tan tác ở Duyện Châu, quân đoàn của Lã Bố, bằng chiến thuật đánh úp; đã giành được chính quyền của Lưu Bị ở Từ Châu. Quân đoàn Lã Bố ngày càng mạnh, phạm vi ảnh hưởng ngày càng rộng, là một uy hiếp thực sự cho Viên Thuật. Bởi vậy, Viên Thuật chủ động cầu thân. Ở tây bắc có Lưu Bị đóng ở Tiểu Bái, phía tây có Tào Mạnh Đức, buộc Lã Bố phải đồng ý với lời đề nghị của Viên Thuật. Để thử lòng Lã Bố, Viên Thuật cử đại tướng Kỷ Linh tiến công Lưu Bị. Lưu Bị cử người đến cầu cứu Lã Bố. Các đại tướng trong doanh trại của Lã Bố đều cho rằng nên nhân cơ hội này tiêu diệt Lưu Bị, thống nhất Từ Châu. Khác hẳn tính lỗ mãng, đại khái, Lã Bố cho rằng, Viên Thuật và các bộ phận quân ở phương bắc có nhiều quan hệ gắn bó, nếu diệt xong Lưu Bị, Viên Thuật sẽ chia quân thành một gọng kìm từ nam và bắc đánh chiếm Từ Châu. Bởi vậy, Lã Bố chủ trương giải toả những khó khăn cho Lưu Bị.

Đại quân của Kỷ Linh đánh tới phía đông nam huyện Bái, Lưu Bị sẵn sàng liều chết chống cự. Trong lúc hai bên đang rút kiếm, đặt tên thì quân Lã Bố tới hoà giải. Thấy chủ tướng quân liên minh xuất hiện, Kỷ Linh đành phải tạm thời cho rút quân. Trong đó, Lã Bố đột xuất, biểu diễn một màn kịch tuyệt vời: bắn trúng cái kích nhỏ đặt trên viên môn cách xa hàng trăm rưởi bước để chứng tỏ cho hai bên biết võ nghệ cao cường của mình, mặt khác việc hoà giải hai bên là thuận theo ý trời, khiến cho âm mưu tranh bá ở phương đông của Viên Thuật trở thành xôi hỏng bỏng không.

Vì e sợ tính tham lam gian trá của Viên Thuật và lòng phản bội vô thường của Lã Bố, Lưu Bị đã tranh thủ thời gian chiêu mộ binh sĩ tìm cách thoát khỏi thế lực của Lã Bố. Chẳng bao lâu Lã Bố biết chuyện, bèn cho người đến hỏi. Lưu Bị lo sợ, bèn nghe theo lời Tôn Càn, bỏ đất Tiểu Bái, chạy sang phía tây đầu hàng Tào Mạnh Đức.

Hôm ấy, Tào Mạnh Đức đang uống rượu ngâm thơ ở trong trướng, nghe nói Lưu Bị đến hàng, thoạt đầu thì Tào Mạnh Đức kinh ngạc, nhưng sau một lát trầm ngâm, lấy lại vẻ bình tĩnh như cũ, vẫn ngồi uống rượu ngâm thơ.

Tuân Úc thấy sốt ruột liền nói:

- Lưu Bị là một bậc anh hùng hào kiệt, về sau rất khó khống chế, chi bằng giết đi để trừ hậu hoạ.

Tào Mạnh Đức ấn tay vào bộ râu, không tỏ thái độ.

Tào Mạnh Đức cho triệu Quách Gia đến gặp riêng, Quách Gia nói:

- Chúa công đấy nghĩa binh, trừ loạn cho trăm họ, điều quan trọng nhất là phải giữ chữ tín, chiêu hiền nạp sĩ. Lưu Bị được kể là một anh hùng, nay vì tình cảnh hết sức khó khăn phải đến xin hàng. Nếu sát hại Lưu Bị, chúa công sẽ không giữ được đạo nghĩa, chẳng khác gì lang sói, liệu còn có ai dám đến theo chúng ta nữa không? Lưu Bị là người không khống chế, nếu chúa công lại có lòng khoan dung, anh hùng hào kiệt trong thiên hạ sẽ kính mộ tài đức của chúa công mà qui phục chúa công. Nếu chỉ là một Lưu Bị mà phai mờ danh tiếng của chúa công, thì thật là đáng tiếc!

Tào Mạnh Đức cảm thấy những điều phân tích của Quách Gia thật có tình có lý.

Trình Dục gặp riêng Tào Mạnh Đức và nói:

- Lưu Bị không phải là loại người dễ cam tâm.gửi thân phận ở cửa người khác. Thả Lưu Bị chẳng khác gì thả mãnh hổ về rừng, có ngày hối không kịp. Nên học tập Hạng Vũ.

Tào Mạnh Đức nói giọng nghiêm khắc:

- Ngay nay thiên hạ đại loạn, cần có những người anh hùng biết đường kinh bang, tế thế như Lưu Bị. Không nên vì một người mà mất lòng tin ở thiên hạ. Ta đã biết cần phải đối xử thế nào với Lưu Bị. Các người không phải nói nữa. Dù sau này Lưu Bị có bội phản ta, ta cũng không hối hận.

° ° °

Tào Mạnh Đức đặt tiệc thết đãi Lưu Bị. Lưu Bị nói:

- Tướng quân bỏ qua điều hiềm khích khi xưa ở Từ Châu mà dung nạp một người tầm thường như tôi thì thực là khoan dung lắm lắm.

- Tiếng tăm nhân nghĩa, thương dân thời cai trị ở Từ Châu của Huyền Đức làm tôi khâm phục. Khôngỡ một người như ngài, thì bảo tôi giúp đỡ Viên Thuật và Lã Bố hay sao? - Tào Mạnh Đức tỏ ra rất khiêm tốn.

Trong bữa tiệc, Lưu Bị luôn thở dài, và sau đó thương cảm đến rơi lệ. Tào Mạnh Đức biết rõ Lưu Bị là người đa sầu đa cảm nên nói:

- Sứ quân đã đến đây giúp tôi vạch định kế hoạch cho việc lớn của thiên hạ, tại sao lại lo lắng. Có thể cho biết để tôi cùng chia sẻ được không?

Lưu Bị thấy Tào Mạnh Đức thành khẩn, nên nói:

- Lã Bố chiếm Tiểu Bái, ở đấy tôi còn hai người em cùng vợ con, tất cả không biết sẽ ra sao?

Tào Mạnh Đức an ủi:

- Sứ quân không nên quá đau buồn. Lã Bố lỗ mãng, sớm muộn rồi cũng sẽ phải đến đây nhận lệnh. Anh em, vợ con li tán chỉ là chuyện tạm thời. Trước đây sứ quân cư xử tốt với Lã Bố, chắc Lã Bố sẽ không sát hại người nhà sứ quân.

Hai người đang trò chuyện thì có quân đến báo:

- Lã Bố và Trần Cung liên kết với bọn giặc ở Thái Sơn, cùng nhau tiến công Duyện Châu.

Tào Mạnh Đức đập tay xuống bàn, miệng nói:

- Chính ta đang muốn cho con sói Lã Bố nếm một vài đòn đau để giải hận trong lòng sứ quân, nào ngờ hắn đã tự dẫn xác

Tào Mạnh Đức lệnh cho Tào Nhân dẫn ba ngàn quân đi đánh Bái Thành. Tào Mạnh Đức tự dẫn đại quân cùng Lưu Bị chặn đánh Lã Bố. Khi đến gần Tiêu Quan thì gặp bọn giặc Thái Sơn, Tôn Quan, Ngô Đôn, Doãn Lễ, Mạo Hi dẫn hơn ba vạn quân ra chặn đường. Hứa Chử bèn quát lớn:

- Lão Hứa ta theo chúa công đã lâu, nay mới có dịp khai đao.

Quả nhiên, với đôi tay để trần vung dao chém giết, cả bốn tướng kia đều không phải là đối thủ của Hứa Chử. Ai nấy lo chạy cho nhanh. Tào Mạnh Đức nhìn hoa cả mắt, và buột miệng nói:

- Quả là một viên hổ tướng.

Tào Mạnh Đức thừa thắng chiếm luôn Tiêu Quan.

Lã Bố nghe tin Tiêu Quan nguy khốn, liền dẫn quân quay về.

Tào Mạnh Đức được tin báo Lã Bố và Trần Đăng đang phóng ngựa quay về Tiêu Quan. Tào Mạnh Đức nghe xong hơi kinh ngạc, nhưng sau lại cười nói: "Ngày tàn của Lã Bố đã đến".

Lưu Bị nghe tin Lã Bố, Trần Đăng về cứu Tiêu Quan, cảm thấy nhẹ cả người.

Lưu Bị nói:

- Tướng quân không thể xem thường Lã Bố, khi hăng lên, hắn có thể chống đỡ với hàng vạn người.

- Trần Đăng cứu Tiêu Quan, coi như là đem Tiêu Quan tặng chúng ta. - Tào Mạnh Đức chỉ nói có thế.

Lưu Bị nghĩ: có lẽ giữa Tào Mạnh Đức và Trần Đăng...

Sự việc có thê kể từ sau hôm Tào Mạnh Đức nghênh đón Hiến đế về Hứa Xương.

Trần Đăng đến gặp riêng Tào Mạnh Đức.

Trần Đăng nói:

- Lã Bố khoẻ nhưng vô mưu. Phản phúc vô thường. Phải tìm cách loại trừ con người này.

Tào Mạnh Đức cũng nói:

- Lã Bố lòng lang, dạ sói. Loại người này không thể phục vụ Triều đình lâu dài. Tiên sinh là người hiểu rõ hư thực của Lã Bố hơn ai hết.

Trần Đăng là người huyện Bái. Con của tướng Trần Khuê. Cha con Trần Khuê có công lớn trong việc Lưu Bị tiếp nhận Từ Châu mục. Lã Bố ỷ thế cướp đoạt Từ Châu, cha con Trần Khuê không thể không thuần phục, nhưng lòng dạ vẫn hướng về Lưu Bị, bất mãn với bọn Lã Bố. Cha con Trần Khuê có tiếng tăm ở Từ Châu, người người quí mến, nên Lã Bố không thể không trọng dụng. Đó chính là lý do Lưu Bị cảm thấy nhẹ nhõm cả người.

Ngay lúc đó, Tào Mạnh Đức đã cấp thêm cho Trần Khuê hai ngàn thạch. Phong Trần Đăng làm Quảng Lăng Thái thú. Trước khi chia tay, Tào Mạnh Đức dặn dò Trần Đăng: "Mọi việc ở miền đông xin uỷ thác cho hai cha con ngài".

Lã Bố ba lần bảy lư̖giục Trần Đăng tiến cử mình với Tào Mạnh Đức để giữ chức Từ Châu mục. Kết quả thật không ngờ, cha con Trần Đăng vừa được thăng quan vừa được tăng lương, còn bản thân mình chẳng vớ được cái gì. Cho nên có lúc Lã Bố đã nổi nóng trách móc Trần Đăng:

- Cha con ngài khuyên ta nên hiệp đồng với Tào Tháo. Đoạn tuyệt quan hệ bên chỗ Viên Thuật. Ngày nay ta chẳng được một cái gì cả. Hai cha con ngài thì có nhiều may mắn. Nhất định các ngài đã phản lại ta!

Trần Đăng thong thả trả lời:

- Tôi đã gặp Tào công và nói rằng; nuôi dưỡng Lã tướng quân chẳng khác gì nuôi một con hổ, cần có nhiều thịt, cần cho ăn no, nếu không, hổ mà đói là có thể ăn thịt cả người. Tào công cười nói tôi so sánh không hoàn toàn chính xác. Người còn nói, nuôi dưỡng Lã tướng quân như nuôi chim ưng, lúc nào cũng phải để cho chim có cảm giác đói, thì nó mới ở với mình. Còn nếu thoả mãn đầy đủ nhu cầu của nó, nó sẽ bay đi luôn.

Lã Bố cho rằng Tào Mạnh Đức coi trọng mình, nên đã cho qua mọi chuyện.

Đoạn đối thoại trên là lý do để khi biết Trần Đăng và Lã Bố quay về cứu Tiêu Quan, Tào Mạnh Đức mới nói ngày tàn của Lã Bố đã đến.

° ° °

Trần Đăng dẫn quân vào Tiêu Quan. Nhân trời tối, đi hàng mấy chục dặm đến chỗ Tào Mạnh Đức để nói rằng:

- Việc tướng quân giao phó cho tôi hôm nay có thể hoàn thành. Tôi sẽ đốt lửa làm hiệu, bất ngờ đánh úp Tiêu Quan và quân của Lã Bố, khi chúng đến cứu viện.

- Thằng ranh Lã Bố đã đến ngày tận số. - Tào Mạnh Đức tỏ ra rất cảm kích.

Trần Đăng lại cử người đưa tin cho Lã Bố, hẹn hò đốt lửa làm hiệu cùng với Trần Cung tiến đánh Tào Tháo ở ngoài thành Tiêu Quan.

Đêm đó, Trần Đăng lại vào Tiêu Quan nói với Trần Cung:

- Tào Tháo đã trực tiếp tiến đánh Từ Châu. Lã tướng quân đã lui vào thành, Tiêu Quan trở nên đơn độc, có giữ cũng vô ích. Ngài nên nhanh chóng dẫn quân cứu viện Từ Châu!

Trần Cung không biết hư thực, nhưng khi nhìn thấy Trần Đăng cầm thẻ quân lệnh của Lã Bố, bèn nhanh chóng dẫn quân rút về Từ Châu. Trần Đăng cho đốt lửa làm hiệu. Nhìn thấy ám hiệu, Lã Bố cho quân tiến đánh Tiêu Quan và trong đêm tối gặp ngay quân của Trần Cung, hai quân chém giết lẫn nhau.

Tào Mạnh Đức vung roi, Hứa Chử cầm đao nhảy lên ngựa phóng thẳng tới cửa thành Tiêu Quan.

Tào Mạnh Đức đã chiếm được Tiêu Quan dễ như trở bàn tay.

Sáng sớm, tàn quân của Lã Bố và Trần Cung kéo về Từ Châu. Cửa thành Từ Châu đóng chặt, trong thành yên ắng như không có người. Lã Bố ở dưới thành lên tiếng gọi Trần Khuê, nhưng My Chúc đã ra trả lời:

- Trần Khuê đã bị ta giết rồi. Nay Từ Châu qui thuận Triều đình, mong Lã Bố tướng quân tìm đến nơi khác.

Lã Bố nghiến răng, lớn tiếng gọi Trần Đăng.

Trần Cung lắc đầu thở dài:

- Tướng quân vẫn chưa biết Trần Đăng là phản tặc hay sao?

Lã Bố hạ lệnh tìm kiếm Trần Đăng. Trần Đăng đã biến mất tăm.

Lã Bố đành phải nghe theo Trần Cung rút quân về Tiểu Bái.

Lã Bố trên đường rút quân gặp hai tướng Cao Thuận và Trương Liêu. Lã Bố nói:

- Hai vị không giữ Tiểu Bái lại dẫn quân tới đây?

Trương Liêu trả lời:

- Trần Đăng đến báo, chúa công bị vây ở Từ Châu, nên phải dẫn quân đến giải cứu.

Lúc này Lã Bố mới hiểu hết mọi chuyện.

Khi Lã Bố dẫn quân về đến Tiểu Bái đã nhìn thấy cờ của họ Tào cắm đầy trên mặt thành. Nhưng bất thần thấy Quan Vân Trường và Trương Phi xông ra, Lã Bố không địch nổi, liền mở một con đường máu, cùng Trần Cung chạy về Hạ P

Ba anh em trong đào viên gặp lại nhau trong cảnh ngộ này, mừng mừng, tủi tủi. Lưu Bị nắm chặt tay hai em, vừa khóc vừa nói:

- Thật như trong một giấc mơ!

My Chúc nói:

- Sứ quân yên tâm. Gia quyến bình yên vô sự.

Bây giờ ba anh em mới yên tâm hàn huyên những chuyện trong lúc ly tán.

° ° °

Theo kế hoạch của cha con Trần Khuê, tất cả các quận, huyện ở Từ Châu đều bị dẹp tan. Số tàn quân phối hợp với quân Tào vây đánh Hạ Phi.

Trình Dục hiến kế với Tào Mạnh Đức:

- Quân trung thành Lã Bố hiện đóng ở Hạ Phi. Nếu bị bức mạnh quá chúng sẽ phá vây sang hàng Viên Thuật. Hai người này câu kết với nhau, thì cục diện ở phía đông nam khó bề kiểm soát. Chi bằng ta vừa đánh vừa kêu gọi Lã Bố đầu hàng, làm xao xuyến lòng quân. Đồng thời cử một đạo quân có khả năng độc lập tác chiến trấn giữ vùng Hoài Tứ, nhằm cắt đứt mọi liên hệ giữa Lã Bố và Viên Thuật, làm tiêu tan ý đồ phá vây của Lã Bố.

Tào Mạnh Đức suy nghĩ một lát rồi nói:

- Chúng ta làm theo ý kiến của Trình t quân. Mau chóng cho người thảo chiếu gọi hàng, gửi cho Lã Bố. Lã Bố chẳng khác gì kiến bò trong chảo nóng, lại không thấy Viên Thuật đến trợ giúp. Lưu Bị trấn giữ Hoài Tứ, có hai viên đại tướng Quan, Trương, không dễ gì phá được vòng vây! Lã Bố liền suy nghĩ: làm tướng phải biết tiến, biết thoái. Ta cứ qui phục giặc Tào, khi có thời cơ sẽ lại tính sau.

Trần Cung khuyên can Lã Bố:

- Ai ai cũng biết Tào Tháo là kẻ gian trá. Hôm nay tướng quân đầu hàng hắn, ngày mai hắn sẽ nghiền nát tướng quân ra như cám.

Lã Bố mất hết cả tính hung hăng, kiêu ngạo, nói như tuyệt vọng:

- Ôn Hầu ta thừa biết giặc Tào là người như thế nào, nhưng nay...

Trần Cung nói:

- Đại quân của Tào Tháo từ xa tới, quân lương đều tốn rất nhiều mùa rét sắp tới, việc cung ứng lương thảo không thể kéo dài. Tướng quân có thể đem quân chủ lực đóng ở ngoài thành. Tôi và Cao Thuận trấn giữ trong thành Hạ Phi. Nếu quân Tào tấn công tướng quân chứng tôi sẽ đánh tập hậu. Ngược lại, quân Tào phá thành, tướng quân lại từ ngoài đánh vào. Không phá được thành, sĩ khí quân Tào sẽ sa sút, lương thực lại thiếu, bất quá mươi ngày quân Tào sẽ phải rút.

Lã Bố nghe lời Trần Cung, lệnh Cao Thuận cùng Trần Cung giữ thành, chuẩn bị dẫn quân đi cắt đứt đường tiếp tế của Tào Mạnh Đức. Vợ Lã Bố là Nghiêm thị khuyên chồng:

- Cao Thuận và Trần Cung vốn bất hoà. Tướng quân ra ngoài, không biết hai người có đồng tâm hiệp lực với nhau không. Ngộ nhỡ có chuyện gì thì e tướng quân sẽ không còn đường về. Trước đây Tào Tháo đã lấy tình cốt nhục đối xử với Trần Cung mà hắn vẫn làm phản. Tướng công đối xử với Trần Cung có bằng họ Tào không? Tướng quân ra đi ngộ nhỡ trong thành có biến thì thiếp...

Nói xong, Nghiêm thị nước mắt đàm đìa. Điêu Thuyền cũng khóc, khuyên Lã Bố không nên ra ngoài thành.Â� Nhìn thấy hai người phụ nữ khóc lóc, Lã Bố không làm theo lời Trần Cung nữa.

Trần Cung ngửa mặt trông trời mà than rằng:

- Chỉ mấy hôm nữa, đời ta sẽ nằm trong tù ngục của Tào Tháo.

Tào Mạnh Đức đánh mãi mà không hạ được thành liền nghĩ: Người cầm quân kỵ nhất là đưa quân đi đánh xa. Mình đã phạm sai lầm rồi chăng? Nên có ý muốn rút quân về Duyện Châu.

Quách Gia, Tuân Úc tích cực phản đối. Quách Gia nói:

- Lã Bố là kẻ hữu dũng vô mưu, lúc này nhuệ khí đã mất. Ba quân lấy tướng làm chủ. Chủ tướng mất hết khí thế, ba quân không còn ý chí chiến đấu. Trần Cung là người mưu lược, nhưng tác phong chậm chạp, ít ứng biến. Thời tiết sắp trở rét không lợi cho việc đánh xa. Nhưng trong lúc tinh thần Lã Bố chưa hồi phục, nếu cứ đánh mạnh thêm ít nữa, họ sẽ không chịu đựng nổi.

Tào Mạnh Đức như vừa hiểu được một chân lý lớn lao, bèn hạ lệnh dẫn nước sông Tứ Thuỷ, Nghi Thuỷ vào thành Hạ Phi, cắt đứt mọi đường giao thông bên ngoài. Lương thảo quân đội không còn được bao nhiêu Tào Mạnh Đức liền ra lệnh: tất cả phải ăn chá

Có một người đầu bếp húp trộm hai bát cháo, bị quân lính giải tới. Tào Mạnh Đức nhìn người đầu bếp dung nhan tiều tuy hình dáng gầy gò, Tào Mạnh Đức quay mặt đi và nói:

- Đưa ra chém đầu!

Hình dáng Trương Nhị Cẩu bỗng hiện ra trước mặt Tào Mạnh Đức. Tào Mạnh Đức lại nói tiếp:

- Thong thả, cho nó ăn thêm hai bát cháo nữa.

Người đầu bếp cúi đầu tạ ơn. Trước khi hành hình hắn khóc và nói:

- Có chết tôi cũng không ân hận. Chỉ tiếc là không được thấy quân ta lấy thành Hạ Phi.

Nghe xong, Tào Mạnh Đức cũng thấy ứa nước mắt.

° ° °

Trời đã sắp sang đông. Lương thực trong thành Hạ Phi cũng không còn được bao nhiêu. Trần Cung dự đoán lương thực quân Tào chắc cũng như vậy. Nên Trần Cung đề nghị Lã Bố hạ lệnh giảm lương thực trong toàn quân và không được bày đặt yến tiệc.

Tướng giữ thành tên là Hầu Thành một lần làm mất ngựa xích thố của Lã Bố. Lúc tìm được ngựa, có mấy vị tướng khác dâng lễ chúc mừng. Hầu Thành đem chia đều các lễ vật, có một phần dâng biếu Lã Bố. Nhìn thấy lễ vật, Lã Bố liền nổi giận:Â�

- Ta vừa cấm tiệc tùng. Nay các người lại đem rượu đến cho ta, có khác gì các ngươi đã chống quân lệnh.

Nói xong Lã Bố hạ lệnh chém đầu Hầu Thành.

Ngụy Tục và các tướng khác đứng ra van xin, Lã Bố mới chịu giảm xuống thành hình phạt bằng roi. Từ đó sự hiềm khích giữa các tướng lĩnh và Lã Bố càng gia tăng. Lã Bố là một kẻ thô lỗ, ai nấy đều lo cho số phận của mình. Do đó ý tưởng phản loạn dần hình thành ở khắp mọi nơi.

Mùa đông đã đến.

Quân của Hầu Thành làm phản. Ngụy Tục hưởng ứng theo.

Thời cơ chín muồi, Tào Mạnh Đức hạ lệnh tổng công kích.

Cửa thành Hạ Phi phía tây và phía bắc đều bị công phá. Cao Thuận và Trần Cung bó tay chịu trói. Trương Liêu cũng bị bắt khi cố phá vây. Lã Bố bảo vệ thê thiếp và gia quyến lui về cửa bắc.

Nhìn thấy Điêu Thuyền thật đáng yêu, Lã Bố nhớ đến câu chuyện của Hạng Vũ, bèn ôm lấy Điêu Thuyền. Trong lúc sinh ty tử biệt, Lã Bố đã không nghe thấy tiếng hò reo của quân Tào, đã điên cuồng hôn lên khuôn mặt của Điêu Thuyền, để tay vào bộ ngực ấm áp của nàng...

Hầu Thành, Nguy Tục cướp thanh hoạ kích để ở bên ngoài của Lã Bố, sau đó dễ dàng bắt trói lại khi hắn đang say mưa hoan lạc với Điêu Thuyền.

Trong lúc thẹn thùng, trông Điêu Thuyền càng xinh đẹp và đáng yêu. Hầu Thành nói vui:

- Chẳng trách Lã Ôn Hầu muốn chết ngay trên thân xác người đẹp.

° ° °

Lã Bố, Trần Cung, Trương Liêu được giải đến lầu Bạch Môn.

Tào Mạnh Đức, Lưu Bị đang ngồi ở đó. Quan Vũ, Trương Phi và những người khác đứng bên cạnh.

Một lá cờ lớn có chữ "Tào" đang phần phật trước gió đông. Lã Bố thản nhiên nói:

- Cuộc chiến tranh này đã kết thúc, việc lớn trong thiên hạ cũng đã xong.

Tào Mạnh Đức nói:

- Ta chưa hiểu hết được ý nghĩa của câu ông nói.

Lã Bố nói:

- Người mà ngài sợ nhất chính là Lã Bố này. Ngày nay tôi đã tâm phục. Giả dụ ngài cho tôi làm tiên phong của ngài, tôi nhất định sẽ giúp ngài bình định thiên hạ.

Tào Mạnh Đức chỉ cười mà không trả lời

Lã Bố bỗng nhìn thấy Lưu Bị ngồi ngang hàng với Tào Tháo liền quay sang nói to với Lưu Bị:

- Huyền Đức, hiện nay ngài là khách, còn tôi sẽ bị tù tội. Tôi bị trói chặt quá, đau đớn khó chịu, mong ngài nói giúp hộ tôi!

Tào Mạnh Đức nghĩ bụng: Lã Bố rất khoẻ, một chọi mười. Nếu ta cho hàng, Lã Bố có thể xung phong vào những nơi hiểm yếu, nên Tào Mạnh Đức cười nói:

- Trói hổ phải trói thật chặt. - Sau đó hạ lệnh cho tả hữu cởi trói cho Lã Bố.

Lưu Bị phát hoảng liền đứng ngay dậy và nói với Tào Mạnh Đức:

- Lẽ nào minh công đã quên chuyện Lã Bố đối xử với Đinh Nguyên và Đổng Trác rồi sao?

Tào Mạnh Đức bỗng tỉnh ngộ, liền hạ lệnh xử tử Lã Bố.

Khi bị giải đi, Lã Bố còn quay lại gào lên với Lưu Bị:

- Đồ tai to, kẻ bất nghĩa. Đã quên lúc ta bắn kích ở viên môn để giải nguy cho ngươi rồi sao?

Tào Mạnh Đức như nhận thức được điều gì, liếc nhìn Lưu Bị. Lưu Bị vẫn ngồi yên, coi như không có chuyện gì xảy ra.

Lúc đó thị vệ đã đẩy Trần

- Công Đài mưu lược hơn người, vừa qua mơ hồ theo gã thất phu Lã Bố. Nay trắng đen đã rõ, liệu có vui lòng ở lại giúp ta bình định thiên hạ không?

Tào Mạnh Đức có ý gọi hàng Trần Cung.

Trần Cung nói:

- Trước đây tôi đã bỏ ngài mà đi, vì ngài không ngay thẳng, dối trá và có nhiều âm mưu ác độc.

Mạnh Đức cười nói:

- Tào Mạnh Đức ta, không tính đến điều oán cũ. Còn lòng ta ngay thẳng hay không, sau này sẽ được đánh giá. Nay ta ngưỡng mộ tài năng của ông, thật lòng muốn giữ lại.

Trần Cung nói:

- Tôi là người đường đường chính chính trong thiên hạ, lẽ nào ngọc sáng lại để vào chỗ tối?

Tào Mạnh Đức nói:

- Ông không biết tiếc thân mình, thế còn mẹ già ai là người phụng dưỡng?

Trần Cung nói:

- Mẹ già như những người già khác, tôi nghe nói những người biết lấy hiếu trị thiên hạ thì không bao giờ giết hại cha mẹ người khác. Mẹ tôi sống chết thế nào là tu minh công, tôi không thể quyết định được.

Tào Mạnh Đức nói:

- Thế còn vợ con ông thì thế nào?

Trần Cung nói;

- Con trẻ như con trẻ khác, tôi nghe nói người biết lấy nhân trị thiên hạ thì không bao giờ giết hại con cháu người khác. Sự an nguy của vợ con tôi là quyền ở minh công, tôi không thể quyết định được.

Tào Mạnh Đức nghe xong, yên lặng hồi lâu, cảm thấy choáng váng, sau đó phẩy tay:

- Đưa ra ngoài kia đi!

Trần Cung vẫn không ngớt chửi mắng.

Thị vệ đưa Trương Liêu vào.

Tào Mạnh Đức chỉ Trương Liêu và nói:

- Người này trông quen quá.

Trương Liêu nói:

- Tôi và ngài đã gặp nhau ở Lạc Dương. Thật khó mà quên được. Chỉ tiếc rằng...

Tào Mạnh Đức nghĩ Trương Liêu có ý muốn hàng, nên hỏi luôn.

- Vậy tiếc

- Chỉ tiếc rằng lửa hôm đó không đủ để thiêu chết ông, kẻ quốc tặc.

Giọng Trương Liêu thật nghiêm khắc, nét mặt đanh lại. Tào Mạnh Đức đứng vụt dậy, rút luôn gươm ra. Trương Liêu mặt không biến sắc, và giơ cổ ra. Lưu Bị vội nắm lấy cánh tay Tào Mạnh Đức. Quan Vân Trường nói:

- Trương Liêu nổi tiếng là người trung nghĩa, tôi xin đảm bảo bằng tính mệnh của mình.

Tào Mạnh Đức liền cười lớn:

- Ta thích nhất là người trung nghĩa, nên mới đùa một chút thôi mà! - Nói xong, Tào Mạnh Đức tra kiếm vào bao và đi tới cởi trói cho Trương Liêu. Trương Liêu không ngờ Tào Mạnh Đức lại có tấm lòng như vậy, lấy đức báo oán. Ngay đến Lưu Bị cũng về đây, vậy mình còn phải suy nghĩ gì nữa? Trương Liêu quỳ trước mặt Tào Mạnh Đức:

- Tôi xin qui phục Tào tướng quân.

- Chúa công, vợ con Lã Bố giải quyết như thế nào?

Tào Mạnh Đức bỗng nghĩ ngay đến Điêu Thuyền, một mỹ nhân nhan sắc tuyệt vời, một người con gái đã làm tiêu ma mạng sống của Đổng Trác. Mình thật muốn xem nhan sắc cô ta đẹp như thế nào. Một người con trai chinh phục cả thiên hạ liệu có chinh phục nổi một người con gái không?

Tào Mạnh Đức nói:

- Cứ đưa về Hứa Đô, sau giải quyết.

° ° °

Hiến đế ở Hứa Xương cảm thấy vô vị. Cuộc sống không bình thường cứ thế trôi qua. Năm nay Hiến đế mười chín tuổi. Dáng người thanh tú, nét mặt trắng bệnh vì suốt ngày ở trong cung. Ngoài việc đọc sách viết chữ, những lúc nhàn quá, vô vị lại uống rượu ngâm thơ cùng Hoàng hậu và các cung phi.

Năm nay mùa đông ở Hứa Xương qua nhanh. Suốt cả một mùa không có ngày nào mưa. Bởi vậy, khi mùa xuân đến, ai nấy đều cảm thấy ấm áp.

- Trước đây Tào tướng quân hay vào cung, từ ngày diệt xong Lã Bố không thấy đến lần nào, có lẽ công việc trong quân quá ư bận rộn? - Hiến đế vừa chăm sóc mẫu đơn trong vườn vừa nói.

Đổng Thừa tựa mình bên cây trúc đào, nhìn khắp chung quanh rồi nói nhỏ:

- Người này cực kỳ thâm hiểm, không ai đoán biết được động cơ. Ngay đối với Hoàng thượng ra sao cũng không biết được.

Hiến đế phẩy hai tay, nét mặt buồn khổ và thở dài:

- Ta là Thái Thượng Hoàng thôi...

Hai người trò chuyện tâm đầu ý hợp, thì bỗng nhìn thấy Tào Mạnh Đức dẫn Lưu Bị đi thẳng vào vườn.

Hiến đế và Đổng Thừa, cả hai đều chăm chú nhìn người đi bên cạnh Tào Mạnh Đức, Đổng Thừa đã từng nghe nói Lưu Bị là người mặt vuông, tai lớn, tay dài quá gối, nên nghĩ: đây có lẽ là Lưu Bị.

Lưu Bị tiến lên trước một bước, hành lễ:

- Lưu Bị xin đến chúc mừng Hoàng thượng.

- Miễn lễ, miễn lễ.

Hiến đế thấy Lưu Bị tướng mạo đường hoàng, nét mặt hiền hậu. Hơn nữa, từ lâu đã biết tiếng Lưu Bị là người ôn hoà, khiêm tốn, nên rất mừng. Hiến đế bước nhanh đến đỡ Lưu Bị dậy.

Tào Mạnh Đức cảm thấy không vui khi nhìn Hiến đế thắm thiết với Lưu Bị. Lại càng không vui, khi hai người nói đến gia phả, và Hiến đế phải gọi Lưu Bị là hoàng thúc. Nhưng Tào Mạnh Đức lại nghĩ: những người cùng quê hương gặp nhau, tình cảm thắm thiết cũng là lẽ thường, huống hồ Hiến đế và Lưu Bị lại là đồng tông đồng tộc.

Tào Mạnh Đức đến trước Hiến đế nói về tài đức của Lưu Bị, do đó Hiến đế đã phong Lưu Bị là Tả tướng quân, Thành Đình hầu.

Tào Mạnh Đức về phủ không lâu, đã thấy Tuân Úc và các mưu sĩ khác đến gọi. Tuân Úc nói:

- Thiên tử gọi Lưu Bị là thúc phụ, điều đó có lẽ bất lợi cho minh công.

Tào Mạnh Đức chậm rãi trả lời

- Các ngài không phải lo nghĩ nhiều. Hoàng đế phải dựa vào chúng ta, hoàng thúc cũng thế thôi. Ta đã giữ Lưu Bị ở Hứa Đô. Hai chú cháu có thể luôn gặp nhau, nhưng cả hai đều nằm trong tay chúng ta. Điều ta lo ngại hiện nay là thái uý Dương Bưu. Dương Bưu là thân thích của Viên Thuật. Nếu người này, trong ngoài, câu kết với hai anh em họ Viên, có thể thiên hạ lại lâm vào cảnh chém giết. Cần phải loại bỏ người này.

Tuân Úc nói:

- Muốn tìm điểm yếu của Dương Bưu để xử tội thì quá dễ dàng. Mong các vị cứ làm như vậy.

° ° °

Đêm hôm trở về phủ, Tào Mạnh Đức đến tư thất gặp Đinh phu nhân. Hai người nói chuyện một lát. Tào Mạnh Đức không thấy Hồng Đàn, không thấy có hứng thú ngủ lại, nên lại lấy cớ quân tình bận rộn để quay về phủ.

Cô Thu chờ đợi ở trong phòng. Đêm khuya, tất cả đều tĩnh mịch. Chờ mãi không thấy Tào Mạnh Đức về phủ, cô đã cởi dây lưng, thay áo, chuẩn bị đi ngủ. Bỗng từ bên ngoài, một giọng nói rất quen thuộc:

- Cô Thu, Mạnh Đức đã về.

- Chúa công, muốn để em chết phải không?

Cô Thu không chờ để Tào Mạnh Đức khép kín cửa, đã gục đầu vào lòng Tào Mạnh Đức.

Tào Mạnh Đức luôn ngồi trên ngựa chỉ huy hàng ngàn quân sĩ chém giết, từ lâu không gần gũi với phụ nữ. Đêm nay, họ là đôi nam nữ, tình cảm mạnh mẽ như lang, hổ, xa nhau lâu ngày gặp lại, chẳng khác gì hạn hán gặp được mưa xuân.

Họ phải rất lâu mới lần được từ cửa vào đến giường, dù cách nhau chỉ một khoảng ngắn.

Cô Thu tuy đã hầu Tào Mạnh Đức nhiều năm, tuổi gần ba mươi, nhưng dáng người vẫn còn thon thả. Từ lâu cô đã thuộc lòng cung cách yêu thương của Tào Mạnh Đức.

Tào Mạnh Đức như ngựa quen đường cũ, thơm vào miệng cô, một tay xoa nhè nhẹ lên đôi núm vú chưa có trẻ bú bao giờ, tay kia sờ vào tai, rồi cổ, đến eo, đến phần lưng...

Cho đến khi mặt cô ửng đỏ lên, cô thít chặt lấy hai cánh tay của Tào Mạnh Đức, điên cuồng cắn vào cằm, vào miệng. Tào Mạnh Đức mới ôm cô đặt lên giường và cởi bỏ dây lưng áo khoác...

Tào Mạnh Đức là một hảo hán vung gươm trên lưng ngựa và cũng là người đàn ông hiểu cặn kẽ những ham muốn của một người phụ nữ.

° ° °

Ngày thứ ba sau khi Tào Mạnh Đức về phủ, Thái uý Dương Bưu bị kết tội câu kết với Viên Thuật cất quân làm phản. Tào Mạnh Đức cử Mãn Sủng đi trị tội. Lúc đó Khổng Dung từ Bắc Hải tìm đến Hứa Xương thTào Mạnh Đức.

Hai người vốn là cành vàng lá ngọc trong nền văn học. Tào Mạnh Đức vốn nghĩ Khổng Dung đến để đàm đạo về văn thơ, không ngờ Khổng Dung lại thẳng thắn khuyên can Tào Mạnh Đức.

- Dương Bưu, mấy đời đều ủng hộ Triều đình, sao lại có chuyện câu kết với Viên Thuật?

Tào Mạnh Đức không biết nên trả lời thế nào, đành nói:

- Đó là ý kiến của Triều đình.

Khổng Dung không nhượng bộ, nói trúng tận tim:

- Nếu Chu Thành Vương giết Triệu Công thì làm sao Chu công lại không biết?

Tào Mạnh Đức đành chịu, bèn hạ lệnh bãi chức Dương Bưu đuổi về quê. Nghị Lang Triệu Ngạn thân tình với Dương Bưu, đã tâu trình lên Hiến đế, mong Người xử phạt Tào Mạnh Đức về tội không tuân thánh chỉ, vô cớ hãm hại đại thần. Tào Mạnh Đức giận dữ, lập tức sai người đi giết Triệu Ngạn. Bách quan, đại thần lo sợ, kêu khổ.

Mưu sĩ Trình Dục một người rậm râu, nói với Tào Mạnh Đức:

- Ngày nay uy danh của minh công đã lẫy lừng thiên hạ, nên nhân cơ hội này lật đổ triều đình, lập nên chính quyền mới.

Tào Mạnh Đức nghe Trình Dục nói kinh ngạc vô cùng, hai mắt tròn xoe, trách móc Trình Dục

- Tại sao lại dám nói những điều đó với ta. Viên Thuật đã từng làm Hoàng đế đấy thôi, nhưng kết quả như thế nào?

Trình Dục chịu ơn đã nhiều, nay vui mừng đến hiến kế, nào ngờ bị Tào Mạnh Đức mắng xối xả một trận. Quả tình Trình Dục không hiểu nổi tâm tư của Tào Mạnh Đức.

Tào Mạnh Đức nghĩ đến ý kiến của Trình Dục mà thấy sợ. May sao bấy giờ chỉ có hai người. Trình Dục là tướng văn võ toàn tài, lòng trung vô hạn. Nhìn bóng dáng Trình Dục bỏ đi trong ánh hoàng hôn hôm đó, Tào Mạnh Đức cảm thấy bồi hồi xúc động. Tào Mạnh Đức nhớ lại lời lẽ trong bài tấu dâng lên Hoàng đế mà mình đã viết cách đây hai năm: "Trong trời đất người là quí. Lập vua, chăm dân đã là nguyên tắc". Vậy Hoàng đế, Hoàng đế là gì? Quyền lực quyền lực là gì? Nó chỉ là một thứ công cụ, là hình tượng thống trị trong đầu óc người dân bình thường.

Lẽ nào vì những cái đó, ta phải tung hoành trong thiên hạ, giành giật với các bậc anh tài. Nhân dân an cư lạc nghiệp, đường lối rõ ràng, thì cần gì phải có Hoàng đế? Có điều ngày nay cục diện chính trị không ổn định, chư hầu cát cứ, nhân dân sống trong cảnh nước sôi lửa bỏng, không có quyền bính của đấng chí cao thì làm thế nào để hiệu triệu thiên hạ?

Nghĩ đến đây bàn tay của Tào Mạnh Đức đã nắm lại thật chặt. Tào Mạnh Đức hỏi Tuân Úc:

- Ta muốn mời Thiên tử đi săn, các ngài thấy thế nào?

Tuân Úc suy nghĩ rồi trả lời, ý tứ sâu xa và ý vị

- Lần trước khi đi săn ở Đào Sơn, Thừa tướng đã có được Quách Gia và Hứa Chử. Lần này đi săn, thu hoạch chắc sẽ lớn hơn.

Tào Mạnh Đức lấy tay chải râu, đầu lắc lư và nói:

- Trong thiên hạ, chỉ có Tuân Úc là người hiểu được ta.

° ° °

Tào Mạnh Đức đi song hàng với Thiên tử. Ngay phía sau là Lưu Bị, Đổng Thừa, một hàng người ngựa không được vui vẻ cho lắm.

Trong một thời gian dài gần đây, Hán Hiến đế ngày càng không thích Tào Mạnh Đức, nhưng không biết làm thế nào.

- Bệ hạ chắc đã đọc "Mạnh Tử"? - Tào Mạnh Đức đột nhiên hỏi Hán Hiến đế.

- Không đọc kỹ lắm! - Hán Hiến đế thản nhiên trả lời.

- Bệ hạ có nhớ những lời Mạnh Tử nói về Tề Tuyên Vương không? Đại khái Mạnh Tử nói, khi trăm họ nhìn thấy nhà vua đi săn mà nhăn mày, ai nấy tỏ vẻ đói khát, như vậy là nhà vua kém cỏi, không biết cai trị thiên hạ, khiến trăm họ phải lầm than, khổ ải. Còn nếu khi thấy Thiên tử đi săn mà ai nấy tiền hô hậu ủng, mặt mũi vui tươi, như vậy là nhà vua biết cai trị thiên hạ. Hôm nay bệ hạ đi săn tình hình thiên hạ ra sao

Tào Mạnh Đức nói xong, liền cho ngựa đứng lại chờ đợi các quan văn võ của mình.

Quay đầu nhìn lại thấy cả một đội ngũ, cờ xí phần phật, che kín bầu trời, tiếng chân đi rầm rập, Tào Mạnh Đức cảm thấy rất tự hào. Điều mà Tào Mạnh Đức quan tâm hiện nay không phải là vấn đề Hiến đế trả lời câu hỏi đó ra sao.

Hán Hiến đế vô cùng nhục nhã, nhưng khi nhìn thấy Tào Mạnh Đức uy phong ngời ngời, đầu ngẩng cao, khom mình trên lưng ngựa, thì đành phải nuốt giận, tỏ vẻ bình thường.

Đoàn người đi săn bắn rầm rầm rộ rộ kéo vào một cánh rừng rộng chừng vài trăm dặm vuông.

Hán Hiến đế và Tào Mạnh Đức dừng ngựa chờ đàn thú được dồn đến.

- Hoàng thúc, hôm nay ta muốn được xem hoàng thúc biểu diễn như thế nào? - Hán Hiến đế lớn tiếng gọi Lưu Bị cũng đang đứng chờ ở góc bên kia, ý chừng Hán Hiến đế muốn mượn uy phong của Lưu Bị để hạn chế phần nào khí thế của Tào Mạnh Đức.

Khi đó có một con thỏ từ trong lùm cây chạy ra, Lưu Bị giương cung đặt tên và chỉ nghe đánh "sạt" một tiếng, con thỏ đã lăn quay giẫy giụa vài cái rồi yên hẳn.

Hán Hiến đế vui mừng, vừa vỗ tay vừa hét lớn.

- Trúng rồi! Hoàng thúc bắn trúng

Tào Mạnh Đức nhíu mày nói:

- Tài nhỏ mọn không đáng nói.

Khi vòng sang một cánh rừng khác, bỗng có một con hươu từ đâu chạy ra, Tào Mạnh Đức vừa cười vừa nói với vẻ mặt xem thường:

- Bây giờ đến lượt bệ hạ thử xem!

Hán Hiến đế, hai chân kẹp vào bụng ngựa tay rút tên bằng vàng trong túi đựng tên, giương chiếc cung chạm trổ bằng ngọc và ba mũi tên bay ra, nhưng con hươu vẫn tung tăng ở chỗ cũ. Hán Hiến đế vô cùng chán nản, nhưng cũng muốn Tào Mạnh Đức thử xem, để họ Tào mất mặt với mọi người, nên Hán Hiến đế nói:

- Nghe nói Thừa tướng võ nghệ cao cường, xin đến lượt ngài.

Tào Mạnh Đức nói:

- Thần không mang tên theo.

Hán Hiến đế nói tiếp:

- Thừa tướng hẹn trẫm đi săn, lại không mang theo tên, như thế là thế nào?

Tào Mạnh Đức nói:

- Tên của thần là loại vô hình, người khác không nhìn thấy. Xin mượn tên vàng của Hoàng thượng để thử xTào Mạnh Đức mượn được cung chạm ngọc và tên vàng của Hán Hiến đế, nhưng vẫn chưa bắn.

- Thừa tướng hoa mắt rồi, vì sao lại chưa bắn?

Hán Hiến đế mong sao Tào Mạnh Đức cũng bắn không trúng.

- Hươu đang yên lặng gặm cỏ. Bắn chết nó chẳng khó khăn gì. Mà như vậy thì có gì đáng phải nói? - Tào Mạnh Đức dứt khoát bỏ cung, tên xuống.

Nhưng đúng như lúc con hươu bắt đầu phóng chạy thì mũi tên vàng đã cắm vào yết hầu con vật.

Binh lính và những người phụ trách nhặt xác những con vật bị bắn chết, rút mũi tên vàng từ con hươu ra và nghĩ rằng Hán Hiến đế bắn trúng nên vội lớn tiếng hoan hô:

- Bệ hạ bắn trúng rồi! Bệ hạ bắn trúng rồi! - Các quan, các tướng cũng hoan hô và nhanh nhẹn, chẳng khác gì đàn chim sẻ, bay đến chỗ Hiến đế, miệng hô lớn: "Vạn tuế".

Tào Mạnh Đức ngồi trên mình ngựa như nghe thấy tiếng trống trận thúc quân nên vượt lên trước, che khuất mất Hán Hiến đế. Các tướng sĩ xung quanh lấy làm bất bình. Quan Vân Tường giận dữ chửi thầm: "Giặc Tào muốn cướp đoạt ngôi, trời đất không dung", và định xách dao phóng ngựa đến chỗ Tào Mạnh Đức. Lưu Bị thấy vậy bèn kéo áo ngăn lại. Tay của Đổng Thừa cũng đang nắm chặt đốc kiếm.

Tất cả những gì xẩy ra trong khoảng khắc đều không qua khỏi mắt Tào Mạnh Đức.

Lưu Bị đánh ngựa lên trước chắp tay chức mừng:

- Thừa tướng quả là cao cường. Bị tôi xin được chúc mừng.

Tào Mạnh Đức cười và quay lại nói với Hiến đế.

- Đấy là nhờ vào hồng phúc của Thiên tử!

Năm ấy, Tào Mạnh Đức bốn mươi nhăm tuổi.

Cùng Thiên tử đi săn trở về, Tào Mạnh Đức cảm thấy như có một cái gì đó vô hình đè nặng lên tâm hồn mình. Nhất cử, nhất động của Quan Vân Trường, Lưu Bị và Đổng Thừa đều làm cho Tào Mạnh Đức bồn chồn lo lắng. Đêm đêm giấc ngủ không thành hoặc luôn luôn bị những cơn ác mộng làm cho tỉnh giấc.

"Lưu Bị, Đổng Thừa, ta sẽ giết ngươi!"

Tào Mạnh Đức choàng dậy, giụi mắt, nhìn thấy Đinh phu nhân nằm nghiêng sang một bên, ngủ rất ngon lành.

"Hoàng thượng, Hoàng thượng có Sưa Hi Khan. Ta, ta muốn quét sạch thiên hạ!".

Tào Mạnh Đức ngồi bật dậy, giụi mắt, cô Thu trần truồng, lồng ngực như sóng nhấp nhô, đang say sưa trong giấc ngủ.

Lập nghiệp lớn trong thiên hạ là khó khăn. Mỗi lần tỉnh giấc, Tào Mạnh Đức thường than thở

° ° °

Để sớm có thể thoát khỏi những cơn ác mộng, Tào Mạnh Đức cho mời Tuân Úc và Quách Gia đến gặp.

Không chờ để Tào Mạnh Đức phải mở miệng, Quách Gia đã nói trước.

- Gần đây sức khoẻ Thừa tướng không tốt, hay hoảng loạn. Nhất định có điều gì quan trọng?

Tào Mạnh Đức vẫn yên lặng, lông mày nhíu lại.

- Đừng trách tôi nói thẳng, nhất định là Thừa tướng chưa biết nên giải quyết Lưu Bị như thế nào. Giết hay không giết! - Giọng Tuân Úc rất dứt khoát.

Tào Mạnh Đức đã lấy lại được tinh thần, tự tay rót đầy lai chén rượu cho Tuân Úc và Quách Gia.

- Hai vị là những người tài tính toán việc lớn trong hiên hạ. Các vị đã nắm được những điều ta băn khoăn. Vậy hãy cho ta ý kiến để giải toả những ưu lo trong lòng.

Quách Gia nói:

- Lưu Bị thất thế, suốt ngày lo sợ. Họ định đến với anh em Viên Thiệu, nhưng hiện ăn ở với chúng ta. Ngày nay việc ba anh em ăn cơm của Tào thừa tướng đủ để thiên hạ hiểu rằng Tào công không phải là kẻ tiểu nhân, không biết dung nạp người khác. Chúng ta vừa mới giết Triện ạn, đuổi cổ Dương Bưu, mọi người đã có ý kiến. Nếu bây giờ lại giết Lưu Bị, con người có nhân có đức, thì đứng về mặt đạo nghĩa chúng ta đã thất bại.

Không giống với Quách Gia, Tuân Úc chậm rãi trình bày ý kiến của mình:

- Thừa tướng khoan dung với Lưu Bị, đối xử như thượng khách, hiển nhiên đó là lòng nhân nghĩa. Nhưng lòng nhân cũng lớn bé khác nhau.

Tào Mạnh Đức cảm thấy thú vị liền đặt chén rượu xuống và hỏi Tuân Úc:

- Theo lý giải của ngài thì thế nào là lòng nhân lớn, lòng nhân bé?

Tuân Úc chậm rãi trả lời:

- Nhìn thấy người gặp nạn, đói rét, bệnh tật và chết chóc, nhiều người đã nẩy lòng trắc ẩn, hoặc nhỏ lệ, hoặc ra tay giúp đỡ. Đó là lòng nhân bé.

Tào Mạnh Đức chăm chú lắng nghe.

- Thế còn lòng nhân lớn?

- Khi đất nước điêu tàn, thiên hạ hỗn loạn, dám đứng ra chỉnh đốn kỷ cương, đem lại thái bình, thịnh vượng cho trăm họ như Tào công đang làm hiện nay, chính là lòng nhân lớn.

Tào Mạnh Đức rót đầy chén rượu.

- Trước đây có những điều ta chưa hiểu rõ!

Tuân Úc nói tiếp:

- Lưu Bị tạm thời giữ yên lặng, ngày ngày vun cây tưới nước, bởi vì lông cánh của Lưu Bị còn yếu ớt. Một khi có thời cơ, nhất định Lưu Bị sẽ cao chạy xa bay. Tấm gương của người trước là bài học cho đời sau. Mong sao Thừa tướng đừng bao giờ là người mua danh chuốc tiếng khen như Tây Sở bá vương kia.

Quách Gia nói:

- Hãy đừng nóng vội ra tay. Chờ xem động cơ của Lưu Bị ra sao rồi sẽ bàn tiếp.

Nghe hai người nói chuyện, Tào Mạnh Đức nhận thức sâu sắc hơn hai chữ "nhân nghĩa" mà từ bấy đến nay thường cứ băn khoăn.

CHƯƠNG XII

AI LÀ ĐẠI ANH HÙNG

Đúng như Tuân Úc nói, tuy suốt ngày xới cây tưới nước trong vườn nhưng Lưu Bị đâu có chịu sống cảnh cá chậu, chim lồng. Lưu Bị đang góp nhặt, ấp ủ để chờ...

Nhân một hôm trời tối, Quốc Cữu Đổng Thừa đếnLưu Bị với bức huyết thư của Hiến đế. Lưu Bị gia nhập ngay vào tổ chức mưu giết Tào Mạnh Đức do Đổng Thừa, Vương Tử Phục, Chủng Tập, Ngô Thạc, Ngô Tử Lan, Mã Đằng cùng các hoàng thân quốc thích, các cựu thần trong triều đứng ra tổ chức.

Những cây quì xanh xanh ở trong vườn đang hướng cả về phía mặt trời mọc. Lưu Bị quần xắn cao, chân đi giầy cỏ đang thả thùng lấy nước ở dưới giếng. Những giọt sương đêm trên các lá dâu óng ánh dưới những tia nắng ban mai. Những trái cây trên giàn chín mọng và nõn nà, khiến ai nhìn thấy cũng phải nhỏ nước dãi. Lưu Bị làm việc cần mẫn, thỉnh thoảng lại phải lau mồ hôi bằng chiếc khăn vắt vai, trông như một nhà nông thực thụ.

- Tả tướng quân! Thừa tướng mời ngài về phủ bàn việc. - Hứa Chử và Trương Liêu dừng ngựa ở bên ngoài và gọi vào trong lều như vậy.

Có thể là... Lưu Bị run tay, chiếc thùng rơi "pình" một cái xuống giếng, nước bắn tung toé. "Hai em không có mặt, e mình chẳng khác gì miếng thịt được đưa vào miệng con hổ đói", Lưu Bị nghĩ vậy và chờ đón khả năng xấu nhất. Sau khi chỉnh đốn áo mũ, Lưu Bị giắt con kiếm ngắn vào người và ra đi.

Tào Mạnh Đức từ lâu đã ngồi chờ trong phủ. Khi thấy Lưu Bị bình tĩnh bước vào, liền thân thiết ra nắm tay Lưu Bị và nói:

- Nghe nói Sứ quân suốt ngày lao động trong vườn. Học để làm một nông dân không dễ phải không?

- Làm cỏ, tưới cây, giãn gân, giãn cốt, quả là nhẹ nhàng hơn nhiều so với công việc dệt giày cỏ hồi còn nhỏ. vui vẻ trả lời.

Hai người nói cười, đi dần ra đến vườn hoa sau phủ họ Tào.

- Vừa nãy đi dạo trong vườn, nhìn thấy trên cành mai đã có quả xanh, sực nhớ khi trước đi đánh Trương Tú, dọc đường không có nước, tướng sĩ khát đến bỏng họng. Nhìn thấy tướng sĩ khổ sở, ta không đành lòng, liền nghĩ được kế hay, cầm roi trỏ hão nói rằng: trước mặt có rừng mơ. Quân sĩ nghe thấy nói đến mơ, ai cũng ứa nước dãi, đỡ được khát nước. Sau đó tướng sĩ đánh một trận, đuổi Tú đến tận Cửu Giang. Nay có mơ thật, tức cảnh sinh tình, lại sẵn có vò rượu vừa nấu xong, cho nên mới mời Sứ quân đến tiểu đình uống rượu.

Lưu Bị thấy Tào Mạnh Đức vừa nhiệt tình, vừa thân thiết, nên trong lòng đỡ thấy lo ngại.

Trên bàn đã bày sẵn một mâm quả mai và một vò rượu. Họ ngồi đối diện với nhau, và sau khi mời chào, họ bắt đầu uống rượu.

Hai người uống rượu thật hứng thú. Bỗng nhiên không gian trở nên u ám, mây đen che kín bầu trời, sắp có một cơn dông. Hai người không uống rượu nữa. Tào Mạnh Đức bỗng nổi hứng kéo dài giọng nói với Lưu Bị:

- Sứ quân biết con rồng biến hoá thế nào không?

Lưu Bị nói:

- Biết rất ít, vậy mong Thừa tướng cho nghe.

Tào Mạnh Đức nói:

- Gió nổi ở cuối biển xanh, rồng sinh ra trong đầm lớn. Rồng lúc thì to, lúc thì nhỏ, lúc thì bay lúc thì nấp. Lúc to thì nổi mây phun mù; lúc nhỏ thì thu hình ẩn bóng; khi bay ra thì liệng trong trời đất; khi ẩn thì lẩn núp ở dưới sông. Nay đang là cuối xuân, rồng có cơ biến hoá, ví như người đắc chí mà tung hoành trong bốn biển. Rồng ví như anh hùng trong thiên hạ.

Lưu Bị ngồi nghe mê mải, luôn miệng tán thưởng:

- Thừa tướng hiểu biết về rồng nhiều quá, thật không uổng một đời, xin bái phục, bái phục.

Tào Mạnh Đức bỗng nói sang ý khác:

- Huyền Đức lâu nay đã đi khắp bốn phương, nếm trải đủ mùi, bao nhiêu anh hùng thời nay, hẳn đã biết cả, xin thử nói cho nghe.

Lưu Bị cảm thẩy trong lời Tào Mạnh Đức có nhiều ý tứ, nên dè dặt:

- Kẻ phàm phu tục tử này, đâu có biết ai là anh hùng.

Tào Mạnh Đức không vui. Lời đồn Lưu Bị là người quá thật thà quả không sai. Tào Mạnh Đức cười thầm, xem thường người có đôi tai to, tự xưng là anh hùng này.

Tào Mạnh Đức nói:

- Huyền Đức không nên nhún mình quá!

Huyền Đức nói:

- Bị này nhờ ơn Thừa tướng được làm quan trong triều, anh hùng trong thiên hạ quả không được biết.

Mạnh Đức nói:

- Không hề gì, cứ kể tên ra cũng được.

Huyền Đức buộc phải nói:

- Viên Thuật ở Hoài Nam, binh nhiều lương đủ, có thể gọi là anh hùng được chăng?

Mạnh Đức cười nói:

- Chỉ là gốc cây khô trên cánh đồng hoang, sớm muộn ta sẽ tóm được.

Lưu Bị nói đến Viên Thiệu, cho rằng Thiệu là bậc anh hùng như ý Mạnh Đức.

Mạnh Đức nghe xong cũng chỉ lắc đầu.

Lưu Bị nói:

- Viên Thiệu ở Hà Bắc, có bốn đời làm đến Tam công, xuất thân từ một danh môn vọng tộc, thân phận cao quí, quan hệ rộng. Ngày nay hùng cứ ở Ích Châu, nhiều người tài ba là thuộc hạ, xem như là một anh hùng được lắm!

Tào Mạnh Đức nói:

- Viên Thiệu ngoài mặt mạnh bạo, trong bụng nhút nhát, thích hư trương thanh thế, tuy có ít mưu kế, nhưng thiếu quyết đoán, làm việc lớn lại s thiệt, thấy lợi nhỏ thì quên mình, không thể gọi là anh hùng được.

Lưu Bị lại nói:

- Lưu Biểu ở Kinh Châu, nổi tiếng khắp vùng được xem là một trong tám vị tuấn kiệt, có thể cho là anh hùng được chăng?

Mạnh Đức lại cười:

- Lưu Biểu có hư danh nhưng không có thực lực, không phải anh hùng.

- Tôn Sách ở Giang Đông, trẻ tuổi, khoẻ mạnh, lãnh tụ một vùng, hẳn là anh hùng?

- Nhờ thế của cha, không phải là anh hùng.

- Lưu Chương ở Ích Châu thế nào?

- Lưu Chương tuy là tôn thất, nhưng là kẻ ăn sẵn, chẳng qua chỉ là con chó giữ cửa, sao gọi là anh hùng được?

- Thế còn Trương Tú, Trương Lỗ, Hàn Toại...

Mạnh Đức cười to:

- Chỉ là lũ tiểu nhân, nhắc đến làm gì!

Lưu Bị chọn lựa nói ra ngần ấy người có nhiều ảnh hưởng lúc bấy giờ, nhưng lần lượt đều bị Tào Mạnh Đức gạt hết.

- Vậy xin Thừa tướng cho biết thế nào mới là người anh hùng? - Lưu Bị muốn làm giảm nhuệ khí của Tào Mạnh Đức bằng cách hỏi lại như vậy.

Tào Mạnh Đức nói:

- Hoàng Thạch Công, một cụ già ở Thạch Kiều tặng Trương Lương một cuốn binh thư, cuốn "Tam lược". Tôi rất thích khái niệm về người anh hùng viết trong đó. NgườiÂ� anh hùng chân chính không được nghĩ đến quyền lợi riêng của mình. Họ phải là người hào kiệt, cái thế, dẹp yên loạn lạc biết lao tâm khổ tứ vì đất nước, dám dũng cảm hy sinh vì lý tưởng cao cả.

Lưu Bị ngầm thán phục những điều lý giải về người anh hùng của Tào Mạnh Đức, và nói:

- Ý kiến của Thừa tướng vừa sâu sắc vừa độc đáo, Bị này được hiểu biết hơn. Có điều những khái niệm đó giống như hoa trong gương, trăng dưới nước nhìn được mà không vớt được.

Tào Mạnh Đức chỉ vào Lưu Bị, và chỉ vào mình nói.

- Anh hùng thiên hạ bây giờ chỉ có Sứ quân và Mạnh Đức này mà thôi.

Lưu Bị nghe nói, giật nẩy mình, chiếc thìa canh đang cầm ở tay rơi luôn xuống đất. Giữa lúc bấy giờ, cơn mưa u ám, có một tiếng sấm vần vũ khắp trời. Lưu Bị từ từ cúi xuống nhặt chiếc thìa lên và nói vui.

- Hổ gầm, sấm dậy, thật là oai phong!

Mạnh Đức nhìn thấy thái độ thất thường của Lưu Bị nên có ngụ ý:

- Anh hùng cũng sợ sấm sao?

Lưu Bị nói một cách tự nhiên:

- Người xưa đã nói: "sấm dậy, lửa bốc, tất sinh biến" lẽ nào lại không sợ?

Tào Mạnh Đức thấy Lưu Bị vẫn ung dung, tự tại, phản ứng nhanh nhạy, cho rằng đó mới là tài hoa kiệt xuất, nên đem lòng quí mến, không còn e ngại như trước.

Hai người lại uống rượu vui vẻ.

Bên ngoài trời mưa như trút, bầu trời u ám đến khó chịu.

° ° °

- Bẩm Thừa tướng, Tảo Tử đã chết!

Một tên lính vừa báo tin.

Tào Mạnh Đức làm rơi chén rượu xuống đất, cố gắng đứng dậy, lát sau ngập ngừng đi ra phía lan can. Lũ thị vệ chạy đến đón đỡ.

- Tảo Tử là ai?

Lưu Bị nhìn thấy Tào Mạnh Đức đau đớn và tuyệt vọng, liền nghĩ Tảo Tử chắc phải là người chống trời đạp đất bên phía quân Tào, nên Lưu Bị lên tiếng hỏi một tên lính đứng gần đó, vàược trả lời.

- Tảo Tử tướng quân là Đôn Điền Đô uý, vì thế dân chúng Duyện Châu mới được no đủ. - Người lính nói.

Tào Mạnh Đức tựa người vào lan can, miệng lẩm bẩm: "Đời người thật ngắn ngủi, quá ngắn ngủi!".

Nghe tin viên Đô uý đồn điền vừa chết mà Mạnh Đức đau xót thực sự như vậy, thì ông đâu phải là người ác độc, xảo trá? Lưu Bị cảm thấy xúc động... Không biết tự bao giờ, mưa, gió đã ngừng. Sau cơn mưa, vườn hoa như sạch sẽ hơn, mới mẻ hơn. Những giọt mưa đọng trên các chùm quả mơ chi chít trên cành đang nhỏ xuống những giọt cuối cùng. Hoa quì trắng đến loá mắt. Hoa lựu hồng hồng làm say đám lòng người. Dưới hồ từng đàn cá bơi lội tung tăng.

- Anh cả, anh cả ở đâu? - Trương Phi chạy trước, Quan Vũ theo sau. Hai người xông thẳng đến thềm đình.

Trương Phi trợn trừng con mắt định thét lên hai tiếng "giặc Tào", may sao hai tiếng đó chưa ra khỏi miệng thì đã nhìn thấy Lưu Bị đứng gần lan can phẩy tay và đưa mắt nhìn. Hai người gạt những tên lính cản đường sang bên và chạy thẳng lên đình.

- Hai vị anh hùng đến rất đúng lúc, xin được tiếp vài chén đã! - Tào Mạnh Đức vẫy gọi hai người. Trong khi đó, Trương và Quan tay vẫn cầm đốc kiếm.

Được lời, Phi sà ngay vào chiếu rượu, tay cầm chén. Quan Vũ không chịu ngồi, còn nói:

- Nghe nói Thừa tướng và anh cả đang uống rượu, xin đến múa kiếm để góp vui.

Lúc này Tào Mạnh Đức đã bớt đau thương, nên vừa cười vừa nói:

- Ta và Huyền Đức uống rượu, bàn về anh hùng trong thiên hạ. Đây là vườn hoa, không phải là cửa Hồng môn, nên cần gì phải múa kiếm?

Thấy anh cả vẫn còn nguyên vẹn, Trương Phi uống hết chén này đến chén khác, mặc cho Mạnh Đức thao thao bất tuyệt.

Quan Vũ nhìn thấy Tào Mạnh Đức không có ý hãm hại anh cả, nên cũng ngồi xuống uống rượu.

Tào Mạnh Đức lên tiếng gọi:

- Lấy thêm rượu để hai vị anh hùng được yên tâm!

Tào Mạnh Đức thấy Quan Vũ thật uy nghi, thật trung thành, có phần ghen tị với Lưu Bị, ước ao mình cũng có được một người như vậy. Từ lâu đã nghe câu chuyện kết nghĩa vườn đào, nay tận mắt nhìn thấy tình cảm giữa họ thật sâu đậm. họ hết lòng chăm sóc lẫn nhau. Tào Mạnh Đức càng thêm quí mến ba anh em, nhất là Quan Vũ, con người thật nho nhã và phong độ.

° ° °

Đổng Thừa bệnh nặng. Đổng Thái phi hết sức lo lắng, thường xuyên nhắc nhở Hiến đế. Cuộc đời của Hiến đế gắn liền với sinh mệnh của Quốc cữu từ lâu. Nếu Đổng Thừa có mệnh hệ nào thì ai sẽ là người nắm vững và thực thi kế hoạch vĩ đại của hai người? Bởi vậy Hiến đế lệnh cho Thái y của Triều đình đến chữa bệnh cho Đổng Thừa.

Thái y Cát Bình là người cùng quê với Tảo Tử. Hai người có mối quan hệ rất thân thiết. Khi Tào Mạnh Đức nghênh đón Hiến đế từ Trường An về Hứa Xương, Cát Bình không muốn đi theo. Cát Bình nghe nói Tào Mạnh Đức đối nhân xử thế như loài lang sói, lấy làm sợ hãi. Tảo Tử nói:

- Trước kia tôi cũng nghĩ về Tào A Man như vậy, định sẽ cao chạy xa bay. Nhưng sau khi tiếp xúc với nhau, thấy Tào A Man cũng là người bằng da bằng thịt, là người hào kiệt, thấu hiểu được nỗi khổ của nhân dân.

Nghe theo lời khuyên của Tảo Tử, Cát Bình theo Hiến đế đến Hứa Xương.

Đổng Thừa nằm ở trên giường luôn miệng thở ngắn than dài, dáng vẻ vô cùng đau khổ. Cát Bình thấy sắc thái của Đổng Thừa hơi lạ, không giống một người ốm lâu ngày. Xem mạch thì thấy mạch cũng bình thường. Cát Bình kê đơn cử người đi bốc thuốc. Cát Bình vào ra cung cấm đã quen. chẳng khác gì người thân, nên đêm đó, Đổng Thừa giữ Cát Bình ở lại.

Khoảng nửa đêm hôm ấy. Cát Thái y tỉnh giấc vì tiếng động của chén rượu rơi xuống đất, tiếp đấy lại có tiếng người rì rầm:

- Đêm nay là cơ hội tốt nhất. Nhân lúc phủ Tào bầy tiệc ăn tết Nguyên tiêu, ta bao vây chặt và giết hắn khi hắn không kịp trở tay.

Đó là giọng nói của Vương Tử Phục.

Cát Bình hoảng hồn, suýt kêu lên thành tiếng. Trong tình thế này, chỉ cần một tiếng động nhỏ, lập tức người ta sẽ giết ông. Lưu lạc giang hồ nhiều năm, ông hiểu biết khá nhiều. Bởi vậy, ông giả vờ vừa ngủ vừa ngáy.

Ngô Tử Lan nói:

- Mã Đằng đã liên hệ với Hàn Toại, có bảy mươi hai vạn quân Tây Lương, từ phía bắc đánh xuống.

Chủng Tập nói:

- Tôi tổ chức quân thị vệ, thu thập vũ khí, khoảng canh năm về đến cổng sau.

Mọi vật lại yên ắng trở lại. Đổng Thừa ra khỏi màn, nhìn thấy Cát Bình đầu quay vào phía trong, vẫn đang ngáy, miệng còn nói mê: "Quốc cữu, không hề gì, điều, điều dưỡng mấy ngày sẽ khỏi mà!". Đổng Thừa lấy kiếm ra, nhưng nghĩ thế nào đó, lát sau lại bỏ kiếm vào chỗ cũ. Cuối cùng, Đổng Thừa ra khỏi cửa.

Cát Bình chờ cho trong ngoài thật yên lặng, mới khoác áo vùng dậy, không kịp xỏ giày, chạy vội ra cửa, nhưng cửa đã được khoá ở bên ngoài. Cát Bình vừa lo lắng vừa suy nghĩ. Đổng Thừa là một kẻ thật tinh ranh. Bỗng Cát Bình nhìn thấy có một tia sáng ở phía sau giường nằm, đó là cánh cửa sổ không được khép kín. Cát Bình phải loay hoay mãi mới thoát được ra ngoài.

Cát Bình thoát qua cửa sổ ra ngoài, vòng qua vườn hoa phía sau, chạy đến cửa cung. Đêm đã khuya, nhưng sau khi nghe Cát Bình nói bệnh tình Quốc cữu trở nên nguy kịch, phải ra phố tìm thuốc, hai tên thị vệ để Cát Bình ra khỏi cung. May mà chúng không nhìn thấy Cát Bình đi chân không. Ra khỏi cung Cát Bình chạy như một người điên, chạy thẳng đến cửa Viên môn phủ Tào. Hạ Hầu Đôn đang tuần tra ở cửa đã nhìn thấy. Hạ Hầu Đôn quen biết Cát Bình nên hỏi:

- Đêm hôm khuya khoắt có việc gì gấp thế?

- Hiện nay Thừa tướng ở đâu?

- Xin cứ vào trong ấy, tôi đưa thẻ lệnh cho ông.

Cát Bình cầm thẻ, đi vào trong phủ.

Tào Mạnh Đức đang vui đùa cùng đoàn thị nữ. Một cô tươi như hoa, đẹp như ngọc đang ngồi ở bên đùi. Mấy cô khác vây quanh đang bón cho Tào Mạnh Đức ăn những thứ hoa quả gì đó.

- Thừa tướng! Cát Thái y có việc gấp cần bẩm báo.

Tào Mạnh Đức đang thích thú, tỏ vẻ khó chịu:

- Bảo Thái y sáng mai hẵng đến, làm mất cả hứng!

Cát Bình đã đến gần căn phòng của Tào Mạnh Đức. Tào Mạnh Đức nhìn thần sắc thất thường của Cát Bình biết ngay là có chuyện quan trọng. Lũ thị nữ nhìn thấy sắc mặt của Tào Mạnh Đức, đâu còn dám tiếp tục đùa vui, gợi tình. Các cô sửa sang lại quần áo rồi tìm cách lui ra ngoài.

- Thừa tướng, đêm nay bọn Đổng Thừa mưu mô hãm hại Thừa tướng, Cát Bình xin đến bẩm báo! - Sau đó Cát Bình kể lại ngắn gọn những điều nghe thấy.

Sau phút bất ngờ, Tào Mạnh Đức vô cùng giận dữ, hai mắt đỏ ngầu, răng nghiến ken két, Tào Mạnh Đức đập tay xuàn nói:

- Ta chưa kịp trừng trị các người, các người lại định hại ta. Tốt lắm! Đêm nay, Tào Mạnh Đức lại phải chém giết!

Lập tức lệnh được truyền: Tào Nhân dẫn quân đến phủ Đổng Thừa, Hứa Chử đến nơi Vương Tử Phục ở, Trương Liêu đến phủ Tướng quân Chủng Tập. Sắp xếp xong mọi việc Tào Mạnh Đức nắm chặt tay Cát Bình:

- Thái y là người đại đức; đại nghĩa khiến ta vô cùng cảm động. Không biết nên cám ơn ngài như thế nào? - Lát sau, bỗng Tào Mạnh Đức lại hỏi:

- Vì sao ngài lại cứu ta?

- Nghe Tảo Tử nói Thừa tướng là người biết thương yêu trăm họ. Thừa tướng cho khai khẩn trồng trọt, tu sửa đường sá, bình thiên hạ. Tôi cũng phải làm một việc nho nhỏ có lợi cho nhân dân. Nếu Quốc Cữu thực hiện được âm mưu, thì thiên hạ lại rơi vào một cục diện khó khăn không thể nào cứu vãn nổi!

Tào Mạnh Đức lại càng cảm động, vội nói:

- Cát Thái y thông minh và đại nghĩa. Thật hiếm có, hiếm có! Từ nay ngài sẽ ở bên ta, bệnh đau nửa đầu kinh niên của ta có thể lại tái phát.

° ° °

Bọn Đổng Thừa chưa kịp ra tay, đã bị tóm g

Tào Mạnh Đức dự đoán các tướng lĩnh của mình đã hoàn thành nhiệm vụ, nên dẫn quân Thị vệ vào phủ Đổng Thừa. Cả bốn người: Đổng Thừa, Vương Tử Phục, Chủng Tập, Ngô Tử Lan đều đã bị trói rất chặt. Tào Mạnh Đức thẩm vấn:

- Đổng Thừa, người đã biết tội chưa?

- Lão phu không biết phạm tội gì.

- Người mật bàn hại ta, nên ghép vào tội gì?

- Muốn kết tội phải có nhân chứng, vật chứng, lẽ nào Thừa tướng không biết điều đó?

Mạnh Đức thét lớn:

- Đổng Thừa to gan. Truyền cho Cát Thái y vào!

Đổng Thừa cảm thấy phòng tuyến bảo vệ cho mình cơ hồ đã sụp đổ mất phần lớn. Cát Bình thuật lại việc Đổng Thừa và những người khác mật bàn những gì. Đổng Thừa lại nói:

- Lời nói của Cát Thái y chưa đủ chứng cứ, đó là điều ngậm máu phun người.

Đang lúc Tào Mạnh Đức cảm thấy bó tay, thì có tên lính đưa đến một vuông lụa trắng, chữ viết bằng máu.

- Vừa tìm thấy trong phòng Đổng Thừa.

Đổng Thừa toàn thân xuống như một tàu lá, còn những người khác đều cúi đầu.

Tào Mạnh Đức tóm lấy mảnh lụa, đọc lướt qua và thét lớn:

- Lưu Bị ở đâu, Lưu Bị ở đâu rồi?

Trương Liêu bẩm báo:

- Ban nãy tôi có trả lời Quan Vũ khi gặp ở trên đường là đi bắt giặc Đổng!

Tào Mạnh Đức vỗ trán và nói lớn:

- Ta đã để sổng mất một mãnh hổ!

Tên của Lưu Bị ký ở hàng cuối trên mảnh lụa trắng. Tào Mạnh Đức sai quân đi lấy bút mực, rồi cầm bút đánh dấu "X" vào các tên Đổng Thừa, Chủng Tập, Vương Tử Phục, Ngô Tử Lan và dấu "?" vào tên của Lưu Bị. Đổng Thừa thét lớn "giặc Tào" rồi đập đầu xuống bậc thềm mà chết.

Giết xong ba người còn lại, Tào Mạnh Đức hầm hầm bước vào hoàng cung, bốn bề đã bị vây kín.

Tào Mạnh Đức ném mảnh vải lụa trắng cho Hiến đế.

- Ngài biết cái này chứ bệ hạ!

Hán Hiến đế không dám nhìn.

- Ta đã giết Đổng Th

Hán Hiến đế ấp a ấp úng:

- Đổng Trác đã bị giết rồi kia mà!

Nhìn thấy Hiến đế run sợ đến mất cả trí nhớ, Tào Mạnh Đức bật cười, tiếng cường vang mãi không dứt nơi cung cấm tĩnh mịch.

Đổng Thái phi đang mang thai cũng được binh sĩ giải tới. Hiến đế quì sụp xuống trước mặt Tào Tháo, khóc lóc cầu xin.

- Đổng phi có mang năm tháng, xin Thừa tướng thương cho.

Hai mắt đỏ ngầu vì tức giận, đầu óc Tào Mạnh Đức lúc này đã mơ hồ và trống rỗng, còn lại mỗi một chữ "giết".

- Nếu không phải lòng trời làm cho mưu gian bại lộ, thì ta đã bị hại rồi. Há lại cho con mụ này sống để gây vạ về sau cho ta.

Lời nói vừa dứt, lưỡi kiếm của Tào Mạnh Đức đã đâm thẳng vào ngực Đổng Thái phi.

Hiến đế gục xuống, ngất xỉu.

Đó là vào mùa những quả mơ đã chín vàng.

Thành Hứa Đô lại chìm ngập trong cảnh chết chóc thê thảm. Từ dưới mái hiên, bên song cửa sổ, nơi quán trà, người người lặng lẽ nhìn ra đường phố. Một, hai, ba... một đoàn gồm bảy, tám chục người đi đến. Họ bị trói liền với nhau thành một chuỗi dài,ó lính cầm dao, cầm thương áp giải. Một đội kỵ binh đi trước dẹp đường. Họ là thân thích, là những người có quan hệ với Đổng Thừa, Chủng Tập, Vương Tử Phục, Ngô Tử Lan, họ bị đưa đi hành hình.

Mã Đằng biết tin Đổng Thừa bị bại lộ, Lưu Bị đã chạy đến Từ Châu, liền chạy về Tây Lương.

Lưu Bị nói:

- May mà nhị đệ gặp Trương Liêu, nếu không chúng ta đã là quỉ không đầu dưới lưỡi dao của giặc Tào.

- Gặp nạn mà không chết, thật là hồng phúc.

Quan Vũ cho ngựa dừng lại, tay cầm long đao, ngửa mặt nhìn trời.

- Sớm muộn, em cũng sẽ đánh về Hứa Đô, băm vằm giặc Tào ra từng mảnh.

Trương Phi múa bát xà mâu, giọng vang như sấm.

Ba anh em không một lúc dừng chân, nên chẳng mấy chốc đã về đến Từ Châu, Thứ sử Từ Châu là Xa Trụ, tâm phúc của Tào Mạnh Đức, ở xa chưa biết chuyện gì, nên ra ngoài thành đón tiếp Lưu Bị. Lưu Bị định bụng giết chết Xa Trụ rồi đi luôn, nhưng lại sợ chọc tức Tào Mạnh Đức, trong khi lực lượng của mình còn quá mỏng.

Sau khi về Từ Châu, Lưu Bị thăm lại người thân. Đồng thời cho người dò la tình hình của Viên Thuật. Mặt khác nghe theo Trần Đăng, Lưu Bị phái Tôn Càn làm thuyết khách, mong được Viên Thiệu giúp đỡ

° ° °

Giết xong Đổng Thừa, Tào Mạnh Đức vẫn chưa hả dạ. Tào Mạnh Đức một mặt hận mình đã để sổng mất Lưu Bị, mặt khác lại sợ có người hành thích, nên đã ra lệnh cho quan Thái giám giữ cung :

- Từ nay về sau những người ngoại thích và tôn tộc nhà vua không được phép ta mà tự tiện vào cung thì cứ chém. Những người canh giữ không cẩn thận cũng bị tội như thế.

Tháo lại sai ba nghìn quân tâm phúc sung làm quân ngự lâm cho Tào Hồng thống lĩnh để đề phòng và tra xét.

Trong cơn giận dữ, Tào Mạnh Đức cho điểm tướng xuất quân đi đánh Lưu Bị.

Trình Dục khuyên:

- Lưu Bị được nhân dân Từ Châu quí mến. Nay như hổ đã về rừng, thêm móng thêm vuốt. Hơn nữa Viên Thiệu có mối liên minh với Lưu Bị, hiện đang đóng quân ở Quan Độ, thường có ý dòm ngó Hứa Đô. Nếu ta đánh Lưu Bị. Bị tất nhiên cầu cứu viên Thiệu, Thiệu sẽ nhân dịp kinh đô bỏ trống đem quân đến đánh úp thì làm thế nào?

Tuân Úc cũng nói:

- Chúng ta hãy lấy tĩnh mà chờ động. Để Viên Thuật và Lưu Bị tranh giành với nhau, khi đó phần lợi sẽ thuộc về chúng ta

Tào Mạnh Đức cũng có những chủ định của mình, nên nói:

- Tuy rằng hổ đã về rừng, nhưng thế lực không còn được bao nhiêu. Lưu Bị đang muốn nghỉ ngơi, nếu không thừa thế mà tiêu diệt, chờ khi đã hồi phục sẽ sinh nhiều rắc rối. Viên Thiệu tuy mạnh, song với tính cách đó, sẽ không bao giờ thực lòng giúp đỡ Lưu Bị. Hơn nữa từ lâu hai người đã không đi lại với nhau chắc gì trong chốc lát mà có ngay quan hệ như răng với môi. Bởi vậy Viên Thiệu quả không đáng ngại.

Ba người đang bàn tính thì Quách Gia từ bên ngoài bước vào. Tào Mạnh Đức nói tóm tắt câu chuyện ba người đang bàn luận. Quách Gia suy nghĩ một lát rồi nói:

- Viên Thiệu gặp việc không biết quyết đoán. Các mưu sĩ tuy mưu lược, nhưng không ăn ý với nhau, khác gì đám người ô hợp. Hiện nay Lưu Bị mới bắt tay chỉnh đơn binh mã, tay không bắt gió, Thừa tướng đem quân đi đánh, nhất định sẽ giành được thắng lợi.

Quách Gia và Tào Mạnh Đức thật là hợp phách hợp điệu. Tào Mạnh Đức cử người báo tin cho Xa Trụ, để trong ứng, ngoài hợp, tìm cách tiêu diệt Lưu Bị.

Khi nhận được lệnh, Xa Trụ vội cho mời Trần Đăng đến để bàn bạc. Trần Đăng nói:

- Việc này quá đơn giản. Hiện nay Lưu Bị đang chiêu binh mãi mã ở bên ngoài, mấy hôm nữa mới về. Ngài nên mai phục quân sĩ ở ngoài thành, giả bộ như để đón tiếp Lưu Bị. Chờ khi Lưu Bị trở về, nhân lúc dâng lễ vật, chỉ cần một nhát dao là xong. Sau đó chúng ta cố thủ trong thành thì dù Quan, Trương có khoẻ đến mấy cũng đành chịu. Vài ngày sau đại quân của Thừa tướng sẽ kéo đến.

Xa Trụ luôn miệng ca ngợi Trần Đăng.

Trần Đăng kể lại chuyện Xa Trụ định ám hại Lưu Bị cho cha hay. Cha là Trần Khuê liền cho người đến báo cho Lưu Bị biết. Trương Phi hai mắt trợn trừng định dẫn quân đi đánh Xa Trụ, nhưng Quan Vũ nói:

- Tam đệ luôn chẳng khác gì Hứa Chử, không chịu suy nghĩ. Đã muốn như vậy, ta có ý hay... - Quan Vũ nói nhỏ vào tai Trương Phi, chỉ thấy Trương Phi luôn luôn gật đầu.

Canh ba đêm đó, trong thành Từ Châu cực kỳ yên ắng. Bỗng có một đoàn người ngựa đi trên đường phố Từ Châu. Tiếng chân ngựa gõ nhịp nhàng xuống nền đường nghe rõ mồn một.

Tiếng lính canh trên mặt thành hỏi vọng xuống:

- Quân sĩ ở đơn vị nào mà đêm khuya lại đến như vậy.

Ở phía dưới có tiếng trả lời:

- Quân lính Trương Liêu, tiên phong của Thừa tướng.

Xa Trụ lại xin ý kiến Trần Đăng:

- E có gian kế gì đây, không biết nên làm thế nào?

Ở phía dưới lại có tiếng người nói vọng lên:

- Xin Thứ sử mở cửa thành mau, đề phòng quân Lưu Bị.

Trần Đăng có phần đã hiểu, bèn nói quả quyết:

- Mở cửa thành đón quân tiên phong của Thừa tướng.

Cửa thành đã mở, Quan Vũ, Trương Phi xông ngay vào. Đại quân cũng đổ vào thành như dòng nước lũ. Xa Trụ biết mình bị lừa. Chưa kịp mặc giáp lên ngựa, Xa Trụ đã bị thanh long đao của Quan Vũ chém bay đầu. Quân sĩ thua chạy tán loạn. Trên mặt thành cắm đầy cờ của Lưu Bị.

Từ Châu vốn là căn cứ địa cũ của Lưu Bị. Sau mấy hôm, quân sĩ Lưu Bị chiêu mộ được có đến hàng mấy vạn người. Họ luyện tập suốt ngày, đâu đâu cũng vang lên tiếng "sát, sát".

° ° °

Đồng thời với việc Trịnh Huyền đến thuyết phục Viên Thiệu, giấc mộng đế vương của Viên Thuật cũng đi đến đoạn chót. Lực lượng của Viên Thuật gần như tan rã hết. Các tướng tài ba như Lôi Bạc, Trần Lan đều bỏ ra Tùng Sơn, Viên Thuật viết thư nhường đế hiệu cho Viên Thiệu. Viên Thiệu nể tình anh em mà chấp nhận, nên Viên Thuật nhanh chóng thu gom người ngựa đến cùng Viên Thiệu.

Tào Mạnh Đức được tin vô cùng sợ hãi, liên triệu tập các mưu sĩ đến bàn bạc ngay trên đường hành quân. Tào Mạnh Đức cho rằng kẻ thù hiện nay không phải chỉ có Lưu Bị, còn có anh em Viên Thiệu, lực lượng của Mã Đằng. Tình hình sẽ phức tạp hơn nhiều.

Tuân Úc nói:

- Viên Thiệu đang kình địch với Công Tôn Toản nên tạm thời không lấy đâu ra lực lượng để đối phó với chúng ta. Trước mắt ta dùng phương pháp đánh lẻ từng anh một, tiến đánh lực lượng bạc nhược của Viên Thuật.

- Sau đó là Lưu Bị, Mã Đằng, và cuối cùng là Viên Thiệu. - Quách Gia tiếp lời.

Trình Dục nói cụ thể hơn:

- Viên Thuật đang muốn đến đầu hàng Viên Thiệu. Chúng ta sẽ tiêu diệt hắn ngay trên đường đi!

Mãn Sủng nói:

- Viên Thuật phải đi qua Từ Châu để lên phía Bắc.

Lời nói của Mãn Sủng làm cho Tào Mạnh Đức nẩy ra một ý.

- Ta sẽ mượn thanh long đao của Quan Vũ và bát xà mâu của Trương Phi để giết Viên Thuật.

Tào Mạnh Đức hạ lệnh tạm hoãn tiến quân, chờ đối phương hành động.

Viên Thuật đang dẫn mấy ngàn binh mã lên phía bắc đầu hàng Viên Thiệu, thì bỗng được tin Lưu Bị phản lại Tào Mạnh Đức, chiếm cứ Từ Châu. Viên Thuật đang vò đầu bứt tai, nghĩ cách đi qua Từ Châu, thì được tin Lưu Bị cùng với Quan Vũ, Trương Phi dẫn hơn năm vạn quân đóng ở cửa Quan Khẩu, cách thành Từ Châu khoảng tám mươi dặm. Quân sĩ đưa tiếp một bức thư, trong thư viết: "Giặc già Viên Thuật, dám xưng đế hiệu, đạo trời khôn dung. Nay nể tình anh là Viên Thiệu, tạm tha tội cho. Nếu muốn về cùng Viên Thiệu, thì phải chui qua háng của ta". Phía dưới bức thư, ký ba chờ "Trương Dực Đức". Viên Thuật xé vụn bức thư, miệng lớn tiếng chửi: "Thằng đồ tể, dám sỉ nhục ta. Chúng mày cứ chờ đấy!". Viên Thuật lập tức lệnh cho Kỷ Linh làm tiên phong đánh phá Quan Khẩu. Trương Phi cầm bát xà mâu, đứng ở giữa Quan Khẩu như một cây cột sắt. Kỷ Linh cho quân xung phong lên núi. Lúc ra nghênh chiến, Trương Phi thét lên một tiếng, nào ngờ Kỷ Linh đã lăn xuống sườn núi. Còn lại một mình, Viên Thuật nghĩ cách mở một con đường máu, xông ra sơn khẩu. Lưu Bị chia quân làm ba cánh. Mai phục ở phía trái sơn khẩu là Chu Linh, Lộ Chiêu, Quan Vũ, Trương Phi ở cánh phải. Lưu Bị bố trí quân ở chính giữa sơn khẩu. Quân kỳ có chữ "Lưu" bay phần phật trước gió.

Lưu Bị đứng dưới cờ trách mắng Viên Thuật:

- Nhà ngươi đại nghịch vô đạo, dối vua, làm loạn. Nay thuận theo lòng người ta phải giết nhà ngươi.

Viên Thuật cũng mắng lại:

- Mày là quân dệt chiếu bán dép, là kẻ tiểu nhân thay lòng đổi dạ, sao dám khinh miệt ta? - Nói xong Viên Thuật liền cho quân xông lên. Lưu Bi tạm lui khỏi vài dặm để hai cánh quân tả, hữu xông lên chém giết, suốt từ chiều cho đến hoàng hôn. Trên sườn đồi, dưới khe núi, đâu đâu cũng là máu và xác chết.

Nhờ có bóng đêm, Viên Thuật mới rút lui về đến Giang đình. Quân mã còn lại hơn một ngàn. Tiền bạc, lương thảo bị bọn Lôi Bạc, Trần Lan ở Tùng Sơn cướp sạch. Vốn được chiều chuộng từ bé, kham khổ không quen, một lần Viên Thuật mắng đầu bếp đòi uống nước mát để giải nhiệt. Người đầu bế

- Chỉ có nước máu, không có nước mát.

Trước mắt Viên Thuật toàn là những vòng tròn màu đỏ. Viên Thuật chỉ kịp kêu lên một tiếng rồi ngã lăn ra, miệng hộc máu tươi, hai mắt trợn trừng. Viên Thuật nôn ra máu rồi chết. Ngày hôm sau, một người cháu là Viên Dận hộ tống vợ con và linh cữu của Viên Thuật về Lư Giang, bị Từ Mậu ra chặn đường giết sạch. Từ Mậu cướp được ngọc tỷ, liền tìm đến doanh trại dâng lên Tào Mạnh Đức. Mậu được phong chức Thái thú Cao Lăng.

Viên Thuật xưng đế, tuy không được lịch sử thừa nhận, nhưng cũng quay cuồng được một thời. Đó là mùa hè năm Kiến An thứ tư.

° ° °

Sau khi được tin Viên Thuật bị Lưu Bị bức tử, Viên Thiệu phần nào cũng cảm thấy đau khổ. Tuy không cùng một mẹ sinh ra, nhưng anh em vẫn có tình máu mủ. Trong thời gian ngắn ngủi đó, Viên Thiệu già đi rất nhanh.

- Minh công! Lưu Bị cho Tôn Càn mang thư đến. - Khi ấy Viên Thiệu đang ngồi trầm tư.

Tôn Càn làm lễ xong mới lấy thư do Trịnh Huyền viết giao cho Viên Thiệu.

Trịnh Huyền và Viên Thiệu quen biết nhau từ lâu, quan hệ rất tốt. Trịnh Huyền làm quan đến chức Thượng thư thời Hoàn đế. Thời loạn do mười tên Thường Thị cầm đầu, nên Trịnh Huyền đã từ quan về quê, xa lánh bụi trần, ẩn cư ở Từ Châu. ThLưu Bị làm Từ Châu mục thường đến gõ cửa xin ý kiến Trịnh Huyền về các chính sự trong thiên hạ và tỏ ra hết sức kính trọng Trịnh Huyền. Khi Trần Đăng nêu ý kiến cử người đến phương bắc cầu cứu Viên Thiệu, Lưu Bị nghĩ ngay đến Trịnh Huyền. Trịnh Huyền thấu rõ tâm tư Viên Thiệu, nên trước hết trong thư kể rõ Lưu Bị đối xử với các bậc hiền sĩ như thế nào, nhân nghĩa thương dân ra sao. Sau đó mới kể đến việc Tào Mạnh Đức ngang ngược, tàn nhẫn, ức hiếp Thiên tử. Cuối cùng yêu cầu Viên Thiệu thể tình việc Lưu Bị bất đắc dĩ phải đánh giết Viên Thuật. Lời lẽ trong thư mềm mỏng, tình cảm sâu nặng, thấu lý đạt tình, khiến người đọc phải cảm động.

Viên Thiệu đọc thư của Trịnh Huyền và suy nghĩ: Huyền Đức giết em của mình, đứng về lý là không nên giúp đỡ hắn. Nhưng từng câu, từng câu trong thư, Trịnh Huyền viết thật có tình có lý. Hơn nữa, hiện nay giặc Tào đang ức hiếp Thiên tử, hãm hại dân lành, ngay đến Hoàng phi bụng mang dạ chửa cũng không tha. Giặc Tào đáng phải trừng phạt!

Và thế là Viên Thiệu triệu tập văn quan, võ tướng, bàn bạc cất quân đi đánh Tào Mạnh Đức. Ý nghĩ của Viên Thiệu càng được củng cố khi Lưu Bị cung cấp thêm tình hình mọi mặt cùng cách bố phòng của quân Tào.

Nhưng giống như Tào Mạnh Đức và các mưu sĩ đã phân tích, Viên Thiệu tuy mưu lược, nhưng bộ hạ thường không ăn ý với nhau, gặp việc lớn rất khó giải quyết.

Trước hết Điền Phong nêu ý kiến phản đối, nói:

- Ngày nay binh biến liên miên, khiến trăm họ lầm than. Lương thực trong kho không có nhiều nên không thể cất quân với một qui mô lớn. Trước hết cần cử người đến Triều đình làm thuyết khách, mượn cớ Hà Bắc là nơi đất màu mỡ, sản vật phong phú, dân chúng an cư lạc nghiệp, là nơi lập kinh đô tốt nhất, khiến Tào Mạnh Đức phải nhường lại Thiên tử. Nếu phương án đó không thành, lấy có Tào Mạnh Đức độc chiếm Thiên tử, cất quân đến đóng ở Lê Dương; bố trí tinh binh ở những bến đò quan trọng trên sông Hoàng Hà, chuẩn bị thuyền bè, chờ thời cơ chín muồi, có thể đồng loạt cất quân tiêu diệt giặc Tào.

Thẩm Phôi không chần chừ nói luôn:

- Tôi không tán thành quan điểm đó. Minh công văn thao võ lược, quân đội hùng mạnh, việc cất quân đi đánh giặc Tào dễ như trở bàn tay, việc gì phải chờ với đợi?

Quách Đồ nói:

- Công Tôn Toản được coi là mạnh, cũng bị chúng ta đánh cho tơi bời. Vậy còn phải do dự gì nữa?

Mưu sĩ Thư Thụ lại nghiêng về ý kiến của Điền Phong, nói:

- Chúng ta phải lợi dụng địa thế núi sông hiểm trở của Ký Châu, đánh thì khó, giữ thì dễ. Thêm vào đó, chúng ta có thế mạnh của bốn châu, bên ngoài thì liên kết với anh hùng bốn phương, bên trong thì đẩy mạnh sản xuất, huấn luyện binh lính. Chúng ta chọn lựa một đội kỵ binh tinh nhuệ, bất thần có thể xông vào địa bàn quân Tào. Lúc ấy họ chống đỡ bên phải sẽ bị tấn công bên trái, và ngược lại, khiến cho đối phương không kịp ứng phó. Như vậy, chỉ trong khoảng thời gian gần ba năm, chúng ta có thể nắm chắc phần thắng. Nếu như bỏ phí cơ hội quí báu đó, lao vào trận đánh thắng, thua chưa rõ, chẳng may không được như ý, có hối lại thì đã muộn.

Điền Phong quay lại chỉ trích Quách Đồ v

- Về các mặt dùng binh, trị quốc, thu nạp anh tài thì Công Tôn Toản còn thua xa Tào Mạnh Đức.

Thẩm Phôi quy tội luôn:

- Ngài đã ca ngợi chí khí của giặc Tào, hạ thấp oai phong của chúng ta.

Quách Đồ nhìn Thẩm Phôi và nói bằng một giọng cao khác thường:

- Nên theo ý kiến của Trịnh Thượng Thư, giành lấy đại nghĩa, tiêu diệt giặc Tào, trên thuận với trời đất, dưới hợp với lòng dân.

Viên Thiệu thấy ai cũng có lý. Nghe đi nghe lại mụ cả đầu óc ù cả tai, như có tiếng vu vu của một đàn ong mật ở bên ngoài.

Bốn người tranh luận không dứt. Viên Thiệu không biết nên quyết định thế nào. Ngay lúc ấy có hai người là Hứa Du và Tuân Đam từ bên ngoài vào. Viên Thiệu nghĩ: hai người này kiến thức rộng, nên theo ý họ. Nếu quan điểm của họ lại khác nhau thì tạm ngừng để suy nghĩ tiếp.

Viên Thiệu nói thẳng vào vấn đề:

- Trịnh Thượng thư viết thư yêu cầu chúng ta khởi binh giúp đỡ Lưu Bị tiến công Tào Tháo. Xin hai vị trả lời có nên cất quân hay không.

Hai người nhìn mọi người rồi lại nhìn nhau, sau đó họ trả lời rất giống nhau:

- Minh công đánh giặc nhà Hán để phò vương thất, lấy mạnh đánh yếu,nhiều đánh ít, nên khởi binh!

- Hai người nói hợp ý ta. Đúng, khởi binh! - Viên Thiệu không muốn nghĩ ngợi thêm nữa.

Trong tình thế cấp bách này, Điền Phong dập đầu xuống đất và nói to:

- Nếu không nghe hạ thần, xuất quân sẽ bất lợi.

Viên Thiệu lo phiền, trách mắng luôn:

- Ngài khóc cái gì, có ai bắt ngài đi đưa đám đâu?

- Tôi học Kiển Thúc khóc thầy!

Viên Thiệu nghe xong càng giận. Thiệu nghĩ: Điền Phong tự cho mình là Kiển Thúc còn ta là Trần Mục Công? Kiển Thúc khóc thầy, quân Tần thua trận ở Hào sơn. Rõ ràng Điền Phong đã chửi ta! Thiệu cách chức và hạ ngục Điền Phong.

Mọi người trong phòng cảm thấy căng thẳng.

Quách Đồ nói:

- Minh công trừng phạt giặc Tào là vì đại nghĩa, cần phải dán hịch kể tội Tào Tháo, danh chính ngôn thuận, tiện việc xuất binh.

Thiệu cho là phải, nói:

- Việc này giao cho Trần Lâm.

Trần Lâm tự là Khổng Chương, văn tài siêu việt. Trần Lâm từng làm chức chủ bạ dưới thời Hán Linh đế. Lâmề Ký Châu lánh nạn khi Đổng Trác phản loạn. Viên Thiệu mộ tài, phải mấy lần đến mời Lâm mới chịu ra làm công việc văn thư. Thiệu thấy Lâm không phải là người biết xông pha vào nơi hiểm yếu, nên cho làm mưu sĩ.

Trần Lâm chẳng thích thú gì khi phải ra làm việc cho Thiệu. Hơn nữa, là một văn nhân, ông mến mộ tài hoa của Tháo, thường ngâm nga, ca ngợi những vần thơ của Tháo. Văn là người. Gian tặc lại viết được những bài thơ yêu nước, thương dân như vậy sao? Gian tặc mà lôi cuốn được bao nhiêu anh hùng hào kiệt, nghĩa sĩ ở bên mình?

Càng nghĩ càng không hiểu. Càng nghĩ càng thấy khó viết! Ngày lại ngày trôi qua, Viên Thiệu tỏ ra sốt ruột.Â� Trần Lâm đành dựa vào vài chuyện vụn vặt, rồi tô son, trát phấn, mà viết thành bài hịch.

Viên Thiệu xem xong không được vừa ý, muốn Lâm viết lại Lâm nói:

- Tôi không hiểu nhiều về Tháo nên viết rất khó.

Thiệu nói:

- Thật đơn giản, hãy điểm qua những tội trạng của hắn, rồi một vài nét về gia đình...

Trần Lâm mở đầu bài viết bằng gia cảnh của Tháo: "Tổ phụ là Trung Thường Thị Tào Đằng, cùng với Tả quan Từ Hoảng là loài yêu nghiệt..." Viết xong năm trăm chữ, Trần Lâm giao nộp cho Thiệu. Thiệu vẫn không vừa ý, còn nói:

- Ta hơi nghi ngờ về tài ba của ngài!

Viên Thiệu tỏ vẻ bực bội, không để Trần Lâm khởi thảo bài hịch nữa. Việc đãThẩm Phôi. Trần Lâm chỉ được sửa chữa, nhuận sắc.

CHƯƠNG XIII

GIẲ VỜ DÒ XÉT BẮC PHƯƠNG

Tào Mạnh Đức hành quân chậm chạp, để phải rất lâu mới tới được Lê Dương, cách quân đoàn Viên Thiệu khoảng trăm dặm.

Tào Mạnh Đức hỏi:

- Ai đóng quân ở Lê Dương?

- Hứa Du và Thẩm Phôi, còn có lão mưu sĩ già Thư Thụ. - Thám tử báo cáo.

Tào Mạnh Đức như trút được gánh nặng, nói:

- Khỏi phải lo!

Hứa Du vốn không thích Thẩm Phôi cầm quân. Thư Thụ oán Viên Thiệu không dùng kế của mình. Mỗi người mỗi phách chẳng ai hợp ai.

Hai cánh quân cách nhau khoảng trăm dặm. Họ dàn quân bố phòng, án binh bất động từ giữa hạ nóng bức đến đầu thu bầu trời trong xanh, chừng hai tháng ròng rã.

Hình như Tào Mạnh Đức cảm thấy có điều gì đó, dặn dò Tang Bá, thủ hạ của Lã Bố vừa hàng, giữ ải Khẩu của Lê Dương. Vu Cấm, Lý Điển đóng quân ở mạn trên dòng sông. Tào Nhân cầm đại quân đóng ở Quan Độ. Còn mình dẫn một cánh quân lớn nhanh chóng quay về Hứa Xương.

Cùng lúc Tào Mạnh Đức dẫn đại quân tiến vào Lê Dương, một cánh quân khác chừng năm vạn người tiến vào Từ Châu, vời cờ hiệu của Thừa tướng.

Trình Dục nói:

- Lưu Đại, Vương Trung đâu phải là đối thủ của Lưu Bị.

Tào Mạnh Đức nghiêm chỉnh hỏi:

- Vì sao ngài biết?

- Khi nhận quân kỳ tay họ run run.

- Ta biết họ không phải đối thủ của Lưu Bị. Đó là đòn hư trương thanh thế. Chờ khi đánh bại Viên Thiệu, ta sẽ đối phó với Lưu Bị sau. - Tào Tháo rất đắc chí.

Khi Vương và Lưu tiến quân vào Từ Châu thì có mẩu đối thoại đó.

Còn lúc này, Tào Mạnh Đức đang miên man trong bao nhiêu điều suy nghĩ, trong bao nhiêu cảnh tượng: lá cờ lớn có chữ "Tào" trông trang nghiêm và thích mắt; những cánh đồng mầu vàng ngoài thành Hứa Đô; những tàn khói tỏa ra từ những gian bếp của người nông dân; xa xa tiếng gà báo sáng, lẫn trong tiếng cầm ca của Hồng Đàn. Tào Mạnh Đức tưởng tượng người nông dân gánh nước là Tảo Tử đang đứng trên cầu nhìn dòng nước cuồn cuộn. Vầng trăng như chiếc mâm bằng bạc. Đàn nhạn vỗ cánh bay qua bầu trời. Tào Mạnh Đức nghĩ tới quang cảnh khi ra đời những vần thơ "Xương trắng đầy cánh đồng, ngàn dặm đâu tiếng gà...".

Đâu đó tiếng chim hót líu lo làm Tào Mạnh Đức bừng tỉnh. Họ Tào giật cương, tiếng vó ngựa đều đều trên nền đất quen thuộc. Bầu không khí trong lành của buổi bình minh lan toả khắp nơi.

° ° °

Mấy tháng trời bôn ba, vất vả, ngay ngày hôm sau khi về lại Hứa Đô, Tào Mạnh Đức đã đổ bệnh. Bệnh cũ, đau nửa đầu đã tái phát.

- Thừa tướng về phủ nghỉ ngơi. Mọi việc ở đây, tôi xin lo liệu - Tuân Úc rất tha thiết.

Tào Mạnh Đức lắc đầu:

- Ngài về phủ cho Hồng Đàn sang chăm nom ta. - Nghĩ một lát rồi Tào Mạnh Đức lại bổ sung:

- Nhớ bảo cô ấy mang theo cây đàn tranh, ta muốn phổ một vài câu ca.

Tào Mạnh Đức không ưa tĩnh mịch. Rời khỏi lưng ngựa, cởi bỏ cung tên, là cảm thấy trống rỗng. Được Cát Thái y tận tình điều trị, bệnh của Tào Mạnh Đức chuyển biến tốt, lại được xem sách, múa kiếm, ngâm thơ, đi dạo...

Hôm đó, Tào Mạnh Đức mặc thường phục ra ngoài thành phía bắc Hứa Xương. Một số thị vệ tài ba cũng mặc thường phục đi theo.

Có một hòn núi nhỏ nằm giữa một cánh đồng. Trên núi có phần mộ của Tảo Tử.

Xuyên qua những thửa ruộng, qua dốc núi thoai thoải đến phần mộ của Tảo Tử. Mùa thu, những cây phong đã rụng hết lá. Nhũng cành phong vây quanh ngôi mộ, hệt như vậy quanh một chiến binh mặc áo giáp, đội mũ trụ. Trên bia mộ là hàng chữ mầu đỏ, nổi bật dưới những tán lá um tùm. Tự tay Tào Mạnh Đức viết: "Mộ phần Tảo Tử, Đô uý đồn điền".

Năm tháng trôi qua, hoa còn đó, mà người đã đổi thay. Ba năm rồi, rừng phong đã mấy lần đổi lá. Những cành cỏ dại trên nấm mồ xanh rồi lại vàng. Tảo Tử thì sao? Con người tinh anh và suốt ngày cần mẫn đã sớm vội yên nghỉ giữa rừng phong tĩnh mịch này. Phần mộ nhìn xuống cánh đồng mênh mông một mầu vàng.

Tào Mạnh Đức đứng rất lâu trước mộ Tảo Tử, nhớ lại những vần thơ "Vua hiền minh, tể tướng trung thành. Hiểu điều lễ nghĩa, dân không tranh kiện. Ba năm cày cấy dùng được chín năm. Thóc lúc đầy bồ...". Xung quanh là những cánh đồng sắp sửa bội thu.

Tiếng đàn, tiếng đàn vô cùng quen thuộc.

Qua song cửa sổ, Tào Mạnh Đức đã nhìn thấy Hồng Đàn, một hình bóng xinh đẹp và sinh động. Tào Mạnh Đức luôn mơ tưởng Hồng Đàn. Trong đêm say đắm và thần bí hôm đó, dưới rặng liễu, Tào Mạnh Đức đã tìm thấy ở cơ thể nàng niềm hoan lạc và sự âu yếm mà ở Đinh phu nhân, những bà vợ lẽ khác, kể cả ở cô Thu, không bao giờ có được. Â�Â�Â�Â�Â�Â�Â�Â�Â�Â� Thật miên m

Tiếng đàn, tiếng đàn như khóc như than, như đang thổ lệ về một mối tình oan khúc, như đang kể một chuyện cổ tích cảm động. Và nghe ra lại như tiếng rì rầm của những ngọn cỏ bên dòng suối nhỏ, tiếng đàn cá tung tăng dưới chân cầu khi những ngón tay của Bá Nễ Hành lướt trên năm dây đàn ở đó.

Tào Mạnh Đức đứng nghe hết khúc ca ở bên ngoài. Khi Mạnh Đức bước vào, Hồng Đàn vội chạy tới sà vào lòng.

° ° °

Chỉ trong một đêm hịch văn kể tội họ Tào dán khắp Hứa Đô, nhìn trắng như tuyết, hịch viết:

Nghe kể rằng: Minh chủ lo toan khi nguy cấp, Trung thần lập công lúc khó khăn. Nhờ có người phi thường mới có việc phi thường, có việc phi thường mới có công phi thường. Người phi thường mới giải quyết được việc phi thường.

Tư không Tào Tháo, tự Mạnh Đức, tiểu tự A Man. Ông nội là Trung Thường Thị Tào Đằng, thường tác yêu tác quái trong triều cùng bọn Tá quan Từ Hoảng. Họ chuyên chiếm cung đình, phương hại đến đạo đức, ngược đãi dân lành. Cha Tào Tung vô sỉ, nhận Tào Đằng làm dưỡng phụ, còn lấy tiền vàng hối lộ, mua được chức vị. Lại vứt bỏ đạo làm quan, dùng tiền lũng đoạn chính trị, cướp đoạt chức trọng quyền cao, làm bại hoại uy tín xấu xa, gian trá hiểm độc đang yên đang lành bỗng nhiên gây sự.

Năm đó, đại tướng Viên Thiệu dẫn tinh binh, qué bọn hoạn quan. Lại đến Đổng Trác chuyên quyền lấn quan hại dân. Thiệu liền xách kiếm khởi nghĩa... Đúng lúc ấy, Tào Tháo xin đứng dưới trướng tướng quân, những tưởng biết dùng binh, chăm đọc sách giỏi mài mực, nên cho làm tuỳ tướng. Nào ngờ mưu lược kém cỏi, xem thường viện tiến thoái, bởi vậy thất bại đến mấy lần, chết mất nhiều binh sĩ. Nhưng tướng Thiệu vẫn cho thêm quân, còn tiến cử sang Đông Quan, nhận chức Thứ sứ Duyện Châu. .. những mong Tháo biết phát huy võ, đức, làm ít nhiều việc tốt, nào ngờ Tháo chỉ biết lợi dụng, ỷ có quyền lực làm nhiều điều bạo ngược giết hại những người hiền tài.

Â�Â�Â�Â�Â�Â�Â�Â�Â�Â� ...Tào Tháo thua trận ở Từ Châu, doanh trại bị Lã Bố cướp, bơ vơ chốn chiến trường, không nơi nương tựa. Đại tướng ta vừa mủi lòng, vừa không muốn Tào Tháo đi theo kẻ phản nghịch, nên lại giơ tay cứu giúp.. . Viên tướng quân tuy không có công gì với dân Duyện Châu, nhưng với họ Tào đã hết tình hết nghĩa!

Đến khi Thiên tử gặp lúc long đong... tướng quân chưa kịp chăm sóc, đã sai Tùng sự trung lang là Từ Huân giúp Tào sửa sang giao miếu, nâng đỡ vua nhỏ. Nhưng không ngờ Tào Tháo thừa cơ nắm gọn Triều đình ức hiếp Hoàng đế, công khanh, đại thần, khinh nhờn vương thất, làm loạn kỷ cương; yêu ai thì người ấy sung sướng đến cả năm đời, ghét ai thì giết chết ba họ. Ai dám công khai chỉ trích thì xử tội chết, người chê bai vắng mặt thì ngấm ngầm giết hại.

Cố Thái uý Dương Bưu, đức cao vọng trọng, chỉ vì một va chạm nhỏ, bị Tháo ghép vào trọng tội, nêm đủ cực hình; lại như Nghị lang là Triệu Ngạn lời ngay nói thẳng, được lòng thánh thượng, Tào Tháo cản đường thánh ý, bắt mà giết đi. Lăng mộ của Lương Hiếu, anh em ruột với Hoàng đế là nơi tôn quí cúng lễ của quốc gia, cũng bị họ Tào tham lam, cho quân khai quật, phá áo quan bỏ lộ thây, cướp lấy bảo vật. Không có lính chuyên đào mộ, Tháo cử viên chức làm cện nhục nhã ấy. Bởi vậy đi đến đâu, xương cốt phủ bầy đến đó... Nhìn qua các triều đại, những kẻ làm tôi vô đạo, tham tàn ác nghiệt như Tháo là cùng.

Viên đại tướng đang dốc sức dẹp loạn phương bắc, chưa kịp chấn chỉnh nội bộ. Hơn nữa cũng muốn khoan dung, giúp Tháo biết sai mà sửa. Nhưng Tháo vẫn bụng sói lang, mang tâm gây vạ, mong đạp đổ rường cột, làm yếu nhà Hán, trừ diệt trung thần nghĩa sĩ, chuyên chế triều chính, làm kẻ kiêu hùng...

Nay Tào Tháo đóng giữ Cốc Thương, nhờ sông Hoàng Hà che chở, muốn chặn bánh xe lịch sử bằng cánh tay con bọ ngựa! Tướng quân Viên Thiệu phụng oai linh nhà Hán, dẫn quân xuống Nam, vượt sông Hoàng Hà tiến đánh mặt trước, lại có quân Kinh Châu, đánh từ mặt sau, hai quân kẹp lại, khác gì đem bó lửa đốt mớ bòng bong. Quân Tào sức yếu, thê cô, tất bị tiêu diệt.

Hiện nay nhà Hán suy yếu, kỷ cương lỏng lẻo. Triều đình không có người giúp dập. Càng không có người trung nghĩa, khả dĩ liều chết với giặc Tào. Vả lại, tay Tháo cầm quân cấm vệ bao vây cung đình, nói là bảo vệ, nhưng chính là lấy sức ức hiếp Hoàng thượng, chuẩn bị cướp ngôi...

Tháo còn làm giả chiếu vua, sai khiên quân lính trong nước. Đại tướng lo cho các châu quận ở xa mắc mưu Tào Tháo vì thế mới loan báo hịch này.

Từ nay đại tướng sức khởi binh của bốn châu U, Tinh, Thanh, Ký, hiệp đồng với Kiến trung tướng Kinh Châu Lưu Biểu làm cho thanh thế càng mạnh. Kêu gọi các đại quân khác chỉnh đốn nghĩa quân, lập công cứu nguy xã tắc.

Ai chém được đầu Tào Tháo sẽ phong hầu năm ngàn hộ, thưởng tiền năm nghìn vạn. Nay làm hịch bố cáo thiên hạ. Mong muốnười giải trừ quốc nạn, tuân theo pháp luật. Loan báo đến trăm họ.

Tào Mạnh Đức đọc to lời hịch. Ai nấy nín thở, không khí năng nề.

Họ Tào vo viên tờ hịch, hai cánh mũi phập phồng, nói:

- Văn phong khá lắm! Một người tài hoa!

Khôeng Dung nói:

- Viết bài này, không ai ngoài Khổng Chương.

Tào Mạnh Đức nói:

- Khổng Chương! Ồ! Người đó là Trần Lâm, từng làm chủ bạ thời Linh đế.

- Đúng ông ta. Con người xem thường công danh, tính tình ngay thẳng. - Khổng Dung nói và trong lòng lo thay cho Trần Lâm.

- Tính tình của nhiều văn nhân là như vậy. Khổng Khâu đã nói "Bất sĩ vô nghĩa". Người có bản lĩnh đã không chịu ra làm quan. Trần Lâm chẳng qua chỉ là một tên hủ nho, dám xem thường cả Khổng Trọng Ni. Vậy việc gì ta phải để ý đến hắn... - Tào Mạnh Đức nói xong cười lớn.

Qua tiếng cười của Tào Mạnh Đức, không khí trong phòng trở lại bình thường. Bỗng nhiên họ Tào tuyên bố.

- Đêm nay mở tiệc chúc mừng bốn năm, ngày chúng ta nghênh đón Thiên tử về Hứa Xương.

Tuân Úc cũng sực nhớ

- Đúng, đã bốn năm rồi.

° ° °

Lưu Đại, Vương Trung chật vật lắm mới trở về được. Đó là điều mà Tào Mạnh Đức đã dự kiến trước. Nên Tào Mạnh Đức vốn không có ý trách phạt hai người. Nhưng trước mặt đám đông. Lưu Đại, Vương Trung lại tán dương Lưu Bị, những là khoan hậu, yêu thương đồng cảm với mọi người.

Tào Mạnh Đức nghe xong lửa giận bốc lên ngùn ngụt.

- Các ngươi hãy mở mắt ra mà nhìn. Đất nào có chủ ấy. Vùng Duyện Châu trăm họ ăn, mặc, sinh sống ra sao? Ai là người chăm lo cho dân, ai là giặc?

Tào Mạnh Đức sai chém Lưu Đại, Vương Trung.

Khổng Dung can ngăn:

- Hai người đó đi đánh Lưu Bị, khác nào đem trứng chọi với đá. Họ chống đỡ được lâu như vậy không dễ dàng gì. Nếu giết họ, sau này ai dám làm mã làm tốt cho chúa công.

Tào Mạnh Đức thấy Khổng Dung nói có tình có lý nên tha tội chết cho hai người.

- Xem ra Viên Thiệu và Lưu Bị quyết tử chiến với ta. Hai người này phối hợp với nhau cũng chưa có gì đáng sợ. Trừ phi Trương Tú, Lưu Biểu cũng liên mi với họ. - Hai tay chắp sau lưng, Tháo đi đi lại lại, tỏ vẻ lo lắng.

Khổng Dung nói rõ ý mình:

- Thừa tướng nên sai người đến chiêu an Trương Tú, Lưu Biểu trước đã, sau hẵng tính đến Từ Châu, đối phó với Viên Thiệu.

Tào Mạnh Đức ôm lấy Khổng Dung:

- Văn tài như ngài mới đúng! Am tường vạn vật, thấu hiểu trời đất.

- Còn lâu mới bắt kịp Thừa tướng, xin đừng quá khen!

Tào Mạnh Đức nghe theo Khổng Dung, cử Lưu Việp chiêu an Trương Tú.

Lưu Việp đến Tương Thành, trước tiên vào thăm bạn cũ là Giả Hủ. Hôm sau Lưu, Giả đến gặp Trương Tú. Ba người đang nói chuyện phiếm, sứ giả của Viên Thiệu vội đến gõ cửa.

Giả Hủ biết ý sứ giả, liền hỏi:

- Gần đây Viên tướng quân cất quân đánh Tào, được thua thế nào?

Sứ giả đáp:

- Ngày đông, tháng giá, chúa công tôi tạm hoãn tiến quân. Nay mai, sẵn mưu cao chí sâu, có bộ hạ tinh thông, chúa công tôi bắt Tháo như bắt cua trong giỏ. Hiện thấy Tướng quân ta cùng Lưu Biểu ở Kinh Châu đều là các bậc quốc sĩ nên sai tôi lại mời.

Giả Hủ cười, nói:

- Sứ mạng của ngài đã xong. Ngài về nói với Viên Thiệu anh em trong nhà còn không dung được nhau, nữa là quốc sĩ thiên hạ!

Nói xong, Giả Hủ xé vụn lá thư ngay trước mặt sứ giả và đuổi sứ giả về.

Trương Tú trách cứ Giả Hủ:

- Nay xé thư, đuổi sứ giả, ngộ nhỡ Thiệu sinh giận đem quân đến đánh thì làm thế nào?

Giả Hủ đã có chủ ý, vội nói:

- Chi bằng theo hàng Tào Tháo.

Trương Tú lắc đầu, nói:

- Ta có thù với Tào, đã giết Tào Ngang, hắn dung tha ta sao được?

- Tào Mạnh Đức không xấu như trong bài hịch. Hứa Chử thô lỗ, Quách Gia hàn sĩ, Cát Bình trong giang hồ, Tháo đều biết dùng cái tốt.

Trương Tú có phần cảm động.

Giả Hủ nói:

- Theo Tào Tháo có ba điều hợp: một là Tháo đã có vai trò ở Hứa Đô. Sau mấy năm khai hoang lập ấp, lương thực đầy đủ, dân tình no ấm. Hai là Thiệu đang mạnh, ta có theo cũng chẳng thêm được gì, ngoài vài con sâu rượu. Tháo đang yế có thêm ta, tất phải mừng rỡ như được thêm vây thêm cánh. Ba là Thiệu đông người, nhưng thường chia năm sẻ bảy. Người của Tháo ít nhưng trăm người như một.

- Vậy ta cũng làm như Liêm Pha!

Tú giao quân cho Giả Hủ, tự trói mình đi ngựa đến Hứa Đô.

Tào Mạnh Đức đang lo Lưu Việp không được việc thì quân của Hủ đã rầm rộ kéo vào Hứa Xương.

- Trương tướng quân, sao đến nông nỗi này? - Tào Mạnh Đức nghĩ Hủ làm phản.

Lưu Việp nói:

- Trương tướng quân muốn như Liêm Pha.

Tào Mạnh Đức cảm động, vội bước xuống thềm cởi trói cho Trương, nói:

- Những lầm lỗi nhỏ, xin đừng để bụng. Ta cũng muốn giống Lạn Tương Như.

Tú cảm thấy nhẹ nhõm. Tháo hạ lệnh phong Tú chức Dương Vũ tướng quân, Hủ chức Chấp kim ngô sứ.

Tào Mạnh Đức muốn Tú viết thư chiêu an Lưu Biểu. Tú nói:

- Khó quá! Tôi không thân tình với Biểu.

Giả Hủ nói:

- Biểu thích nạp các bậc danh lưu, nếu sai một danh sĩ văn tài xuất chúng đến khuyên là xong.

Tào Mạnh Đức nói:

- Văn tài xuất chúng ta có Khổng Dung. Việc này phải nhờ Bắc Hải tướng thôi.

Khổng Dung nói:

- Tôi có người bạn tên là Nễ Hành, tự Chính Bình, tài giỏi gấp mười lần tôi.

Tào Mạnh Đức cho Khổng Dung nói bốc:

- Văn tài thiên hạ ta không biết sao? Ngoài Khổng Dung còn có Trần Lâm. Từ Can, Lưu Trinh, anh em Tào Thực, Tế Ấp... Ta chưa nghe tên Nễ Hành.

Tháo hỏi:

- Theo ngài nói, văn tài Nễ Hành cũng gấp mười ta?

Khổng Dung vui vẻ nói:

- Thừa tướng tài trí mẫn tiệp mấy ai bì kịp.

Tào Mạnh Đức cho người đi mời Nễ Hành đến ngay.

Đối xử với người khác thường, ở đâu cũng vậy, phải có cung cách khác thường. Mạnh Đức làm đúng như vậy. Làm lễ ra mắt xong, Tào Mạnh Đức không mời Nễ Hành ngồi. Hành ngửa mặt lên trời than rằng:

- Nghe nói Hứa Xương có nhiều người tài, sao không thấy một ai.

Tào Mạnh Đức nói:

- Thủ hạ ta có nhiều anh hùng, sao bảo là không thấy ai.

Nễ Hành xin Tào Mạnh Đức kể cho nghe.

- Tuân Úc, Tuân Du, Quách Gia, Trình Dục mưu trí tuyệt vời khác gì Tiêu Hà, Trần Bình tái thế. Trương Liêu Hứa Chửa, Lý Điển, Nhạc Tiến, sức khoẻ hơn người, Xầm Bành, Mã Vũ ngày xưa chưa thấm vào đâu. Lã Kiền, Mãn Sủng làm tùng sự. Vu Cấm, Từ Hoảng làm tiên phong. Hạ Hầu Đôn là bậc kỳ tài trong thiên hạ. Tào Tử Hiếu là mãnh tướng trong đời, sao bảo là không thấy ai?

Nào ngờ Nễ Hành chỉ hơi hé mắt, nửa những nghe nửa những không, vừa thức vừa ngủ, chẳng thích thú gì mấy!

Tào Mạnh Đức nhìn thấy, có phần bực bội, nhưng tự kìm nén được.

Mãi lúc lâu, Nễ Hành mới mở được mắt, nói như không.

- Hứa Đô thiếu hẳn người tài nên họ mới được Tào công quý mến! Tuân Úc nên sai đi thăm bệnh, viếng tang; Tuân Du chỉ đáng là anh giữ mả coi mồ, Trình Dục nên cho đứng gác cửa; Quách Gia gảy đàn, ngâm thơ còn tạm được; Trương Liêu đánh trống cũng khoẻ; Hứa Chử cho đi dắt bò, chăn dê; Từ Hoảng mổ lợn, giết chó thì hợp...

Tào Mạnh Đức cắt ngang:

- Vậy ngươi có tài gì?

- Thiên văn, địa lý thứ gì cũng biết, tam giáo cửu lưu thứ gì cũng thông. Trên có thể giúp nhà vua làm được bậc Nghiêu, Thuấn, dưới có thể sánh hiền đức với các bậc Khổng, Nhan. Ta đâu thèm bàn chuyện thiên hạ với bọn phàm phu tục tử.

Bấy giờ Trương Liêu đứng cạnh, tuốt gươm toan chém Nễ Hành, Tháo giơ tay ngăn cản và nói:

- Bá quan văn võ đã đủ, nay ta thiếu một chân đánh trống, phiền Nễ Hành nhận cho.

Hành không chối từ, nhận lời rồi đi ra.

Trương Liêu tức giận ra mặt:

- Người ấy xấc xược. Dám chửi chúng tôi trước mặt Thừa tướng.

Tháo nói:

- Chưa biết thế nào, nếu vội giết đi e thiên hạ sẽ chê cười. Cử làm chân đánh trống đã nhục lắm rồi. Nếu thật nó giỏi thế nào cũng bỏ. Khi đó sẽ gọi nó đến.

Một hôm Tào Mạnh Đức mở tiệc đãi khách, bảo Hành đánh trống giúp vui. Có những bảo: "đánh trống phải mặc áo mới". Hành có ý cứ mặc áo cũ đi vào. Tháo nói:

- Tề Tuyên Vương thích nghe tiếng sáo. Còn ta thích nghe ba hồi trống theo khúc "Ngư Dương". - Tào Mạnh Đức không hiểu ngũ âm. Khúc trống Ngư Dương rất khó, Tháo thử tài Hành.

Hành đánh ba hồi trống theo khúc Ngư Dương, âm thanh trầm bổng tiêu tao thật nhiều vẻ. Không mạnh như tiếng kim tiếng thạch, khi chậm rãi ư tiếng nước chảy. Lúc vui thì giống tiếng chim ríu rít mùa xuân. Lúc ai oán khác gì sinh tử li biệt. Những người ngồi ăn đều thấy vui buồn, cảm thương đến rơi nước mắt.

Tiếng trống càng hay thì quần áo cũ, cũng từng chiếc cởi ra vứt đấy, Nễ Hành khoả thân đánh tiếp. Khách ngồi ai cũng che mặt kêu thét, như có sấm sét giữa bầu trời xanh.

Tháo quát mắng:

- Trên chỗ miếu đường sao dám vô lễ?

Hành nói:

- Dối vua lừa trên mới là vô lễ. Thân thể cha mẹ sinh ra, nó vốn sạch sẽ việc gì phải che che đậy đậy. Lộ nó ra là để tỏ cái thân thể thanh bạch của ta vậy.

Tháo hỏi lại:

- Mày thanh bạch thì ai là dơ đục?

Nễ Hành dõng dạc trả lời:

- Mày không biết người hiền người ngu là mắt đục; không đọc sách là miệng đục, không biết nghe lời trung là tai đục; không hiểu chuyện xưa chuyện nay là thân đục; không dung chư hầu là bụng đục; mày âm mưu thoán vị là tâm đục. Ta là danh sĩ thiên hạ, mày bắt đánh trống, có khác gì Dương Hoá khinh miệt đức Khổng Tử, Tang Thương chê bai thày Mạnh Tử. Mày muốn xưng bá trong thiên hạ mà lại đối xử với ta như thế à?

Mặt Tháo lúc xạm đi lúc trắng bệnh. Khổng Dung sợ Tháo giận giết mất Nễ Hành, bèn vội vàng tiến lên nói:

- Tính người này như ngựa không cương, nay đây mai đó, chưa hiểu hết chuyện đời.

Mạnh Đức suy nghĩ một lúc rồi nói:

- Nay ta cho người đi sứ Kinh Châu dụ hàng Lưu Biểu. Nếu xong việc, ta sẽ cho làm công khanh.

Nễ Hành nói:

- Còn tạm nghe được. Có điều ta muốn mượn ngựa của Thừa tướng và hai mỹ nữ đi cùng.

Tào Mạnh Đức chưa hiểu:

- Nói nghe được, ta xin theo.

Nễ Hành giảng giải:

- Ta thay mặt Thừa tướng, có quý trọng hơn người, Thừa tướng mới cho mượn ngựa! Ta nổi tiếng với thiên hạ, có gái đẹp mới là tài tử giai nhân!

Tào Mạnh Đức đồng ý và đích thân ra tiễn Nễ Hành ở ngoài cửa đông.

Nễ Hành đến Kinh Châu.

° ° °

Nễ Hành dáng người thấp bé, xấu xí, Lưu Biểu châm c

- Hứa Đô nhân tài hiếm hoi nên mới cử người đến Kinh Châu, tủn mủn xấu xí, Tào A Man còn thua!

Nễ Hành châm lại ngay:

- Nghe nói tướng quân là hào kiệt. Xem ra chẳng khác ông cụ thân sinh là mấy. Đất đai Kinh Châu nghèo nàn, vừa khéo tướng quân tích tụ được nhiều thứ thừa thãi cho Kinh Châu. Cái xác cao to của tướng quân đem làm phân bón ắt phải được mùa.

Lưu Biểu không vui, nghĩ ngợi: Hành làm nhục Tháo, Tháo không biết, có ý mượn tay ta để giết hắn, để ta mang tiếng hãm hại người hiền, bèn sai Hành đi gặp Hoàng Tổ.

Các mưu sĩ hỏi Lưu Biểu:

- Nễ Hành đùa cợt chúa công, sao cứ phải nhịn, không đem giết đi?

Lưu Biểu nói:

- Nễ Hành nhiều lần nhục mạ Tào Tháo, nhưng Tháo đều nhịn. Ta không giết, sai nó đến gặp Hoàng Tổ để Tào Tháo biết là ta không dại gì đâu.

Lúc Nễ Hành đi sứ Kinh Châu, Viên Thiệu cũng cho sứ thần ngoại giao đến gặp Lưu Biểu. Biểu là người thiếu chủ kiến, bèn hỏi ý kiến mưu sĩ.

Tùng sự trung lang tướng Hàn Tung nói:

- Người ta phù thịnh, không ai phù suy. Nay Tào Tháo, Viên Thiệu đang kình địch nhau. Tháo khéo dùng binh, người hiền tụ tập kéo về. Viên Thiệu bề ngoài thì mạnh, nhạ hiềm khích lẫn nhau, người làm kẻ phá. Điền Phong là vật hy sinh để họ tranh giành quyền lợi. Chúng ta về với Tào Tháo, tướng quân tất sẽ được trọng vọng.

Lưu Biểu thấy Hàn Tung có lý, bèn nói:

- Ngài hãy đến Hứa Đô, xem động tĩnh ra sao, về ta bàn tiếp.

Hàn Tung nói:

- Tôi làm việc cho tướng quân, dù phải nhảy vào nước sôi lửa bỏng cũng không tủ. Đến Hứa Đô rồi được làm tôi trung nhà Hán, sau này không còn là người liều chết cho tướng quân được nữa.

Lưu Biểu nói:

- Đó là chuyện về sau. Ngài cứ đến Hứa Đô xem động tĩnh trước. Ta sẽ bàn tiếp.

Tào Mạnh Đức thấy Hàn Tung đến Hứa Đô có ý qui phục nên phong làm Thị trung, nhậm chức Thái thú ở Linh Lăng.

Tuân Úc không hiểu ý, bèn hỏi Tào Mạnh Đức:

- Hàn Tung đến đây để do thám, Thừa tướng đã cho chức ấy? Nễ Hành chưa có tin tức gì sao Thừa tướng không hỏi? Thế là làm sao?

- Nễ Hành là một hủ nho, không coi ai ra gì, sỉ nhục bá quan văn võ của ta. Lần này Lưu Biểu không giết hắn thì Hoàng Tổ cũng chẳng tha. Ta trọng đãi Hàn Tung để lung lạc và mua chuộc Lưu Biểu.

Tuân Úc tán thưởng:

- Thừa tướng suy nghĩ thật chu đáo!

Hàn Tung trở về Kinh Châu, luôn miệng tán tụng Tào Mạnh Đức. Lưu Biểu giận nói:

- Ngươi ăn ở hai long, ăn cơm vua thờ ông chúa. Ta giết ngươi xem lòng dạ người thế nào?

Khoái Lương khuyên Lưu Biểu:

- Trước khi đi, Tung đã phân trần rõ, tướng quân không thể nuốt lời.

Lưu Biểu do dự hồi lâu và Hàn Tung không bị giết.

Nễ Hành đến Giang Hạ gặp Hoàng Tổ. Hai người uống rượu đến tận khuya. Tổ hỏi Hành:

- Nhân tài Hứa Đô so với ta thế nào?

Hành đáp:

- Khổng Dung văn tài siêu việt, Mạnh Đức làm thơ trên lưng ngựa, còn ta biến đổi nhân thế, phong vần bằng ba tấc lưỡi. Tổ là gì? Là con rối, là cục đất.

Hoàng Tổ vốn là kẻ bất trị. Trong cơn say, giận càng thêm giận, lệnh thủ hạ chém đầu Nễ Hành.

Nghe tin, Mạnh Đức chẳng ngạc nhiên mấy.

- Ta biết cả rồi. Bọn hủ nho dùng lưỡi làm kiếm để giết người. Bây giờ lưỡ đã bị giết là cũng hợp lệ trời cả thôi.

Có người nói:

- Lưu Biểu được không con thiên lý mã của Thừa tướng.

Tào Mạnh Đức nói như thật:

- Sớm muôn gì thì Biểu cũng hàng ta. Ngựa lại về với chủ.

° ° °

Nửa tháng trôi qua, không thấy Lưu Biểu đến hàng, Tuân Úc nói:

- Chúng ta đem quân đạp bằng Kinh Châu.

Tháo phẩy tay:

- Viên Thiệu đang nhòm ngó ở phương Bắc, Lưu Bị ngồi chễm chệ ở Từ Châu, nếu ta lấy Kinh Châu trước, khác nào bỏ chỗ gan ruột chỉ nhìn đến chân tay. Nay nên diệt Lưu Bị trước, sau đến Viên Thiệu, Giang Hán thấy thế mà kinh!

Tào Mạnh Đức dẫn hai mươi vạn đại quân chia thành năm lộ tiến đánh Từ Châu.

Tôn Càn được tin đến ngay Hạ Phi báo Quan Vũ trước, sau đó mới đến Tiểu Bái gặp Lưu Bị. Bị nói:

- Ta phải đến Viên Thiệu cầu cứu mới giải được nguy. Viên Thiệu ra tay một cái, ta thừa cơ chiấy Hứa Xương, Tháo hết đường tiến thoái.

Tôn Càn đến cầu cứu Viên Thiệu lần thứ hai. Điền Phong vẫn còn bị giam trong ngục.

Càn thấy Viên Thiệu hình dáng tiều tuỵ, áo mũ xộc xệch, liền hỏi:

- Hôm nay chúa công làm sao thế?

Thiệu nói:

- Ta sắp chết đây!

Càn kinh ngạc quá:

- Sao chúa công lại nói thế?

Thiệu nói:

- Ta sinh được năm đứa con, duy có thằng út thông minh, lanh lợi. Nay nó ghẻ lở sắp chết, ta còn bụng dạ nào để nghĩ tới việc khác.

Càn nói:

- Này Tào Tháo đông chinh Lưu Bị. Hứa Xương bỏ trống. Nếu chúa công nhân cơ này mà xuất quân, thì trên có thể thờ vua, dưới có thể yên dân, lưu tiếng thơm trong thiên hạ, dựng đại nghiệp cho con cháu sau này. Mong chúa công coi sự sống còn của xã tắc làm trọng.

Thiệu nói:

- Vẫn biết thế, nhưng nó đang ốm, nếu có điều gì, ta cũng chết mất. - Và ra lệnh tiễn

- Ngươi về nói rõ duyên cớ với Huyền Đức. Nhỡ ra có điều gì không được như ý, cứ đến đây ta sẽ giúp cho.

Tiện đường, Tôn Càn vào ngục thăm Điền Phong nói lại chuyện đó.

Điền Phong nói:

- Viên Thiệu xưa nay vẫn thế. Lúc tiến quân giành lấy Hứa Xương thì lại nghĩ đến con cái. Thực chẳng đáng mặt anh hùng. Chỉ tiếc ta không có dịp được báo đền ơn nước thật đáng buồn, đáng giận.

Lưu Bị trông cậy cả ở Viên Thiệu, nên khi Tôn Càn về không, lấy làm lo lắng.

Trương Phi an ủi:

- Anh cả chớ lo. Quân Tào đi đường xa, tất nhiên mệt mỏi. Ta nhân lúc nó mới đến, đi cướp trại ngay.

Đang lúc bó tay, nghĩ lại ngày nọ, khi bắt Lưu Đại, Trương Phi đã biết dùng kế hay, nay lại bằng cách này nghe cũng được, thế là anh em chia quân đi cướp trại.

Tào Mạnh Đức dẫn đại quân nhằm hướng Tiểu Bái. Đường qua một mỏm núi, bỗng có cơn dông nổi lên, ngựa chiến hí vang dừng chân đứng lặng, lại nghe đánh ầm một tiếng, lá Nha Kỳ kỳ bị gió đánh gẫy.

Tuân Úc ngắm nhìn bầu trời rồi nói:

- Một thiên tượng kỳ lạ. Gió từ mé đông nam thổi đến rất mạnh, mang theo cả sỏi cát.

Nhờ vào kinh nghiệm nam chinh, bắc chiến hơn hai mươi năm nay, Tháo nghĩ đến việc Lưu Bị cướp trại. "Tôn Tử binh pháp" nói rõ: "Từ ngàn dặm tới, nhân lúc chưa kịp dừng chân, nên nhân kế đó...". Tào Tháo hỏi Mao Giới:

- Vừa rồi gió đông nam thổi mạnh làm gẫy lá Nha Kỳ xanh đỏ. Ngài cảm thấy đó là điềm gì?

Mao Giới nói:

- Tôi có cảm tưởng đêm nay tất có người đến cướp trại.

Tào Mạnh Đức ngửa mặt nhìn trời:

- Vừa nãy mây đen dăng kín bầu trời, cuồng phong gào rít. Bây giờ bầu trời lại trong xanh, thật là trời đã giúp ta. - Nói xong, Tào Mạnh Đức quất ngựa, đoàn người tiến thẳng về Tiểu Bái.

Tiểu Bái bắc dựa Thanh Châu, đông gần Từ Châu. Nếu khống chế được Tiểu Bái thì Từ Châu hết cách chống đỡ. Tháo bèn cho một số ít quân đóng trại cách Tiểu Bái vài dặm. Số còn lại chia thành tám mũi đóng quân mai phục bên sườn đồi, nơi cánh rừng, cả tám mặt vây quanh Tiểu Bái.

° ° °

Vào một đêm trăng sáng lờ mờ

Trong trại Tào còn vài tiếng binh sĩ vọng ra bên ngoài. Huyền Đức bên tả, Trương Phi bên hữu, chia quân làm hai lén vào doanh trại, chỉ để một mình Tôn Càn giữ Tiểu Bái.

Trương Phi dò dẫm vào đến trại Tào, chỉ thấy lơ mơ quân mã. Trương Phi đang nghi hoặc thì bốn bề lửa cháy sáng rực, tiếng reo hò ầm ĩ. Phi biết mình đã mắc kế, vội vàng chạy ra thì Trương Liêu, Hứa Chử cùng các tướng Hạ Hầu Đôn, Hạ Hầu Uyên vừa từ Lê Dương trở về đã vây quanh đấy. Quân Trương Phi vốn là thủ hạ cũ của Tào Tháo, biết thế đã nguy nên đầu hàng hết. Trương Phi tả xung hữu đột, mở một đường máu, về đến đầu núi đông bắc chỉ còn hơn mười người. Muốn về Tiểu Bái thì đường đã nghẽn, muốn xuống Từ Châu, Hạ Phi thì quân Tào đã chặn lối. Trương Phi quay lại nhìn, đâu đâu cũng có quân Tào hò hét.

Trương Phi rút kiếm định tự sát, quân sĩ vội vàng ngăn lại. Trương Phi nhớ lời thề ở vườn đào "không cùng sinh, nhưng muốn cùng chết", đành chạy về núi Mang Đãng phía đông bắc Tiểu Bái.

Cảnh ngộ của Lưu bị cũng chẳng hơn gì. Lưu Bị đang dẫn quân đến cướp trại, ngay gần cửa đã có tiếng reo hò, sau trại có một toán quân xông ra chặn ngay mất một nửa binh mã. Hạ Hầu Đôn kéo quân đến thẳng trước mặt, Lưu Bị quay người rút chạy, Hạ Hầu Đôn đuổi sát ngay sau, quân mã còn lại mươi người. Khi định thần lại, Lưu Bị đã thấy lửa cháy ngùn ngụt trong thành Tiểu Bái. Muốn về Tử Châu, Hạ Phi, lại thấy quân Tào khắp núi, đầy đồng, tắc nghẽn lối đi. Sực nhớ đến Viên Thiệu nhắn nhủ Tôn Càn: "hễ có điều gì bất trắc, cứ lại đây, ta sẽ giúp đỡ", Lưu Bị quay ngựa chạy về Thanh Châu.

Tào Mạnh Đức lấy được Tiểu Bái nhẹ như không. Tờ mờ hôm sau đã cho quân tiến đánh Từ Châu. My Chúc Giản Ung giữ không nổi đành bỏ thành mà chạy. Trần Đăng chắp tay dâng ngay Từ Châu.

Qua mấy độ chinh chiến thành Từ Châu mình đầy thương tích. Từ Châu thương yêu đùm bọc Huyền Đức trải qua nhiều nỗi cơ hàn làm nên danh tiếng cho ngươi, nhưng ngươi đã làm gì cho dân chúng Từ Châu? Mạnh Đức bước lên mặt thành lòng đầy cảm kích.

Mạnh Đức hỏi Trần Đăng:

- Từ Châu vốn giầu có, trăm họ sinh sống ra sao?

Trần Đăng nói:

- Trăm họ ở Từ Châu ngưỡng mộ Huyền Đức, nguyện theo Huyền Đức đánh giặc. Có điều vườn tược ruộng đồng bỏ hoang bỏ phí quá nhiều!

- Tào Mạnh Đức bỗng lại hỏi: - Trăm họ có hận ta không?

Trần Đăng không biết nên trả lời ra sao?:

Từ đó, Tào Mạnh Đức vừa lo nghĩ cho trăm họ vừa tìm cách đánh chiếm Hạ Phi.

Tuân Úc nói:

- Quan Vũ trông nom vợ con Huyền Đức, tất sẽ liều chết giữ thành. Nếu đánh mạnh ta sẽ hao binh tổn tướng.

Tháo nói:

- Ta phải dùng mưu. Nếu được Quan Vũ về hàng, thật là hồng phúc của t

Quách Gia nói:

- Quan Vũ là người nghĩa khí, chắc không chịu hàng. Nếu cử một người quen thân với Quan Vũ từ trước đến khuyên nhủ, có khi còn có cơ may.

Trương Liêu nói:

- Tôi quan biết Quan Vũ, xin được thử xem.

Trình Dục nói nhỏ với Mạnh Đức những điều gì đó, chỉ thấy Mạnh Đức hết lời khen ngợi.

Mạnh Đức cử mười tên hàng binh chạy về Hạ Phi xin hàng Quan Vũ ngay đêm hôm đó. Quan Công cho là quân cũ nên không hồ nghi gì cả.

Hôm sau, Hạ Hầu Đôn dẫn năm ngàn quân đến thành Hạ Phi thách đấu. Quan Vũ đóng chặt cửa thành cho tên bắn xuống như mưa.

Chửi mắng từ sáng đến trưa, Quan Vũ vẫn ngồi yên trên mặt thành. Đôn định giết Quan Vũ bằng một mũi tên, nhưng nhớ lời Tháo dặn lại thôi, đành dẫn quân trở về. Tháo nói:

- Quan Vũ trọng nhân nghĩa, yêu Bị hơn yêu chính mình. Ta mượn đầu binh sĩ tử trận, sửa sang giống Bị, treo nơi đầu ngựa, Quan Vũ nhìn thấy ắt tức giận mà ra đánh. Ta cướp ngay thành, Quan Vũ hết đường, Trương Liêu sẽ đến khuyên nhủ.

Hạ Hầu Đôn lại chửi mắng hết cả hơi:

- Lưu Bị đã bị phá. Binh sĩ đang đuổi bắt kẻ có tai dài.

Quan Vũ vẫn mặc.

Có người đến báo:

- Hạ Hầu, tướng quân, đã chặt được thủ cấp Lưu Bị.

Quan Công nhìn thấy thủ cấp giống Lưu Bị, nên thét lớn:

- Đại ca, không thể cùng sinh, nhưng muốn cùng chết. Quan Vũ này sống làm gì nữa. - Nói xong, Quan Vũ dẫn ba ngàn quân, mã ra thành giao chiến với Đôn. Hai người đánh nhau hơn mười hiệp, Đôn quay ngựa chạy, Quan Vũ đuổi miết. Đôn vừa đánh vừa chạy. Quan Vũ đuổi được hơn hai mươi dặm, sợ không có ai trông nom vợ con Lưu Bị, liền quay ngựa lại. Bỗng nghe một tiếng pháo nổ, bên tả có Từ Hoàng, bên hữu có Hứa Chử, hai quân chặn mất đường về. Phía sau, Hạ Hầu Đôn đuổi theo đánh tới. Quan Vũ liều mạng đến lúc hoàng hôn mới lui vào chân núi. Ở đây, quân Tào cũng đã vây chặt.

Trông xa về phía Hạ Phi, trong thành lửa cháy ngùn ngụt, Quan Vũ lo cho hai người chị. Đã mấy lần xông xuống núi đều bị tên bắn như mưa, không sao ra được.

Quan Vũ đau đớn ngất lịm, chờ khi tỉnh dậy trời đã gần sáng. Quan Vũ giụi mắt, thấy một người phóng ngựa chạy tới Quan Vũ cầm thanh long đao ra nghênh chiến, thấy đó là Trương Liêu.

Quan Vũ nói thẳng:

- Văn Viễn đến dụ ta chăng?

Liêu xuống ngựa, hai người đến ngồi trên một iến đá. Quan Vũ nói:

- Đại ca đã chết, Dực Đức còn sống hay không? Ta chỉ muốn liều chết với Tào Tháo, hiềm nỗi...

Trương Liêu nói:

- Dực Đức, chắc đã đến chỗ Viên Thiệu. Hôm qua Tào công đã phá thành Hạ Phi. Quân dân trong ngoài đều an toàn cả. Tào công còn cử người trông nom gia quyến Huyền Đức. Đệ đến báo tin cho huynh trưởng.

Quan Vũ nghiến răng ken két:

- Tào Tháo là loại giết người không ghê tay, uống máu người không biết tanh, không thê trông cậy được.

Trương Liêu nói:

- Huynh trưởng chưa hiểu được Tào công đâu!

Quan Vũ kể tội Tào Tháo.

- Giết quân Khăn vàng, đào mồ tổ tiên, hại Đổng Thừa, đến Đổng Thái phi cũng không từ, tâm địa lang sói đó ai mà không biết.

Trương Liêu nói:

- Lưu Huyền Đức cũng giết quân Khăn vàng. Viên Thiệu cũng phá huỷ phần mộ của tổ tiên. Tháo làm điều ấy để có tiền chiêu binh mộ lính, khác hẳn anh em Viên Thiệu. Giết Đổng Thừa... làm như vậy là bất đắc dĩ.

Quan Vũ hỏi tiếp:

- Tào Tháo có thể giết ta, cho đại tướng đến chém đầu ta, tại sao cứ vây mà không đánh, để ta ở mãi trên núi thế này?

Trương Liêu nói:

- Tào công ngưỡng mộ tài đức của huynh trưởng. Có được huynh trưởng là có được hạnh phúc lớn trong đời Tào công.

Quan Vũ ngửa mặt lên trời cười lớn:

- Ta không thể một thân thờ hai chủ. Nay tuy đã hết đường ta vẫn coi cái chết như không. Người đi đi, ta sẽ xuống núi nghênh chiến ngay bây giờ.

Trương Liêu nói:

- Huynh trưởng nói thế làm tổn hại đến thanh danh, thiên hạ sẽ cười chê.

Quan Vũ ra chiều không hiểu.

- Huynh trưởng xuống núi liều đánh, cố lấy cái chết, như vậy là mắc ba tội lớn. Khi trước Lưu sứ quân và huynh trưởng kết nghĩa, thề cùng sống chết. Nay sứ quân chưa biết ra sao, nếu khi trở về muốn tìm huynh trưởng, tìm không thấy, chẳng hóa ra phụ lời thề năm trước hay sao? Lưu sứ quân đem vợ con phó thác cho huynh trưởng, nay huynh trưởng liều mình chịu chết, hai phu nhân biết nương tựa vào ai, há chẳng phải huynh trưởng đã phụ lời phó thác hay sao? Huynh trưởng võ nghệ siêu quần, tinh thông kinh sử, không nghĩ cùng sứ quân giúp nhà Hán, lại tự nhảy vào chỗ nước sôi lửa cháy, chuốc lấy cái tiếng mạnh bạo của kẻ vũ phu, khác gì tên Lã Bố, như thế là không để lại tiếng thơm trung nghĩa cho đời

Quan Vũ nghĩ ngợi rất lâu, thấy đầy mâu thuẫn.

Đã bắt được dịp, Trương Liêu nói thêm:

- Tình hình của huynh trưởng có nhiều khó khăn. Nếu cứ cố thủ, sớm muộn cũng chết. Chết mà vô ích thì hàng là hơn. Tìm cách nghe tin về Lưu Huyền Đức. Khi biết tin Sứ quân ở đâu, sẽ lại đi theo. Một là bảo toàn được hai phu nhân, hai là giữ được lời thề vườn đào, ba là lưu lại được cái thân có ích.

Quan Vũ suy nghĩ một lúc rồi nói:

- Ta cũng có ba điều kiện, nếu Thừa tướng nghe được, ta xin giải giáp quy thuận.

Trương Liêu nói:

- Thừa tướng là người khoan dung đại lượng. Xin huynh trưởng yên tâm.

Quan Vũ nói:

- Một là: ta và hoàng thúc đã thề cùng nhau giúp nhà Hán, nay ta chỉ hàng vua nhà Hán, không hàng Tào Tháo. Hai là: hai chị dâu ta phải được chu cấp theo bổng lộc của hoàng thúc, không được vô lễ, phải cấp nhà riêng, do ta chọn người hầu hạ. Ba là: hễ nghe tin hoàng thúc ở đâu, dù khó khăn đến mấy, ta cũng xin cáo từ để tìm đến đấy. Ba điều ấy, dù chỉ thiếu một, ta nhất định không hàng, nhờ Văn Viễn mau mau nói lại với Thừa tướng.

Trương Liêu xuống núi về gặp Tào Tháo nói ngay điều một.

Tháo nói:

- Ta là Thừa tướng nhà Hán. Hán tức là ta. Việc ấy theo được.

Trương Liêu nói đến điều hai.

Tháo nói:

- Ta cấp lương cho hai phu nhân như bổng lộc của Hoàng Thái hậu. Vân Trường được chọn người hầu hạ.

Trương Liêu nói điều thứ ba. Tháo rất khó xử:

- Ta muốn có Quan Vũ để hoàn thành đại nghiệp, châu về hợp phố. Đằng này là việc tạm bợ!

Liêu nói:

- Quan Vũ không muốn cắt tình anh em đó là lẽ đời. Nay Thừa tướng đối đãi thật hậu, lo gì Quan Vũ chẳng phục. Đức làm người phục, tình khiến người theo. Thừa tướng nên xem xét lại.

Tháo nói:

- Văn Viễn nói chí phải. Ta ưng cả ba điều.

Liêu vội lên núi gặp Quan Vũ nói lại ý họ Tào. Quan Vũ nói.

- Vậy Thừa tướng lui binh trước ta, vào thành gặp hai chị, rồi đến hàng sau.

Liêu về nói lại, Tháo liền cho quân lui xa baươi dặm.

Tuân Úc nói:

- Quan Vũ trí dũng song toàn, sợ có điều chi không thật!

Tháo phẩy tay:

- Quan Vũ là người nghĩa sĩ, chắc không thất tín.

Quan Vũ vào thành gặp hai chị, rồi vào gặp Tào Mạnh Đức.

Mạnh Đức sửa sang áo mão, tự đến Long Môn đón tiếp. Quan Vũ xuống ngựa làm lễ, và nói:

- Tôi là bại tướng, tạ ơn Thừa tướng không giết.

Tháo đỡ Quan Vũ dậy, rồi nói:

- Ta vốn mến Vân Trường là người trung nghĩa. Nay được cùng bàn việc lớn thực là thoả lòng mong ước.

Quan Vũ nói:

- Những việc Văn Viễn thưa lên, chắc Thừa tướng còn nhớ cả.

Tháo đáp:

- Tính ta đã nói là làm. Quân tử nhất ngôn. Vân Trường trung nghĩa thiên hạ đều biết. Lẽ nào ta là kẻ làm điều bất nghĩa hay sao?

Trên đường về Hứa Đô, nghỉ ở quán dịch, Tháo để Quan Vũ ở cùng hai chị một nhà.

Đêm khuya tĩnh mịch, gió rét thổi mạnh, Quan Vũ vẫn cầm đuốc đứng hầu ngoài cửa. Suốt từ tối đến sáng, sắc mặt như thường. Tháo nhìn cảnh đó lại càng kính phục.

Về đến Hứa Đô, Tháo dẫn Quan Vũ vào chầu Hiến đế. Hiến đế đã biết tiếng Quan Vũ nên phong làm Thiên tướng quân. Tháo phân cho Quan Vũ một căn nhà lớn. Vũ đem chia thành hai viện. Viện phía trong để hai chị dùng. Vũ tự ở nhà ngoài.

° ° °

Mạnh Đức trở lại Hứa Đô, vừa thắng lợi vừa chiêu hàng Quan Vũ, cảm thấy sung sướng vô cùng. Nghỉ ngơi xong rồi đêm quân đi đánh Viên Thiệu.

Mạnh Đức bỗng nhớ tới người đàn bà xinh đẹp đó. Phía tây thành Hứa Xương có dinh cơ gia quyến Lã Bố. Khi Lã Bố chết, Điêu Thuyền cũng muốn chết theo. Nhưng mỗi lần cầm lấy đoản kiếm nàng lại sợ. Lâu dần rồi nàng cũng quên đi.

Mạnh Đức đi dần tới dinh cơ như có sức hút kỳ lạ. Bầu trời như trong sáng hơn. Ánh nắng trải đầy trên những tầng lầu, trên khắp lối đi. Nước hồ trong xanh khiến lòng người say đắm.

Bên một góc đình, có người con gái nghiêng mình tựa vào lan can, nhìn những cây hoa khô héo trên mặt hồ. Đôi mắt trông xa xăm và đầy vẻ u uất. Đôi gò má hơi xanh xanh nhưng nõn nà và sinh động. Nhìn nghiêng, nàng có lồng ngực căng tròn, chiếc áo dày mùa đông cũng không che lấp được những đường cong thật đẹp trên cơ thể nàng. 1;i phụ nữ đó chắc là Điêu Thuyền. Mạnh Đức cho hai tên thị vệ đứng ở ngoài, còn mình thì rảo bước lên đình chỗ người phụ nữ.

Thấy có một người đàn ông thấp nhỏ, hơi xấu đến bên cạnh, nàng sợ sệt co dúm lại như con dê non.

Điêu Thuyền hốt hoảng:

- Ai vậy?

Tào Mạnh Đức vừa trả lời vừa bước đến bên Điêu Thuyền:

- Ở đời vẫn có người không biết ta là Tào Mạnh Đức.

Điêu Thuyền vội quì xuống:

- Nô tỳ không biết Tướng quân đến thăm, xin tha tội chết.

Tháo ôm lưng, đỡ nàng dậy:

- Ta đánh đông dẹp bắc, chưa đến thăm gia quyến Lã Ôn Hầu, xin Phu nhân lượng thứ.

Được lời an ủi, Điêu Thuyền càng thấy thương tâm, nước mắt lã chã.

- Thừa tướng tha tội chết, tiện thiếp hàm ân mãi mãi!

Điêu Thuyền khóc lóc. Tháo càng thêm say đắm, bèn ôm nàng vào lòng. Điêu Thuyền biết Tháo là người hiếu sắc, đôi tay khéo léo của nàng ôm lấy cổ, ấn đầu Tháo vào bộ ngực đang thổn thức

Trong dinh cơ thênh thang, tĩnh mịch chỉ nghe có tiếng hai người thở gấp...

° ° °

Một hôm Mạnh Đức lựa được mươi cô gái đẹp đưa đến nơi Quan Vũ ở. Trước mặt Tháo và chị dâu, Quan Vũ nói:

- Xin đưa các cô ấy sang hầu hạ hai chị.

Tháo thấy vậy lại càng thán phục.

Hôm sau Tháo lại đến tặng gấm vóc, những đồ vàng bạc, Quan Công đem về hai chị thu giữ.

Một hôm thấy Quan Vũ mặc chiến bào bằng gấm xanh đã cũ, Tháo truyền lệnh đo người Quan Vũ, may một chiếc chiến bào bằng gấm thật quý để tặng. Mấy lần từ chối không được, Quan Vũ đành nhận, mặc vào trong chiếc áo cũ.

Mạnh Đức liền hỏi:

- Sao Vân Trường hà tiện quá vậy?

Quan Vũ đáp:

- Hà tiện gì đâu? Áo cũ là của Lưu Hoàng Thúc cho, tôi mặc ra ngoài như luôn nhìn thấy người thân. Dám đâu có mới nới cũ?

Tháo cảm động nhưng không được vui. Tháo nghĩ đời có được những người anh em như vậy thật sung sướng.

Một hôm Tháo mời Quan Vũ ăn yến. Lúc tan tiệc, tiễn Quan Vũ ra về đến cửa tướng phủ, thấy ngựa của Quan Vũ gầy quá, Tháo hỏi:

- Ngựa Quan Vũ sao gầy thế?

Quan Vũ đáp:

- Người tôi hơi nặng, sức ngựa không chịu nổi.

Tháo liền sai tả hữu đưa ngựa đến.

Quan Vũ nhìn thấy con ngựa sắc đỏ như lửa, cao to hùng dũng, hiếm thấy, liền hỏi:

- Đây là con xích thố của Lã Bố khi xưa?

Mạnh Đức nói:

- Vân Trường đi thử coi!

Quan Vũ nhảy lên mình ngựa, ra roi, ngựa lập tức phóng đi như bay để lại đằng sau những đám bụi mù mịt.

Mãn Sủng lo lắng:

- Mong sao hắn không đi luôn...

Mạnh Đức phẩy tay không cho nói tiếp.

Một lúc sau đã nghe tiếng vó ngựa. Xa xa, trong ánh bình minh, con ngựa sắc lông màu mận chín như một vng lửa, lao vun vút tới. Trong nháy mắt, Quan Vũ đã nhẩy xuống, chắp tay quỳ trước mặt Tháo:

- Tạ ơn Thừa tướng đã cho con ngựa thật quí!

Mạnh Đức không vui:

- Ta tặng ngài chiến bào, con gái đẹp, vàng bạc châu báu, người không lạy ta bao giờ. Nay ta cho ngựa lại tạ ơn ta. Sao lại khinh người, khinh của mà quí súc vật như thế?

Quan Vũ đáp:

- Thừa tướng hiểu tôi mới cho con xích thố này đi ngàn dặm. Nay mai nếu biết được anh tôi ở đâu, có thể một ngày đã được đoàn tụ.

Biếu Quan Vũ con xích thố, Mạnh Đức có phần ân hận than rằng: phú quí không tham lam, uy vũ không khuất phục, nghèo khổ không thay đổi, thực là bậc thánh hiền trong thiên hạ!

Dạo này Tào Mạnh Đức sủng ái Quan Vũ, một tướng thân ở Tào, tâm ở Lưu, mà lạnh nhạt với Hạ Hầu Đôn, tướng mất một mắt vì mình. Càng nghĩ Đôn càng giận và hỏi thẳng Tháo:

- Xin hỏi, tôi đã đối xử với Thừa tướng như thế nào?

Tháo biết ý Đôn, Đôn là tướng tâm phúc của Tháo, nên trả lời rất thật:

- Ta có bao giờ quên được lòng trung, vào sinh ra tử của tướng quân đâu.

Đôn nói:

- Quan Vũ ăn ở hai lòng, chịu ơn không trả, nay được coi như thượng khách, mai được kính phục như thần, là cớ làm sao?

Mạnh Đức vỗ vai vị tướng quí mến, rồi nói:

- Không phải chỉ có tướng quân, mà nhiều người khác cũng chưa hiểu.

Đôn nói:

- Trước sau gì Vân Trường cũng là địch thủ, chi bằng giết quách đi.

Tháo nói:

- Không được. Giết người trung nghĩa lừng lẫy tiếng tăm là sự bôi tro trát trấu vào mặt mình. Bất kỳ ai dám động đến Quan Vũ ta đều không tha!

Hạ Hầu Đôn phẩy tay đi chỗ khác.

Trương Liêu đến thăm Quan Vũ và hỏi:

- Huynh trưởng thấy Tào công đối xử thế nào?

Quan Vũ đáp:

- Thừa tướng đãi người rất hậu, ta rất biết ơn.

- Sao lúc nào huynh trưởng cũng chỉ nghĩ đến Hoàng Thúc?

- Ba chúng ta chẳng khác gì ruột thịt, đã thề cùng sết ở vườn đào, ai ai cũng biết!

Trương Liêu lại nói:

- Huynh trưởng sai rồi. Người trượng phu ở đời phải biết cân nhắc bên trọng bên khinh. Huyền Đức đãi huynh chưa chắc đã hậu hơn Thừa tướng, sao huynh lại cứ muốn đi?

Quan Vũ đáp:

- Thừa tướng có nhiều ưu ái vì muốn dùng ta, không thể có tình cảm trong sáng, chân thành như ba anh em ta. Tuy Thừa tướng đãi ta rất hậu, nhưng ta quyết không ở mãi đây. Lúc nào ta lập được công báo ơn Thừa tướng thì ta mới đi.

Trương Liêu nói:

- Nếu như Hoàng Thúc gặp phải điều bất trắc...

Quan Vũ không do dự:

- Ta sẽ đi theo Huyền Đức.

Liêu đem chuyện về kể với Tháo, Tháo than:

- Thờ chúa không quên gốc, thật là nghĩa sĩ trong

thiên hạ.

Tuân úc nói:

- Hắn đã thề lập công rồi mới đi. Ta không sai đi lập

công nữa, vị tất hắn đã đi được.

- Cũng được, nhưng... - Tháo suy nghĩ rất nhiều.

CHƯƠNG XIV

QUAN ĐỘ PHONG VÂN, ANH HÙNG LẬP NGHIỆP

Con út Viên Thiệu vừa khỏi bệnh.

Viên Thiệu dẫn đại quân đi đánh Tào Mạnh Đức. Tháng giêng, năm Kiến An thứ năm, mọi việc chuẩn bị đã xong. Kể từ lần đầu bàn chuyện đánh Tào đến nay đã tám tháng ròng. Điền Phong bị giam trong ngục cũng vừa tròn tám tháng.

Được tin Viên Thiệu quyết tâm đánh Tào, Điền Phong đã khóc:

- Tào Tháo vừa phá Từ Châu, chiêu hàng Trương Tú, có thế chẻ tre. Chúa công như miếng mồi ngon trước mặt hổ đói, sẽ bại mất thôi!

Thiệu lập tức cho người nói đến tai Điền Phong:

- Hắn biết gì? Nếu ta cứ giết hắn thì chắc cỏ đã xanh mồ.

Điền Phong nắm tay vào song sắt gào thét:

- Quan Độ sẽ là nấm mồ chôn vùi tướ

Quách Đồ nói:

- Thằng này dám to mồm, để ta chặt tay của hắn!

Một tên lính vung dao chém xuống, đứt gọn ba ngón tay của Điền Phong. Viên Thiệu tiến quân trong tiếng mắng chửi, gào khóc của Điền Phong.

Quân Viên Thiệu được biên chế như sau:

Nam chinh thống soái: Viên Thiệu

Thống soái bộ tham mưu: Hứa Du, Tuân Kham.

Tướng lĩnh quân đội: Triệu Dung, Mạnh Đại, Cao Lãm, Trương Cáp, Tưởng Kỳ, Hàn Mãnh.

Tiền quân ra lệnh: Thư Thụ

Trung quân tư lệnh: Quách Đồ

Hậu quân tư lệnh: Thuần Vu Quỳnh

Tiên phong tổng chỉ huy: Nhan Lương, Văn Sú

Lê Dương tiền tiêu tư lệnh: Tưởng Nghĩa

Thanh Châu quân tổng tư lệnh: Viên Đàm (con cả Viên Thiệu)

Tinh Châu quân tổng tư lệnh: Cao Cán (con rể)

Dự bị đội: Hàn Tuân

Kỵ binh người Hồ: Khoảng một vạn tên.

Đóng giữ Ký Châu quân tổng tư lệnh: Phùng Ký

Nghiệp Thành (đại bản doanh) lưu thủ tư lệnh Thẩm Phôi.

Quân đoàn tổng cố vấn: Lưu Bị

Mục tiêu cuối cùng của Thiệu là Hứa Đô. Quân Thiệu xuất phát từ Nghiệp Thành đến tuyến trước là Lê Dương. Sau đó, từ bến Bạch Mã hoặc bến Diên Tân, vượt sông Hoàng Hà, qua Toan Tảo, vượt Âm Câu Thuỷ, Bắc Tế Thuỷ đến Dương Vũ, vượt tiếp Quan Độ Thuỷ, Cừ Thủy, một mạch xuống phía nam, đến Hứa Đô. Đó cũng là phòng tuyến quan trọng, mặt trước quân Tào. Quận Hà Nội khu Tư Lệ và Thanh Châu là hai cánh tả hữu trợ chiến cho chiến trường chính.

Từ Nghiệp Thành đến Hứa Đô phải mất khoảng mười bảy ngày, mỗi ngày hành quân ba mươi dặm.

Viên Thiệu hỏi Huyền Đức:

- Tuyến phòng thủ yếu nhất của quân Tào là đâu?

Lưu Bị nói:

- Quân Thanh Châu của Tang Bá là cánh trái yếu nhất của quân Tào.

Hứa Du nói:

- Cho quân của Viên Đàm đột phá cánh phải, Chúa công đánh vào chính diện, đồng thời uy hiếp, tiêu diệt cánh trái quân Tào, quân ta giành thế chủ động trên đất địch.

Viên Thiệu nghĩ giá trước đây giúp Bị giữ được Từ Châu, chắc phòng tuyến phía đông đã mạnh hơn.

Viên Thiệu nắm tay Lưu Bị nói ra điều đó. Bị cảm động vô cùng. Bị nói:

- Chúa công đừng nghĩ ngợi. Chúng ta đang đưa quân đánh vào sào huyệt giặc Tào đấy thôi!

Ý đồ tác chiến của Viên Thiệu càng cụ thể hơn.

Một là: dốc toàn lực công kích quân Vu Cấm ở bến Diên Tân. Nếu Vu Cấm tan rã hoặc rút lui, Trình Dục ở Quyên Thành bị cô lập, cắt đứt quan hệ giữa quân chủ lực Tào và quân Thanh Châu của Tang Bá. Như vậy Viên Đàm hoàn toàn chủ động ở Thanh Châu.

Hai là: Phái người về quê hương Nhữu Nam kêu gọi bà con nổi dậy, đề nghị các đạo quân Dự Châu tham gia.

Quân Tào bị đánh từ nhiều mặt, quân sĩ hoang mang, mất hết chí khí chiến đấu.

Ba là: Liên minh với Lưu Biểu ở Kinh Châu, làm áp lực với quân Tào từ phía Dự Châu.

Sông Hoàng Hà có từ ngàn xưa. Nước sông từ đâu ầm ầm đổ về, rồi lại cuồn cuộn chảy đi. Con sông như một cây bút đầy mực, viết nên trang sử khốn khổ đầy máu và nước mắt của dân tộc. Anh hùng thành công, thảo khấu thất bại; ngọn cờ của người thắng, nước mắt của người thua xen lẫn vào nhau đã được nước sông Hoàng Hà xoá sạch tự bao giờ. Nước sông từ trên trời rơi xuống, và cuồn cuộn trôi ra biển không hề quay lại.

Đêm đến, Hoàng Hà dịu dàng là thế, như đứa trẻ ngủ ngon trong nôi. Ban ngày nước sông chảy rì rầm như những lời ru của mẹ.

Đoàn người của Tào Mạnh Đức đang quan sát Quan Độ Khẩu ở hạ lưu sông, nơi gặp nhau giữa Hà Nam và Hà Bắc. Trước đó, Tháo đã lấy công thay thủ, chống lại khả năng uy hiếp của Viên Thiệu. Vừa phòng thủ, vừa linh hoạt điều động, khi phát hiện khẩu yếu của Thiệu, có thể đánh vận động, đánh đột kích, quấy rối quân tiên phong và phòng tuyến tiền tiêu của Thiệu. Đó là tư tưởng quan trọng trong chiến lược của Tháo.

Thiệu bắt đầu nam chinh. Quân Tháo tập kết ở chiến trường chính Duyên Châu. Biên chế gồm:

Thống soái: Tào Tháo

Tổng tham mưu: Tuân Úc, Quách Gia

Trưởng quan hành chính: Giả Hủ

Hậu cần chi viện chỉ huy: Lưu Việp, Nhiệm Tuấn.

Cấm vệ đội trưởng: Hứa Chử

Thị vệ chỉ huy đội chỉ huy: Tào Hưu, Tào Chân.

Tổng đốc quân trưởng: Hạ Hầu Đôn

Trực hạt quân đoàn chỉ huy tướng: Trương Liêu, Quan Vũ, Từ Hoảng, Nhạc Tiến, Trương Tú.

Đặc biệt khu, Quan Độ hành dinh chỉ huy: Tào Hồng

Quyên Thành thủ bị tư lệnh: Lưu Diên

Diên Tân đặc di chi đội tư lệnh: Vu Cấm

Kỵ binh đoàn tư lệnh: Tào Mạnh Đức kiêm nhiệm...

Tào Mạnh Đức thành lập ba đạo quân độc lập nhằm chống lại các chiến tuyến ở phía đông và tây của Thiệu.

Quân đoàn Thanh Châu tư lệnh là Tang Bá, có khả năng tác chiến độc lập, làm áp lực với Viên Đàm cánh trái quân Thiệu.

Đạo quân khu Tư Lệ: Tư lệnh là Tào Nhân. Là quân dự bị. Khả năng tác chiến độc lập cao.

Đạo quân thường trú ở Hà Nội: Tư lệnh là Ngụy Trọng, độc lập tác chiến, khống chế quân lính Cao Cán, cánh phải quân Thiệu. Còn có một sô người đóng tại đại bản doanh ở Hứa Đô

Chủ soái ở đại bản doanh: Tuân Úc, Quân của Hạ Hầu Đôn lo chi viện, phòng vệ, có ba tướng Lý Điển, Sử Hoán, Hàn Đạo cùng phối hợp.

Phòng vệ khu thủ đô tư lệnh: Lý Thông, giữ phần đất phía tây nam khu Kinh Châu.

Nhữ Nam khu phòng vệ: cử Nhữ Nam quận Thái thú Mãn Sủng phụ trách, đề phòng Nhữ Nam nổi dậy hưởng ứng với Thiệu.

Quách Gia nói trước:

- Quân Thiệu phải vượt Hoàng Hà mới tổng công kích được

Tuân Úc nói:

- Quân tiền tiêu của Thiệu đóng ở Lê Dương. Quân ta ở Quyên Thành. Bởi vậy Quyên Thành, Bạch Mã, Diên Tân đều có thể là chiến trường chính.

Tháo hỏi:

- Tướng tiên phong của Thiệu là ai?

- Là Nham Lương, Văn Sú. Hai người này sức địch muôn người. - Tuân Úc nói.

Tháo nói:

- Nhan Lương, Văn Sú dũng mãnh như anh em Hạ Hầu. Loại này không nên để độc lập tác chiến hoặc đánh tiên phong.

- Ta phải bàn xem đâu là chiến trường chính.

Quách Gia nói:

- Chỉ cần chặn đứng quân Thiệu ở Diên Tân và Quyên Thành. Chủ lực của Viên Thiệu sẽ chọn Quan Độ làm đột phá khẩu.

Khi hai người đang trò chuyện, Tháo nghĩ đến Quan Độ Khẩu. Độ Khẩu mênh mông, phía bắc là sông Độ Thuỷ, phòng thủ tiện lợi, hai bờ nam, bắc là cánh đồng rộng địa thế bằng phẳng, đánh bằng kỵ binh rất hợp. Từ Lê Dương đến Quan Độ, quân Thiệu phải vượt qua Hoàng Hà, Âm Câu Thuỷ, Bắc Độ Thuỷ, Cự Thuỷ, tiến công đã khó khăn, tập trung quân ở Độ Khẩu lại càng khó khăn.

Khó khăn chồng chất là nguy cơ lớn của quân Viên Thiệu.

Chiến trường lớn của hai bên là Quan Độ. Tháo nắm chặt tay quả quyết như vậy.

° ° °

Gió thổi mạnh, mưa rừng sắp đến. Không khí hai bờ sông Hoàng Hà thật nhộn nhịp.

Hôm đó, tin bá chủ Giang Đông là Tôn Sách chết truyền đến Hứa Đô. Tháo lấy làm mừng rỡ, như người vừa trút được gánh nặng. Tháo nói:

- Kinh Châu có động tĩnh gì không?

Tuân Úc nói:

- Thừa tướng yên tâm. Tôi đã dùng vàng bạc, quan chức mua các tướng lĩnh dưới trướng Biểu, các quận thú vùng gần Trường Giang. Ngay cả cậu của vợ Biểu là Tế Vị và danh sĩ Khoái Thông cũng ngăn cản quân Biểu tiến đánh Dự Châu. Chỉ mấy hôm nữa binh lính các vùng Trường Sa, Linh Lăng, Quế Dương, Vũ Quân sẽ đến xin hàng.

Tháo lấy tay vuốt râu:

- Chúng ta có thiên trời, địa lợi, nhân hoà thì Quan Độ sẽ là mồ chôn quân Thiệu.

Tháng ba, năm Kiến An thứ năm, tuyết tan trên khắp miền Bắc. Khói lửa chiến tranh ập đến bất cứ lúc nào. Tuyến tiền tiêu Lê Dương, quân Thiệu bắt đầu di chuyển. Quân Tào ở tuyến trước cũng khẩn trương hẳn lên.

Trình Dục trấn giữ Quyên Thành cùng bảy trăm quân lính. Quyên Thành nằm ngay đầu chiến tuyến phía đông của quân Tào, dễ dàng nhận đòn mạnh nhất của quân Thiệu.

Mạnh Đức phóng ngựa đến Quyên Thành.

- Tướng quân có cần tăng viện không?

- Thế là đủ rồi.

Tào Mạnh Đức suy nghĩ mà không hiểu. Sáu bảy trăm người phải đối phó với quân chủ lực của Thiêu đâu dễ!

Trình Dục giải thích:

- Quân Thiệu có đến hàng chục vạn, nếu họ quyết đánh Quyên Thành thì số quân tăng viện biết mấy là đủ? Khi thấy quân ta ít ỏi, họ dễ bỏ qua. Nếu tăng quân, coi Quyên Thành là trọng, họ tất phải đánh. Vậy tăng viện dễ làm cho Quyên Thành rơi vào nguy hiểm.

Tào Mạnh Đức khâm phục lòng dũng cảm và kiến thức của Trình Dục.

Tào Mạnh Đức càng thêm quân dốc vào tuyến Quan Độ.

° ° °

Chờ khi quân đoàn Viên Đàm ở Thanh Châu đánh bại Tang Bá, quân Thiệu mới từ Bến Bạch Mã và Diên Tân vượt sông Hoàng Hà đột phá qua cánh trái.

Nếu kế hoạch không được thực hiện, thế tất Thiệu phải đột phá qua tuyến chính. Hai quân sẽ quyết chiến tại Quan Độ Khẩu.

Tang Bá vốn là lãnh tụ quân Hắc Sơn, lúc đầu Lã Bố thu phục sau đó về hàng Tào Tháo. Tháo cho đoàn quân Thanh Châu của Tang Bá cản đường tiến quân từ cánh phải của quân Thiệu. Khi đó Tang Bá chỉ có hơn một ngàn người ngựa, còn Thiệu ước chừng vài vạn, lại được tướng giỏi là Cao Cán hỗ trợ, nên Mạnh Đức không khỏi không suy nghĩ.

- Nếu quân Viên Đàm tấn công thì Tang tướng quân chống đỡ được bao lâu?

Tang Bá hỏi lại

- Thừa tướng muốn trong bao lâu?

Mạnh Đức nói:

- Ít nhất là vài tháng. Lúc ấy buộc Thiệu phải tập trung quân đột phá vào chính diện.

- Đừng nói hai tháng, ngay cả mười năm, hai mươi năm, chắc gì Viên Đàm đã phá được phòng tuyến của Bá này?

- Tướng quân phòng thủ bằng cách nào?

- Tôi vốn làm nghề thảo khấu. Rừng núi Thanh Châu hiểm trở, thích hợp cho tôi tác chiến. Viêm Đàm xuất kích toàn tuyến, chúng tôi sẽ phân thành từng toán nhỏ ẩn, tránh. Còn Viêm Đàm chia nhỏ để bao vây, chúng tôi tập trung diệt gọn từng tốp một.

Đó là buổi nói chuyện giữa Tháo và Bá trước khi quân Thanh Châu xuất trận.

° ° °

Suy đi tính lại, Thiệu rất hài lòng với ý đồ chiến lược của mình. Nếu đúng như vậy, quân Thanh Châu của Viêm Đàm, Cao Cán và quân Tinh Châu, trong vòng nửa tháng sẽ phát vỡ hai cánh trái, phải của quân Tào. Sau đấy sẽ xuất kích toàn diện, chỉ cần nửa năm là đạp bằng Hứa Đô.

Viên Thiệu nhẩm tính, Viêm Đàm, Cao Cán đã ở Thanh Châu được bảy ngày. Thiệu tính toán tiến triển của hai người, và chuẩn bị đánh Quyên Thành. Lưu Bị và Thư Thụ chưa tá

Bị nói:

- Quyên Thành không nằm trong tuyến chủ chiến của ta. Hơn nữa chỉ có ngần ấy quân lính canh giữ, chắc chẳng quan trọng gì, hà tất phải đem quân đánh chiếm.

Phôi nói:

- Lẽ ra vượt qua Hoàng hà, chúng ta phải tiến thẳng đến Hứa Xương. Chúa công có chục vạn đại quân, thế mạnh như chẻ tre, việc gì còn phải tính trước nhìn sau!

Viên Thiệu nghe theo Lưu Bị và Thẩm Phôi xoá bỏ kế hoạch đánh Quyên Thành.

Quân Thiệu phải vượt Hoàng hà để xuống phía nam. Có ba điểm vượt sông là bến Bạch Mã, Diên Tân và Đỗ Thị Tân. Theo kế hoạch cũ, bến Bạch mã là tuyến chính. Theo đó Viên Thiệu đã lập nhiều doanh trại, hơn hai mươi vị tướng phòng thủ rải rác. Không đánh Quyên Thành, kế hoạch cũ có đổi thay chút ít, Diên Tân trở thành tuyến chính.

Mạnh Đức đã bố trí trọng binh ở phía nam bến Bạch Mã.

Mạnh Đức vừa được Vu Cấm cho hay: Thiệu dẫn đại quân tiến công Diên Tân, trong khi quân Tào chờ đợi quân Thiệu ở bến Bạch Mã.

Mạnh Đức thấy cần phải giữ chân quân Thiệu ở Diên Tân, cho đến khi mệt mỏi, tất quân Thiệu phải đánh sang Bạch Mã. Ở đây quân Tào dễ sàng tóm chặt quân Thiệu, buộc Thiệu phải di quân đến gần Quan Độ Khẩu. Lúc ấy quân Tào mới có điều kiện phản kích: bắt Thiệu phải chạy về

Mạnh Đức cử ngay Nhạc Tiến vừa dũng mãnh vừa sâu sắc, dẫn tinh binh đến Diên Tân tăng viện cho Vu Cấm, gắng giữ chân Viên Thiệu ở đó.

Sau khi Nhạc Tiến đi khỏi, Mạnh Đức bỗng lại nhớ đến tình hình Nhữ Nam. Trong những ngày gần đây, Quan Độ, Nhữ Nam cùng nhiều vấn đề khác đan xen như những mắt lưới luôn luôn ám ảnh, lần khuất trong đầu Tào Mạnh Đức. Chỉ cần sa sẩy một chút lập tức mảnh đất Duyện Châu này lại rơi vào cảnh binh đao, khói lửa, đói kém. Các chư hầu lại xâu xé lẫn nhau... Thật không dám nghĩ tiếp.

° ° °

Cùng lúc, Viên Thiệu và Mạnh Đức đều nghĩ đến vùng đất Nhữ Nam.

Nhữ Nam là quê hương của Viên Thiệu. Sau khi nhận được lệnh của Thiệu, quả nhiên người bạn cũ, môn sinh, quan khách đều hưởng ứng. Tháo đã tính trước việc này, nên đã cử Mãn Sủng, con người hiểu biết và nhạy cảm, làm Thái thú Nhữ Nam, nhằm dập tắt những hành động phản loạn đó.

Quả không uổng công. Mới đến Nhữ Nam được hơn mười ngày, Mãn Sủng đã chiêu mộ được hơn năm trăm binh sĩ. Sau đấy lại vận động bà con giữ gìn vườn tược, chống lại bọn quan viên thân Thiệu. Binh lính nông dân càng tụ càng đông, công phá liên tiếp hơn hai mươi doanh trại của bọn trung thành với Thiệu. Các phần tử phái liều mạng tan rã nhanh chóng. Những người đồng hương của Thiệu kéo đến hàng Tháo có đến vài vạn. Mãn Sủng còn tập hợp được vài ngàn trai tráng vào những đội đặc biệt, lập đồn điền trên đất Nhữ Nam như kinh nghiệm của Tảo Tử.

Có nhiều người ở Dự Châu nghe theo Thiệu đã quay lưng với Tháo. Hình tượng đại nhân đại nghĩa của Lưu Bị đã ăn sâu vào tiềm thức của từng người. Ở đây, Tháo chỉ là một tên quốc tặc. Tuân Úc được cử là Lưu thú Dự Châu, cùng với Phòng vệ tư lệnh Lý Thông giải quyết công việc. Lý Thông nguyên là Đô uý Dương An quận. Năm đó, phần lớn các quận huyện ở Dự Châu theo Trương Tú. Riêng Lý Thông vẫn ủng hộ Tháo nên được Tháo tin dùng.

Trước khi tiến quân đến Hoàng Hà, Tháo dặn Úc và Thông phải biết khoan hồng. "Phải chiếm được lòng dân, làm cho họ chán Thiệu". Có một năm, sâu hại hầu hết những cánh đồng bông trên đất Dự Châu, hai người bàn bạc miến thuế cho dân, nói rằng đấy là quyết định của Tháo. Bên cạnh đó. Hạ Hầu Đôn và Lý Điển tăng cường biện pháp quân sự với Dự Châu. Như vậy, vừa răn, vừa mềm, làm cho các quận thú thân Thiệu phải toan tính lại, kế hoạch của Thiệu chẳng còn mấy tác dụng.

Hai cánh quân Thanh Châu, Tinh Châu ở tuyến đông và tây Hoàng Hà của Viêm Đàm, Cao Cán luôn bị du kích của Tang Bá quấy nhiễu, gần như giẫm chân tại chỗ.

Thấy vậy Thư Thụ khuyên Thiệu bỏ lệnh hành quân. Nào ngờ Viên Thiệu lên giọng:

- Ta có bảy mươi vạn quân, gấp mười lần quân Tào, việc gì phải lo?

Thư Thụ nói:

- Quân ta tuy nhiều, nhưng chiến tuyến kéo dài, lực lượng phân tán; quân Tào tuy ít nhưng dũng mãnh và thiện chiế

Thiệu giận mắng Thư Thụ nói những điều gở làm nản lòng quân. Rồi thét tả hữu đem Thư Thụ giam ở trong quân. Thư Thụ vừa đi vừa gào khóc.

- Chúa công không nghe lời ngay, tai hoạ đến nơi rồi.

Tháng tư năm Kiến An thứ năm, Thiệu cho quân xuất phát từ Lê Dương, vượt Hoàng Hà tiến đánh Vu Cấm ở Diên Tân. Cấm bàn với Nhạc Tiến quyết tâm giành thế chủ động. Đang đêm, Vu Cấm cho quân vượt sông Hoàng Hà, nhanh chóng vòng qua quân chủ lực của Thiệu, đánh luôn hai mươi mấy trại từ bờ bắc tới tây Diên Tân. Họ phóng hoả giết chết mấy nghìn quân Thiệu, bắt Hà Mậu cùng mười mấy tướng lĩnh làm tù binh, khiến Thiệu vừa ra quân đã chịu tổn thất nặng nề.

Quân Vu Cấm vừa quen thuộc địa hình vừa di chuyển nhanh chóng, quân Thiệu không biết đâu mà tìm. Quân đoàn đông đảo của Thiệu không tìm ra đối thủ. Phân tán đóng trại thì bị quân Vu Cấm tập kích. Tiến thủ đều khó, nên đành vượt sông trở về Lê Dương. Ngay quân Thiệu đóng ở Độ Khẩu, Đỗ Thị Tân cũng bị quân Vu Cấm tập kích đến tan rã. Để tránh quân Thiệu vây ráp, Vu Cấm, Nhạc Tiến chia quân thành từng nhóm nhỏ, dựa vào địa hình của Diên Tân mà đánh du kích, gây cho quân Thiệu không ít khó khăn. Cho đến trước khi xảy ra hội chiến ở Quan Độ, Tháo mới điều quân của Vu Cấm về chiến trường chính.

° ° °

Để bổ sung quân ngũ, chỉnh đốn quân uy sĩ khí, Viên Thiệu bỏ vùng Diên Tân, vượt sông từ bến Bạch Mã, cử đại tướng Nhan Lương làm tiên phong, bao vây, đánh

Nhan Lương là tướng dũng mãnh, các tướng nghe tên đã thấy khiếp sợ. Lưu Diên là tướng giữ thành, một mặt cấp báo về đại bản doanh, mặt khác cho quân cố thủ, dùng tên bắn xuống như mưa.

Tháo không ngờ quân tiên phong của Thiệu lại đánh thành Bạch Mã nhanh như vậy, nên chưa biết đối phó ra sao. Vừa lúc Tuân Du nói:

- Nếu chúng ta di quân Diên Tân, giả bộ đi đánh dại bản doanh của Thiệu ở Lê Dương. Thiệu tất phải rút quân về, bấy giờ cử đội kỵ binh đến Bạch Mã là xong.

Tháo cho là phải.

Thiệu tưởng quân Tháo sẽ đến Lê Dương bèn điều trọng binh về bờ bắc Diên Tân, chuẩn bị quyết chiến với quân Tào đang kéo lên phía bắc.

Nào ngờ quân chủ lực của Tào khi đến Diên Tân chỉ để Hạ Hầu Uyên cùng bộ binh ở lại bày thế vượt sông, còn mình thì cùng khinh kỵ binh phóng về Bạch Mã.

Tháo đóng quân trên một quả đồi ngoài thành Bạch Mã. Xa xa, trên cánh đồng rộng lớn là tinh binh của Nhan Lương, khoảng năm, sáu vạn người đã dàn thành thế trận. Quân Tháo chỉ có mấy ngàn người ngựa. Tháo giơ roi chỉ về phía quân Thiệu, nói:

- Tướng nào dám ra lấy đầu Nhan Lương?

Tống Hiến - nguyên là tướng của Lã Bố, tế ngựa xuống núi, nhưng chỉ trong nháy mắt đã ngã ngựa. Nhìn thấy bạn bị giết, không kịp chờ lệnh, Ngụy Tục tay cầm trường mâu, nhảy lên ngựa phi xuống núi. Lại trong nháy mắị đại đao của Nhan Lương chặt thành hai khúc.

Giọng nói của Tào Mạnh Đức đã trầm hẳn xuống:

- Ai dám nghênh chiến?

Từ Hoảng xông xuống núi, nhưng chỉ được một lát đã quay trở lại, thở không ra hơi, Tháo đành thu quân về trại.

Một lúc giết liền hai tướng, Tháo lo lắng, Trình Dục nói:

- Có lẽ chỉ còn trông chờ Quan Vũ.

Tháo lắc đầu quầy quậy: Quan Vũ lập công rồi sẽ bỏ đi ngay. Trình Dục nói:

- Nếu còn, Lưu Bị chắc ở bên Viên Thiệu. Ta sai Quan Vũ giết Nhan Lương, Viên Thiệu cho là Lưu Bị tư thông với bên ta mà giết đi. Quan Vũ tất sẽ mãi mãi ở bên Thừa tướng.

Tháo cho là phải và cử người mời Quan Vũ đến giúp.

Quan Vũ ngồi trên mình ngựa xích thố thay cầm thanh long đao phóng đến chỗ Nhan Lương. Và chỉ trong nháy mắt Quan Vũ đã xách đầu Nhan Lương trở về. Tào Mạnh Đức vung roi, tất cả binh sĩ lao xuống núi.

- Vân Trường quả là thần tướng. - Mạnh Đức khen ngợi.

Quan Vũ lấy vạt áo lau lưỡi thanh đao và nói:

- Tôi thấm vào đâu. Em tôi là Trương Dực Đức còn ở trong đám quân trăm vạn người lấy đầu thượng tướng dễ như lấy vật gì trong túi.

Tào Mạnh Đức nghĩ đến hảo hán đầu báo, mắt tròn, lông mày dựng ngược, tiếng vang như sấm. Tháo tự răn mình: "Không được xem thường Dực Đức. Giá phải mất mười người như Tống Hiến để có Dực Đức kể cũng đáng".

° ° °

Viên Thiệu lại quay về Lê Dương.

Tin Nhan Lương chết trận truyền đến Lê Dương, Viên Thiệu tức giận. Thiệu cử tướng tiên phong khác tên là Văn Sú dẫn năm sáu vạn quân tiến đến Diên Tân đánh nhau với quân chủ lực Tào. Và cử Lưu Bị đi theo để chiêu hàng Quan Vũ. Trước đó nghe quân kể lại giết Nhan Lương là một vị tướng mặt đỏ râu dài, Thiệu biết đó là Quan Vân Trường nên định giết Lưu Bị. Lưu Bị nẩy sinh ý hay:

- Người trong thiên hạ giống nhau cũng nhiều, sao lại bảo đó là Vân Trường?

Viên Thiệu ân hận suýt nữa giết nhầm người hiền.

Mạnh Đức cứu được Bạch Mã, nhưng lại vừa vui vừa buồn. Vui vì đã làm tổn thương nhuệ khí quân Thiệu. Buồn vì Quan Vũ lập công lớn ắt sẽ bỏ mà đi. Hôm đó, Tháo đã mục sở thị uy phong của Quan Vũ. Để một vị tướng như vậy cao chạy xa bay sao được? Tháo nghĩ thà cứ nuôi không Vân Trường, đủ để Viên Thiệu nghe tiếng là được

Sau hôm cứu nguy Bạch Mã, Tháo dẫn khinh kỵ binh quay về Diên Tân hợp cùng Hạ Hầu Uyên. Tháo đã nghĩ đến bước hai, Thiệu sẽ đem đại quân đánh vào Hứa Đô. Để tăng cường phòng vệ, nhất là chuẩn bị cho cuộc hội chiến Quan Độ, cần phải di chuyển chủ lực của Hạ Hầu Uyên trở về lệnh cho khinh trọng binh lùi dần về phía nam, Tháo dẫn một ít kỵ binh đi sau cùng.

Thư Thụ tuy bị giam cầm nhưng vẫn khuyên Thiệu bỏ mặc việc điều động quân Tào ở khu nam Diên Tân. Đại bản doanh nên đóng ở bờ bắc Diên Tân, phái một cánh quân đến xem xét hoạt động cùng cách bố trí quân Tào tại Quan Độ Khẩu. Thiệu thành kiến với Thụ nên không theo. Tự mình chia tiền quân thành hai lộ riêng, giao cho Quách Đồ và Thuần Vu Quỳnh.

Hứa Du cũng khuyên:

- Chúa công nên tiến quân từ từ. Lấy tĩnh đón động. Người ngựa đi trước, lương thảo chưa đến kịp là điều tối kỵ trong việc dùng binh.

Thẩm Phôi luôn không ăn ý với Hứa Du, nên nói nhỏ vào tai Thiệu:

- Chúa công không nên tin hắn, giặc Tào rất thân với hắn.

Thiệu định trị tội Hứa Du, nhưng chưa có chứng cứ, nên tay để vào đốc kiếm và nói:

- Ý ta đã quyết, không phải nói nhiều!

Thiệu tự dẫn đại quân từ phía nam Lê Dương vượt sông Hoàng Hà, xây thành đắp luỹ nhỏ dọc theo Diên Tân, thúc Văn Sú truy tì

Để thưởng công Quan Vũ, Mạnh Đức dâng biểu tâu Triều đình phong Quan Vũ làm Hán Thọ Đình hầu. Lại nghe tin Văn Sú đã vượt sông Hoàng Hà, đóng quân ở Diên Tân, Tháo cho người di dân đến phía tây bờ nam sông Hoàng hà, sau đó dẫn quân chặn đường tiến của Văn Sú.

Quân Văn Sú gặp quân chặn hậu của Tào tại mỏm núi phía nam Diên Tân có tên là Nam Phản. Được tin thám mã đến báo, Văn Sú biết Mạnh Đức cùng đội kỵ binh ở trên núi đang chỉ huy binh lính rút lui. Văn Sú không kịp báo với Thiệu, và cũng không nghe lời khuyên của Lưu Bị, đã chủ động tiến công quân Tào hòng báo thù và lập công.

Lưu Bị nghĩ đúng, đó là hành động dụ địch của quân Tào. Tháo đã dựng đài quan sát ở khu Nam Phản, chuyên quan sát hành động truy kích của quân Thiệu. Khi tiêu binh quan sát thấy quân Văn Sú, Tháo hạ lệnh cho quân sĩ quan sát và báo về tỉ mỉ hành động của quân Thiệu. Đài quan sát báo cáo:

- Có khoảng sáu trăm kỵ binh phóng đến rất nhanh.

- Lại phát hiện không ít kỵ và bộ binh ở phía sau.

- Chủ tướng Văn Sú, dẫn đầu đoàn kỵ binh, một lát nữa sẽ tới.

- Phía sau có hơn nghìn tên lính, cách toán trước khoảng canh giờ hành quân.

Mạnh Đức hạ lệnh cho kỵ binh tháo yên cương nghỉ ngơi.

Lúc đó có đoàn quân dẫn xe vận tải từ Diên Tân và thành Bạch Mã đi đến Nam Phả

Đại tướng Lã Kiền rất lo lắng:

- Phải làm sao để đoàn xe vận tải vào đến doanh trại khỏi bị quân Thiệu đột kích.

Tháo chỉ cười, mọi người băn khoăn, không hiểu.

Tuân Úc nói:

- Đấy chỉ là miếng mồi dụ bọn chúng.

Lưu Bị biết tài đánh kỵ binh của Tháo nên luôn khuyên Văn Sú phải thận trọng. Sú không theo vì xem thường Bị; vì muốn nhanh chóng trả thù và lập công. Bởi thế, Sú dẫn năm sáu trăm kỵ binh đuổi gấp, giao phó đại quân cho Lưu Bị ì ạch theo sau.

Nhưng khi nhìn thấy quân Tào ngồi nghỉ ở mỏm. núi, thấy đoàn xe vận tải đi về hướng Nam Phản, Sú cho quân Tào sẽ không kịp ứng phó, vội xông cả vào đoàn xe.

Toán quân Tào ngồi nghỉ ở chỗ quang đãng nhất, đứa đang nghịch chiếc mũ trên tay, đứa làm ra vẻ mệt mỏi vô cùng. Khi nhìn thấy bọn Văn Sú đuổi gần đến đoàn xe, có người nhắc Tháo lên ngựa xuất kích. Tháo vẫn đứng yên. chủ tướng ai nấy đều hồi hộp. Chẳng bao lâu, đoàn kỵ binh của Văn Sú như một bầy ruồi nhặng bâu lại xâu xé cướp bóc đoàn xe. Sú không thể nào ngăn cản được sự hỗn loạn của toán quân cướp bóc.

- Tất cả lên ngựa!

Lệnh Tháo vừa ra, lập tức hơn sáu trăm tên kỵ binh như đoàn mãnh hổ lao vào chém giết lũ quân hỗn loạn. Văn Sú chiến đấu một mình. Quân sĩ tả xung hữu đột, giẫm đạp lên nhau, tiếng khóc tiếng kêu vang động một góc trời. Sú cùng một số tàn quân phải tháo chạy.

Tháo chỉ Văn Sú nói:

- Văn Sú là danh tướng Hà Bắc, khoẻ như Nhan Lương, ai dám ra đánh?

Trương Liêu, Từ Hoảng phóng ngựa đuổi theo. Văn Sú ngoảnh lại nhìn thấy hai tướng, liền cắp vững ngọn giáo, giương cung đặt tên, mũi tên bay vút, Trương Liêu cúi đầu vội tránh, mũi tên tiện phăng dải mũ. Liêu cố sức đuổi. Văn Sú lại bắn phát nữa, trúng ngay giữa mặt. Liêu liền ngã ngựa. Từ Hoảng tay cầm búa lớn, xông lên đánh giết. Bỗng thấy Văn Sú ném một vật gì đó, tay búa Từ Hoàng trở nên loạng choạng.

Tháo nhìn thấy Trương Liêu ngã ngựa trước tiên, sau lại thấy Từ Hoảng không vung được búa, trong lòng lo lắng. Chợt thấy hơn mười tên kỵ mã, một tướng đi đầu mặt đỏ, râu dài, tay cầm thanh long đao, quát to một tiếng:

- Văn Viễn, Vân Trường lại báo thù đây!

Tiếng quát vừa dứt, chiến mã như một bó đuốc kịp đến trước mặt Văn Sú. Quan Vũ đưa một nhát dao, Văn Sú ngã chết ngay dưới chân ngựa.

Đại quân của Bị phía sau kịp đến nhìn thấy Văn Sú đã chết, không dám ham đánh.

Bên trại Tào, Lưu Bị nhìn thấy một viên tướng có bộ râu dài, cao to, khác hẳn mọi người. bèn lên tiếng gọi "nhị đệ". Tiếng gọi chìm trong tiếng reo hò của binh lính. Lưu Bị thẫn thờ nhìn theo thân hình khôi ngô quen thuộc ngày một xa d

Sau khi giành được phần thắng ở Nam Phản, Tào Mạnh Đức lệnh cho Lưu Diên ở Bạch Mã lui quân, còn mình thì nhanh chóng về giữ Quan Độ. Chỉ giữ nguyên đội quân du kích của Vu Cấm, tiếp tục quấy rối quân Thiệu ở hai bờ nam bắc Diên Tân. Trái lại, Viên Thiệu vô cùng tức giận. Bỏ ngoài tai lời khuyên của Mạc Liêu, Thiệu dẫn đại quân truy đuổi xuống phía nam. Đây quả là cách dụ địch ngoạn mục nhất của Tào Mạnh Đức. Thiệu không ngờ mình đã rơi vào chiến trường chính mà Tháo đã chọn sẵn: Quan Độ.

Thiệu biết vị tướng mặt đỏ râu dài lại giết Văn Sú là Quan Vũ. Thế là bao nhiêu giận dữ Thiệu đều trút cả lên đầu Lưu Bị. Biết không dối được Thiệu. Bị nói:

- Tháo nhiều quỉ kế, biết tôi ở chỗ Minh công, sợ tôi giúp Minh công, nên sai Vân Trường giết mất hai tướng. Minh công biết, tất nhiên giận tôi. Thế là Tháo muốn mượn tay Minh công để giết tôi.

Viên Thiệu nói:

- Huyền Đức nói phải lắm! Suýt nữa các người để ta mang tiếng giết hại người hiền.

Lưu Bị sợ Quan Vũ không biết mình ở bên Viên Thiêu. nên nhân đây nói luôn với Thiệu.

- Tôi muốn sai một người tâm phúc, đem thư đến Vân Trường. cho biết tin tôi ở đây. Em tôi tất sẽ tìm đến giúp Minh công cùng đánh Tào Tháo, để báo thù cho Nhan Lương, Văn Sú. Minh công tính sao?

Viên Thiệu mừng nói:

- Ta được Vân Trư̖ược một viên tướng gấp mười Nhan Lương, Văn Sú.

° ° °

Cuối tháng ba đầu tháng tư năm đó, Viên Thiệu hành quân gấp đến Vũ Dương cách Quan Độ khoảng mười dặm, lập sở chỉ huy bộ. Chiến sự hai bên, tạm thời yên ắng. Hai năm nay quân Tào đã xây thành đắp luỹ phòng ngự vững chắc ở Quan Độ, buộc Thiệu phải có thời gian bố trí lại tiền tuyến, bổ sung quân ngũ.

Hôm đó, sau khi chém được Văn Sú, Quan Vũ nghe có tiếng người gọi "nhị đệ", liền đoán chắc Lưu Bị ở bên Viên Thiệu. Từ khi trở về Hứa Đô, Quan Vũ lòng dạ buồn phiền, suốt ngày uống rượu giải sầu.

Một hôm Quan Vũ đang ngồi đọc sách, chợt thấy báo có người bạn cũ đến thăm. Quan Vũ mời vào và thấy là người khách lạ. Người đó nói:

- Tôi là Trần Chấn, bộ hạ của Viên Thiệu.

Quan Vũ biết có việc gấp, liền bảo tả hữu lui ra. Chấn đưa ra một phong thư. Quan Vũ xem đi xem lại đến năm lần rồi khóc to, gọi hai tiếng "đại ca", lát sau mới viết được mấy chữ trả lời.

"Đã là nghĩa thì không phụ lòng, đã là trung thì không sợ chết. Vũ này từ nhỏ có được đọc sách, biết chút ít lễ nghĩa. Xem chuyện Dương Giác Ai và Tả Bá Đào 1 thường than thở hai ba lần mà sa nước mắt.

Khi giữ thành Hạ Phi, trong không có lương thực, ngoài chẳng có viện binh, đã toan liều chết, nhưng vì phải trông nom hai chị, khỏi phụ lòng uỷ thác, nên không dám quyên sinh. Nay tạm ở bên trại Tào, được đối đãi hậu hĩ, song không lúc nào quên được tình ba anh em. Nay nhận được thư huynh trưởng như nhìn thấy huynh đang cười. Xin lập tức từ giã Tào công, đưa hai chị về. Bằng đệ có bụng nào khác, xin thần, người cùng diệt. Kể mọi nỗi niềm, bút giấy nói không hết lời. Có ngày lại gặp được nhau, xin huynh xem xét".

Trần Chấn đi ngay đêm đó.

Mạnh Đức biết Lưu Bị đang ở bên Văn Thiệu, cũng biết tâm tư Quan Vũ mấy hôm nay. Quan Vũ lập được nhiều kỳ công, nếu biết Lưu Bị ở đâu tất sẽ tìm đến và trước khi đi chắc sẽ đến chào từ biệt. Đôi khi Tháo mong sao Lưu Bị không còn nữa!

Tháo đoán Quan Vũ đã biết tin Lưu Bị, nên sai Trương Liêu đến thăm dò xem thử.

Trương Liêu đến thăm Quan Vũ, thi lễ xong rồi nói:

- Nghe nói huynh trưởng đã có tin Huyền Đức, đệ đến để chúc mừng.

Quan Vũ thất kinh:

- Làm sao Văn Viễn biết tin?

Trương Liêu nói:

- Hôm giao tranh với Văn Sú ở Nam Phản, đệ thấy Huyền Đức ở trong hậu quân của Sú, tưởng huynh cũng nhìn th

Tin Trương Liêu đã biết chuyện, Quan Vũ đem việc Trần Chấn đến thăm kể rõ ngọn ngành.

Trương Liêu nghe xong, liền hỏi chuyện cũ:

- Thừa tướng đối với huynh thế nào?

Quan Vũ nói:

- Ba ngày tiệc nhỏ, năm ngày tiệc lớn, tặng chiến bào, cho ngựa cưỡi, nào châu báu, nào gái đẹp; về mặt vật chất không ai bằng Thừa tướng.

Trương Liêu nói:

- Vậy sao huynh cứ muốn bỏ đi?

Quan Vũ nghiêm giọng nói:

- Tình cảm giữa ba anh em tôi như chân với tay, như răng với môi, môi hở thì răng lạnh. Văn Viễn là người hiểu biết, sao không rõ đâu là trọng, đâu là khinh?

Trương Liêu yên lặng.

Sau ba tuần rượu, Liêu thấy Quan Vũ cứ thở ngắn than dài liền nói:

- Biết tin Huyền Đức là một chuyện vui, nay mai anh em lại được gặp nhau, sao cứ thấy huynh không vui?

Quan Vũ để đũa bên bàn, hai tay chống cằm, chậm rã

- Tiếc rằng vẫn chưa được nhìn thấy nhau. Hơn nữa về phần Thừa tướng... cảm thấy khó nghĩ quá.

Trương Liêu cũng phải tự nén lòng mình. Trách nhiệm thật quá nặng nề, bên tai vẫn nghe văng vẳng những lời thổ lộ của Tào Mạnh Đức:

"Văn Viễn à! Ngươi và Quan Vũ vốn có tình với nhau, hãy tìm cách giữ người đó lại dù chỉ là năm bữa, nửa tháng cũng được".

Việc giữ Quan Vũ ở lại như việc mò kim dưới đáy biển. Liêu biết vậy nên không nhiều lời. Người có chí, tự biết tìm chủ của mình, ai có tình cảm của người ấy. Đành chỉ biết lưu được ngày nào hay ngày ấy. Liêu chỉ ngại Quan Vũ ra đi mà không có lời từ biệt, khiến Thừa tướng phải đau lòng. Và khi sang bên Thiệu, Quan Vũ phải giúp Thiệu đối phó với Thừa tướng, thật là...

Trương Liêu thăm dò:

- Huynh đợi phải chào mọi người rồi mới đi chứ?

Quan Vũ nói:

- Ta, đại trượng phu sống ở đời chưa làm điều gì bất nhân bất nghĩa. Có điều ta chưa biết nói với Thừa tướng ra sao đây.

Quan Vũ chỉ thấy đau khổ và mâu thuẫn.

Trương Liêu nghĩ được cách hay. Quan Vũ là người công minh chính trực trong thiên hạ, thế tất chỉ ra đi khi đã chào Thừa tướng. Ta bàn đ̓ Thừa tướng giả bộ ốm nặng, ốm một thời gian, đến lúc cuộc chiến này kết thúc hẵng hay.

Quan Vũ đã có chủ ý:

- Văn Viễn yên tâm. Thừa tướng là người thông tuệ, chắc sẽ thông cảm. Ta sẽ chọn ngày đến từ biệt Thừa tướng.

Khi chưa biết Lưu Bị sống chết ra sao, hai phu nhân rơi vào cảnh nhớ nhung, buồn tủi trong một thời gian dài. Năm tháng trôi qua, cùng với tấm lòng của Quan Vũ, tình cảm hai người đỡ nặng nề hơn trước. Mùa xuân năm nay đẹp trời, mưa thuận gió hoà, hai bà đang vui vẻ cùng lũ thị nữ ở ngoài sân. Quan Vũ bước vào thi lễ xong mới đem tin tức của Huyền Đức nói với hai chị.

Tình cảm hai bà thay đổi nhanh chóng không biết vui hay buồn. Trước hết là kinh ngạc, sau đó là khóc lóc và cuối cùng là mừng rỡ. Hai bà thúc Quan Vũ cho người dọn dẹp hành lý, mong chóng được đến chỗ Lưu Bị.

Hai bà chưa hiểu được tình cảm của Quan Vũ lúc bấy giờ.

Sau hôm Trương Liêu từ chỗ Quan Vũ trở về, Tào Mạnh Đức ốm nặng. Tuân Úc vội vã cho mời Cát Bình tới.

Giống như Đổng Thừa trước đây, bệnh tình của Tháo hôm nay cũng không giấu nổi Cát Bình.

Cát Bình bắt mạch xong nói:

- Thừa tướng không có bệnh gì, ngoài việc lo nghĩ nhiều!

Cát Bình chỉ là thầy thuốcà biết được căn nguyên thứ bệnh đó. Ngay như Tuân Úc cũng chịu.

Đã mấy lần Quan Vũ đến chào từ biệt Mạnh Đức, nhìn thấy ngoài cửa treo biển không cho vào, nên đành lủi thủi về, sai những người tuỳ tùng cũ thu xếp xe ngựa, ngoài chiếc chiến bào và con xích thố, còn tất cả những gì mà Tháo ban tặng đều để lại.

Hai chị giục gấp, Quan Vũ đành tìm Trương Liêu, nhưng cũng không gặp được vì Trương Liêu cáo ốm.

Quan Vũ không nắm được ý đồ của Trương Liêu và Mạnh Đức. Ngày ngày trôi qua, hành lý đóng rồi lại mở, mở rồi lại đóng. Mạnh Đức chơi trò thông minh một chút: cho người theo dõi hành tung của Quan Vũ, Vũ đến cửa thì biển được treo, Vũ thất vọng ra về thì biển được cất.

Rồi đến một hôm, Quan Vũ không dùng dằng nữa, viết thư từ biệt, sai người gửi đến tướng phủ, treo ấn "Hán Thọ Đình hầu" ở trên sảnh đường, vàng bạc, châu báu bỏ tất cả vào kho, rồi mời hai chị lên xe, tự mình cưỡi ngựa xích thố, tay cầm thanh long đao, dẫn bọn tuỳ tùng cũ đi hộ tống xa trượng, ra thẳng cửa bắc thành Hứa Xương. Lính canh cửa thành ngăn lại, nhưng khi nhìn thấy Quan Công trừng mắt, vung thanh long đao, ai nấy đều tránh hết.

Mạnh Đức đang ngồi tính toán phương án tác chiến, bỗng nhận được thư Quan Vũ, thư như sau: "Ngày nọ thất thủ Hạ Phi, tôi xin ba điều đã được Thừa tướng chấp nhận. Nay biết tin Hoàng Thúc, tôi quyết định đến cùng huynh trưởng. Thừa tướng lấy lễ đãi tôi, tình đó thật là khó báo. Người ta nói ăn một trả mười, tôi cũng không muốn ra đi như vậy, ngặt vì Thừa tướng không cho tôi gặp. Ơn của Thừa tướng tôi xin ghi lòng tạc dạ. Mai ngày sẽ có dịp đền đáp. Xin soi xét cho".

Đọc xong thư lại có người đến báo:

- Quan Công để lại tất cả gấm vóc, vàng bạc, ấn "Hán Thọ Đình hầu" treo ở sảnh đường, mười người mỹ nữ cho đưa về tướng phủ. Quan Công chỉ đưa theo hai vị phu nhân, những người tuỳ tùng cũ và hành lý tuỳ thân đi ra cửa bắc.

Văn võ bá quan đều ngạc nhiên, Sái Dương nói:

- Tôi xin đem ba nghìn quân bắt sống Quan Vũ đem về nộp Thừa tướng.

- Không tham vàng bạc, không mê nữ sắc, không quên chủ cũ, đi đến đều phân minh, thế mới thực là trượng phu, các ngươi nên bắt chước.

Nói rồi, Tào Mạnh Đức mắng Sái Dương, không cho đi đuổi.

Trình Dục nói:

- Nay tha Quan Vũ cho về với Viên Thiệu, khác gì cho hổ thêm vuốt, chi bằng giết đi, tránh hoạ về sau.

Mạnh Đức vỗ vai Trình Dục:

- Tướng quân vốn là người sáng suốt, hôm nay lại trở nên mê muội. Nếu Tháo đuổi giết một người chí khí sáng như vừng hồng, trung nghĩa bao trùm sông núi, thì trăm họ không khỏi chê cười, còn ai dám về với chúng ta nữa chứ!

Nhân thế Tào Mạnh Đức bảo Tr

- Đời ta rất kính trọng những người như Vân Trường. Ta muốn kết thân với Vân Trường, để lưu lại một chút tình về sau. Ngươi nên giúp ta chuẩn bị lộ phí và chiến bào, rồi mời Vân Trường dừng lại, ta sẽ đến tiễn!

Vân Trường cưỡi ngựa xích thố ngày đi ngàn dặm. Nay vì hộ tông xa trượng, mà phải buông cương đi chạm. Chợt nghe đằng sau có tiếng người gọi:

- Xin Vân Trường hãy đi chậm lại.

Vân Trường cho xa trượng cứ đi lên trước còn mình thì dừng ngựa lại, tay cầm vững long đao, hỏi:

- Văn Viễn định đuổi theo bắt ta chăng?

Trương Liêu nói:

- Thừa tướng bảo tôi đến tiễn biệt cùng huynh.

Quan Vũ có phần hơi bực nói:

- Mấy hôm trước ta đến từ biệt, Văn Viễn và Thừa tướng đều cho ta đứng chờ ngoài cửa, nay lại muốn tiễn biệt là cớ làm sao?

Ngay lúc đó, Mạnh Đức và mấy người nữa phi ngựa tới, theo sau có Hứa Chử, Từ Hoảng, Lý Điển và một số tướng lĩnh.

Quan Vũ nắm chắc thanh long đao.

Mạnh Đức dừng ngựa trước mặt Quan Công, cách chỉ có mấy bước.

Mạnh Đức lên tiếng trước:

- Vân Trường sao đi quá gấp, không đến từ biệt ta.

Quan Vũ trả lời cũng như trả lời Trương Liêu. Phần sau có thêm một câu:

- Thừa tướng chắc chưa quên ba điều kiện tôi nêu ra trước đây.

Mạnh Đức nói:

- Ta luôn luôn mến mộ tính dũng cảm, lòng trung nghĩa của Vân Trường, lẽ nào ta lại nuốt lời? Vân Trường khôngÂ� hiểu nỗi lòng ta hay sao? Trước đây ta cứ tưởng sẽ giữ được Vân Trường. Ta đã tự đánh giá mình quá cao? Nay Vân Trường ra đi, ta chẳng có gì để nói. Chỉ nghĩ đến công lao của Vân Trường mà ta chuẩn bị một chút quà nhỏ, xin vui lòng nhận cho.

Quan Vũ cười nói:

- Một việc nhỏ mọn, hà tất Thừa tướng phải bận lòng.

- Chỉ trách ta không có phúc phần. Hứa Xương rộng ngần này mà không giữ nổi Vân Trường. Ta đem tặng Vân Trường một áo chiến bào, hãy nể mặt ta mà nhận lấy.

Lời từ biệt của Mạnh Đức thật khẩn thiết, mắt còn rưng lệ.

Quan Vũ cũng xúc động. Hai tay run run nhận lấy chiến bào và bạc nén mà binh sĩ dâng đến trước mặt. Hai tay Quan Vũ chắp lại nói lớn:

- Thừa tướng, sẽ có ngày gặp lại!

Vừa giật dây cương, xích thố đã vọt theo xa trượng ở đằng trước mặt.

Mạnh Đức vẫn ngồi yên trên ngựa nhìn mãi, nhìn cho đến khi bóng dáng Vân Trường khuất hẳn!

Trên đường về, Mạnh Đức sực nhớ mình đã quên mất một điều thật quan trọng.

° ° °

Càng chờ Lưu Bị càng sốt ruột. Hai ngày trôi qua, không đem đến tin tức gì Quan Vũ và Trần Chấn? Mặt khác thời gian càng dài càng nhìn rõ những nguy cơ trầm trọng bên phía Thiệu: Những lời gièm pha của bọn Mạc Liêu làm xao xuyến lòng quân; Điền Phong bị hạ ngục; Thư Thụ bị giết; Hứa Du và Thẩm Phôi thì đấu tranh giành giật; Viên Thiệu chỉ tin dùng người thân, lại nhu nhược quả đoán, tiền đồ chẳng lấy gì làm sáng sủa.

Càng nghĩ Lưu Bị càng thấy lo lắng: nhị đệ đã giết được hai tướng giỏi của Thiệu, được Tháo trọng dụng, lại càng khó ra đi... Dù có tài nghệ đến đâu cũng khó vượt qua được nhiều cửa ải của Tháo...

Đang trong lúc miên man như vậy thì Trần Chấn đã về. Lưu Bị nhận thư Quan Vũ, biết tin hai vị phu nhân trong lòng rất mừng. Nhưng Lưu Bị lại nghĩ tiếp: Quan Vũ thế nào cũng đưa hai chị cùng đến. Nếu Quan Vũ không đến, liệu Thiệu còn dùng mình nữa không? Biết đi đâu? Đến Tào Tháoược. Tôn Sách bên Giang Đông đã chết. Lưu Biểu đã bị Tháo thao túng. Trời đất mênh mang ta biết ở vào đâu? Tình cảnh thật mủi lòng, Lưu Bị ứa cả nước mắt.

Đang trong lúc Lưu Bị không biết về đâu thì khu vực Nhữ Nam có biến loạn. Cố Sử là môn sinh của Viên Thiệu làm phản, Mãn Sủng đã đến dẹp yên được loạn. Nhưng đúng là cây muốn lặng, gió chẳng đừng, vào tháng sáu năm Kiến An thứ năm, một đầu mục của quân Khăn vàng ở Nhữ Nam là Lưu Tích bỗng lại phản Tháo hưởng ứng Thiệu. Thiệu vội sai Lưu Bị cầm quân đến giúp Lưu Tích, lập thêm một mặt trận ở Dự Châu, áp lực với quân Tào ở Quan Độ.

Lưu Bị đi nhận nhiệm vụ như mở cờ trong bụng.

- Trời đã giúp ra thoát cảnh cá chậu chim lồng!

Bị thổ lộ với những người tuỳ tùng cũ.

Lại nói việc quan trọng. Hôm đưa tiễn Quan Vũ, Tháo quên đưa lệnh bài ra khỏi cổng thành cho Quan Vũ. Bởi vậy quân báo liên tục đến nói:

- Tướng giữ Đông Lĩnh Quan là Khổng Tú bị Quan công giết!

- Lạc Dương Thái thú Hàn Phức bị Quan công giết.

- Tướng giữ bến Hoàng hà là Tần Kỳ bị Quan công giết!

Tin hai tướng trước bị giết không làm Tháo bận tâm. Tần Kỳ bị giết Hạ Hầu Đôn chắc không bỏ qua, nên Mạnh Đức vội vàng gọi Trương Liêu

Quan Vũ vốn không muốn giết chóc, nhưng tiếc nỗi các tướng giữ thành cứ ngăn cản. Có phải Tháo muốn vậy không? Hôm tiễn đưa, vàng bạc chiến bào thì có, giấy tờ thì không. Đó là sự quên lãng, hay Tháo muốn tay các tướng giữ ải giết mình. Quan công không hiểu được...

Quan Vũ tiếc cho số phận những tướng chết dưới lưỡi thanh đao này. Họ cũng là người có bố mẹ già vợ con thơ dại. Trời xanh kia bầy đặt như vậy sao, khiến ta phải giết ca những người không thù không oán! Quan Vũ cảm thấy ân hận vô cùng.

Xa trượng đi về hướng bắc...

- Xin Vân Trường hãy dừng lại.

Nói vừa dứt lời thì người phi ngựa kia đã ở ngay trước mặt. Quan Vũ nhận ra đó là Tôn Càn.

Tôn Càn nói:

- Nay Hoàng Thúc đã sang Nhữ Nam hợp sức với Lưu Tích, sai tôi đón đường, may gặp được tướng quân ở đây. Sợ tướng quân chưa biết, cùng hai phu nhân vế chỗ Viên Thiệu, e bị hại.

Quan Vũ nắm tay Tôn Càn, thở phào nhẹ nhõm. Hai vị phu nhân nghe tin thì khóc lóc, Quan Vũ an ủi mãi mới thôi.

Xa trượng lại đi về hướng Nhữ Nam.

Đang đi, đằng sau cát bụi bay mù, một toán người ngựa đuổi theo. Người dẫn đầu cao lớn hét

- Quan Vũ đừng chạy!

Quan Vũ để Tôn Càn hộ vệ xa trượng tiếp tục đi, còn mình thì dừng ngựa, tay cầm ngang ngọn long đao. Quan Vũ lên tiếng.

- Mi đuổi giết ta, làm mất cả lượng khoan hồng của Thừa tướng!

Hạ Hầu Đôn giương to một mắt, tức giận nói:

- Thừa tướng không có công văn truyền báo. Mi đi đến đau giết người đến đó, lại giết cả bộ tướng của tao. Phen này ta quyết bắt mi.

Hai người chuẩn bị giao chiến, chợt đằng sau có người phóng ngựa đến nói to:

- Vân Trường, Nguyên Nhượng đừng đánh nhau!

Người đó là Trương Liêu.

Trương Liêu đưa công văn chính tay Thừa tướng viết cho Hạ Hầu Đôn xem. Hạ Hầu Đôn chán nản đành rút quân về.

Trương Liêu nói:

- Vân Trường định đi đâu?

Vân Trường nói:

- Ta đến Nhữ Nam tìm Hoàng Thúc.

- Nếu không tìm thấy Huyền Đức, Thừa tướng dặn huynh nên đến Quan Độ. Thừa tướng hết lòng mong đợi.

- Ta quyết đi khắp cùng trời cuối đất tìm ra Hoàng Thúc và Dực Đức. Vườn đào đã kết liền ba anh em ta thành một khối. Văn Viễn trở về gặp Thừa tướng làm ơn tạ tội hộ ta.

- Huynh trưởng hãy giữ gìn!

Trương Liêu nói xong, quay ngựa đi luôn.

--------------------------------

1

Dương Giác Ai và Tả Bá Đào là người nước Yên, thề cùng sống chết. Hai người rủ nhau đến Sở tìm đất dụng võ. Đi đến nửa đường, gặp khi trời rét, lương thực lại ít nên Đào bảo Ai: "Anh giỏi hơn tôi, anh đi thôi". Đào bèn nhường cả lương thực và quần áo rồi vào rừng chết! (ND).

CHƯƠNG XV

ĐỐT SẠCH Ô SÀO, ĐÁNH NGƯỜI BẠN CŨ

Hai bên kình địch ở phía nam và bắc Quan Độ. Về đến đại bản doanh ở Quan Độ, Tháo được tin Lưu Bị đến Nhữ Nam hợp quân cùng Lưu Tích, đầu mục quân Khăn vàng, cùng bắt tay với họ, tình hình Dự Châu trở nên nguy cấp.

Mạnh Đức cử Tào Nhân đem hai ngàn quân khinh kỵ binh đến Nhữ Nam diệt Lưu Bị. Nếu để lâu ngày Bị sẽ nổi lên ở Đông Sơn, tình hình sẽ càng rắc rối.

Viên Thiệu đang tích cực tăng quân.

Quân Tào có một, quân Thiệu có mười, Tào Mạnh Đức ngồi tính lại sự chính xác của chiến trường Quan Độ trong tương quan đó.

Hoàng Hà về đêm vẫn hát lại bài ca đơn điệu, tiếng nước chảy ầm ì. Những ánh đèn leo lét nơi thành luỹ hai bờ sông Hoàng Hà trông như những dải sao sa.

Mạnh Đức đang ngồi xem sách trước đèn, lấy trí tuệ của người xưa xem xét lại sách lược dùng binh của mình.

"Hai bên đánh nhau, phải dùng chính binh để đối địch, dùng kỳ binh giành thắng lợi. Người giỏi xuất kỳ thì biến hoá vô cùng như trời đất, cuồn cuộn như nước sông vô tận, hết rồi lại bắt đầu như mặt trăng mặt trời, qua rồi lại đến như bốn mùa đổi nhau".

Mạnh Đức nghiền ngẫm từng câu từng chữ, thấy mình chọn Quan Độ là chính xác. Nhưng Mạnh Đức lại nhìn chằm chằm vào chữ "kỳ" ở trong sách, vì hiện nay quân Tào người thì ít, lương thực thì thiếu.

Phương đông trời đã hửng sáng, cơn gió sớm mai của mùa hạ thời nhè nhẹ vào lá cờ "soái". Mạnh Đức đã quá mệt mỏi. Cuốn "Tôn tử binh pháp" vừa cũ vừa nát nằm ngay bên chiếc gối của Tháo.

Tiếng chém giết gào thét làm Mạnh Đức tỉnh giấc.

Viên Thiệu dẫn đại quân đến khiêu chiến.

Ba hồi trống vừa dứt. Viên Thiệu đội mũ chỏm vàng, mặc áo giáp vàng, bào gấm đai ngọc, cưỡi ngựa đứng trước trận tiền. Đứng xếp hàng hai bên là Trương Cáp, Cao Lãm, Hàn Mãnh, Thuần Vu Quỳnh và các tướng lĩnh khác. Đội ngũ trông thật uy nghiêm.

Mạnh Đức cử Trương Liêu ra đánh trước tiên. Trương Cáp nhảy ngựa nghênh chiến.

Hứa Chử múa gươm tế ngựa ra đánh giúp Liêu, Cao Lãm cầm giáo ngăn lại.

Mạnh Đức lệnh cho Hạ Hầu Đôn, Tào Hồng dẫn mấy nghìn binh mã xông vào trận địch. Thẩm Phôi thấy quân Tào xông sang, liền cho đất một tiếng pháo hiệu, hai bên hàng vạn cái nỏ đều bắn ra, quân Tào thương vong rất nhiều phải chạy về phía nam. Quân Thiệu thừa thắng xông lên chém giết. Quân Tào đại bại, lui về đóng trại ở phía nam Quan Độ.

Viên Thiệu cũng đưa quân đóng gần Quan Độ. Thẩm Phôi nói:

- Nên sai mười vạn quân giữ ở Quan Độ, đắp nhiều ụ đất ở trước trại Tào, sai quân nhìn xuống mà bắn.

Viên Thiệu nghe theo, sai chọn nhiều trai tráng, đào đất đắp ụ Trong vòng mười ngày, quân Thiệu đắp được hơn mấy chục đồi đất, trên đồi lại dựng chòi cao, rồi quân cung nỏ đứng trên bắn xuống, quân Tào sợ hãi, thương vong rất nhiều.

Mạnh Đức thấy quân tình rối loạn, đầu óc luôn luôn nghĩ đến chữ "kỳ". Như thế nào mới là "xuất kỳ" giành thắng lợi? Mạnh Đức bèn mời các mưu sĩ lại bàn.

Lưu Hoa nói:

- Nên làm xe bắn đá chống lại.

Tháo bảo Hoa vẽ kiểu. Tháo cho người tạo, tập trung những lính có nghề thợ, suốt đêm làm được vài trăm cỗ xe, đặt bên trong tường, chiếu thẳng vào những chòi trên đồi. Đợi lúc quân bên Thiệu sắp bắn, trong trại huy động những xe bắn đá, đá bay lên đánh phá khắp nơi, người không chỗ nấp, quân cung nỏ chết vô số.

Thẩm Phôi lại hiến kế cho Thiệu:

- Ta nên cho quân sĩ đào hầm ngầm, thẳng vào trong trại Tào Tháo.

Quân Tào biết quân Thiệu đang ra sức đào hầm sau những ụ đất liền báo với Mạnh Đức. Mạnh Đức nói:

- Chẳng làm gì nổi ta đâu! Binh pháp nói: địch đào hầm để đánh ta, ta đào hào sâu ngăn lại, thì đường hầm của chúng cũng trở thành vô dụng.

Đêm hôm đó, Tháo sai quân đào một cái hào rất sâu.

Đường ngầm của quân Thiệu đào mất bao nhiêu công sức trở thành vô ích.

° ° °

Thấm thoát đã giữa mùa hạ. Hai quân đánh qua đánh lại, kình địch với nhau đã hơn một trăm ngày. Dự, Duyện vốn là hai châu nghèo khổ. Gần đây đã lập đồn điền, tình hình có được cải thiện đôi chút, nhưng vẫn chưa đủ sức cung ứng hậu cần cho quân lính trong một thời gian dài. Bởi vậy các quận, huyện phía nam sông Hoàng Hà nhao nhao phản đối Tào Mạnh Đức. Còn ở Nhữ Nam, phía tây nam Dự Châu, nhờ có Lưu Bị khích lệ, mọi người lại hết sức ủng hộ

Tào Mạnh Đức chưa bao giờ biết xem thường năng lực Lưu Bị. Hảo hán tai to này đánh đòn tâm lý cũng giỏi, dùng binh cũng khéo. Ai là người có thể đi quấy nhiễu Lưu Bị được bây giờ? Mạnh Đức phải suy tính, chọn lựa, người đó phải trung thành, tránh khỏi chạy luôn sang phía Lưu Bị. Người đó phải biết độc lập tác chiến. Mạnh Đức chọn Tào Nhân và Từ Hoảng cho họ đưa quân đến Nhữ Nam.

Thám mã của Thiệu phát hiện Tào Nhân dẫn quân xuống phía nam, cánh trái quân Tào trở nên trống vắng. Thiệu liền phái Hàn Tuân đem một cánh quân đến lấp chỗ trống, hòng cắt đứt quan hệ giữa quân Quan Trung và đại bản doanh quân Tào ở Quan Độ,Â� bản doanh quân Tào ở Quan Độ, để dễ bề tiến công quân Tào từ phía tây. Nào ngờ Tào Nhân đã nhanh chóng thắng quân Lưu Bị và cũng nhanh chóng cùng với quân Từ Hoảng quay về tiền tuyến. Và ở một khe núi cách Quan Độ về phía tây nam khoảng vài trăm dặm, quân Hàn Tuân gặp quân Tào Nhân. Hàn Tuân không phải đối thủ của Tào Nhân, nên hai bên giao tranh được một lúc thì Hàn Tuân đã thua. Cánh trái của quân Tào được khôi phục ngay. Sách lược của Thiệu trở nên vô ích.

Ngày tháng trôi qua, Mạnh Đức ở Quan Độ quân lực kém dần, lương thảo gần hết, khó khăn chồng chất, nên có ý muốn bỏ Quan Độ về Hứa Xương, nhưng chần chừ chưa quyết, bèn viết thư hỏi Tuân Úc. Tuân Úc trả lời.

"Nay quân nhu dù có khó khăn, cũng chưa đến nỗi nguy khốn như quân Lưu Bang lúc ở Huynh Dương và Thành Cao. Chúng ta khốn đốn thì kẻ địch cũng chẳng dễ chịu gì. Khi xưa Lưu Bang và Hạng Vũ, chẳng ai nhận thua, chẳng ai chịu rút. Khi tình thế đã đến phút chót, ai rút lui người ấy sẽ mất khí thế, sẽ rơi vào chỗ bất lợi. Trước mắt, quân ta có một quân Thiệu có mười, nhưng quân ta bố trí rất hay, phòng ngự lại tốt, khác nào đã tóm được cổ Viên Thiệu, quân Thiệu tiến, thoái đề. Nay là lúc mấu chốt, thế nào cũng có biến, chính là lúc dùng mưu trí, lấy kỳ binh giành thắng lợi, xin chớ bỏ qua".

Mạnh Đức như được động viên, Tuân Úc còn có lòng tin, lẽ nào tổng chỉ huy nơi tiền tuyến lại chịu rút?

Quách Gia nói:

- Nhà bếp chưa kêu, chúng ta vội gì đã làm toáng lên.

Mạnh Đức yên tâm, suy nghĩ về chữ "kỳ" trong "lấy kỳ binh giành thắng lợi". Mạnh Đức nghĩ đến một câu trong binh thư: phép dùng binh là có ngàn cỗ xe nặng, trăm cỗ xe nhẹ, mười vạn bộ áo giáp, lượng thực chuyến xa hàng ngàn dặm. Như vậy kinh phí ở tiền tuyến và hậu phương, tiền chiêu đãi khách... mọi chi phí hàng ngày lên tới hàng ngàn lạng, sau đó đội quân mười vạn mới hoạt động được...

Cuối cùng Mạnh Đức đã hiểu được nghĩa chữ "kỳ".

Mạnh Đức phân tích: Thiệu rải quân trên một tuyến dài, từ bắc Hoàng Hà đến tận Quan Độ và nếu chiến trường Thanh Châu trên tuyến phía đông lại ngưng trệ thì khó khăn chồng chất khó khăn. Quyên Thành nam Hoàng Hà vẫn có Trình Dục trấn giữ, du kích của Vu Cấm, Nhạc Tiến vẫn có mặt ở Diên Tân, nên cánh trái của Thiệu dễ bị tấn công. Công việc hậu cần của Thiệu vẫn do Hàn Tuân chuyển vận từ chiến tuyến phía tây cánh phải đưa đến.

Quách Gia nói:

- Mùa màng vùng Hoa Bắc đã thu hoạch xong, xe lương của Thiệu sẽ lên đường nay mai. Tướng hậu cần là Hàn Tuân vốn có khoẻ nhưng không có khôn, ỷ đông dễ lơ là phòng vệ. Chỉ cần chọn lấy năm đội khinh kỵ đón đánh thì nhất định sẽ phá được hệ thống vận chuyển của Thiệu.

Mạnh Đức hỏi: - Nên sai ai?

Tuân Du suy nghĩ rồi nói:

- Từ Hoảng vốn là chủ tướng đoàn quân Dương Phụng vừa khoẻ và quen thuộc chiến trường phía tây, vừa có trách nhiệm, nhất định sẽ hoàn thành được nhiệm vụ đó.

° ° °

Trong chiến tranh, lương thực rất quan trọng, không phải chỉ riêng Tháo biết điều đó. Khâu hậu cần Thiệu trông cậy vào tướng tâm phúc là Hàn Tuân, đặt kho quân lương ở Ô Sào. Về mặt này, Thiệu hiểu biết chẳng kém gì Tháo.

Nhưng Thiệu không ngờ Tháo đã ra tay trước.

Kỵ binh của Từ Hoảng phát hiện được đoàn chuyển lương của Hà Tuân ở Vũ Dương cách phía tây Quan Độ không xa. Lại có Tào Hồng giúp sức, đội kỵ binh đã tập kích và phá huỷ toàn bộ thiết bị và lương thực quân Thiệu.

Tin tuyền đến đại bản doanh, Thiệu nghĩ: Giặc Tào đáng chết! May mà mình còn có Ô Sào.

Song từ đó Thiệu cũng để ý hơn, sai Thẩm Phôi về phương bắc đốc lương, lại sai tướng thân tín là Thuần Vu Quỳnh đến giữ

Hứa Du nói:

- Nay chủ lực quân Tào đang kình địch với quân ta ở Quan Độ, Tào ít quân, tất phải bỏ ngỏ Hứa Đô. Nếu ta cho quân vòng qua Quan Độ đánh úp Hứa Đô, nghênh đón Thiên tử, Tháo sẽ trở tay không kịp.

Hứa Du tuy mưu trí, nhưng hay nói quá. Lại có thời Hứa Du giao du với Tào Tháo, không ăn ý với Thẩm Phôi, nên Thiệu thường hay nghi ngờ, ít được tin dùng.

Viên Thiệu giận dữ:

- Có phải đó là kế hoãn binh của Tháo không?

Đang nói chuyện, chợt có người ở Nghiệp Quận đến, đem trình thư của Thẩm Phôi nói người nhà Hứa Du phạm pháp. Hứa Du có liên quan. Thiệu càng nghi Hứa Du có ý làm phản, lệnh cho tả hữu đem chém đầu Hứa Du. Mọi người khẩn khoản xin tha, Thiệu nói:

- Ta tha tội chết, từ nay không được giáp mặt ta nữa.

Nghĩ đi nghĩ lại, Hứa Du quyết định chạy sang bên Tào Mạnh Đức.

Thời trẻ Hứa Du và Tào Tháo có đi lại với nhau. Dạo Ký Châu Thứ sử Vương Phàn làm phản, Hứa Du đứng ra xin hộ, nhưng Tháo cự tuyệt. Từ đó hai người xa nhau. Â�Â�Â�Â�Â� Mạnh Đức nghe nói Hứa Du đến hàng, mừng quá không kịp đi giầy, cứ chân không chạy ra đón Hứa Du vào. Tháo nói:

- Tử Viễn về với ta, việc gì của ta mà chẳng

Hai người yên vị, Du hỏi Mạnh Đức:

- Ngài định đối phó quân Thiệu như thế nào? Nay lương thảo còn được bao nhiêu?

Mạnh Đức nói:

- Có thể chi dùng một năm.

Du cười:

- Sợ rằng không được thế.

Mạnh Đức lại nói:

- Độ sáu tháng thôi!

Du lại cười lớn:

- Ngài muốn đánh tan quân Thiệu, sao lại không nói thật với Du này.

Mạnh Đức nghĩ: nay Du đã về với ta, việc gì ta còn phải giấu. Bấy giờ Mạnh Đức mới nói thật:

- Lương ăn chỉ còn đủ tháng này thôi!

Thấy Mạnh Đức thực lòng, Du mừng rỡ nói:

- Tào công độc giữ Quan Độ, ngoài không có viện binh, trong không có lương thực, quả tình là khó khăn. Nay xin cung cấp một tin bí mật: Ô Sào là nơi cất giữ hàng vạn xe lương của Thiệu giao cho một mình Thuần Vu Quỳnh trấn gi

Mạnh Đức hỏi:

- Thuần Vu Quỳnh là ai vậy?

- Quỳnh là người thân tín của Thiệu. Hắn là kẻ vũ phu, chỉ ham uống rượu, không biết phòng bị gì cả. Ngài nên cho một đội khinh kỵ thiện chiến, thừa cơ đốt sạch Ô Sào, chỉ trong ba ngày, quân Thiệu sẽ vỡ.

Hôm sau, Mạnh Đức cho mời mấy vị mưu sĩ đến cùng bàn bạc.

Tuân Du nói:

- Kế thì hay, chỉ sợ Thiệu cho quân mai phục ở Ô Sào tiêu diệt chúng ta vừa ở Ô Sào vừa ở Quan Độ.

Quách Gia nói:

- Để kiểm tra hư thực, tôi có kế đơn giản.

Rồi Quách Gia nói nhỏ với Mạnh Đức câu gì đó.

Tối hôm ấy, Mạnh Đức giữ Hứa Du ở lại uống rượu. Rượu mới được vài tuần, Mạnh Đức cáo mệt xin đi nằm. Bên ngoài Hứa Du vẫn vừa uống vừa nhắm. Khoảng một tiếng sau, Mạnh Đức giả vờ mê ngủ nói mấy tiếng:

- Mai, ngày mai, Ô, Ô Sào...

Chiều hôm sau, Quách Gia vui vẻ, nói:

- Kế hoạch cướp lương hay đấy

Mạnh Đức vẫn chưa hiểu. Quách Gia nói thêm:

- Tôi đã cho người đi xem xét chỗ Viên Thiệu và Vu Quỳnh không thấy có động tĩnh gì!

Mạnh Đức nói:

- Phụng Hiếu ít tuổi mà giỏi giang, lão phu đây xin chịu.

Mục tiêu là Ô Sào! Mạnh Đức chỉ để Tuân Du, Tào Hồng ở lại trấn giữ Quan Độ, còn mình thì dẫn năm nghìn quân tinh nhuệ, cùng các tướng, mỗi người một đội, chia thành nhiều ngả, lệnh cho quân sĩ mỗi người mang một bó cỏ, đội một đội củi, người thì ngậm tăm, ngựa thì buộc mõm, tiến vào Ô Sào. Gặp lính canh thì báo:

- Viên tướng quân sợ quân Tào đến cướp lương, chúng tôi đến chi viện.

Ô Sào là khu quân lương, là đại bản doanh hậu quân Viên Thiệu do Thuần Vu Quỳnh trấn giữ. Vào năm kinh thành biên chế đội ngũ, Quỳnh và Tháo là một trong các tư lệnh quân đoàn, về sau Quỳnh làm tư lệnh hậu cần trong quân Viên Thiệu. Quỳnh cậy khoẻ, lại kiêu ngạo, nên công việc bố phòng có phần lỏng lẻo.

Lúc này, lão tướng Thuần Vu Quỳnh đã ngáp ngắn ngáp dài, tối qua có phần hơi quá chén!

Do quân Tào phân tán thành nhiều nhóm nhỏ, nên khi Quỳnh được binh sĩ gọi dậy mặc giáp ra trận thì quân Tào chưa có là bao. Vì thế Quỳnh không thông báo cho các đơn vị khác mà tự mình dẫn một ít quân ra nghênh chiến. Nhưng quân Tào mỗi lúc một đông, có Tháo chỉ huy, khí thế rất mạnh, Quỳnh vội thu quân về trại, cấp báo với Viên Thiệu tronghi quân Tào đã khép kín vòng vây, vây chặt Ô Sào.

° ° °

Thiệu nhận được tin, liền triệu tập các quan đến thương nghị. Viên Đàm vừa từ Thanh Châu đến chủ trương "vây Ngụy cứu Triệu", Đàm nói:

- Chúng ta đánh thẳng vào đại bản doanh quân Tào, khiến chúng không còn chỗ dựa.

Trương Cáp có vẻ bất đồng:

- Quân Quỳnh mà thua là chúng ta mất trắng, chi bằng đi cứu Ô Sào trước đã.

Quách Đồ nghiêng về phía Viên Đàm, nói:

- Lực lượng của Quỳnh chắc giữ được Ô Sào. Đánh vào Quan Độ mới là dịp may hiếm có.

Trương Cáp phản bác:

- Tháo dám đánh Ô Sào, chắc đại bản doanh phải được bố phòng cẩn mật. Ngộ nhỡ không chiếm được Quan Độ, Thuần Vu Quỳnh cũng thua luôn thì chúng ta trở thành tù binh hết.

Mỗi lần có việc gì thì dưới trướng Viên Thiệu thật là náo nhiệt. Cuối cùng Thiệu quyết định, cử Trương Cáp, Cao Lãm đi đánh Quan Độ, và hơn một ngàn khinh kỵ chi viện cho Vu Quỳnh.

Khi đó, ở Ô Sào đang đánh nhau dữ dộ

Thấy khinh kỵ của Thiệu kịp đến, có mấy vị chủ trương chia nhỏ quân ra để khỏi bị đánh từ hai mặt, Tháo không nghe và phóng ngựa lên tuyến một tuyên bố.

- Quân Thiệu đã ở phía sau, chỉ có xông lên mới sống!

Từ đấy sĩ khí rất hăng, ai nấy xông lên, chiếm được doanh trại của Thuần Vu Quỳnh.

Tháo vung roi ra lệnh "phóng hoả", chẳng mấy chốc khói lửa mù mịt. quân Thiệu kinh hồn thất đảm, giẫm đạp lên nhau mà chết. Thuần Vu Quỳnh cũng bị bắt sống.

"Công thành vi hạ, công tâm vi thượng" 1, phải làm cho ba quân của Thiệu khiếp nhược, Tháo sai xẻo mũi Vu Quỳnh cùng mười tên lính khác rồi thả cho về.

Tướng Thuần Vu Quỳnh là người trung thành bậc nhất trở về đại bản doanh quân Thiệu.

Viên Thiệu cùng các tướng khác sợ đến phát khiếp cả người.

Mọi việc đã rõ ràng. Viên Thiệu phẩy tay, giận dữ, nhưng bất lực, gọi tả hữu dẫn Thuần Vu Quỳnh ra ngoài.

Mạnh Đức ở Quan Độ. Tuân Du, Tào Hồng phòng thủ đại bản doanh, mấy lần Trương Cáp, Cao Lãm đến phá đều không được.

Không khí trong đại bả thật nạng nề. Hai tay chắp sau lưng, Thiệu đi đi lại lại, hai mắt như nảy lửa.

Quách Đồ sợ bị vạ lây nên nói gièm trước:

- Trương Cáp có ý oán hận, không cố sức đánh, để lỡ quân cơ, thật đáng xử tội.

Viên Thiệu ngập ngừng hồi lâu, sau cùng mới quyết định xử tội. Có người báo ngay tin này đến cho Trương Cáp.

Sau đó có sứ giả đến báo:

- Chúa công cho mời hai vị tướng công về gấp!

Trương Cáp, Cao Lãm nghĩ đến số phận Điền Phong, Thư Thụ. Sau hồi bàn bạc, họ chạy sang phía Tào Tháo..

Mạnh Đức tỏ ra kinh ngạc, không dám ra lệnh để hai người nọ vào trong trại mình.

Quách Gia nói vào:

- Thừa tướng ra lệnh cướp lương ở Ô Sào thì không sợ, sao bây giờ lại sợ hai viên hàng tướng?

Mạnh Đức nói:

- Cảm ơn Viên Thiệu đã nhường cho ta hai viên chiến tướng Hà Bắc là nơi sinh ra nhiều người tài!

Nói đến đây, cả hai người cười vang

° ° °

Viên Thiệu không hiểu được vì sao bảy mươi vạn quân của mình lại không đánh bại được mười vạn quân của Tháo. Không hiểu vì sao kẻ cùng đường mạt lộ như Tháo, chỉ nhờ vào sản nghiệp của ông, cha, nhờ vào số châu báu đào mộ tổ mà có, lại mọc lông mọc cánh nhanh như vậy.

Nghĩ đến bộ mặt bị xẻo mất mũi của tướng sĩ mà sởn tóc gáy; nghĩ đến ngọn lửa ở Ô Sào đã thiêu trụi tất cả những toan tính của mình bấy nay mà chán ngán. Giá như nghe lời Điền Phong, Thư Thụ thì tình cảnh chẳng đến nỗi này! Thiệu hối hận đến rơi nước mắt. Nhan Lương, Văn Sú tất cả bọn họ đã ra đi!

Viên Thiệu nhìn Mạc Liêu bên cạnh, hỏi gay gắt:

- Điền Phong đâu rồi, Thư Thụ đâu rồi?

Bốn bề yên lặng. Tất cả đã sụp đổ. Thiệu xót xa đứng nhìn Viên Đàm, rồi lại đưa mắt nhìn lên thanh bảo kiếm trên tường. Viên Đàm như hiểu tất cả, vội ôm lấy cha mà khóc.

- Cha! Sống ở rừng xanh, lo gì không có củi đốt. Khi xưa, Hạng Vũ đến Giang Đông thì Đông Sơn nổi dậy. Cha là người có khí phách xin đừng học làm Hạng Vũ!

Viên Thiệu sực tỉnh, nghiến răng nghiến lợi:

- Sẽ có ngày ta lấy đầu giặc Tào cúng tế các tướng sĩ của ta. Sẽ có ngày ta ăn tươi nuốt sống lũ phản thần HứDu, Trương Cáp...

Viên Thiệu hạ lệnh:

- Tất cả rút quân.

Trình Dục ở Quyên Thành, Vu Cấm ở Diên Tân thừa cơ đánh chiếm Lê Dương. Liên quân giữa Tào Nhân và Từ Hoảng đánh chiếm Toan Tảo.

- Tào Tháo đến. "Xẻo mũi" đến!

Binh lính vừa la vừa chạy. Đoàn quân hoàn toàn hỗn loạn, mặc cho Quách Đồ vung gươm ngăn cản.

Mạnh Đức biết Viên Thiệu đang động binh, liên sai Tào Hồng; Trương Liêu, Trương Tú đánh phá đại bản doanh ở Quan Độ của Viên Thiệu. Quân Thiệu không còn ai muốn đánh, bỏ chạy tán loạn. Nghe tin đại bản doanh đã mất, Viên Thiệu không kịp mặc giáp đội mũ, chỉ khoác được cái áo đơn, quấn khăn lên ngựa, con trai cả là Viên Đàm dẫn lũ thị vệ đi theo.

Thiệu vội sang sông, bỏ hết cả sổ sách, xa trượng, vàng bạc. Qua đến bờ bên kia Thiệu chỉ còn có tám trăm kỵ mã đi theo.

Quân Thiệu bị chết đến hơn chục vạn người. Nước sông Tế Thuỷ, Quan Độ thuỷ nhuốm đầy những máu. Đâu đâu cũng đầy những xác chết. Thiệu sai Viên Đàm về Diên Tân kiếm thuyền sang sông. Khi Thiệu kịp đến, thuyền mới có khoảng vài ba mươi chiếc. Binh lính tranh nhau xuống thuyền, vô cùng hỗn loạn. Viên Đàm vung gươm ngăn cản. Kẻ mất đầu, người mất tay, mất tai, rơi xuống nước, tiếng gào thét, tiếng khóc nghe thật thảm thương.

Viên Thiệu vượt sông về đ̓Lê Dương.

Mạnh Đức hạ lệnh:

- Giặc cùng đường không cần đuổi!

Cửa Quan Độ nhộn nhịp một thời.

Thư Thụ bị bắt sống. Tháo vốn trước có quen Thụ nên đến thăm. Thụ trông thấy Tháo liền hét tướng lên:

- Thụ không hàng đâu!

Tháo nói:

- Bản Sơ không dùng lời ngươi, nên mới đến nông nổi này. Nay sao còn chấp nê thế? Nếu ta được ngươi sớm, việc thiên hạ còn gì đáng lo!

Thụ ngẩng đầu, nhìn Tháo bằng nửa con mắt. Tháo suy nghĩ một lát rồi lấy tay làm hiệu cho chém đầu.

Thụ đến chết thần sắc không đổi, vẫn nhắc đi nhắc lại câu nói đó. Tháo sai người làm lễ hậu, chôn ở cửa sông Hoàng Hà, tự tay đề vào mộ mấy chữ: "Trung liệt Thư quân chi mộ".

--------------------------------

1

Đánh vào lòng người trước, công phá thành sau (ND).

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: