Tai Chinh DN
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
1. Khái niệm
Doanh nghiệp là một tổ chức kinh doanh nhằm mục đích sinh lời đuợc pháp luật thừa nhận, đuợc phép kinh doanh trên một số linh vực nhất định, có từ một chủ sở hữu trở lên và chủ sở hữu phải đảm bảo truớc pháp luật bằng toàn bộ tài sản của mình, có tên riêng, có trụ sở giao dịch ổn định.
Trong nền kinh tế thị truờng các loại hình doanh nghiệp phát triển một cách đa dạng, phong phú. Có nhiều cách tiếp cận về doanh nghiệp. Nếu xét trên một góc độ cung cầu vốn trong nền kinh tế thì doanh nghiệp đuợc chia thành doanh nghiệp tài chính kinh doanh tiền tệ và doanh nghiệp phi tài chính kinh doanh hàng hoá dịch vụ thông thuờng. Nếu dựa vào quan hệ sở hữu về tu liệu sản xuất thì doanh nghiệp đuợc chia thành doanh nghiệp nhà nuớc, doanh nghiệp tu nhân và công ty cổ phần. Nếu dựa vào hình thức pháp lý tổ chức của doanh nghệp thì doanh nghiệp đuợc phân chia thành doanh nghiệp nhà nuớc, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, doanh nghiệp có vốn đầu tu nuớc ngoài và doanh nghiệp tu nhân.
Dù là cách phân chia nào thì đối với một doanh nghiệp khi tiến hành hoạt động kinh doanh đều phải sử dụng tài chính doanh nghiệp để thực hiện mục tiêu kinh doanh. Trong chuong này chỉ đề cập đến doanh nghiệp phi tài chính. Để tiến hành hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp cần phải có những yếu tố cần thiết là tu liệu lao động, đối tuợng lao động và sức lao động, đoi hỏi doanh nghiệp phải có một luợng vốn nhất định. Muốn vậy doanh nghiệp phải hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ. Quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cung là quá trình hình thành, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp. Trong quá trình đó, phát sinh và hình thành các luồng tiền tệ gắn liền với các hoạt động đầu tu và hoạt động kinh doanh thuờng xuyên của doanh nghiệp. Các luồng tiền tệ bao hàm các
luồng tiền tệ đi vào và các luồng tiền tệ đi ra khỏi doanh nghiệp, tạo thành sự vận động của các luồng tài chính doanh nghiệp.
Bên trong quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp là các quan hệ kinh tế, các quan hệ này đuợc gọi là các quan hệ tài chính và bao gồm các quan hệ nhu:
- Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với các chủ thể khác thể hiện trong việc góp vốn, vay vốn, cho vay vốn..., trong việc thanh toán cho việc mua hoặc bán tài sản, vật tu, hàng hoá, dịch vụ...
- Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với nguời lao động trong doanh nghiệp: trả luong, thuởng, phạt vật chất.
- Quan hệ giữa các bộ phận trong doanh nghiệp nhu thanh toán giữa các bộ phận trong doanh nghiệp, phân phối lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp, hình thành và sử dụng quỹ của doanh nghiệp.
- Quan hệ tài chính nảy sinh trong các hoạt động xã hội của doanh nghiệp nhu tài trợ cho các tổ chức xã hội, các quỹ từ thiện, thể dục, thể thao, văn hoá...
- Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp nuớc ngoài nhu liên doanh liên kết với doanh nghiệp nuớc ngoài hoạt động ở Việt Nam, thanh toán xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ...
Từ các dạng quan hệ tài chính trên có thể kết luận tài chính doanh nghiệp xét về nội dung vật chất là quỹ tiền tệ trong doanh nghiệp đuợc tạo lập, sử dụng cho mục đích kinh doanh của doanh nghiệp, xét về thực chất là những quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp với các chủ thể kinh tế xã hội trong và ngoài nuớc. Từ đó, có thể khái quát tài chính doanh nghiệp là các quan hệ kinh tế phát sinh gắn liền với quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ trong quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhằm đạt tới mục tiêu của doanh nghiệp.
2. Đặc điểm của tài chính doanh nghiệp
Tài chính doanh nghiệp là một khâu của hệ thống tài chính và là khâu co sở, nên có những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, gắn liền với quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có các quan hệ tài chính doanh nghiệp đa dạng phát sinh nhu quan hệ nộp, cấp giữa doanh nghiệp với nhà nuớc, quan hệ thanh toán với các chủ thể khác trong xã hội, với nguời lao động trong doanh nghiệp.
Thứ hai, sự vận động của quỹ tiền tệ, vốn kinh doanh có những nét riêng biệt đó là: sự vận động của vốn kinh doanh luôn gắn liền với các yếu tố vật tu là lao động: ngoài phần tạo lập ban đầu chúng còn đuợc bổ sung từ kết quả kinh doanh; sự vận động của vốn kinh doanh vì mục tiêu doanh lợi.
Cung giống nhu các khâu tài chính khác, tài chính doanh nghiệp có chức năng khách quan đó là chức năng phân phối và chức năng giám đốc. Nhờ có chức năng phân phối mà doanh nghiệp có khả năng động viên khai thác và thu hút các nguồn tài chính trong nền kinh tế để hình thành vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Sau khi đa hình thành vốn kinh doanh, để sử dụng vốn, một lần nữa phải có sự tham gia của chức năng phân phối. Lúc này phân phối vốn lại đồng nghia với việc đầu tu vốn: đầu tu bên trong hay đầu tu bên ngoài. Lợi nhuận thu đuợc là yếu tố quan trọng nhất, quyết định phuong huớng và cách thức đầu tu của doanh nghiệp. Mục tiêu cuối cùng của mọi quá trình kinh doanh của doanh nghiệp là thu lợi nhuận, vì thế bên cạnh khả năng phân phối để thoả mãn về vốn kinh doanh, tài chính doanh nghiệp còn có khả năng giám sát dự báo hiệu quả của quá trình phân phối. Chức năng giám đốc của tài chính doanh nghiệp có khả năng phát hiện những khuyết tật trong khâu phân phối để từ đó điều chỉnh quá trình phân phối nhằm thực hiện phuong huớng mục tiêu chiến luợc sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Song chức năng khách quan đó của tài chính doanh nghiệp phát huy đến mức nào thì phụ thuộc vào sự nhận thức một cách tự giác và hoạt động chủ quan của nguời quản lý. Đó chính là vai trò của tài chính doanh nghiệp.
3. Vai trò của tài chính doanh nghiệp
Trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, tài chính doanh nghiệp có những vai trò chủ yếu sau đây:
- Huy động đảm bảo đầy đủ và kịp thời vốn cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
119
Để thực hiện mọi quá trình kinh doanh của doanh nghiệp truớc hết phải có một yếu tố tiền đề đó là vốn kinh doanh. Vai trò của tài chính doanh nghiệp truớc hết đuợc thể hiện ở việc xác định đúng đắn nhu cầu vốn cần thiết cho hoạt động của doanh nghiệp trong từng thời kỳ. Tiếp đó phải lựa chọn các phuong pháp và hình thức huy động vốn thích hợp, đáp ứng kịp thời các nhu cầu vốn để hoạt động của các doanh nghiệp đuợc thực hiện một cách nhịp nhàng liên tục với chi phí huy động vốn thấp nhất.
- Tổ chức sử dụng vốn tiết kiệm và hiệu quả. Việc tổ chức sử dụng vốn tiết kiệm và hiệu quả đuợc coi là điều kiện tồn tại và phát triển của mọi doanh nghiệp. Tài chính doanh nghiệp có vai trò quan trọng trong việc đánh giá và lựa chọn dự án đầu tu tối uu; huy động tối đa số vốn hiện có vào hoạt động kinh doanh, phân bổ hợp lý các nguồn vốn, sử dụng các biện pháp để tăng nhanh vòng quay của vốn, nâng cao khả năng sinh lời của vốn kinh doanh.
- Đon bẩy kích thích và điều tiết kinh doanh. Vai trò này của tài chính doanh nghiệp đuợc thể hiện thông qua việc tạo ra sức mua hợp lý để thu hút vốn đầu tu, lao động, vật tu, dịch vụ, đồng thời xác định giá bán hợp lý khi phát hành cổ phiếu, hàng hoá bán, dịch vụ và thông qua hoạt động phân phối thu nhập của doanh nghiệp, phân phối quỹ tiền thuởng, quỹ tiền luong, thực hiện các hợp đồng kinh tế...
- Giám sát kiểm tra chặt chẽ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tình hình tài chính của doanh nghiệp là một tấm guong phản ánh trung thực nhất mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thông qua các chỉ tiêu tài chính thực hiện mà các nhà quản lý doanh nghiệp dễ dàng nhận thấy thực trạng quá trình kinh doanh của doanh nghiệp, để từ đó có thể đánh giá khái quát và kiểm soát đuợc các mặt hoạt động của doanh nghiệp, phát hiện kịp thời những vuớng mắc, tồn tại để từ đó đua ra các quyết định điều chỉnh các hoạt động kinh doanh nhằm đạt tới mục tiêu đa định.
Vai trò của tài chính doanh nghiệp sẽ trở nên tích cực hay thụ động truớc hết là phụ thuộc vào sự nhận thức và vận dụng các chức năng của tài chính, sau nữa còn phụ thuộc vào môi truờng kinh doanh, co chế tổ chức tài chính doanh nghiệp và các nguyên tắc cần quán triệt trong mọi hoạt động tài chính doanh nghiệp.
120
II. TỔ CHỨC TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
Để sử dụng tốt công cụ tài chính, phát huy vai trò tích cực của chúng trong sản xuất kinh doanh cần phải tổ chức tài chính. Tổ chức tài chính doanh nghiệp là việc hoạch định chiến luợc về sử dụng tài chính và hệ thống các biện pháp để thực hiện chiến luợc đó nhằm đạt đuợc mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định. Song việc tổ chức tài chính doanh nghiệp lại chịu ảnh huởng của nhiều nhân tố (nhu sự khác nhau về hình thức pháp lý tổ chức doanh nghiệp, đặc điểm kinh tế kỹ thuật của ngành, môi truờng kinh doanh...) và các nguyên tắc cần quán triệt.
1. Các nhân tố ảnh huởng đến tổ chức TCDN
1.1. Hình thức pháp lý của tổ chức doanh nghiệp
Theo hình thức pháp lý tổ chức doanh nghiệp, ở nuớc ta hiện nay có các loại hình doanh nghiệp sau đây:
- Doanh nghiệp nhà nuớc.
- Công ty cổ phần.
- Công ty trách nhiệm hữu hạn.
- Công ty hợp danh.
- Doanh nghiệp tu nhân.
- Doanh nghiệp có vốn đầu tu nuớc ngoài.
Các loại hình doanh nghiệp khác nhau chi phối đến việc tổ chức, huy động vốn cung nhu việc phân chia lợi nhuận cung khác nhau. Chẳng hạn, doanh nghiệp nhà nuớc đuợc Ngân sách nhà nuớc đầu tu vốn toàn bộ hoặc một phần vốn điều lệ ban đầu. Ngoài vốn nhà nuớc đầu tu, doanh nghiệp đuợc quyền huy động vốn duới các hình thức phát hành trái phiếu, vay vốn, nhận góp liên doanh... nhung không thay đổi hình thức sở hữu của doanh nghiệp. Việc phân phối lợi nhuận sau thuế đuợc thực hiện theo quy định của chính phủ. Đối với doanh nghiệp tu nhân thì vốn là do chủ doanh nghiệp tu nhân tự bỏ ra, cung có thể huy động thêm từ bên ngoài duới hình thức đi vay. Loại doanh nghiệp này không đuợc phép phát hành một loại chứng khoán nào trên thị truờng để tăng vốn. Phần thu nhập sau thuế thuộc quyền sở hữu và sử dụng của chủ doanh nghiệp. Còn đối với công ty trách nhiệm hữu hạn
121
thì vốn điều lệ của công ty là do các thành viên đóng góp. Trong quá trình hoạt động vốn có thể tăng nên nhờ kết nạp thêm thành viên mới, trích từ quỹ dự trữ hoặc đi vay bên ngoài nhung không đuợc phép phát hành chứng khoán. Việc phân chia lợi nhuận sau thuế do các thành viên quyết định, mức lợi nhuận các thành viên nhận đuợc phụ thuộc vào vốn đóng góp...
1.2. Đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của ngành kinh doanh
Tổ chức tài chính doanh nghiệp còn dựa vào đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của ngành kinh doanh. Mỗi ngành kinh doanh có đặc điểm về mặt kinh tế và kỹ thuật riêng. Những đặc điểm đó đa ảnh huởng đến co cấu vốn kinh doanh của doanh nghiệp (ngành công nghiệp khai thác, công nghiệp chế biến vốn cố định chiếm tỷ trọng khác nhau trong tổng số vốn kinh doanh); ảnh huởng đến tốc độ luân chuyển vốn (tốc độ luân chuyển vốn của doanh nghiệp sản xuất chậm hon tốc độ luân chuyển vốn của các doanh nghiệp thuong mại dịch vụ, doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có tính chất thời vụ khác với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh liên tục...).
1.3. Môi truờng kinh doanh
Môi truờng kinh doanh bao gồm tất cả các điều kiện bên ngoài ảnh huởng tới hoạt động của doanh nghiệp. Do đó, việc tổ chức tài chính doanh nghiệp phải tính đến tác động của môi truờng kinh doanh.
Môi truờng kinh doanh bao gồm: sự ổn định về kinh tế, thị truờng, lãi suất, co sở hạ tầng của nền kinh tế, sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và công nghệ, chính sách kinh tế, tài chính của nhà nuớc... Sự ổn định của nền kinh tế sẽ tạo môi truờng thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nền kinh tế biến động có thể gây nên những rủi ro cho kinh doanh, những rủi ro đó ảnh huởng tới các khoản chi phí đầu tu, ảnh huởng nhu cầu về vốn, ảnh huởng tới thu nhập của doanh nghiệp, co sở hạ tầng của nền kinh tế phát triển cung ảnh huởng đến tiết kiệm chi phí trong kinh doanh...
Thị truờng, gia cả, lãi suất đều ảnh huởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Thị truờng tài chính, thị truờng hàng hoá phát triển tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp huy động vốn từ bên ngoài cung nhu mua vật tu, thiết bị bán hàng hoá của doanh nghiệp đuợc dễ dàng.
122
Giá cả, lãi suất đều ảnh huởng tới sự tăng giảm về chi phí tài chính và sự hấp dẫn của các hình thức tài trợ khác nhau. Mức lãi suất cung là một yếu tố đo luờng khả năng huy động vốn vay.
Sự tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ đoi hỏi doanh nghiệp không ngừng cải tiến kỹ thuật, đổi mới công nghệ đảm bảo cho sản phẩm của doanh nghiệp tồn tại và phát triển, đứng vững trong cạnh tranh. Từ đó, đoi hỏi doanh nghiệp phải có vốn đầu tu lớn và chọn huớng đầu tu thích hợp...Chính sách kinh tế và tài chính của nhà nuớc đối với doanh nghiệp (nhu chính sách khuyến khích đầu tu, chính sách thuế, chính sách tín dụng và lãi suất, chính sách ngoại hối, chế độ khấu hao...) phù hợp với môi truờng tài chính vi mô sẽ ổn định, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tu phát triển, khuyến khích các doanh nghiệp tích tụ vốn, sử dụng vốn tiết kiệm và có hiệu quả.
2. Nguyên tắc tổ chức tài chính doanh nghiệp
Tổ chức tài chính của doanh nghiệp không những chỉ dựa vào các nhân tố trên mà còn phải quán triệt đầy đủ các nguyên tắc sau đây:
Thứ nhất: Nguyên tắc tôn trọng luật pháp
Trong nền kinh tế thị truờng, mục tiêu chung của các doanh nghiệp là đều huớng tới lợi nhuận. Vì lợi nhuận tối đa mà các doanh nghiệp có thể kinh doanh với bất cứ giá nào có thể phuong hại tới lợi ích quốc gia, đến lợi ích của các doanh nghiệp khác. Do đó, song song với bàn tay vô hình của nền kinh tế thị truờng phải có bàn tay hữu hình của nhà nuớc để điều chỉnh nền kinh tế. Nhà nuớc đa sử dụng hàng loạt các công cụ nhu luật pháp, chính sách tài chính, tiền tệ, giá cả... để quản lý vi mô nền kinh tế. Các công cụ đó một mặt tạo điều kiện kích thích mở rộng đầu tu, tạo môi truờng kinh doanh, mặt khác tạo ra khuôn khổ luật pháp kinh doanh rất chặt chẽ. Vì vậy, nguyên tắc hàng đầu của tổ chức tài chính doanh nghiệp là phải tôn trọng luật pháp. Doanh nghiệp phải hiểu luật để đầu tu đúng huớng - noi đuợc nhà nuớc khuyến khích (nhu giảm thuế, tài trợ tín dụng...)
Thứ hai: Nguyên tắc hạch toán kinh doanh
Hạch toán kinh doanh là nguyên tắc quan trọng nhất, quyết định tới sự sống còn của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị truờng. Yêu cầu tối cao của nguyên tắc này là lấy thu bù chi, có doanh lợi. Nó hoàn toàn trùng hợp với mục tiêu của các
123
doanh nghiệp là kinh doanh để đạt đuợc lợi nhuận tối đa. Do có sự thống nhất đó nên hạch toán kinh doanh không chỉ là điều kiện để thực hiện mà còn là yêu cầu bắt buộc các doanh nghiệp phải thực hiện nếu nhu không muốn doanh nghiệp bị phá sản. Thế nhung hạch toán kinh doanh chỉ có thể đuợc phát huy tác dụng trong môi truờng đích thực là nền kinh tế hàng hoá mà đỉnh cao của nó là nền kinh tế thị truờng và doanh nghiệp đuợc tự chủ về mặt tài chính, tự chủ trong kinh doanh. Doanh nhiệp đuợc quyền sở hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của mình, chủ động lựa chọn ngành nghề, địa bàn đầu tu, hình thức đầu tu kinh doanh, góp vốn vào các doanh nghiệp khác; lựa chọn hình thức và cách thức huy động vốn, chủ động tìm kiếm thị truờng khách hàng và ký kết hợp đồng; tuyển thuê và sử dụng lao động theo yêu cầu kinh doanh; chủ động áp dụng phuong thức quản lý khoa học hiện đại để nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh. Mục tiêu hiệu quả kinh tế phải đuợc coi là mục tiêu bao trùm chi phối hoạt động tài chính của doanh nghiệp.
Thứ ba: Nguyên tắc giữ chữ tín
Giữ chữ tín không chỉ là một tiêu chuẩn đạo đức trong cuộc sống đời thuờng mà còn là nguyên tắc nghiêm ngặt trong kinh doanh nói chung và trong tổ chức tài chính doanh nghiệp nói riêng. Trong thực tế kinh doanh cho thấy, kẻ làm mất chữ tín, chỉ ham lợi truớc mắt sẽ bị bạn hàng xa lánh. Đó là nguy co dẫn đến phá sản. Do đó trong tổ chức tài chính doanh nghiệp để giữ chữ tín cần tôn trọng nghiêm ngặt các kỉ luật thanh toán, chi trả các hợp đồng kinh tế, các cam kết về góp vốn đầu tu, và phân chia lợi nhuận. Mặt khác để giữ chữ tín doanh nghiệp cung cần mạnh dạn đầu tu, đổi mới công nghệ, cải tiến ki thuật để nâng cao chất luợng sản phẩm để luôn giữ đuợc giá trị của nhãn hiệu hàng hoá của doanh nghiệp.
Thứ tu: Nguyên tắc an toàn phòng ngừa rủi ro
Đảm bảo an toàn, phòng ngừa rủi ro bất trắc cung đuợc coi là nguyên tắc quan trọng trong kinh doanh nói chung và tổ chức tài chính doanh nghiệp nói riêng. Đảm bảo an toàn là co sở vững chắc cho việc thực hiện mục tiêu kinh doanh có hiệu quả. Nguyên tắc an toàn cần đuợc quán triệt trong mọi khâu của công tác tổ chức tài chính doanh nghiệp: an toàn trong việc lựa chọn nguồn vốn, an toàn trong việc lựa chọn đối tác đầu tu liên doanh, an toàn trong việc sử dụng vốn...An toàn và mạo hiểm trong kinh doanh là hai thái cực đối lập nhau. Mạo hiểm trong đầu tu thuờng phải chấp nhận nhiều rủi ro lớn, nhung cung thuờng thu đuợc lợi nhuận cao và
124
nguợc lại. Điều này đoi hỏi các nhà tài chính phải có những quyết sách đúng đắn trong các thời co thích hợp để lựa chọn phuong án đầu tu vừa đảm bảo an toàn, vừa mang lại hiệu quả cao. Ngoài các giải pháp lựa chọn phuong án an toàn trong kinh doanh, cần thiết phải tạo lập quỹ dự phòng (quỹ dự trữ tài chính) hoặc tham gia bảo hiểm. Mặt khác, việc thành lập công ty, hình thức phát hành cổ phiếu cung là biện pháp vừa để tập trung vốn, vừa để san sẻ rủi ro cho các cổ đông nhằm tăng độ an toàn vốn trong kinh doanh của doanh nghiệp.
Trên đây là những nguyên tắc rất co bản cần đuợc quán triệt trong công tác tổ chức tài chính doanh nghiệp. Để sử dụng tốt công cụ tài chính doanh nghiệp, cần thiết phải tìm hiểu những nội dung hoạt động của tài chính doanh nghiệp.
III. NHỮNG NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA HOẠT ĐỘNG TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP.
Trong nền kinh tế thị truờng, hoạt động của tài chính doanh nghiệp có vị trí quan trọng đặc biệt, chi phối tất cả các khâu của quá trình kinh doanh của một doanh nghiệp.
Tuỳ từng loại hình doanh nghiệp mà có những nội dung hoạt động tài chính khác nhau, trọng tâm và mức độ quản lý trong từng khâu cung khác nhau. Ở phần này chỉ giới thiệu nội dung hoạt động tài chính của doanh nghiệp phi tài chính (doanh nghiệp sản xuất kinh doanh). Hoạt động tài chính của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh bao gồm những nội dung chủ yếu sau đây:
1. Quản lý sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp
Trong nội dung hoạt động tài chính của doanh nghiệp, quản lý và sử dụng vốn kinh doanh là khâu quan trọng nhất, có tính chất quyết định tới mức độ tăng truởng hoặc suy thoái của một doanh nghiệp. Quản lý sử dụng vốn kinh doanh bao gồm nhiều khâu nhu xác định nhu cầu vốn kinh doanh, khai thác tạo lập vốn kinh doanh, đầu tu sử dụng và bảo toàn vốn kinh doanh...Vậy vốn kinh doanh là gì, nó có những đặc trung gì trong quá trình vận động của nó. Nhận thức đuợc vấn đề này không chỉ có ý nghia về mặt lý luận mà còn có ý nghia trong việc định ra những luận cứ cho các phuong pháp quản lý vốn.
125
1.1.Vốn kinh doanh và những đặc trung của nó
Để tiến hành bất kỳ một quá trình sản xuất kinh doanh nào cung cần phải có vốn. Vốn là điều kiện tiên quyết, có ý nghia quyết định tới các buớc tiếp theo của quá trình kinh doanh. Để tiến hành sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp dùng vốn đó để mua sắm các yếu tố của quá trình sản xuất kinh doanh nhu sức lao động, đối tuợng lao động và tu liệu lao động. Do sự tác động của lao động vào đối tuợng lao động thông qua tu liệu lao động mà hàng hoá dịch vụ đuợc tạo ra và tiêu thụ trên thị truờng. Cuối cùng, các hình thái vật chất khác nhau đó đuợc chuyển hoá về hình thái tiền tệ ban đầu. Để đảm bảo sự tồn tại phát triển của doanh nghiệp, số tiền thu đuợc do tiêu thụ sản phẩm phải đảm bảo bù đắp toàn bộ các chi phí đa bỏ ra và có lãi. Nhu vậy, số tiền đa ứng ra ban đầu không những chỉ đuợc bảo tồn mà nó còn đuợc tăng thêm do hoạt động kinh doanh mang lại. Toàn bộ giá trị ứng ra ban đầu và các quá trình tiếp theo cho sản xuất kinh doanh đuợc gọi là vốn. Vốn đuợc biểu hiện cả bằng tiền lẫn cả giá trị vật tu tài sản và hàng hoá của doanh nghiệp, tồn tại duới cả hình thái vật chất cụ thể và không có hình thái vật chất cụ thể. Từ đó có thể hiểu, vốn kinh doanh của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản hữu hình và tài sản vô hình đuợc đầu tu vào kinh doanh nhằm mục đích sinh lời.
Vốn kinh doanh trong các doanh nghiệp là một quỹ tiền tệ đặc biệt. Vốn kinh doanh của doanh nghiệp nhằm phục vụ cho sản xuất kinh doanh tức là mục đích tích luỹ. Vốn kinh doanh của doanh nghiệp nhằm phục vụ cho sản xuất kinh doanh. Vốn kinh doanh phải đạt tới mục tiêu sinh lời và vốn luôn thay đổi hình thái biểu hiện, nó vừa tồn tại duới hình thái tiền vừa tồn tại duới hình thái vật tu hoặc tài sản vô hình, nhung kết thúc vòng tuần hoàn phải là hình thái tiền.
Ở đây cần có sự phân biệt giữa tiền và vốn. Tiền đuợc gọi là vốn phải đồng thời thỏa mãn những điều kiện sau đây:
Thứ nhất, tiền phải đại diện cho một luợng hàng hoá nhất định (tiền phải đuợc đảm bảo bằng một luợng tài sản có thực).
Thứ hai, tiền phải đuợc tích tụ và tập trung đến một luợng nhất định, đủ sức để đầu tu cho một dự án kinh doanh.
Thứ ba, khi đa đủ về số luợng, tiền phải đuợc vận động nhằm mục đích sinh lời. Cách vận động và phuong thức vận động của tiền lại do phuong thức đầu tu kinh doanh quyết định. Các phuong thức đầu tu có thể mô phỏng theo so đồ sau:
126
SLĐ
T - H ... SX ... H' - T
TLSX
Truờng hợp đầu tu vào linh vực thuong mại
T - H - T
Truờng hợp đầu tu mua cổ phiếu trái phiếu, góp vốn liên doanh ...
T - T
Trong thực tế, một doanh nghiệp có thể vận dụng đồng thời cả ba phuong thức đầu tu vốn tiền tệ theo các mô hình trên miễn sao đạt đuợc mục tiêu có mức doanh lợi cao và nằm trong khuôn khổ của pháp luật. Mục đích vận động của tiền vốn là để sinh lời. Trong quá trình vận động, vốn có thể thay đổi hình thái biểu hiện nhung điểm xuất phát và điểm cuối cùng của vòng tuần hoàn phải là giá trị - là tiền. Đồng tiền phải quay về noi xuất phát với giá trị lớn hon. Đó là nguyên lý đầu tu, sử dụng và bảo toàn vốn. Trong nền kinh tế thị truờng, giá trị thực của một doanh nghiệp không phải chỉ là phép cộng giản đon các loại vốn cố định và vốn luu động hiện có, mà còn tính đến giá trị của những tài sản khác có khả năng sinh lời của doanh nghiệp nhu vị trí địa lý của doanh nghiệp, bí quyết về công nghệ chế tạo sản phẩm, mức độ uy tín của nhãn hiệu sản phẩm trên thị truờng, uy tín của nguời lãnh đạo doanh nghiệp, trình độ tay nghề công nhân... Những tài sản trên đuợc gọi là tài sản vô hình. Những tài sản này có vai trò rất quan trọng trong việc tạo ra khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Vì thế, khi góp vốn liên doanh, các hội viên có thể góp bằng tiền, vật tu, máy móc thiết bị, nhà xuởng, đất kinh doanh và cả bí quyết kỹ thuật hoặc khả năng uy tín kinh doanh . Tất nhiên, khi góp vốn, những tài sản đó đều phải đuợc luợng hoá để quy về giá trị, đó chính là giá trị thực của doanh nghiệp. Những nhận thức trên đây về vốn kinh doanh không chỉ giúp cho việc xác định giá trị thực của một doanh nghiệp, mà còn giúp cho công tác quản lý vốn có tầm nhìn rộng để khai thác, sử dụng những tiềm năng sẵn có của doanh nghiệp phục vụ cho đầu tu kinh doanh trong nền kinh tế thị truờng
1.2 Đầu tu vốn kinh doanh
Căn cứ vào mục đích kinh doanh của doanh nghiệp, vốn đầu tu đuợc đồng nghia với vốn kinh doanh. Đó là số vốn đuợc dùng vào kinh doanh trong một linh vực nhất định nhằm mục đích sinh lời. Đầu tu vốn là hoạt động chủ quan có cân nhắc của nguời quản lý trong việc bỏ vốn vào một mục tiêu kinh doanh nào đó với hy vọng sẽ đua lại hiệu quả kinh tế cao trong tuong lai. Việc bỏ vốn vào mục đích
127
kinh doanh nào đó nhằm mục đích thu lợi nhuận thì đuợc gọi là đầu tu vốn. Trong thực tế, giữa khả năng thu lợi nhuận cao với khả năng an toàn về vốn thuờng mâu thuẩn với nhau: mức lợi nhuận càng cao thì độ rủi ro càng lớn. Do đó, nguời đầu tu cần phải lựa chọn huớng đầu tu và phuong án đầu tu thích hợp.
Theo phạm vi đầu tu, đầu tu của doanh nghiệp chia ra đầu tu vào bên trong và đầu tu ra bên ngoài doanh nghiệp.
Đầu tu vào bên trong doanh nghiệp đuợc chia làm hai loại, đó là đầu tu xây dựng co bản và đầu tu vốn luu động. Vốn đầu tu xây dựng co bản là vốn đầu tu nhằm tạo ra tài sản cố định của doanh nghiệp (TSCĐ). Theo tính chất công việc, đầu tu xây dựng co bản chia làm ba loại: đầu tu cho xây và lắp, đầu tu mua máy móc thiết bị và đầu tu xây dựng co bản khác. Theo hình thái vật chất của kết quả đầu tu, đầu tu XDCB chia làm hai loại: đầu tu TSCĐ hữu hình và đầu tu TSCĐ vô hình (mua bằng phát minh, sáng chế, bản quyền, quy trình công nghệ sản xuất mới, nhãn hiệu thuong mại ....). Đầu tu vốn luu động (VLĐ): doanh nghiệp cần dự trữ thuờng xuyên về nguyên vật liệu, bán thành phẩm, công cụ sản xuất nhỏ ... tuong ứng với quy mô sản xuất kinh doanh để đảm bảo cho hoạt động của doanh nghiệp đuợc thực hiện. Ngoài ra phải có một số vốn luu động bằng tiền mặt.
Đầu tu ra bên ngoài doanh nghiệp là góp vốn liên doanh với doanh nghiệp khác, mua cổ phiếu, trái phiếu doanh nhgiệp khác hoặc của Nhà nuớc. Trong nền kinh tế thị truờng, để phát triển và bảo toàn vốn phòng ngừa rủi ro, doanh nghiệp thuờng dành một tỷ lệ vốn đầu tu nhất định đầu tu tài chính ra bên ngoài.
Việc phân loại vốn đầu tu theo co cấu vốn giúp doanh nghiệp xem xét tính hợp lý các khoản đầu tu trong tổng vốn kinh doanh của doanh nghiệp phù hợp với điều kiện cụ thể của môi truờng cạnh tranh nhằm đạt hiệu quả đầu tu cao.
Trong mục tiêu đầu tu cụ thể của doanh nghiệp, đầu tu của doanh nghiệp đuợc chia thành các loại sau:
- Đầu tu cho việc tăng năng lục sản xuất của doanh nghiệp.
- Đầu tu cho đổi mới sản phẩm.
- Đầu tu thay đổi thiết bị công nghệ.
- Đầu tu để mở rộng tiêu thụ sản phẩm, tăng năng lực cạnh tranh.
- Đầu tu tài chính ra bên ngoài.
128
Việc phân loại này giúp cho doanh nghiệp kiểm soát đuợc tình hình thực hiện đầu tu dài hạn theo những mục tiêu nhất định, qua đó có thể tập trung vốn cho những mục tiêu đạt hiệu quả cao nhất hoặc những mục tiêu nằm trong chiến luợc kinh doanh của doanh nghiệp.
Đầu tu dài hạn của doanh nghiệp là một nhân tố quyết định sự phát triển của doanh nghiệp, do đó việc lựa chọn huớng đầu tu có tầm quan trọng quyết định.
Về mặt kinh tế kỹ thuật và công nghệ, quyết định đầu tu dài hạn có ảnh huởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong suốt một thời gian dài, ảnh huởng có tính chất quyết định đến quy mô, trình độ trang thiết bị kỹ thuật, công nghệ sản xuất của doanh nghiệp, từ đó ảnh huởng đến chất luợng sản phẩm, đến tiêu thụ sản phẩm và lợi nhuận đạt đuợc trong tuong lai.
Về mặt tài chính, quyết định đầu tu dài hạn là một quyết định tài chính dài hạn và thuờng là phải vay hoặc huy động từ bên ngoài. Đầu tu sai sẽ gây hậu quả nghiêm trọng cho doanh nghiệp, lãng phí vốn, gây nên tình trạng nợ nần, hoạt động kém hiệu quả và có thể dẫn đến phá sản.
Để có quyết định dầu tu dài hạn đúng đắn, doanh nghiệp phải quyết định hợp lý các quan hệ cấu thành vốn kinh doanh của doanh nghiệp nhu:
- Quan hệ hợp lý giữa vốn cố định và vốn luu động.
- Quan hệ gữa tài sản hữu hình và tài sản vô hình.
- Quan hệ giữa đầu tu bên trong và đầu tu bên ngoài.
- Quan hệ giữa đầu tu ban đầu và đầu tu mở rộng, đầu tu đổi mới.
- Quan hệ đầu tu trong nuớc và đầu tu ra nuớc ngoài.
1.3. Nguồn vốn kinh doanh
Để tiến hành sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần có vốn: vốn đầu tu ban đầu và vốn bổ sung để mở rộng sản xuất kinh doanh. Đối với một doanh nghiệp, vốn đầu tu đuợc hình thành từ nhiều nguồn khác nhau. Có thể có các nguồn vốn do Ngân sách Nhà nuớc cấp, nguồn vốn do chủ kinh doanh bỏ ra, nguồn vốn tích luy đuợc trong quá trình kinh doanh, nguồn vốn do liên doanh, nguồn vốn từ phát hành cổ phiếu và nguồn vốn huy động khác.
129
Nguồn vốn từ Ngân sách nhà nuớc: là nguồn vốn do Ngân sách nhà nuớc cấp cho các doanh nghiệp nhà nuớc lúc mới hình thành doanh nghiệp. Nguồn vốn Ngân sách nhà nuớc cấp phát cho các doanh nghiệp nhà nuớc sẽ có xu huớng giảm đáng kể cả về tỷ trọng và số luợng. Các doanh nghiệp nhà nuớc phải chủ dộng bổ sung vốn bằng các nguồn tài trợ khác.
Nguồn vốn tự có là nguồn vốn do chủ đầu tu bỏ ra. Nguồn vốn gốc của vốn tự có là tiền để dành, tích luy đuợc từ lợi nhuận hàng năm của doanh nghiệp hoặc huy động vốn cổ phần do phát hành cổ phiếu. Cổ phiếu là giấy chứng nhận quyền sở hữu của số vốn đa góp vào công ty cổ phần và nhờ đó đuợc huởng những quyền lợi của doanh nghiệp. Huy động vốn bằng cách phát hành cổ phiếu là một phuong thức huy động có hiệu quả các nguồn tài chính trong xã hội để có một số vốn lớn, ổn định cho đầu tu kinh doanh.
Theo luật kinh doanh, để đuợc kinh doanh trong một linh vực nhất định, vốn tự có của doanh nghiệp đạt đến một quy mô nhất định. Nhà nuớc quy định bắt buộc khi doanh nghiệp ra đời phài có vốn pháp định ở mức mà luật pháp quy định cho từng ngành nghề, đồng thời phải có vốn điều lệ để hoạt động với yêu cầu vốn điều lệ không nhỏ hon vốn pháp định.
Nguồn vốn liên doanh: là những nguồn đóng góp theo tỷ lệ giữa các chủ đầu tu để cùng kinh doanh và cùng huởng lợi nhuận. Việc góp vốn liên doanh có thể đuợc hình thành từ nhiều nguồn tùy theo từng loại hình doanh nghiệp, có thể là liên doanh giữa nguồn vốn ngân sách với các nguồn vốn tự có của tu nhân, liên doanh giữa vốn ngân sách của quốc gia này với quốc gia khác hoặc liên doanh giữa tu nhân với nhau ... Hình thức góp vốn liên doanh thích hợp với các công ty có quy mô nhỏ, tổ chức quản lý sản xuất và quản lý vốn, chia lãi giản đon.
Nguồn vốn tín dụng: là khoản vốn mà doanh nghiệp có thể vay dài hạn của các ngân hàng thuong mại, công ty tài chính, công ty bảo hiểm hoặc các tổ chức tài chính trung gian khác, huy động của cán bộ công nhân viên làm việc trong doanh nghiệp hoặc vay nuớc ngoài theo co chế tự vay tự trả, cung có thể bằng hình thức doanh nghiệp phát hành trái phiếu để huy động vốn cho đầu tu kinh doanh. Trái phiếu là phiếu nhận nợ do doanh nghiệp phát hành khi vay vốn của nguời khác để kinh doanh, cam kết trả lợi tức và hoàn trả vốn vay theo thời hạn nhất định. Theo định kỳ, doanh nghiệp phải trả cho nguời có trái phiếu một khoản lợi tức cố định và
130
đến thời hạn thanh toán doanh nghiệp phải thanh toán số tiền vay. Đối với doanh nghiệp, trái phiếu là phuong tiện tài chính để vay vốn trên thị truờng. Tuy nhiên vay đuợc hay không còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố của doanh nghiệp. Các chủ nợ cho doanh nghiệp vay thuờng quan tâm đến các vấn đề nhu: tình hình tài chính của bản thân doanh nghiệp có lành mạnh không, mà truớc tiên là khả năng thanh toán, uy tín của doanh nghiệp trên thị truờng, cho vay có bị mất vốn hay không. Ở đây có tác động của yếu tố lạm phát làm giảm sức mua của vốn cho vay, có cả rủi ro của doanh nghiệp, lãi suất thực tế có đuợc bao nhiêu... Còn đối với doanh nghiệp khi vay cần phải cân nhắc xem xét kỹ:
- Nếu hiệu quả thực tế của khoản vay không đủ để trả giá cả khoản vay thì không nên vay.
- Nếu hiệu quả thực tế của khoản vay tuong đuong với giá cả khoản vay thì cân nhắc kỹ, nhất là phải tính tới các rủi ro có thể xảy ra.
- Nếu hiệu quả thực tế các khoản vay cao hon giá cả các khoản vay thì nên vay, vì vay tốt hon là phát hành cổ phiếu (bán bớt quyền sở hữu tài sản)
Nghiên cứu nội dung, tính chất của các nguồn vốn giúp cho doanh nghiệp có thể lựa chọn nguồn vốn, khai thác huy động vốn phù hợp với nhu cầu và khả năng cho phép của mỗi doanh nghiệp. Mỗi một loại hình doanh nghiệp cung chỉ có thể khai thác huy động vốn trên một số nguồn nhất định. Chẳng hạn, đối với doanh nghiệp nhà nuớc đuợc phép huy động nguồn vốn từ Ngân sách nhà nuớc, còn các loại hình doanh nghiệp khác thì không có khả năng. Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, doanh nghiệp tu nhân, ngoài nguồn vốn tự có của mình, thì có thể vay của các tổ chức tài chính trung gian để bổ sung vốn sản xuất kinh doanh, nhung không đuợc phát hành chứng khoán. Trong khi đó, đối với các công ty cổ phần, để huy động vốn cho sản xuất kinh doanh thì thông qua việc phát hành chứng khoán lại là chủ yếu. Việc nghiên cứu các nguồn vốn không chỉ giúp cho các doanh nghiệp lựa chọn nguồn vốn và khai thác các nguồn vốn đó phục vụ quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, mà còn tạo cho doanh nghiệp có biện pháp huy động vốn nhanh, đáp ứng kịp thời cho nhu cầu của doanh nghiệp với chi phí (giá cả) thấp nhất, đồng thời có phuong huớng sử dụng hợp lý số vốn đa huy động đuợc từ các nguồn vốn khác nhau cho các nhu cầu khác nhau của doanh nghiệp. Chẳng hạn, khi cần huy động vốn bổ sung cho quá trình kinh doanh của mình thì
131
doanh nghiệp có thể xem xét, lựa chọn hình thức nào có lợi nhất để phát hành cổ phiếu, phát hành trái phiếu, đi vay vốn của các tổ chức tài chính trung gian hay gọi vốn liên doanh. Dù huy động duới hình thức nào cung phải trả một khoản chi phí và đảm bảo những điều kiện nhất định, đoi hỏi doanh nghiệp phải tính toán hiệu quả, cân nhất lãi suất, thời hạn và điều kiện.
Đối với doanh nghiệp cung cần phải hiểu rằng khi có nhu cầu đầu tu vốn dài hạn, truớc hết doanh nghiệp phải huy động tối đa nguồn vốn từ bên trong để thực hiện kế hoạch đầu tu của mình. Chỉ khi nguồn vốn từ bên trong không đủ đáp ứng thì doanh nghiệp mới bổ sung nguồn vốn từ bên ngoài. Việc huy động nguồn vốn bên trong doanh nghiệp là một vấn đề hết sức quan trọng trong sự phát triển của doanh nghiệp. Nguồn tài trợ từ bên ngoài là cần thiết nhung không nên mong đợi quá mức vào nguồn vốn đó.
1.4. Sử dụng và bảo toàn vốn kinh doanh
Căn cứ vào công dụng kinh tế thì vốn kinh doanh của doanh nghiệp đuợc chia thành vốn cố định, vốn luu động và vốn đầu tu tài chính. Các loại vốn này có đặc điểm chu chuyển khác nhau. Chính sự khác nhau về đặc điểm chu chuyển đó đa chi phối đến phuong thức quản lý, phuong thức bù đắp và bảo toàn vốn cung khác nhau.
1.4.1. Vốn cố định
Vốn cố định của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền toàn bộ TSCĐ của doanh nghiệp. TSCĐ của doanh nghiệp là những tài sản có giá trị lớn, thời gian sử dụng dài, có chức năng là tu liệu lao động.
TSCĐ của doanh nghiệp có thể chia thành hai loại:
- Tài sản hữu hình là những tài sản có hình thái vật chất cụ thể nhu nhà xuởng, máy móc thiết bị, phuong tiện vận tải ... trực tiếp hoặc gián tiếp phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Tài sản vô hình là những tài sản không có hình thái vật chất cụ thể nhu chi phí để mua bằng phát minh, sáng chế, bản quyền tác giả...
TSCĐ có những đặc điểm là:
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, TSCĐ không thay đổi hình thái hiện vật, nhung năng lực sản xuất và kèm theo đó là giá trị của chúng bị giảm dần. Đó là do
132
chúng bị hao mòn. Có hai loại hao mòn là hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình. Hao mòn hữu hình là hao mòn có liên quan đến việc giảm giá trị sử dụng của TSCĐ. Hao mòn vô hình lại có liên quan tới việc mất giá của TSCĐ. Việc mất giá của TSCĐ có nhiều nguyên nhân:
- TSCĐ cu có thể bị mất giá do TSCĐ mới đuợc sản xuất ra với giá nhu cu nhung có năng lực sản xuất cao hon hoặc TSCĐ cu bị mất giá do TSCĐ mới đuợc sản xuất ra có công suất bằng tài sản cu nhung giá trị lại rẻ hon.
- TSCĐ cu bị mất giá do sản phẩm của chúng sản xuất ra không còn phù hợp với thị hiếu của nguời tiêu dùng.
Đối với TSCĐ hữu hình thì thuờng bị cả hai loại hao mòn hữu hình và vô hình, còn TSCĐ vô hình thì chỉ bị hao mòn vô hình.
Bộ phận giá trị đại diện cho phần hao mòn đuợc gọi là tiền khấu hao. Tiền khấu hao là một yếu tố của chi phí sản xuất, một bộ phận của giá thành sản phẩm. Khi sản phẩm đuợc tiêu thụ, tiền khấu hao đuợc trích lại hình thành nên quỹ khấu hao.
Từ đặc điểm vận động của TSCĐ đa quyết định đến đặc điểm vận động của vốn cố định.:
Vốn cố định tham gia nhiều chu kỳ sản xuất sản phẩm và chuyển dần từng phần vào giá thành sản phẩm tuong ứng với phần hao mòn của tài sản cố định.
Vốn cố định đuợc thu hồi dần từng phần tuong ứng với phần hao mòn của tài sản cố định, đến khi TSCĐ hết thời gian sử dụng, giá trị của nó đuợc thu hồi về đủ thì vốn cố định mới hoàn thành một vòng luân chuyển.
Những đặc điểm luân chuyển trên đây của vốn cố định đa chi phối đến phuong thức bù đắp và phuong thức quản lý vốn cố định.
Vốn cố định đuợc bù đắp (thu hồi) bằng biện pháp khấu hao, tức là trích lại phần giá trị hao mòn của tài sản cố định. Tiền trích lại đó hình thành nên quỹ khấu hao. Quỹ khấu hao dùng để duy trì năng lực sản xuất bình thuờng của TSCĐ và dùng để tái sản xuất toàn bộ tài sản cố định.
Việc quản lý vốn cố định phải luôn gắn liền với việc quản lý hình thái hiện vật của nó là các TSCĐ của doanh nghiệp. Nói cách khác, quản lý vốn cố định là quản lý quỹ khấu hao. Để quản lý tốt quỹ khấu hao cần phải đánh giá và đánh giá lại tài
133
sản cố định một cách thuờng xuyên và chính xác, tạo co sở cho việc xác định mức khấu hao hợp lý để thu hồi vốn. Mặt khác, cần phải lựa chọn phuong pháp khấu hao thích hợp để đảm bảo thu hồi vốn nhanh và bảo toàn đuợc vốn.
Quản lý mặt hiện vật của vốn cố định là quản lý TSCĐ. Để quản lý tốt tài sản cố định cần phải phân loại TSCĐ theo những tiêu thức khác nhau (phân loại theo hình thái biểu hiện, theo mục đích sử dụng, theo công dụng kinh tế, theo tình hình sử dụng) để từ đó xác định trọng tâm của công tác quản lý.
Do đặc điểm tài sản cố định là tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh song vẫn giữ nguyên hình thái vật chất và đặc tính sử dụng ban đầu, còn giá trị lại chuyển dần vào giá trị sản phẩm nên nội dung bảo toàn vốn cố định bao gồm hai mặt giá trị và hiện vật. Trong đó bảo toàn về hiện vật là tiền đề để bảo toàn vốn cố định về giá trị.
Bảo toàn vốn cố định về mặt hiện vật không chỉ là giữ nguyên hình thái vật chất và duy trì thuờng xuyên năng lực sản xuất ban đầu của nó. Điều đó đoi hỏi trong quá trình sử dụng, doanh nghiệp phải quản lý chặt chẽ không làm mất tài sản cố định, thực hiện đúng quy chế sử dụng, bảo duỡng nhằm duy trì và nâng cao năng lực hoạt động của TSCĐ, không để TSCĐ hu hỏng truớc thời hạn quy định.
Bảo toàn vốn cố định về mặt giá trị là phải duy trì đuợc sức mua của vốn cố định ở thời điểm hiện tại so với thời điểm bỏ vốn đầu tu ban đầu bất kể sự biến động của giá cả, tỷ giá hối đoái, tiến bộ khoa học kỹ thuật.
Để bảo toàn và phát triển vốn cố định của doanh nghiệp cần đánh giá đúng đắn các nguyên nhân dẫn đến tình trạng không bảo toàn đuợc vốn để có biện pháp xử lý đúng (nhu phải đánh giá đúng giá trị của TSCĐ để trích đủ, trích đúng chi phí khấu hao, không để mất vốn; lựa chọn phuong pháp khấu hao thích hợp không để mất vốn, hạn chế ảnh huởng của hao mòn vô hình; chú trọng đổi mới trang thiết bị; thực hiện chế độ bảo duỡng sửa chữa; thực hiện các biện pháp đề phòng rủi ro trong kinh doanh ...) Một trong các biện pháp chủ yếu bảo toàn phát triển vốn cố định là sử dụng có hiệu quả vốn cố định.
Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định có thể sử dụng một số chỉ tiêu tổng hợp và phân tích sau đây:
134
Ý nghia của chỉ tiêu này: Phản ánh một đồng vốn cố định tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu.
Ý nghia của chỉ tiêu này: Phản ánh một đồng vốn cố định tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Hoặc chỉ tiêu hệ số hao mòn TSCĐ.
Ý nghia của chỉ tiêu này: Phản ánh mức độ hao mòn của TSCĐ trong doanh nghiệp so với thời điểm đầu tu ban đầu.
Ý nghia của chỉ tiêu này: Phản ánh giá trị TSCĐ bình quân trang bị cho một công nhân trực tiếp sản xuất
Doanh thu (doanh thu thuần) trong kỳ
=
Số vốn cố định bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu hiệu suất
vốn cố định
Chỉ tiêu tỷ suất lợi
nhuận vốn cố định
Lợi nhuận truớc thuế
= ------------------------------------------
Số vốn cố định bình quân trong kỳ
Số tiền khấu hao luỹ kế
= ---------------------------------------
NG TSCĐ ở thời điểm đánh giá
Hệ số hao mòn tài
sản cố định
Hệ số trang bị tài
sản cố định
NG TSCĐ bình quân trong kỳ
= --------------------------------------
Số luợng công nhân trực tiếp sản xuất
135
Việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định có ý nghia to lớn về kinh tế tài chính: giúp cho doanh nghiệp tăng đuợc khối luợng sản phẩm sản xuất ra, tiết kiệm chi phí đầu tu, giảm hoặc tránh đuợc hao mòn vô hình, hạ giá thành đon vị sản xuất, từ đó tăng doanh lợi.
Để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định thì cần phải áp dụng các biện pháp để nâng cao hiệu suất sử dụng TSCĐ; nâng cao chất luợng quản lý vốn cố định và bồi duỡng nâng cao trình độ chuyên môn, tay nghề cho công nhân.
1.4.2. Vốn luu động
Vốn luu động là biểu hiện bằng tiền toàn bộ tài sản luu động của doanh nghiệp phục vụ cho quá trình kinh doanh của doanh nghiệp.
Tài sản luu động của doanh nghiệp chia làm hai loại:
- Tài sản luu động sản xuất (nguyên nhiên vật liệu, bán thành phẩm, sản phẩm dở dang ...)
- Tài sản luu thông (sản phẩm thành phẩm chờ tiêu thụ, các loại vốn bằng tiền, vốn trong thanh toán, chi phí trả truớc ...)
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, tài sản luu động sản xuất và tài sản luu động luu thông luôn vận động, thay thế và chuyển hoá lẫn nhau, đảm bảo cho quá trình sản xuất đuợc tiến hành liên tục.
Đặc điểm của tài sản luu động là tham gia vào từng chu kỳ sản xuất, tài sản luu động bị tiêu dùng hoàn toàn trong việc chế tạo ra sản phẩm và thay đổi hình thái biểu hiện.
Đặc điểm của tài sản luu động đa chi phối đến đặc điểm của vốn luu động. Vốn luu động chuyển một lần toàn bộ vào giá thành sản phẩm mới đuợc tạo ra. Vốn luu động đuợc thu hồi một lần toàn bộ sau khi bán hàng và thu tiền về và lúc đó kết thúc vòng tuần hoàn của vốn.
Từ đặc điểm về phuong thức vận động của tài sản luu động và phuong thức chuyển dịch giá trị của vốn luu động đa ảnh huởng chi phối đến công tác quản lý sử dụng vốn luu động. Muốn quản lý tốt vốn luu động thì phải quản lý trên tất cả các hình thái biểu hiện của vốn. Để quản lý, sử dụng vốn luu động có hiệu quả cần phải tiến hành phân loại vốn luu động theo các tiêu thức khác nhau: phân loại theo vai trò của từng loại vốn luu động trong sản xuất kinh doanh (vốn luu dộng ở khâu dự
136
trữ, khâu sản xuất và khâu luu thông); phân loại theo hình thái biểu hiện gồm vốn vật tu hàng hoá và vốn bằng tiến; phân loại theo quan hệ sở hữu hoặc theo nguồn hình thành. Mỗi một cách phân loại đều đạt đuợc những yêu cầu nhất định trong công tác quản lý và sử dụng vốn luu động. Nó giúp doanh nghiệp xác định đúng trọng điểm và biện pháp quản lý vốn có hiệu quả hon phù hợp với điều kiện cụ thể của doanh nghiệp.
Hiệu quả sử dụng vốn luu động trong các doanh nghiệp có thể đuợc đánh giá bởi các chỉ tiêu sau đây:
- Chỉ tiêu tốc độ luân chuyển vốn.
Tốc độ luân chuyển vốn luu động của doanh nghiệp nhanh hay chậm có thể đo bằng chỉ tiêu số lần luân chuyển và kỳ luân chuyển.
Công thức xác định số lần luân chuyển (L):
M
L =
V
Trong đó :
L : số lần luân chuyển trong kỳ .
M : Tổng mức luân chuyển
V : Vốn luu động bình quân trong kỳ.
Công thức xác định kỳ luân chuyển (K):\=
360
K =
L
Trong kỳ :
K : kỳ luân chuyển
L : Số lần luân chuyển .
Chỉ tiêu mức doanh lợi vốn luu động: Chỉ tiêu này đuợc xác định bằng cách lấy tổng số lợi nhuận truớc thuế chia cho vốn luu động bình quân trong kỳ. Ngoài ra, còn có thể sử dụng nhiều chỉ tiêu khác nhu mức tiết kiệm vốn, hàm luợng vốn
137
Việc tăng nhanh tốc độ luân chuyển vốn có ý nghia to lớn về mặt kinh tế và tài chính: có thể tăng đuợc khối luợng sản phẩm sản xuất ra, tiết kiệm vốn, hạ giá thành đon vị sản phẩm và tăng doanh lợi.
Đối với doanh nghiệp muốn nâng cao hiệu quả sử dụng vốn luu động cần phải thực hiện các biện pháp sau đây:
- Xác định đúng đắn nhu cầu vốn luu động thuờng xuyên cần thiết để đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đuợc tiến hành liên tục, tiết kiệm với hiệu quả kinh tế cao. Việc xác định đúng đắn nhu cầu vốn luu động giúp cho doanh nghiệp tránh đuợc tình trạng ứ đọng vốn, sử dụng vốn hợp lý và tiết kiệm, đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh, không gây sự căng thẳng giả tạo về nhu cầu vốn doanh nghiệp và là căn cứ quan trọng cho việc xác định các nguồn tài trợ nhu cầu vốn luu động của doanh nghiệp.
- Đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn ở mọi khâu của quá trình sản xuất và tiêu thụ: ở khâu dự trữ thì có mức dự trữ tồn kho hợp lý giúp cho doanh nghiệp không bị gián đoạn sản xuất và tối thiểu hoá các chi phí dự trữ; ở khâu sản xuất cần áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật để rút ngắn chu kỳ sản xuất, hợp lý hoá dây chuyền công nghệ; ở khâu tiêu thụ thì cần lựa chọn khách hàng, phuong thức thanh toán để đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm.
- Áp dụng các biện pháp bảo toàn vốn nhu xử lý các vật tu ứ đọng, hàng hoá chậm luân chuyển một cách kịp thời ngăn chặn các hiện tuợng chiếm dụng vốn ...
- Thuờng xuyên phân tích tình hình sử dụng vốn luu động để có biện pháp điều chỉnh kịp thời nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng.
1.4.3. Vốn đầu tu tài chính
Một bộ phận vốn kinh doanh của doanh nghiệp đuợc đầu tu dài hạn ra bên ngoài nhằm mục đích sinh lời gọi là vốn đầu tu tài chính của doanh nghiệp.
Có nhiều hình thức đầu tu tài chính ra bên ngoài nhu: Doanh nghiệp bỏ vốn mua cổ phiếu, trái phiếu của các công ty khác, góp vốn liên doanh với các doanh nghiệp khác. Mục đích của đầu tu tài chính ra bên ngoài là nhằm thu lợi nhuận và đảm bảo an toàn về vốn. Đối với doanh nghiệp, truớc khi đi tới quyết định đầu tu tài chính ra bên ngoài cần phải hết sức thận trọng, cân nhắc độ an toàn và độ tin cậy
138
của dự án, am hiểu tuờng tận những thông tin cần thiết, phân tích đánh giá các mặt lợi hại của dự án để chọn đúng đối tuợng và hình thức đầu tu thích hợp.
2. Chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản phẩm của doanh nghiệp.
2.1. Chi phí sản xuất kinh doanh
Thực hiện các mục tiêu của kinh doanh, doanh nghiệp phải bỏ ra những chi phí trong quá trình sản xuất kinh doanh. Chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là biểu bằng tiền của các yếu tố phục vụ cho quá trình sản xuất và kinh doanh của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định. Chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra bao gồm chi phí cho việc sản xuất sản phẩm, chi phí tổ chức tiêu thụ sản phẩm và những khoản tiền thuế gián thu nộp cho nhà nuớc theo luật thuế quy định (thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu ...). Tuy nhiên, các doanh nghiệp thuộc các ngành kinh tế kỹ thuật khác nhau thì nội dung co cấu chi phí sẽ không giống nhau. Điều quan trọng đối với tất cả các doanh nghiệp là phải luôn quan tâm đến tiết kiệm chi phí vì nếu chi phí không hợp lý, không đúng với thực tế của nó đều gây ra những trở ngại trong quản lý và đều giảm lợi nhuận của doanh nghiệp.
Vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp là phải kiểm soát đuợc chi phí sản xuất kinh doanh, đảm bảo tiết kiệm chi phí. Muốn tiết kiệm chi phí, doanh nghiệp phải tính toán truớc mọi chi phí sản xuất kinh doanh kỳ kế hoạch, phải xây dựng đuợc ý thức thuờng xuyên tiết kiệm để đạt đuợc mục tiêu kinh doanh mà doanh nghiệp đề ra. Cần phân biệt rõ các loại chi phí trong hoạt động sản xuất kinh doanh để tăng cuờng công tác kiểm tra giám sát đối với từng loại chi phí đó.
2.2. Giá thành sản phẩm của doanh nghiệp
Giá thành sản phẩm của một doanh nghiệp biểu hiện chi phí cá biệt của doanh nghiệp để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Giữa chi phí sản xuất sản phẩm và giá thành sản phẩm có sự giống nhau và khác nhau. Chi phí sản xuất hợp thành giá thành sản phẩm nhung không phải toàn bộ chi phí phát sinh trong kỳ đều đuợc tính vào giá thành sản phẩm. Giá thành sản phẩm chỉ biểu hiện luợng chi phí để hoàn thành việc sản xuất và tiêu thụ một đon vị sản phẩm hay một khối luợng sản phẩm. Còn chi phí sản xuất và tiêu thụ thể hiện số chi phí mà doanh nghiệp đa bỏ ra để sản xuất và tiêu thụ trong một thời kỳ nhất định.
139
Trong kinh doanh, doanh nghiệp phải dự kiến giá thành sản phẩm và đề ra các biện pháp thực hiện dự kiến đó, hay nói cách khác, doanh nghiệp phải tiến hành xây dựng kế hoạch giá thành. Trong công tác quản lý các hoạt động kinh doanh, chỉ tiêu giá thành giữ vai trò quan trọng và đuợc thể hiện trên các mặt sau:
- Giá thành là thuớc đo mức chi phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp, là căn cứ để xác định hiệu quả hoạt động kinh doanh.
- Giá thành là một công cụ quan trọng của doanh nghiệp để kiểm soát tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, xem xét hiệu quả các biện pháp tổ chức, kỹ thuật.
Do đó, trong quá trình kinh doanh các doanh nghiệp đều quan tâm đến việc giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm. Việc hạ giá thành sản phẩm có ý nghia to lớn: là một trong những nhân tố tạo điều kiện thực hiện tốt việc tiêu thụ sản phẩm, trực tiếp tăng lợi nhuận của doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp mở rộng quy mô sản xuất... Từ đó doanh nghiệp phải tìm mọi biện pháp để giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm nhu: áp dụng những thành tựu của tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ vào sản xuất; tổ chức và sử dụng con nguời một cách hợp lý nhằm nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm của doanh nghiệp, tổ chức quản lý tốt sản xuất kinh doanh và quản lý tài chính. Nhờ vào việc bố trí hợp lý các khâu sản xuất có thể hạn chế sự lãng phí nguyên liệu, giảm thấp tỷ lệ sản phẩm hỏng; tổ chức sử dụng hợp lý đáp ứng đầy đủ kịp thời nhu cầu tránh đuợc những tổn thất trong sản xuất... Việc giảm chi phí sản xuất góp phần tích cực đến hạ giá thành sản phẩm của doanh nghiệp.
3. Doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp
3.1. Doanh thu của doanh nghiệp
Kết thúc quá trình kinh doanh , doanh nghiệp thu đuợc một khoản tiền nhất định, đó là doanh thu của doanh nghiệp. Doanh thu của doanh nghiệp là toàn bộ số tiền mà doanh nghiệp thu đuợc nhờ đầu tu kinh doanh trong một thời kỳ nhất định.
Doanh thu từ các hoạt động liên doanh liên kết với các đon vị và tổ chức khác, từ các nghiệp vụ đầu tu tài chính.
Doanh thu khác nhu thu về nhuợng bán vật tu ứ đọng, các khoản đuợc bồi thuờng, các khoản nợ vắng chủ hay nợ không ai đoi...
140
Doanh thu của doanh nghiệp có ý nghia rất lớn đối với toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp. Nó là nguồn quan trọng để đảm bảo trang trải các khoản chi phí sản xuất kinh doanh, đảm bảo thực hiện quá trình tái sản xuất giản đon cung nhu tái sản xuất mở rộng, thực hiện nghia vụ đối với Nhà nuớc, đối với khách hàng, đối với các cổ đông tham gia các hoạt động liên doanh... Do đó, mọi doanh nghiệp cần phải phấn đấu để tăng doanh thu của mình. Muốn tăng doanh thu truớc hết doanh nghiệp phải phấn đấu để tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm, đây là bộ phận chủ yếu chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số doanh thu của doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần thực hiện các biện pháp sau đây:
- Doanh nghiệp phải quan tâm đến chất luợng sản phẩm vì chất luợng sản phẩm luôn gắn liền với uy tín của doanh nghiệp trong giới kinh doanh và trong công chúng. Doanh nghiệp cung cần mở rộng các hoạt động tiếp thị nhằm tạo điều kiện mở rộng quy mô sản xuất, tăng doanh thu, tăng lợi nhuận.
- Doanh nghiệp phải xác định giá bán hợp lý. Việc xây dựng giá hết sức mềm dẻo và linh hoạt để tác động vào cầu, kích thích tăng cầu của nguời tiêu dùng để tăng doanh thu tiêu thụ.
- Doanh nghiệp phải đẩy nhanh tốc độ thanh toán, giảm bớt các khoản nợ phải thu, xử lý tốt những khoản nợ nần dây dua ... để đảm bảo thực hiện chỉ tiêu doanh thu.
3.2. Lợi nhuận của doanh nghiệp
Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng từ hoạt động sản xuất kinh doanh, là chỉ tiêu chất luợng để đánh giá hiệu quả kinh tế các hoạt động của doanh nghiệp. Lợi nhuận của doanh nghiệp là khoản tiền chênh lệch giữa doanh thu và chi phí mà doanh nghiệp đa bỏ ra để đạt đuợc doanh thu đó từ các hoạt động của doanh nghiệp đua lại.
Nội dung lợi nhuận của doanh nghiệp bao gồm: lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh, lợi nhậun từ các hoạt động khác nhu hoạt động liên doanh, liên kết, các hoạt động thuộc các dịch vụ tài chính...
Lợi nhuận giữ vị trí quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vì trong điều kiện hạch toán kinh doanh theo co chế thị truờng doanh nghiệp có tồn tại và phát triển đuợc hay không, điều quyết định là doanh nghiệp có tạo ra
141
đuợc lợi nhuận không. Lợi nhuận đuợc coi là đon bẩy kinh tế quan trọng, đồng thời còn là chỉ tiêu co bản để đánh gía hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, lợi nhuận còn là nguồn tích luy co bản để mở rộng tái sản xuất xã hội. Tuy nhiên, để đánh giá chất luợng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp thì không chỉ dùng chỉ tiêu lợi nhuận tuyệt đối mà còn dùng chỉ tiêu lợi nhuận tuong đối (tỷ suất lợi nhuận vốn, tỷ suất lợi nhuận giá thành, tỷ suất lợi nhuận doanh thu bán hàng...)
Việc phấn đấu tăng lợi nhuận và tăng tỷ suất lợi nhuận là nhiệm vụ thuờng xuyên của doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải phấn đấu giảm chi phí hoạt động kinh doanh, hạ giá thành sản phẩm, tăng thêm sản luợng và nâng cao chất luợng sản phẩm. Sau khi doanh nghiệp thu đuợc lợi nhuận sẽ tiến hành phân phối lợi nhuận đó.
Phân phân phối lợi nhuận không phải là việc phân chia tiền lãi một cách đon thuần mà là việc giải quyết tổng hợp các mối quan hệ kinh tế diễn ra đối với doanh nghiệp. Việc phân phối lợi nhuận phải đảm bảo các yêu cầu sau đây:
Giải quyết mối quan hệ về lợi ích giữa nhà nuớc, doanh nghiệp và công nhân viên một cách hài hoà.
Phải giành phần lợi nhuận để lại thích đáng cho nhu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đồng thời chú trọng đảm bảo lợi ích của các thành viên trong đon vị mình.
Lợi nhuận của doanh nghiệp đuợc phân phối theo trình tự: (1) Nộp thuế thu nhập doanh nghiệp cho NSNN, (2) Nộp tiền thu sử dụng vốn NSNN "nếu có", (3) Trả các khoản tiền bị phạt, bồi thuờng, (4) Trừ các khoản lỗ, (5) Trả lợi tức cổ phiếu, trái phiếu, lợi tức cho các bên tham gia liên doanh, (6) Bù đắp bảo toàn vốn và (7) Phần còn lại, trích lập các quỹ chuyên dùng của doanh nghiệp nhu quỹ đầu tu phát triển, quỹ dự phòng tài chính, quỹ dự phòng về trợ cấp mất việc làm, quỹ khen thuởng, quỹ phúc lợi.
142
IV.QUẢN LÝ NHÀ NUỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
Quản lý nhà nuớc về tài chính là một trong những nhiệm vụ quan trọng để Nhà nuớc XHCN điều hành và quản lý nền kinh tế đất nuớc, hình thành và đảm bảo các cân đối chủ yếu và tỷ lệ phát triển của nền kinh tế quốc dân. Nhà nuớc sử dụng tài chính, tiền tệ để kích thích doanh nghiệp quan tâm đến việc hoàn thành nhiệm vụ kế hoạch, nâng cao tối đa hiệu quả sản xuất xã hội và thực hiện việc kiểm soát của nhà nuớc đối với hoạt động sản xuất kinh doanh.
Quản lý nhà nuớc về tài chính thực chất là sử dụng và phát huy vai trò của hệ thống tài chính thông qua Nhà nuớc. Điều đó đuợc thể hiện thông qua co chế hoạt động và vận động của tài chính phục vụ cho quá trình tái sản xuất xã hội và nâng cao vai trò quản lý vi mô của Nhà nuớc XHCN, kết hợp với quản lý vi mô của co sở doanh nghiệp thích ứng với trình độ phát triển của nền sản xuất xã hội, nhằm phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đi lên CNXH.
Trong khi thực hiện việc quản lý nhà nuớc đối với tài chính doanh nghiệp, Nhà nuớc phải tôn trọng quyền chủ động sản xuất và tự chủ về tài chính của doanh nghiệp. Đon vị kinh tế là co sở, là tế bào của nền kinh tế, có quan hệ sử dụng phân phối đan xen chặt chẽ về mặt giá trị của các nguồn tài sản. Việc quản lý đó đuợc thực hiện theo nguyên tắc Nhà nuớc tôn trọng và đảm bảo quyền tự chủ tài chính, tự trang trải, tự phát triển của doanh nghiệp và doanh nghiệp phải đảm bảo nghia vụ đối với Nhà nuớc.
Nhà nuớc quản lý tài chính doanh nghiệp truớc mắt theo huớng sau đây:
Xác định những hình thức thích hợp để đảm bảo thực hiện có hiệu quả quyền sở hữu trong sở hữu nhà nuớc đối với những tài sản giao cho doanh nghiệp sử dụng. Mặt khác, giao quyền tự chủ đầy đủ, rõ ràng tạo điều kiện cho doanh nghiệp cạnh tranh theo đúng pháp luật.
Quan hệ phân phối giữa xí nghiệp và ngân sách đuợc phân định qua co chế phân phối thu nhập: doanh nghiệp có nghia vụ nộp các thứ thuế theo luật định, phần còn lại sau khi bù đắp chi phí, bảo toàn vốn, thanh toán với khách hàng, xí nghiệp đuợc lập quỹ chuyên dùng của mình.
143
Bằng các công cụ chính sách biện pháp kinh tế vi mô của Nhà nuớc để quản lý tài chính doanh nghiệp, tác động đến phát triển và mục đích của sản xuất, tăng nhanh vòng quay của vốn...
Định huớng và chỉ đạo sự phát triển, tạo môi truờng kinh tế và khuôn khổ pháp lý cho hoạt động sản xuất kinh doanh, phát huy mặt tích cực, ngăn ngừa mặt tiêu cực, khắc phục mặt khuyết tật của co chế thị truờng.
Các doanh nghiệp đuợc quyền tiêu thụ, bán hàng trực tiếp cho nguời tiêu dùng, đuợc quyền định giá, bảo đảm nguyên tắc xã hội chấp nhận, phù hợp với chính sách, lợi ích quốc kế dân sinh, làm đầy đủ nghia vụ đối với Nhà nuớc.
Thực hiện nghiêm túc pháp lệnh kế toán, thống kê, tăng cuờng hệ thống kiểm toán Nhà nuớc, thực hiện có hiệu lực việc thanh tra kiểm tra đối với doanh nghiệp.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top