CHUYÊN ĐỀ THƠ 2

Đề bài 15: Nhà thơ William Wordsworth (1770 – 1850) nói “Thơ là sự biểu lộ của tình cảm mãnh liệt”
Bằng hiểu biết của mình, anh (chị) hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
Yêu cầu cần đạt
a. Nội dung quan điểm
- Thơ: là hình thái văn học đầu tiên của loài người, phản ánh cuộc sống, thể hiện những tâm trạng cảm xúc mạnh mẽ bằng ngôn ngữ hàm súc, giàu hình ảnh và nhất là có nhạc điệu
- Biểu lộ: Biểu hiện ra dưới một hình thức nhất định
-> Tóm lại: Đặc trưng cơ bản của thơ: Giàu cảm xúc - cảm xúc mãnh liệt
b. Cơ sở của quan niệm
       Xuất phát từ hiểu biết về đặc trưng của thơ ca.
       Thơ ca là sự thổ lộ tình cảm mãnh liệt đã được ý thức. Tính trữ tình là đặc trưng nổi bật nhất của thơ. Đối tượng của thơ là hứng thú tinh thần. Bản chất của thơ là trữ tình, tình cảm là điều kiện hàng đầu
         Nhiệm vụ của thơ là gợi lên cho nhận thức thấy sức mạnh của cuộc sống tinh thần và tất cả những gì lay động tâm hồn con người
          Tình cảm trong thơ không phải là tình cảm bản năng, trực tiếp mà là tình cảm được ý thức, thăng hoa, được lắng đọng . Tình cảm trong thơ là tình cảm lớn, đẹp, cao thượng thấm nhuần bản chất nhân văn, chính nghĩa, thông qua tình cảm đó nói lên tình cảm cảm dân tộc, gắn với đời sống nhân dân
- Như vậy tình cảm mãnh liệt có vai trò là điều kiện đầu tiên, khai sinh cho thơ ca và quyết định sự trường thọ hay đoản thọ của nó.
- Học sinh tìm dẫn chứng minh họa cho ý kiến trên.
c. Ý nghĩa của quan niệm
- Với người sáng tác: là điều kiện đầu tiên cho sáng tạo nghệ thuật của người nghệ sĩ vì “thiếu tình cảm thì có thể trở thành người thợ làm những câu có vần chứ không làm được nhà thơ.” Jose Marty – Cuba
     Cảm xúc mãnh liệt có vai trò khơi nguồn sáng tạo cho người nghệ sỹ “Trong lúc làm thơ, nếu tôi cảm thấy những nhịp đập quen thuộc của con tim, tôi tin chắc rằng: câu thơ sẽ thuộc loại hay nhất mà tôi có thể đạt tới nổi” (A.Muyse)
  -> Từ đó, gợi mở cho người nghệ sĩ phải tích luỹ vốn sống, nuôi dưỡng cảm xúc để tìm được nguồn cảm hứng sáng tạo.
-  Với người tiếp nhận:
     Giúp cho người tiếp nhận định hướng đánh giá giá trị của thơ ca qua cách biểu hiện cảm xúc của người viết.
     Là cơ sở đánh giá thơ hay
Đề bài 16:   …Thơ của tôi là cánh cửa
                    Không cho ai mở dễ dàng
                    Thơ của tôi là hợp chất được làm
                   Từ tức giận, tình yêu và xấu hổ…
                   Là tất cả, thơ ơi chỉ trừ không là vô nghĩa.
                                       (Raxun Gamatôp – Nhà thơ Liên Xô cũ)
          Bạn hiểu ý thơ trên như thế nào ? Hãy làm sáng tỏ ý thơ trên qua việc phân tích ba thi phẩm Đây mùa thu tới (Xuân Diệu), Tương tư (Nguyễn Bính), Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mạc Tử).
Yêu cầu cần đạt
a. Giải thích ý thơ
     - Đây là một quan niệm về thơ đích đáng, được phát biểu bằng thơ của một nhà thơ.  Thơ là nghệ thuật ngôn từ tinh tế, phức tạp (là cánh cửa- Không thể mở dễ dàng).  Hình thức thơ  thể hiện những cung bậc cảm xúc đa dạng phong phú, tấc lòng, tư tưởng tình cảm mà thi sĩ kí thác, gửi gắm tới độc giả, thơ chính là tình đời tình người ngân lên trong những âm vang ngôn ngữ, kết cấu hình ảnh giọng điệu, nhịp điệu… không có ai chỉ nhai văn nhá chữ, chỉ chú trọng kĩ xảo ngôn từ mà thành nhà thơ(…là tất cả,…chỉ trừ không là vô nghĩa). Nhà thơ đã nói được những đặc trưng cơ bản nhất của thơ trong quan hệ giữa tác giả và tác phẩm, tác phẩm trong quan hệ nội tại của nó, tác phẩm trong mối quan hệ với người đọc, với hiện thực đời sống trong một đoạn thơ ngắn. Muốn hiểu được thơ không chỉ cần nắm đặc trưng thể loại, kiến thức về tác giả, thời đại sản sinh ra nó… mà phải có tầm đón nhận phù hợp… tức phải có những chìa khóa, cách giải mã phù hợp trước những cánh cửa thơ không hề dễ mở để được đắm mình trong thế giới thơ.
b.  Mở cánh cửa để vào thế giới nghệ thuật của ba thi phẩm:
     -  Đây mùa thu tới của Xuân Diệu nhà thơ mới nhất trong những nhà thơ mới. Đây là thi phẩm của thi sĩ mang nỗi ám ảnh thời gian của cái tôi cá nhân thời hiện đại.Tứ thơ làm hiện hình bước đi của thời gian đáp xuống xứ Bắc Việt . Nó đáp xuống rặng liễu, khu vườn, nhánh cây, trong từng tế bào lá, cánh chim, rặng núi, dòng sông, vầng trăng và cuối cùng ngấm vào lòng thiếu nữ. Đó là cách cảm nhận thời gian tuyến tính một chiều khác hẳn cách cảm nhận tời gian trong thi ca trung đại phương Đông. Mạch cảm hứng của bài thơ vừa có nỗi buồn thu và niềm vui thu tới tạo thành cái bâng khuâng, sự rùng mình của một linh hồn trước sự gõ nhịp của thời gian .Buồn vì sao? Vui vì sao?. Sự mới mẻ của cảm xúc được thể hiện qua tài hoa của câu chữ mang dấu ấn Xuân Diệu,  phép tương giao trong thơ tượng trưng pháp được thể hiện nhuần nhuyễn…
   - Đây thôn Vĩ Dạ lại là thế giới nghệ thuật của hồn thơ lạ nhất trong các nhà thơ mới. Đó là hồn thơ có cội nguồn Đau Thương và hiện ra dưới hình thơ Thơ Điên, là lời tỏ tình của một tình yêu đời đến đau thương, tuyệt vọng. Càng tuyệt vọng thấy đời càng đẹp, Đời càng đẹp lại càng tuyệt vọng và càng yêu thương lưu luyến níu đời. Mạch tơ cóc nhảy, bất định, ba câu hỏi mà câu hỏi ở khổ cuối như là sự trả lời cho câu hỏi ở khổ đầu.  Cái tôi phân tán li hợp bất định, có sự đối lập giữa không gian ở đây và ngoài kia… Tất cả hiện ra trong những câu chữ mang đậm dấu ấn tài hoa, tâm huyết của người đứng đầu trường thơ Loạn Bình Định, một hồn thơ đã bước lãnh địa của thơ siêu thực …
  - Tương tư lại là thi phẩm của hồn thơ chân quê nhât trong những nhà thơ mới. Có một không gian, thời gian, tâm trạng tương tư… của cái tôi mang mặc cảm lỡ làng dang dở, cái tôi của những mối tương tư một chiều được thể hiện trong  giọng điệu, câu chữ, hình ảnh, cách cảm nghĩ… và thể lục bát chân quê….
  + Đến với mỗi bài thơ, mỗi tác giả cần có những chìa khóa hữu hiệu để mở vào thế giới nghệ thuật  của nó. Những chiếc chìa khóa về kiến thức văn học, văn hóa, sự từng trải và nghiệm sinh cuộc sống… nhưng không thể thiếu năng lực cảm thụ, trực cảm nghệ thuật của người tiếp nhận thơ.

Đề bài 19: Bàn về ngôn ngữ trong thơ, Nguyễn Đình Thi viết:
“Điều kì diệu của thơ là mỗi tiếng, mỗi chữ, ngoài cái nghĩa của nó, ngoài công dụng gọi tên sự vật, bỗng tự phá tung mở rộng ra, gọi đến xung quanh nó những cảm xúc, những hình ảnh không ngờ, tỏa ra xung quanh nó một vùng ánh sáng động đậy. Sức mạnh nhất của câu thơ là ở sức gợi ấy.”
                   (Mấy ý nghĩ về thơ, Ngữ văn 12 Nâng cao, tập 1, tr. 52, NXBGD, 2008)
Qua bài thơ Sóng (Xuân Quỳnh) và Đàn ghi ta của Lor-ca (Thanh Thảo), anh/chị hãy làm sáng tỏ nhận xét trên.
1. Nêu vấn đề cần nghị luận.                 
2. Hiểu ý kiến của Nguyễn Đình Thi:                                                            
- Ngôn ngữ thơ (chữ và nghĩa trong thơ) vừa có nghĩa do bản thân câu chữ mang lại (nghĩa của nó, nghĩa gọi tên) vừa có nghĩa do câu chữ gợi ra (cảm xúc, hình ảnh, vùng ánh sáng lay động, sức gợi).
- Khẳng định: Sức mạnh nhất của thơ là sức gợi ấy.
         => Bằng cách diễn đạt hình ảnh rất cụ thể và sinh động, Nguyễn Đình Thi đã nhấn mạnh và làm nổi bật một đặc trưng bản chất của thơ ca: ngôn ngữ trong thơ, vấn đề chữ và nghĩa. Tác giả vừa khẳng định vừa cắt nghĩa, lí giải sức mạnh của thơ nằm ở sức gợi.

3. Chứng minh                                                                          7,0 điểm
Học sinh phải chỉ ra và phân tích được đặc điểm ngôn ngữ thơ trong hai bài thơ Sóng (Xuân Quỳnh) và Đàn ghi ta của Lor-ca (Thanh Thảo). Không nhất thiết phải phân tích cả bài mà có thể lựa chọn những câu thơ, đoạn thơ tiêu biểu để làm sáng tỏ vấn đề.
a. Bài thơ Sóng:                                                        3,5 điểm
- Về chữ: ngôn ngữ dung dị mà chọn lọc tinh tế, gợi cảm, hàm súc, giàu tính ẩn dụ.
- Về nghĩa:
+ Nghĩa câu chữ: con sóng thực và các đặc tính của nó (dữ dội, dịu êm, trên mặt nước, dưới lòng sâu…)
+ Nghĩa mà sóng gợi ra (hình ảnh, cảm xúc…): những cung bậc tâm trạng người con gái trong tình yêu, những khát vọng hạnh phúc đời thường và khao khát tự hoàn thiện bản thân.
=> Ngôn ngữ thơ Xuân Quỳnh dung dị mà có sức gợi sâu xa từ hình ảnh thực mà liên tưởng đến tâm trạng người con gái trong tình yêu, khát vọng bất tử hóa, tự hoàn thiện bản thân để hướng tới những giá trị đích thực của cuộc sống. Chính sức gợi này đã tạo nên sức sống cho bài thơ.
b. Đàn ghi ta của Lor-ca:        3,5 điểm
- Về chữ: lối thơ tự do, ngôn từ thơ giàu màu sắc tượng trưng siêu thực, giàu nhạc tính, mô hình mở giải phóng cảm xúc và tưởng tượng...                                               
- Về nghĩa:
+ Hình tượng Lor-ca và những giai điệu, cung bậc của tiếng đàn ghi ta.
+ Nỗi đau xót trước cái chết đầy bi phẫn của Lor-ca, niềm trân trọng, đồng cảm của Thanh Thảo trước nhân cách cao thượng và vẻ đẹp tâm hồn Lor-ca…
=> Ngôn ngữ thơ có nhiều đổi mới, giàu tượng trưng thiên về gợi, không coi trọng tả thực, mỗi từ ngữ, hình ảnh, câu thơ đều có độ mở cho phép tiếp nhận dân chủ, sáng tạo. Sức gợi của ngôn ngữ thơ tạo ra mạch ngầm đa nghĩa cho tác phẩm.
4. Đánh giá chung                             1,0 điểm
- Về ý nghĩa của vấn đề: ý kiến của Nguyễn Đình Thi về một trong những đặc trưng bản chất của thơ không chỉ có tác dụng nhất thời mà ngày nay vẫn còn nguyên giá trị bởi ý nghĩa thời sự, tính chất khoa học đúng đắn.
+ Đối với người sáng tác: định hướng cho sự sáng tạo, làm thơ phải biết lựa chọn ngôn ngữ hàm súc, giàu sức gợi, có sức hấp dẫn, lôi cuốn...
+ Đối với người thưởng thức: định hướng tiếp nhận, đọc thơ không chỉ hiểu nghĩa câu chữ mà phải dựng dậy lớp nghĩa được gợi ra từ câu chữ.
- Về bài thơ Sóng và Đàn ghi ta của Lor-ca.





Câu 2 (12 điểm).
          Mỗi bài thơ hay là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo, có khả năng làm sống dậy trong lòng người đọc những liên tưởng phong phú.
          Cảm nhận của anh/chị về một bài thơ như thế.
1.Giải thích:
          - Bài thơ hay là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo: mới mẻ về nội dung, đặc sắc về nghệ thuật.
          - Có khả năng làm sống dậy trong lòng người đọc những liên tưởng phong phú: gợi nhắc các tác phẩm văn học nghệ thuật khác, đánh thức những rung động trong lòng người ...
2. Cảm nhận về một bài thơ như thế:
          Học sinh có thể chọn một bài thơ theo cảm nhận riêng của mình, miễn là:
          - Bài viết chỉ ra và phân tích được những đặc sắc trong nghệ thuật sử dụng ngôn từ, sáng tạo hình ảnh, nhịp điệu, xây dựng hình tượng,... để làm nổi bật cảm xúc của chủ thể trữ tình.
          - Từ cảm nhận về bài thơ, người viết có được những liên tưởng đa chiều hướng đến những lời thơ, câu văn đẹp khác có nét gần gũi về đề tài, chủ đề, bút pháp...; gợi những cảm xúc sâu lắng trước vẻ đẹp muôn màu của cuộc sống...
3. Đánh giá:
          - Đóng góp của bài thơ về nội dung và nghệ thuật.
          - Người đọc cần có ý thức bồi dưỡng tâm hồn, trau dồi kĩ năng, tích lũy kiến thức để phát huy khả năng liên tưởng trong quá trình cảm nhận tác phẩm văn học.

Đề bài 14: Bàn về thơ, Xuân Diệu cho rằng:
          “Thơ phải xuất phát từ thực tại, từ đời sống, nhưng phải đi qua một tâm hồn, một trí tuệ; và khi đi qua như vậy, tâm hồn, trí tuệ ấy phải in dấu vào đó càng sâu sắc, càng cá thể, càng độc đáo, càng hay.”  (Xuân Diệu, Toàn tập, Tập 5, Nxb Văn học, Hà Nội, 2001, tr 36)
           Anh (chị) hiểu nhận định trên như thế nào?
           Bằng việc phân tích một số tác phẩm đã học trong chương trình Ngữ văn 11,  hãy làm sáng tỏ vấn đề.

ĐỀ BÀI 
      Trong cuốn Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ, thi sĩ Xuân Diệu đã khẳng định:
 
       “Sáng tác thơ là một việc do cá nhân thi sĩ làm, một thứ sản xuất đặc biệt và cá thể. Anh phải đi sâu vào tâm hồn cá biệt của anh để nói cái to tát của xã hội, cái tốt đẹp của chế độ, để tránh cái khô khan nhạt nhẽo, anh phải có cái cá tính, anh phải trau dồi cái độc đáo mà công chúng rất đòi hỏi. Nhưng đồng thời anh phải đấu tranh để cái việc tự sáng tạo ấy không trở thành anh hùng chủ nghĩa”.
(NXB Văn học, Hà Nội, 1961, trang 8)
BÀI LÀM 
       Tâm hồn con người cả một thế giới phong phú. Thơ là sản phẩm của tâm hồn, nên nó mang lắm điều kì diệu. Sáng tác thơ là một công việc đặc biệt. Ở mỗi bài thơ, vai trò cá nhân người thi sĩ rất lớn. làm thơ, đòi hỏi nhà thơ phải xác định cho được cái tôi của mình. Điều này đã được nhiều nhà thơ khẳng định. Chính Xuân Diệu trong cuốn Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ đã nhấn mạnh:
 
       “Sáng tác thơ là một việc do cá nhân thi sĩ làm, một thứ sản xuất đặc biệt và cá thể. Anh phải đi sâu vào tâm hồn cá biệt của anh để nói cái to tát của xã hội, cái tốt đẹp của chế độ, để tránh cái khô khan, nhạt nhẽo, anh phải có cá tính, anh phải trau dồi cái độc đáo mà công chúng rất đòi hỏi. Nhưng đồng thời, anh phải đấu tranh để cái việc tự sáng tạo ấy không trở thành anh hùng chủ nghĩa”.
 
       Trong cuộc sống, không phải ai cũng làm được thơ mặc dù trong  mỗi con người mà tạo hoá sinh ra đều có chất thi sĩ. Làm thơ đã khó, làm thơ hay lại càng khó hơn. Ngay ở những nhà thơ lớn, không phải bài nào cũng hay. Bởi thơ là một sáng tạo rất “đặc biệt”, rất “cá thể”.
 
       Thơ là sản phẩm của tâm hồn. Nói cho cụ thể hơn, thơ là con đẻ  của “những trạng thái tâm hồn”. Ngay điều đó so với quá trình tạo ra các sản phẩm khác, nó đã đặc biệt lắm rồi. Mỗi tâm hồn là một vương quốc riêng, đầy bí ẩn, tuy giữa những tâm hồn có những làn sóng giao thoa nhau. Chính vì thế nên thơ không  thể là sự “cộng tác” của những tâm hồn, cho dù là “những tâm hồn đồng điều”. Nó là  “một việc do cá nhân thi sĩ làm”. Có thể trong  một phút  rung động, một trạng thái khác thường, tràn đầy cảm xúc của thi sĩ, thế là thơ ca ra đời. Phút rung động ấy ở nhà thơ này không giống nhà thơ khác, nếu nhà thơ để giây  phút ấy qua đi, thì khó có thể tìm thấy nó ở những thời điểm khác. Trong lĩnh vực văn học nghệ thuật nói chung và thơ ca nói riêng, cá nhân người nghệ sĩ có vai trò quyết định. Một tác phẩm xuất sắc là kết quả sáng tạo của một thi sĩ, ra đời trong một hoàn cảnh lịch sử nhất định, không có sự trùng lặp. Điều đó giúp chúng ta cắt nghĩa tại sao cho đến bây giờ chế độ tốt đẹp của chúng ta vẫn chưa sản sinh ra được một Nguyễn Du, một Truyện Kiều. Làm thơ là cả một quá trình lao động nghệ thuật nặng nhọc và lâu bền. Nhưng theo tôi, đấy cũng chỉ là một trong những yếu tố tạo nên “sức nặng” cho bài thơ. Điều quan trọng hơn có lẽ phải kể đến tài năng cá nhân, đôi khi do bẩm sinh, của người nghệ sĩ. Bông hồng vàng của Pauxtôpxki có cái lóng lánh sắc vàng cảu những vảy vàng góp nhặt bằng bàn tay lao động, bằng sự miệt mài, bằng nghị lực phi thường, Nhưng thật là thiếu sót, nếu chúng ta sàng sẩy. Tôi nghĩ, chính cái khác biệt, cái riêng lẻ là phần tạo nên giá trị của Bông hồng vàng, làm cho chúng ta luôn nhớ tới Pauxtôpxki.
 
       Sáng tác thơ là một thứ sản xuất đặc biệt và “cá thể”. Đặc biệt và cá thể đến mức mỗi sáng tác là một sự tồn tại duy nhất. Đó là tính đơn nhất của nghệ thuật. Đó cũng  là một quy luật hết sức nghiệt ngã  trong sáng tác nghệ thuật. Không đảm bảo  quy luật đó, bài thơ sẽ chẳng để lại trong trái tim người đọc một điều gì, do đó đương nhiên nhà thơ nhanh chóng bị lãng quên. Có nhiều bài thơ cùng viết về một đề tài, có khi trùng hợp trong một đề tài hẹp. Thế nhưng chúng vẫn có thể hiển diện ở trong các tuyển tập, không bị quy luật khắc nghiệt nói trên đào thải, nếu như mỗi thi sĩ có một cách riêng, đảm bảo được tính đơn giản nhất cho tác phẩm của mình.
       “Sáng tác thơ là một việc do cá nhân thi sĩ làm”-đó là một sự hiển nhiên. Sự hiển nhiên ấy đòi hỏi người làm thơ phải để lại ở mỗi bài thơ, mỗi tập thơ dấu ấn riêng biệt của mình.
       Trong tác phẩm nghệ thuật nói chung và nhất là trong bài thơ ca nói riêng, dấu ấn cá nhân được thể hiện trên nhiều phương tiện. Nó có thể được người đọc nhận thấy ở cả nội dung lẫn hình thức, ở trong cách cảm, cách nghĩ,…của nhà thơ. Theo tôi, người đọc luôn tìm ở nhà thơ những quan điểm riêng trước cuộc sống, tìm ở nhà thơ một cách nói mới mẻ, độc đáo,…
       Con người và cuộc sống từ ngàn xưa đã là đối tượng phản ánh của thơ ca. Nhưng cuộc sống và con người trong thơ ca là cuộc sống và con người được phản ánh qua một lăng kính rất cụ thể, rất cá biệt-đấy là tâm hồn, tư tưởng, tình cảm, …của người nghệ sĩ. Nếu như các ngành khoa học tự nhiên loại trừ các yếu tố cá biệt để xác lập tính quy luật có giá trị phổ quát, thì văn học nghệ thuật, trong đó có thơ ca, lại chỉ có thể tồn tại trong cuộc đời khi có dấu ấn của sự cá biệt. Trong mỗi một bài thơ hay, người đọc đầu tìm thấy một tấm lòng, một nỗi niềm, một ước vọng, một khao khát riêng tư,…
       Nhưng thơ không chỉ nói cái gì riêng của nhà thơ, mà phải thông qua cái riêng ấy để nói lên những lo toan chung, sướng khổ chung của cuộc sống và của mọi người, của mọi thế hệ. Đọc Truyện Kiều, nhiều thế hệ tìm thấy nét rất riêng của cụ Nguyễn Tiên Điền, đồng  thời cũng tiếp nhận được một điều gì đó gần gũi, hữu ích cho mình, cho cuộc sống hôm nay. Đúng nhà thơ “phải đi sâu vào tâm hồn cá biệt” của mình “để nói cái to tát  của xã hội”, “cái tốt đẹp của chế độ”, nhà thơ phải tạo ra được những tâm trạng điển hình. Đó là một đòi hỏi, một phẩm chất của thơ ca.   
  Có nhà thơ đã nói: “Thơ chỉ bật ra khi trong tim ta cuộc sống đã tràn đầy”. Chất liệu cuộc sống trên đường thâm nhập vào tác phẩm  đã mang theo bao nỗi niềm của người sáng tạo. và khi bài thơ trở lại với cuộc đời, nó đã in dấu “tâm hồn cá biệt” của nhà  thơ. Thật chí lí khi một nhà thơ nước ngoài nói đại ý : Thế giới nứt làm đôi, vết nứt xuyên qua con tim nhà thơ. Nỗi đau ấy, khi đến với chúng ta đã  “nhuốm máu” người nghệ sĩ. Chất cá tính trong thơ làm cho tác phẩm khỏi “kho khan” và “nhạt nhẽo”, làm cho thơ nói được điều ngàn xưa đã nói mà vẫn mới mẻ như thường. Công chúng đến với thơ đâu phải chỉ để tìm những tri thức về con người và xã hội, mà họ còn thú vị trước sự độc đáo của một tâm hồn, trước tài năng của đồng loại. Đọc một bài thơ, người ta nghĩ về cuộc sống, về con người, về một tâm hồn thơ “cá biệt”. Sự hiện diện của cá nhân người nghệ sĩ trong bài thơ mở ra cho người đọc nhiều vấn đề có ý nghĩa, gợi lên một sự say mê, hấp dẫn. Nhà thơ đi sâu vào tâm hồn riêng tư của mình để nói những điều nhiều người cùng suy nghĩ, cũng quan tâm. Cho nên điều nhà thơ nói đến đối với chúng ta nhiều  khi sâu sắc đến lạ kì. Tính cá thể trong lao động thơ đã  góp phần làm nên sức mạnh đặc trưng của thơ. Con người mà nhà thơ để lại trong thơ của mình phải là con người có cá tính. Chúng ta cần sự độc đáo của cá tính ấy, do đó mỗi nhà thơ nên có một phong cách thơ.
   
      Rõ ràng, sáng tác thơ là một công việc rất đặc biệt, rất khó khăn, đòi hỏi người nghệ sĩ phải hình thành một cá tính sáng tạo. Tuy vậy-theo Xuân Diệu-tuyệt nhiên không nên thổi phồng cái cá biệt, cái độc đáo lên một cách quá đáng. Điều đó không hợp với thơ và không phải là phẩm chất của người làm thơ chân chính. Hãy sáng tác thơ một cách tự nhiên, bình dị, phải đấu tranh để cái việc tự sáng tạo ấy không trở thành “anh hùng chủ nghĩa”. Trong khi sáng tác, nhà thơ không thể cứ chăm chăm nghĩ rằng mình phải ghi dấu ấn của mình vào trong thơ này, tập thơ nọ. Chính trong quá trình lao động, dồn toàn tâm, toàn ý, bằng xúc cảm tràn đầy, có thể nhà thơ sẽ tạo ra được bản sắc riêng biệt của mình trong những giây phút cầm bút.
      Tính đặc thù của thơ đòi hỏi cái “tôi” của nhà thơ phải có chỗ đứng đặc biệt, nhất là đối với thơ trữ tình. Ở nước ta, có lẽ dòng văn học lãng mạn là dòng văn học trong đó các nhà thơ sớm có ý thức về cái “tôi” của mình. Câu thơ Xuân Diệu trước cách mạng tháng Tám:
Ta là một, là riêng, là thứ nhất
Không có chi bè bạn nổi cùng ta.
       Vừa có cái ngạo nghễ, cực đoan của một nhà thơ trẻ sớm được xã hội thừa nhận, song vừa là sự khẳng định cái cá biệt, độc đáo-một yêu cầu không thể thiếu được của quá trình sáng tạo nghệ thuật, nhất là thơ ca.
       Nhà thơ phải có cá tính, có sự độc đáo. Những phẩm chất đó khắc chạm thơ anh vào tâm trí người đọc, khẳng định sự tồn tại của tác phẩm nghệ thuật. Thơ yêu cầu có cá tính, cá tính này có giá trị thẩm mĩ, để thông qua tâm hồn nhà thơ nói lên những điều mọi người cùng trăn trở, lo toan. Lời tâm sự của Xuân Diệu thật đúng đắn cả về mặt lí luận cũng như trên thực tế sáng tác. Lời tâm sự ấy rút ra từ chính cuộc đời làm thơ, sống hết mình vì thơ của Xuân Diệu và nhớ đến những vần thơ bỏng cháy yêu đương rất Xuân Diệu: Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi!
       Hãy đập vào tim anh, thiên tài là ở đó. Khi ấy những bài thơ của riêng anh sẽ ra đời. Đó cũng chính là bài thơ của mọi người, bài thơ mới nhất.
Trần Thị Ngọc Hoa
Trường THPT chuyên Phan Bội Châu-Nghệ An Đạt giải nhất quốc gia 1988

Đề bài:
"Giá trị của một tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giái trị tư tưởng của nó. Nhưng là tư tưởng đã được rung lên ở các cung bậc của tình cảm, chứ không phải tư tưởng nằm thẳng đơ trên trang giấy. Có thể nói, tình cảm của người viết là khâu đầu tiên và là khâu sau cùng trong quá trình xây dựng một tác phẩm nghệ thuật". (Theo Nguyễn Khải, Các nhà văn nói về văn, tập 1, NXB Tác phẩm mới, 1985, trang 61)

Anh, chị hiểu như thế nào về ý kiến nêu trên? Hãy liên hệ với sáng tác của Xuân Diệu hoặc Tố Hữu để làm sáng tỏ vấn đề.
(Đề thi học sinh giỏi quốc gia năm 1999, bảng A)

Bài Làm

Điều gì tạo nên giá trị của một tác phẩm nghệ thuật? Tư tưởng của nhà văn hay tình cảm nghệ sĩ? Câu hỏi đó đã làm hết thảy mọi người, không chỉ có chúng ta mà còn cả giới nghệ sĩ. Đã có nhiều cách bàn bạc và lý giải xung quanh vấn đề này. Ý kiến của nhà văn Nguyễn Khải dưới đây, theo tôi cũng là một ý kiến đánh giá đầy đủ, chính xác và đánh ghi nhận: "Giá trị của một tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giái trị tư tưởng của nó. Nhưng là tư tưởng đã được rung lên ở các cung bậc của tình cảm, chứ không phải tư tưởng nằm thẳng đơ trên trang giấy. Có thể nói, tình cảm của người viết là khâu đầu tiên và là khâu sau cùng trong quá trình xây dựng một tác phẩm nghệ thuật".

Là một nhà văn đã lăn lộn nhiều với nghề viết, đã từng nếm trải và chịu đựng những quy luật nghiệt ngã của văn chương, hơn ai hết Nguyễn Khải ý thức sâu sắc những yêu cầu khắt khe của nghệ thuật. Ông hiểu giá trị của một tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giá trị tư tưởng của nó. Nhà văn phải là người có tư tưởng. Nhưng bằng những sự trải nghiệm của một đời cầm bút, ông cũng thấm thiết nghệ thuật không phải chỉ là tư tưởng đơn thuần mà phải là tư tưởng được rung lên ở các cung bậc của tình cảm, nghĩa là tư tưởng ấy phải được thấm đẫm trong tình cảm của người viết, tư tưởng ấy phải được chuyển tải bằng tình cảm, cảm xúc của người nghệ sĩ. Nói cách khác, ý kiến của Nguyễn Khải đã khẳng định mỗi quan hệ gắn bó, không thể tách rời giữa tư tưởng và tình cảm của nhà văn.

"Giá trị của một tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giá trị tư tưởng của nó". Câu nói hiển nhiên như một chân lý không thể phủ nhận. Một tác phẩm nghệ thuật có giá trị, trước hết phải đề xuất được một tư tưởng mới mẻ. Một nhà văn có tầm cỡ hay không, tôi nghĩ yêu cầu đầu tiên là nhà văn ấy phải là một nhà tư tưởng. Nghĩa là ông ta phải có phát hiện riêng của mình về chân lý đời sống, có những triết lý riêng của mình về nhân sinh. Bởi xét đến cùng, thiên chức cao cả của văn chương nghệ thuật là phản ánh con người và hướng tới phục vụ đời sống con người. Văn học là một hình thái ý thức tinh thần; bởi thế, nhà văn khi viết tác phẩm không thể không bộ lộ tư tưởng của riêng mình, chủ kiến của riêng mình trước những vấn đề của cuộc sống. Làm sao văn học có thể thực hiện được sứ mệnh thiêng liêng của mình là bồi đắp, làm giàu đời sống tinh thần của con người, nếu như người viết không gửi được vào tác phẩm của mình tư tưởng nào đó về cuộc sống?

Mặt khác, bản chất của lao động nghệ thuật là sáng tạo. Nghề văn phải là nghề sáng tạo. Mà tôi cho rắng sáng tạo khó khăn nhất, nhưng cũng vinh quang nhất của người nghệ sĩ, là khám phá, phát minh ra một hệ thống tư tưởng của riêng mình. Văn học đâu chấp nhận những sản phẩm nghệ thuật chung chung, quen nhàm, viết ra dưới ánh sáng của một khuôn mẫu tư tưởng nào đó. Nếu thế thì văn chương sẽ tẻ nhạt biết bao! Không, "Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biêt tìm tòi, biết khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những gì chưa ai có" (Nam Cao). Một khi anh đề xuất được những tư tưởng mang tính khám phá về đời sống, tư tưởng ấy sẽ quyết định đến sự sáng tạo hình thức của tác phẩm. Chưa nói rằng, ở những nhà văn lớn, tư tưởng là yếu tố cốt lõi hình thành nên phong cách nghệ thuật, gương mặt riêng, dấu ấn riêng của nhà văn trong đời sống văn học vốn mênh mông phức tạp, vàng thau lẫn lộn này. Có thể khẳng định rằng, tư tưởng ấy là tố chất của một nhà nghệ sĩ lớn.

Tuy nhiên, theo Nguyễn Khải, tư tưởng của nhà văn không phải là tư tưởng "nằm thẳng đơ trên trang giấy", mà là tư tưởng đã được rung lên ở các cung bậc của tình cảm"

Vấn đề đặt ra là tai sao tư tưởng lại phải chuyển tải bằng tình của người viết và tình của nhà văn sao lại là khâu đầu tiên và là khâu sau cùng trong quá trình xây dựng một tác phẩm nghệ thuật"?

Có lẽ, xin được bắt đầu từ quy luật lớn của văn học nói riêng, nghệ thuật nói chung. C.Mac có lần nhấn mạnh: Nói quy luật của văn học là quy luật của cái đẹp. Người khác thì cụ thể hơn, khẳng định quy luật của cái đẹp là quy luật của tình cảm. Vậy tình cảm chứ không phải bất kỳ yếu tố gì khác mới là ngọn nguồn sâu xa của cái đẹp. Mỗi tác phẩm nghệ thuật đính thực phải hướng con người tới cái đẹp bằng tình cảm của nhà văn. Tác phẩm của anh phải lên tiếng, sự thăng hoa cảm xúc của chính anh. Không phải ngẫu nhiên mà khi bàn về thơ, nhiều nhà văn, nhiều học giả đều khẳng đinh vai trò của tình cảm đố với thơ. Ngô Thì Nhậm thì kêu gọi các thi nhân:" Hãy xúc động hồn thơ cho hồn bút có thần", còn Muytxê cũng nhắn nhủ các nhà thơ: "Hãy đập vào tim anh, Thiên tài là ở đó" Tư tưởng của một nhà văn dù dầu có giá trị đến đâu, độc đáo mới mẻ đến nhường nào thì nó cũng chỉ là một xác buớm ép khô trên trang giấy, nếu không được tình cảm của họ thổi hồn đánh thức dậy. Nếu anh chỉ có tư tưởng không thôi, thì không thể làm một tác phẩm có giá trị nghệ thuật đính thực. Tư tưởng của anh phải được rung lên ở các cung bậc của tình cảm. Cảm xúc trơ lì, mòn sáo, tình cảm thoáng qua, hời hợt, rút cuộc những tư tưởng ấy dù hay đến mấy cũng chỉ "nằm thẳng đơ", vô hồn, vô cảm trên trang giấy mà thôi. Những sáng tạo nghệ thuật chân chính tuyệt nhiên không phải là sự minh hoạ giản đơn cho tư tưởng này hay tư tưởng khác, cho dù đó là tư tưởng rất hay (Ý của Khrapchencô). Tư tưởng của nhà văn không khô khan, cứng nhắc, tư tưởng của nhà văn là tư tưởng nghệ thuật, là tình cảm, là "nhiệt hứng", là "say mê", là tất cả nhiệt tình kết tinh lại (Biêlixky) 

Có thể nói tình cảm của người viết chính là khâu đầu tiên của quá trình xây dựng tác phẩm nghệ thuật. Điều này có căn nguyên sâu xa từ đặc trưng của văn học. Văn học là tiếng nói tâm hồn, tình cảm của cá nhân người nghệ sĩ trước cuộc đời. Làm sao nhà văn có thể viết lên tác phẩm - sản phẩm của thế giới tinh thần của mình nếu như tâm hồn trơ như đá trước cuộc đời? Nhà văn chỉ có thể sáng tạo nên tác phẩm khi cảm thấy bức xúc trước cuộc sống con người, cảm thấy tiếng nói thôi thúc mãnh liệt con tim. Nhiều nghệ sĩ đã gọi đó là giây phút "bùng nổ cảm hứng" hay "cú hích của sáng tạo" là vì vậy. Không phải vô cớ mà Lê Quý Đôn cho rằng: "Thơ khởi phát từ trong lòng ta". Tố Hữu cũng tâm sự về quá trình thai nghén, sáng tạo thơ của mình. Mỗi khi trong lòng có gì băn khoăn, không viết ra không chịu nổi, ông lại làm thơ. Còn Nêkraxôp thì tâm tình với bạn văn rằng, tất cả nhứng gì khiến cho ông đau khổ, rạo rực, say mê, ông đều gửi vào thơ. Tôi chợt hiểu vì sao trong thư gửi một nhà thơ trẻ, để trả lời cho câu hỏi có nên làm thơ hay không, Renkle đã có một lời khuyên chân tình rằng, anh hãy đối diên với lòng mình vào đêm khuya thang vắng, để tự trả lới câu hỏi: Ta có thể không viết được không? Nếu không viết liệu ta có chết không? Chỉ khi nào trả lời được câ hỏi ấy, anh hãy viết. Điều đó nói lên rằng, tình cảm mãnh liệt - ấy chính là tố chất đặc thù của người nghệ sĩ, là khâu đầu tiên của quá trình sáng tạo nghệ thuật.

Không chỉ có vậy, tình cảm còn là khâu sau cùng trong quá trình xây dựng tác phẩm của nhà văn. Người đọc đến với tác phẩm trước hết đâu phải bằng con đường lí trí. Họ đến với tác phẩm bằng chiếc cầu nối từ trái tim đến với trái tim. Những tư tưởng tâm đắc nhất, tha thiết nhất nhà văn gửi gắm trong tác phẩm sẽ thâm nhập vào tâm hồn bạn đọc trong hình hài của cảm xúc. Mỗi khi đọc môt bài văn, bài thơ, lí trí của ta chưa kịp hiểu câu chữ, hình ảnh,... thì tình cảm đã xâm chiếm hồn ta tự khi nào, lòng ta chợt rung lên theo những rung cảm của tâm hồn của người nghệ sĩ, cũng chợt thấy yêu ghét theo những yêu ghét của người viết. Phải chăng,bởi thế, Bạch Cư Dị đã khẳng định: "Cảm động lòng người không gì bằng trước hết bằng tình cảm" và tình cảm là gốc của văn chương. Một tác phẩm có hay không xét cho cùng là do tình cảm của người viết có chân thực hay không, có khả năng đánh động tới tình cảm người đọc hay không. Tư tưởng nghệ thuật đâu phải một hình thái chết, nó là những phát hiện , những triết lý riêng của nhà văn, một thứ triết lý nhân sinh đầy tình cảm, cảm xúc, thấm đẫm bầu tâm huyết của người nghệ sĩ. 

Soi vào thực tế văn học, tôi chợt hiểu vì sao có những nhà văn suốt cả cuộc đời không tạo nên một tác phẩm có giá trị đích thực để rốt cuộc phải ngậm đắng, nuốt cay than thở cho sự bạc bẽo của nghề văn. Và vì sao lại có những nghệ sĩ lớn như Xuân Diệu sống mãi với thời gian. 

Dù dòng thời gian vẫn miệt mài chảy trôi, bao đời người dâu bể, bao thế kỷ thăng trầm, âm thầm cái công việc của nó là phủi bụi, xoá bỏ tất cả thì những gì là thơ, là văn, là nghệ thuật sẽ còn sống mãi trong đó có những vần thơ của Xuân Diệu.

Xuân Diệu là một nhà thơ lớn. Và điều tạo lên tầm vóc của nhà thơ lớn ấy là bởi đâu, nếu không phải bởi tư tưởng của thi sĩ? Tôi không bao gì tin rằng một nhà văn có thể làm lên tên tuổi. Không, một nhà văn lớn, có những phát hiện riêng của mình về cuộc sống. Xuân Diêu đã đi đúng con đường mà những người nghệ sĩ lớn thường đi bởi ông đã đề xuất với cuộc đời này một tư tưởng, một quan niệm của riêng ông. Néu có thể tóm gọn toàn bộ tư tưởng ấy thì ta có thể đặt cho nó một cái tên là "niềm khát khao giao cảm với đời" Tư tưởng ấy đã góp phần làm cho sự nghiệp thơ văn Xuân Diệu trụ vững với thời gian. Giữa bao nhà thơ khác đang chán chường tuyệt vọng, trốn chạy vào quá khứ vàng son hay ẩn lánh trên một vì tinh tú đơn côi, thì chàng thi sĩ ấy người có đôi mắt biếc luôn mở to nhìn cuộc đời với xiết bao say mê, quyến luyến, lại khát khao được hoá thân thành cây "xanh mãi mãi ở vườn trần, chân hoá rễ để hút mùa dưới đất", được mãi mãi ôm cõi đời này trong vòng tay say say đắm. Đôi mắt "xanh non", đôi mắt "biết rờn" đã phát hiện ra cả một thiên đường nơi mặt đất này, nơi mà thi sĩ khác như Thế Lữ, Chế Lan Viên,... dường như có lúc chỉ muốn lẩn tránh thật xa. Sáng tác thơ, Xuân Diệu chỉ muốn thả những mảnh hồn sôi nổi, tinh tế của mình tới mọi tâm hồn bạn bè, ở một phương trời, của hôm nay và vĩnh viễn mai sau với một tấm lòng "khát khao giao cảm với đời". Tư tưởng nhân văn độc đáo, khoẻ khoắn ấy chẳng phải là cải gốc sáng của chùm cầu vồng nghệ thuật lung linh những vần thơ Xuân Diệu, chẳng phải là cái ánh sáng của những viên ngọc trai tròn trặn đấy sao? Lòng "khát khao giao cảm với đời" đã giúp Xuân Diệu viết lên những vần thơ tình yêu đính thực, với trần thế rất đỗi cao đẹp để Xuân Diệu lưu lại dấu ấn với thời gian như một "ông hoàng của thơ tình" - danh hiệu mà biết bao người ao ước.

Nhưng Xuân Diệu có thể nào đứng trong lòng ta với những vần thơ ấy, nếu tư tưởng của ông là một hình thái chết, "nằm thẳng đơ trên trang giấy?" Không, tư tưởng ấy còn lại mãi với cõi đời này bởi nó đã được "rung lên ở những cung bậc của tình cảm" , là thứ ngọc kết tinh từ toàn bộ con người và tâm hồn, thế giới tình cảm của thi sĩ Xuân Diệu. Ngay tên gọi của tư tưởng nghệ thuật ấy đã hàm chứa biết bao tình cảm. Nó bẳt nguồn từ nhịp rung mãnh liệt của con tim Xuân Diệu - trái tim muốn đậpmãi với cõi đời, cõi người này. Đó là khát khao cháy bỏng, là say đắm khôn cùng hay là toàn bộ con người tinh thần của nghệ sĩ? Chỉ biết rằng, mỗi vần thơ Xuân Diệu như được chắt ra từ lòng yêu đời, yêu cuộc sống nồng nhiệt.

Tư tưởng nhân văn độc đáo ấy nào phải do Xuân Diệu phát minh ra, rồi dùng tài năng của mình, phủ đắp xương thịt lên hồn cốt ấy. Không, ngọn nguồn sâu xa của tư tưởng cao đẹp ấy chính là tình cảm, nỗi sợ cô đơn. Nỗi sợ hãi đã ám ảnh, đã bám riết tâm hồn cậu bé Xuân Diệu - con người từ thuở nhỏ đã phải sống trong sự ghẻ lạnh của gia đình. Tâm hồn non thơ thiếu văng tâm hồn của mẹ, bởi thế luôn khát khao đồng cảm, khát khao được mọi người tri âm. Xuân Diệu tìm đến thơ như một lẽ tự nhiên không thể nào khác được bởi với thơ ông, thơ là chiếc cầu linh diệu nhất nối trái tim đến với những trái tim. Nhà thơ lúc nào cũng khát khao cháy bỏng được làm phấn thông vàng bay khắp cõi đất này, tràn ngập cả không gian. Nỗi sợ cô đơn vây phủ lên mọi bày thơ, trong hanh phúc tột cùng đã thấp thoáng những dự cảm lo âu. 

"Lòng ta trống lắm, lòng ta lạnh
Như túp nhà không bốn vắch xiêu"

Tôi luôn tự hỏi, nếu những vần thơ Xuân Diệu không thấm đẫm một bầu cảm xúc, một niềm yêu đời mãnh liệt thì những vần thơ của ôngn có thể rung động lòng người đến thế? Những vần thơ như kết tinh từ xúc cảm đắm say đến cuồng nhiệt ngây ngất của người nghệ sĩ đối với cuộc sống này. Nó giúp ông khám phá những hương mật ngọt ngào của thiên nhiên trần thế:

" Của ong bướm này đây tuần tháng mậ,
Này đây hoa của đồng nội xanh rì, 
Này đây là của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si."

Một điệp ngữ "này đây" như một đợt sóng trào dâng của niềm yêu đời, nhà thơ như muốn chỉ cho mỗi người thấy cuộc sống này đáng yêu như vậy đấy. Vậy bạn ơi hãy sống hết mình với đời, với người bằng tất cả tâm hồn mình và hưởng thụ cuộc sống đẹp đẽ này. Cần gì phải đi đâu, phải thoát lên tiên hay mơ màng tới nơi phương xa xứ lại. Thiên đường là đây, là cõi đất mến yêu, gần gũi này.

Xúc cảm đâu muốn nguôi yêu, lúc nào nó cũng muốn cựa quậy trên trang giấy để bứt phá, đạp tung những khuôn khổ bó buộc của câu chữ khiến thành trì chữ nghĩa phải lung lay:

"Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếch choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi,
Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào người!"

Các động từ mạnh "riếc", "ôm", "say","thâu" như muốn xô lệch cả con chữ. Cái áo xưa giờ đã quá chật hẹp không đựng nổi bầu cảm xúc tười rói, luôn phập phồng sự sống. Cảm xúc tràn ra ngoài câu chữ, thấm vào lòng người đọc, thổi bùng lên ngọn lửa của lòng yêu sống. Nó khiến ta không thể yên. Thơ hay tiếng lòng của nghệ sỹ đã đốt thành thơ? Bao xúc cảm, men say ngất ngây tột đỉnh đã dồn lại để bật lên một câu thơ độc đáo vào bậc nhất trong thi đàn Việt Nam: "Hỡi Xuân Hồng ta muốn cắn vào người!" Có lẽ nhiều người còn nhắc tới tính hiện đại của câu thơi đấy. Còn tôi, tôi chỉ muốn nói rằng câu thơ ấy là tiếng vang thốt ra từ bầu tâm huyết cua Xuân Diệu đối với cõi đời này. Tư tưởng tạo nên tầm vóc của nhà văn. Tình cảm thổi hồn cho tư tưởng ấy sống dậy thành sinh thể. Có thể nào phủ nhận mỗi quan hệ máu thịt không thể tách rời ấy? Tư tương của Xuân Diệu cũng vậy,nó đã sống trong tình cảm, trong tâm huyết của nhà thơ. Mỗi câu thơ thâm nhập và hồn ta đâu phải là con chữ vô hồn, nó là tất cả cảm xúc của thi nhân khuấy động mãi trong ta, thắp lên trong ta ngọn lửa của niềm ham sống. Mỗi câu, mỗi chữ viết ra đều là máu thịt của nhà văn. Không có bầu cảm xúc ấy, liệu người đọc có thể nhớ mãi câu thơ: "Tháng giêng ngon như một cặp môi gần"- câu thơ viết ra bởi một cảm quan nhân sinh yêu đời, khoẻ khoắn, nồng nhiệt? Không có "lòng khắt khao giao cảm với đời" ấy, liệu có tạo lên một "\Nguyệt ccầm " tuyệt tác, liệu Xuân Diệu có thể lắng nghe được những rung động tinh tế, mơ hồ, hư thoảng trong lòng người và vạn vật để truyền vào những vần thơ ít lời nhiều ý súc tích nhưng đọng lại bao tinh hoa? Tình cảm mãi là ngọn nguồn sâu xa của mọi sáng tạo nghệ thuật chân chính trên cõi đời này. 

Xuân Diệu đã ví mình như một con chim hoạ my "đến từ núi lạ" ,"ngứa cổ hót chơi" khi gió sớm, lúc trăng khuya. Con chim hoạ mi ấ không mong vì tiếng hót của mình là hoa nở, nhưng nguyện thề rằng, đó phải là tiếng hót thiết tha, nồng nàn đến vỡ cổ, đến độ trào máu. Có lẽ vì tiếng hót đắm say đến nhường ấy nên đã đọng lại trên bầu trời thi ca Việt Nam một cung bậc riêng, càng nghe càng lảnh lót, vang ngân. Vâng,toàn bộ sức sống của hồn thơ Xuân Diệu là ở đấy chăng? Là con người đã biết hát lên bằng tất cả những rung cảm sâu lắng mãnh liệt của mình niềm "khát khao giao cảm với đời" , trái tim đấy cao hơn nhà thơ, cao hơn nhà nghệ sĩ.

Đã có một thời người ta quá đề cao vai trò tư tưởng của nhà văn. Điều đó dẫn đến một thực trạng đáng buồn là văn chương cơ hồ trở thành triết học, luận thuyết giáo điều, rơi vào nguy cơ mất dần vẻ đẹp đích thực của nó. Chúng ta không thể phủ nhận vai trò to lớn của tư tưởng nghệ thuật. Tuy nhiên cũng không vì thế mà lãng quên đặc trưng của văn chương nghệ thuật, khiến văn chương đúng là văn chương, là tình cảm: văn học phải được gửi vào xúc cảm, sống trong tình cảm. Đó là bài học đối với mọi nghệ sĩ chân chính trong sáng tạo nghệ thuật.
Đã có không ít người than thở về sự bạc bẽo của nghề văn. Theo tôi, sự bạc bẽo của văn chương nếu có là ở đấy chăng? Nghệ thuật không dung nạp những tác phẩm chỉ là cái loa phát ngôn cho tư tưởng của nhà văn. 
Và vì thế, ý kiến của Nguyễn Khải là lới tâm niệm của những ai quyết thuỷ chung với văn chương nghệ thuật.



Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top