Tam Ly

sự phát triển và hình thành nhân cách 

� Nhân cách sáng tạo là một phẩm chất phát triển của con người, trong đó, con người, thông qua hoạt động sống của mình, tạo nên những giá trị tinh thần, giá trị vật chất có tính mới về chất đối với nhu cầu và lợi ích của sự phát triển xã hội. Bản chất con người vốn có khả năng sáng tạo, song, tiềm lực này có được "thực tế hóa" hay không, lại phụ thuộc vào điều kiện xã hội, giáo dục cộng đồng và ý thức cá nhân. Nhân cách sáng tạo được hình thành trong quá trình con người lao động và hoạt động thực ti ễn nói chung, cùng với sự ti ếp nhận những thành tựu ti ến bộ xã hội và giáo dục xã hội. Đồng thời, nhân cách sáng tạo cũng là năng l ực tự phát tri ển của m ỗi cá nhân con người, l à khả năng "đổi m ới" của nó được nảy sinh trong hoạt động thực tiễn, học hỏi xã hội và giáo dục nhà trường. Một nhân cách sáng tạo bao giờ cũng bi ết tự ý thức, chủ động và tích cực tạo nên một sản phẩm m ới (tinh thần, vật chất), m ột "hiện thực m ới", nhằm đáp ứng nhu cầu, lợi ích và mục đích đa dạng, ngày càng tăng của sự phát tri ển con người và xã hội. Bởi, xét tới cùng, như V.I.Lênin vi ết: "nghĩa l à thế giới không thỏa mãn con người và con người quyết định biến đổi thế giới bằng hành động của m ình" Có thể nêu ra những nhân tố của nhân cách sáng tạo, bao gồm:  Vốn tri thức mà xã hội đã tạo ra, tích l ũy được đặc bi ệt là những tri thức khoa học tiên ti ến, li ên quan đến l ĩnh vực sáng tạo m ới hướng tới.  Hoạt động thực tiễn dưới hình thức thực ti ễn vật chất hoặc thực ti ễn tinh thần. Năng lực nắm bắt và thực hành phương pháp "tạo ra hi ện thực m ới" từ vật liệu, nguy ên liệu, tài li ệu do chính hiện thực đã có và đang có cung cấp.  Phẩm chất xã hội và lý tưởng trong xã hội của chủ thể sáng tạo phù hợp với yêu cầu nhân văn hóa con người trong một đời sống cộng đồng đang hướng tới những giá trị, mục ti êu phát triển bền vững, nhằm thực hiện m ột xã hội "dân giàu, nước m ạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", m ột thế giới tiến bộ, nhân văn. Như thế, để có được nhân cách sáng tạo, con người không phải chỉ có nỗ lực cá nhân, mà còn phải được gi áo dục, tức l à có sự chuẩn bị, trang bị và hướng dẫn nhân cách trở thành nhân cách sáng tạo, con người sáng tạo. Có thể đưa ra đây những y êu cầu chủ yếu đối với hoạt động giáo dục hi ện nay để "sản xuất" ra những nhân cách sáng tạo nhằm đáp ứng y êu cầu phát triển bền vững trong thời đại toàn cầu hóa. Cung cấp những tri thức nhiều m ặt mang tính hiện đại do các thành tựu khoa học mà nhân loại hiện nay đã đem l ại với tính cách l à tài sản chung của mọi xã hội. Những tri thức khoa học này không chỉ là mảnh đất nuôi dưỡng trí tuệ con người, m à điều chủ yếu hơn, chúng l à bàn đạp để mọi sáng tạo của cá nhân có thể nảy nở, cất cánh. Trong bức tranh sôi động và sinh động toàn cầu hóa hi ện nay, khi mà mọi hoạt động của con người phải mang tính tri thức, thì sự sáng tạo với tính cách l à động lực tối ưu của phát triển bền vững, tất y ếu phải l à sáng tạo tri thức, sáng tạo bằng trí tuệ tinh khôn nhất và hiệu quả nhất. Hiện nay, tri thức đang trở thành một loại tư li ệu chủ yếu của sản xuất xã hội, khoa học, tri thức khoa học - sản phẩm sáng tạo của con người đang trở thành "lực lượng sản xuất trực tiếp", "l ực l ượng sản xuất độc lập", như C.Mác từng dự báo (C.Mác và Ph.Ăngghen, 1995, tập 4, tr. 187). Bất cứ một sáng tạo nào cũng đều bắt nguồn từ thực tiễn, do thực tiễn quy định, thúc đẩy, đánh giá,kiểm chứng, định hướng và cuối cùng là hiện thực hóa m ục đích của sáng tạo. Chính vì vậy, mọi nội dung hay mọi phương thức giáo dục đều phải được tồn tại trong thực ti ễn. Một nhân cách sáng tạo phải được đào luyện trong thực ti ễn mà nhân cách đó muốn tham gia bằng sự sáng tạo của mình. Quá trình hoạt động thực tiễn cũng chính là môi trường học tập để sáng tạo, thử nghiệm, thử thách sự sáng tạo và xác định m ục tiêu của sáng tạo. Giáo dục khả năng nắm bắt thực ti ễn và hoạt động thực tiễn là một yêu cầu, một nguyên tắc của gi áo dục nhân cách sáng tạo. Hoạt động sáng tạo l à một tổng thể bao gồm cả phương thức, phương pháp sáng tạo tức là cách chuyển năng lực sáng tạo của chủ thể sáng tạo và tư li ệu sáng tạo của cuộc sống hiện thực thành kết quả sáng tạo, sản phẩm sáng tạo. Nếu phương thức sáng tạo, phương pháp sáng tạo là một công cụ khoa học, thì việc gi áo dục, đào tạo con người sử dụng công cụ đó có một ý nghĩa cần thiết và quan trọng. Tính quy định của giáo dục phương thức sáng tạo phương pháp sáng tạo là ở chỗ: Chủ thể sáng tạo phải được trang bị các phương thức, phương pháp sáng tạo đã được xác định cùng với những nguyên tắc chung, nguy ên l ý phổ biến của chúng. Chủ thể sáng tạo phải có năng lực l ựa chọn phương thức sáng tạo, phương pháp sáng tạo sao cho phù hợp với đối tượng sáng tạo và mục ti êu sáng tạo. Khả năng chủ quan của chủ thể sáng tạo phải làm chủ được phương thức, phương pháp sáng tạo có trong tay, đồng thời, tạo ra được những cái cần thiết chưa có trong chúng để có thể đáp ứng đầy đủ các y êu cầu cụ thể, ri êng bi ệt do quá trình thực thi sáng tạo đặt ra. Kỹ năng, kỹ xảo và công nghệ sử dụng phương thức sáng tạo, phương pháp sáng tạo là yêu cầu bắt buộc đối với m ọi nhận thức và mọi hành động cụ thể trong quá trình sáng tạo. Rõ ràng l à, việc giáo dục nhân cách sáng tạo bao gồm cả yêu cầu hoàn thiện nhân cách đó bằng các chỉ dẫn, hướng dẫn, định hướng đối với phương thức, phương pháp sáng tạo. Như trên đã nêu, nhân cách sáng tạo là một hiện tượng xã hội, mang giá trị xã hội' nhất định, đồng thời cũng chịu sự qui định của xã hội. Một nhân cách sáng tạo chỉ thật sự hữu ích đối với đất nước, nhân dân và cộng đồng nhân loại, khi hoạt động thực tiễn và ý thức con người của nhân cách đó nhằm mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân, cho dân tộc, cho xã hội nói chung. Điều đó đòi hỏi một phẩm chất tư tưởng, tình cảm của nhân cách sáng tạo phải trong sáng, cao đẹp, một phẩm chất của con người XHCN. Ở đây, việc gi áo dục con người có năng lực sáng tạo không thể tách rời việc gi áo dục “ đạo làm người", giáo dục nhân cách nhân văn, nhân cách "tiên ti ến, đậm đà bản sắc dân tộc", nhân cách của "hiền tài , trong thời đại Hồ Chí Minh, nhân cách của m ột thành viên trong hệ thống nhân loại tiến bộ và nhân văn. Đồng thời, chính phẩm chất tích cực trên đây không chỉ là nền tảng vững chắc m à còn l à động lực m ạnh mẽ cho m ọi sáng tạo đúng đắn, chân chính của con người. Cần lưu ý rằng, nội dung, mục đích của bất kỳ một sáng tạo nào cũng đều phải nhằm nhân văn hóa con người và xã hội, cải thiện môi trường sinh thái tự nhiên. Nhân cách sáng tạo l à nhân cánh tự chủ, tự ý thức và tự giác. Không có sự nỗ lực, chủ động và tích cực của cá nhân thì sẽ không có sự sáng tạo, sự tìm tòi cái m ới tiến bộ hơn, giá trị hơn. Chính vì thế, giáo dục nhân cách sáng tạo l à tạo ra mọi nhân tố mọi điều ki ện để bản thân nhân cách sáng tạo tự chuyển hóa chúng thành năng l ực cá nhân, thành khả năng bên trong, thành "do mình, của mình". Mọi sự áp đặt, gi ản đơn, máy móc, khô cứng trong gi áo dục nhân cách sáng tạo l à hoàn toàn xa lạ, phản tác dụng. Nói cách khác, đó là sự đị nh hướng, chỉ đường, hỗ trợ, tạo mọi tiền đề cần thiết để chủ thể sáng tạo tự khẳng định "cái mới" của m ình. Để đáp ứng nhu cầu giáo dục nhân cách sáng tạo trong phát tri ển bền vững, ngành gi áo dục và xãhội cần có những quan tâm và giải pháp tương ứng, nhằm tạo ra một "thế hệ vàng" phù hợp với dòng chảy phát triển nguồn nhân lực của dân tộc ta trong thời đại toàn cầu hóa hi ện nay. Về nhận thức cũng như về chủ trương, chính sách, ngành giáo dục và đào tạo nên xem việc gi áo dục nhân cách sáng tạo nằm trong tầm chi ến lược con người, thuộc phạm vi hạt nhân của nguồn lực phát triển xã hội nói chung, của phát tri ển "trồng người" nói riêng. Một sự đầu tư thích đáng về nhiều mặt cho giáo dục nhân cách sáng tạo là một yêu cầu thực tiễn có giá trị cấp thi ết và bền vững. Hệ thống giáo dục và nhà trường, từ mẫu giáo đến đại học, sau đại học, cần tạo m ọi điều ki ện vật chất và tinh thần để có thể phát hiện, nuôi dưỡng, bồi dưỡng những nhân cách sáng tạo. Thừa nhận nhân cách sáng tạo là động l ực tích cực, quan trọng của phát tri ển đất nước và hội nhập quốc tế cũng có nghĩa là thừa nhận rằng động lực đó phải do chính xã hội tạo ra, trong đó trước hết và chủ yếu l à từ nhà trường, từ một nền gi áo dục có tính tiên tiến về mặt khoa học và có tính nhân văn về mặt xã hội. Bởi vậy, nhà trường cần xem việc "đào tạo nhân cách sáng tạo" như là một quá trình được đầu tư hoàn chỉnh, vững chắc, khẩn trương và lâu dài. Như mọi hoạt động giáo dục khác, hoạt động giáo dục nhân cách sáng tạo, với tính cách l à một hình thái giáo dục xã hội, cần được xã hội hóa theo tinh thần đổi mới, định hướng xã hội chủ nghĩa và xu thế phát tri ển bền vững của thế giới ti ến bộ hiện nay. Tính đặc thù của xã hội hóa gi áo dục nhân cách sáng tạo l à ở chỗ: tạo ra m ột "phong trào" dư luận xã hội, ý thức xã hội và hành động xã hội đối với giáo dục nhân cách sáng tạo, từ phát hi ện, bồi dưỡng, khuyến khích đến sử dụng, khai thác, như một sự nghiệp và tài sản quốc gia, cùng với việc đưa đến cho nhân cách đó mọi điều ki ện cần thi ết về vật chất và tinh thần để hình thành và phát tri ển. Nhân cách sáng tạo l à một trong những nguồn động lực nội sinh tối ưu của phát tri ển con người và xã hội. Giáo dục nhân cách sáng tạo cũng chính l à con đường tạo dựng "thế hệ hiền tài" - "Hiền tài là nguy ên khí quốc gia" (Thân Nhân Trung). Một nền gi áo dục vì phát triển bền vững trong thời đại hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa cần xem việc gi áo dục nhân cách sáng tạo l à một nội dung quan trọng, một phương thức hiệu nghiệm, m ột thành tố thiết yếu để khẳng định gi á trị của m ình. Đó cũng l à một y êu cầu đối với giáo dục của m ột quốc gia trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay. Công cuộc đổi mới toàn diện, đẩy mạnh công nghi ệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng CNXH, thực hi ện thắng l ợi mục ti êu "dân gi àu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" đang đòi hỏi một nguồn lực sáng tạo m ới. Đó là những sáng tạo trong hoạt động sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, thương m ại, dịch vụ, nghiên cứu khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn, kỹ thuật, công nghệ, văn hóa thẩm m ỹ, văn học, nghệ thuật, quản lý xã hội và hành chính sự vụ, thậm chí trong cả sinh hoạt thường nhật, vui chơi, giải trí... Nâng cao dân trí, xây dựng xã hội học tập, đào tạo công dân tri thức, tạo l ập xã hội văn minh, văn hóa l à những ti ền đề trực tiếp cho "phong trào sáng tạo". Trên cơ sở này, nhà trường, giáo dục học đường, đang trở thành "trung tâm" và "hạt nhân" của việc đào tạo m ột "thế hệ sáng tạo" nhằm đáp ứng y êu cầu "tăng trưởng m ọi mặt" của dân tộc ta trong bối cảnh hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa hiện nay. Vì thế, xã hội, ngành gi áo dục, các cơ sở nghiên cứu khoa học, cần "Đào tạo, bồi dưỡng và phát huy m ọi tiềm năng của đội ngũ trí thức để tạo nguồn l ực trí tuệ và nhân tài cho đất nước", như cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH của Đảng đã xác định (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1991, tr.7). Quá trình phát tri ển bền vững, công cuộc đổi mới là một dòng chảy của tiến bộ hóa, nhân văn hóa con người và xã hội, trong đó phải đồng thời bảo đảm sự hài hòa, hoàn thiện m ối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng, giữa l ợi ích xã hội và lợi ích tự nhiên, giữa lợi ích trước m ắt và lợiích lâu dài, trên mẫu số chung l à sự song hành, thống nhất của sản xuất lợi ích (nền tảng. điều ki ện) và hưởng thụ lợi ích (mục tiêu, tác nhân). "Quá trình lợi ích" này luôn luôn ở trong "thế vận động" theo chi ều hướng ngày càng đa dạng và rộng mở hơn, sâu sắc và to lớn hơn, triệt để và hợp lý hơn. Điều đó đòi hỏi chủ thể, nhân cách sáng tạo, không ngừng "làm mới m ình", "sáng tạo lại m ình", nhằm "tái sáng tạo" những thành tựu mới, những hiệu quả mới đối với “ lợi ích". Đây cũng chính là nguồn động l ực chủ yếu, tất yếu và khách quan của sự phát tri ển bền vững cùng với lợi ích mà nó đem lại cho mỗi con người và toàn xã hội. Để "bắt kịp" các nước đi trước, ta không chỉ học hỏi, ti ếp nhận những thành tựu sáng tạo đang được ứng dụng ở các nước phát triển, mà điều chủ yếu hơn là, phải tự tìm l ấy con đường đi riêng cho sự sáng tạo do mình, vì mình, tức l à "của m ình". Chính con đường tự sáng tạo của m ỗi người, của m ọi tài năng và của toàn xã hội trong hoạt động thực tiễn là giải pháp hi ệu quả nhất và ít tốn kém nhất đối với sự phát tri ển bền vững của đất nước ta hi ện nay. X-(  :* 

Quan niệm về nhân cách ở Việt Nam 
Ở Việt Nam theo tác giả Nguyễn Ngọc Bích trong cuốn Tâm lý học nhân cách thì chưa có một định nghĩa nhân cách nào một cách chính thống. Song cách hiểu của người Việt Nam về nhân cách có thể theo các mặt sau đây:
1. Nhân cách được hiểu là con người có đức và tài hay là tính cách và năng lực hoặc là con người có các phẩm chất: Đức, trí, thể, mỹ, lao (lao động).
2. Nhân cách được hiểu như các phẩm chất và năng lực của con người
3. Nhân cách được hiểu như phẩm chất của con người mới: Làm chủ, yêu nước, tinh thần quốc tế vô sản, tinh thần lao động.
4. Nhân cách được hiểu như mặt đạo đức, giá trị làm người của con người. Theo cách hiểu này, tác giả Nguyễn Quan Uẩn trong cuốn tâm lý học đại cương (Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội) nêu lên định nghĩa nhân cách như sau:
Nhân cách là tổ hợp những đặc điểm, những thuộc tính tâm lý của cá nhân, biểu hiện bản sắc và giá trị xã hội của con người. Nhân cách là sự tổng hoà không phải các đặc điểm cá thể của con người mà chỉ là những đặc điểm quy định con người như là một thành viên của xã hội, nói lên bộ mặt tâm lý - xã hội, giá trị và cốt cách làm người của mỗi cá nhân.
Đây là định nghĩa về nhân cách được chấp nhận rộng rãi ở Việt Nam.

Trên đây là những quan điểm cơ bản của các trường phái tâm lý học về nhân cách. Nhìn chung quan điểm khác nhau về nhân cách xoay quanh bảy vấn đề, quan niệm như sau:
1. Quan điểm sinh vật hoá bản chất nhân cách. Nhân cách được coi là bản năng tình dục (S.Phơrơt) là đặc điểm hình thể (Krestchmer), siêu đẳng, bù trừ (Atle), vô thức tập thể (K.Jung) là các kiểu hoạt động thần kinh cấp cao (những người qúa tôn sùng học thuyết Paplôp). Thực chất của các quan điểm trên dù hình thức biểu hiện ở mỗi người có khác nhau, nhưng đều sinh vật hoá bản chất nhân cách, đều mang quan điểm duy tâm siêu hình.
2. Bản chất nhân cách là nhân tính con người đã được trường phái nhân văn nhấn mạnh. Đại diện của trường phái này là C.Rôgiơ, A.Matxlâu, G.Ônpooc…. Những người ở trường phái này đều quan tâm đến giá trị tiềm năng bẩm sinh của con người, đến những đặc tính riêng của mỗi người, kinh nghiệm của con người. A.Matxlâu cho rằng tính xã hội nằm trong bản năng con người. Những nhu cầu tiếp xúc, tình yêu, lòng kính trọng đều có tính chất bản năng, đặc trưng cho giống người. Nhân cách là động cơ tự điều hành (G. Ônpooc), là nhu cầu (A.Murây), là tương tác xã hội (G.H.Mít) là lo lắng (K.Hoocnây). Những quan điểm này đều đề cao tính chất tự nhiên sinh vật của con người, phủ nhận bản chất xã hội của nhân cách. Do đó cũng cũng rơi vào chủ nghĩa duy tâm.
3. Nhân cách được hiểu là toàn bộ mối quan hệ xã hội của cá nhân (Lucien Seve, Zeigarnit, Ogordnikov). Họ lấy các mối quan hệ xã hội của cá nhân như trong quan hệ gia đình, nhà trường, cơ quan công tác, nghề nghiệp, bạn bè… làm chuẩn để đánh giá nhân cách. Về thực chất, quan điểm này đã xã hội hoá nhân cách một cách giản đơn.
4. Nhân cách được hiểu đồng nghĩa với hai khái niệm con người. Platônôp cho rằng nhân cách là con người có ý thức, có lý trí và ngôn ngữ, là con người lao động. Loại quan điểm này nói về cái chung, cái đặc trưng nhất của con người mà không chú ý đến cái đặc thù, cái riêng của nhân cách.
5. Nhân cách được hiểu như cá nhân của con người với tư cách là chủ thể của mối quan hệ và hoạt động có ý thức (A.G.Kôvaliốp, I.X.Kon). Hiện nay quan điểm này được đa số các nhà tâm lý học xã hội chấp nhận, coi nhân cách là cá nhân là cá thể so với tập thể và xã hội.
6. Nhân cách được hiểu như là các thuộc tính nào đó tạo nên bản chất nhân cách như là các thuộc tính ổn định, các thuộc tính sinh vật hoặc thuộc tính xã hội. P.Buêva cho rằng nhân cách là con người với toàn bộ những phẩm chất xã hội của nó. Nhân cách là toàn bộ những đặc tính và những quy luật cá nhân (H.Hipsô, M.Phorvec), là tổng số những những đặc điểm cá nhân con người mà không người nào giống người nào (E.P.Hôlenđơ). Nhân cách là tâm thế (Uzơnatze) là thái độ (V.N.Miaxisev), là phương thức tồn tại của con người tong xã hội, trong điều kiện lịch sử cụ thể (L.I.Anxưphêrôva). Những quan điểm này chỉ chú ý đến cái đơn nhất trong nhân cách, chưa thể hiện tính toàn diện trong định nghĩa về nhân cách.
7. Nhân cách được hiểu như cấu trúc hệ thống tâm lý cá nhân. Trong hàng chục năm lại đây, nhiều nhà tâm lý học đều có xu hướng kiểu nhân cách là cấu trúc, hệ thống tâm lý (A.N.Lêônchiep, K. Obuchowxki). Nhân cách là cấu tạo tâm lý mới được hình thành trong mối quan hệ sống của cá nhân do kết quả hoạt động cải tạo của con người đó (A.N.Lêônchiep). Với quan niệm bản chất nhân cách là một hệ thống tổ chức K. Ôbuchôpxki đã định nghĩa như sau: “Nhân cách là sự tổ chức những thuộc tính tâm lý của con người có tính chất, điều kiện lịch sử xã hội, ý nghĩa của nó cho phép giải thích và dự đoán hành động cơ bản của con người”
Từ bảy quan niệm trên, chúng ta thấy rằng cho đến nay vẫn chưa có một trường phái nào giải quyết một cách thoả đáng, một cách toàn diện về vấn đề bản chất nhân cách. Vấn đề nhân cách vẫn luôn luôn là vấn đề nóng bỏng và hết sức quan trọng trong các khoa học về con người nói chung và tâm lý học nói riêng.

Nhân cách là đối tượng nghiên cứu của hệ thống các ngành khoa học về con người như: Triết học, xã hội học, Mĩ học, Văn học, Giáo dục học và Tâm lý học,…
Đứng trên góc độ Tâm lý học, nhân cách được làm sáng tỏ xung quanh những vấn đề như sau: Bản chất tâm lý của nhân cách, cấu trúc nhân cách, các con đường hình thành nhân cách.
I. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ NHÂN CÁCH:
1. Nhân cách là gì?
Để tìm hiểu khái niệm về nhân cách, chúng ta cần phân tích một số khái niệm gần nghĩa với nó như “con người”, “cá nhân”, “cá tính”.
* Khái niệm con người, cá nhân, cá tính và nhân cách.
Con người: Là thành viên của một cộng đồng, một xã hội, vừa là thực thể sinh vật (phần con), vừa là một thực thể xã hội (phần người).
Phần thực thể sinh vật: Con người là một tồn tại sinh vật nhưng ở mức độ cao nhất trong bậc thang tiến hóa sinh giới. Hoạt động của cơ thể con người, đứng về mặt sinh học, cũng tuân theo qui luật sinh lý (đồng hóa, tuần hóa, bài tiết,…)
Phần thực thể xã hội của con người khác xa về chất so với động vật: Con người luôn luôn chịu sự chi phối của các yêu tố xã hội chẳng hạn như: vỏ não con người có trung khu ngôn ngữ, điều mà động vật không thể có được. Bên cạnh đó, các giác quan của con người cũng chịu sự chi phối bởi yếu tố xã hội: tai của con người tuy không thính bằng tai của con dơi nhưng nhờ các yếu tố xã hội tác động mà tai con người trở nên tinh tế và nhạy cảm. Bản năng của con người cũng khác xa về chất so với bản năng của động vật, Karl Marx đã nhận xét như sau: cùng là đói nhưng cái đói của con người được thỏa mãn bằng các dụng cụ như dao, nĩa khác xa với cái đói của động vật được thỏa mãn bằng móng vuốt, bằng sự cào cấu cắn xé.
Vậy, đặc điểm thể chất của con người, đặc biệt là đặc điểm của bộ não, hệ thần kinh và các giác quan là cơ sở vật chất quan trọng của sự phát triển các chức năng tâm lý người. Phần thực thể xã hội là sản phẩm của các mối quan hệ xã hội.
Cá nhân: là khái niệm để chỉ một con người cụ thể trong cộng đồng, một thành viên xã hội. Cá nhân cũng là thực thể sinh vật, đồng thời là thực thể xã hội nhưng nó được xem xét một cách cụ thể với các đặc điểm riêng biệt tồn tại trong một con người cụ thể.
Cá tính: là khái niệm để chỉ cái đơn nhất, không lặp lại trong tâm lý (hoặc sinh lý) của một con người cụ thể.
Nhân cách: Nếu như khái niệm con người, cá nhân và cá tính đều đề cập đến mặt sinh vật và mặt xã hội trong con người thì khái niệm nhân cách đề cập đến mặt xã hội, giá trị tinh thần của cá nhân với tư cách là thành viên của một xã hội nhất định.
Có thể nêu lên một số khái niệm nhân cách như sau:
- “Nhân cách là một cá nhân có ý thức, chiếm một vị trí nhất định trong xã hội và đang thực hiện một vai trò xã hội nhất định” (A. G. Kovaliop).
- “Nhân cách là con người với tư cách là kẻ mang toàn bộ thuộc tính và phẩm chất tâm lý, qui định hình thức hoạt động và hành vi có ý nghĩa xã hội” (E.V. Sorokhova).
- “Nhân cách là tổ hợp những đặc điểm, những thuộc tính tâm lý của cá nhân, biểu hiện bản sắc và giá trị xã hội của con người” (Nguyễn Quang Uẩn).
2. Các đặc điểm cơ bản của nhân cách:
2.1. Tính thống nhất của nhân cách:
Nhân cách là một chỉnh thể thống nhất giữa cái chung và cái riêng, giữa phẩm chất và năng lực trong đời sống tinh thần của con người.
2.2. Tính ổn định của nhân cách:
Nhân cách là một tổ hợp các thuộc tính tâm lý tương đối bền vững, ổn định của cá nhân, những đặc điểm tâm lý mà thể hiện phẩm cách, giá trị đạo đức, giá trị xã hội của cá nhân đó. Các đặc điểm nhân cách tương đối khó hình thành và cũng khó mất đi. Trong thực tế, một số nét nhân cách có thể bị thay đổi do tác động biến đổi của môi trường hoàn cảnh, nhưng nhìn chung nhân cách vẫn là một cấu trúc trọn vẹn, tương đối ổn định. Nhân cách mang tính ổn định chứ không cố định, không bất biến. Có những nhân cách ngày càng hoàn thiện, cũng có những nhân cách ngày càng suy thoái. Không nên nhìn nhận, đánh giá nhân cách với cái nhìn bất biến.
2.3. Tính tích cực của nhân cách:
Nhân cách không chỉ là sản phẩm đơn thuần của môi trường hoàn cảnh, khi nhân cách được hình thành, đến lượt nó, trở thành chủ thể tích cực tác động vào môi trường hoàn cảnh xung quanh nhằm cải tạo môi trường.hoàn cảnh xung quanh. Hệ thống các nhu cầu của cá nhân của cộng đồng là động lực thúc đẩy nhân cách. Tính tích cực của nhân cách được thể hiện trong quá trình thỏa mãn các nhu cầu. Trong quá trình hoạt động, trong lao động con người luôn luôn tích cực tìm tòi, biến đổi và sáng tạo các đối tượng làm cho nó ngày càng phù hợp hơn với nhu cầu của bản thân. Ngoài ra con người còn tích cực tìm kiếm những cách thức, phương thức thỏa mãn các nhu cầu, con người làm chủ các hình thức hoạt động do sự phát triển xã hội qui định nên.
2.4. Tính giao lưu của nhân cách:
Nhân cách không bẩm sinh, không có sẵn mà dần dần được hình thành (nên thân người) trong quá trình sống. Trong môi trường xã hội, thông qua hoạt động và giao lưu nhân cách được hình thành, phát triển, tồn tại, được đánh giá và được đóng góp giá trị của mình cho xã hội.
3. Các kiểu phân loại cấu trúc nhân cách:
Những kiểu phân loại cấu trúc nhân cách:
 Kiểu 1:
Cấu trúc của nhân cách gồm 2 mặt thống nhất với nhau là ĐỨC – TÀI (phẩm chất – năng lực).
Mối quan hệ: tài và đức quyện với nhau tạo thành một nhân cách hoàn chỉnh, phát triển hài hòa. Trong đó đức là gốc là cốt lõi, tài là phương tiện biểu hiện.
 Kiểu 2:
Cấu trúc nhân cách gồm 3 mặt: Nhận thức – Tình cảm – Hành động ý chí.
 Kiểu 3:
Cấu trúc nhân cách gồm 5 mặt:
Đạo đức – Trí tuệ - Khả năng lao động – Thể lực – Khả năng thẩm mỹ.
 Kiểu 4:
Cấu trúc nhân cách gồm 4 nhóm:
Xu hướng
Tính cách
Năng lực
Khí chất
II. Cấu trúc tâm lý của nhân cách (theo kiểu 4)
2.1 Xu hướng của nhân cách
2.1.1 Định nghĩa
- Xu hướng là sự hướng tới một mục tiêu, một đối tượng nào đó.
- Xu hướng nhân cách là hệ thống động cơ thúc đẩy, quy định tính lựa chọn của các thái độ và tính tích cực của con người.
2.1.2 Vai trò
- Nó nói lên chiều hướng phát triển của nhân cách theo một mục tiêu nhất định.
- Xu hướng quy định nội dung giá trị đạo đức, giá trị xã hội của nhân cách.
2.1.3 Những mặt biểu hiện của xu hướng nhân cách
a. Nhu cầu
- Định nghĩa: Nhu cầu là những đòi hỏi tất yếu mà cá nhân cảm thấy cần được thỏa mãn để tồn tại và phát triển.
- Vai trò: thúc đẩy hoạt động của con người nhằm hướng tới một hoạt động nào đó.
- Đặc điểm:
• Nhu cầu có tính chu kỳ
• Nhu cầu có tính liên tục
- Phân loại: có thể chia nhu cầu thành 2 loại nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần. Theo Tháp nhu cầu của A. Maslow nhu cầu được phân chia như sau:

b. Hứng thú
- Định nghĩa: là thái độ có tính chất lựa chọn của cá nhân đối với đối tượng nào đó, vừa có ý nghĩa đối với cuộc sống, vừa có khả năng đem lại khoái cảm cho cá nhân trong quá trình hoạt động.
- Đặc điểm: chủ thể ý thức được rõ ràng ý nghĩa quan trọng của đối tượng đối với cuộc sống.
- Vai trò: nảy sinh khát vọng hành động, làm tăng hiệu quả nhận thức, làm tăng sức lực hoạt động.
c. Lý tưởng
- Định nghĩa: lý tưởng là mục tiêu cao đẹp, là hành vi mẫu mực tương đối hoàn chỉnh phù hợp với giá trị xã hội và có sức lôi cuốn toàn bộ cuộc sống của con người vươn tới.
- Vai trò:
• Lý tưởng là động cơ đặc biệt chủ yếu nhất, cơ bản nhất của nhân cách, động cơ mang tính xã hội và đạo đức cao nhất.
• Lý tưởng xác định mục tiêu, dự định và kế hoạch cho tương lai.
• Lý tưởng tạo ra nguồn năng lượng lớn lao cho hoạt động tích cực của xã hội, con người không ngừng phấn đấu vươn tới.
• Lý tưởng điều khiển, điều chỉnh sự phát triển của các nhân cách trong xã hội.
- Đặc điểm:
• Lý tưởng là biểu hiện của nhận thức sâu sắc. Chỉ có nhận thức sâu sắc mới có được hình ảnh lý tưởng.
• Trong lý tưỡng có biểu hiện của tình cảm mãnh liệt.
• Lý tưởng là động cơ mạnh mẽ nhất thúc đẩy con người hoạt động.
• Lý tưởng vừa mang tính hiện thực, vừa mang tính lãng mạn
d. Niềm tin
- Định nghĩa: là một phẩm chất của thế giới quan, niềm tin là sự gắn bó mật thiết của các quan điểm, tri thức với rung cảm, ý chí mà được con người thể nghiệm. Những quan điểm tri thức đó trở thành chân lý bền vững trong mỗi cá nhân.
- Vai trò: niềm tin tạo cho con người nghị lực, ý chí để hành động phù hợp với quan điểm đã chấp nhận
e. Thế giới quan
- Định nghĩa: là hệ thống những quan điểm, những tri thức về tự nhiên, xã hội và con người được hình thành trong quá trình lĩnh hội những kinh nghiệm lịch sử, xã hội và trong quá trình tạo ra những kinh nghiệm bản thân.
- Vai trò: xác định phương châm hành động, xu hướng đạo đức, chính trị và tư tưởng của con người. Thế giới quan nhất quán làm con người vững vàng trước cuộc sống. Thế giới quan mâu thuẫn làm con người hoang mang, dao động.
2.2 Tính cách
2.2.1 Định nghĩa
Tính cách là sự kết hợp độc đáo các đặc điểm tâm lý ổn định của cá nhân. Những đặc điểm tâm lý này quy định hành vi của cá nhân.
2.2.2 Đặc điểm
- Tính ổn định và tính linh hoạt
• Tính ổn định: những thái độ, hành vi ổn định, nhất quán trong mọi hoàn cảnh.
• Tính linh hoạt: tính cách mang tính ổn định nhưng không bất biến, nó luôn biến đổi trong mọi hoàn cảnh.
- Tính điển hình và độc đáo
• Tính điển hình: những người sống trong cùng một điều kiện xã hội, lịch sử đều có nét tính các điển hình, đặc trưng cho điều kiện xã hội, lịch sử đó.
• Tính độc đáo: tính cách mỗi người mỗi vẻ mang đặc điểm riêng biệt của người đó.
 Tính cách là sự kết hợp thống nhất biện chứng giữa cái điển hình và cái độc đáo.
2.2.3 Cấu trúc của tính cách
Tính cách là sự thống nhất biện chứng giữa hai mặt nội dung bên trong và hình thức bên ngoài.
Nội dung bên trong là hệ thống thái độ của cá nhân bao gồm:
- Thái độ đối với tự nhiên
- Thái độ đối với xã hội
- Thái độ đối với bản thân
Hình thức biểu hiện bên ngoài là hệ thống những hành vi, cử chỉ và cách nói năng của cá nhân.
Tính cách – đó là hệ thống thái độ đã được củng cố trong hệ thống hành vi quen thuộc. hệ thống thái độ và hệ thống hành vi trong tính cách không tách rời nhau, chúng có quan hệ thống nhất hữu cơ với nhau. hệ thống thái độ là mặt chủ đạo mang tính chất quyết định, hệ thống hành vi là mặt biểu hiện ra bên ngoài.
Ví dụ: “khẩu phật tâm xà”, “miệng nam mô, bụng bồ dao găm”…
2.3 Khí chất
2.3.1 Khí chất là gì?
Khí chất là sự biểu hiện về mặt cường độ, tốc độ và nhịp độ của các hoạt động tâm lý thể hiện sắc thái hành vi, cử chỉ và cách nói năng của cá nhân.
2.3.2 Các kiểu khí chất
Theo Hypocrates (460 – 356 TCN), ông chia loài người làm 4 loại tương ứng với 4 kiểu loại tính khí khác nhau. tùy theo chất nào chiếm ưu thế mà cá nhân có loại tính khí tương ứng.
Chất nước chiếm ưu thế Loại tính khí tương ứng
Máu (đặc tính nóng) Hăng hái
Nước nhờn (đặc tính lạnh) Bình thản
Mật vàng (đặc tính khô ráo) Nóng nảy
Mật đen (đặc tính ẩm ướt) Ưu tư
Học thuyết về hoạt động thần kinh cấp cao của I.P.Pavlov đề cập đến hai quá trình thần kinh cơ bản là hưng phấn và ức chế với ba thuộc tính cơ bản: cường độ, tính cân bằng, tính linh hoạt. Sự kết hợp khác nhau của ba thuộc tính này đã tạo nên ba kiểu thần kinh đặc trưng (thể hiện ở cả người và động vật): cường độ, cân bằng, linh hoạt. ba kiểu thần kinh này là cơ sở sinh lý của 4 kiểu khí chất như sau:
 Kiểu mạnh mẽ, cân bằng, linh hoạt: Khí chất “hăng hái”
 Kiểu mạnh mẽ, cân bằng, không linh hoạt: Khí chất “bình thản”
 Kiểu mạnh mẽ, không cân bằng: Khí chất “nóng nảy”
 Kiểu yếu: Khí chất “ưu tư”
2.3.3 Đặc điểm tâm lý của các khí chất
a. Khí chất hăng hái
- Ưu điểm: sôi nổi, hoạt bát, nhận thức nhanh, phản ứng nhanh, vui tính, cởi mở…
- Nhược điểm: thiếu sâu sắc, tình cảm dễ xuất hiện nhưng dễ tahy đổi, thiếu kiên định, hấp tấp, vội vàng, làm việc tùy hứng, dễ nản lòng…
b. Khí chất bình thản
- Ưu điểm: bình tĩnh, điềm đạm, tự chủ cao, biết kiềm chế những cơn rung động, tức giận…
- Nhược điểm: chậm thích nghi với hoàn cảnh mới, hay do dự, bỏ lỡ thời cơ…
c. Khí chất nóng nảy
- Ưu điểm: nhận thức nhanh, phản ứng nhanh, nóng nảy, bộc trực, mãnh liệt, thẳng thắn,…
- Nhược điểm: vội vàng, hấp tấp, tự chủ kém, liều mạng, thiếu tế nhị và tính tình thất thường, dễ trở nên thô lỗ, gay gắt…
d. Khí chất ưu tư
- Ưu điểm: nhạy cảm, hiền dịu, dễ thông cảm với mọi người xung quanh, tình cảm kín đáo, dè dặt, thận trọng và bền vững, hay mơ mộng, tưởng tượng.
- Nhược điểm: hay lo lắng, thiếu tự tin, nhút nhát, bi quan, chán nản, ủy mị, ít sôi nổi, ít cởi mở, khó làm quen trong giao tiếp.
2.4 Năng lực
2.4.1 Năng lực là gì?
Năng lực là tổ hợp những thuộc tính tâm lý của cá nhân phù hợp với những yêu cầu đặc trưng của một hoạt động, nhằm đảm bảo cho hoạt động đó đạt được kết quả cao.
2.4.2 Phân loại năng lực
a. Xét về trình độ phát triển, có 2 loại năng lực
- Năng lực tái tạo
- Năng lực sáng tạo
b. Xét về chức năng
- Năng lực chung
- Năng lực riêng
2.4.3 Các mức độ của năng lực
Năng lực được chia làm 3 mức độ cao thấp khác nhau:
- Năng lực
- Tài năng
- Thiên tài
2.4.4 Mối quan hệ giữa năng lực và tư chất giữa năng lực và thiên hướng, giữa năng lực và tri thức, kỹ năng, kỹ xảo
- Năng lực và tư chất
- Năng lực và thiên hướng
- Năng lực và tri thức, kỹ năng, kỹ xảo
III. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH
1. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách
a. Bẩm sinh di truyền
o Bẩm sinh di truyển là toàn bộ những đặc điểm sinh lý cơ thể (đặc biệt là đặc điểm của hệ thần kinh, não bộ và các giác quan) đã có ngay từ khi lọt lòng mẹ (bẩm sinh) hoặc được truyền lại từ thế hệ trước (di truyền).
o Vai trò của yếu tố bẩm sinh di truyền
 Là tiền đề vật chất, là cơ sở sinh lý của sự hình thành và phát triển nhân cách.
 Không quyết định nhân cách nhưng nó tạo điều kiện thuận lợi hay gây khó khăn cho quá trình hình thành và phát triển nhân cách.
 Ảnh hưởng của bẩm sinh di truyền tới nhân cách thông qua mối quan hệ xã hội.
b. Yếu tố môi trường
o Có 2 loại môi trường: môi trường tự nhiên và môi trường xã hội.
 Môi trường tự nhiên: bao gồm những điều kiện địa lý, khí hậu, đất đai… có ảnh hưởng gián tiếp đến tâm lý cá nhân thông qua quan hệ xã hội và phương thức hoạt động của họ.
 Môi trường xã hội: bao gồm nền văn hóa (văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần) của một dân tộc, một xã hội.
o Vai trò
 Là nội dung, là nguồn gốc của sự hình thành và phát triển nhân cách
 Môi trường xã hội không trực tiếp quyết định nhân cách theo kiểu “gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”, “ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”
 Ảnh hưởng của môi trường xã hội đối với nhân cách diễn ra theo hai con đường: tự phát và tự giác. Tác động tự giác của môi trường xã hội đối với sự hình thành và phát triển nhân cách còn được gọi là tác động giáo dục.
c. Giáo dục
o Giáo dục là một hiện tượng xã hội, là quá trình tác động có mục đích. Có kế hoạch, ảnh hưởng tự giác chủ động đến con người đưa đến sự hình thành và phát triển tâm lý, ý thức và nhân cách.
o Vai trò của giáo dục
 Giáo dục giữ vai trò chủ đạo đối với sự phát triển nhân cách vì nó hướng sự phát triển nhân cách theo một mục tiêu nhất định đáp ứng mục tiêu xã hội.
 Thông qua giáo dục, dạy học mà con người tiếp thu kinh nghiệm lịch sử xã hỗi do thế hệ đi trước truyền thụ lại.
 Phát huy tối đa những mặt mạnh của bẩm sinh di truyền hoặc có thể bù đắp những khiếm khuyết do yếu tố bẩm sinh đem lại. Giáo dục có khả năng uốn nắn nhựng phẩm chất xấu do môi trường đem lại.
d. Hoạt động tích cực của cá nhân
o Là sự tác động có mục đích, có ý thức của cá nhân vào hoàn cảnh nhằm cải tạo hoàn cảnh và cải tạo chính bản thân.
o Vai trò: đây chính là yếu tố quan trọng bậc nhất và mang tính chất quyết định đối với sự hình thành và phát triển nhân cách.
2. Con đường hình thành và phát triển nhân cách
o Hoạt động là hình thức tích cực nhất, là phương thức tồn tại của con người. Nhờ có hoạt động mà mối quan hệ của con người với thế giới xung quanh được thiết lập.
o Sự hình thành và phát triển nhân cách của con người diễn ra phụ thuộc vào các dạng hoạt động chủ đạo ở từng giai đoạn nhất định của lứa tuổi.
o Việc hình thành và phát triển nhân cách phải thông qua hoạt động (hướng tới đối tượng) và giao lưu (hướng tới mối quan hệ với con người). Thực tế cho thấy, nếu chỉ hình thành nhân cách bằng lời khuyên, bài giảng thì hiệu quả đem lại rất thấp.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Nguyễn Quang Uẩn, Trần Hữu Luyến, Trần Quốc Thành, Tâm lý học đại cương, NXBĐHQG Hà Nội, 1998.
- Trần Trọng Thủy, Bài tập thực hành Tâm lý học, NXBĐHQG Hà Nội, 2002.
- Lê Tuyết Ánh, Kim Thị Dung, Nguyễn Thị Thanh Hằng, Nguyễn Ánh Hồng, Tâm lý học đại cương, giáo trình ĐHKHXH&NV. Tp HCM, 2004.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: #hbk