CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN VĂN HỌC
1. ĐẶC TRƯNG CỦA THƠ, TRUYỆN NGẮN, TIỂU THUYẾT VÀ KỊCH
1.1 Đặc trưng của thơ và phương pháp đọc hiểu tác phẩm thơ của nhà trường
1.1.1 Quan niệm về thơ và một số cách phân loại thơ
1.1.1.1 Quan niệm về thơ
- Nhóm Xuân thu nhã tập: "Thơ là một cái gì huyền ảo, tinh khiết, thâm thuý, cao siêu".
- Tố Hữu: "Thơ là cái nhuỵ của cuộc sống".
- Phan Ngọc: "Thơ là cách tổ chức ngôn ngữ hết sức quái đản để bắt người tiếp nhận phải nhớ, phải cảm xúc và suy nghĩ do chính hình thức ngôn ngữ này".
- "Thơ là hình thức sáng tác văn học phản ánh cuộc sống, thể hiện những tâm trạng, những cảm xúc mạnh mẽ bằng ngôn ngữ hàm súc, giàu hình ảnh và nhất là có nhịp điệu" ("Từ điển thuật ngữ văn học", Nxb ĐHQG, 1999). Định nghĩa này đã định danh một cách đầy đủ về thơ ở cả nội dung và hình thức nghệ thuật. Đặc biệt, đã khu biệt được đặc trưng cơ bản của ngôn ngữ thơ với ngôn ngữ trong những thể loại văn học khác.
1.1.1.2 Một số cách phân loạithơ
- Theo nội dung biểu hiện có thơ trữ tình (đi vào tâm tư tình cảm, những chiêm nghiệm của con người về cuộc đời - "Tự tình" của Hồ Xuân Hương), thơ tự sự (cảm nghĩ vận động theo mạch kể chuyện - "Hầu Trời" của Tản Đà), thơ trào phúng (phê phán, phủ nhận cái xấu theo lối mỉa mai, đùa cợt - "Vịnh Khoa thi Hương" của Tú Xương).
- Theo cách thức tổ chức bài thơ có thơ cách luật (viết theo luật đã định trước, ví dụ các loại thơ Đường, lục bát, song thất lục bát,...), thơ tự do (không theo niêm luật có sẵn), thơ văn xuôi (câu thơ giống như câu văn xuôi, nhưng giàu nhịp điệu hơn).
- Ở Việt Nam nói riêng và phương Đông nói chung, một số nhà nghiên cứu còn dựa vào thời gian xuất hiện để chia thơ thành các loại:
+ Thơ trữ tình dân gian: Ca dao - những sáng tác trữ tình dân gian, diễn tả đời sống nội tâm của con người. Ca dao không mang dấu ấn cá nhân tác giả như thơ trữ tình (của văn học viết). Trong ca dao, những tình cảm, tâm trạng của các kiểu nhân vật trữ tình và cách thể hiện thế giới nội tâm của các kiểu nhân vật này đều mang tính chất chung, phù hợp với lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp,... Bất cứ ai, nếu thấy ca dao phù hợp, đều có thể sử dụng, xem đó là tiếng lòng mình. Vì thế, ca dao được coi là" thơ của vạn nhà", là tấm gương soi của tâm hồn và đời sống dân tộc. Tuy nhiên, trong cái chung đó mỗi bài ca dao lại có nét riêng độc đáo.
+ Thơ trữ tình trung đại: do đặc điểm hệ tư tưởng thời đại mà thơ ở thời đại này thường nặng tính tượng trưng, ước lệ, tính quy phạm và tính phi ngã. Chủ thể trữ tình trong thơ trung đại thường là cái tôi đại chúng, cái tôi "siêu cá thể". Nội dung thơ trữ tình trung đại thường nặng về tỏ chí và truyền tải đạo lí.
+ Thơ trữ tình hiện đại: thuộc loại hình Thơ mới, xuất hiện từ đầu thế kỷ XX và phát triển cho đến ngày nay. Do nhu cầu đề cao mạnh mẽ của cái tôi của thi sĩ, nên màu sắc cá thể của cảm xúc in đậm trong mọi khía cạnh của ngôn từ như vốn từ, các biện pháp tu từ hay ngữ điệu, giọng điệu. Lời thơ thường linh hoạt, uyển chuyển hơn so với thơ cũ.
Ở nước ta lâu nay vẫn còn tồn tại quan niệm dựa vào nội dung để chia thơ thành các loại: thơ trữ tình, thơ tự sự, thơ trào phúng, thơ cách mạng (có nội dung tuyên truyền chính trị, cổ vũ chiến đấu bảo vệ đất nước).
Nhìn chung, mọi cách phân chia trên đây đều mang tính chất tương đối. Bởi thơ nào mà chẳng trữ tình, dù ít dù nhiều loại thơ nào cũng theo thi luật nhất định (theo đặc trưng của thơ, của ngôn ngữ, dung lượng,...). Mặt khác, những bài thơ trữ tình biểu lộ tình cảm trước thiên nhiên đất trời, giang sơn gấm vóc cũng là một "kênh" thể hiện lòng yêu nước,... Tuy vậy, việc phân chia thơ thành các loại khác nhau là cần thiết, phục vụ cho việc nghiên cứu, đọc – hiểu và thẩm bình tác phẩm một cách thuận lợi hơn.
1.1.2 Đặc trưng của thơ1.1.2.1 Về ngôn ngữ
a) Ngôn ngữ thơ giàu nhạc tính:
- Thơ là tác phẩm trữ tình phản ánh cuộc sống qua những rung động của tình cảm. Thế giới nội tâm của nhà thơ không chỉ biểu hiện bằng ý nghĩa của từ ngữ mà còn bằng cả âm thanh, nhịp điệu của từ ngữ ấy. Nếu như trong văn xuôi, các đặc tính thanh học của ngôn ngữ (như cao độ, cường độ, trường độ...) không được tổ chức thì trong thơ, trái lại, những đặc tính ấy lại được tổ chức một cách chặt chẽ, có dụng ý, nhằm tăng hàm nghĩa cho từ ngữ, gợi ra những điều mà từ ngữ không nói hết. Bởi thế, đặc trưng tính nhạc được coi là đặc trưng chủ yếu mang tính loại biệt rõ nét của ngôn ngữ thơ ca.
- Theo các nhà nghiên cứu, nhạc tính trong thơ được thể hiện ra ở ba mặt cơ bản. Đó là: sự cân đối, sự trầm bổng và sự trùng điệp:
+ Sự cân đối là sự tương xứng hài hoà giữa các dòng thơ. Sự hài hoà đó có thể là hình ảnh, là âm thanh:
"Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào"
(Nguyễn Bỉnh Khiêm).
Cũng có thể là cách sắp xếp tổ chức mà chúng ta dễ dàng nhận thấy ở cặp câu thực, câu luận trong bài thơ Đường luật thất ngôn bát cú. Đối với thơ hiện đại, yêu cầu này không khắt khe. Tuy vậy, nhà thơ vẫn hết sức chú ý đến hiệu quả nghệ thuật của phép đối xứng trong thơ của mình.
+Sự trầm bổng của ngôn ngữ thơ thể hiện ở cách hoà âm, ở sự thay đổi độ cao giữa hai nhóm thanh điệu.
Xuân Diệu với hai dòng thơ toàn vận dụng vần bằng đã biểu hiện được cảm xúc lâng lâng, bay bổng theo tiếng đàn du dương, nhẹ êm:
"Sương nương theo trăng ngừng lưng trời
Tương tư nâng lòng lên chơi vơi"
Chính Tố Hữu đã có lần nói đến giá trị ngữ âm của từ "xôn xao" trong câu thơ "Gió lộng xôn xao, sóng biển đu đưa" (Mẹ Tơm). Đó đâu chỉ là âm vang của tự nhiên mà là âm vang của tâm hồn. Cái làm nên âm vang đó chính là âm thanh, âm thanh của từ "xôn xao" đã cùng với nghĩa của nó làm nên điều kỳ diệu ấy.
Sự trầm bổng của ngôn ngữ còn thể hiện ở nhịp điệu:
"Sen tàn/ cúc lại nở hoa
Sầu dài/ ngày ngắn/ đông đà sang xuân".
Dòng thơ cắt theo nhịp 2/4 và 2/2/4 đều đặn như nhịp chuyển vần đều đặn của tháng năm bốn mùa... Nhịp thơ ở đây là nhịp của cảm xúc, cảm nhận. Như vậy, âm thanh, nhịp điệu trong thơ không đơn thuần là hình thức mà là những yếu tố góp phần biểu hiện những khía cạnh tinh vi của đời sống tình cảm con người.
+ Sự trùng điệp của ngôn ngữ thơ thể hiện ở sự dùng vần, điệp từ, ngữ và điệp cú. Chúng có tác dụng như một phương tiện kết dính các dòng thơ lại với nhau thành một đơn vị thống nhất, vừa tạo điều kiện thuận lợi cho trí nhớ vừa tạo nên vẻ đẹp trùng điệp cho ngôn ngữ thơ:
"Lầu mưa xuống, thềm lan mưa xuống
Mưa xuống lầu, mưa xuống thềm lan
Mưa rơi ngoài nẻo dặm ngàn
Nước non rả rích giọt đàn mưa xuân"
(Tiếng đàn mưa - Bích Khê).
Lối điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc ở đây vừa diễn tả được hình ảnh cơn mưa của đất trời vừa tạo nên một ấn tượng vương vấn không dứt trong lòng người.
Như vậy, nhạc điệu trong thơ là một đặc điểm cơ bản của ngôn ngữ thơ. Ngày nay, nhu cầu của thơ có phần đổi khác. một số người có xu hướng bỏ vần để tạo cho câu thơ sự tự do hoá triệt để. Nhưng nếu không có một nhạc điệu nội tại nào đó như sự đối xứng giữa các dòng, các đoạn thơ, tiết tấu, nhịp điệu của câu thơ thì không còn là ngôn ngữ thơ nữa.
b) Ngôn ngữ thơ có tính hàm súc
- Đây là đặc điểm chung của ngôn ngữ trong tác phẩm văn chương, nhưng do đặc trưng của thể loại mà nó biểu hiện một cách tập trung với yêu cầu cao nhất trong ngôn ngữ thơ. Nếu ngôn ngữ văn xuôi tự sự là ngôn ngữ của cuộc sống đời thường, nó chấp nhận mọi lớp từ, mọi biến thái, mọi chiều kích, thậm chí cả sự xô bồ, phồn tạp đến cực độ để tái hiện bộ mặt cuộc sống, tâm lý con người trong sự sâu rộng, đa chiều vốn có của nó thì ngôn ngữ thơ lại mang nặng tính "đặc tuyển". Là thể loại có một dung lượng ngôn ngữ hạn chế nhất trong các loại tác phẩm văn học, nhưng thơ lại có tham vọng chiếm lĩnh thế giới. Nói như Ô-giê-rốp: "Bài thơ là một lượng thông tin lớn nhất trong một diện tích ngôn ngữ nhỏ nhất". Chính sự hạn định số tiếng trong câu thơ, bài thơ buộc người nghệ sỹ phải "thôi xao", nghĩa là phải phát huy sự tư duy ngôn ngữ để lựa chọn từ ngữ cho tác phẩm. Bởi thế, Maiacôpxki gọi lao động nghệ thuật ngôn từ của nhà thơ là "trả chữ với với giá cắt cổ":
"Nhà thơ trả chữ với giá cắt cổ
Như khai thác chất hiếm radium
Lấy một gam phải mất hàng bao công lực
Lấy một chữ phải mất hàng tấn quặng ngôn từ."
Như vậy, tính hàm súc được hiểu là khả năng của ngôn ngữ có thể miêu tả mọi hiện tượng của cuộc sống một cách cô đọng, ít lời mà nói được nhiều ý, ý tại ngôn ngoại. Đây chính là cách dùng từ sao cho đắt nhất, có giá trị biểu hiện cao nhất kiểu như Nguyễn Du đã "giết chết" các nhân vật Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Hồ Tôn Hiến, mỗi tên chỉ bằng một từ: cái vô học của Mã Giám Sinh: Ghế trên ngồi tót sỗ sàng; cái gian manh của Sở Khanh: Rẽ song đã thấy Sở Khanh lẻn vào; cái tầm thường ti tiện của Hồ Tôn Hiến: Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình.
- Do quy mô của tác phẩm, thơ ca thường sử dụng từ ngữ rất "tiết kiệm". Tính hàm súc của ngôn ngữ thơ, vì vậy, chứa đựng các thuộc tính khác. Hàm súc cũng có nghĩa là phải chính xác, giàu hình tượng, có tính truyền cảm và thể hiện cá tính của người nghệ sỹ. Ví dụ, từ "củi" trong câu thơ của Huy Cận: "Củi một cành khô lạc mấy dòng" là một từ có tính hàm súc cao, vừa đảm bảo được tính chính xác, tính hình tượng, vừa có tính truyền cảm. nhấn mạnh thân phận nhỏ bé, bọt bèo của kiếp người trong cuộc sống. Tác giả liên tưởng đến cuộc đời mình cũng như bao người dân mất nước, mang thân phận bọt bèo giữa cuộc đời rộng lớn. Hình ảnh cành củi kia còn tượng trưng cho kiếp người nhỏ bé, những văn nghệ sĩ đang băn khoăn, ngơ ngác, lạc lõng trước nhiều trường phái văn học, ngã rẽ của cuộc đời.
- Để đạt được tính hàm súc cao nhất, có thể biểu hiện được cái vô hạn của cuộc sống trong những cái hữu hạn của các đơn vị ngôn ngữ, thơ ca phải tính đến những kiểu tổ chức đặc biệt mà nhà nghiên cứu Phan Ngọc gọi là "quái đản". Dưới áp lực của cấu trúc ngôn ngữ khác thường này, ngữ nghĩa của từ trong thơ không dừng lại ở nghĩa gốc, nghĩa đen, nghĩa trong từ điển mà phong phú, sâu sắc, tinh tế hơn. Đó là thứ nghĩa được tạo sinh nhờ quan hệ và trong quan hệ.
Khi Hồng Nguyên viết: "Có nắng chiều đột kích mấy hàng cau" thì chính trong quan hệ với những yếu tố trước và sau nó mà từ "đột kích" được cấp cho một nghĩa mới, gợi lên những rung động thẩm mỹ. Hay trong câu thơ của Lâm Thị Mỹ Dạ: "Em đã lấy tình yêu của mình thắp lên ngọn lửa" thì sự kết hợp bất thường về nghĩa đã mở ra những liên tưởng hết sức thú vị. Trong đời thường, khi nói đến việc "thắp lửa", người ta một là nghĩ đến phương tiện như: cái bật lửa, que diêm ... hai là nguyên liệu như: dầu hoả, dầu dừa ... Ở đây, nhà thơ lại thay nó bằng một "chất liệu" rất trừu tượng thuộc lĩnh vực tinh thần. Và trong quan hệ với cái chất liệu trừu tượng đó, nghĩa bề mặt của "ngọn lửa" bị mờ đi, mở ra những nghĩa mới. Đó là: chân lý, niềm tin, lý tưởng cuộc đời...
- Định lượng số tiếng trong thơ cũng là tiền đề tạo ra sự xuất hiện với một mật độ dày đặc các phương tiện nghệ thuật trong thơ so với văn xuôi. Nhiều lúc, trong một bài thơ, có thể thấy xuất hiện cùng một lúc các phương tiện tu từ khác nhau, như ẩn dụ, hoán dụ, nhân hoá, tượng trưng, điệp từ, điệp ngữ. Bài ca dao trữ tình sau đây là một ví dụ:
"Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai
Đèn thương nhơ ai
Mà đèn không tắt
Mắt thương nhớ ai
Mắt ngủ không yên
Đêm qua em những lo phiền
Lo vì một nỗi không yên một bề."
Bài ca dao có số lượng từ không nhiều nhưng bằng các biện pháp tu từ đã thể hiện được tâm trạng khắc khoải nhớ mong của người con gái dường như còn vang mãi, dư âm đến tận bây giờ và cả mai sau, không chỉ của một người mà của nhiều người.
c) Ngôn ngữ thơ có tính truyền cảm:
- Tính truyền cảm cũng là đặc trưng chung của ngôn ngữ trong tác phẩm văn chương, bởi tác phẩm văn học là sản phẩm của cảm xúc của người nghệ sĩ trước cảnh đời, cảnh người, trước thiên nhiên. Cho nên, ngôn ngữ trong tác phẩm văn chương phải biểu hiện được cảm xúc của tác giả và phải truyền được cảm xúc của tác giả đến người đọc, khơi dậy trong lòng người đọc những cảm xúc thẩm mĩ. Tuy nhiên, do đặc trưng của thơ là tiếng nói trực tiếp của tình cảm, trái tim nên ngôn ngữ thơ ca có tác dụng gợi cảm đặc biệt.
- Ngôn ngữ thơ không bao giờ là ngôn ngữ chú trọng miêu tả cái khách quan như ngôn ngữ trong tác phẩm tự sự. Nếu nhà văn dùng ngôn ngữ để thuyết minh, miêu tả, nhắn nhủ, giải thích... thì nhà thơ dùng ngôn ngữ để truyền cảm. Khi Quang Dũng viết:
"Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa"
Quang Dũng không có ý hỏi ai lên Châu Mộc trong buổi chiều sương nào đó có nhìn thấy phong cảnh hữu tình không mà tác giả khơi trong ta nỗi nhớ thương mất mát, nuối tiếc ngậm ngùi, những ngày tháng, những kỷ niệm, những ảo ảnh đã tan biến trong đời... Quang Dũng gợi trong ta một trạng thái bằng cách hồi sinh những gì đã mất, đồng thời phản ánh tâm trạng của chính mình.
- Lời thơ thường là lời đánh giá trực tiếp thể hiện quan hệ của chủ thể với cuộc đời. Là lời đánh giá trực tiếp, thể hiện tâm trạng cho nên sự lựa chọn từ ngữ, phương thức tu từ trong thơ bao giờ cũng nhằm làm cho nội dung cảm xúc, thái độ đánh giá, sự đồng cảm hoặc phê phán, ca ngợi trở nên nổi bật:
"Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều"
(Nguyễn Đình Thi).
Ở đây, mỗi câu thơ đều mang một từ tập trung tất cả sức nặng của tình cảm. Những từ đó như là những tiêu điểm để ta nhìn thấu vào tâm hồn tác giả. Tính truyền cảm của ngôn ngữ thơ không chỉ biểu hiện qua cách lựa chọn từ ngữ, các phương thức tu từ mà còn biểu hiện qua nhạc điệu thơ.
Chẳng hạn:
"Em ơi Ba Lan mùa tuyết tan
Đường bạch dương sương trắng nắng tràn"
(Tố Hữu).
Sự tập trung dày đặc các nguyên âm có độ mở rộng và phụ âm mũi vang khiến câu thơ nghe giàu tính nhạc, kéo dài như âm vang của sóng biển vỗ bờ. Nhạc tính đó không đơn thuần là sự ngân nga của ngôn ngữ mà còn là khúc nhạc hát lên trong lòng người.
Như vậy, thơ là một hình thái nghệ thuật cao quí, tinh vi của sáng tạo văn học nghệ thuật. Vì vậy, ngôn ngữ thơ là ngôn ngữ mang tính nghệ thuật; ngôn ngữ thơ trước hết mang đầy đủ những thuộc tính của ngôn ngữ văn học, đó là: tính chính xác, tính hàm súc, tính đa nghĩa, tính tạo hình, tính biểu cảm... Tuy nhiên, ở mỗi loại tác phẩm khác nhau, những đặc điểm ấy lại biểu hiện dưới những sắc thái và mức độ khác nhau. Đồng thời, mỗi loại tác phẩm lại có những đặc trưng ngôn ngữ riêng....
1.1.2.2 Về phương thức biểuhiện
- Thơ là một thể loại văn học thuộc phương thức biểu hiện trữ tình. Thơ tác động đến người đọc bằng sự nhận thức cuộc sống, những liên tưởng, tưởng tượng phong phú; thơ được phân chia thành nhiều loại hình khác nhau, nhưng dù thuộc loại hình nào thì yếu tố trữ tình vẫn giữ vai trò cốt lõi trong tác phẩm.
- Nhân vật trữ tình (cũng gọi là chủ thể trữ tình, cái tôi trữ tình) là người trực tiếp cảm nhận và bày tỏ niềm rung động trong thơ trước sự kiện. Nhân vật trữ tình là cái tôi thứ hai của nhà thơ, gắn bó máu thịt với tư tưởng, tình cảm của nhà thơ. Tuy vậy, không thể đồng nhất nhân vật trữ tình với tác giả.
- Thơ là tiếng nói của tình cảm con người, những rung động của trái tim trước cuộc đời.
- Thơ tuy biểu hiện những cảm xúc, tâm sự riêng tư, nhưng những tác phẩm thơ chân chính bao giờ cũng mang ý nghĩa khái quát về con người, về cuộc đời, về nhân loại, đó là cầu nối dẫn đến sự đồng cảm giữa người với người trên khắp thế gian này.
- Thơ thường không trực tiếp kể về sự kiện, nhưng bao giờ cũng có ít nhất một sự kiện làm nảy sinh rung động thẩm mĩ mãnh liệt trong tâm hồn nhà thơ mà văn bản thơ là sự thể hiện của niềm rung động ấy. Một miếng trầu đem mời, một cái bánh trôi nước, một tiếng gà gáy canh khuya có thể là những sự kiện gây cảm xúc cho Hồ Xuân Hương; sự kiện Dương Khuê qua đời trong "Khóc Dương Khuê" (Nguyễn Khuyến); cuộc đời tài hoa mệnh bạc của nàng Tiểu Thanh trong "Độc Tiểu Thanh kí" (Nguyễn Du),...
- Thơ thường có dung lượng câu chữ ngắn hơn các thể loại khác (tự sự, kịch). Hệ quả là nhà thơ biểu hiện cảm xúc của mình một cách tập trung hơn thông qua hình tượng thơ, đặc biệt thông qua ngôn ngữ nghệ thuật, qua dòng thơ, qua vần điệu, tiết tấu... Nhiều khi, cảm xúc vượt ra ngoài cái vỏ chật hẹp của ngôn từ, cho nên mới có chuyện "ý tại ngôn ngoại". Do đó, thơ có thể tạo điều kiện cho người đọc thực hiện vai trò "đồng sáng tạo" để phát hiện đời sống, khiến người đọc phải suy nghĩ, trăn trở để tìm kiếm ý đồ nghệ thuật của tác giả cũng như những điểm đặc sắc trong tư duy nghệ thuật của mỗi nhà thơ.
- Thơ chú trọng đến cái đẹp, phần thi vị của tâm hồn con người và cuộc sống khách quan. Vẻ đẹp và tính chất gợi cảm, truyền cảm của thơ có được còn do ngôn ngữ thơ cô đọng, hàm súc, giàu hình ảnh và nhạc điệu. Sự phân dòng, và hiệp vần của lời thơ, cách ngắt nhịp, sử dụng thanh điệu...làm tăng sức âm vang và lan tỏa, thấm sâu của ý thơ. Bàn về đặc điểm này, nhà thơ Sóng Hồng viết: "Thơ là một hình thái nghệ thuật cao quý, tinh vi. Người làm thơ phải có tình cảm mãnh liệt thể hiện sự nồng cháy trong lòng. Nhưng thơ là có tình cảm, lí trí kết hợp một cách nhuần nhuyễn và có nghệ thuật. Tình cảm và lí trí ấy được diễn đạt bằng những hình tượng đẹp đẽ qua những lời thơ trong sáng vang lên nhạc điệu khác thường".
1.1.2.3 Về cấu trúc
- Mỗi bài thơ là một cấu trúc ngôn ngữ đặc biệt. Sự sắp xếp các dòng (câu) thơ, khổ thơ, đoạn thơ làm nên một hình thức có tính tạo hình. Đồng thời, sự hiệp vần, xen phối bằng trắc, cách ngắt nhịp vừa thống nhất vừa biến hóa tạo nên tính nhạc điệu. Hình thức ấy làm nên vẻ đẹp nhịp nhàng, trầm bổng, luyến láy của văn bản thơ.
- Vần điệu là một trong những đặc trưng quan trọng về mặt cấu trúc. Không có vần điệu là không phải là thơ ca. Ví dụ:
"Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa"
(Nguyễn Du)
Hai câu thơ dù có mượn ý từ hai câu thơ Đường "Phương thảo thiên biên bích/ Lê chi sổ điểm hoa. ("Cỏ thơm liền với trời xanh/ Trên cành lê có mấy bông hoa.") thì bậc thầy thơ ca Nguyễn Du chỉ sáng tạo thêm chữ "trời"; chữ "tận" và chữ "trắng" cộng với vần điệu lục bát của Việt Nam đã tạo được hai câu...? Và mùa xuân cuối của câu sáu, gieo vần vài là chữ thứ sáu của câu tám. Sự gieo vần như vậy cùng phối hợp về thanh điệu, ngữ điệu giữa các chữ tạo thành cấu trúc có vần điệu chính đã tạo ra câu thơ rất hay.
- Vần điệu và niêm luật trong một bài thơ Đường luật:
+ Niêm nghĩa đen là dán dính lại bằng chất hồ. Trong thơ, niêm là cách xếp đặt các câu thơ cho dính lại với nhau về nhịp thanh bằng thanh trắc và gây sự liền lạc mật thiết về âm điệu.
+ Vần ở vào chữ chót câu đầu và các câu chẵn (như vậy bài thơ có 5 vần và chỉ dùng vần cước). Cả bài gieo một vần (độc vần). Vần bằng (thuộc thanh bằng)
+ Thanh luật là luật chỉ định trong một câu thơ, chữ nào phải thanh bằng, thanh trắc. Chữ thanh bằng là chữ có dấu huyền hoặc không dấu, chữ thanh trắc là chữ có các dấu: Ngã, hỏi, nặng, sắc.
+ Trong thơ Đường luật, câu thơ nào cũng có 7 chữ, thanh luật áp dụng cho các chữ trong câu như sau:
1) Chữ cuối (chữ thứ 7) tùy thuộc vị trí câu thơ đối với vần thơ. Nếu câu thơ mang vần (câu 1,2,4,6,8) thì chữ ấy bằng, nếu câu thơ không mang vần (câu 3,5,7 thì chữ ấy trắc).
2) Chữ 2,4,6 theo phép Nhị tứ lục phân minh, nghĩa là 3 chữ này phải bằng, trắc, bằng hoặc trắc, bằng, trắc.
3) Chữ 1,3,5 theo phép Nhất tam ngũ bất luận nghĩa là không kể đến luật bằng trắc, được tự do. Tuy nhiên trên thực tế, chỉ chữ 1 và 3 được bất luận, còn chữ thứ 5 phải khác thanh với chữ chót của câu thơ.
Ta thấy ở luật bằng trắc này, luật lệ cốt yếu nhằm vào các chữ 2,4,6. Nhịp thanh của câu thơ dựa vào đó mà thay đổi lên xuống. Cho nên bài thơ nào bắt đầu với một câu thơ luật bằng thì gọi là bài thơ luật bằng. Bài thơ nào bắt đầu với câu thơ luật trắc gọi là bài thơ luật trắc. Ví dụ bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu:
"Tích nhân dĩ thừa Hoàng Hạc khứ
Thử địa không dư hoàng hạc lâu
Hoàng Hạc nhất khứ bất phục phản
Bạch vân thiên tải không du du
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ
Phương thảo thê thê Anh vũ châu
Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu."
Dịch thơ:
Hạc vàng ai cưỡi đi đâu
Mà nay Hoàng Hạc riêng lầu còn thơ
Hạc vàng bay mất từ xưa
Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay
Hán Dương sông tạnh cây bày
Bãi xa Anh Vũ xanh đầy cỏ non
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai ?
(Tản Đà - dịch)
+ Về mặt hình thức, dễ nhận biết đây là bài thơ Đường luật thể thất ngôn bát cú (bảy chữ, tám câu) nhưng ngay trong mấy câu mở đầu, đã thể hiện một cú pháp rất đặc biệt, bởi sự phá hết niêm luật và thi pháp của thơ Đường. Về luật bằng trắc, câu 1 và câu 3 là những câu thể hiện sự phá cách táo bạo nhất. Theo luật thơ Đường, các vị trí nhị tứ lục thất trong câu thơ phải tuân thủ theo đúng quy định bằng trắc. Các vị trí 1,6,8 trong câu thơ thứ nhất đã hoàn toàn biến đổi ngược lại với quy định. Luật bằng trắc của bài thất ngôn bát cú, thơ vần bằng trong câu đầu lẽ ra phải là: BBTTTBB (Ví dụ: "Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn" - Bà Huyện Thanh Quan) thì câu thơ đầu của Hoàng Hạc Lâu biến thành TBTBBTT ("Tích nhân dĩ thừa Hoàng hạc khứ"). Tiếp đến, câu thứ 3 được cấu tạo với một loạt 6 thanh trắc đi với nhau, gợi lên một niềm xót xa trước sự nghiệt ngã của thời gian, của cuộc đời con người BTTTTTT ("Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản.")
+ Thơ Đường vốn trọng sự cô đọng của câu chữ, đặc biệt tránh việc phải dùng những hư từ, trong bài thơ này được dùng một từ lặp lại nhiều lần "Hoàng Hạc" được 3 lần. "không" được 2 lần, tạo nên hiệu quả sự ám ảnh khôn nguôi về Hạc vàng. Hoàng Hạc Lâu là một kiệt tác của Trung Hoa và cũng là đỉnh cao chói lọi của thơ Đường nói riêng và của văn học Trung Hoa nói chung, ngàn năm không ai vượt qua nổi. Thi tiên Lý Bạch đứng trước Hoàng Hạc Lâu cũng phải gác bút mà thốt lên rằng: "Đình tiền hữu cảnh đạo bất đắc/ Thôi Hiệu đề thi tại thương đằn" (trước mắt có cảnh đẹp nhưng không sao nói được, vì đã có thơ của Thôi Hiệu sừng sững ở trên đầu).
- Gieo vần trong thơ mới và thơ hiện đại:
+ Vần liền: Vần theo những cặp gián cách, từng cặp vần bằng trắc theo nhau liền, ví dụ trong bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ:
"Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối,
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan,
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn,
Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới,
Đâu những cảnh bình minh nắng gội
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng,
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng,
Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới."
+ Vần chéo: Là cách gieo vần bắt chéo, câu 1 vần xuống câu câu 3, câu 2 vần xuống câu 4, ví dụ trong thơ Huy Cận:
"Hạnh phúc rất đơn sơ.
Nhịp đời đi chậm rãi,
Mái nhà in bóng trưa,
Ong hút chùm hoa cải."
+ Vần ôm: Là cách gieo vần để cho vần câu 1 với câu 4, ôm lấy vần câu 2 với câu 3. Ví dụ trong bài thơ Tiếng thu của Lưu Trọng Lư:
"Em nghe mùa thu,
Dưới trăng mờ thổn thức,
Em không nghe rạo rực,
Hình ảnh kẻ chinh phu"
+ Vần hỗn tạp: Là cách tham dụng tất cả các lối vần trên trong một bài, không theo một định lệ nào cả. Ví dụ trong bài thơ sau đây của Thế Lữ:
"Tiếng địch thổi đâu đây.
Cớ sao mà réo rắt ?
Lơ lửng cao đưa tận lưng trời xanh ngắt.
Mây bay, gió quyến, mây bay...
Tiếng vi vu như khuyên van như dìu dặt
Ánh chiều thu
Lướt mặt hồ thu.
Sương hồng lam nhẹ tan trên sóng biếc.
Rặng lau già xao xác tiếng reo khô,
Như khuấy động nỗi nhớ nhung thương tiếc.
Trong lòng người đứng bên hồ"
- Về thể thơ của thơ mới và thơ hiện đại:
+ Thể năm chữ: Mỗi câu có 5 chữ. Số câu không hạn định, thường chia làm khổ 4 câu. Vần có thể theo các kiểu vần liền, vần chéo, vần ôm hoặc vần hỗn tạp. Thường cứ gián cách vần trắc với vần bằng. Nhưng chỉ có vần cước không có vần yêu. Thể thơ này phân làm khổ 4 câu như thể thơ ngũ ngôn tứ tuyệt. Ví dụ như bài thơ Đi chùa hương của Nguyễn Nhược Pháp, Khách lạ đường rừng của Nguyễn Bính.
+ Thể bảy chữ: Mỗi câu thơ có 7 chữ. Số câu không có hạn định, có thể chia thành khổ 4 câu. Tất cả phép niêm luật đối của thơ Đường luật đều bị bỏ qua, nhưng có khi vẫn được duy trì một phần, nhất là luật bằng trắc vẫn còn. Gieo vần theo các kiểu thơ Pháp, giống như kiểu tứ tuyệt cũ 4 câu 2 vần, hay 4 câu 3 vần. Ví dụ như trong bài thơ Trăng của Xuân Diệu.
+ Thể tám chữ: Mỗi câu có 8 chữ (hoặc xen vào ít câu 7 chữ hay 9, 10 chữ). Số câu không hạn định, thường dài, nhưng cũng có thể chia làm khổ 4 câu 6, 8 câu.. Về thanh bằng trắc trong câu, thường chỉ áp dụng luật hoán thanh tổng quát vào các chỗ ngắt đoạn. Vần thường theo kiểu vần liền, có khi có cả vần liền, có khi có cả vần yêu, câu thơ có giọng như Hát nói. Ví dụ như bài Cây đàn muôn điệu của Thế Lữ.
+ Thể sáu tám: Tuy là loại thơ cũ, trước kia người ta thường dùng để sáng tác truyện liên hồi hàng ngàn câu. Trên cơ sở này người ta sáng tác ngắn đi và theo lối gieo vần truyền thống. Ví dụ bài thơ Ngậm ngùi của Huy Cận:
Nắng chia nửa bãi chiều rồi,
Vườn hoang trinh nữ xếp đôi lá sầu.
Sợi buồn con nhện giăng mau,
Em ơi hãy ngủ anh hầu quạt đây.
Lòng anh mở với quạt này,
Trăm con chim mộng về bay đầu giường.
Ngủ đi em mộng bình thường,
Ru em sẵn tiếng thùy dương mấy bờ
Cây dài bóng xế ngẩn ngơ,
Hồn em đã chín mấy mùa thương đau.
Tay anh em hãy tựa đầu,
Cho anh nghe nặng trái sầu rụng rơi.
1.1.2 Yêu cầu và phương pháp đọc hiểu tác phẩm thơ
- Làm thế nào để có một bài thơ hay? Đây là nỗi trăn trở của các nhà thơ, người làm thơ. Bởi vì một bài thơ hay, sống với thời gian, và được người đời mến mộ, thì nó chẳng cần theo một xu hướng nào cả! Những bài thơ ấy tự nó đã định cho mình một xu hướng riêng trong lòng công chúng và nó sẽ tồn tại theo thời gian. Thơ mới và thơ hiện tại đã tiến một bước ngắn hơn 80 năm, so với nhiều thế kỷ của thơ truyền thống, quá trình cách tân tìm cái mới của thơ ca cần phải quan niệm một cách sâu sắc hơn. Và dù đổi mới thế nào đi chăng nữa, thi ca vẫn phải là tiếng nói hồn nhiên nhất, nguyên sơ trong sâu thẳm trái tim và giàu tính nhân bản về đời sống vì sự cao đẹp của con người, và muôn đời mãi mãi thơ vẫn là thơ!... ?
Cô thầy tham gia nhóm tải tài liệu miễn phí nhé
Quét mã Zalo nhận thêm các tài liệu:
- Khi đọc hiểu tác phẩm thơ, cần tiến hành theo các bước sau đây:
+ Cần biết rõ tên bài thơ, tên tác giả, thời gian và hoàn cảnh sáng tác, đó là cơ sở ban đầu để tiếp cận tác phẩm.
+ Đọc và quan sát bước đầu để nắm chắc bài thơ. Qua việc đọc, phải xác định được chủ đề, chủ thể trữ tình (chủ thể trữ tình thường xuất hiện ở hai dạng: cái tôi trữ tình và chủ thể trữ tình ẩn), đối tượng trữ tình, hình tượng trữ tình và giọng điệu chủ đạo của bài thơ.
+ Cảm nhận nội dung, ý nghĩa bài thơ qua câu chữ, hình ảnh, nhịp điệu, kết cấu, các biện pháp tu từ,...
+ Lí giải, đánh giá toàn bộ bài thơ cả về hai phương diện nội dung và nghệ thuật.
+ Đặc biệt là phải chỉ ra những đóng góp của tác giả (thể hiện qua tác phẩm) cho thơ và cho cuộc sống con người.
1.2 Đặc trưng của truyện ngắn, tiểu thuyết vàphương pháp đọc hiểu tác phẩm truyện ngắn và tiểu thuyết trong nhà trường1.2.1 Khái niệm
- Truyện ngắn và tiểu thuyết là loại hình tác phẩm tự sự. Tự sự là thể loại văn học có phương thức trình bày một chuỗi sự việc, từ sự việc này đến sự việc kia, cuối cùng dẫn đến một kết thúc, thể hiện một ý nghĩa. Tự sự giúp người đọc và người nghe có thể hiểu rõ sự việc, con người, hiểu rõ vấn đề, từ đó bày tỏ thái độ khen chê. Tự sự rất cần thiết trong cuộc sống, trong giao tiếp, trong văn chương. Đặc điểm:
+ Tác phẩm tự sự phản ánh đời sống khách quan thông qua các sự kiện, hệ thống sự kiện: thể hiện một bức tranh khách quan về thế giới, về những gì tồn tại bên ngoài người trần thuật, không phụ thuộc và ý muốn và tình cảm của họ. Tất cả những sự việc, sự kiện, biến cố bên ngoài hay những cảm xúc, tâm trạng, ý nghĩ bên trong được nhà văn xem như đối tượng để phân tích.
+ Tác phẩm tự sự có khả năng phản ánh hiện thực một cách rộng lớn, bao quát: trong tác phẩm tự sự, không gian và thời gian không bị hạn chế. Nhân vật tự sự được khắc họa đầy đủ, nhiều mặt, triển khai sâu rộng trong nhiều mối quan hệ đa dạng và phong phú. Nhân vật được khắc họa từ ngoại hình đến nội tâm, cả quá khứ, hiện tại và tương lai.
+ Tác phẩm tự sự luôn luôn có hình tượng người trần thuật: làm nhiệm vụ tường thuật, kể chuyện để phân tích, nghiên cứu, khêu gợi, bình luận, cắt nghĩa những quan hệ phức tạp giữa nhân vật và nhân vật, giữa nhân vật và hoàn cảnh...Trong tác phẩm tự sự, hình tượng người trần thuật giữ một vai trò hết sức quan trọng và luôn luôn muốn hướng dẫn, gợi ý cho người đọc nên hiểu nhân vật, hoàn cảnh... như thế nào.
+ Lời văn trong tác phẩm tự sự: chủ yếu là lời văn kể chuyện, miêu tả.
- Truyện ngắn là một thể loại . Nó thường là các câu chuyện kể bằng và có xu hướng ngắn gọn, súc tích và hàm nghĩa hơn các câu truyện dài như . Thông thường truyện ngắn có độ dài chỉ từ vài dòng đến vài chục trang, trong khi đó rất khó dừng lại ở con số đó. Vì thế, tình huống truyện luôn là vấn đề quan trọng bậc nhất của truyện ngắn. Truyện ngắn thường chỉ tập trung vào một tình huống, một chủ đề nhất định. Trong khi đó, chứa được nhiều vấn đề, phủ sóng được một diện rộng lớn của đời sống. Do đó, truyện ngắn thường hết sức hạn chế về nhân vật, và trong truyện ngắn cũng không trải dài như tiểu thuyết. Đôi khi truyện ngắn chỉ là một khoảng khắc của cuộc sống.
- Tiểu thuyết là một thể loại văn xuôi có , thông qua , hoàn cảnh, sự việc để phản ánh bức tranh rộng lớn và những vấn đề của cuộc sống , biểu hiện tính chất tường thuật, tính chất kể chuyện bằng ngôn ngữ theo những chủ đề xác định.
+ Tiểu thuyết có nhiều dạng thức tùy theo yêu cầu của , hoặc theo sở trường của người viết. Thậm chí người ta còn cho rằng, về nguyên tắc, tiểu thuyết không có một hình thức thể loại hoàn kết, bởi vì nó là "sử thi của thời đại chúng ta", tức là sử thi của cái hiện tại, cái đang hàng ngày hàng giờ đổi thay.
+ Tuy thường gặp những kết cấu chương hồi, kết cấu tâm lý, kết cấu luận đề, kết cấu đơn tuyến, kết cấu đa tuyến v.v. tiểu thuyết vẫn không chịu được những chế định chặt chẽ, nó không có quy phạm cố định và người viết thậm chí có thể phá vỡ những khuôn mẫu sẵn có để vận dụng một cách linh hoạt và sáng tạo các hình thức kết cấu khác nhau. Kết cấu cho phép tạo nên một diện mạo chung nhất về tiểu loại: tiểu thuyết chương hồi, tiểu thuyết tâm lý, tiểu thuyết luận đề, tiểu thuyết đa thanh v.v.
- Có hai cách để phân biệt truyện ngắn hay tiểu thuyết:
+ Căn cứ theo số trang mà truyện có thể in ra.
+ Căn cứ theo cách viết của cả truyện: Tiểu thuyết hay truyện dài thì cứ triền miên theo thời gian, đôi khi có quãng hồi ức trở ngược lại. Truyện ngắn thì gây cho người đọc một cái nút, một khúc mắc cần giải đáp. Cái nút đó càng ngày càng thắt lại đến đỉnh điểm thì đột ngột cởi tung ra, khiến người đọc hả hê, hết băn khoăn.
1.2.2 Đặc trưng của truyện ngắn, tiểu thuyết1.2.2.1 Sự kiện (biến cố)
- Sự kiện là những sự việc xảy ra trong đời sống, là những hành động, việc làm, những sự gặp gỡ... có khả năng làm bộc lộ bản chất nhân vật, thay đổi mối quan hệ người và người, làm thay đổi cảm xúc, tình cảm, nhận thức, thậm chí số phận nhân vật. Ví như sự kiện Tấm bị Cám lừa, lấy hết giỏ tép. Sự kiện này chứng tỏ bản chất lừa đảo, độc ác của Cám, vừa thể hiện bản tính thật thà, đôn hậu của Tấm, vừa tạo điều kiện để Tấm gặp Bụt. Hoặc như để kể về một người xấu như Lí Thông, người ta kể những sự kiện như hắn kết nghĩa anh em với Thạch Sanh, rồi lừa chàng đi gác miếu trăn tinh nhằm lấy thân chàng thế mạng cho hắn...
- Sự kiện thường là cái không bình thường (cho nên còn gọi là biến cố) trong đời sống nhân vật. Chính vì cái không bình thường ấy, đã khiến nhân vật phải suy nghĩ, phải cảm xúc, thậm chí phải đấu tranh, dằn vặt, phải tự ý thức... để sau đó buộc nhân vật phải có những hành động, ứng xử phù hợp tiếp theo. Có những sự kiện nhỏ, có những sự kiện lớn trong cuộc đời nhân vật, song tất cả đều làm cho bản chất sâu kín của nhân vật hiện lên rõ nét. Cái không bình thường của sự kiện thường xảy ra một cách bất ngờ, đột ngột, có thể phá vỡ trật tự vốn đang tồn tại, làm cho sự kiện trở thành cái lạ lùng, "thậm chí một cảnh tượng xưa nay chưa từng có", ví như sự kiện cho chữ trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân vậy.
- Sự kiện, về bản chất, là sản phẩm của mối quan hệ con người và hoàn cảnh, môi trường, cho nên nó có khả năng phản ánh cuộc sống một cách toàn diện. Qua sự kiện, có thể biết được các mối quan hệ của con người. Ví dụ, chuỗi sự kiện trong Truyện Kiều đã cho thấy mối quan hệ của người dân với hệ thống quan lại, của gái lầu xanh với chủ chứa, nông dân khởi nghĩa với triều đình... Bên cạnh đó, là mối quan hệ con người và môi trường: những đoạn tả cảnh thiên nhiên, tả đồ vật... thường được miêu tả rất cụ thể, chi tiết.
- Sự kiện còn là kết quả của mối dây liên hệ của con người đối với thế giới. Cho nên, theo mối liên hệ của các sự kiện mà tác giả tự sự có thể mở rộng không gian - thời gian không hạn chế. Vì vậy, một tác phẩm có thể miêu tả một khoảng khắc, nhưng cũng có thể miêu tả cả một đời người, thậm chí nhiều thế hệ. Ông khách ở quê ra khiến người kể chuyện nhớ lại toàn bộ chuyện về cuộc đời của ông lão Khúng với mọi thăng trầm của đời người cũng như của cả một vùng đất (Khách ở quê ra - Nguyễn Minh Châu).
Người đời thường nhắc đến những sự kiện văn học nổi tiếng với những giá trị xã hội và nhân sinh sâu sắc: Ô-đi-xê lưu lạc mười năm, Từ Thức gặp tiên; Thúy Kiều bán mình chuộc cha; Phăng-tin bán tóc, bán răng, bán thân nuôi con; Chí Phèo đòi được làm người lương thiện, anh Tràng nhặt được vợ... Các sự kiện văn học nổi tiếng này thường có sức hấp dẫn đặc biệt.
1.2.2.2 Cốt truyện
- Có hai cách hiểu về khái niệm cốt truyện. Một là, cốt truyện là hạt nhân cơ bản của câu chuyện với trật tự các sự kiện theo tuyến tính. Với nghĩa này, các nhà nghiên cứu thường gọi đó là khung cốt truyện. Hai là, cốt truyện đã được nghệ thuật hóa nằm những mục đích tư tưởng và thẩm mĩ nhất định: đan xen các tuyến nhân vật, phát triển các thành phần phụ, đảo lộn trật tự thời gian, lắp ghép các môtíp, đầu cuối tương ứng... Với nghĩa này, người ta dùng khái niệm truyện kể. Ở đây, chúng ta nói đến cốt truyện là nói đến cốt truyện đã được nghệ thuật hóa. Cốt truyện là chuỗi sự kiện có tính liên tục trước sau, có quan hệ nhân quả hoặc có liên hệ về ý nghĩa, vừa có tác dụng biểu hiện tính cách, số phận nhân vật, vừa xây dựng bức tranh đời sống hiện thực, vừa là yếu tố gây hấp dẫn cho nguời đọc.
- Tiến trình các sự kiện sẽ tạo thành cốt truyện. Bình thường, đứng về cấu trúc cơ bản và truyền thống, cốt truyện thường có các thành phần cơ bản như: trình bày, thắt nút, phát triển, cao trào, mở nút. Trật tự cốt truyện thường được kể theo trật tự tuyến tính, theo dòng lịch sử. Trong truyện tự sự hiện đại, năm thành phần cơ bản này có thế thiếu vắng một thành phần nào đó và việc kể chuyện có thể không theo trật tự trước sau của câu chuyện, mà có sự đảo ngược, xen lẫn các thành phần.
- Ngoài ra, còn có thể có những dạng cốt truyện phổ biến như: truyện lồng trong truyện. Trong truyện Lão Hạc của Nam Cao, có cốt truyện ông lão buộc phải bán con chó mình yêu quí và cốt truyện về ông giáo lúc đầu không hiểu sau dần dần hiểu được ông lão hàng xóm của mình. Truyện Một nghìn lẻ một đêm xứ Ba Tư chính là một kiểu chồng chất các câu chuyện nằm trong chuyện. Có truyện lặp lại, đầu cuối tương ứng (Chí Phèo - Nam Cao).
+ Truyện xây dựng trên một mô típ. Đặc biệt ở truyện cổ tích, những môtíp phối hợp với nhau hình thành mối liên hệ chủ đề của tác phẩm.
+ Cốt truyện ở đây được xem là sự tổng hợp các mô típ theo kế tục thời gian và nhân quả. Cốt truyện trữ tình là câu chuyện không có sự kiện gì đặc biệt mà chủ yếu dựa theo cảm xúc của nhân vật (Dưới bóng hoàng lan, Hai đứa trẻ - Thạch Lam). Đó là loại truyện kể về thế giới nội tâm nên sự kiện chính là sự kiện nội tâm (sự kiện bên trong, sự kiện tâm trạng).
- Cốt truyện thường mang những chức năng sau: Tạo thành lịch sử cuộc đời nhân vật với những thăng trầm, biến đổi. Cốt truyện Tấm Cám cho thấy số phận của một cô gái quê nghèo, hiền lành, chăm chỉ, trải qua bao khó khăn, vất vả, thậm chí phải chết đi sống lại nhiều lần, để cuối cùng có được một hạnh phúc lâu dài. Cốt truyện còn góp phần bộc lộ xung đột, mâu thuẫn của con người, có ý nghĩa nhân sinh. Cốt truyện Cây khế có những sự kiện có vẻ như trùng lặp nhưng cuối cùng dẫn đến hai kết cục hoàn toàn khác biệt do cách ứng xử nhân sinh khác biệt với từng sự kiện đó. Cốt truyện còn có nhiệm vụ tạo nên sự hấp dẫn cho câu chuyện, cho nên những phép ngẫu nhiên, bất ngờ, lặp lại, đột ngột, lắp ghép, giả mà như thật... đều làm cho cốt truyện tăng thêm phần hấp dẫn. Cốt truyện phiên lưu cho thấy nhân vật luôn phải tự gỡ mình thoát ra khỏi các tình huống gay cấn. Cốt truyện tài hoa tài tử gặp gỡ bao giờ cũng có những trở ngại và cuối cùng đoàn viên hạnh phúc...
- Ngoài ra, bên cạnh cốt truyện, như là thành phần động, còn có các thành phần khác, mang tính tĩnh tại, có thể gọi là thành phần xen, hay thành phần ngoài cốt truyện. Đây là những thành phần như miêu tả, kể, bình luận, trữ tình, cảnh thiên nhiên, môitrường, giới thiệu lai lịch, khắc họa nội tâm, giới thiệu phong tục... Những thành phần này tuy không đóng vai trò quan trọng trong cốt truyện, nhưng chính nó góp phần làm cho tác phẩm trở thành một sinh mệnh đầy đặn, có sự sống, có linh hồn. Đây là thành phần giàu chất tạo hình và biểu hiện, làm cho văn học có thể so sánh với hội họa, điêu khắc, âm nhạc, cung cấp những bức tranh hấp dẫn, sinh động về hiện thực, vừa giàu khả năng lí giải tường tận tâm lí, hành động nhân vật cũng như các nội dung khác của đời sống. Đoạn miêu tả tiếng đàn của Thúy Kiều, miêu tả không gian đêm về trong truyện Hai đứa trẻ (Thạch Lam), sự mở rộng các thành phần tĩnh tại này làm cho tác phẩm tự sự có khả năng trình bày trọn vẹn đầy đặn về cuộc sống, tạo không khí, nhịp điệu, ấn tượng, cách đánh giá và cảm thụ thế giới với những đặc sắc thẩm mĩ. Sự luân phiên các thành phần động (sự kiện), tĩnh (miêu tả, bình luận, kể...) sẽ tạo nên nhịp điệu trần thuật. Nếu tập trung vào sự kiện (thành phần động), nhịp điệu câu chuyện sẽ nhanh, còn tập trung vào thành phần tĩnh, nhịp điệu câu chuyện sẽ trở nên chậm rãi.
1.2.2.3 Nhân vật tự sự
Nhân vật tự sự cũng là yếu tố cơ bản của truyện ngắn và tiểu thuyết. Đó là loại nhân vật có tên tuổi, có lịch sử, có quá trình, có số phận. Khác với nhân vật trữ tình, nhân vật tự sự được tập trung khắc hoạ tương đối cụ thể ở nhiều phương diện: ngoại hình, hành động, nội tâm, và đặc biệt là trong mối quan hệ với các nhân vật khác. Chỉ có trong mối quan hệ với các nhân vật khác, nhân vật mới bộc lộ hết bản chất của mình, cũng như những biến đổi trong cuộc đời nhân vật cũng tùy thuộc mối quan hệ này. Tuy cũng được khắc hoạ nội tâm, nhưng những xung động nội tâm của nhân vật tự sự chủ yếu là để lí giải nguyên nhân những hành động tiếp theo, dẫn đến những sự kiện kế tiếp trong cuộc đời nhân vật. Ví như đoạn Chí Phèo tỉnh dậy sau cơn say, ta thấy có một đoạn nội tâm dài về nguyên nhân khát khao hạnh phúc. Tiếp đến là hành động đòi quyền được làm người để có cơ may tìm hạnh phúc.
1.2.2.4 Người kể chuyện
- Đây là một loại nhân vật đặc biệt. Đó là người kể chuyện trong tác phẩm, kể về nhân vật và các sự kiện, biến cố nào đó. Người kể có ngôi kể, vai kể, điểm nhìn, giọng điệu kể. Nhân vật này có nhiệm vụ phân tích, nghiên cứu, giải thích, khêu gợi, bình luận, làm sáng tỏ mọi quan hệ phức tạp giữa nhân vật và hoàn cảnh. Thí dụ, người kể chuyện đã giới thiệu, giải thích lai lịch nhân vật trong đoạn mở đầu truyện Tấm Cám: Tấm và Cám là hai chị em cùng cha khác mẹ. Mẹ Tấm chết từ hồi Tấm mới biết đi. ít lâu sau, người cha cũng chết. Tấm ở với dì ghẻ là mẹ của Cám. Nhân vật này có thể lộ diện, nhưng cũng có thể vô danh, nhưng bao giờ người đọc cũng cảm nhận được linh hồn của người kể chuyện này một cách rõ rệt, gần gũi thông qua lời kể, giọng điệu, điểm nhìn, cách dẫn dắt và phân tích, lí giải cốt truyện...
- Trong truyện truyền thống, nhân vật người kể chuyện thường là người đứng ngoài câu chuyện, hoặc là chính tác giả, thường ít xưng danh. Nhưng trong truyện hiện đại, nhân vật người kể chuyện có thể ở ngôi thứ nhất, xưng tôi, nhân vật này có thể là một nhân vật trong câu chuyện (ông giáo trong truyện Lão Hạc - Nam Cao) hoặc ngôi thứ ba (người kể chuyện đứng bên ngoài câu chuyện). Loại nhân vật này có một giọngđiệu thể hiện qua cách nhìn, cách cảm thụ, phương thức tư duy, năng lực trí tuệ, tình cảm, bộc lộ qua ngôn ngữ. Như vậy là nhân vật người kể chuyện cũng được cá tính hóa. Chính giọng điệu này đã xác định được phần nào phong cách của tác giả. Ví dụ, lời người kể chuyện trong tác phẩm của Nguyễn Khải luôn có xu hướng phân tích lí giải cặn kẽ cách ứng xử của nhân vật trong các mối quan hệ, còn lời kể chuyện của Thạch Lam luôn chứa đầy những miêu tả cảm giác, mang thiên hướng trữ tình.
- Có nhiều cách phân loại người kể chuyện. Theo N. Friednam, trong sách Điểm nhìn trần thuật (1967), có thể phân loại người kể chuyện thành những loại như: người kể chuyện biết hết, người kể chuyện không biết hết, là nhân chứng (thường là ngôi), là vai chính (nhân vật kể), người kể toàn năng (dựa vào điểm nhìn nhiều nhân vật), người kể chuyện đơn lẻ (điểm nhìn một nhân vật), người kể camêra (không tỏ thái độ chủ quan), người kể quan sát kịch (chỉ thấy hành động).
- Ngoài ra, theo vị trí quan sát của người kể, còn có thể phân theo điểm nhìn kể chuyện như: điểm nhìn bên ngoài, bên trong; điểm nhìn không gian (xa, gần), điểm nhìn di động (từ đối tượng này sang đối tượng khác), điểm nhìn thời gian (quá khứ, hiện tại, tương lai), điểm nhìn luân phiên (trong, ngoài). Sự luân phiên điểm nhìn này cho thấy sự linh hoạt của các kiểu tổ chức miêu tả và bình luận trong cốt truyện.
1.2.3 Phương pháp đọc hiểu tác phẩm truyện ngắn và tiểu thuyếttrong nhà trường
Khi đọc hiểu tác phẩm truyện ngắn và tiểu thuyết, cần tiến hành theo các bước sau đây:
- Cần biết rõ tên tác phẩm, tên tác giả, thời gian và hoàn cảnh sáng tác, đó là cơ sở ban đầu để tiếp cận tác phẩm.
- Xác định ý nghĩa nhan đề của tác phẩm. Qua việc đọc, phải xác định được chủ đề tư tưởng và giá trị cơ bản của tác phẩm.
- Xác định bố cục, kết cấu tác phẩm, nhân vật, người kể, ngôi kể,...
- Tóm tắt được tác phẩm.
- Xác định được các chi tiết nghệ thuật tiêu biểu của tác phẩm.
- Lí giải, đánh giá toàn bộ tác phẩm cả về hai phương diện nội dung và nghệ thuật.
- Đặc biệt là phải chỉ ra những đóng góp của tác giả (thể hiện qua tác phẩm) cho một giai đoạn văn học và cho cuộc sống, con người.
1.3 Đặc trưng của kịch và phương pháp đọc hiểutác phẩm kịch trong nhà trường1.3.1 Khái niệm và phân loại1.3.1.1 Khái niệm
- Kịch là một môn nghệ thuật , một trong ba phương thức phản ánh hiện thực của . Thuật ngữ này bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp có nghĩa là "hành động", kịch tính. Là sự kết hợp giữa hai yếu tố bi và hài kịch. Được coi là một thể loại thơ ca, sự kịch tính được đối chiếu với các giai thoại sử thi và thơ ca từ khi Thơ của Aristotle (năm 335 trước Công nguyên) - tác phẩm đầu tiên của thuyết kịch tính ra đời. Mặc dù kịch bản văn học vẫn có thể đọc như các tác phẩm văn học khác, nhưng kịch chủ yếu để biểu diễn trên sân khấu.
- Đặc trưng của bộ môn nghệ thuật này là phải hành cuộc sống bằng các hành động kịch, thông qua các xung đột tính cách xảy ra trong quá trình xung đột , được khái quát và trình bày trong một cốt truyện chặt chẽ với độ dài thời gian không quá lớn. Mỗi vở kịch thường chỉ trên dưới ba đồng hồ và còn tuy kịch ngắn, kịch dài.
1.3.1.2 Phân loại
Căn cứ vào nội dung kịch, có thể chia thành các thể loại: , , , ... Cũng có thể căn cứ vào nội dung của các đề tài mà chia kịch thành: , , , ... Một cách phân chia khác dựa theo chính thời gian biểu diễn, có , .
- Bi kịch có hai nghĩa, theo nghĩa rộng chỉ tất cả các tác phẩm biểu hiện nỗi bất hạnh, thống khổ, tử vong có ý vị bi kịch, trong đó có tác phẩm kịch. Bi kịch theo nghĩa hẹp chỉ tác phẩm kịch nói về cuộc đấu tranh giữa hai lực lượng chính nghĩa và phi nghĩa, bên phi nghĩa áp đảo bên chính nghĩa, bên chính nghĩa cuối cùng thất bại, dẫn đến bị hủy diệt, từ đó làm cho người ta cảm thấy bi thương, thương xót, dẫn đến tình cảm tôn kính. Xung đột của bi kịch là tất nhiên, cũng là không thể khắc phục, điều này tất yếu cấu thành mâu thuẫn phát sinh trong cuộc đấu tranh giữa chính nghĩa và phi nghĩa của xung đột kịch, mà kết quả của cuộc đấu tranh lại cứ là cái phi nghĩa hủy diệt cái chính nghĩa. Chỉ có điều này, tùy theo sự biến đổi xã hội, cuộc đấu tranh giữa chính nghĩa và phi nghĩa có thể chuyển biến thành cuộc đấu tranh giữa tiên tiến và lạc hậu... Bi kịch có thể thức dậy tình cảm bi phẫn, phấn chấn thâm trầm của người thưởng thức.
- Hài kịch thông thường là tác phẩm lấy thủ pháp nghệ thuật châm biếm, gây cười (uymua), khoa trương, lấy sự sai lầm trong hành vi nhân vật, lấy sự xấu xa trong phẩm chất, trong tính cách, thấp hèn, lạc hậu của xã hội để miêu tả và phơi bày, từ đó mà khẳng định sự vật tốt đẹp.
+ Xung đột mâu thuẫn trong hài kịch là xung đột mâu thuẫn giữa các hiện tượng lạc hậu, xấu xa trong đời sống với tư tưởng xã hội tiến bộ của chúng ta, nhân vật đại diện cho cái ác, cái lạc hậu hoặc cái phản động tuy biểu hiện ra hàng loạt những hành động mang mưu đồ ngăn cản sự tiến bộ xã hội nhưng vẫn cứ hiển hiện sự ngu xuẩn, giả dối, năng lực kém cỏi, tính cách bạc nhược, từ đó khiến người ta không cảm thấy sợ, cuối cùng, bộ mặt thật cũng bị bại lộ, những hiện tượng xấu xa lạc hậu cũng bị bóc trần.
+ Nhân vật hài kịch thường là những nhân vật tiêu cực, ngu xuẩn, xấu xa hoặc tính cách đầy nhược điểm, là đối tượng bị phê phán. Kết cục của hài kịch thường là người xấu bị lật tẩy, hoặc người có khuyết điểm gặp trắc trở, hoặc nhân vật chính diện có được thắng lợi, từ đó khiến người khác cảm thấy vui vẻ. "Cười" là đặc trưng nổi bật của hài kịch, không có cười thì không có hài kịch, cười là sự biểu lộ tự nhiên vui vẻ mang tính thẩm mĩ của người thưởng thức. Cười của hài kịch chủ yếu xuất phát từ nguyên tắc "không thống nhất", sự đối lập giữa vĩ đại với nhỏ bé, sự vênh lệch giữa lí tưởng và hiện thực... cho đến thủ pháp biểu hiện khoa trương, biến hình, sai lầm...
- Chính kịch còn được gọi là bi hài kịch, nó nằm giữa bi kịch và hài kịch, chứa đựng nhân tố của bi kịch và hài kịch, là hình thức kịch tiếp cận cuộc sống đời thường.
+ Xung đột, mâu thuẫn mà chính kịch phản ánh là cuộc đấu tranh giữa thế lực mới mẻ và hủ bại, giữa tiên tiến và lạc hậu, giữa chính nghĩa và phi nghĩa, mặc dù trải qua sự trắc trở, gian nan, cuối cùng, cái tiên tiến vẫn thắng cái lạc hậu.
+ Tính cách nhân vật trong chính kịch vừa có đặc trưng nghiêm túc, cao quý, vừa có đặc điểm bình thường, khôi hài, gây cười (uymua, hơn nữa, nhân vật phản diện cuối cùng bị trừng phạt, nhân vật chính diện giành được thắng lợi. Người thưởng thức trong khi thưởng thức chính kịch thường biến bi thành hài, bi trước hài sau, sự xúc động xuất hiện trong sự tập trung giao thoa bi – hài.
1.3.2 Đặc trưng của kịch1.3.2.1 Xung đột kịch
- Xung đột kịch là thành phần cấu thành tình tiết kịch, là quá trình và kết quả tác động tương hỗ giữa các lực lượng đối kháng, là hình thức thể hiện cao nhất, sắc nhọn nhất và tập trung nhất của kịch tính, là đặc trưng thẩm mĩ cơ bản nhất của văn học kịch. Có 2 loại xung đột: Xung đột bên ngoài (nhân vật này với nhân vật khác, nhân vật với gia đình, dòng họ..), xung đột bên trong (xung đột trong nội tâm nhân vật).
- Xung đột kịch có liên hệ với tình cảnh kịch. Hegel nói: "Tình cảnh là tình huống thế giới phổ biến chưa vận động và là giai đoạn trung gian của hai đầu mối hành động cụ thể và hành động tương ứng", "một phương diện của tình cảnh là tổng thể tình huống thế giới nhờ trải qua quá trình đặc thù hóa mà có được tính cố định; mặt khác, tính cố định đặc thù này lại chính là động lực khiến cho nội dung có được sự biểu hiện một cách ổn định... Phương diện quan trọng nhất của nghệ thuật chính là tìm được tình cảnh hấp dẫn, là tìm được tình cảnh thể hiện sâu sắc thế giới tâm linh, thể hiện hàm nghĩa chân chính và tôn chỉ quan trọng"; "tình cảnh của xung đột gay gắt đặc biệt phù hợp với đối tượng dùng để sáng tạo kịch, nghệ thuật kịch vốn là có thể biểu hiện ra sự phát triển sâu sắc nhất, viên mãn nhất". Tình cảnh kịch là cơ sở để xung đột kịch xuất hiện, bộc phát và phát triển, là điều kiện khách quan để nhân vật kịch thực hiện những hành động riêng, để những tính cách hoàn thành tự mình biểu hiện ra, là cơ sở của tình tiết kịch. Tình cảnh kịch bao gồm hoàn cảnh cụ thể của hoạt động nhân vật, sự kiện đột phát và quan hệ nhân vật riêng biệt. Bất luận là xung đột kịch hay là tình cảnh kịch đều nhằm tăng cường kịch tính của văn học kịch. Kịch tính thông thường là chỉ quan hệ giữa các nhân vật làm ta cảm động, cảm thấy có ý nghĩa. Kịch tính thể hiện rõ nét tính cách nhân vật hoặc cảnh ngộ có vấn đề. Kịch tính có thể nói chính là quan hệ nhân vật chân thật, tính cách nhân vật chân thật và mâu thuẫn xung đột chân thật.
1.3.2.2 Hành động kịch
- Hành động kịch là toàn bộ hành động của các trong một dây chuyền liên tục được tổ chức lại thành một thể thống nhất tạo nên nội dung của tác phẩm kịch. Hành động là đặc trưng của kịch và là thứ ngôn ngữ nghệ thuật duy nhất tạo nên sức sống cho tác phẩm kịch. Hình thức biểu hiện của hành động kịch được thông qua các hoạt động ngôn ngữ (đối thoại, độc thoại) và các hoạt động sân khấu (hình thể, điệu bộ, cử chỉ). Trên sân khấu, hành động hình thể luôn luôn quan hệ với hành động tâm lí của nhân vật. Hành động kịch được tổ chức theo một quy luật thống nhất, phù hợp với lô gích phát triển của cốt truyện, của tính cách nhân vật. Trong đó, mọi hành động lớn nhỏ đều dẫn tới xung đột và giải quyết xung đột. Qua đó, chủ đề tư tưởng sẽ được gợi mở, giá trị nghệ thuật sẽ được khẳng định.
- Hành động kịch còn được biểu hiện qua quy luật nhân quả, hành động trước sẽ là nguyên nhân của hành động sau, hành động sau vừa là kết quả của hành động trước vừa là nguyên nhân dẫn đến một hành động kế tiếp,...
- Xây dựng hành động kịch phải xuất phát từ những đặc điểm và những quy luật của hành động trong đời sống hàng ngày, có như vậy tác phẩm kịch mới mang tính hiện thực và mới có sức thuyết phục cao.
1.3.2.3 Nhân vật kịch
- Nhân vật kịch là nhân vật của hành động. Một vở kịch được diễn trên sân khấu, chỉ có nhân vật đi lại, nói năng, hoạt động. Trong kịch bản văn học, ngoài nhân vật, còn có những lời chỉ dẫn về cảnh vật, con người thường được in nghiêng được tác giả viết nhằm gợi ý cho sự dàn dựng của nhà đạo diễn chứ không phải cho người xem. Vì vậy, có thể nói trên sân khấu chỉ có nhân vật hành động. Tất cả mọi sự việc đều được bộc lộ thông qua nhân vật.
- Tác phẩm kịch được viết ra chủ yếu là để diễn trên sân khấu, bị hạn chế bởi không gian và thời gian nên số lượng nhân vật không thể quá nhiều như trong các tác phẩm tự sự và cũng không được khắc họa tỉ mỉ, nhiều măt. Do đó, tính cách nhân vật trong kịch tập trung, nổi bật và xác định nhằm gây ấn tượng mãnh liệt và sâu sắc cho khán giả. Hiển nhiên sự nổi bật, tập trung đó không có nghĩa là đơn giản, một chiều. Xoay quanh một nét tính cách khác, vừa liên đới, vừa biến thái làm cho gương măt của nhân vật sinh động và đa dạng.
- Nhân vật của kịch thường chứa đựng những cuộc đấu tranh nội tâm. Do đặc trưng của kịch là xung đột nên khi đứng trước những xung đột đó, con người bắt buộc phải hành động và vì vậy, con người không thể không đắn đo, suy nghĩ, cân nhắc, băn khoăn, dằn vặt, ... Dĩ nhiên đặc trưng này cũng được thể hiện trong các loại văn học khác nhưng rõ ràng được thể hiện tập trung và phổ biến nhất trong kịch. Chính từ đặc điểm này, nhiều tác giả kịch đã dùng biện pháp lưỡng hóa nhân vật nhằm biểu hiện cuộc đấu tranh nội tâm của chính nhân vật đó.
1.3.2.4 Kết cấu
- Văn học kịch có kết cấu phân màn phân cảnh hết sức đặc thù. Đối với văn học kịch, kết cấu ngoài hàm nghĩa và nguyên tắc thông thường của văn học còn có hàm nghĩa và nguyên tắc đặc thù. Thực chất, hình thức kết cấu của văn học kịch là độc nhất, nó phải sắp xếp tổ chức hành động kịch, tình tiết kịch trong không gian, thời gian sân khấu hạn chế, đồng thời phải làm cho kết cấu hiện lên vô cùng chặt chẽ, phát huy hiệu quả lớn nhất.
- Hình thức kết cấu của kịch là phân màn phân cảnh. Kịch do bị giới hạn không gian và thời gian nên nội dung của nó không thể chuyển toàn bộ lên sân khấu biểu diễn, tồn tại mâu thuẫn giữa không gian vô hạn của bối cảnh cuộc sống mà nó phản ánh với sự hữu hạn của sân khấu, giữa thời gian vô hạn liên tục của tình huống kịch với thời gian hữu hạn của thực tế diễn xuất. Biện pháp giải quyết mâu thuẫn này là phân màn phân cảnh. "Màn" là một giai đoạn lớn trong sự phát triển của tình tiết kịch, "cảnh" là một giai đoạn nhỏ của tình tiết kịch, có màn một cảnh, có màn nhiều cảnh. Phân màn phân cảnh một mặt có thể làm nổi bật điểm quan trọng khiến cho tình tiết kịch càng tập trung chặt chẽ, mặt khác có thể giảm thiểu đầu mối và chi tiết vụn vặt, rất có lợi cho sự nắm bắt của khán giả.
- Phân màn phân cảnh có hai loại cụ thể không giống nhau. Một là lấy sân khấu làm không gian cố định tương đối, chọn lấy biện pháp phân màn phân cảnh, cắt lấy mặt ngang của cuộc sống, lấy xung đột kịch đặt trong bối cảnh riêng để biểu hiện, thời gian phát sinh của tình tiết trong một màn hoặc cảnh và thời gian biểu diễn tình tiết đó đại thể hợp thành một. Một là, giữa màn và cảnh hoặc giữa cảnh và cảnh tất yếu có không gian và thời gian tương đương. Kịch nói phần lớn đều chọn cách làm này. Hai là, cách làm của ca kịch Trung Quốc, lấy sân khấu làm nơi biểu diễn mang tính giả định, chọn thái độ siêu nhiên đối với thời gian, không gian sân khấu, thời gian và không gian sân khấu hoàn toàn do hành động hư cấu của diên viên giả định, có thể chuyển từ không gian này sang không gian khác, có thể có bố trí cảnh, cũng có thể không bố trí cảnh, có thể hạ màn, cũng có thể không hạ màn, ba, năm người trên sân khấu có thể thay cho đám đông hàng nghìn người, chạy ba bước có thể thay cho việc vượt trăm sông nghìn núi. Thủ pháp 1 thuộc về tả thực, thủ pháp 2 thuộc về tả ý.
1.3.2.5 Ngôn ngữ kịch
- Ngôn ngữ kịch rất giàu tính hành động, được cá tính hóa và giàu ẩn ý. Ngôn ngữ kịch chủ yếu là ngôn ngữ nhân vật, rất ít ngôn ngữ của người trần thuật, toàn bộ nội dung cơ bản của kịch đều dựa trên sự hoàn thành ngôn ngữ nhân vật. Ngôn ngữ nhân vật đảm nhiệm nhiệm vụ thúc đẩy xung đột kịch, triển khai tình cảnh kịch, hiển thị tính cánh nhân vật. Vì thế yêu cầu ngôn ngữ kịch phải có tính hành động, cá tính hóa và giàu ẩn ý.
- Tính hành động của ngôn ngữ kịch một mặt chỉ hiện tượng ngôn ngữ đối thoại, độc thoại của nhân vật luôn kết hợp với hình dáng, điệu bộ, cử chỉ, thổ lộ tình cảm, động tác hình thể, khiến cho diễn viên vừa thốt ra lời kịch vừa diễn những động tác, hành vi tương ứng; mặt khác chỉ hiện tượng ngôn ngữ đối thoại có sức ảnh hưởng, sức tác động mạnh mẽ đến người khác, thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của tình huống kịch, biểu hiện sâu sắc tư tưởng, ý chí, dục vọng, tình cảm. Laosun nói: "Đối thoại thể hiện cách nghĩ, cách cảm thông thường như nói chuyện hoặc mang tính trừu tượng thì không có kịch tính. Lời đối thoại phải miêu tả hoặc biểu hiện ra hành động thì mới có giá trị". Nếu như đối thoại giữa các nhân vật, mặc dù mỗi bên đều biểu hiện ra tư tưởng, tình cảm của mình, nhưng lời nói của bên này không ảnh hưởng đến lời nói của bên kia, tâm tình hai bên từ đầu đến cuối không biến đổi, nội dung đối thoại trực tiếp được chú ý thì cũng không tạo được hứng thú kịch. Tính hành động trong ngôn ngữ kịch chỉ việc nhân vật trong khi đối thoại đã ảnh hưởng lẫn nhau về cách kiến giải, tình cảm, tư tưởng, quyết định mối quan hệ tương hỗ giữa cách nhân vật.
- Tính cá thể hóa của ngôn ngữ văn học kịch là chỉ đối thoại, độc thoại của nhân vật vừa phải phù hợp với thân phận, tuổi tác, số phận, nghề nghiệp, địa vị xã hội, trình độ văn hóa, thói quen sinh hoạt, sở thích hứng thú, vừa biểu hiện được tư tưởng, tình cảm, đặc trưng cá tính của nhân vật, đây chính là người thế nào thì nói thế ấy, nói như thế nào sẽ biểu hiện tính cách như thế ấy.
- Ngôn ngữ kịch chứa nhiều ẩn ý là chỉ ngôn ngữ nhân vật phải ý ở ngoài lời, là nhân vật không trực tiếp nói ra, mà tác giả ngụ ở trong ngôn ngữ, khán giả căn cứ vào tình cảnh trong kịch và lời thoại có thể lĩnh hội được ý tứ. Văn bản kịch chính là kịch bản gốc dùng để diễn trên sân khấu cho khán giả có thể xem và nghe hiểu được kịch, cho nên, ngôn ngữ kịch trước hết phải rõ ràng, dễ hiểu, khẩu ngữ hóa, tránh trống rỗng, tối nghĩa, đọc lên có thể hiểu ngay, nghe xong có thể dễ lọt lỗ tai, đồng thời lại phải hàm súc khiến cho trong lời có lời, ý ở ngoài lời, từ đó mà có thể tìm thấy ý vị.
1.3.1. Phương pháp đọc hiểu tác phẩm kịch trong nhà trường
- Xác định thể loại kịch.
- Tìm hiểu nhân vật kịch.
- Tìm hiểu xung đột kịch.
- Tìm hiểu hành động kịch.
- Tìm hiểu lời thoại.
Dựa trên những đặc trưng ấy, người phân tích cần làm sáng tỏ mỗi đặc điểm kịch thông qua một văn bản kịch cụ thể. Sự phân tích có hệ thống và toàn diện đảm bảo giúp chúng ta hiểu được văn bản kịch và có được bài viết chi tiết, rõ ràng và đầy đủ, đáp ứng được yêu cầu của các đề bài tìm hiểu.
2. GIÁ TRỊ VĂN HỌC VÀ TIẾP NHẬN VĂN HỌC2.1 Giá trị văn học
Giá trị văn học là sản phẩm kết tinh từ quá trình văn học, đáp ứng những nhu cầu khác nhau của cuộc sống con người, tác động sâu sắc tới cuộc sống và con người. Ở đây chỉ nói về ba giá trị cơ bản của văn học.
2.1.1 Giá trị nhận thức
- Xét về thực chất, tác phẩm văn học là kết quả của quá trình nhà văn khám phá, lí giải hiện thực đời sống rồi chuyển hoá những hiểu biết đó vào nội dung tác phẩm nhằm đáp ứng nhu cầu nhận thức của con người. Vì sao con người lại có nhu cầu đó? Bởi vì mỗi người thường chỉ sống trong một khoảng thời gian nhất định, ở một địa điểm nhất định, với những mối quan hệ nhất định trong gia đình và xã hội. Văn học chính là một phương tiện có khả năng phá vỡ giới hạn tồn tại trong không gian và thời gian thực tế của mỗi cá nhân, đồng thời đem lại cho họ khả năng sống cuộc sống của nhiều người khác, sống ở nhiều thời đại, sống ở nhiều xứ sở. Như vậy, giá trị nhận thức là khả năng của văn học có thể đáp ứng được yêu cầu của con người muốn hiểu biết rõ hơn, sâu hơn cuộc sống xung quanh và chính bản thân mình, từ đó tác động vào cuộc sống có hiệu quả hơn.
- Trước hết, văn học có thể mang tới cho người đọc những nhận thức mới mẻ và sâu rộng về nhiều mặt của cuộc sống trong những khoảng thời gian và không gian khác nhau. Những tác phẩm của một thời đã xa như Truyện Kiều, Hoàng Lê nhất thống chí, ... có thể đưa con người trở về với quá khứ của dân tộc và nhân loại, khi đó "văn học là tiếng nói của các thời đại, là cuộc đối thoại chứa chan tình nghĩa giữa người xưa và người nay" (Nguyễn Khánh Toàn).
- Đồng thời chính từ cuộc đời của người khác, mỗi người đọc có thể liên hệ, so sánh, đối chiếu để hiểu chính bản thân mình hơn với tư cách là một con người cá nhân. Đó chính là quá trình tự nhận thức mà văn học mang tới cho mỗi người.
2.1.2 Giá trị giáo dục
- Trong sự tồn tại của văn học, giá trị nhận thức luôn là tiền đề của giá trị giáo dục. Không có nhận thức đúng đắn thì văn học không thể giáo dục được con người. Ngược lại, giá trị giáo dục làm sâu sắc thêm giá trị nhận thức của văn học đối với đời sống, bởi vì người ta nhận thức không phải chỉ để nhận thức mà nhận thức là để hành động. Do đâu mà văn học có giá trị giáo dục? Có lẽ bởi vì con người không chỉ có nhu cầu hiểu biết mà còn có nhu cầu hướng thiện, con người luôn khao khát một cuộc sống tốt lành, chan hoà tình yêu thương giữa người với người; mặt khác còn bởi vì trong khi phản ánh hiện thực, dù trực tiếp hay gián tiếp bao giờ nhà văn cũng bộc lộ một thái độ tư tưởng - tình cảm, một sự nhận xét, đánh giá của mình,... tất cả đều ít nhiều tác động tới người đọc và đó cũng chính là giáo dục.
- Giá trị giáo dục của văn học trước hết biểu hiện ở khả năng đem đến cho con người những bài học quý giá về lẽ sống để họ tự rèn luyện bản thân mình ngày một tốt đẹp hơn. Về tư tưởng, văn học hình thành trong người đọc một lí tưởng tiến bộ, giúp cho họ có thái độ và quan điểm đúng đắn về cuộc sống. Có thể thấy những ý nghĩa đó trong câu tục ngữ "Chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo", trong lời thơ của Trần Quang Khải: "Thái bình nên gắng sức - Non nước ấy ngàn thu". Về tình cảm, văn học giúp con người biết yêu ghét đúng đắn, làm cho tâm hồn con người trở nên lành mạnh, trong sáng, cao thượng hơn; chẳng hạn câu ca dao "Nhiễu điều phủ lấy giá gương - Người trong một nước phải thương nhau cùng" khơi dậy biết bao thuỷ chung ân nghĩa của tình cảm đồng bào. Về đạo đức, văn học nâng đỡ cho nhân cách của con người phát triển, giúp cho họ biết phân biệt phải - trái, tốt - xấu, đúng - sai, có quan hệ tốt đẹp và biết gắn bó cuộc sống của cá nhân mình với cuộc sống của mọi người. Tóm lại, giá trị giáo dục là khả năng của văn học có thể thay đổi hoặc nâng cao tư tưởng, tình cảm của con người theo chiều hướng tích cực, tốt đẹp, tiến bộ, đồng thời làm cho con người ngày càng hoàn thiện về đạo đức.
- Cũng cần thấy rằng đặc trưng giáo dục của văn học hoàn toàn khác với những nguyên tắc áp đặt của luật pháp hay những lời giáo huấn trực tiếp trong những bài giảng đạo đức, bởi văn học giáo dục con người bằng con đường từ cảm xúc tới nhận thức, bằng cái thật, cái đúng, cái đẹp của những hình tượng sinh động, đầy sức thuyết phục. Có lẽ vì thế tác dụng giáo dục của văn học không phải ngay lập tức mà dần dần, thấm sâu nhưng rất lâu bền, nó gợi những cảm nghĩ sâu xa về con người và cuộc đời, nó gián tiếp đưa ra những bài học, những đề nghị về cách sống. Tác dụng đó vẫn phát huy ngay cả khi văn học miêu tả cái xấu, cái ác, nếu như người viết có cái tâm trong sáng, biết đứng vững trên lập trường của cái tốt, cái thiện, biết nhân danh công lí và những giá trị nhân bản cao đẹp của con người.
Như vậy, văn học chính là một phương tiện hiệu nghiệm để tạo nên ở con người tất cả những gì mang tính nhân đạo chân chính. Với khả năng ấy, văn học không chỉ góp phần hoàn thiện bản thân con người, mà còn hướng họ tới những hành động cụ thể, thiết thực, vì một cuộc đời ngày càng tốt đẹp hơn.
2.1.3 Giá trịthẩm mĩ
- Giá trị nhận thức và giá trị giáo dục của văn học chỉ có thể phát huy một cách tích cực nhất, có hiệu quả cao nhất khi gắn với một giá trị tạo nên đặc trưng của văn học, đó là giá trị thẩm mĩ. Con người luôn có nhu cầu cảm thụ, thưởng thức cái đẹp và trong sự tồn tại của mình, con người không những muốn cuộc sống tốt hơn mà còn đẹp hơn. Nói đúng ra, bản thân nhiều sự vật, hiện tượng trong thế giới hiện thực đã có sẵn vẻ đẹp, nhưng không phải ai cũng có thể nhận biết và cảm thụ được những vẻ đẹp ấy. Do vậy, giá trị thẩm mĩ là khả năng của văn học có thể phát hiện và miêu tả những vẻ đẹp của cuộc sống một cách sinh động, giúp con người cảm nhận được và biết rung động một cách tinh tế, sâu sắc trước những vẻ đẹp đó.
- Giá trị thẩm mĩ của văn học được thực hiện trong một phạm vi hết sức rộng lớn, phong phú. Văn học mang tới cho con người những vẻ đẹp muôn hình muôn vẻ của cuộc đời: vẻ đẹp trong thiên nhiên, trong cảnh vật của đất nước (chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến), vẻ đẹp của những cảnh đời cụ thể trong cuộc sống hằng ngày, vẻ đẹp hào hùng của chiến trận (sử thi I-li-át của Hô-me-rơ, truyện Thánh Gióng). Đặc biệt, văn học đi sâu miêu tả vẻ đẹp của con người từ hình thể bên ngoài đến những diễn biến sâu xa của tư tưởng - tình cảm và những hành động gây ấn tượng thật khó quên với mọi người: Thuý Kiều với tài sắc vẹn toàn, hành động bán mình cứu cha và nỗi lòng đau xót, nhớ thương khi ở lầu Ngưng Bích). Văn học có thể phát hiện ra vẻ đẹp của những sự vật rất nhỏ bé, bình thường và cả vẻ đẹp của một dân tộc suốt trường kì lịch sử:
"Sống vững chãi bốn ngàn năm sừng sững,
Lưng đeo gươm, tay mềm mại bút hoa
Trong và thật: sáng hai bờ suy tưởng
Sống hiên ngang mà nhân ái chan hoà."
(Đi trên mảnh đất này, Huy Cận)
- Cái đẹp trong văn học không chỉ thể hiện ở nội dung mà còn ở hình thức, chỉ như thế văn học mới có tác dụng sâu sắc trong việc thoả mãn nhu cầu thẩm mĩ của con người. Hình thức đẹp là những thủ pháp làm cho hình tượng văn học trở nên sinh động, hấp dẫn, nghệ thuật kết cấu tác phẩm một cách chặt chẽ, hợp lí, nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ một cách điêu luyện,... Chẳng hạn, nghệ thuật điển hình hoá rất đặc sắc của Nam Cao trong Chí Phèo, cách hùng biện pháp nhân hoá, đảo ngữ và các từ láy trong câu thơ rất tài hoa của Xuân Diệu "Những luồng run rẩy rung rinh lá" v.v... Với cả nội dung đẹp và hình thức đẹp, văn học làm cho con người thêm mến yêu cuộc sống, thêm khao khát hướng tới những gì là đẹp đẽ, tốt lành.
Ba giá trị trên đây của văn học có mối liên hệ rất mật thiết. Không thể quan niệm rằng bộ phận này của tác phẩm đưa lại những thông tin nhận thức, bộ phận kia có ý nghĩa giáo dục và bộ phận còn lại thì thoả mãn nhu cầu thẩm mĩ, mà thực ra cả ba giá trị này cùng tác động tới người đọc. Cũng cần lưu ý, khi đề cập đến ba giá trị trên của văn học là nói theo thuật ngữ hiện đại, chứ thực ra từ xa xưa ông cha ta đã bàn tới những giá trị chân, thiện, mĩ của văn chương. Văn chương hướng tới chân, thiện, mĩ bao giờ cũng là văn chương cho mọi người và là văn chương của muôn đời.
2.2 Tiếp nhận văn học
Các giá trị văn học thể hiện sức tác động thông qua tiếp nhận văn học.
2.2.1 Tiếp nhậntrong đời sống văn học
- Cũng như bất cứ một loại hình nghệ thuật nào khác, trong đời sống văn học luôn có mối liên hệ qua lại giữa sáng tạo, truyền bá và tiếp nhận. Nếu tác giả là người sáng tạo văn học thì tác phẩm là phương tiện truyền bá văn học và người đọc là chủ thể tiếp nhận văn học. Không có người đọc, không có công chúng thì những cố gắng của tác giả, mọi giá trị của tác phẩm cũng trở nên vô nghĩa.
- Cần phân biệt tiếp nhận và đọc. Tiếp nhận rộng hơn đọc, vì trước khi có chữ viết và công nghệ in ấn, tác phẩm văn học đã được truyền miệng. Ngày nay, khi tác phẩm văn học chủ yếu được in ra, nhiều người vẫn tiếp nhận văn học không phải do đọc bằng mắt mà nghe bằng tai, như nghe chính tác giả đọc thơ, nghe "đọc truyện đêm khuya" trên đài phát thanh... Tiếp nhận văn học chính là quá trình người đọc hoà mình vào tác phẩm, rung động với nó, đắm chìm trong thế giới nghệ thuật được dựng lên bằng ngôn từ, lắng nghe tiếng nói của tác giả, thưởng thức cái hay, cái đẹp, tài nghệ của người nghệ sĩ sáng tạo. Bằng trí tưởng tượng, kinh nghiệm sống, vốn văn hoá và bằng cả tâm hồn mình, người đọc khám phá ý nghĩa của từng câu chữ, cảm nhận sức sống của từng hình ảnh, hình tượng, nhân vật, dõi theo diễn biến của câu chuyện, làm cho tác phẩm từ một văn bản khô khan biến thành một thế giới sống động, đầy sức cuốn hút. Như vậy, tiếp nhận văn học là hoạt động tích cực của cảm giác, tâm trí người đọc nhằm biến văn bản thành thế giới nghệ thuật trong tâm trí mình.
2.2.2 Tính chấttiếp nhận văn học
- Tiếp nhận văn học thực chất là một quá trình giao tiếp. Sự giao tiếp giữa tác giả với người tiếp nhận là mối quan hệ giữa người nói và người nghe, người viết và người đọc, người bày tỏ và người chia sẻ, cảm thông. Bao giờ người viết cũng mong người đọc hiểu mình, cảm nhận được những điều mình muốn gửi gắm, kí thác. Cao Bá Quát từng nói: "Xưa nay, nỗi khổ của người ta không gì bằng chữ tình, mà cái khó ở đời không gì bằng sự gặp gỡ". Gặp gỡ, đồng điệu hoàn toàn là điều vô cùng khó khăn. Song dẫu không có được sự gặp gỡ hoàn toàn, tác giả và người đọc thường vẫn có được sự tri âm nhất định ở một số khía cạnh nào đó, một vài suy nghĩ nào đó. Đọc Truyện Kiều, người không tán thành quan niệm "Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau" của Nguyễn Du vẫn có thể chia sẻ với ông nỗi đau nhân thế; người không bằng lòng việc tác giả để cho Từ Hải ra hàng vẫn có thể tâm đắc với những trang ngợi ca người anh hùng "Chọc trời khuấy nước mặc dầu - Dọc ngang nào biết trên đầu có ai",...
- Trong sự giao tiếp giữa tác phẩm với độc giả, cần chú ý tính chất cá thể hoá, tính chủ động, tích cực của người tiếp nhận. Ở đây, năng lực, thị hiếu, sở thích của cá nhân đóng vai trò rất quan trọng; tuỳ theo lứa tuổi già hay trẻ, trình độ học vấn cao hay thấp, kinh nghiệm sống nhiều hay ít mà có kết quả tiếp nhận cụ thể, riêng biệt cho mỗi người. Thậm chí cùng một người, lúc nhỏ đọc tác phẩm ấy đánh giá khác, sau lớn lên đánh giá khác, về già lại đánh giá khác. Tính khuynh hướng trong tư tưởng, tình cảm, trong thị hiếu thẩm mĩ càng làm cho sự tiếp nhận văn học mang đậm nét cá nhân và chính sự chủ động, tích cực của người tiếp nhận đã làm tăng thêm sức sống của tác phẩm. Tác phẩm văn học tuy miêu tả cuộc sống cụ thể, toàn vẹn, sinh động, nhưng vẫn còn rất nhiều điều mơ hồ, chưa rõ. Người đọc phải quan sát, tri giác để làm nổi lên những nét mờ, khôi phục những chỗ còn bỏ lửng, nhận ra mối liên hệ của những phần xa nhau, ý thức được sự chi phối của chỉnh thể đối với các bộ phận. Ở đây không chỉ có tác phẩm tác động tới người đọc, mà còn có việc tác động, tìm tòi của người đọc đối với văn bản. Thiếu sự tiếp nhận tích cực của người đọc thì tác phẩm chưa thể hiện lên thật sinh động, đầy đặn, hoàn chỉnh.
- Tính đa dạng, không thống nhất cũng là một điểm nổi bật trong sự giao tiếp của người đọc với tác phẩm. Tính chất này bộc lộ ở chỗ cùng một tác phẩm nhưng cảm thụ và đánh giá của công chúng có thể rất khác nhau. Đọc Truyện Kiều, người thấy ở Thuý Kiều tấm gương hiếu nghĩa, người coi nàng như là biểu tượng cho thân phận đau khổ của người phụ nữ,... Sự khác nhau trong cảm nhận, đánh giá tác phẩm có nguyên nhân ở cả tác phẩm và người đọc. Nội dung tác phẩm càng phong phú, hình tượng nghệ thuật càng phức tạp, ngôn từ càng đa nghĩa thì sự tiếp nhận của công chúng về tác phẩm càng lắm hình nhiều vẻ. Tuổi tác, kinh nghiệm sống, học vấn hay tâm trạng người đọc cũng tác động không nhỏ đến quá trình tiếp nhận tác phẩm. Chẳng hạn cùng đọc truyện Bà chúa tuyết của An-đéc-xen, trẻ em và người lớn đều thích thú, nhưng cách hiểu của mỗi người lại không giống nhau. Vẫn là bài Thơ duyên của Xuân Diệu nhưng khi buồn đọc khác, khi vui đọc khác, khi đang yêu đọc khác. Điều đáng lưu ý là, dù cách hiểu có khác nhau, nhưng người đọc cần cố gắng để đạt tới một cách hiểu đúng về tác phẩm, làm sao để tác phẩm toả sáng đúng với giá trị thực của nó.
2.2.3 Các cấp độtiếp nhận văn học
- Đọc và hiểu tác phẩm văn học là một hành động tự do, mỗi người có cách thức riêng, tuỳ theo trình độ, thói quen, thị hiếu, sở thích của mình, nhưng nếu nhìn nhận một cách khái quát vẫn có thể thấy những cấp độ nhất định trong cách thức tiếp nhận văn học. Thứ nhất là cách cảm thụ chỉ tập trung vào nội dung cụ thể, nội dung trực tiếp của tác phẩm, tức là xem tác phẩm kể chuyện gì, có tình ý gì, các tình tiết diễn biến ra sao, các nhân vật yêu ghét nhau thế nào, sống chết ra sao... Đó là cách tiếp nhận văn học đơn giản nhất nhưng cũng khá phổ biến. Thứ hai là cách cảm thụ qua nội dung trực tiếp để thấy nội dung tư tưởng của tác phẩm. Ở đây người đọc có tư duy phân tích, khái quát, biết từ những gì cụ thể, sinh động mà thấy vấn đề đặt ra và cách thức người viết đánh giá, giải quyết vấn đề theo một khuynh hướng tư tưởng - tình cảm nào đó. Thứ ba là cách cảm thụ chú ý đến cả nội dung và hình thức biểu hiện của tác phẩm, thấy cả giá trị tư tưởng và giá trị nghệ thuật của nó, cảm nhận được cái hấp dẫn, sinh động của đời sống được tái hiện, lại biết thưởng thức cái hay, cái đẹp của câu chữ, kết cấu, loại thể, hình tượng..., qua đó không chỉ thấy rõ ý nghĩa xã hội sâu sắc của tác phẩm mà còn xem việc đọc tác phẩm là cách để nghĩ, để cảm, để tự đối thoại với mình và đối thoại với tác giả, suy tư về cuộc đời, từ đó tác động tích cực vào tiến trình đời sống.
- Để tiếp nhận văn học thực sự có hiệu quả, người đọc phải không ngừng nâng cao trình độ hiểu biết của mình, tích luỹ kinh nghiệm tiếp nhận, biết trân trọng sản phẩm sáng tạo của một ý thức khác, lắng nghe một tiếng nói khác, làm quen với một giá trị văn hoá khác, tìm cách để hiểu tác phẩm một cách khách quan, toàn vẹn, nhờ thế mà làm phong phú thêm vốn cảm thụ của mình. Không nên thụ động mà phải tiếp nhận văn học một cách chủ động, tích cực, sáng tạo, hướng tới cái hay, cái đẹp, cái đúng. Thói quen đọc - hiểu theo kiểu suy diễn tuỳ tiện chẳng những làm thui chột các giá trị khách quan vốn có của tác phẩm, mà còn làm nghèo năng lực tiếp nhận các tác phẩm mới, lạ và khó. Người ta bao giờ cũng có phát hiện mới về tác phẩm trên tầm cao của kiến thức, tình yêu thiết tha với cái đẹp, sự say mê và rung cảm mãnh liệt với văn chương.
3 VĂN HỌC - NHÀ VĂN - QUÁ TRÌNH SÁNG TÁC3.1 VĂN HỌC3.1.1 Kháiniệm văn học
- Văn học là một loại hình sáng tác. tái hiện những vấn đề của cuộc sống xã hội và con người.
- Theo nghĩa rộng, văn học sử dụng ngôn từ một cách nghệ thuật. Theo nghĩa này thì không có chi văn bản thơ, truyện, kịch, mà các văn bản hịch, cáo, chiếu, biểu, sử kí hoặc kí, tạp văn,... đều có thể coi là văn học. Theo nghĩa hẹp, vắn học chỉ bao- gồm các sáng tác có hình tượng nghệ thuật được xây dựng bảng hư cấu (nghĩa là tạo ra hình tượng bằng tưởng tượng) như sử thi truyền thuyết,'truyện cổ tích, truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch, thơ, phú...
3.1.2 Đặc trưng của văn học3.1.2.1 Đặc trưng về đối tượng phản ánh
Có rất nhiều quan niệm khác nhau về đối tượng phản ánh của văn học.
- Theo những nhà mỹ học duy tâm khách quan, văn học hướng nhận thức về thế giới vĩnh hằng của Thượng đế, của cái ý niệm có trước loài người. Sự chiêm nghiệm, sự hồi tưởng và miêu tả cái đẹp của ý niệm tuyệt đối là đối tượng của văn học.
- Đối tượng phản ánh của văn học là toàn bộ vấn đề đời sống vật chất và tinh thần của con người. Những nhà mỹ học duy tâm chủ quan lại cho rằng đối tượng của văn học nằm ngay trong những cảm giác chủ quan của người nghệ sĩ và nó là cái tôi bề sâu không liên quan gì đến đời sống hiện thực.
- Theo các nhà duy vật chủ nghĩa: Đối tượng phản ánh của văn học nằm ở trong hiện thực khách quan và đối tượng đó phải mang tính thẩm mĩ. Đây được xem là khái niệm đúng đắn và đầy đủ nhất.
Đặc trưng cơ bản của đối tượng phản ánh là toàn bộ sự sống của con nguời như tư tưởng, tình cảm, đạo đức của con người.
3.1.2.2 Đặc trưng về nội dung phản ánh của văn học
- Nội dung phản ánh của văn học là đối tượng đã được ý thức, tái hiện có chọn lọc và khái quát trong tác phẩm và biểu hiện trong tác phẩm như là một tư tưởng về đời sống hiên thực. Đặc điểm quan trọng của nội dung văn học là khát vọng tha thiết của nhà văn muốn thể hiện một quan niệm về chân lí của đời sống.
- Nội dung của văn học là cuộc sống được ý thức về mặt tư tưởng, giá trị. Nó không chỉ gắn liền về một quan niệm với chân lí của đời sống mà còn gắn liền với cảm hứng thẩm mĩ và thiên hướng đánh giá.
3.1.2.3 Đặc trưng về phương tiện phản ánh của văn học
- Đây được hiểu là đặc trưng về ngôn từ nghệ thuật. Ngôn từ trong văn học có tính chính xác và điêu luyên, có tác dụng ra được cái "thần" của sự vật, hiện tượng, chỉ ra đúng bản chất của đối tượng được miêu tả trong tác phẩm. Bên cạnh đó, ngôn từ trong văn học đòi hỏi tính chính xác cao độ, vì vậy cũng đòi hỏi cả người viết lần người đọc phải có sự nhạy cảm và tinh tế.
- Ngôn từ nghệ thuật cũng cần thể hiện tính hàm xúc, đa nghĩa. Ý tại ngôn ngoại tạo ra những dư vang, nén chặt ý tạo ra sức nặng và nhiều lượng ngữ nghĩa. Cùng với đó là các biện pháp tu từ và sưn chuyển nghĩa. Điều này tạo nên tính đã nghĩa của văn học.
Phương diện phản ánh của văn học cũng cần có tính hình tượng. Đây được xem là đặc trưng quan trọng nhất của văn học. Nó cũng là yếu tố thể hiện hiện thực, trạng thái hay sự vận động của con người trong tác phẩm.
- Ngôn từ văn học dùng để sáng tạo hình tượng. Hình tượng nghệ thuật của văn học có thể là con người hoặc là toàn bộ sự vật, hiện tượng đời sống. Hình tượng nghệ thuật tái hiện đời sống trong các hiện tượng riêng biệt của nó một cách cụ thể, độc đáo, không lặp lại nhưng chứa đựng những thuộc tính chung của hiện tượng, sự vật, chứa đựng quy luật chung của đời sống, là các khách thể đời sống được nghệ sĩ tái hiện lại một cách sáng tạo trong những tác phẩm nghệ thuật. Đó có thể là một đồ vật, một phong cảnh thiên nhiên -hay. một sự kiện xã hội được cảm nhận.
+ Hình tượng nghệ thuật chuyển tải tư tưởng, tình cảm, thẩm mĩ đến với độc giả. Vì thế hình tượng nghệ thuật là một phương tiện giao tiếp đặc biệt, không chỉ là thế giới đời sống mà còn là một thế giới "biết nói? Thông qua các chi tiết nhân vật, cảnh vật và quan hệ giữa các nhân vật, nhà -văn gửi gắm tình cảm của mình đến với bạn đọc, truyền cho người đọc cách nhìn cách cảm, cách nghĩ về cuộc đời, gợi lên một cách hiểu, một quan niệm vế cuộc sống. Ví dụ qua nhân vật ông Hai trong Làng , Kim Lân đến người đọc về tình yêu quê hương hoà quyện với tình yêu đất nước.
- Do yêu cầu sáng tạo hình tượng mà ngôn từ văn học mang tính biểu tượng và tính truyền cảm.
+ Biểu tượng trong văn học là những hình ảnh cụ thể, sinh động, gợi cảm nhưng lại mang ý nghĩa quy ước của nhà văn hoặc của người đọc. Những hình ảnh từ ngữ thông thường như. tre, con cò, xuân, gió... khi đưa vào thơ ca đấu có thể trở thành những biểu tượng nghệ thuật mang nội dung căm xúc và khái quát. Tính biểu tượng làm cho ngôn từ văn học có khả năng biểu đạt rộng và phong phú hơn so với ngôn từ trong giao tiếp thông thường.
+ Tính truyền cảm có nhiều dạng thức biểu hiện: có khi trực tiếp, có khi gián tiếp, có khi biểu hiện qua những hình tượng bao quát (ta không khỏi ngậm ngùi, chua xót khi hiện lên hình ảnh chị Dậu, lão Hạc lâm vào bước đường cùng trong sự khốn khổ và bế tắc bởi cái xã hội bất công, chà đạp con người), cũng có khi qua một số tư ngữ cụ thể (Chính Hữu chỉ bằng hai từ "Đồng chí là đã thể hiện sự dồn nén cảm xúc đến mãnh liệt, đến lúc bật lên mạnh mẽ). Tính biểu cảm biểu lộ rõ rệt nhất khi tác giả muốn nhấn mánh một. cảm xúc nội tâm của mình bằng cách. gợi về quá khứ, tài hiện lại những gì gần gũi, thân thương.
3.1.2.4 Tính chínhxác, tinh luyện
Thường thì miêu tả một hiện tượng có rất nhiễu từ để diễn tả, nhưng trong đó có một từ hay hất đúng nhất với điều mà nhà văn định nói. Tác giả phải chọn lựa từ ngữ ấy, đó là từ không thể thay thế được. Nhà văn Mô – pát – xăng đã viết: Đối tượng mà anh muốn nói đến dù là cái gì cũng chỉ có một từ để biểu hiện nó. Trong câu "Nhớ chân người bước lên đèo/ Người đi rừng núi trông theo bóng người", tác giả đã khéo léo trong việc dùng từ bước mà không phải là chạy, leo, hay trèo,... diễn tả được phong thái ung dung, tự tại, bước đi khoan thai của gười. Chỉ một từ thôi nhưng nếu sử dụng chính xác nó sẽ gợi lên biết bao nhiêu là ý nghĩa. Nhà văn Pháp Vích-to Huy-gô đã viết: "Trong tiếng Pháp, không có từ nào dở, không có từ nào hay, từ nào đặt đúng chỗ là từ đó hay.
3.1.2.5 Tính cá thể, tính hệ thống, tính đa phong cách
- Tính cá thể là làm nổi bật lên cái vẻ riêng, làm rõ ra sự khác biệt giữa nhân vật này với nhân vật khác, giữa cảnh vật này với cảnh vật khác.
- Tính hệ thống của ngôn nhà tính chất mà theo đó các yếu tố ngôn ngữ trong một tác phẩm (ngữ âm, từ ngữ, cấu trúc câu) phải đồng nhất, phù hợp với nhau, giản thích hỗ trợ cho nhau, quy tụ lại để đạt tới một hiệu quả diễn đạt chung nào đó.
- Tính đa phong cách: do yểu cầu cá thể hóa, do yêu cầu của tính hình tượng nên trong tác phẩm khi viết vế nhân vật thuộc tầng lớp xã hội nào đó, viết vế sự việc thuộc lĩnh vực nào; tái hiện lời ăn tiếng nói của nhân vật đang diễn ra ở hoạt động xã hội nào thì tác giả phu sư dựng ngôn ngữ của phong cách chức năng phù hợp với tầng lớp lĩnh vực, hoạt động xã hội đó.
3.1.2.6 Tính phi vật thể của ngôn ngữ
- Tính độc đáo của chất liệu xây đã nên hình tượng văn chương là ngôn từ đã khiến cho hình tượng văn chương mang tinh phi vật thể nhưng có khả năng tác động vào trí tuệ, vào liên tưởng của con người. Ngôn từ giúp văn học đạt được tính vạn năng - trong việc chiếm lĩnh được tất cả những gì mắt thấy tai nghe, tái hiện được cả những điều mơ hồ, vô hình nhưng có thật trong cảm giác của con người . Các loại hình nghệ thuật như hội họa, điêu khắc, sân khấu. điện ảnh sử dụng các chất liệu như màu sắc, đường nét, hình khá, diễn viên, các hình ảnh chụp để xây dựng hình tượng - những chất liệu ấy là những vật thể hữu hình có khả năng tác động trực tiếp đến thị giác của con người. Với chất liệu ngôn ngữ, văn chương cũng tạo ra những hình tượng, bức tranh. Những hình tượng đó tác động vào trí tuệ gợi lên liên tưởng và tưởng tượng trong tâm trí người đọc, do đó mà ít xác định hơn mơ hồ hơn.
- Tính phi vật thể có thể phản ánh quá trình vận động không ngừng của đời sống trong không gian và thời gian ở bất kì giới hạn nào. Nhà thơ Hữu Thỉnh từng tái hiện sinh động sự thay áo của đất trời qua hương ở đầu mùa lân gió, sương trong Sang thu:
"Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi."
Ở đây đã có sự kết hợp hài hoà giữa động và tĩnh, thính giác, thị giác, xúc giác và khứu giác. Chính ngôn từ nghệ thuật là cái kho vô tận những hình ảnh, âm thanh tạo nên bức tranh về sự giao mùa giữa hai mùa hạ và thu thật đặc sắc. Chỉ có ngôn ngữ văn học mới tái hiện cụ thể, sinh động nhất từng hiện tượng, sự vật Cái mà những loại hình nghệ thuật khác không thể làm được. Cái hai hình, thơ mộng của đời sống trong không gian và thời gian, làm sao hội họa, kiến trúc có thể tạo được. Và ta chỉ có thể cảm nhận được bằng cả thị giác, thính giác, xúc giác những âm hưởng ấy.
Không gian màu sắc được tái hiện trong văn học thật đa dạng và phong phú. Đó không những là sắc màu cụ thể nhìn thấy trong hiện thực mà còn là những màu sắc hư ảo tồn tại trong thế giới tinh thần. Cái sắc màu hư ảo ấy hội họa khó lòng tái hiện được nhưng văn học lại có khả năng tái hiện sinh động và gợi lên được một cách trực quan.
3.1.3 Chức năng của văn học3.1.3.1 Chức năng nhận thức
- Văn học có chức năng khám phá những quy luật khách quan của đời sống xã hội và đời sống tâm hồn của con người. Nó có khả năng đáp ứng nhu cầu của con người muốn hiểu biết về thế giới xung quanh và chính bản thân mình. Không phải ngẫu nhiên đã có người cho rằng: "Văn học là cuốn sách giáo khoa của đời sống". Chính cuốn sách ấy đã thể hiện một cách tinh tế và sắc sảo từng đổi thay, từng bước vận động của xã hội. Nó tựa như "chiếc chìa khoá vàng mở ra muôn cánh cửa bí ẩn, đưa con người tới ngưỡng cửa mới của sự hiểu biết thế giới xung quanh".
- Tác phẩm văn học đem tới cho người đọc những kiến thức nhất định. Nhưng đấy không phải là mục đích cuối cùng của nhà văn. Nhà văn muốn qua những kiến thức đó, hướng người đọc tới những nhận thức về con người, về cuộc sống.
3.1.3.2 Chức năng giáo dục
- Nghệ thuật là hình thái đặc trưng, hình thành từ những tìm tòi, khám phá của người nghệ sĩ về hiện thực đời sống. Nghệ thuật mang đến cái nhìn toàn diện và đầy đủ hơn về xã hội, thể hiện những quan điểm của người nghệ sĩ, từ đó tác động mạnh mẽ đến nhận thức, tình cảm, cảm xúc của người tiếp nhận. Chính vì vậy, nghệ thuật luôn ẩn chứa sử mệnh cao cả và thiêng liêng, góp phần làm đẹp cho cuộc đời. Tố Hữu đã từng phát biểu: "Nghệ thuật là câu trả lời đầy thẩm mĩ cho con người; thay đổi, cải thiện thế giới tinh thần của con người, nâng con người lên". Còn Nguyên Ngọc thì khẳng định: "Nghệ thuật là sự vươn tới, sự hướng về, sự níu giữ mãi mãi tính người cho con người".
- Muốn nhận thức một cách cúng đắn thì phải được giáo dục toàn diện. Vì thế chức năng giáo dục của văn học vô cùng quan trọng trong mọi thời đại. Văn học vừa bồi đắp tư tưởng tình cảm cho con người vừa thanh lọc tâm hồn còn người. Văn học hướng chúng ta điến những tư tưởng cao đẹp, biết đâu là điều đáng yêu đáng ghét, biết trân trọng cái thiện, cái đẹp đồng thời biết căm ghét và lên án cái xấu xa, độc ác vô nhân đạo. Và thanh lọc tâm hồn bởi những suy nghĩ đen tối, những xấu xa, ích kỉ để tâm hồn được trong sáng, đẹp đẽ, tự nhiên như cỏ cây hoa lá. Việc bồi đắp, thanh lọc của văn học âu cũng là ước mơ, mong muốn của tác giả: trên thế giới này, tất cả mọi người đều có những hành vi cao cả và đẹp đẽ!
3.1.3.3 Chức năng thẩm mĩ
- Văn học đem đến cho con người những cảm nhận chân thực, sâu sắc và tinh tế nhất. Nghệ thuật sáng tạo trên nguyên tắc cái đẹp, vì thế không thể thoát khỏi quy luật của cái đẹp. Văn học luôn khai thác cái đẹp ở nhiều góc độ: thiên nhiên, đất nước, con người, con người, dân tộc. Giá trị thẩm mi của tác phẩm ẩn chứa cả nội dung và hình thức nghệ thuật. Nó đem đến cho người đọc cảm nhận, rung cảm về những nét đẹp giản dị, gần gũi ở cả cuộc đời thường lẫn những nét đẹp tượng trưng, mới lạ. Cách thức xây dựng ngôn từ của mỗi nhà văn, nhà thơ cũng đem lại nét đẹp cho tác phẩm.
Ta vẫn yêu biết bao cái sắc Huế trong những vần thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" của Hàn Mặc Tử:
"Sao anh không về chơi thôn Vĩ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vười ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền".
(Đây thôn Vĩ Dạ – Hàn Mạc Tử)
Câu thơ mở đầu hầu hết là thanh bằng, gợi âm điệu ngọt ngào của giọng người xứ Huế. Phải chăng đó là lời thăm hỏi, lời mời trách dịu dàng, tha thiết của người xưa đang vang trong trí tưởng tượng của thi nhân? Hay đây là lời thi nhân đang tự nhủ, tự nói với chính mình trong giây phút nhớ thương về quá khứ, về miền đất đẹp đẽ bình yên có người xưa? Chẳng biết. Chỉ biết rằng sau lời mời trách ấy, tâm hồn đau thương và cô đơn của thi sĩ hồi sinh, thi sĩ đã sống trong một trời cảm xúc với bao nhiêu kỉ niệm về thôn Vĩ.
Cảnh đất trời xứ Huế đã hiện ra thật đẹp, rất thơ, rất thực, tràn đầy sức sống với khu vườn xanh mát đang tắm mình trong khoảnh khắc của hừng đông. Ánh nắng ban mai tinh khôi, trong trẻo như đang tỏa hương chan hòa khắp thôn Vĩ. Cảnh vật gần gũi, giản dị, mộc mạc đơn sơ như chính gương mặt người xứ Huế "lá trúc che ngang mặt chữ điền". Vẻ đẹp của con người và thiên nhiên với bao đường nét kỳ thú như vậy đã trơ thành một đặc trưng cho những cảm hửng của thơ ca lãng mạn đầu thế kỷ XX.
- Chức năng thẩm mĩ là chức năng đặc trưng, đóng vai trò như một hệ thống của các chức năng. Về phía người sáng tác: Khi nghệ sĩ sáng tạo ra một tác phẩm văn học cũng là lúc họ đang đi đến cái hay, cái đẹp, đó là một hành trình vô cùng vất vả và gian khổ nhưng đầy sự thích thú và say mê. Bởi khi bắt tay vào viết tác giả phải tìm kiếm ngôn ngữ biện pháp nghệ thuật, cám diễn đạt sao cho hay và hợp lí nhất, để tạo ra một hình tượng nghệ thuật một tứ thơ độc đáo nhất. Nhưng cũng chính trong quá trình ấy, văn học đã mang đến một nguồn sinh khí làm xua tan bao nỗi vất vả đã mang đến một ngọn lửa rực cháy làm dấy lên trong lòng tác giả những thích thú, say mê, nhiệt huyết,... Về phía người tiếp nhận: chính niềm thích thú say mê trong quá trình sáng tác sẽ mang lại cho độc giả một sự trình thú thẩm mĩ. Khi đọc một tác phẩm văn học là lúc ta có nhu cầu thưởng thức cái hay, cái đẹp. Bởi cái vẻ đẹp của tác phẩm làm rưng động trái tim của bao người như bất cứ sự rưng động khác trước cái đẹp trong cuộc đời. Nhưng độc giả không chỉ có nhu cầu thưởng thức mà có nhu cầu sáng tạo, đồng sáng tạo với tác giả.
3.2 Nhà văn
3.2.1 Tư chất nghệ sĩ: Giàu tình cảm, tâm hồn phong phú, nhân cách đẹp
- Giàu tình cảm:
+ Trong khoa học, tình cảm nằm ngay trong tiền đề sáng tạo, còn trong văn học tình cảm nằm ngay trong thành phần sáng tạo. Tình cảm ở người nghệ sĩ ấy chính là trái tim mãnh liệt và nồng cháy của mình trước cuộc sống và cả trong sáng tác. Bởi tình cảm trong nhà văn như yêu, ghét, vui, thương mến hay căm giận, hờn dỗi đều đến độ mãnh liệt... "Gặp cái gì hay và đáng yêu thì họ ôm choàng lấy, nếu gặp điều đáng giận thì họ sẽ bác bỏ (Lỗ Tấn). Ngô Thì Nhậm cũng nói đến tính mãnh liệt, thắm thiết đó ở tình cảm nhà văn: "Tình cảm ấy dồi dào thì thơ nảy sinh, hoặc là tình cảm nam nữ thương nhau, hoặc tình vợ chồng nhớ nhau... Niềm vui thích của ta ở triều chính thì ta cũng biết trong việc triều chính cũng có tình cảm nam nữ, nỗi nhớ mong của ta là ruộng vườn, thì ruộng vườn có cái tình vợ chồng". Và nhà văn là người sáng tạo ra cái đẹp nghệ thuật cho con người và cuộc đời nên người nghệ sĩ ấy không thể thiếu được một trái tim mãnh liệt, phong phú và sâu sắc.
+ Tâm hồn nhạy cảm là sự thể hiện của trái tim giàu tình cảm của nhà văn. Đó là nhà văn thâm nhập vào đối tượng với một con tim nóng hổi, chuyển hóa cái đối tượng khách quan thành cái chủ quan đến mức Tưởng như chính mình sinh ra cái khách quan ấy. Để từ đó khi viết họ dùng cái vốn bản thân sống sâu nhất cảm nhận cuộc đời, ví dụ như trong một cái thời có thể gọi như một trận địa giai cấp, người dân lầm than thì nhà văn không chỉ nhìn mùa vụ dưới hình thức là cảnh mà còn phải biết những ngày này, người thợ gặt nghĩ gì, nhà chủ nghĩa nghĩ gì, hay dân mót nghĩ gì, làm gì.
Sự mẫn cảm đặc biệt với đời như vui buồn hay toán trở với những điều người khác cho là bình thường có thể gạt bỏ đi một cách dễ dàng, đó cũng là một trong những cách thể hiện tình cảm ở người nghệ sĩ.
+ Tình cảm là yếu tố quyết định đến sự sinh thành, giá trị và tầm cỡ của nghệ thuật. Có lẽ ta cũng nhìn thấu được vấn đề này, trong lĩnh vực văn học thì tình cảm có vai trò quyết định tho 'một tác phẩm là rất cao, Khi Lê Qúy Đôn khẳng định: "Thơ khởi phát từ trong lòng người" là có ý nói tình cảm quyết định đến sự sinh thành của thơ. Ngô Thì Nhậm thì nhấn mạnh: "Hãy xúc động hồn thơ cho ngòi bút có thần" nghĩa là tình cám quyết định đến chất lượng thơ.
- Tâm hồn phong phú:
+ Người nghệ sĩ là người tạo ra cái đẹp cho cuộc đời, vì thế chắc chắn sẽ không thể thiếu .đi một tâm hồn phong phú. Tâm hồn phong phú ấy chính là khả năng cảm thông, chia sẻ, đồng cảm với người khác.
+ Cần phân biệt rõ một tâm hồn phong phú với một tâm hồn nhạy cảm: Nếu như một tâm hồn phong phú mở ra giới hạn sống thơ con người, giúp con người có thể đồng cảm được với những nông nỗi của người khác, dễ dàng chia sẻ được những buồn – vui, sướng – khổ, được – mất, thành : bại,... với người khác thì một tâm hồn nhạy cảm lại cho phép ta được sống trong nhiều nỗi niềm, nhiều cảnh ngộ, nhiều cuộc đời, cho phép ta sống sâu sắc, sống đến tận đáy những điều mà ở người khác chỉ diễn ra hời hợt thoáng chốc. Đồng thời đã là nghệ sĩ thì cần phải có cả một tâm hồn nhạy cảm và phong phú trên nhiều phương diện.
+ Người nghệ sĩ có một tâm hồn nhạy cảm sẽ là người luôn biết tự tìm hiểu, khám phá, suy tưởng,... vui buồn với những cái dường như không đâu, trăn trở với những điều mà người khác dửng dưng hay bỏ qua. Nhờ đó, tác phẩm của họ mới có thể mang những phong cách độc đáo riêng, để lại ấn tượng khó phai trong lòng độc giả. Còn với một tâm hồn phong phú, người nghệ sĩ có thể hóa thân thành người trong cuộc, có thể nói lên kể cả những tiếng nói sâu kín nhất, "sản phẩm mà họ tạo ra sẽ mãi là những kiệt tác văn thương, đi sâu vào lòng độc giả. Có thể khẳng định, tâm hồn phong phú chính là một tư chất không thể thiếu của người nghệ sĩ. Thiếu đi một tâm hồn phong phú, làm sao Nguyễn Du có thể viết được một văn tế thập loại chúng sinh" khiến ai cũng phải se lòng, làm sao viết được "Độc Tiểu Thanh kí" cảm thông với người phụ nữ tài sắc ở một xứ sở xa xôi lại sống cách biệt mình tới ba thế kỉ, làm sao có thể viết được "Truyện Kiều với những bi kịch, những nông nỗi, bất hạnh không phải của chính mình, vậy mà đọc lên có thể làm cảm động cả trời đất ("Tiếng thơ ai động đất trời – Tố Hữu). ..
Vậy là nhờ tâm hồn phong phú mà con người ta có thể sống nhiều cuộc đời, thấy được thực chất văn là đời, văn chương là tiếng đời.
- Nhân cách đẹp:
+ Như ta đã biết, bản chất của văn học là hướng con người tới vẻ đẹp chân thiện mĩ, những đạo lí đẹp, bồi dưỡng cho tâm hồn con người những ánh sáng thiện tâm lấp lánh vẻ đẹp của trí tuệ và ấm áp tình người. Vì thế nhà văn mỗi khi cầm bút, tâm thế cũng phải vằng vặc sao khuê mới có thể nhả chữ châu ngọc cho đời. Nói rõ hơn chính là muốn trở thành nhà văn phải là những người có nhân cách.
+ Nhân cách đẹp ấy chính là tâm hồn của con người, là đối tượng phán ánh và miêu tả, có khả năng bao quát hết sức rộng rãi đi sâu vào mọi ngóc ngách của cuộc sống.
+ Nhân cách đẹp là nền tảng của sáng tạo, tại sao? Điều này đòi hỏi nữ nghệ sĩ trước khi làm nghệ thuật phải sống như một con người, một con người có nhân cách đẹp, hay cụ thể, nói như nhà văn Nam Cao "Sống đã rồi hãy viết". Có như thế thì văn chương mới thật sự có sức sống, mới thực sự nảy nở, đâm chồi và mới có sự đảm bảo.
