Tác hại của các chất ô nhiễm trong khí xả động cơ đốt trong

Chúng ta có thể tham khảo định nghĩa sau đây do Cộng đồng Châu Âu đưa ra vào

năm 1967: "Không khí gọi là ô nhiễm khi thành phần của nó bị thay đổi hay khi có sự hiện

diện của những chất lạ gây ra những tác hại mà khoa học chứng minh được hay gây ra sự

khó chịu đối với con người". Theo định nghĩa đó thì:

- Các chất gây ô nhiễm có thể gây nguy hại đến tự nhiên và con người mà khoa học

ở thời điểm đó nhận biết được hay chỉ đơn thuần gây ra sự khó chịu chẳng hạn như mùi

hôi, màu sắc...

- Danh sách các chất ô nhiễm cũng như giới hạn về nồng độ cho phép của chúng

trong các nguồn phát thải có thể thay đổi theo thời gian.

Chương 1: Tác hại của các chất ô nhiễm trong khí xả động cơ đốt trong

7

Đến nay, người ta đã xác định được các chất ô nhiễm trong không khí mà phần lớn

những chất đó có mặt trong khí xả của động cơ đốt trong. Bảng 1.1 dưới đây cho thấy sự

gia tăng nồng độ một cách đáng ngại của một số chất ô nhiễm trong bầu khí quyển:

Bảng 1.1 : Sự gia tăng của các chất ô nhiễm trong khí quyển

Chất ô

nhiễm

Thời kì tiền

công nghiệp

Hiện nay

Tốc độ tăng

(%/năm)

CO2 270 340 0,4

N2O 0,28 0,30 0,25

CO 0,05 0,13 3

SO2 0,001 0,002 2

Tùy theo chính sách năng lượng của mỗi nước, sự phân bố tỉ lệ phát sinh ô nhiễm

của các nguồn khác nhau không đòng nhất. Bảng 1.2 và 1.3 giới thiệu tỉ lệ phát thải CO,

HC và NOx ở Nhật và ở Mĩ.

Bảng 1.2: Tỉ lệ phát thải các chất ô nhiễm ở Nhật (tính theo %)

Nguồn phát ô nhiễm CO HC NOx

Ô tô 93,0 57,3 39

Sản xuất điện năng 0,1 0,1 21,5

Quá trình cháy trong

công nghiệp

0,0 26,4 31,3

Các quá trình cháy

khác

6,3 0,7 0,8

Công nghiệp dầu mỏ - 14,8 5,1

Các hoạt động khác 0,6 0,7 2,6

Tổng cộng

100 100 100

Bảng 1.3: Tỉ lệ phát thải các chất ô nhiễm ở Mĩ (tính theo %)

Nguồn phát ô nhiễm CO HC NOx

Ô tô 64,7 45,7 36,6

Các phương tiện giao

thông khác

9,0 7,2 10,5

Quá trình cháy công

nghiệp

9,1 16,8 42,8

Chương 1: Tác hại của các chất ô nhiễm trong khí xả động cơ đốt trong

8

Công nghiệp dầu mỏ 5,2 5,3 1,7

Các hoạt động khác 12,0 25,0 8,4

Tổng cộng

100 100 100

1.3.1. Đối với sức khỏe con người

- CO : Monoxyde carbon là sản phẩm khí không màu, không mùi, không vị, sinh

ra do ô xy hoá không hoàn toàn carbon trong nhiên liệu trong điều kiện thiếu oxygène.

CO ngăn cản sự dịch chuyển của hồng cầu trong máu làm cho các bộ phận của cơ

thể bị thiếu oxygène. Nạn nhân bị tử vong khi 70% số hồng cầu bị khống chế (khi nồng độ

CO trong không khí lớn hơn 1000ppm). Ở nồng độ thấp hơn, CO cũng có thể gây nguy

hiểm lâu dài đối với con người: khi 20% hồng cầu bị khống chế, nạn nhân bị nhức đầu,

chóng mặt, buồn nôn và khi tỉ số này lên đến 50%, não bộ con người bắt đầu bị ảnh hưởng

mạnh.

- NOx: NOx là họ các oxyde nitơ, trong đó NO chiếm đại bộ phận. NOx được hình

thành do N2 tác dụng với O2 ở điều kiện nhiệt độ cao (vượt quá 1100°C). Monoxyde nitơ

(x=1) không nguy hiểm mấy, nhưng nó là cơ sở để tạo ra dioxyde nitơ (x=2). NO2 là chất

khí màu hơi hồng, có mùi, khứu giác có thể phát hiện khi nồng độ của nó trong không khí

đạt khoảng 0,12ppm. NO2 là chất khó hòa tan, do đó nó có thể theo đường hô hấp đi sâu

vào phổi gây viêm và làm hủy hoại các tế bào của cơ quan hô hấp. Nạn nhân bị mất ngủ,

ho, khó thở. Protoxyde nitơ N2O là chất cơ sở tạo ra ozone ở hạ tầng khí quyển.

- Hydocarbure: Hydrocarbure (HC) có mặt trong khí thải do quá trình cháy không

hoàn toàn khi hỗn hợp giàu, hoặc do hiện tượng cháy không bình thường. Chúng gây tác

hại đến sức khỏe con người chủ yếu là do các hydrocarbure thơm. Từ lâu người ta đã xác

định được vai trò của benzen trong căn bệnh ung thư máu (leucémie) khi nồng độ của nó

lớn hơn 40ppm hoặc gây rối loạn hệ thần kinh khi nồng độ lớn hơn 1g/m3, đôi khi nó là

nguyên nhân gây các bệnh về gan.

- SO2: Oxyde lưu huỳnh là một chất háu nước, vì vậy nó rất dễ hòa tan vào nước

mũi, bị oxy hóa thành H2SO4 và muối amonium rồi đi theo đường hô hấp vào sâu trong

phổi. Mặt khác, SO2 làm giảm khả năng đề kháng của cơ thể và làm tăng cường độ tác hại

của các chất ô nhiễm khác đối với nạn nhân.

- Bồ hóng: Bồ hóng là chất ô nhiễm đặc biệt quan trọng trong khí xả động cơ

Diesel. Nó tồn tại dưới dạng những hạt rắn có đường kính trung bình khoảng 0,3mm nên

rất dễ xâm nhập sâu vào phổi. Sự nguy hiểm của bồ hóng, ngoài việc gây trở ngại cho cơ

quan hô hấp như bất kì một tạp chất cơ học nào khác có mặt trong không khí, nó còn là

Chương 1: Tác hại của các chất ô nhiễm trong khí xả động cơ đốt trong

9

nguyên nhân gây ra bệnh ung thư do các hydrocarbure thơm mạch vòng (HAP) hấp thụ

trên bề mặt của chúng trong qua trình hình thành.

- Chì: Chì có mặt trong khí xả do Thétraétyl chì Pb(C2H5)4 được pha vào xăng để

tăng tính chống kích nổ của nhiên liệu. Sự pha trộn chất phụ gia này vào xăng hiện nay

vẫn còn là đề tài bàn cãi của giới khoa học. Chì trong khí xả động cơ tồn tại dưới dạng

những hạt có đường kính cực bé nên rất dễ xâm nhập vào cơ thể qua da hoặc theo đường

hô hấp. Khi đã vào được trong cơ thể, khoảng từ 30 đến 40% lượng chì này đi vào máu.

Sự hiện hiện của chì gây xáo trộn sự trao đổi ion ở não, gây trở ngại cho sự tổng hợp

enzyme để hình thành hồng cầu, và đặc biệt hơn nữa, nó tác động lên hệ thần kinh làm trẻ

em chậm phát triển trí tuệ. Chì bắt đầu gây nguy hiểm đối với con người khi nồng độ của

nó trong máu vượt quá 200 đến 250mg/lít.

1.3.2. Đối với môi trường

1. Thay đổi nhiệt độ khí quyển

Sự hiện diện của các chất ô nhiễm, đặc biệt là những chất khí gây hiệu ứng nhà

kính, trong không khí trước hết ảnh hưởng đến quá trình cân bằng nhiệt của bầu khí

quyển. Trong số những chất khí gây hiệu ứng nhà kính, người ta quan tâm đến khí

carbonic CO2 vì nó là thành phần chính trong sản phẩm cháy của nhiên liệu có chứa thành

phần carbon. Sự gia tăng nhiệt độ bầu khí quyển do sự hiện diện của các chất khí gây hiệu

ứng nhà kính có thể được giải thích như sau:

Quả đất nhận năng lượng từ mặt trời và bức xạ lại ra không gian một phần nhiệt

lượng mà nó nhận được. Phổ bức xạ nhiệt của mặt trời và vỏ trái đất trình bày trên các

hình 1.4 và hình 1.5. Bức xạ mặt trời đạt cực đại trong vùng ánh sáng thấy được (có bước

sóng trong khoảng 0,4-0,73mm) còn bức xạ cực đại của vỏ trái đất nằm trong vùng hồng

ngoại (7-15mm).

Các chất khí khác nhau có dải hấp thụ bức xạ khác nhau. Do đó, thành phần các

chất khí có mặt trong khí quyển có ảnh hưởng đến sự trao đổi nhiệt giữa mặt trời, quả đất

và không gian. Carbonic là chất khí có dải hấp thụ bức xạ cực đại ứng với bước sóng

15mm, vì vậy nó được xem như trong suốt đối với bức xạ mặt trời nhưng là chất hấp thụ

quan trọng đối với tia bức xạ hồng ngoại từ mặt đất. Một phần nhiệt lượng do lớp khí CO2

giữ lại sẽ bức xạ ngược lại về trái đất (hình 1.6) làm nóng thêm bầu khí quyển theo hiệu

ứng nhà kính (Serre).

Với tốc độ gia tăng nồng độ khí carbonic trong bầu khí quyển như hiện nay, người

ta dự đoán vào khoảng giữa thế kỉ 22, nồng độ khí carbonic có thể tăng lên gấp đôi. Khi

đó, theo dự tính của các nhà khoa học, sẽ xảy ra sự thay đổi quan trọng đối với sự cân bằng

nhiệt trên quả đất:

- Nhiệt độ bầu khí quyển sẽ tăng lên từ 2 đến 3°C.

- Một phần băng ở vùng Bắc cực và Nam cực sẽ tan làm tăng chiều cao mực

nước biển.

- Làm thay đổi chế độ mưa gió và sa mạc hóa thêm bề mặt trái đất.

2. Ảnh hưởng đến sinh thái

Sự gia tăng của NOx, đặc biệt là protoxyde nitơ N2O có nguy cơ làm gia tăng sự

hủy hoại lớp ozone ở thượng tầng khí quyển, lớp khí cần thiết để lọc tia cực tím phát xạ từ

mặt trời. Tia cực tím gây ung thư da và gây đột biến sinh học, đặc biệt là đột biến sinh ra

các vi trùng có khả năng làm lây lan các bệnh lạ dẫn tới hủy hoại sự sống của mọi sinh vật

trên trái đất giống như điều kiện hiện nay trên Sao Hỏa.

Mặt khác, các chất khí có tính acide như SO2, NO2, bị oxy hóa thành acide sulfuric,

acide nitric hòa tan trong mưa, trong tuyết, trong sương mù... làm hủy hoại thảm thực vật

trên mặt đất (mưa acide) và gây ăn mòn các công trình kim loại.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: