tâm lý học đám đông

Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

1

Mục lục

Lời tựa: Thời đại của đám đông ......................................................................... 4

Tập 1 - Tâm hồn đám đông  .................................................................................... 9

Chương 1: Các đặc  tính chung của đám đông. Quy  luật  tâm  lý học về sự đồng

nhất tâm hồn của đám đông  ................................................................................ 9

Chương 2: Tình cảm và đạo đức của đám đông ................................................14

Chương 3: Những ý tưởng, những lập luận và trí tưởng tượng của đám đông  ...25

Chương 4: Những hình thức tôn giáo có trong tất cả các niềm tin của đám đông

  ..........................................................................................................................30

Tập 2 - Các quan điểm và đức tin của đám đông  ...................................................33

Chương 1: Những động lực từ xa của các đức tin và quan điểm của đám đông  .33

Chương 2: Những động lực trực tiếp của các quan điểm của đám đông  ............43

Chương 3: Những lãnh đạo của đám đông và phương tiện thuyết phục của họ  .51

Chương 4: Ranh giới của sự  thay đổi của các quan điểm nền  tảng và các nhận

xét của đám đông  ..............................................................................................62

Tập 3 - Phân loại và mô tả các dạng khác nhau của đám đông  ..............................69

..............................................................................................................................69

 Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

2

LỜI GIỚI THIỆU

Gustave Le Bon (1841 - 1931) là nhà tâm lí học xã hội nổi tiếng người Pháp với lí thuyết về

đám đông. Ông viết về nhiều  lĩnh vực và có ảnh hưởng  rất  lớn  trong xã hội Pháp đương  thời.

Những tác phẩm nền tảng nhất của Le Bon là Quy  luật tâm lí về sự tiến hoá của các dân tộcách

mạng Pháp và tâm lí học về các cuộc cách mạng (La Révolution française et  la psychologie des

révolutions, 1912) và Tâm lí học đám đông (La Psychologie des foules, 1895). Các tác phẩm khác

của Le Bon bao gồm: Tâm lí học về chủ nghĩa xã hội (Psychologie du socialisme, 1898), Bài học

tâm  lí  từ  cuộc  chiến  tranh  châu Âu  (Enseignements  psychologiques de  la  guerre  Européenne,

1915), Tâm lí học thời đại mới (La psychologie des temps nouveaux, 1920) và Một thế giới mất cân

bằng (Le déséquilibre du monde, 1924)... (Les Lois psychologiques de l’évolution des peuples, 1894), C

Le Bon tập trung nghiên cứu về tính cách và tinh thần của các dân tộc, những ưu thế và

quá trình phát triển của các chủng tộc. Ông đặt lên hàng đầu khái niệm vô thức tập thể mà chính

Freud đã thừa nhận vai trò của nó đối với các nghiên cứu về phân tâm học của mình. Le Bon cho

rằng con người được xác định bởi những nhân tố sinh học và tâm lí học. Trong những quy luật

lớn thường xuyên chỉ đạo sự tiến triển chung của mỗi nền văn minh, “những quy luật phổ biến

nhất, khó quy giản nhất được sinh ra từ cấu tạo tinh thần của những chủng tộc” (Quy luật tâm lí

về sự tiến hoá của các dân tộc). Thực ra, mỗi dân tộc “đều có một cấu tạo tinh thần cố định như

tính chất giải phẫu học của nó” (sách đã dẫn), được biểu hiện trong “tâm hồn” nó. Tất cả các thể

chế, niềm tin, mọi nghệ thuật của một dân tộc, chỉ là “mạng lưới hữu hình trong tâm hồn vô hình

của nó”. Chủng  tộc cũng núp bóng  trong mỗi cá nhân cấu  thành một dân  tộc; nó chi phối mọi

hành động, mọi ham muốn, mọi xung năng của anh ta, nó tạo nên vô thức tập thể của anh ta.

Trong khi đó, thời đại của Le Bon đã chứng kiến bản chất di truyền của chủng tộc bị lung

lay với sự lớn mạnh của đám đông và những bất ổn về chính trị, xã hội. Ông đã trải nghiệm qua

Công xã Paris năm 1871 và nghiên cứu rất kỹ về cuộc Cách mạng Pháp năm 1789 và 1848. Những

trải nghiệm ấy mang  lại kinh nghiệm  thực  tiễn cho việc hình  thành  tư  tưởng về đám đông của

ông. Tư tưởng ấy được thể hiện rõ rệt nhất trong tác phẩm Tâm lí học đám đông.

Theo Le Bon, những đám đông  luôn bị vô  thức  tác động, họ xử sự như người nguyên

thuỷ, người dã man, không có khả năng suy nghĩ, suy luận, mà chỉ cảm nhận bằng hình ảnh, bằng

sự liên kết các ý tưởng; họ không kiên định, thất thường, và đi từ trạng thái nhiệt tình cuồng loạn

nhất đến ngây dại ngớ ngẩn nhất. Vả  lại, do thể tạng của mình, những đám đông ấy cần có một

thủ lĩnh, một người cầm đầu, kẻ có thể dẫn dắt họ và cho bản năng của họ một ý nghĩa. “Những

người cầm đầu hiện nay càng có khuynh hướng thay thế quyền lực công thì quyền lực công càng

bị chất vấn và suy yếu đi. Sự bạo ngược của những ông chủ mới này làm đám đông ngoan ngoãn

vâng lời họ hơn cả khi họ đã từng vâng lời chính quyền’’ (Tâm lí học đám đông, tr.183). Vậy nên,

thời hiện đại được định tính bằng sự lên ngôi của những đám đông được người cầm đầu dẫn dắt.

Và trong thời đại hỗn loạn và lo âu ấy, bằng việc đánh mất lí tưởng của mình, chủng tộc đã đánh

mất tâm hồn mình và lại trở thành đám đông. ”Nền văn minh chẳng có sự cố định nào, bị phó mặc

cho mọi ngẫu nhiên. Bọn tiện nhân thành bà hoàng và những kẻ dã man tiến lên” (Tâm lí học đám

đông, tr.309).

Ngày nay, lí thuyết của Le Bon vẫn chịu một số chỉ trích. Ông được coi là người đặt nền

móng cho chủ nghĩa quốc gia hiện đại. Nhưng dù thế nào đi nữa thì Le Bon cũng chỉ là “con đẻ”

của thời đại ông. Nỗi lo sợ về nạn bạo lực, sự hoành hành, chứng khủng bố của những đám đông

thể hiện rất rõ trong lí thuyết của ông. Ông dường như đã quá phóng đại về nguy cơ bạo lực và

sự vô lí của đám đông. Tuy vậy, cuốn sách này thực sự là tác phẩm quan trọng và có ảnh hưởng

lớn  tới  tư  tưởng  thời đại của Le Bon nói chung cũng như  tâm  lí học hiện đại nói  riêng. Dù  tán

thành hay phản đối, dù đôi chỗ Le Bon có phần cực đoan, và những quan điểm, luận thuyết của

ông còn phải tranh luận, nhưng NXB Tri thức cũng xin mạnh dạn giới thiệu tác phẩm của Le Bon

với độc giả Việt Nam như một cái nhìn  tham khảo. Hơn nữa, việc xem xét,  tìm hiểu nhiều học

thuyết trên  thế giới,  thậm chí  trái ngược, mâu  thuẫn với nhau  thiết nghĩ  là điều  rất hữu  ích cho

các sinh hoạt tri thức của Việt Nam, làm đa dạng hoá và phong phú thêm tri thức của người Việt Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

3

Nam. Trên  tinh  thần đó, chúng  tôi sẽ  tiếp  tục cho  ra mắt bản dịch cuốn Trí  tuệ đám đông  (The

Wisdom of Crowds), một  trong những  cuốn  sách bán  chạy nhất năm  2005, mang một  cái nhìn

khác với cái nhìn của Le Bon về đám đông, để độc giả có thêm thông tin khách quan về chủ đề

này.

Trong khi đọc cuốn sách này, xin độc giả lưu ý rằng cụm từ chủ nghĩa xã hội (socialisme)

mà Le Bon nhắc đến ở đây có hàm ý là chủ nghĩa xã hội không tưởng đã tồn tại từ thế kỉ XVI đến

thế kỉ XIX ở Tây Âu, chứ không đồng nghĩa với khái niệm chủ nghĩa xã hội khoa học của Marx và

Engels mà Lenin đã vận dụng để xây dựng nên Liên bang Xô viết và trở thành nền tảng tư tưởng

của phe xã hội chủ nghĩa được hình thành sau Chiến tranh thế giới thứ hai.

Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc!

Tháng 6/2006

     Nhà xuất bản Tri thức

 Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

4

Lời tựa: Thời đại của đám đông

Sự phát triển của thời đại ngày nay

Những chấn động  lớn đi  trước  những  bước  ngoặt văn  hóa,  thoạt nhìn dường  như chúng được

quyết định  bởi  những  thay đổi quan  trọng về chính  trị:  sự  xâm  lăng  lẫn  nhau của các dân  tộc

hoặc sự sụp đổ của của các triều đại. Song khi quan sát chúng kỹ hơn một chút sẽ phát hiện thấy

cái nguyên nhân đứng đằng sau những cái dường như  là nguyên nhân kia mới chính  là nguyên

nhân  thực sự, đó  là sự  thay đổi một cách sâu  sắc các quan điểm của dân chúng. Những cái đó

không phải những chấn động  lịch sử thực sự, những chấn động đã  làm cho ta ngạc nhiên bởi sự

vĩ đại và cường độ mạnh mẽ của nó. Những sự thay đổi duy nhất có ý nghĩa - là những thay đổi

nảy sinh từ sự đổi mới về văn hóa - xảy ra bên trong các quan điểm, bên trong các khái niệm và

niềm tin. Những sự kiện lịch sử đáng để ý là những tác động nhìn thấy được của những thay đổi

vô hình trong tâm trí con người. Nếu những sự kiện to lớn đó ít xảy ra, nó cũng có nguyên nhân

của nó, đó  là,  trong một chủng  tộc không có gì bền vững hơn  là di sản  tâm  tư mà nó được kế

thừa.

Thời đại  hiện  nay  tạo nên một  trong những  thời  điểm quyết định,  tại đó đó  tư duy con  người

cũng trong quá trình tự thay đổi.

Do những tư tưởng của quá khứ mặc dù đã bị phá vỡ phần  lớn nhưng vẫn còn rất mạnh mẽ, và

những tư tưởng cần có để thay thế chúng  lại đang trong quá trình hình thành, cho nên thời hiện

nay là chu kỳ chuyển tiếp và hỗn loạn.

Cái gì rồi sẽ sinh ra  trong giai đoạn  tất yếu mà  tương đối rối  loạn này,  trong chốc  lát không dễ

dàng nói được. Trên cơ sở những nền tảng tư tưởng nào xã hội tương  lai sẽ được tạo dựng nên?

Chúng  ta chưa biết. Nhưng ngay bây giờ  ta có  thể dự đoán được  rằng, cái xã hội  tương  lai đó

trong tổ chức của nó sẽ phải tính tới một quyền lực mới, là chủ nhân ông  trẻ nhất thời nay: đó là

quyền lực của đám đông. Trên đống hoang tàn của rất nhiều tư tưởng một thời được coi là chính

thống và giờ đây đã đi vào dĩ vãng, biết bao nhiêu  loại quyền  lực  lần  lượt bị cách mạng đè bẹp,

chỉ một mình quyền lực mới này vươn dậy và dường nhưng chẳng bao lâu nữa nó sẽ muốn nuốt

chửng những cái khác. Trong khi mọi quan điểm cũ của chúng ta lung lay và biến mất, những trụ

cột xưa của xã hội nối tiếp nhau sụp đổ, thì quyền lực của đám đông là lực lượng duy nhất không

gì có thể đe dọa được và uy quyền của nó ngày càng phát triển không ngừng. Thời đại chúng ta

đang bước vào trên thực tế sẽ là thời đại của đám đông.

Trước đây non một thế kỷ những động  lực chủ yếu của các sự kiện nằm ở trong chính sách ban

hành của các nhà nước và  trong sự  tranh giành giữa các  lãnh chúa. Ý kiến của đám đông  trong

hầu hết các trường hợp đều chẳng có giá trị gì. Ngày nay việc ban hành chính sách, nguyện vọng

cá nhân của các nhà lãnh đạo và sự tranh giành giữa họ chỉ còn có rất ít tác động. Tiếng nói của

người dân đã chiếm ưu thế. Nó quyết định sự hành xử của vua. Trong tâm hồn của đám đông giờ

đây số phận của dân chúng được định đoạt chứ không còn ở trong những hội nghị của các  lãnh

chúa nữa. Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

5

Sự bước chân vào đời sống chính trị của tầng lớp nhân dân, sự chuyển biến không ngừng của họ

thành  tầng  lớp  lãnh đạo,  là một  trong những dấu hiệu nổi bật nhất của  thời kỳ chuyển  tiếp của

chúng  ta. Bước đi này này không được đánh dấu bởi quyền phổ  thông đầu phiếu,  là cái quyền

một  thời gian dài có  rất  ít  tác dụng và buổi đầu  rất dễ bị  lèo  lái. Sự  ra đời của quyền  lực đám

đông bắt đầu trước hết từ sự lan  truyền của những  luồng  tư tưởng nào đó, chậm chạp chiếm cứ

đầu óc mọi người, sau đó qua sự kết hợp dần dần  từng con người một để hiện  thực hóa những

quan điểm  cho đến  lúc  này  vẫn còn  là  lý  thuyết. Sự  liên kết  tạo điều kiện  cho đám đông  xây

dựng nên những ý tưởng xuất phát từ những quyền  lợi của nó, tuy rằng chúng có thể chưa đúng

hẳn nhưng  ít nhất cũng hoàn toàn có căn cứ và tạo điều kiện cho họ ý thức được sức mạnh của

mình. Họ lập nên những Syndicat, trong đó tất cả những kẻ có quyền bị biến thành nô lệ, họ lập

nên những chợ  lao động trong đó tất cả luật pháp kinh tế để giám sát điều kiện  lao đông và tiền

lương bị bỏ qua. Họ đuổi cổ những nghị viên không có tinh  thần  làm việc,  thiếu  tính  tự chủ ra

khỏi nghị viện và hạ nhục những kẻ thường chỉ biết làm người phát ngôn cho những ủy ban mà

họ đã từng bầu ra.

Giờ đây những đòi hỏi của đám đông ngày một rõ rệt hơn và mục đích của nó  là  lật đổ toàn bộ

xã hội hiện hành, để đem vào thứ chủ nghĩa cộng sản dốt nát, điều thông thường vẫn có trong tất

cả các cộng đồng loài người thời tiền sử. Giảm giờ làm, tịch thu hầm mỏ, đường sắt, xí nghiệp và

ruộng đất, chia đều thành quả lao động, tiêu diệt các tầng lớp trên vì quyền lợi của tầng lớp nhân

dân v.v...- đó là những đòi hỏi của họ.

Càng ít khả năng suy nghĩ một cách hợp lý đám đông càng có xu hướng lớn thiên về hành động.

Tổ chức  làm gia  tăng  sức mạnh của họ một cách khủng khiếp. Những  tín điều mới  xuất hiện,

chẳng bao lâu nữa chúng sẽ chiếm giữ quyền lực của những tín điều già cỗi, có nghĩa là, thế lực

cai  trị độc đoán tự rút  lui khỏi mọi cuộc xung đột. Quyền  lực  tối cao của đám đông sẽ  thay  thế

cho quyền lực tối cao của nhà vua.

Những văn sĩ đươc giới  tư sản yêu  thích nhất hiện nay, những  người vạch ra một cách rõ ràng

nhất những hạn chế  trong  tư tưởng  , những quan điểm  thiển cận, chủ nghĩa hoài nghi  tất cả và

tính  ích kỷ nhiều khi quá đáng của đám đông, đã hoàn  toàn sửng  sốt  trước một quyền  lực mới

đang rõ ràng lớn mạnh, để chống lại sự bối rối họ hướng tới kêu gọi một cách tuyệt vọng những

thế lực đạo đức của nhà thờ, cái mà một thời họ luôn đánh giá thấp. Họ bàn cãi về sự phá sản của

khoa học và nhắc nhở chúng ta về những  lời dạy của thánh nhân. Nhưng những kẻ cải đạo mới

này đã quên mất một điều rằng, ơn trên nếu thực sự phù hộ họ, sự tác động của nó vào tâm hồn

họ không giống  như  vào  tâm  hồn  những kẻ  hầu  như  chẳng quan  tâm gì đến  thánh  thần. Đám

đông ngày nay đã chán ngấy thánh thần, đấng đã từng giúp họ chối bỏ và thanh toán những ông

chủ của họ ngày xưa. Mọi dòng sông không bao giờ quay trở lại nguồn của nó.

Khoa học không gây  ra  sự phá  sản  và chẳng dính dáng gì đến  sự hỗn  loạn  tinh  thần  hiện  nay

cũng như không  liên quan gì tới cái quyền  lực mới sinh ra từ bên trong sự hỗn  loạn đó. Nó hứa

hẹn cho chúng ta sự thật hoặc  ít nhất những kiến về các mối  liên quan mà chúng ta có thể hiểu;

nó chưa bao giờ hứa hẹn với chúng  ta về hòa bình và hạnh phúc. Trong sự  lạnh  lùng cao ngạo

đối với tâm tư của chúng ta nó chẳng hề nghe chúng ta than vãn, chẳng có gì có thể  lấy  lại cho

chúng ta những ảo tưởng mà nó đã phá vỡ.

Đám đông là kẻ tàn phá văn hóa Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

6

Hiên tượng chung, thể hiện ở tất cả các dân tộc cho ta thấy sự lớn lên nhanh chóng của quyền lực

đám đông. Bất kể nó đem lại những gì, chúng ta sẽ đều phải chịu đựng nó. Mọi lời kết tội chỉ là

những câu chuyện vô  ích. Có  thể sự  lên ngôi của đám đông  là một trong những nấc  thang phát

triển cuối cùng của văn hóa phương Tây,  là sự quay trở về cái thời hỗn  loạn vô phương hướng,

thường là dấu hiệu báo trước một thời đại mới huy hoàng của xã hội. Nhưng làm cách nào để có

thể ngăn cản nó?

Cho đến nay rõ ràng rằng nhiệm vụ của đám đông nằm ở trong cái công cuộc hủy diệt vĩ đại này

đối với những nền văn hóa cũ. Lịch sử dạy chúng ta rằng, trong khoảnh khắc tại đó các lực lượng

lành mạnh, xương sống của xã hội, mất đi quyền thống trị, đó là  lúc sự phá hủy cuối cùng được

thực hiên bởi đám đông vô  thức và  thô bạo, những kẻ xứng đáng được gọi  là man rợ. Cho đến

nay  tất cả các nền văn hóa đều do một nhóm nhỏ những  trí  thức  tiêu biểu nhất tạo nên và định

hướng, không khi nào chúng được tạo nên bởi đám đông. Đám đông chỉ có sức mạnh tàn phá. Sự

thống trị của nó  luôn có nghĩa  là một thời kỳ của sự phá hoại. Văn hóa cần phải có các quy tắc

chặt chẽ, coi trọng văn minh, cải biến tội phạm thành người  lương thiện, có phương hướng cho

tương lại và nhìn chung phải có một trình độ giáo dục cao - đó là những đòi hỏi đám đông tự nó

không bao giờ đáp ứng nổi. Chỉ được trang bị sức mạnh tàn phá đám đông giống như những con

vi trùng, chúng có nhiệm vụ đẩy nhanh sự phân hủy những cơ thể yếu kém hoặc những xác chết.

Nếu môt khi ngôi nhà văn hóa trở nên mục nát, đám đông sẽ là kẻ làm giúp cho nó sụp đổ hoàn

toàn. Giờ đây nhiệm vụ chính của đám đông đã lộ rõ. Bỗng nhiên quyền lực mù quáng của đám

đông trong giây lát đã trở thành cái triết lý duy nhất của lịch sử. 

Liệu nó cũng sẽ diễn ra như vậy đối với nền văn hóa của chúng ta? Sợ rằng sẽ thế, tuy nhiên cái

đó chúng ta chưa biết.

Chúng  ta phải biết chấp nhận để có  thể chịu đựng được sự  thống  trị của đám đông, bởi những

cánh tay thiếu thận trọng sẽ dần dần kéo sụp tất cả các rào cản có khả năng chống đỡ. 

Chúng ta hiểu cái đám đông này, về nó người ta giờ đây đang nói rất nhiều. Những nhà chuyên

môn  tâm  lý học, không sống gần đám đông,  thường bỏ qua không chú ý đến nó, và nếu có, họ

chỉ chú  trọng đến những hành động  liên quan  tới  tội ác,  là cái  thuộc vào khả năng của nó. Rõ

ràng rằng có nhiều đám đông  tội phạm, nhưng cũng có những đám đông đạo đức, anh dũng và

còn có nhiều đám đông kiểu khác nữa. Tội ác của đám đông chỉ tạo nên một trường hợp đăc biệt

trong cuộc sống  tâm hồn của nó và những  tội ác đó không giúp cho việc nhận ra bản chất  tinh

thần của cuộc sống tâm hồn đám đông rõ hơn so với của một cá nhân, nếu như chỉ biết đến các

tính xấu của nó.

Song rõ ràng phải  thừa nhận rằng: Tất cả các ông chủ  trên  trái đất,  tất cả những người  lập nên

các tôn giáo và các đế chế, các thánh tông đồ của tất cả các tín ngưỡng, những nhà lãnh đạo quốc

gia  lỗi  lạc và,  trong một phạm vị nhỏ, những  tù trưởng của một bộ  lạc,  tất cả những người này

luôn là những nhà tâm lý một cách vô thức, trong bản năng họ đều có những hiểu biết thường rất

chắc chắn về tâm hồn đám đông; bởi có sự hiểu biết tốt như vậy cho nên họ mới có thể dễ dàng

trở  thành những nhà cầm quyền. Napoleon đã nắm bắt một cách  tuyệt diệu  tâm hồn đám đông

của người Pháp, nhưng ông ta cũng thường hiểu sai tâm hồn của những chủng tộc khác lạ [1]. Sự

thiếu hiểu biết này đã đưa ông ta tới việc tiến hành chiến tranh tại Tây Ban Nha, tại Nga, là bước

mở đầu cho sự sụp đổ của ông ta. Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

7

Đám đông và người lãnh đạo quốc gia

Kiến thức tâm  lý về đám đông ngày nay  là phương tiện cuối cùng của người  lãnh đạo quốc gia,

với  nó cho dù có  thể không chế  ngự được đám  đông  - điều  ngày  càng  trở nên  rất khó khăn  -

nhưng ít ra cũng vì muốn để ít bị nó chế ngự.

Tâm lý đám đông cho thấy, sự tác động của thiết chế và luật pháp vào bản chất tự nhiên của đám

đông đặc biệt yếu ớt như thế nào, và nó chỉ ra rằng đám đông không có khả năng có những quan

điểm riêng ra sao, ngoại trừ những điều được đưa vào từ bên ngoài. Những luật lệ dựa trên lương

tri  thuần  túy không  thể quản  lý được họ. Chỉ có những ấn  tượng người  ta cấy đặt vào  tâm hồn

của họ mới có thế quyến rũ họ mà thôi. Ví dụ một nhà  lập pháp khi muốn ra một điều  luật thuế

mới  liệu có được phép chọn giải pháp  về  lý  thuyết  là công  bằng  nhất không? Không bao giờ.

Điều luật bất công bằng nhất đám đông có thể lại cho là tốt nhất, nếu như nó xuất hiện một cách

nhẹ  nhàng  và không quá  lộ  liễu. Bằng cách  này  cho dù một  sự  tăng  thuế gián  tiếp có  thể cao

chưa  từng  thấy  nhưng  vẫn  được  đám  đông  chấp  nhận.  Nếu  như  hàng  ngày  ta  chỉ  thu  thêm

khoảng vài xu cho các mặt hàng  tiêu dùng, điều này không ảnh hưởng  tới  thói quen  tiêu dùng

của họ và họ cũng chẳng  thấy phiền hà gì. Ngược  lại nếu người  ta  trừ một  lần vào  lương hoặc

vào  thu nhập một khoản  tiền  thuế  tương đương, về  lý  thuyết  làm như vậy có  thể mười  lần nhẹ

nhàng hơn cách thức kia nhưng nó vẫn gây nên sự phản kháng mạnh mẽ. Thay vì mỗi ngày mất

một vài xu, điều người ta không cảm nhận thấy, thì việc lấy đi một tổng lượng tiền tương đương

nhằm ngày phát  lương tạo ra cảm giác như bị mất một khoản tiền  lớn và có ấn tượng rất mạnh.

Việc tiêu tiền chỉ có thể không cảm thấy, nếu mỗi ngày ta để dành ra một vài xu; Một cung cách

về kinh tế như vậy thể hiện cái sự lo xa, điều mà đám đông không có khả năng.

Thí dụ trên lột tả rõ ràng cái trí tuệ của đám đông. Họ sẽ không thoát khỏi tay những người hiểu

biết tâm  lý như Napoleon, nhưng những nhà  làm  luật,  là những người không quan tâm đến tâm

hồn đám đông, sẽ không bao giờ hiểu được họ. Kinh nghiệm chưa chứng minh cho các nhà  làm

luật một cách đầy đủ để có thể thấy được con người không bao giờ để cho những quy định thuần

túy lý tính dẫn dắt.

Vì  lẽ đó  tâm  lý học đám đông còn có  thể có  ích cho nhiều  lĩnh vực khác nữa. Những  hiểu biết

của nó sẽ soi sáng nhiều hiện  tượng  lịch sử và kinh  tế, mà  thiếu nó chúng sẽ mãi mãi ẩn mình

trong bóng tối.

Ngay cả khi chỉ để thỏa mãn sự tò mò của chúng ta, việc quyết định nghiên cứu tâm lý học đám

đông cũng rất đáng nên  làm, bởi rất chi  là  thú vị khi khám phá được những động  lực  thúc đẩy

hành động con người, giống như khi khám phá ra những đặc tính của khoáng chất hoặc của cây

cối.

Việc nghiên cứu tâm hồn đám đông của chúng tôi sẽ có thể chỉ cung cấp một cái nhìn ngắn gọn,

một bài tóm tắt những công trình nghiên cứu của chúng tôi. Người ta không được phép đòi hỏi ở

nó những gì nhiều hơn là những sự gợi ý. Những người khác sẽ khảo sát lĩnh vực này tốt hơn [2].

Hiện nay nó vẫn là mảnh đất còn trinh trắng để cho chúng ta cày xới. 

____________________________ Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

8

[1]  Tuy  nhiên  những  cố  vấn  thông  minh  nhất  của  ông  ta  cũng  không  hiểu  vấn  đề  tốt  hơn.

Talleyrand viết cho ông ta rằng, Tây Ban Nha sẽ chào đón quân lính của ông ta như những người

giải phóng. Nó đã đón họ như những con thú dữ. Một nhà tâm  lý học hiểu biết về tính di truyền

bản năng của chủng tộc có thể dễ dàng thấy trước được sự chào đón thực tế sẽ như thế nào. 

[2] Một số ít tác giả, chuyên tâm nghiên cứu về tâm lý học đám đông, chỉ nặng khảo sát về khía

cạnh tội phạm của nó. Bởi vì tôi chỉ đề cập một cách ngắn gọn đến lĩnh vực này, cho nên tôi giới

thiệu với độc giả nên đọc thêm các công trình của Tarde và các bài viêt của Sighele: "Đám đông

tội ác". Công  trình cuối cùng không hề có một ý  tưởng nào mới của  tác giả, nhưng cho ra một

tóm  tắt về những sự kiện mà những nhà  tâm  lý học có thể khai  thác sử dụng. Tuy nhiên những

kết  luận của  tôi về  tội phạm và đạo đức của đám đông hoàn  toàn  trái ngược với hai  tác giả nêu

trên.

Người  ta sẽ  tìm  thấy  trong các công  trình khác nhau của  tôi, đặc biệt  là  trong bài viết "Tâm  lý

học của chủ  nghĩa  xã  hội", một vài kết quả  từ những quy  luật chi phối  tâm  lý  học đám đông.

Những quy luật này ngoài ra cũng còn có thể vận dụng vào những lĩnh vực hoàn toàn khác. Ông

giám đốc nhạc viện hoàng gia tại Brussel, A. Gevaert, đã sử dụng những quy luật mà tôi đã diễn

đạt vào trong một luận văn về âm nhạc, với cái tên rất chính xác "Nghệ thuật đám đông" do ông

đặt ra, để tạo nên một ứng dụng có giá trị rất đặc biệt. "Hai bài viết của ông", ông giáo tuyệt vời

này đã viết trong  luận văn gửi cho tôi, "đã giúp cho tôi giải quyết được một vấn đề mà mãi đến

trước đây  tôi vẫn nghĩ  là không có  lời giải: ứng dụng được một cách đáng ngạc nhiên với hết

thảy các đám đông, để cảm nhận được một bản nhạc, mới hoặc cũ, trong nước hay nước ngoài, 

đơn giản hay phối hợp với điều kiện  là nó phải được chơi hay và các nhạc sĩ phải có một nhạc

trưởng nhiệt tình". Ông Gevaert đã chỉ ra rất chuẩn, tai sao "một tác phẩm, được các nhạc sĩ tài

ba xem xét về phối khi trong phòng riêng của họ sẽ mãi mãi không ai khác ngoài họ hiểu được,

thường lại được thính giả trình độ không cao lĩnh hội một cách dễ dàng". Cũng tuyệt vời như vậy

khi ông ta giải thích, tại sao những ấn tượng thẩm mỹ hầu như không để lại dấu vết gì. 

 Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

9

Tập 1 - Tâm hồn đám đông

Chương 1: Các  đặc  tính  chung  của đám đông. Quy  luật  tâm  lý học về  sự đồng

nhất tâm hồn của đám đông

Đặc tính của đám đông là gì nhìn từ góc độ tâm lý học - Một tập hợp của nhiều phần tử riêng biệt

chưa tạo nên đám đông - Những đặc tính riêng của một đám đông tâm lý - Không đổi hướng suy

nghĩ và tình cảm của từng cá nhân thuộc đám đông và sự lu mờ cá tính của họ - Đám đông luôn

bị điều khiển bởi sự vô thức  - Hoạt động của não bộ suy giảm nhường ưu thế cho hệ  thần kinh

thực vật - Giảm sút khả năng tư duy và sự thay đổi hoàn toàn về tình cảm - Sự biến đổi tình cảm

có thể theo chiều hướng tốt lên hoặc xấu đi so với thành phần tạo nên đám đông. Đám đông đều

dễ trở nên anh dũng hoặc tàn ác như nhau.

Đám đông là gì?

Theo nghĩa thông thường đám đông có nghĩa là một sự kết hợp của những cá nhân bất kỳ không

phụ thuộc vào dân tộc, giới tính và nguyên do kết hợp.

Theo quan điểm  tâm  lý  học khái  niệm  "Đám đông" mang một  ý nghĩa  hoàn  toàn khác. Trong

những điều kiện nhất định và chỉ ở đó mà  thôi, một  tập hợp những con người sẽ có những đặc

tính hoàn toàn khác biệt với những đặc tính của riêng từng con người trong đó. Cá tính có ý thức

bị biến mất, tình cảm và suy nghĩ của mọi cá nhân đều hướng về một phía. Một tâm hồn chung

được hình thành, nó dĩ nhiên có thể biến đổi, nhưng hoàn toàn là một thể loại xác định. Toàn bộ

cái đó  lúc này đã trở thành, do chưa tìm ra được khái niệm nào diễn tả tốt hơn tôi tạm gọi nó  là

"đám đông có tổ chức", nếu ai muốn khác cũng có thể gọi là đám đông tâm lý. Đám đông là một

cơ  thể duy nhất và chịu  tác động của quy  luật đồng nhất  tâm hồn đám đông  (loi de  l'unite des

foules). Hiện tượng, nhiều cá nhân vô tình tụ hợp lại với nhau, cũng chưa tạo cho nó những đặc

tính của một đám đông. Hàng nghìn người tình cờ xuất hiện trên một quảng trường không có một

mục đích nhất định sẽ không bao giờ tạo nên được một đám đông theo nghĩa tâm  lý học. Để nó

có thể có được những đặc tính riêng của đám đông cần phải có những tác động kích thích, hình

thức và bản chất của chúng là điều chúng ta cần nghiên cứu.

Sự biến mất cá  tính có ý  thức và sự xoay chuyển  tình cảm, suy nghĩ về cùng một hướng,  là cú

hích khởi đầu để một đám đông tiến tới có tổ chức, điều này không phải lúc nào cũng đòi hỏi sự

có mặt đồng thời của nhiều thành viên tại một địa điểm duy nhất. Hàng ngàn con người cách biệt

nhau, trong một khoảnh khắc nào đó có thể do ảnh hưởng của một tác động tình cảm mạnh mẽ,

một sự kiện quốc gia quan  trọng chằng hạn, sẽ  tiếp nhận những đặc  tính của đám đông  tâm  lý.

Một sự tình cờ nào đó, làm cho họ liên kết lại với nhau, như vậy cũng đủ để cho cách hành động

của họ nhanh chóng trở nên giống cách hành đông có dạng đặc biệt của đám đông. Trong những

thời điểm lịch sử nhất định, chỉ cần một nhóm ít người cũng đủ để có thể tạo nên một đám đông

tâm  lý,  trong khi sự  tụ  tập  tình cờ của hàng nghìn con người có khi  lại không  thể  tạo  ra được.

Mặt khác đôi  lúc cả một dân tộc, không thấy có dấu hiệu rõ ràng về sự liên kết dưới sức ép của

các tác động nào đó, cũng trở thành một đám đông. Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

10

Một khi đám đông tâm lý được hình thành, nó sẽ bắt đầu thu nạp những đặc tính chung tạm thời

nhưng có  thể định  rõ được. Các đặc  tính chung này kết hợp  thêm với những  tính chất đặc biệt

thay đổi tùy thuộc vào các phần tử cấu thành đám đông, và qua đó làm thay đổi cấu trúc tư duy

của nó. Đám đông  tâm  lý  như  vậy có  thể  được  phân chia  thành  nhiều  loại. Nghiên cứu  về  sự

phân chia này sẽ cho chúng  ta thấy, một đám đông hỗn  tạp, có nghĩa  là một tập hợp bởi những

phần  tử không cùng  loại  với một đám đông  thuần  nhất, nghĩa một  tập hợp bởi  những phần  tử

tương  tự  nhau  (các môn  phái,  các  đẳng  cấp,  các  giai  cấp)  đều  có  cùng  những  đặc  tính  chung

ngoài ra chúng cũng có những đặc  tính riêng, qua đó người  ta có  thể phân biệt giữa chúng với

nhau.

Trước khi  chúng  ta đi  vào khảo  sát những  loại đám đông khác  nhau, chúng  ta phải  tiến  hành

khảo sát những đặc tính chung của chúng. Chúng ta sẽ tiến hành giống như khi nghiên cứu về tự

nhiên, bằng cách đầu  tiên  ta miêu  tả những đặc  tính chung của các  thành viên  trong một chủng

trước khi xem xét đến những đặc  tính  riêng của  từng  thành phần, điều này giúp cho việc phân

biệt được các giống và loài của chủng đó.

Quy luật về sự đồng nhất tâm hồn đám đông

Việc diễn tả một cách chính xác tâm hồn đám đông quả không dễ, bởi tổ chức của nó không chỉ

biến thiên theo chủng tộc và cấu trúc của đám đông, mà còn biến thiên theo bản chất và mức độ

của sự kích  thích  tác động vào đám đông đó. Tuy nhiên khó khăn kiểu như vậy cũng xuất hiện

trong  việc  nghiên  cứu  về  tâm  lý  bất  kỳ  loại  sinh  vật  nào. Chỉ  trong  các  loại  tiểu  thuyết,  chứ

không phải trong cuộc sống thực tế, các cá thể mới có một tính cách bền vững. Nội riêng sự đồng

dạng của môi trường cũng đã tạo nên những tính cách giống nhau rất rõ ràng. Ở chỗ khác tôi đã

chỉ  ra  rằng,  tất cả các  trạng  thái  tinh  thần đều chứa đựng khả năng  tạo  thành những  tính cách,

chúng có thể bộc lộ ra dưới tác động của sự thay đổi môi trường một cách đột ngột. Thế cho nên

trong số những thành viên hung dữ và tàn bạo nhất của quốc hội vẫn có những công dân tốt, là

những người trong hoàn cảnh bình thường có thể là những nhân viên công chứng hiền lành hoặc

là những công chức đáng kính trọng. Khi bão táp qua đi họ lại trở về với những tính cách thường

có của mình là những công dân lương thiện. Trong số những người như vậy Napoleon đã chọn ra

những bầy tôi dễ bảo nhất.

Do ở đây  ta không  thể nghiên cứu được hết  tất cả các nấc phát  triển  trong sự hình  thành đám

đông, cho nên chúng ta sẽ tập trung sự chú ý đặc biệt vào trạng thái tại đó tổ chức của đám đông

đã hoàn thiện. Bằng cách này ta thấy đám đông cuối cùng có thể trở thành cái gì, dĩ nhiên nó sẽ

không còn  là như nó  trước đây. Chỉ riêng  trong  trạng  thái  tổ chức ở mức phát  triển này những

tính chất hoàn toàn mới và đặc biệt sẽ được cấu thành trên cái nền tảng chủng tộc vững chắc, đầy

ảnh  hưởng,  và nó  tiến  hành  xoay chuyển  tất cả  tình cảm,  suy  nghĩ của  toàn  thể vào cùng một

hướng. Chỉ như thế  thôi cũng đã  làm sáng  tỏ những gì ở  trên  tôi gọi  là quy  luật đồng nhất  tâm

hồn của đám đông.

Đám đông và cá thể riêng biệt có nhiều đặc điểm chung giống nhau, nhưng ngược  lại có những

đặc điểm duy nhất chỉ riêng đám đông mới có. Trước hết chúng ta muốn nghiên cứu những tính

chất đặc biệt, để làm sáng tỏ ý nghĩa của chúng. Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

11

Điểm đáng ngạc nhiên nhất của đám đông tâm lý là: cho dù những thành viên riêng biệt tạo nên

đám đông khác nhau kiểu gì, cho dù  lối sống, việc  làm,  tính cách, học  thức của họ giống nhau

hoặc khác nhau ra sao, chỉ cần qua sự trở thành đám đông, tất cả họ sẽ cùng có một kiểu tâm hồn

tập thể, điều này làm cho họ cảm nhận, suy nghĩ, hành động theo kiểu hoàn toàn khác hẳn khi họ

còn  là những cá  thể riêng biệt cảm nhận, suy nghĩ và hành đông. Có những ý nghĩ và  tình cảm

nhất định chỉ xuất hiện hoặc biến thành hành động cụ thể ở những cá nhân gắn bó với một đám

đông. Đám đông  tâm  lý  là một  thể chất không xác định, được hình  thành  từ những  thành phần

không giống nhau,  liên kết với nhau  tại một  thời điểm nhất đinh, giống hệt như sự  liên kết của

những  tế bào sinh vật,  từ đó một  thể chất mới được hình  thành với những  tính chất hoàn  toàn

khác so với những tính chất của từng thành phần riêng biệt tạo nên nó.

Ngược  lại với quan điểm của Herbert Spencer,  thật  lạ  lùng đối với một  triết gia sắc  sảo  lại có

quan điểm  như  vậy,  trong nhóm  tạo nên đám đông  tuyệt nhiên không có cái gọi  là  tổng hoặc

trung bình của các  thành phần mà chỉ có sự kết hợp và  tạo nên những  thành phần mới, hệt như

trong hóa học khi những thành phần nhất định ví dụ như xút và axit kết hợp với nhau, một chất

mới được hình  thành có những  tính chất hoàn  toàn khác hẳn với những  tính chất của các  thành

phần tạo ra nó.

Đám đông được điều khiển bởi sự vô thức.

Có thể dễ dàng xác định được mức độ khác nhau giữa một cá  thể của đám đông và một cá  thể

riêng biệt, nhưng không thể dễ dàng phát hiện ra nguyên nhân của sự khác nhau đó.

Để  ít nhất phần nào có thể xác định được những nguyên nhân này người  ta  trước hết phải nhắc

lại  những  kết  luận  của  tâm  lý  học  hiện  đại,  rằng  không  chỉ  trong  đời  sống  sinh  vật, mà  ngay

trong các quá trình nhận thức, những hiện tượng vô thức cũng đóng một vai trò quyết định. Đời

sống tinh thần có ý thức chỉ là một phần rất nhỏ so với đời sống tâm hồn vô thức. Nhà phân tích

có tài nhất, nhà quan sát sắc sảo nhất cũng chỉ có thể phát hiện ra một số rất nhỏ những động cơ

có ý thức điều khiển mình. Những hành động có ý thức của chúng ta bắt nguồn từ một nền tảng

vô thức, nó  là cái được tạo nên từ những gì được  truyền  lại từ thế này sang thế hệ khác. Những

nền  tảng này mang  trong nó vô số những dấu vết của di  truyền,  từ đó hình  thành nên một  tâm

hồn chủng tộc.

Đằng  sau những nguyên nhân đã được  thừa nhận đối với hành động của chúng  ta, không nghi

ngờ gì nữa cũng còn có những nguyên nhân ẩn mà chúng ta chưa thừa nhận; và đằng sau những

nguyên nhân ẩn này vẫn còn có những nguyên nhân ẩn sâu hơn nữa mà chúng ta chưa biết. Phần

lớn những hành động hàng ngày của chúng  ta  là kết quả  tác động của  những động  lực vô  thức

nằm ngoài sự hiểu biết của chúng ta.

Qua những phần vô  thức, cái  tạo nên nền  tảng của  tâm hồn chủng  tộc, tất cả những  thành viên

của chủng tộc trở nên giống nhau, ngược  lại qua những tố chất có ý thức  - những thành quả của

giáo dục, nhưng trội hơn cả vẫn  là đặc tính di truyền - đã tạo nên sự khác nhau giữa họ. Những

con người có trình độ khác biệt nhất, họ tất cả đều có những ham muốn, đam mê và tình cảm cực

kỳ giống nhau. Trong toàn bộ những thứ thuộc về đối tượng của tình cảm như: Tôn giáo, Chính

trị, Đạo đức, Đồng cảm, Ác cảm v.v... những con người ưu tú nhất rất ít khi vượt trội lên trên cái

mức của một người bình thường. Giữa một nhà toán học danh tiếng và anh thợ sửa giày cho ông Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

12

ta, về mặt hiểu biết có thể cách nhau một trời một vực, nhưng về mặt tính cách họ chẳng khác gì

nhau hoặc có khác nhau cũng rất không đáng kể.

Chính những tính cách chung này, bị điều khiển bởi sự vô thức, và số đông các thành phần bình

thường của một chủng tộc đều có như nhau, sẽ là cái chung của đám đông. Trong tâm hồn cộng

đồng khả năng nhận biết sẽ trở nên lu mờ và do đó dẫn đến cá tính của từng con người trong đó

cũng bị lu mờ. Sự khác biệt bị nhấn chìm trong sự giống nhau, và những đặc tính vô thức chiếm

phần nổi trội.

Chính  sự  tập  thể  hóa  những  đặc  tính  thông  thường  giải  thích  cho  chúng  ta,  tại  sao  đám  đông

không  thể  thực  hiện được  những  hành động đòi  hỏi phải có một  sự hiểu  biết đặc biệt. Những

quyết định xuất phát  từ quyền  lợi chung, được đề  ra  trong một cuộc họp của những con người

tuyệt vời  nhưng khác  biệt nhau, cũng chẳng  hơn gì những quyết định được đề  xuất  trong một

cuộc họp của toàn những cái đầu ngu dốt. Trên thực tế nó chỉ tạo nên những cái chung từ tất cả

những tính chất chung tầm thường. Đám đông không tiếp nhận cái trí tuệ mà chỉ tiếp nhận những

cái tầm thường vào nó. Chẳng có chuyện như người ta  luôn nói, "toàn thế giới nhiều trí tuệ hơn

Voltaire", sự thực  là Voltaire có nhiều  trí  tuệ hơn "cả  thế giới", nếu hiểu  thế giới ở đây  là đám

đông.

Nếu  từng con người của đám đông  tự giới hạn mình  trong sự hòa đồng những  tính cách chung,

thì  từ đó chỉ  tạo nên một cái  trung bình, chứ không phải như chúng  ta đã nói  là họ sẽ  tạo nên

những đặc  tính riêng mới. Vậy những đặc  tính riêng mới này hình  thành như  thế nào? Tới đây

chúng ta sẽ nghiên cứu nó.

Sự biến đổi tình cảm trong từng cá nhân

Sự xuất hiện những đặc  tính  riêng biệt của đám đông được quyết định bởi nhiều nguyên nhân

khác nhau. Nguyên nhân đầu  tiên của các nguyên nhân này nằm ở chỗ các  thành viên của đám

đông chỉ  nguyên  với  cái cảm  giác  là  số đông đã có một  sức mạnh  vô địch, cho phép  nó hiến

mình cho bản năng, điều khi chưa là thành viên của đám đông nó nhất thiết phải kiềm chế. Nó sẽ

càng sớm tuân theo bản năng một khi, lẫn trong đám đông con người trở nên không tên tuổi và từ

đó cảm giác chịu trách nhiệm, cái luôn giữ cho các cá nhân khỏi đi quá đà, hoàn toàn biến mất.

Nguyên nhân thứ hai  là sự lây nhiễm tinh thần (contagion mentale), cũng  là cái tác động gây ra

sự  xuất hiện các  nét đặc  trưng của đám đông  và đồng  thời  vào phương  hướng của  nó. Sự  lây

nhiễm có  thể dễ dàng nhận  thấy, nhưng chưa có  thể giải  thích được; người  ta phải xếp nó vào

loại những hiện tượng như kiểu thôi miên, chúng  ta sẽ xem xét những hiện tượng này ngay bây

giờ. Trong đám đông mỗi một tình cảm, mỗi một hành động đều có thể lây nhiễm, và chắc chắn

ởmức độ cao đến nỗi thành viên của có thể hy sinh mong muốn cá nhân cho mong muốn của cả

tập thể. Tính chất này ngược với  tính cách  tự nhiên của con người và con người chỉ có  thể  làm

được điều đó khi nó là thành viên của đám đông.

Còn một nguyên nhân thứ ba và là nguyên nhân quan trọng nhất, nó làm cho thành viên của đám

đông bộc  lộ những cá tính đặc biệt hoàn toàn mâu thuẫn với những cá tính của những người đó

khi  họ  chưa  là  thành  viên  của  đám  đông:  tôi  đặt  tên  nguyên  nhân  này  là  tính  dễ  bị  kích  hoạt

(suggestibilite'), hơn nữa sự lây nhiễm tinh thần nói đến ở trên chỉ là một tác động của nó. Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

13

Để có thể hiểu được hiện tượng này chúng ta cần phải tiến hành một số khám phá mới nhất định

trong  lĩnh vực  tâm  lý học. Ngày nay chúng  ta biết  rằng, một con người có  thể bị đưa vào một

trạng thái hoàn toàn mất hết ý thức, lúc này nó hành động và tuân theo mọi tác động của nhà thôi

miên, người đã  lấy đi ý thức của nó, những hành động của con người trong trạng thái này hoàn

toàn  trái ngược  với  những  tính cách và  thói quen của nó  lúc  bình  thường. Những quan  sát kỹ

càng hơn dường như có thể chứng minh rằng, một người, nằm  lâu  trong đám đông và bị nó tác

động, chẳng  bao  lâu  nữa  -  người  đó qua  sự  bộc  phát  tình cảm một cách  tự phát hoặc do một

nguyên  nhân  bất kỳ chưa biết đến  -  sẽ ở  trong một  trạng  thái đặc  biệt, và  trở nên mê mẩn  rất

giống một người  bị  thôi miên. Do  tê  liệt về  tâm  trí người  bị  thôi miên  trở  thành kẻ  nô  lệ  của

những lực vô thức trong nó, đó là những lực mà nhà thôi miên có thể điều khiển một cách tùy ý.

Cá tính có ý thức đã hoàn toàn bị xóa bỏ, ý chí và khả năng xét đoán bị biến mất, tất cả các tình

cảm và suy nghĩ đều chuyển sang trạng thái có thể bị nhà thôi miên tác động.

Thành viên của đám đông cũng sẽ ở trong một trạng thái tương tự như trạng thái trên. Nó không

còn có ý  thức về những hành động của nó. Trong khi anh  ta, như những người bị  thôi miên, bị

mất đi một số khả năng nào đó thì những người khác  trong đám đông  lại bị dồn đến một  trạng

thái cực kỳ kích động. Dưới tác động của lây nhiễm anh ta sẽ lao vào một hành động nào đó với

một sự hung dữ không cưỡng  lại nổi. Và cái sự dữ tợn này  trong đám đông còn khó cưỡng  lại

hơn là khi bị thôi miên, bởi sự kích hoạt, giống nhau đối với tất cả mọi người, do tác động qua lại

sẽ ngày càng mạnh lên. Thành viên của đám đông, những người có tính cách đủ mạnh để có thể

chống  lại các tác động vào nó, chỉ  là một số nhỏ và họ sẽ bị cái dòng chảy của đám đông cuốn

theo. Cùng lắm là họ có thể thử nương nhờ vào những ảnh hưởng khác để tự làm xao lãng mình.

Một ấn  tượng  hạnh phúc, một hình ảnh  so  sánh  đúng  lúc  nhiều khi  ngăn cản được đám đông

trước những hành động đẫm máu.

Như vậy thành viên của một đám đông có những đặc điểm chính sau: Mất đi cá tính có ý thức, cá

tính vô thức chiếm thế thượng phong, suy nghĩ và tính cảm bị hướng về một hướng bởi kích hoạt

và  lây  nhiễm, có xu hướng  nhất quyết biến  những  ý  tưởng bị kích hoạt  thành hành động. Các

thành viên  lúc này không còn  là chính họ nữa, tất cả đã trở thành người máy và không còn  làm

chủ được những hành động của mình.

Chỉ riêng sự là một thành viên của đám đông, con người đã tụt xuống nhiều nấc thang văn hóa.

Là người độc lập có thể anh ta là một kẻ có học, trong đám đông anh ta là một sinh vật hoạt động

theo bản năng, có nghĩa là một kẻ mọi rợ. Anh ta có tính khí bất thường, dữ dội, hoang dã nhưng

cũng có sự nhiệt tâm và lòng dũng cảm của một con người nguyên thủy, anh ta cũng giống nó ở

tính dễ dãi do đó dễ bị quyến  rũ bởi những  lời nói và ý  tưởng, dễ bị xúi dục  làm những hành

động có  thể  rõ  ràng  xâm phạm  vào những quyền  lợi của chính  anh  ta. Thành  viên  trong đám

đông giống như hạt cát trong đống cát, luôn bị gió cuốn đi theo mọi hướng bất kỳ. 

Từ những lý do trên tòa bồi thẩm ra các tuyên án khi mỗi một bồi thẩm viên là một người độc lập

tuyên bố phản đối chúng, quốc hội chấp nhận  thông qua các điều  luật và các đề nghị  là những

điều mà mỗi một nghị viên là một người độc lập phủ nhận chúng. Lấy từng người ra một thì các

nghị viên là những người thông thái với những thói quen dễ chịu. Tập hợp thành đám đông dưới

tác động của những người cầm đầu họ không một chút lưỡng lự khi quyết định hành quyết những

con người rõ ràng vô tội, bất chấp những thiệt hại cho bản thân họ vứt bỏ cả quyền bất khả xâm

phạm và tiến hành trừ khử những thành viên khác của nghị viện.  Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

14

Không chỉ trong hành động thành viên của đám đông mới  lệch ra khỏi cái tôi thông thường của

nó. Trước khi nó mất đi mọi độc lập tính, thì tình cảm và suy nghĩ của nó đã bị biến dạng, kể như

là, kẻ keo kiệt bỗng  trở  thành người hào phóng, kẻ nghi ngờ  trở  thành cả  tin, kẻ đáng kính  trở

thành tội phạm, kẻ hèn nhát trở thành dũng cảm. Sự từ bỏ tất cả những đặc quyền được ghi nhận

của mình,  hành  động mà  giới  quý  tộc  đã  làm  trong  giây  phút  hân  hoan  của  cái  đêm  vĩ  đại

4.08.1789, chắc chắn sẽ không xảy ra nếu như họ là những con người độc lập.

Từ những quan sát trên đây có thể rút ra kết luận rằng, đám đông không thông minh hơn một con

người độc lập. Xét về mặt tình cảm và về những hành động bị chi phối bởi tình cảm, trong những

điều kiện nhất định đám đông cũng có thể trở nên tốt hơn hoặc xấu hơn. Điều đó hoàn toàn phụ

thuộc vào loại ảnh hưởng tác động vào đám đông. Cái này các tác giả chuyên nghiên cứu về đám

đông chỉ trên phương diện tội phạm đã hoàn toàn không nhận ra. Dĩ nhiên các đám đông thường

có tính tội phạm, nhưng không chỉ có thế, nó cũng thường có cả tính quả cảm. Người ta dễ dàng

làm cho đám đông  xông  vào chỗ chết vì  sự chiến  thắng cho một niềm  tin  hoặc một  lý  tưởng,

người ta cổ vũ họ giành  lấy vinh quang và danh tiếng để họ, như ở thời thập tự chinh, mặc cho

đói khát, vẫn xông lên giải phóng mộ chúa khỏi những kẻ vô thần, hoặc như hồi năm 1793 cổ vũ

họ chiến đấu bảo vệ đất đai của tổ quốc. Chắc chắn những hành động anh hùng là vô thức, nhưng

cũng chính những hành động này đã  làm nên  lịch sử. Nếu người  ta chỉ muốn ghi  lại những sự

kiện vĩ đại được thực hiện với sự tính toán lạnh lùng vào sử sách của các dân tộc, thì có lẽ trong

biên niên sử thế giới chỉ có rất ít những sự kiện như vậy. 

Chương 2: Tình cảm và đạo đức của đám đông

Sau khi đã giới thiệu chung về những đặc tính tiêu biểu của đám đông bây giờ chúng ta sẽ đi vào

xem xét từng tính chất cụ thể.

Nhiều  tính chất đặc  biệt của đám đông  như,  tính bốc đồng  (impulsivité),  tính dễ  bị kích  thích

(irritabilité). không thể tư duy một cách lôgic, thiếu khả năng phán quyết và đầu óc suy luận, tính

thái quá của  tình cảm  ( exagération des sentiments) và nhiều  thứ khác nữa,  là những biểu hiện

của một thể chất đang ở giai đoạn phát triển  thấp, giống như ta quan sát  thấy ở hoang  thú hoặc

trẻ nhỏ. Tôi chỉ lướt qua một chút về sự giống nhau này, bởi nếu trình bày kỹ nó sẽ vượt ra khỏi

khuôn khổ của quyển sách. Nó cũng không cần thiết đối với tất cả những ai có hiểu biết tốt trong

lĩnh vực tâm lý học về người nguyên thủy và cũng không cần thiết với những ai, không biết một

chút gì về lĩnh vực đó, và thực sự không muốn tin.

Bây giờ tôi sẽ lần lượt đi vào những tính chất dễ nhận thấy ở phần lớn các đám đông. 

§1. Tính bốc đồng, tính dễ thay đổi, tính dễ bị kích thích của đám đông

Khi nghiên cứu những tính chất cơ bản của đám đông chúng tôi đã nhận xét rằng, đám đông hầu

như chủ yếu bị điều khiển bởi sự vô thức. Hành động của họ bị điều khiển bởi hệ thần kinh thực

vật nhiều hơn là bởi não bộ. Những hành động được thực hiện xét về mặt trọn vẹn có thể là hoàn

hảo, nhưng do bởi chúng không được điều khiển bởi não bộ cho nên mỗi cá nhân hành động tùy

theo những kích  thích  ngẫu  nhiên. Đám đông  là  quả bóng chơi  bởi  tất cả những kích  thích  từ

ngoài vào, sự biến đổi không ngừng của nó đã phản ánh  lên điều này. Thế cho nên đám đông

chính  là nô  lệ của những kích động mà nó  thụ nhận. Một người độc  lập cũng có  thể phải chịu Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

15

cùng những  tác động giống như đám đông, nhưng được bộ não của nó chỉ cho  thấy những hậu

quả bất  lợi nếu phục  tùng những sự kích động này nên nó đã không  tuân  theo. Tâm  lý học giải

thích điều này như sau, người độc lập có khả năng chế ngự những cảm tính của nó, đám đông thì

không có khả năng như vậy.

Những loại thèm khát có dạng khác nhau mà đám đông tuân theo tùy vào mức độ kích thích của

nó  sẽ có  thể  là  tàn  bạo, anh dũng, hèn nhát hoặc cao quý,  là những cái  thường không  thể nào

tránh được bởi ý thức tự kiềm chế đã nhường bước cho chúng. 

Do bởi những kích thích tác động vào đám đông thay đổi liên tục và họ luôn tuân theo chúng vì

thế bản thân đám đông dĩ nhiên cũng sẽ rất dễ biến đổi. Chính vì vậy ta thấy họ trong phút chốc

có thể chuyển từ chỗ tàn bạo đẫm máu nhất sang anh dũng hoặc cam đảm nhất. Đám đông dễ trở

thành đao phủ nhưng cũng dễ  trở  thành kẻ  tử vì đạo. Trong  tim họ  tràn đầy nhiệt huyết rất cần

cho  sự  chiến  thắng  của mỗi một  niềm  tin. Người  ta  không  cần  phải  quay  trở  lại  cái  thời  của

những anh hùng để có thể nhận ra được đám đông có khả năng gì. Không bao giờ họ mặc cả sinh

mạng của mình trong một cuộc khởi nghĩa, mới chỉ vài năm cách đây không lâu, một ông tướng

bỗng  nhiên được  nhân dân  yêu mến, một khi ông  ta đòi  hỏi, dễ dàng có hàng  ngàn  người  sẵn

sàng chém giết vì sự nghiệp của ông ta.

Đám đông chẳng suy tính bất cứ cái gì. Dưới ảnh hưởng của những kích động trong giây phút họ

có  thể  trải qua  hàng  loạt các  trạng  thái  tình cảm  trái  ngược  nhau. Nó giống  như  những  tàn  lá

trước gió, chúng chao đảo mọi phương và rơi rụng. Nghiên cứu những đám đông cách mạng nào

đó sẽ cho phép ta có được những ví dụ về sự biến đổi trong tình cảm của họ.

Những sự biến đổi này làm cho sự lãnh đạo họ trở nên khó khăn, đặc biệt khi nếu như một phần

của công quyền nằm trong tay họ. "Giả như những đòi hỏi của cuộc sống hàng ngày không phải

là một dạng  luật  lệ vô hình đối với các  tình huống, thì những chính  thể dân chủ cũng sẽ không

tồn  tại được.. Cho dù đám đông  rất  thèm muốn nhiều  thứ,  tuy nhiên họ cũng không muốn giữ

chúng thật lâu. Giống như việc không có khả năng tư duy, đám đông không thể có một ý chí bền

bỉ.

Đám đông không chỉ bốc đồng và hay biến đổi. Giống như những con  thú hoang dã, họ không

cho phép bất cứ một vật cản nào nằm giữa sự thèm muốn và việc thỏa mãn sự thèm muốn đó, và

họ càng ít cho phép hơn, khi cái sự đa số của họ đảm bảo cho họ một cảm giác quyền lực không

gì chống lại nổi. Đối với một người trong đám đông cái khái niệm "không có thể" hoàn toàn biến

mất. Một người độc lập sẽ ý thức được rằng một mình nó không thể châm lửa đốt cháy một cung

điện, không thể trấn lột các quán hàng, ngay cả trong ý nghĩ nó cũng không hề có một chút ham

muốn  làm những điều như vậy. Là  thành viên của đám đông nó ý  thức được cái quyền  lực mà

đám đông đã  trao cho nó, và  trong giây  lát nó  sẽ nghe  theo  sự kích động để  rồi  chém giết và

cướp phá. Một vật cản vô tình nào đó sẽ bị đập tan trong giận dữ. Nếu cơ quan trong cơ thể con

người  liên  tục  tiếp nhận sự giận dữ, như thế  ta có  thể coi giận dữ  là  trạng  thái bình  thường của

đám đông bị dồn nén.

Tính dễ bị kích  thích,  tính bốc đồng, và dễ  thay đổi của đám đông cũng như ý  thức của cả một

dân  tộc, những cái  chúng  ta cần cứu,  luôn  bị  biến đổi  bởi  những  tính cách chủng  tộc cơ bản.

Chúng tạo nên những cái nền vững chắc cho sự hình thành mọi tình cảm của chúng ta. Rõ ràng Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

16

rằng đám đông dễ  bị kích  thích, dễ  bốc đồng,  tuy  nhiên chúng  thể  hiện ở  nhiều mức độ khác

nhau. Ví dụ,  sự khác  nhau giữa giống  người  thuộc nhóm La  tinh  và giống  người  thuộc  nhóm

Anglo-Saxon quả thật rõ ràng. Những sự kiện gần đây trong  lịch sử của chúng ta  là bằng chứng

sống động về điều này. Năm 1870, chỉ việc công bố bức điện tín tường trình về việc một vị đại

sứ hình như bị sỉ nhục đã làm bùng phát một cơn tức giận là nguyên nhân trực tiếp của một cuộc

chiến  khủng  khiếp. Một  vài  năm  sau  cũng  vì một  bức  điện  tín  tố  cáo một  thất  bại  nhỏ  bé  tại

Langson đã  lại tạo nên một cơn tức giận dẫn tới việc giải tán ngay  lập tức chính phủ. Cùng thời

gian, sự  thất bại nặng nề của đoàn quân viễn chinh Anh tại Khatum chỉ gây nên một xáo động

nhỏ ở nước Anh, và chẳng có bộ nào từ chức. Ở khắp nơi đám đông đều đàn bà (ẻo lả) và đàn bà

nhất là đám đông thuộc nhóm Latinh. Những ai dựa vào đám đông sẽ leo lên rất nhanh, tuy nhiên

họ lúc nào cũng như kẻ đứng bên bờ vực trên núi Tarpeji, với một điều chắc chắn rằng một ngày

nào đó sẽ bị rơi xuống dưới.

§2. Tính dễ bị tác động và tính nhẹ dạ của đám đông

Một  trong những đặc  tính của đám đông đó  là  tính đặc  biệt dễ bị  tác động và chúng  tôi cũng

chứng minh  rằng  tính chất này  lây  lan  rất mạnh ở mọi chỗ có đông người  tụ  tập; nguyên nhân

của nó được giải thích bởi sự định hướng cực nhanh của tâm tư tình cảm theo một chiều nào đó.

Ngay cả  lúc người ta tưởng rằng giữa đám đông không hề có một thứ liên kết nào, thường cũng

là  lúc nó đang ở trong tình trạng căng thẳng chờ đợi, thuận  lợi cho việc tiếp nhận một tác động

nào đó vào nó. Tác động cụ thể đầu tiên sẽ được thông báo đến tất cả các bộ não qua đường lây

nhiễm và xác định lập tức hướng tình cảm của đám đông. Trong nội tâm của những người bị tác

động xuất hiện một sự thúc dục phải biến nhanh ý tưởng thành hành đông. Bất kể mục đích hành

động  là gì, hoặc  thiêu hủy một  lâu đài, hoặc hy sinh chính bản  thân mình, đám đông cũng sẵn

sàng một cách dễ dàng. Tất cả phụ  thuộc vào kiểu kích  thích, không còn như trong  trường hợp

của một người độc  lập,  tùy  thuộc vào những mối quan hệ giữa hành động bị  thúc ép và chuẩn

mực của  lý trí nó có thể cưỡng  lại việc thực thi hành động đó. Đám đông,  luôn bị  lạc trong các

ranh giới của sự vô thức, luôn ngả theo mọi ảnh hưởng, bị những tình cảm mãnh liệt của họ kích

thích, tình cảm mức độ này là đặc tính của tất cả sinh vật không có khả năng sử dụng lý trí, miễn

dịch với  tất cả các kiểu phê phán, phải có một sự cả  tin quá mức bình  thường. Chẳng có gì đối

với nó  là không có thể, và người ta không được phép quên điều này, nếu như muồn hiểu, vì sao

các huyền thoại và những câu chuyện vô  lý nhất  lại có thể dễ hình thành và  lan truyền đến như

vậy [1].

Sự xuất hiện các huyền thoại dễ lan truyền trong đám đông không chỉ hoàn toàn do sự cả tin mà

còn do sự bóp méo khủng khiếp các sự kiện  trong trí  tưởng  tượng của đám người  tụ  tập  lại với

nhau. Một sự kiện đơn giản, đám đông chợt nhìn  thấy,  lập  tức sẽ  trở  thành một sự kiện bị bóp

méo. Đám đông  tư duy bằng các hình ảnh, và khi một hình ảnh hiện  lên sẽ kéo  theo một chuỗi

các hình ảnh khác, không hề có một mối  liên hệ  logic với hình ảnh đầu  tiên. Chúng  ta dễ dàng

hiểu ra trạng thái này, một khi chúng ta ngẫm nghĩ xem chuỗi các liên tưởng đặc biệt nào lúc đó

đã tạo nên một ấn tượng trong ta. Lý trí chỉ cho thấy sự không mạch lạc của những hình ảnh đó,

nhưng đám đông không để  ý đến điều  này  và đã  trộn  thêm gia giảm có được  từ những  tưởng

tượng méo mó của họ vào trong sự kiện. Đám đông không có khả năng phân biệt được giữa cái

chủ quan và cái khách quan. Nó  luôn coi những hình ảnh xuất hiện  trong  tâm  thức của nó, cái

thường chẳng giống gì với thực tại quan sát được, là sự thực. Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

17

Những sự bóp méo một sự kiện bởi đám đông mà chính nó  là người chứng kiến có vẻ như  rất

nhiều và với các dạng khác nhau, bởi những con người trong đám đông đó họ có những tính khí

rất khác nhau. Thế nhưng không phải như vậy. Tất cả những sự bóp méo bởi các thành viên riêng

lẻ của một  tập thể do  lây nhiễm đều  trở nên giống nhau về kiểu cách và bản chất. Sự bóp mép

đầu tiên bởi một thành viên nào đó sẽ là hạt nhân của tác động lây nhiễm. Trước khi thánh Georg

hiển linh trên tường thành Jerusalem trước mặt đoàn quân thập tự chinh chắc chắn ban đầu chỉ có

một người  trong  số họ nhận  ra ông  ta. Qua  tác động và  lây  nhiễm điều  nhiệm màu được  loan

truyền và tất cả mọi người đều tiếp nhận.

Quá trình hình thành các ảo giác đã xảy ra như vậy, chúng có mặt thường xuyên trong lịch sử và

dường như có  tất cả những đặc điểm cổ điển của  tính xác  thực, bởi vì nó  là những hiện  tượng

được chứng nhận bởi hàng ngàn con người.

Năng  lực  tinh  thần của  từng con người  trong đám đông không hề mâu  thuẫn với nguyên  lý cơ

bản này. Bởi vì những năng lực đó chẳng có ý nghĩa gì. Trong khoảnh khắc, khi mà họ trở thành

thành viên của đám đông  thì người có học cũng như người không có học đều mất đi khẳ năng

quan sát.

Lập  luận này nghe chừng có vẻ vô  lý. Để chứng minh nó, người ta phải  lục  lại rất nhiều những

hiện tượng lịch sử và như thế không biết bao nhiêu tập sách cho đủ.

Bởi vì  tôi không muốn để độc giả phải hứng chịu cái ấn  tượng về những  lập  luận không được

chứng minh, cho nên tôi sẽ cung cấp một số ví dụ mà tôi may mắn tìm ra được trong vô số các

tài liệu mà người ta có thể trích dẫn.

Các thí dụ về những ảo giác tập thể

Trường hợp  sau đây được chọn bởi vì nó  rất đặc  trưng cho hiện  tượng ảo giác  tập  thể. Nó  tác

động vào một đám đông gồm nhiều thành phần khác nhau, người có học và người không có học.

Trung úy hải quân Julien Felix đã ghi  lại những gì xảy ra bên  lề cuốn tường trình của ông ta về

các dòng hải lưu và điều này cũng đã được đăng lại trong "Revue Scientifique".

Khu trục hạm "La Belle-Poule" đang tiến hành tìm kiếm tàu hộ tống "Le Berceau" bị lạc sau một

cơn bão biển lớn. Lúc đó trời quang mây tạnh. Bỗng nhiên một thuyền viên báo động có tàu gặp

nạn. Tất cả  thủy  thủ đoàn hướng mắt về phía được chỉ,  từ  thuyền  viên đến  sĩ quan  trên  tàu ai

cũng đều trông thấy rõ ràng một xác tàu đầy ắp người gặp nạn đang được những chiếc bè kéo đi

và trên đó có những cờ hiệu cấp cứu đang vẫy vẫy. Đô đốc Desfossés liền ra lệnh thả xuồng tiến

về phía xác tàu để cứu những người bị nạn. Trên đường tiếp cận, tất cả thủy thủ và sĩ quan trên

xuồng ai cũng đều nhìn thấy "rất nhiều người đang chuyển động hỗn loạn, nhiều bàn tay vẫy vẫy,

và nghe thấy vố số những âm thanh yếu ớt khó hiểu". Khi tới nơi họ chẳng thấy gì ngoài những

thân cây với những cành  lá  trôi dạt đến  từ một bờ biển gần đó. Ảo giác đã biến mất  trước một

bằng chứng hiển nhiên.

Thí dụ trên cho thấy môt cách rõ ràng quá trình hình thành ảo giác tập thể, như chúng tôi đã miêu

tả. Một mặt đám đông đang ở  trong  trạng  thái chú ý căng  thẳng; mặt khác  là sự kích hoạt xuất Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

18

phát từ người  lính gác khi anh ta báo động có tàu bị nạn, một sự kích hoạt qua lây nhiễm đã tác

động đến tất cả những người có mặt, từ sĩ quan đến thủy thủ.

Một đám đông không nhất thiết phải có thật nhiều người mới có thể mất đi khả năng nhìn đúng

sự vật và thay thế những cái thực bằng những ảo ảnh. Sự tụ họp chỉ vài ba người riêng rẽ cũng

tạo nên đám đông; ngay cả những nhà thông thái tất cả đều có những đặc tính đám đông đối với

những sự việc nằm ngoài lĩnh vực chuyên môn của họ.

Nhà  tâm  lý học sắc sảo Davey cung cấp cho chúng  ta một thí dụ kỳ  lạ cho  trường hợp  trên, nó

cũng đã được thuật lại trong "Annales des Sciences psychiques" vì vậy cũng đáng được trình bày

tại đây. Davey tiến hành tổ chức một cuộc họp mặt các nhà quan sát xuất sắc, trong số đó có nhà

nghiên cứu người Anh nổi tiếng Wallace, sau khi cho mọi người xem kỹ các đồ vật và để họ tùy

ý niêm phong chúng  lại, ông trình diễn  lại các hiện tượng cổ điển về duy  linh học như: Hiển thị

hồn ma, ghi  lại  lời  hồn ma  lên  bảng đá  v.v... Sau khi  nhận được  bản  nhận  xét của những  nhà

quan sát có uy tín trên về buổi trình diễn, trong đó nói rằng các hiện tượng mà họ quan sát thấy

chỉ có  thể  là những hiện  tượng siêu  tự nhiên, ông  ta đã  tiết  lộ cho họ biết đó chỉ  là những  thủ

thuật đơn giản. "Điều ngạc nhiên ở trong thí nghiệm này của Davey", tác giả bài tường thuật viết,

"không nằm ở sự thán phục nghệ thuật trình diễn, mà ở sự đặc biệt ngớ ngẩn của bản tường thuật

viết bởi những người không quen việc  làm chứng. Bởi vì các các nhân chứng đã thuật  lại nhiều

điều chính xác nhưng thực ra hoàn toàn sai, thế nhưng nếu người ta coi những điều thuật lại của

họ  là hoàn toàn đúng, thì những gì được thuật  lại đó sẽ đưa đến kết quả  là các hiện tượng được

miêu tả không thể nào giải thích được rằng đó  là sự đánh  lừa. Các phương pháp do Davey nghĩ

ra hoàn  toàn đơn giản, người  ta ngạc nhiên về sự  thản nhiên của ông khi  tiến hành chúng,  tuy

nhiên ông ta phải còn có một sức mạnh chế ngự tinh thần của đám đông như thế nào đó để có thể

cưỡng bức họ dường như phải nhìn thấy cái mà thực ra họ không hề thấy. Sức mạnh này các nhà

thôi miên ai cũng có khi họ vận vào người bị  thôi miên. Khi  ta thấy sức mạnh đó tác động vào

những cái đầu đầu sáng suốt và không cả  tin như  thế nào, thì  ta sẽ hiểu việc đánh  lừa các đám

đông của những con người bình thường cũng rất dễ dàng ra sao.

Lời chứng của phụ nữ và trẻ nhỏ

Có rất nhiều thí dụ tương tự không kể hết. Cách đây vài năm báo chí có đăng một câu chuyện về

hai em gái nhỏ bị chết đuối được vớt lên từ sông Sein. Hàng chục người đã nhận ra tông tích hai

em bằng những khẳng định chắc chắn nhất. Trước những  lời chứng khớp nhau như  vậy, chút  ít

nghi ngờ còn  lại của cơ quan điều  tra đã hoàn  toàn biến mất và họ đã  làm giấy chứng  tử. Thế

nhưng trong  lúc chuyển các thi hài đi  làm  lễ chôn cất thì tình cờ người ta phát hiện ra người có

căn cước như hai nạn nhân trên vẫn đang sống và có hình thức bên ngoài chẳng khác gì hai nạn

nhân nhỏ bé kia. Như trong nhiều thí dụ đã trình bày sự quả quyết của nhân chứng đầu tiên, nạn

nhân của ảo giác, đủ để có ảnh hưởng đến tất cả các nhân chứng khác.

Trong những  trường hợp như vậy, xuất phát điểm của sự ảnh hưởng  luôn  là ảo giác được hình

thành nên qua hồi tưởng, có mức độ chính xác nhiều ít khác nhau của từng nhân chứng và ngoài

ra  là sự  lây nhiễm của thông tin sai  lệch đầu tiên. Nếu nhân chứng đầu tiên  là người nhạy cảm,

thường chỉ cần một đặc điểm, không kể  tất cả những điểm  thực  sự giống  nhau khác, của  nạn

nhân mà anh ta nghĩ rằng mình biết  là ai, ví dụ một vết sẹo, một đặc điểm nào đó trên quần áo,

cũng đủ để gợi cho anh ta hình ảnh của một người khác. Hình ảnh tưởng tượng lúc này có thể trở Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

19

nên một kiểu hạt nhân của sự kết tinh, nó  lan rộng vào  lĩnh vực  lý trí và  làm tê  liệt tất cả óc xét

đoán. Người quan sát lúc này không còn nhìn thấy bản thân sự vật mà chỉ thấy cái hình ảnh xuất

hiện trong tâm hồn anh ta. Bằng cách giải thích như vậy cho trường hợp, xảy ra cũng khá lâu, về

một người mẹ dường như nhận ra xác chết của con mình, như sẽ trình bày sau đây, đã  làm sáng

tỏ hai hình thức tác động, mà quá trình hình thành nên chúng, tôi cũng đã đề cập đến. 

"Đứa trẻ được một đứa trẻ khác nhận ra - nó đã nhầm. Một chuỗi những sự nhận diện sai lầm bắt

đầu hình thành. Và điều khó hiểu đã xảy ra. Đúng cái ngày cái xác chết được một trẻ khác nhận

ra, người đàn bà đã khóc thét: "Giời ơi, con tôi ơi!". Người ta đưa bà tới bên xác chết, bà ta xem

kỹ áo quần và vết sẹo trên trán xác chết đó rồi nói: "Đúng rồi, đây là thằng con đáng thương của

tôi bị mất  tích  từ cuối  tháng bảy. Có kẻ đã bắt cóc nó và đem đi giết". Bà  ta  là quản gia ở phố

Rue de Four và tên là Chavandret. Người ta cũng đã đưa em rể của bà đến nơi xác chết và người

này cũng quả quyết một cách không do dự: "đây  là thằng nhỏ Philibert." Nhiều dân cư của khu

phố, ngay cả thầy giáo của đứa trẻ với bằng chứng chắc chắn  là chiếc phù hiệu trường học, đều

cho rằng cái xác đó  là con của nhà Villette Philibert Chavandret. Thế  là: hàng xóm, em rể, thầy

giáo và cả bà mẹ nữa đều đã nhầm. Sáu tuần sau gốc tích của xác chết được xác định. Đó là một

đứa trẻ vùng Bordeaux, bị giết ở đó và xác của nó được gửi qua bưu điện đến Paris [2].

Chúng ta  lại có thể khẳng định rằng, cái "nhận ra" này thường xảy ra ở phần  lớn đàn bà và con

trẻ,  là những  thành phần dễ xúc động nhất. Đồng  thời nó cũng nói  lên một điều  là những nhân

chứng như vậy rất ít có giá trị trước tòa. Đăc biệt những lời khai từ miệng trẻ con không bao giờ

nên quan  tâm  tới. Các quan  tòa  luôn  lặp đi  lặp  lại, ở  tuổi đó người  ta không biết nói dối; đó  là

một câu nói vô vị. Nếu như họ được học về tâm  lý học sâu hơn một chút họ sẽ hiểu rằng: hoàn

toàn ngược lại, trong lứa tuổi đó người ta thường xuyên nói dối. Dĩ nhiên là sự nói dối chẳng tác

hại gì, nhưng dù  sao nó cũng  là nói dối. Việc  tuyên án một kẻ có  tội có  lẽ  làm  theo kiểu  tung

đồng  xu  xem  ra  lại  còn  xác  đáng  hơn  là  kiểu  dựa  vào  những  chứng  cứ  của  trẻ  con  như  vẫn

thường xảy ra.

Tạo nên những truyền thuyết

Quay trở lại những quan sát được đám đông tiến hành, chúng ta kết luận như sau, những quan sát

tập thể đều thuộc vào loại có nhiều sai lầm nhất, và phần lớn, nó đơn giản chỉ là ảo giác của một

cá nhân, qua lây nhiễm đã tác động đến tất cả những người khác. Vô số các trường hợp đã chỉ ra

rằng người ta phải rất cảnh giác với năng lực làm chứng của đám đông. Hàng nghìn con người đã

chứng kiến trận đánh nổi tiếng của kỵ binh tại Sedan, nhưng thật không thể nào biết được chính

xác ai là người chỉ huy trận đánh này từ những tường thuật trái ngược nhau của các nhân chứng.

Viên tướng người Anh Wolseley đã chứng minh trong quyển sách mới đây của ông ta rằng, cho

đến nay những sự kiện quan trọng nhất trong trong trận Waterloo đã bị xác định một cách nhầm

lẫn rất nhiều, mặc dù có hàng trăm nhân chứng chứng nhận những sự kiện đó [3]

Tất cả những ví dụ trên cho thấy, tôi nhắc lại, năng lực làm chứng của đám đông có ít giá trị như

thế nào. Các sách giáo khoa về  logic học xếp sự  trùng hợp của một số đông nhân chứng  thuộc

vào  loại bằng chứng chắc chắn nhất, có  thể dùng để khẳng định một sự kiện. Nhưng những gì

chúng ta biết được từ tâm  lý học đám đông đã chỉ cho thấy, đám đông về điểm này đã rất nhầm

lẫn như thế nào. Những sự kiện quan sát được bởi một số đông người chắc chắn sẽ  là những sự

kiện đáng nghi ngờ nhất. Để giải thích rằng một sự kiện xảy ra đúng như vậy vì đã có đồng thời Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

20

hàng nghìn con người xác nhận, có nghĩa  là giải thích rằng, cái thực của sự kiện đó nhìn chung

rất khác biệt với những tường thuật được cung cấp.

Từ trên đây ta rút ra một điều rõ ràng rằng, những tác phẩm lịch sử nên được coi là sản phẩm của

sự hư cấu thuần túy. Đó là những bài viết tưởng tượng về những sự kiện được quan sát tồi thêm

vào đó là những giải thích được nhào nặn về sau này. Nếu như quá khứ không để  lại cho chúng

ta những tượng đài kỷ niệm, những tác phẩm nghệ thuật và kiến trúc, thì có lẽ chúng ta không hề

biết thực ra nó như thế nào. Liệu chúng ta có biết, dù chỉ một câu thực sự về cuộc đời của những

con người  vĩ đại đã  từng đóng một vai  trò  to  lớn  trong  lịch  sử  loài  người? Nhiều khả  năng  là

không. Xét cho cùng  thì chúng  ta rất  ít quan  tâm đến cuộc đời  thực của những vị như thế. Chỉ

những anh hùng trong truyền thuyết, chứ không phải những anh hùng trong đời thực đã làm nên

ấn tượng trong đám đông.

Tiếc rằng các  truyền  thuyết tự nó không  tồn tại  lâu dài. Trí  tưởng  tượng của con người sẽ nhào

nặn nó tùy theo thời đại và chủng tộc. Từ đức Jehova tàn bạo trong kinh thánh cho đến đức chúa

trời đầy tình thương của thánh Therese là cả một bước lớn, và Đức Phật được kính trọng ở Trung

quốc với Đức Phật được yêu mến ở Ấn độ chẳng có chút gì giống nhau.

Không cần phải có đến cả một thế kỷ mới đủ để cho các anh hùng truyền thuyết trong trí tưởng

tượng của đám đông biến đổi; sự biến đổi này  thường xảy ra chỉ  trong một vài năm. Chúng  ta,

trong những tháng ngày của cuộc đời cũng đã từng chứng kiến truyền thuyết về một trong những

anh hùng vĩ đại nhất của lịch sử, chỉ trong vòng chưa đầy năm mươi năm đã thay đổi nhiều  lần.

Dưới  thời Bourbon, Napoleon  là một nhân vật bình dị, dễ gần và cởi mở,  là người bạn của dân

nghèo,  những  người  như một  nhà  thơ  đã  nói,  sẽ mãi mãi  giữ  những  kỷ  niệm  về  ông  ta  trong

những túp lều tồi tàn của mình. Ba mươi năm sau đó người anh hùng đáng mến đã trở thành một

tên bạo chúa, một  tên  tiếm quyền, cướp đoạt  tự do, một kẻ đã hy  sinh mạng  sống của ba  triệu

sinh  linh chỉ để  thỏa mãn  tham vọng của mình. Nhiều  thế kỷ  tới, những nhà nghiên cứu  trong

tương lai nào đó, khi thấy những tường thuật trái ngược nhau về cùng một con người có thể họ sẽ

phải hoài nghi về cuộc đời của vị anh hùng này, như chúng ta thỉnh thoảng đã hoài nghi về cuộc

đời của Phật, và sau đó chúng ta chỉ thấy trong ông một huyền thoại chói ngời hoặc một sự tiếp

nối của truyện dân gian về người anh hùng Hercules. Rõ ràng họ sẽ không vướng mắc nhiều với

nỗi hoài nghi đó, bởi vì họ có kiến thức về tâm  lý học tốt hơn chúng ta ngày nay, cho nên họ sẽ

biết ngay rằng lịch sử chỉ muốn lưu danh những huyền thoại.

§3. Tính thái quá (exagération) và tính phiến diện (simplisme) của tình cảm đám đông

Tất cả các  tình cảm  tốt và xấu mà đám đông  thể hiện  ra có hai đặc điểm chính; chúng  rất đơn

giản và rất thái quá. Cũng như trong nhiều trường hợp khác, trong mối liên quan này, thành viên

của đám đông sẽ  trở nên gần với những  sinh  thể nguyên  thủy. Ở đó không  tồn  tại các mức độ

tình cảm, anh ta nhìn sự vật một cách thô thiển, và không hề biết đến các thang bậc chuyển tiếp.

Sự thái quá của  tình cảm càng  trở nên mạnh mẽ bởi nó  lan  truyền rất nhanh do sự kích hoạt và

lây nhiễm và do sự thán phục mà nó nhận được đã  làm gia tăng một cách đáng kể mức độ căng

thẳng của nó.

Tính phiến diện và thái quá của tình cảm đám đông đã bảo vệ nó tránh khỏi nghi nghờ và lưỡng

lự. Giống như ở phụ nữ, nó  lập tức có thể đi đến hết tầm của sự việc. Từ một sự việc rõ ràng  là Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

21

đáng nghi tức khắc trở thành điều chắc chắn không thể  lay chuyển. Một mầm mống nhỏ của ác

cảm và dè bỉu  trong mình,  là người độc  lập nó sẽ cho qua,  là  thành viên của đám đông  lập  tức

chúng lớn nhanh thành nỗi căm thù man dại.

Sự dữ dội trong tình cảm đám đông, được hợp  lại đặc biệt từ những con người khác biệt, sẽ gia

tăng mạnh mẽ bởi do thiếu vắng bất kỳ một sự chịu  trách nhiệm nào. Việc chắc chắn không bị

trừng phạt,  là cái gia tăng với độ  lớn của đám đông, và ý thức về bạo  lực có ý nghĩa trong giây

lát quyết định bởi đám đông, đã đem  lại cho tất cả mọi người những tình cảm và hành động mà

một người độc  lập khó có thể có được. Hòa  lẫn trong đám đông, những kẻ ngu muội, những kẻ

vô học và ganh ghét đã mất đi cái cảm giác vô tích sự và bất lực của họ; thay thế vào đó là ý thức

về một sức mạnh thô bạo, không bền bỉ nhưng cực kỳ mạnh mẽ.

Thật đáng buồn vì sự thái quá của những tình cảm xấu trong đám đông đã khơi dậy những tàn dư

của bản năng, kế thừa từ người nguyên thủy, những cái mà một người độc lập và có trách nhiệm

do lo sợ bị trừng phạt sẽ kìm nén lại. Điều này tự nó giải thích vì sao đám đông có xu hướng bạo

loạn nghiêm trọng.

Nếu một khi đám đông được tác động một cách khéo léo, nó có thể rất anh dũng và sẵn sàng hy

sinh. Mức độ của nó có khi còn cao hơn nhiều  lần so với một cá nhân độc  lập. Sắp tới chúng ta

sẽ có dịp quay lại điểm này khi nghiên cứu về tính đạo đức của đám đông.

Do đám đông chỉ  bị kích động  bởi  những cảm  nhận  thái quá, cho  nên  người diễn  thuyết, nếu

muốn  lôi cuốn được họ phải sử dụng những cách diễn đạt mạnh mẽ. Những cái  thường  thấy ở

một nhà diến  thuyết  trong các cuộc hội họp của dân chúng  là, phản đối ầm  ĩ, quả quyết nọ kia,

lặp đi  lặp  lại,  nhưng  tuyệt đối không  bao giờ ông  ta  tự cho phép mình được  nêu  ra một bằng

chứng nào.

Cũng chính sự thái quá trong tình cảm này là cái đám đông đòi hỏi ở những người anh hùng của

họ.  Những  tính  cách  và  đạo  đức  tuyệt  vời  của  những  người  anh  hùng  phải  luôn  luôn  được

khuyếch đại. Trong nhà hát đám đông đòi hỏi người anh hùng của một bi kịch phải dũng cảm,

khôn ngoan và đạo đức, những điều trong đời sống thực chẳng bao giờ có được như vậy. 

Người ta có lý khi nói về cái vẻ ngoài đặc biệt của nghệ thuật sân khấu. Rõ ràng rằng nó tồn tại,

nhưng các quy  luật của nó chẳng hề có  liên quan gì đến  lý  trí  lành mạnh của con người và với

logic học. Nghệ thuật nói trước đám đông, không có gì ghê gớm, nhưng đòi hỏi phải có một khẳ

năng đặc biệt. Trong khi đọc một kịch bản nào đó người  ta  thường khó đánh giá đúng mức độ

thành công của nó. Nhìn chung bản  thân các giám đốc nhà hát đều  rất không chắc chắn về sự

thành công của vở kịch khi người ta đưa cho họ xem kịch bản, bởi để có thể đánh giá được, họ

phải tự biến thành một đám đông. Nếu chúng ta có thể xem xét kỹ  lưỡng từng chi tiết, chúng ta

còn có thể chỉ còn ra những ảnh hưởng quan trọng của chủng tộc một cách dễ dàng. Màn bi kịch

làm say sưa một đám đông của một vùng nào đó, thường  lại không thành công hoặc thành công

rất hạn chế ở một vùng khác, bởi nó không đủ sức để lôi cuốn đám khán giả mới. 

Tôi không cần phải đặc biệt nhấn mạnh  rằng, sự  thái quá của đám đông chỉ diễn  ra  trong  tình

cảm và không hề diễn ra trong lý trí. Sự thực con người chỉ cần là thành viên của đám đông, như Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

22

tôi đã từng chỉ, cũng đã là một sự suy giảm đáng kể năng lực lý trí của nó. Trong các công trình

nghiên cứu về tội ác của đám đông Tarde cũng đã xác định như vậy. 

§4. Tính không khoan dung, tính độc đoán và tính bảo thủ của đám đông

Đám đông chỉ biết đến những tình cảm đơn giản và thái quá. Các ý kiến, tư tưởng, giáo lý truyền

bá vào nó được nhanh chóng tiếp nhận một cách hoặc nguyên kiện không cần xem xét, hoặc bị

nó vứt bỏ tất cả cũng như được coi là tuyệt đối đúng hoặc tuyệt đối sai. Đối với đức tin cũng vậy,

con đường  tiếp nhận của nó  thường không qua sự suy xét. Hẳn ai cũng biết những giáo  lý  tôn

giáo thiếu tính khoan dung như thế nào và sự ngự trị của nó đối với tâm hồn ra sao.

Bởi đám đông không hề có chút nghi ngờ đối với những gì một khi họ đã coi đó là sự thật hoặc

giả dối, mặt khác họ  lại  rất ý  thức được sức mạnh của mình, cho nên nó  rất  tùy  tiện và không

khoan dung. Một con người độc  lập có  thể sẽ chấp nhận sự đối kháng và  tranh cãi, nhưng đám

đông không bao giờ cho phép như vậy. Trong các cuộc hội họp công cộng chỉ một chút trái ý từ

diễn giả lập tức là hàng loạt tiếng la hét chửi rủa vang lên, và nếu diễn giả còn tiếp tục ngoan cố

sẽ có liền những hành động tiếp theo, cuối cùng là việc lôi cổ ông ta xuống. Nếu không có sự răn

đe, bởi  sự có mặt của các nhà chức  trách  làm công  tác bảo vệ an ninh, nhiều khi người  ta  tiến

hành bề hội đồng cả diễn giả. Tính độc đoán và  tính không khoan dung có ở hầu hết các đám

đông, nhưng với mức độ rất khác nhau, và ở đây lại nổi lên khái niệm cơ bản đó là chủng tộc, nó

điều khiển tất cả mọi tình cảm và suy nghĩ. Tính độc đoán và không khoan dung của đám đông

Latinh đặc biệt mạnh, đến nỗi, nó gần nhưng đè bẹp được hoàn  toàn cái  tình cảm về  tự do cá

nhân rất mạnh mẽ của người Anglo-Xason. Đám đông Latinh chỉ có một tình cảm dành cho sự

độc  lập hoàn  toàn đối với nhóm  tín ngưỡng của mình, và coi sự độc  lập đó  là một đòi hỏi phải

cưỡng bức các  tín ngưỡng khác  lập  tức nhập vào  tín ngưỡng của mình. Kể  từ thời  tòa dị giáo,

trong chủng tộc Latinh những người Jacobin tất cả các thời đại chưa bao giờ bước sang một khái

niệm tự do nào khác.

Tính độc đoán và không khoan dung đối với đám đông  là một  tình cảm hết sức  rõ  ràng, họ dễ

dàng chấp nhận nó cũng như dễ dàng biến nó thành hành động. Đám đông  tôn sùng quyền  lực,

đồng thời những cái tốt lại thường bị họ cho là dấu hiệu của sự yếu đuối, cho nên có tác động rất

ít  vào họ. Họ chẳng  bao giờ  có  thiện cảm  với một ông chủ  tốt bụng mà chỉ có  thiện cảm  với

những ông vua chuyên chế  thống  trị họ một cách cứng  rắn. Nếu họ  thích chà đạp  lên một bạo

chúa đã bị  lật đổ, khi đó có nghĩa  là, kẻ bạo chúa đã mất hết quyền  lực và bị xếp vào hàng ngũ

những kẻ yếu đuối, chỉ đáng bị khinh bỉ chứ không còn đáng để kính sợ nữa. Hình ảnh cổ xưa về

một người hùng của đám đông luôn luôn có những tính cách kiểu Caesar. Cờ mao của ông ta làm

họ say đắm, quyền lực của ông ta làm họ kính trọng, thanh gươm của ông ta làm họ khiếp phục.

Luôn  sẵn  sàng  nổi dậy chống  lại một chính quyền  yếu kém,  ngược  lại đám động cúi đầu một

cách nô  lệ  trước một quyền  lực mạnh. Nếu chính quyền bị  lung  lay, khi đó đám đông, với đặc

tính luôn tuân theo những tình cảm cực đoan nhất, cũng sẽ liên tục chao đảo từ thái cực vô chính

phủ sang nô lệ và từ nô lệ sang vô chính phủ.

Vả  lại dường như người ta đã hiểu sai về tâm  lý đám đông, khi tin vào ưu thế của các bản năng

cách mạng của nó. Đó là vì những hành động bạo  lực của nó đã  làm cho ta hiểu không đúng về

điểm  này. Sự  bộc  phát  của  lòng  công  phẫn  và  hành  động  phá  hoại  luôn  chỉ  xảy  ra  trong một

khoảng  thời gian ngắn. Đám đông quá bị chi phối bởi cái vô  thức và do đó, có nghĩa  là nó quá Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

23

tuân phục những ảnh hưởng được di  truyền  lại  từ  thời xa xưa,  là cái đáng  lý  ra nó không phải

trung thành đến mức như vậy. Nếu để tự nó, chẳng bao  lâu ta sẽ thấy nó không còn cả muốn tự

kiềm chế, bản năng sẽ biến nó thành một kẻ nô  lệ. Những người Jacobin cao ngạo và chất phác

nhất đã hoàn toàn nhất trí với Napoleon khi ông ta xóa bỏ mọi quyền tự do và cho biết như thế

nào là bàn tay sắt của ông ta.

Lịch sử của cách mạng quần chúng sẽ hầu như không thể hiểu nổi, nếu người ta nhầm  lẫm một

cách cơ bản về những động lực bảo thủ của đám đông. Họ thực ra chỉ muốn thay đổi cái tên của

thể chế, và để thực hiện sự thay đổi đó, thỉnh thoảng họ làm cả những cuộc cách mạng có khi rất

lớn,  nhưng  bản chất của  những  thể chế đó đã quá bóp  nghẹt những đòi  hỏi được  thừa kế  của

chủng tộc đến nỗi nó không cần phải trung thành với những thể chế đó nữa. Sự thay đổi liên tục

của đám đông chỉ  thể hiện ở những cái rất bên ngoài. Trên  thức  tế họ có cái bản năng bảo  thủ

khó hiểu giống như tất cả những người nguyên thủy. Họ có một lòng tôn kính các truyền thuyết,

một nỗi căm ghét vô thức mọi sự đổi mới có thể làm thay đổi cuộc sống hiện tại của họ. Giá như

nền dân chủ ở vào cái  thời phát minh ra máy dệt, máy hơi nước,  tàu  lửa mà có được quyền  lực

giống như ngày nay của nó, thì có lẽ việc hiện thực hóa các phát minh đó chẳng thể xảy ra. Cũng

may cho sự tiến bộ và văn hóa, bởi sau khi những phát minh khoa học và kỹ thuật được hoàn tất,

cái siêu quyền lực của đám đông mới được sinh ra.

§5. Đạo đức của đám đông

Nếu chúng ta coi khái niệm đạo đức đồng nghĩa với sự tôn trọng những tập tục xã hội nào đó và

với sự kiềm chế  thường xuyên những  tham vọng cá nhân,  thì  rõ  ràng  rằng, đám đông quá ư  là

bản năng và quá không chín chắn để có  thể  tiếp nhận đạo  lý. Thế nhưng nếu  ta hiểu khái niệm

đạo đức  là những  tính cách nhất định xuất hiện  trong khoảnh khắc như, sự hy sinh, sự tận  tâm,

lòng vị tha, sự xả thân, sự công tâm thì ta có thể nói: đám đông thường có thể có một tư cách đạo

đức rất cao.

Một số  ít các nhà  tâm  lý học, có tham gia nghiên cứu về đám đông, chỉ chú ý đến những hành

động  tội ác của nó. Và dựa vào mức độ  thường xuyên của các hành động  tội ác như vậy họ đã

đánh giá tính cách đạo đức của đám đông rất thấp.

Chắc chắn họ đều có những bằng chứng cho nhận định đó: nhưng tại sao như vậy? Đó là chỉ bởi

vì các đòi hỏi hoang dại mang  tính cách phá hoại,  là di sản của  thời  tiền sử, vẫn  lẩn quất trong

mỗi một chúng ta. Đối với một người độc lập, sẽ rất nguy hiểm cho bản thân nếu như anh ta thỏa

mãn những đòi hỏi đó, nhưng khi anh ta chìm trong một đám đông không có tính trách nhiệm, do

chắc chắn không bị trừng phạt, anh ta đã phó mặc cho bản năng thỏa mãn những gì nó muốn. Bởi

vì chúng  ta bình  thường không  thể vận dụng cái bản năng  tàn phá này vào đồng  loại, cho nên

chúng ta đã tìm sự thỏa mãn nó ở súc vật. Cái thú săn bắn và sự tàn bạo của đám đông cũng có

cùng một nguồn gốc như vậy. Đám đông, hành hạ một nạn nhân không có khả năng  tự vệ một

cách từ từ cho đến chết, là một bằng chứng cho sự tàn bạo đớn mạt của họ; đối với các triết gia

thì sự tàn bạo đó về mức độ cũng giống như sự tàn bạo của các thợ săn, khi họ tụ tập lại với nhau

khoái chí nhìn những con chó săn đang thi nhau xé xác một chú nai xấu số.

Nếu một khi đám đông có khả năng chém giết, đốt phá và tiến hành các kiểu tội ác thì nó cũng

có khả năng có những hành động hiến dâng, hy sinh và có lòng vị tha, ở mức độ có khi còn cao Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

24

hơn của một người độc lập. Sự tác động vào từng thành viên của đám đông sẽ đặc biệt mạnh, nếu

như  ta khêu dậy được ở  họ những  tình cảm  về  niềm kiêu  hãnh  và danh dự,  về  tôn giáo và  tổ

quốc. Lịch sử đầy dẫy những ví dụ như vậy, như ta từng thấy trong các cuộc thập tự chinh hoặc ở

đoàn quân  tình nguyện vào năm 1793. Chỉ có  tập  thể mới có  thể có những  sự hy sinh và quên

mình vĩ đại như thế. Biết bao nhiêu đám đông đã  tự để bị đẩy vào chốn hy sinh một cách oanh

liệt vì những niềm tin và lý tưởng mà họ chẳng hiểu một chút gì về nó! Đám đông khi lâm chiến,

thường họ chiến đấu  theo  tiếng kèn xung  trận, chứ không phải vì một phần  thưởng nào. Quyền

lợi  cá  nhân  trong đám đông  hiếm  có khi  là một động  lực mạnh mẽ,  trong khi đó đối  với một

người độc lập nó là sự kích thích gần như là duy nhất. Quả thực không phải vì lợi ích bản thân, là

cái đã đưa đám đông vào bao nhiêu  trận chiến, điều mà với  lý  trí của mình họ không sao hiểu

nổi, và trong những trận đánh đó họ bị giết một cách dễ dàng như những chú chim chiền chiện bị

thôi miên bởi những chiếc gương của người thợ săn.

Ngay cả những tên vô lại bẩm sinh, có khi chỉ vì là một thành viên của đám đông chúng cũng đã

trở thành những kẻ rất tôn trọng các quy tắc đạo đức. Taine đã chỉ ra rằng, những tên đồ tể của

những ngày tháng 9 [1792] đã đem nộp hết tất cả những đồ trang sức, ví tiền thu  lượm được từ

các nạn nhân của chúng cho uỷ ban cách mạng, mặc dù việc biển thủ những thứ đó hoàn toàn dễ

dàng. Cái đám đông dân chúng  lúc nhúc, la hét và rách rưới kia, khi tràn vào cung điện Tuilerie

không hề cầm đi bất cứ một thứ gì cho dù chúng có thể làm cho họ hoa mắt và giá trị của chúng

là bánh mỳ cho mỗi một người trong nhiều ngày.

Sự tha hóa đạo đức của một cá nhân bởi đám đông chắc chắn không phải  là một quy  luật cứng

nhắc, nhưng nó là điều người ta liên tục quan sát thấy, và ngay cả trong những hoàn cảnh không

khắt  khe  như  tôi  đã  trình  bày  trên  đây. Như  tôi  đã  từng  nói,  đám  đông  trong  nhà  hát  đòi  hỏi

những anh hùng của họ trong các vở kịch những phẩm hạnh cao quá mức, và ngay cả một khối

khán giả gồm những người thuộc tầng  lớp thấp, nhiều khi cũng cho rằng đó  là quá  lố. Tay chơi

chuyên nghiệp, chủ nhà chứa, kẻ lang thang, kẻ nghiện thể thao thường kêu ca về một kịch cảnh

hơi  sàm  sỡ  hoặc một câu  nói  tục  tĩu  trong đó,  thế  nhưng  so với  những gì  họ  thường  sử dụng

trong các cuộc nói chuyện hàng ngày thì chúng quả là vô hại. 

Đám đông thường tuân theo những bản năng thấp hèn, tuy nhiên cũng có  lúc nó tỏ ra có những

hành động cực kỳ cao  thượng. Nếu nói rằng  lòng vị  tha, sự hy sinh, sự dâng hiến một cách vô

điều kiện cho một  lý  tưởng, hão huyền hoặc  thực  tế,  là những nhân cách đạo đức,  thì  ta có thể

nói rằng, đám đông thường có một nhân cách như vậy ở mức độ rất cao mà ngay cả những triết

gia  thông  thái nhất cũng hiếm khi đạt đến được. Dĩ nhiên họ  thể hiện những  tính cách đó một

cách vô thức, nhưng cái đó không quan trọng. Giả như đám đông cũng suy tính thiệt hơn, thì có

lẽ không hề có một nền văn hóa nào có thể nảy nở trên hành tinh của chúng ta và  loài người sẽ

mãi không bao giờ có lịch sử.

______________________________

[1] Ai đã từng tham gia vụ vây chiếm Paris chắc hẳn phải được chứng kiến nhiều trường hợp cả

tin của đám đông vào những thứ cực kỳ vô lý. Một ánh nến cháy sáng trên một tầng nhà cao lập

tức được coi là một tín hiệu báo cho những kẻ bao vây. Sau hai giây suy nghĩ người ta nhận ngay

ra không thể nào nhìn thấy ánh sáng của một ngọn nến ở cách xa đến nhiều dặm như vậy.  Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

25

[2] "Eclair" ngày 21 tháng 4 1895.

[3] Liệu chúng ta có biết, chỉ duy nhất về một trận đánh, rằng nó đã xảy ra như thế nào? Tôi rất

nghi ngờ điều này. Chúng ta chỉ biết kẻ chiến thắng và kẻ chiến bại, ngoài ra có lẽ chẳng còn gì

nữa. Những gì d'Harcourt viết về  trận Solferimo mà ông  ta một phần  trực  tiếp  tham dự và một

phần quan sát thấy ta có thể vận dụng cho tất cả các trận đánh khác: "Những vị tướng (dĩ nhiên là

có hàng trăm nhân chứng xác nhận) lập nên các báo cáo chính thức; các sĩ quan được giao nhiệm

vụ phát tán các báo cáo này đã sửa đổi và quyết định nội dung cuối cùng của báo cáo; Tổng tham

mưu  trưởng  xem  xét và  viết  lại. Người  ta đem  báo cáo  trình  thống chế, ông  ta hét  lên:  "Ngài

nhầm  lẫn hoàn toàn!" và tự mình sửa  lại báo cáo. Nguyên văn ban đầu của báo cáo giờ đây hầu

như chẳng còn gì nữa." D'Hartcourt kể chuyện này để chứng minh rằng không thể biết được sự

thật là như thế nào ở những sự kiện hấp dẫn nhất và được quan sát một cách chính xác nhất.

[4] Qua đó cũng giải thích một điều rằng, một số tác phẩm kịch, bị tất cả các giám đốc nhà hát từ

chối, thỉnh thoảng lại đặc biệt thành công, nếu tình cờ được công diễn. Thành công của vở "Pour

la Couronne" của Coppé  là một điều ai cũng biết, vở này hàng chục năm  trời mặc dù  tác giả  là

một người có danh luôn bị các giám đốc nhà hát từ chối. "Charleys Tante" sau một loạt các chối

từ đã được giới môi giới  thị  trường chứng khoán chịu chi để  trình diễn và đã đạt 200  lượt  trình

diễn  tại Pháp và  trên một nghìn  lượt  tại Anh. Nếu không có sự giải  thích như đã dẫn  rằng các

giám đốc nhà hát đã không thể tự đặt mình vào tâm hồn của đám đông, ta sẽ không hiểu được, tại

sao những con người độc lập quả quyết, coi việc che giấu những nhầm lẫn là trọng, lại có thể có

những phán xét sai sót như vậy.                                                                                         

Chương 3: Những ý tưởng, những lập luận và trí tưởng tượng của đám đông

§1. Những ý tưởng của đám đông

Những nghiên cứu từ một công trình trước đây của tôi về ý nghĩa của các ý tưởng đối với sự phát

triển của các dân tộc đã chứng minh rằng, mỗi một nền văn minh đều phát triển dựa trên một số

ít những ý tưởng nền tảng, thường rất ít khi đổi mới. Ở đấy tôi đã trình bày, các ý tưởng này đã

bám chặt vào  tâm hồn của đám đông như thế nào, nó đã thấm vào những  tâm hồn đó môt cách

khó nhọc ra sao, và sau đấy nó đã đạt đến sức mạnh như thế nào. Tôi cũng đã chỉ ra rằng, những

biến đổi vĩ đại trong lịch sử thường xuất phát từ sự thay đổi của những ý tưởng nền tảng này. 

Do bởi tôi đã luận giải vấn đề này một cách đầy đủ, cho nên tôi không muốn quay trở lại nữa và

tôi chỉ muốn giới hạn trong một vài lời về những ý tưởng đã tiếp cận vào đám đông và đám đông

đã tiếp nhận chúng ở những dạng nào.

Người ta có thể phân những ý tưởng đó thành hai  loại. Thuộc về  loại thứ nhất, chúng ta thấy  là

những ý  tưởng  tình cờ và  thoáng qua, chúng sinh ra do một ảnh hưởng  tức thời: ví dụ như tình

cảm dành  cho một cá nhân  hoặc một học  thuyết. Thuộc về  loại  thứ  hai  là  những  ý  tưởng  nền

tảng, được môi trường, di truyền và đức tin tạo cho một sự bền vững lâu dài, ví dụ như các giáo

lý khi xưa, những tư tưởng dân chủ và xã hội ngày nay. Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

26

Người  ta có  thể ví những  tư  tưởng nền  tảng như khối nước của một dòng sông đang chậm  rãi

trôi, những ý tưởng thoáng qua là những gợn sóng luôn thay đổi trên bề mặt, nó làm cho bề mặt

sống động mặt dù chẳng có ý ghĩa gì rõ ràng hơn là bản thân dòng chảy.

Trong thời đại của chúng ta, những quan điểm nền tảng, mà cha ông chúng ta đã từng sống với

chúng, ngày càng  trở nên bị  lung  lay và đồng  thời những  thiết chế dựa  trên những ý  tưởng đó

cũng bị chấn động hoàn toàn. Hàng ngày có biết bao nhiêu những ý tưởng thoáng qua nảy sinh,

như  tôi đã  nói  về chúng ở  trên;  nhưng dường  như chỉ một  số  ít  trong đó có  thể đạt được ảnh

hưởng đáng kể.

Những ý tưởng nào đám đông thích tiếp nhận mặc lòng, chúng chỉ có thể phát huy tác dụng, nếu

khi đám đông tiếp nhận chúng, chúng có một hình thức rất đơn giản và phản ánh vào tâm trí họ

dưới dạng hình ảnh. Không có ràng buộc nào của sự sắp đặt một cách  logic, hay  là sự mạch  lạc

đuợc dùng để kết nối những hình ảnh  tưởng  tượng đó  lại với nhau; chúng có  thể  thay  thế nhau

như  những  tấm kính  ảnh của chiếc đèn chiếu  nhiệm màu  (Larterna magica), được  người  trình

diễn  lấy ra  từ một cái hộp. Người  ta cũng sẽ nhận  thấy  trong đám đông những sự tưởng  tượng

trái ngược nhau  tiếp nối xuất hiện. Dưới  tác động của một  trong những ý  tưởng được chứa sẵn

trong đầu, đám đông sẽ tuân theo một một ý nghĩ chợt lóe  lên và sẽ thực hiện những hành động

rất khác nhau. Sự thiếu vắng hoàn toàn khả năng xét đoán đã làm cho họ không thể nhận ra được

các mâu thuẫn.

Hiện tượng như vậy không chỉ xuất hiện ở đám đông. Người ta cũng thấy nó ở nhiều con người

độc lập, và không chỉ ở người nguyên thủy. Tôi cũng đã quan sát thấy điều đó ở những người có

học  theo  đạo Hindu,  đang  theo  học  và  làm  luận  văn  tiến  sĩ  tại  các  trường  đại  học ở  châu Âu

chúng ta. Những nền tảng xã hội và tín ngưỡng vững chắc mà họ được kế thừa không hề bị suy

chuyển, khi người ta phủ  lên chúng một  lớp quan điểm châu Âu xa  lạ. Trong những cơ hội tình

cờ, những thành phần của cái nền tảng đó sẽ lộ ra, khi bằng lời nói khi bằng hành động và lúc đó

ở cùng một con người cho thấy có những mâu thuẫn rất rõ ràng. Dĩ nhiên những mâu thuẫn này

có vẻ hình thức nhiều hơn là thực sự, bởi đối với một người độc lập chỉ những hình ảnh được kế

thừa mới đủ mạnh để có thể biến thành những động lực thúc đẩy những hành vi của nó. Chỉ khi,

con người do bị lai giống từ các gen di truyền khác nhau, họ mới có thể bất chợt có những hành

động  thực sự mâu  thuẫn với nhau. Ở đây cũng không cần  thiết đặc biệt nhấn mạnh đến những

hiện tượng như vậy, mặc dù chúng có những ý nghĩa cơ bản đối với tâm lý học. Theo tôi nghĩ, để

có thể hiểu được chúng người ta phải cần tới ít nhất mười năm đi đây đó và quan sát.

Bởi những ý tưởng, chỉ với cấu trúc rất đơn giản mới thâm nhập được vào đám đông, cho nên để

có thể  trở  thành bình dân, dễ gần, chúng phải  tự hoàn  toàn đổi dạng. Nếu đó  là những ý  tưởng

triết học hoặc khoa học cao siêu, người  ta có thể định ra những  thay đổi cơ bản cần  thiết, từng

bậc một, xuống thấp dần cho đến khi thích hợp với đám đông. Mức độ của sự thay đổi này phụ

thuộc rất nhiều vào chủng tộc tạo nên đám đông đó, tuy nhiên kiểu nào thì nó cũng phải luôn thu

nhỏ lại và đơn giản hơn. Bởi thế, theo quan điểm xã hội học, trong thực tế không có sự cao thấp

của các ý  tưởng, có nghĩa  là không có quan điểm này cao hơn quan điểm kia. Chỉ qua việc, để

một ý tưởng có thể đến được với đám đông và phát huy tác động, nó đã phải trải qua quá trình lột

bỏ tất cả những gì từng làm nên sự vĩ đại, sự cao siêu của nó, cũng đã nói lên điều đó. Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

27

Giá trị của một ý tưởng xếp theo thứ bậc là hoàn toàn vô nghĩa; chỉ có tác động của nó mới thực

sự  là điều cần phải để ý. Những ý  tưởng  thiên chúa giáo  thời  trung cổ, những ý  tưởng dân chủ

thế kỷ 18, những ý  tưởng xã hội chủ nghĩa ngày nay chắc chắn rằng không  thể có một thứ bậc

thật cao, về mặt triết học người ta có thể coi chúng là những nhầm lẫn khá đáng thương, nhưng ý

nghĩa của chúng đã và đang cực kỳ to lớn và sẽ còn rất lâu nữa chúng vẫn là những phương tiện

cơ bản nhất để điều hành một nhà nước.

Nhưng ngay cả khi, nếu như ý  tưởng đã  trải qua sự biến đổi để đám đông có  thể  tiếp nhận, nó

cũng chỉ sẽ có tác động, nếu như nó - qua những bước khác nhau, những bước này là gì còn phải

tiếp  tục nghiên cứu thêm  -  thâm nhập được vào cái vô  thức của đám đông và  trở nên  tình cảm

của họ. Sự biến chuyển này thông thường kéo dài rất lâu.

Người ta không được phép tin rằng, một ý nghĩ chỉ cần qua chứng minh được tính đúng đắn của

nó là có thể gây nên tác động, ngay cả đối với những người hiểu biết. Ta sẽ tin vào điều này, khi

ta thấy, những bằng chứng sáng tỏ nhất cũng chỉ có một ảnh hưởng rất nhỏ bé vào phần đông các

con người. Một bằng chứng vững chắc có thể được một người nghe có kinh nghiệm chấp nhận,

nhưng cái vô thức bên trong anh ta sẽ nhanh chóng đưa anh ta trở lại cái quan điểm có ban đầu.

Nếu vài ngày sau gặp lại, anh ta sẽ lại nêu lên những nghi vấn mới với những lý lẽ y hệt như thế.

Anh ta rõ ràng đã bị những ảnh hưởng của các quan niệm trước đây tác động, những cái lớn lên

từ tình cảm; và chính chúng đã ảnh hưởng tới động cơ của những lời nói và hành động.

Nếu một ý tưởng, khi đã ăn sâu được vào tâm hồn đám đông,  lúc đó nó sẽ phát triển thành một

quyền lực không gì chống lại được, và tạo ra hàng loạt những tác động. Các ý tưởng triết học dẫn

đến cuộc cách mạng Pháp đã phải cần đến gần một thế kỷ mới có thể bám rễ vào tâm hồn những

người dân. Người ta cũng biết, nó đã sinh ra một sự tàn bạo không gì ngăn cản nổi như thế nào.

Cuộc tấn công của toàn dân nhằm giành lại sự công bằng xã hội, hiện thực hóa những ý tưởng về

nhân quyền  và  tự do đã  làm  rung chuyển cả châu Âu đến  tận gốc  rễ. Hai mươi  năm  trời dân

chúng xông vào đâm chém  lẫn nhau, châu Âu được nếm mùi  thế nào  là hủy diệt, chỉ có  thể so

sánh được với những gì mà Dschingiskhan và Tamerlan đã làm. Rõ ràng hơn bao giờ hết, những

gì nhiệt thành của một ý tưởng đem lại, đúng là có khả năng làm đổi hướng các tình cảm. 

Các ý tưởng cần phải có nhiều thời gian để có thể bám rễ vào đám đông, và nó cũng cần không ít

hơn thời gian để có thể biến đi khỏi đó. Về mặt ý tưởng, đám đông cũng luôn lạc hậu hơn nhiều

thế hệ so với những nhà khoa học và  triết học. Ngày nay  tất cả những nhà cầm quyền đều  thừa

biết, có bao nhiêu sai  lầm hiện nằm trong những ý tưởng nền tảng, những cái mà tôi vừa đề cập

đến ở  trên;  nhưng  bởi  vì  ảnh  hưởng của  những  ý  tưởng đó còn  rất  lớn, cho  nên các  nhà cầm

quyền vẫn bắt buộc phải điều hành đất nước theo những ý tưởng nền tảng đó, mặc dù từ lâu bản

thân họ đã không còn tin vào sự đúng đắn của chúng nữa.

§2. Lập luận của đám đông

Người  ta không  thể quả quyết một cách chắc chắn  rằng, đám đông không  thể  bị  tác động bởi

những suy luận. Nhưng những lý lẽ họ vận dụng và những lý lẽ tác động đến họ, dường như nhìn

về mặt logic nó tầm thường đến nỗi người ta chỉ cần làm một phép so sánh cũng có thể rút ra kết

luận. Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

28

Những lập luật tầm thường cũng như những lập luật sâu sắc chúng đều dựa trên sự liên kết các ý

tưởng:  nhưng  những  liên  kết  các  ý  tưởng mà  đám  đông  thực  hiện  chỉ  là  sự  kết  nối  những  gì

giống nhau và có thứ tự. Họ kết nối như người Eskimo, từ kinh nghiệm biết rằng, băng đá là một

vật thể trong suốt, tan trong miệng và từ đó rút ra kết luận rằng thủy tinh, do cũng trong suốt, nên

nó cũng phải tan trong miệng; Hoặc như người hoang dã, họ cho rằng, nếu họ ăn trái tim của một

kẻ thù dũng cảm thì họ sẽ nhận được sự dũng cảm của nó; hoặc như những người công nhân, bị

chủ của họ bóc lột và từ đó rút ra kết luận rằng, tất cả giới chủ đều là kẻ bóc lột.

Sự kết nối các sự vật tương tự, cho dù chúng chỉ có những biểu hiện giống nhau về bề mặt, và sự

khái quát hóa một cách vội vã những  trường hợp  riêng biệt  là những đặc điểm  trong  logic của

đám đông. Những kiểu  lập  luận như vậy  luôn được các  thuyết gia khéo nói sử dụng  trước đám

đông. Một chuỗi những lập luận vững chắc sẽ là điều hoàn toàn khó hiểu đối với đám đông, cho

nên  ta có  thể được phép  nói  rằng,  họ chẳng  lập  luận gì cả  hoặc  lập  luận  sai  và  lập  luận  logic

không có tác động gì tới họ. Thường chúng ta hay bị ngạc nhiên khi đọc những bài viết về những

điểm yếu  trong một bài phát biểu nào đó, thế mà nó  lại có  tác động mạnh mẽ đến người nghe;

nhưng  ta quên mất rằng, bài phát biểu đó được  làm ra để  lôi kéo đám đông, chứ không phải để

cho những  triết gia đọc. Thuyết gia, người gần gũi với đám đông,  luôn biết cách gợi  lên những

hình ảnh để có thể lôi cuốn họ. Nếu ông ta đạt được điều đó, có nghĩa là ông ta đã đạt được mục

đích, và hàng  loạt những  lời phát biểu cũng không bằng một vài câu đi vào  lòng người và đem

đến niềm tin cho họ.

Cũng quá  thừa khi  lưu ý rằng, sự thiếu khả năng  lập  luận của đám đông đã  tước đi của họ mọi

năng  lực phê phán, có nghĩa  là khả năng để phân biệt được giữa đúng và  sai, khả năng đưa  ra

một phán  xét xác đáng. Những  lập  luân mà đám đông chấp  nhận  chỉ  là  những  lập  luận khiên

cưỡng, không bao giờ được kiểm chứng. Nhiều con người độc lập về mặt này cũng không hơn gì

đám đông. Sự nhẹ dạ khi khái quát hóa những ý kiến nhất định nào đó phụ thuộc trước hết vào

sự thiếu khả năng để có thể đưa ra một ý kiến của chính mình trên cơ sở của những suy luận đặc

biệt ở phần đông các con người.

§3. Sức tưởng tượng của đám đông

Giống như ở  tất cả những ai không biết suy nghĩ một cách  logic, sức  tưởng  tượng đặc biệt của

đám đông dễ dàng tạo nên sự xúc động cực kỳ sâu sắc. Những hình ảnh hiện  lên trong trí óc họ

bởi một người nào đó, bởi một sự kiện, bởi một  tai nạn xảy  ra đều sống động gần như  là hiện

thực. Đám đông gần như ở trong trạng thái của một người đang ngủ, khả năng suy xét trong phút

chốc bi gạt sang một bên, nhường chỗ cho những hình ảnh cực kỳ mạnh mẽ hiện  lên  trong đầu

và sau đó chúng cũng sẽ biến đi rất nhanh một khi sự suy xét có ý định xen  trở  lại. Đám đông,

không có khả năng xem  xét và  suy  nghĩ một cách  lô gic, với  họ chẳng có gì  là không có  thể.

Ngược lại những cái không có thể nhất thường lại hay lộ ra rõ nhất.

Chính vì  thế đám đông  thường bị những mặt diệu kỳ và huyền  thoại của các  sự kiện  tác động

mạnh mẽ nhất. Sự diệu kỳ và huyền thoại quả đúng là những trụ cột của một nền văn hóa. Cái ảo

trong  lịch  sử  luôn  có  vai  trò  quan  trọng  hơn  là  cái  thực. Cái  không  thực  luôn  có  quyền  đứng

trước cái thực. Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

29

Đám đông chỉ có  thể suy nghĩ qua hình ảnh và chỉ để các hình ảnh  tác động vào mình. Chỉ có

những hình ảnh mới làm cho họ khiếp sợ hoặc say đắm và chúng là nguyên nhân của những hành

động của họ. Chính vì thế trong các vở kịch khi tạo ra những hình tượng với đường nét sâu đậm

đã gây nên một sự tác động cực mạnh vào đám đông. Với đám đông dân chúng thành Rom khi

xưa, bánh mì và các trò chơi là lý tưởng hạnh phúc. Lý tưởng này rất ít thay đổi trong dòng chảy

của thời gian. Không có gì kích động trí tưởng tượng của đám đông mạnh mẽ hơn là một vở diễn

sân  khấu. Tất  cả  các  khán  giả  cảm  nhận  đồng  thời một  tình  cảm  giống  nhau,  và  nếu  như  nó

không thể ngay lập tức trở thành hành động, thì cũng chỉ vì người khán giả vô thức chưa thể phớt

lờ sự nghi ngờ rằng anh ta lại là nạn nhân của ảo giác, và đã khóc, đã cười về những cuộc phiêu

lưu  tưởng  tượng. Song  thỉnh  thoảng  những  tình  cảm được khơi dậy  bởi các hình ảnh cũng đủ

mạnh để có  thể biến  thành hành động, giống như được  tác động bởi  sự kích hoạt  (suggestion)

thông thường. Người ta cũng đã từng kể về những buổi trình diễn, trong đó diễn viên đóng vai kẻ

phản bội, sau khi kết  thúc buổi  trình diễn phải được bảo vệ cẩn  thận để  tránh sự  tấn công của

những khán giả vẫn còn đang công phẫn  trước hành động  tội ác dường như  là của diễn viên nọ

đã thể hiện trong vở kịch. Điều này theo ý kiến của tôi là một ví dụ chính xác nhất về trạng thái

tinh thần của đám đông, và đặc biệt là sự nhẹ dạ, dễ bị tác động. Cái không có thật trong con mắt

họ cũng quan trọng như cái có thật. Họ có xu hướng rõ ràng là không hề phân biệt bất cứ cái gì.

Quyền lực của kẻ chiến thắng và sức mạnh của nhà nước được xây dựng trên trí tưởng tượng của

người dân. Nếu ta gây được ấn tượng trong trí tưởng tượng đó, ta có thể lôi kéo cả đám đông đi

theo. Tất cả những sự kiện có ý nghĩa trong lịch sử, sự ra đời của đạo Phật, của đạo Thiên chúa,

đạo Hồi, các cuộc cải cách, các cuộc cách mạng và sự bùng nổ đầy đe dọa của chủ nghĩa xã hội

trong thời đại của chúng ta đều là hậu quả trực tiếp hoặc gián tiếp của những ấn tượng mạnh vào

trí tưởng tượng của đám đông.

Cũng thế, những nguyên thủ quốc gia trong mọi thời đại ở tất cả các nước, là những người chiếm

đựợc quyền  thống  trị  tuyệt đối, đều coi  trí  tưởng  tượng của dân chúng  là các cột trụ của quyền

lực. Không bao giờ họ có ý định cai  trị ngược với những  trí  tưởng  tượng đó. "Tôi đã kết  thúc

cuộc chiến tại Vendeé, bởi vì tôi đã trở thành người công giáo", Napoleon đã nói như vậy trước

hội đồng quốc gia, "tôi chiếm giữ được Ai cập, bởi vì tôi đã trở thành người theo đạo Hồi, và tôi

đã chiến thắng những thầy tu người Ý bởi vì tôi ủng hộ sự toàn quyền của giáo hoàng. Khi tôi cai

trị người Do thái tôi sẽ cho xây lại đền thờ vua Salomon." Từ thời Alexander và Cäsar có lẽ chưa

có một con người vĩ đại nào  lại biết cách gây ấn  tượng vào  tâm hồn đám đông như Napoleon;

mối quan tâm thường xuyên của Napoleon là sự tác động vào tâm hồn đám đông. Ông ta mơ đến

nó trong chiến thắng, trong lời nói, trong hành động, và trong tất cả các công việc  - ngay cả khi

nằm chờ chết ông ta vẫn còn mơ đến điều đó.

Làm thế nào để có tạo nên ấn tượng trong trí tưởng tượng của đám đông? Chúng ta sẽ thấy điều

này ngay bây giờ. Trong khi chờ đợi chỉ có thể nói rằng, mục đích này sẽ không bao giờ đạt đến

đựơc bằng cách thử tác động vào suy nghĩ và lý trí. Antonius không cần đến những sự hùng biện

trừu  tượng để kích động nhân dân chống  lại những kẻ đã sát hại Cäsar. Ông  ta chỉ đọc cho họ

nghe di chúc và cho họ xem thi hài của Cäsar.

Tất cả những gì  làm kích động trí tưởng tượng của đám đông đều thể hiện ở dạng một hình ảnh

cô đọng, rõ nét, không cần có một phương tiện giải thích nào đi kèm và chỉ được một vài sự kiện

tuyệt vời hỗ trợ như: một thắng lợi lớn, một điều kỳ lạ lớn, môt tội ác lớn, một niềm hy vọng lớn. Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

30

Chúng làm cho sự vật được tiếp nhận một cách chớp nhoáng và không mảy may cần biết đến nó

đã như thế nào. Hàng trăm tội ác nhỏ hoăc hàng trăm tai nạn nhỏ thường sẽ chẳng gây nên một

chút  tác động đáng kể đối với  trí  tưởng  tựợng của đám đông;  thế nhưng nó  lại bị sốc rất mạnh

bởi duy nhất một tội ác man rợ, một tại nạn thảm  thương, cho dù máu có đổ ít hơn nhiều so với

số máu của tất cả những tai nạn nhỏ cộng lại. Đại dịch cúm cách đây vài năm làm cho năm nghìn

người Paris  tử vong  trong vòng vài  tuần, song chỉ gây nên chút  ít ấn  tượng  tới  trí  tưởng  tựợng

của dân chúng. Dĩ nhiên thảm họa này, trong cái nghĩa đúng nhất của nó, đã không tự biến thành

một vài hình ảnh thấy được, mà chỉ là những con số thống kê trong các báo cáo hàng ngày. Một

tai họa đáng  lý ra phải  lấy đi năm ngàn sinh mạng nhưng chỉ có năm trăm người bị chết, và chỉ

nội trong một ngày, tại một địa điểm công cộng, nhiều người nhìn thấy, giả sử như sự sụp đổ của

tháp Eiffel chẳng hạn, sẽ gây nên một ấn  tượng kinh khủng đổi với óc  tưởng  tượng. Sự phỏng

đoán về việc mất  tích của một con  tàu vượt đại dương, mà người  ta nhầm  tưởng rằng nó đã bị

đắm ngoài biển xa, đã đặc biệt kích thích trí tưởng tượng của đám đông tám ngày  liền. Các con

số thống kê đến giờ cho thấy, trong cùng những năm đó có tới hàng ngàn chiếc tàu  lớn bị đắm.

Thế nhưng đám đông chẳng mảy may quan  tâm đến những sự tổn thất một cách  từ từ như vậy,

những tai nạn đã xảy ra theo một kiểu khác với số người chết và  lượng hàng hóa bị tổn thất lớn

hơn nhiều.

Vậy có thể nói, không phải tự bản thân các sự kiện đã kích thích trí tưởng tượng của dân chúng,

mà là hình thức và cung cách của chúng đã xảy ra như thế nào. Chúng phải qua dồn nén - nếu tôi

được phép nói như vậy -  thành một hình ảnh cô đọng  thỏa mãn và nắm bắt được  tâm  trí. Nghệ

thuật kích thích sức tưởng tượng của đám đông cũng chính là nghệ thuật để lãnh đạo họ.

Chương 4: Những hình thức tôn giáo có trong tất cả các niềm tin của đám đông

Như chúng ta đã thấy, đám đông không hề suy nghĩ, họ tiếp nhận hoặc vứt bỏ các ý tưởng một

cách nhanh chóng, không dung thứ tranh luận và mâu thuẫn. Đám đông bị tê liệt lý trí bởi những

tác  động  vào  nó  và  sau  đó  chúng  làm  cho  nó  chỉ muốn  nhanh  chóng  chuyển  qua  hành  động.

Chúng  tôi cũng đã chỉ  ra  rằng, đám đông dưới những  tác động  thích hợp sẵn sàng hy  sinh cho

một ý tưởng mà người ta đã làm cho nó tin vào. Chúng tôi cuối cùng cũng đã xác định rằng, đám

đông chỉ  biết đến  những  tình  cảm quá khích  và mãnh  liệt. Ở họ  sự  yêu mến  nhanh chóng  trở

thành  sự  tôn  sùng,  sự ác cảm  vừa mới  này  sinh  đã  lập  tức biến  thành  sự căm  thù. Những đặc

điểm chung này làm cho ta mường tượng ra được hình thức của các niềm tin của họ.

Việc nghiên cứu sâu các niềm tin của đám đông, không những trong thời đại các tôn giáo mà cả

trong thời đại của các cuộc nổi dậy chính  trị  lớn ví dụ như đã xảy ra  trong thế kỷ vừa qua, cho

thấy, các  niềm  tin đó  luôn có những  hình  thức đặc biệt, không có gì có  thể đúng  hơn khi gọi

chúng là những niềm tin mang tình cảm tôn giáo.

Những  tình cảm này có những đặc  trưng  rất đơn giản:  tôn sùng một đấng được cho  là cao cả,

khiếp  sợ  trước quyền  lực  bên  trên,  tuân  thủ một cách mù quáng mệnh  lệnh của quyền  lực đó,

không có khả năng đánh giá những giáo lý của nó, cố gắng truyền bá sâu rộng những giáo lý đó,

có xu hướng coi tất cả những ai không chấp nhận giáo  lý đó  là kẻ thù. Những tình cảm như vậy

có thể là dành cho một ông thánh vô hình nào đó, cho một hình tượng bằng đá, cho một anh hùng

hoặc cho một ý tưởng chính trị - chừng nào nó thể hiện những đặc trưng như trên, thì nó luôn là

những  tình cảm kiểu  tôn giáo. Cái  siêu nhiên và cái phi  thường  là những cái  luôn nhận  thấy ở Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

31

mọi nơi  trong đó. Đám đông  lúc này đội  lốt một tín ngưỡng hoặc một  lãnh  tụ bách chiến bách

thắng, làm cho họ say mê, với cùng một quyền lực huyền bí. 

Không chỉ ai cầu nguyện trước Chúa mới là người sùng đạo, người sùng cũng là người mà ngay

cả khi, bằng tất cả sức lực của trí tuệ, tất cả sức mạnh của ý chí, tất cả sự nóng bỏng của niềm tin

chỉ để phục vụ cho một quyền lực hoặc một con người, với mục đích để cho nó trở thành kẻ dẫn

lối mọi suy nghĩ và hành động của mình.

Tình cảm kiểu  tôn giáo  thường gắn  liền với  tính không khoan dung và sự cuồng  tín. Nó không

thể  thiếu đựợc ở  tất cả những ai  tưởng như mình đã nắm giữ được bí mật của hạnh phúc dưới

trần gian và trên thiên đường. Hai tính chất đó tìm thấy ở trong tất cả các nhóm người họp lại với

nhau khi họ tán dương một niềm tin nào đó. Người Jacobin trong những ngày kinh hoàng cũng là

những người rất sùng đạo như những người công giáo ở tòa dị giáo, và sự điên loạn tàn bạo của

họ cũng có cùng một nguồn gốc.

Những đức tin của đàm đông mang tính chất của một sự tuân thủ mù quáng, một sự không khoan

dung tàn bạo và một nhu cầu truyền bá gắn liền với thứ tình cảm kiểu tôn giáo, như vậy ta có thể

nói rằng, tất cả những đức tin của họ có hình thức tôn giáo. Người anh hùng mà đám đông hân

hoan chào đón trong thực tế là đức chúa trời của họ. Napoleon  là một người như vậy trong suốt

15 năm  liền, chẳng có thánh thần nào  lại có được một sự sùng bái nhiệt thành như vậy; và cũng

chẳng có ai dễ dàng đưa  họ vào chỗ chết đến  như  thế. Những anh  hùng  thần  thánh  và  những

thánh thần thiên chúa giáo không bao giờ thực hiện sự thống trị toàn diện lên các tâm hồn. (chừa

lại cái chết cho họ tự quyết định!)

Tất  cả những  người  lập nên các giáo  lý  và  học  thuyết chính  trị, họ  làm  như vậy chỉ  với  lý do

rằng, họ đã hiểu cách  truyền vào đám đông cái  tình cảm  tôn  giáo cuồng nhiệt, nó  làm cho con

người cảm  thấy hạnh phúc  trong sự sùng bái, và  thúc dục con người hiến dâng cuộc sống cho

thần tượng của mình. Nó  là như vậy ở tất cả các thời đại. Trong quyển sách xinh xắn cuả mình

về xứ Gallien thuộc đế chế La mã, Fustel de Coulanges đã đặc biệt chỉ ra rằng, đế chế La mã tồn

tại được hoàn toàn không phải do sức mạnh bản thân mà là do sự ngưỡng mộ theo kiểu tôn giáo

được ngấm vào  trong nó. "Trong  lịch sử hình như không có  trường hợp nào", ông  ta đã có  lý,

"một chính quyền bị nhân dân căm ghét, lại tồn tại được đến những năm thế kỷ... Không thể nào

hiểu nổi, chỉ có 30 quân đoàn  lại có  thể bắt hàng  trăm  triệu con người  thuần phục." Họ khuất

phục chỉ bởi vì, Hoàng đế là tượng trưng cho La mã, được tất cả tôn thờ như thánh. Ngay ở một

chốn  thâm sơn cùng cốc cũng  thấy có bàn  thờ vua. "Bất cứ  lúc nào người  ta cũng nhìn  thấy  từ

đầu nọ đến đầu kia của đế chế, trong tất cả các tâm hồn, một tôn giáo đang hình thành, mà đức

chúa  của  nó  chính  là  nhà  vua. Một  vài  năm  trước  công  nguyên  toàn  xứ Galien,  bao  gồm  sáu

mươi  thành phố, đã chung nhau dựng  lên cho Augustus một ngôi đền ở Lion... Những cha đạo

của đền được chọn  từ khắp các  thành phố của Galien,  là những bậc đáng kính đầu  tiên của đất

nước... Người  ta không  thể cho  rằng  tất cả những  cái đó  là do sự kính  sợ hoặc  thần phục một

cách nô lệ mà thành. Cả một dân tộc không thể đều là nô lệ, mà nô lệ những ba trăm năm. Không

chỉ các  triều  thần  thán phục đức Vua, mà  là Rom; và không chỉ Rom, cả Galien, Tây Ban Nha,

Hy Lạp và Á châu."

Những cái đó không chỉ  là những quan niệm mê tín dị đoan của một thời đại khác,  là những cái

đã xua đuổi lý trí một cách triệt để. Trong cuộc chiến vĩnh cửu với lý trí chưa bao giờ tình cảm bị Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

32

chiến bại. Cho dù đám đông không còn muốn nghe những lời của thánh thần và tôn giáo nữa, là

những thứ đã thống trị họ trong một thời gian dài, nhưng chưa bao giờ người ta lại thấy họ dựng

lên nhiều  tượng đài và nơi  thờ cúng như trong suốt thế kỷ qua. Phong  trào nông dân, nổi  tiếng

với tên gọi Boulangismus, đã chững minh cho thấy, bản năng tôn giáo của đám đông dễ có khả

năng đổi mới như thế nào. Ngày đó không có một quán  làng nào  là không thấy có treo ảnh của

người anh hùng. Người ta gán cho ông ta một sức mạnh có thể xóa tan mọi sự bất công, mọi thứ

tội  lỗi, và hàng ngàn con người đã hiến dâng cho ông  ta mạng sống của họ. Vị  trí nào sẽ dành

cho ông ta trong  lịch sử, nếu như tính cách của ông ta cũng theo kịp những huyền thoại về ông

ta!

Tôn giáo không có thánh thần: Chủ nghĩa vô thần

Cũng là một điều nhỏ và hơi thừa khi nhắc lại, đám đông cần có một tôn giáo. Bởi tất cả các học

thuyết chính  trị,  tôn giáo, xã hội  tìm  thấy được ở đám đông sự  tiếp  thụ chỉ với điều kiện,  rằng

chúng phải mang một hình  thức  tôn giáo,  trong đó không  tồn  tại bất kỳ một sự tranh  luận nào.

Nếu một khi có thể vận động được đám đông tiếp nhận chủ nghĩa vô thần, thì sau đó chủ nghĩa

này sẽ hoàn toàn trở thành sự sục sôi không khoan nhượng của một tình cảm mang tính tôn giáo,

và chẳng bao  lâu sẽ trở thành sự sùng bái thể hiện ở những hình thức bên ngoài của nó. Một thí

dụ kỳ quặc về điều này cho chúng ta, đó là sự phát triển của một nhóm nhỏ theo chủ nghĩa thực

chứng. Nó giống như bất kỳ một người nào theo chủ nghĩa hư vô, mà câu chuyện của nó chúng

ta  đã  được Dostojewskij, một  con  người  cực  kỳ  sâu  sắc  kể  lại,  đã  đập  tan  những  hình  tượng

thánh thần và thiêng liêng trên bàn thờ nơi thờ phụng, dập tắt những ngọn nến và không một chút

lưỡng  lự thay thế những thứ đã bị đập nát đó bởi những tác phẩm của một triết gia vô thần; sau

đó nó thắp lại những ngọn nến đã tắt một cách hoàn toàn thành kính. Đối tượng của niềm tin tôn

giáo  trước đó của nó đã hoàn  toàn  trở  thành một đối  tượng khác,  thế nhưng  liệu  ta có  thể quả

quyết rằng, tình cảm tôn giáo của nó cũng đã thay đổi?

Tôi nhắc  lại một  lần nữa: những sự kiện  lịch sử nào đó, và cụ  thể  là những sự kiện quan  trọng

nhất, ta chỉ có thể hiểu được nó, nến như ta chú ý đền hình thức mà các niềm tin của đám đông

tiếp nhận. Nhiều hiện tượng xã hội cần phải để cho các nhà tâm lý học nghiên cứu hơn là để cho

các nhà khoa học  tự nhiên. Nhà sử học Taine của chúng  ta đã nghiên cứu về cách mạng như  là

một nhà khoa học  tự nhiên  làm và đã nhiều  lần không phát hiện ra được diễn biến  thực sự của

các sự kiện. Ông  ta quan đã sát sự việc một cách  tuyệt vời, nhưng bởi vì không biết đầy đủ về

tâm lý học đám đông, cho nên, là một tác giả lừng danh ông ta cũng không thể nào giải thích nổi

các nguyên nhân của chúng. Bởi vì các sự kiện đẫm máu, tàn bạo và hỗn loạn đã làm ông ta sửng

sốt, bởi vậy, dường như đối với ông ta những anh hùng trong các thiên sử ca  lớn chỉ  là một bầy

người hoang dã động kinh, bán mình một cách không kiểm chế cho bản năng. Những hành động

bạo  lực của cách mạng, những sự chém giết, các nhu cầu khuếch trương, sự tuyên chiến với tất

cả các vua chúa của nó chỉ có thể giải thích được, nếu người ta hiểu ra, rằng tất cả chỉ để phục vụ

cho  sự củng cố một niềm  tin  tôn giáo mới. Phong  trào cải cánh  tôn giáo, đêm  thảm  sát ở đền

Bartholomeus, các cuộc chiến tranh giữa các tôn giáo, tòa dị giáo, sự kiện của những ngày khủng

khiếp...  tất cả đều  là  những hiện  tượng cùng  loại dưới  tác động của  tình cảm  tôn giáo, nó cần

thiết để hủy diệt tất cả, bằng  lửa và bằng gươm đao, những gì cản trở sự truyền bá một niềm tin

mới. Cách thức của tòa dị giáo  là cách thức của những con người có niềm tin chân thật nhất; họ

chẳng phải là những tín đồ nếu như họ đã làm khác đi. Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

33

Những cuộc cách mạng, giống như tôi đã kể, chỉ có thể xảy ra, nếu tâm hồn đám đông truyền cho

chúng sức sống. Những kẻ bạo quyền độc đoán nhất cũng không thể tạo ra chúng. Những nhà sử

học, những người đã chỉ cho chúng ta thấy cái đêm thảm sát ở đền Bartholomeus là tác phẩm của

một ông vua, họ đều đã có quá ít hiểu biết về tâm lý học đám đông cũng như về tâm lý của các vị

vua. Những sự biểu  lộ kiểu như vậy chỉ có  thể bắt nguồn  từ tâm hồn đám đông. Quyền  lực vô

biên của một kẻ  thống  trị  tùy  tiện nhất cũng chỉ  đủ để  thúc đẩy hoặc ngăn cản chút  ít cái  thời

điểm xảy  ra. Không, không phải các ông vua đã gây  ra vụ  tàn sát ở đền Bartholomeus, gây  ra

những cuộc chiến  tranh  tôn giáo, và không phải Robespierre, Danton hoặc Saint-Just  là những

nguyên tác của sự kiện "những ngày khủng khiếp". Đằng sau những sự kiện như vậy người ta lại

luôn tìm thấy cái tâm hồn đám đông.

Tập  2  - Các quan điểm  và đức  tin  của đám

đông

Chương 1: Những động lực từ xa của các đức tin và quan điểm của đám đông

Cho đến đây chúng  ta đã nghiên cứu về  trạng  thái  tinh  thần của đám đông. Chúng  ta đã biết về

cách họ cảm nhận, suy nghĩ, và cách họ rút ra kết luận. Bây giờ chúng ta muốn xem, quan điểm,

đức  tin của họ đã hình  thành và được củng cố vững chắc bằng cách nào. Có hai kiểu động  lực

khác nhau quyết định các quan điểm và đức tin đó: đó là các động  lực trực tiếp và các động  lực

gián tiếp.

Các động lực gián tiếp tạo cho đám đông khả năng tiếp nhận những đức tin nhất định nào đó và

ngăn cản sự thâm nhập của các đức tin khác. Nó chuẩn bị mảnh đất, trên đó người ta thấy những

ý tưởng bất chợi nhú  lên, sức mạnh và tác động của chúng  làm cho ta ngạc nhiên, nhưng đó chỉ

là có vẻ như bất chợt. Sự bột phát và trở thành hiện thực của các ý tưởng nào đó trong đám đông

thường thể hiện một cách đột ngột nhanh như chớp. Tuy nhiên đó chỉ là tác động bề mặt, những

gì đằng sau nó thường là cả một công việc chuẩn bị lâu dài.

Những công việc lâu dài này, nếu không có chúng các ý tưởng sẽ mãi là vô dụng, đứng bên trên

chúng  là những động  lực trực tiếp. Các động  lực trực tiếp truyền sự sống cho niềm tin của đám

đông - nghĩa  là cung cấp cho ý tưởng hình dạng của nó và giải phóng nó cùng với tất cả những

hậu quả của nó. Những động lực trực tiếp này là cơ hội để hình thành những quyết định dẫn đến

sự nổi dậy một cách bùng phát của một tập thể - từ đó dẫn đến nổ ra sự nổi loạn hoặc một quyết

định đình công, sự nổi dậy này sẽ đưa một con người nào đó vào vị trí quyền lực được đa số nhất

trí hoặc nó sẽ hạ bệ một chính phủ. Trong tất cả các sự kiện lớn của lịch sử người ta có thể nhận

thấy những tác động không ngừng của hai loại động lực này. Một trong những ví dụ rõ ràng nhất

người ta có thể lấy ra, đó chính là cuộc cách mạng Pháp, động lực gián tiếp của nó là những phê

phán của giới trí thức và sức ép của giới quý tộc. Những tâm hồn của đám đông được chuẩn bị

như vậy, cho nên  rất dễ bị khích động bởi những động  lực  trực  tiếp, ví dụ như những  lời hiệu Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

34

triệu của các nhà diễn thuyết và sự phản kháng của triều đình chống lại cả những cải cách không

quan trọng.

Những động  lực gián  tiếp  bao gồm  những  yếu  tố  chung,  là  nền  tàng của  tất  cả các đức  tin và

quan điểm, đó là: chủng tộc, các truyền thuyết, thời gian, các thể chế và giáo dục.

Chúng ta sẽ nghiên cứu từng vấn đề một.

§1. Chủng tộc

Động  lực hàng đầu cần phải phân tích đó chủng tộc, bởi vì chỉ riêng nó đã mang nhiều ý nghĩa

hơn  tất cả những  thứ còn  lại. Tôi đã khảo  sát nó đầy đủ  trong một bài viết khác và  thấy  rằng

không cần phải quay trở lại một cách cụ thể ở đây. Tôi đã chỉ ra trong bài viết đó, rằng một đám

đông  lịch  sử  là  cái  gì  và  nếu  như  những  đặc  điểm  tính  cách  của  nó  được  hình  thành,  khi  đó

những tố chất văn hóa của nó, những đức tin của nó, các thể chế của nó, nghệ thuật của nó, nghĩa

là tóm lại, tất cả mọi yếu tố văn hóa sẽ tạo nên cái sắc thái bên ngoài của tâm hồn. Sức mạnh của

tâm hồn  lớn đến nỗi, không có một yếu tố nào có thể truyền được từ một dân tộc này sang một

dân  tộc  khác mà  không  phải  trải  qua một  sự  biến  đổi  sâu  sắc  nhất  [1]. Môi  trường,  các  hoàn

cảnh, các sự kiện phản ánh lại những tác động xã hội nhất thời. Chúng có thể là những tác động

quan trọng, nhưng những ảnh hưởng này  luôn chỉ  là những ảnh hưởng nhất thời, nếu nó đối  lập

với những ảnh hưởng của chủng tộc, nghĩa là, đối lập với toàn bộ phả hệ.

Chúng ta sẽ còn có cơ hội trong nhiều chương của bài viết này để quay lại với vấn đề ảnh hưởng

của chủng tộc và để nhận ra rằng, nó đủ mạnh để có thể khống chế được những tính cách đặc biệt

của  tâm hồn đám đông. Từ đó dẫn đến  thực  tế, các đám đông  thuộc các nước khác nhau có sự

khác  biệt  rất  lớn  trong đức  tin  và cách ứng  xử và cách  thức  họ bị  tác động cũng không giống

nhau.

§2. Các truyền thuyết

Truyền  thuyết chứa đựng những ý  tưởng, những đòi hỏi và  tình cảm của  thời  trước đó. Nó  tạo

nên sự thống nhất của chủng tộc và đè lên chúng ta với tất cả sức nặng của nó.

Từ khi phôi thai học chỉ ra những ảnh hưởng vô cùng lớn của quá khứ vào sự phát triển của sinh

vật, các nhà sinh vật học đã đổi hướng, và các nhà sử học cũng sẽ  làm như vậy, nếu như những

tư duy kiểu này tiếp tục lan rộng. Hiện giờ nó vẫn chưa được biết đến một cách đầy đủ, và nhiều

nhà lãnh đạo quốc gia do đó vẫn còn dừng lại ở những quan điểm lý thuyết của thế kỷ trước, họ

tin rằng, một xã hội có thể tách rời khỏi quá khứ của nó và có thể tự đổi mới từ gốc mà chỉ cần

duy nhất dựa vào lý trí.

Dân tộc là một cơ thể sinh học được tạo nên từ quá khứ. Như tất cả các cơ thể khác nó chỉ có thể

tự thay đổi qua quá trình tích lũy từ từ những yếu tố di truyền.

Những người  lãnh đạo  thực sự của một dân  tộc chính  là các  truyền  thuyết; và như tôi đã nhiều

lần  nhắc đến, chỉ  có những  hình  thức  bên  ngoài mới  dễ  thay đổi. Không  có  truyền  thuyết, có

nghĩa  là không có tâm hồn, sẽ không thể có văn hóa. Sở dĩ như thế bởi vì,  loài người, từ khi nó Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

35

xuất hiện trên thế giới này, có hai nhiệm vụ vĩ đại là tạo nên một mạng lưới những truyền thuyết

và  xóa  bỏ  chúng  khi  đã  hết  tác  dụng. Không  có  nền  văn  hóa  nào  lại  không  có  những  truyền

thuyết gắn chặt với nó, và không có sự xóa bỏ chúng một cách từ từ sẽ không thể có tiến bộ. Khó

khăn ở chỗ, là tìm được điểm cân bằng giữa bảo tồn và thay đổi. Đây cũng là một điều nan giải.

Nếu một dân  tộc có nhiều dòng họ kiên quyết bám giữ  lấy những  thói quen, như thế không  thể

nào có sự thay đổi, nó giống như Trung quốc, sẽ không có khả năng trở nên hoàn thiện. Ngay cả

những thay đổi bằng vũ  lực cũng không có tác động gì, bởi vì sau đó hoặc là những mắt xích bị

giằng đứt sẽ được chắp nối trở lại và quá khứ sẽ quay về địa vị thống trị một cách không thay đổi

như trước đây hoặc là những mảnh đứt sẽ nằm riêng rẽ để rồi chẳng bao lâu sau chúng biến dạng

thành một sự hỗn loạn.

Như vậy nhiệm vụ của một dân  tộc  là phải giữ dìn những cái đặc  trưng của quá khứ bằng cách

dần dần thay đổi chúng. Dân La mã cổ đại và dân Anh hiện thời có lẽ gần như là những dân tộc

duy nhất đã thực hiện được nhiệm vụ này.

Chính những đám đông, và cụ thể  là những đám đông được hợp thành từ các giai cấp,  là những

kẻ bảo vệ một cách kiên  trì nhất những ý  tưởng được  lưu truyền và chống  lại sự thay đổi các ý

tưởng đó một cách ngoan cố nhất. Tôi đã đề cập đến  tính  bảo  thủ của đám đông  và đã chỉ  ra

rằng, nhiều cuộc nổi  loạn kết thúc chỉ với sự thay đổi về ngôn từ. Khoảng cuối thế kỷ 18, do có

hiện  tượng đập phá các nhà  thờ, săn đuổi và chặt đầu giáo sĩ, đàn áp các biểu  tượng công giáo

nói chung, người ta đã tin rằng như vậy những ý tưởng tôn giáo cũ đã bị tước bỏ hết quyền  lực;

thế nhưng chỉ  vài  năm  sau, dưới  áp  lực của đòi  hỏi chung, các  biểu  tượng  tôn giáo bị  xóa bỏ

trước đây đã đựợc khôi phục trở lại [2].

Không có thí dụ nào tốt hơn thế để chỉ ra quyền lực của thói quen đối với tâm hồn đám đông như

thế nào. Những  thần  tượng kinh khủng nhất không  trú ngụ ở các đền đài, và những kể chuyên

chế tàn bạo nhất không sống trong các cung điện. Nếu quả như vậy chúng rất dễ bị lật đổ. Nhưng

những ông chủ vô hình thống trị tâm hồn chúng ta, đều thoát khỏi mọi sự tấn công và chỉ bị suy

yếu bởi sự hao mòn từ từ kéo dài hàng thế kỷ.

§3. Thời gian

Trong các vấn đề về cộng đồng cũng như các vấn đề về xã hội, một  trong những yếu  tố có tác

động mạnh nhất đó là thời gian. Nó quả thật là kẻ sáng tạo và đồng thời cũng là kẻ tàn phá vĩ đại.

Nó đã  làm nên những ngọn núi từ vô số những hạt bụi  li ti, và từ những tế bào bé nhỏ của thời

địa chất xa xăm nó đã nâng  lên chân giá trị con người. Sự tác động của hàng trăm thế kỷ đủ để

biến đổi bất kỳ một hiện tượng nào. Người ta có lý khi nói rằng, những con kiến, nếu có đủ thời

gian, chúng có thể san bằng cả ngọn Montblanc. Nếu một bản thể nào đó có sức mạnh diệu kỳ để

có thể  thay đổi  thời gian một cách  tùy  thích, nó sẽ có được cái quyền  lực như những  tín đồ đã

từng gán cho các thánh thần của họ.

Tuy nhiên ở đây chúng ta chỉ nghiên cứu về ảnh hưởng của thời gian đến các quan điểm của đám

đông. Dưới góc độ này  tác động của nó cũng vô cùng  lớn y như vậy. Nó bắt các thế  lực  to  lớn

như những  thế  lực của đám đông phải phụ  thuộc vào nó, những  thế  lực mà nếu không có nó sẽ

không thể hình thành. Nó đã để cho các tín điều nảy sinh và tàn lụi. Các tín điều tiếp nhận được

sức mạnh từ nó và cũng chính nó đã lại lấy đi sức mạnh của các tín điều này. Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

36

Thời gian dọn đường cho các quan điểm và tín điều của đám đông, có nghĩa  là tạo ra mảnh đất

cho chúng nảy mầm. Từ đó dẫn đến, những ý tuởng nào đó chỉ có thể trở thành thực hiện trong

một khoảng thời gian nhất định, và sau đó không  thể được nữa. Thời gian gom  lại vô số những

tàn dư của các  tín điều và cảm nghĩ,  từ đó hình  thành nên những ý  tưởng của  thời đại. Chúng

không nảy mầm một cách tình cờ hoặc tùy ý. Cội rễ của chúng nằm sâu trong quá khứ. Một khi

chúng đâm hoa, nghĩa  là hoa của chúng đã có được một  thời gian chuẩn bị, và để có  thể hiểu

được cội nguồn của chúng người ta phải  luôn đi ngược trở  lại. Chúng  là những đứa con gái của

quá khứ và là những người mẹ của tương lai, nhưng lại luôn là nô lệ của thời gian.

Chính vì  thế  thời gian  là  thày học  thực sự của chúng  ta, và người  ta chỉ cần cứ để cho nó điều

hành để xem mọi vật đã  thay đổi như thế nào. Ngày nay chúng  ta  lo  lắng vì những đòi hỏi của

đám đông, và về những sự tàn phá, những đảo lộn mà nó đã làm cho ta cảm thấy trước. Thời gian

mình nó sẽ đứng ra làm lại sự cân bằng. "Không có trật tự nào", Lavisse viết rất chính xác, "được

lập nên trong một ngày. Các tổ chức chính trị và xã hội  là những tác phẩm đòi hỏi phải có thời

gian hàng thế kỷ; chủ nghĩa phong kiến trước đấy  tồn tại một cách không hình dạng và  lộn xộn

hàng bao  thế kỷ cho đến khi nó  tìm được một hướng đi; chủ nghĩa quân chủ  tuyệt đối cũng có

hàng  thế kỷ mới có  thể có đựợc những phương  tiện  thống  trị phù hợp và cũng đã  từng xảy  ra

những rối loạn lớn trong giai đoạn chuyển tiếp đó."

§4. Các thể chế chính trị và xã hội

Cái suy nghĩ, các thể chế có thể giúp loại bỏ những điều tệ hại của xã hội, sự tiến bộ của một dân

tộc là kết quả của sự hoàn thiện hiến pháp và chính quyền, và những thay đổi xã hội có thể đạt

đến qua các sắc  lệnh,  là kiểu suy nghĩ nói chung vẫn còn rất phổ biến. Xuất phát điểm của cuộc

cách mạng Pháp cũng từ một ý nghĩ như vậy, và các học thuyết xã hội hiện đại cũng dựa trên nó.

Các  kinh  nghiệm  tiếp  nối  đã  không  thể mảy may  làm  suy  chuyển  chút  nào  sự  điên  loạn  kinh

khủng này. Các nhà triết học và các nhà sử học đã cố gắng một cách tuyệt vọng để chứng minh

sự vô nghĩa của nó. Dù sao đi nữa họ đã chỉ ra một cách dễ dàng, rằng tất cả các thể chế đều  là

những đứa con gái của các ý tưởng, tình cảm, và đạo đức, và rằng các ý tưởng, các tình cảm, các

đạo đức sẽ không thể biến đổi bởi việc sửa đổi những điều luật. Một dân tộc không lựa chon các

thể chế xã hội một cách tùy tiện, cũng giống như con người ta ít có khả năng chọn màu mắt hoặc

màu tóc. Các thể chế và các hình thức chính phủ  là sản phẩm của chủng tộc. Còn xa chúng mới

có  thể  là kẻ  sáng  tạo của một  thời đại, chúng chỉ  là những kẻ được  thời đại  tạo nên. Người  ta

không  lãnh đạo dân dựa  theo  tính khí nhất  thời của họ mà dựa  theo  tính cách của họ. Việc xây

dựng một trật tự nhà nước đòi hỏi  thời gian hàng  thế kỷ, và  trật tự đó cũng cần  tới hàng  thế kỷ

cho sự biến đổi của nó. Các thể chế không mang một giá trị trực tiếp, bản thân nó không tốt mà

cũng chẳng xấu. Ở một thời điểm nó có thể là tốt đối với dân tộc này nhưng lại hoàn toàn không

tốt đối với một dân tộc khác.

Dân chúng  như vậy  tuyệt nhiên không hề có quyền  lực để  thực  sự  thay đổi các  thể chế. Chắc

chắn những cuộc cách mạng bằng mọi giá có  thể  thay đổi  tên của chúng, nhưng cái cốt  lõi vẫn

nguyên như vậy. Cái tên chỉ là một nhãn hiệu trống rỗng, một nhà sử học quan tâm tới các giá trị

thực của các sự việc sẽ không cần để ý đến chúng. Cho nên nước Anh[3],  là một nước dân chủ

nhất thế giới mặc dù nó có một chính phủ quân chủ, trong khi các nước Mỹ Latinh mặc dù cũng

có hiến pháp dân chủ nhưng lại bị thống trị bởi một chế độ chuyên quyền cứng rắn nhất. Không Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

37

phải chính phủ, mà tính cách của dân chúng quyết định số phận của họ. Sự thật này trong một bài

viết trước đây tôi cũng đã dẫn ra những ví dụ để chứng minh.

Phung phí thời gian cho việc xây dựng hiến pháp, đúng  là một cuộc phiêu  lưu kiểu trẻ con, một

thực tiễn xa hoa phù phiếm. Sự cần thiết và thời gian sẽ đảm nhận công việc của chúng, chỉ cần

người  ta cứ để mặc chúng điều hành. Nhà sử học vĩ đại Macaulay đã viết một câu, mà các nhà

lãnh đạo ở tất cả các nước Mỹ Latinh phải nên học thuộc lòng, rằng người Anglo-Xắc son đã làm

như  thế. Sau khi nêu  ra những ví dụ về các điều  luật, chúng dường như mang  lại  ích  lợi, nhìn

theo quan điểm của  lý  trí  thuần  túy, nhưng đã  tạo nên một sự hỗn độn của những cái vô  lý và

mâu thuẫn, ông ta đã tiến hành so sánh hàng tá các hiến pháp của các dân tộc La tinh, đã bị thất

bại bởi những biến động ở châu Âu và châu Mỹ, với hiến pháp của nước Anh và cuối cùng chỉ

ra, rằng hiến pháp nước này đã chỉ biến đổi rất  từ  từ, từng phần một dưới  tác động của sự cần

thiết trực tiếp, nhưng không bao giờ bởi những cơ sở  lý trí được tính toán trước. "Đừng bao giờ

chú ý đến trật tự, mà phải chú ý đến tính thiết thực, đừng bao giờ xóa bỏ một sự ngoại lệ, chỉ vì

nó là một sự ngoại lệ, đừng bao giờ đưa ra một cái mới, trừ khi cảm thấy đã không thể nào chịu

đựng  nổi, và  nếu phải đổi mới  cũng chỉ ở mức  vừa đủ để xóa đi cái cảm giác không  thể chịu

đựng được kia, đừng bao giờ đề nghị  làm những gì vượt quá cái cần thiết để giải quyết một vấn

đề đơn  lẻ đang được  thực hiện: đó  là những quy  tắc chung, đã được vận dụng  từ thời  Johanne

cho đến thời của Vitoria qua hơn 250 nhiệm kỳ quốc hội của chúng ta."

Ta phải bắt đầu với các điều  luật và thể chế của  lần  lượt từng dân tộc một, để chỉ ra xem nó thể

hiện đến mức độ nào các đòi hỏi của một chủng tộc và tại sao phải không nên thay đổi một cách

thô bạo. Người ta có thể tranh  luận về những ưu và khuyết điểm của sự tập trung hóa một cách

triết lý, nhưng nếu chúng ta nhận thấy, một dân tộc được hình thành từ những chủng tộc như thế

nào, đã cố gắng cả ngàn năm để từng bước đạt đến sự tập trung hóa ra sao, nếu chúng ta khẳng

định rằng, một cuộc cách mạng vĩ đại, mà mục đích của nó  là đập tan mọi thể chế của quá khứ,

đã bắt buộc phải nhìn ra, không chỉ đã thừa nhận sự tập trung hóa đó mà còn phóng đại hơn thế

nữa, như vậy chúng ta có thể nói rằng, nó là kết quả của những tính cần thiết có cơ sở, là một kết

quả trực tiếp của thực tại và chúng ta chỉ có thể trách cứ sự thiếu tầm nhìn của các chính trị gia,

những người đã kích động họ nổi dậy. Nếu giả  sử vì một sự  tình cờ nào đó quan điểm của họ

chiến thắng, thì thắng  lợi đó có nghĩa  là tín hiệu của một sự vô chính phủ toàn diện[4], hơn nữa

nó sẽ dẫn đến một sự tập trung hóa còn nặng nề hơn trước đây.

Từ những điều trên đây có thể kết luận rằng, người ta không nên tìm phương tiện để làm chuyển

động tâm hồn đám đông một cách lâu dài ở trong các thể chế. Một số nước nhất định với các thể

chế dân chủ, như nước Mỹ chẳng hạn, đã phát triển một cách rực rỡ, trong khi những nước khác,

như các nước gốc Tây ban nha, mặc dù có các thể chế về cơ bản giống nhau, nhưng đã phải chìm

đắm  trong sự vô chính phủ đáng buồn nhất. Các  thể chế này không  lên quan gì đến độ  lớn của

một dân  tộc này cũng như chẳng  liên quan gì đến sự tàn  lụi của một dân  tộc khác. Các dân  tộc

luôn  luôn bị  tính cách của họ  thống  trị, và  tất cả các  thể chế nào không phù hợp một cách mật

thiết với tính cách đó chúng sẽ chẳng khác gì một bộ đồ đi mượn, một sự hóa trang nhất thời. Dĩ

nhiên cũng có những cuộc chiến tranh đẫm máu và những cuộc cách mạng long trời lở đất để lập

nên những thể chế, mà người ta gắn cho chúng một sức mạnh siêu nhân như là những phép màu

của các bậc thánh thần có thể phù phép ra hạnh phúc. Trong một ý nghĩa nhất định ta có thể nói,

rằng: Các thể chế có tác động vào tâm hồn đám đông, bởi vì nó đã tạo nên các cuộc nổi dậy như

vậy. Sự thật  là không phải các  thể chế đã  tác động như thế, bởi vì chúng  ta biết, rằng nó chiến Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

38

thắng hay  thất bại,  tự nó chẳng có giá  trị gì. Nếu chúng  ta  theo dõi chuỗi các  thắng  lợi của nó,

chúng ta theo dõi chỉ những ảo ảnh.

§5. Giảng dạy và giáo dục

Giữ vị trí hàng đầu trong các ý tưởng chủ đạo của thời đại chúng ta là ý tưởng, rằng giảng dạy có

một kết quả nhất định  làm cho con người tốt lên và không những thế còn có thể  làm cho chúng

trở nên giống nhau. Chỉ bằng cách lặp đi lặp lại, câu này cuối cùng đã trở thành một trong những

câu không gì lay chuyển nổi của nền dân chủ. Nó đã trở nên bất khả xâm phạm giống như những

giáo lý một thời của nhà thờ.

Nhưng ở điểm này, cũng như ở nhiều điểm khác nữa, các ý tưởng của nền dân chủ đã trái ngược

một cách rõ nét nhất đối với những kết quả và những kinh nghiệm thu lượm được từ tâm lý học.

Nhiều  triết gia ưu tú, đặc biệt  trong đó có Herbert Spencer, đã có  thể chứng minh một cách dễ

dàng, rằng việc giảng dạy không làm cho con người trở nên đạo đức hơn cũng chẳng làm cho nó

hạnh phúc hơn, việc giảng dạy không làm thay đổi bản năng cũng như ham muốn của con người,

và nếu không được  tiến hành  tốt nó thậm chí còn gây hại nhiều hơn  là  làm  lợi. Các chuyên gia

thống kê đã xác nhận quan điểm này, bằng cách họ đã chỉ ra, rằng số lượng tội phạm đã tăng lên

cùng với sự mở rộng phạm vi giảng dạy hoặc  ít nhất  là với một kiểu giảng dạy nào đó; rằng kẻ

thù tồi tệ nhất của xã hội, những kẻ vô chính phủ, thường xuất thân từ những trường học tốt nhất.

Một công chức  tòa án cấp cao, ông Adolphe Guillot, đã  tường  trình, rằng hiện nay ước  tính có

khoảng  ba  ngàn  tội phạm có học  trên một ngàn  tội phạm không có học, và  trong khoảng  thời

gian năm mươi năm qua số tội phạm đã tăng từ 227  lên đến 552 trên tổng số một nghìn dân, có

nghĩa  là chúng đã  tăng khoảng 133%. Ông  ta, trong sự nhất trí với các đồng nghiệp khác, cũng

đẵ phát hiện ra, rằng số lượng tội phạm đặc biệt tăng ở tầng lớp trẻ, những người theo học tại các

trường miễn phí bắt buộc thay vì học trường tư.

Dĩ nhiên không bao giờ ai đó lại khẳng định, rằng sự giảng dạy được tiến hành tốt không thể đem

lại những kết quả thực  tiễn, có  ích, chí  ít nếu không phải  trên phương diện đạo đức thì cũng có

thể  trên phương diện mở ra các khả năng nghề nghiệp. Đáng  tiếc  là, và đặc biệt  trong ba mươi

năm lại đây, các dân tộc La tinh đã xây dựng nền giáo dục của họ trên những cơ sở hoàn toàn sai

lầm và mặc dù đã có những phân tích của những bộ óc thông thái, họ vẫn cứ bám giữ lấy những

sai  lầm đáng buồn đó của họ. Bản  thân  tôi  trong các bài viết khác nhau [5] đã chỉ ra, rằng nền

giáo dục của chúng  ta hiện  nay đã  biến  số đông những con  người, được đảm  bảo chuyện  học

hành, trở nên kẻ thù của xã hội, với số  lượng đông gấp nhiều  lần những kể theo đuôi chủ nghĩa

xã hội, một hình thức xã hội tồi tệ nhất.

Mối nguy trước hết của nền giáo dục này, chính xác ra  là nền giáo dục của các dân tộc La tinh,

nằm ở sự nhầm lẫn cơ bản về mặt tâm lý học, những tưởng rằng tri thức phát triển lên từ sự học

thuộc lòng những gì có trong sách giáo khoa. Thậm chí người ta đã cố gắng học càng nhiều đến

mức có  thể, và  từ trường phổ  thông cho đến việc  làm bằng  tiến sĩ hoặc  thi quốc gia, con người

trẻ tuổi đã tự nhồi vào đầu mình nội dung của hàng đống sách vở, mà không hề tự luyện tập khả

năng phán xét hoặc năng  lực đúc kết của mình. Sự học  tập đối với anh  ta  là đọc  thuộc  lòng và

vâng lời. "Học bài, là phải biết một cách thuộc lòng ngữ pháp hoặc một phân đoạn, nhắc lại trôi

chảy, và  làm theo đúng", nguyên bộ trưởng giáo dục Jules Simon viết, "đó là một kiểu giáo dục Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

39

kỳ quặc, trong đó mỗi một cố gắng chỉ nhằm chứng minh cho niềm tin vào sự không bao giờ sai

lầm của giáo viên và nó dẫn đến việc hạ thấp và làm suy giảm năng lực của chúng ta."

Giả như giáo dục kiểu đó chỉ mỗi  là điều vô tích sự,  thì  ta còn có thể chấp nhận nó và  tiếc cho

những đứa trẻ bất hạnh, đáng  lẽ được học những cái cần thiết hơn thì người ta  lại dạy chúng về

gia phả của những người con của dòng họ Chlotar, về những cuộc chiến  tranh giữa Neustria và

Austrasia hoặc về những sự phân tách trong động vật học; nhưng đâu chỉ có thế, nó còn tạo nên

một nguy cơ nghiêm trọng hơn nhiều, nó gây ra ở những kẻ được giáo dục kiểu như vậy một sự

phản kháng mạnh mẽ chống lại những quan hệ, mà từ đó chúng sinh, và tạo nên một ham muốn

mãnh  liệt nhằm  thoát ra khỏi các mối quan hệ.đó. Công nhân không muốn  là người công nhân

nữa, nông dân không muốn mãi  là nông dân và những người ở tầng  lớp thấp cuối cùng trong xã

hội  nhận  thấy,  đối  với  con  em  của  họ  sẽ  không  còn  khả  năng  phát  triển  nào  khác  ngoài  con

đường  làm công chức với một đồng lương đảm bảo. Đáng  lý phải chuẩn bị cho con người hành

trang đi vào cuộc sống, thì trường học chỉ chuẩn bị cho họ để vào được những vị trí của hệ thống

công quyền, mà ở đó người  ta chẳng cần có chút nỗ  lực  nào cũng có được kết quả. Nó  tạo  ra

ngay trước chân của bậc thang xã hội một đạo quân chống đối, bất mãn với số phận của mình, và

luôn sẵn sàng nổi  loạn; và ở bên trên các bậc thang đó là tầng  lớp tư sản của chúng ta, môt tầng

lớp bàng quang, đồng  thời  lại hay nghi ngờ và cuồng  tín, có một sự tin  tưởng quá mức vào sự

bảo hộ của nhà nước, cái mà họ cũng  thường xuyên chửi bới, bởi vì họ  luôn đổ thừa những sai

lầm của mình cho chính phủ và không hề có khả năng làm một cái gì mà không có sự chỉ bảo của

cấp trên.

Nhà nước chỉ có  thể sử dụng hết một số nhỏ các  trợ  lý, để cho họ  làm việc với sự giúp đỡ của

cách tài  liệu hướng dẫn và trả  lương cho công việc của họ, số còn  lại sẽ không có việc  làm. Nó

bắt buộc phải chọn ra trong đó những người đầu tiên để nuôi ăn và coi những người còn lại là kẻ

thù. Từ ngọn đến gốc của kim tự tháp xã hội hiện nay tích tụ một đội quân đông đảo những trợ lý

trong  tất cả các cơ quan khác nhau. Một thương gia đã phải rất khó nhọc khi đi  tìm một người

thay thế trong đám đó, nhưng trong khi đó lại có hàng ngàn người chầu chực để cố vào được các

vị trí bình thường nhất của chốn công quyền. Chỉ tính riêng trong bộ giáo dục đã có đến hàng hai

chục  ngàn  giáo  viên  không  có  công  việc,  họ  chê  các  công  việc  trên  đồng  ruộng  hoặc ở  công

xưởng và chỉ cố bám cho được nhà nước để có thể sống qua ngày. Bởi số lượng được chọn vào

làm việc hạn chế, cho nên mặc nhiên số người bất mãn sẽ cực lớn. Họ sẵn sàng tham gia vào bất

kỳ cuộc cách mạng nào, bất kể kẻ lãnh đạo là ai và với mục đích gì. Sự tiếp thụ những kiến thức

vô bổ là một phương tiện chắc chắn gây nên sự phẫn nộ ở con người[6].

Giáo dục cổ điển và giáo dục hướng nghiệp

Rõ ràng  là đã quá muộn để chống  lại một trào lưu như vậy. Chỉ có mình kinh nghiệm,  là người

thày cuối cùng, sẽ đảm nhận việc chỉ ra cho chúng ta những sai  lầm của bản thân. Một mình nó

đủ mạnh, để chứng minh cho chúng ta thấy sự cần thiết phải thay thế những sách giáo khoa đáng

kinh  tởm của chúng  ta, thay  thế những kỳ  thi  thảm hại bằng một sự giáo dục hướng nghiệp, để

khuyến khích cổ vũ  thanh niên  trở  lại với đồng  ruộng với công xưởng, với sự nghiệp khai hóa

thuộc địa,  là những cái ngày nay đã bị  sao nhãng. Giáo dục hướng nghiệp,  là cái đã được  tinh

thần khai sáng cổ vũ, là cái ông cha chúng ta ngày xưa đã từng tiếp nhận, và là cái mà những dân

tộc, ngày nay với lòng quyết tâm, với năng lực hành động, và với đầu óc kinh doanh đang thống

trị thế giới, đã có ý thức dìn giữ. Trong những trang khá đặc biệt ở các tác phẩm của mình, ít nữa Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

40

tôi sẽ dẫn ra một số điểm cơ bản làm ví dụ, ông Taine đã chỉ ra một cách rõ ràng, rằng nền giáo

dục của chúng  ta hồi xưa cũng gần giống như nền giáo dục của nước Anh hoặc nước Mỹ hiện

nay,  và  qua  những  so  sánh  quan  trọng  giữa  hệ  thống  giáo  dục La  tinh  với  hệ  thống  giáo  dục

Anglo-Xắcson, ông  ta đã chỉ ra một cách rất rõ ràng những kết quả của hai hệ  thống giáo dục.

Hình như người ta vẫn đang còn có thể chấp nhận mọi nỗi khó chịu đối với nền giáo dục cổ điển

của chúng ta, ngay cả khi nếu như nó chỉ đào tạo ra những kẻ mất gốc và những kẻ bất mãn, và

thậm  chí khi mà  sự  tiếp  thụ một cách qua  loa  các kiến  thức,  nhắc  lại một cách không  sai  sót

những gì trong sách giáo khoa đều được coi là nền tảng cho sự nâng cao kiến thức. Có phải thực

sự như vậy không? Không phải thế! Năng  lực phán xét, kinh nghiệm, năng  lực hành động và tư

cách là những điều kiện để thành công trong cuộc sống, là những cái không thể học được từ sách

vở. Sách vở  là những thứ cần thiết để tra cứu, tuy nhiên sẽ hoàn toàn vô tích sự khi phải nhớ cả

một đoạn dài trong đầu.

Rằng giáo dục hướng nghiệp làm cho trí tuệ phát triển ở mức mà giáo dục cổ điển không thể nào

đạt tới, đã được Taine chỉ ra rất rõ trong những dòng viết sau: "Các ý tưởng chỉ hình thành nên

trong môi trường tự nhiên và thực tế của nó. Những mầm mống của chúng sẽ được nuôi nấng bởi

vô số những ấn  tượng cảm nhận được,  là những cái mà người  thanh niên  trai  trẻ  tiếp  thụ hàng

ngày ở công xưởng, ở hầm mỏ, ở tòa án, ở nơi làm việc, ở bến cảng, ở bệnh viện, trong lúc quan

sát các công cụ lao động, các nguyên vật liệu, và trong hoạt động kinh doanh, khi có mặt khách

hàng, khi có mặt của những người thợ, khi công việc được tiến hành tốt hoặc không tốt, khi kinh

doanh có hiệu quả hoặc thua lỗ. Tất cả những cái đó là những cảm nhận nho nhỏ đặc biệt của cặp

mắt, của đôi tai, của hai bàn tay và cả của mùi vị nữa, chúng được tiếp nhận và xử lý một cách

không cố ý, chúng tự sắp đặt một cách trật tự trong anh ta, để rồi sau đó sớm hoặc muộn chúng

truyền cho anh  ta những cảm  hứng về những mối  liên kết mới,  về  sự đơn giản hóa, về  sự  tiết

kiệm, sự hoàn hảo hoặc về sự phát minh. Tất cả những mối  liên kết quý báu này,  là những điều

kiện cần phải được khuyến khích và không thể thiếu để giúp cho thanh niên Pháp phát triển, thế

nhưng chúng đã bị cướp đi và lại đúng vào lúc ở cái tuổi rực rỡ nhất: bảy hoặc tám năm anh ta bị

nhốt trong trường học, bị cách ly khỏi kinh nghiệm trực tiếp của bản thân, cái kinh nghiệm thức

sự đã cho anh  ta một khái niệm chính xác và sống động về các sự vật, về con người  và những

hình thức ứng xử khác nhau."

"...Ít nhất chín trong mười thanh niên đã tiêu phí thời gian và công sức nhiều năm trời, là những

năm tháng rực rỡ nhất, quan trọng nhất, và rõ ràng là những năm quyết định nhất của cuộc đời: ta

cứ trừ đi trước hết khoảng một nửa hoặc hai phần ba trong số họ tham gia kỳ thi tuyển, tôi cho là

không đủ điều kiện để đi thi; thêm vào đó, trong số đủ điều kiện được thi và trúng tuyển, có một

nửa hoặc hai phần ba phải xét lai. Người ta đã trông chờ ở họ quá nhiều, khi đòi hỏi họ vào một

ngày nhất định  trên ghế nhà  trường hoặc  trước bảng đen  trong suốt hai giờ  liền phải cung cấp

hàng đống kiến thức cứ như thể họ là một tài liệu tham khảo sống về tất cả mọi hiểu biết của loài

người, Quả nhiên ngày hôm đó  trong hai giờ đồng hồ họ gần như  là một  tài  liệu  tra khảo sống

vậy, thế nhưng chỉ một tháng sau họ không còn được như thế nữa. Nếu thi lại ngay họ sẽ không

thể đỗ; Những cái trí nhớ của họ hấp thụ được là quá nhiều, khó tiêu hóa và liên tục trượt ra khỏi

đầu  óc  họ,  và  họ  không  nạp  thêm  được  cái  gì mới  nữa. Năng  lực  trí  tuệ  của  họ  bị  suy  giảm,

nguồn  sinh  lực dồi dào cạn kiệt, con người ở  vào giai đoạn kết  thúc của  sự phát  triển đã  xuất

hiện. Nếu anh ta đi làm và lập gia đình, anh ta sẽ phó mặc cho sự xoay vần, sống trong một vòng

tròn khép kín không biết đến bao giờ  ra khỏi, anh  ta cố  thủ  trong công sở của mình,  thực hiện

đều đều công việc một cách không sai sót và không hề có ý định vượt ra khỏi phạm vi đó. Đó là Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

41

cái kết quả trung bình; cái  thu được không bù  lại nổi cái  tổn phí. Ở Anh và ở Mỹ, nơi mà ở đó

tình hình cũng giống như ở Pháp hồi  trước năm 1789, họ đã thực hiện một tiến  trình hoàn  toàn

ngược lại và thành quả đạt được cho thấy ngày sau lớn hơn ngày trước."

Nhà sử học tuyệt vời này tiếp theo đã chỉ cho chúng ta thấy sự khác biệt giữa hệ thống giáo dục

của chúng ta so với hệ thống giáo dục Anglo-Xắcson. Ở đó sự giảng dạy không dựa trên sách vở

mà dựa trên chính sự vật. Ví dụ như, người kỹ thuật viên sẽ được đào tạo ngay trong xí nghiệp

chứ không phải ở trong trường học; mỗi người có thể đạt đến chính cái trình độ phù hợp với khả

năng nhận  thức của mình,  trở nên người công nhân hoặc  thợ cả, nếu như anh  ta không có khả

năng tiếp tục đi lên, và trở nên kỹ sư, nếu như khả năng của anh ta cho phép. Phương pháp này,

đối với toàn bộ xã hội nó dân chủ và thiết thực hơn là kiểu, đặt hướng đi của cuộc đời con người

phụ  thuộc vào một kỳ  thi kéo dài nhiều giờ đồng hồ mà anh  ta phải  tham gia vào độ tuổi mười

tám tới hai mươi.

"Trong bênh viện,  trong hầm mỏ,  trong nhà máy,  trong công việc kiến  trúc, công việc của  luật

sư, người học trò đủ tiêu chuẩn nhập học, trong những năm tuổi trẻ của đời mình sẽ trải qua thời

gian học nghề và  làm thử, tương tự như một thư ký cho một văn phòng hoặc một thợ sơn trong

công xưởng ở bên ta. Trước đó và cho đến khi vào làm anh ta có thể tham gia một vài khóa học

cơ bản, trong đó anh ta liên tục thu lượm các kết quả quan sát để bồi đắp cho mình các kiến thức

cơ sở phù hợp. Tùy theo khả năng, trong thời gian rỗi anh ta có thể theo học thêm các khóa học

về kỹ thuật để kết hợp với kinh nghiệm hàng ngày tùy theo mức độ của nó. Trong cách đào tạo

như vậy khả năng thực tiễn tự nó sẽ lớn lên và phát triển đến một độ tương ứng với năng lực của

học trò có thể cho phép đạt được, và phù hợp với sự đòi hỏi của công việc trong tương  lai, điều

mà ngay từ bây giờ anh ta đặc biệt muốn vươn tới. Bằng cách như vậy thanh niên ở Anh và ở Mỹ

đã nhanh chóng phát huy được  tất cả những gì có trong khả năng của mình. Với hai mươi  lăm

tuổi, và nếu điều kiện thuận lợi có thể sẽ sớm hơn, anh ta đã trở thành một người thợ có ích, hơn

thế nữa có thể là một nhà kinh doanh độc lập, anh ta không chỉ là một cái bánh răng nhỏ mà còn

có thể là một động cơ. Ở Pháp, nơi mà nền giáo dục chủ yếu hoạt động theo hướng ngược lại, và

với mỗi một thế hệ con người ngày càng trở nên Trung quốc hơn, đã  làm mất đi một  lực  lượng

lao động vô cùng lớn."

Các triết gia đã đi đến kết luận như sau về quan hệ bất cập ngày càng tăng của nền giáo dục của

các dân tộc La tinh chúng ta đối với cuộc sống:

"Trong cả ba cấp giáo dục, tuổi nhi đồng, tuổi thiếu niên, tuổi thanh niên, sự chuẩn bị về mặt lý

thuyết ngày càng bị kéo dài  trên ghế nhà  trường và bị kéo dài  từ những sách giáo khoa đã dẫn

đến sự quá tải, qua các kỳ thi, qua phẩm hàm khoa học, chứng chỉ, văn bằng, và bởi phương tiện

tồi, do vận dụng phương pháp giảng dạy không  tự nhiên, phản xã hội, do  loại bỏ một cách quá

đáng việc dạy thực hành, do việc học nội trú, do rèn luyện một cách giả tạo và do nhồi nhét kiến

thức một cách cứng nhắc, do làm việc quá sức không chú ý đến tương  lai, đến tuổi tác và nghĩa

vụ sắp phải  thực hiện của người đàn ông, do không để ý đến  thế giới hiện  thực, nơi mà người

thanh niên sắp sửa bước vào, không để ý đến cái xã hội bao quanh anh ta, cái xã hội anh ta phải

thích nghi, cái xã hội ngay từ đầu anh ta không muốn từ bỏ nó, do không để ý đến sự đấu tranh

để sinh  tồn của con người, điều anh  ta cần phải được chuẩn bị  trước, được vũ  trang, được  thực

hành và tôi  luyên để tự bảo vệ mình và để đứng vững. Sự trang bị không thể thiếu được đó, cái

phải đạt đến đó, cũng là cái quan trọng hơn tất cả, rồi năng lực trí tuệ lành mạnh của con người, Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

42

của ý chí và  thần kinh vững vàng: hết  thảy không có được  trong  trường học của chúng  ta; mà

hoàn  toàn ngược  lại: đáng  lý  làm cho con người có năng  lực hơn, nó đã  làm  thui chột năng  lực

của họ đối vị  trí  trước mắt và  trong  tương  lại. Chính vì  thế sau khi  từ giã  trường học bước vào

cuộc đời, những bước đi đầu tiên của họ vào môi trường thực tiễn đã không khác gì hơn là hàng

loạt những thất bại đau đớn, chúng đã làm anh ta thương tổn và trong một thời gian dài anh ta đã

bị suy sụp và tàn phế. Đó là một cuộc thử nghiệm nguy hiểm và khắc nghiệt, nó làm lệch chuyển

sự cân bằng của  lý trí và đạo đức và rất nhiều khả năng sẽ không thể nào  lấy  lại cân bằng được

nữa. Sự thất vọng đã xảy ra quá đột ngột và toàn diện, sự lừa đảo đã trở nên quá  lớn và sự kinh

tởm đã trở thành quá khủng khiếp [7].

Trong phần trên chúng ta đã đi lệch khỏi vấn đề tâm lý học đám đông? Chắc chắn là không. Nếu

chúng  ta muốn hiểu về những ý  tưởng và những quan điểm mà ngày hôm nay vẫn đang còn  là

những mầm mống nhưng ngày mai chúng sẽ mọc lên, thì chúng ta phải cần biết đến mảnh đất đã

cung cấp cho chúng sự chuẩn bị như thế nào. Nền giáo dục mà thanh niên của một quốc gia được

tận hưởng, cho phép chúng ta dự đoán được phần nào số phận của đất nước đó. Sự giáo dục được

áp dụng cho thế hệ hiện nay  là minh chứng cho một linh cảm tăm tối nhất. Gắn  liền với sự giáo

dục và giảng dạy, tâm hồn đám đông sẽ trở nên cao quý hoặc bị thui chột. Cho nên cần thiết phải

chỉ ra cái hệ thống hiện nay đã nhào nặn họ như thế nào và chỉ ra cái đám đông những kẻ thờ ơ,

vô cảm đang dần  trở nên một đội quân bất mãn vô cùng  lớn  ra sao, một đội quân đã sẵn  sàng

tuân theo tất cả mọi tác động bởi những kẻ muốn cải tạo thế giới và bởi những thuyết gia. Ngày

nay  nhà  trường đã đào  tạo nên những con người bất mãn, những kẻ  vô chính phủ  và  nó đang

chuẩn bị cho thời đại tàn lụi của các dân tộc Latinh.  

______________________________

[1] Bởi học thuyết này còn rất mới và nếu không có nó ta sẽ vẫn chưa hiểu được lịch sử, cho nên

tôi đã dành chỗ cho nó ở nhiều chương trong tác phẩm của tôi mang tên "Các định luật của phát

triển dân tộc". Độc giả qua đó sẽ nhận thấy, mặc dù bị vẻ ngoài che  lấp, kể cả ngôn ngữ lẫn tôn

giáo, lẫn các loại nghệ thuật, hoặc bất kể một yếu tố nghệ thuật nào đều không thể không bị biến

đổi khi được truyền từ dân tộc này sang dân tộc khác.

[2] Báo cáo của nghị viên già Fourcroy, mà Taine lấy làm ví dụ, chỉ ra rất rõ mặt này: "Những gì

người  ta  thấy ở những cuộc  lễ chủ nhật và đi nhà  thờ chứng minh rằng, đám đông người Pháp

muốn quay trở lại với những tập tục cũ, và cái thời để chống lại cái mong muốn này của dân tộc

đã không còn nữa. Đám đông con người thấy cần phải có tôn giáo, có một thần tượng và các giáo

sĩ. Một sự nhầm  lẫn của một vài triết gia, điều mà bản thân tôi cũng  lâm phải,  là đã tin vào khả

năng của một  sự giáo dục, chỉ cần  nó đủ phổ cập  là có  thể phá  vỡ  những định kiến  tôn giáo:

chúng  là nguồn an ủi đối với nhiều nỗi bất hạnh... Do vậy người  ta không nên động chạm đến

những giáo sĩ, những nơi thờ phượng và thần tượng của đám đông dân chúng."

[3] Điều này được  thừa nhận ngay cả ở Mỹ bởi những người cộng hòa kiên quyết nhất. Tờ báo

Mỹ "Forum" đã nhận xét về ý kiến này, và tôi cũng đã đăng lại trong "Review of Reviews" tháng

12 1894: "Ngay cả những kẻ thù sôi máu nhất của giới quý tộc cũng không được phép quên rằng,

ngày nay nước Anh là một nước dân chủ nhất thế giới, ở đó quyền của mỗi một con người được

chú trọng và nó có nhiều tự do nhất." Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

43

[4] Nếu người  ta so sánh sự bất đồng sâu sắc giữa  tôn giáo và chính  trị, cái đã  làm nên sự chia

cắt giữa nhiều vùng ở nước Pháp, với xu hướng  ly khai xuất hiện  trong  thời đại cách mạng và

trong thời kỳ kết thúc cuộc chiến tranh Pháp-Đức, ta sẽ thấy, rằng các chủng tộc khác nhau, sống

trên đất nước chúng ta, còn lâu nữa mới có thể hòa hợp. Sự tập trung hóa đầy quyền lực và sự tạo

nên các cơ quan giả  tạo nhằm mục đích  trộn  lẫn các  tỉnh  thành xưa kia vào nhau, chắc chắn  là

những công việc có  ích nhất của cách mạng. Giả như sự tản quyền, cái mà những cái đầu  thiển

cận hôm nay  ra  rả nói, có  thể  thành công,  thì nó sẽ dẫn đến những cuộc chiến  tranh đẫm máu

không thể lầm lẫn. Không nhận ra được điều đó, có nghĩa là lịch sử của chúng ta đã hoàn toàn bị

lãng quên.

[5] xem thêm trong "Tâm lý học của chủ nghĩa xã hội", "Tâm lý học giáo dục"

[6] Vả lại đó cũng không phải là hiện tượng đặc biệt chỉ ở các dân tộc Latinh, người ta cũng thấy

hiện tượng như vậy ở Trung quốc, chúng được hình thành từ thứ bậc chặt chẽ của hệ thống quan

lại, và ở đâu nghề  làm quan đạt đến được bằng  thi cử như ở chỗ chúng  ta, thì ở đó đòi hỏi duy

nhất là nói một cách trôi chảy những gì đã có trong các sách giáo khoa. Đội quân những nhà giáo

thất nghiệp ở Trung quốc ngày nay đang là một tai họa thực sự. Ở Ấn độ cũng vậy, từ khi người

Anh ở đó mở trường để chỉ bảo người bản xứ, chứ không phải giáo dục, một đẳng cấp đặc biệt

của  những  người  có  học,  đẳng  cấp Babus,  đã  hình  thành,  và  đã  trở  nên  kẻ  thù  không  khoan

nhượng của của chính quyền Anh, nếu như họ không nhận được chỗ làm. Tác động đầu tiên của

việc giảng dạy ở đẳng cấp Babus, bất kể sau đó có công việc hay không,  là sự xuống dốc một

cách đặc biệt về đạo đức.Về điểm này  tôi đã  trình bày  rất  tường  tận  trong quyển "Văn hóa Ấn

độ". Tất cả các tác giả đã từng tới thăm tiểu lục địa này đều có chung một nhận xét như vậy.

[7] Taine, Le  régime moderne  II, 1894.  - Đó gần như  là  những  trang cuối cùng Taine đã viết.

Chúng tóm tắt lại một cách tuyệt vời các kết quả của những kinh nghiệm lâu năm của một nhà tư

tưởng lớn. Giáo dục là phương tiện duy nhất của chúng ta để có thể tác động chút ít đến tâm hồn

đám đông, và nghĩ đến  lại rất buồn, khi mà hầu như chẳng có ai ở Pháp có  thể hiểu được, rằng

nền giáo dục hiện nay của chúng  ta  là nguyên  nhân kinh khủng của một  sự méo mó. Đáng  lý

phải nâng tầm của tuổi trẻ lên thì nó lại dìm họ xuống và làm cho họ thối rữa.

Chương 2: Những động lực trực tiếp của các quan điểm của đám đông

Chúng  ta  đã  xác  định  ra  những  động  lực  gián  tiếp  và  những  động  lực  có  tác  dụng  chuẩn  bị,

những  tác động đã  trang bị cho đám đông một khả năng  tiếp  thụ đặc biệt, bằng cách chúng  tạo

điều kiện cho các tình cảm và ý tưởng nảy nở. Bây giờ chúng ta sẽ phải nghiên cứu về các động

lực có  thể tác động  trực tiếp đến hành động. Trong chương  tiếp  theo chúng  ta sẽ  thấy các động

lực này đã được sử dụng như thế nào để có thể phát huy hết tác dụng của chúng. Phần đầu tiên

của  tác phẩm này bàn về  tình cảm, các ý  tưởng và niềm  tin của một  tập  thể  (collectivités). Từ

nhận thức về chúng, rõ ràng bằng những cách thức thông thường người ta có thể xác định ra các

phương tiện để tác động vào tâm hồn đám đông. Chúng ta đã từng biết, cái gì tạo nên ấn tượng

trong  trí  tưởng  tượng của đám đông, chúng  ta đã  làm quen với  sức mạnh của sự  truyền nhiễm

của các  tác động, đặc biệt  là những  tác động nào xuất hiện dưới dạng hình ảnh. Nhưng bởi các

tác động có thể xảy ra có những nguồn gốc hoàn toàn khác nhau, cho nên cũng có thể các yếu tố

có khả năng tác động được vào đám đông cũng rất là khác biệt; do vậy người ta cần phải khảo sát

chúng một cách riêng rẽ. Đám đông giống như con Sphinx trong huyền thoại cổ: những câu hỏi Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

44

mà các nhà tâm  lý học của chúng đặt ra cho chúng ta, hoặc chúng ta phải trả  lời hoặc tự để cho

chúng nuốt chửng mình.

§1. Hình ảnh, ngôn từ và các thành ngữ

Trong khi nghiên cứu về trí tưởng tượng của đám đông chúng ta đã tìm ra, rằng họ bị kích động

thông qua các hình ảnh. Những hình ảnh này không phải lúc nào cũng có sẵn để sử dụng, nhưng

người  ta có  thể  tạo  ra chúng  bằng cách  vận dụng một cách khéo  léo những  ngôn  từ hoặc các

thành ngữ. Nếu chúng được dùng một cách nghệ thuật, có thể nói rằng chúng thực sự có một sức

mạnh huyền bí, giống như sức mạnh xưa nay thường được gắn cho những người tinh thông về ảo

thuật. Nó khơi dậy trong đám đông những cơn bão tố khủng khiếp và cũng có thể xoa dịu chúng.

Bằng xương của những người đã từng  là nạn nhân của sức mạnh ngôn từ và thành ngữ người ta

có thể làm nên những kim tự tháp cao hơn kim tự tháp của thời đại Cheop khi xưa. Sức mạnh của

ngôn từ gắn liền với hình ảnh mà nó gợi lên và hoàn toàn không phụ thuộc vào ý nghĩa thật của

nó. Những ngôn từ khó có thể cắt nghĩa thường là những ngôn từ có tác động mạnh mẽ nhất. Ví

dụ như khái niệm dân chủ, chủ nghĩa xã hội, bình đẳng, tự do... mà ý nghĩa của chúng rất không

xác định, cho dù sử dụng đến cả  tập giấy dày cũng không  luận hết ý nghĩa của chúng. Song đi

liền với những âm tiết ngắn gọn của chúng là một sức mạnh huyền bí thực sự, cứ như là nó chứa

đựng giải pháp cho tất cả mọi vấn đề. Ở trong nó là sự tóm lược một cách sống động những hoài

bão vô thức khác nhau và niềm hy vọng chúng sẽ trở thành hiện thực.

Với  lý trí và những  luận chứng người ta không thể chống  lại được những ngôn từ và thành ngữ

nào đó. Người ta thành tâm phát ngôn chúng trước đám đông và đồng thời với một thái độ hoàn

toàn tôn kính, một tư thế đầu hơi cúi xuống. Nhiều người sẽ cảm nhận thấy được ở chúng những

sức mạnh tự nhiên hoặc những quyền  lực siêu phàm. Nó khơi dậy bên trong các tâm hồn những

hình ảnh vĩ đại và không xác định, nhưng chính cái không xác định này đã  làm cho nó  trở nên

mờ ảo và  tăng  thêm sức mạnh huyền bí. Chúng có thể so sánh được với mọi  thánh  thần khủng

khiếp khuất mình sau những điện thờ mà tất cả những kẻ sùng tín đều run sợ khi tiến lại gần. 

Bởi vì những hình ảnh được gợi nên qua ngôn  từ không phụ  thuộc vào ý nghĩa  của chúng, cho

nên chúng biến đổi từ thời đại này sang thời đại khác, từ dân tộc này sang dân tộc khác mà vẫn

giữ nguyên hình dạng của chúng. Gắn với một ngôn từ nhất định thường  là một hình ảnh: ngôn

từ chỉ là cái nút bấm chuông để gọi nó ra.

Không phải ngôn  từ và  thành ngữ nào cũng chứa đựng một sức mạnh để gợi nên hình ảnh, và

cũng có những ngôn từ bị hao mòn khi sử dụng và sau đó chúng không còn sức để gợi nên một

cái gì. Chúng chỉ còn là tiếng vọng trống rỗng, và ích lợi duy nhất là làm cho tất cả những ai sử

dụng nó đỡ phải mất công suy nghĩ. Với một kho dự trữ nhỏ những thành ngữ và những điều sáo

rỗng học được lúc còn trẻ, chúng ta có tất cả những gì cần thiết để không cần phải mất công suy

nghĩ mà vẫn đi suốt cả cuộc đời.

Nếu quan sát một ngôn ngữ nào đó, ta sẽ thấy, rằng các ngôn  từ hợp nên ngôn ngữ đó biến đổi

tương đối chậm  theo  thời gian; nhưng những hình ảnh nó gợi  lên hoặc những ý nghĩa người  ta

đặt đằng sau nó lại biến đổi không ngừng. Và ở một công trình khác tôi cũng đã đi đến kết luận,

rằng việc dịch chính xác một ngôn ngữ, đặc biệt  là những ngôn ngữ đã chết, hoàn  toàn  là điều

không thể được. Thực tế chúng ta đã làm gì, khi chúng ta muốn chuyển một sự diễn đạt từ tiếng Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

45

Pháp sang  tiếng Latinh,  tiếng Hylạp hoặc  tiếng Sankrit, hoặc ngay cả khi chúng  ta chỉ  thử hiểu

một cuốn sách đã được viết cách đây hàng thế kỷ bằng chính ngôn ngữ của chúng ta? Chúng ta

đã đơn giản gắn những hình ảnh và những tưởng  tượng mà cuộc sống hiện đại tạo nên trong trí

óc của chúng  ta vào những khái niệm những hình ảnh hoàn  toàn khác,  là những cái đươc cuộc

sống thời xưa phản ánh vào tâm hồn của chủng tộc, mà điều kiện sống của họ thời đó chẳng có gì

giống  với của chúng  ta hiện  nay. Những người  sống ở  thời đại  cách mạng đã  tin  vào việc  bắt

chước  những  người Hy  lạp  và La mã,  nên  chỉ  gắn  cho  những  ngôn  từ  cũ  những  ý  nghĩa mà

chúng chưa bao giờ có. Có sự giống nhau nào giữa các thể chế thời Hylạp và những thể chế hiện

tại với cùng một tên gọi không sai một chữ? Một thể chế cộng hòa thời đó khác về cái gì so với

một thể chế, về cơ bản mang tính quý tộc, dựa trên  liên minh của nhiều bạo chúa nhỏ, thống trị

một đám đông nô  lệ và hoàn toàn phụ thuộc? Những tầng  lớp quý tộc địa phương này được xây

dựng trên sự chiếm hữu nô lệ và sẽ không thể tồn tại đươc nổi một giây nếu không có nó.

Và  làm thế nào hai chữ tự do lại có thể có được cùng một ý nghĩa như trong thời đại của chúng

ta, khi mà ở thời đại ngày đó, chưa hề dám nghĩ đến tự do tư tưởng và cũng chưa hề biết về sự

phạm thượng nào lớn hơn và thậm chí hiếm khi là những cuộc tranh cãi về về thánh thần, về các

điều  luật và đạo đức công dân? Từ  tổ quốc  trong  tâm  hồn  của  người Athen  hoặc Sparta có  ý

nghĩa là tình yêu đối với Athen và Sparta, nhưng không thể là như vậy đối với người Hy lạp, một

đất nước gồm nhiều nước nhỏ hợp lại liên tục đánh chiếm và tranh giành lẫn nhau. Cùng một từ

sẽ có một ý nghĩa như thế nào ở những bộ  lạc cạnh  tranh  lẫn nhau ở vùng Gallie khi xưa, khác

nhau về chủng  tộc,  tiếng nói và  tôn giáo, nơi đã bị Ceasar chiếm đoạt một cách dễ dàng bởi vì

ông ta luôn có sự liên minh với họ? Rôm, mình nó đã trao cho Galie một tổ quốc bằng cách làm

cho vùng này có một sự thống nhất về chính trị và tôn giáo. Song ta cũng không cần phải quay

ngược trở lại quá khứ quá xa, chỉ cần xấp xỉ hai thế kỉ về trước cũng đã đủ:  liệu người ta có tin

rằng  từ tổ quốc của những hoàng  tử nước Pháp, những người giống như dòng dõi Condé vĩ đại

đã  liên kết với kẻ thù để chống  lại chính những ông chủ của mình,  lại có cùng một ý nghĩa như

chúng ta thường hiểu ngày nay? Và cùng một tên gọi "người nhập cư" chắc phải có một ý nghĩa

hoàn toàn khác hẳn bây giờ? Họ đã tin rằng phải biết trọng quy tắc danh dự, nếu như họ kháng

chiến chống Pháp, và họ tuân theo điều đó để quả thực ở đâu ông chủ sống ở đó đích thực  là tổ

quốc, vì cách nhìn của họ dựa vào  luật nông nô,  là điều  luật  rằng buộc họ vào với chủ nô chứ

không phải với đất nước.

Không thể nào kể hết số từ ngữ theo thời gian đã  thay đổi một cách căn bản ý nghĩa của chúng

như vậy. Chúng  ta phải cố gắng  rất nhiều mới có  thể hiểu được ý nghĩa của chúng  trước đây.

Người ta phải đọc nhiều, và thực sự là như vậy, chỉ duy để có thể hiểu được chữ "ông Vua" và

"gia đình vua chúa" mang ý nghĩa gì trong con mắt của ông cha chúng ta. Cho nên đối với những

khái niệm khó hơn thì phải biết rằng nó sẽ như thế nào!

Các ngôn  từ như thế chỉ có những ý nghĩa mang  tính  thay đổi và nhất  thời. Những ý nghĩa này

biến đổi cùng với các thời đại và các dân tộc. Nếu muốn chúng tác động được vào đám đông, thì

chúng ta phải hiểu được ý nghĩa của chúng ngay tại thời điểm nó được giành cho họ, chứ không

phải một ý nghĩa nào đó của nó  trước đây hoặc  là ý nghĩa chỉ để giành cho những cá nhân có

nhận thức hoàn toàn đặc biệt. Ngôn từ cũng sống động tựa như ý tưởng.

Như vậy nếu một khi đám đông do những biến đổi về chính  trị hoặc do sự thay đổi  tín ngưỡng

dẫn đến  sự ghê  tởm  sâu  sắc những hình  ảnh được gợi  nên bởi một ngôn  từ nào đó,  thì  lúc đó Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

46

nhiệm  vụ đầu  tiên của  người  lãnh đạo  nhà  nước  chân chính  là phải  thay đổi  các quan  hệ, mà

không-nhớ chú ý điều này-động chạm đến bản  thân sự vật, bởi vì những cái đó có quan hệ với

một  trạng  thái  tính  thần được di  truyền  lại và khăng khít đến đến mức  rất khó có  thể  thay đổi

chúng. Ông Tocqueville  thông  thái đã nhắc nhở,  rằng công việc của  tổng  tài và của  triều đình

trước  hết  là  phải  đặt  cho  phần  lớn  các  thể  chế  của  quá  khứ  những  cái  tên  gọi mới,  sau  đó  là

những khái niệm đã từng gợi nên trong trí tưởng tượng của đám đông những hình ảnh đáng căm

ghét phải được  thay  thế bằng những khái niệm khác, mà sự mới mẻ của chúng  làm cho những

hình ảnh kia không thể xuất hiện trở lại được nữa. Khái niệm "Taille" sẽ được thay bằng thuế cơ

bản, khái niệm "Gabelle " được gọi  là thuế muối,  thuế tiêu thụ thì được gọi  là thuế gián tiếp và

thuế hải quan, thay vì thuế thợ cả, thuế người làm sẽ trở thành thuế doanh nghiệp v.v...

Một trong những nhiệm vụ quan  trọng nhất của  lãnh đạo nhà nước  là những  thứ mà  tên gọi cũ

của chúng làm đám đông ghê tởm phải được thay thế bằng những cái tên gần gũi với dân chúng

hoặc  ít  nhất cũng không mang một  ý  nghĩa gì. Quyền  lực của  ngôn  từ mạnh đến  nỗi, chỉ  cần

khéo chọn những cái tên cũng đủ để có thể làm cho đám đông chấp nhận cả những sự việc đáng

căm  ghét  nhất. Taine  đã  chỉ  ra  rất  chí  lý,  rằng  những  người  Jacobin  nghe  theo  tiếng  gọi  của

những từ ngữ rất phổ biến thời đó như "tự do" "bác ái" đã bắt một chế độ chuyên chế, từ này  lẽ

ra chỉ  xứng đáng để giành cho chế độ của vương quyền Dahomey, phải  chịu một cảnh xét xử

công khai như tòa dị giáo và chịu cảnh hành quyết hàng loạt giống như thời xưa ở Mexico. Nghệ

thuật lãnh đạo của chính quyền giống như nghệ thuật của các luật sư ở chỗ là phải hiểu cách làm

chủ  các  ngôn  từ. Đó  là một nghệ  thuật khó, bởi  trong cùng một xã  hội, những  ngôn  từ giống

nhau đối với các thành phần xã hội khác nhau thường mang những ý nghĩa hoàn toàn khác nhau.

Họ có vẻ sử dụng cùng một từ, nhưng nói ra không cùng một thứ tiếng.

Trong các ví dụ trên đây chúng ta đã đặc biệt quan sát riêng rẽ yếu tố thời gian  là nguyên nhân

chính làm thay đổi ý nghĩa của các ngôn từ. Nếu chúng ta chú ý thêm yếu tố chủng tộc, chúng ta

sẽ  thấy,  rằng  trong cùng một  thời gian ở các dân  tộc có cùng văn hóa, nhưng khác chủng  tộc,

những  từ giống  nhau  thường  tương ứng  với  những  hình dung hoàn  toàn khác  nhau. Những  sự

khác nhau này nếu người ta không đi đây đi đó, đến nhiều chỗ khác nhau, sẽ không thể biết đến

và hiểu được, và bởi vậy  tôi cũng không có ý nhấn mạnh về chúng. Tôi chỉ giới hạn ở sự nhắc

nhở,  rằng  chính ở  ngay  những  từ  thông  thường  nhất, ở  những dân  tộc khác  nhau, chúng có  ý

nghĩa khác biệt nhất. Ví dụ như các khái niệm "dân chủ" và "chủ nghĩa xã hội" thường được sử

dụng nhiều hiện nay.

Trong thực tế ở các dân tộc Latinh và Anglo-Xắcson chúng tương ứng với những hình dung hoàn

toàn  trái  ngược về  nội dung  và  hình  ảnh. Ở các dân  tộc Latinh khái  niệm  "dân chủ"  trước hết

mang ý nghĩa loại bỏ những ý chí và quyết tâm của cá nhân trước nhà nước. Nhà nước ngày càng

phải tải nặng hơn, nó phải lãnh đạo, phải tập trung hóa, phải độc quyền hóa, phải sản xuất. Tất cả

mọi thành phần đều phải phụ thuộc vào nhà nước và không có ngoại lệ ngay cả đối với những kẻ

quá khích, những phần  tử xã hội chủ nghĩa, những kẻ  theo chủ nghĩa quân chủ. Ở các dân  tộc

Anglo-Xắcson cụ  thể  là nước Mỹ, cũng chính khái niêm ấy nhưng ngược  lại nó mang ý nghĩa

của một sự khuyếch trương nồng nhiệt nhất về ước vọng và nhân cách cá nhân, về sự rút lui của

nhà nước đến mức có thể, người ta không để cho nhà nước lãnh đạo một cái gì ngoại trừ công an,

quân đội và ngoại giao, thậm chí giáo dục cũng không chịu sự lãnh đạo của nhà nước. Cùng một

từ ở hai dân tộc này mang một ý nghĩa hoàn toàn khác nhau như thế đấy[1]. Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

47

§2. Ảo tưởng

Ngay  từ  buổi  bình minh  của  văn  hóa,  các  dân  tộc  luôn  luôn  phải  chịu  ảnh  hưởng  của  các  ảo

tưởng  . Họ đã  tạo nên cho các đấng sáng  tạo ra những ảo  tưởng các đền đài, các  tác phẩm hội

họa và điện thờ nhiều nhất. Xưa kia là những ảo tưởng tôn giáo, ngày nay là những ảo tưởng triết

học - tuy nhiên bao giờ người ta cũng tìm thấy những kẻ thống trị kinh khủng này ở đỉnh cao của

tất cả các nền văn hóa, chúng  lần  lượt nối  tiếp nhau nảy nở  trên hành  tinh của chúng  ta. Nhân

danh chúng, đền đài ở Chaldäas và Aicập, các nhà thờ thời trung cổ đã mọc lên sừng sững, nhân

danh chúng khắp châu Âu trước đây một  thế kỷ đã bị đảo  lộn. Không có một quan điểm chính

trị, nghệ  thuật, xã hội nào của chúng  ta  lại không mang  trên mình dấu ấn quyền  thế của chúng.

Thường con người vứt bỏ nó xuống với một cái giá của những cuộc đảo lộn khủng khiếp, nhưng

rồi có vẻ như là định mệnh họ lại dựng nó lên trở lại. Không có nó có lẽ con người không thể để

lại đằng sau mình những cái tàn bạo nguyên thủy, và không có nó con người chẳng bao lâu sẽ lại

quay trở  lại với cái tàn bạo đó. Không nghi ngờ gì nữa đó  là những cái bóng trống rỗng, nhưng

những người con gái của những giấc mơ của chúng ta đó đã ép buộc các dân tộc làm nên tất cả

những gì rạng rỡ của nghệ thuật và những gì vĩ đại của văn hóa.

"Nếu người ta có thể đem tất cả các tác phẩm nghệ thuật, các tượng đài trong các viện bảo tàng

và trong các thư viện, những thứ mà sự tồn tại của chúng là nhờ có ảnh hưởng của tôn giáo, đập

tan và phá nát rồi đem chất đống trước sân nhà thờ, thử hỏi sẽ còn lại những gì từ những giấc mơ

vĩ  đại  của  loài  người?, một  tác  giả  khi  tổng  kết  các  kiến  thức  của  chúng  ta  đã  viết  như  vậy.

"Quyền tồn tại của các thánh thần, của những anh hùng và nhà thơ nằm ở chỗ, tất cả họ đã cho

con người dự phần vào những hy vọng và những ảo tưởng, không có chúng con người không thể

nào sống nổi. Có một thời gian dài có vẻ như các nhà khoa học đã đảm nhiệm công việc này. Họ

đã tự tước bỏ uy tín của mình đối với những tâm hồn đói ý tưởng, bởi vì họ không đủ cam đảm

để hứa hẹn và không giỏi lừa dối."

Nhiều triết gia của thế kỷ trước đã chú tâm một cách nhiệt tình trong vấn đề xóa bỏ những ảo ảnh

của tôn giáo, chính trị và xã hội, những ảo ảnh mà ông cha ta đã từng sống chung trong nhiều thế

kỷ. Sự xóa bỏ này làm tắc nghẽn những cội nguồn của hy vọng và dâng hiến. Đằng sau quái vật

Chimeras được cúng  tế họ  tìm  thấy những  thế  lực  tự nhiên mù quáng, chúng chống  lại  sự yếu

đuối một cách không mệt mỏi và không hề biết đến một chút thương hại. 

Mặc dù với tất cả các tiến bộ của mình triết học vẫn không có khả năng trưng ra cho đám đông

một ý tưởng để có thể mê hoặc họ. Bởi đám đông không thể thiếu được những ảo tưởng nên, như

những con  thiêu  thân  lao vào  lửa, họ  tình nguyện hiến dâng mình cho những  thuyết gia, những

người đã cung cấp cho họ các ảo tưởng. Sự thật không bao giờ là động lực to lớn đối với sự phát

triển của các dân tộc, mà là sự lầm lẫn. Và ngày nay nếu chủ nghĩa xã hội nhìn thấy sức lực của

nó  lớn mạnh, điều đó được giải thích, rằng nó thể hiện cái ảo tưởng duy nhất vẫn còn đang tiếp

tục sống. Những  luận chứng khoa học không  thể ngăn cản sự phát  triển của nó. Sức mạnh chủ

yếu của nó nằm ở chỗ, nó được những cái đầu có đủ nhầm  lẫn về hiện thực bảo vệ, để dám hứa

hẹn môt cách  lạnh  lùng với  họ về hạnh phúc. Những ảo  tưởng xã hội ngày nay đang  thống  trị

trên  tất cả những đổ nát được quá khứ  tích  tụ  lại,  và  tương  lai  sẽ  thuộc  về chúng. Đám đông

không  bao giờ khao khát  sự  thật. Họ quay  lưng  lại  với  thực  tế mà  họ không  thích  và ưa  thần

tượng hóa những sai lầm nếu như chúng có thể quyến rũ được họ. Ai biết cách lừa dối họ, kẻ đó

dễ trở thành ông chủ của họ, ai định khai sáng họ, kẻ đó sẽ luôn trở thành nạn nhân của họ. Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

48

§3. Kinh nghiệm

Kinh nghiệm gần như là phượng tiện có hiệu quả duy nhất để có thể gieo cấy sự thật vào tâm hồn

đám đông và phá vỡ những ảo tưởng đang dần trở nên nguy hiểm. Để được như vậy kinh nghiệm

phải dựa trên một nền tảng rộng và thường cần phải được nhắc  lại  liên tục. Những kinh nghiệm

mà một  thế hệ  thu  thập được đối với  thế hệ  tiếp  theo  thường  là vô giá  trị, chính vì  thế việc  lấy

những sự kiện lịch sử ra làm minh chứng không đem lại tác dụng gì. Ích lợi duy nhất của chúng

là chỉ ra, rằng các kinh nghiệm ở mỗi một thời đại phải cần được nhắc  lại ở mức độ nào, để có

thể đạt được một ảnh hưởng nào đó và đem đến kết quả, cho dù cũng chỉ  là việc xóa bỏ một sai

lầm đã nảy sinh trong tâm hồn đám đông.

Thế kỷ của chúng ta và thế kỷ trước đây không nghi ngờ gì nữa, chúng sẽ được các nhà sử học

của tương  lại gọi  là thời đại của những kinh nghiệm kỳ quặc. Không có một thời đại nào  lại có

thể có được nhiều như vậy.

Một kinh nghiệm vĩ đại nhất đó  là cuộc cách mạng Pháp. Để có thể phát hiện ra, rằng người  ta

không thể cải tạo một xã hội một cách triêt để với những phương tiện của lý trí thuần túy, đã cần

phải có đến hàng triệu con người bi giết hại và cả châu Âu đã bị cào xới trong suốt hai chục năm

trời. Để có  thể chứng minh cho chúng  ta  thấy bằng kinh nghiệm, rằng Caesar  lên ngôi với một

cái giá đắt chừng nào đối với những người dân đã từng tung hô ông, đã phải cần đến những kinh

nghiệm tàn phá trong vòng hai chục năm, những kinh nghiệm, mặc dù chúng rất dễ hiểu nhưng

dường như không đủ để  làm cho người  ta  tin. Mặc cho cái kinh nghiệm  thứ nhất đã  lấy đi hai

triệu mạng sống và một cuộc xâm lăng của kẻ thù, kinh nghiệm thứ hai vẫn tiếp tục xảy ra với sự

tan hoang của đất nước và dẫn đến sự cần thiết phải có một đội quân thường trực. Kinh nghiệm

thứ ba suýt nữa xảy ra sau đó không lâu và chắc chắn sẽ xảy ra vào một ngày nào đó. Để có thể

chứng minh cho chúng ta, rằng đội quân Đức đông đảo không phải, như người ta đã dạy chúng ta

hồi  trước năm 1870,  là đội quân cận  vệ quốc gia hiền  lành[2], đã cần phải có một cuộc chiến

khủng khiếp, làm chúng ta thiệt hại không biết bao nhiêu mà kể. Để có thể nhận thức được, rằng

một hệ thống bảo hộ thuế quan đã làm cho những dân tộc vận dụng nó tàn tạ như thế nào, sẽ cần

thiết phải có nhiều kinh nghiệm đau đớn nữa. Những thí dụ kiểu như vậy có thể kể ra không bao

giờ hết.

§4. Lý trí

Khi điểm  lại các  yếu  tố có khả  năng  làm kích  thích được đám đông, chúng  ta có  thể  hạn chế

không nhắc tới lý trí, nếu như không phải bắt buộc phải chỉ ra mặt tiêu cực trong các ảnh hưởng

của nó.

Từ lâu ta đã xác định, rằng đám đông không thể bị tác động bởi những bằng chứng lôgic và khả

năng của nó chỉ có thể hiểu những ý tưởng được  liên kết với nhau một cách thô thiển. Chính vì

thế những diễn thuyết gia, biết cách tác động vào họ, đều nhằm tới tình cảm chứ không hề nhằm

vào lý trí của họ. Các quy luật về lô gíc chẳng có chút tác động nào vào đám đông [3]. Để có thể

làm cho đám đông  tin, đầu  tiên  ta phải phân  tích một cách  tỷ mỷ những  tình cảm đã  thỏa mãn

tâm hồn họ, phải tạo nên đựợc cái cảm giác là ta đang chia sẽ tình cảm đó với họ, sau đó mới tìm

cách thay đổi họ, bằng cách sử dụng những liên kết ý tưởng được ám chỉ để gợi nên những hình

ảnh có một sức thuyết phục nào đó; hơn nữa nếu cần thiết ta có thể phải từ bỏ ý định của mình và Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

49

điều cơ bản ở đây là phải đoán nhận ra được tức khắc những phản ứng tình cảm mà ta gợi nên ở

họ. Sự cần thiết rằng ta phải thay đổi cách thức thể hiện một cách nhanh chóng tùy theo kết quả

thu được,  là  lời  tuyên án cho sự thất bại ngay  từ đầu của những bài diễn văn chuẩn bị  trước và

được  học  thuộc  lòng. Diễn  giả  nào  chỉ  đi  theo  luồng  suy  nghĩ  của mình,  chứ  không  phải  của

người nghe chỉ riêng việc đó thôi cũng sẽ dẫn tới việc bị mất đi bất kỳ các ảnh hưởng nào.

Những bộ óc lôgic, quen với sự rút ra những kết luận tương đối ngắn gọn một cách tuần tự của lý

trí, sẽ không thể tự kiềm chế lòng mong muốn của mình vào việc vận dụng kiểu thuyết phục như

vậy khi tiếp xúc với đám đông, và do đó họ đã phải  luôn  luôn ngạc nhiên về những thất bại của

những luận cứ của mình. "Những kết luận toán học thông thường dựa trên sự suy  luận, có nghĩa

là xây dựng  trên chuỗi các sự tương đồng,  là điều cần  thiết", một nhà  lô gic học viết... "Sự cần

thiết của chúng có thể ép buộc ngay cả một khối vô cơ cũng phải thừa nhận, nếu như nó có thể

hiểu được chuỗi các sự tương đồng", chắc chắn  là như vậy; nhưng đám đông không  thể nào có

đủ khả năng lĩnh hội điều đó hoặc thậm chí có thể hiểu được nó giống như là khối vô cơ. Ví dụ,

ta  thử  thuyết  phục một  người  nguyên  thủy, một  người  hoang  dã  hoặc một  đứa  trẻ  con  bằng

những lập luận lôgic, lúc đó ta sẽ nhận thấy rằng những kiểu cách thuyết phục như vậy mang lại

kết quả rất ít như thế nào.

Người ta không cần đến một lần hạ thấp mình xuống như một người nguyên thủy để mới có thể

hiểu được sự bất lực của lôgic trong cuộc chiến chống lại tình cảm. Chúng ta hãy chỉ cần nhớ lại

những định kiến tôn giáo, những kiểu định kiến trái ngược hẳn với tính lôgic đơn giản nhất, đã tự

bảo  tồn một cách ngoan cố  trong suốt bao  thế kỷ  ra sao. Gần  suốt hai ngàn năm những bộ óc

sáng lạn nhất đã phải chịu khuất phục trước những luật lệ của chúng, và chỉ mãi đến thời hiện đại

họ mới dường như có thể dám nghi ngờ về tính trung thực của chúng.Thời trung cổ và thời phục

hưng cũng không thiếu những bộ óc thông mình, nhưng không hề có một ai trong số đó mà lý trí

vạch ra được cho nó những khía cạnh trẻ con trong những điều mê tín của nó và khơi dậy cho dù

chỉ một chút nghi ngờ vào sự độc ác của ma quỷ hoặc vào sự cần thiết phải tiến hành hỏa thiêu

những người bị coi là phù thủy.

Có phải đám đông không bao giờ được dẫn dắt bởi lý trí là một điều đáng tiếc? Chúng tôi không

dám khẳng định cái điều như vậy. Lý trí của con người dường như không thể đạt được đến việc

dẫn dắt  loài người, với cùng một nhiệt huyết và với cùng một sự  lạnh  lùng, đi  trên những qũy

đạo của văn hóa, trong đó các hình ảnh giả tạo của chúng đã lôi cuốn nó. Những hình ảnh giả tạo

là các sản phẩm của sự vô  thức,  là những cái đã dẫn dắt chúng  ta, và chúng có  lẽ  là những cái

cần thiết phải có. Mỗi một giống nòi giấu kín trong trạng thái tinh thần của nó các quy luật về số

phận của mình, và có thể nó tuân theo quy luật đó do bởi một bản năng không thể nhầm lẫn được

ngay cả khi nếu như những biểu  lộ không hợp  lý của chúng xuất hiện. Dường như thỉnh thoảng

các dân tộc có vẻ như phải chịu khuất phục các sức mạnh thần bí nào đó, giống như những sức

mạnh đã đã  làm cho quả đầu trở thành cây sồi hoặc bắt các sao chổi phải bay theo quỹ đạo của

nó.

Một chút  ít ỏi mà chúng  ta có  thể nghiên cứu về những sức mạnh đó, cần phải được  tìm  trong

tiến trình phát triển chung của các dân tộc và không phải trong các sự việc riêng biệt, mà ở đó sự

phát triển như vậy có vẻ như đã thể hiện ra. Nếu giả sử người ta chỉ quan sát những hiện tượng

riêng  lẻ đó, thì có vẻ như lịch sử chủ yếu  là do những sự tình cờ ngớ ngẩn tạo nên. Khó mà tin

được rằng, một người thợ mộc kém hiểu biết ở vùng Galiäa trong suốt hai nghìn năm  lại có thể Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

50

trở thành một vị thánh quyền lực vô biên, nhân danh ông ta những nền văn hóa tiêu biểu nhất đã

được tạo dựng; cũng khó có thể tin được, một vài bầy người Ả rập rời bỏ vùng sa mạc lại có thể

chiếm được phần  lớn thế giới Hy  lạp-La mã cổ; và cuối cùng  là khó có thể nào tin được, rằng ở

châu Âu già cỗi và đã có một trật tự ổn định một trung úy pháo binh bình thường  lại có thể  làm

được cái việc chế ngự một số lớn các dân tộc và triều đại.

Vậy cho nên chúng ta hãy nhường lý trí lại cho các nhà triết học, nhưng chúng ta cũng không đòi

hỏi ở họ phải không nên can thiệp quá nhiều vào sự điều hành những con người. Không phải nhờ

có, mà thường  là mặc cho  lý trí, những tình cảm như danh dự, chối bỏ, niềm tin tôn giáo, niềm

kiêu hãnh và tình yêu tổ quốc, là những cái cho mãi đến hôm nay vẫn là những lực đẩy vĩ đại của

tất cả các nền văn hóa.

______________________________

[1] Trong quyển "Các quy luật tâm lý của sự phát triển của các dân tộc" tôi đã chỉ rõ sự khác biệt

giữa ý tưởng của các dân tộc Latinh và các dân tộc Anglo-Xăcson về khái niệm dân chủ.

[2] Quan điểm của đám đông  trong  trường hợp này  tạo thành bởi những  liên kết thô thiển giữa

những sự vật tương tự nhau, mà cơ chế vận hành của nó trước đây tôi đã giải thích. Do vì trước

đây đội cận vệ quốc gia của chúng ta gồm những công dân bình thường  lương thiện chưa hề có

tiền án tiền sự và không được coi là quan trọng, cho nên điều này đã tạo ra một cảm giác, rằng tất

cả những gì có tên tương tự như vậy, cũng sẽ có hình ảnh tương tự và dẫn đến cũng được đánh

giá là không có gì đáng sợ. Sự nhầm lẫn của đám đông khi đó, cũng giống như quan điểm chung

thời ấy  là những điều được giới  lãnh đạo chia  sẻ. Trong một diễn  văn, ngày 31  tháng 12 năm

1867 ông Thier trước các đại biểu quốc hội đã  lặp  lại điều của một người  lãnh đạo nhà nước,  là

người thường chạy theo quan điểm của đám đông như sau, Phổ ngoài một đội quân thường trực

với số lượng đông tương đương với quân ta, chỉ có thêm một đội cận vệ quốc gia y như kiểu của

chúng ta đã từng có và do vậy không đáng kể - đó là một nhận định cũng đúng như thể lời tiên tri

nổi tiếng của cũng chính nhà lãnh đạo đó về tương lai ảm đạm của ngành đường sắt.

[3] Quan sát đầu tiên của tôi về nghệ thuật tác động vào đám đông và về những phương tiện trợ

giúp yếu ớt mà Logíc học  trong mối  liên quan này đã cung cấp, được  thực hiện  trong thời gian

Paris bị phong tỏa, đúng vào ngày tôi nhìn thấy thống chế V... được giải đến Louvre, trụ sở của

chính quyền khi đó, bởi một đám đông dân chúng tức giận, họ có vẻ như đã phát hiện thấy ông ta

một cách bất ngờ  trong khi đang định  lấy cắp sơ đồ pháo đài để bán cho quân Phổ. Một  thành

viên chính phủ, G.P..., là thuyết gia rất nổi tiếng, đã xuất hiện để phủ dụ đám đông đang đòi phải

hành quyết ngay  lập tức kẻ bị bắt. Tôi đã trông chờ diễn giả sẽ chứng mình sự vô  lý của những

lời buộc tội bằng cách sự khẳng định, rằng vị thống chế bị kết tội kia chính  là công trình sư của

pháo đài, và những tài liệu thiết kế của nó có thể mua được ở tất cả các hiệu sách. Nhưng tôi đã

phải hết sức kinh ngạc-lúc đó tôi còn rất trẻ-vì  lời phủ dụ đã hoàn toàn khác hẳn: "Công  lý phải

được thực thi", ông ta kêu gọi đám đông, trong khi bước tới gần kẻ bị bắt, "và sẽ được thực thi

một cách không khoan nhượng. Hãy để cho chính phủ của hội đồng bảo vệ quốc gia  thực hiện

công việc cho các bạn; ngay sau đây chúng tôi sẽ bắt nhốt kẻ bị kết tội." Đám đông  lập tức dịu

xuống  bởi  dường  như  họ  đã  được  thỏa mãn  và  sau  đó  tự  động  giải  tán,  còn  vị  thống  chế  nọ

khoảng mười lăm phút sau đã có mặt tại nhà mình. Chắc chắn là ông ta sẽ bị đánh chết ngay lập Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

51

tức, nếu như người bảo vệ ông ta đã sử dụng những  lý  lẽ  lôgic trước đám đông đang căm phẫn,

những lý lẽ mà tuổi trẻ của tôi nhận thấy rất hợp lý.

Chương 3: Những lãnh đạo của đám đông và phương tiện thuyết phục của họ

Chúng ta đã biết đến trạng thái tinh thần của đám đông, và chúng ta giờ đây cũng đã biết những

sức mạnh  nào  tác động vào họ. Bây giờ chúng  ta phải  nghiên cứu  việc các  sức mạnh này cần

phải được vận dụng như thế nào và do ai chúng được chuyển thành hành động mang lại lợi ích.

§1. Lãnh đạo của đám đông

Chừng nào một số nhất định những sinh vật sống tụ tập lại với nhau, tất cả sẽ như nhau, bất kể

đó là một bầy thú hoặc một tập hợp những con người, chúng đều thần phục một cách tự nguyện

một thủ lĩnh, có nghĩa là một lãnh đaọ.

Trong đám đông con người, lãnh đạo giữ một vại trò nổi bật. Ý chí của nó là hạt nhân mà quanh

đó các quan điểm hình thành nên và cân bằng lẫn nhau. Đám đông là một bầy đàn, nếu không có

người chăn dắt chúng sẽ chẳng biết làm gì.

Rất nhiều khi lãnh đạo lúc đầu cũng chỉ là kẻ bị lãnh đạo, bản thân nó bị mê hoặc bởi cái ý tưởng

mà sau này chính nó sẽ trở thành thánh tông đồ của cái ý tưởng đó. Nó hài lòng với cái tưởng đó

đến nỗi dường như tất cả những ý tưởng khác đều biến mất và đối với nó bất kỳ một quan điểm

trái ngược nào cũng đều bị cho  là sai  lầm hoặc  là sự mê  tín. Thật vậy, ví dụ như Robespierre,

người bị những ý tưởng của chính mình mê hoặc đến nỗi, để truyền bá chúng ông ta đã dùng đến

cả phương tiện của tòa dị giáo.

Phần nhiều các lãnh đạo không phải là nhà tư tưởng, mà là những con người của hành động. Họ

ít có cái nhìn sắc sảo và cũng không thể khác được, bởi vì sự sắc sảo nhìn chung sẽ dẫn đến trạng

thái nghi ngờ và không hành động. Đặc biệt người ta hay thấy họ trong số những người bẳn tính, 

những người dễ bị kích động, những người nửa điên  loạn, đang ở ranh giới của sự mất trí. Cho

dù cái ý tưởng được bảo vệ hoặc cái mục đích theo đuổi nhạt nhẽo như thế nào, trong sự chống

lại niềm tin của họ tất cả những gì lôgic đều phải thất bại. Sự khinh bỉ hoặc ngược đãi chẳng mảy

may  tác động đến họ hoặc chỉ càng kích  thích họ nhiều hơn. Quyền  lợi cá nhân, quyền  lợi gia

đình, tất cả đều bị hy sinh. Ngay cả bản năng sống còn ở họ cũng bị dập tắt, và chỉ có tử vì đạo

thường đối với họ mới là cái phần thưởng duy nhất phải phấn đấu để đạt đến. Sức mạnh niềm tin

của họ đã đem lại cho những lời họ nói một sức kích động lớn. Đám đông luôn nghe theo những

người có ý chí mạnh. Những cá  thể  tập hợp nên đám đông sẽ bị  tước đi  toàn bộ ý chí và quay

theo một cách bản năng kẻ sở hữu ý chí.

Các dân tộc chưa bao giờ thiếu lãnh đạo, nhưng những người lãnh đạo đó không phải ai cũng có

được những niềm tin mạnh mẽ để có thể trở nên thánh tông đồ. Thường đó  là những thuyết gia

khéo léo, chỉ theo đuổi nguyện vọng cá nhân của mình, và bằng sự lừa phỉnh họ tìm cách quyến

rũ những bản năng  thấp hèn. Ảnh hưởng mà họ  tạo ra  thường chỉ nằm  lại ở bên ngoài. Những

người có sức thuyết phục  lớn, đã từng nâng tâm hồn đám đông  lên, như Peter của Amiens, như

Lutther, như Savonarola, như những nhà cách mạng, chỉ phấn khích sau khi bản  thân họ được

khích lệ bởi một niềm tin. Sau đó dĩ nhiên họ có thể tạo ra trong các tâm hồn một quyền lực đáng Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

52

sợ có tên gọi  là niềm tin và cái quyền  lực đó nó  làm cho con người ta hoàn toàn trở thành nô  lệ

cho ước mơ của nó.

Khơi dậy niềm tin, dù đó là niềm tin về tôn giáo, chính trị hoặc xã hội, hay  là niềm tin vào một

con người hoặc một ý tưởng, là vai trò đặc biệt của một lãnh đạo lớn. Trong tất cả sức mạnh, mà

con người có để sử dụng,  thì niềm  tin  luôn  là một sức mạnh có ý nghĩa nhất, và có  lý khi kinh

thánh coi nó  là một sức mạnh dời non. Trao cho con người niềm  tin, có nghĩa  là  làm cho sức

mạnh của nó tăng gấp mười  lần. Những sự kiện  lịch sử  lớn cũng  thường hay được  làm nên bởi

những tín đồ không tên tuổi, những người chẳng có gì ngoài niềm tin. Không phải các nhà triết

học, các nhà  thông  thái, và  trên hết không phải những kẻ hoài nghi đã  tạo nên những  tôn giáo

lớn,  là những tôn giáo đã ngự trị thế giới và ngự trị những đế chế vĩ đại trải rộng từ nửa địa cầu

này sang nửa địa cầu khác.

Song những ví dụ như vậy chỉ hợp với những lãnh đạo lớn và số này rất hiếm, đến nỗi lịch sử có

thể đếm được con số của họ một cách dễ dàng. Họ tạo nên đỉnh cao của một đội ngũ được sắp

xếp  giảm  dần,  bắt  đầu ở  bên  trên  là  những  người  có  bẩm  chất  lãnh  đạo  và  trở  xuống  cho  tới

người công nhân ở bên dưới, là kẻ trong một quán rượu mù mit khói thuốc lần lượt động viên cổ

vũ những đồng chí của mình, bằng cách lặp đi lặp lại liên tục những lời nói khuôn sáo khó hiểu,

mà theo anh ta chúng sẽ làm cho tất cả mọi ước mơ và hy vọng trở thành hiện thực.

Trong tất cả các tầng lớp xã hội, từ cao nhất cho đến thấp nhất, con người, chừng nào nó không

còn đứng riêng một mình, nó sẽ rất dễ sa vào vòng cương tỏa của một nhà  lãnh đạo. Phần đông

các con người, đặc biệt là đám đông dân chúng, bên ngoài lĩnh vực nghề nghiệp của họ, họ hoàn

toàn không biết một chút gì cho rõ ràng và đúng đắn. Họ không có khẳ năng tự điều khiển mình;

vì vậy  lãnh đạo phục vụ họ với  tư cách  là người chỉ  lối. Bất quá, tất nhiên  là không hoàn  toàn,

lãnh đạo có thể được thay thế bởi báo chí, chúng tạo cho độc giả các quan điểm và cung cấp cho

họ những lời nói khuôn sáo, mà khi vận dụng chúng đỡ phải mất công suy nghĩ. 

Sự thống trị của các  lãnh đạo cực kỳ tàn bạo và uy tín của họ có được cũng chỉ nhờ vào sự tàn

bạo  này. Người  ta  thường  thấy  họ  dễ  dàng  tạo  được  sự  thuần  phục  trong  tầng  lớp  công  nhân

khích động nhất mà không cần phải sử dụng bất cứ một phương  tiện gì ngoài uy  tín của mình.

Họ ấn định số giờ  làm việc, mức  tiền công, họ ra quyết định đình công cũng như  thời gian bắt

đầu và kết thúc của nó.

Ngày nay các lãnh đạo đã từ bỏ dần dần việc sử dụng bạo lực, chừng nào mà người ta có thể nài

xin và làm cho họ yếu mềm. Bằng sự cai trị sử dụng bạo lực những ông chủ mới này đã đạt được

sự tuân phục của đám đông đối với họ một cách dễ dàng hơn là bất kỳ một chính quyền nào. Nếu

tự nhiên  lãnh đạo vụt biến mất và không có ai để  thay  thế ngay  lập  tức, đám đông sẽ  trở  lại  là

một tập hợp rời rạc và không có sức kháng cự. Trong cuộc đình công của nhân viên xe buýt tại

Paris chỉ cần bắt giữ hai lãnh đạo của họ là đủ để kết thúc ngay tức khắc cuộc đình công. Không

phải sự đòi hỏi về tự do, mà là lòng nhiệt tình phục vụ luôn ngự trị trong tâm hồn đám đông. Sự

thôi thúc phải vâng lời của nó lớn đến nỗi, nó quy phục một cách bản năng tất cả những ai tuyên

bố là ông chủ của nó. 

Phân loại lãnh đạo Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

53

Trong một lớp các lãnh đao ta có thể tiến hành một sự phân loại có ranh giới rất rõ ràng. Có một

loại gồm những người cương quyết, ý chí mạnh nhưng không bền bỉ. Có loại khác, thường hiếm

thấy hơn nhiều, là những người có ý chí mạnh mẽ và bền bỉ. Loại thứ nhất rất sôi nổi, dũng cảm

và táo bạo. Loại này thích hợp đặc biệt đối với việc  lãnh đạo những trận đột kích, họ có thể  lôi

kéo đám đông bất chấp nguy hiểm và họ có thể làm cho những tân binh trẻ trở nên những người

anh hùng. Ví dụ Ney và Murat trong đế chế thứ nhất  là những người như vậy. Gabribaldi ở thời

đại chúng ta cũng thế, ông  là một kẻ giang hồ không có tài nhưng cương quyết, ngày ấy chỉ với

một nhúm  thủ hạ  trong  tay đã chiếm  lĩnh được quốc vương Neapal mặc dù đất nước này có cả

một đội quân nghiêm chỉnh bảo vệ.

Nhưng cho dù sự cương quyết của những  lãnh đạo như vậy có  lớn bao nhiêu thì nó cũng chỉ  là

nhất thời và kéo dài không quá cái đà mà họ tạo nên. Khi những anh hùng trở về với cuộc sống

đời thường, họ, trước kia là những người một thời đầy máu lửa, giờ đây lại là những bằng chứng

đáng ngạc nhiên của sự yếu đuối. Họ dường như không có khả năng suy ngẫm và không thể biết

thế nào  là phải  trong những mối quan hệ đơn giản nhất, sau khi  trước đó họ đã  từng biết cách

lãnh đạo những người khác một cách hiệu quả như thế nào. Những  lãnh đạo  loại này chỉ có thể

thực hiện tốt các nhiệm vụ của họ một khi nếu như bản thân họ cũng luôn nhận được sự lãnh đạo

và khích  lệ,  luôn cảm  thấy có một ại đó hoặc một ý  tưởng ở  trên mình  và  luôn phải  tuân  thủ

chính xác mọi nguyên tắc hoạt động.

Lớp lãnh đạo thứ hai, là những người có ý chí bền bỉ, mặc dù sự xuất hiên của họ ít hào nhoáng,

nhưng  họ  có một  ảnh  hưởng mang  nhiều  ý  nghĩa  hơn  nhiều. Thuộc  vào  những  người  này  là

những  người  sáng  lập  ra  các  tôn  giáo  hoặc  những  người  làm  nên  các  thành  tựu  vĩ  đại  như:

Paulus, Mohammed, Kolumbus, Lesseps. Có thể họ thông minh, tối dạ hoặc bình thường, nhưng

thế giới  luôn hy sinh vì họ. Ý chí bền bỉ mà họ có,  là một  tính cách vô cùng hiếm và vô cùng

mạnh mẽ, mọi cái đều phải  thần phục nó. Người  ta không bao giờ hiểu được hết những gì mà

một ý chí mạnh mẽ và bền bỉ có thể làm nên. Không có gì có thể ngăn cản được nó, cả tự nhiên

lẫn thánh thần lẫn con người.

Thí dụ mới đây nhất mà một kỹ sư nổi  tiếng đã đem  lại cho chúng  ta, đó  là  thí du về một con

người đã  từng  tách hai phần  lục địa ra khỏi nhau và  thực hiện cuộc  thử nghiệm mà  từ ba ngàn

năm nay những kẻ thống trị lớn nhất đều không thực hiện nổi. Về sau ông ta đã bị thất bại trong

một công cuộc tương tự, ông ta đã già và cùng với tuổi già tất cả đều lụi tàn ngay cả ý chí cũng

vậy.

Để có  thể chứng minh cho sức mạnh của ý chí, người  ta chỉ cần kể  lại một cách chi  tiết  tất cả

những khó khăn phải vượt qua khi đào kênh Suez là đủ. Một nhân chứng, bác sĩ Cazalis, đã tóm

tắt lại trong mấy dòng cảm động về việc thực hiện công trình vĩ đại này, những dòng miêu tả về

tác giả bất tử của công trình. "Ông kể lại từng ngày, ông đã phải vượt qua những gì, mà trước hết

là những cái không có  thể ông  ta đã  làm cho chúng  trở nên có  thể,  trên hết  là sự phản kháng,

những đòi hỏi chống lại ông ta, sự chua chát, tai nạn, mỏi mệt, tuy nhiên chúng không bao giờ có

thể làm cho ông ta nản lòng và tê liệt; ông ta nghĩ tới nước Anh, đất nước đã chống lại ông ta, đã

tấn công ông ta không ngừng nghỉ, ông ta nhớ đến Ai cập và Pháp, những nước đã ngập ngừng

chậm  trễ, nhớ đến  lãnh sự quán Pháp, nơi đã cản  trở những công việc ban đầu nhiều hơn  tất cả

những ai khác, và người ta đã chống lại ông như thế nào bằng cách bỏ khát không cấp nước cho

công nhân để  tác động vào họ; sau đó ông  ta nói về bộ hải quân và về những kỹ  sư, về  tất cả Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

54

những ai có kinh nghiệm và hiểu biết một cách sâu sắc về chuyên ngành của họ, những người dĩ

nhiên ý thức được tất cả các đối thủ và về mặt lý thuyết họ tin vào kết quả thất bại mà họ đã tính

toán và dự đoán, như người ta đã từng dự đoán về nhật thực sẽ xảy ra trong một ngày hoặc một

giờ nào đó." Giá như có một quyển sách thuật lại cuộc đời của tất cả những vị lãnh đạo vĩ đại thì

có lẽ cũng không có nhiều những tên tuổi trong đó, nhưng cái tên này sẽ đứng ở vị trí hàng đầu

của những sự kiện quan trọng nhất của văn hóa và lịch sử.

§2. Phương tiện tác động của lãnh đạo: Sự khẳng định, sự lặp lại, sự truyền nhiễm

Nếu đề cập đến việc tức thì lôi kéo đám đông và quyết định họ phải làm một cái gì đó, ví dụ như

cướp phá một cung điện, chém giết để bảo vệ một cứ điểm kiên cố hoặc một chiến lũy, người ta

phải tạo ra một ảnh hưởng thật nhanh vào họ. Cách hiệu quả nhất là dẫn ra một ví dụ. Tuy nhiên

sau đó nhất thiết phải làm công tác chuẩn bị cho đám đông về những tình cảnh nhất định nào đó

và đặc biệt là kẻ muốn lôi kéo họ phải có một tính cách mà lát sau tôi sẽ gọi là sự ảnh hưởng để

phân tích.

Song nếu là sự đề cập đến việc làm cho những ý tưởng, những tín điều ngấm một cách từ từ vào

tâm hồn đám đông, ví dụ như những học thuyết xã hội hiện đại, thì người lãnh đạo phải vận dụng

nhiều phương pháp khác nhau. Cụ thể họ sử dụng chủ yếu ba  loại: sự khẳng đinh, sự lặp  lại, và

sự  truyền  lan  hoặc  truyền  nhiễm  (contagion). Tác động của chúng  tương đối chậm,  nhưng kết

quả đạt được rất lâu bền.

Sự khẳng đinh một cách thuần túy và đơn giản, không không kèm theo nguyên do và không có

bất kỳ bằng chứng nào  là phương  tiện chắc chắn nhất, để  làm cho một ý  tưởng ngấm được vào

tâm hồn đám đông. Sự khẳng định càng chắc nịch, càng  ít nguyên do hoặc bằng chứng, nó sẽ

càng tạo nên nỗi kính sợ. Các văn bản tôn giáo và các sách luật của tất cả các thời đại tất cả đều

sử dụng những khẳng định đơn giản. Những  lãnh đạo quốc gia, được trao trọng trách giải quyết

một vấn đề về chính trị, đều biết đến giá trị của sự khẳng định. 

Sự khẳng định sau đó chỉ có ảnh hưởng thực sự, nếu như nó  luôn được  lặp  lại, và phải cố gắng

luôn sử dụng cùng một cách diễn đạt. Napoleon đã nói, chỉ có một cách phát ngôn gợi cảm đáng

chú ý nhất đó là sự lặp lại. Điều lặp lại bám rất vững trong đầu óc con người đến mức cuối cùng

nó được coi như là một sự thật hiển nhiên.

Ta sẽ hiểu ảnh hưởng của sự lặp lại vào đám đông một cách thực sự, nếu ta thấy nó đã tác động

như thế nào đối với ngay cả những cái đầu thông thái nhất. Sự lặp lại cuối cùng sẽ ăn sâu vào tận

những vùng của vô thức, đó là nơi xử  lý các nguyên nhân dẫn đến những hành động của chúng

ta. Sau một khoảng  thời gian, nếu chúng  ta quên mất ai  là  tác giả của sự khẳng định  luôn được

lặp lại đó, cũng là lúc ta đã tin vào điều đó. Tác động của quảng cáo cũng xảy ra theo kiểu cách

tương  tự.  Nếu  chúng  ta  đọc  đi  đọc  lại  một  trăm  lần,  rằng  loại  Schocolade  tốt  nhất  là  loại

Schocolade X, như vậy  ta có cảm  tưởng như đã được nghe  thấy điều ấy  thường xuyên và cuối

cùng ta tin rằng nó thực sự là như vậy. Hàng ngàn văn bản chứng thực thuyết phục ta mạnh đến

nỗi ta phải tin, rằng  loại thuốc bột Y đã được những nhân vật có tên tuổi sử dụng để chữa khỏi

các căn bệnh hiểm nghèo nhất, và cuối cùng chính chúng ta, nếu cũng bị mắc phải cái bệnh kinh

khủng đó,  ta cũng sẽ rất muốn  thử dùng  loại  thuốc đó. Nếu hàng ngày chúng  ta đọc  thấy  trong

cùng một tờ báo, rằng A là một thằng lừa đảo từ lâu và B là một người đàn ông chính trực, cuối Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

55

cùng chúng ta sẽ tin vào điều đó, tuy nhiên với giả thiết chúng ta cũng thường không đọc những

tờ báo khác mà trong đó đăng điều ngược  lại, có nghĩa  là tính cách của hai nhân vật kia đổi chỗ

cho nhau. Khẳng định và lặp lại mình chúng cũng đủ mạnh để có thể chống chọi lại lẫn nhau. 

Nếu một sự khẳng định  luôn được nhắc  lại đủ nhiều và chắc nịch, giống như ở trường hợp một

số các doanh nghiệp tài chính nào đó, loại hay mua đứt bất kỳ một đối thủ cạnh tranh nào, sẽ tạo

nên cái mà người  ta gọi  là dòng ý kiến  (currant d'opinion), và  thêm vào đó  là cái cơ chế hùng

mạnh của sự truyền nhiễm. Trong nội bộ đám đông, các ý tưởng, tình cảm, những sự kích động,

các tín điều được lây  lan với một tốc độ nhanh chóng như của các loại vi trùng. Hiện tượng như

vậy cũng được quan sát thấy ở súc vật, khi chúng sống thành bầy. Sự gặm máng ăn của một con

ngựa nhốt trong chuồng chẳng mấy chốc sẽ được những con ngược khác cùng chuồng bắt chước.

Một sự giật mình, hay một động tác hoảng loạn của một con cừu nào đó sẽ nhanh chóng lan ra cả

đàn. Sự truyền nhiễm của tình cảm đã lý giải cho cái hiện tượng hoảng loạn bất chợt kia. Các rối

loạn thần kinh, như sự điên rồ chẳng hạn, cũng  lan truyền theo cách  lây nhiễm. Một hiện tượng

quen biết  là những thầy thuốc trị bệnh tâm thần rất hay bị bênh mất trí. Người ta cũng có kể về

các bệnh thần kinh, như chứng bệnh sợ khoảng rộng chẳng hạn, rằng nó có thể truyền từ người

sang thú vật.

Sự truyền nhiễm không đòi hỏi bắt buộc các cá nhân phải có mặt tại cùng một địa điểm, nó cũng

có thể xảy ra  từ xa dưới ảnh hưởng của các sự kiện nhất định, chúng  làm cho mọi  thần  trí đều

hướng về một phía và tạo nên những tính chất riêng biệt của một đám đông, đặc biệt là, nếu như

chúng được chuẩn bị từ trước đó bởi những yếu tố gián tiếp như đã từng nói đến ở phần trên. Ví

dụ như sự bùng nổ của cuộc cách mạng 1848, khởi đầu ở Pairis, một cách bất ngờ đã lan rộng ra

toàn bộ châu Âu và làm sụp đổ nhiều nền quân chủ [1].

Sự bắt chước mà người ta cho rằng nó có ảnh hưởng lớn vào các hiện tượng xã hội, thực ra chỉ là

một tác động đơn giản của sự truyền nhiễm. Do tôi đã nói đến vai trò của nó ở môt chỗ khác, cho

nên ở đây tôi giới hạn trong việc nhắc  lại những gì mà tôi cách đây nhiều năm đã từng nói đến,

và những gì mà từ đó đến nay được các tác giả khác đã nêu ra:

"Giống như ở động vật con người về mặt tự nhiên nó là môt sinh vật có tính bắt chước. Việc bắt

chước đối với nó  là một nhu cầu, song phải nhớ  rằng chỉ với điều kiện, đó  là những cái dễ bắt

chước; quyền lực của các loại mốt cũng xuất phát từ nhu cầu bắt chước này. Vâng, có thể đó chỉ

là những quan niệm, ý tưởng, các diễn giải văn học hoặc đơn giản chỉ là trang phục, có bao nhiêu

người dám trốn chạy khỏi sự thống trị của chúng. Không phải với các chứng cứ lập  luận, mà  là

qua những gương điển hình người  ta đã điều khiển đám đông. Trong mỗi một  thời đại, một số

nhỏ trong số họ đã để lại dấu ấn của mình, và đám đông đã bắt chước những cái đó một cách vô

thức. Tuy nhiên những người trong cái số nhỏ đó không được phép có một khoảng cách quá xa

các ý tưởng truyền thống. Sự bắt chước khi đó sẽ trở nên khó khăn và vì vậy ảnh hưởng của nó

gần như không có mấy. Chính vì thế những người quá nổi trội trong thời của họ hầu như không

có ảnh hưởng rất ít. Cái khoảng cách đó nó quá lớn. Cũng vì lý do này cho nên các dân tộc châu

Âu chỉ có ảnh hưởng không đáng kể tới các dân tộc phương Đông, mặc dù họ có rất nhiều cái ưu

việt."

"Tác động phối hợp của quá khứ và sự bắt chước lẫn nhau làm cho con người trong một nước và

trong cùng một thời đại cuối cùng trở nên giống nhau đến nỗi ngay cả ở những người mà nghĩa Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

56

vụ đặc biệt của họ  là  tránh sự bắt chước, như các nhà  triết học, các giáo sư, các nhà văn,  thì  tư

tưởng và sắc  thái của họ vẫn có sự giống nhau như của một gia đình, và nhìn vào đó ta có  thể

nhận ra tức khắc họ thuộc vào thời đại nào. Chỉ qua trao đổi ngắn với một người nào đó cũng đủ

để nhận biết cặn kẽ sở thích đọc của nó, các hoạt động thường xuyên và môi trường trong đó nó

sống [2].

Sự  truyền nhiễm mạnh đến nỗi nó có  thể ép buộc con người phải chấp nhận không chỉ những

quan điểm mà còn cả những cách thức cảm nhận nhất định. Nó tạo ra sự khinh thường những tác

phẩm văn hóa, chẳng hạn như đối với vở kịch "Những ngôi nhà gỗ  thông" và vài năm  sau đó

cũng chính nó đã làm cho cái sự vu khống bẩn thỉu nhất trước kia của nó trở nên một điều tuyệt

vời.

Sự giác ngộ và niềm  tin của đám đông chỉ  lan  tỏa được bằng con đường  truyền nhiễm, không

bao giờ bằng những  lập  luận của  lý trí. Qua sự khẳng định, sự lặp  lại và sự truyền nhiễm xảy ra

trong quán rượu đã  làm cho những khái niệm hiện nay của người công nhân trở nên vững chắc,

và niềm  tin của đám đông  trong  tất cả các  thời đều được  tạo nên  theo kiểu như vậy. Một cách

chính xác, Renan đã so sánh những người thành lập ra nhà thờ thiên chúa giáo với "những người

làm công  tác xã hội, đã  truyền bá những ý  tưởng  từ quán  rượu này  sang quán  rượu khác". Và

Voltaire trong mối liên quan đến thiên chúa giáo cũng đã nhận đinh, "hơn một trăm năm chỉ toàn

một lũ du thử du thực bám theo nó".

Trong các  thí dụ  tương  tự như đã dẫn, sự  truyền nhiễm, nếu một khi nó đã hoàn  toàn  tác động

được vào tầng lớp dân chúng phía dưới, nó sẽ chuyển hướng, và tác động vào tầng lớp bên trên.

Ngày nay chúng ta thấy, các học thuyết xã hội chủ nghĩa đang bắt đầu tấn công vào tầng lớp bên

trên này và có lẽ họ sẽ là nạn nhân đầu tiên của nó. Ngay cả quyền lợi cá nhân cũng phải nhường

bước cho cơ chế truyền nhiễm.

Bởi  thế, một quan điểm  trở thành phổ cập cuối cùng cũng sẽ ép buộc những  tầng  lớp cao nhất,

cho dù sự vô nghĩa của những quan điểm  thắng  thế đó  rõ  ràng đến mức nào. Sự  tác động của

tầng lớp xã hội bên dưới vào tầng lớp trên sẽ lại càng kỳ quặc hơn khi những quan niệm về lòng

tin của đám đông  ít nhiều ngày càng bị ảnh hưởng bởi một ý  tưởng cao siêu, ý  tưởng mà ngay

đối với môi trường đã sinh ra nó lại hầu như thường không có tác động gì. Những người lãnh đạo

bị nô dịch bởi cái ý tưởng cao siêu đó, chiếm đoạt nó làm của mình, sau đó làm cho nó biến dạng

và lập nên một hội kín, hội kín này lại bóp méo nó lần nữa và truyền bá nó vào đám đông, là kẻ

tiếp  tục quá  trình bóp méo kiểu như vậy. Nếu đến một  lúc nào đó nó  trở thành một sự thật đại

chúng,  lúc ấy bằng cách nào đó nó sẽ quay  trở  lại với cội nguồn của mình và sẽ  tác động vào

tầng lớp bên trên của một dân tộc. Thừa nhận rằng cuối cùng thì trí tuệ cũng sẽ lãnh đạo thế giới,

nhưng mà nó lãnh đạo thế giới từ xa. Kẻ sáng tạo ra những ý tưởng từ lâu đã trở về thế giới bên

kia, khi cuối cùng các ý  tưởng của họ cũng đã chiến  thắng,  là kết quả của các quá  trình mà  tôi

mô tả trên đây.

§3. Uy lực (le prestige)

Một quyền  lực  to  lớn cuối cùng đã  làm cho các ý  tưởng, được  truyền bá  rộng khắp qua khẳng

định,  lặp  lại và truyền nhiễm một sức mạnh huyền bí đến dường nào, quyền  lực đó có tên  là uy

lực. Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

57

Tất cả những gì đang ngự  trị  thế giới, có  thể  là ý  tưởng hoặc con người, sở dĩ chúng đạt được

điều đó chủ yếu là nhờ vào một sức mạnh không gì ngăn cản nổi có tên gọi là uy lực. Chắc chắn

rằng chúng  ta  tất cả đều biết đến ý nghĩa của khái niệm uy  lực  (prestige), nhưng người  ta vận

dụng nó với nhiều hình  thức khác nhau đến nỗi không dễ dàng gì có  thể diễn đạt nó  theo một

cách nào khác. Uy  lực hòa đồng với một tình cảm nhất định nào đó như sự khâm phục hoặc sự

kính sợ, thậm chí nó còn  lấy những tình cảm đó  làm nền tảng, nhưng nó cũng có thể tồn tại độc

lập không cần đến chúng. Những người đã chết thường lại là những người có nhiều uy lực nhất,

có nghĩa là những con người mà ta không còn cảm thấy sợ hãi nữa như: Alexander đại đế, Cäsar,

Mohammed,  Buddad. Mặt  khác  dường  như  những  con  người  hoặc  hình  tượng  mà  chúng  ta

không hề ngưỡng mộ, ví dụ như những vị thần ghê tởm trong các chùa chiền trong lòng đất ở Ấn

độ cũng có một uy lực cực mạnh.

Uy lực thực ra là một kiểu quyến rũ, mà một người có tên tuổi, một tác phẩm, hoặc một ý tưởng

đã vận dụng nó vào chúng ta. Sự quyến rũ này đã làm tê liệt mọi khả năng nhận xét của chúng ta

và làm cho tâm hồn chúng tràn ngập sự ngạc nhiên và kính phục. Những tình cảm được gợi nên

kiểu như vậy cũng  là điều không thể nào giải thích nổi giống như tất cả mọi thứ tình cảm khác,

nhưng dường như chúng đều thuộc về cùng một dạng tương tự như sự kích hoạt do một nhà thôi

miên điều khiển. Uy  lực  là suối nguồn  lớn của  tất cả mọi quyền hành. Các  thánh  thần, các vua

chúa và phụ nữ nếu không có nó có lẽ chẳng bao giờ họ có thể điều khiển được ai. 

Người ta có thể gom tất cả các  loại uy  lực vào hai nhóm chính: nhóm uy  lực thu  lượm được và

nhóm uy lực cá nhân. Nhóm thu lượm được là nhóm các uy lực sinh ra từ danh tiếng, từ sự giàu

có và uy  tín. Nó có  thể không phụ  thuộc gì  vào  nhóm uy  lực  cá  nhân. Nhóm uy  lực cá  nhân

ngược  lại  là một cái gì đó  thuộc về cá nhân và nó có thể  tồn  tại cùng với uy  tín, danh  tiếng và

giàu có hoặc nhờ chúng mà trở nên mạnh mẽ, nhưng uy lực cá nhân cũng hoàn toàn có thể tồn tại

độc lập không hề phụ thuộc vào những thứ đó.

Uy  lực  thu  lượm được hoặc giả  tạo  là  thứ uy  lực phổ biến nhất. Chỉ cần, ai đó được nhận một

chức vụ nào đó, có một  tài sản nào đó, một chức danh nào đó, cũng đã  tạo nên một vòng hào

quang  rực  rỡ của các ảnh hưởng, cho dù giá  trị cá nhân của nó  thấp bé chừng nào. Một người

lính trong bộ quân phục, một quan tòa trong bộ áo choàng màu đỏ luôn có một uy lực. Pascal đã

giải thích sự cần thiết của áo choàng và tóc giả của các quan tòa một cách rất chính xác: không

có chúng họ sẽ mất đi một phần rất lớn uy quyền. Kẻ theo chủ nghĩa xã hội có tính cách dữ tợn

nhất cũng giao động trước cái nhìn của một vị lãnh chúa hoặc một bá tước, và để có thể lừa được

một nhà buôn một cách tùy thích thì chỉ cần quàng môt chức danh giống như thế là đủ [3].

Uy lực, như tôi đã nói ở trên đây, được vận dụng bởi các cá nhân; người ta có thể đặt uy lực bên

cạnh cá nhân đó, là cái do các quan điểm, các tác phẩm văn học hoặc do nghệ thuât v.v... tạo nên.

Nó chỉ dựa trên sự lặp lại được tích cóp. Do vì, lịch sử, lịch sử văn học, và lịch sử nghệ thuật chỉ

là  sự nhắc  lại của cùng một đánh giá, mà không ai muốn kiểm chứng  lại nó,  thế cho nên cuối

cùng là ai cũng lặp đi lặp lại những điều mà họ đã từng học trong nhà trường. Có những cái tên,

những  sự vật nhất định chẳng có ai dám đả động đến chúng. Đối với một độc giả hiện đại  thì

thiên anh hùng ca của Homer  là một sự ngán ngẩm cực độ không có gì để bàn cãi thêm, nhưng

thử hỏi ai dám nói ra cái điều đó? Đền Parthenon trong trạng thái hiện nay chỉ  là một sự đổ nát

chẳng có gì  thú vị, nhưng nó có một uy  lực đến nỗi khi ngắm nhìn nó người  ta bắt buộc phải

đồng thời xem xét tất cả mọi cái đi theo của các hồi ức lịch sử. Là tính chất riêng biệt của uy lực, Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

58

khi nó ngăn cản các sự vật được nhìn nhận như bản thân của chúng, và khi nó làm tê liệt mọi khả

năng phán xét của chúng ta. Các đám đông luôn luôn, còn người độc lập thì phần lớn, có đòi hỏi

phải có những quan điểm sử dụng được ngay. Sự  thắng  thế của các quan điểm này không phụ

thuộc vào sự thực hoặc sự nhầm lẫn chứa đựng trong chúng, mà hoàn toàn và duy nhất chỉ là do

dựa vào uy lực của chúng.

Bây giờ tôi chuyển qua uy lực cá nhân. Nó có sự cấu thành hoàn toàn khác so với các uy lực giả

tạo hoặc thu lượm. Nó không phụ thuộc vào tất cả các loại chức danh, tất cả các kiểu uy tín. Số ít

những người có uy  lực kiểu như vậy đã có một  tác động  thực sự  là  thu hút và màu nhiệm vào

môi  trường xung quanh họ, và cả vào sự bình đẳng xã hội nữa, và người  ta  tuân phục họ như

những con thú hoang dã thuần phục kẻ chế ngự chúng, những kẻ mà chúng dễ dàng nuốt chửng. 

Những ví dụ về uy lực cá nhân

Những lãnh đạo lớn của đám đông như Buddha, Jesus, Mohammed, Jeanne d'Arc, Napoleon đều

có một ảnh hưởng kiểu như vậy ở tầm vóc cao và đặc biệt qua đó họ đã tạo nên cho mình một uy

tín  lớn. Họ không cho phép ai giải nghĩa về các thánh thần, các anh hùng và các giáo  lý, chừng

nào họ cho phép như vậy cũng có nghĩa là họ tự đào hố chôn mình. 

Những nhân cách lớn, như tôi đã nêu ở trên, họ có được cái quyền lực mê hoặc ngay cả từ trước

khi họ  trở nên nổi  tiếng, và nếu không có nó họ cũng không  thể nào nổi  tiếng được. Ví dụ,  rõ

ràng, rằng Napoleon  trên đỉnh cao vinh quang của mình riêng với quyền  lực có được ông  ta đã

tạo cho bản thân một ảnh hưởng cực kỳ  lớn, nhưng những ảnh hưởng đó một phần ông ta đã có

sẵn từ những ngày đầu của con đường sự nghiệp, khi mà ông ta chưa có chút quyền lưc trong tay

và vẫn còn  là một kẻ hoàn toàn vô danh. Khi mà ông ta còn  là một ông tướng không tiếng tăm,

được  tiến  cử  giữ  chức  tư  lệnh  quân  đội Ý,  ông  ta  đã  phải  đối mặt  với  các  tướng  lĩnh  thô  lỗ,

những người chủ mưu tổ chức một cuộc đón tiếp phủ đầu đầy đe dọa giành cho ông ta, và họ đã

coi ông ta là một kẻ đột nhập non nớt và  là người mà bộ chỉ huy cấp trên ép họ phải phục tùng.

Nhưng ngay từ phút đầu tiên của lần tiếp xúc đầu tiên, không có những lời khuôn sáo, không có

những cử chỉ, không có sự đe dọa, chỉ với một cái nhìn đầu tiên của một con người vĩ đại trong

tương  lai  tất cả họ dường như  lập  tức bị  thuần phục. Taine đã  thuật  lại cho chúng  ta  theo hồi

tưởng của những người đương thời về cuộc giáp mặt thú vị đó: "Các tướng lĩnh sư đoàn, trong số

họ có Augereau, một con người dũng cảm và từng trải, tính cách thô lỗ, luôn hãnh diện với tầm

vóc cao  lớn và tính quả cảm của mình, họ cùng tiến vào đại bản doanh và đều có chung ý định

chống đối kẻ nhỏ con mới nổi  lên, được người ta cử đến từ Paris. Theo mọi người được nghe tả

lại thì Augereau  lúc này khí thế rất thù nghịch, ngay từ đầu đã thể hiện sự hỗn xược: một thằng

nịnh  bợ Barras, một  viên  tướng  của  sự  kiện Vendémiaire, một  viên  tướng  của  đường  phố mà

người  ta nhầm  tưởng đó  là một con  lợn nhồi bông, bởi vì  lúc nào nó cũng nghĩ, nó cần phải có

một khuôn mặt nhỏ nhắn và nó phải  luôn  làm sao cho xứng với cái danh một nhà toán học, một

kẻ mơ mộng. Họ sẽ đón  tiếp và Bonapart để cho họ chờ đợi. Cuối cùng ông  ta xuất hiện, kiếm

đeo bên mình, đầu đội mũ, phổ biến kế hoạch, ra mệnh lệnh và sau đó từ biệt. Augereau câm như

hến suốt buổi, mãi đến khi ra ngoài mới bừng tỉnh và  lấy  lại được thói quen chửi bới hàng ngày

của mình, ông ta và Massena đồng ý với nhau một điểm, đúng  là cái viên tướng quỷ quái choắt

con này đã dạy cho họ thế nào là lễ độ; ông ta không thể nào tự giải thích nổi cái ảnh hưởng, mà

ngay từ ánh mắt đầu tiên ông ta đã cảm thấy mình bị đè bẹp như thế nào." Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

59

Khi Napoleon đã  trở  thành một con người vĩ đại, ảnh  hưởng của ông  ta  lớn dần  theo với vinh

quang mà ông  ta đạt được, nó có  thể sánh ngang với ảnh hưởng mà những bậc  thánh  thần khi

tácđộng vào tín đổ của họ vậy. Tướng Vandamme, một nhà cách mạng tửng trải, còn thô bạo và

nóng nảy hơn cả Augereau, đã nói trong một ngày của năm 1815 với thống chế d'Ornano khi họ

cùng bước lên cầu thang của điện Tuileries: "Bạn thân mến, cái thằng quỷ này cứ như là nó dùng

phép mê hoặc đối với  tôi, không  thể hiểu  ra sao nữa. Nó  làm  tôi mê hoặc đến mức không còn

cảm thấy sợ hãi một cái gì ngay cả thánh thần lẫn ma quỷ, cứ đứng cạnh nó là lại thấy mình bắt

đầu run  lên như trẻ con, và cảm  thấy như nó có thể ép được mình chui qua  lỗ kim để nhảy vào

lửa vậy."

Kiểu mê hoặc như vậy, tất cả mọi người gần gũi với Napolenon đều bị ông ta tác động [4].

Davoust đã nói, khi ông ta nói về  lòng trung thành của Maret và của ông ta: "Nếu hoàng đế nói

với hai chúng ta: Quyền  lợi chính trị của tôi đòi hỏi phải phá hủy Paris mà không để cho một ai

biết và rời khỏi thành phố, thì Maret, mình tin chắc  là anh ta sẽ giữ bí mật điều ấy; nhưng anh ta

có lẽ không kìm được việc phải vi phạm điều đó để quyết định cho gia đình rời khỏi thành phố.

Nhưng tôi thì sợ là sẽ phản bội một cái gì đó, nên có lẽ phải để cho vợ và các con tôi ở lại trong

thành phố."

Người  ta phải nghĩ  tới sự mê hoặc của cái quyền  lực đáng ngạc nhiên đó, nếu muốn hiểu cuộc

hồi hương  tuyệt diệu  từ đảo Elba, sự chiếm  lĩnh một cách nhanh chóng  toàn bộ nước Pháp bởi

một con người đơn độc, đã phải chiến đấu chống lại tất cả mọi lực lượng có tổ chức của một đất

nước rộng  lớn, một con người mà người ta cho rằng đã quá mỏi mệt với sự chuyên chế của nó.

Chỉ cần một cái nhìn, tất cả những tướng lĩnh được cử tới và thề bắt cho được ông ta đều trở nên

thuần phục không một chút chống đối.

"Napoleon  lên đảo Elba  hầu  như có một mình  và  trở  thành một kẻ kẻ  tị  nạn của đảo nhỏ này

thuộc quốc vương Pháp", tướng Wolseley viết, "và từ chốn đó ông ta khởi đầu cuộc  lật đổ toàn

bộ chính  thể Pháp  trong vòng một vài  tuần không hề có sự đổ máu để  trở  thành ông vua chính

thức; đã có bao giờ quyền lực cá nhân của một con người xứng đáng để thán phục hơn thế? Đáng

kinh ngạc làm sao cái quyền lực mà ông ta vận dụng từ buổi ban đầu cho đến phút cuối của cuộc

đời chinh chiến, và đây là trận cuối cùng, ngay cả đối với đồng minh, bằng cách ông ta đã ép họ

chấp nhận những quyết định của mình; chỉ một chút xíu nữa thôi là ông ta có thể nghiền nát họ!"

Uy lực của ông ta vẫn còn sau khi ông qua đời và nó tiếp tục lớn lên. Nó đã giúp cho người cháu

không  tên  tuổi của ông  ta  trở  thành hoàng đế. Ngày nay qua sự  tô điểm  lại các huyền  thoại về

ông người ta thấy được cái bóng vĩ đại này còn mạnh mẽ dường nào. Hành hạ con người, tàn sát

cả  triệu mạng sống, dẫn đến hết cuộc xâm  lăng này đến cuộc xâm  lăng khác của kẻ  thù,  tất cả

những cái đó các bạn đều được phép, nếu như các bạn có đủ uy lực và có đủ tài để giữ cho uy lực

đó luôn tồn tại.

Chắc chắn ở đây  tôi đã nêu  ra một  trường hợp ngoại  lệ đặc biệt, nhưng nó  thích hợp cho việc

hiểu biết quá trình phát triển của các tôn giáo lớn, các học thuyết và các đế chế. Không có cái sức

mạnh, mà uy lực tác động vào đám đông, sự phát triển đó có lẽ vẫn là điều chưa hiểu được. 

Đánh mất uy lực Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

60

Nhưng uy lực không chỉ hình thành nên từ uy tín cá nhân, từ vinh quang chiến trận, từ sự sợ hãi

tôn giáo, nó cũng có thể có một nguồn gốc không mang một ý nghĩa nào cả và tuy thế nó cũng

rất mạnh mẽ. Thế kỷ 19 đã cho ta nhiều thí dụ về điều này. Một thí dụ trong đó, mà thế giới sau

đấy  thỉnh  thoảng còn nhắc đến, đó  là câu chuyện về một người đàn ông nổi  tiếng, đã  làm  thay

đổi bộ mặt của trái đất và các quan hệ buôn bán giữa các dân  tộc, bằng cách ông  ta đã tách hai

phần  châu  lục  ra  khỏi  nhau. Ông  ta  hoàn  tất  công  cuộc  của mình  với một  ý  chí  vô  cùng  lớn,

nhưng đồng  thời cũng nhờ cả vào  sự mê  hoặc mà ông  ta  tác động  tới môi  trường  xung quanh

mình. Để có thể chiến thắng sự nhất trí của những người chống đối, mà ông ta đã nhận thấy trước

đó, ông ta chỉ cần xuất hiện, nói ngắn gọn và đối phương như thể bị ông ta bỏ bùa mê, cuối cùng

lại trở nên những người bạn của ông. Dân chúng Anh chống lại dự định của ông ta với cả một sự

giận dữ; ông ta chỉ cần xuất hiện ở Anh là có thể lấy lại được mọi sự ủng hộ của họ. Sau này, khi

ông ta đến Southampton, các nhà thờ đã đổ chuông mỗi khi ông đi qua. Khi đã chiến thắng tất cả,

con người và công việc, ông ta tin rằng chẳng còn có gì có thể ngăn cản được ông và ông ta  lại

muốn tiếp tục vận dụng những phương cách như thế cho việc đào tiếp kênh Panama. 

Nhưng cái niềm tin có thể dời núi, chỉ có thể thực sự dời được núi, nếu như núi không quá cao.

Những ngọn núi đã phản kháng và cái tai họa tiếp nối từ đó đã phá nát niềm vinh quang sáng tỏa

đã một thời bao quanh người anh hùng. Cuộc đời của ông ta là một bài học về cái ảnh hưởng đã

sinh ra và rồi lại có thể mất đi như thế nào. Khi ông ta có thể sánh vai được với những người anh

hùng của  lịch sử, cũng  là  lúc ông  ta bị nhà cầm quyền của đất nước ông chụp cho cái mũ  là kẻ

phá hoại bỉ ổi. Sau khi qua đời quan tài của ông được chở đi trong cô đơn, qua những đám đông

thờ ơ, hờ hững. Chỉ có những nguyên  thủ ngoại quốc tưởng nhớ đến ông và gởi  lời kính viếng

[5].

Song những thí dụ khác nhau, được dẫn ra như trên, chỉ thể hiện những trường hợp đặc biệt. Để

có thể lập luận một cách chính xác về tâm lý học của uy lực, chúng phải được đặt vào vị trí biên

của một dãy các ví dụ gồm những người  sáng  lập  lập  ra các  tôn giáo cho đến những công dân

bình thường, những người đã tìm cách gây ảnh hưởng đến hàng xóm của mình qua ngay cả với

một bộ quần áo mới hoặc một danh hiệu nào đó.

Giữa những thành phần ngoài cùng của dãy này là tất cả các loại uy lực trong tất cả mọi lĩnh vực

văn hóa khác nhau: khoa học, các thể  loại nghệ thuật, văn học v.v..., và điều đó cho thấy uy  lực

là nguyên tố cơ bản tạo nên sự tin tưởng. Sinh thể, ý tưởng hoặc sự việc nào có uy  lực phát tỏa,

do ảnh hưởng qua truyền nhiễm của chúng,  lập tức chúng sẽ được bắt chước, và chúng sẽ quyết

định kiểu cảm nhận, cách thức diễn đạt ý nghĩ đối với cả một thế hệ con người. Hơn nữa sự bắt

chước thường xảy ra một cách vô ý thức, và chính điều này làm cho nó trở nên hoàn hảo. Những

họa  sĩ  hiện đại, phục chế  lại  những  những  tranh có mảng màu mờ  nhạt và  những  tư  thế cứng

nhắc được vẽ bởi những con người nguyên thủy nào đó, không biết gì đến nguồn cảm hứng của

chúng, họ quá tin vào tính trung thực của họ, đến nỗi người ta có lẽ sẽ mãi vẫn chỉ biết về những

mặt ấu trĩ và chưa hoàn thiện của chúng, giả như nếu không có một bậc thầy xuất sắc  làm sống

lại  loại hình nghệ thuật đó. Những kẻ bắt chước theo mẫu của một nghệ sĩ phục chế danh tiếng,

khi phủ lên phông vẽ của họ những bóng màu tím, hẳn đã không nhìn thấy cái màu tím trong tự

nhiên như người ta trước đó năm mươi năm đã nhìn, nhưng rõ ràng họ đã bị ảnh hưởng bởi cái

ấn tượng cá nhân đặc biệt của một họa sĩ, người đã có một uy lực lớn. Trong tất cả các lĩnh vực

nghệ thuật đều có thể dễ dàng chỉ ra những ví dụ kiểu như vậy. Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

61

Ta thấy, như đã trình bày trên đây, rằng có thể có rất nhiều yếu tố tham dự vào sự hình thành nên

uy  lực. Một  trong những  yếu  tố đó  thường  là  sự  thành công. Mỗi một con người đạt được  sự

thành công, mỗi một ý tưởng trở nên thắng thế, những cái đó cũng đã đáng để được kính trọng.

Uy  lực biến đi  luôn đúng vào cái  thời điểm xảy ra sự thất bại. Người anh hùng, ngày hôm qua

còn được đám đông tung hô, ngày mai sẽ bị chính họ phỉ nhổ nếu như số của ông ta đã đến. Uy

lực càng lớn, thì sự đổi chiều càng mãnh liệt. Đám đông lúc đó coi người anh hùng thất thế cũng

chỉ còn là kẻ bằng vai phải lứa với họ và họ sẽ trả thù cho cái sự đã từng phải thần phục kẻ hơn

mình, mà giờ đây đối với nó họ chẳng còn chút kính trọng nào nữa. Khi mà Robespierre ra lệnh

chặt đầu những đồng nghiệp và số đông các đồng chí của ông ta, ông ta đang có một uy  lực vô

cùng lớn. Sự xê dịch một số ý kiến biểu quyết đã lấy đi của ông lập tức cái uy lực đó, và sau đó

đám đông đi theo sau ông đến đoạn đầu đài với vố số lời nguyền rủa y như ngày trước đó họ đã

từng  làm đối với những nạn nhân của ông ta. Các tín đồ  luôn đập nát trong cơn tức giận những

hình tượng thánh thần của họ trước đó.

Sự thất bại bị phát hiện đã  làm cho uy  lực mất đi nhanh chóng. Nó cũng có thể bị hao mòn, do

việc người ta bàn luận về nó; điều này xảy ra chậm hơn, nhưng chắc chắn. Cái uy lực một khi đã

bị đem ra bàn  luận sẽ không còn  là uy  lực nữa. Thánh  thần và con người, kẻ nào có ý  thức về

việc giữ cho uy lực của mình tồn tại dài lâu, sẽ không bao giờ dung thứ cho các kiểu bàn luận. Ai

muốn được đám đông ngưỡng mộ, người đó lúc nào cũng phải nên giữ một khoảng cách đối với

họ.

______________________________

[1] Xem  thêm các bài viết cuối của  tôi: "Tâm  lý chính  trị học", "Ý kiến và quan điểm", "Cuộc

cách mạng Pháp và Tâm lý học của các cuộc cách mạng".

[2] Gustave le Bon. Con người và các hình thái xã hội. 1881. Tập 2, tr. 116. 

[3] Người  ta  thấy kiểu  tác động của chức danh, băng choàng danh dự, và đồng phục vào đám

đông ở tất cả các nước, ngay cả ở những nơi mà sự yêu chuộng đối với độc  lập cá nhân đã nảy

nở một cách mạnh mẽ. Để làm sáng tỏ điều này, tôi dẫn ra đây một đoạn thú vị trong quyển sách

mới gần đây của một du khách, nói về ảnh hưởng của tính cách cá nhân ở Anh: "Nhiều cuộc gặp

gỡ khác nhau đã  làm cho tôi có thể tin vào sự ngây ngất của những người Anh bình thường khi

được tiếp xúc với một nhà quý tộc hoặc qua cái nhìn của ông ta."

"Với điều kiện là sự phô trương của ông ta phải tương xứng với chức danh của ông, họ yêu mến

ông ta ngay từ giây phút đầu, và với sự có mặt của ông ta họ chấp nhận tất cả mọi thứ của ông ta

với một niềm sung sướng. Người ta thấy họ đỏ mặt lên vì cảm động, khi ông ta tiến  lại gần, và

khi ông ta nói chuyện với họ, nó  lại càng  làm tăng thêm cái cảm giác hạnh phúc, tăng thêm sắc

đỏ  trên khuôn mặt họ, và nó  làm cho ánh mắt của họ  rực sáng  lung  linh. Họ có nhà vua  trong

máu của mình, ta có thể nói như vậy, như người Tây ban nha có các điệu nhảy, người Đức có âm

nhạc và người Pháp có cách mạng. Sự say mê của họ dành cho ngựa và cho Shekespeare cũng

không được nồng  nhiệt như  thế,  sự  bằng  lòng  và hãnh diện  về điều đó cũng  thấp  hơn. Quyển

sách về quý  tộc đã được bán  ra với  số  lượng  lớn, và người  ta  thấy chúng  trong  tay  tất cả mọi

người giống như là quyển kinh thánh vậy. Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

62

[4] Hoàng đế hoàn toàn lượng biết tác động của mình mạnh đến đâu và biết cách làm gia tăng nó,

bằng cách ông  ta đã đối xử với những bậc danh  tiếng quanh mình còn  tồi  tệ hơn  là đối xử với

những người chăn bò, mà trong đám họ không  ít người  là những nghị viên nổi tiếng đến nỗi cả

châu Âu phải khiếp sợ. Những tường thuật đương thời đã viết đầy rẫy các sự kiện kiểu như vậy.

Ngày nọ Napoleon trong một hội nghị của hội đồng nhà nước, đã mắng Beugnot một cách thô lỗ

chẳng khác gì cách người ta hành xử đối với một kẻ hầu vụng về: "Thế nào bây giờ hả ông, cái

đầu đần độn vĩ đại, ông đã tìm thấy  lại cái đầu của ông chưa? Đáp  lại, Beugnot, một kẻ cao lớn

như cột cờ, đã cúi gập mình thật thấp, và người đàn ông nhỏ con kia giơ tay kéo tai anh chàng to

lớn, như Beugnot viết: "một dấu hiệu của sự khích  lệ ngây ngất, một cử chỉ tin cậy của một của

một ông chủ nói năng ân cần". Những thí dụ như vậy cho thấy một khái niệm rõ ràng về mức độ

nhạt nhẽo mà uy  lực có  thể  tạo nên;  nó đã  làm cho  ta hiểu được  sự khinh  bỉ  vô cùng  lớn của

những kẻ chuyên chế đối với những con người xung quanh ông ta.

[5] Một  tờ báo nước ngoài,  tờ "Neue Freie Presse" của  thủ đô nước Áo, nhận  sự kiện Lesseps

qua đời đã có những nhận xét rất sắc sảo về mặt tâm lý, thấy cũng nên được trích dẫn ra ở đây:

"Sau vụ kết án Ferdinands von Lesseps người ta không còn có quyền ngạc nhiên gì về cái kết cục

buồn thảm của Chiristoph Columbus nữa. Nếu Lesseps là một kẻ lừa đảo, thì mọi sự lừa dối cao

quý đều phải  là tội phạm. Nếu ở thời thượng cổ thì người ta đã vinh danh ông với vòng nguyệt

quế và để cho ông  ta uống cạn chén nước  tiên  trên đỉnh Olymp, bởi vì ông  ta đã  làm  thay đổi

diện mạo thế giới và đã thực hiện một công trình hoàn thiện tác phẩm của tạo hóa. Qua việc kết

án Lesseps ông chánh án của tòa phúc thẩm đã trở thành bất tử, bởi dân chúng sẽ mãi mãi lôi tên

cái con  người, đã không  biết  sợ  trước  sự xỉ  vả của  thời đại  về  việc đã  tròng cho một ông già

khọm  rọm bộ áo  tù, mà cuộc đời ông  ta đã mang  lại vinh quang cho những người cùng  thời."

"Người ta luôn nói với chúng ta về không được bẻ cong luật pháp, lại ở đúng cái nơi mà sự căm

thù một cách quan liêu chống lại tất cả những sứ mệnh vĩ đại và táo bạo đang ngự trị. Nhân dân

cần đến  những  người đàn ông dũng cảm,  tin ở chính mình  và không chú  trọng đến cái  tôi để

chinh phục tất cả những gì khó khăn trở ngại. Thiên tài không thể thận trọng, với sự thận trọng sẽ

không bao giờ nới rộng được cái giới hạn hoạt động của loài người. 

... Ferdinand von Lesseps đã biết đến cái say sưa của sự chiến thắng và cái đắng cay của sự thất

bại: Suez và Panama. Ở đây tính nết chống lại đạo đức của thành công. Khi mà Lesseps nối liền

được hai đại dương, tất cả các lãnh chúa và các dân tộc đã tỏ lòng kính trọng ông; ngày nay, do

ông bị tai nạn đắm tàu tại vách đá vùng Cordillerie, ông bỗng chốc trở thành kẻ lừa đảo bỉ ổi. Đó

là cuộc chiến của các giai cấp trong xã hội, những kẻ quan liêu bất mãn và những quan chức, đã

sử dụng  luật pháp để  trả  thù những ai muốn  vươn  lên  trên  những  người khác. Những  nhà  lập

pháp hiện nay  trở nên rất khó nói khi giáp mặt với những ý  tưởng  to  lớn của  trí  tuệ  loài người,

dân chúng  lại càng hiểu về nó  it hơn, và công  tố nhà nước cảm  thấy dễ dàng chứng minh được

Stanley là một kẻ ám sát và Lesseps là một tên lừa đảo."

Chương 4: Ranh giới của sự thay đổi của các quan điểm nền tảng và các nhận xét

của đám đông

§1. Các quan điểm nền tảng không thay đổi (croyances fixes) Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

63

Có một sự tương đồng khăng khít giữa các đặc điểm hình  thái học và các đặc điểm  tâm  lý học

của các  loại  sinh vật. Trong cách đặc  tính hình  thái học  ta  thấy có những yếu  tố nhất định bất

biến  hoặc nếu không cũng chỉ  biến đổi  rất  ít, có khi phải  cần đến cả một niên đại địa chất để

chúng có thể biến đổi. Bên cạnh những yếu tố bất biến, không  lặp  lại này còn có những yếu rất

linh động dễ có thể bị môi trường, nghệ thuật nuôi dưỡng trồng trọt làm cho thay đổi, sự thay đổi

này đã che đậy những đặc tính cơ bản của nó trước những người quan sát hời hợt.

Hiện tượng như vậy ta cũng gặp ở trong thế giới đạo đức. Bên cạch những thành phần tâm hồn

không  thay đổi của một giống nòi  tồn  tại những yếu  tố chuyển động và  thay đổi. Chính vì  thế

trong khi nghiên cứu các quan điểm và ý niệm của một dân tộc chúng ta đã nhận ra có một nền

tảng vững chắc, trên nó là nhiều quan điểm khác cư ngụ, chúng giống như một lớp bụi cát dễ bị

thổi bay phủ lên trên một tảng đá.

Như thế các quan điểm nền tảng và các ý niệm của đám đông sẽ tạo nên hai nhóm tách biệt nhau

rất rõ ràng. Có một nhóm gồm những ý nghĩ nền tảng lâu bền, tồn tại nhiều thế kỷ và trên chúng

đã nảy sinh  ra cả một nền văn hóa. Ví dụ như những  tư tưởng phong kiến, những ý  tưởng của

thiên chúa giáo, của phong trào cải cách và ngày nay là các tư tưởng dân tộc cơ bản, các ý tưởng

dân chủ và xã hội. Một nhóm khác bao gồm những quan điểm luôn biến đổi nhanh chóng, chúng

phần  lớn được  suy dẫn  ra  từ các  ý  tưởng chung, chúng  là  những quan điểm  sinh  ra  và mất đi

trong mỗi một thời đại: Ví dụ như, các học thuyết, nghệ thuật và văn học tiêu biểu cho một thời

đại  và  chủ  nghĩa  lãng mạn, chủ  nghĩa  tự nhiên  sinh  ra ở đó v.v... Thay đổi  như mốt quần  áo,

chúng biến động giống như những con sóng nhỏ  liên  tục sinh ra rồi mất đi  trên bề mặt một hồ

nước.

Số  lượng các ý  tưởng nền  tảng không  lớn. Sự sinh  ra và mất đi của chúng  tạo nên những đỉnh

cao trong lịch sử mỗi một chủng tộc. Chúng là bộ khung thực sự của nền văn hóa.

Các quan điểm thoảng qua dễ dàng bám vào tâm hồn đám đông, nhưng để chúng có thể trở thành

một niềm tin vững chắc trong đó là một điều rất khó, và việc xóa bỏ chúng ra khỏi đó cũng khó ở

mức độ tương tự, nếu như chúng đã một lần ăn sâu bám chặt. Chắc chắn người ta có thể thay đổi

chúng với giá của một cuộc cách mạng bạo lực, và cũng chỉ khi nếu như niềm tin ngự trị tâm hồn

đám đông đã gần như tàn lụi hoàn toàn. Cách mạng sau đó giúp cho việc vứt bỏ hoàn toàn quan

điểm nền tảng, điều mà người ta gần như sắp phải từ bỏ, bởi liên tục bị quyền lực của thói quen

ngăn cản. Khởi đầu của các cuộc cách mạng cũng là sự kết thúc của các quan điểm nền tảng.

Một quan điểm lớn sẽ bị kết án tử hình đúng vào cái ngày mà hôm đó người ta bắt đầu tiến hành

tranh cãi về giá trị của nó. Do bởi mỗi một quan điểm nền tảng chỉ  là một ảo tưởng, cho nên nó

chỉ có thể tồn tại cho đến chừng nào nó bắt đầu bị kiểm chứng.

Nhưng dù một quan điểm nền tảng có bị  lung  lay mạnh, những thể chế xây dựng trên cơ sở của

nó vẫn bảo  toàn quyền  lực và quyền  lực đó chỉ biến mất đi một cách  từ  từ. Đễn chừng nào nó

không còn quyền  lực nữa, tất cả những gì được nó chống đỡ sẽ sụp đổ hoàn toàn. Chưa từng có

một dân  tộc nào được phép  thay đổi các quan điểm nền  tảng của nó mà đồng  thời không phải

chịu sự kết án rằng đã làm đảo lộn tất cả mọi thành phần của nền văn hóa của nó. Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

64

Nền văn hóa sẽ được cải tạo lại cho đến chừng nào nó tiếp nhận một quan điểm nền tảng chung

mới và cho đến  lúc đó bất quá  là phải chịu sống chung  trong sự hỗn  loạn. Các quan điểm nền

tảng  chung  là  những  trụ  cột  cần  thiết  của  các  nền  văn  hóa. Chúng  cung  cấp  cho  các  ý  tưởng

phương hướng và một mình chúng khêu gợi  lên  lương tâm trong sạch và tạo dựng nên tinh thần

trách nhiệm.

Các dân  tộc  luôn cảm  thấy  ích  lợi  trong việc  tạo nên những quan điểm nền  tảng chung và hiểu

một cách  bản  năng,  rằng  sự mất đi của chúng  là dấu  hiệu của  thời điểm  sụp đổ. Sự  tôn  sùng

cuồng nhiệt đối với Roma của những người dân thành Roma  là niềm tin đã giúp cho họ trở nên

ông chủ của thế giới. Khi niềm tin đó chết đi, cũng là lúc Roma lụi tàn. Chỉ đến khi những kẻ tàn

bạo, những kẻ phá hủy văn hóa Roma đạt được một vài quan điểm nền tảng thống nhất chung lúc

đó họ mới có được một sự đồng thuận nào đó và mới có thể vượt qua được sự hỗn loạn.

Cũng có lý khi mà các dân tộc luôn hấp tấp trong việc bảo vệ các niềm tin của họ. Sự hấp tấp này

càng đáng trách theo quan điểm triết học, nhưng trong cuộc sống của các dân tộc nó lại được coi

là một phẩm chất tốt. Để thiết lập nền tảng cho các niềm tin chung hoặc để bảo tồn chúng, ở thời

trung cổ người  ta đã dựng  lên nhiều dàn hỏa  thiêu, và nhiều nhà phát minh, nhiều nhà cải cách

tưởng tránh được đàn áp thì  lại phải chết trong sự tuyệt vọng. Để bảo vệ những niềm tin đó, thế

giới liên tục lại bị đảo lộn, hàng triệu nhân mạng bị phơi thây nơi chiến trận và nó sẽ còn tiếp tục

như thế.

Chúng  tôi đã nói, rằng việc đưa vào một quan điểm nền  tảng chung sẽ gặp những  trở ngại  lớn;

nhưng nếu như nó một khi đã bắt rễ thì quyền lực của nó còn lâu mới có thể bị phế truất, và cho

dù về mặt triết học nó có thể sai, tuy nhiên nó vẫn cứ lấn át được những cái đầu thông thái nhất.

Chẳng phải rằng các dân tộc châu Âu từ thế kỷ 15 đã từng coi các huyền thoại tôn giáo là sự thật,

những  huyền  thoại mà  khi  quan  sát  kỹ  cũng  tàn  bạo  chẳng  khác  gì  chuyện  hoang  tưởng  về

Moloch? Sự vô nghĩa ghê rợn của câu chuyện hoang  tưởng về một ông thánh, do bởi một nhân

vật của ông ta tạo ra đã không tuân phục mình nên ông ta đã trả thù bằng cách hành hạ con của

nhân vật đó một cách khủng khiếp, thế mà nhiều thế kỷ trôi qua vẫn chẳng có ai phát hiện ra điều

đó. Những cái đầu vĩ đại như Galilei, Newton, Leibnitz, không hề có một giây phút nào nghĩ lại,

rằng cần phải nghi ngờ về sự thật của những  loại huyền  thoại như vậy. Chẳng bằng chứng nào

thuyết phục hơn  là sự mê hoặc, được gây nên bởi những  tư tưởng nền  tảng chung, nhưng cũng

không có gì xấu hơn là những giới hạn đáng xấu hổ của trí tuệ của chúng ta.

Chừng nào tâm hồn đám đông được cấy vào đó một học thuyết mới, nó sẽ tác động vào các thể

chế, vào các  loại hình nghệ  thuật và đạo đức. Sự thống  trị của nó đối với  tâm hồn không hề có

giới hạn. Những con người của hành động chỉ nghĩ đến việc hiện  thực hóa của chúng, nhà  lập

pháp thì chỉ nghĩ đến việc ứng dụng chúng, triết gia, nghệ sĩ, nhà văn thì chỉ nghĩ đến việc lo cho

nó chuyển hóa thành các hình thức khác nhau.

Qua các quan điểm nền  tảng chung con người đã bao bọc quanh mình một mạng  lưới gồm các

truyền  thuyết, các quan điểm và các  thói quen, và họ không  thể nào thoát ra khỏi được khỏi nó

và con người ngày càng  trở nên giống nhau hơn. Ngay cả cái đầu độc  lập nhất cũng không hề

nghĩ đến chuyện phải  thoát  ra khỏi cái mạng  lưới đó. Kẻ chuyên chế chính hiệu nhất  thống  trị

những  tâm hồn một cách vô  thức, bởi vì một mình chúng  thì chẳng cần phải diệt  trừ. Tiberius,

Dschingiskhan, Napoleon  rõ  ràng  đều  là  những  kẻ  chuyên  chế,  nhưng Mose,  Buddha,  Jesus, Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

65

Mohammed, Luther  từ trong mộ của họ họ cũng  thực  thi một sự thống  trị không kém phần sâu

rộng đối với những tâm hồn. Một kẻ chuyên chế có thể bị lật đổ bởi một âm mưu cấu kết, nhưng

bọn đó có thể làm được gì đối với một niềm tin đã cắm rễ vững chắc?

Trong cuộc chiến khốc  liệt chống  lại nhà thờ thiên chúa giáo, cuộc cách mạng vĩ đại của chúng

ta đã thua cuộc, cho dù có vẻ như nó có sự ủng hộ của đám đông và cho dù nó đã sử dụng các

phượng  tiện hủy diệt một cách  tàn bạo như những phương  tiện của  tòa dị giáo. Kẻ chuyên chế

duy nhất  thực chất của  loài người  luôn chính  là những cái bóng của những kẻ đã chết hoặc  là

những ảo tưởng mà chính những kẻ đó tạo nên.

Tôi nhắc  lại: Sự vô nghĩa về mặt  triết  lý của một quan điểm nền  tảng chung nào đó không bao

giờ là vật cản đối với sự chiến thắng của nó. Sự chiến thắng đó thậm chí dường như chỉ có thể có

được, nếu như nó chứa đựng trong mình một sự vô nghĩa đầy bí mật nào đó. Sự nghèo nàn trí tuệ

một cách  rõ ràng của các học  thuyết xã hội chủ nghĩa hiện nay cũng không  thể ngăn cản được

việc nó ăn sâu vào tâm hồn đám đông. Sự bất cập thực sự của nó so với các niềm tin tôn giáo duy

nhất là ở chỗ: do vì lý tưởng hạnh phúc, mà các niềm tin tôn giáo đặt ra phía trước, chỉ có thể trở

thành hiện  thực  trong cuộc đời  tương  lai, chính vì vậy mà không một ai có  thể bàn  luận về sự

hiện  thực hóa chúng; Nhưng bởi các  lý  tưởng hạnh phúc xã hội chủ nghĩa cần phải được  thực

hiện ngay  trên  trái đất này, cho nên sự phù phiếm của những  lời hứa hẹn đồng  thời cũng xuất

hiện cùng ngày với cuộc  thí nghiệm hiện  thực hóa đầu  tiên, và niềm  tin mới cũng vì  thế mà đã

mất đi tất cả mọi ảnh hưởng. Quyền  lực của nó chỉ  lớn mạnh đúng cho đến cái ngày mà mà nó

được hiện thực hóa. Và vì vậy cái tôn giáo mới, cũng như mọi tôn giáo khác trước đây, đầu tiên

nó tiến hành những hoạt động tàn phá, mà sau này, cũng như các tôn giáo đó, nó không thể đảm

nhiệm được tiếp tục cái vai trò sáng tạo.

§2. Những quan niệm không bất biến của đám đông

Bên  trên những quan điểm  nền  tảng, mà  chúng  ta đã bàn  về quyền  lực của  chúng,  là một  lớp

những phán xét, ý kiến, ý  tưởng, suy nghĩ, chúng  liên  tục sinh ra và biến đi. Chúng  ta trước đó

cũng đã xác định rằng những sự thay đổi này của các quan niệm thường xảy ra trên bề mặt nhiều

hơn là trong bản chất của chúng và luôn mang dấu ấn của các đặc tính giống nòi. Ví dụ như khi

chúng  ta  quan  sát  các  tổ  chức  nhà  nước  của  chúng  ta,  chúng  ta  sẽ  nhận  thấy  các  thành  phần

dường như trái ngược nhau: người theo chủ nghĩa quân chủ, người thuộc trường phái cực đoan,

người theo chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa xã hội... đều hoàn toàn có cùng chung những lý tưởng,

mà mình chúng và duy nhất chúng dựa  trên  trạng  thái  tinh  thần của giống nòi chúng  ta, bởi vì

cũng cùng một tên gọi, ở những giống nòi khác nhau chúng thể hiện một lý tưởng hoàn toàn trái

ngược. Không phải cái  tên của quan điểm mà cũng chẳng phải những  thích nghi giả  tạo của nó

làm cho bản chất vấn đề thay đổi. Nhân dân trong thời kỳ cách mạng, những người được nói đến

đầy rẫy trong văn học La tinh, những người bị nước cộng hòa La mã xua đuổi, đã tiếp nhận luật

pháp, hệ thống chính quyền, và các nghi thức của nó nhưng không vì vậy mà họ trở nên những

người La mã, bởi vì họ đã bị bao trùm bởi sự thống trị của một ảo giác lịch sử vĩ đại.

Nhiệm vụ của các nhà  triết học  là phải nghiên cứu xem cái gì nằm bên dưới những cái dường

như là biến đổi của các niềm tin cũ và trong dòng xoáy của vô số những quan niệm, ý kiến, phải

tìm  ra  được  những  chuyển  động  được  quyết  định  bởi  những  quan  điểm  nền  tảng  và  tâm  hồn

giống nòi. Không có cái  thước đo triết học này người  ta có thể  tin, rằng đám đông  thay đổi các Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

66

niềm tin tôn giáo và triết học một cách thường xuyên và thực sự. Toàn bộ  lịch sử chính trị,  lịch

sử tôn giáo, lịch sử nghệ thuật và văn học có vẻ như chứng minh cho thực tế đó.

Chúng ta hãy xem xét một giai đoạn ngắn trong lịch sử của chính mình, cụ thể từ năm 1790 đến

năm 1820, khoảng  thời gian cỡ bằng cuộc đời một con người. Chúng  ta thấy  trong khoảng  thời

gian này, đám đông khi đầu theo chủ nghĩa quân chủ, sau đó là cách mạng, rồi theo chủ nghĩa đế

quốc và cuối cùng  lại quay  trở  lại  với  chủ  nghĩa quân chủ. Đối  với  tôn giáo cũng  trong cùng

khoảng thời gian đó, từ thiên chúa giáo sang vô thần, sau sang chủ nghĩa thần thánh và cuối cùng

lại quay trở về với thiên chúa giáo với một hình thức khắt khe nhất. Và không chỉ có riêng đám

đông, ngay cả những người  lãnh đạo cũng có những biến chuyển như vậy. Người ta thấy những

nghị viên  lớn, vốn  là kẻ  thù không đội  trời chung của chế độ vua chúa, họ không cả muốn biết

đến thánh thần và quỷ sứ, thế nhưng họ đã cúc cung phục vụ Napoleon một cách tận tụy và dưới

thời Louis XVIII  trong  các  buổi  lễ  thánh  họ  là  những  người  đã  vác  những  cây  nến một  cách

ngoan đạo như thế nào.

Đấy, hãy xem các quan niệm của đám đông đã biến đổi ra sao  trong vòng 70 năm! "La perfide

Albion" [khái niệm chỉ nền ngoại giao xảo trá của nước Anh hay nước Anh xảo trá] hồi đầu thế

kỷ này do ảnh hưởng bởi di sản của Napoleon để lại đã trở thành kẻ đồng minh của nước Pháp;

Nước Nga,  là nước hai  lần có chiến tranh với chúng ta và đã rất vui mừng trước số phận không

may của chúng ta lần cuối đây, bỗng nhiên lại được coi là bạn hữu.

Trong văn học, nghệ  thuật,  trong  triết học sự thay đổi còn xảy  ra nhanh chóng hơn nhiều. Chủ

nghĩa  lãn mạn, chủ nghĩa tự nhiên, chủ nghĩa thần bí v.v... thay đổi nhau xuất hiện rồi biến mất

môt cách  nhanh  chóng. Những  nghệ  sĩ  và  nhà  văn  ngày  hôm qua còn đang được  ngưỡng mộ,

ngày mai đây sẽ có thể rất bị coi thường.

Vậy chúng ta sẽ nhìn thấy gì, nếu như chúng ta nghiên cứu về những thay đổi có vẻ như sâu sắc

đó? Tất cả mọi quan điểm không phù hợp với các quan điểm và các tình cảm nền tảng đều không

thể tồn tại lâu dài và những gì lệch dòng cuối cùng cũng sẽ quay trở về với cái dòng chính quen

thuộc của chúng. Những quan điểm, không gắn  liền với các niềm  tin cơ bản, với  tình cảm của

giống nòi và như vậy sẽ không thể bền vững, sẽ bị tiêu tan bởi các biến cố, nếu không muốn nói

rằng, bởi những thay đổi nhỏ nhất của các mối quan hệ. Những quan điểm như vậy được sinh ra

với sự trợ giúp của  tác động kích họat (suggestion) và  truyền nhiễm, chúng  luôn rất không bền

vững và sự xuất hiện cũng như sự biến đi của chúng xảy ra rất mau chóng giống như những gò

cát nhỏ trên bãi biển được gió tạo nên.

Con  số những  ý  niệm không  bền  vững của đám  đông ngày  nay  nhiều  hơn  bao giờ  hết, và  bắt

nguồn từ ba nguyên nhân cụ thể sau đây.

Thứ nhất, các giáo  lý cũ đã ngày càng bị mất đi ảnh hưởng của chúng và không còn có thể định

hướng được cho ý niệm như trước đây. Sự lụi tắt của toàn bộ các niềm tin mở đường cho vố số

các quan điểm đặc biệt, không có quá khữ lẫn tương lai.

Thứ hai, quyền lực của đám đông ngày càng lớn mạnh và ngày càng không có đối trọng, nên tính

chuyển động cực lớn của các ý tưởng, mà ta đã nhận thấy trong chúng, có thể tự do nảy nở. Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

67

Thứ ba, báo chí phát triển rộng rãi như mới đây đã cung cho đám đông một cách  liên tục các ý

kiến trái ngược nhau. Những tác động, đã có lúc được tạo nên bởi chúng thì chẳng bao lâu lại bị

những tác động ngược lại làm cho mất đi. Không có một ý niệm nào được lan tỏa một cách thực

sự và tất cả chỉ là tạm thời. Chúng đã chết trước khi được biết đến một cách đầy đủ để có thể trở

thành những ý niệm chung.

Dư luận quần chúng và báo chí

Từ vố số những nguyên nhân đó đã xuất hiện một hiện tượng hoàn toàn mới mẻ trong lịch sử thể

giới, rất đặc đặc trưng cho thời đại hiện nay; tôi muốn nói về sự bất lực của chính phủ trong việc

định hướng dư luận quần chúng.

Ngày  xưa,  và cái  ngày  xưa  này cách đây  cũng không  lấy gì  làm  lâu  lắm, dư  luận quần chúng

được định hình bởi các hoạt động của chính phủ, bởi các ảnh hưởng của số ít nhà văn và một số

hoàn toàn ít ỏi các tờ báo. Ngày nay các nhà văn đã mất đi tất cả các ảnh hưởng của mình, và báo

chí chỉ còn phản ánh lại dư luận của quần chúng. Còn phần của các vị lãnh đạo quốc gia, thì bây

giờ họ chẳng hề nghĩ đến việc định hướng dư luận nữa mà chỉ lo sao để làm theo dự luận. Sự sợ

hãi  trước dư  luận quần chúng của họ quả  là kinh khủng và  nó đã cướp đi của họ mọi  sự kiên

định.

Ý kiến của đám đông  tỏ ra ngày càng có xu hướng  trở nên người điều hành quan  trọng đối với

chính trị. Nó đã có thể làm được cả cái việc áp đặt những đòi hỏi, kiểu như mới đây đã xảy ra tại

nước Nga, những áp đặt mà chúng  ta đã  thấy đều sinh  ra hầu như chỉ  từ một phòng  trào quần

chúng.

Cũng là một dấu hiệu rất riêng biệt của thời đại chúng ta, khi mà các giáo hoàng, các vua chúa đã

phải sử dụng đến việc lấy ý kiến của các đại diện báo chí để có thể trình bày những suy nghĩ của

mình về một sự việc nhất định nào đó cho phù hợp với nhận xét của đám đông. Ngày xưa người

ta nói, chính  trị không phải  là công việc của  tình cảm. Liệu ngày  nay  người  ta còn có  thể nói

được như vậy nữa không, nếu như ta nhìn  thấy, rằng nó đã để cho các ý nghĩ bất chợt của một

đám đông không biết gì đến lý trí và chỉ biết đến duy tình điều khiển?

Báo chí,  là người định hướng dư luận trước kia, cũng giống như chính phủ, chúng đã phải mềm

yếu  đi  dưới  quyền  lực  của  đám  đông. Tất  nhiên  chúng  vẫn  còn  là một  quyền  lực  quan  trọng,

nhưng  rõ  ràng  bởi  vì  nó  chỉ  thuần  túy  là  sự  phản  ánh  lại  dư  luận  quần  chúng  và  sự  biến  đổi

không ngừng của họ. Nó đã trở thành một phương tiện thông tin đơn giản và đã từ bỏ công việc

truyền bá một ý  tưởng hoặc một học thuyết nào đó. Nó chạy  theo mọi  thay đổi của các cái đầu

của công chúng, nó tự trao cho mình một trách nhiệm như thế, bởi nếu không như vậy nó sẽ có

nguy cơ bị các biện pháp cạnh tranh của đối thủ làm mất đi nguồn độc giả. Những tờ báo xưa có

ảnh hưởng mạnh và đáng kính trọng của một thời, mà những câu nói của thế hệ trước đây được

viết trong đó đã được người ta nghe một một cách thành kính như những  lời sấm truyền, chúng

đã biến mất hoặc đã  trở  thành những mẩu  tin được bao bọc xung quanh bởi những sự kiện vặt

vãnh, những chuyện xã hội tầm phào hoặc những quảng cáo  làm ăn. Có tờ báo nào ngày nay có

thể đạt đến giàu có khi mà nó cho phép những nhà văn đăng ý kiến của riêng họ? Và những ý Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

68

kiến như vậy có chút trọng lượng nào trong số các độc giả, những người chỉ muốn biết những tin

tức vặt vãnh và đọc chỉ để tiêu khiển và chỉ để đánh hơi những tính toán sau mỗi một lời khuyến

mại? Sự phê bình không còn có cái quyền  lực để đem  lại sự thắng  lợi cho một quyển sách hoặc

một vở kịch. Nó chỉ đem lại cái hại nhiều hơn là làm lợi. Các tờ báo đã ý thức được sự vô dụng

của bất kỳ các ý kiến riêng biệt nào đến độ chúng hạn chế dần dần các ý kiến phê bình về văn

học và chỉ cho đăng mỗi tên của các cuốn sách và bên cạnh đó là một hoặc hai dòng giới thiệu về

chúng, và  trong vòng 20 năm  tới đây việc phê bình nghệ  thuật chắc chắn cũng sẽ được đối xử

kiểu như vậy.

Sự nghe ngóng dư luận quần chúng là mối quan tâm chính của báo chí và chính phủ hiện nay. Sự

kiện nào có ảnh hưởng như  thế nào vào quá  trình dự  thảo một một điều  luật, vào mỗi một bài

diễn văn là điều rất có giá trị để biết đối với họ. Việc này không hoàn toàn dễ dàng, vì không có

gì có thể biến đổi và chuyển động nhiều như suy nghĩ của đám đông. Người ta có thể chứng kiến,

họ hôm nay đã nguyền rủa những gì mà hôm qua họ từng tung hô tán thưởng.

Kết quả cuối cùng của sự mất phương hướng hoàn toàn của dư luận và sự đồng thời mất đi của

các niềm tin cơ bản  là sự tan vỡ đối với tất cả các quan điểm và sự vô cảm ngày càng tăng của

đám đông, giống như  là một người chống  lại  tất cả những gì không động chạm đến  lợi  ích sát

nách của anh  ta. Các học  thuyết khoa học, như học  thuyết chủ nghĩa xã hội chẳng hạn, chúng

thực ra chỉ có được những kẻ ủng hộ trong tầng lớp thấp, ít học, ví dụ tầng lớp thợ mỏ, tầng lớp

công nhân  trong công xưởng. Những người  tiểu  tư sản, những  thợ  thủ công có học đều đã nghi

ngờ và không tin tưởng.

Những diễn biến từ ba mươi năm trở  lại đây thật đáng ngạc nhiên. Trước đây cũng chẳng  lấy gì

làm  lâu, các quan niệm còn có một hướng chung. Chúng được rút ra từ việc chấp nhận một vài

các quan điểm nền tảng. Chỉ cần mang danh một người quân chủ  là trên các  lĩnh vực  lịch sử và

khoa học đã  thấy được sự trung  thành với những quan điểm nhất định có ranh giới rõ ràng còn

như  nếu  là  người  theo  trường  phái  cộng  hòa  anh  sẽ  trung  thành  với  những  đòi  hỏi  hoàn  toàn

ngược lại. Một người theo chủ nghĩa quân chủ biết chính xác rằng con người không hề bắt nguồn

từ loài khỉ, và một người theo trường phái cộng hòa cũng biết môt cách không kém phần chính

xác  rằng con  người  không phải có nguồn gốc  từ đó. Trong khi  người quân chủ ghê  tởm  cách

mạng thì người theo trường phái cộng hòa  lại hân hoan khi nói về cách mạng. Có những cái tên

như Robespierre, Marat cần phải được nhắc đến với một  thái độ kính  trọng, cũng có những cái

tên khác như Cäsar, Augustus, Napoleon chỉ có thể nói ra trong sự phỉ báng. Cho đến tầng trên

cùng là Sorbonne [đại học danh tiếng ở Pháp] đều bị bao trùm bởi một quan niệm lịch sử kiểu trẻ

con như vậy.

Ngày nay bất kỳ quan niệm nào cũng bị sự bàn luận và mổ xẻ làm mất đi cái uy lực của nó, các

trụ chống của nó trở nên không vững vàng và vì thế chỉ có một số rất ít các quan niệm còn tồn tại

được, đó cũng  là một số rất ít còn có thể làm cho ta say sưa tiếp nhận. Con người hiện đại ngày

càng bị sa vào tình trạng bàng quan, vô cảm.

Chúng  ta không muốn quá  thương  tiếc cho sự kiệt quệ một cách phổ biến của các quan điểm.

Chúng  là một hiện tượng méo mó trong đời sống của các dân tộc, điều này chẳng có gì để phải

bàn cãi. Chắc chắn rằng một  lời nói của những con người viễn kiến, của các thánh tông đồ, của

các nhà lãnh đạo đối với những người tin theo có sức mạnh hoàn toàn khác với lời nói của những Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

69

kẻ chống đối, những nhà phê bình và những kẻ vô cảm, nhưng chúng ta không được phép quên

rằng, một quan điểm duy nhất một khi đạt đủ uy lực để trở nên áp đảo, với sự trợ giúp của quyền

lực đám đông nó sẽ nhanh chóng có được một sức mạnh  tàn bạo, không bao  lâu  tất cả sẽ phải

thần phục nó và sau đó cái thời của tự do ngôn  luận có  lẽ sẽ ra đi chưa biết đến khi nào trở  lại.

Thỉnh thoảng đám đông cũng tỏ ra là một ông chủ hiền hòa, kiểu như Heliogabal [thần mặt trời]

và Tiberius [vua  thứ hai của đế chế Rom]  lâu  lâu cũng một  lần như vậy, nhưng họ cũng có cái

tính cách rất thất thường. Nếu một nền văn hóa đã đến độ chín muồi để rơi vào tay họ, nó sẽ trở

nên  trần  trụi  trước quá nhiều những biến cố, nhiều hơn cả những gì mà đến đó nó đã  trải qua.

Nếu có một cái gì đó có thể ngăn cản được cái giờ phút sụp đổ của nó, thì đó chỉ có thể  là tính

biến đổi một cách đặc biệt các mạnh của các quan niệm và sự vô cảm ngày càng  tăng của đám

đông đối với tất cả các quan điểm nền tảng chung.

________________________________

[1] Tính  tàn bạo  theo nghĩa  triết học, dĩ nhiên  là phải hiểu như thế. Trong  thực  tế chúng đã  tạo

nên một nền văn hóa hoàn toàn mới và đã  làm cho con người thấy được thiên đường của mộng

mơ, của hy vọng đầy quyến rũ mà nó chưa hề bao giờ được biết tới.

Tập  3  -  Phân  loại  và mô  tả  các  dạng  khác

nhau của đám đông

Chương 1: Phân loại đám đông

Trong bài viết này cho đến nay chúng  ta đã xác định được những đặc  tính chung mà các đám

đông đều có. Tiếp đến chúng ta còn phải nghiên cứu đến những đặc tính riêng biệt được  là tiền

đề cho những đặc tính chung này tùy theo chủng loại của các tập thể.

Trước hết chúng ta hãy xây dựng một sự phân loại ngắn gọn cho các đám đông.

Xuất phát điểm của chúng ta là tập hợp đơn giản (la simple multitude). Lớp dưới cùng của nó sẽ

hình  thành nên khi nó được  tập hợp bởi các phần  tử  riêng biệt của nhiều giống nòi khác nhau.

Sợi dây ràng buộc chung duy nhất giữa chúng là ý chí của người lãnh đạo, cái ít nhiều được tôn

trọng. Có thể lấy các bầy lũ man rợ có xuất xứ khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ đã từng tàn phá

đế chế Rôm làm ví dụ cho dạng đám đông này.

Bên trên cái đám đông không có mối liên kết đó là đám đông với những đặc trưng chung tạo bởi

ảnh hưởng của môt số yếu  tố nào đó và cuối cùng  làm nên một chủng  tộc. Chúng  thỉnh  thoảng

cũng tiếp nhận một vài đặc điểm đặc biệt của đám đông nhưng thường thì sự tiếp nhận đó luôn bị

các đặc tính riêng của giống nòi cản trở.

Các loại đám đông khác nhau quan sát thấy ở các dân tộc được phân thành các nhóm sau: Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

70

A. Đám đông không đồng nhất (foules hétérogènes):

1.  Không danh tính (ví dụ: Sự tụ tập trên đường phố)

2.  Không có danh tính (ví dụ: đoàn bồi thẩm, nghị viện)

B. Đám đông đồng nhất (foules homogènes):

1.  Các nhóm, hội kín (chính trị, tôn giáo và các loại hội nhóm khác)

2.  Đẳng cấp (quân đội, cha đạo, công nhân v.v...

3.  Giai cấp (tư sảnm, nông dân v.v...)

Chúng  tôi chỉ  trình bày ngắn gọn các  tính chất khác biệt của các dạng khác nhau này của đám

đông. Về chi tiết có thể tìm hiểu thêm trong các bài viết mới đây của tôi.

§1. Đám đông không đồng nhất

Những nét cơ bản của tập thể này chúng ta đã nghiên cứu đến. Chúng được tạo thành từ những

phần tử riêng biệt bất kỳ nào đó, nghề nghiệp hoặc trình độ hiểu biết không là vấn đề quan trọng.

Chúng  ta đã chỉ ra ở đây, rằng  trạng  thái  tâm hồn của những con người  trong đám đông không

giống với  trạng  thái  lúc họ còn  là một con người  riêng  lẻ, và cho đến  trước khi xảy ra sự khác

biệt này  trình độ nhận  thức cũng không cứu vãn được  tình hình. Chúng  ta cũng đã nhận  thấy,

trình độ hiểu biết không đóng một vai trò nào trong đám đông. Chỉ có những tình cảm vô thức là

có thể có tác động trong chúng.

Một yếu tố cơ bản, đó là giống nòi, đã giúp cho chúng ta có thể phân loại một cách tương đối rõ

ràng các đám đông không đồng nhất khác nhau. Chúng ta lại một lần nữa đã quay trở lại với vấn

đề giống nòi và đã chỉ ra, rằng nó là yếu tố mạnh mẽ nhất có được cái quyền lực quyết định hành

động của con người. Tác động của nó cũng thể hiện trong các tính chất của đám đông. Một tập

hợp được tạo thành từ các cá nhân khác nhau riêng biệt bất kỳ nào đó, có thể là người Anh hoặc

là người Trung quốc, sẽ  rất khác biệt so với một đám đông khác được  tạo  thành  từ người Nga

hoặc người Pháp hoặc người Tây ban nha.

Sự khác biệt sâu sắc, hình thành nên bởi cấu trúc tinh thần đươc thừa kế trong cách cảm nhận và

suy nghĩ của con người, sẽ thể hiện ra một cách rõ ràng, nếu trong một điều kiện nhất định, tuy

nhiên là rất ít khi xảy ra, các dân tộc riêng biệt khác nhau tao thành một đám đông, cho dù dường

như  các mối  quan  tâm  của  họ  rất  giống  nhau. Sự  cố  gắng  của  những  người  xã  hội  chủ  nghĩa

trong việc liên kết rộng rãi các đại diện của giới công nhân của tất cả các nước lại với nhau, luôn

kết thúc với một sự bất hòa kịch kiệt. Một đám đông Latinh, bất kể thuộc loại bảo thủ hay cách

mạng,  bao  giờ  cũng  tìm  đến  nhà  nước  để  thỏa mãn  những  yêu  cầu  của  họ. Họ  luôn  ngả  theo

hướng  tập  trung hơn  là hướng quân chủ. Một đám đông người Anh hoặc  người Mỹ  ngược  lại

không biết đến nhà nước và chỉ dựa vào sức lực của chính mình. Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

71

Một đám đông người Pháp coi trọng trước hết  là sự bình đẳng, còn đám đông người Anh thì  lại

coi trọng trước hết là sự tự do. Sự khác biệt về giống nòi này đã tạo nên nhiều dạng đám đông có

số lượng gần như số lượng các dân tộc.

Tâm hồn giống nòi như vậy nó quyết định hoàn toàn tâm hồn đám đông. Nó là môt nguyên tố cơ

bản mạnh mẽ, quyết định  sự giao động của  tâm hồn đám đông. Những  tính chất  thấp hèn của

đám đông càng ít thể hiện rõ khi tâm hồn đám đông trở nên mạnh mẽ hơn. Đó là quy luật cơ bản. 

Nhà nước của đám đông hay sự thống trị của đám đông đồng nghĩa với việc quay trở lại thời đại

dã man. Qua việc  tiếp nhận một tâm hồn vững chắc giống nòi  tự bảo vệ mình  trước những bạo

lực thiếu suy nghĩ và vượt qua được tình trạng dã man.

Việc phân loại duy nhất đối với đám đông không đồng nhất mà không sử dụng đến yếu tố giống

nòi của nó  là  sự phân  loại  theo đám đông không danh  tính, như đám đông của đường phố, và

theo đám đông có danh tính, ví dụ như các hội đồng cố vấn và tòa bồi thẩm. Sự thiếu vắng cảm

giác về  tinh  thần  trách nhiệm  trong nhóm  thứ nhất và sự có mặt của nó  trong nhóm  thứ hai đã

khiến cho hành động của hai nhóm này thường đi theo những hướng khác nhau. 

§2. Đám đông đồng nhất

Đám đông đồng nhất trước tiên bao gồm các hội đoàn, các tầng lớp đặc quyền và các giai cấp.

Các hội đoàn được coi là mức độ ban đầu trong sự tổ chức của các đám đông đồng nhất. Nó bao

gồm những  thành phần  riêng  lẻ mà giáo dục, nghề nghiệp, môi  trường  sống của họ  thường  rất

khác  nhau  và  niềm  tin  là  sự  liên kết giứa họ với nhau, ví dụ như các hội  nhóm  tôn giáo hoặc

chính trị.

Tầng  lớp đặc quyền đuợc coi  là mức độ tổ chức cao nhất mà đám đông có thể tạo ra. Trong khi

các hội đoàn gồm những người rất khác nhau về nghề nghiệp, trình độ và môi trường sống và họ

liên kết lại với nhau chỉ bởi niềm tin thì tầng lớp đặc quyền bao gồm chỉ những cá nhân có cùng

một nghề nghiệp và do đó cũng có một sự giáo dục, đào tạo tương đối giống nhau và gần như có

cùng một kiểu hành xử trong cuộc sống. Ví dụ như tầng lớp quân sự hoặc tầng lớp các thầy tu.

Giai  cấp  được  hình  thành  nên  từ  những  cá  nhân  có  xuất  xứ  khác  nhau,  họ  không  giống  như

những  thành phần của một hội đoàn  là có chung niềm  tin, họ cũng không có cùng chung một

nghề nghiệp như những thành phần trong tầng lớp đặc quyền, cái chung mà họ có là những quan

tâm về các quyền  lợi nhất định, họ có một  lối  sống và được dạy dỗ một cách  tương đối giống

nhau. Ví dụ cho trường hợp này là các giai cấp như tư sản, nông dân v.v...

Do bởi  trong bài này  tôi chỉ nghiên cứu về đám đông không đồng nhất, cho nên  tôi chỉ đề cấp

đến một vài dạng của đám đông loại này khi cần phải dẫn ra một số ví dụ.

§3. Cái gọi là đám đông tội phạm

Bởi đám đông sau một khoảng  thời gian bị kích  thích sẽ rơi vào  trạng  thái của một người máy

đơn giản và vô thức, nó nằm dưới sự tác động của các ảnh hưởng, vì vậy có vẻ như rất khó có thể

gọi tên nó là đám đông tội phạm trong bất kỳ một trường hợp nào. Tuy nhiên tôi vẫn giữ nguyên Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

72

cái  tên không rõ ràng này bởi nó đã  thường được sử dụng  trong các nghiên cứu về  tâm  lý học.

Chắc chắn có những hành động của đám đông  là  tội phạm, nhưng cũng chỉ như  là những hành

động của một con hổ ăn  thịt một người  theo đạo Hindu, sau khi đã vờn cho  lũ con của nó xem

chán chê rồi mới xé xác.

Đám đông  tội phạm  thông  thường  là  hậu quả của  sự kích  hoạt  (sugestion) mạnh  và  những cá

nhân can dự vào sau đó đều  tin  rằng họ đã  thực hiện một nghĩa vu. Đó cũng  là điều không có

trong các trường hợp phạm tội thông thường. Lịch sử tội phạm của đám đông sẽ cho ta nhận thấy

rõ ràng điều đó.

Một  thí dụ  tiêu biểu đó  là sự giết hại giám đốc ngục Bastille, du Launay. Sau khi chiếm được

ngục đám đông giận dữ đã vây quanh ông giám đốc và đánh ông ta từ đủ mọi phía. Người ta đề

nghị  treo cổ ông  ta, chặt đầu ông  ta hoặc buộc và đằng sau cho ngựa kéo. Trong khi  tìm cách

vùng  thoát khỏi đám đông ông đã vô  tình đá phải một người nào đó  trong số đứng vây quanh.

Lập tức có người đề nghị kẻ bị đá được phép cắt cổ ông ta và đám đông đã reo hò hưởng ứng.

"Cái ông đầu bếp thất nghiệp nọ, cũng chỉ vì tò mò mà  lần đến chỗ ngục Bastille để xem xem ở

đấy đang xảy ra chuyện gì, và tại đây ông ta đã tin, rằng đó là một hành động yêu nước, bởi vì tất

cả mọi người cũng đều có một ý  nghĩ  như  vậy, và  thậm chí ông  ta còn  tin  rằng  sẽ được khen

thưởng hoặc được nhận huân chương, nếu như ông  ta giết một con quái vật. Người  ta  trao cho

ông ta một thanh kiếm, và ông ta đã nhằm vào cái cần cổ trần trụi kia mà chém xuống; nhưng do

bởi thanh kiếm quá cùn, chém không thể đứt, ông ta liền rút con dao đeo trong mình và kết thúc

thắng lợi cuộc giải phẫu (bởi là đầu bếp nên ông ta rất thạo việc pha thịt)."

Ở đây cái cơ chế,  từng được nhắc  tới  trước đây  trong bài viết này, đã  thể hiện một cách  rất  rõ

ràng: đó là sự tuân phục một ảnh hưởng, mà tác động của nó càng mạnh mẽ khi nó được sinh ra

từ đám đông, nó tạo nên niềm tin cho kẻ giết người về tính cao cả của hành động đó, và kẻ giết

người càng  trở nên  tự nhiên hơn khi được những người đồng chí của nó cổ vũ một cách nhiệt

tình. Một hành động kiểu như vậy về mặt luật pháp có thể bị quy là tội phạm nhưng về mặt tâm

lý học thì không có thể. Những đặc tính chung của cái gọi là đám đông tội phạm cũng giống hệt

như những đặc  tính chung của mọi đám đông,  là những điều chúng  ta đã  từng xác định, đó  là:

tính dễ bị tác động, tính nhẹ dạ, tính dao động quá đáng giữa tình cảm  tốt và xấu, sự nổi bật của

những tính cách đạo đức nhất định v.v...

Tất cả những đặc tính đó chúng ta đều nhận thấy ở những người đàn ông của những ngày tháng

chín,  những con  người đã để  lại  trong  lịch  sử của chúng  ta  những  hồi ức  chấn động  tâm  hồn

mạnh mẽ nhất. Tuy nhiên họ cũng đã thể hiện nhiều nét giống với những kẻ chủ mưu gây ra sự

kiện "đêm ở đền Bartholomeus". Chi tiết của sự kiện này tôi trích dẫn từ tường trình của Taine,

được viết theo hồi ức của những người đương thời. Cũng không thể biết được một cách rõ ràng

ai là người đã ra lệnh hoặc chỉ thị cho việc thủ tiêu các tù binh, nhằm dọn sạch các nhà tù. Có thể

đó  là Danton hoặc một ai khác, điều này cũng không quan  trọng; chúng  ta ở đây chỉ quan  tâm

đến cái ảnh hưởng cực kỳ lớn mà đám đông đã tiếp nhận để tạo nên một cuộc tắm máu.

Một đoàn đao phủ gồm khoảng ba trăm người, một dạng cơ bản của đám đông không đồng loại.

Ngoại trừ một số ít những người ăn mày chuyên nghiệp thì số còn lại trong họ bao gồm các nhà

buôn và các thợ thủ công thuộc đủ các ngành nghề, như thợ giày, thợ nguội, thợ làm tóc giả, thợ Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

73

nề, viên chức, quân nhân v.v... Do ảnh hưởng sau khi tiếp nhận sự kích hoạt, giống như ông đầu

bếp đã kể ở trên, toàn bộ những người này đều hoàn toàn tin rằng họ đang thực thi một nghĩa vụ

đối với tổ quốc. Họ đóng vai hai chức trách cùng một lúc, một của quan tòa và một của đao phủ,

không hề có một chút gì cảm thấy mình là kẻ tội phạm.

Nhận thức được một cách sâu sắc tầm quan trọng của nhiệm vụ được trao, trước hết họ đã tự lập

nên cái gọi là tòa án, và điều này lập tức thể hiện cái trí tuệ hạn hẹp và cũng là cái cảm nhận rất

chi hạn chế về  luật pháp của đám đông. Do số lượng bị cáo quá lớn cho nên ban đầu một quyết

định đã được ban ra: quý tộc, cha đạo, sĩ quan, người hầu của nhà vua, có nghĩa  là tất cả những

ai trong con mắt của môt người yêu nước chân chính chỉ với nghề nghiệp của họ đã đủ  là bằng

chứng chứng minh cho tội lỗi của họ, thì đều cần phải đem đi thủ tiêu tất không có xét xử gì cả.

Ngoài ra người ta còn phán quyết dựa trên hình dáng và uy tín nữa. Bằng cách đó cái lương tâm

không được chỉ bảo của đám đông đã được thỏa mãn, và họ có thể ung dung thưc thi  luật pháp,

cũng như để cho các bản năng tàn bạo tự do phát triển những thứ luôn nảy nở một cách mạnh mẽ

trong đám đông, mà sự hình thành của chúng tôi đã nói ở một chỗ nào đó trong đây. Bản thân họ

cũng không ngăn cản được sự biểu lộ những tình cảm trái ngược nhau - cái này cũng là quy luật -

ví dụ như sự đa cảm cũng y như sự tàn bạo của họ đều thể hiện ra ở mức tới hạn. "Họ có một sự

đồng cảm nhiệt thành và những thái độ rất cảm động của những người công nhân Paris. Khi một

nhân viên liên bang biết được người ta đã để những người tù khát nước đến nay đã hai mươi sáu

tiếng, ông ta liền nổi giận và ra lệnh lập tức đem viên cai ngục ra xử tử, chỉ đến khi những người

tù tha thiết van xin viên cai ngục kia mới không bị mất mạng. Nếu một người tù nào đó được tòa

(tòa lưu động) tuyên án vô tội, anh ta sẽ được những lính canh và các đao phủ ôm hôn thắm thiết

và nhiệt thành chúc mừng." Sau đó người ta lại quay trở lại với công việc hành quyết. Trong suốt

cuộc tắm máu lúc nào cũng có một bầu không khí vui mừng và phấn khởi. Người ta nhảy múa ca

hát xung quanh những xác chết, giành chỗ ngồi cho các "quý bà" đang sung sướng ngắm cảnh

những nhà quý tộc bị giết. Các cử chỉ lịch sự đặc biệt khác cũng tiếp tục được phô diễn. Khi một

đao phủ than phiền rằng các quý bà đã phải đứng quá xa nên không thể theo rõi tường tận cảnh

hành quyết các nhà quý tộc và chỉ có một số ít người có mặt được chiêm ngưỡng cảnh đó, điều

này đã được  thừa nhận  là đúng nên người  ta quyết định sau đó các nạn nhân phải đi một vòng

giữa hai hàng đồ tể để kéo dài nỗi khổ đau của họ, thay vì chấm dứt nó một cách nhanh chóng

bằng một nhát gươm. Trong ngục Bastill toàn bộ các tù nhân phải cởi bỏ hết quần áo, họ bị hành

hạ đến tan nát xương thịt, những ai sống sót còn chút lành lặn liền bị giải quyết tiếp bằng cách bị

rạch bụng. Những kẻ đồ tể giết người đều  là những kẻ rất có  lương  tâm và  thừa nhận mọi  lý  lẽ

đạo đức, sự tồn tại của những điều như vậy trong trái tim đám đông chúng tôi cũng đã từng chỉ

ra. Họ nộp lại tất cả tiền bạc và trang sức của các nạn nhân trên bàn của ủy ban.

Tất cả các hành động của họ thể hiện rõ một dạng kém phát triển của tư duy, đó cũng là một đặc

điểm của đám đông. Và như vậy một ai đó sau khi  làm thịt khoảng một ngàn hai đến ngàn rưởi

kẻ thù của nhân dân bỗng nhiên được chú ý - sự hăng hái của người đó  lập tức được học theo -

và  trong các nhà  tù khác, ở đó những người ăn mày, những nông dân  làm  thuê, những  tù nhân

trẻ, đúng là những kẻ vô dụng và tốt nhất là thủ tiêu hết. Vả lại trong số họ thế nào cũng có ai đó

là kẻ thù của nhân dân, ví dụ như bà Delarue, vợ góa của một người pha chế độc dược:" Bà này

đã tỏ ra rất tức giận vì bị nhốt tù; nếu  làm được bà ta sẽ đốt trụi cả thành phố Paris; chính bà ta

đã nói như vậy, tử hình ngay  lập tức." Bằng chứng quả  là thuyết phục, và hàng  loạt người đã bị

hành quyết, có đến khoảng năm mươi trẻ nhỏ ở độ tuổi từ mười hai đến mười bảy, chúng có thể

cũng là kẻ thù của nhân dân và do vậy cần phải thủ tiêu hết. Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

74

Sau độ một tuần làm việc tất cả các biện pháp đã được thực hiện và đám đồ tể được phép mơ đến

sự nghỉ ngơi. Do bởi họ tin chắc rằng họ đã phục vụ tổ quốc một cách tốt đẹp cho nên họ đã đòi

hỏi những kẻ cầm quyền phải thưởng công cho họ, ngày đó có người còn đòi cả huân chương.

Lịch sử của công xã Paris năm 1870 cũng cho  thấy có những hiện  tượng  tương  tự. Ảnh hưởng

ngày càng tăng của đám đông và sự thoái  lui của các quền  lực khác trước nó chắc chắn rằng sẽ

còn tạo thêm nhiều sự kiện khác kiểu như vậy.

§4. Đám đông cử tri

Đám đông cử tri  là những người  tham gia bầu cử để  lựa chọn những người vào các vị  trí công

quyền, họ tạo nên những đám đông không đồng nhất; do vì những đám đông này chỉ phát huy tác

dụng đối với một vấn đề hoàn toàn xác định, cụ thể là trong việc lựa chọn trong số nhiều các ứng

cử viên, cho nên chúng chỉ thể hiện một vài đặc tính của trong số những đặc tính của đám đông

đã được mô  tả trước đây. Đặc biệt nổi bật  là khả năng nhận xét rất thấp, sau đó  là  thiếu sự suy

nghĩ mang tính phế phán, sự dễ bi kích động, nhẹ dạ, đơn giản. Người ta cũng nhận ra trong các

quyết định của họ có ảnh hưởng của người lãnh đạo và tác động của những động lực đã được mộ

tả trước đây như: sự quả quyết, sự lặp lại, uy lực và truyền nhiễm. 

Chúng ta hãy xem xét việc làm cách nào để giành được sự ủng hộ của đám đông này. Tâm lý của

họ có  thể xác định được qua những phương pháp  tin cây của  tâm  lý học. Tính chất đầu  tiên  là

ứng cử viên phải có một uy  lực nhất định. Uy  lực cá nhân chỉ có  thể được  thay  thế bởi sự giàu

có. Tài năng và ngay cả thần đồng cũng không phải là điều kiên tiên quyết cho thành công.

Do vậy uy lực cá nhân của ứng cử viên sẽ mang một ý nghĩa quyết đinh để có thể đạt được thắng

lợi một cách không bàn cãi. Điều  thực  tế  là một  lớp các cử tri xuất  thân phần  lớn  từ công nhân

hoặc nông dân thường không lựa chọn những người của họ làm đại diện đã được giải thích là do

những người đồng chí ngang hàng với họ không hề có uy lực. Họ bầu cho những người giống họ

hầu như thường chỉ bởi những lý do rất phụ, ví dụ như để chọn ra một nhân vật có vị thế cao để

có thể làm đối trọng với một ông chủ cứng rắn, bởi vì họ cảm thấy càng ngày càng bị phụ thuộc

vào ông chủ đó và tưởng rằng làm như vậy có thể nhanh chóng áp đảo được ông ta.

Tuy nhiên  việc ứng cử  viên có một uy  lực cũng  chưa chắc đã đảm  bảo  thành công. Cử  tri  rất

thích người ta tâng bốc sự thèm khát và tính tự cao tự đại của họ. Ứng cử viên vì vậy phải không

phải ngại ngần gì  trong việc  tâng bốc họ hết cỡ và hứa hẹn những điều  tuyệt vời. Đối với  tầng

lớp công nhân thì việc chửi rủa những ông chủ của họ có lẽ không biết thế nào là đủ. Đối với đối

thủ cạnh tranh ngược lại luôn phải tìm cách triệt tiêu, bằng cách sử dụng các phương pháp khẳng

định,  lặp  lại và  truyền nhiễm để chứng minh  rằng nó chính  là một kẻ đê  tiện hèn nhát nhất, ai

cũng biết  rằng nó  từng phạm  tội nhiều  lần. Khi nói về bản  thân không cần  thiết phải chưng  ra

một cái gì có vẻ như một bằng chứng. Nếu đối thủ là một kẻ hiểu biết ít về tâm lý học nó sẽ thử

tìm mọi bằng chứng xác đáng để phản biện thay vì cũng sử dụng một cách đơn giản những quả

quyết mang tính vu khống hoặc tiến hành vu khống để phản đòn, và chính vì thế nó sẽ hầu như

không có hy vọng để chiến thắng.

Văn bản các mục tiêu sẽ thực hiện của các ứng cử viên không nên viết một cách cương quyết là

phải  làm cái gì, bởi như vậy sau này các đối thủ có thể sẽ dựa vào đó để bắt bẻ, nhưng khi phổ Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

75

biến các mục tiêu bằng nói miệng thì việc nói quá không bao giờ có thể nên gọi là đủ. Những cải

cách đặc biệt nên đẩy ra xa trong tương lai. Đối với hiện tại làm như vậy nó có được tác dụng rất

lớn nhưng đối với tương lai thì chẳng bị ràng buộc bởi cái gì. Các cử tri thức ra sau này họ cũng

chẳng để ý gì đến chuyện xem ứng củ viên có giữ đúng những  lời hứa hẹn hay không, và cũng

chẳng nhớ lại những gì đã làm cho họ phấn khích mà bỏ phiếu và những gì có vẻ như là những lý

do đưa đến quyết định cho sự lựa chọn của họ.

Ở đây chúng ta lại nhận thấy có mặt tất cả các phương tiện để quyến rũ như đã từng được mô tả

ở  trên đây. Chúng  ta cũng sẽ  lại gặp  lại  tác động của  lời nói và  thành ngữ mà chúng  ta đã từng

bàn về cái sức mạnh mãnh liệt của nó. Người diễn thuyết biết cách xử sự với đám đông sẽ có thể

dẫn dắt họ  tùy ý. Những khái niệm như: chủ nghĩa tư bản  thối nát, những kẻ bóc  lột đểu cáng,

những  người công nhân  tuyệt vời,  xã hội  hóa các  loại  tài  sản  v.v...  luôn  tạo nên được một  tác

động giống nhau  tuy có cũ đi đôi chút. Tuy nhiên ứng cử viên nào phát hiện ra một  thành ngữ

mới nhưng không mang bất kỳ một ý nghĩa nhất định nào đó và vì thế có thể đáp ứng được với

các niềm mong ước khác nhau, anh ta chắc chắn nhất định sẽ thắng lợi. Cuộc cách mạng Tây ban

nha đẫm máu năm 1873 đã sinh ra từ những lời nói mê hoặc, đa nghĩa mà mỗi một người đều có

thể hiểu theo cách của mình. Một tác giả đương thời đã thuật  lại sự ra đời của những câu thành

ngữ kiểu như vậy bằng một cách thức rất đáng nhớ cho nên cũng xứng đáng được dẫn ra đây để

làm ví dụ:

"Những kẻ cực đoan phát hiện  ra  rằng một nền cộng hòa  thống nhất chính  là một chế độ quân

chủ được che đậy, và để có  thể vừa  lòng họ phái Cortes đã đồng ý kêu gọi  thành  lập nền cộng

hòa liên minh mà không hề nói phải biểu quyết cho cái gì, và ngay cả những người đồng ý trong

số họ không có một ai có thể nói rõ họ đã bỏ phiếu cho cái gì. Nhưng thành ngữ đó đã  làm mê

hoặc cả thế giới, người ta ngây ngất, say sưa trong sự mê sảng. Sự thống trị của đạo đức và hạnh

phúc như thể đã được  thiết  lập dưới  trần gian. Một người cộng hòa, bị kẻ  thù của anh  ta không

chấp nhận là đồng minh, cảm thấy đó như là một sự lăng nhục bằng những câu chửi chết người.

Trên đường phố người ta đến với nhau bằng những từ: "Salud y republica federal". Sau đó người

ta ngâm nga những bài hát ca ngợi sự vô kỷ luật bất khả xâm phạm và sự tự đánh bóng mình của

các binh sĩ. Hồi đó cái gì  là "nền cộng hòa  liên minh"? Người  thì hiểu đó  là sự bình đẳng giữa

các tỉnh  lỵ,  là sự tổ chức nhà nước kiểu nước Mỹ hoặc  là sự loại bỏ nền hành chính thống nhất,

người khác  thì  lại hiểu đó  là sự  loại bỏ tất cả các  tổ chức hành pháp,  là khởi đầu của một cuộc

thanh toán lớn về mặt xã hội. Những người xã hội chủ nghĩa ở Barcelona và Andalusie rao giảng

về sự độc  lập không giới hạn của các đơn vị hành chính và đòi phải  thành  lập hàng chục ngàn

đơn vị hành chính kiểu như vậy trên toàn cõi Tây ban nha, những đơn vị này có quyền tự đặt ra

luật pháp riêng và đồng thời bãi bỏ công an cũng như quân đội. Chẳng bao lâu sau các cuộc nổi

dậy ở các tỉnh phía nam đã lan khắp từ thành phố nọ đến thành phố kia, từ làng nọ đến làng kia.

Chừng  nào một đơn  vị  hành  chính công  bố  "pronunciamento"  (tuyên  ngôn) của  nó  thì  vấn đề

quan tâm đầu tiên sẽ  là việc phá hủy các trạm điện tín và hệ thống xe  lửa để cắt đứt liên  lạc với

các vùng xung quanh và với thủ đô Madrid. Ngay cả vùng khốn khổ nhất cũng tự nấu riêng cháo

cho mình. Chủ nghĩa liên bang đã nhường chỗ cho một chủ nghĩa vùng miền đầy tang thương và

chết chóc, khắp mọi nơi người ta hân hoan đón chào cảnh đầu rơi máu chảy."

Những gì liên quan đến sự tác động của các suy luận lôgic vào suy nghĩ của các cử tri mà người

ta không nhận thấy, chẳng qua là vì người ta không bao giờ đọc các bài tường thuật về các cuộc

miting  tranh  cử. Ở  đó  người  ta  giành  cho  nhau  những  khẳng  định,  những  câu  chửi  và  thỉnh Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

76

thoảng cả những cú đấm nữa, nhưng không bao giờ có sự  lập  luận. Không khí chỉ yên  lặng đôi

chút khi một người tham dự khả kính nào đó lòng vòng tỏ ý muốn đặt ra một số câu hỏi rắm rối

cho các ứng cử viên, những câu hỏi đã  làm cho khán giả khoái chí. Tuy nhiên sự thỏa mãn của

đối phương cũng kéo dài không lâu bởi chẳng bao lâu âm thanh của người đang diễn thuyết sẽ bị

chìm trong tiếng la ó của những kẻ phản đối. Bài tường thật sau đây mô tả dạng thường thấy của

các cuộc họp công cộng được đúc kết từ hàng trăm bài viêt tương tự xuất hiện trên các mặt báo:

"Khi ban tổ chức lấy ý kiến đề bầu ra chủ tọa cũng là lúc bão tố bắt đầu. Những kẻ vô chính phủ

lập tức chiếm giữ khán đài, đoạt lấy bục nói. Những người xã hội chủ nghĩa kháng cự kịch  liệt,

người  ta xông vào nhau, chửi bới nhau, đổ cho nhau gián điệp  là kẻ đút  lót và những gì  tương

tự... một ai đó ôm đầu máu chạy ra.

Cuối cùng trong cái đám lộn xộn đó cũng có được một ban điều hành tạm chấp nhận và như vậy

bục diễn thuyết lúc này thuộc về đồng chí X.

Kẻ diễn thuyết tấn công những người xã hội chủ nghĩa một cách cay độc đến nỗi họ phải ngắt lời

anh  ta và hét  lớn: " Thằng ngu, đồ kẻ cướp,  thằng đểu" v.v... Đồng chí X  liền phản công bằng

cách đưa ra những bằng chứng chứng minh những người xã hội chủ nghĩa là những kẻ "đần độn"

hoặc là những "thằng hề".

"Đảng quốc  tế  lao động  tối qua đã  triệu  tập một cuộc họp  tại phòng họp của các  thương gia ở

đường Rue Faubourg-du-Temple để bàn về lễ kỷ niệm ngày 1 tháng 5... Khẩu hiệu hành động là:

thanh thản và yên lặng.

Đồng chí G... nhận xét những kẻ xã hội chủ nghĩa là môt bọn "ngu ngốc" "lừa đảo".

Những lời này là nguyên nhân gây nên sự chửi rủa của người nghe, họ xông vào nhau; bàn, ghế,

ghế băng đã đảm nhiệm vai trò của chúng v.v..."

Đừng có tin rằng những va chạm kiểu này chỉ là một dạng riêng biệt của các cử tri và không phụ

thuộc vào địa vị xã hội của họ. Trong bất kỳ một cuộc miting bầu cử nào, và trong đó giả như chỉ

gồm toàn những người có trình độ đại học, thì sự va chạm giữa họ với nhau cũng sẽ dễ xảy ra ở

một dạng tương tự. Tôi đã nói, rằng những con người khi đã trở thành thành viên của đám đông

họ sẽ có xu hướng có chung một mức độ trí  tuệ giống nhau, chúng  ta sẽ  tìm ra những ví dụ để

chứng minh cho điều này. Sau đây là một bằng chứng được rút ra từ một bản tường thuật về một

cuộc miting chỉ gồm các sinh viên:

"Càng về tối sự lộn xộn càng tăng. Tôi không nghĩ có một diễn giả nào lại có thể nói trọn hai câu

mà không bị ngắt  lời giữa chừng. Liên  tục vang  lên những  tiếng  la hét  từ góc bên này hoặc  từ

góc bên kia, hoặc  từ mọi phía cùng một  lúc;  tiếng vỗ  tay  tán  thưởng,  tiếng huýt sáo; những sự

tranh cãi quyết liệt giữa những người tham gia chỉ tạm nghỉ để lấy sức và trong khoảng thời gian

đó gậy gộc được vung  lên đầy đe dọa trong tiếng dậm xuống sàn theo nhịp. Những câu hét giận

dữ tiếp nối những kẻ phá quấy: Cút ra ngoài kia! Cút khỏi diễn đàn!

Ông C... trút xuống đầu hội đoàn hàng  loạt những tính từ thối tha và ghê tởm như: đáng sợ, đểu

giả, mua chuộc, đầy hận thù và ông tuyên bố sẽ tiêu diệt họ v.v..." Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

77

Người ta tự hỏi, trong một quang cảnh như vậy làm sao có thể tạo nên được một chính kiến cho

một cử tri? Nhưng để có thể đặt ra một câu hỏi kiểu như thế người  ta phải dâng hiến mình cho

một ảo tưởng đáng ngạc nhiên vượt lên trên mức độ của tự do để làm vừa lòng một tập thể. Đám

đông chỉ có những quan điểm đuợc cấy từ ngoài vào và không bao giờ có được những quan điểm

mang  lý  tính  trong nó. Những quan điểm như vậy và quyết định bỏ phiếu của cử tri nằm  trong

tay ủy ban bầu cử mà  lãnh đạo của nó thường  là một vài chủ quán có ảnh hưởng  lớn đến những

người công nhân, và cũng chính là những người cho họ ghi sổ nợ. "Ông có biết ủy ban bầu cử là

gì không?", Scherer, một người bảo vệ nhiệt  thành nền dân chủ, viết, "đơn giản quá đó  là chìa

khóa để vào các cơ quan nhà nước,  là phần quan  trọng nhất của bộ máy chính  trị. Nước Pháp

ngày nay được lãnh đạo bởi các ủy ban." [1]

Và như  thế cũng không có gì  là khó để có  thể  tác động vào họ, nếu như ứng cử  viên chỉ  cần

tương đối chấp nhận được và có đầy đủ các phương tiện. Theo sự thú nhận của phía chi tiền thì

chỉ cần ba triệu là đủ để có thể tiến hành thắng lợi nhiều cuộc tranh cử của tướng Boulanger. Tất

cả đó  là  tâm  lý học về đám đông cử  tri. Nó giống hệt như  tâm  lý học của các đám đông khác.

Không tốt hơn mà cũng chẳng xấu hơn.

Quyền phổ thông đầu phiếu

Tôi hoàn toàn không muốn rút ra những kết luận chống lại quyền phổ thông đầu phiếu từ những

điều đã viết trên đây. Nếu tôi có thể quyết định đựợc khả năng của nó, thì tôi sẽ vẫn giữ nguyên

trạng như hiện giờ, vì chính bởi những nguyên nhân thực tế nảy sinh trong nghiên cứu về tâm lý

học đám đông và  từ những nguyên nhân  tôi sẽ  tiếp  tục  tranh  luận, nếu như một khi  tôi nhớ  lại

những khiếm khuyết của nó.

Những khiếm khuyết của quyền phổ thông đầu phiếu đập vào mắt ta một cách rõ ràng không có

gì để phải nghi ngờ. Điều không  thể phủ nhận, đó  là các nền văn hóa đều  là sản phẩm của một

thiểu số những cái đầu nổi trội; họ tạo nên cái ngọn của kim tự tháp, càng trở xuống dưới chúng

càng rộng ra  tương ứng với giá  trị  tinh  thần giảm dần và  thể hiện những  tầng  lớp  thấp của một

dân tộc. Mức độ to lớn của một nền văn hóa không thể để phụ thuộc vào quyền bỏ phiếu của các

phần tử bên dưới một tập thể hoàn toàn không mang một ý nghĩa gì ngoài con số. Rõ ràng rằng

việc biểu quyết của một đám đông quả  thật thường rất nguy hiểm. Nó đã  làm cho chúng  ta bao

lần  tổn  thất  bởi  các  cuộc  xâm  lược  từ  bên  ngoài  và  với  sự  chiến  thắng  của  chủ  nghĩa  xã  hội

chúng  ta chắc chắn sẽ còn phải  trả giá đắt gấp bội cho những sáng kiến của sự cai  trị bởi nhân

dân.

Nhưng những sự phê phán như vậy, về mặt  lý  thuyết không có gì để chê  trách,  tuy nhiên  trong

thực  tiễn chúng bị mất hết sức  lực, nếu như người  ta nhớ đến cái sức mạnh không gì ngăn cản

nổi của những  ý  tưởng một khi đã  trở  thành  những  tín điều. Học  thuyết cai  trị của đám đông,

theo quan điểm  triết học cũng khó biện  hộ như  việc  biện  hộ cho những  tín điều  tôn giáo  thời

trung cổ, nhưng ngày nay nó đã đạt đến một quyền lực không giới hạn. Chính vì vậy cho nên nó

cũng bất khả xâm phạm như những ý  tưởng  tôn giáo của chúng  ta môt thời. Chúng  ta hãy hình

dung một người hiện đại có suy nghĩ tự do, do một tác động huyền diệu nào đó đã được đưa  trở

về tít tận sâu thẳm của thời trung cổ. Nếu anh ta khi đó phát hiện ra những quyền lực không giới

hạn  của  các  ý  tưởng  tôn  giáo  đang  ngự  trị,  liệu  ta  có  tin,  rằng  anh  sẽ  tìm  cách  để  chống  lại

chúng? Liệu anh ta có nghĩ  là phải chối bỏ sự tồn tại của ma quỷ và chối bỏ ngày hội các quần Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

78

ma, một khi anh ta rơi vào tay các quan tòa, những người muốn thiêu sống anh ta vì theo họ anh

ta đã phạm phải  tội  liên kết với ma quỷ  và đã  tham gia  vào ngày  hội của quần ma? Người  ta

không nghĩ đến chuyện bàn cãi để chống lại quyền lực của đám đông y như không có chuyện bàn

cãi để chống  lại một cơn bão  lốc vậy. Học thuyết về phổ  thông đầu phiếu ngày nay đã có được

cái quyền  lực như ngày xưa giáo  lý thiên chúa giáo đã từng có. Các diễn giả và các nhà văn nói

về nó với một niềm kính  trọng xen  lẫn với sự tán dương,  là những điều mà ngay cả Luise XIV

cũng chưa được biết  tới. Người  ta phải chú ý  theo dõi nó như đã  từng  theo dõi  tất cả các giáo

điều. Thời gian mình nó sẽ tác động vào chúng.

Hơn nữa sẽ càng chẳng đựợc gì khi tấn công học thuyết này bởi vì bản thân nó có những lý do rõ

ràng riêng cho nó. "Trong thời đại bình đẳng", Tocqueville đã nói rất chính xác, "không ai tin ai,

bởi  tất cả đều giống nhau; nhưng chính cái  sự giống nhau này đã đem  lại cho họ một niềm  tin

gần như vô hạn vào sự phán xét của tập thể. Bởi vì có lẽ nào sự thật lại không phải nằm ở phía đa

số chỉ vì tất cả có cùng chung một cách nhìn nhận."

Liệu người ta có được phép cho rằng sự biểu quyết của đám đông được giới hạn bởi quyền biểu

quyết của những người có năng lực - nếu người ta muốn vậy - là một phương pháp tốt hơn? Tôi

không một phút giây nào có thể tin vào điều đó và cụ thể là vì những lý do như tôi đã trình bày ở

trên và vì sự vô nghĩa về mặt trí tuệ của một tập thể, cho dù chúng được hợp thành một cách như

thế nào. Tôi nhắc  lại: trong đám đông mọi con người trở nên giống nhau cho nên sự biểu quyết

của bốn mươi người có trình độ học vấn đại học về những vấn đề chung cũng không hơn gì biểu

quyết của bốn mươi anh gánh nước  thuê. Tôi hoàn  toàn  tin một cách chắc chắn, rằng không có

một cuộc bỏ phiếu nào mà người  ta  thường sử dụng quyền phổ  thông đầu phiếu để  tiến hành,

giống như việc cải cách chế độ quân chủ chẳng hạn,  lại có  thể có được kết quả khác hơn, nếu

như những người tham gia bầu cử chỉ bao gồm những con người thông thái và có học. Người ta

học hỏi ở người Hy  lạp, ở các nhà  toán học, những kiến  thức để  trở thành các kiến  trúc sư, các

bác sĩ  thú y, các  luật gia, nhưng không hề có được sự nhìn nhận đặc biệt  trong các vấn đề  tình

cảm. Tất cả các nhà kinh tế quốc dân của chúng ta đều  là những con người rất thông thái, phần

đông họ là giáo sư hoặc tốt nghiệp đại học. Nếu hiện nay đang có một vấn đề chung duy nhất, ví

dụ như hệ thống bảo hộ thuế quan, thử hỏi rằng họ có thống nhất với nhau? Trước các vấn đề xã

hội đầy rẫy những yếu tố không rõ ràng và bị ảnh hưởng bởi những logic ngầm và logic tình cảm

thì sự thiếu hiểu biết của tất cả mọi người sẽ được san đều cho nhau.

Nếu như khối những cử tri chỉ được  lập nên từ những con người  lành mạnh và hiểu biết thì kết

quả cũng không hơn gì của những cử  tri hiện nay. Họ cũng vẫn để cho  lý  trí bị  tình cảm hoặc

tinh thần bè đảng lôi cuốn. Chúng ta do vậy chẳng những không hề bớt đi chút khó khăn nào so

với hiện nay mà lại còn thêm vào trên đó sự chuyên chế tàn bạo của các đẳng cấp.

Cho dù là quyền bầu cử phổ thông hay giới hạn, cho dù nó xảy ra ở một nước cộng hòa hay là ở

một nước quân chủ, cho dù nó xảy  ra ở Pháp, ở Bỉ, ở Hy  lạp, ở Bồ đào nha hay Tây ban nha,

khắp mọi nơi quyền bầu cử của đám đông đều  tương  tự và  thường phản ánh những đòi hỏi vô

thức và những nhu cầu của giống nòi. Mức độ trung bình của những người trúng cử đối với một

một dân tộc nó thể hiện mức độ trung bình của tâm hồn chủng tộc của dân tộc đó, là cái được giữ

lại hầu như nguyên vẹn từ thế hệ này qua thế hệ khác. Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

79

Và như vậy chúng ta lại quay trở  lại với khái niệm cơ bản đó là khái niệm giống nòi, khái niệm

mà ta đã  liên tục gặp phải, và ta cũng gặp những ý tưởng khác được hình thành nên từ đó, rằng

trong cuộc sống của các dân  tộc những  thiết chế và các dạng chính quyền chỉ đóng một vai  trò

không đáng kể. Các dân tộc chủ yếu được dẫn dắt bởi tâm hồn giống nòi, có nghĩa là bởi sự tích

tụ của các yếu tố di truyền mà kết quả của sự tích tụ đó là tạo nên tâm hồn của giống nòi. Giống

nòi và cơ cấu vận hành của các nhu cầu hàng ngày: đó chính  là những quyền  lực đầy bí ẩn điều

hành lịch sử của chúng ta.

§5. Quốc hội

Quốc hội thuộc vào nhóm đám đông không đồng nhất, có danh tính. Mặc dù thành phần của nó

thay đổi  tùy  theo  thời đại và dân  tộc, nhưng  luôn có rất nhiều những đặc  tính giống nhau. Ảnh

hưởng  của  giống  nòi  trong  trường  hợp  này  tuy  cũng  đã  làm  cho  sự  giống  nhau  đó  giảm  đi  ít

nhiều trông thấy, nhưng vẫn không thể ngăn cản được các đặc tính đó hình thành. Quốc hội ở tại

các nước khác nhau như Hy  lạp, Ý, Bồ đào nha, Tây ban nha, Pháp và Mỹ tỏ ra rất giống nhau

trong các cuộc thương lượng và biểu quyết và đều đã để cho các chính phủ phải một mình chiến

đấu với với chính các khó khăn đó.

Vả lại các chính phủ nghị viện đều mang trong mình nó lý tưởng của các dân tộc văn minh hiện

đại. Nó là sự thể hiện những ý nghĩ sai về mặt tâm lý nhưng lại được mọi người chấp nhận, rằng

khả năng một tập hợp của nhiều con người để ra một quyết định thông minh và độc lập trong một

trường hợp nào đó sẽ lớn hơn nhiều so với tập hợp của một số ít người.

Trong quốc hội ta cũng tìm thấy lại những đặc tính của đám đông, đó là: tính phiến diện của các

ý  tưởng,  tính dễ  bị kích động,  tính dễ  bị  lôi cuốn,  tính dao động mạnh  về  tình cảm, chịu ảnh

hưởng quá  lớn của  lãnh đạo. Nhưng do sự hợp thành đặc biệt của nó, đám đông nghị viện cũng

có những đặc tính riêng biệt. Chúng ta sẽ xác định ra chúng ngay bây giờ. 

Dĩ nhiên tôn chỉ, mục đích của mỗi một đảng là khác nhau; nhưng chỉ riêng bởi sự hợp nhất của

các thành phần thành đám đông những phần tử riêng biệt trong họ sẽ có xu hướng đánh giá quá

cao những tôn chỉ mục đích đó và cố gắng thúc đẩy chúng đến tận giới hạn của những hậu quả.

Hơn nữa quốc hội chủ yếu đại diện cho những quan điểm cực đoan nhất.

Dạng hoàn  thiện nhất của sự phiến diện của quốc hội đã được những người  Jacobin hiện  thực

hóa  trong cuộc cách mạng Pháp vĩ đại. Do bởi họ,  tất cả đều  là những người giáo điều và suy

luận lô gic, trong đầu đầy ắp những sự tầm thường và sáo rỗng, vì thế họ đã cố gắng một cách vô

tư khi vận dụng và thực hành một cách cứng nhắc các tôn chỉ, mục đích; và người ta đã có lý khi

quả quyết, rằng họ đã trải qua cách mạng mà không hề nhìn thấy nó. Họ ảo tưởng, rằng với một

vài tín điều là có thể cải tạo được một xã hội từ gốc lên ngọn và có thể đem lại một nền văn hóa

tinh  tế  trên một nấc  thang đã vượt quá từ lâu của sự phát triển xã hội. Sự phiến diện hoàn  toàn

kiểu  như  vậy  cũng  đã  thể  hiện  trong  các  phương  tiện mà  họ  sử  dụng  để  đạt  đến ước mơ  của

mình. Nhưng thực tế họ chỉ chú trọng đến sự phá nát một cách tàn bạo những gì làm họ khó chịu.

Vả  lại  tất cả họ, những người Girondin, đảng  thợ mỏ, những  thành viên câu  lạc bộ Thermidor

đều say sưa về cùng một ý tưởng như vậy. Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

80

Đám đông nghị viện rất dễ bị tác động và sự kích hoạt xảy ra ở đây cũng giống như ở các đám

đông  khác  khi mà  chúng  chịu  sự  tác  động  của một  lãnh  đạo  có  uy  lực. Dù  có  tài  năng  như

Demosthenes cũng không thể thay đổi được sự biểu quyết của một nghị viên về các vấn đề của

hệ  thống bảo hộ  thuế quan và quyền ưu tiên sản xuất rượu  - đó  là biểu hiện của các đòi hỏi  từ

những cử tri có ảnh hưởng  lớn. Những tác động cấp thiết của cử tri có một trọng  lượng đến nỗi

tất cả những  tác động khác  sẽ bị bỏ qua và một sự kiên định bắt buộc  trong các quan điểm  sẽ

được duy trì [2].

Nhưng đối với các vấn đề chung, như sự hạ bệ một bộ trưởng, sự bổ sung một thuế mới v.v... là

những trường hợp không hề có những quan điểm xác định sẵn và sự kích hoạt lúc này có thể gây

ra tác động, cho dù không mạnh mẽ như đối với các đám đông thông thường. Mỗi một đảng có

người lãnh đạo riêng, tác động của nó đôi lúc có ảnh hưởng mạnh như nhau. Như vậy có nghĩa là

người  nghị  viên đã phải đứng giữa  những  tác động  trái  ngược  nhau  và  vì  thế không  thể  tránh

được chuyện ông ta sẽ bị dao động. Ở đây thỉnh thoảng người ta thấy ông ta chỉ sau 15 phút đã

biểu quyết hoàn  toàn ngược  lại và đồng ý với việc  thêm một điều khoản phụ vào một điều  luật

mà tác dụng của việc thêm vào này thực ra đã làm mất hiệu lực của điều luật đó: ví dụ như trong

công nghiệp điều  luật  tuyển chọn và sa  thải nhân công, và sau đó  là những phụ  lúc đã  làm cho

các biện pháp kia gần như trở nên không chính đáng.

Bởi thế một nghị viện trong mỗi một nhiệm kỳ bên cạnh những quan điểm rất kiên định còn có

những quan điểm khác rất yếu mềm. Nhưng do vì về cơ bản các vấn đề chung chiếm đa số cho

nên sự do dự cũng  là điều phổ biến, hơn nữa nó được nuôi dưỡng bởi  sự sợ hãi  thường xuyên

trước việc không thỏa mãn được các đòi hỏi của cử tri, là những ảnh hưởng ngầm mà người lãnh

đạo luôn phải biết cách giữ sao cho cân bằng.

Và  như  thế  trong các cuộc giằng co, nếu  những  người  tham gia  ngay  từ đầu không có những

quan điểm được thiết lập một cách chắc chắn thì người lãnh đạo sẽ là người làm chủ tình hình. 

Vai trò và quyền lực của lãnh đạo

Rõ ràng cần phải có những người  lãnh đạo, bởi người ta thấy họ ở trong tất cả các cơ quan đầu

não của các đảng phái trong tất cả các nước. Họ là những ông chủ thực sự của các quốc hội. Tất

cả những người  tụ hợp  lại  thành môt đám đông  sẽ chẳng biết  làm gì nếu không có một người

lãnh đạo, chính vì  thế cho nên kết quả các biểu quyết nhìn chung chỉ  là sự thể hiện quan điểm

của một số nhỏ.

Tôi nhắc  lại: hiệu quả tác động của những nhà  lãnh đạo chủ yếu  là do uy  lực của học chứ rất  ít

khi do những lập luận. Nếu vì môt lý do nào đó họ bị mất đi cái uy lực đó thì cũng là lúc họ cũng

không còn có thể tác động gì được nữa.

Cái uy  lực  lãnh đạo đó chủ yếu  là uy  lực của cá nhân và hoàn  toàn không  liên quan gì đến  tên

tuổi hoặc danh tiếng. Jules Simon đã cung cấp cho chúng ta môt ví dụ hoàn toàn kỳ quặc về vấn

đề này, khi ông ta nói về những ông lớn trong quốc hội mà ông ta đã từng chứng kiến:

"Còn hai tháng nữa đến lễ đăng quang Luis Napoleon vẫn không là gì.  Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

81

Victor Hugo bước  lên bục diễn  thuyết. Tuy nhiên ông ta chẳng  thu được kết quả nào. Người  ta

nghe ông như đã họ đã nghe Felix Pyat, nhưng có điều ông ta không được họ tán thưởng nhiều

như Pyat. "Tôi không khoái cái ý tưởng của ông ta", Vaulabelle nói với tôi về Felix Pyat, "nhưng

ông ta là một nhà văn lớn và đồng thời là một nhà hùng biện của nước Pháp." Một trí tuệ hiếm có

và mãnh  liệt của một Edgar Quinet cũng không  làm được gì  hơn. Ông  ta chỉ quần chúng đón

nhận trước lúc khai mạc cuộc họp, nhưng trong cuộc họp thì lại không.

Các cuộc miting chính trị là những chỗ trên thế giới mà ánh hào quang của sự thông thái ít có giá

trị nhất. Ở đây người ta chỉ  lo  làm sao nói năng cho phù hợp với thời cuộc và địa điểm, và  làm

sao  để  thể  hiện  được  sự  cống  hiến  của  họ  giành  cho  đảng  phái  chứ  không  phải  cho  tổ  quốc.

Chính điều này đã  làm cho Lamatine năm 1848 và Thiers năm 1871 đạt được sự  tín nhiệm mà

đáng lý ra tầm quan trong và cấp thiết của vấn đền mới là động cơ thúc đẩy. Khi mối hiểm nguy

đã qua đi, sự sợ hãi cũng biến mất cùng với niềm biết ơn."

Tôi chỉ viết  lại cái chỗ trong đó đơn thuần chỉ vì những sự kiện xảy ra chứ không vì muốn giải

thích chúng, những sự kiện đó chỉ chứng  tỏ một vấn đề  tâm  lý bình  thường. Một đám đông sẽ

mất đi lập tức cái đặc điểm để trở thành đám đông, nếu nó bắt đầu đòi hỏi các lãnh đạo trả công,

cho dù  là đó  là sự phục vụ của nó  là cho tổ quốc hoặc cho đảng  . Đám đông, nó thuần phục uy

lực của lãnh đạo mà không hề cảm thấy phải có được lợi lộc hoặc phải được đền ơn. 

Người lãnh đạo, có đủ uy lực cũng sẽ có được cái quyền lực gần như tuyệt đối. Người ta đã từng

biết có nghị viên nhờ có uy lực nên đã đạt đến ảnh hưởng cực lớn, nhưng chỉ do vì mắc phải vấn

đề tài chính mà đã chịu để mất đi cái ảnh hưởng có được từ bao năm nay. Chỉ cần một dấu hiệu

của ông ta  là đã có thể có một bộ trưởng bị hạ bệ. Một nhà văn đã viết những dòng sau về  tầm

ảnh hưởng của ông ta:

"Ông C... chúng ta đặc biệt mang ơn vì đã phải mua Tongkin với cái giá đắt gấp ba lần giá thực

của nó, vì chúng  ta chỉ có được một vị  trí không hề chắc chắn ở Madagaskar, vì đã để bị cướp

mất cả một vùng đất ở vùng hạ lưu sông Niger, vì chúng ta đã mất đi quyền thống trị ở Ai cập. -

Các  lý  thuyết của ông C... đã  làm chúng  ta mất đi  nhiều vùng  lãnh  thổ hơn  là  sự  thất bại của

Napoleon I."

Chúng ta không phải vì thế mà tức giận  lãnh đạo quá mức. Rõ ràng  là chúng ta đã phải chịu cái

giá quá đắt, nhưng một phần lớn ảnh hưởng của lãnh đạo liên quan tới sự chiều theo ý kiến quần

chúng,  là cái mà  trong các đề  thuộc địa hoàn  toàn không phải  là ý kiến của ngày hôm nay. Rất

hiếm khi một lãnh đạo vượt lên trước được ý kiến của quần chúng, mà ngược lại nó hầu như lúc

nào cũng vui lòng chấp nhận những sai lầm của họ.

Nghệ thuật diễn thuyết của lãnh đạo

Phương tiện thuyết phục của lãnh đạo, ngoại trừ uy lực ra, là những yếu tố mà chúng ta đã đề cập

đến nhiều lần. Để có thể vận dụng chúng một cách khéo léo, người lãnh đạo ít nhất vô thức cũng

phải nắm bắt được tâm  lý đám đông và biết cách đối thoại với họ như thế nào. Mà trước hết nó

phải nhận  thức được mức độ huyền diệu của ngôn  từ của các thành ngữ cũng như của các hình

tượng. Nó phải có một khả năng hùng biện đặc biệt, xuất phát  từ những khẳng định quyết  liệt

không cần phải chứng minh và rất ấn tượng được bao bọc bởi những hình ảnh có tính phán quyết Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

82

hoàn toàn chung chung. Kiều hùng biện như vậy ta có thể thấy ở khắp các cuộc họp, hội nghị, và

ngay cả ở  trong quốc hội Anh nơi mà được coi  là có không khí dung hòa nhất  trong  tất cả các

quốc hội.

"Chúng  tôi có  thể  liên  tục quan  sát các kỳ  thương  thảo của hạ viện", nhà  triết học người Anh

Maine viết, "ở đó tất cả các cuộc thương thảo xảy ra trong không khí trao đổi của những ngôn từ

thô  lỗ về mặt ám chỉ, xúc phạm và rất yếu về mặt sáo rỗng. Kiểu phát ngôn này của dạng phát

ngôn thường thấy đã gây nên một tác động rất đáng ngạc nhiên vào sức tưởng tượng của một nền

dân chủ thuần túy. Nó luôn dễ dàng đạt được sự đồng tình của đám đông bằng những quả quyết

chung chung được nhấn mạnh bởi những ngôn từ ngắn gọn, mặc dù chúng không hề chứa đựng

một chút sự thật nào và việc hiện thực hóa chúng có thể hoàn toàn chẳng bao giờ làm được."

Câu  trích dẫn đó chỉ  ra một điều  là không  nên coi  thường  ý  nghĩa của các ngôn  từ chủ chốt  .

Chúng  ta cũng đã  từng nhấn mạnh không  ít  lần về quyền  lực đặc biệt của các ngôn  từ và thành

ngữ, rằng chúng cần phải được lựa chọn sao cho có thể gợi nên được những hình ảnh sống động.

Câu nói sau của một lãnh đạo trong một cuộc họp cho ta thấy một ví dụ tương đối đầy đủ về vấn

đề này:

"Rồi sẽ đến cái ngày mà hôm đó những nghị viên có lời nói nhỏ nhẹ sẽ được ngồi chung tàu với

những kẻ vô chính phủ giết người trên con đường đi đày biệt xứ đến xứ sở của các loại bệnh sốt,

khi đó họ sẽ có dịp nói chuyện với nhau và tự thể hiện là hai mặt bù trừ của một trật tự xã hội."

Cái hình tượng được đưa ra quả rõ ràng và chính xác, và tất cả các đối thủ của người diễn thuyết

đều cảm thấy bị đánh trúng. Họ bỗng thấy hiện ra trước mắt cái xứ sở của các loại bệnh sốt, thấy

cái tàu đã đưa họ tới đó, bởi không  lẽ họ cũng thuộc vào  lớp bị cô  lập một cách rất mù mờ các

nhà chính  trị đang bị đe dọa? Một cảm giác sợ hãi ngấm ngầm như vậy cũng sẽ xâm nhập vào

những nghị viên bảo  thủ, khi họ bị những  lời nói mập mờ của Robespierres  ít nhiều mang  tính

dọa dẫm về việc lên mãy chém và họ đã liên tục lùi từng bước trước ông ta do sức ép của nỗi sợ

hãi đó.

Tất cả những người  lãnh đạo đều có xu hướng sa vào những sự thổi phồng sự việc đến mức kỳ

quái nhất. Nhà diễn  thuyết mà  tôi dẫn  ra  trong  thí dụ  trên đây, có  thể khẳng định một điều mà

không hề có sự phản kháng nào, rằng những chủ nhà băng và các thầy tu đã trả tiền cho bọn đánh

bom, và các hội đồng quản trị của các tập đoàn tài chính  lớn xứng đáng phải chịu các hình phạt

như những  tên vô chính phủ. Những biện pháp như vậy  lúc nào cũng có được những  tác động

vào đám đông. Sự quả quyết không sẽ bao giờ  là quá mạnh mẽ, giọng nói sẽ không bao giờ bị

coi là quá đe dọa. Không có gì có thể làm cho người nghe sợ hãi. Chính những cái trái ngược đó

đã làm cho họ sợ bị coi là những kẻ phản bội hoặc đồng phạm. 

Khả năng hùng biện đặc biệt này, như đã nói, nó luôn áp đảo trong mọi cuộc hội họp, ở những

thời điểm cấp thiết chúng chỉ có ngắn gọn và rõ ràng hơn mà thôi. Về mặt này cũng sẽ rất thú vị

khi đọc lại những lời phát biểu của những nhà cách mạng. Họ cảm nhận thấy có trách nhiệm phải

liên  tục ngừng giữa chừng để nguyền rủa những hành động  tội ác và ca ngợi những hành động

đạo đức; sau đó họ thể hiện mong ước chống đối lại những kẻ chuyên chế và thề rằng tự do hay

là chết. Những người có mặt tất cả đều đứng dậy hoan hô như vũ bão và sau đó  lại ngồi xuống

một cách rất yên tâm. Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

83

Thỉnh thoảng cũng có một lãnh đạo thông minh và có học, nhưng điều này chỉ có hại cho ông ta

hơn  là có  lợi. Sự  thông minh giúp cho nắm biết được các mối  liên quan của  tất cả các sự vật,

giúp cho việc hiểu và giải thích chúng, nhưng đó cũng là điều làm cho người ta trở nên yếu đuối

và suy giảm năng lực cũng như sức mạnh của niềm tin một cách đáng kể, bởi niềm tin vững chắc

là những cái mà các thánh tông đồ cần phải có. Những  lãnh đạo lớn của các thời đại, chủ yếu  là

của những  thời đại cách mạng, đều rất kém  thông minh nhưng  lại gây ra được  tác động cực kỳ

lớn.

Diễn  văn  của một  trong  những  người  nổi  tiếng  trong  số  họ, Robespierre,  thường  lộ  rõ  những

điểm không mạch  lạc. Nếu người ta đọc nó, họ sẽ không tìm ra được những  lý giải có thể chấp

nhận tương xứng với vai trò cực kỳ to lớn của một nhà chuyên chế đầy quyền lực:

"Kiểu nói sáo rỗng và kiểu diễn đạt quanh quẩn trong việc giáo dục phép hùng biện và giảng dạy

về ngôn ngữ Latinh nhằm mục đích phục vụ cho một  tâm hồn con  trẻ hơn  là cho một tâm hồn

phẳng  lặng, một tâm hồn dường như trong tấn công cũng như trong phòng ngự chủ yếu  tự giới

hạn mình ở cái "hãy tiếp cận" của học trò. Không có một ý tưởng, không có một hành vi, không

có một sáng kiến - đó là sự buồn tẻ ở mức độ cao nhất. Người ta ngừng đọc một cách chua xót và

có hứng phải thở dài 'ồ' một cái với Camille Desmoulins đáng yêu."

Người ta giật mình khi nghĩ đến cái quyền lực của một con người đã đạt đến bằng cách biết cách

bao bọc quanh mình một uy  lực qua việc kết nối niềm  tin mãnh  liệt với sự đặc biệt giới hạn về

mặt trí tuệ . Nhưng đó chính là những tiền đề cần thiết để có thể bỏ ngơ những trở ngại và để có

thể muốn một cái gì. Theo bản năng đám đông đã nhận ra ở con người đầy niềm tin này một vị

chúa tể mà họ cần đến.

Thắng lợi của một bài diễn thuyết được trình bày ở quốc hội phụ thuộc hầu như hoàn toàn vào uy

lực của diễn giả, không bao giờ phụ thuộc vào lí lẽ mà nó đưa ra.

Một diễn giả không tên tuổi mà diễn văn của ông ta có những lập luận tốt và cũng chỉ toàn là lập

luận sẽ không có chút hy vọng gì cho dù chỉ được người  ta chú ý nghe. Một nguyên nghị viên,

ông Descubes, đã mô tả hình ảnh của một nghị viên không có uy thế qua những dòng như sau:

"Cứ khi nào ông ta bước lên bục diễn thuyết, ông ta lại rút ra từ cặp tài liệu của mình một tập dày

giấy  tờ dày cộm, ông  ta bày chúng ra nghiêm chỉnh  trước mặt và bắt đầu một phong  thái hoàn

toàn tự tin.

Ông  ta  tự tán dương niềm  tin mà ông  ta  tâm đắc nhằm  truyền đạt nó vào  tâm hồn người nghe.

Ông  ta cân nhắc các  luận cứ của mình, nhét đầy vào đó những số  liệu những  luận chứng và  tin

rằng mình có  lý. Bất kỳ sự phản kháng nào cũng phải tan biến trước sự rõ ràng của những điều

ông ta trình bày. Ông ta bắt đầu trong niềm tin rằng lẽ phải đang nằm phía mình và tin rằng đồng

nghiệp  sẽ chú ý nghe ông, những người chắc chắn không có mong muốn gì hơn  là được phép

nghiêng mình trước những sự thật.

Ông  ta nói  - và  lập  tức ông  ta  lấy  làm  lạ  trước những chuyển động  và  sự ồn ào nổi  lên  trong

phòng họp, ông ta ngạc nhiên và hơi bức xúc. Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

84

Tại sao không ai chịu im lặng thế nhỉ? Tại sao mọi người lại không tập trung nghe? Những người

đang nói chuyện với nhau kia họ nghĩ về những gì? Có lý do cấp thiết nào khiến người kia rời bỏ

chỗ của mình?

Trên mặt ông ta bắt đầu xuất hiện những nét không yên tâm; ông ta nhăn trán, rồi nín lặng. Chủ

tọa phải có lời động viên ông ta mới lại tiếp tục cất giọng. Lại vẫn cảnh mất trật tự như lúc trước.

Ông ta cố gắng to giọng, cảnh mất trật tự lại càng gia tăng. Tiếng ồn ào xung quanh ông ta ngày

càng  lớn. Bản thân ông ta cũng chẳng còn nghe thấy mình nói gì, và ông ta im  lặng, sau đó ông

ta cố gắng tiếp tục nói chừng nào còn có thể, bởi vì ông ta sợ, nếu im lặng lúc này rất có nguy cơ

ở đâu đó sẽ vang lên lời đề nghị "đủ rồi, xuống thôi". Sự ồn ào đã đến mức không thể chịu đựng

nổi.

Những mỗi nguy của chủ nghĩa nghị viện (Parliamentarianism)

Parliamentarianism, parlementarisme. Danh từ này theo nghĩa rộng, nhằm để chỉ toàn bộ nền dân

chủ  hiện  đại,  bao  gồm  cả  hai  hình  thức:  chế  độ  nghị  viện  (parliamentary  system,  régime

parlementaire)  kiểu Anh  và  chế  độ Tổng  thống  (presidential  system,  régime  présidentiel)  kiểu

Mỹ.

Mặc dù có nhiều khó khăn trong cách thức hoạt động, các kỳ họp quốc hội đã tạo nên một hình

thức lãnh đạo đất nước tốt nhất mà các dân tộc cho đến nay đã tìm ra, nhằm trước hết bằng cách

có thể nhất để thoát ra khỏi ách thống trị của cá nhân kẻ độc tài. Chúng cho dù dạng gì cũng  là

điều  lý tưởng đối với một chính phủ, nếu không  ít ra cũng  là đối với các triết gia, những nhà tư

tưởng, nhà văn, nghệ sĩ và các nhà bác học, tóm  lại  là đối với tất cả những ai thuộc về tầng  lớp

đỉnh cao của nền văn hóa.

Trong các mối hiểm nguy thực ra chỉ tiềm ẩn hai điều cần phải được đặc biệt chú ý: đó là sự lãng

phí quá đáng về mặt  tài chính và sự giới hạn  tự do cá nhân ngày càng gia  tăng. Mối nguy  thứ

nhất là hậu quả tất yếu của các đòi hỏi và của sự thiển cận trong cách nhìn của đám đông cử tri.

Nếu một nghị viên quốc hội đệ trình một kiến nghị mà nó rõ ràng phù hợp với một nguyện vọng

mang  tính dân chủ, ví dụ như việc chắm sóc về già cho  tất cả những người  lao động hoặc việc

tăng  phụ  cấp  cho  những  người  điểu  khiển  tín  hiệu  xe  lửa,  cho  giáo  viên  v.v...,  thì  lúc  đó  có

những nghị viên khác do vì lo sợ trước những cử tri ủng hộ mình cho nên đã không dám thể hiện

ra rằng họ đã đánh giá thấp ích lợi của đề nghị trên qua việc không chấp thuận nó. Họ biết chắc,

đề nghị trên nếu được thực hiện sẽ làm cho ngân sách nhà nước bị quá tải và đương nhiên sẽ dẫn

đến việc bắt buộc phải tăng thuế. Thế nhưng đến lúc biểu quyết họ đã chấp thuận nó không chút

do dự. Trong khi những hậu quả của việc gia tăng chi tiêu ngân sách còn nằm xa ở tương  lai và

như vậy đối với họ những tác động khó chịu từ đó chưa thể xảy ra ngay được, ngược lại hậu quả

của việc không chấp  thuận họ có  thể cảm nhận ngay  lập  tức vào những ngày  sau đó, khi phải

đứng ra đối chất trước cử tri của mình.

Tiếp ngay  theo nguyên  nhân đầu  tiên  làm căng  thẳng  vấn đề chi  tiêu  này  là một nguyên nhân

khác cũng không kém phần quyết định: đó là nghĩa vụ phải chấp thuận mọi khoản chi cho những

nhu cầu thuần túy công cộng. Không có một nghị viên nào có thể chống  lại những nhu cầu này,

bởi chúng  thể hiện những đòi hỏi của đám đông cử tri và bởi mỗi một nghị viên chỉ có  thể đạt

được những cái cần  thiết nhất cho đơn vị bầu cử của họ nếu như họ chấp nhận những đề nghị Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

85

tương ứng của các nghị viên khác. Mối nguy hiểm thứ hai được nhắc đến trên đây đó  là sự hạn

chế không tránh khỏi của tự do gây ra bởi nghị viện, điều này thực ra khó nhận thấy, nhưng đó là

một  thực  tế. Nó  là hậu quả của  hàng  loạt những đạo  luật  luôn mang  tính giới  hạn, mà các  tác

động của chúng những nghị viên thiển cận đã không nhìn ra và họ đã cảm thấy phải có nghĩa vụ

chấp thuận chúng.

Mối nguy hiểm này phải thuộc vào loại không tránh khỏi được, bởi ngay ở Anh,  là nơi mà chắc

chắn có một dạng chính phủ nghị viện thuộc  loại hoàn hảo nhất và các nghị viên tỏ ra là những

người độc lập đối với các cử tri, thế nhưng có vẻ như cũng không thể tránh khỏi được điều này .

Ông Spencer đã từng chỉ ra trong một bài viết trước đây, rằng hậu quả nhất định phải dẫn đến sự

gia tăng của hiện tượng các tự do thực sự dường như ngày càng ít đi . Trong một bài viết sau đó

ít lâu. "Đơn độc chống lại nhà nước", ông ta lại nhắc lại nhận định trên và nói về nghị viện Anh

như sau:

"Từ cái  thời điểm đó những nhà  lập pháp Anh đã đi đúng  theo con đường mà  tôi đã dự đoán.

Những biện pháp độc đoán, chúng được nhân rộng một cách nhanh chóng, chúng  liên tục nhằm

tới việc giới hạn tự do cá nhân mà cụ thể là ở hai cách thức: mỗi một năm càng có nhiều các đạo

luật được ban hành mà tính chất của chúng là giới hạn tự do hoạt động của công dân và bắt buộc

họ phải  làm những gì mà  trước đây họ có  thể  làm một cách  tùy  thích hoặc bỏ qua. Đồng  thời

gánh nặng ngày càng chồng chất, đặc biệt là những khoản chi tiêu công mà ngay từ đầu chúng đã

hạn chế sự tự do, qua việc cắt giảm một phần thu nhập của công dân mà đáng  lý ra cái phần đó

trước đây họ có thể sử dụng một cách tùy thích và làm gia tăng cái phần bị lấy đi để chi tiêu cho

những ý đồ tùy theo cách đánh giá có thể là tốt đẹp của các quan chức."

Sự giới hạn tự do ngày càng tăng kiểu này có ở tất cả các nước trong một cách thức đặc biệt, mà

Spencer không chỉ ra: Sự tạo nên hàng  loạt những biện pháp mang tính  luật pháp theo kiểu giới

hạn những cái chung tất nhiên sẽ dẫn đến việc gia tăng con số, quyền  lực và ảnh hưởng của các

quan  chức,  những  người  được  trao  nhiệm  vụ  thực  thi  những  biện  pháp  đó. Quyền  lực  của  họ

càng lớn khi mà tầng lớp quan chức trở nên là tầng lớp duy nhất vô trách nhiệm, không nhiệt tình

và được bổ nhiệm suốt đời, thoát ra khỏi sự thay đổi liên tục của chính quyền. Và giờ đây không

có bạo lực nào cứng rắn hơn cái bạo lực thể hiện ở ba hình thái như vậy.

Việc  liên  tục  tạo ra những điều  luật và những biện pháp giới hạn bọc chặt  lấy những biểu hiện

không có ý nghĩa nhất của cuộc sống bằng những nghi  thức phức  tạp đã dẫn đến kết quả  thảm

hại là lĩnh vực trong đó người công dân được phép chuyển động một cách tự do ngày càng bị thu

hẹp  lại. Là nạn nhân của sự sai  lầm, rằng càng nhiều điều  luật thì tự do và bình đẳng càng được

đảm bảo tốt hơn, đã dẫn tới các dân tộc chỉ càng tự trói chặt mình hơn khi làm điều đó.

Họ quàng vào mình những thứ đó không có nghĩa là không bị trả giá. Đã quen với việc tròng bất

kỳ cái ách nào vào cổ, dứt khoát họ sẽ đi đến chỗ, đi tìm những cái ách đó và cuối cùng  là mất

hết tất cả căn nguyên và sức mạnh. Họ lúc đó chỉ còn là nhưng cái bóng không có sức đề kháng,

chỉ còn là những cỗ máy tự động, không ý chí, không phản kháng và không sức lực. 

Nếu một khi con người không còn thấy một sinh lực nào trong nó, lúc đó nó sẽ phải đi tìm kiếm

ở một nơi khác. Với sự gia tăng ngày càng lớn của sự vô cảm và bất lực của công dân đã dẫn tới

bắt buộc phải gia tăng hơn nữa tầm quan trọng của chính phủ. Chính phủ vì thế bắt buộc phải có Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

86

thêm đầu óc khởi xướng, đầu óc kinh doanh và  lãnh đạo, là những cái mà người công dân đã bị

mất đi. Chính phủ phải  tổ chức kinh doanh, phải  lãnh đạo, phải  bảo vệ. Và như  thế  nhà  nước

bỗng nhiên trở thành một ông thánh toàn năng. Tuy nhiên kinh nghiệm đã chỉ ra rằng, quyền lực

của một ông thánh kiểu như vậy chẳng những không bền vững mà cũng chẳng hề mạnh.

Việc giới hạn tự do một cách  liên tục ở một số dân tộc, mặc cho sự liên kết  lỏng  lẻo giữa họ đã

gây cho họ một cảm giác tự do, có vẻ dường như là hậu quả của tuổi tác của họ và cũng như tuổi

tác của chính phủ. Nó là một dấu hiệu ban đầu của sự thoái hóa mà cho đến nay không một dân

tộc nào có thể tránh khỏi.

Nếu người ta từ những bài học của quá khứ rút ra những kết luận và phán xét tùy theo những dấu

hiệu  thể hiện khắp mọi nơi  thì sẽ có nhiều nền văn hóa hiện đại của chúng  ta đang ở nấc  thang

của sự già cỗi cao nhất, và đang  trên đường  thoái hóa. Có những hình  thái phát  triển nhất đinh

dường như đối với tất cả các dân tộc đều phải trải qua, bởi quá trình như vậy đã lặp lại rất nhiều

lần trong lịch sử. Việc mô tả đặc điểm của các nấc thang phát triển này hoàn toàn có thể dễ dàng

làm được một cách khái quát, và với sự tóm tắt như vậy sẽ kết thúc bài viết này của chúng tôi ở

đây.

Kết quả mang tính lịch sử triết học

Nếu chúng ta quan sát những nét chính về sự lớn lên và tiêu vong của các nền văn hóa trong quá

khứ, chúng ta sẽ thấy những điều sau đây:

Trong sự bừng tỉnh của các nền văn hóa này, một bầy đoàn những con người có nguồn gốc khác

nhau, đã tình cờ quy tụ lại qua các cuộc hành trình, qua những cuộc tấn công và xâm chiếm. Từ

những dòng máu khác  nhau,  từ những  ngôn  ngữ khác  nhau  và  cũng  như  từ những quan điểm

khác nhau không có gì khác hơn chính những  luật lệ của một tù trưởng  là sợi dây đã ràng buộc

những con người như thế lại với nhau. Trong một đám hỗn độn, những đặc điểm tâm lý của đám

đông đã thể hiện ở mức độ cao nhất. Chúng bộc  lộ những quan hệ nhất thời như  lòng quả cảm,

sự yếu đuối, những hoạt động bản năng và những hành vi bạo  lực. Không có gì  trong số đó có

chiều hướng lâu dài. Họ chính là những kẻ hoang dã man rợ.

Sau  đó  thời  gian  đã  hoàn  tất  tác  phẩm  của mình. Sự  đồng  nhất  của môi  trường,  sự  lai  giống

thường  xuyên, nhu cầu của một đời  sống  tập  thể đã dần dần phát huy  tác động. Những  thành

phần khác nhau của đám đông bắt đầu hòa đồng vào nhau và hình  thành nên một giống nòi, có

nghĩa là một hợp thành của những tính cách và những tình cảm chung, chúng ngày càng củng cố

sự vững chắc qua di truyền. Đám đông đã trở thành một dân tộc, và cái dân tộc đó đã vươn  lên

thoát khỏi tình trạng dã man.

Tuy nhiên chỉ có thể để  lại hoàn toàn sau nó tình  trạng dã man, một khi qua những cố gắng dài

lâu, trải qua những đoạn trường tranh đấu  liên tục không ngừng nghỉ, một  lý tưởng đã được đạt

đến. Cái cấu  thành  nên  lý  tưởng đó không phải  là điều quan  trọng. Cho dù  nó  là  sự  sùng  bái

Rom, là quyền lực của Athen hoặc sự chiến thắng của Alah, nó phải đạt đến trạng thái trong đó,

tất cả các thành phần riêng biệt của giống nòi, những phần tử tự nguyện tham gia, phải có một sự

thống nhất hoàn toàn về cảm nhận và tư duy. Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

87

Giờ đây một nền văn hóa mới đã ra đời với những thiết chế, những hình thức tín ngưỡng và nghệ

thuật của nó. Bị lôi cuốn bởi ước mơ hoài bão giống nòi dần dần đạt được tất cả những gì là hào

quang, sức mạnh và vĩ đaị. Rõ ràng rằng đôi khi họ sẽ  là một đám đông, nhưng đứng đằng sau

những tính chất chuyển động và thay đổi của đám đông sẽ là một kết cấu vững chắc của tâm hồn

giống nòi, cái xác định mức giao động của một dân tộc và điều tiết sự thăng giáng. 

Sau khi đã hoàn thiện công cuộc tạo hóa của của mình thời gian bắt đầu với công cuộc tàn phá,

cả thánh thần lẫn con người đều không tránh khỏi. Nếu nền văn hóa đã đạt đến một đỉnh cao nào

đó của quyền lực và sự phong phú, lúc đó nó sẽ ngưng phát triển và khi nó ngừng phát triển cũng

là  lúc nó nhanh chóng chuyển qua  lụi  tàn. Chẳng bao  lâu  tiếng chuông  báo hiệu  sự già cỗi  sẽ

điểm.

Giờ phút không tránh khỏi này  luôn được báo hiệu bởi sự mờ nhạt của cái  lý tưởng một thời đã

từng nâng tâm hồn giống nòi lên. Ở mức độ lớn khi mà lý tưởng đó lụi tàn, các hình thể tôn giáo,

chính trị và xã hội được lập nên từ nó cũng bắt đầu lung lay. 

Với sự tan biến lý tưởng của mình ngày càng tăng giống nòi liên tục mất đi những cái đã làm cho

nó gắn bó lại với nhau, mất đi những cái  làm nên sự thống nhất và sức mạnh của nó. Nhân cách

và hiểu biết của mỗi một người riêng biệt có thể  lớn  lên, nhưng đồng thời với nó, thay vào chỗ

tính vị kỷ tập thể của giống nòi  là sự nảy nở quá đáng của tính  ích kỷ cá nhân, cái  luôn đi cùng

với sự suy yếu các tính cách và giảm thiểu năng lực hoạt động. Cái một thời được coi là một dân

tộc,  là một sự thống nhất,  là một khối cuối cùng sẽ  trở nên một đám những kẻ riêng biệt chẳng

còn liên quan gì đến nhau và chỉ được kết dính lại một cách nhân tạo qua những truyền thuyết và

các thiết chế. Điều xảy ra sau đó là những con người, bị tách rời khỏi nhau do bởi các lối sống và

đòi hỏi của họ, sẽ  trở nên không còn  tự chủ và họ đòi phải được chỉ dẫn ngay cả  trong những

hành động không có ý nghĩa nhất, và  rằng nhà nước phải mở  rộng ảnh hưởng của nó  trên mọi

lĩnh vực.

Cùng với việc mất đi hoàn toàn lý tưởng đã có trước đây, giống nòi cuối cùng cũng sẽ mất đi cả

tâm hồn, lúc đó nó chỉ còn là một tập hợp gồm những con người cô độc, và như thủa ban đầu, họ

trở về  là một đám đông. Đám đông thể hiện tất cả những đặc tính không bền vững, nhất thời và

không có tương lai. Nền văn hóa mất đi tất cả sự bền vững và nó đầu hàng mọi sự tấn công. Đám

đông hạ tiện chiếm ưu thế, sự dã man mọi rợ xuất hiện. Cho đến đây nền văn hóa vẫn còn tỏ ra

sáng  lạn  bởi  nó vẫn còn giữ được cái  vẻ  bề  ngoài  từng được  tạo nên  từ một quá khứ  lâu dài,

nhưng thực ra nó đã  là một ngôi nhà đã mục ruỗng, không còn có gì để chống đỡ, và sẽ sụp đổ

tan tành ngay từ cơn bão đầu tiên.

Từ dã man mọi rợ được ước mơ hoài bão dẫn dắt đã trở thành một nền văn hóa, sau đó, chừng

nào niềm mơ ước này không còn  sức  lực, cũng  là giây phút của  sự  suy  tàn và cái chết  - cuộc

sống của các dân tộc luôn chuyển động trong cái vòng luân hồi như vậy.

________________________________

[1] Các ủy ban, có thể  là các câu  lạc bộ, các tập đoàn v.v... có lẽ  là những cái tạo nên mối nguy

hiểm đáng sợ nhất mà chúng đe dọa chúng  ta qua quyền  lực của đám đông. Chúng quả  là dạng

không phụ thuộc cá nhân nhất và do vậy cũng  là mạnh mẽ nhất của bạo  lực cai trị. Những  lãnh Tâm lý học đám đông                    Gustave Le Bon

88

đạo của các ủy ban, những người phát ngôn và hành động có vẻ như nhân danh một  tập thể,  là

những  người  hoàn  toàn  được  thoát  khỏi mọi  trách  nhiệm  và  có  thể  được  phép  làm  tất  cả. Kẻ

chuyên chế  tàn bạo nhất cũng không bao giờ, cho dù chỉ  là  trong mơ, dám quyết định việc đày

biệt xứ như ủy ban đã từng quyết định. Họ đã thu nhỏ quốc hội lại, đúng ra là đã cắt xén nó, ông

Barras đã nói như vậy. Chừng nào còn được phép nói nhân danh quốc hội thì Robespierre còn là

một ông chủ quyền  lực không giới hạn. Cái ngày mà kẻ độc tài kinh tởm từ bỏ họ một cách  ích

kỷ thì cũng là suy tàn của nó. Sự thống trị của đám đông có nghĩa là sự thống trị của các ủy ban,

và cũng chính  là  là sự thống  trị của người  lãnh đạo ủy ban đó. Một kẻ chuyên chế  tàn bạo hơn

thế người ta khó có thể tưởng tượng ra.

[2] Trên những quan điểm như vây được xác định từ trước do bởi các đòi hỏi của cử, một nghị

viên già của nước Anh đã tự đánh giá một cách rõ ràng như sau: "Trong suốt năm mươi năm tôi

có mặt ở Westminster tôi đã  từng nghe hàng ngàn  lời phát biểu và chỉ có một số  ít  trong đó đã

làm tôi thay đổi quan điểm; nhưng không có một bất cứ điều nào có ảnh hưởng đến sự biểu quyết

của tôi cả."

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: #tamlyhoc