ta 4 9....

Chương 9

NGƯỜI CON GÁI CÀI HOA ĐỎ

Thám tử Eakar tỉnh dậy trên chiếc giường mà sáng nay giáo sư Akô Nô đã nằm.

Lúc vừa mở mắt, thoạt tiên ông tưởng là mình đang ở trong văn phòng hiệu trưởng: Vây quanh ông là những gương mặt quen thuộc của Bộ trưởng giáo dục Kan Kuru, Cục trưởng an ninh Ama Moto và hiệu trưởng N’Trang Long. Nhưng khi thấy pháp sư Lăk đi tới đi lui, mặt mày nghiêm trọng, trán nhăn tít, tay huơ loạn xạ con roi phép như đang đánh đuổi một kẻ thù vô hình, nhà thám tử đảo mắt nhìn quanh và ngạc nhiên nhận ra mình đang ở trong phòng y tế trường Đămri.

- Có chuyện gì thế, ngài Cục trưởng? – Eakar lồm cồm ngồi dậy và sửng sốt kêu lên – Sao tôi lại ở đây? Các ngài nữa, sao các ngài cũng ở hết đây thế?

Những thớ thịt trên mặt ông Cục trưởng đột nhiên co giật dữ dội. Có vẻ ông cố trấn tĩnh, chờ cho cơn xúc động lắng xuống. Nhưng các cơ bắp trên mặt không chịu nghe lời ông nên cuối cùng ông mặc kệ hai gò má đang rung động, lầm lì đáp:

- Chúng ta đã bắt được thủ phạm rồi.

Thám tử Eakar suýt chút nữa đã bay lên khỏi mặt giường, bất chấp câu trả lời của ông Cục trưởng không dính dáng gì đến thắc mắc của mình.

- Tuyệt quá! – Nhà thám tử reo ầm, người nhún nhẩy như thể đang ngồi trên khối lò xo mặc dù chiếc giường ông đang ngồi chắc chắn không phải là loại giường nệm. Ông xoáy cặp mắt sáng trưng vào ông Cục trưởng – Hắn là ai thế, thưa ngài? Chắc ngài không định nói hắn là lão Ôkô Na đó chớ?

- Hắn không phải là Ôkô Na. – Ama Moto lạnh lùng đáp.

- Vậy chắc hắn là một kẻ nào đó trong đám giáo viên trường Đămri?

- Cũng không phải. – Giọng Ama Moto vẫn ráo hoảnh.

Eakar không để ý đến thái độ khác lạ của ông sếp. Đang phấn khích trước tin tên “mông tặc” sa lưới, nhà thám tử cảm thấy người lơ lửng như đang ở trên mây. Ông vớ lấy cây gậy phép gác trên đầu giường, gõ bem bép vô lòng bàn tay:

- Thế thì thủ phạm là người trong đội bảo vệ rồi?

- Rất tiếc là lần này ngươi vẫn cứ nói sai.

Cục trưởng Ama Moto làu bàu, giọng đùng đục như tiếng máy xe bị nén.

Bộ trưởng Kan Kuru và thầy N’Trang Long ngồi bên cạnh chăm chú theo dõi cuộc đối thoại giữa hai thầy trò Eakar, trước sau vẫn không thốt một tiếng nào. Sự im lặng đó làm ông Ama Moto cảm thấy rất khó chịu; ông cảm thấy giống như thể ông và tay thám tử của ông đang làm trò hề còn ông bộ trưởng và ông hiệu trưởng thì đang khoái trá lặng lẽ thưởng thức. Nhưng dù bực bội đến mấy, ông cũng chẳng có lý do gì để châm ngòi cho một cuộc gây gổ. Điều duy nhất ông có thể làm trong lúc này là xã cơn giận lên đầu nhà thám tử.

- Ngươi đoán không ra đâu, Eakar.

Cục trưởng an ninh nhếch mép, nhìn nhà thám tử đang nhíu mày nghĩ ngợi bằng ánh mắt điên tiết. Ông cảm thấy rất rõ mình đang muốn phát khùng lên với tên thuộc hạ. Ngay cả chòm râu dê của Eakar lúc này cũng làm ông ngứa mắt kinh khủng.

- Thế hắn là ai vậy, thưa ngài?

Cuối cùng, Eakar chấp nhận đầu hàng sau khi vắt óc cả buổi vẫn không đoán ra tên “mông tặc” là ai.

- Hắn chính là ngươi đó. – Ama Moto nghiến răng, cay đắng.

Mất một lúc lâu, nhà thám tử vẫn không hiểu ông Cục trưởng nói gì. Eakar ngơ ngác hỏi lại:

- Ngài nói hắn là ai, thưa ngài?

Ama Moto xẳng giọng:

- Là ngươi chớ là ai? Là ngươi, ngươi nghe rõ chưa?

- Là… là… tôi… – Eakar ấp úng, vẫn nghĩ mình nghe nhầm – Ngài không nói lộn đó chớ, ngài Ama Moto?

- Tên “mông tặc” lộng hành mấy hôm nay chính là ông đó, ông Eakar. – Không muốn kéo dài sự nghi hoặc trong lòng nhà thám tử, Bộ trưởng Kan Kuru khẽ khàng cất giọng, cố không làm ông Ama Moto nổi cáu bất tử.

Ngó đăm đăm ông Bộ trưởng một lúc, nhận thấy ông này không có vẻ gì đang nói đùa, Eakar vội quay nhìn thầy N’Trang Long bằng ánh mắt ngờ vực xen lẫn van lơn:

- Ngài nói đi, ngài hiệu trưởng! Tên thủ phạm có phải là tôi thật không?

Thầy N’Trang Long tặc lưỡi, vẻ bất nhẫn:

- Thiệt tình ta không muốn hắn là ông nhưng sự thực thì ông chính là hắn, ông Eakar à.

Y như bị sét đánh trúng đầu, nhà thám tử sụm người xuống, cây gậy phép văng khỏi tay, bắn vào góc phòng, suýt nữa nện trúng đầu pháp sư Lăk đang lui cui gần đó.

- Làm sao tôi là tên “mông tặc” được chớ. – Eakar rên rỉ, đầu gục xuống trên hai đầu gối, chiếc lưng dài lúc này đã thun lại như thể xương sống thình lình bị gãy mất mấy đốt.

- Ngay cả ta cũng không hiểu được. – Ama Moto thở phì phì.

- Ngài phải hiểu cho tôi, ngài Cục trưởng. – Eakar cố nhấc mặt lên khỏi đầu gối, quá kích động nên giọng bắt đầu khào khào – Ngài phải minh oan cho tôi. Chính tôi là người tích cực nhất trong việc truy lùng thủ phạm trong thời gian qua. Ngày nào tôi cũng nằm phục suốt đêm trong trường Đămri. Và cũng chính tôi phát hiện ra mùi dầu mùi nơi thủ phạm gây án…

- Mùi dầu mùi đó là do chính ngươi lưu lại. – Ama Moto cáu kỉnh.

- Làm sao như vậy được! – Eakar ré lên, hoàn toàn không còn bình tĩnh – Tôi thề là tôi không làm chuyện đó. Tôi không có lý do gì để bắt tay với phe Hắc Ám. Các ngài phải tin tôi. Tôi van các ngài.

- Tôi tin ông, ông Eakar.

Tiếng thầy N’Trang Long cất lên chậm rãi khiến không chỉ Eakar mà cả Bộ trưởng Kan Kuru lẫn Cục trưởng Ama Moto đều quay nhìn thầy.

Vẻ mặt Ama Moto đầy cảnh giác:

- Ông không định khôi hài trong lúc này đó chớ, ông hiệu trưởng?

- Tôi nghĩ là tôi rất nghiêm túc, thưa ông.

Như một mũi tên, Eakar bắn ra khỏi giường, lao về phía thầy N’Trang Long. Ông hổn hển nói, lắp ba lắp bắp, đã rất muốn ôm chầm lấy vị hiệu trưởng:

- Tôi rất… rất biết ơn ngài, ngài hiệu trưởng. Hóa ra là ngài vừa… vừa nói đùa. Ngài cũng biết thủ phạm vụ này không… không phải là tôi mà, đúng không?

- À, chỗ này thì… không đúng lắm. – Thầy N’Trang Long xoa xoa tay quanh vầng trán rộng, vẻ khó nghĩ – Có lẽ là tôi cần khẳng định lại một lần nữa: ông chính là tên “mông tặc”.

Trong một thoáng, Eakar trông rất giống người bị ném đá vào giữa mặt. Ông há hốc miệng:

- Thế sao…

- Ông Eakar, ông hãy bình tĩnh nghe tôi nói đây. – Thầy N’Trang Long chép miệng – Ông đúng là người đã làm ra những chuyện tày trời đó. Chuyện này ông Ama Moto và ông Kan Kuru có thể xác nhận.

Thầy mỉm cười:

- Ông cũng quá biết tôi rồi mà, phải không ông Eakar. Tôi không phải là người thích vu oan giá họa cho người khác.

Trước vẻ mặt hoang mang của nhà thám tử, thầy nheo nheo đôi mắt lục lạc, bàn tay lúc này đã nhảy từ trán xuống đâu đó chỗ đám râu xoăn:

- Nhưng cho dù sự thực đúng là như thế, tôi vẫn không tin ông làm việc cho phe Hắc Ám.

Bộ trưởng Kan Kuru cựa quậy chiếc bụng khổng lồ:

- Tôi không hiểu gì hết, ông hiệu trưởng.

Đôi mắt thầy N’Trang Long khẽ nhắm lại, như thể làm thế thì thầy dễ xâu chuỗi những ý nghĩ trong đầu hơn và thầy từ tốn nói trong khi vẫn khép chặt mắt:

- Nếu tôi đoán không lầm thì những ngày qua nhà thám tử của chúng ta đã hành động theo một sự sai khiến trong tiềm thức.

Bộ trưởng Kan Kuru “à” lên một tiếng:

- Có phải ông muốn nói đến hiện tượng mộng du?

- Tôi không nói thế, mặc dù về hình thức thì nó rất giống với chứng mộng du: khi điên cuồng tấn công các nạn nhân, thám tử Eakar không hề nhận thức được mình đang làm gì.

- Và sau đó thì ông Eakar quên sạch trơn? – Kan Kuru tiếp lời.

- Ông đã nói rất chính xác, ông Bộ trưởng.

- Ngài hay thiệt đó, ngài N’Trang Long. – Thám tử Eakar cảm động kêu lên – Tôi thề là tôi không biết chuyện gì đã xảy ra trong những khoảnh khắc đó. Tôi luôn đinh ninh tôi vẫn nằm suốt đêm trên nóc nhà, dĩ nhiên là có lúc tôi cũng mệt mỏi thiếp đi một chút…

- Ông Eakar, – thầy N’Trang Long ngắt lời nhà thám tử và mở bừng mắt ra – lúc mà ông tưởng là mình thiếp đi, thực ra là ông rời khỏi trường Đămri và đi gây án.

- Tôi không biết. – Giọng Eakar đau khổ – Tôi hoàn toàn không biết gì hết…

Cục trưởng Ama Moto quạu quọ:

- Dĩ nhiên là ngươi không biết.

- Ông đã rời khỏi trường, tấn công các nạn nhân, sau đó quay về trường rồi tỉnh dậy. – Thầy N’Trang Long tiếp tục giải thích bằng giọng đều đều – Và ông cứ nghĩ ông chưa hề rời khỏi vị trí, chỉ là thiếp đi một chút xíu thôi.

Cục trưởng Ama Moto ngước đôi mắt nghi ngờ vào mặt thầy N’Trang Long:

- Nhưng làm sao ông suy ra được tất cả những chuyện này, ông hiệu trưởng?

- Thoạt đầu, có cho vàng tôi cũng không dám nghĩ thủ phạm là thám tử của Cục an ninh. Tôi đâu có to gan dữ vậy! – Thầy N’Trang Long cố làm ra vẻ tỉnh queo nhưng có thể thấy hàng ria mép của thầy rung rung như giấu đằng sau nó một nụ cười. (Ông Ama Moto rõ ràng là đoán thấy nụ cười tinh quái đó nhưng chỉ khẽ nhăn mặt để chờ nghe tiếp) – Chỉ đến khi ông Eakar luôn miệng huênh hoang trên tờ Tin nhanh N, S & D rằng ông đã lần ra dấu vết của thủ phạm và quả quyết hắn là người của trường Đămri thì tôi mới bắt đầu chú ý xem xét. Nhỡ những gì Eakar tuyên bố là chính xác thì Cục an ninh đâu có để tôi yên, đúng không?

Thầy khụt khịt mũi và thản nhiên tiếp, phớt lờ tiếng tằng hắng bực bội của Cục trưởng:

- Ông Ama Moto nè, nói thiệt với ông là lúc đầu tôi cũng nghĩ đến lão Ôkô Na. Vì chỉ có lão già thổ tả này mới có khả năng rời khỏi trường mà đám nhân viên của ông và đám bảo vệ của tôi không hề hay biết. Nhưng tôi đã thức canh lão mấy đêm liền, thấy lão vẫn ngáy khò khò trong cũi. Ông cũng biết rồi đó, loại bùa ếm dán ở đền thờ phúc thần Kalăm đâu phải là thứ giỡn chơi.

Thầy khẽ lúc lắc đầu và chòm râu rậm của thầy bay ra một tiếng thở phì:

- Vậy mà ở bên ngoài, đêm nào cũng có nạn nhân ngã xuống vì tên “mông tặc”.

- Thế là ông nghĩ ngay đến thám tử Eakar? – Ama Moto hừ mũi.

- Hổng lẽ ông cho rằng tôi có thể nghĩ đến một ai khác?

Ama Moto cười mát:

- Ông tin tưởng đội ngũ giáo viên và đám bảo vệ của ông đến thế sao?

- Điều then chốt ở đây không phải là niềm tin, ông Ama Moto. – Thầy N’Trang Long khẽ nhún vai và bực mình xoắn lấy một lọn râu cằm – Vấn đề là các giáo viên và nhân viên bảo vệ của tôi không ai có khả năng ra vô trường Đămri mà không bị các siêu phù thủy của Cục an ninh phát hiện. Muốn tránh tai mắt của họ, chỉ có cách duy nhất là độn thổ. Bọn người của lão Chu tất nhiên cũng có quyền độn thổ chút chút, do yêu cầu của công việc, nhưng bọn họ chỉ được phép trồi lên hụp xuống tại chỗ thôi.

- Ông nói vậy thì đã quá rõ ràng rồi, ông hiệu trưởng. – Bộ trưởng Kan Kuru bất thần lên tiếng, trông mặt thì biết là ông vô cùng khoái chí khi tự mình khám phá ra được phần sau của câu truyện – Xưa nay trường Đămri vẫn được ếm bùa Bất khả xâm phạm nên không ai có thể thi thố pháp thuật gì ở đây được. Chỉ có thám tử Eakar và người của Cục an ninh là được hưởng quy chế đặc biệt.

- Cám ơn ông, ông Bộ trưởng. – Thầy N’Trang Long làm một động tác gì đó giống như là nghiêng đầu qua một bên – Nhờ ông mà tôi khỏi phải giải thích lòng vòng có thể khiến ông Cục trưởng mất lòng.

Nhưng một con người như Ama Moto không đến nỗi đánh mất hết bình tĩnh, dù thầy N’Trang Long có vẻ như sẽ còn giữ giọng mỉa mai cho đến chừng nào ông biến khỏi trường Đămri.

Ông nói nhanh:

- Và đến khi Eakar trưng ra lọ dầu mùi thì ông đã khẳng định đến 99% Eakar là thủ phạm?

- Thì ông cũng biết rồi đó. Eakar gây án, quay về trường rồi sáng hôm sau cùng các nhân viên an ninh đi đến chỗ nạn nhân bị tấn công và phát hiện ra mùi dầu mùi của chính mình lưu lại tối hôm trước. – Thầy N’Trang Long tặc lưỡi, đổi giọng khôi hài – Thế là mọi tội vạ lại đổ hết lên cái đầu khốn khổ của tôi.

Ama Moto liếm môi, cơ mặt bắt đầu giần giật:

- Theo ông thì đây là…

- Ông đoán đúng rồi đó, ông Cục trưởng. – Thầy N’Trang Long hít vào một hơi dài – Eakar đã trúng phải tà thuật của phe Hắc Ám.

Vẻ mặt Ama Moto trở nên căng thẳng:

- Ông có biết đây là loại tà thuật gì không?

- Rất tiếc là tôi không biết, thưa ông. – Thầy N’Trang Long thở dài – Những loại pháp thuật bị cấm có hằng hà sa số, mỗi năm đám phù thủy cà chớn của Bastu lại chế ra thêm các thứ thần chú và bùa ếm mới…

Kan Kuru hắng giọng, trông ông có vẻ mệt mỏi vì đứng lâu, hai tay lúc này đang ôm cứng lấy bụng như thể thả ra thì nó sẽ rơi xuống nền nhà:

- Về vụ này, tôi nghĩ có thể thám tử Eakar sẽ cung cấp được điều gì đó…

- Tôi á? – Eakar ngẩn ra.

- Ngươi chứ ai. – Cục trưởng Ama Moto gầm gừ – Chẳng lẽ là ta hay ông bộ trưởng hay ông hiệu trưởng?

Mặt Eakar rúm lại:

- Nhưng…

- Ngươi nói đi! – Ama Moto quắc mắt nhìn nhà thám tử – Ngươi gặp gỡ với người của phe Hắc Ám khi nào?

- Làm gì có, thưa ngài. – Eakar ré lên oan ức – Tôi thề là tôi…

Ama Moto một lần nữa chặn họng nhà thám tử.

- Nếu ngươi không gặp phe Hắc Ám làm sao ngươi trúng phải tà thuật của bọn họ?

- Ngài cũng biết rồi mà. – Eakar nói như rên, tay huơ vào khoảng không (có lẽ ông định ngoe nguẩy cây gậy phép nhưng nó đã văng tuốt đằng góc phòng) – Lần gần đây nhất tôi chỉ gặp có mỗi Buriăk khi tham gia hỏi cung hắn ngay tại Cục an ninh theo lệnh của ngài…

- Ngươi làm ta mệt mỏi quá rồi đó, Eakar. – Ama Moto ngán ngẩm nhìn người thuộc hạ.

- Ông Eakar nè. – Thầy N’Trang Long chợt lên tiếng – Tôi rất lấy làm lạ về ông đấy.

- Thưa ngài…

Eakar quay sang thầy hiệu trưởng, ấp úng hai tiếng rồi im lặng nhìn hàng ria đang rung rung của thầy, hồi hộp như thể chờ một lời buộc tội bay ra từ chỗ đó.

- Nói ông đừng giận chớ tôi thấy chiếc áo tím ông đang mặc không hợp với ông chút nào hết á.

Thầy N’Trang Long nhận xét như thuận miệng. Nhưng câu nói bâng quơ của thầy đủ làm gương mặt nhà thám tử đỏ lên:

- Tôi… tôi…

- Ông Eakar, – thầy N’Trang Long tỉnh bơ tiếp, như không nhận thấy vẻ lúng túng của nhà thám tử – màu đen không những rất hợp với ông mà còn hợp với cả cái nghề của ông nữa. Tôi không hiểu tại sao ông lại từ bỏ nó để khoác vào chiếc áo khá là lẳng lơ này.

- Ông N’Trang Long! – Bộ trưởng Kan Kuru kêu lên, rõ ràng ông vô cùng sốt ruột khi thấy sự quan tâm của vị hiệu trưởng càng ngày càng trượt ra ngoài rìa của cuộc điều tra và không biết sẽ dẫn dắt câu chuyện đi tới đâu trong khi hai chân ông đã có vẻ không gánh nổi trọng lượng của chính ông thêm một phút nào nữa – Tôi nghĩ chuyện ăn mặc là sở thích cá nhân.

- Ông cũng khoái mặc áo tím đó thôi, ông hiệu trưởng. – Cục trưởng Ama Moto nhếch mép.

- Sao ông lại nói thế, ông Cục trưởng? – Thầy N’Trang Long phất vạt áo chùng thùng thình làm cho nó tung lên – Màu tím thẫm của tôi là màu của người già. Rất già. Tôi đã già khụ rồi nhưng chiếc áo của tôi hình như còn già hơn tôi gấp bội.

Thầy chỉ tay vào nhà thám tử:

- Ngược lại, các ông nhìn xem, chiếc áo tím hoa cà của ông Eakar trông mới trẻ trung làm sao. Lại còn những đốm hoa vàng li ti nữa. Chà, trông cứ như chàng trai hai mươi tuổi.

Bộ trưởng Kan Kuru nhăn nhó nói, hai tay vẫn thận trọng bợ lấy chiếc bụng:

- Cho dù như vậy thì tôi thấy chuyện ông Eakar trau chuốt cách ăn mặc cũng chẳng hề liên quan đến những gì chúng ta đang muốn biết.

- Ông Bộ trưởng. – Thầy N’Trang Long chỉ tay vào chiếc ghế kê sát vách – Nếu ông cảm thấy cặp giò của ông đã bắt đầu phản đối thì xin mời ông ngồi xuống ghế cho đỡ mệt. Tôi đâu có yêu cầu ông đứng đó để cản trở sự tò mò của tôi.

Cục trưởng Ama Moto nhạt nhẽo xen lời:

- Ngay cả tôi cũng không muốn chứng kiến cái cảnh ông cứ xoáy vào cách phục trang của thám tử Eakar nếu ông không chứng minh được đây là những thắc mắc phục vụ cho công cuộc điều tra.

- Tôi biết, tôi biết. – Thầy N’Trang Long gật đầu chẳng chút phật ý – Tôi cũng muốn kết thúc chuyện này lẹ lẹ cho rồi để tôi còn quay về với công việc chuyên môn của mình. Bộ mấy ông tưởng tôi khoái cà kê dê ngỗng lắm hả?

Thầy liếc nhà thám tử lúc này đang lóng ngóng không biết làm gì với hai bàn tay của mình (ông hết chùi tay vào vạt áo lại bắt chước thầy N’Trang Long đưa lên mò mẫm chỗ râu cằm), hắng giọng nói:

- Ông Eakar, chắc ông cũng rõ là tôi rất muốn biết tại sao ông tự dưng khoái cái màu tím tình tứ này rồi chớ?

Thám tử Eakar giật thót như đang ăn vụng bị bắt quả tang:

- Ơ… tôi…

Giọng thầy N’Trang Long giễu cợt:

Hôm đó là một ngày rất đẹp. Một buổi chiều vàng. Trời trong văn vắt, đẹp đến nỗi thám tử Eakar vừa đi vừa ngước nhìn lên, cây gậy phép múa vu vơ trên tay, trông vẻ mặt bâng khuâng của ông có thể đoán trái tim ông đang được lấp đầy bởi một cảm giác xao xuyến mơ hồ.

Eakar cứ đi lang thang như thế, cũng không nhớ là mình định đi đâu. Dẫn dắt ông lúc này là một nỗi khát khao kỳ lạ. Chưa bao giờ ông cảm thấy yêu cuộc đời đến vậy. Dĩ nhiên thỉnh thoảng Eakar vẫn bắt gặp những cảm giác lâng lâng như thế. Một sớm mai mở bừng mắt dậy, nghe tiếng chim hoàng yến líu lo ngoài cửa sổ, ông bỗng cảm thấy cuộc đời tuyệt đẹp. Buổi chiều ra thăm vườn, chợt phát hiện trên mảnh đất mình gieo hạt từ nhiều hôm trước có một mầm non mới nhủ, ông cảm nhận rõ rệt niềm vui sướng ran ran trong người.

Nhưng những khoảnh khắc như thế thật là hiếm hoi với một người bận bịu như Eakar. Chiều nay, đã lâu lắm rồi ông mới tự cho phép tâm trí mình lãng đi những vụ điều tra hay đuổi bắt để trôi bồng bềnh theo những cụm mây trắng nõn trên cao.

Chân nhà thám tử dẫm bừa lên cánh đồng cỏ. Ông đã bước chệch khỏi con đường mòn nhưng ông cứ mặc kệ. Thiên nhiên đẹp quá! Những vụ án được khám phá cũng có vẻ đẹp của nó, nhưng không đẹp bằng thiên nhiên! Ông tự nhủ, và lại rảo bước.

Nhà thám tử đi hoài, đi hoài như vậy, xuyên qua đồng cỏ, xuyên qua nắng, xuyên qua buổi chiều. Rồi đến một lúc, bất chợt ông cảm thấy buồn. Hình như trong cuộc đời này, cái gì quá đẹp đều sinh ra nỗi buồn. Nhà thám tử cảm thấy hiu quạnh và ông vô cùng ngạc nhiên về điều đó – tâm trạng mà ông chưa từng trải qua bao giờ. Lúc này đây, trong lòng ông dồn nén bao nhiêu là cảm xúc, nhưng ông chợt nhận ra là ông không thể chia sẻ cùng ai. Giả dụ bên cạnh ông là những phù thủy của Cục an ninh, ông biết ông không thể nói với họ “cuộc đời đẹp quá”. Thám tử Eakar mà nói một câu như thế thì thiệt là ủy mị, thậm chí quá sức kỳ cục. Chẳng thà ông nói “Lọ dầu mùi này thơm quá”.

Tim nhà thám tử đột nhiên nhói đau khi nhớ đến lời xài xể của giáo sư nhóc tì Akô Nô hôm đụng đầu với ông trong phòng y tế trường Đămri: “Ông từng này tuổi mà chưa từng yêu ai nên khùng khùng là phải. Ông nên tập yêu một ai đó, ông Eakar, cho dù có thể người ta không thèm để ông vào mắt”. Ta mà khùng ư? Hừm, làm gì có chuyện đó! Eakar biết mình rất tỉnh táo, nhưng đầu óc ông không ngừng bị những lời mỉa mai của giáo sư Akô Nô ám ảnh: “Ngoài chuyện suốt ngày ngồi mái nhà, ông còn biết cái quái gì nữa đâu”. Thám tử Eakar từ từ nhớ lại, ông còn nhớ cả cụm từ “tâm hồn khô héo” mà giáo sư Akô Nô gán cho ông.

Eakar biết là tâm hồn mình không hề khô héo, nó chỉ sao nhãng đi bởi công việc. Như lúc này đây, khi nỗi băn khoăn về nghĩa vụ lẫn những khát khao về danh vọng tạm thời lắng xuống, ông bắt gặp mình đang trải qua một buổi chiều thật nhẹ nhõm và lòng ông đang dậy lên bao nỗi xốn xang.

Đúng vào lúc nhà thám tử mắc kẹt trong những mắt lưới của nỗi cô đơn và cảm thấy cuộc đời vắng vẻ hơn bao giờ hết, ông chợt nhìn thấy người đó.

Thám tử Eakar trước đây chưa bao giờ để tâm đến phụ nữ và nếu có lần nào đó ông chăm chú nhìn họ cũng chỉ để tự hỏi họ có gì khả nghi hay không. Phụ nữ dưới mắt một thám tử yêu nghề như Eakar chỉ là một nghi can không hơn không kém. Ông chưa bao giờ ngắm một phụ nữ với tư cách một phụ nữ. Trừ lần này.

Cho nên người phụ nữ mà Eakar trông thấy chắc chắn phải đẹp. Mà người phụ nữ đó đẹp thiệt. Cô ta ngồi trên một phiến đá xanh ở cuối cánh đồng cỏ, mặc chiếc áo trắng thanh nhã, chiếc váy màu tím điểm xuyết những hoa văn li ti, giỏ hoa đong đưa trên tay, đang hồn nhiên chơi đùa với những cánh bướm chập chờn quanh những bông hoa dại mà cô vừa mới hái.

Thám tử Eakar đứng xa xa, ngẩn ngơ nhìn. Trông gương mặt đờ đẫn của ông có thể tin rằng đây là lần đầu tiên ông chính thức nhìn thấy một phụ nữ. Ông nhìn cô gái lạ không chớp mắt, cố giữ mình để không gây ra tiếng động, mặc dù lòng ông đang vô cùng hồi hộp. Thậm chí có lúc ông nhận ra mình không hề thở. Cứ như thể ông lo rằng hơi thở của ông có thể làm xao động bầu không khí trong lành đang vây quanh cô gái.

Cô gái không nhìn thấy nhà thám tử, cho dù ông đã đổi chân hai ba lần. Cô vẫn đùa giỡn với những cánh bướm đủ màu, thỉnh thoảng lại bật ra những tràng cười khanh khách nghe vui tai như tiếng pha lê chạm vào nhau. Thám tử Eakar vẫn chết lặng một chỗ, bần thần, mê mẩn, lòng ông nẩy mầm một cảm giác gì đó như là sự xôn xao trìu mến, nhất là càng lúc ông càng khám phá ở cô gái một vẻ yêu kiều đặc biệt.

Cuối cùng thì cô gái cũng ngẩng đầu nhìn về phía nhà thám tử, không phải vì cô phát hiện ra sự có mặt của ông mà vì lúc đó đằng sau lưng ông một con sóc đang quệt chiếc đuôi dài vào bụi tầm ma làm phát ra những tiếng sột soạt.

- Ôi, thưa ông…

Hết sức ngạc nhiên, cô gái giương đôi mắt tròn xoe ra nhìn nhà thám tử, bối rối thốt.

- Chào em. – Thám tử Eakar cất tiếng chào, sửng sốt về tiếng “EM” lạ lẫm trên môi mình.

This image has been resized. Click this bar to view the full image. The original image is sized 750x1240.

Thám tử Eakar đứng xa xa, ngẩn ngơ nhìn…

- Ông đến đây đã lâu chưa ạ? – Cô gái ngập ngừng hỏi.

- Tôi vừa mới tới. – Eakar nói dối, không muốn làm cô gái xấu hổ. Ông nuốt nước bọt – Còn em?

- Em chơi ở đây lâu rồi, thưa ông. – Cô gái đặt giỏ hoa trên tay xuống, bẽn lẽn đáp – Em rất hay ra đây. Em thích cánh đồng này.

Nhà thám tử vội vàng tán thành, giọng dịu dàng như thể mượn của ai:

- Tôi cũng chưa từng thấy cánh đồng nào đẹp như cánh đồng này.

Vừa nói, Eakar vừa bước tới vài bước để đến gần hơn phiến đá xanh.

- Nhà em ở gần đây không? – Một lát ông đã đứng trước mặt cô gái, chăm chú nhìn cô, mỉm cười hỏi.

- Nhà em ở xa lắm.

Cô gái nói, rồi cô hồn nhiên vỗ tay lên phiến đá mình đang ngồi:

- Sao ông không ngồi xuống đây?

Thám tử Eakar ngần ngừ một thoáng rồi ngồi xuống cạnh cô gái. Trông ông rụt rè như một chàng trai mới lớn…

oOo

Hôm đó, Eakar nhớ lại, ông chưa bao giờ nói chuyện nhiều như thế trong đời, mặc dù ông không nhớ rõ đó là những chuyện gì.

- Những chuyện vẩn vơ thôi. – Ông nói, không nhìn ai trong ba người.

Bộ trưởng Kan Kuru xoa bụng, giọng hồ hởi:

- Tôi nghĩ tôi nên chúc mừng ông, ông Eakar.

Cục trưởng Ama Moto liếc thầy N’Trang Long, vẻ mặt hả hê:

- Ông cũng chúc mừng ông Eakar chứ?

- Ông Cục trưởng, – Thầy N’Trang Long điềm nhiên – ông cũng biết là tôi chẳng phấn khởi gì khi thấy nhà thám tử của chúng ta tới tuổi này rồi mà vẫn thui thủi một mình. Nhưng ông cho phép tôi hỏi ông Eakar thêm vài câu rồi chúc mừng sau cũng không muộn.

Quay sang nhà thám tử, thầy N’Trang Long ôn tồn:

- Ông Eakar, xin lỗi ông, đáng lẽ sau khi nghe xong câu chuyện thơ mộng như vừa rồi, tôi không nên tò mò thêm nữa. Nhưng để tôi có thể chia vui với ông một cách thiệt sự thoải mái, tôi xin hỏi ông vài câu cuối cùng. Nói chính xác thì tôi chỉ hỏi ba câu thôi.

- Ngài cứ hỏi, ngài hiệu trưởng.

Eakar hờ hững đáp, có vẻ như ông cảm thấy ba câu hay ba trăm câu lúc này cũng chẳng có ý nghĩa gì. Tâm trí ông đang bay đến cánh đồng cỏ ngoài xa kia.

- Về cái vụ tại sao dạo này ông chuyển qua thích màu tím hoa cà thì đã có câu trả lời rồi. Điều tôi muốn biết là có phải sau lần đó ông còn gặp người con gái kia thêm nhiều lần nữa?

- Ờ.

Thầy N’Trang Long nhìn lom lom vào mặt nhà thám tử, thận trọng hỏi tiếp:

- Và tôi chắc là đến giờ này ông vẫn chưa biết được gốc gác của cô ta?

- Ờ. – Eakar vẫn đáp với giọng mơ màng.

- Ông Eakar. – Giọng thầy N’Trang Long đột ngột cất cao, như thể bằng cách đó hy vọng đánh thức nhà thám tử khỏi trạng thái thẫn thờ – Bây giờ là câu hỏi chót của tôi, tôi chờ đợi ở ông một sự tỉnh táo và một trí nhớ cần thiết.

Eakar gật đầu, ánh sáng thoáng trở lại trong đôi mắt tinh nhanh:

- Ngài hỏi đi. Tôi sẵn sàng nghe đây.

Vẫn xoáy mắt vào mặt nhà thám tử, thầy N’Trang Long nói thật chậm như đang nhai từng từ:

- Cô gái đó có trang điểm thứ gì đặc biệt trên mái tóc hay không?

Trước ánh mắt đau đáu của thầy N’Trang Long, của ông Bộ trưởng và ông Cục trưởng, cả của pháp sư Lăk đang đứng thập thò gần đó, nhà thám tử hân hoan gật đầu:

- Dĩ nhiên là có. Ôi, các ngài không thể hình dung ra đâu. Một thứ trang sức vô cùng giản dị và mộc mạc. Một vẻ đẹp hương đồng gió nội làm say đắm lòng người. – Eakar càng nói mặt mày càng hớn hở, ông đột nhiên giống như đang làm thơ chứ không phải đang trả lời chất vấn – Tôi yêu và vĩnh viễn yêu đóa hoa cài trên mái tóc cô ấy…

Nhà thám tử si tình vừa nói tới đây, cả ông Bộ trưởng giáo dục lẫn ông Cục trưởng an ninh đều giật bắn người.

Ông Ama Moto hỏi như quát:

- Bông hoa đó màu gì?

- Màu đỏ, thưa ngài. – Eakar xuýt xoa đáp, vẫn chưa dứt ra khỏi trạng thái hưng phấn – Một bông hoa đỏ trên mái tóc xanh, ôi, trông mới đẹp làm sao!

- Đẹp cái con khỉ! – Ama Moto gầm lên, những cơ mặt giật đùng đùng – Ngươi có biết người con gái đó là ai không hả?

Nhà thám tử ngơ ngác nhìn ông sếp:

- Là ai, thưa ngài?

Ama Moto rít qua kẽ răng:

- Ả chính là Balikem, hữu hộ pháp của trùm Hắc Ám.

Chương 10

XÀ LÁCH ÁO QUẦN

Ngày hôm sau, tờ Lang Biang hằng ngày phát hành phụ trương buổi sáng, thông báo về việc tên “mông tặc” đã sa lưới pháp luật. Tờ phụ trương của Kan Blao bán chạy như tôm tươi vì Tin nhanh N, S & D, đối thủ cạnh tranh lâu nay, không phát hành phụ trương mỗi khi có sự kiện đặc biệt như thông lệ.

Sáng sớm, Nguyên, Kăply, Êmê và K’Tub vừa ôm cặp bước xuống cầu thang, đứa nào đứa nấy trố mắt khi thấy tờ phụ trương Lang Biang hằng ngày nằm trên bàn ăn giữa vườn và bà Êmô đang chúi đầu vô tờ báo, say sưa đến mức không nghe thấy tiếng chân của bọn trẻ.

- Cậu K’Tul lại đặt mua tờ báo này hả mẹ? – Êmê lại gần, ngạc nhiên hỏi.

- Không. – Bà Êmô ngẩng mặt lên – Chính mẹ đã đăng ký mua. Trong tình hình rối ren như hiện nay, mẹ nghĩ sẽ tốt hơn nếu chúng ta biết thông tin từ nhiều nguồn.

Bà buột miệng “à” lên một tiếng:

- Tên “mông tặc” đã bị Cục an ninh bắt giữ rồi. Thiệt là may quá!

Bọn trẻ dĩ nhiên chẳng hề bất ngờ về tin này. Hôm qua chính thầy N’Trang Long đã nói oang oang giữa sân trường về chuyện sẽ tóm cổ tên “mông tặc”. Điều tụi nó quan tâm trong lúc này là danh tính thủ phạm.

- Hắn là ai thế hở mẹ? – Vẫn Êmê đại diện cho cả bọn.

- Họ cũng chỉ nói chung chung thế thôi. – Bà Êmô lại quay vô tờ báo – Có lẽ Cục an ninh không muốn tiết lộ danh tính kẻ bị bắt.

Đột nhiên, như sực nhớ ra chuyện gì, bà lại ngước lên, quét mắt qua Nguyên và Kăply, giọng đầy ẩn ý:

- Mẹ nghĩ K’Brăk và K’Brêt hẳn phải biết thủ phạm là ai chứ.

- Tụi con không biết, dì à.

Nguyên dè dặt đáp, thận trọng nhìn lại bà Êmô khiến bà vội quay đi chỗ khác và tự nguyền rủa cái tật thiếu kềm chế của mình tơi bời.

Dọc đại lộ Brabun người ta đổ ra đầy đường y như đi trẩy hội, và cũng như bà Êmô, người nào cũng cầm trong tay hay kẹp trong nách một tờ phụ trương Lang Biang hằng ngày. Bọn trẻ bán báo dạo chạy lăng xăng từ đầu đường này đến góc phố nọ, ngoác miệng rao inh ỏi, tay trĩu xuống với xấp báo cao ngất mới vừa lấy ra từ nhà in đang chạy hết công suất.

Tiệm CÁI CỐC VÀNG của vợ chồng lão Bebet hốt bạc nhân dịp này đã đành, cả CỬA HIỆU THẤT TÌNH của lão Seradion hôm trước vắng tanh sáng nay cũng đông nghẹt người. Khi mối đe dọa về tính mạng đã được gỡ bỏ hình như con người ta hăng hái hơn trong việc chữa trị sự đau ốm của con tim.

Cả điệu nhạc phát ra từ ban nhạc củ cải hôm nay nghe cũng khác, dồn dập hơn, hùng hồn hơn, giống như đang rao giảng chân lý:

- “Yêu thì khổ

Không yêu thì lỗ”

Sai bét nhè

Sai bét bè be!

Đoạn này lặp đi lặp lại đến ba lần. Và cất lên ngay sau đó là một giọng đọc du dương trên nền nhạc, đậm đặc hơi hướm quảng cáo: “Từ khi có cửa hiệu thất tình – Yêu không hề khổ – Từ khi có cửa hiệu thất tình – Không yêu thì lỗ”. Tiếp theo là một chuỗi ca từ nghe giống như nhạc Rap: “Ai không tin – Xin đến đây – Chỉ một lần – Sẽ biết ngay”…

Tới đây thì Êmê co giò bỏ chạy.

Êmê chỉ dừng chân khi cổng trường Đămri hiện ra trước mặt. Lúc đó, nó mới sực nhớ hôm nay lớp Cao cấp 2 của Nguyên và Kăply không có giờ Thần chú chiến đấu.

- Ủa? – Êmê ngoảnh đầu ra sau, hét lớn – Hôm nay anh K’Brăk và anh K’Brêt…

Không đợi nhỏ bạn hỏi hết câu, Nguyên nói luôn:

- Tụi anh định đến gặp thầy hiệu trưởng, Êmê.

oOo

- Đầu đuôi là như vậy đó, tụi con.

Thầy N’Trang Long kết thúc câu chuyện về thám tử Eakar bằng một tiếng thở dài. Thầy nhìn hai đứa học trò đang nghệt mặt nhìn mình, xoắn một lọn râu cằm và giữ nó trong đầu ngón tay, tặc lưỡi nói thêm:

- Nếu tụi con không phải là chiến binh giữ đền, ta cũng chẳng xì bí mật này ra làm chi. Nhưng ta e rằng sự xuất hiện của Balikem có liên quan đến sứ mạng của tụi con ở lâu đài K’Rahlan.

Giọng thầy đột nhiên nghiêm nghị:

- Nhưng tụi con phải nhớ giữ mồm giữ miệng đó. Đây là một vố quá nặng đối với Cục an ninh. Tuy ta không ưa gì bọn người của Ama Moto nhưng cũng không muồn làm họ mất mặt.

- Tụi con nhớ, thưa thầy. – Nguyên lễ phép, mắt nó chợt sáng lên – Nhưng loại tà thuật mà Eakar trúng phải là loại gì vậy hả thầy?

- Ta không biết chính xác, con à.

- Thuật thôi miên đó thầy. – Kăply bộp chộp vọt miệng, nhớ đến lần Buriak ẩn trong con chim đầu rìu dùng ánh mắt sai khiến tụi nó đánh lẫn nhau đến u đầu sứt trán.

- Không phải đâu con. Đây là một loại tà thuật có nhiều điểm giống như thôi miên, nhưng trình độ cao hơn và khó đề phòng hơn nhiều. – Ánh mắt to cồ cộ của thầy N’Trang Long lang thang đâu đó trên trần nhà – Thuật thôi miên chủ yếu sử dụng ánh mắt và những siêu phù thủy cỡ Eakar sẽ phát hiện ngay lập tức khi có ai đó định thôi miên mình. Nếu Eakar trúng phải tà thuật, chắc chắn vì ánh mắt của Balikem không có gì khác lạ.

Kăply nhấp nhổm không yên trên ghế:

- Thế Balikem đã hạ thủ bằng cách nào hả thầy?

- Mối nguy hiểm của Balikem đến từ bông hoa trên mái tóc của cô ta, tụi con à. – Thầy N’Trang Long thở phì – Balikem có một biệt danh ít người biết “NGƯỜI CON GÁI CÀI HOA ĐỎ”. Eakar có thể cũng từng nghe nói tới biệt danh này, nhưng vì Balikem biệt tích đã quá lâu nên chắc ổng quên khuấy mất rồi. Ngu ngốc thiệt tình!

- Thầy có biết đó là hoa gì không? – Kăply lại ngứa cái miệng.

- Dĩ nhiên là hoa hồng. Xưa nay người ta vẫn biết đến hoa hồng như là biểu tượng của tâm hồn, trái tim, nhan sắc và tình yêu – tóm lại là những phần thưởng của cuộc sống. Vì vậy mà Eakar đã bị mê hoặc. Ít ai biết cùng với cây tầm xuân và cỏ chân ngỗng, hoa hồng còn tượng trưng cho sự phục sinh huyền bí, vì màu đỏ của hoa hồng chính là màu của máu. Những con chim đầu người quanh hồ Ma hay những phù thủy bị lời nguyền hóa thú nếu ăn được những cánh hoa hồng trồng ở đền thờ phúc thần Kalăm trong suốt một tháng liền đều có thể trở lại thành người, chứ không nhất thiết phải ăn những quả táo vàng trên núi Lưng Chừng.

Ánh mắt thầy nhẹ nhàng đáp xuống trên mặt bọn trẻ và giọng thầy trở nên trầm ấm:

- Đâu phải tự nhiên mà người ta có thói quen đặt hoa hồng lên những nấm mộ hở tụi con.

- Vậy thì tại sao nó trở nên nguy hiểm đến thế, thưa thầy? – Nguyên liếm môi hỏi, một sợi tóc vừa rời khỏi đầu nó theo cái dứt khá mạnh.

- Chính vì đặc tính thần bí đó của hoa hồng, các siêu phù thủy dần dần đi đến chỗ phát hiện mỗi cánh của nó tương ứng với một thứ kim loại. Khám phá động trời này khiến hoa hồng nhanh chóng trở thành một loại dược liệu được các nhà luyện bùa ưa chuộng.

Thầy buông lọn râu cằm quấn trên ngón tay ra để tóm lấy một lọn râu khác, giọng rầu rĩ:

- Chắc chắn bông hoa đỏ trên mái tóc của Balikem là một loại bùa cực mạnh. Nó không chỉ sai khiến Eakar hành động đúng vào giờ giấc đã định sẵn mà qua Eakar, nó có thể khiến nạn nhân của ông hôn mê theo ý muốn. Cũng may là Balikem chưa có ý định giết người. Nếu không mấy hôm nay xác chết đã tràn lan ngoài phố rồi.

Một ý nghĩ chợt hiện ra trong đầu khiến Nguyên muốn ngừng thở:

- Thế tối nay thám tử Eakar có sẽ lại đi gây án nữa không, thầy?

- Con hỏi hay lắm, K’Brăk. – Thầy N’Trang Long nhìn đứa học trò, vẻ tán thưởng – Nói thiệt, nếu ta không nhốt Eakar lại thì ổng sẽ đi quậy tùm lum cho coi. Nhưng tụi con yên tâm đi, trong vòng ba ngày nữa, pháp sư K’Buđăng và pháp sư Lăk chắc chắn sẽ trả nhà đại thám tử của chúng ta về với trạng thái bình thường.

Giọng thầy đột nhiên trầm ngâm:

- Điều đáng lo nhất bây giờ là…

Kăply láu táu:

- Trùm Bastu sắp quay lại hả thầy?

- Hừm, hắn chưa quay lại được đâu. – Thầy N’Trang Long nhún vai – Nếu ta đoán không lầm thì hiện nay vợ chồng K’Rahlan đang tìm mọi cách giữ chân hắn.

Ánh mắt thầy N’Trang Long thình lình dội vào mặt Nguyên:

- Con có biết tại sao ba mẹ con làm thế không, K’Brêt?

- Dạ biết, thưa thầy. – Nguyên đáp và nghe mặt nóng ran – Ba mẹ con làm vậy để tụi con có thời gian tìm ra báu vật ở lâu đài K’Rahlan.

- Vậy mà đến giờ này hai đứa con vẫn giống y chang hai con rùa. – Thầy N’Trang Long khẽ lắc đầu và một lần nữa thầy nhắm mắt lại, như thể nếu nhìn hai đứa học trò lề mề này thêm một phút nữa thầy sẽ tức đến chết mất.

Chuyện chưa từng có đã xảy ra: khách của vị hiệu trưởng trường Đămri chủ động cáo từ trước khi bị đuổi khéo.

- Thưa thầy, tụi con về. – Nguyên đứng lên khỏi ghế.

- Hãy cố mà nhanh chân lên. Thời gian không đủng đỉnh chờ tụi con đâu.

Thầy N’Trang Long nói, vẫn không mở mắt hoặc ít ra là Nguyên và Kăply tưởng như vậy. Nhưng dù sao điều đó vẫn khiến tụi nó bình tĩnh để mà rút lui hơn là thầy nhìn chằm chằm vào tụi nó.

Khi hai đứa xuống tới sân trường, chuông tan học vừa vặn réo lên và trước mắt tụi nó, bọn học trò đang chen nhau tuôn ra từ các cửa lớp với một vẻ hớn hở đặc biệt.

Có lẽ sau khi tên mông tặc bị tóm mà chiếc ghế hiệu trưởng của thầy N’Trang Long vẫn không rung rinh chút xíu nào hết, bọn nhóc lại bắt đầu cảm thấy cuộc đời thiệt là đáng sống.

Dĩ nhiên không phải tất cả học trò trường Đămri đều có chung một cảm xúc. Kăply khoái chí hết sức khi thấy Amara và cái đuôi của nó là thằng Y Đê lặng lẽ lướt ngang qua chỗ tụi nó đứng, mặt cúi gằm như vừa bị ai đá vô mông.

- Bộ nhà máy giấy của ba mày đóng cửa rồi hay sao mà hổng thấy tờ Tin nhanh N, S & D ra phụ trương hả Amara? – Kăply không làm sao ngăn mình đừng phun ra một câu cà khịa.

Nhưng Amara làm như không nghe thấy. Nó lùi lũi đi thẳng ra cổng, chiếc nón chóp kéo sụp xuống trán ép chặt mớ tóc xoắn, trông nó giống như một con thú đang chạy trốn.

- Thôi, bỏ đi! – Nguyên khẽ kéo tay Kăply – Đừng chọc nó nữa.

Kăply có muốn cãi lời Nguyên cũng không được: Thằng Amara đã biến mất chỗ lớp học có cửa kính tím, nhanh như khói. Kăply quay nhìn vào lớp Cao cấp 2 của mình, lập tức nhớ ra có đứa đáng trêu hơn: thằng Tam.

Nhưng dường như có cả đống đứa đang làm rất tốt điều đó rồi, Kăply nghĩ bụng khi thấy thằng Tam vừa bước đi vừa đưa cặp sách lên che mặt trong khi vây quanh nó là tụi bạn cùng lớp đang không ngừng chọc ghẹo, to mồm nhất vẫn là thằng Lung và thằng Hailibato.

Hailibato lạch bạch bám sát Tam, tay không ngừng khều chiếc cặp sách mà thằng này hết che bên trái lại che bên phải để ngăn cản sự tấn công ồ ạt của tụi bạn, miệng cười khì khì:

- Hôm nào mày dạy tao làm thơ với nha Tam. Tao đang mê tít con nhỏ hàng xóm mà hổng biết làm sao cưa nó nè.

Thằng Lung thì bô bô:

- Nếu tôi không là bạn

Chỉ vì tôi là tôi

Một ngày không cắn bạn

Thì chó sẽ cắn tôi.

Thằng Tam mặt mày đỏ gay, lúc này nó phải dùng tới cả hai cùi chỏ để huých đám bạn quỷ quái mỗi lúc mỗi áp sát vô người nó.

Kăply thoạt đầu tính hùa vô trêu Tam chơi nhưng khi thấy thằng này sắp khóc tới nơi, con nhỏ Bolobala thì đi tách ra một quãng, bộ tịch giận dữ đùng đùng, Kăply bỏ ngay ý định đó.

- Ê!

Kăply ngoắt Kan Tô, Mua, Y Gok và Diradivo khi thấy tụi học trò lớp Cao cấp 1 sắp sửa đổ xô tới chỗ thằng Tam.

- Gì vậy mày? – Kan Tô tiến đến chỗ Nguyên và Kăply đứng, giọng ngạc nhiên.

- Tha cho thằng Tam đi. Nó sắp xỉu rồi.

Kăply nói và vội đánh mắt sang Mua:

- Ba của bạn…

Mua suỵt khẽ và bước sát đến bên Kăply, nó hạ giọng thì thầm:

- Đã về nhà rồi.

- Thế dòng chữ trên…

- Đã tẩy sạch rồi. – Mua xích sát vào Kăply thêm chút nữa, giọng vo ve như muỗi kêu.

Kăply cảm thấy máu trong người như ngừng chảy khi bím tóc của Mua vô tình quệt má nó. Trái tim nó như đang rơi xuống đâu đó chỗ dạ dày.

Thu hết can đảm, Kăply khẽ liếc Mua một cái rồi ngoảnh đi ngay, biết mình không đủ bình tĩnh để nhìn thẳng vô gương mặt đáng yêu của nhỏ bạn. May mà lúc đó đám Êmê, Păng Ting và K’Tub kịp trờ tới.

- Sao tụi em ra trễ quá vậy?

Kăply nói lớn, ra vẻ ta đây sở dĩ không kéo dài cuộc trò chuyện với Mua chẳng qua do cái đám nhí nhố này xuất hiện hổng đúng lúc chút nào hết, bực ơi là bực!

oOo

Giống như thường lệ, có tất cả là chín đứa sóng bước trên đường về. Bữa nay chỉ khác một chút về mặt đội hình: tám đứa vẫn kề vai sát cánh trên đại lộ Brabun, chỉ có Bolobala là đi tuốt ngoài rìa, mặt phủ đầy băng giá.

Trưa hôm qua, lúc tình cờ phát hiện bài thơ BẠN TÔI trên tờ Tin nhanh N, S & D, tụi Nguyên, Kăply, Êmê và K’Tub mừng húm khi vớ được một đề tài hấp dẫn, định bụng sáng nay cả bọn sẽ xúm vô trêu Tam. Suốt buổi chiều, đứa nào cũng náo nức mong chóng đến ngày mai, nhưng bây giờ chứng kiến thái độ lạnh lùng của Bolobala lẫn nét mặt xanh xao ủ rũ như sắp chết của thằng Tam, đứa nào đứa nấy xụi lơ.

Không khí đột nhiên nghiêm trọng đến mức tụi Kan Tô, Mua và Păng Ting cũng im như thóc, lẽo đẽo lê bước như những hòn đá biết đi.

Nguyên tìm cách phá tan sự căng thẳng:

- Tôi và K’Brêt vừa ở văn phòng hiệu trưởng ra…

- Ồ, có gì mới không, K’Brăk? – Kan Tô kêu lên, bây giờ nó mới kịp ngạc nhiên về sự có mặt của Nguyên và Kăply ở trường sáng nay.

Păng Ting hồi hộp:

- Thầy hiệu trưởng có tiết lộ tên “mông tặc” là ai không?

- Có.

Nguyên thấp giọng, kín đáo quan sát thằng Tam qua khóe mắt, cười thầm khi thấy hai vành tai thằng này đang dỏng lên, vẻ tiu nghỉu trên mặt như bị ai chùi mất.

- Hắn là ai vậy, anh K’Brăk?- K’Tub nhảy tưng tưng.

- Hắn chính là…

Nguyên cố ý kéo dài giọng để đợi Bolobala lúc này đang làm ra vẻ vô tình rời khỏi lề đường, đi sát vô tụi nó.

K’Tub sốt ruột đấm thùm thụp vô lưng Nguyên, không biết dụng tâm của ông anh:

- Anh nói lẹ đi! Hắn là ai?

Nguyên hít vô một hơi:

- Thám tử Eakar.

Trừ Kăply, những đứa còn lại cảm thấy chới với như thể mặt đất đang nghiêng đi dưới chân.

- Bạn không nói đùa đó chớ, K’Brăk? – Bolobala thảng thốt kêu lên, quên mất nó đang len vô giữa Păng Ting và Êmê – Chính Eakar là người hăng hái nhất trong việc truy bắt thủ phạm mà. Ngày nào mà ổng chẳng khoe khoang khắp xứ về kết quả điều tra của ổng.

Thằng Tam cũng không giấu vẻ ngỡ ngàng trước tiết lộ của Nguyên (cũng như Bolobala, nó quên phắt là nó đang buồn thúi ruột về chuyện từ sáng đến giờ con nhỏ này không thèm nhìn mặt nó):

- Làm sao Eakar là thủ phạm được hả? Ổng là thám tử kỳ cựu và là cộng tác viên ruột của Cục an ninh kia mà!

- Mà Eakar làm vậy để làm gì chớ, anh K’Brăk? – K’Tub tru tréo – Hổng lẽ ổng cố tình tạo ra chứng cớ giả để hại thầy N’Trang Long?

Nguyên lướt mắt qua lũ bạn:

- Chuyện này đúng là khó tin. Nhưng rất tiếc đó là sự thật. Thầy hiệu trưởng đã dặn tôi không được nói om sòm chuyện này ra ngoài, vì vậy tôi yêu cầu…

- Anh cứ kể đi, anh K’Brăk! – K’Tub lắc lắc tay Nguyên, miệng tía lia – Tụi em biết rồi. Là nghe xong, không đứa nào được hé môi với bất cứ ai chứ gì!

Có thể thấy cả đống cái miệng há hốc, cả đống cặp mắt dán chằm chằm vào mặt Nguyên khi thằng này nghiêm trang thuật lại câu chuyện mà nó nghe được từ thầy N’Trang Long. Mười tám cái cẳng chân tự nhiên đi chậm lại, túm tụm vào nhau, và Nguyên đã có thể yên tâm là chín đứa tụi nó bây giờ đúng là 9 chứ không phải là 8+1 như khi nãy.

- Ớn thiệt đó! – Kan Tô thè lưỡi khi Nguyên kể xong – Nếu không biết chuyện này, mai mốt lỡ gặp Balikem tụi mình chẳng biết đâu mà đề phòng.

- Khoái ghê! – K’Tub bô bô – Kỳ này chắc lão Ama Moto phải cắt cái mặt liệng đi mới hết xấu hổ.

Êmê nhìn Nguyên, không giấu vẻ lo lắng:

- Anh K’Brăk! Anh và anh K’Brêt từ nay phải hết sức cẩn thận đó.

Câu nói của Êmê khiếm Kăply len lén nhìn Mua và khi bắt gặp Mua đang nhìn lại nó bằng nét mặt lo lắng không kém gì Êmê thì nó giật mình và hấp tấp quay đi, mặt mày nóng ran như đút trong lò nướng.

- Lo làm gì cho mệt! – Bolobala hừ mũi – K’Brăk và K’Brêt đã không ngán Balibia thì hổng việc gì phải ngán Balikem hết á.

Bolobala vừa nói vừa vung mạnh chiếc cặp sách trên tay, trông bộ tịch hùng hổ của nó khi nói về tả hữu hộ pháp của phe Hắc Ám tưởng như một con mèo đang nhận xét về hai con chuột nhắt.

- Chị Bolobala nói đúng đó. – Păng Ting hào hứng tán thành, nhưng khi con nhỏ vô tâm này nói tiếp thì mặt Nguyên liền xệ xuống – Thiệt ra thì người lão luyện như Eakar cũng không dễ gì mắc bẫy Balikem, chỉ tại lão yêu iếc lôi thôi…

Như chợt nhận ra mình lỡ lời, Păng Ting im bặt và bối rối đưa tay vuốt vuốt mái tóc bữa nay trông y chang một chiếc bắp cải.

Nhưng chỉ cần chừng đó thôi, đám bạn đã thấy Bolobala lại đứng tuốt ngoài lề đường, còn thằng Tam không biết từ lúc nào đã tiếp tục tròng vô mặt vẻ sầu bi của người thấy đời chẳng có gì vui.

Trong khi không đứa nào trong những đứa còn lại biết nói gì trước tình huống bất ngờ đó thì thằng K’Tub tỉnh bơ cất tiếng:

- Anh Tam nè. Bài thơ mà anh làm tặng chị Bolobala hay thiệt đó.

Lời khen khơi khơi của thằng oắt lập tức gây ra đủ kiểu phản ứng khác nhau: Trong khi tụi Êmê tay chân rụng rời, Nguyên và Kăply nghiến răng ken két thì đôi chân Bolobala càng nhích ra xa hơn. Còn bộ mặt của Tam rõ ràng đang bắt đầu chuyển từ xanh qua trắng.

- Anh tập làm thơ suốt sáu năm nay chỉ để viết cho được bài thơ đó hả anh Tam? – Nguyên và Kăply chưa kịp véo tai K’Tub, thằng oắt lại níu lấy tay Tam líu lo hỏi tiếp.

Lần này thì Tam không thể không trả lời, nhất là thằng K’Tub đang bám cứng lấy nó. Tam gỡ tay thằng oắt, nhăn nhó:

- Ai bảo em là anh tập làm thơ suốt sáu năm nay?

K’Tub dài môi ra:

- Ai chẳng biết ngay từ khi bước chân vô lớp Sơ cấp 1, anh đã mắc cái tật lầm bầm trong miệng rồi. Vì vậy mọi người mới nghĩ anh là quái nhân chớ. Hì, té ra là anh tập làm thơ.

- Bài thơ mà anh làm tặng chị Bolobala hay thiệt đó.

- Đúng đó Tam. – Nguyên đột ngột xen lời, khi Tam đã chịu mở miệng, nó cảm thấy nên quay sang ủng hộ K’Tub – Tại mày không nhớ đó thôi. Lúc nhìn thấy hai pho tượng đá ở thung lũng Plei Mo, mày đã bị kích động đến ngất đi. Trước khi ngất, tụi tao đều nghe rõ mày lẩm nhẩm mấy câu thơ gì đó, hình như là “Nhắm mắt, nhắm mắt. Quay đầu, quay đầu”…

Kăply hí hửng tiếp lời Nguyên:

- Rồi hôm mày đi với bác Bolorađam vô CỬA HIỆU THẤT TÌNH nữa. Hôm đó trên đường về, thằng Suku nghe rõ mày đọc bài thơ gì lạ lắm. Cái gì mà “Xà lách, áo quần. Độn thổ, chiến đấu”…

- Trời ơi! Tất cả những thứ đó đâu phải là thơ. – Tam đỏ mặt kêu lên – Chẳng qua…

Đang nói, đột nhiên Tam nhìn sững Kăply như thể thằng này vừa mọc ra thêm một cái tai:

- Ủa, làm sao tụi mày biết tao và bác Bolorađam vô CỬA HIỆU THẤT TÌNH? Còn thằng Suku nữa, làm sao nó…

- Tam ơi là Tam! – Kăply giơ hai tay lên trời – Bộ mày tưởng đến giờ này tụi tao vẫn nghĩ mày là một buyagan sao. Tụi tao biết tỏng mọi chuyện từ lâu rồi. Hôm mày hẹn với bác Bolorađam ở CỬA HIỆU THẤT TÌNH, tụi tao ở ngay phòng bên cạnh chứ đâu. Sau đó, thằng Suku mặc áo tàng hình bám theo mày…

Như trúng phải gió độc, miệng thằng Tam đột ngột méo xệch qua một bên.

- Đừng trố mắt lên như thế. – Nguyên đập tay lên vai Tam – Hôm đó Bolobala bị mất tích. Tụi tao buộc phải tìm hiểu…

K’Tub lại chộp lấy tay Tam:

- Anh đừng có lảng đi như vậy chớ. Anh nói em nghe đi, anh Tam. Cái vụ anh làm thơ đó…

Tam cúi nhìn K’Tub, chớp chớp mắt, cảm thấy khó mà làm ngơ với thằng oắt dai như đ ỉ a này được:

- K’Tub nè.

- Dạ. – K’Tub ngoan ngoãn, biết là mình sắp được nghe một câu chuyện hay ho.

- Nhà anh ấy mà.

- Dạ.

Giọng Tam trở nên xa xăm:

- Nhà anh từ ông cố anh trở xuống hình như ai cũng mắc cái tật đãng trí. Ông cố anh và ông nội anh đều suýt mất mạng dưới tay các phù thủy Hắc Ám chỉ vì quên những câu thần chú quan trọng vào phút chót. Ngay cả ba anh cũng vậy. – Chỗ này tụi bạn đều nghe rõ giọng Tam như nghẹn lại – Chắc chắn là ba anh đã quên áp dụng những biện pháp cần thiết nên mới bị con basilic làm cho hóa đá.

- Ờ. – K’Tub bật ra một tiếng gì như tiếng “hic”, nó đang hồi hộp nhớ đến khu vườn tượng ở thung lũng Plei Mo.

- Từ khi được bác Bolorađam cho biết sự thật về vụ mất tích của ba anh, đêm nào anh cũng nằm mơ thấy con basilic. Anh thấy anh gặp nó, nhưng rồi cũng như ba anh, lần nào anh cũng quên mất những điều cần làm. Anh cứ nhìn vào mắt nó. Nó đã biến anh thành tượng đá hàng trăm lần trong giấc mơ, em biết không K’Tub?

Tam hỏi cho có hỏi. Không đợi thằng oắt trả lời, nó nói tiếp bằng giọng buồn buồn, đã nghe ra chiều tâm sự:

- Anh sợ lắm, K’Tub à. Anh lo một ngày nào đó anh cũng sẽ bị hóa đá như ba anh. Anh buộc phải nghĩ cách rèn luyện trí óc. Anh cố sắp xếp những điều cần nhớ thành những câu vần vèo và lẩm nhẩm suốt ngày cho khỏi quên.

- Em hiều rồi, anh Tam. – K’Tub hớn hở reo lên – Khi gặp con basilic phải “nhắm mắt nhắm mắt, quay đầu quay đầu”.

- “Nếu muốn sống lâu, quay đầu nhắm mắt”. – Ở bên cạnh, Kan Tô lầm bầm bổ sung.

- Nhưng còn “Xà lách, áo quần. Độn thổ, chiến đấu. Nước ngọt ba chai. Nhớ đừng hậu đậu”? – K’Tub lại lay lay Tam, có vẻ như nếu chưa thỏa mãn nó sẽ dứt khoát không buông tay thằng này ra – Những câu thơ này là dùng để đối phó với… với…

- Với thầy Haifai và với mẹ anh, K’Tub à. – Tam mỉm cười nhìn thằng oắt, sắc hồng đã dần dần trở lại trên gương mặt xanh xao của nó – Hôm đó có các tiết học Độn thổ và Thần chú chiến đấu, anh phải nhớ để ôn bài. Anh còn phải đi mua các thứ linh tinh như nước ngọt, xà lách rồi chiều về nhà lôi quần áo ra giặt giúp mẹ anh…

K’Tub không nén được phấn khích. Nó buông tay Tam ra để nhảy vòng quanh thằng này, hét toáng:

- Hay quá! Hay thiệt là hay! Và thế là anh trở thành nhà thơ hả anh Tam?

Păng Ting bước lại gần và cầm lấy tay Tam, ngay chỗ K’Tub vừa buông ra, giọng cảm động:

- Anh Tam, không ngờ anh vất vả quá…

Thái độ của Păng Ting khiến những đứa đứng quanh bất chợt lặng người đi, một cảm xúc gì đó thật khó tả dâng lên lăn tăn trong lòng. Nắng trên đầu chợt dịu đi và trong một thoáng cả bọn dường như nghe thấy trong không khí thoang thoảng mùi hoa cải hương – ngọt ngào và vô cùng dễ chịu.

Trong khi cả bọn đang bị nỗi xúc động nhấn chìm và cái khoảnh khắc êm đềm đó không biết sẽ kéo dài đến bao lâu, bất thần một tiếng quát vang lên khiến đứa nào đứa nấy giật bắn:

- Tam! Bạn có buông tay Păng Ting ra không?

Bọn Kăply ngoảnh lại, thấy Bolobala đang nhìn về phía Tam và Păng Ting, mặt mày sừng sộ.

Nó vẫn đứng bên vệ đường, nhưng lúc này đã rất giống một con mèo nổi khùng nên không thể bảo là không nguy hiểm.

Păng Ting vội buông tay Tam ra, hấp tấp quay lưng về phía Bolobala, cố giấu một nụ cười tủm tỉm.

Và không chỉ Păng Ting, sáu đứa còn lại cũng cuống quít quay lưng về phía Bolobala, rập ràng y như lính tập: Không đứa nào dám tin là mình sẽ không phá ra cười trước vẻ mặt sắp giết người của Bolobala.

Chỉ có Tam là không dám quay mặt đi, mặc dù nó thấy nó oan quá. Păng Ting cầm tay nó chứ nó đâu có cầm tay Păng Ting.

Tam trân trân nhìn Bolobala, bồi hồi, ngượng nghịu, mặt ngẩn ra, ngạc nhiên thấy mình đang ước gì ngày nào cũng bị oan ức vài lần như vậy. Vì bị oan mà không hiểu sao Tam lại thấy người lâng lâng như sắp sửa bay tuốt lên mây.

Chương 11

HẺM GIEO SỰ CHẾT

Ngày hôm sau, Tam vẫn chưa dứt ra khỏi cảm giác hân hoan bay bổng. Mặt nó như tráng một lớp men hồng. Vừa giáp mặt Nguyên và Kăply ở cửa lớp, nó toét miệng ra cười – điều chưa từng có trước đây. Tụi bạn xúm lại trêu nó về chuyện bài thơ, nó cũng nhe răng cười khì khì, chả buồn lấy cặp sách che mặt nữa. Đến nỗi ngay cả những đứa khoái chọc ghẹo như thằng Lung, thằng Hailibato cũng dần dần đâm chán.

Sự thay đổi của Tam chưa dừng lại ở đó. Trước ánh mắt sửng sốt của cả lớp, nó bất thần làm chuyện động trời khi giành là đứa đầu tiên giơ tay khi thầy Haifai yêu cầu hai học trò lên thực hành cặp thần chú chiến đấu số 9 và số 9 rưỡi, và Tam đã làm tốt đến mức thằng Y Đê đóng chung với nó rụng sạch cả hai hàm răng rồi mọc lại mà không cảm thấy đau đớn chút xíu nào.

- Phải như thế chứ! – Thầy Haifai phấn khích dộng tay vô bảng “rầm, rầm” – Các trò hãy nhìn vô trò Tam! Nhìn như nhìn một tấm gương sáng chói!

Thầy quay cái trán dồ sang Tam, đầu giần giật vì xúc động:

- Tam, trò xứng đáng được 20 điểm nhưng tiếc là thang điểm cao nhất ở trường Đămri chỉ có 10. Để trò không bị thiệt thòi, ta tuyên bố ta cho trò hai điểm 10 về bài tập hoàn hảo vừa rồi.

Có vẻ thằng Amara rất muốn tru tréo lên nhưng nó chỉ cựa quậy người mấy cái rồi ngồi im. Kăply nhìn mái tóc xù đang gục xuống của thằng này, đoán là nó chưa hết ê chề về sự sụt giảm uy tín lẫn số lượng của tờ báo ruột Tin Nhanh N, S & D trong hai ngày nay. Tờ báo của Ama Đliê không ra phụ trương như Lang Biang hằng ngày nhưng tờ báo chính thức phát hành buổi trưa vẫn có mặt và cái tin tên “mông tặc” bị bắt được đưa một cách vắn tắt, thậm chí hờ hững, hoàn toàn trái ngược với những nhận định hùng hồn trước đó.

Rõ ràng tất cả những dự báo trên tờ Tin Nhanh N, S & D về sự thất sủng của hiệu trưởng trường Đămri đều sụp đổ thê thảm. Thầy N’Trang Long không những không sa vào vòng lao lý mà theo lời bình luận trên tờ Lang Biang hằng ngày, thầy được coi như người có công lớn nhất trong việc tìm ra và bắt giữ thủ phạm.

Ngược lại với vẻ ủ dột của Amara, con nhỏ Bolobala tỏ ra rất ư là khoái chí trong buổi sáng hôm đó. Nó đón nhận sự thay đổi lớn lao của Tam lẫn hai điểm 10 chói lọi của thằng này với vẻ mặt tươi hơn hớn như thể nó biết thừa chính nó là nguồn cảm hứng của sự kiện lịch sử này.

Kăply nhìn sang chỗ Bolobala ngồi, bất giác trong lòng nhớ đến Mua. Nó sờ tay lên má, mân mê như cố tìm xem chỗ hôm qua bím tóc của Mua đã quệt phải là chỗ nào.

Kăply ngồi ngẩn ngơ như vậy một hồi lâu, lắng nghe cảm giác dịu dàng xâm chiếm nó từng phút một, cho đến khi thầy Haifai một lần nữa dộng tay “kình, kình” lên bảng:

- Các trò giở tập ra. Bữa nay chúng ta học Thần chú chiến đấu số 10: Thần chú Siết cổ!

Thần chú số 10 không đi kèm với thần chú ƠNĐU như thần chú số 9 nên sau khi từng cặp một được kêu lên bảng thực tập, khắp lớp nổi lên những tiếng ho sù sụ như trong một trại bài lao. Và khi tiếng chuông tan học vang lên, bọn học trò lớp Cao cấp 2 chen nhau ùa ra với những chiếc cổ đỏ rần, ngó thiệt là kinh dị.

Mua đợi Kăply và Nguyên ngay trước cửa lớp, không để ý đến những vết hằn trên cổ hai đứa này, chỉ nói:

- K’Brăk và K’Brêt, ba tôi vừa cho biết người thuê ba tôi quảng cáo những dòng chữ đó là một phụ nữ.

Kăply không rời mắt khỏi hai bím tóc của nhỏ bạn, thờ ơ nói, bụng đang nghĩ cách làm sao rủ Mua đi chơi:

- Ba bạn đâu có nhìn thấy người đó.

- Ba tôi có thể phân biệt được qua giọng nói.

Kăply nhún vai, chỉ mong đề tài này qua phứt cho rồi:

- Nhưng hắn là nam hay nữ thì có gì quan trọng?

- Rất quan trọng, K’Brêt – Nguyên nghiêm giọng – Nếu là nữ, người đó có lẽ là hữu hộ pháp Balikem.

Câu nói của Nguyên khiên Kăply thốt rùng mình. Như người thình lình bị đá rớt trúng đầu, nó dáo dác nhìn quanh:

- Ý mày muốn nói Balikem đang lảng vảng đâu đây?

- Qua lời kể của Eakar thì ả đã đến đây lâu rồi. – Nguyên đáp và dứt một sợi tóc.

Mua lo lắng:

- Theo mình thì hai bạn…

- Mua đừng lo. – Nguyên thả sợi tóc vào trong gió, khụt khịt mũi – Tôi nghĩ Balikem đến đây không phải để gây hấn với tôi và K’Brêt. Nhiệm vụ của Balikem có lẽ là giám sát lâu đài K’Rahlan và dọn đường cho trùm Bastu quay lại.

- Giám sát lâu đài K’Rahlan? – Mua tròn mắt – Thế sao bạn…

Một lần nữa Nguyên ngắt lời nhỏ bạn:

- Cái mà Balikem quan tâm không phải là tôi và K’Brêt mà là báu vật gì đó đang được cất giấu trong lâu đài.

- Báu vật gì vậy há? – Mua chớp mắt, nhớ đến lần đụng độ trùm Bastu và tả hộ pháp Balibia trong khu rừng hôm nọ. Bữa đó, trùm Hắc Ám đã tìm mọi cách dò hỏi Nguyên về chuyện này nhưng rõ ràng chính Nguyên và Kăply cũng không biết đó là báu vật gì.

Păng Ting và K’Tub kéo tới khiến dòng suy nghĩ trong đầu Mua bị đứt ngang và chỉ nối lại khi cả bọn rảo bước trên đại lộ Brabun. Dĩ nhiên Mua luôn tin vào sự suy đoán của Nguyên nhưng ngay cả như vậy, nó vẫn cảm thấy lòng hồi hộp không yên. Nếu Balikem quanh quẩn ở lâu đài K’Rahlan, không ai có thể quả quyết là Nguyên và Kăply không gặp nguy hiểm. Với năng lượng pháp thuật hiện nay, Nguyên và Kăply có thể không ngán hữu hộ pháp của trùm Bastu, nhưng điều đáng lo nằm ở bông hoa đỏ trên mái tóc của Balikem. Nếu lơ đễnh nhìn vào bông hoa đó, Nguyên và Kăply rất có thể sẽ rơi vào tình trạng của thám tử Eakar.

Trong khi Mua đang vất vả cố dìm nỗi lo bằng cách nghĩ đến những hạt táo hộ mạng mà Nguyên và Kăply luôn đem theo người thì ở bên cạnh thằng K’Tub cứ thoải mái bô bô:

- Anh Tam nè. Anh thích chị Bolobala thì hổng có gì kỳ lạ, em chỉ ngạc nhiên là tại sao anh lại gửi đăng bài thơ đó trên tờ Tin Nhanh N, S & D. Anh cũng biết tờ báo của Ama Đliê là tờ lá cải số một ở cái xứ này mà.

- Ờ…

Câu chất vấn của thằng oắt khiến Tam đỏ bừng mặt. Nó chỉ ú ớ được một tiếng rồi im bặt, đến bây giờ nó mới đau khổ nhận ra sai lầm của việc đi quá gần thằng nhóc nhiều chuyện này.

- K’Tub! Tờ Lang Biang hằng ngày không có trang thơ. – Nguyên vọt miệng trả lời thay Tam, hy vọng sẽ giúp bộ mặt của thằng này bớt giống mặt trời mới mọc một chút.

Bolobala bữa nay không còn tìm cách chứng tỏ một mình nó có thể chiếm cả một lề đường như hôm qua nhưng không vì vậy mà nó có thể thản nhiên khi thằng K’Tub xí xọn cứ nhắc hoài đến chuyện bài thơ.

Bolobala bước lại gần K’Tub, tươi cười:

- Chị cũng có làm thơ nữa đó, K’Tub.

- Hay quá, chị Bolobala. – Thằng oắt hớn hở – Cũng thơ tình hả chị?

- Không phải thơ tình.

- Không phải thơ tình cũng được. Chị đọc em nghe đi!

- Đây là thơ bạo lực. Thế này nè:

Vì an toàn của bạn

Bạn câm quách cho rồi

Nếu tôi không véo bạn

Tôi không còn là tôi.

Vừa nói, Bolobala vừa chộp lấy vành tai K’Tub, xoắn một cái thiệt mạnh khiến thằng oắt thét lên be be trong khi những đứa khác, kể cả Tam, ôm bụng cười ngặt nghẽo.

oOo

Cũng như hôm qua, trưa nay ông K’Tul giống như người mới ốm dậy. Ông ngồi lừ lừ ở đầu bàn, tờ báo lòe loẹt của Ama Đliê vẫn chặn dưới cùi tay nhưng hai hôm nay ông không buồn làm cái động tác ưa thích là phóng tờ báo bay vèo vèo ngang mặt bàn nữa. Ông phát ốm vì tờ Tin Nhanh N, S & D một lần nữa thất bại thê thảm trong việc chống lại hiệu trưởng N’Trang Long, phần khác tờ báo của Kan Blao đột nhiên xuất hiện trong nhà khiến ông như bị đánh thuốc độc. Ông không có lý do gì để phản đối bà Êmô đặt mua tờ Lang Biang hằng ngày và điều đó càng khiến ông muốn chết quách cho rồi.

Lạ một điều là bọn Kăply nhận ra tụi nó chẳng sung sướng gì trước vẻ ủ dột của ông K’Tul. Tụi nó chỉ khoái mỗi chuyện là không phải vểnh tai nghe ông quảng cáo không công cho Ama Đliê và luôn miệng chửi tụi nó ngu.

Nhưng ông K’Tul mà không gân cổ lên chửi tụi nó ngu thì không còn là ông K’Tul nữa. Ngay cả thằng K’Tub cũng chẳng muốn trêu chọc ba nó khi mà ông không khiêu khích trước.

Tóm lại, bữa ăn diễn ra trong bầu không khí hòa bình đáng kinh ngạc và vào cuối bữa ăn rõ ràng bà Êmô đã nhìn tụi nhóc bằng ánh mắt biết ơn thầm kín.

Suku đâm bổ vào phòng khi Nguyên và Kăply vừa mới lim dim trên tấm nệm lông chim.

- Anh K’Brăk! Anh K’Brêt!

Thằng nhóc gọi giật khiến Nguyên và Kăply gần như bắn người lên khỏi giường.

Trước khi hai ông anh kịp càu nhàu, Suku đã hớt hải tiếp:

- Tấm thẻ hội viên đâu rồi?

- Có chuyện gì vậy, Suku? – Nguyên trố mắt nhìn thằng oắt.

Suku trả lời bằng một câu hỏi:

- Anh biết hôm nay là thứ mấy không?

- Thứ năm.

- Ngày mai là ngày hoạt động của TIỆM NHỮNG DẤU HỎI. – Suku nói luôn – Vì vậy rất có thể hôm nay tấm thẻ sẽ có chuyển biến.

Nguyên “a” lên một tiếng rồi vù lại đằng bàn, lôi ngăn kéo đánh “rột”, hấp tấp moi chiếc thẻ màu bạc ra đưa lên mắt săm soi. Ở phía sau, Kăply và Suku cũng chạy lại, châu đầu nín thở dòm.

Ở mặt trước tấm thẻ không có gì khác lạ: vẫn là ba dấu hỏi to tướng màu đen và hàng chữ nhỏ “Hãy đổi trí thông minh để lấy những đồng vàng” nằm ngay phía dưới.

Nguyên lật tấm thẻ lại và suýt chút nữa nó đã rú lên. Đúng như Suku phỏng đoán, mặt sau của tấm thẻ trước đây trống trơn, bây giờ đột nhiên hiện ra dòng chữ đỏ như son:

HÒN ĐÁ TẢNG

Kăply thoi vô lưng Suku một cú thật lực:

- Mày giỏi thiệt đó, Suku!

- Nhưng Hòn Đá Tảng nghĩa là gì hở em? – Chờ cho ngực áo bớt phập phồng, Nguyên nheo mắt nhìn Suku, bồn chồn hỏi, bụng thấp thỏm chỉ sợ thằng oắt lắc đầu.

Nhưng điều Nguyên lo ngại đã không xảy ra. Suku vui vẻ đáp, với cái vẻ tự tin của người đã nuốt cả đống sách vô bụng:

- Đây là một địa danh, anh K’Brăk. Em chưa tới đó bao giờ nhưng em biết chỗ này. Hòn Đá Tảng nằm ở cuối hẻm Gieo Sự Chết.

- Hẻm Gieo Sự Chết? – Kăply rên lên.

- Cái tên này không có gì đáng sợ hết, anh K’Brêt… – Suku phì cười, ánh mắt long lanh cho thấy nó đang thích thú một cách trắng trợn trước sự chết nhát của ông anh – Sở dĩ có cái tên này do hồi trước ở đây có lò mổ thịt của lão Daoto. Hẻm này cắt ngang đường Ma Ya, song song với hẻm Râu Ngô.

Trái với Kăply, Nguyên không quan tâm đến cái tên hẻm, dù thiệt sự cái tên này cũng rất đáng quan tâm. Chẳng qua nó thấy có điều cần lo nghĩ hơn. Lúc này Nguyên đang ngần ngừ nhìn Suku, băn khoăn không biết có nên rủ thằng oắt cùng đi đến TIỆM NHỮNG DẤU HỎI hay không. Nếu Suku đến đó, thể nào nó cũng nhìn thấy ông K’Tul, Nguyên thầm nghĩ. Thông minh như Suku, chắc nó chẳng khó khăn gì để đoán ra hành vi mờ ám của ông này.

Trong một lúc, Nguyên cắn môi, không biết là mình cắn môi, dứt tóc, không biết là mình dứt tóc. Xoay chuyển ý nghĩ một hồi, nó thở hắt ra:

- Chiều mai em đi với tụi anh đến đó nha, Suku.

Nguyên quyết định rồi. Trừ gốc gác của tụi nó, nó sẽ không giấu Suku bất cứ chuyện gì, kể cả nhiệm vụ bí mật của ông K’Tul và bà Êmô. Đằng nào thì Suku cũng biết nó và Kăply là hai chiến binh giữ đền, đang gánh trên vai sứ mạng trọng đại liên quan đến sự an nguy của xứ Lang Biang, chắc chắn thằng oắt sẽ không từ chối nếu các chiến binh giữ đền kêu gọi sự giúp đỡ.

- Rủ Mua đi nữa chớ? – Kăply nhắc.

- Đi càng ít người càng tốt, K’Brêt.

Lời từ chối thẳng thừng của Nguyên khiến quai hàm Kăply trễ xuống:

- Nhưng lần trước Mua đã từng đến đó…

Nguyên lạnh lùng:

- Tụi mình đi làm nhiệm vụ chứ không phải đi chơi.

Đôi mắt Suku mở to:

- Anh nói gì thế, anh K’Brăk? Em nghĩ đây chỉ là chuyện thỏa mãn óc tò mò…

- Mọi việc không đơn giản như em nghĩ đâu, Suku. – Nguyên đặt tay lên vai thằng oắt, mặt thốt nhiên se lại – Theo như những gì tụi anh biết, tiệm Những Dấu Hỏi hiện nay là nơi rất nguy hiểm. Nếu chẳng may cậu K’Tul phát hiện tụi mình có mặt ở đó…

- Cậu K’Tul? – Mặt ngẩn ra, Suku bất giác đưa tay vén những lọn tóc lòa xòa trước trán, như thể đang cố vén một bức màn bí mật – Cậu K’Tul thì dính dáng gì ở đây, anh K’Brăk?

- Suku nè, em phải bình tĩnh nghe anh nói đây. – Nguyên liếm môi khô rang, loay hoay không biết nên mở đầu câu chuyện từ chỗ nào để thằng oắt không bị sốc.

- Anh nói đi, anh K’Brăk. – Suku hồi hộp đáp, cảm thấy những gì Nguyên sắp tiết lộ vô cùng nghiêm trọng.

- Cái hôm đầu tiên tụi mình gặp Tam phù thủy Bạch kỳ lân ở thung lũng phía sau lâu đài K’Rahlan, em có nhớ không? – Nguyên tìm cách nói lòng vòng, mắt chăm chăm dán chặt vô gương mặt sáng sủa của Suku.

- Em nhớ.

- Hôm đó chính là ngày báo tử thứ ba trong thời hạn ba mươi ngày của Baltalon, em có nhớ không?

Nguyên lại hỏi vu vơ. Và Suku lại bâng khuâng đáp:

- Em nhớ.

- Ờ, cái hôm đó, đúng cái hôm đó… anh và anh K’Brêt đã vào nhà kho…

Nguyên quyết định bắt đầu câu chuyện từ buổi chiều nó và Kăply tình cờ nghe được cuộc đối thoại quan trọng giữa ông K’Tul và bà Êmô trong nhà kho của lâu đài K’Rahlan. Cuộc đối thoại đó ám ảnh nó mạnh mẽ đến mức bây giờ thuật lại, nó nhớ không sót một chi tiết nhỏ. Nguyên từ từ kể hết, trơn tru và trôi chảy, chỉ giấu Suku về những chiếc ghế ngựa vằn – lý do thực sự khiến nó và Kăply rủ nhau chui vào nhà kho trong buổi chiều thót tim đó.

Mặt Suku nghệt ra theo từng lời kể của Nguyên. Chốc chốc nó lại bật ra tiếng xuýt xoa:

- Chậc, không ngờ cậu K’Tul là người của giáo phái Madagui.

- Ối dào. Hóa ra cậu K’Tul và dì Êmô đến giúp việc cho lâu đài K’Rahlan là có mục đích riêng.

Khi Nguyên thuật đến những gì Kăply và Mua chứng kiến trong TIỆM NHỮNG DẤU HỎI thì thằng oắt bật ra tiếng la hoảng:

- Không được, anh K’Brăk. Nếu đúng như vậy thì ngày mai chúng ta không nên mò đến chỗ lão Luclac.

- Em nói gì thế, Suku? – Nguyên sửng sốt thấy thằng oắt đột nhiên lộ vẻ lo lắng.

- Bất cứ ai đến đó cũng được, trừ anh và anh K’Brêt. – Suku đong đưa đôi mắt sáng, giọng kích động – Chắc anh cũng đoán ra hai câu thơ tưởng như bâng quơ của cậu K’Tul chính là những chỉ dẫn để đi đến chỗ cất giấu báu vật. Và em nghĩ cậu cũng biết thừa sứ mạng quan trọng nhất của chiến binh giữ đền hiện nay là tìm cho bằng được báu vật đó.

- Cậu K’Tul chưa biết tụi anh là những chiến binh giữ đền. – Nguyên tặc lưỡi.

- Có thể cậu đã biết rồi đó, anh K’Brăi. – Suku chớp mắt – Anh đừng quên chúng ta đã gặp tổng quản giáo phái Madagui trên đường đi đến núi Lưng Chừng. Chưa kể họa sĩ Yan Dran cũng là người của lâu đài Sêrêpôk…

- Nhưng nếu không đến chỗ lão Luclac, làm sao chúng ta biết câu đố đã được giải chưa và đáp án của nó là gì? – Nguyên nhíu mày, giọng phân vân – Em cũng biết rồi mà, Suku. Đó chính là đầu mối duy nhất để truy tìm báu vật…

- Anh và anh K’Brêt cứ ở nhà. – Suku hùng hồn – Chiều mai em và K’Tub sẽ đến đó dò la tình hình.

- Không thể để K’Tub biết chuyện này được, Suku. – Nguyên nghiêm mặt – Cả Êmê nữa, Êmê cũng không nên biết.

- Ờ há. Em quên mất. – Suku lại hất những lọn tóc đang thi nhau rủ xuống trán – Thôi, được rồi. Em sẽ rủ…

Suku gõ những ngón tay lên trán, đã bắt đầu trông giống thầy N’Trang Long lúc suy tư.

- Rủ Păng Ting đi. – Nguyên gợi ý.

- Rủ Mua nữa. – Kăply không bỏ lỡ cơ hội lặp lại đề nghị khi nãy, vừa nói nó vừa liếc thằng bạn đại ca của mình bằng ánh mắt đến đá cũng phải mềm.

Nguyên không buồn nhìn Kăply nhưng lời nó dặn dò Suku khiến Kăply cảm thấy như vừa nốc một ngụm bia Sayđimi:

- Nếu em đi cùng Mua và Păng Ting, em phải nói cho hai bạn đó biết những gì anh vừa tiết lộ và nhớ dặn các bạn phải giữ kín mọi chuyện nha Suku.

- Em biết mà.

Suku kêu lên, mặt nhăn nhó như thể Nguyên vừa xúc phạm nó ghê gớm.

oOo

Hẻm Gieo Sự Chết chỉ là một con hẻm nhỏ, nhỏ hơn hẻm Râu Ngô nhiều. Hẻm nhỏ quá, chẳng ai thèm cất nhà quanh đó nên khung cảnh trông vắng vẻ, hoang tàn. Hai bên hẻm mọc dày một thứ cây cao vút, thân trơn láng, lá hình tam giác, to như chiếc ô. Hẻm nhỏ mà lá to dày nên ba đứa Suku, Păng Ting và Mua có cảm tưởng như đang đi luồn trong rừng, không khí lạnh buốt mặc dù trời vừa qua khỏi giấc trưa. Có lẽ nhờ đặc điểm này mà lão Luclac quyết định cho TIỆM NHỮNG DẤU HỎI xuất hiện ở đây nhằm tránh tai mắt của Cục an ninh.

Hẻm sâu, hoặc tụi Suku nghĩ là sâu, vì ba đứa đi cả buổi vẫn chưa tới Hòn Đá Tảng. Mua không phải là đứa yếu bóng vía nhưng khung cảnh tịch mịch, ám tối khiến tâm trạng nó bỗng nhiên bị cột chặt vào nỗi lo lắng. Mua không rõ là mình lo lắng chuyện gì nhưng càng đi thần kinh nó càng căng như sợi tơ và bất cứ tiếng sột soạt nào cũng làm nó rên lên.

Ngay cả Suku cũng bị sự sợ hãi xát vào người. Nó cố làm cho tiếng nói bật ra khỏi đôi môi, như cái cách người ta cho nổ một phát súng để đánh tan sự nghi ngại đang đóng thành cục trong tâm trí:

- Nè!

Nó hắng giọng, cố tỏ ra thản nhiên:

- Hồi trước lò mổ của lão Daoto tọa lạc ở đây, sao bây giờ hổng thấy dấu vết gì hết á?

Mua trả lời bằng cách rên thêm một tiếng nữa, lúc này hai chữ “lò mổ” đối với nó chẳng phải là từ êm ái lắm.

Păng Ting cựa quậy mái tóc kiểu cọ, khìn khịt mũi:

- Đúng là hổng thấy lò mổ của lão Daoto đâu nhưng tiệm Những Dấu Hỏi đã ở kia rồi.

Câu nói của Păng Ting lập tức xoay cái nhìn của Suku và Mua ra phía trước.

Quả nhiên, cách đó không xa, một hòn đá to như một tòa nhà đang nằm chình ình ngay giữa lối đi. Cây cối hai bên hẻm chấm dứt ngay tại chỗ này nên hòn đá sáng bừng lên như được một chiếc đèn pin khổng lồ từ trên cao chiếu xuống.

Cạnh hòn đá là một ngôi nhà trông cũ kỹ, tường vách lở lói lam nham và phủ đầy rêu, giống như một ngôi nhà hoang. Suku căng mắt cố tìm xem tấm biển TIỆM NHỮNG DẤU HỎI treo ở đâu nhưng nó chẳng nhìn thấy tấm biển mà hôm nọ Kăply và Mua từng nhìn thấy.

- Không có tấm biển… – Đúng lúc đó, nó nghe Mua thì thào.

- Nhưng chắc chắn đây là tiệm Những Dấu Hỏi, chị Mua. – Suku thì thào đáp trả – Có lẽ gần đây cửa tiệm phi pháp này bị đám phù thủy của Cục an ninh truy lùng dữ quá, lão Luclac đã dẹp tấm biển đi rồi. Theo em nghĩ…

Nhưng Mua và Păng Ting không có cơ hội để biết Suku nghĩ gì. Đang nói nửa chừng, thằng oắt thình lình chui tọt vào bụi rậm, như thể thấy ma.

Mua và Păng Ting hoàn toàn bất ngờ trước hành động kỳ quặc của Suku. Mua ngoác miệng tính kêu lên nhưng quai hàm của nó lập tức cứng đơ: ngay trước mặt nó và Păng Ting, xế cửa TIỆM NHỮNG DẤU HỎI, không biết tự lúc nào có một bóng người đang lù lù đứng đó, bất động và câm nín.

Nhìn vóc người nhỏ thó như một đứa trẻ của hắn, nhất là đôi mắt đỏ khè như mắt thú đang rọi về phía mình, Mua điếng hồn nhận ra người đang đứng đó là Buriăk, sứ giả thứ năm của trùm Hắc Ám.

- Hắn… hắn…

Mua nhìn Păng Ting, lắp bắp, không thể nào nói hết câu, có vẻ như tiếng nói của nó bất thần bị sự khiếp đảm lột khỏi đôi môi.

- Bình tĩnh đi, chị Mua.

Păng Ting khẽ lên tiếng, mắt vẫn nhìn trừng trừng về phía trước.

Nó cố tỏ ra không sợ hãi, nhưng rõ ràng cơ thể nó đang chống lại nó bằng những cơn run. Đôi chân Păng Ting lúc này bị chôn chặt xuống đất, và cùng với Mua cả hai chết đứng tại chỗ như trúng phải bùa Bất di bất dịch.

- Suku bỏ chạy rồi hả, Păng Ting?

Păng Ting nghe tiếng Mua rên rỉ bên tai nhưng không trả lời.

Mua lại thều thào:

- Ôi, hẻm Gieo Sự Chết…

- Mày nói đúng đó, nhóc! – Buriak cười rờn rợn, vừa nói hắn vừa lừ đừ tiến về phía hai cô bé – Tụi bay chuẩn bị trăn trối đi là vừa.

Păng Ting kêu lên:

- Buriăk! Ngươi định làm gì thế?

- Ta đang tự hỏi tụi bay định dò la gì ở chốn khỉ ho cò gáy này. – Giọng Buriăk khô khốc, ánh mắt hắn rọi chằm chằm lên mặt Păng Ting và Mua khiến hai đứa cảm thấy gò má bỏng rát như bị hai chiếc dùi nung đỏ xuyên vào.

Păng Ting hừ mũi:

- Bọn ta đi dạo.

- Bộ tụi bay hết chỗ để đi dạo rồi hả? – Buriăk nhếch mép, hai cục than trong mắt hắn đưa qua đưa lại, vẻ dò xét. Đột nhiên hắn hỏi thẳng – Tụi bay định mò đến chỗ lão Luclac phải không?

- Bọn ta không biết Luclac là ai hết. – Păng Ting nói dối, cố nặn ra một vẻ mặt ngơ ngác – Lão là ai vậy?

- Ta nghĩ tụi bay không những biết lão Luclac là ai mà còn biết rõ chuyện gì đang xảy ra trong cửa tiệm của lão. – Buriăk lạnh lẽo đáp. Hắn từ từ giơ tay lên, lần này Mua và Păng Ting nghe rõ hắn rít qua kẽ răng – Tụi bay dại dột chõ mũi vào chuyện này tức là tụi bay hết muốn sống rồi đó.

Păng Ting hét giật:

- Ngươi không được làm càn à nha. Ngươi đừng quên ta là…

Nhưng Păng Ting chưa kịp đem bà ra hù dọa, chiếc bóng máu màu đỏ đã xuất hiện lơ lửng trên đầu Buriăk, chờn vờn như muốn chụp xuống.

- Đánh đi, Mua!

Păng Ting quính quíu hô, và từ bàn tay nó chiếc đinh ma thuật lập tức vút ra, bắn thẳng vào Buriăk. Ở bên cạnh, Mua cũng tung đại ra câu thần chú Té xuống và dĩ nhiên không hề tin đối thủ sẽ té xuống.

Buriăk cười khanh khách và hạ bàn tay xuống hứng trọn đòn đánh của hai cô bé. Và y như bản sao của cuộc đụng độ tại lâu đài K’Rahlan hôm truớc, Mua ngã lăn ra đất bởi chính câu thần chú của mình còn chiếc đinh ma thuật của Păng Ting sau khi chạm vào bàn tay máu liền quay đầu lại lao thẳng vào cô bé với một tốc độ kinh người, nhanh gấp bội so với khi nó được phóng đi. Chỉ khác là lần này, Păng Ting không bị bó tay bó chân bởi thần chú Trói gô nên cuối cùng nó đã có thể tóm được chiếc đinh phản chủ, mặc dù có thể thấy rõ nó phải vất vả như thế nào: nó cầm chiếc đinh trên tay mà mồ hôi tuôn như mưa trên đầu trên cổ.

- Tụi bay giỏi lắm. Giờ đến phiên ta!

Buriăk gầm gừ trong cổ họng, mắt lóe lên và cùng với câu nói bàn tay máu lại từ từ bay lên, trong nháy mắt phình to ra gấp đôi, đã bắt đầu giống một đám mây màu đỏ, trông thiệt là đe dọa.

Mua chìa vẻ mặt xám xanh vào mắt Păng Ting, định nói một câu gì đó (với vẻ mặt tang tóc của nó thì rất có thể đó là câu “vĩnh biệt cuộc đời”) nhưng một tiếng “bịch” thình lình dộng vô tai khiến nó hấp tấp quay lại dòm.

Y như người chết đuối vớ được cọc, mặt Mua lập tức tươi lên khi nhìn thấy con cóc khổng lồ đỏ như hổ phách đang ngồi chồm chỗm ngay trước mặt, đầu ngóc về phía bàn tay máu của Buriăk, tư thế sẵn sàng chống chọi.

- Tứ bất tử!

Buriăk ré lên, cáu kỉnh và lo lắng.

Như để đáp lại Buriăk, hàng loạt những tiếng lộp bộp liên tiếp vang lên. Bên cạnh con cóc đỏ, bây giờ có thêm con nhện xanh, con bọ ngựa vàng, con dế trắng, con nào con nấy to cồ cộ. Đặc biệt lần này có thêm con chuột đỏ hồng, to như một con mèo.

Buriăk nhìn năm con vật, giọng nghi hoặc:

- Ngươi không phải là Tứ bất tử.

- Ta là anh của Tứ bất tử. Ta là Ngũ bất tử. – Từ đâu đó giữa lùm cây rậm bay ra một giọng khàn khàn.

- Ta chưa bao giờ nghe nói Tứ bất tử có anh.

- Kiến thức hạn hẹp như ngươi thì biết cái con khỉ gì.

Giọng nói bí mật thình lình quát lên, giận dữ:

- Ngươi chưa chịu cút đi mà còn đứng đó lằng nhằng hả?

Bàn tay máu trên không rung rung cho thấy Buriăk vô cùng lưỡng lự. Hắn vẫn nghi người đứng trong bóng tối là Tứ bất tử. Từ ngày được Balibia dạy cách tu luyện bàn tay máu, Buriăk đã không còn ngán tổng quản lâu đài Sêrêpôk. Nhưng nếu lão luyện thêm một con vật nữa thì có thể ta không chơi lại lão! Ờ, nếu không tự tin có thể thắng được ta thì lão không dại gì nhúng mũi vào chuyện bữa nay. Buriăk đắn đo nghĩ, mắt vẫn dán chặt vào năm con vật đang oai vệ dàn hàng ngang trước mặt.

Trong khi Buriăk đang phân vân chưa biết tính thế nào thì con chuột bỗng ngã lăn ra. Buriăk giật mình bước tới một bước, mắt căng ra, dò xét. Bây giờ thì hắn, và cả Mua lẫn Păng Ting, đều ngạc nhiên nhận ra con chuột này đã trụi hết lông, da dẻ đỏ hồng như vừa văng ra từ thùng nước sôi và căn cứ vào thế nằm chổng cẳng lên trời thì con chuột này rõ ràng đã chết từ lâu.

- Khặc… khặc… khặc… – Buriăk sặc ra cười – Ngươi chưa trở thành Ngũ bất tử được đâu. Tưởng sao, không ngờ người đem chuột chết ra hù ta. Khặc… khặc… khặc…

Buriăk sầm mặt, bàn tay máu trên không ung dung hạ xuống. Trong một thoáng, Mua và Păng Ting cảm thấy không khí chung quanh như đặc lại, ngực tức như bị đá đè, chỉ mong bốn con vật của Tứ bất tử kịp thời phun sương để giảm bớt sức ép nhưng bốn con vật không những không chịu phun sương mà còn bất ngờ té lăn ra trước tiên.

- Há… há… há… – Buriăk lại buông một tràng cười lạnh – Bước ra đây đi! Ngươi không phải là Tứ bất tử!

Một tiếng “soạt” vang lên, Suku từ bụi rậm phóng ra, hai tay vung cuống quít, giọng hớt ha hớt hải:

- Không xong rồi! Tất cả cùng hợp sức đánh ra một đòn đi!

Nhưng dĩ nhiên là ngay cả Suku cũng không thể làm theo lời kêu gọi của mình. Vừa lọt vào vùng ảnh hưởng của bàn tay máu, cả người nó tức khắc bị kẹp chặt giữa một gọng kềm vô hình, tay chân, cả quai hàm nữa, cũng không sao nhúc nhích được.

Buriăk nhếch mép, lạnh lùng hạ bàn tay máu xuống thấp hơn. Đầu váng mắt hoa, bọn trẻ đã bắt đầu nghe thái dương kêu lục bục như sắp sửa nổ tung. Tiếng của Buriăk vọng vào tai tụi nó như từ một nơi rất xa:

- Đây là hậu quả của những ai tò mò đến báu vật ở lâu đài K’Rahlan. Ta hy vọng kiếp sau tụi bay phải biết khôn hơn một chút.

Đúng vào lúc tưởng như cái tên Gieo Sự Chết đã vô tình ứng nghiệm với số phận bi đát của tụi Suku thì từ hai bên con hẻm hai luồng gió bất thần bay ra đánh thốc vào bàn tay máu.

Một tiếng nổ đì đoàng vang lên như sấm và kéo dài trong vài phút. Trong vài phút đó, cây cối hai bên ngã rạp như có bão, cành cây răng rắc, lá rụng tơi bời. Suku, Păng ting và Mua lăn lông lốc trên đường. Buriăk lăn còn xa hơn, như một trái cầu bằng rơm, bàn tay máu tắt phụt. Và khi những tiếng âm ỉ chấm dứt, không ai còn thấy bóng dáng hắn đâu nữa.

Suku, Mua và Păng Ting lóp ngóp bò dậy, đang tự hỏi ai vừa ra tay đánh đuổi Buriăk đã nghe tiếng của Nguyên vọng ra từ sau hàng cây dày:

- Xin lỗi nhé. Tôi và K’Brêt tới trễ một bước.

Nguyên vừa nói vừa vẹt cành lá bước ra. Từ mé bên kia, Kăply cũng nôn nao đâm bổ về phía Mua:

- Bạn có sao không, Mua?

- Không. – Mua nhìn Kăply trìu mến, tim vẫn còn đập thình thịch trong ngực – Nếu hai bạn không tới kịp thì…

Mua bỏ lửng câu nói, sự khiếp hãi vẫn còn chẹn ngang miệng nó.

Suku lúc lắc món tóc trước trán, giọng xúc động:

- Em đã dặn hai anh đừng đi kia mà.

- Ờ, – Nguyên gật đầu – nhưng không hiểu sao anh cứ thấy lo lo. Thế là anh và anh K’Brêt quyết định bí mật bám theo.

Păng Ting nhìn Nguyên, mái tóc kiểu cọ của nó lúc này trông xơ xác như mớ cỏ khô:

- Hai anh tới đây từ lúc nào vậy?

Nguyên mỉm cười:

- Từ lúc con chuột của Ngũ bất tử ngã lăn ra.

Păng Ting nhìn Suku qua khóe mắt, môi bĩu ra:

- Em hay thiệt đó, Suku. Hừ, Ngũ bất tử!

Suku nhăn nhó:

- Buriăk đâu có ngán Tứ bất tử. Em định thêm con chuột vào để dọa hắn, nhưng không hiểu sao lần nào em cũng chỉ biến ra được chuột chết…

Kăply cười khì khì:

- Khỏi quảng cáo! Tao nhớ suốt đời cơn mưa chuột chết của mày mà, Suku.

Chương 12

TRỞ LẠI TIỆM NHỮNG DẤU HỎI

Sau khi bàn bạc, cả bọn quyết định Nguyên và Kăply ở lại bên ngoài. Suku, Păng Ting và Mua vẫn tiếp tục kế hoạch do thám cửa tiệm của lão Luclac.

Mua vẫn chưa hết hồi hộp khi nhớ đến sự cố vừa xảy ra:

- Buriăk có sẽ quay lại không, K’Brăk?

- Không đâu, chị Mua. – Suku vọt miệng – Cùng lúc lãnh đủ đòn đánh của cả anh K’Brăk lẫn anh K’Brêt, Buriăk phải dưỡng thương ít nhất là mười ngày.

Nguyên gật gù:

- Nếu không bị thương nặng hắn cũng không dám quay lại đâu. Đơn giản là vì hắn không biết người vừa tập kích hắn là ai.

Trừ Kăply, Mua là đứa duy nhất trong bọn nó từng đặt chân vào TIỆM NHỮNG DẤU HỎI. Nó vượt lên trước Suku và Păng Ting (sau khi Nguyên và Suku quả quyết Buriăk sẽ chuồn luôn, Mua cảm thấy sự can đảm đã quay lại với mình).

Cửa tiệm của lão Luclac vẫn không có gì khác trước. Vẫn là ngôi nhà cũ kỹ và vắng hoe, cửa mở toang, trong nhà trống huếch trống hoác như vừa bị cướp dọn sạch. Mua dẫn đầu, Suku và Păng Ting đi sát phía sau, cả ba bước lên những bậc thềm, rón rén đi xuyên qua căn phòng trống để đến mảnh sân lát đá phía sau. Một hành lang dài và âm u tiếp liền theo khoảng sân, gió thổi vo vo như trong thung sâu.

Mua đặt chân lên hành lang, lòng bất giác lo âu. Trước đây, khi lần đầu tiên lạc vào TIỆM NHỮNG DẤU HỎI cùng với Kăply, Mua không bắt gặp cảm giác này. Hôm đó, chính nó phải làm mọi cách để thằng Kăply chết nhát không bỏ về nửa chừng. Nhưng lần này, Mua ý thức rất rõ sự mạo hiểm của chuyến đi. Bây giờ tụi nó có mặt ở đây không vì tình cờ, cũng không vì tò mò nữa. Tụi nó rõ ràng đang tìm cách khám phá một bí mật liên quan đến vận mệnh của xứ Lang Biang, bí mật đó hẳn là vô cùng trọng đại, nếu không trùm Bastu đã không ra lệnh cho Buriăk làm một cái chuyện liều lĩnh là hạ sát bất cứ ai khả nghi đang lảng vảng quanh cửa tiệm của lão Luclac. Hình ảnh bàn tay máu của Buriăk lại hiện ra lởn vởn trong đầu khiến Mua thấy ruột mình như đang đổ đầy chì.

Ba đứa lặng lẽ lê bước bên nhau, cố lết qua hết cái hành lang ma quái rồi hồi hộp leo lên những bậc thang lạnh ngắt để lại tiếp tục nuốt hết một cái hành lang khác ma quái không kém trước khi đối diện với chiếc mặt nạ biết nói gắn trên cánh cửa màu lông chuột.

Păng Ting nhẹ thở ra:

- Tới rồi hả, chị Mua?

- Tới rồi. – Mua đáp khẽ và quay sang Suku – Bây giờ là tới phần việc của em.

Thằng oắt không nói gì nhưng ánh mắt long lanh đầy tự tin.

- Hãy trả lời đi! Cái gì cao hơn bầu trời? – Chiếc mặt nạ trên cửa cất giọng trầm trầm.

Đã được Kăply và Mua cho biết trước, Suku và Păng Ting vẫn giật người một cái khi chiếc mặt nạ vằn vện mấp máy môi cất tiếng hỏi.

Cả Mua lẫn Păng Ting ghim mắt vào gương mặt sáng sủa của Suku, nín thở chờ đợi. Vẻ căng thẳng trên mặt hai đứa dãn ra được một chút khi thằng oắt thản nhiên đáp, gần như không cần suy nghĩ:

- Cái trán của chính mình.

Chiếc mặt nạ trên cửa cất giọng trầm trầm.

Và đến khi cánh cửa trước mặt xịch mở thì Mua và Păng Ting mới thực sự thở phào, một lần nữa tin rằng thằng nhóc trước mặt quả xứng danh là Suku biết tuốt.

Bọn trẻ hí hửng kéo nhau vào, nhưng không dám len ra phía trước. Cả bọn đứng tuốt phía sau, kiễng chân dòm. Trong khi Mua nhớn nhác đảo mắt tìm xem ông K’Tul đang ở đâu, Suku và Păng Ting tò mò quan sát chung quanh, ngạc nhiên hết sức khi thấy khung cảnh náo nhiệt bên trong hoàn toàn trái ngược với vẻ tĩnh mịch bên ngoài. Các dãy ghế chật ních người, thậm chí chỗ đứng cũng phải xô lấn mới giành được, tiếng bàn tán ồn ào như một cái chợ và khói thuốc lá mù mịt chạy quanh phòng khiến Păng Ting phải dúi mặt vào tay áo để khỏi bật ra những tiếng ho không đúng lúc.

Lúc này trên chiếc bục cao, lão Luclac vẫn với chiếc áo chẽn láng bóng bên ngoài chiếc áo chùng sặc sỡ, liên tục ngúc ngoắc chiếc nón chóp trên đầu với bộ tịch hoạt kê không thể tả, những ngón tay bật vào nhau tanh tách làm xẹt lửa tùm lum, hào hứng giới thiệu:

- Bây giờ xin mời bà Kibo.

Suku từng đến cửa tiệm BAY LÊN NÀO của mụ Kibo, rốt cuộc không thuê được chiếc chổi bay nào, còn bị con mụ chanh chua này làm cho ứa gan. Bây giờ, vừa nghe tên mụ, nó cố len cái đầu nhỏ thó vào giữa hai cái vai to bè phía trước, mắt láo liên xẹt tứ tung.

Rất nhanh, nó nhận ra mụ Kibo ngồi ở sát bức vách bên trái, dãy thứ hai. Vẫn tròng trên người chiếc áo dơ hầy, ngang ngửa với chiếc áo bẩn kinh hồn của Buriăk, mụ đứng bật lên khỏi chỗ khi được gọi tên, nhanh nhẹn như một thiếu nữ.

Mụ thoăn thoắt leo lên bục, tới cạnh lão Luclac, rồi quay bộ mặt như quả dưa héo ra bốn phía, mụ dộng chiếc chổi bay Wind XP mới cáu xuống sàn nhà làm phát ra những tiếng lịch kịch để gây chú ý. Suku cười thầm, biết chắc mụ tới đây bằng phép độn thổ – mụ cố tình xách theo cây chổi xịn nhất trong cửa tiệm chẳng qua để tranh thủ quảng cáo trước đám đông.

- Trước tiên ta muốn hỏi các nhà thông thái ngồi đây, là không biết trong các vị có ai hành nghề y hay không? – Mụ Kibo nhe hàm răng vàng khè, cất giọng chua lét hỏi như gây sự.

- Bà Kibo ơi, bà có thắc mắc hay tâm sự gì cứ nói đại ra đi. – Một lão phù thủy mặt mày gồ ghề ngồi ở hàng ghế trên cùng la lớn, tay quơ qua quơ lại chiếc tẩu thuốc dài sọc trên tay. Lão nói tiếp bằng giọng đã có vẻ bực mình – Đã vào được cái cửa tiệm này rồi, ai cũng là thần y hết á.

Cả đống tiếng nhao nhao phụ họa:

- Đúng rồi đó. Bà nói lẹ lên đi, bà Kibo.

- Bà già lẩm cẩm ơi, bà không nói ra thì ai mà biết bà muốn gì.

Đôi mắt mụ Kibo lóe lên khi nghe hai chữ “lẩm cẩm” nhưng rồi mụ lập tức cụp mắt xuống, rõ ràng là mụ cố giữ cho mình đừng nổi điên.

- Như thế này này, – mụ hít vô một hơi thiệt sâu để lấy bình tĩnh, chậm rãi nói tiếp – ta rất thích uống nước dâu pha đường…

Giọng lếu láo khi nãy lại chen ngang:

- Bà già ơi, đó là chuyện riêng của bà. Tôi thích uống bia Concop mà tôi có khoe nhặng xị ra đâu.

Như không nghe thấy tên phá bĩnh, mụ Kibo vẫn tiếp tục kể lể:

- Mỗi tuần ta uống nước dâu pha đường ít nhất hai lần.

- Và bà muốn bọn ta chỉ cho bà cách pha chế như thế nào để uống xong có thể trẻ lại hai mươi tuổi phải không? – Vẫn giọng khi nãy.

- Ta không cần tuổi trẻ, nhất là thứ tuổi trẻ ngu ngốc và hỗn láo như ngươi. – Mụ Kibo rít lên, đã nhận ra cái giọng phá đám nãy giờ là của một gã thanh niên – Ta chỉ muốn vị nào trả lời giùm ta là nước dâu pha đường có chứa độc tố gì mà hôm nào uống xong một cốc thì ngày hôm sau con mắt ta lại đau?

Mụ dộng cây Wind XP xuống sàn một cái “kình”, cất cao giọng:

- Theo thông lệ, 20.000 năpken cho kẻ nào giúp ta gỡ được bối rối trong lòng…

Nói xong, mụ Kibo bước lại chỗ chiếc ghế đặt cạnh đó, ung dung ngồi xuống.

Giọng gã thanh niên lúc nãy lầm bầm:

- Có 20.000 năpken mà cũng làm tàng.

Trong khi đám phù thủy trong phòng xôn xao ngoảnh tới ngoảnh lui, bàn cãi ỏm tỏi và cửa tiệm của lão Luclac đã bắt đầu trông giống một cái trại vịt, Păng Ting níu tay Suku, hỏi nhỏ:

- Nước dâu pha đường chứa độc tố gì vậy hả nhóc?

- Hổng có độc tố gì hết á. – Suku lắc đầu

- Thế sao con mắt mụ Kibo lại đau?

- Ai mà biết. – Thằng oắt nhún vai, giọng bực bội vì bất lực.

Mua vẫn nhớn nhác quét mắt quanh phòng, không để tâm lắm đến thắc mắc của mụ Kibo. Từ khi bước vào phòng đến giờ, nó luôn lưu tâm tìm xem pháp sư K’Tul đang lẫn vào đâu giữa cả đống người nhưng vẫn không phát hiện ra. Mua lo ngay ngáy, đôi khi nó có cảm giác ông nấp ở một chỗ nào đó và đang kín đáo quan sát tụi nó và ý nghĩ đó khiến nó muốn khuỵu chân xuống.

Lão phù thủy mặt mày nổi cục ngồi ở hàng ghế đầu bất thần lên tiếng:

- Có lẽ phải chúc mừng bà thôi, bà Kibo. Xem tình hình bữa nay, chắc là bà không phải tốn 20.000 năpken rồi.

- Ông nói sao? – Mụ Kibo kêu lên, thất vọng. Vừa nói mụ vừa bật lên khỏi ghế.

Lão già quơ qua quơ lại chiếc tẩu thuốc trên tay, có vẻ đó là thói quen ưa thích của lão:

- Cho đến lúc này mà hổng có ai lên tiếng trả lời có nghĩa là bà nên đi xuống chớ sao.

- Phải rồi. Xuống đi, bà già. – Gã thanh niên lúc nãy hùa theo – Ra giá có 20.000 năpken mà đứng lâu quá.

Lần này, chán nản vì không giải tỏa được thắc mắc lâu nay, mụ Kibo không buồn làm ra vẻ mình là người giỏi kiềm chế nữa. Mụ dộng ình ình cây Wind XP xuống bục khiến lão Luclac đứng bên xanh mặt ngó đăm đăm xuống chỗ mụ đứng, cứ sợ chiếc bục sập xuống thình lình. Vừa dộng mụ vừa chửi toáng:

- Hừ, tưởng sao! Toàn là thứ ăn hại. Dù chỉ là 20.000 năpken nhưng cũng không tới lượt bọn đần độn các ngươi đâu.

- Bà bình tĩnh đi, bà Kibo. – Lão Luclac xua tay rối rít, chiếc nón chóp lệch hẳn sang một bên – Bà để ta còn làm ăn chứ. Bà nghe ta đi, lần tới bà lại đến đây. Biết đâu lúc đó sẽ có người nghĩ ra giúp bà.

- Bảo ta trở lại cái cửa tiệm nhăng nhít này nữa ư, ông Luclac? Ông không nằm mơ đó chớ? – Bà Kibo dài môi ra như muốn đớp cho lão chủ tiệm một phát – Ông nghe đây: ta sẽ tự giải quyết chuyện của mình. Hừ, khó quái gì. Ta chỉ cần không thèm uống nước dâu pha đường nữa là xong.

Xả một tràng cho đã nư, mụ Kibo ngúng nguẩy đi xuống, chiếc chổi bay kẹp trong nách quăng quật theo từng bước chân khiến lão Luclac phải dạt tuốt ra ngoài xa.

Nhưng mụ chưa bước tới ngoài rìa, một giọng eo éo cất lên từ dãy ghế bên phải:

- Khoan đã, bà Kibo.

Như va phải tường, mụ Kibo khựng lại, mắt nheo nheo nhìn xuống chỗ phát ra tiếng nói:

- Ai thế? Phải bà Homhem không?

- Tôi đây. – Bà homhem lập cập đứng lên, tay nắm cứng chiếc gậy đầu khỉ, Mua thấy bà hổng mập lên chút xíu nào so với lần gặp trước đây.

- Tôi muốn hỏi bà… è… – Bà Homhem khò khè như muôn thuở – Là mỗi khi uống cốc nước dâu pha đường… è… bà có nhớ lấy chiếc muỗng ra khỏi cốc không… è… è…

Trong khi đám phù thủy ngồi bên dưới ngớ ra, không hiểu bà Homhem đi hỏi cái chuyện vớ vẩn đó làm gì thì ở trên bục, mụ Kibo hớn hở ré lên, tay khua tít chiếc chổi bay lúc này đã rút ra khỏi nách:

- Tuyệt quá, bà Homhem. Bà đã phát hiện đúng chóc vấn đề rồi đó. Đúng rồi. Đúng là do chiếc muỗng. – Mụ Kibo càng nói càng phấn khích – Ta đã quên lấy chiếc muỗng ra khỏi cốc. Và nó chọc vào con mắt tội nghiệp của ta.

Tràng liến thoắng của mụ Kibo khiến ai nấy dở khóc dở cười. Thông minh đến như Suku cũng nghệt mặt ra, không ngờ nguyên nhân bệnh đau mắt của mụ Kibo lại đơn giản và lãng òm như thế.

Lão Luclac xem ra còn hạnh phúc gấp mười lần mụ Kibo. Lão búng tay tróc tróc làm lửa xẹt thành vòi, mặt tươi roi rói:

- Thấy chưa, bà Kibo. Cửa tiệm Những Dấu Hỏi luôn luôn là địa chỉ uy tín và đáng tin cậy với bất cứ ai gặp phải vướng mắc trong cuộc sống.

Sửa lại chiếc nón chóp cho ngay ngắn, lão quay xuống khán phòng, ngực ưỡn ra phía trước, giọng trịnh trọng:

- Tôi chính thức tuyên bố bà Homhem đã trúng giải của bà Kibo.

- Bà chị Homhem thân yêu ơi. – Mụ Kibo chưa chịu leo xuống khỏi bục, vẫn nhìn về phía bà Homhem, hỏi giọng cảm kích – Bà chị có thể cho mụ già lẩm cẩm này biết làm sao mà bà chị có thể đoán ra nguyên nhân là ở chiếc muỗng không?

Mụ Kibo vui vẻ đến mức dùng luôn hai chữ “lẩm cẩm” mà mụ rất ghét để nói về mình.

- Đơn giản thôi, bà Kibo. – Bà Homhem rung rung chiếc gậy – Chẳng qua tôi cũng từng bị đau mắt như bà. Bà không biết đó thôi, chứ nước dâu pha đường cũng là thứ mà tôi thích nhất…

Giọng gã thanh niên lại vang lên, nôn nóng:

- Đủ rồi, hai bà cô ơi. Hai bà cô muốn tâm sự thì lát nữa dắt nhau đến tiệm Cái Cốc Vàng tha hồ mà cà kê dê ngỗng. Bây giờ nhường chỗ cho người khác giùm chút đi.

Đám phù thủy bên dưới ủng hộ gã thanh niên bằng cách gõ lên ghế ngồi bằng đủ thứ vật dụng trong tay làm phát ra hàng tràng những tiếng lách cách, leng keng, lộc cộc khiến bọn Suku phải đưa tay lên bịt chặt lấy hai tai.

Ở trên bục, tiếng lão Luclac vang lên sang sảng như phát ra từ một chiếc loa công suất cực lớn, có thể thấy gân cổ lão nổi vằn vì cố sức:

- Bây giờ tôi xin phép giới thiệu nhân vật được chờ đợi nhất…

Lão Luclac vừa nói vừa nghiêng đầu một cách điệu đàng, trông bộ tịch của lão có cảm tưởng một ngôi sao ca nhạc sắp bước ra sân khấu. Và cảm giác đó càng có vẻ chính xác khi bên dưới bắt đầu vang lên những tiếng huýt sáo đầy kích động.

- Đây! – Trên nền âm thanh huyên náo đó, lão Luclac hét muốn lạc giọng, tay vung mạnh về phía trái – Vị khách đặc biệt của cửa tiệm chúng tôi: Ngài K’Tul!

Bọn Suku cố căng mắt nhưng vẫn không nhận ra ông K’Tul bước ra từ dãy ghế nào. Lão Luclac vừa nói xong, đã thấy ông K’Tul đứng ngay trên bục, cứ như thể ông hiện ra từ trong không khí.

Tim đập thình thịch, Suku nói khẽ vào tai hai bạn:

- Cậu K’Tul độn thổ.

Păng Ting và Mua cố nghiêng đầu về phía Suku nhưng không nghe được gì. Câu nói của thằng oắt vừa thoát ra khỏi đôi môi đã bị nhấn chìm bởi những tràng vỗ tay dội lên rào rào khi ông K’Tul xuất hiện. Tiếng hú hét dậy lên như sóng, lan ra khắp khán phòng, càn quét hết mọi âm thanh khác.

Và cũng rất giống phong cách một ngôi sao ca nhạc, ông K’Tul giơ tay lên như để đáp lại sự ái mộ của khán giả. Nhưng bọn Suku thấy ông không cười. Giấu mình vào một chỗ thiếu sáng nhất trên sân khấu, ánh mắt sắc lạnh của ông quét quanh một vòng như để thâu tóm hết mọi gương mặt, dĩ nhiên chỗ này bọn Suku phải hụp người xuống để giấu mình đằng sau những tấm lưng đang án ngữ phía trước mặc dù tụi nó không nghĩ ông K’Tul có thể nhìn thấy tụi nó ở một khoảng cách xa như vậy.

- Nói thiệt với các vị là tôi rất thất vọng. – Ông K’Tul bắt đầu bằng một câu trách móc, bộ ria con kiến cựa quậy dữ dội như muốn bò ra khỏi gương mặt ông – Tôi tin là các bộ óc thông thái nhất của xứ Lang Biang đều tập trung hết tại đây. Thế mà bí mật của câu thơ “Ai vui ta sẽ vui cùng, ai buồn ta sẽ buồn chung với người” cho đến hôm nay vẫn chưa có ai giải được.

Ông nhìn rất nhanh lão Luclac đang đứng xun xoe bên cạnh rồi quay phắt xuống dưới, tay giơ cao lên khỏi đầu, cao giọng:

- Hôm nay tôi tuyên bố tăng giải thưởng lên 200.000 năpken. Các vị nên…

Nhưng ông K’Tul không bao giờ có thể nói hết câu nói của mình. Một cơn bão âm thanh đã tràn ngập khán phòng, lần này kèm theo những tiếng dậm chân thình thịch, vài viên đá lát sàn đã bung ra và đám phù thủy giống như đột ngột rơi thẳng vào cơn điên. Ở trên sân khấu, lão Luclac rụng người xuống bục và có vẻ không thể đứng dậy được nữa.

Bọn Suku cũng ngồi thụp luôn xuống nền nhà, một lần nữa đưa tay bịt tai, và bắt đầu hiểu ra tại sao mọi người muốn tống khứ mụ Kibo xuống khỏi bục càng nhanh càng tốt. Hóa ra tất cả bọn họ đều nóng lòng chờ ông K’Tul, nói chính xác là chờ món tiền thưởng khổng lồ của ông, mặc dù cho đến nay món tiền hấp dẫn đó vẫn lơ lửng trên không, chưa chịu rơi trúng đầu một ai trong số họ.

- Ông K’Tul – Tiếng một người nào đó gào lên, giọng méo đi vì xúc động quá mức – Đó là người chồng. Chỉ có người chồng mới vui buồn cùng vợ như thế thôi. Ông thấy đáp án của tôi hoàn toàn hợp lý chớ hả?

- Hợp lý cái con khỉ! – Ông K’ul chưa kịp đáp, một mụ phù thủy đã cất giọng rủa xả – Ai thì tôi không biết, chứ như lão chồng chết tiệt nhà tôi, tôi chỉ mong quỷ vật lão nhăn răng cho rồi.

- Thế thì đó là người vợ. – Tiếng một người khác – Ô hô, đúng rồi, người vợ chính là người mà câu thơ muốn nhắc đến: Tôi vui vợ sẽ vui cùng, tôi buồn vợ sẽ…

- Câm cái mồm thối hoắc của ngươi lại đi. – Lại có người kịch liệt phản đối – Ta chắc ngươi vừa lọt lòng ra đã biết nịnh vợ rồi. Hừ, mụ vợ của ta ấy à… hu… hu… hu… mụ đã đi theo thằng cha hàng xóm mất rồi còn đâu… hu… hu…

Tiệm Những Dấu Hỏi trong nháy mắt đã biến thành một thế giới hỗn loạn không thể tả. Suku chưa bao giờ trông thấy một cảnh tượng quái đản như thế: tiếng cười đùa, tiếng cãi cọ, tiếng gào thét, tiếng than khóc va đập nhau, trộn lẫn vào nhau để cho ra một thứ gì đó không thể hiểu nổi, nói tóm lại thiệt là kinh hồn động phách.

Suku nắm chặt tay Mua và Păng Ting thay cho lời nói lúc này đã thành vô dụng, kéo tuột cả hai ra ngoài cửa.

- Suku… tới những 200.000 năpken…

Mua vừa mấp máy môi, đã thấy mình ở ngoài hành lang, sau lưng nó tiếng cánh cửa đóng sập và lời chào của chiếc mặt nạ biết nói niềm nở vang lên “Sẵn sàng đón chào quý khách trở lại”.

- Suku, như vậy có nghĩa là câu thơ của cậu K’Tul đến nay vẫn chưa có ai giải được? – Nguyên cất tiếng hỏi, khi cả bọn đang quay ngược trở ra đường Ma Ya.

- Đúng vậy, anh K’Brăk. – Thằng oắt hất lọn tóc đã sắp sửa đâm vào mắt, giọng chưa hết thảng thốt – Cho nên cậu K’Tul mới tăng giải thưởng lên tới 200.000 năpken để kích thích họ.

- Không thể tưởng tượng nổi! – Mua thì thầm, trông mặt thì hình như nó vẫn chưa thoát ra khỏi sự ám ảnh về số tiền thưởng quá lớn của ông K’Tul.

Kăply nhìn Suku:

- Ê, thế còn câu hỏi vô cửa? Tại sao “cái trán của chính mình” lại cao hơn bầu trời được hở Suku?

- Vì khi ngước lên, ta có thể trông thấy bầu trời, nhưng không thể nào trông thấy “cái trán của chính mình”. – Suku đáp, đơn giản.

Kăply nhìn thằng oắt thêm một lúc, vẻ thán phục in trên mặt, rồi ngạc nhiên hỏi:

- Em thông minh như vậy mà không biết được bí ẩn nằm trong câu thơ của cậu K’Tul sao?

Suku trầm ngâm một lúc rồi khẽ khàng đáp:

- Đây là câu đố mẹo, anh K’Brêt à. Chính chữ “ai” và chữ “ta” trong câu thơ đã khiến những nhà thông thái trong tiệm Những Dấu Hỏi đi chệch hướng. Tất cả bọn họ đều bị lừa.

- Là sao hả Suku? – Mua dán mắt vào thằng oắt, hồi hộp hỏi, nó vừa rơi ra khỏi nỗi ám ảnh tiền bạc để lại có vẻ bắt đầu rơi vào một nỗi phấp phỏng mới.

Suku thản nhiên:

- Em nghĩ chữ “ta” trong câu thơ chưa chắc là để chỉ người. Đó có thể là một con vật hay một đồ vật.

Thằng oắt nhún vai:

- Em chỉ có thể suy luận đến đó, chị Mua. Còn đấy là con vật nào hay đồ vật gì thì em chịu.

Kăply nghĩ thêm một hồi về câu nói của Suku, càng nghĩ càng chẳng thấy gì hết, chỉ thấy nhức đầu. Biết mình không thể thông minh hơn Suku hay thằng bạn đại ca của nó, Kăply liền lái câu chuyện sang hướng khác:

- Suku nè, em có thấy lạ không, khi sứ giả thứ năm của trùm Bastu không muốn ai mon men đến cửa tiệm của lão Luclac?

Nguyên cất giọng tư lự:

- Cửa tiệm của lão Luclac ngoài số hội viên có thẻ, còn đón thêm khách bên ngoài. Chính chiếc mặt nạ biết nói làm nhiệm vụ khảo sát trí thông minh của khách vãng lai. Do đó, Buriăk không thể giết hết khách của lão Luclac được. Có lẽ hắn chỉ trừ khử những kẻ nào khả nghi như bọn mình thôi.

- Nói như anh, trùm Bastu đã biết tỏng nhiệm vụ của cậu K’Tul từ lâu rồi? – Păng Ting ngọ nguậy cái gì đó giống như là mái tóc.

- Hắn đã biết, Păng Ting. – Nguyên thở dài – Hắn cũng biết rõ câu thơ của cậu K’Tul chính là chiếc chìa khóa mở ra cánh cửa bí mật trong vụ truy tìm báu vật ở lâu đài K’Rahlan.

Mua kêu lên:

- Nhưng Buriăk chỉ có thể ngăn chặn khách vãng lai, còn hội viên thường trực của lão Luclac, những phù thủy đến thẳng cửa tiệm bằng phép độn thổ thì hắn làm gì được họ?

Nguyên tặc lưỡi, suýt chút nữa đã đưa tay dứt tóc.

- Tôi nghĩ trùm Bastu đã có trong tay danh sách hội viên của tiệm Những Dấu Hỏi từ lâu rồi. Chắc chắn hắn đã cài thuộc hạ của hắn vào trong đó, đã điều tra từng người và hội viên nào tỏ ra quan tâm đến báu vật ở lâu đài K’Rahlan có lẽ bây giờ đã không một ai còn sống sót.

Nguyên khịt mũi nói thêm:

- Mua đừng quên hữu hộ pháp Balikem và sứ giả Buriăk hiện đang quanh quẩn ở vùng này.

Câu nói của Nguyên y như một ngọn roi quất ngang lưng bọn trẻ. Cả bọn giật nảy một cái, cố bước thật nhanh ra khỏi hẻm Gieo Sự Chết, hoàn toàn bản năng, quên rằng Nguyên và Kăply hiện nay thừa sức cầm cự ngang ngửa với Balikem và Buriăk nếu cả hai cùng xuất hiện.

Êmê và K’Tub chờ Nguyên và Kăply ngay trước cổng.

- Tụi anh đi đâu mà không rủ em và chị Êmê đi với? – K’Tub chộp lấy tay Kăply ngay khi thằng này vừa đặt chân qua cổng, hỏi giọng nôn nóng và giận dỗi.

Kăply toét miệng cười, đã chuẩn bị sẵn câu trả lời:

- Tụi anh lên trường gặp thầy hiệu trưởng.

- Thầy N’Trang Long hẹn tụi anh hả?

- Ừ.

K’Tub tròn mắt:

- Thầy gặp tụi anh làm gì thế?

Kăply nhún vai:

- Thầy bảo tụi anh phải cẩn thận. Balikem và Buriăk hiện nay đang lảng vảng quanh đây.

- Chỉ có vậy thôi hả, anh K’Brăk?

Êmê quay sang Nguyên, hỏi giọng ngờ vực. Nguyên nhìn cái mũi hếch xinh xắn của cô bé, tự nhiên liên tưởng đến cái máy dò sự thật, bụng bất giác thót lại:

- À không. Thầy còn hỏi tụi anh về vụ truy tìm báu vật.

- Lại báu vật? – Êmê nheo mắt – Thế anh vẫn nghĩ trong lâu đài K’Rahlan có báu vật thật ư?

- Chị Êmê. – K’Tub vọt miệng – Nếu thầy N’Trang Long đã quả quyết như vậy thì chúng ta nên tin là có.

Êmê lắc mái tóc vàng:

- Chị chưa từng nghe nói tới chuyện này, K’Tub.

- Êmê. – Nguyên cố lấy giọng điềm tĩnh – Nếu đây thực sự là bí mật quan trọng ở xứ Lang Biang trong vòng ba trăm năm qua thì không phải ai cũng từng nghe nói tới.

Bà Êmô từ trong nhà bước ra, kết thúc luôn câu chuyện giữa bọn trẻ:

- Sao tụi con kéo hết ra đây thế?

Chưa đứa nào kịp đáp, bà đã rối rít khoát tay:

- Vào nhà! Vào nhà hết! Hổng lẽ tụi con chưa biết Balikem và Buriăk đã xuất hiện ở vùng này?

Êmê ngạc nhiên, không nghĩ bà Êmô lại biết tin này.

- Ai nói thế hở mẹ?

Bà Êmô vung lên tờ phụ trương buổi chiều Lang Biang hằng ngày đang cầm trên tay, mặt mày căng thẳng:

- Trong này nè. Cục an ninh vừa ra thông báo lưu ý cư dân Lang Biang đề cao cảnh giác. Theo họ, có nhiều dấu hiệu cho thấy Balikem, hữu hộ pháp của trùm Hắc Ám, tái xuất hiện sau mười ba năm biệt tích. Và cùng với sứ giả Buriăk, hiện nay cả hai đang có mặt ở đây.

Theo như những gì bọn trẻ được biết từ miệng bà Êmô thì thông báo của Cục an ninh chỉ ngắn gọn có thế, nghĩa là hoàn toàn không đề cập gì đến chuyện thám tử Eakar sập bẫy Balikem. Chắc họ không muốn bị cười vào mũi! Bọn trẻ nghĩ thầm và ngoan ngoãn theo chân bà Êmô vào nhà, mặt mày đứa nào đứa nấy nom ngây thơ hiền lành hết sức.

Trong khi bọn nhóc lâu đài K’Rahlan khoái chí vì đã đánh lừa được bà Êmô thì bà Êmô cũng khoái chí không kém vì đã vờ vịt một cách xuất sắc, mặc dù không thể nói là bà đã làm chuyện đó một cách dễ dàng, đơn giản vì đó không phải là chuyện mà bà thường làm. Thiệt tình thì bà không tin những chiến binh giữ đền như Nguyên và Kăply lại không được Hội đồng tối cao Lang Biang thông báo về sự xuất hiện của hữu hộ pháp và sứ giả thứ năm của phe Hắc Ám – toàn những tay đầu sỏ.

Dĩ nhiên, nhìn vào năng lượng pháp thuật của Nguyên và Kăply hiện nay, bà Êmô vững tin hai đứa có thể đối phó được với Balikem và Buriăk, cũng như đủ khả năng bảo vệ Êmê và K’Tub trước mọi bất trắc, nhưng dẫu sao với tấm lòng của một người mẹ, bà vẫn luôn bắt gặp mình thấp thỏm không yên.

Cho nên khi quýnh quíu lùa bọn trẻ vào nhà, bà đã hoảng hốt thực sự. Nỗi lo lắng dâng lên từ đáy lòng đó đã giúp bà có một vẻ chân thành sâu sắc đến mức bọn Kăply không nghĩ là bà đã biết tỏng những hành vi bí mật của tụi nó, kể cả vẻ ngoan ngoãn láu cá mà tụi nó đang cố tình trương ra trên mặt như những tấm bảng quảng cáo diêm dúa mà từ lâu bà Êmô đã thấy không đáng tin chút xíu nào.

Chương 13

RÈM CỬA SỔ

Sáng hôm sau, trên đường đi đến trường, bọn Kăply lại bắt gặp bầu không khí chộn rộn tụi nó đã từng nhìn thấy trong những ngày tên “mông tặc” chưa bị tóm cổ. Thông báo của Cục an ninh về sự xuất hiện của hữu hộ pháp phe Hắc Ám lập tức quét lên mặt cư dân Lang Biang các gam màu lạnh ngắt. Mặc dầu xưa nay rất ít kẻ nhìn thấy Balikem nhưng cái tên khét tiếng này vẫn khiến tóc gáy nhiều người dựng đứng.

Cách đây không lâu, lúc ba thằng Tam và các nạn nhân của sứ giả Basil bất ngờ trở về từ thung lũng Pleimo, mọi người như chìm đắm trong một cơn phấn khích theo Êmê là chưa từng có. Mặc dù ấm ức vì không được tiết lộ nguyên nhân thoát nạn theo yêu cầu của bọn trẻ, bọn người hồi hương và thân nhân của họ vẫn không ngăn được đôi chân mình nhảy múa và những nụ cười toét miệng. Những cuộc vui chơi ca hát diễn ra thâu đêm suốt sáng như trong kỳ lễ hội. Tiệm Cái Cốc Vàng bia chảy như suối. Công viên Các Thứ Kẹo đầy ắp khách dạo chơi. Thậm chí tiệm cầm đồ của lão Lomcom cũng trở nên chật ních, gần như không còn chỗ chứa vì người ta cần tiền để mở tiệc liên hoan chiêu đãi bạn bè.

Nhưng niềm hân hoan chẳng kéo dài được lâu. Sự lộng hành của tên “mông tặc” đã nhanh chóng nhốt tất cả các đôi chân ở trong nhà ban đêm.

Thủ phạm vừa bị bắt, mọi người chưa kịp thở phào đã xám mặt khi nghe tin dữ về sự xuất hiện của Balikem và Buriăk. Không ít người liên hệ thông báo của Cục an ninh với dòng chữ xuất hiện trên đầu ông Pirama cách đây mấy ngày: “NGÀY TẬN THẾ SẮP ĐẾN – NGÀI SẮP QUAY LẠI – TẤT CẢ CHỈ LÀ BẮT ĐẦU” và không cần thông thái lắm người ta cũng cảm nhận được mối đe dọa vô hình đang bắt đầu phủ xuống cuộc sống của mọi cư dân xứ Lang Biang như một tấm chăn khổng lồ.

Bọn Kăply nhớ là mới hôm qua đây thôi, Cửa hiệu thất tình của lão Seradion khách còn vô ra nườm nượp, bữa nay vắng tanh như đột nhiên không ai thiết tha gì chuyện yêu đương nữa. Trong tiếng nhạc xập xình yếu ớt, ban nhạc củ cải của lão chỉ nhai lại những bài cũ, có lẽ lão cũng đang sốt vó nên chẳng còn tâm trí đâu để soạn ca khúc mới.

Ở trường, thầy Haifai một lần nữa lại nhảy cóc: đang từ thần chú chiến đấu số 10 thầy vọt thẳng qua thần chú chiến đấu số 18.

Nhưng trước khi dạy thần chú mới, thầy không quên ưu ái đứa học trò cưng:

- Tam, trò cho ta biết thần chú chiến đấu số 13 có tên là gì?

Tam bật dậy như lò xo:

- Thưa thầy, đó là thần chú Khăn quàng cổ ạ.

- Quá xuất sắc! Trò ngồi xuống đi! – Thầy Haifai hể hả – Ta nghĩ là trò hoàn toàn xứng đáng với điểm 10 đầu tiên trong ngày hôm nay.

Bên dưới, Amara và Y Đê đồng loạt cựa mình, nhưng chẳng đứa nào lên tiếng, chỉ gườm gườm nhìn thầy Haifai như thầm mong quỷ vật thầy cho rồi.

Thầy Haifai nhìn thẳng vào mặt Amara như muốn nói đố trò làm gì được ta, rồi đập đập hai tay vào nhau theo thói quen, thầy cao giọng:

- Hôm nay các trò sẽ được học thần chú chiến đấu số 18 – thần chú Rèm cửa sổ. Đây là loại thần chú tương tự thần chú Khăn quàng cổ mà siêu học sinh Tam vừa nhắc đến.

- Trò Tam trở thành siêu học sinh từ lúc nào vậy thầy? – Lần này thì Amara không nhịn được, nó nhếch mép khinh khỉnh hỏi, không thèm đứng lên – Con không nghĩ trường Đămri có chủ trương hễ đứa nào là quái nhân đều được phong siêu học sinh hết ráo.

- Đồ ngu! Trò Tam chưa bao giờ là quái nhân, hiểu chưa? – Thầy Haifai rít lên và những đứa ngồi bàn đầu hấp tấp né người qua một bên để tránh bị nước bọt văng trúng mặt.

- Chưa hiểu. – Amara ngang ngạnh đáp – Chỉ có thầy là người đầu tiên nói thế thôi.

Bọn trẻ thấy rõ chiếc đầu lưa thưa tóc của thầy Haifai lắc lư dữ dội, đôi mắt sâu hoắm và tối om om của thầy lóe lên thứ ánh sáng rờn rợn của kẻ sắp sửa giết người. Ngay cả Amara khi chạm phải thứ ánh sáng đó cũng thấy ớn lạnh toàn thân.

Nhưng thầy Haifai chưa kịp làm gì hoặc nói gì thì cô Haifai đã cướp mất diễn đàn:

- Amara, con không nên hỗn láo như thế. – Giọng nói eo éo của cô Haifai từ dịu dàng đột ngột chuyển sang khe khắt – Còn ông, tôi nghĩ là ông giận quá mất khôn rồi. Ông ráng làm nguội cái đầu của ông lại đi, để nhớ ra ông vừa nói bậy bạ gì thế.

Thầy Haifai thở hổn hển, ngực áo phồng lên xẹp xuống gấp gáp, vẫn còn rất giận, nhưng không vì thế mà thầy không hiểu ý nghĩa trong câu nói của vợ.

Thầy quay mặt đi chỗ khác (vì thầy biết nếu cứ nhìn hoài thằng Amara mất dạy, người thầy chỉ chực nổ tung) và thở khò khè thêm một hồi trước khi cố ép mình quay lại với bài giảng:

- Các trò cũng biết rồi đó, thần chú số 13 là thần chú bảo vệ cổ, có mục đích đối phó với sự tấn công của ma cà rồng. Còn thần chú số 18 là thần chú bảo vệ tâm linh. Đây là một trong những câu thần chú siêu hạng, phức tạp và khó vận dụng hơn nhiều so với thần chú số 13, do đó các trò phải hết sức tập trung. Phải hoàn toàn tập trung!

Thình lình thầy dộng tay lên bảng đánh “rầm” một tiếng khiến cả lớp giật bắn:

- Các trò nghe rõ chưa?

- Dạ rõ. – Cả đống cái miệng thi nhau rống thật lớn, biết là thầy vẫn còn quạu thằng Amara nên không đứa nào dám tỏ ra lề mề.

- Tại sao thần chú này có tên là Rèm cửa sổ hở thầy? – Tam vọt miệng hỏi, cũng chỉ có nó là đứa duy nhất dám cho phép mình thắc mắc trong lúc này.

- Hay lắm, Tam! Một câu hỏi xuất sắc! – Thầy Haifai lập tức tóm lấy câu hỏi của Tam như tóm lấy một cái túi nilông có thể giúp thầy xả bớt bực bội. Thầy nói tiếp bằng giọng khiêu khích – Nói chung, trò luôn luôn xuất sắc. Với câu hỏi cực kỳ thông minh đó, lần thứ hai trong đời ta quyết cho trò tới hai điểm 10 để xem có thằng ngu nào dám phản đối không.

Như nòng súng sẵn sàng khạc đạn, hai hốc mắt âm u của thầy quét một vòng khắp lớp, dừng hơi lâu chỗ thằng Amara và không giấu vẻ hả hê khi thấy mặt thằng này tái đi từng phút một.

- Các trò nghe đây. – Thầy Haifai lừ lừ quay cái trán dồ theo chiều ngược lại – Đôi mắt của chúng ta chính là cửa sổ của tâm linh. Con mắt bên phải tương ứng với mặt trời, nhìn vào thời gian. Con mắt bên trái tương ứng với mặt trăng, hướng về cái vĩnh hằng. Nhưng có điều cà chớn là đôi mắt của chúng ta cũng là cửa ngõ của lòng ước muốn và sự thèm khát nên rất dễ bị nghệ thuật hắc ám lợi dụng để lung lạc và sai khiến.

Khi nói tiếp, thầy nhe gần đủ ba mươi hai cái răng lởm chởm như để gây ấn tượng:

- Các phù thủy hắc ám siêu đẳng có thể dùng một bông hoa hay quả táo là đủ để biến các trò thành nô lệ cho chúng suốt đời.

Ở bên dưới, Nguyên thì thầm vào tai Kăply:

- Thầy muốn dạy tụi mình cách đối phó với Balikem đó.

- Tao biết rồi.

Kăply kiêu hãnh đáp và vểnh tai nghe thầy Haifai nói tiếp:

- Dĩ nhiên chúng ta có nhiều cách để chống lại. Chúng ta có thể luyện bùa trừ tà bằng sừng, sắt móng ngựa, muối, phèn chua hay khói thơm. Nhưng cách tốt nhất và hiệu quả nhất là luyện thần chú Rèm cửa sổ…

- Con hiểu rồi, thưa thầy. – Hailibato đột nhiên reo lên – Khi gặp loại nghệ thuật hắc ám có tính chất giống như thôi miên, câu thần chú số 18 sẽ giúp tụi con không bị mê hoặc. Cửa sổ tâm linh lúc đó được bảo vệ chặt chẽ nên thần chú này có tên là Rèm cửa sổ phải không thầy?

Không hề giận dữ vì bị Hailibato ngắt lời, thầy Haifai chọc ngón tay màu mè về phía nó, giọng sung sướng:

- Hà hà, lại thêm một đứa thông minh. Thế mà trước giờ ta cứ tưởng trò chỉ biết ăn cho mập thây thôi chớ.

Thầy lại nện tay vô bảng đánh “rầm”, gầm lên:

- Ta cho trò 10 điểm, Hailibato.

Một lần nữa, Amara và Y Đê lại cựa quậy dữ dội trong chỗ ngồi. Một thằng Tam được thầy ưu ái đủ khiến hai đứa nó bầm gan, bây giờ lại nảy ra thêm thằng Hailibato nữa, biểu tụi nó làm ra vẻ tỉnh queo sao được. Nhưng chưa hết khiếp vía trước cái nhìn đe dọa của thầy vừa rồi, thằng Amara chỉ dám bày tỏ sự bất bình bằng cách nhúc nhích vai và hông, cả lớp đều thấy nó đập mông bình bịch vào hai thành ghế như muốn làm cái ghế vỡ tan ra cho rồi. Ngồi sau một dãy, thằng Y Đê là một bản sao thu nhỏ của Amara, nhưng chính vì nó nhỏ con hơn sư phụ nó nên sau khi đập mông vào thành ghế một hồi, nó thấy đau quá nên lại ngồi im và len lén đưa tay xoa hai bên be sườn chắc là bầm tím.

- Đừng giở trò hề ra nữa! – Thầy Haifai đột ngột quát – Hai đứa bay lên đây!

Amara nghênh mặt:

- Tụi con tội gì kia chứ?

- Hổng có tội con khỉ gì hết! – Thầy Haifai gầm gừ – Ta bảo lên thì tụi bay cứ lên!

Một phút sau, Amara và Y Đê đã đứng trước mặt thầy Haifai. Y Đê càng lúc càng giống y chang sư phụ nó: Hai đứa mặt câng câng, ngó thiệt là xấc láo.

Không thèm nhìn hai đứa học trò, thầy Haifai quay mặt xuống lớp:

- Các trò giở sách ra, trang 216, chương 18.

Đợi cả lớp lật tập xong, thầy bắt đầu giảng bài. Amara và Y Đê đứng một bên, nghệt mặt ra nghe.

Kăply chốc chốc lại liếc về phía hai đứa này, thấy rõ gương mặt Amara càng lúc càng lộ rõ vẻ tức tối. Trông tụi nó lúc này giống như hai cái giá mắc nón, thầy Haifai dường như đã quên bẵng tụi nó.

- Cô ơi, cô! – Amara bất thần tru tréo, có vẻ đã hết chịu nổi sự hành hạ của thầy Haifai.

Thầy Haifai lập tức ngưng giảng. Thầy quay sang hai đứa học trò, lúc lắc đầu cho hai cái khuyên tai đưa qua đưa lại và vỗ về bằng giọng nữ:

- Tụi con yên lặng nghe giảng bài đi. Ổng sắp kiểm tra tụi con đó.

- Ta kiểm tra ngay bây giờ đây. – Thầy Haifai nói nối theo bằng giọng nam, không thèm lấy hơi giữa hai giọng nói, vẻ gắt gỏng và đe dọa – Những phù thủy chân chính không bao giờ thèm tu luyện những gì thuộc về nghệ thuật hắc ám nên ta sẽ không dùng một thứ bùa nào tác động lên tâm linh mấy trò. Thay vào đó, ta sẽ sử dụng nghệ thuật thôi miên thông thường để kiểm tra xem mấy trò tiếp thu bài học được đến đâu.

Thầy gục gặc cái trán dồ, mắt bám cứng vào gương mặt của hai đứa học trò đang hoang mang nhìn lại thầy:

- Mấy trò chuẩn bị đi. Ta bắt đầu đây.

Trong một phút, Amara và Y Đê lo lắng nhận thấy đôi mắt thầy Haifai đột nhiên trở nên xanh biếc như hai vì sao lạnh. Hai đứa lật đật niệm chú, cố nhớ lại những gì thầy vừa giảng nhưng tụi nó biết ngay là tụi nó không thể nhớ bất cứ điều gì. Hai vì sao xanh bây giờ đã hóa thành hai con ong đang tìm cách chui vào tâm trí Amara và Y Đê, thậm chí hai đứa dường như nghe có tiếng kêu vo vo trong tai và rõ ràng điều đó khiến tụi nó không thể nào tập trung đầu óc được.

Phát hiện ra nguy hiểm, Amara và Y Đê cố quay mặt đi phía khác để tránh ánh mắt thầy Haifai nhưng ngay lập tức cả hai điếng hồn nhận ra tụi nó không thể làm chủ được hành vi của mình.

Đôi mắt thầy Haifai bắt đầu đong đưa và cả lớp đều nhận thấy cả Amara lẫn Y Đê có hiện tượng giống như vừa chích nọc con macorana, trông tụi nó có vẻ ngất ngây, mí mắt từ từ sụp xuống như sắp sửa rơi tõm vào giấc ngủ.

Trong khi tụi bạn chờ đợi Amara và Y Đê đổ gục ra sàn và cất tiếng ngáy khò khò thì hai đứa bỗng mở bừng mắt ra, đột ngột tỉnh hẳn. Giống như những kẻ đang mắc kẹt trong giấc mơ bỗng thoát ra được, Amara và Y Đê vươn vai ngáp một cái thật dài rồi lật đật nhìn quanh, ánh mắt sáng lấp lánh.

Rất nhanh, và không hề có dấu hiệu báo trước, Amara phóng lại chỗ thằng Lung ngồi và trước vẻ ngạc nhiên cùng cực của tụi bạn, nó giật lấy cuốn sách trên tay thằng này, đem lại đặt trên bục cửa sổ, xong rút một chiếc giày dưới chân đè lên cuốn sách. Rồi với một chân mang giày một chân không, Amara nhảy lò cò một vòng quanh lớp rồi leo lên bục cửa sổ ngồi cạnh cuốn sách, mặt ngây ra, đã trở lại dáng điệu của kẻ không còn thần trí.

Thằng Y Đê còn khùng hơn. Nó không chạy nhắng lên như thằng Amara, chỉ đứng giữa lớp, lắc người như điên. Y Đê lắc người mỗi lúc một nhanh, vừa lắc vừa la om sòm:

- Ta là chai bia, sao chưa sủi bọt? Ta là chai bia, sao chưa sủi bọt?

- Ta là chai bia, sao chưa sủi bọt?

Lúc bình thường, Y Đê không thể lắc lư lâu như thế. Mà cũng không đứa nào trong lớp có thể làm được điều phi thường đó. Nhưng Y Đê cứ lắc mãi. Dĩ nhiên động tác chậm dần và đến một lúc không còn là lắc nữa mà nó xiêu vẹo giống như người say rượu và tiếng la đã biến thành tiếng thều thào:

- Ta là… chai… bia…, sao… chưa… sủi bọt…?

Thiệt ra thì lúc này miệng thằng Y Đê đã sủi bọt nhưng chính nó không hề nhận thức được.

Tụi bạn quan sát Amara và Y Đê bị thôi miên, biết hành động quái gở của hai thằng này là do thầy Haifai sai khiến nhưng đứa nào đứa nấy vẫn thấy lưng nổi đầy gai ốc.

Thầy Haifai chấm dứt cuộc kiểm tra đầy ấn tượng bằng cách túm Amara và Y Đê mỗi đứa một tay và nhìn sâu vô mắt tụi nó, nghiêm giọng ra lệnh:

- Nhìn thẳng vô mắt ta!

Amara và Y Đê lập tức làm theo, miệng vẫn còn nở nụ cười ngờ nghệch.

Kăply chăm chú theo dõi cảnh tượng trước mặt, bụng run lên khi nghĩ tới ánh mắt của con chim đầu rìu hôm trước. Và như một đám mây đen, câu chuyện về thám tử Eakar bất chợt hiện ra lởn vởn trong đầu nó. Trong một thoáng, Kăply thấy tim mình như bị ai bóp chặt. Thầy Haifai chỉ dùng thuật thôi miên phổ thông mà hiệu quả đã ghê gớm đến thế, nếu nó và Nguyên trúng phải tà thuật của Balikem thì tai họa sẽ không biết đâu mà lường.

Lúc này, vẻ đờ đẫn trên mặt Amara và Y Đê đã biến mất. Vừa khôi phục lại thần trí, Amara đã vùng khỏi tay thầy Haifai. Nó nhích ra xa, nhìn thầy bằng ánh mắt ngờ vực:

- Thầy đã làm gì con?

- Ta chỉ biểu trò làm vài chuyện vặt vãnh thôi mà, Amara. – Thầy Haifai cười khục khục – Chẳng hạn như ta thì thầm với trò rằng mang một chiếc giày luôn luôn tốt hơn là mang hai chiếc giày và thiệt hên cho ta là trò đã ngu ngốc nghe theo.

Trong khi Amara cúi phắt xuống chân, tới lượt Y Đê réo lên bằng giọng của người mới ốm dậy:

- Còn con?

- Trò hả? – Thầy Haifai cười hề hề – Trò thì ta gieo vào đầu ý nghĩ rằng trò là một chai bia nhưng là một chai bia dỏm. Bia gì mà hổng biết sủi bọt. Thế là trò cố làm hết cách để chứng minh trò cũng có thể sủi bọt không kém bất cứ một chai bia xịn nào. Và nói chung là trò đã làm rất tốt, Y Đê à.

Nhìn thằng Y Đê đưa tay quẹt mép, thầy nhún vai, giọng đột nhiên cáu kỉnh:

- Trước khi tụi bay về chỗ, ta nói thiệt là tụi bay giống đồ cóc nhái hết sức. Ta giảng khô cả cổ mà tụi bay chẳng tiếp thu được cái con khỉ gì hết. Nếu tụi bay không chăm chỉ luyện tập, buổi học tới đây ta sẽ khiến tụi bay chạy ra giữa sân làm trò cười cho cả trường cho coi.

Nạn nhân kế tiếp của thầy Haifai là thằng Hailibato.

- Hailibato, trò phải thận trọng đó. – Thầy Haifai nhìn chăm chăm gương mặt tròn quay của thằng này khi hai thầy trò đứng đối diện nhau trước tấm bảng – Ta nói trước, ta sẽ bắt trò tự bạch. Đây là trò chơi ưa thích của đám phù thủy ở Cục an ninh khi tra khảo phạm nhân, có hiệu quả tương tự như bùa Chống nói dối. Trò ráng mà dùng thần chú Rèm cửa sổ để chống lại đi.

Ngay từ khi chứng kiến Amara và Y Đê bị thuật thôi miên sai khiến, Hailibato đã cẩn thận nhẩm đi nhẩm lại cách vận dụng thần chú Rèm cửa sổ đến sái quai hàm và nó nghĩ là nó sẽ không rơi vào trường hợp của hai đứa lên trước.

- Dạ, con sẽ cố, thưa thầy. – Nó gật đầu, đáp một cách tự tin, không thèm tránh ánh mắt của thầy Haifai.

Lần này, thầy Haifai hỏi lớn và cả lớp đều nghe rõ cuộc đối đáp:

- Trò Hailibato, trò học tại trường nào?

- Trường Đămri, thưa thầy.

- Tốt lắm, thế trò học lớp nào?

- Lớp Cao cấp 2, thưa thầy.

- Giáo viên dạy trò tên gì?

- Giáo sư Haifai, thưa thầy.

Tới đây, thuật thôi miên của thầy Haifai bắt đầu phát huy tác dụng và thằng Hailibato đã bắt đầu mơ màng. Nó không buồn lễ phép “thưa thầy” trong từng câu nữa.

- Môn thể thao ưa thích của trò?

- Ăn.

- Thế món ăn yêu thích của trò là gì?

- Tất cả các món.

- Con vật yêu thích của trò?

- Tất cả những con vật ăn được.

Ở dưới lớp bắt đầu vang lên những tiếng khúc khích.

Trên bảng, thầy Haifai vẫn đều đều:

- Nơi trò muốn đi du lịch?

- Nhà hàng ăn.

- Nghề mơ ước của trò?

- Chủ nhà hàng ăn.

- Thành thật lắm. Nhưng ta đã chán thói ham ăn của trò lắm rồi. – Thầy Haifai thở phì phì – Thế trò không có điều mong mỏi lớn lao nào trong cuộc đời à?

- Có chứ, thưa thầy.

- Điều gì? – Chỗ này, Kăply thấy rõ đôi mắt thầy Haifai lóe lên đầy hy vọng.

- Lúc nào cũng ăn, thưa thầy.

Hailibato lại “thưa thầy” nhưng rõ ràng là nó đã không còn kiểm soát được mình.

Thầy Haifai ngán ngẩm đến mức không buồn chửi um khi dưới lớp nổ ra những trận cười nghiêng ngả. Thầy nhìn Hailibato, giọng dò xét:

- Thế trong ngày lễ Tình nhân, trò cũng chỉ quan tâm đến ăn thôi à?

- Đúng thế, thưa thầy.

Hailibato ngập ngừng nói thêm:

- Nhưng trong ngày đó, con ao ước được đi ăn cùng Bolobala.

- Tại sao lại phải đi cùng Bolobala?

- Con thích bạn ấy, thưa thầy.

Những tràng cười vừa lắng xuống lại bùng lên khắp các dãy bàn. Kăply liếc sang chỗ Bolobala, thấy nó đang gục xuống bàn, giấu mặt giữa hai cánh tay và có vẻ sẽ không bao giờ ngẩng lên nữa. Thi sĩ Tam mặt đỏ phừng phừng, quai hàm bạnh ra và trông cái cách nó trợn mắt nhìn Hailibato, Kăply tin rằng nó đang cầu cho sét giáng xuống đầu thằng này quách cho rồi.

Trên cái nền âm thanh nhí nhố đó, giọng thầy Haifai vẫn vang lên rành rọt:

- Thế giữa ăn và Bolobala nếu phải chọn một thì trò chọn…

- Dạ, con chọn ăn ạ.

Lớp học bỗng chốc không còn là lớp học nữa. Có thứ gì đó giống như một cơn bão âm thanh tràn qua các dãy bàn. Bất chấp thầy Haifai là người sùng bái trật tự và sẵn sàng trừng phạt bất cứ đứa học trò nào phá vỡ điều đó, nhiều đứa vẫn giậm chân thình thịch lên nền nhà, nhiều đứa khác gõ bàn thùng thùng một cách phấn khích. Kăply nhìn quanh, thấy tụi bạn giống như một đàn bò điên.

Ngay cả thằng Tam lúc này cũng toét miệng cười hềnh hệch, chiếc mặt nạ màu gạch cua rơi đâu mất. Con nhỏ Bolobala đã nhấc đầu lên khỏi hai cánh tay, và vì không biết nên cười hay nên khóc, khuôn mặt bầu bĩnh của nó trông kỳ cục như một con mèo vừa được vớt lên từ dưới nước.

- Trò tuyệt lắm, Hailibato. – Thầy Haifai nói khi thằng này đã tỉnh trí và đang ngẩn ngơ nhìn quanh với vẻ hoang mang. Dĩ nhiên Hailibato không biết tụi bạn đang cười cợt chuyện gì, trông nó có vẻ lo âu như kẻ nghi mình quên cài nút quần khi ra đường.

- Trò rất kiên quyết trong sự chọn lựa của mình. – Thầy Haifai nói tiếp, không rõ khen ngợi hay chế giễu – Cuộc đời trò tóm lại chỉ có ba việc đáng làm đó là: ăn, ăn và ăn. Nhưng không sao, ta luôn tôn trọng lý tưởng sống của người khác. Chỉ tiếc là trò không thông minh như ta tưởng.

Thầy Haifai bắt đầu nhe nanh, giọng sít lại:

- Cũng như Amara và Y Đê, nếu trò không chú tâm rèn luyện câu thần chú quan trọng này, lần tới chắc chắn ta sẽ khiến trò dốc ra những ý nghĩ thầm kín và bá láp đến mức sau đó trò sẽ nghỉ học luôn cho coi.

Mặt xanh lè xanh lét, Hailibato lạch bạch lê khối thịt đồ sộ về chỗ, những tràng cười dai dẳng vẫn vây bọc từng bước đi của nó khiến nó trông càng nặng nề, thảm não.

Đứa bị kêu lên tiếp theo là Kăply.

oOo

Kăply kêu khổ thầm trong bụng khi không cần nhìn nó cũng thừa biết hàng đống cặp mắt đang tò mò dán vào nó, đang khoái trá chờ đợi ở nó một trò nhí nhố ngay khi nó vừa rời khỏi chỗ ngồi. Cái cảm giác sắp sửa làm điều ngu ngốc khiến Kăply đột nhiên thấy đôi chân như không còn hơi sức. Nó cố bước từng bước thật ngắn để trì hoãn giây phút đối diện với thầy Haifai, đau khổ khi bắt gặp mình đang run sợ. Nếu thầy kêu mình tự bạch như Hailibato, chắc chắn mình sẽ nói vung vít về Mua và không có gì bảo đảm là mình sẽ không nói những lời nhăng cuội. Kăply cảm thấy lo lắng, nhưng rồi một ý nghĩ khác làm nó càng lo lắng hơn, thậm chí còn hơn cả lo lắng – đó là sự hoảng hốt. Nếu thầy kêu mình tự bạch về gia đình, về nguồn gốc thì sao há? Chắc chắn mình sẽ kể lung tung về làng Ke, về ba mẹ mình, về ngôi trường dưới chân đồi Phù Thủy, về thầy Râu Bạc, thế là hỏng bét! Kăply chết điếng với viễn ảnh đáng sợ đó, trong một phút nó muốn rụng người xuống đất, mồ hôi tươm ướt cả lưng áo.

- Đừng sợ, K’Brết.

Kăply giật mình nghe tiếng thầy Haifai vang lên trong đầu. Hóa ra khi nãy thầy dùng phép thần giao cách cảm để sai khiến Amara và Y Đê. Kăply lẩm bẩm, cố quay đi nhưng cũng như mấy đứa kia, ánh mắt của nó không hiểu sao cứ mắc lại ở gương mặt quái dị của thầy Haifai, giống như cây kim bị hút chặt vào thỏi nam châm.

Kăply nơm nớp nhìn thầy Haifai, bụng giần giật từng cơn, thấy rõ sự bấn loạn của mình phản chiếu trong ánh mắt bắt đầu xanh biếc của thầy và khi thầy bảo nó đừng sợ, nó càng sợ hơn với cảm giác dường như thầy đọc được ý nghĩ trong đầu nó.

- Ta sắp kêu trò biểu diễn một màn vui nhộn đây. – Lần này, thầy Haifai nói lớn như muốn cho cả lớp nghe thấy, giọng khô khốc, không chút tình cảm – Trò ráng mà nhớ lại những gì ta đã giảng về cách vận dụng thần chú Rèm cửa sổ. Ta nói trước, nếu trò không biết cách bảo vệ tâm linh của mình thì dù trò có là thành viên của lâu đài K’Rahlan, ta cũng nhất định biến trò thành một tên hề. Trò nghe rõ chưa, K’Brêt?

- Dạ, rõ ạ.

Kăply lí nhí đáp, cố đừng ngã lăn ra trước lời dọa nạt của thầy Haifai. Đúng lúc đó, nó chợt nghe giọng nói của thầy thình lình vang lên trong đầu, như thể thầy đã cài đặt sẵn những mệnh lệnh ở chỗ nào đó trong bộ não của nó, chỉ đợi đến giờ là bật lên: “Trò đang lo lắng phải không? Trò hãy khóc thật to lên, những lo lắng sẽ tan biến ngay tức khắc, K’Brêt à”. Kăply ngạc nhiên nhận thấy giọng nói đang lăn tăn trong đầu nó lúc này là một giọng dịu dàng, gần như là thủ thỉ, hoàn toàn không giống chút gì với giọng nói hằng ngày của thầy Haifai. “Trò hãy khóc đi, K’Brêt!”, cái giọng ngọt ngào đó lại vang lên, êm ái, vỗ về, đầy ma lực.

Đột nhiên Kăply thấy lòng mình thổn thức. Và nó thấy ngoác miệng ra khóc lúc này là điều hoàn toàn tự nhiên. Ánh mắt của thầy Haifai càng lúc càng sâu thăm thẳm, nhìn nó nửa như sai khiến nửa như khuyến khích. Kăply thấy mình đã muốn nức nở lắm rồi. Khóe mắt nó đã bắt đầu ươn ướt. Nhưng Kăply cố gượng lại. Răng nghiến chặt, nó ép mình cố nhớ đến cách vận dụng câu thần chú số 18 vừa học nhưng ngay lập tức nó đau khổ nhận ra sự bất lực của mình khi ra lệnh cho đầu óc. Như một chiếc xe chết máy, bộ nhớ của nó hoàn toàn tê liệt.

Kăply rên rỉ trong tuyệt vọng: “Đừng khóc! Không được khóc! Dù thế nào cũng không được khóc!”. Nó biết những lời lảm nhảm đó không phải thần chú, nhưng nó cứ mấp máy môi như người mê sảng. Và kỳ lạ thay, Kăply mừng rỡ nhận thấy sự tỉnh táo dường như đang quay lại với nó. Nó thấy nó không còn xốn xang hay bứt rứt như lúc nãy nữa.

“Khóc đi, K’Brêt! Sẽ rất dễ chịu nếu trò òa ra khóc, K’Brêt à!”. Thầy Haifai vẫn tiếp tục rót vào tâm trí nó những lời đường mật nhưng lần này Kăply không để cho mình bị mê hoặc nữa. “Chẳng dễ chịu gì hết á”. Nó tự nhủ và mắt nó ráo hoảnh.

Cả lớp nín thở theo dõi cuộc kiểm tra trước mặt, kinh ngạc khi thấy Kăply có thể cầm cự được khá lâu trước thuật thôi miên của thầy Haifai.

Tụi nó háo hức chờ Kăply làm một trò hoạt kê gì đó để phá ra cười nhưng rốt cuộc chẳng thấy gì hết. Hai thầy trò vẫn đứng gườm gườm nhìn nhau, nín thinh và bất động, lâu thật lâu, bất phân thắng bại.

Ngay cả Nguyên cũng há hốc miệng. Nó không tin cục gạch trên cổ Kăply có thể thông thái hơn bọn Amara, Y Đê và Hailibato. Trước sau, Nguyên dứt cả thảy là tám sợi tóc, vẫn không biết thằng bạn mình làm cách nào để thực hành câu thần chú phức tạp kia ngon lành như vậy.

Thầy Haifai cũng sửng sốt không kém. Nhưng rồi thầy chợt hiểu thầy không thể khuất phục được đứa học trò đang đứng trước mặt. Thầy nhắm mắt lại và thở phì một tiếng, giống như tuyên bố đầu hàng:

- Giỏi lắm, K’Brêt! Trò về chỗ đi!

Như được giải thoát, Kăply vội vàng chạy về chỗ, sung sướng hứng lấy hàng tràng tiếng vỗ tay phấn khích và ngưỡng mộ của tụi bạn đang dộng ầm ầm vô tai nó.

Nhưng niềm vui vừa chớm trong lòng Kăply lập tức bị thầy Haifai tạt ngay một thùng nước lạnh. Trong đầu nó, tiếng thầy bất ngờ vang lên – lần này đúng là giọng thầy, lạnh lùng, gây gổ:

- Ta khen trò là để giữ thể diện cho trò thôi, chớ thiệt ra trò học ngu như heo, K’Brêt à. Sở dĩ trò không bị thuật thôi miên của ta tác động chẳng qua là nhờ trò ăn được quả táo vàng trên núi Lưng Chừng chớ còn câu thần chú Rèm cửa sổ, ta biết trò hổng nhớ cái con khỉ gì hết á!

Chương 14

AI VUI TA SẼ VUI CÙNG

Sáng hôm sau, chủ nhật, bọn trẻ lâu đài K’Rahlan được nghỉ học. Nhưng khác với thông lệ, bữa đó tụi nó buộc phải trải qua những khoảnh khắc mà theo cách nói quạu quọ của thằng K’Tub là ngấy tận cổ. Trong bữa ăn tối hôm trước, bà Êmô đã tuyên bố thẳng là ngày mai không đứa nào được bước chân ra khỏi nhà. Balikem và Buriăk trong mắt bà đích thị là hai con chồn, và bọn trẻ chẳng qua là những chú gà con ngốc nghếch, ngay cả khi hai chú gà trong bầy có là những chiến binh giữ đền đi chăng nữa.

- Các con phải nghe lời ta!

Bà Êmô kết thúc buổi giáo huấn, và lời nói cuối cùng vừa rời khỏi đôi môi bà lập tức gây nên một cơn bão bất bình nhưng trước khi bọn trẻ phản đối, ông K’Tul đã kịp gầm gừ từ đằng sau tô canh:

- Ta thấy cách ít ngu nhất là tụi con nên nghe lời dì Êmô.

Gần đây ông K’Tul và bà Êmô rất ít khi đứng về một phe nhưng một khi ý chí của họ đã nhập lại thành một thì bọn trẻ luôn bắt gặp cảm giác mình đang đối diện với một bức tường. Tụi nó đành xả ấm ức lên các loại chén dĩa trước mặt bằng cách tống hết vào họng những thức gì chứa trong đó. Thằng K’Tub còn tìm cách quẹt lung tung chiếc muỗng vào bất cứ thứ gì có thể phát ra những tiếng leng keng như muốn thông báo cho mọi người biết sự bất mãn của mình, bất chấp ba nó đang giương mắt ra trừng trừng nhìn nó.

Nhưng dù tối hôm qua K’Tub có làm ầm ĩ gấp mười lần hơn thì sáng nay tụi nó vẫn phải loanh quanh trong phòng, đại khái là không dám làm bất cứ một hành động gì cho thấy tụi nó là những đứa trẻ khó bảo.

Kăply bước ra khỏi phòng tắm, đứng chải tóc trước gương, miệng cười khì khì:

- Hổng biết thằng nhóc K’Tub tối hôm qua có ngủ được không há?

- Chắc là không. – Nguyên nói, vừa nhìn thằng Kăply phản chiếu trong gương – Không hiểu sao thằng nhóc đó lúc nào cũng giống như một quả mìn sắp nổ.

Kăply nhún vai:

- Tại sáng nay nó định rủ cả bọn đi chơi ở công viên Các Thứ Kẹo mà.

Nhớ đến chuyện này, mặt Kăply chợt xìu xuống:

- Tao cũng đang muốn quay trở lại đó để xem có thứ kẹo gì mới…

- Kăply… ly… ly… y… y…

Nguyên đột ngột hét lên, nghe rất giống tiếng còi xe lửa khi chuẩn bị chui ra khỏi đường hầm. Kăply giật bắn người, chiếc lược trên tay rơi bộp xuống sàn nhà.

- Chuyện… gì… vậy? – Kăply quay hẳn người ra sau, kinh ngạc lắp bắp.

Nhưng Nguyên không nhìn Kăply. Cặp mắt nó lúc này đang ngó chằm chằm tấm gương trên vách, mặt đờ ra, miệng lẩm bẩm như người mộng du:

- Tao hiểu rồi… tao hiểu rồi…

Kăply nhìn thằng bạn đại ca của mình, dè dặt như nhìn một con cá mắc cạn, sợ hãi thấy thằng này giống như đang ngáp ngáp. Nó sè sẹ giơ bàn tay lên trước mặt Nguyên huơ qua huơ lại, lo lắng hỏi:

- Mày thấy gì đây không?

- Bỏ tay xuống đi, Kăply. – Nguyên hừ mũi, mắt vẫn bám cứng tấm gương như thể nó bị tấm gương bắt mất hồn – Tao không điên, mặc dù tao đang rất muốn hóa điên đây.

Trước vẻ mặt ngơ ngác của Kăply, Nguyên đấm hai tay vào nhau, có vẻ muốn hét lên lần nữa nhưng cố nén nên giọng nó nghe như rặn từng tiếng:

- Mày nhớ hai câu thơ của ông K’Tul không?

- Nhớ. – Kăply thận trọng đáp, không hiểu sao tự dưng Nguyên lại nhắc đến chuyện này. Nó lẩm nhẩm vừa đủ nghe, mắt không ngừng dò xét bạn mình – “Ai vui ta sẽ vui cùng. Ai buồn ta sẽ buồn chung với người”, đúng không?

- Hoàn toàn chính xác. – Nguyên gật đầu – Thế mày có biết chữ “ai” trong câu thơ ám chỉ điều gì không?

- Mày cũng biết là tao không biết mà. – Kăply nhăn nhó, rồi ngay lập tức nó thấy cần phải chia đều cái sự kém cỏi đó cho mọi người – Mà cũng chẳng có ai trên đời này biết hết á.

- Tao biết. – Nguyên nghiêm nghị – Chữ “ai” là chỉ tấm gương.

- Tấm gương? – Kăply đưa tay véo môi, giọng ngờ vực – Làm sao lại là tấm gương được.

Kăply lại quay nhìn vô gương. Nó ngẩn ngơ ngắm khuôn mặt của nó một lúc, bỏ tay xuống, nặn ra một nụ cười ngây ngô, rồi tiếp tục quan sát nụ cười của mình với vẻ dò xét. Thình lình, nó ợ ra một tiếng, người bắn lên như nút chai sâm banh.

- A, đúng là tấm gương. – Kăply reo ầm – Khi mình vui thì nó vui, mình buồn nó cũng buồn theo. Ha… ha… ha…

Một bàn tay đột ngột bụm chặt lấy miệng Kăply, và tiếng Nguyên giận dữ rít lên bên tai:

- Đồ ngu! Bộ mày muốn ông K’Tul và bà Êmô nghe thấy hả?

Hai đứa hồi hộp liếc mắt ra ngoài cửa, im lặng một lúc. Nhưng sau một hồi nghe ngóng, tụi nó chẳng nghe thấy gì ngoài tiếng dộng binh binh trong ngực.

- Tụi mình xem xét tấm gương đi! – Nguyên thì thầm nói và nhích tới một bước, sờ tay lên tấm gương.

Tấm gương đồng hình bầu dục ốp chặt vào vách phòng tắm, ngay bên trên chiếc bàn nhỏ để ấm chén và sách vở. Một đường viền chạm trổ vô số hình ngựa ở mọi tư thế chạy quanh tấm gương.

Suốt một lúc lâu, Nguyên mân mê các phù điêu bằng cả tay lẫn mắt, và trông vẻ mặt thất vọng của nó có thể biết là nó vẫn chưa khám phá được điều gì khác lạ.

- Hay bí mật nằm ở mặt sau tấm gương? – Kăply nhìn vẻ trầm ngâm của bạn, rụt rè lên tiếng, nó chợt nhớ đến tiệm Những Dấu Hỏi.

Nguyên đáp lời bạn bằng cách chĩa tay vô tấm gương, lầm rầm niệm chú. Tấm gương rời khỏi bức vách gần như ngay lập tức, và Kăply chực chờ sẵn nhanh tay đỡ lấy.

Nhưng mặt sau tấm gương phẳng lì, không có một dấu hiệu gì cho thấy đó là thứ tụi nó đang tìm kiếm.

Sau khi nhớ ra đủ loại thần chú và niệm đến sái quai hàm mà vẫn không đạt được kết quả gì, Nguyên và Kăply đưa mắt nhìn nhau và hai đôi môi mấp máy gần như cùng lúc:

- Kêu thằng Suku.

Khổ nỗi, muốn kêu thằng Suku thì phải nhờ tới cái ống Siêu cảm ứng của K’Tub.

Nguyên dứt mạnh một sợi tóc:

- Làm sao bây giờ? Hổng lẽ nói cho K’Tub biết vụ này? K’Tub biết thì Êmê cũng biết.

Kăply tặc lưỡi và thốt ra một câu theo nó là tốt nhất trong lúc này:

- Ờ há.

- “Ờ há” không phải là một ý kiến. – Nguyên nổi khùng.

Trán Kăply nhăn tít, nó đang cố tưởng tượng đầu mình không phải là một cục gạch:

- Theo tao…

Nguyên không nói gì, chỉ giương mắt ra nhìn bạn. Bắt gặp vẻ chờ đợi của Nguyên, Kăply biết mình không thể không nói một câu gì đó:

- Theo tao,… có lẽ tụi mình không thể giấu tụi nó chuyện này mãi được…

- Tại sao? – Nguyên hỏi lại, cụt lủn, mắt vẫn nhìn chòng chọc vào mặt Kăply.

Kăply đã rất muốn quay mặt đi nhưng một khúc cây đã nằm ngay ở chỗ đáng lẽ là cái cổ của nó. Nó đành phải nhìn trả lại Nguyên và liếm đôi môi khô rang, ấp úng:

- Vì tụi nó lúc nào cũng ở bên cạnh mình. Hơn nữa… hơn nữa…

- Sao?

- Hơn nữa… K’Tub và Êmê là những bạn tốt của mình. – Phải hết sức vất vả, Kăply mới có thể nói hết ý nghĩ trong đầu, bụng thấp thỏm sợ thằng Nguyên nổi cáu.

Và nó mừng rơn khi thấy Nguyên gật đầu:

- Tao cũng nghĩ vậy.

Nguyên nheo mắt nói thêm:

- Cục gạch phải ghen tị với mày rồi đó, Kăply.

Lâu lắm, Kăply mới lại được nghe Nguyên khen mình. Nó toét miệng cười hì hì, mặt nở ra. Nhưng rồi nó lập tức thu ngay nụ cười lại.

Nguyên đã kịp lấy vẻ nghiêm nghị:

- Nhưng tụi mình chỉ cho K’Tub và Êmê biết về sứ mạng của tụi mình thôi. Những gì liên quan đến ông K’Tul và bà Êmô, phải tuyệt đối giấu nhẹm, nhớ chưa?

oOo

Nguyên, Kăply, K’Tub, Êmê, Păng Ting và Suku, tất cả là sáu đứa ngồi quanh tấm gương vừa gỡ xuống trên vách phòng thằng K’Tub, chụm đầu nghiêng ngó, nhìn mặt cũng biết là tụi nó không tin sẽ phát hiện được điều gì đáng giá.

Khi nãy cả bọn gần như vật nhau với tấm gương trong phòng Êmê và kết quả là tụi nó chẳng tìm thấy gì hết. Lần này cũng vậy, thần chú Nổi lên hoàn toàn vô tác dụng: tấm gương trước mặt bọn trẻ cứ trơ ra như trêu ngươi.

- Hay chữ “ai” trong câu thơ của người khách đó không phải chỉ tấm gương? – K’Tub đưa mắt nhìn Nguyên, ngờ vực hỏi, không hề biết đó là câu đố trị giá 200.000 năpken của ba nó.

- Chính là tấm gương, K’Tub. – Suku đong đưa đôi mắt sáng, hắng giọng – Cách giải thích của anh K’Brăk theo tao là hoàn toàn hợp lý.

Nguyên nhìn Êmê:

- Trong lâu đài K’Rahlan còn chiếc gương nào nữa không, Êmê?

- Còn bốn chiếc nữa, anh K’Brăk. – Êmê quay chiếc mũi hếch về phía Nguyên, nhanh nhẩu đáp, trông cái cách nó lúc lắc mái tóc vàng một cách duyên dáng, có thể thấy nó rất sung sướng khi được Nguyên hỏi tới – Một chiếc trong phòng Đam Pao, một chiếc trong phòng Chơleng, một chiếc trong phòng cậu K’Tul và một chiếc trong phòng mẹ em.

K’Tub láu táu:

- Mình kéo xuống phòng Đam Pao và Chơleng đi!

- Không được, K’Tub. – Êmê trừng mắt nhìn thằng oắt – Anh K’Brăk đã nói rồi. Đây là nhiệm vụ bí mật của chiến binh giữ đền, không nên để bất kỳ một ai hay biết.

- Đúng đó, Êmê. – Nguyên nhìn Êmê bằng ánh mắt tán thưởng khiến trái tim cô nàng như tan ra – Chúng ta phải hành động hết sức kín đáo và thận trọng.

Bọn trẻ lại chụm đầu bàn bạc. Sau một hồi tranh cãi, cả bọn đồng ý rằng cách tốt nhất là Nguyên và K’Tub đem hai tấm gương trong phòng mình gạ đổi hai tấm gương của Đam Pao và Chơleng, dĩ nhiên để sự đổi chác này diễn ra thuận lợi và trông có vẻ tự nhiên tụi nó phải tìm cách gieo vào đầu hai đứa đầu bếp cái ý nghĩ rằng không có gì đáng chán cho bằng cứ phải xài hoài một tấm gương ngày này qua ngày khác. Còn tấm gương của Êmê, vốn giống y hệt tấm gương trong phòng mẹ nó thì nhân lúc bà Êmô xuống vườn ăn trưa, Êmê sẽ nấn ná trên này để chui vào phòng bà đánh tráo hai tấm gương với nhau.

Việc thương lượng với Đam Pao và Chơleng sau đó nói chung là diễn tiến suôn sẻ và trót lọt, hai đứa nhóc này thậm chí cũng chẳng buồn thắc mắc Nguyên và K’Tub mắc chứng gì mà khoái ba cái trò đổi chác vớ vẩn này, vì tấm gương suy cho cùng cũng chỉ là một tấm gương, chẳng khác nhau gì mấy vì vậy cuộc trao đổi này thiệt tình hổng có chút xíu ý nghĩa nào hết.

Chỉ có việc đánh tráo chiếc gương trong phòng bà Êmô là hơi trục trặc chút xíu. Giờ ăn trưa, bọn Kăply cứ đinh ninh Êmê chỉ xuống trễ chừng năm, mười phút là cùng (chuyện tráo hai chiếc gương xét cho cùng hổng đáng gọi là phức tạp), hổng ngờ cả nhà ngồi đợi gần nửa tiếng đồng hồ vẫn chẳng thấy tăm hơi nó đâu.

Thấy bà Êmô cứ chà tay lên vạt áo với vẻ sốt ruột, K’Tub chột dạ lên tiếng:

- Ăn đi, dì ơi! Chắc chị Êmê đang soạn tập vở cho ngày mai.

- Soạn tập vở á? – Bà Êmô nhìn K’Tub bằng ánh mắt như thể nó vừa va đầu vào gốc cây – Êmê còn cả một buổi chiều và một buổi tối dài dằng dặc nữa mà bây giờ đã soạn tập vở á?

K’Tub biết ngay mình bị hố. Nó nói, nhắm mắt lại để bà Êmô không thấy ánh mắt láo liên gian xảo của nó:

- Chị Êmê dạo này siêng học lắm, dì.

- Dì Êmô, dì lên xem con bé đang làm gì ở trển. – Ông K’Tul thò đầu ra khỏi tờ Tin nhanh N, S & D, giọng không giấu vẻ nghi hoặc. Trông ông như người lính thò đầu ra khỏi đài quan sát, liên tưởng đó làm Nguyên muốn ngừng thở.

- Để con đi cho!

K’Tub lật đật vọt miệng và nhanh nhẹn bật lên khỏi chỗ trước khi bà Êmô kịp đáp lời ba nó.

- Ngồi xuống, K’Tub! – Ông K’Tul quát lên, gườm gườm nhìn thằng con – Ta đâu có bảo con!

Trong khi thằng K’Tub chết sững trên đôi chân, Kăply đưa đôi mắt lo lắng nhìn Nguyên và cố tằng hắng một tiếng thật to, hy vọng làm vậy thì mình sẽ bớt sốc.

- Tờ báo của Ama Đliê bữa nay có tin gì mới không hở bố? – Nguyên cố lái ông K’Tul ra khỏi mối bận tâm về sự vắng mặt của Êmê, phải nói là chưa bao giờ nó hỏi về tờ Tin nhanh N, S & D bằng vẻ sốt sắng đến thế.

- Tin mới à? Có đấy! – Ánh mắt lấp lánh của ông K’Tul quét qua mặt Nguyên nóng bỏng. Ông nhếch mép, nói tiếp, khoái trá vì không bị mắc bẫy – Đợi dì con kêu Êmê xuống đây, ta sẽ nói luôn thể.

Nguyên rất muốn nhắm mắt lại để không nhìn thấy bà Êmô hấp tấp rời khỏi bàn ăn và bước về phía cầu thang xoắn. Nó không hiểu Êmê làm cái quái gì mà giờ này chưa xuống tới, bụng nó khẽ run lên khi hình dung ra cảnh bà Êmô bắt gặp Êmê đang lén lút trong phòng mình với tấm gương đáng ngờ trên tay.

Trái tim Nguyên, cả Kăply và K’Tub nữa, đang rơi xuống chỗ nào đó và có vẻ chuẩn bị rơi xuống nữa thì mái tóc vàng của Êmê bỗng ló ra chỗ đầu cầu thang.

Bà Êmô ngó lên, Êmê ngó xuống, hai chiếc mũi hếch chĩa vào nhau khiến Kăply nhớ đến cảnh trong phim Bắn chậm thì chết mà nó đã từng xem.

- Mẹ. – Êmê kêu lên, ngạc nhiên.

Bà Êmô mở to mắt:

- Con làm gì trên đó thế?

- Áo con bị dây nước. – Êmê nói dối, giọng thật như đếm – Con phải đợi cho khô.

Ở đằng bàn, ba cái miệng cùng sè sẹ thở ra. Còn cái miệng thứ tư bắt đầu khạc đạn:

- Nghe nè! Tin sốt dẻo đây! Theo như phóng viên Pôlôna cho biết thì hiện nay Cục an ninh vẫn chưa từ bỏ kế hoạch giám sát trường Đămri…

K’Tub ngao ngán nhìn ba nó:

- Lại chuyện cũ mèm đó! Chắc Cục an ninh lúc này hổng có việc gì làm hả ba?

Nguyên vội lên tiếng trước khi ông K’Tul kịp nổi điên lên với thằng con:

- Tên “mông tặc” bị bắt rồi mà, bố.

- Nhưng mối nguy hiểm vẫn còn tiềm ẩn ở chỗ lão N’Trang Long. – Mắt ông K’Tul lóe lên, hàng ria mép trên mặt ông rung rung như thể chính nó cũng cảm thấy nguy hiểm khi nghe nói tới cái tên này – Ta không hiểu tại sao Bộ giáo dục vẫn tiếp tục giữ lão trên chiếc ghế hiệu trưởng trong khi lão hết gây ra vụ rắc rối này lại dính đến vụ bê bối khác.

Mặt K’Tub sụp xuống, tối sầm như đột ngột phủ mây đen. Nhưng nó chưa kịp làm om sòm, Nguyên đã giật tay áo nó, hạ giọng vo ve:

- Ăn lẹ đi rồi lên nghiên cứu mấy tấm gương.

Suku và Păng Ting quay trở lại lâu đài K’Rahlan đúng vào lúc bọn Kăply đang xúm xít quanh ba tấm gương vừa đổi được.

- Gương mới hả, anh K’Brăk?

Suku hỏi, mặt tươi hơn hớn. Nhưng Nguyên đã nhanh chóng thổi tắt nụ cười trên môi nó:

- Gương mới. Nhưng vẫn vậy, Suku à. Chẳng tìm thấy gì hết.

Nguyên đáp giọng xuôi xị, vẫn đang săm soi mò mẫm mặt sau tấm gương vừa lấy được trong phòng bà Êmô. Nó đã dò xét tới tấm gương thứ ba rồi. Chen chúc chung quanh, bọn Êmê, Kăply, K’Tub hồi hộp cắm mắt vào hai bàn tay Nguyên, thất vọng khi không phát hiện ra điều gì để có thể nghĩ đó là một dấu hiệu đặc biệt.

- Còn một tấm gương nữa trong phòng ba em. – K’Tub buột miệng, nghe giọng điệu thì có vẻ như thằng oắt tin rằng nếu đáp án của câu thơ ám chỉ một tấm gương nào đó thì dứt khoát đó phải là tấm gương trong phòng ba nó.

Như một phản xạ, Nguyên quay nhìn Êmê, hoàn toàn không chủ ý.

Lần đầu tiên trong đời, Êmê lẩn tránh ánh mắt của Nguyên. Nó thở một hơi dài, và khẽ thốt lên bằng cái giọng của kẻ thấy cuộc đời chỉ toàn là phiền não:

- Anh K’Brăk. Không ai trên đời này có thể đặt được chân vào bí thất của cậu K’Tul.Nguyên và Suku nắm tay nhau, nhón chân rón rén bước lên từng bậc thang. Lúc này hai đứa đang mặc áo tàng hình nhưng không vì vậy mà trái tim trong lồng ngực tụi nó không dộng binh binh, thứ âm thanh phỏng theo nhịp chày giã gạo. Phía cuối hành lang, khung cảnh tối nhờ nhờ. Cố đừng để răng va vào nhau, hai đứa mò mẫm nhích từng bước, ngực tức như chèn đá.

Sáng nay, Êmê và K’Tub đến trường trong khi Nguyên và Kăply được ở nhà vì không có giờ Thần chú chiến đấu của thầy Haifai. Vì vậy chiều hôm qua, Nguyên đã bí mật hẹn Suku sáng nay quay lại lâu đài để cùng Kăply và nó tìm cách lọt vào bí thất của pháp sư K’Tul. Nhưng đến phút chót, Nguyên quyết định chỉ có nó và Suku đi do thám đề phòng trường hợp ông K’Tul hoặc bà Êmô bất ngờ xộc vào phòng. Nếu không thấy đứa nào trong phòng, chắc chắn họ sẽ sinh nghi, mà một viễn ảnh như thế chắc chắn chẳng hứa hẹn một điều gì tốt đẹp.

Nguyên và Suku lặng lẽ đi bên nhau, không ai nhìn thấy ai, đứa này chỉ cảm nhận được đứa kia qua bàn tay đang run rẩy trong tay mình, mà thiệt tình thì hổng đứa nào biết là tay đứa nào đang run.

Nguyên đã từng lên tầng lầu này một lần. Lần này cảm giác của nó cũng không khác mấy so với trước đây: nó bắt gặp trong đầu mình cái ý nghĩ nó đang lạc vào một thế giới âm u, hoang lạnh và trùng trùng hiểm nguy, cái thế giới mà mỗi cử động của nó đều bị những cặp mắt trong bóng tối dòm ngó. Nguyên biết đó chỉ là ảo giác, nhưng tâm trí nó vẫn bị sự lo âu xâm chiếm mãnh liệt đến mức có lúc nó thấy đôi chân nó bỗng nhiên nặng như đeo chì, nhất là khi nó nhìn lên các ô cửa thông gió nằm dọc đầu tường, những ô cửa đen ngòm như giấu đằng sau nó bao nhiêu là cạm bẫy.

Trong nỗi sợ choáng ngợp, Nguyên vẫn nhận ra kho chứa đồ qua cánh cửa xỉn màu bên tay phải. Nó giật tay Suku, định chỉ cho thằng này căn phòng hôm trước nó và Kăply lẻn vào và tình cờ chứng kiến cuộc đối thoại giữa ông K’Tul và bà Êmô.

Nhưng Nguyên chưa kịp lên tiếng, nó đã giật bắn người khi những tiếng lộc cộc bất thần vang lên từ phía sau lưng. Âm thanh đó cho biết ông K’Tul đang kéo lê đôi guốc gỗ của mình trên nền đá hoa cương. Trong một thoáng, Nguyên cảm thấy ruột gan mình lạnh ngắt như đột ngột nhúng trong nước đá, nếu không nhớ ra mình đang mặc áo tàng hình, một đứa bạo dạn như nó rất có thể cũng khuỵu chân xuống lắm.

Suku phản ứng cực nhanh. Nó hấp tấp kéo tay Nguyên dạt về bên trái, hai đứa gần như nép mình sát tường, và chắc chắn là hoàn toàn ngừng thở. Cho đến lúc đó, Nguyên vẫn không dám quay đầu lại. Khi ông K’Tul đi ngang qua bên cạnh, Nguyên mới dám liếc thân hình cao lêu nghêu của ông qua khóe mắt, rùng mình thấy bộ đồ trắng ông mặc in lên vách đá đen không khác gì một bóng ma vất vưởng.

Trước ánh mắt hồi hộp của hai đứa trẻ, ông K’Tul dừng lại trước kho chứa đồ, đưa tay đẩy cánh cửa khép hờ và nhanh chóng biến mất vào bên trong.

Nguyên và Suku đứng lặng người đến một lúc, như nhường cho thời gian trôi qua. Rồi Suku khẽ thì thầm:

- Vào theo không, anh K’Brăk?

Nguyên không đáp nhưng nó trả lời thằng oắt bằng cách kéo tay thằng này, hai đứa đi trên những đầu ngón chân tiến về phía cánh cửa lúc này vẫn còn mở hé.

Cả hai nín thở ghé mắt qua khe hở, nhớn nhác nhìn quanh, không thấy ông K’Tul đâu hết. Có thể ông đã đi sâu vào bên trong, khuất đâu đó sau dãy tủ kệ hoặc sau những con ngựa bằng đồng to như ngựa thật kê nhan nhản khắp nơi. Nguyên nghĩ thầm, thận trọng tì vai vào cánh cửa, và bằng cách đó nó đẩy cánh cửa nhích từng chút một, cố không tưởng tượng đến cảnh ông K’Tul đang đứng ngay sau cửa với cây gậy to đùng trên tay.

“Ổng không nấp sau cánh cửa”, Nguyên thở phào khi lọt vào bên trong trót lọt, vô cùng sung sướng khi không bị một vật nhọn nào đánh vào đầu.

Vẫn không buông tay Suku, Nguyên đứng yên một lát rồi rụt rè lần vào bên trong, tim đập rộn, vừa láo liên mắt xem ông K’Tul ở đâu vừa cố không chạm vào vô số đồ đạc quái đản lỉnh kỉnh trong phòng.

Ông K’Tul đang kéo lê đôi guốc gỗ của mình.

Nhưng ông K’Tul giống như tan vào không khí, khi đi gần giáp vòng, hai đứa vẫn không thấy ông ta đâu. Hay ổng cũng đang tàng hình như mình? Ý nghĩ đó vừa lóe lên trong óc, Nguyên đã nghe lạnh toát sống lưng. Suýt chút nữa nó đã để rơi người xuống đất nếu ngay lúc đó, mắt nó không bắt gặp một cái gì giống như một đường hầm nằm khuất sau một con ngựa đồng to lớn đứng chắn ở góc phòng như một bức bình phong.

Nguyên bóp khẽ tay Suku và lập tức thấy Suku cũng bóp khẽ tay nó, cử chỉ cho biết thằng oắt cũng đã phát hiện ra cái mà nó vừa nhìn thấy.

Chắc chắn ông K’Tul đã vào trong này! Nguyên nhủ bụng, phân vân một lát rồi quyết định tiến vào. Bụng giật thon thót nhưng nó vững tin vào chiếc áo tàng hình trên người, hơn nữa nó rất yên tâm về đôi guốc gỗ của ông K’Tul: những tiếng động lộc cộc là một cảnh báo hết sức quý giá đối với tụi nó.

Đường hầm rộng và ngắn, nếu không bít bùng thì đó chính là một cái hành lang. Nguyên và Suku đi một đoạn, thấy đột ngột mở ra trước mắt một căn phòng lớn nhưng đồ đạc bày biện rất đơn sơ. Chỉ trơ trọi một bộ bàn ghế cũ, sát tường là một chiếc giường nệm lông chim, giống như mọi chiếc giường khác trong lâu đài K’Rahlan. Trên trần phòng, một thứ trái cây giống như quả táo, đã được phù phép, tỏa ra thứ ánh sáng nhàn nhạt và yếu ớt, nhuộm vẻ âm u buồn tẻ lên tất cả mọi thứ trong phòng. Bí thất của pháp sư K’Tul đây sao? Nguyên đảo mắt nhìn quanh, vô cùng thất vọng khi không thấy một tấm gương nào trong phòng, cũng không thấy hai chiếc ghế ngựa vằn đâu.

Ông K’Tul lúc này đang đứng ở cuối phòng, quay lưng lại phía bọn trẻ, trầm ngâm chống tay lên tường, vẻ như đang nghĩ ngợi điều gì đó. Nhưng chăm chú một lát, Nguyên chợt biết là không phải và lòng nó lại bùng lên hy vọng. Trước mặt ông K’Tul là một cánh cửa sơn đen, thoạt đầu nó không nhận ra vì cánh cửa bị thân hình lỏng khỏng của ông che khuất.

Nguyên chớp mắt hai, ba cái để nhìn cho rõ. Bây giờ thì nó nhận ra không phải ông K’Tul chống tay lên tường, mà ông đang áp tay lên cánh cửa. Còn ông áp tay lên đó làm gì thì bọn trẻ đã tức khắc nhận được lời giải đáp: Một tiếng “kịch” khẽ vang lên và cánh cửa chạy qua một bên, êm ru như trên một cái thanh trượt, rất giống với cách di động của chiếc tủ quái dị trong phòng thầy N’Trang Long.

Mọi chuyện tiếp theo diễn ra rất nhanh. Nguyên và Suku vừa chớp mắt một cái đã thấy cánh cửa chạy về vị trí cũ còn ông K’Tul thì không thấy đâu, cứ như thể ông vừa bị bức tường nuốt chửng.

Suku rất muốn bước lại chỗ cánh cửa để xem xét nhưng Nguyên đã giật tay nó. Như hai chiếc bóng câm nín, hai đứa lặng lẽ và thận trọng lùi dần ra khỏi phòng, xuyên qua đường hầm để trở ra kho chứa đồ.

Chưa bao giờ Nguyên và Suku hành động nhanh nhẹn đến thế: chỉ không tới năm phút, tụi nó đã ở ngoài hành lang. Mồ hôi ướt tóc, người nóng hầm hập nhưng không đứa nào dám cởi áo tàng hình ra cầm tay. Thiệt tình mà nói thì cho đến lúc này sự bình tĩnh vẫn chưa quay về với tụi nó.

Cũng như lúc đi lên, hai đứa nhón chân sè sẹ lần về phía cuối hành lang rồi rón rén lần mò từng bậc cầu thang tối tăm để đi trở xuống, trong đầu không nghĩ đến điều gì khác hơn là làm sao về đến phòng trước khi nghe tiếng guốc lịch kịch của ông K’Tul vang lên.

Kăply ngồi nhấp nhổm bên mép giường, hoảng hồn bật dậy khi thấy Nguyên và Suku thò đầu ra khỏi áo tàng hình và toét miệng cười với nó.

- Cởi luôn ra đi. – Kăply làu bàu – Ngó ghê quá!

Nó nheo mắt nhìn Nguyên:

- Đã lọt được vào bí thất của cậu K’Tul chưa?

- Chưa. – Nguyên đáp, vừa loay hoay xếp chiếc áo màu cánh gián trên tay – Nhưng tao và Suku đã biết bí thất của cậu K’Tul nằm ở đâu rồi.

- Ở đâu?

- Ngay trong kho chứa đồ.

Mặt Kăply xám đi, có thể thấy nó vẫn chưa hết sợ khi nghĩ đến tình cảnh hôm nọ trong nhà kho. Nó hỏi lại, môi run run:

- Chỗ hôm trước tao và mày…

- Đúng rồi. – Nguyên thản nhiên đáp, trông mặt thì cứ như thể vừa rồi bụng nó chưa hề thắt lại khi chui trở vô cái kho chứa đồ âm u đó – Khi nãy tụi tao phát hiện trong nhà kho có một hành lang dẫn đến bí thất.

- Sao tụi mày không vào? – Kăply liếm đôi môi tự nhiên khô rang.

- Cậu K’Tul đang ở trỏng.

Suku vọt miệng đáp, rồi nó hồi hộp thuật lại cho Kăply những gì vừa xảy ra ở tầng lầu trên. Kăply nghệt mặt ra nghe, tay này xoắn lấy tay kia, cảm thấy mừng là nó đã không có mặt ở đó.

- Thứ sáu này, tụi mình sẽ quay lại chỗ đó. – Suku kết thúc cuộc tường thuật bằng một câu nói giống như hò hẹn, nghe phấn khởi hết sức.

Mặt Kăply một lần nữa trông giống như vừa chui ra từ một đống tro. Nó ngẩn ngơ:

- Tụi mình á?

- Ừ, tụi mình. – Suku hồn nhiên, tiếp tục phơi ra bộ mặt phấn khích – Hôm đó em, anh K’Brăk và anh cùng đi.

- Yên tâm đi, K’Brêt. Thứ sáu cậu K’Tul lê la suốt ngày ngoài cửa tiệm của lão Luclac, sợ gì chứ!

Nguyên đập tay lên vai Kăply, hắng giọng trấn an, tin rằng nếu mình không lên tiếng chắc thằng này không ngại gì mà không tè bậy ra quần.Chương 15

CƠN GIẬN CỦA ÔNG K’TUL

Cục trưởng Cục an ninh Ama Moto lại đến trường Đămri, lần này yêu cầu hiệu trưởng N’Trang Long cho ông ta gặp K’Brăk và K’Brêt.

- Tôi cần sự giúp đỡ của các chiến binh giữ đền. Hôm qua vừa xảy ra cuộc đua chổi bay của đám thanh niên. Một cuộc đua phải nói là rùng rợn chưa từng thấy. Đã có hai người chết, ông N’Trang Long. – Ama Moto mở đầu câu chuyện bằng vẻ mặt cực kỳ nghiêm trọng.

- Tôi biết. – Thầy N’Trang Long lim dim mắt – Cả tờ Lang Biang hằng ngày lẫn tờ Tin nhanh N, S & D trưa nay đều có đưa tin này.

Ama Moto hừ mũi, cố kềm sự bất mãn trước vẻ tỉnh queo của vị hiệu trưởng:

- Đám này hình như con nhà giàu. Toàn cỡi Wind XP. Tàng lắm cũng là loại Wind 2000.

Và khi ông nói tiếp, những thớ thịt trên gò má bắt đầu giần giật:

- Hừm, tụi nó phóng như điên. Ông biết không, cả bọn đều dùng vải đen bịt mắt. Hơn một nửa trong số đó chít khăn tang trên đầu. Thiệt là một lũ rồ. May mà chỉ mất mạng có hai đứa – những thằng nhãi xấu số này bị lạc tay lái, đâm đầu ngay chóc vào Hòn Đá Tảng chỗ hẻm Gieo Sự Chết. Mẹ kiếp! – Cục trưởng an ninh bất thần văng tục – Thằng nào đặt cái tên hẻm xui thấy bà cố luôn!

- Hôm qua cũng có ba đứa đâm thẳng vào ngọn tháp tôi và ông đang ngồi. – Thầy N’Trang Long thở dài và mở mắt ra – Nếu trường Đămri không ếm bùa Bất khả xâm phạm, số tử vong đã là năm chớ không phải là hai, ông Cục trưởng.

- Ông thừa biết tại sao bỗng xảy ra vụ đua chổi man rợ này rồi chớ? – Ama Moto xoáy mắt vào mặt thầy N’Trang Long, trông bộ tịch thì không phải chờ câu trả lời mà để chờ bắt quả tang thầy nói dối là không biết.

- Dĩ nhiên là tôi đã đoán ra. – Thầy N’Trang Long thản nhiên.

Ama Moto buột miệng:

- Balikem?

- Thì cô ta chớ ai. – Thầy N’Trang Long chép miệng và khẽ cựa quậy người khiến thầy ngó giống như ngọn tháp bị lún – Chỉ có nhan sắc chim sa cá lặn và bông hoa đỏ trên đầu cô ta mới khiến đám thanh niên phát cuồng lên như thế thôi.

Ama Moto khoa tay, phác một cử chỉ không rõ rệt, trông có phần lúng túng (có lẽ ông là loại người không quen hạ mình nhờ vả ai):

- Đó chính là lý do tôi đến gặp ông bữa nay. Tụi đua chổi đã bị bên tôi tóm hết rồi. Nhưng đứa nào đứa nấy nom như miếng giẻ rách. Ông cho tôi mượn pháp sư Lăk và pháp sư K’Buđăng mấy bữa…

- Tốt thôi, ông Cục trưởng. – Thầy N’Trang Long dễ dãi, thậm chí thầy đồng ý ngay khi ông Ama Moto chưa nói hết câu – Tôi nghĩ đó là chút đóng góp nhỏ mọn của trường Đămri.

- Chuyện thứ hai… – Ama Moto có vẻ lưỡng lự khi nói tiếp, tay ông bấu chặt vạt áo chùng màu lam như thể ông giấu bùa Can đảm ở trỏng – Chuyện thứ hai chính là đề nghị mà tôi đã nói với ông khi mới đặt chân vào đây. Tôi muốn có K’Brăk và K’Brêt…

Lần này cũng không đợi Ama Moto nói hết, thầy N’Trang Long cắt ngang:

- Ông Cục trưởng, hổng lẽ ông không biết chiến binh giữ đền không phải là những nhân vật mà Cục an ninh có thể điều động?

- Tôi biết. – Ama Moto nhăn nhó – Nhưng ở đây không phải là điều động. Tôi chỉ muốn được giúp đỡ. Dù sao, đối phó với Balikem cũng là công việc chung.

Như thể sợ thầy N’Trang Long tiếp tục phản đối, Ama Moto hấp tấp tuôn một tràng, giọng hờn trách:

- Ông thử nghĩ xem, những Đại phù thủy lừng lẫy như Mackeno, Păng Sur, Pi Năng Súp và Akô Nô đều không thể ra tay. Các giáo viên của ông lại không được phép can thiệp vào những sự kiện xảy ra bên ngoài khuôn viên nhà trường. Bọn người của Ama Êban thì khỏi nói chuyện nhờ vả đi, mà bọn họ cũng ở tận đẩu tận đâu…

- Sao nghe nói bên ông vừa bắt được một con mụ nào đó? – Thầy N’Trang Long bỗng hỏi – Tôi tưởng Balikem bị sa lưới rồi chớ.

Ama Moto bất giác thu mình lại như bị ong chích và khi trả lời, mặt ông ửng lên như vừa chui ra khỏi lò than:

- À, đó là mụ Bêlikem.

- Bêlikem à? – Đôi mắt to cồ cộ của thầy N’Trang Long mở to thiệt to, như thể thầy cố thử làm cho nó to hơn nữa.

- Cục an ninh đến khổ vì con mụ này. – Ama Moto giật mạnh cổ áo, cái động tác mà nếu không làm có thể ông sẽ ngạt thở vì tức – Mười bốn, mười lăm năm trước, đám nhân viên của tôi bắt nhầm mụ không biết bao nhiêu là lần. Đầu đuôi cũng tại cái tên thổ tả của mụ. Tên gì không đặt, lại đặt là Bêlikem. Mụ đi đăng ký báo dài hạn, bị bắt về. Mụ đặt chỗ đi du lịch, cũng bị bắt. Đôi khi không làm gì, mụ cũng bị bắt. Chẳng qua hễ thấy bóng dáng của nhân viên Cục an ninh là mụ co giò chạy, chắc mụ hãi cái chuyện bị điệu về trại tạm giam, nhưng mụ cứ thậm thà thậm thụt như thế, ai mà chẳng nghi ngờ kia chớ.

Rõ ràng thầy N’Trang Long đang làm hết sức để nhấn chìm một tiếng cười đằng sau hàng ria sâu róm. Thầy dùng ngón tay trỏ gãi chỗ cằm, cố nặn ra một vẻ mặt trang nghiêm:

- Thế lần này…

- Lần này cũng thế. – Hoàn toàn không ý thức, Ama Moto cũng gãi gãi chỗ cằm, không biết mình đang bắt chước thầy N’Trang Long – Bọn tôi đang rối tinh rối mù, thế mà mụ lại cứ đi lơn tơn ngoài phố, rồi chạy quýnh lên khi thấy mấy cái huy hiệu Cục an ninh…

- Ông cục trưởng. – Thầy N’Trang Long tặc lưỡi, có vẻ thấy đề tài Bêlikem không còn gì hấp dẫn – Nhưng dù thế nào đi nữa, K’Brăk và K’Brêt cũng không giúp gì cho ông được đâu. Chiến binh giữ đền đời thứ ba có sứ mạng rất quan trọng, tôi nghĩ là quan trọng hơn nhiều so với việc đối phó với hữu hộ pháp Hắc Ám.

- Ông N’Trang Long… – Cục trưởng an ninh kêu lên bằng giọng của người vừa bị ai đó bóp cổ.

- Hơn nữa, ở chỗ ông đầy rẫy siêu phù thủy.

- Nhưng Balikem là một con cáo thành tinh. – Ama Moto khò khè nói.

Thầy N’Trang Long di chuyển ngón tay xuống chỗ râu cằm như thể ý tưởng của thầy nằm hết chỗ chòm râu.

- Ông cứ giao đám thuộc hạ của ông cho thám tử Eakar. Eakar không phải là một phù thủy mạnh, nhưng ông ta rất giàu kinh nghiệm đối phó với phe Hắc Ám. Sau vụ vừa rồi, tôi nghĩ Eakar càng khôn ngoan hơn…

- Ông không hiểu, ông N’Trang Long. – Ama Moto thở hắt ra – Cho đến hôm nay Eakar vẫn còn mơ màng về người con gái cài hoa đỏ.

- Ngay cả khi biết cô ta là hữu hộ pháp của trùm Bastu?

- Ngay cả khi biết cô ta là hữu hộ pháp của trùm Bastu. – Ama Moto lặp lại một cách máy móc.

Thầy N’Trang Long lắc đầu và ngã người vào lưng ghế, từ chòm râu rậm của thầy bay ra một tiếng thở phì:

- Balikem quả là một phụ nữ đầy ma lực.

- Chính vì vậy mà tôi muốn nhờ đến các chiến binh giữ đền. – Ama Moto chóp ngay lấy lời cảm thán của vị hiệu trưởng – K’Brăk và K’Brêt dù sao cũng là những chú nhóc…

- Tôi biết ông muốn nói gì, ông Cục trưởng. – Thầy N’Trang Long chép miệng và khi nói tiếp, một lần nữa thầy nhắm mắt lại để không nhìn thấy vẻ mặt thất vọng của ông Cục trưởng – Nhưng tôi xin báo với ông một tin buồn là các chiến binh giữ đền non choẹt của chúng ta đã biết yêu rồi đấy…

oOo

Nguyên và Kăply ngồi khép nép trước chiếc bàn giấy to đùng trong văn phòng hiệu trưởng, nghe thầy N’Trang Long thuật lại cuộc trò chuyện với Cục trưởng Cục an ninh, tới chỗ thầy khoe cả hai đã biết yêu thì mặt mày hai đứa ngó giống như có ráng chiều chiếu vào.

- Con… con… – Kăply ấp úng nói, cảm thấy mặt, cổ và tai như có thoa dầu nóng.

- Ta chỉ nói vậy thôi. – Thầy N’Trang Long làm một động tác giống như là nhún vai, Nguyên có cảm tưởng thầy đang kín đáo mỉm cười dưới hàng ria rậm – Có hay không thì tụi con tự biết chớ ta thì nói thiệt là ta hổng muốn biết ba chuyện lăng nhăng này lắm.

Giọng thầy đột ngột đổi sang nghiêm nghị:

- Cái mà ta muốn biết…

- Tụi con đã tìm ra manh mối rồi, thưa thầy. – Nguyên nói ngay, trước khi thầy N’Trang Long nhắc đến hai chữ “báu vật”.

Đôi mắt to cồ cộ của thầy rọi thẳng vào mặt nó:

- Nghĩa là có nhúc nhích chút xíu rồi hả con?

- Dạ.

- Tốt lắm. – Thầy chép miệng, hài lòng – Tụi con cứ tiếp tục đi. Phải khẩn trương lên.

Nguyên thấp thỏm:

- Còn vụ Balikem…

- Con đừng lo, Balikem đâu phải là Bastu. Ama Moto chỉ vờ vịt thế thôi chớ lão sẽ chặn được tay mụ. Lão muốn dựa vào tụi con chẳng qua do lão không muốn dốc toàn lực ra thôi.

- Con không hiểu, thưa thầy. – Nguyên ngơ ngác nhìn vầng trán thông thái của thầy N’Trang Long.

- Ama Moto biết sớm muộn gì trùm Bastu cũng sẽ quay lại. Lão cũng sợ Ôkô Na bất thần trỗi dậy. Nên lão không muốn hao binh tổn tướng trong lúc này, con hiểu không?

- Con hiểu. – Nguyên đáp, vẫn chưa thật thông suốt. Nó nghĩ nếu nó và Kăply đi tìm Balikem thì điều đó chỉ tốt cho an ninh chung, không hiểu sao thầy hiệu trưởng lại không tán thành.

- Nghe nè, K’Brăk. – Như đọc được ý nghĩ của Nguyên qua vẻ ngập ngừng trong mắt nó, thầy N’Trang Long tặc lưỡi, cố nói thật chậm như để từng lời có thể thấm vào cái đầu u mê của đứa học trò – Bữa nay thú thiệt là ta phải ráng hết sức để ép ta nhắc lại một lần nữa cho con nhớ. Con và K’Brêt dỏng tai lên mà nghe đây: Mầm họa tiềm tàng của xứ Lang Biang nằm ở trùm Hắc Ám chớ không phải ở mấy tên lặt vặt như Balikem hay Buriăk. Một khi con và K’Brêt hoàn thành sứ mạng của mình thì mầm họa đó sẽ tự động bị tiêu diệt. Ngược lại, nếu tụi con không sớm tìm ra báu vật ở lâu đài K’Rahlan, và chẳng may ba mẹ con không thể cầm chân được Bastu và đành để cho hắn quay lại thì lúc đó cái xứ Lang Biang này banh ta lông là điều không cần phải giàu tưởng tượng mới hình dung ra được. Ta nói đến khô nước miếng như vậy, con đã hiểu chưa?

- Con hiểu.

Nguyên gật đầu, lần này thì nó hiểu thiệt, mà làm sao không hiểu cho được khi nó cũng công nhận là chưa lần nào thầy N’Trang Long nói một hơi dài ngoằng như vậy và trông cái cách nhấn nhá từng từ của thầy có cảm giác như thầy đang cố gắng giảng giải cho một cục đất hiểu thế nào là một phép chia phân số.

oOo

Kăply không nghĩ là nó có thể lọt vào tận đây và đứng trước cánh cửa bí thất của ông K’Tul một cách dễ dàng như vậy. Hôm nay là thứ sáu và mặc dù biết chắc ông K’Tul đang ở tiệm Những Dấu Hỏi, hồi nãy Kăply vẫn thấy ơn ớn khi Suku giúi chiếc áo màu cánh gián vào tay nó kèm theo câu nói gọn lỏn:

- Anh mặc vô đi.

Kăply cố tình xỏ tay áo thiệt là lề mề, hy vọng Nguyên nổi nóng mà bắt nó ở lại nhưng thằng bạn đại ca của nó sáng nay không biết ăn trúng thứ gì mà tự nhiên tỏ ra dễ dãi quá sức.

Ba đứa tàng hình leo lên tầng trên và chui vô kho chứa đồ dễ ợt. Đến lúc đó Kăply mới sung sướng nhận ra cuộc mạo hiểm rốt cuộc cũng chẳng có gì đáng sợ lắm, dù lúc hồi hộp đặt chân vô nhà kho nó cũng hơi rờn rợn khi nhớ đến chuyến thăm dò lần trước.

Lúc này, Kăply đứng một bên, tò mò nhìn hình bàn tay trên cánh cửa đen kịt trước mặt, đoán là Suku đang áp bàn tay lên đó. Hình bàn tay được khắc lõm vào cánh cửa bí thất, ở vị trí cao ngang tầm mắt, nếu không để ý rất khó phát hiện. Hình bàn tay này, lần trước Nguyên và Suku không nhìn thấy vì đứng hơi xa, lại bị thân hình của ông K’Tul che khuất.

- Mấu chốt là ở đây, anh K’Brăk. – Vừa nhìn thấy dấu hiệu này, Suku đã mấp máy môi và nhanh nhẹn áp bàn tay phải vào hình bàn tay trên cánh cửa, những ngón tay gần như trùng khít với các vết lõm, dĩ nhiên là không thực vừa vặn vì bàn tay của nó là bàn tay nhỏ nhắn của thằng oắt mười hai tuổi.

Suku ịn tay lên cửa, rì rầm niệm chú:

- Tới luôn!

Cả ba dán mắt vào cánh cửa bí thất, phập phồng chờ đợi nhưng một hồi lâu chẳng có gì xảy ra hết. Cánh cửa không trượt qua một bên như tụi nó nghĩ, cũng hổng thèm nhúc nhích.

- Lạ quá. – Suku nói khẽ.

- Em để anh thử xem.

Nguyên nói và bước tới một bước. Nó cẩn thận mân mê lớp sơn và rờ rẫm các vết khắc như thể nó cho rằng bằng xúc giác nó có thể khám phá bí mật của cánh cửa và dĩ nhiên là nó chẳng khám phá được cái quái gì hết.

Suku ịn tay lên cửa, rì rầm niệm chú.

Cuối cùng, Nguyên áp tay vào hình bàn tay và cũng như Suku, nó bắt đầu đọc thần chú trong tâm trạng vô cùng căng thẳng.

Cánh cửa vẫn trơ ra trước vẻ thất vọng của bọn trẻ.

Hy vọng cuối cùng được dồn vào Kăply, mặc dù không đứa nào – kể cả Kăply – tin rằng nó có thể buộc được cánh cửa chuyển động. Kăply định quay sang Nguyên và Suku để bằng vẻ mặt thiểu não báo trước cho hai đứa này là đừng có kỳ vọng vào nó nhiều quá nhưng sực nhớ ra nó không thể trông thấy tụi bạn và tụi bạn cũng không thể nhìn thấy ánh mắt lo lắng của nó. Kăply đành ngập ngừng đưa tay ra phía trước.

Cánh cửa lạnh ngắt khiến nó vừa chạm tay vào đã muốn rụt phắt lại nhưng rốt cuộc nó vẫn bắt được mình áp tay vào vết lõm và bắt đầu hồi hộp niệm chú.

Kăply nhận ra sự bất lực của mình từng giây một. Nó biết năng lượng pháp thuật của nó hiện nay không kém gì các siêu phù thủy mạnh nhất nhưng để mở được cánh cửa này thì nó hoàn toàn vô vọng.

Không nhìn thấy Kăply nhưng Nguyên vẫn đoán được vẻ mặt rầu rĩ của bạn. Nó quay sang phía mà nó nghĩ là Suku đang đứng, băn khoăn hỏi:

- Hay tụi mình niệm thần chú không đúng?

- Thần chú Tới luôn là thần chú có tác dụng với tất cả mọi cánh cửa bị ếm bùa, anh K’Brăk.

Suku đáp, từ khoảng không. Thoạt đầu Nguyên không giấu vẻ ngờ vực (mặc dù giọng điệu của Suku tự tin một cách trắng trợn) nhưng khi nhớ lại mình đã dùng chính câu thần chú này để xê dịch chiếc tủ đựng giấy tờ trong văn phòng hiệu trưởng thì Nguyên thở hắt ra, nếu không trùm kín người trong chiếc áo tàng hình chắc nó đã đưa tay dứt ít nhất là ba sợi tóc:

- Quay ra thôi.

Cho đến khi về tới phòng riêng, chui ra khỏi những chiếc áo tàng hình, bộ mặt của ba đứa vẫn còn in đậm vẻ chán chường.

Kăply gieo phịch người xuống giường:

- Bó tay rồi!

- Bó tay à? – Nguyên nhìn bạn, vu vơ hỏi, đầu óc rõ ràng là đang lãng đi.

- Không thể như thế được… không thể như thế được…

Ở bên cạnh, Suku không ngừng lẩm bẩm, tia nhìn đang lang thang đâu đó trên trần nhà.

- Cái gì không được hở Suku? – Kăply thò chân khỏi giường, đạp vô mông thằng oắt.

- Tại sao cậu K’Tul mở được cửa mà tụi mình mở không được?

Suku đáp trả câu hỏi của Kăply bằng một câu hỏi khác, ánh mắt nó rời khỏi trần nhà và đậu lại trên mặt Kăply nhưng trông bộ dạng ngẩn ngơ của nó thì hình như thằng oắt không nhìn thấy Kăply mà đang nhìn xuyên qua người thằng này để tìm kiếm một bí mật nào đó giấu ở phía sau.

- Đơn giản thôi, Suku. – Nguyên nhún vai – Bởi vì đó là bí thất của cậu K’Tul.

Kăply thở dài:

- Theo như lời Êmê thì hình như trên đời này chỉ có một mình cậu K’Tul mở được cánh cửa đó mà thôi.

- Đương nhiên rồi. – Suku bất thần reo lên, điệu bộ phấn khích đến mức có cảm tưởng nó sắp sửa biểu diễn một cú santô bốn vòng – Vì cánh cửa đó chỉ có thể mở được bằng chính bàn tay của cậu.

Trong một giây, Nguyên cảm thấy có một lằn chớp nháng qua đầu. Nó nghiến chặt răng, rít lên sung sướng:

- Thiệt là độc đáo. Thiệt là quỷ quái. Thiệt là thông minh.

- Thiệt là khó hiểu.

Kăply hầm hè rít lên theo, chưa bao giờ nó muốn đá cho Nguyên và Suku mỗi đứa một đá như lúc này.

- Nghe nè, K’Brêt! – Nguyên đấm vào vai Kăply, một động tác mà một đứa điềm tĩnh như nó rất ít khi làm – Vấn đề không phải ở bàn tay mà ở những dấu vân tay.

- Đúng là vậy đó, anh K’Brêt. – Suku hào hứng tiếp – Cánh cửa bí thất của cậu K’Tul đã được ếm bùa Nhận dạng.

Kăply hổng hiểu gì hết trọi. Nó đang cố vắt óc, vất vả như người ta vắt một tấm chăn ướt, nhưng vẫn chẳng thấy rỉ ra một giọt thông minh nào.

- Là sao há? – Cuối cùng, nó đành phun ra thắc mắc, chấp nhận bị kêu là ngu.

- Anh K’Brêt. – Suku hất lọn tóc sắp chọc vào mắt – Trên đời không có hai dấu vân tay giống nhau.

- Ê, anh đâu có ngốc đến mức không biết điều đó chớ. – Kăply ré lên đầy tự ái – Nhưng thú thiệt là anh hổng hiểu…

Đang nói, Kăply bỗng hét lên một tràng “aaaaaa… aaaa… aa… a…”.

Suku nhìn Kăply, toét miệng cười:

- Anh hiểu rồi chớ?

- Có gì đâu mà không hiểu! – Kăply gật đầu và đáp bằng giọng hào hứng như thể nó là người đầu tiên phát hiện ra bí mật này và đang giảng giải cho Suku nghe – Thần chú Tới luôn chỉ phát huy tác dụng nếu cánh cửa nhận ra đúng dấu vân tay của cậu K’Tul…

Nguyên khụt khịt mũi, cắt ngang:

- Vấn đề là làm sao lấy được dấu vân tay của cậu K’Tul.

Câu nói của Nguyên làm Kăply đâm cụt hứng. Nó nói mà mặt sụp xuống.

- Ờ, lấy dấu vân tay của cậu K’Tul chắc còn khó hơn lấy sao trên trời.

Có vẻ như sự chán chường sắp quay lại trên mặt Kăply và Suku đang cố làm cho điều đó đừng xảy ra. Nó đập hai tay vào nhau, đôi mắt sáng long lanh lăn qua lăn lại như hai giọt nước:

- Em có cách rồi.

oOo

Bữa ăn tối đó tại lâu đài K’Rahlan bắt đầu bằng một sự cố dở khóc dở cười.

Như thường lệ, ông K’Tul là người đầu tiên vào bàn ăn và bữa nay khi vừa đặt ********* xuống ghế, ông ngạc nhiên thấy có cái gì đó cồm cộm dưới mông. Ông nhổm người lên và đưa tay mò mẫm, cảm thấy là lạ khi chạm vào một thứ quỉ quái mềm mềm, dẻo dẻo.

Ông nhặt cái vật đó đưa ra trước mặt để xem, ngay lập tức nhích ra xa, hừ giọng một cái và nhăn mặt liệng qua hàng rào.

Nấp trên hành lang lầu một, Nguyên và Kăply cố nín cười khi thấy ông K’Tul phun nước bọt liên tục. Và khi ông đứng lên thì hai đứa co giò chạy biến, biết ông sắp quay trở về phòng để tắm rửa và thay quần áo.

Đến khi ông K’Tul trở xuống vườn khi mọi người đã đông đủ quanh bàn ăn. Nguyên và Kăply lúc này đã ngồi cạnh Êmê và K’Tub, đang vờ giương mắt săm soi các khoanh thịt trên chiếc đĩa trước mặt.

- Đam Pao! Chơleng! Hai đứa ra đây biểu!

Vừa ngồi xuống ghế, ông K’Tul đã cất tiếng gọi, giọng quạu đeo.

Hai đứa nhỏ từ trong nhà bếp lật đật chạy ra trong khi bà Êmô, Êmê và K’Tub trợn mắt nhìn, cảm thấy sự kiện bất thường này thiệt đáng chú ý.

- Thưa cậu… – Đam Pao ấp úng nhìn ông K’Tul, vẻ dò hỏi.

- Tụi bay làm ăn cái kiểu gì vậy hả?

Đam Pao sợ hãi đưa mắt nhìn bà Êmô, nhìn bọn trẻ, rồi quay lại nhìn ông K’Tul, vẫn không biết mình bị mắng về tội gì.

- Thưa cậu…

Đam Pao lại lí nhí trong khi con Chơleng đứng rúm người bên cạnh.

Trừ Nguyên và Kăply, những người ngồi quanh bàn ăn đang tò mò dồn mắt vào ông K’Tul, cố đoán xem cái gì đang đốt nóng ông như vậy.

- Khi nãy tụ bay có lau bàn lau ghế không đó? – Ông K’Tul cố ép mình lấy giọng bình tĩnh, mắt xoáy vào mặt Đam Pao, trông đe dọa như họng súng sẵn sàng nhả đạn nếu thằng này dám nói dối.

- Dạ có, thưa cậu. – Đam Pao ngơ ngác đáp – Bao giờ tụi con cũng lau bàn ghế trước mỗi bữa ăn mà.

- Có cái con khỉ! – Ông K’Tul thình lình nổi cáu, mọi người thấy rõ ông hoàn toàn thất bại trong việc làm chủ bản thân

- Có mà vừa rồi… vừa rồi…

Ông K’Tul liếc những món ăn bày trước mặt, biết mình không thể nói huỵch toẹt ra chuyện khi nãy. Ông ngắc ngứ một hồi rồi thở phì phì:

- Thiệt tức chết đi mất.

Rồi thấy thằng Đam Pao và con Chơleng cứ tròn mắt ra nhìn mình, ông điên tiết gầm lên:

- Tụi bay có xéo đi không? Còn giương mắt ếch ra nhìn nữa hả!

Chưa kịp hiểu ra tại sao mình bị đuổi đi. Mặc dù trước giờ chưa gặp điều gì kỳ cục như thế, thằng Đam Pao và con Chơleng không dám hỏi tới hỏi lui. Ông K’Tul vừa quát một tiếng, hai đứa lập tức co giò chạy thẳng.

Ông K’Tul dường như chưa hết bực. Ông tóm lấy chiếc khăn rằn, cáu kỉnh vò mạnh đến mức suýt chút nữa chiếc khăn đã bị lôi tuột khỏi vai.

- Chuyện gì thế, anh K’Tul? – Bà Êmô thận trọng hỏi, cố lấy giọng thiệt mềm mại.

- Không có gì! – Ông K’Tul gừ gừ đằng sau bộ ria con kiến.

- Bàn ghế thỉnh thoảng quên lau cũng đâu có sao. – Thằng K’Tub vọt miệng – Có gì mà ba quạu dữ vậy!

- Ta không quen ở dơ như mày, thằng kia! – Ông K’Tul có vẻ sắp dịu đi trước thái độ nhẹ nhàng của bà Êmô, bị thằng con nói xóc hông, lại gầm lên.

Thằng K’Tub cầm lên chiếc nĩa, tỉnh bơ:

- Con đói bụng rồi, ba.

- Mày ăn đi. Ta không ăn.

Ông K’Tul xô ghế đứng dậy, đùng đùng bỏ đi lại chỗ cầu thang, đôi guốc bực dọc nghiến rào rạo trên lớp sỏi.

Bà Êmô không ngăn ông K’Tul, nhưng đưa mắt nhìn K’Tub có ý trách móc.

- Con có nói gì quá đáng đâu, dì. – Cúi đầu vô đĩa sinh vật nguyên thủy để tránh cái nhìn sắc như dao của bà Êmô, K’Tub làu bàu nói, tay chọc nĩa thịt khoanh tổ chảng vô miệng.

Bà Êmô thở ra và lắc lắc mái tóc vàng, một động tác cho thấy bà không buồn nói thêm gì nữa, không phải vì thằng K’Tub quá cứng đầu mà vì thiệt tình bà cũng không hiểu tại sao ông K’Tul lại nổi điên lên trước câu nói nhẹ hều của thằng K’Tub.

- Cậu K’Tul bữa nay làm sao ấy.

Êmê bênh K’Tub, và lần này thì bà Êmô không thể không mở miệng.

- Ăn đi, tụi con. – Bà nói, và bọn trẻ hiểu là câu chuyện về ông K’Tul đến đây coi như kết thúc.

Trong bàn, chỉ có Nguyên và Kăply biết điều gì đã thổi phồng cơn giận của ông K’Tul và lý do thực sự đẩy ông ra khỏi bàn ăn: Thằng Suku tinh quái đã biến cục đá nhỏ thành một cục ********** mèo và trước khi bữa ăn bắt đầu khoảng dăm phút, chính Kăply đã lén lút đặt sản phẩm độc đáo của Suku lên ghế ngồi của ông K’Tul khiến ông vô tình bốc nó lên tay rồi giật mình ghê tởm liệng đi.

Tuy không tận mắt chứng kiến nhưng Nguyên và Kăply biết chắc rằng khi cục ********** mèo rơi xuống, lăn lông lốc trên mặt cỏ bên ngoài hàng rào, cánh tay đã được đeo găng của Baltalon lập tức trồi lên từ dưới đất, nhanh nhẹn chộp lấy rồi vội vả trườn đi như một tên trộm siêu hạng.Chương 16

PÔCA – PÔCÔ

Khi Suku bí mật đem tới khoe Nguyên và Kăply chiếc bao tay nó vừa chế tạo, trên đó những dấu vân tay được mô phỏng theo đúng dấu vân tay mà ông K’Tul ịn trên cục phân giả thì hai đứa đã nôn nao lắm rồi. Nhưng dù sốt ruột đến mấy, Nguyên cũng đủ tỉnh táo để hiểu rằng mò vào bí thất của ông K’Tul trong khi không xác định được ông đang ở đâu cũng mạo hiểm không kém gì đút đầu vào miệng cá sấu.

Trong khi chờ đến ngày thứ sáu, ngày mà tụi nó biết chắc là ông K’Tul không có nhà, tụi nó vẫn buộc phải ép mình tới trường, ép mình nhìn bộ mặt khó ưa của thằng Amara. Cặp mắt thằng này vốn đã ti hí, mấy hôm nay nó cứ cười tít cả lên nên gần như không thấy mắt nó đâu. Trong khi tụi học sinh Đămri không giấu vẻ lo lắng khi mọi thứ chung quanh đang rối tung thì thằng Amara lại cực kỳ khoái chí.

- Tụi mày có đọc báo Tin nhanh N, S & D hôm qua không? – Gặp ai, nó cũng hỏi như quát vào mặt – Trong hai đứa mất mạng vì đua chổi bay hôm nọ, có một thằng là sinh viên lớp Hướng nghiệp của trường mình đó.

Sáng nay nó chặn Nguyên và Kăply ngay tại cửa lớp một cách thô bạo cũng chỉ để phun vào mặt hai đứa này cái câu đó.

- Thì sao nè? – Kăply hầm hè.

Amara nhếch mép, tiếp tục phơi bộ mặt khiêu khích:

- Thì có nghĩa là hiệu trưởng trường mình phải lãnh đủ chứ sao.

- Chỉ những đứa có cái đầu làm bằng gạch mới nghĩ như vậy thôi. – Kăply nhún vai, cố để đừng nổi nóng (nhưng rõ ràng là nó đã nổi nóng, nếu không nó đã không vô ý dùng hình ảnh cục gạch để chửi thằng Amara).

- Thầy N’Trang Long chỉ chịu trách nhiệm về những gì xảy ra trong khuôn viên nhà trường thôi, Amara.

Nguyên nói bằng giọng nhỏ nhẹ và kéo tay Kăply đi lại chỗ ngồi, theo cái cách người ta kéo mồi lửa tách ra khỏi một đống rơm trước khi mọt thứ kịp trở nên tệ hại.

- Hừm, tụi bay chống mắt lên mà coi!

Amara nói với theo, giọng gây hấn, nhưng Nguyên đã đột ngột giống như một kẻ bị điếc bẩm sinh.

Trong những ngày đó, sự xuất hiện của hai cha con họa sĩ Yan Dran và cặp ma nhóc song sinh Pôcô – Pôca tại trường Đămri giống như một cơn mưa mùa hè tưới mát những cơn bực dọc do hai thầy trò Amara – Y Đê gây ra cho bọn Kăply.

Thầy N’Trang Long giới thiệu ngắn gọn trước toàn trường:

- Họa sĩ Yan Dran sẽ phụ trách môn hội họa bên lớp Hướng nghiệp.

Khác với giáo viên thỉnh giảng ở lớp dạy nghề như danh y K’Buđăng hay tổng biên tập Kan Blao, họa sĩ Yan Dran do nhà ở quá xa nên được trú ngụ luôn tại trường, trong một căn phòng do thầy N’Trang Long bố trí ngay trong tòa tháp phía bắc.

Học sĩ Yan Dran góa vợ nên đi đâu cũng tha thằng Yan Jik theo. Còn thằng Yan Jik thì lẽ dĩ nhiên đi đâu cũng tha hai anh em Pôcô – Pôca đi theo. Nếu lão quản gia Imđi không ở lại trông nhà, cả nhà Yan Dran coi như dời hết về đây.

Bọn Kăply và ba thằng quỷ con (nói chính xác là một thằng quỷ con và hai con ma con) gặp lại nhau tay bắt mặt mừng tíu tít.

Nguyên xoa đầu thằng oắt:

- Em vẫn khỏe chứ Yan Jik?

- Em sắp hết khỏe rồi, anh K’Brăk. – Đang tươi hơn hớn, Yan Jik bỗng xịu mặt – Ba em nói sẽ tống em vô lớp Sơ cấp 1.

Bolobala cười:

- Em lớn rồi phải đi học chứ.

Êmê nhìn Yan Jik bằng ánh mắt cảnh giác:

- Còn cái câu thần chú bậy bạ gì gì đó…

- Thần chú Đứt phựt không phải là thần chú bậy bạ. – Thằng Yan Jik chu mỏ, trông cái cách nó nhướn mắt và gân cổ lên có thể thấy nó sắp sửa lao vào một cuộc tranh cãi, nhưng thoắt cái nó đâm ra xụi lơ.

- Nhưng dù sao thì ba em cũng không cho em xài thần chú đó nữa. – Yan Jik nói tiếp bằng giọng buồn thỉu buồn thiu.

- Đừng buồn nữa, Yan Jik. Câu thần chú đó thiệt ra chẳng có gì hay ho hết. Ở lớp Sơ cấp 1 có bao nhiêu là điều hay để học. – Mua an ủi và ngắm thằng oắt bằng ánh mắt trìu mến. Bữa nay Yan Jik không còn là thằng bé mặt mày lem luốc và lúc nào cũng mặc độc một cái quần cụt trễ rốn như tụi nó nhìn thấy hôm nọ. Khi ăn vận tươm tất, trông nó ít giống trẻ lang thang hơn, mặc dù cây cọ vẽ vẫn luôn ngọ nguậy trên tay.

Mua đang tấm tắc khen thầm, thằng oắt bỗng phun ra một câu khiến cô nàng muốn té ngửa:

- Ê, chị nói sai rồi nha. Đi chơi sướng hơn. Chỉ có ai ngu mới đi học.

- Trời đất! Ai bảo em vậy?

- Anh Pôcô và anh Pôca bảo chứ ai.

K’Tub gầm gừ:

- Hai thằng đó mới đứng đây đã biến đâu rồi? Để anh tẩn cho hai đứa lôm côm đó một trận.

Đang đảo mắt tìm anh em Pôcô – Pôca, K’Tub chợt giật mình phát hiện hai con ma nhóc đang bị một đám đông bu quanh chọc ghẹo ở góc sân phía tây, gần lớp học có cửa kính tím.

- Nguy rồi.

K’Tub la lớn và lật đật co giò chạy.

Phải rất vất vả bọn Kăply mới len qua được tụi học trò xúm đen xúm đỏ quanh hai anh em Pôcô – Pôca. Ở chính giữa vòng tròn, hai con ma nhóc đang đỏ mặt tía tai đấu khẩu với thầy trò Amara – Y Đê.

- Tụi mày là hai con ma. – Amara cười hề hề – Tao tưởng tụi mày phải biết là tụi mày đã chết ngắc từ đời nào rồi chớ.

- Tụi em không phải là ma. – Pôcô cãi lại, giọng đã muốn khóc.

- Coi nè!

Amara nói và bước tới một bước, quẹt tay vô người Pôcô. Mọi ánh mắt đều thấy cánh tay nó quẹt vào khoảng không.

- Thấy chưa! – Amara cười hăng hắc, đầu tóc xoăn tít của nó xoay tròn bốn phía như một con nhím – Tao hổng chạm được vô người nó mà nó cãi nó không phải là ma kìa tụi bay.

- Tụi em cũng đâu có chạm được vô người anh.

Thằng Pôca trong có vẻ lanh hơn thằng Pôcô, vừa nói nó vừa nhào tối vung tay quẹt vô người Amara nhanh như chớp, dĩ nhiên là nó cũng quơ tay vô khoảng không y như Amara vừa rồi.

Pôca nhảy lùi lại và toét miệng cười, cố tình nhại lại câu nói khi nãy của thằng Amara:

- Hè, như vậy là anh cũng chết ngắc từ đời kiếp nào rồi.

Thái độ trẻ con của Pôca khiến tụi bạn đứng quanh cười ồ. Amara vắt óc một hồi không tìm ra cách nào vặn lại thằng Pôca, đã vậy tiếng cười của lũ bạn không ngừng ngoáy vào tai khiến mặt nó ửng lên từng phút một.

Thằng Y Đê biết sư phụ đang bầm gan, liền giở giọng nịnh nọt:

- Thằng oắt này láo quá. Để tao trị nó cho.

Amara chưa kịp nói gì, Y Đê đã xông tới vung chân đá mạnh vô mông Pôca, quên phắt rằng nó không thể nào chạm được vào người đối phương.

Y Đê đã đánh vù một cái, dùng sức nhiều quá nên mất đà, người nó quay mòng mòng như đang đứng trên bàn xoay và ngã đánh “uỵch” một tiếng như trời giáng.

Lại một tràng cười rộ nổi lên.

K’Tub nhảy tưng tưng:

- Hay quá anh Y Đê.

Y Đê lồm cồm bò dậy, quắc mắt nhìn K’Tub:

- Mày nói gì, nhóc?

K’Tub tỉnh queo đáp:

- Em muốn nói là em chưa thấy ai đá đẹp như vậy. Anh đá lại cho em coi nào!

- Nghe đây, nhóc. – Y Đê nghiến răng ken két – Tụi tao và hai con ma cà chớn kia không ai chạm được vô ai chứ nắm tay tao dư sức dộng vô mặt mày đó.

Có vẻ như sắp xảy ra đánh nhau to nếu lúc đó Pôca không lên tiếng.

- Anh nói sai rồi. – Pôca cười hì hì – Anh không chạm được vào tụi em nhưng tụi em có thể làm anh sặc máu mũi dễ như bỡn.

- Chơi liền đi, anh Pôca. – Thằng Yan Jik đến lúc này mới chen lọt vô được bên trong. Vừa ló đầu vô nó đã huơ huơ cây cọ vẽ, hào hứng xúi liền – Cho hắn biết thế nào là lễ độ đi!

- Đừng có dóc! – Y Đê quay sang Pôca, mặt khinh khỉnh – Mày mà đụng được chéo áo tao, tao đi đầu xuống đất liền…

Y Đê nói chưa dứt câu, vòng tròn người bu quanh đã thấy trước mắt nháng lên một vệt xanh lè như có một tia chớp xẹt qua. Chưa ai rõ là chuyện gì, đã nghe tiếng “bốp”, liền theo đó là tiếng rú thảm thiết của Y Đê. Nó té bật ngửa ra sau, dộng đầu xuống đất một cái “cộp”.

Sự biến xảy ra quá nhanh, đến khi kịp định thần, tụi bạn mới nhìn thấy thằng Pôca đang thong thả cột lại dây thắt lưng – một đầu dây vẫn còn đang ngoe nguẩy.

- Thanh xà!

Thằng Amara khiếp hãi ré lên, lưỡi ríu lại, trông nó đã rất muốn bỏ chạy nhưng đôi chân có vẻ đã không còn nghe lời nó.

Trừ bọn Kăply, tụi bạn đứng quanh quýnh quíu dạt tuốt ra xa, cứ như thể Amara vừa cho nổ một quả mìn. Đứa nào đứa nấy mặt mày xanh lè xanh lét, mắt nơm nớp nhìn chỗ thắt lưng của Pôca. Quả nhiên, thằng nhóc đang thắt chiếc dây lưng màu xanh. Ở bên cạnh, thằng Pôcô cũng có chiếc dây lưng y hệt như vậy nhưng màu trắng.

Y Đê té bật ngửa ra sau…

- Thanh xà bạch xà! – Tiếng một đứa nào đó run rẩy rên lên – Loại linh xà này mà đớp trúng một miếng coi như tiêu đời!

Ở dưới đất, thằng Y Đê lóp ngóp bò dậy, sợ hãi nhìn quanh, bong bóng máu không ngừng phì ra từ lỗ mũi. Trông bộ tịch nhớn nhác của nó có thể thấy rõ nó vẫn chưa hiểu tại sao vừa rồi nó bị một cú quá mạng như vậy.

- Cái gì thế?

Tiếng thầy Akô Nô vang lên và một cái đầu nhỏ xíu để tóc trái đào thò vào giữa đám đông chộn rộn.

Amara chỉ tay vào Y Đê, hùng hổ méc, giọng nghiêm trọng như thể đang tố cáo một vụ giết người:

- Thầy ơi, thằng Y Đê mới bị hai con ma nhóc kia dùng linh xà đánh hộc máu đó thầy.

Trái với sự chờ đợi của Amara, thầy Akô Nô chỉ nhìn lướt qua Y Đê một cách hờ hững rồi quay phắt sang anh em Pôcô – Pôca, mắt sáng lên:

- Linh xà hả? Thiệt không đó?

Ánh mắt thầy dán cứng vào sợi thắt lưng của hai con ma nhóc, miệng reo ầm:

- A, đúng là thanh xà bạch xà rồi. Hì, lão Ôkô Na và đám Hắc tinh tinh ngốc nghếch thù hai con rắn này đến tận xương tủy đây mà.

Mặt mày hớn hờ, thầy chìa tay về phía cặp ma song sinh:

- Nè, bọn người đưa ta mượn xem hai con rắn chút đi.

Pôca bất giác bước lui một bước, đưa mắt tò mò ngắm thằng nhóc trạc tuổi mình, hỏi giọng cảnh giác:

- Mày là ai?

- Pôca, em không được hỗn. – Bolobala vọt miệng – Thầy Akô Nô đó.

- Thầy bà gì. – Thầy Akô Nô toét miệng cười hì hì, ánh mắt vẫn đi qua đi lại giữa Pôca và Pôcô một cách hào hứng – Ta và bọn ngươi coi như bạn bè thôi…

Đang nói nửa chừng, bất thình lình thầy thò tay ra chộp sợi thắt lưng của Pôca, giật mạnh một cái. Thầy Akô Nô ra tay nhanh như điện, lại hoàn toàn đột ngột, Pôca định ngăn cản hay tránh né thì đã muộn.

Con thanh xà lập tức tuột khỏi người Pôca. Nhưng thầy Akô Nô chưa kịp đưa lên mắt xem, Pôca đã chúm môi huýt gió một tiếng, con thanh xà đã cong mình búng ra khỏi tay thầy, bay lộn trở về.

Thầy Akô Nô lại đưa tay ra chộp. Thầy ra tay cực kỳ thần tốc nhưng cũng chỉ tóm được mẩu đuôi của con thanh xà. Ở phía bên kia, Pôca cũng nhanh tay tóm lấy đầu rắn. Người tóm đầu người tóm đuôi, cả hai bặm môi ra sức kéo.

Bọn học trò trường Đămri quên cả sợ, há hốc miệng đứng xem như xem trò kéo co. Ngay cả Pôcô cũng không giấu vẻ khoái trá. Nó chạy lòng vòng quanh hai đối thủ, giọng hí hửng:

- Hay quá! Cho chơi với!

Không đợi thầy Akô Nô và Pôca đáp lại, nó huýt lên một tiếng, con bạch xà đang quấn ngang lưng nó bay vù ra, xẹt thẳng về phía thầy Akô Nô như một vệt sao băng.

Trước ánh mắt hồi hộp của bọn trẻ, thầy Akô Nô vung cánh tay còn lại, chộp trúng ngay chóc đầu rắn. Chỉ đợi có vậy, thằng Pôcô tóm đuôi con bạch xà, láu táu:

- Bắt đầu kéo nha!

- Hì hì, ta chấp hai đứa ngươi đó.

Thầy Akô Nô nói mà mặt tươi hơn hớn. Kăply mỉm cười, nhớ là đã lâu rồi thầy Akô Nô không có dịp đùa giỡn với học trò. Bữa nay có lẽ gặp hai thằng nhóc cùng tuổi, tính trẻ con của thầy bất thần trỗi dậy.

Một ông thầy nhóc tì và hai con ma cứ thế phồng má trợn mắt kéo qua kéo lại cả buổi. Nếu lúc đó họa sĩ Yan Dran không xuất hiện, chắc thầy Akô Nô sẵn sàng bỏ dạy để chơi với hai con ma nhóc tới trưa.

- Pôcô, Pôca! Trước khi dẫn tụi bay tới đây, ta đã dặn thế nào hử?

Đi liền với câu nói là một cái đầu rối bù húc mạnh vào giữa đám đông. Vẫn bó người trong bộ đồ ngắn màu đen chật chội với những đường diềm màu mè ở vai và cổ tay, họa sĩ Yan Dran huơ thanh gươm ngắn cũn về phía đám kéo co, thở phì phì giận dữ:

- Tụi bay có thôi ngay đi không hả?

Lần này thì Pôcô và Pôca lập tức buông ngay hai con linh xà. Hai đứa quay về phía họa sĩ Yan Dran, ấp úng:

- Bố…

- Bố cái đầu tụi bay – Họa sĩ Yan Dran nổi cáu – Thanh xà và bạch xà đâu phải là thứ đồ chơi. Tao đã nói với tụi bay như thế nào ta hy vọng tụi bay chưa quên sạch hết chớ hả?

- Tụi con nhó mà. – Pôca chớp chớp mắt, giọng biết lỗi – Bố dặn khi đặt chân đến trường Đămri tụi con không được lôi hai con linh xà ra. Chỉ được phép dùng làm dây thắt lưng thôi.

Gương mặt Yan Dran đỏ bầm:

- Thế mà…

- Ông Yan Dran ơi. – Thầy Akô Nô xen lời, tay vung vẩy hai con rắn, vẻ bất bình – Ông hổng cho tụi nó lôi hai con rắn nhép này ra chơi thì tôi biết chơi với ai chớ.

- Ngài Akô Nô, đây là quy định của nhà trường. – Họa sĩ Yan Dran nhăn nhó, hạ cây gươm xuống – Tôi đã đồng ý với ngài N’Trang Long về chuyện này rồi, mong ngài thông cảm.

Câu nói của họa sĩ Yan Dran kết thúc luôn câu chuyện lình xình xoay quanh anh em Pôcô – Pôca trong buổi sáng hôm đó. Sau khi nhận lại hai con rắn từ tay thầy Akô Nô, hai con ma nhóc quấn cặp thanh xà bạch xà quanh thắt lưng rồi líu ríu đi theo họa sĩ Yan Dran về phía ngọn tháp trước ánh mắt tò mò của đám học trò trường Đămri.

Ở phía sau, thằng Yan Jik lót tót chạy theo, miệng không ngớt ca cẩm:

- Ba ơi ba. Ba đừng bắt con đi học nghe, ba. Ba cho con ở nhà chơi với anh Pôca và anh Pôcô đi, ba.

- Im đi! – Yan Dran nạt, tức giận đến mức không biết mình đang nói bằng giọng của lão quản gia Imđi – Ngay cả hai thằng Pôcô – Pôca, ta cũng tống vô lớp luôn. Nói chung là hổng đứa nào được ở ngoài rong chơi để rồi gây chuyện rắc rối hết á.

oOo

Bữa đó, Kăply ngồi học mà không làm sao ngăn mình đừng liếc qua chỗ thằng Y Đê ngồi, khoái chí khi thấy thằng này cứ gục mặt xuống bàn để giấu chiếc mũi sưng tấy. Ngồi ngay trước mặt Y Đê là sư phụ nó – thằng Amara.

Amara mặt vẫn hầm hầm, có lẽ chưa nguôi ấm ức về chuyện khi nãy ngoài sân trường. Nhìn Amara liên tục ngọ nguậy trong chỗ ngồi, