Tiêu đề phần

Thần thoại Trung Hoa cho rằng Bàn Cổ là vị thần đầu tiên khai thiên lập địa, tạo ra trời đất sinh vật nhưng chưa tạo con người. Tiếp sau Bàn Cổ là các vị thần tạo ra loài người và cách sinh sống của loài người, được gọi là Tam Hoàng. Sau Tam Hoàng là truyền thuyết Ngũ Đế, những người lập ra nền tảng văn minh Trung Hoa, truyền giữ nhiều đời sau.

TAM HOÀNG
Thần thoại  về Tam Hoàng có nhiều thuyết, trong đó:
- Thuyết Thiên Hoàng (18000 năm) – Địa Hoàng (11000 năm) – Nhân Hoàng (45600 năm) là không tưởng, vì văn minh Trung hoa không thể nào dài đến thế.
- Các thuyết còn lại thì tùy từng thuyết, Tam Hoàng là nhóm 3 vị thần trong số các vị thần sau: PHỤC HY- NỮ OA – TOẠI NHÂN – THẦN NÔNG – HOÀNG ĐẾ - CHÚC DUNG – CỘNG CÔNG.
- Trong các vị thần trên thì CHÚC DUNG (thần lửa) và CỘNG CÔNG (thần nước) đều là người thường, sống thời Đế Khốc (ngũ Đế), sau thời Tam Hoàng rất nhiều đời. Hai vị này vì giỏi dùng nước và dùng lửa nên khi chết đi được người đời suy tôn là thần để thờ phụng. Nên thực tế 2 người này chẳng liên quan gì đến nguồn gốc tạo  ra Trung Hoa; 5 vị còn lại:
• PHỤC HY và NỮ OA: nặn ra loài người từ đất; dạy con người kết hôn, săn bắt, đánh cá; tạo các thuyết âm dương, ngũ hành, bát quái.
• TOẠI NHÂN: tạo ra lửa cho loài người dùng
• THẦN NÔNG: dạy dân làm ruộng, dạy chữa bệnh, dạy làm gốm
• HOÀNG ĐẾ: làm ra quần áo, nhà cửa, tạo lịch xem ngày tháng, thiết lập trật tự quốc gia
Thần Nông còn gọi là Viêm Đế, Hoàng Đế còn gọi là Hiên Viên, gọi tên gộp là Viêm Đế Thần Nông và Hiên Viên Hoàng Đế.

Thần thoại Tam Hoàng vẫn còn các mâu thuẫn sau:
1. Nói về Phục Hy và Nữ Oa thì lúc đầu chưa có con người, 2 vị thần này đốt lửa xin Bàn Cổ cho phép kết hôn, sau đó 2 vị mới nặn ra con người; tức là lửa có trước con người có sau. Nhưng nói vể Toại Nhân thì lại cho là ngược lại: Toại Nhân thấy con người sống thua kém cầm thú nên tạo ra lửa để con người dùng; tức người có trước lửa có sau.
2. Viêm Đế Thần Nông và Hiên Viên Hoàng Đế trong truyền thuyết thì đều là người, nhưng có 2 thuyết.
Thuyết thứ nhất cho rằng Viêm Đế và Hoàng Đế cùng thời, Hoàng Đế đánh thắng Xi Vưu (thủ lĩnh bộ tộc bên ngoài), sau đó đánh thắng cả Viêm Đế để cai quản toàn cõi Trung hoa.
Thuyết thứ hai thì cho rằng Viêm Đế cai quản Trung Hoa 5 đời thì con cháu Viêm Đế bị Hoàng Đế đánh đuổi phải chạy dạt về phía Nam vùng Hồ Nam – Hồ Bắc. Dòng họ Viêm Đế duy trì thêm 4-5 đời thì bị con cháu Hoàng Đế chiếm nốt vùng Hồ Nam – Hồ Bắc. Con cháu Hoàng Đế cai trị toàn cõi Trung Hoa.
Thuyết thứ hai thì hợp lý hơn vì: mọi truyền thuyết về Thần Nông đều ghi ông nghiên cứu về thuốc đến hơn trăm tuổi thì chết, nếu đánh nhau liên miên thì nghiên cứu được gì; con người biết trồng trọt, làm thuốc, làm gốm sau vài trăm năm biết may quần áo, làm nhà cửa, có lịch,.... thì cũng hợp lý.
3. Dù Viêm Đế cùng thời hay trước thời Hoàng Đế thì cuối cùng dòng họ Viêm Đế bị Hoàng Đế đánh đuổi và Hoàng Đế cai quản toàn Trung Hoa. Vua Trung Hoa tất cả các thời đều cho rằng mình là con cháu Hoàng Đế. Vậy tại sao vua Trung Hoa còn xưng mình là Thiên tử con trời, tức con Ngọc Hoàng Thượng Đế; mà Ngọc Hoàng Thượng Đế chỉ là người nhiều đời sau, tu tiên, đức lớn, được phong cai quản Thiên đình? Rốt cuộc Thiên tử là con Ngọc Hoàng hay con Hoàng Đế đây?

NGŨ ĐẾ:
Có thể chia các thuyết Ngũ Đế thành 2 nhóm:
Nhóm 1 cho rằng Ngũ Đế gồm Tam Hoàng và thêm 2 vị Đế khác thời nhau tạo thành 5 vị tượng trưng cho 5 ý nghĩa nào đó. Theo thuyết này thì Ngũ Đế gồm 5 trong số các vị: Phục Hy, Nữ Oa, Toại Nhân, Thần nông, Hoàng Đế, Thiếu Hạo, Chuyên Húc, Hữu Sào.
Nhóm 2 thì cho rằng Ngũ Đế là truyền ngôi từ Đế đầu cho đến Đế sau, những Đế nào công lớn thì ghi nhận là Ngũ Đế. Theo nhóm này thì Ngũ Đế gồm 5 trong 6 vị sau: Hoàng Đế - Thiếu Hạo – Chuyên Húc – Đế Khốc – Đế Nghiêu – Đế Thuấn. 6 vị này nếu xem Hoàng Đế là Đế đầu tiên thì Ngũ Đế không có Thiếu Hạo, nếu xem Hoàng Đế chỉ thuộc Tam Hoàng thì Ngũ Đế tính từ Thiếu Hạo về sau.

Ngũ Đế theo thuyết tượng trưng tại nhóm 1 thì không có ý nghĩa gì với nguồn gốc Trung Hoa. Cho nên chỉ xét Ngũ Đế theo thuyết truyền ngôi.
1. Hoàng Đế: giống như thuyết Tam Hoàng
2. Thiếu Hạo: con (đời 1) của Hoàng Đế (Hoàng Đế - Thiếu Hạo)
3. Chuyên Húc: cháu đời 2 của Hoàng Đế (Hoàng Đế – Xương Ý – Chuyên Húc)
4. Đế Khốc: cháu đời 3 của Hoàng Đế (Hoàng Đế - Huyền Hiêu – Đới Cực – Đế Khốc)
5. Đế Nghiêu: con Đế Khốc, cháu đời 4 của Hoàng Đế
6. Đế Thuấn: con rể Đế Nghiêu, cháu đời 8 của Hoàng Đế. Vậy là cháu đời 8 Hoàng Đế lấy cháu đời 5 Hoàng Đế (???)

Đế Thuấn truyền ngôi  Hạ Vũ lập ra triều Hạ, mà Hạ Vũ là cháu đời 4 của Hoàng Đế. Vậy là cháu đời 8 truyền ngôi cho cháu đời 4 (???)

Thử lý giải việc cháu đời 8 kết hôn cháu đời 5, việc cháu đời 8 truyền ngôi cho cháu đời 4 xem sao:
- Hoàng Đế /Huyền Hiêu /Đới Cực /Đế Khốc /Đế Nghiêu /Nga Hoàng và Nữ Anh
- Hoàng Đế /Xương Ý /Chuyên Húc /Cùng Thiền /Kinh Khang /Câu Vọng /Kiều Ngưu /Cổ Tẩu /Đế Thuấn
- Hoàng Đế /Xương Ý /Chuyên Húc /Cổn /Hạ Vũ

- Huyền Hiêu là anh ruột của Xương Ý. Nếu con cháu Xương ý cứ khoảng 20 năm sinh 1 đời, con cháu Huyền Hiêu khoảng 40 năm sinh 1 đời thì Đế Thuấn với Nga Hoàng và Nữ Anh hoàn toàn có thể cùng lứa tuổi nhau. Cháu đời 8 lấy cháu đời 5 là có thể.

- Cùng Thiền là anh ruột của Cổn, lý thuyết có thể chênh nhau tối đa khoảng 40 tuổi. Từ Cùng Thiền đến lúc sinh Đế Thuấn ngót nghét 100 năm; trong khi từ Cùng Thiền đến lúc sinh Cổn kịch trần khoảng 40 năm, từ Cổn sinh Hạ Vũ kịch trần cũng khoảng 40-50 năm. Tính kiểu gì thì Hạ Vũ cũng phải sinh trước Đế Thuấn, không có chuyện Thuấn thọ hơn 100 tuổi rồi mới truyền ngôi cho Vũ được.

TRUNG HOA  - TRUNG QUỐC

- Về lãnh thổ: Trung Hoa khởi thủy tại lưu vực Hoàng Hà. Khi Hoàng Đế đánh dòng họ Viêm Đế thì con cháu Viêm Đế chạy về phía Nam, xuống lưu vực sông Trường Giang, vùng Hồ Bắc - 1 phần Hồ Nam. Sau đó, con cháu Hoàng Đế chiếm nốt vùng này. Lãnh thổ Trung Hoa tập trung 2 lưu vực sông này, tương đối ổn định từ thời Hạ Vũ đến hết thời Xuân Thu – Chiến Quốc, mở rộng không đáng kể bằng cách thuần phục các bộ tộc xung quanh. Theo bản đồ thời chiến Quốc thì Trung Hoa cực Tây là Cam Túc - Thiểm Tây (Chiến quốc thuộc Tần), cực Đông là Sơn Đông (Chiến Quốc thuộc Tề), cực Nam đến Hồ Nam (Chiến Quốc thuộc Sở), cực Bắc là Hà Bắc – Liêu Ninh (Chiến Quốc thuộc Yên), dĩ nhiên biên giới xưa không rõ như các địa danh ngày nay, và lãnh thổ thời Hạ-Thương thậm chí còn nhỏ hơn nữa. Tất cả các vùng bên ngoài Trung Hoa cổ đại đều không phải nước Trung Hoa, ngày nay là các vùng: Hắc Long Giang, Cát Lâm, Nội Mông, Ninh Hạ, Tân Cương, Tây Tạng, Thanh Hải, Tứ Xuyên, Vân Nam, Quý Châu, Quảng Tây, Quảng Đông, Giang Tây, Phúc Kiến, Hải Nam. Các vùng này ngày xưa bị gọi chung là: Đông Di, Bắc Địch, Tây Nhung, Nam Man, Man Di Mọi Rợ, không phải Trung Hoa.

- Về Đế Vương: Đến thời Hạ - Thương – Chu thì người đứng đầu chỉ xưng Vương, dưới Vương là các Hầu, Bá; đều là các vua cai quản các vùng đất khác nhau.Tất cả các vua đều là dòng dõi Hoàng Đế: các vua thời Hạ thường là cháu đời 6-7 của Hoàng Đế dòng Xương Ý/ Chuyên Húc/...; các vua thời Thương là con cháu dòng Huyền Hiêu/Đới Cực/ Đế Khốc/....; vua thời Chu cũng dòng của Đế Khốc. Mãi đến thời Xuân Thu thì Tần và Tấn vẫn nhận là dòng dõi Chuyên Húc/Cùng Thiền/....; Sở nhận mình dòng Chuyên Húc/Xứng/...., nước Việt nhận là con cháu dòng Hạ Vũ, nước Trần dòng Đế Thuấn,.... Các nước dù đánh giết nhau thế nào cũng vẫn xem nhau là họ hàng anh em.

- Kết thúc dòng Ngũ Đế: Thống nhất Trung Hoa, Tần vẫn dòng dõi Hiên Viên Hoàng Đế. Sở phạt Tần, Sở Hoài Vương vẫn dòng Hoàng Đế. Hạng Vũ giết Sở Hoài Vương thì hậu duệ Hiên Viên Hoàng Đế không còn ai làm Đế Vương nữa. Hán tổ Lưu Bang diệt Hạng Vũ lập ra triều đại Hán.

- Mở rộng lãnh thổ: Tư tưởng bành trướng phát triển mạnh từ thời Chiến quốc . Chỉ Trung Hoa cổ đại mới là dân tộc Hoa, còn tất cả các vùng mở rộng vốn là của các dân tộc khác, đến giờ người bản địa vẫn dùng ngôn ngữ riêng. Các vùng đất ngày nay có được nhờ mở rộng lãnh thổ (vùng từng chiếm rồi mất thì không kể tại đây):
1. Trước thời Hán: thời Chiến quốc, Tần chiếm đất Tứ Xuyên (nước Thục- Ba), Sở chiếm hết Hồ Nam và Bắc Giang Tây.  Tần thống nhất tiếp tục chiếm hết Giang Tây.
2. Thời Hán, chiếm được các vùng Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây, đảo Hải Nam (nước Nam Việt)
3. Thời Nguyên, chiếm được Vân Nam, Quý Châu (nước Đại Lý), Ninh Hạ (nước Tây Hạ), Thanh Hải.
4. Thời Thanh, sáp nhập Hắc Long Giang và Cát Lâm; chiếm Nội Mông, Tân Cương.
5. 1950, Trung Quốc chiếm Tây Tạng.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: