K
Trao duyên
Nguyễn Du là một đại thi hào của dân tộc Việt Nam. Tên tuổi của nhà thơ không chỉ nổi tiếng trong nước mà còn vang xa trên thi đàn thế giới. Sở dĩ tác giả đạt được niềm vinh quang đó là vì ông đã có một sự nghiệp sáng tác giá trị, trong đó xuất sắc nhất là Truyện Kiều - tác phẩm lớn nhất của nền văn học Việt Nam, song tác phẩm này còn thành công ở gá trị nghệ thuật, nghệ thuật thơ lên đến đỉnh cao. Đặc biệt là nghệ thuật diển tả tâm trạng nhân vật. một trong những đoạn trích đặc sắc nhất về cuộc độc thoại nội tâm đó chính là trao duyên được trích từ câu 723 đến câu 756 trong truyện kều .
Mặc dù nhan đề đoạn trích là Trao duyên nhưng trớ trêu thay đây không phải là cảnh trao duyên thơ mộng của những đôi nam nữ mà ta thường gặp trong ca dao xưa. Có đọc mới hiểu được, "Trao duyên", ở đây là gửi duyên, gửi tình của mình cho người khác, nhờ người khác chắp nối mối tình dang dở của mình. Thúy Kiều trước phút dấn thân vào quãng đời lưu lạc, bán mình cứu cha, nghĩ mình không giữ trọn lời đính ước với người yêu, đã nhờ cậy em là Thúy Vân thay mình gắn bó với chàng Kim. Đoạn thơ không chỉ có chuyện trao duyên mà còn chất chứa bao tâm tư trĩu nặng của Thúy Kiều. Đoạn trích Trao duyên thể hiện bi kịch tình yêu, thân phận bất hạnh và nhân cách cao đẹp của Thúy Kiều, đồng thời cho thấy khả năng miêu tả nội tâm nhân vật tài tình của Nguyễn Du
I
16 câu thơ đầu là tâm trạng của kiều khi trao dyên và trao kỉ vật cho em mình
Hai 2 câu đầu là lời nói và hành động của Thúy Kiều trước khi trần tình với Thúy Vân về lời đề nghi trao duyên và câu chuyện tình dang dở của mình
Thúy Kiều hiểu trao duyên là chuyện vô cùng tế nhị nên đã lựa chọn từ ngữ phù hợp để tạo nên sắc thái trang trọng cho cuộc đối thoại.
"cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa"
"cậy" được hiểu là nhờ vả, là trông cậy gửi gắm niềm tin ,sự tin tưởng trông vào mối quan hệ ruột thịt. Nguyễn Du đã không dùng từ "nhờ" vì động từ này không thể thổ lộ được hết sự tha thiết trong lời nói của Kiều, càng không thể diễn tả được không khí trang trọng của buổi trao duyên. Từ "cậy" mang âm trắc, mới cho thấy lòng tin, nỗi đau đớn, quằn quại trong nội tâm nhân vật trữ tình.. " Chịu" là nhận lời chấp nhận nhưng trong câu thơ trên từ "chịu" cho thấy sự nài ép, bắt buộc trong lời Kiều, khiến Vân không nhận không được. Thúy Kiều đã lấy tình cảm chị em thân thiết để ràng buộc Thúy Vân. Không giống với từ "nhận", chỉ đơn thuần là sự chấp nhận lời đề nghị, là đồng ý tự nguyện giúp đỡ, từ "chịu" còn cho thấy Kiều thấu hiểu nỗi khổ của em khi phải mang thiệt thòi về mình. Âm trắc của từ này cũng giúp nó truyền đạt những tâm tư nặng nề, khó nói nên lời của nhân vật trữ tình.
. Hai từ "cậy" và "chịu" được Nguyễn Du lựa chọn sau một quá trình sàng lọc kĩ càng. Điều này cho thấy sự tinh tế, cầu toàn của nhà thơ trong việc sử dụng ngôn từ.
Từ "lạy" cho thấy Kiều đã đặt mình vào vị trí người chịu ơn, thành kẻ bề dưới nhún nhường, trong tư thế cầu xin, lụy phiền vì nàng biết, trong cuộc trao duyên này, Thúy Vân là người chịu thiệt thòi hơn cả. Động từ này khéo thể hiện sự thuyết phục trong hành động của Kiều, lại thể hiện sự thấu hiểu sâu sắc của nàng về tình cảnh của em.
* Từ "thưa" cho thấy sự kính trọng, biết ơn của Kiều đối với Vân. Âm bằng của từ "thưa" giúp người đọc cảm nhận sự đau thương, xúc động và xót xa trong những lời nàng sắp nói, tạo nên khúc ngắt nhịp nghẹn ngào, ứ đọng cảm xúc.
Là một người chị đáng ra chẳng bao giờ phải cậy nhờ hay vái lạy em mình cả thế nhưng ở đây Kiều trao duyên hay chính là đang nhờ Thúy Vân thay mình đền đáp tấm chân tình với Kim Trọng. Những từ "cậy", "ngồi lên", "lạy", "thưa" là những từ để chỉ thái độ kính trọng của người dưới đối với người trên thế mà ở đây bị xáo trộn. Thúy Kiều là chị nhưng lại phải lạy em cậy nhờ. Cái "cậy" kia mang ý nghĩa ép buộc Thúy Vân phải làm nhiều hơn là nhờ. Nói là nhờ thì lại rất bình thường nhưng nói là cậy thì cái nhờ vả kia lại nặng hơn gấp bội. Dùng ngôn ngữ như thế tác giả có ý muốn nói đến sự cậy nhờ em của Thúy Kiều. Nàng thành khẩn giống như cầu xin em mình để đền đáp tình cảm cho chàng Kim bốn từ "cậy", "chịu", "lạy", "thưa" thể hiện sự khẩn khoản, thiết tha của Kiều; tạo không khí trang trọng, thiêng liêng; tô đậm bi kịch cuộc đời nàng.
Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em"
Sau những lời rào trước đón sau, kể lại nỗi bất hạnh của mình, bằng sự khẩn khoản van nài, Kiều trực tiếp xin Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng.Ngay từ lời khi cất lời nhờ cậy, Kiều đã rất khéo léo và tế nhị, dùng những lời lẽ giàu sức thuyết phục cũng không kém phần chân thành, tin tưởng.
"Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em."
* Điển cố "keo loan": Keo loan là thứ keo được pha từ máu chim loan để nối dây cung, dây đàn. Đến với tác phẩm của Nguyễn Du, bằng sáng tạo của đại thi hào, keo loan trở thành thứ keo gắn kết tơ duyên, tình cảm: Kiều muốn nói với em hãy thay mình kết duyên với chàng Kim.
* Cụm từ "chắp mối tơ thừa" vừa cho thấy sự thấu hiểu, cảm thông sâu sắc của Thúy Kiều với nỗi khổ tâm, sự thiệt thòi của Thúy vân; vừa bày tỏ lòng luyến tiếc, chua xót của Kiều khi tơ duyên đứt đoạn.
* Hai từ "mặc em" thể hiện sự phó mặc, ủy thác của Kiều cho Vân.
Ngay từ lời khi cất lời nhờ cậy, Kiều đã rất khéo léo và tế nhị, dùng những lời lẽ giàu sức thuyết phục cũng không kém phần chân thành, tin tưởng.
Là người con có hiếu, Kiều đã tự nguyện bán mình để lấy ba trăm lạng cứu cha và em khỏi vòng tội tù oan nghiệt. Chữ hiếu nàng đã đáp đền, còn chữ tình vẫn canh cánh bên lòng như một món nợ nặng nề khó tả:
Trong những giây phút đau đớn tột cùng, Thúy Kiều vẫn quên mình để nghĩ đến người yêu. Nỗi buồn cửa nàng cần phải được san sẻ cho vơi bớt. Sau cái phút ban đầu khó nói, giờ đây nàng bộc bạch với em gái về môi tình đẹp đẽ mà dang dở của mình.
"Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.
Sự đâu sóng gió bất kỳ,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai."
Trong quá khứ Kiều kiau62 là một cô gái hạnh phúc bên mối tình đầu – Kim Trọng. Phép tiểu đối "ngày quạt ước", "đêm chén thề" vẽ nên khung cảnh nên thơ, lãng mạn của đôi oanh yến Kim Kiều sau buổi đầu gặp mặt buổi thanh minh. Hai người đã cùng nhau uống rượu thề nguyền, hẹn ước "trăm năm tạc một chữ đồng đến xương". Điệp từ "khi" lặp lại ba lần nhấn mạnh vào tình yêu quấn quít, da diết, nồng đậm, sâu sắc của nhân vật trữ tình. Nàng tiếc nuối chuỗi ngày hạnh phúc tươi đẹp, trong sáng ấy.
Nhưng hiện tại với loạt những cụm từ mang tính đối lập là "khi gặp chàng Kim" với "sóng gió bất kỳ" và "khi ngày", "khi đêm" với "đứt gánh tương tư" tô đậm hoàn cảnh trớ trêu, số phận bi thương của Kiều, nới rộng ranh giới giữa quá khứ vui tươi và thực tại đau buồn của nàng.
Những câu chữ mang âm hưởng thành ngữ ca dao với các từ Hán Việt diễn tả những biến cố bất ngỡ, bất hạnh lớn trong cuộc đời người con gái tài sắc; làm cho cuộc đối thoại của Kiều với em vừa giản dị, gần gũi, lại không kém phần trang trọng, nghiêm túc.
Thúy Kiều đã kể nhanh những sự kiện mà Thúy Vân cũng đã chứng kiến. Chuyện gặp chàng Kim trong buổi chiều thanh minh. Chuyện kể nguyền hẹn ước với Kim Trọng. Chuyện sóng gió của gia đình. Mối tình giữa Kim Trọng và Thúy Kiều là một mối tình trong sáng và đẹp đẽ nhất. Vậy nên Thúy Kiều khó lòng chia tay Kim Trọng. Nàng đã rất đau khổ, rất xót xa khi phải trao duyên cho Thúy Vân .Nàng như thể hiên được cái nỗi đau xót của bản thân mình khi tình duyên lỡ dở. Chính vì chữ hiếu mà nàng hi sinh chữ tình phụ chàng Kim. Và có lẽ thế nàng vừa đau xót cho thân mình vừa đau đớn cho cuộc tình dang dở. Chàng Kim ấy vẫn đang chịu tang nơi quê nhà không hề hay biết những chuyện nơi đây. Nàng chỉ mong Vân có thể nối duyên bù đắp những gì của mình vẫn còn dang dở. Chính vì thế mà Kiều mong Vân chấp nhận sự cậy nhờ của mình mà chắp mối tơ loan với chàng Kim Trọng. Sự ngậm ngùi ấy được phát ra từ những câu thơ trên. Dù cho là chị em nữa nhưng phải gượng ép trao đi thứ mình không muốn trao và thứ mà người ta không muốn nhận thì chẳng khác nào mất đi một thứ quý báu. Vân ngây thơ phúc hậu cũng chỉ biết là Thúy Kiều cậy nhờ mình chứ nào đâu hiểu hết được.
Là người con có hiếu, Kiều đã tự nguyện bán mình để lấy ba trăm lạng cứu cha và em khỏi vòng tội tù oan nghiệt. Chữ hiếu nàng đã đáp đền, còn chữ tình vẫn canh cánh bên lòng như một món nợ nặng nề khó tả:
"Hiếu tình khôn dễ hai bề vẹn hai"
Qua lời Thúy Kiều, Nguyễn Du đay nghiến cả một xã hội. Hiếu – tình là hai giá trị tinh thần không thể đặt lên bàn cân được. Một xã hội bắt con người phải lựa chọn những giá trị không thể lựa chọn được thì xã hội đấy là một xã hội tàn bạo. Thúy Kiều đã cay đắng lựa chọn chữ "hiếu". Mà chỉ có ba điều tồn tại: "Đức tin, hi vọng và tình yêu, tình yêu vĩ đại hơn cả". Nghe một lời trong Kinh Thánh như vậy, chúng ta càng thấm thía với nỗi đau của nàng Kiều.
Cho nên hy sinh chữ tình, nàng Kiều coi như không tồn tại trên cõi đời này nữa. . Nhưng trước khi nàng phải từ bỏ tất cả theo Mã Giám Sinh để có thể chuộc cha, thì nàng đã phải dùng mọi lời lẽ để nhờ Thúy Vân giúp mình trả nghĩa cho Kim Trọng. Nàng dùng lời an ủi, động viên Vân bằng những lời thuyết phục những lời lẽ rất thiết tha.
"Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây."
Rõ ràng cả hai chị em cùng đến tuổi xuân xanh đang tràn đầy sức sống của tuổi thanh xuân, tuổi biết yêu thương lấy một người nào đó. Vậy mà Kiều lại nói là tuổi xuân của Thúy Vân còn dài trong khi mình thì nào có khác đâu. Nói như thế để cho thấy Kiều như đã xác định được con đường mà nàng sắp phải đặt chân đến, không yên bình như những ngày tháng trước đây nữa mà sóng gió có thể mang cô đi bất cứ lúc nào
"Ngày xuân em hãy còn dài": Kiều nói rằng Vân còn trẻ, có thời gian, có tương lai. Cũng như Vân, Kiều đang ở độ tuổi xuân sắc "hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh", nhưng những biến cố bất ngờ ập đến đã cướp đi cái đẹp tinh khôi, trong sáng, khiến tâm hồn nàng trống rỗng; có thể về mặt thể chất, Kiều vẫn xinh đẹp lỗng lẫy như hoa mùa xuân, nhưng nàng đã già đi, đã héo úa về mặt tinh thần. Vì vậy, nàng cho rằng giờ đây chỉ còn Thúy Vân mới xứng với Kim Trọng.
"Xót tình máu mủ thay lời nước non": Kiều xin Vân hãy vì tình chị em, ruột thịt mà đồng cảm, thấu hiểu và giúp đỡ mình. Kiều đã không để đáp lại tình cảm của Kim Trọng nên đành phó mặc tất cả cho người em gái duy nhất là Vân. Vân nào có thể khước từ lời nhờ cậy, ủy thác của người thân thiết, gần gũi với mình nhất?
* Những cụm từ "thịt nát xương mòn", "ngậm cười chín suối" ám chỉ rằng Kiều đang nghĩ đến cái chết. Lời nhờ vả của nàng bây giờ tựa như lời trăn trối nghẹn ngào. Hình ảnh "ngậm cười" dưới cõi chết khiến Kiều trở nên đáng thương hết sức – nàng lặng lẽ nhận nỗi đau về mình, cố gắng tỏ ra vui lòng nếu Kim Trọng và Thúy Vân đến với nhau.
Nếu được như thế thì ngay cả khi những sóng gió kia bủa vây lấy nàng cướp nàng đi khỏi thế gian này. Mặc cho sang thế giới bên kia không còn nguyên vẹn thì Kiều cũng cảm thấy thơm lây cái sự hi sinh của em gái cho mình.
"Chiếc vành với bức tờ mây,
Duyên này thì giữ vật này của chung."
Thông thường, khi nhờ cậy được ai việc gì mà người đó đã nhận lời giúp đỡ, ta hẳn phải cảm thấy nhẹ nhõm, thoải mái và phấn khởi. Nhưng lạ thay, trong trường hợp của Kiều, khi lời đề nghị Vân thay mình trả nghĩa Kim Trọng được em đồng ý, nàng mới nhận thức sâu xa hơn bi kịch tình yêu của mình. Kiều quyết định trao lại kỉ vật ước hẹn giữa mình và chàng Kim để tự nhắc bản thân thôi ảo giác người yêu vẫn còn là của mình, đang ở bên cạnh mình. Nhưng cảm giác mất mát, xót xa, hụt hẫng đã choán lấy tâm hồn nàng.
* "chiếc vành
* "bức tờ mây":
Kỉ vật hiện hữu trong thực tại: Hình ảnh vòng xuyến và bức tờ mây gợi ra quá khứ hạnh phúc, mặn nồng của Kim Kiều, đồng thời khép lại quá khứ tươi đẹp ấy bằng hiện tại đớn đau: Kiều trao những món đồ hẹn ước đã chứng giám cho tình yêu đẹp giữa mình và Kim Trọng vào tận tay Thúy Vân, làm quà đính hôn cho duyên mới.
"của chung": "Của chung" này đã không còn là vật ước chung đôi với chàng Kim mà riêng Kiều nắm quyền sở hữu, mà còn có cả phần của Vân trong đó. Hay "của chung" nay đã trở thành minh chứng tình yêu mới giữa chàng Kim và Thúy Vân mà Kiều vẫn dùng dằng nắm giữ. Kỉ vật thề ước là của chung, nhưng nỗi đau Kiều lại lẵng lẽ giữ cho riêng mình.
Câu thơ này đã cho thấy Mâu thuẫn nội tâm Thúy Kiều: Nàng muốn làm tròn nghĩa vụ với chàng Kim, cắt đứt duyên cũ, nối duyên mới, muốn trao kỉ vật của hai người cho em để bản thân không còn ảo tưởng và thương nhớ. Nhưng bên cạnh đó, Kiều lại không muốn dứt bỏ tình yêu đầu trong sáng, đẹp đẽ của mình, vẫn còn hướng tới Kim Trọng. Trong Kiều là cuộc đấu tranh dữ dội giữa lí trí và tình cảm. Nàng day dứt, dùng dằng, lưu luyến, nuối tiếc, tay đã buông nhưng trái tim vẫn nắm. Trong mớ cảm xúc hỗn độn khó nói nên lời ấy, Kiều càng thấu bi kịch số phận mình, càng đau đớn, tuyệt vọng, thương thân.
* Điệp từ "này" khắc họa hình ảnh Thúy Kiều đáng thương, tội nghiệp vừa muốn bỏ, vừa muốn giữ tình cảm đã không còn là của riêng mình. Động tác trao gửi của nàng cứ nhập nhằng, chần chừ mãi không thôi. Điệp ngữ còn tạo giọng điệu trầm bổng, khiến lời thoại của Kiều vừa giống như một tiếng nấc nghẹn ngào, lời than thở đắng cay.
"dù em nên vợ nên chồng
xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên"
Điệp từ "nên" nhấn mạnh vào tương lai được ấn định của Kim Trọng và Thúy Vân, tương lai không có Thúy Kiều trong đó. Mỗi chữ "nên" là một lần con dao số phận cứa vào trái tim nàng đau nhói. Nàng hình dung ra viễn cảnh hạnh phúc của người yêu và em gái mà xót xa cho chính mình.
* "Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên": Kiều tự nhận mình là hồng nhan bạc phận, là kẻ bất hạnh, "giật mình mình lại thương mình xót xa". Kiều vẫn mong trong quãng thời gian tươi vui sắp tới của Kim, Vân, nàng không bị lãng quên.
=> Sau khi đưa tận tay kỉ vật đôi lứa cho Vân, nỗi đau, sự bất lực trước số phận nghiệt ngã của Kiều không dừng lại, mà còn được tô đậm thêm. Bóng dáng nàng Kiều nhỏ bé, đáng thương, tội nghiệp là dấu ấn khó phai trong lòng người đọc "Truyền Kiều".
Kiều thật chua chát, tủi buồn. Nỗi đau như đọng lại ở câu thơ "dù em nên vợ nên chồng" trao duyên cho em rồi, cũng đả trao lại những kỉ vật cho em với những lời lẽ hết sức tin tưởng, khẩn khoảng,ấy thế mà Kiều vẫn đặt ra giả thuyết như có điều gì đó vẫn chưa ổn,chưa yên. Kiều tự thấy mình đáng thương, mình là người mệnh bạc để người khác phải xót xa thương hại. Những kỉ vật tình yêu thiêng liêng đối với Kiều giờ đã thành quá khứ xa xôi, kiều quá đau khổ quá xót xa nghẹn ngào cho số mệnh của mình
Qua đoạn trích "Trao duyên", ta nhận thấy Nguyễn Du thật sự là một bậc đại tài trong việc thấu hiểu từng khía cạnh tinh tế nhất của tâm can con người. Chính sự thấu hiểu sâu sắc ấy cùng với nghệ thuật dùng từ điêu luyện, đã khiến tác phẩm của Nguyễn Du· tồn tại như một giá trị vĩnh cửu vượt qua tất cả thử thách khắt khe của thời gian, để lại ấn tượng mạnh mẽ trong lòng đối tượng tiếp nhận, đã khiến cho triệu vạn người phải rơi nước mắt khóc than cho số phận nàng Kiều:
P��6��r
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top