Nguyễn Đình Chiểu là một minh chứng sống động. Ông dù bị mù nhưng vẫn làm thầy giáo, thầy thuốc, nhà thơ. Ông không tham danh lợi, không sợ uy vũ, không khuất phục cường quyền. Để làm được điều đó chính là nhờ thái độ sống có văn hoá, có nhân cách đẹp.
Người nghệ sĩ khi viết một tác phẩm phải trung thành với sự thật. Cuộc sống có như thế nào thì nói như thế ấy, phải trung thực với cuộc sống chứ không phải trung thành với một cá nhân nào khác. Nguyễn Khuyến trong di thúc từng viết: "không chỉ trung thực khi thể hiện niềm vui, tinh thần lạc quan mà trung thựccả khi bộc lộ sự mất mát, đớn đau".
Nhân cách của nhà văn còn thể hiện ở việc biết nhìn ra được xu thế xã hội, tâm thế của thời đại và tâm thế của các tầng lớp con người. Nói đến điều này, ta lại gặp một vấn đề khác đặt ra đối với nhân cách của họ. Đó là: liệu nhân cách nhà văn có thể mất dần đi trong sự biến động của thời cuộc, trong sự thay đổi của nền kinh tế thị trường, trong sự va đập của các chuẩn mực xã hội? Câu trả lời sẽ là không nếu đó là một nhà văn đích thực. Nhân cảm đó có thể ẩn sâu dưới những tác phẩm, có thể không lộ diện, nhưng đó là sức mạnh tinh thần âm thầm vẫn chảy ào ạt trong thính tác phẩm của họ.
Nhân cách đẹp biến nhà văn thành hình tượng đẹp của nhân loại. Nhà văn là một thành tựu, một kết tinh, một biểu tượng của nhân loại. Vì thế đã là nhà văn thì phải giữ được cái thiêng liêng của nhà văn, đó là niềm hạnh phúc của nhân loại, nhân loại hạnh phúc vì có nhà văn.
Không phải bất cứ nhà văn nào cũng đầy đủ những tư chất nghệ sĩ nói trên, mặc dù những mặt đó chưa phải là tất cả và những tư chất ấy công cô lập mà hoà nhập vào -nhau, xuyên thấu vào nhau và dựa vào nhau mà phát huy tác dụng. Ta cũng biết những tư chất của một nghệ sĩ như trên thì luôn ẩn chứa bên trong mỗi con người, như M.Gorki đã viết: "Tôi tin chắc rằng mỗi người đều mang trong mình những năng khiếu của người nghệ sĩ". Vì có những tư chất ấy mà người nghệ sĩ đã truyền tải vào trong tác phẩm của mình và tạo được sự đồng cảm, tạo nên nhiều tài năng cho văn học nghệ thuật hay .ở đây chính là những nhà văn xuất chứng.
3.2.2 Các tiền đề của tài năng
- Trực giác:
+ Một phẩm thất đầu tiên, dễ thấy nhất ở tất cả các nhà văn chân chính là một trực giác nhạy bén, một tâm hồn giàu xúc cảm. Tấm lòng của họ luôn rộng mở đón nhận những âm vang của cuộc sống, quan tắm thường xuyên và sâu sắc đối với tất cả những gì xảy ra xung quanh mình, vươn tới sự đồng cảm, sẻ chia với bao cuộc đời khác. Những nhà văn lớn trước hết là những nhà nhân văn chủ nghĩa. Họ với cái vui của bao người khác, đau khổ trước nỗi đau khổ của đồng loại, hân hoan sung sướng trước những điều tốt đẹp, đau khổ và phẫn nộ trước những oan trái bất công.
+ Tình cảm là một trong những động lực thúc đẩy cảm hứng sáng tạo. Tư tưởng sẽ không thể chuyển hóa được vào hình tượng một cách nhuần nhuyễn nếu thiếu cảm hứng. Đứng trước đối tượng nghiên cứu. nhà khoa học cần phái phán tích một cách khách quan. tìm hiểu đúng bản chất sự vật và đúc kết bằng những định luật khái quát; còn nhà văn thì thâm nhập vào đối tượng với một trạng thái tràn đầy cảm hứng để Vì vậy tác phẩm văn học không chỉ là khách thể được phản ánh mà còn là chủ thể được biểu hiện. Người đọc đến với tác phẩm là đến với cuộc sống được tái tạo đồng thời còn đến với tâm hồn nhà văn, đến với tư tưởng, thái độ của nhà văn đã với hiện thực đời sống.
+ Sáng tạo nghệ thuật là quá trình phàn ánh và tái tạo hiện thực, đồng thời là quá trình tự biểu hiện của nhà văn giữa cuộc đời Cho nên một khi tấm lòng của nhà văn đã thờ ơ, nguội lạnh; tấm hồn đã khép kín trước cuộc đời thì khi ấy tài năng nghệ thuật cũng chấm dứt.
- Tưởng tượng, liên tưởng phong phú, độc đáo:
+ Trí tưởng tượng sáng tạo là dấu hiệu quan trọng nhất của tài ba nghệ thuật, là một trong những sức mạnh chủ yếu của quá trình sáng tạo. Nếu bản chất giàu xúc cảm và khả năng quan sát tinh tế đã tạo nên nguồn cảm hứng và chất liệu sáng tạo tác nhầm thì tưởng tượng và liên tưởng là cơ sở để nhào nặn chất liệu thành hình tượng nghệ thuật.
+ Tưởng tượng là ước đoán, là mơ ước là đoán định, trước hết giúp nhà văn hình thành đối tượng một cách cụ thể, sinh động. Qua óc tưởng tượng, các hình tượng mới được hiện lên một cách cụ thế rõ ràng từ ngoại hình đến ngôn ngữ, từ chỉ, hành động. Đối với nhà văn giàu óc tưởng tượng, khi hạ bút xuống trang viết là cả một thế giới nhân vật hiện lên sống động. Nhà văn ngỡ như đang sống cùng với các nhân vật, nghe các nhân vật nói chuyện với nhau, cảm nhận được sắc thái câm xúc của từng nhân vật trong những cảnh ngộ cụ thể. Nhờ tưởng tượng nhà văn có thể hóa thân vào các nhân vật của mình, sống cuộc đời của hàng trăm nhân vật do mình tái tạo. Trí tường tượng phong phú giúp nhà văn tái hiện được phạm vi đời sống mà mình quan tâm, làm cho đối tượng miêu tả biểu hiện trong tác phẩm một cách chân thực sinh động trong quá trình vận động của nó.
+ Tưởng tượng là quá trình nhào nặn lại, tái tạo lại hiện thực, đồng thời tưởng tượng còn có khả năng bù đắp gia tăng những phần không thổ quan sát được trong thực tế. Tưởng tượng giúp cho các nhà văn đi sâu vào thế giới tâm hồn của các nhân vật, biểu hiện quá trình vận động tâm lí theo quy luật nội tại của nó. Tưởng tượng còn giúp nhà văn miêu tả chiều hướng phát triển của cuộc sống trong tương lai, dự báo những khả nâng và triển vọng của hiện thực. Trí tưởng tượng còn giúp nhà văn tổ chức toàn bộ tác phẩm với tính toàn vẹn của nó. Trí tường tượng đã tham gia liên kết các chí kết vào chỉnh thể hình tương, liên kết các sự hiện trong các mối quan hệ biện chứng, liên kết không gian, thời gian trong một thể thống nhất. Trong thơ, liên tưởng, tưởng tượng có vai trò liên kết hình ảnh triển khai tứ thơ quy tụ cảm xúc, làm cho toàn bộ các yếu tố đều góp phần bộc lộ chủ đề tác phẩm.
- Tài quan sát tinh tế rộng rãi:
+ Nhà văn đến với cuộc sông và đến với công việc sáng tạo bằng tâm hồn giàu xúc cảm nhưng cũng không thể thiếu một khả năng quan sát tinh tế rộng rãi. Cuộc sống vốn hết sức phong phú, đa dạng. Nhà văn phải quan sát kĩ lưỡng và tinh tế mới có thể phát hiện được ý nghĩa sâu xa tiềm ẩn trong sự vật, hiện tượng. Nhà văn không dừng lại ở mức độ quan sát như những người bình thường mà phải nhìn thấy được tình trạng tâm hồn con người quyết định hành vi của họ, tìm ra được chìa khóa để mở vào thế giới nội tâm của con người. Quan sát không những là phương tiện để tìm hiểu bản chất hiện thực mà còn là phương tiện cần thiết để nhà văn tích lũy vốn sống. Nhờ quan sát say sưa và bền bỉ, nhà văn ghi nhận vào tâm trí mình những gương mặt, những nụ cười những dáng đi, giọng nói để từ đó tổng hợp lại tái tạo lại trong quá trình xây dựng hình tượng. Năng lực quan sát cũng là cơ sở quan trọng bồi đắp cho tỏ tường tượng của nhà văn. Càng tích lũy được nhiều vốn sống nhà văn càng giàu khả năng tường tượng.
+ Năng lực quan sát của nhà văn không những là khả năng tìm hiểu, tái tạo lại các hiện tượng của đời sống khách quan mà còn là khả năng lắng nghe, theo dõi những diễn biến tâm lí phong phủ, phức tạp của chính tâm hồn mình. Đặc biệt trong lĩnh vực sáng tạo thi ca, vai trò của việc tự quan sát càng quan trọng. Bởi vì trong lĩnh vực này, cảm xúc, tâm trạng, suy nghĩ của nhà văn là chất liệu trực tiếp để xây dựng tác phẩm.
+ Khả năng quan sát và tự quan sát của nhà văn không phải bao giờ cũng hài hoà cân đối. Có nhà văn rất tinh tế trong việc quan sát đời sống hiện thực khách quan nhưng tự quan sát lại hạn chế. Nhà văn Tô Hoài giàu khả năng hướng ngoại, còn Nam Cao thì tinh tế trong khả năng quan sát hướng nội. Năng lực quan sát và tự quan sát là hai năng lực không hề đối lập nhau mà ngược lại, chúng thống nhất, bổ sung cho nhau. Chính hai khả năng này đã góp phần tạo cho hình tượng vừa có tính tạo hình vừa có tính biểu hiện.
- Giàu trải nghiệm đời sống:
+ Trải nghiệm là sự chuyển hóa những hiểu biết về đối tượng vào trong bản thân chủ thể. Trải nghiệm là sự nếm trải cụ thể tác động của các nhân tố bên ngoài vào để cảm nhận đối tượng: thế nào là nắng chang chang, cái rét cắt da của mùa đông, cái bao la của vũ trụ mênh mông và thế nào là nỗi đau, là niềm vui của con người trước cuộc đời... Trải nghiệm là sống thực bằng thực tế cuộc sống bên ngoài với tất cả nhưng cảm giác và tình cảm của bản thân mình. Với các nhà văn, sự trải nghiệm lại càng quan trọng. Không từng nếm trải cuộc sống giàu sang phú quý và những cay đắng bần hàn của cuộc đời, Nguyễn Du không có được những trang thơ tuyệt bút muốn đời. Dấn thân vào cuộc sống của những kiếp người nghèo khổ mà anh dũng, Tố Hữu mới có được những vần thơ lay động biết bao thế hệ thanh niên.
+ Để trải nghiệm cuộc đời qua tác phẩm, cố nhà văn nhập vai vào các nhân vật trong cuộc sống... là đ xây dựng những nhân vật có giá trị chán thực.
- Tích lũy vốn sống:
+ Tích lũy vốn sống là công việc hết sức quan trọng của nhà văn. Tích lũy vốn sống là điều kiện để tăng cường tài liệu và nuôi dưỡng nguồn căm hứng sáng tạo. Tùy thuộc vào sở thích và điều kiện, mỗi nhà văn đểu tìm cách tích lũy vốn sông cho mình. Nhà văn có thể tăng cường vốn sống bằng những chuyến tham quan, du lịch trên nhiều vùng đất nước và nước ngoài. Nhưng điều quan trọng nhất là nhà văn phải tham gia trực tiếp vào công cuộc đấu tranh của xã hội.
+ Tuy phương pháp làm việc của từng nhà văn có đặc điểm riêng nhưng kinh nghiệm sáng tác chung của lao động nghệ thuật giúp nhà văn định hướng trong quá trình đi vào con đường văn học. Những nhà văn có thái độ nghiêm túc với nghệ nghiệp sẽ không ngừng trau dồi và tích lũy kính nghiệm, học hỏi những người đi trước để tìm tòi những con đường sáng tạo cho riêng mình: M. Goóc-ki khuyên các nhà văn trẻ "các bạn hãy học viết ở tất cả các nhà văn có phong cách điêu luyện, nhưng các bạn hãy tìm nốt nhạc và lời ca riêng của mình".
3.3 Quá trình sáng tác
3.3.1 Cảm hứng sáng tác
- Văn học là một loại hình nghệ thuật đặc biệt mà điểm xuất phát cũng như đích đến đểu là những vẻ dẹp của cuộc sống. Văn học luôn hướng con người ta vươn đến chân trời chân thiện mĩ giúp gìn giữ và bồi dưỡng tâm hồn, tinh thần nhân văn, nhân đạo trong mỗi con người. Vì thế mà văn học phản ánh khá toàn diện và sâu sắc mọi mặt đời sống bằng ngôn ngữ và hình tượng nghệ thuật thông qua tác phẩm văn học. Nhưng để có được một tác phẩm đặc sắc thì mỗi nhà văn phải trải qua cả một quá trình sáng tác hết sức công phu, tì mi và lâu dài. Con đường sáng tác một tác phẩm tâm đắc đối với mỗi nhà văn thì không giống nhau nhưng trong quá trình ấy, cái chung trước nhất và không thể thiếu chính là nguồn cảm hứng sáng tạo.
- Cảm hứng ở đây là luồng ý nghĩ, tư tưởng có tính chất sáng tạo, thường đột nhiên nảy sinh trong lòng nhà văn, nhà thơ. Và có thể ví câm hứng như là chất men của sự sáng tạo. Khi người nghệ sĩ thấy chợt lóe lên một tia chớp sáng tạo, thấy mình bỗng nhiên bị cuốn hút vào một cảm giác một hình ảnh, một âm điệu, hay một ý nghĩ nào đó và muốn bắt tay vào sáng tác thì ngay chính lúc đó dòng câm hứng văn chương đang sục sôi trong con người họ.
- Bên cạnh đó, ta cũng phải phân biệt rõ ràng giữa ba khái niệm khác nhau vế cảm hứng" trong văn học:
+ Cám hứng sáng tác là tình trạng phấn khích của nhà văn khi cầm bút viết văn. Ở đây, ngay chính lúc ấy, mạng thác tâm tỉ của nhà văn đã có sự thay đổi từ bình thường sang hăng say, hào hứng với những gì mà nguồn cảm hứng đang đem đến cho họ.
+ Cảm hứng sáng tạo là một sự thôi thúc, tạo đà cho nhà văn cầm bút viết. Nô là động cơ, nguồn gốc khởi đầu cũng như mục đích đã vạch ra trong suy nghĩ của nhà văn. Cảm hứng sáng tạo là yếu tế hết sức quan trọng trong việc hình thành ỷ đồ cũng như lúc viết văn, nó góp phần tạo ra nhiều các mới lạ, độc đáo, nhiều tác phẩm đặc sắc mangg cá tính sáng tạo riêng của từng nhà văn.
+ Cảm hứng chủ đạo là khuynh hướng thiệt tình của nhà văn trong mỗi tác phẩm. nó trở thành trạng thái tâm lí then chốt như dòng chảy xuyên suốt, bao trùm lên trong cả quá trình sáng tạo của nhà văn.
Ban đầu, cảm hứng sáng tác đến với nhà văn chỉ đơn giản là những cảm xúc, những rung động xuất phát từ trái tim của nhà văn trước thiên nhiên đất nước, trước cuộc đời và số phận con người trong xã hội. Đời sống tinh thần của người nghệ sĩ luôn luôn bị "dày vò", ám ảnh" bởi những chi tiết, hình ảnh thú lạ lùng và bí ẩn của cuộc sống, hay bị những dự định sáng tạo còn khá mơ hồ nhưng cũng rất căng thẳng nhất là khi nhà và đang nung nấu một ý đồ sáng tạo nào đó, đang tập trung năng lực để định hình rõ nét một cảm giác, một ấn tượng đã bất chợt đến với họ trong quá trình tìm tòi, suy nghĩ và phát hiện. Cảm hứng đến với nhà văn là bất chợt, không dự đoán trước được, nó định hình không rõ ràng và cũng chỉ thoáng chốc lướt quả thật nhanh như khi nó đến. Vì vậy, mỗi khi trong lòng mình vừa mới chớm bất cứ một câm xúc, cảm hứng nào thì ngay lập tức nhà văn sẽ phải nhanh thắng ghi lại những gì họ thấy và họ nghĩ để duy trì cảm hứng, đồng thời phải biết tạo ra cảm hứng mới.
3.3.2 Ý đồ sáng tác, lập sơ đồ, viết và sửa chữa
Đối với một nhà văn chuyên nghiệp thì có thể nổi suốt cuộc đời là một quá trình chuẩn bị sáng tạo và sáng tác không ngừng. Trong quá trình sáng tác của các nhà văn cô thể chia thành các khâu: hình thành ý đồ, thiết lập sơ đồ, viết và sửa chữa. Các khâu này không hoàn toàn phấn biệt một cách rạch ròi, mà có thể xen kẽ, gối đầu nhau và trong quá trình sáng tác có thể thêm hoặc bớt, tuỳ theo thể loại văn học khác nhau.
- Giai đoạn hình thành đồ sáng tác:
+ Trước hết, ý đồ được khơi nguồn từ những niềm xúc động trực tiếp trước một con người hay sự kiện mang ý nghĩa lớn lao trong cuộc sống. Tồ Hoài có ý định viết "Truyện Tây Bắc" do xúc động trước cảnh vợ chồng chị Lý tiễn mình về trong chuyến đi thực tế ở Tây Bắc năm 1952.
+ Ý đồ sáng tác có thể bắt nguồn trực tiếp từ những nhiệm vụ giáo dục và đấu tranh tư tưởng. Nhiệm vụ chính trị tư tưởng được tác giả đặt ra chủ động có ý thức như là một kế hoạch đã vạch sẵn và không bao giờ là những ý niệm, tín điều trừu tượng... Ý đồ sáng tác cũng có thể bắt nguồn từ một câu chuyện dân gian, một lí thuyết khoa.học, một hồi tưởng hay liên tưởng nào đó trong cuộc đời. Bất kì ý đồ nào cũng liên quan đến quan niệm và sự hiểu biết về cuộc đời, lòng quan tâm, ước mơ vô lí tưởng của nhà văn.
+ Ý đồ sáng tác của các nhà văn không đứng yên mà có thể thay đổi và phát triển, nhất là trong những tác phẩm tự sự bởi nhà văn phải đối diện với nhiều biến cố trong cuộc sống hằng ngày, vây nên trong thời gian khá dài, nhà văn mới có thể cho ra đời một tác phẩm hoàn chỉnh và chính xác nhất.
- Giai đoan chuẩn bị:
+ Từ giai đoạn hình.thành ý đồ đến giai đoạn viết thành một tác phẩm hoàn chình là cả một quá trình hoàn thiện dẫn qua khâu chuẩn bị rất công phu và đầy đủ về nhiều mặt. Chuẩn bị càng kĩ bao nhiêu thì càng tốt bấy nhiêu. Sự chuẩn bị trong thơ trữ tình không hẳn đã nghiêng về thu thập tài liệu mà là sự chuẩn bị về suy nghĩ và cảm xúc. Quá trình này diễn ra âm thầm trong tâm trí của các nhà văn và đến khi cảm xúc đã thật đầy đủ thì những vần thơ sẽ hoàn thành.
+ Sự chuẩn bị trong sáng tác thơ trữ tình có khi xảy ra rất nhanh nhưng không hiếm những bài thơ phải thai nghén trong hàng chục năm trời. Chẳng hạn, bài thơ Các vị La Hán chùa Tây Phương, Huy Cận định viết từ năm 1940. Khi còn học ở trường cao đẳng canh nông, ông muốn viết về cuộc đời và con người trầm luân thể hiện qua những pho tượng. Sau Cách mạng tháng Tám, ông nhiều lần đến chùa Tây Phương để nuôi dần độ chín của cảm xúc và suy nghĩ. Mãi đến 1960, với chỗ đứng và tầm nhìn mới, ông đã phát hiện thêm nhiều vấn đế về tâm hồn, tình cảm của nhân dân ta trước đây gửi gắm qua những pho tượng và ông đã hoàn thành tác phẩm vào dịp đó.
+ Trong văn xuôi có khác hơn so với thơ trữ tình. Bước đầu tiên của giai đoạn chuẩn bị, nhà văn phải thú thập tài liệu, phải nghiên cứu mảng hiện thực mà mình định tái hiện, tìm hiểu, các nguồn tư liệu lịch sử, các hồi kí, đi thực tế ở những nơi xảy ra sự kiện đó.
- Giai đoạn lập sơ đồ:
+ Quá trình này nhằm hệ thống hóa những điếu đã quan sát và thu thập được những ấn tượng, hình ảnh và cảm nghĩ vào trong một chỉnh thể, nó là "phương án tác chiến", là bản phác thảo cho nhà văn trước khi viết, là con đường tìm những phương án tối ưu về mặt thẩm mĩ. Đây là một bước khá phức tạp vì nhà văn xử lí hàng loạt mối quan hệ: quan hệ giữa bộ phận và toàn thể, giữa các phần, chương, đoạn, giữa các tuyến nhân vật trong quá trình phát triển. Cũng có một số nhà văn không coi trọng việc lập sơ đồ. Tố Hữu nói: "Tôi làm thơ không có dàn bài. Tôi không biết được bài thơ đến bao giờ thì hết, không biết bao giờ nó dừng lại. Tôi nghĩ sẽ có lúc làm một bài thơ nào đó cũng cần có những ý lớn làm mốc, nhưng không thể có một dàn bài". Tuy Tố Hữu nói thế nhưng những nhà văn phải chú ý cần có những ý lớn làm mốc.
- Giai đoạn viết:
+ Giai đoạn viết là khâu quan trọng nhất của quá trình sáng tác. Đó là một giai đoạn khó khăn phức tạp, một quá trình lao động căng thẳng, tràn ngập niềm vui và nỗi buồn, đầy cảm hứng và lo âu, băn khoăn và suy tính.
+ Khó khăn nhất là viết những dòng đầu tiên. Khi nhà văn viết được vài dựng thì họ sẽ cảm thấy như được sống cùng với các nhân vật, đang được nhìn ngắm, tâm sự, tranh luận với chúng. Quá trình nhập thân của nhà văn càng sâu sắc bao nhiêu thì các trang viết còn cụ thể, sinh động bấy nhiêu. Khi viết bài thì các nhà văn phải thay đổi chút ít, phải bồi đắp da thịt thì bài viết mới hay và sống động được.
+Trong giai đoạn viết, nhà văn phải vật lộn với từng chữ, một sự thống nhất chứa đầy mâu thuẫn giữa tình cảm, lí tưởng của nhà văn và thực tế cuộc sống. Ở các nhà văn khác nhau có người viết nhanh có người viết đều và chậm rãi. Điều đó phụ thuộc vào phong cách sáng tạo, đặc điểm và tính cách, thói quen cửa các nhà văn. Dĩ nhiên, còn phụ thuộc vào tính chất phức tạp của đề tài.
- Giai đoạn sửa chữa:
+ Giai đoạn cuối cùng của quá trình sáng tác là sửa chữa. Bước vào giai đoạn này, nhà văn mới có cơ hội nhìn bao quát thành quả của mình, hoàn thiện nó để đạt đến tính tư tưởng, tính nghệ thuật theo ý đồ mong muốn mới nhất và cao nhất lúc đó. Trên thực tế, có một số nhà văn không muốn và cho rằng không cần sửa chữa. La-mác-tin cho rằng "sáng tác thơ ca là một cái gì đó vô chủ mà thiêng liêng, nhà văn không có quyền sửa chữa". Nhưng hầu hết các nhà văn phải trải qua giai đoạn sửa chữa khá công phu sau khi hoàn thành bản thảo lần thứ nhất. Huy Cận viết bài thơ Tràng giang cũng phải trải qua mười bảy lần sửa bản thảo. Cu-pơ - nhà văn lãng mạn Anh nói: "Những sửa chữa áp đi áp lại không biết mệt mỏi là bí quyết hầu như của bất cứ tác phẩm nào đạt, nhất là của thơ mà dù có một số tác giả khoe mẽ về tình cẩu thả của họ, còn một số những người khác thì lại từng đỏ mặt khi đưa ra có ban nháp của mình". Bô-đơ-le đã làm chậm kế hoạch in hàng năm tháng tác phẩm Những tác phẩm tội ác và đã bị nhà xuất bản phản đối chỉ vì như ông đã nói: "Tôi đáng vật lộn để chống lại ba mươi câu thơ viết tồi vẩn dở, khó chịu, không đạt yêu cầu".
4 QUÁ TRÌNH VĂN HỌC VÀ PHONG CÁCH VĂN HỌC4.1 Quá trình văn học4.1.1 Khái niệm
- Quá trình văn học là sự tồn tại, vận động và tiến hoá của bản thân văn học trong từng thời kì, thời đại lịch sử của từng dân tộc, từng vùng cũng như trong toàn bộ lịch sử của dân tộc, khu vực và toàn thế giới.
- Nếu như khái niệm chỉ quá trình xuất hiện các tác giả, tác phẩm, các phong cách, thể loại, sự tích luỹ liên tục các giá trị văn học qua các thời kì, thì quá trình văn học chỉ sự vận động của văn học trong tổng thể. Nó bao gồm không chỉ là tất cả các với chất lượng cao thấp khác nhau, mà còn bao gồm cả các hình thức tồn tại của văn học như truyền miệng hay chép tay, ấn loát, xuất bản, báo chí, các thành tố của đời sống văn học như nhà văn và , các hình thức hội đoàn, hoạt động phê bình, nghiên cứu, ảnh hưởng qua lại giữa văn học với các loại hình khác, các hình thái ý thức xã hội khác, nhất là chính trị, triết học, đạo đức, ảnh hưởng qua lại của văn học viết và ,...
- Qua toàn bộ tổng thể quá trình văn học ấy, người ta thấy được sự hình thành, phát triển của văn học như một hình thái ý thức xã hội đặc thù, một , trong đó có quá trình đổi thay về bản chất, chức năng văn học, ý thức văn học, , hình thức văn học. Khái niệm quá trình văn học cung cấp một cái nền để cho ta có thể nhận ra ý nghĩa của từng hiện tượng văn học lớn đóng góp cho sự phát triển của văn học.
- Nghiên cứu quá trình văn học cho ta thấy sự xuất hiện của các hiện tượng văn học như: , các quan niệm văn học, trào lưu, , , ý thức về đặc trưng văn học, ngôn , các mô hình văn học, phong cách, và , các hình thức giao lưu, ảnh hưởng, tiếp nhận sự tự ý thức của người đọc,... Các hiện tượng này không phải tự sinh, mà chỉ xuất hiện có quy luật trong quá trình văn học.
4.1.2 Trào lưu văn học
- Đó là một phong trào sáng tác tập hợp những tác giả, tác phẩm gần gũi nhau về cảm hứng, tư tưởng, nguyên tắc miêu tả hiện thực, tạo thành một dòng rộng lớn, có bề thế trong đời sống văn học của một dân tộc hoặc của một thời đại. Một trào lưu văn học có thể có nhiều khuynh hướng hoặc trường phái văn học; cũng có khi nền văn học của một dân tộc không có trào lưu văn học, nhưng lại có các khuynh hướng, các trường phái văn học khác nhau.
Trong lịch sử văn học thế giới có một số trào lưu văn học lớn. Văn học thời Phục hưng ở châu âu thế kỉ XV, XVI đề cao con người, giải phóng cá tính, chống lại tư tưởng khắc nghiệt thời Trung cổ (Đôn Ki-hô-tê của Xéc-van-tét, Rô-mê-ô và Giu-li-ét của Sếch-xpia,...). Chủ nghĩa cổ điển ở Pháp thế kỉ XVII coi văn học cổ đại là hình mẫu lí tưởng, luôn đề cao lí trí, sáng tác theo các quy phạm chặt chẽ (Lơ Xít của Coóc-nây, Lão hà tiện của Mô-li-e,...). Chủ nghĩa lãng mạn hình thành ở các nước Tây Âu sau Cách mạng tư sản Pháp năm 1789, đề cao những nguyên tắc chủ quan, thường lấy đề tài trong thế giới tưởng tượng của nhà văn, cố gắng xây đựng hình tượng nghệ thuật sao cho phù hợp với lí tưởng và ước mơ của nhà văn (Những người khốn khổ của V. Huy-gô, Những tên cướp của Si-le,...). Chủ nghĩa hiện thực phê phán thế kỉ XIX thiên về những nguyên tắc khách quan, chú ý chọn đề tài trong cuộc sống hiện thực, chủ trương "nhà văn là người thư kí trung thành của thời đại", quan sát thực tế để sáng tạo các điển hình (sáng tác của Ban-dắc, Lép Tôn-xtôi,...). Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa thế kỉ XX miêu tả cuộc sống trong quá trình phát triển cách mạng, đề cao vai trò lịch sử của nhân dân (sáng tác của Mác-xim Go-rơ-ki, Gioóc-giơ A-ma-đô,...). Thế kỉ XX còn chứng kiến sự xuất hiện của các trào lưu hiện đại chủ nghĩa: chủ nghĩa siêu thực ra đời năm 1922 ở Pháp với quan niệm thế giới trên hiện thực mới là mảnh đất sáng tạo của nghệ sĩ (Na-đi-a của An-đrê Brơ-tông); chủ nghĩa hiện thực huyền ảo trong văn học Mĩ La-tinh sau Chiến tranh thế giới thứ hai với quan niệm thực tại còn bao gồm cả đời sống tâm linh, niềm tin tôn giáo, các huyền thoại, truyền thuyết (Trăm năm cô đơn của Gác-xi-a Mác-két); chủ nghĩa hiện sinh ra đời ở châu âu sau Chiến tranh thế giới thứ hai tập trung miêu tả cuộc sống con người như một sự tồn tại huyền bí, xa lạ và phi lí (Người xa lạ của An-be Ca-muy) v.v...
Ở Việt Nam, các trào lưu văn học lần đầu tiên xuất hiện vào khoảng những năm 30 của thế kỉ XX. Trong giai đoạn 1930 - 1945, hai trào lưu công khai nổi bật nhất là trào lưu lãng mạn và trào lưu hiện thực phê phán. Văn học lãng mạn phát triển rực rỡ trong phong trào Thơ mới với các tác giả tiêu biểu như Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính,... và trong sáng tác của nhóm Tự lực văn đoàn với Khái Hưng, Nhất Linh, Thạch Lam,... Văn học hiện thực phê phán thành công trước hết trong lĩnh vực tiểu thuyết, truyện ngắn, phóng sự với các tác phẩm của Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nam Cao, Nguyên Hồng,... Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, bộ phận văn học cách mạng (vốn tồn tại một cách không công khai trước đó) có điều kiện phát triển mạnh mẽ. Cùng với quá trình xây dựng một nhà nước của dân, do dân, vì dân và hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, ở Việt Nam đã hình thành trào lưu văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa. Tiêu biểu cho trào lưu này là các tác phẩm của Hồ Chí Minh, Tố Hữu, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Nguyễn Đình Thi, Tô Hoài, Nguyên Ngọc, Nguyễn Khai, Nguyễn Minh Châu, Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng,... Từ năm 1975 đến hết thế kỉ XX, văn học Việt Nam có sự đổi mới, chuyển biến mạnh mẽ, mở ra nhiều hướng phát triển, hiện đang được nghiên cứu để tổng kết, khái quát về các khuynh hướng.
4.1.2.1 Chủ nghĩa hiện thực,chủ nghĩa hiện thực phê phán và chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa
a) Chủ nghĩa hiện thực
- Theo nghĩa rộng, thuật ngữ chủ nghĩa hiện thực được dùng để xác định quan hệ giữa tác phẩm dối với hiện thực, bất kể tác phẩm đó là của nhà văn thuộc trường phái hoặc khuynh hướng văn nghệ nào. Với ý nghĩa này, khái niệm chủ nghĩa hiện thực gần như đồng nghĩa với khái niệm sự thật đời sống, bởi lẽ nào cũng phản ánh hiện thực.
- Theo nghĩa hẹp, khái niệm chủ nghĩa hiện thực được dùng dể chỉ một phương pháp hay một khuynh hướng, một có nội dung chặt chẽ, xác định trên cơ sở các nguyên tắc mĩ học sau đây:
+ Mô tả cuộc sống bằng hình tượng tương ứng với bản chất những hiện tượng của chính cuộc sống và bằng điển hình hóa các sự kiện của thực tế đời sống.
+ Thừa nhận sự tác động qua lại giữa con người và môi trường sống, giữa tính cách và hoàn cảnh, các hiện thực chủ nghĩa hướng tới tái hiện chân thực các mối quan hệ khác của con người và hoàn cảnh.
+ Cùng với sự điển hình hóa nghệ thuật, coi trọng những chi tiết cụ thể và độ chính xác của chúng trong việc mô tả con người và cuộc sống, coi trọng việc khách quan hóa những điều được mô tả, làm cho chúng "tự" nói lên được tiếng nói của mình.
- Chủ nghĩa hiện thực luôn luôn quan tâm đến sự đa dạng phong phú về hình thức. Nó sử dụng cả huyền thoại, , cường điệu, ,... song tất cả những cái đó đều phải phục tùng những nguyên tắc sáng tác hiện thực chủ nghĩa, phục tùng sự nhận thức con người trong các mối quan hệ phức tạp với thế giới xung quanh, với những điều kiện lịch sử – xã hội cụ thể.
b) Chủ nghĩa hiện thực phê phán
- Thuật ngữ chủ nghĩa hiện thực phê phán được M. Go-rơ-ki sử dụng đầu tiên nhằm nhấn mạnh khuynh hướng phê phán, tố cáo trong tác phẩm của các nhà văn hiện thực lớn trong văn học thế giới thế kỷ XIX. Những tác phẩm đó vừa phân tích với tinh thần phê phán toàn bộ hệ thống các quan hệ xã hội, vừa cái hiện thực mâu thuẫn giữa chế độ tư sản với những chuẩn mực nhân tính đúng như nó có trong thực tế.
- Theo Bách khoa toàn thư, chủ nghĩa hiện thực hay còn gọi là văn học hiện thực phê phán là một trào lưu về văn học hiện thực, là một trong những phương pháp sáng tác lấy chính hiện thực của xã hội và những vấn đề thật liên quan tới con người và lấy chính con người làm đối tượng để phản ánh.
+ Nhiều nhà văn hiện thực phê phán của các nước đã trở thành những bậc thầy của văn học thế giới như Xtăng-đan, Ban-dắc (Pháp), Thác-cơ-rây, Đích-kenx (Anh), Gô-gôn, Đốt-xtôi-ép-xki, L. Tôn-xtôi (Nga).
+ Ở , chủ nghĩa hiện thực phê phán xuất hiện vào những năm 30 của thế kỷ XX, trong một hoàn cảnh lịch sử xã hội không giống với các nước châu Âu thế kỷ XIX. Nó đã có nhũng đóng góp tích cực vào sự nhận thức với tinh thần phân tích phê phán bản chất thối nát phản động của các quan hệ xã hội đương thời, nhen nhóm sự bất bình đối với thực tại đen tối, biểu thị lòng thương cảm đối với số phận của những người cùng khổ,... Bằng những tác phẩm xuất sắc của mình, các nhà văn hiện thực phê phán tiêu biểu như Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng, Nam Cao, Ngô Tất Tố,... đã góp phần đáng kể vào việc phát triển văn học hiện đại nước ta.
- Nếu muốn thực hiện thành công phương pháp này thì bắt buộc các nhà văn phải tuân thủ nghiêm ngặt cái gọi là mỹ học nhất định như:
+ Xây dựng lên một hình tượng điển hình và điển hình hóa những sự kiện trong cuộc sống.
+ Thừa nhận mối quan hệ giữa tính cách nhân vật và hoàn cảnh, con người, môi trường sống.
+ Coi trọng chi tiết cụ thể và có độ chính xác cao.
- Văn học hiện thực phê phán ở Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945:
+ Chặng đường từ năm 1930 – 1935: Ở giai đoạn này, văn học hiện thực phê phán với những sáng tác của Nguyễn Công Hoan với tập truyện "Kép Tư Bền"; các phóng sự "Cạm bẫy người" và "Kỹ nghệ lấy Tây" của Vũ Trọng Phụng,... Những tác phẩm đã thể hiện được tinh thần phê phán mang tính bất công, vô nhân đạo trong một xã hội thời bấy giờ. Đồng thời, cũng bộc lộ được sự cảm thông, đau xót với những tầng lớp bị áp bức của xã hội thời kỳ đó.
+ Chặng đường từ năm 1936 – 1939: Do tình hình xã hội thời đó có nhiều những biến động và nhiều những mặt thuận lợi để cho văn học hiện thực phê phán được phát triển. Các cây bút văn chương như: Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố,... đã đạt được nhiều những thành công và cho ra đời liên tiếp nhiều những tác phẩm xuất sắc. Hàng loạt những tác phẩm của các nhà văn đều tập trung phê phán và tố cáo mãnh liệt tình trạng áp bức, bóc lột, chính sách bịp bợm, giả dối của chế độ cai trị, đồng thời phơi bày nỗi thống khổ của người dân và những sự đồng cảm, đau thương.
+ Chặng đường từ năm 1940 – 1945: Ở giai đoạn này, văn học hiện thực phê phán vẫn là chủ đạo, hơn thế nữa là những nét sắc sắc được thể hiện một cách nổi bật trong những sáng tác nổi tiếng của nhà văn Nam Cao. Những nhân vật qua ngòi bút của Nam Cao luôn hướng tới việc phân tích xã hội thông qua việc đánh mạnh vào tâm lý nhân vật.
Như vậy, có thể nói văn học hiện thực phê phán ở Việt Nam được trải qua 3 giai đoạn phát triển được chia đều từ năm 1930 – 1945 và đã đạt được nhiều những thành tựu xuất sắc ở những giai đoạn cuối.
- Những thành tựu nổi bật của văn học hiện thực phê phán 1930 – 1945:
+ Những tên tuổi lớn đã đóng góp cho sự phát triển của văn học hiện thực phê phán của Việt Nam ở giai đoạn này phải kể đến như Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng, Nam Cao,... Chính những tác phẩm của họ là một bức tranh vẽ toàn cảnh của một xã hội đen tối bấy giờ. Những sự phê phán, sự lên ánh mạng mẹ của chế độ thống trị được thể hiện mạnh mẽ của những tác phẩm như: Bước đường cùng, Bỉ vỏ, Số Đổ, Chí Phèo, Tắt đèn, Lão Hạc,...
+ Bức tranh xã hội thời đó được những tác phẩm của văn học hiện thực phê phán miêu tả chân thực xã hội lúc đó với sự ảm đạm, nhiều bị kịch, làng quê xơ xác, nhiều những tệ nạn của xã hội, người nông dân bị cường hào ác bá đẩy tới mức đường cùng dẫn tới mất nhân tính và biến chất trở thành một tệ nạn của xã hội.
+ Các phong trào Âu hóa do thực dân đề xướng như: Vui vẻ, trẻ trung, cải cách y phục,... ngày càng được lộ rõ những chân tướng và tạo ra nhiều nghịch cảnh được tác phẩm Số Đỏ phản ánh một cách rõ nét. Nhiều những tác phẩm có đánh mạnh vào tâm lý nhân vật để phản ánh thực chất xã hội như: Sống mòn, Đời thừa, Chí Phèo,... Những truyện ngắn trào phúng có tính đả kích sâu cay của Nguyễn Công Hoan như: Đồng hào có ma, tinh thần thể dục,...
+ Cảm hứng bi kịch, đồng cảm với những thống khổ của người nông dân Việt Nam thời ấy cũng được xem là một trong những cảm hứng chủ đạo của văn học hiện thực phê phán. Những cảm hứng, những lỗi đồng cảm ấy đều thấm nhuần của các tác phẩm của nhà văn Ngô Tất Tố. Ngoài ra còn rất nhiều những tác phẩm nổi tiếng khác thời bấy giờ phê phán và lên án thực dân, phong kiến, tay sai.
+ Văn học hiện thực phê phán vào những năm 1930 – 1945 được coi là một cuộc vận động trên chính dòng phát triển của thời cuộc đầy những biến động, khó khăn của xã hội. Nhưng cho dù xã hội có đổi thay như thế nào, thì những nét chữ, những trang viết sẽ sống mãi với thời gian.
c) Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa
- Chủ nghĩa hiện thực là trào lưu nổi bật trong . Đây thực chất là một phần của , nhưng lại mang tính chất của . Các tác phẩm thuộc chủ nghĩa này miêu tả cuộc sống trong qua trình phát triển , đề cao vai trò của . Những đại diện tiêu biểu cho trào lưu này gồm có các , Sô – lô – khốp ở . Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa là hiện tượng đặc thù trong văn hóa nghệ thuật nhân loại thế kỷ XX: đây là lần đầu tiên một số nguyên tắc về khuynh hướng nghệ thuật được đề lên như những chuẩn mực mang tính pháp quy, được coi là độc tôn trong toàn bộ đời sống của các nền văn học dân tộc. Chủ nghĩa hện thực xã hội chủ nghĩa là một trong những nhân tố bề sâu để cấu thành một thiết chế văn học đặc biệt, mang tính nhà nước hóa rõ rệt: trên lãnh thổ mỗi quốc gia xã hội chủ nghĩa chỉ có một tổ chức nhà văn duy nhất; cương lĩnh sáng tác được chính thống hóa, trở thành tiêu chuẩn và phương tiện quản lý văn học. Với chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa, các nền văn học dân tộc trở nên chính trị hóa rõ rệt, nội dung văn học được ưu tiên cho việc diễn đạt đường lối chính trị của đảng cộng sản cầm quyền.
- Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa được những người luận chứng cho nó xem như một hệ thống nghệ thuật mới, mang tính cách tân: trong khi kế tục truyền thống nhân đạo chủ nghĩa của nghệ thuật quá khứ, nó đồng thời kết hợp truyền thống ấy với nội dung xã hội chủ nghĩa, − một nội dung được xem là hoàn toàn mới, là đóng góp mà chủ nghĩa Mác đem vào triết học duy vật − khẳng định vai trò của hoạt động cải tạo cách mạng nhằm thay đổi hiện thực.
- Miêu tả hiện thực chiến đấu và xây dựng một thế giới mới, xã hội chủ nghĩa; xây dựng nhân vật tích cực (chính diện), hình tượng con người mới − người chiến sĩ và người sáng tạo thế giới mới của chủ nghĩa xã hội − được xem là nội dung chủ yếu của văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa lạc quan lịch sử – được xác định như âm hưởng chủ đạo của văn học kiểu mới này, như là tính chất mới mẻ về lý tưởng thẩm mỹ của chủ nghĩa hiện thực xã hội chu nghĩa.
- Mỹ học hiện thực xã hội chủ nghĩa xem trọng những thành tựu nghệ thuật của chủ nghĩa hiện thực cổ điển (thế kỷ XIX); nó tự xác định phương thức nghệ thuật chủ yếu là sự miêu tả "giống như thực", "trong những dạng thức của bản thân đời sống". Sự trung thành của văn nghệ sĩ với nguyên tắc tính đảng được xem là đảm bảo cho tính chân thực của sáng tác. Sự thể hiện kiểu lãng mạn cũng được thừa nhận trong chừng mực nó gắn với cảm hứng anh hùng trong lao động và đấu tranh vì lý tưởng xã hội chủ nghĩa, vì chế độ xã hội chủ nghĩa. Các thử nghiệm và phát hiện về nghệ thuật của các trào lưu chủ nghĩa tiền phong, chủ nghĩa hiện đại đều bị coi là xa lạ, có hại đối với văn học nghệ thuật hiện thực xã hội chủ nghĩa.
- Về nghệ thuật, khuynh hướng văn học này chỉ tiếp tục khai thác các phương thức "giống như thật" của chủ nghĩa hiện thực cổ điển thế kỷ XIX, do vậy hạn chế sự đóng góp của các nhà văn thuộc khuynh hướng này trong việc phát hiện, thử nghiệm các phương tiện nghệ thuật mới.
4.2 Phong cách văn học4.2.1 Khái niệmphong cách văn học
- Phong cách văn học (hay phong cách nghệ thuật) nảy sinh do chính những nhu cầu của cuộc sống, bởi vì cuộc sống luôn đòi hỏi sự xuất hiện những nhân tố mới mẻ, những cái không lặp lại bao giờ; và nó cũng nảy sinh từ nhu cầu của quá trình sáng tạo văn học, vì đó là một yếu tố quan trọng tạo nên tính hấp dẫn, sức sống của tác phẩm. Phong cách là những nét riêng biệt, độc đáo của một tác giả trong quá trình nhận thức và phản ánh cuộc sống, những nét độc đáo ấy thể hiện trong tất cả các yếu tố nội dung và hình thức của từng tác phẩm cụ thể. Nói cách khác, phong cách là sự thể hiện tài nghệ của người nghệ sĩ trong việc đưa đến cho độc giả một cái nhìn mới mẻ về cuộc đời thông qua những phương thức, phương tiện nghệ thuật mang đậm dấu ấn cá nhân của người sáng tạo, vì thế Buy-phông viết: "Phong cách chính là người". Trong tác phẩm của Sếch-xpia "mỗi một ưu điểm nhỏ nhất cũng in dấu riêng, dấu ấn đó có thể lập tức nói với toàn thế giới rằng: Tôi là Sếch-xpia" (Lét-xinh).
- Quá trình văn học được đánh dấu bằng những nhà văn kiệt xuất với phong cách độc đáo của họ. Quá trình văn học mang tính lịch sử cho nên phong cách cũng in đậm dấu ấn dân tộc và thời đại. Văn hào Vôn-te nói: "cũng giống như từ gương mặt, ngôn ngữ, hành động cụ thể có thể nhận ra quốc tịch của con người, thì cũng có thể từ phong cách sáng tác nhận ra một số là người Ý, người Pháp, người Anh hay người Tây Ban Nha một cách dễ dàng". Trong mỗi thời đại nhất định, do cùng có những điều kiện và trình độ phát triển chung của lịch sử, trong sáng tác của nhiều khuynh hướng văn học khác nhau có thể có những nét chung nào đó về tư duy nghệ thuật và kĩ thuật biểu hiện. Dù mỗi người có một "gương mặt" riêng, nhưng các nhà văn của Tự lực văn đoàn và các nhà thơ của phong trào Thơ mới đều góp phần tạo nên diện mạo chung của văn học lãng mạn Việt Nam 1932 - 1945. Nhà văn Tô Hoài nói về cái diện mạo chung ấy trong sáng tác của từng tác giả: "Mỗi trang văn đều soi bóng thời đại mà nó ra đời".
4.2.2. Những biểuhiện của phong cách văn học
- Phong cách văn học biểu hiện trước hết ở cách nhìn, cách cảm thụ có tính chất khám phá, ở giọng điệu riêng biệt của tác giả. Viết về Đèo Ngang, Phạm Tiến Duật có một cách nhìn mới: "Bao nhiêu người làm thơ Đèo Ngang - Mà không biết con đèo chạy dọc" (Đèo Ngang). Cách cảm thụ hài hước của Nguyễn Công Hoan khơi ra mọi điều nghịch lí, nghịch cảnh: "Sự thành công của anh cu Bản đã làm cho vợ anh goá chồng" (Ngậm cười). Trong Lịch triều hiến chương loại chí, khi giới thiệu các tác giả, Phan Huy Chú thường có nhận xét ngắn gọn về giọng điệu của từng người: Trần Quang Khải thì "lời thơ thanh thoát, nhàn nhã", Trần Nguyên Đán thì "cảm khái thế sự, thân tuy ở ẩn, nhưng lòng không quên việc nước", Phùng Khắc Khoan thì "lời thơ trong trẻo, dồi dào, khí phách hùng hồn",...
- Sự sáng tạo các yếu tố thuộc nội dung tác phẩm cũng in đậm dấu ấn riêng của tác giả, từ việc lựa chọn đề tài, xác định chủ đề, thể hiện hình ảnh, nhân vật cho đến xác lập tứ thơ, triển khai cốt truyện,... Thạch Lam hướng ngòi bút tới cuộc sống và tâm hồn những con người "nhỏ bé", Vũ Trọng Phụng chú ý tới những góc khuất, những nơi tăm tối của xã hội trước Cách mạng. Ở sự vận động của tứ thơ về tình yêu, Sóng của Xuân Quỳnh thật cồn cào, da diết, còn Hương thầm của Phan Thị Thanh Nhàn lại dịu dàng, nhẹ thoảng mà đằm sâu, lan toả mênh mang.
- Hệ thống phương thức biểu hiện, các thủ pháp kĩ thuật lưu lại đậm đặc cá tính sáng tạo của tác giả, từ việc sử dụng ngôn ngữ, tổ chức kết cấu, định vị thể loại cho đến cách kể chuyện, miêu tả ngoại hình, bộc lộ nội tâm,... Câu văn Nguyễn Tuân rất linh hoạt, không theo một khuôn mẫu, chuẩn mực nhất định, đó thường là những câu văn dài, xuôi theo dòng chảy dào dạt của cảm xúc suy tư Kim Lân có lối khắc hoạ nhân vật giàu chất tạo hình. Nguyễn Khai rất sắc sảo khi để nhân vật độc thoại nội tâm hay đối thoại nội tâm v.v...
- Phong cách văn học là cái thống nhất trong sự đa dạng của sáng tác. Cái độc đáo, vẻ riêng phải xuất hiện thường xuyên, lặp đi lặp lại, có tính chất bền vững, nhất quán. Thống nhất từ cốt lõi, nhưng triển khai phải đa dạng, đổi mới. Nguyễn Trãi trong Đại cáo bình Ngô, Quân trung từ mệnh tật rất hào hùng, đanh thép, sắc bén, nhưng trong Quốc âm thi tập lại u hoài, trầm lắng, suy tư. Hồ Chí Minh trong truyện và kí thì hiện đại, nhưng thơ chữ Hán lại giàu sắc thái phương Đông cổ kính, thơ tiếng Việt đậm cốt cách dân gian.
- Độc đáo một cách đa dạng, bền vững mà luôn đổi mới, những phong cách còn phải có phẩm chất thẩm mĩ, nghĩa là nó phải đem lại cho người đọc một sự hưởng thụ mĩ cảm dồi dào qua những tác phẩm giàu tính nghệ thuật, hay, sinh động, hấp dẫn. Chỉ khi đó dấu ấn của phong cách trong quá trình văn học mới được ghi nhớ mãi mãi, không thể phai mờ, nói một cách hình ảnh như nhà thơ lê Đạt:
"Mỗi công dân đều có một dạng vân tay
Mỗi nhà thơ thứ thiệt có một dạng vân chữ
Không trộn lẫn"
(Vân chữ)
5 NHỮNG CÂU NÓI VỀ LÝ LUẬN VĂN HỌC HAY
1. Cuộc sống còn tuyệt vời biết bao trong thực tế và trên trang sách. Nhưng cuộc sống cũng bi thảm biết bao. Cái đẹp còn trộn lẫn niềm sầu buồn. Cái nên thơ còn lóng lánh giọt nước mắt ở đời. (Trích trong Nhật ký của Nguyễn Văn Thạc)
2. Tôi hãy còn một trái tim, một dòng máu nóng để yêu thương, cảm thông và chia sẻ. (Dostoevski)
3. Điều duy nhất có giá trị trong cuộc đời chính là những dấu ấn của tình yêu mà chúng ta đã để lại phía sau khi ra đi. (Albert Schweitzer)
4. Chi tiết làm nên bụi vàng của tác phẩm. (Pauxtopxki)
5. Con hãy lắng nghe nỗi buồn của cành cây héo khô, của chim muông què quặt, của hành tinh lạnh ngắt. Nhưng trước hết con hãy lắng nghe nỗi buồn của con người. (Nadimetlicmet)
6. Tác phẩm nghệ thuật sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả, nếu nó không phải là tiếng thét khổ đau hay lời ca tụng hân hoan, nếu nó không đặt ra những câu hỏi hoặc trả lời những câu hỏi đó. (Bêlinxki)
7. Văn học là nhân học. (M. Gorki)
8. Nhà văn là người cho máu. ( Nữ văn sĩ Pháp Elsa Trisolet)
9. Một nghệ sĩ chân chính phải là một nhà nhân đạo từ trong cốt tủy. (Sê – Khốp)
10. Không có gì nghệ thuật hơn bản thân lòng yêu quý con người(Van Gốc)
11. Văn chương bất hủ cổ kim đều viết bằng huyết lệ (Lâm Ngữ Đường)
12. Con người đến với cuộc sống từ nhiều nẻo đường, trên muôn vàn cung bậc phong phú nhưng tiêu điểm mà con người hướng đến vẫn là con người. (Đặng Thai Mai)
13. Tư tưởng nhân đạo xuyên suốt văn học từ xưa đến nay. Khái niệm nhân đạo có những tiền thân của nó, trong lời nói thông thường đó là "tình thương, lòng thương người" (Lê Trí Viễn)
14. Thanh nam châm thu hút mọi thế hệ vẫn là cái cao thượng, cái đẹp và cái nhân đạo của lòng người. (Xê – Lê – Khốp)
15. Cốt lõi của lòng nhân đạo là lòng yêu thương. Bản chất của nó là chữ tâm đối với con người. (Hoài Chân)
16. Nếu như cảm hứng nhân bản nghiêng về đồng cảm với những khát vọng rất người của con người, cảm hứng nhân văn thiên về ngợi ca vẻ đẹp của của con người thì cảm hứng nhân đạo là cảm hứng bao trùm. (Hoài Thanh)
17. Nghệ thuật là sự vươn tới, sự níu giữ mãi mãi. Cái cốt lõi của nghệ thuật là tính nhân đạo. (Nguyên Ngọc)
18. Một tác phẩm thật giá trị phải vượt lên trên tất cả bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho tất cả loài người. Nó phải chứa đựng nột cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi, nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bằng...Nó làm cho người gần người hơn. (Đời Thừa – Nam Cao)
19. Niềm vui của nhà văn chân chính là niềm vui của người dẫn đường đến xứ sở cái đẹp. (Pautopxki)
20. Nói nghệ thuật tức là nói đến sự cao cả của tâm hồn. Đẹp tức là một cái gì cao cả. Đã nói đẹp là nói cao cả. Có khi nhà văn miêu tả một cái nhìn rất xấu, một tội ác, một tên giết người nhưng cách nhìn, cách miêu tả phải cao cả. (Nguyễn Đình Thi)
21. Văn chương có loại đáng thờ và không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người. (Nguyễn Văn Siêu)
22. Cuộc bể dâu mà con người nhìn thấy trong văn thơ dân tộc là máu trong trái tim của người nghệ sĩ. (Tố Hữu)
23. Nhà văn phải là người đi tìm gắng đi tìm những hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn của con người. (Nguyễn Minh Châu)
24. Nhà văn tồn tại ở trên đời trước hết để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những con người bị cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn đến chân tường. Những con người cả tâm hồn và thể xác bị hắt hủi và đọa đày đến ê chề, hoàn toàn mất hết lòng tin vào con người và cuộc đời. Nhà văn tồn tại ở trên đời để bênh vực cho những con người không có ai để bênh vực.(Nguyễn Minh Châu)
25. Giá trị của một tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giá trị tư tưởng của nó. Nhưng là tư tưởng đã được rung lên ở các cung bậc và tình cảm và tình cảm chứ không phải là tư tưởng nằm thẳng đơ trên trang giấy. Có thể nói, tình cảm của người viết là khâu đầu tiên và là khâu sau cùng trong quá trình xây dựng một tác phẩm như thế nào. (Nguyễn Khải)
26. Cảm động lòng người trước hết không gì bằng tình cảm và tình cảm là cái gốc của văn chương. (Bạch Cư Dị)
27. Nói tới giá trị nhân đạo là nói tới thái độ của người nghệ sĩ dành cho con người mà hạt nhân căn bản là lòng yêu thương con con người. (Từ điển văn học)
28. Xét đến cùng, ý nghĩa thực sự của văn học là nhân đạo hóa con người. (M. Gorki)
29. Một tác phẩm nghệ thuật là kết quả của tình yêu. (L. Tônxtôi)
30. Nhà văn phải là nhà thư ký trung thành của thời đại. (Banlzac)
31. Văn học, đó là tư tưởng đi tìm cái đẹp trong ánh sáng. (Charles DuBos)
32. Văn học giúp con người hiểu được bản thân mình, nâng cao niềm tin vào bản thân mình và làm nảy nở ở con người khát vọng hướng tới chân lý. (M. Gorki)
33. Nhà văn phải biết khơi lên ở con người niềm trắc ẩn, ý thức phản kháng cái ác; cái khát vọng khôi phục và bảo vệ những cái tốt đẹp (Ai – ma – tôp )
34. Đối với tôi văn chương không phải là cách đem đến cho người đọc sự thoát ly hay sự quên; trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối, tàn ác, vừa làm cho lòng người đọc thêm trong sạch và phong phú thêm. (Thạch Lam)
35. Nghệ thuật không phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối. Nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than. (Nam Cao)
36. Một nhà văn thiên tài là người muốn cảm nhận mọi vẻ đẹp man mác của vũ trụ. (Thạch Lam)
37. Sống đã rồi hãy viết, hãy hòa mình vào cuộc sống vĩ đại của nhân dân. (Nam Cao)
38. Mỗi tác phẩm nghệ thuật phải là mỗi phát minh về hình thức và khám phá mới về nội dung. (Lêonit Lêonop)
39. Cái quan trọng trong tài năng văn học và tôi nghĩ rằng cũng có thể trong bất kì tài năng nào, là cái mà tôi muốn gọi là tiếng nói của riêng mình. (Ivan Tuốc Ghê Nhiép)
40. Nếu tác giả không có lối đi riêng thì người đó không bao giờ là nhà văn cả... Nếu anh không có giọng riêng, anh khó trở thành nhà văn thực thụ (Sê – Khôp)
41. Văn học làm cho con người thêm phong phú, tạo khả năng cho con người lớn lên, hiểu được con người nhiều hơn.(M.L.Kalinine)
42. Đối với con người, sự thật đôi khi nghiệt ngã, nhưng chưa bao giờ cũng dũng cảm cũng cố trong lòng người đọc niềm tin ở tương lai. Tôi mong muốn những tác phẩm của tôi sẽ làm cho con người tốt hơn, tâm hồn trong sạch hơn, thức tỉnh tình yêu đối với con người và khát vọng tích cực đấu tranh cho lí tưởng nhân đạo và tiến bộ của loài người. (Sô – Lô – Khốp)
43. Một tiểu thuyết thực sự hứng thú là tiểu thuyết không chỉ mua vui cho chúng ta, mà còn chủ yếu hơn là giúp đỡ chúng ta nhận thức cuộc sống, lí giải cuộc sống. (Giooc – giơ – Đuy – a – men)
44. Văn học không quan tâm đến những câu trả lời do nhà văn đem lại, mà quan tâm đến những câu hỏi do nhà văn đặt ra, và những câu hỏi này luôn luôn rộng hơn bất kỳ một câu trả lời cặn kẽ nào.(Ciaudio Magris – Nhà văn Ý)
45. Một tác phẩm nghệ thuật là kết quả của tình yêu. Tình yêu con người, ước mơ cháy bornh vì một xã hội công bằng, bình đẳng, bác ái luôn luôn thôi thúc các nhà văn sống và viết, vắt cạn kiệt những dòng suy nghĩ, hiến dâng máu nóng của mình cho nhân loại. (Leptonxtoi)
46. Thiên chức của nhà văn cũng như những chức vụ cao quý khác là phải nâng đỡ những cái tốt để trong đời có nhiều công bằng, thương yêu hơn. (Thạch Lam)
47. Công việc của nhà văn là phát hiện ra cái đẹp ở chỗ không ai ngờ tới, tìm cái đẹp kín đáo và che lấp của sự vật, để cho người đọc bài học trông nhìn và thưởng thức. (Thạch Lam)
48. Nghệ thuật bao giờ cũng là tiếng nói tình cảm của con người, là sự tự giãi bày và gửi gắm tâm tư. (Lê Ngọc Trà)
49. Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương rồi. Nhưng sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện. (Nam Cao)
50. Tôi khuyên bạn nên đọc truyện cổ tích... thơ ngụ ngôn, các tuyển tập ca dao... Hãy đi sâu vào vẻ đẹp quyến rũ của ngôn ngữ bình dân, hãy đi sâu vào những câu hài hòa cân đối trong các bài ca, trong truyện cổ tích... Bạn sẽ thấy ở đó sự phong phú lạ thường của các hình tượng, sự giản dị sức mạnh làm say đắm lòng người, vẻ đẹp tuyệt vời của những định nghĩa... Hãy đi sâu vào những tác phẩm của nhân dân, nó trong lành như nguồn nước ngọt ngào, tươi mát, róc rách từ khe núi chảy ra. (M. Gorki)
51. Tất cả mọi nghệ thuật đều phục vụ cho một nghệ thuật vĩ đại nhất là nghệ thuật sống trên Trái Đất. (Béc – tôn Brếch)
52. Giống như ngọn lửa thần bốc lên từ những cành khô, tài năng bắt nguồn từ những tình cảm mạnh mẽ nhất của con người. (Raxun Gazatop)
53. Không có câu chuyện cổ tích nào đẹp hơn câu chuyện do chính cuộc sống viết ra. (Anđecxen)
54. Cuộc đời là nơi xuất bản, cũng là nơi đi tới của văn học. (Tố Hữu)
55. Sự trưởng thành của một thể loại được đánh dấu bằng cổ nhiên, nhưng rõ hơn lại đánh dấu bằng những phong cách. (Lí luận văn học)
56. Nghệ sĩ là người biết khai thác những ấn tượng riêng chủ quan của mình, tìm thấy những ấn tượng đó có giá trị khái quát và biết làm cho những ấn tượng đó có những hình thức riêng. (M. Gorki)
57. Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo vì vậy nó đồi hỏi người viết sự sáng tạo phong cách mới lạ, thu hút người đọc. (Lí luận văn học)
58. Phải đẩy tới chóp đỉnh cao của mâu thuẫn thì sự sống nhiều hình mới vẽ ra. (Heghen)
59. Tác phẩm chân chính không kết thúc ở trang cuối cùng, không bao giờ hết khả năng kể chuyện khi câu chuyện về các nhân vật đã kết thúc. Tác phẩm nhập vào tâm hồn và ý thức của bạn đọc, tiếp tục sống và hành động như một lực lượng sống nội tâm, như sự dằn vặt và ánh sáng của lương tâm, không bao giờ tàn tạ như thi ca của sự thật. (Aimatop)
60. Tình huống là một lát cắt của sự sống, là một sự kiện diễn ra có phẩn bất ngờ nhưng cái quan trọng là sẽ chi phối nhiều điều trong cuộc sống con người. (Nguyễn Minh Châu)
61. Nhân vật trong tác phẩm của một thiên tài thật sự nhiều khi thật hơn cả con người ngoài đời bởi sức sống lâu bền, bởi ý nghĩa điển hình của nó. Qua nhân vật ta thấy cả một tầng lớp, một giai cấp, một thời đại, thậm chí có nhân vật vượt lên khỏi thời đại, có ý nghĩa nhân loại, vĩnh cửu sống mãi với thời gian. (Lí luận văn học)
62. Người sáng tác là nhà văn và người tạo nên số phận cho tác phẩm là độc giả. (M. Gorki)
63. Mỗi khi có gì chất chứa trong lòng, không nói ra, không chịu được thì lại cần thấy làm thơ. (Tố Hữu)
64. Nghệ thuật đó là sự mô phỏng tự nhiên. (Ruskin)
65. Văn học giúp con người hiểu được bản thân mình, nâng cao niềm tin vào bản thân mình và làm nảy nở ở con người khát vọng hướng tới chân lí. (M. Gorki)
66. Cái quan trọng trong tài năng văn học là tiếng nói của chính mình, là cái giọng riêng của chính mình mà không thể tìm thấy trong cổ họng của bất kỳ một người nào khác. (Tuốc – ghê – nhép)
67. Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo. Vì vậy nó đòi hỏi phải có phong cách, tức là phải có nét gì đó rất mới, rất riêng thể hiện trong tác phẩm của mình. (Nguyễn Tuân)
68. Làm người thì không có cái tôi... nhưng làm thơ thì không thể không có cái tôi. (Viên Mai)
69. Không có tiếng nói riêng không mang lại những điều mới mẻ cho văn chương mà chỉ biết dẫm theo đường mòn thì tác phẩm nghệ thuật sẽ chết. (Lêonit Lêonop)
70. Nhà văn phải biết khơi lên ở con người niềm trắc ẩn, ý thức phản kháng cái ác, cái khát vọng khôi phục và bảo vệ những điều tốt đẹp. (Ai – ma – tốp)
71. Giá trị của 1 tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giá trị tư tưởng của nó. Nhưng là tư tưởng đã được rung lên ở các bậc tình cảm, chứ không phải là cái tư tưởng nằm thẳng đơ trên trang giấy. Có thể nói, tình cảm của người viết là khâu đầu tiên cũng là khâu sau cùng trong quá trình xây dựng tác phẩm lớn (Nguyễn Khải).
72. Như một hạt giống vô hình, tư tưởng gieo vào tâm hồn nghệ sĩ và từ mảnh đời màu mở ấy nó triển khai thành một hình thức xác định, thành các hình tượng nghệ thuật đầy vẻ đẹp và sức sống.(Bêlinxki)
73. Văn chương trước hết phải là văn chương, nghệ thuật trước hết phải là nghệ thuật. (Nguyễn Tuân)
74. Văn học, nghệ thuật là công cụ để hiểu biết, để khám phá, để sáng tạo thực tại xã hội. (Phạm Văn Đồng)
75. Nếu một tác giả không có lối đi riêng của mình thì người đó sẽ không bao giờ là nhà văn học được. (Tsêkhôp)
76. Nhà thơ như con ong biến trăm hoa thành mật ngọt
77. Một mật ngọt thành đòi vạn chuyến ong bay. (Chế Lan Viên)
78. Vạt áo của triệu nhà thơ không bọc hết vàng mà đời rơi vãi
Hãy nhặt lấy chữ của đời mà góp nên trang. (Chế Lan Viên)
79. Cuộc sống là cánh đồng màu mở để cho thơ bén rễ sinh sôi. (Puskin)
80. Thơ là âm nhạc của tâm hồn, nhất là những tâm hồn cao cả, đa cảm. (Voltaire)
81. Thơ là viên kim cương lấp lánh dưới ánh mặt trời. (Sóng Hồng)
82. Thơ là thần hứng. (Platon)
83. Thơ là ngọn lửa thần. (Đecgiavin)
84. Thơ ca là niềm vui cao cả nhất mà loài người đã tạo ra cho mình. (C. Mac)
85. Thơ trước hết là cuộc đời sau đó mới là nghệ thuật. (Bêlinxki)
86. Thơ là cái nhụy của cuộc sống, nên nhà thơ phải đi hút cho được cái nhụy ấy và phấn đấu làm sao cho cuộc đời của mình cũng có nhụy. (Phạm Văn Đồng)
87. Bài thơ anh, anh làm một nửa mà thôi
Còn một nửa để mùa thu làm lấy
Cái xào xạc hồn anh chính là xào xạc lá
Nó không là anh nhưng nó là mùa. (Chế Lan Viên)
88. Đối với nhà thơ thì cách viết, bút pháp của anh ta là một nửa việc làm. Dù bài thơ thể hiện ý tứ độc đáo đến đâu, nó cũng nhất thiết phải đẹp. Không chỉ đơn giản là đẹp mà còn đẹp một cách riêng. Đối với nhà thơ, tìm cho ra bút pháp của mình – nghĩa là trở thành nhà thơ. (Raxun Gamzatop)
89. Thơ chỉ bật ra trong tim khi cuộc sống đã thật tràn đầy. (Tố Hữu)
90. Làm thơ là cân một phần nghìn milligram quặng chữ.(Maiacopxki)
91. Một câu thơ hay là một câu thơ có sức gợi. (Lưu Trọng Lư)
92. Cái kết tinh của mỗi vần thơ và muối bể 28. Muối lắng ở ô nề, thơ đọng ở bể sâu. (Chế Lan Viên)
93. Hình thức cũng là vũ khí
Sắc đẹp câu thơ cũng phải đấu tranh cho chân lí. (Chế Lan Viên)
94. Đời thi sĩ là thơ, như đời một nông dân là lúa
Nhan sắc của viên ngọc ư! Có khi là nhiệm vụ nó đấy rồi. (Chế Lan Viên)
95. Câu thơ phải luôn bất ổn và xôn xao
Không thể nằm yên mà ngủ được nào. (Chế Lan Viên)
96. "Ta là ai?" Như ngọn gió siêu hình
Câu hỏi hư vô thổi nghìn nến tắt
"Ta vì ai?" Khẽ xoay chiều ngọn bất
Bàn tay người thắp lại triệu chồi xanh. (Chế Lan Viên)
97. Thi sĩ là con chim sơn ca ngồi trong bóng tối hát lên những tiếng êm dịu để làm vui cho sự cô độc của chính mình. (B. Shelly)
98. Để trong lòng là chí, ngụ ra ý là thơ. Người có sâu, cạn cho nên thơ mờ có tỏ, rộng hẹp khác nhau. Người làm thơ không ngoài lấy trung hậu làm gốc, ý nghĩa phải hàm súc, lời thơ phải giản dị. (Nguyễn Cư Trinh)
99. Thơ là một bức họa để cảm nhận thay vì để ngắm. (Leonardo DeVinci)
100. Thơ ca làm cho tất cả những gì tốt đẹp nhất trên đời trở thành bất tử. (Shelly)
101. Thơ là rượu của thế gian. (Huy Trực)
102. Trong tâm hồn của con người đều có cái van mà chỉ có thơ ca mới mở được. (Nhêcơraxop)
103. Trên đời có những thứ chỉ giải quyết được bằng thơ. (Maiacopxki)
104. Nhà thơ, ngay cả các nhà thơ vĩ đại nhất cũng phải đồng thời là những nhà tư tưởng. (Bêlinxki)
105. Thơ là chuyện đồng điệu. (Tố Hữu)
106. Thơ là tiếng gọi đàn. (Xuân Diệu)
107. Thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp. (Sóng Hồng)
108. Thơ sinh ra từ tình yêu và lòng căm thù, từ nụ cười trong sáng hay giọt nước mắt đắng cay. (Raxun Gamzatôp)
109. Những câu thơ lấp lánh như những tấm huy chương.(Pauxtopxki)
110. Thơ là bà chúa của nghệ thuật. (Xuân Diệu)
111. Thơ là tiếng nói của tri âm. (Tố Hữu)
112. Giọng ca buồn là thích hợp nhất cho thơ. (Etga Pô)
113. Thơ ca phải say mới thích. (Tố Hữu)
114. Thơ chính là tâm hồn. (M. Gorki)
115. Thơ là thơ đồng thời là họa, là nhạc, là chạm khắc theo một cách riêng. (Sóng Hồng)
116. Thơ là tiếng lòng. (Diệp Tiếp)
117. Thơ là thư kí chân thành của trái tim. (Duy bra lay)
118. Thơ hay là thơ giản dị, xúc động và ám ảnh. Để đạt được một lúc ba điều ấy đối với các thi sĩ vẫn còn là điều bí mật. (Trần Đăng Khoa)
119. Thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp. (Sóng Hồng)
120. Bài thơ hay là bài thơ đọc lên không còn thấy câu thơ mà chỉ còn thấy tình người và tôi muốn thơ phải thật là gan ruột của mình.(Tố Hữu)
121. Thơ là hiện thực, thơ là cuộc đời, thơ còn là thơ nữa. (Xuân Diệu)
122. Thơ cũng như nhạc có thể trở thành một sức mạnh phi thường khi nó chinh phục được trái tim của quần chúng nhân dân. (Sóng Hồng)
123. Câu thơ hay là câu thơ có khả năng đánh thức bao ấn tượng vốn ngủ quên trong kí ức của con người. (Chu Văn Sơn)
124. Thơ là tiếng nói hồn nhiên nhất của tâm hồn con người trước cuộc đời. (Tố Hữu)
125. Thơ ca đồng thời song hành với con người chức năng thức tỉnh lương tri đang ngủ. (Eptusencô))
126. Cũng như nụ cười và nước mắt, thực chất của thơ là phản ánh một cái gì đó hoàn thiện từ bên trong. (R.Tagore)
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top