Tảo giải - Hồ Chí Minh
GIẢI ĐI SỚM
(Tảo giải)
(Hồ Chí Minh)
I . ĐẶT VẤN ĐỀ .
Giải đi sớm là bài thơ tứ tuyệt liên hoàn, ghi lại cảm xúc của Bác khi bắt đầu một hành trình đày ải từ nhà lao Long An đến nhà lao Đồng Chính vào một đêm cuối thu lanh giá. Bài thơ viết về một cuộc chuyển lao nhưng ta không thấy bóng dáng lính giải tù mà chỉ bắt gặp hình ảnh một người đi xa (chinh nhân) trong tư thế chủ động bình tĩnh, tự tin, vượt qua đêm thu giá lạnh đến với buổi bình minh rực hồng .
Đến với bài thơ ta bắt gặp một người cộng sản giữa gông cùm xiềng xích mà vẫn ngời sáng một niềm lạc quan tin tưởng .
II . GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ .
Hai khổ thơ nhưng thật chất là hai bài thơ tứ tuyệt độc lập, nó bổ sung ý nghĩa cho nhau tạo nên tính hoàn chỉnh của tác phẩm trong một tiến trình vận động mang nhiều yếu tố cảm quan của người chiến sĩ cách mạng .
Bốn câu thơ đầu
Gà gáy một lần đêm chửa tan
Chòm sao đưa nguyệt vượt lên ngàn
Người đi cất bước trên đường thẳm
Rát mặt đêm thu trận gió hàn
Câu thơ đầu đọc lên tưởng chỉ mang giá trị về mặt thời gian, không mang một cảm xúc, một thái độ nào cả bởi ở đó chỉ hiện rõ chức năng thông báo thời gian đang chậm trôi về phía đêm tàn . Nhưng chính nó là sự chuẩn bị cho “chinh nhân” xuất hiện .
Gà gáy một lần, thời gian bây giờ là quá nửa đêm, là lúc đêm chưa tàn nhưng một ngày mới đã bắt đầu . Câu thơ nhấn mạnh ý đi sớm, đi rất sớm để biểu thị cái vất vả, gian khổ trên đường đi đày của người tù Hồ Chí Minh trên đất khách .
Nhưng nếu tách biệt câu đầu ra khỏi câu thứ hai thì dấu ấn sáng tạo của nó sẽ chẳng để lại ấn tượng gì đặc biệt . Để hiểu rõ hơn cần soi nó xuống câu thứ hai :
Chòm sao đưa nguyệt vượt lên ngàn
Câu thơ dịch chưa lột tả hết thần sắc của nguyên tác bởi “ủng” nghĩa là ôm, họp lại, đi theo, bảo hộ… , dịch là đưa, nó thực sự chưa đắt song cũng là cái khó của người dịch . Trước hết đây là một câu thơ tả thực, nhiều trăng và sao trên trời nhấn mạnh thêm ý sớm đã có ở câu đầu . Hơn thế nó thể hiện vẻ đẹp của một hồn thơ tinh tế dễ nhạy cảm với vẻ đẹp của thiên nhiên . Trong cảnh ngộ cô đơn ấy, thiên nhiên thường quạnh hiu, khắc nghiệt , nhưng ở đây qua tâm hồn Người, thiên nhiên trở nên sinh động, thân mật, tươi vui . Sinh động mà không náo nhiệt, tươi vui mà không ồn ào, vẫn giữ được cái yên tĩnh của một buổi sáng sớm . Người lên đường một mình nhưng dường như trăng sao cũng cùng Người lên đường, làm vợi đi nỗi cô đơn trên chặng đường thử thách trước mắt .
Nếu như hai câu đầu nói thời gian và không gian của một cuộc hành trình thì câu thơ thứ ba con người đã trực tiếp xuất hiện với tư thế của một người đi xa
Người đi cất bước trên đường thẳm
Một lần nữa bản dịch lại không lột tả được hết ý của nguyên tác . Chinh nhânlà người đi xa . Chinh đồ là đường xa . Dĩ tại là đã ở . Ý cả câu thơ khẳng định : trời còn rất sớm mà người đi xa đã ở trên trên con đường phải đi xa rồi . Một câu thơ tả thực, không hề có ý định che giấu cái khổ, nhưng quan trọng là không chỉ có thế. Câu thơ còn ẩn chứa một hình ảnh khác lớn hơn và thật hơn : đó là hình ảnh của một chiến sĩ lên đường vì đại nghĩa, lên đường một cách dứt khoát, chủ động . Ở đây con người tự nâng mình vượt lên trên hoàn cảnh, không để cho hoàn cảnh khuất phục mình .
Rát mặt đêm thu trạn gió hàn
Trong nguyên tác là “Nghênh diện thu phong trận trận hàn” . Ngênh diện là hướng mặt về phía trước, là ngẩng mặt lên . Trận trận hàn là từng trận từng trận gió thu lạnh lẽo liên tiếp thổi tới, nó nhấn mạnh cái lạnh lẽo của buổi sớm mùa thu nơi miền đất khách . Người đi không hề rụt rè trước cái khắc nghiệt của thiên nhiên, trái lại chủ động bước tới một cách hiên ngang . Rất tiếc bản dịch đã bỏ mất một chữ trận . Nó không tô đậm được sự ra đi hùng tráng, xông pha của người chiến sĩ .
Trên đường chuyển lao, có sớm, có xa, có gió lạnh, có gian khổ nhưng không xóa nhòa được con người mà chỉ làm cho con người thêm cứng cỏi, vững vàng, kiên quyết, dứt khoát . Đó là hiện thân của chất thép trong tâm hồn ngườichiến sĩ cách mạng Hồ Chí Minh.
Nếu bốn câu thơ đầu là thời điểm đầu của cuộc hành trình đầy gian khổ thì bốn câu thơ sau cảnh vật đã có sự biến đổi :
Phương đông màu trắng chuyển sang hồng
Bóng tối đêm tàn chốc sạch không
Hơi ấm bao la trùm vũ trụ
Người đi thi hững bỗng thêm nồng
Đoạn thơ là một khung cảnh rộng lớn, cảnh sắc chuyển đổi thật mau lẹ . Chân trời mầu trắng nay đã ửng hồng . Một cảnh đẹp và cũng là một niềm vui, là nguồn sinh khí mới . Đấy là sự nhất quán , thống nhất trong thơ văn Bác . Bóng đêm còn sót lại bị quét sạch . Thay thế vào cái giá lạnh là hơi ấm bao la . Hơi ấm của trời đất vừa mới bắt đầu nhưng ấm áp một cách kì lạ và tràn ngập khắp nơi . Sức ấm nóng ấy lan tỏa ra từ tấm lòng, tâm hồn một người chiến sĩ vĩ đại hơn là từ thiên nhiên . Và cũng chính vì vậy mà :
Người đi thi hững bỗng thêm nồng
Cảm xúc vốn đã sớm xuát hiện khi cuộc hành trình mới bắt đầu, giờ đây khi bắt gặp sự vận động đổi thay của vũ trụ, nó lại bùng lên mỗi lúc một rực rỡ hơn, dạt dào hơn .
Bốn câu thơ sau thể hiện sự vận động trong cảm quan nghệ thuật của Bác, nó xuất phát từ chính sự vận động trong tư tưởng của Người : từ bóng đêm tới bình minh, từ màu trắng tăm tối sang mầu hồng lạc quan tin tưởng, từ lạnh lẽo đến ấm áp . Nó không chỉ sưởi ấm lòng người mà còn sưởi ấm cả thế giới tự nhiên, cả vũ trụ .
III . KẾT THÚC VẤN ĐỀ .
Bài thơ là khúc ca lên đường vừa trầm hùng, vừa sảng khoái vui tươi và cuối cùng vút lên nét nhạc chiến thắng hào hùng . Là nét đẹp trong tâm hồn người tù Hồ Chí Minh: luôn lạc qua tin tưởng vào một tương lai tươi sáng .
@. “Giải đi sớm” là chùm thơ hai bài: bài 42 và bài 43. Thi đề trong bài thơ chữ Hán là “Tảo giải”. Bài thơ ghi lại một lần chuyển lao từ Long An đến Đồng Chính, một hành trình xa lắc. Bài “Tảo giải” như một trang ký sự đi đày, đằng su cảnh sắc thiên nhiên hé lộ một hồn thơ khoáng đạt, mạnh mẽ, tự tin, yêu đời. Bài thơ số 42 tả cảnh một đêm tối và con đường đi đày.
Câu 1 tả thời gian bị giải đi, lúc nửa đêm về sáng, khi gà mới gáy một lần, màn đêm con mịt mùng, đêm chưa tan: “Nhất thứ kê đề dạ vị lan”. Âm thanh tiếng gà gáy gợi tả một đêm xa xứ vắng vẻ, tĩnh mịch. Câu 2, tả không gian bầu trời một đêm thu phương Bắc: “Quần tinh ủng nguyệt thướng thu san”. Cảnh có trăng, sao, núi thu. Hình ảnh “Chòm sao nâng vầng trăng lên đỉnh núi thu” là một nét vẽ có hồn, lấy sáng sao, sáng trăng để tả cái mông lung, mịt mù của đêm tối. Trăng sao được nhân hoá. Người tù bị giải đi lúc nửa đêm về sáng đang ngước mắt nhìn lên bầu trời, cảm thấy trăng sao đang đồng hành với mình trên con đường khổ ải xa lắc.
Hai câu 3, 4 nói về con đường đi đày và tâm thế người tù. Người đi xa đang ở trên con đường xa; gió thu tap mặt từng cơn từng cơn lạnh lẽo. Con đường thì xa lắc (chinh đồ). Gió thu phương Bắc lúc nửa đêm về sang thổi tới tấp lạnh lẽo. Gió lạnh và con đường xa gợi tả cái gian khổ, cái thử thách ác liệt đối với “chinh nhân” trong cảnh ngộ tiều tuỵ, áo quần rách tả tơi, chân tay bị xiềng xích. Chữ “chinh” được điệp lại 2 lần trong “chinh nhân” và “chinh đồ”, cùng với 3 tiếng “trận trận hàn” tạo nên âm điệu trầm hùng của một hành khúc đi đày:
“Chinh nhân dĩ tại chinh đồ thượng,
Nghênh diện thu phong trận trận hàn”.
Chữ “nghênh diện” thể hiện một tâm thế rất đẹp của người đi đày làm chủ hoàn cảnh chủ động vươn lên trong gian khổ để đi tới. Đó là chất thép trong “Nhật ký trong tu”. Câu thơ dịch với 2 chữ rát mặt đã làm giảm đi nhièu chất thơ và chí khí hiên ngang của ngươi chiến sĩ.
“Người đi cất bước trên đường thẳm,
Rát mặt đêm thu trận gío hàn”.
“Nhật ký trong tù” có nhiều bài ghi lại cảnh chuyển lao hãi hùng, nhưng người chiến sĩ cách mạng vẫn hiện lên trong tư thế - tâm thế rất đẹp.
“Hôm nay xiềng sắt thay dây trói,
Mỗi bước leng keng tiếng ngọc rung;
Tuy bị tình nghi là gián điệp
Mà như khác tướng vẻ ung dung”.
(Đi Nam Ninh)
Hành trình lưu đày khổ ải cũng là hành trình thơ, tất cả đều thấm bao mau và nươc mắt của người chiến sĩ vĩ đại.
Bài thơ số 43 tả cảnh rạng đông.
Một đêm lưu đày gió rét đã trôi qua, người tù nếm trải bao đau khổ. Trước mắt người đi đày là một rạng đông, một cảnh tượng huy hoàng, tráng lệ. Sự vận động của thiên nhiên được miêu tả bằng ánh sáng, từ hcân trời đến bầu trời. Phương đông mặt trời sắp mọc, từ màu trắng chuyển sang màu hồng. Chỉ một loáng mọi tàn dư của “u ám” đã sạch không. Câu thơ đầy ánh sáng và niềm vui:
“Đông phưong bạch sắc dĩ thành hồng,
U ám tàn dư tảo nhất không”.
(Phương đông màu trắng chuyển sang hồng,
Bóng tối đêm tàn chốc sạch khôg).
“Chinh nhân” bỗng trở thành “hành nhân”, người đi đày hoá thành người đi đón rạng đông, khi mà “hơi ấm bao la trùm vũ trụ”, thi hứng dâng lên dào dạt trong lòng. Tâm trạng sảng khoái, yêu đời. Hành nhân thành thi nhân dang sống trong niềm vui hứng khởi:
“Noãn khí bao la toàn vũ trụ.
Hành nhân thi hứng hốt gia nồng”.
Bài thơ tả cảnh rạng dông này, tứ thơ vận động từ bóng tối đến ánh sáng, từ lạnh lẽo đến ấm áp, như khẳng định một niềm tin vào luật bĩ cực thái lai, vào một bình minh tráng lệ của đất nước, của cách mạng đang đến gần.
Thơ Hồ Chí Minh có nhiều không gian nghệ thuật rạng đông ấm áp, tráng lệ, sáng ngời tinh thần lạc quan yêu đời:
- “Trong ngục giờ đây còn tối mịt,
Ánh hồng trước mặt đã bừng soi”. (Buổi sớm)
- “Thuyền về trời đã rạng đông,
Bao la nhuốm một màu hồng đẹp tươi”(Đi thuyền trên sông Đáy)
Bài thơ “Giải đi sớm” để lại trong tâm trí chúng ta một thời gian nghẹ thuật và một không gian nghệ thuật đầy ấn tượng. Có đêm thu và rạng dông. Có gió rét, con đường xa, có trăng sao, có phương đông màu hòng và có hơi ẩm tràn ngập vũ trụ. Trong đầy đoạ khổ ải, người chiến sĩ cách mạng vẫn ung dung lạc quan, yêu đời. Tương phản giữa màn đêm với một rạng đông màu hồng, tương phản giữa “thu phong trận trận hàn” với “noãn khi bao la toàn vũ trụ”, là những nét vẽ đặc sắc làm hiện len hình ảnh nhà thơ-chiến sĩ có tâm hồn đẹp, khí phách hiên ngang và trí tuệ lỗi lạc. Từ ngục tù tăm tối, Người đã dự cảm một bình minh tráng lệ đang đến với con người và đất nước. Bình minh trong bài thơ “Giải đi sớm” là một đóng góp rất đẹp và nhiều ý nghĩa trong thơ Hồ Chí Minh. “Ngục tối trái tim càng cháy lửa”… đọc “Nhật ký trong tù” ta có cảm nhận ấy. Trái tim cháy lửa chiến đấu cho tự do, cho một rạng đông ấm no, hạnh phúc cho dân tộc:
“Phương đông màu trắng chuyển sang hồng…”
@. I. Mở bài:
"Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong"
Với quan niệm ấy mỗi sáng tác thơ của HCM bên cạnh một chất trữ tình đằm thắm đều có một chất thép cứng cáp đầy bản lĩnh. Bài thơ "Giải đi sớm" (Tảo giải) tiêu biểu cho tâm hồn cho cốt cách truyện nghệ thuật ấy của Bác.
II. Thân bài
1. Xuất xứ bài thơ:
"Tảo giải" là bài thơ số 42 - 43 trong 133 bài thơ của tập "NKTT", được sáng tác khi Bác bị giải đi từ nhà lao Long An đến nhà lao Đồng Chính - nó là nỗi niềm tâm sự, phong thái của HCM trên con đường chuyển lao khắc nghiệt.
2. Bình giảng:
Cảnh ngộ "Giải đi sớm" được mở ra bằng một âm thanh của thiên nhiên buổi sớm, đó là tiếng gà gáy lần thứ nhất - một âm thanh hết sức cổ điển quen thuộc từng vang vọng trong truyện Kiều của Nguyễn Du, trong "tự tình" của Hồ Xuân Hương. Âm thanh ấy làm nổi bật thêm cái tĩnh lặng vô cùng của màn đêm. HCM đã sử dụng một bút pháp nghệ thuật rất quen thuộc trong thơ cổ khi dùng cái động để tả cái tĩnh. Âm thanh tiếng gà cũng thông báo một thời điểm còn rất sớm: Lúc mới quá 1/2 đêm. Chi tiết "Đêm chưa tàn" cho thấy bóng đêm lạnh lẽo còn bao phủ xung quanh còn ám ảnh cả đất trời. Ngòi bút Nhật ký bằng thơ của HCM đã ghi lại rất chính xác thời điểm khung cảnh của cuộc giả tù.
- Nếu dòng thơ đầu được dịch khá chính xác thì dòng hai bản dịch thơ đã đánh mất một từ "thu". Căn cứ vào ý kiến của Giáo sư Đặng Thai Mai cho rằng: Thơ HCM được sáng tác cả theo bút pháp hiện thực và bút pháp tượng trưng, có người đã hiểu dòng thơ này như một hình tượng, có người hiểu dòng thơ này như một hình ảnh tượng trưng, là "nhân dân ủng hộ lãnh tụ", lại có người hiểu đó là hình ảnh "bọn lính áp giải vây quanh người tù nơi đất khách quê người" Thực ra, lời thơ chỉ là một hình ảnh tả thực được ghi lại bằng bút pháp nhật ký. Câu thơ chỉ thông báo một thời điểm còn rất sớm, lúc bấy giờ ngoài trăng sao mọc ra chưa có ai thức dậy cả, chỉ có trăng sao đang hành trình lên đỉnh núi mùa thu. Trong hai dòng thơ ấn tượng về độ sớm được láy lại tới ba lần, một lần qua âm thanh, một lần qua bóng tối và một lần qua ánh sáng của trăng sao. Lời thơ cũng cho thấy thiên nhiên trong thơ HCMthường vận động rất bất ngờ mạnh mẽ khoẻ khoắn, nó cũng cho thấy trong bất kỳ hoàn cảnh nào tâm hồn của nhà nghệ sĩ, nhà CMHCM vẫn luôn lạc quan yêu đời. Trong hoàn cảnh giải tù lạnh lẽo cô đơn người như cũng phát hiện ra những người bạn đồng hành không hẹn trước mà không phải ai xa lạ vẫn là trăng sao - đã trở thànhh người bạn tri âm của nhà thơ.
- Trên cái nền của thời gian không gian cụ thể ấy hiện dần lên hình ảnh cuộc giải tù, bản dịch thơ của từ "đường thẳm" diễn tả rất hay cái sâu -xa vời, cái tối tăm của đường đi nhưng vẫn không đánh mất ý nghĩa xa xôi trong từ "chinh nhân". Trong dòng thơ "người đi xa đã ở trên con đường xa', ấn tượng về sự xa xôi được lặp lại tới hai lần. Bao nhiêu khoảng cách không gian, bao nhiêu bất trắc tăm tối đang đón đợi bước chân người từ phía trước. Bản dịch thơ khi từ "cất bước" cũng diễn ra không thật chính xác của nguyên văn, lời "cất bước" có thể là mới bắt đầu đi còn "dĩ tại" là đã ở trên đường giải tù. Khi gà gáy lần thứ nhất người tù đã ở trên đường, như vậy cuộc giải đi tù có thể còn diễn ra từ trước khi gà gáy lần thứ nhất. ấn tượng về độ sớm trong việc "giải đi sớm" dường như được nhấn mạnh thêm lần nữa.
- Dòng thơ thứ tư trước đây thường được dịch là "Mặt đón" gió thu nồng độ hiểu thái độ hiên ngang của người tù vĩ đại. Nhưng nếu muốn có "mặt đón" trong nguyên văn Bác phải viết là "diện nghênh". ở đây khi dùng từ "nghênh diện", HCM muốn diễn tả thái độ bị động của người tù trước những cơn gió thu lạnh lẽo. Hình ảnh "trận trận hàn" cho thấy bao nhiêu cơn gió thu lạnh lẽo đang táp vào gương mặt của người tù (đang) hơi hướng lên. Bao nhiêu cái lạnh lẽo tăm tối vắng lặng đều hiện lên rất rõ nét trong lời thơ của cả một cảnh "Giải đi sớm" khốn khổ vất vả hiện rõ mồn một. Dù vậy lời thơ vẫn không trở lên yếu hèn bi luỵ. Sự láy lại của các từ "chinh nhân", "chim đồ", "trận trận" mang lại âm hưởng mạnh mẽ khoẻ khoắn cứng cáp khiến cho lời thơ không phải là tiếng hát đi đày mà là một hành khúc lên đường.
b. Tứ thơ "giải đi sớm" sẽ không hoàn chỉnh nếu thiếu bài hai:
"Đông phương bạch sắc chỉ thành hồng
U ám tàn dư tảo nhất không
Noãn khí bao la toàn vũ trụ
Hành nhân thi hứng hốt gia nồng"
- Nếu ở trên cái nhìn của Bác dường như bao quát cả toàn cảnh thời gian không gian thì ở đây chủ yếu hướng về phương Đông - phương của hướng mặt trời mọc, của sự sống. Bản dịch thơ khi dịch là " Phương đông màu sắc chuyển sang hồng" đã nhấn mạnh quá trình chuyển hoá từ màu trắng sang sắc hồng. Trong nguyên văn với từ "dĩ thành" lời thơ của Bác lại nhấn mạnh đến kết quả quá trình chuyển hoá ấy: Phương đông màu trắng đã thành hồng. Trong cái cảm nhận của HCM, màu đen của bóng đêm đã một lần bị thay thế bởi sắc trắng bây giờ bị thay thế hoàn toàn một lần nữa bởi sắc hồng. Cả vũ trụ chỉ còn ngời lên một màu hồng tươi tắn rực rỡ sáng láng nhiều tin tưởng lạc quan.
- Thiên nhiên trong thơ HCM luôn được cảm nhận trong sự mạnh mẽ khoẻ khoắn triệt để, sự vận động này còn được xác nhận một lần nữa bởi dòng thơ sau:
"Bóng tối đêm tàn chốn sạch không"
Nếu ở trên bóng tối và sự lạnh lẽo vây bủa xung quanh thì ở đây hơi ấm đã thay thế hoàn toàn khí lạnh, sắc hồng của ánh sáng và hơi ấm của khí trời đã len lỏi vào mọi ngóc ngách bao phủ nơi nơi.
=> Ba dòng thơ câu nào cũng diễn tả sự thay đổi mạnh mẽ đột ngột bất ngờ của thiên nhiên mà ở đó ánh sáng thắng bóng tối, hơi ấm thắng lạnh lẽo, khí dương thắng khí âm, gợi nên bao nhiêu tin tưởng lạc quan hi vọng.
Song hành tương xứng với sự vận động mạnh mẽ bất ngờ của thiên nhiên là sự vận động đổi thay mạnh mẽ của con người. Nếu ở trên Bác cảm nhận mình là "chinh nhân" (Người đi), bao nhiêu sự xa xôi diệu vợi đã lùi lại đằng sau. Nói đến "thi hứng" là nói đến hứng làm thơ, đến tư cách nhà thơ. Chi tiết "hốt gia nồng" (Bỗng thêm nồng) cho thấy thi hứng vốn đã có sẵn nơi tâm hồn HCM, bây giờ bỗng trở lên càng nồng nàn hơn, mãnh liệt hơn trước sự thay đổi đột ngột đến bất ngờ của thiên nhiên.
Dù mang nhan đề "giải đi sớm" nhưng tư cách "tù nhân" chỉ xuất hiện một lần duy nhất trong nhan đề của bài thơ, còn suốt toàn bộ bài thơ HCM luôn cảm nhận mình là "chinh nhân" "hành nhân" "thi nhân" - cũng có nghĩa luôn coi mình là "tự do nhân" (người tự do).
Cả bài thơ dường như không có chuyện giải đi mà chỉ có chuyện một bức tranh thiên nhiên buổi sớm rất tươi đẹp với sự vận động biến chuyển bất ngờ được cảm nhận tinh tế qua tâm hồn nghệ sĩ tài hoa độc đáo của HCM. Trong bài thơ Bác hiện lên như một người đang đi ngoạn cảnh, đi đón bình minh đón hửng đông, người đã quên đi cảnh giải tù khắc nghiệt khổ cực mất tự do để đắm mình vào một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp nồng nàn sinh khí đầy hơi ấm và ánh sáng. HCM vẫn "tự do thưởng ngoạn vô nhân cấm" (Tự do thưởng ngoạn không ai cấm đoán). Bài thơ " Tảo giải" vì vậy không chỉ cho thấy một tâm hồn yêu nước yêu đời thiết tha say đắm với thiên nhiên, vô cùng nhạy cảm tinh tế mà còn là bản lĩnh tự do cứng cỏi, là cuộc vượt ngục tinh thần độc đáo của HCM.
- Đề tài đi sớm đường xa xuất hiện đặc biệt phổ biến trong thơ ca cổ kim xưa nay và dường như đã sống lại một lần nữa trong tứ thơ của HCM. Người yêu thơ từng biết đến "cao sơn tảo hoành" (Đi sớm trên núi cao) của Ôn Đình Quân, "Tảo phát Bạch đế thành" của Lý Bạch (Buổi sớm ra đi thành Bạch đế)… nhưng nếu ở những bài thơ trên còn nói đến "sầu", "hận" "oán", "bi" thì trong bài thơ của Bác chỉ có sự lặng lẽ không lời. HCM đã kế thừa truyền thống cổ điển quen thuộc của thơ ca, đồng thời đổi mới mạnh mẽ truyền thống ấy bằng tâm hồn nghệ sĩ, bằng bản lãnh nhân cách của một người tù cộng sản.
III. Kết bài
"Giải đi sớm" không chỉ là một bức tranh thiên nhiên buổi sớm vưa mới mẻ độc đáo vừa cổ điển quen thuộc được cảm nhận qua hồn thơ tinh tế nhạy cảm giàu cảm xúc chất nghệ sĩ của Bác mà còn là một cách tự khẳng định sự tự do tinh thần, bản lĩnh cứng cáp, nhân cách cao cả của người tù cộng sản. Vì vậy, dù cả bài thơ không có một chữ thép, nhưng bên cạnh một chất trữ tình sâu sắc đằm thắm "giải đi sớm" vẫn nồng nàn chất thép đúng như lời nhận xét của Hoài Thanh: "Khi Bác nói trong thơ có thép, ta cũng cần tìm hiểu thế nào là thép ở trong thơ. Có lẽ phải hiểu một cách rất linh hoạt mới đúng. Không phải cứ nói chuyện thép, lên giọng thép mới có tinh thần thép"
@. * Câu phá đề:
“Gà gáy một lần đêm chửa tan”
- Câu thơ đọc lên hiển hiện ngay khoảng thời gian rất sớm
- “Gà gáy” làm lay động không gian và thời gian, đặc biệt là sự chuyển động của thời gian, xua tan đi cái tĩnh lặng của đêm tối
- “Đêm chửa tan” chứ không phải “đêm không tan”…Đó là sự vận động tất yếu của tự nhiên, vũ trụ…Đó là cảm quan luôn nhìn về phía ánh sáng trong tâm hồn lạc quan của thi sĩ.
- Cách cảm nhận thời gian từ một tiếng gà, là cách cảm nhận thời gian rất dân tộc mang màu sắc Á Đông truyền thống
- Câu thơ gợi cảm xúc thính giác (Hoàn cảnh giải đi sớm vô cùng khắc nghiệt, ức chế con người vì thời gian lúc này là thời gian nghỉ ngơi )
* Câu thứ hai:
“Chòm sao nâng nguyệt vượt lên ngàn”
- Ngoài trăng sao ra không có ai thức dậy cả, ấy thế mà người tù bị giải đi trên đường, câu thơ gợi cảm giác thị giác.
- “Quần” và từ “ủng” nghĩa quấn quýt xum vầy…không cô đơn, gợi cảm giác một không gian cao rộng vừa yên tĩnh, vắng lặng mà không quạnh hưu. Tầm nhìn của thi sĩ cao vòi vọi…Tư thế khoan thai ung dung, lạc quan.
* Câu thứ ba: mới đề cập tới việc bị giải đi, nhưng câu thơ không nói chút gì về việc bị giải cả, mà như nói một khách chinh phu nói chung.
- Người đi xa đã ở trên đường xa “Người đi cất bước trên đường thẳm”. Mới bắt đầu đi mà đã thấy đường xa rồi.
- Những từ “Chinh nhân” “chinh đồ” gợi lại bao cảnh người đi trên đường xa trong quá khứ (câu thơ có cái nhìn siêu cá thể)
- Câu này nguyên văn là “Nghênh diện thu phong trận trận hàn”. (Không dịch chính xác)
Chẳng hạn “Mặt đón gió thu từng trận, từng trận lạnh”. “Nghênh diện”: là phả vào mặt, thổi ngược vào mặt.
“Rát mặt, đêm thu, trận gió hàn”.
* Câu thứ tư:
- Cả câu có nghĩa là: từng cơn gió thu lạnh buốt lạnh phả vào mặt Câu thơ nói về xúc giác.
- “Nghênh diện” diễn tả tư thế đối mặt, đón nhận một cách chủ động, bình tĩnh, tự nhiên không thách thức.
Tiểu kết :
- Bài thơ có vẻ đẹp trầm tĩnh kín đáo, mang cốt cách Đường thi.
- Bức tranh tả thực, ngôn ngữ giản dị súc tích, chủ yếu nói về đêm tối gió lạnh, trên con đường đầy ải xa thẳm.
- Bức tranh tả thực, ngôn ngữ giản dị súc tích, chủ yếu nói về đêm tối gió lạnh, trên con đường đầy ải xa thẳm.
Bài thứ hai:
Phương đông màu trắng chuyển sang hồng,
Bóng tối đêm tàn, sớm sạch không;
Hơi ấm bao la trùm vũ trụ,
Người đi, thi hứng bỗng thêm nồng.
Nguyên tác:
Đông phương bạch sắc dĩ thành hồng,
U ám tàn dư tảo nhất không;
Noãn khí bao la toàn vũ trụ,
Hành nhân thi hứng hốt gia nồng.
- Cả bài truyền đạt một sự thay đổi, bừng sáng, đột ngột, mau lẹ (chữ đã, chữ sớm nói rõ điều này) toàn diện và triệt để.
- Nguyên tác “màu trắng đã thành hồng” tức là không còn màu trắng nữa.
- Câu hai nói tàn dư bóng tối đã biến mất từ bao giờ.
- Câu ba “Hơi ấm bao la trùm vũ trụ”, toàn bộ , không còn lạnh nữa…
Chính lúc này thi hứng của nhà thơ trở nên nồng nàn, Nhà thơ cảm thấy không phải giải đi đến nơi tù ngục, mà đi đón bình minh, đón hừng đông , đón ngày mới.
- Bài thơ kết thúc bằng hai câu thơ tràn đầy sức nồng ấm của tạo vật chan hoà với thi hứng nồng nàn của thi sĩ.
- Ý nghĩa thẩm mĩ hiện lên trong bức tranh vẫn là sức toả sáng của một nhân cách, một hồn thơ và bản lĩnh kiên cường của chiến sĩ.
- Tảo giải là một bài thơ đi đầy mà như một hành khúc lên đường trầm hùng ở giai đoạn đầu, tươi vui sảng khoái, ấm áp và cuối cùng vút lên nốt nhạc chiến thắng của một ý chí
- Sự tương phản giữa thực tế khổ ải và tự do nội tâm, khẳng định một cốt cách bình tĩnh ung dung chủ động trước những thử thách ngang trái của cuộc đời. Đứng trước nghịch cảnh đó , Người luôn nhìn đời từ phía tươi sáng lạc quan.
III.Tổng kết :
- Bài thơ là một bức tranh phong cảnh sớm mai bao la, hùng vĩ, khí dương thắng khí âm, ánh sáng thắng bóng tối, ấm áp thắng lạnh lẽo, đem lại hứng khởi sảng khoái, lạc quan một ngày mới.
- Thiên nhiên gợi cho tác giả niềm tin vào quy luật bĩ cực thái lai trong đời sống xã hội, vào tương lai cách mạng nước nhà
Đánh giá thơ Bác nhà nghiên cứu Lê Đình Kỵ có nhận xét:
- “Thơ Bác giản dị quá, bình thường quá, nhiều khi ta không sao hiểu ngay và hiểu hết được. Nhưng rồi nghĩ đến đời hoạt động của Bác, bình sinh của Bác càng đọc ta càng thêm thấm thía cái bình dị lớn lao của cuộc đời ấy, của tâm hồn, của thơ ca ấy…Thơ Bác là sự kết tinh, là sự hài hoà giữa lãnh tụ và nhân dân, giữa thời đại và dân tộc, giữa chính trị và tình người, giữa cao siêu và bình dị, giữa đa dạng và thống nhất.”
Tôi đọc trăm bài trăm ý đẹp
Ánh đèn toả rạng mái đầu xanh
Vần thơ của Bác vần thơ thép
Mà vẫn mênh mông bát ngát tình
(Hoàng Trung Thông - Đọc thơ bác)
@. I. Phân tích
A – Khổ 1
1) Hai câu thơ đầu
Nhất khứ kê đề dạ vị lan
Quần tinh ủng nguyệt thướng thu san
- Tiếng gà: yếu tố chỉ thời gian, cho thấy thời điểm lên đường là từ rất sớm.
- Dạ vị lan: khung cảnh đêm tối gợi ra sự tối tăm, hoang vắng, vẽ ra hoàn cảnh của nhân vật trữ tình: lẻ loi, mệt mỏi, không được nghỉ ngơi.
Bình:
Trước hết, bài thơ mở đầu không phải là hình ảnh con gà mà là tiếng gà gáy. Một chi tiết thuộc về âm thanh mà trong xã hội nông nghiệp phương Đông nó như là một tín hiệu ước lệ về thời gian. Chinh phụ ngâm có câu:
“Gà eo óc gáy sương năm trống
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên”
Hay trong bài thơ “Vịnh canh năm”, Lê Thánh Tông ghi lại khoảnh khắc trời sáng:
“Bóng ác rạng đông trời đã sáng
Tiếng gà sôi nổi tiếng hàn châm”
Như vậy trở lại "Tảo giải", ta có thể hiểu, người tù cộng sản bắt đầu bài thơ đi đày của mình bằng cách giới thiệu một tín hiệu thời gian. Một lối vào đầu đậm chất ước lệ cổ điển.
Tthời điểm gà gáy được người tù ghi lại cùng với khoảnh khắc vắng lặng, tối tăm, lạnh lẽo của một chuyến áp tải tù nhân từ rất sớm. Trong không gian mà bóng tối của màn đêm vẫn còn bao phủ ấy, tiếng gà vừa như xé toạc đi sự yên tĩnh nhưng cũng vừa nhấn mạnh rằng vạn vật vẫn còn chìm trong giấc ngủ. Lòng người dễ trở nên se sắt, tê tái hơn khi ở thời điểm khắc nghiệt kia, người tù bị buộc phải lên đường. Hình ảnh thật đắt đã khắc họa sức chịu đựng phi thường của một phẩm chất cộng sản đáng quý
Em thử tìm ra những điểm khác biệt giữa nguyên tác và bản dịch câu thơ thứ 2 về mặt hình ảnh, từ ngữ
- Quần tinh, ủng nguyệt: câu thơ thứ hai mở ra đột ngột với hình ảnh của ánh sáng (sao, trăng), hình ảnh “chòm sao nâng vầng trăng hướng về đỉnh núi mùa thu” là một hình ảnh sống động, vừa lãng mạn vừa rất thực (bản dịch chưa chuyển tải được cái thực), cho thấy cái nhìn, tâm hồn của thi nhân luôn hướng tới ánh sáng, tìm kiếm cái đẹp.
Giảng: nguyên tác thướng thu san xuất hiện trong tứ thơ xuất phát từ hiện thực trên đường chuyển lao có trăng sao, đồng thời gợi ra con đường đêm tối giữa chốn núi đèo gian khổ. Bản dịch làm giảm bớt cường độ ánh sáng trong nguyên tác (quần tinh), vừa làm câu thơ mất đi cái tính thực vốn có (đỉnh núi mùa thu -> ngàn) ->mất đi hoàn cảnh câu thơ: núi đèo gian khổ, vừa giảm tính thi vị của ý thơ: cảnh một đêm thu và trăng sao trữ tình. Câu thơ thứ hai cho thấy với Hồ Chí Minh, cái Đẹp luôn là người bạn đồng hành, cùng Người vượt bao gian khó.
Bình: Từ câu 1 sang câu 2, mạch thơ có sự biến chuyển từ đêm tối lạnh lẽo sang ánh sáng ấm áp, cái đẹp đã làm nguôi ngoai cái giá lạnh của đêm tối. Có thể nói, trong hoàn cảnh đơn độc, Bác vẫn không bao giờ đơn độc, con người ấy vẫn luôn chủ động trong mọi tình thế.
Câu thơ thứ ba có những từ nào được lặp lại nhiều lần? Tác dụng của sự lặp lại ấy là gì?
2) Hai câu thơ sau
Chinh nhân dĩ tại chinh đồ thượng
Nghênh diện thu phong trận trận hàn
- Chinh nhân – chinh đồ (người đi – đường thẳm): hình ảnh một chiến sĩ trên bước đường chiến đấu.
- Nghênh diện (ngẩng mặt): gợi nên tư thế (≠ rát mặt: gợi nên cảm giác)
- Chinh chinh – trận trận: âm điệu thơ rắn rỏi, mạnh mẽ.
Bài thơ mở đầu với hoàn cảnh tù đày nhưng âm hưởng, nhịp điệu, hình ảnh thơ vẫn mạnh mẽ làm cho bài thơ có không khí hào hùng, thể hiện được vẻ đẹp và khí thế của người tù – người chiến sĩ Hồ Chí Minh: hoàn cảnh dù có cam go đến mấy, người chiếm sĩ vẫn dũng cảm đi tới với niềm tin, lí tưởng.
Giảng: bản dịch người đi, đường thẳm, rát mặt không gợi nên được khí thế hùng tráng của câu thơ. Chinh nhân vốn là một từ thường xuất hiện trong thơ ca cổ, chỉ người đi xa làm những công việc lớn lao. Chinh đồ chính là con đường mà người chinh phu cần phải vượt qua. Nghênh diện là tư thế hiên ngang, sẵn sàng đối mặt. Hai câu thơ dựng nên tư thế hiên ngang của người chiến sĩ sẵn sàng đối mặt với khó khăn thử thách trên con đường cách mạng mà chính mình đã lựa chọn.
Khổ thơ thứ hai có sự chuyển biến mạnh mẽ về mọi mặt so với khổ 1. Em hãy tìm kiếm và liệt kê sự biến chuyển ấy trong ba câu thơ đầu
1) Ba câu thơ đầu
Đông phương bạch sắc dĩ thành hồng
U ám tàn dư tảo nhất không
Noãn khí bao la toàn vũ trụ
- Dĩ thành: sự chuyển biến triệt để, hoàn toàn:
U ám, tăm tối -> tươi sáng, hồng tươi
Gió lạnh -> tảo nhất không (hoàn toàn thanh khiết), noãn khí
Toàn vũ trụ
Cảnh ban mai tươi sáng rạng rỡ, thay thế hoàn toàn đêm đen lạnh lẽo, không còn sự mệt mỏi của một đêm dài tù đày vất vả, thay vào đó là niềm vui trước một ngày mới.
Bình: Khung cảnh có sự thay đổi triệt để, sinh khí lan tỏa từ cảnh đến người, từ người vào cảnh. So với khổ thơ 1, sự thay đổi này hết sức mạnh mẽ, phù hợp với con người Bác: cái nhìn của Người luôn hướng tới sự sống, ánh sáng và tương lai. Bình minh trong thơ Người bao giờ cũng tươi tắn, rạng rỡ, tràn đầy sức sống bởi vì nó xuất phát từ một tâm hồn luôn tràn đầy tin tưởng, lạc quan yêu đời, nói như Hoài Thanh: “ Không thể nào có được nét bút hoành tráng nếu không có sẵn trong lòng một niềm tin sắt đá về một bình minh lớn lao trong lịch sử ”
Khổ thơ cuối có sự thay đổi về cách gọi chủ thể trữ tình. Sự thay đổi ấy là gì và nó có ý nghĩa ra sao?
2) Câu cuối
Hành nhân thi hứng hốt gia nồng
- Chinh nhân -> hành nhân: có sự thay đổi trong tâm thế: người đi trở nên thư thái, nhẹ nhàng hơn.
- Hốt gia nồng: cảm xúc thơ thêm đậm. Cảnh đêm tối mà thành thơ thì là do thi hứng trong lòng nhà thơ chứ không phụ thuộc vào hoàn cảnh.
Khổ thơ thứ hai vẽ nên một khung cảnh đẹp đẽ, một bức tranh tươi sáng không vướng vất một chút âm u, buồn bã. Gam màu nồng ấm đã tuhay thế cho gam màu xám lạnh. Đó là bài thơ của một thi sĩ gắn bó với đời, có nghị lực lớn lao biết vượt lên hoàn cảnh và vượt lên chính bản thân mình.
Bình: con người chiến sĩ đã nhường bước cho con người thi sĩ. Thực ra, chính con người chiến sĩ mạnh mẽ, bản lĩnh đã làm nền cho con người thơ cất cánh, bay bổng, thăng hoa. Đó chính là biểu hiện cái tinh thần “thép”.
I. Tổng kết
Bài thơ mang đậm màu sắc cổ điển từ thi tứ, ngôn ngữ đến kết cấu, đồng thời có sự kết hợp hài hòa với tinh thần hiện đại. Bài thơ là bức tranh liên hoàn chuyển sắc từ cảnh nửa đêm sang cảnh bình minh. Trong đó chủ thể trữ tình tuy dấn bước trên con đường đầy khó khăn nhưng vẫn thật ung dung chủ động với niềm tin thắng lợi ở tương lai.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top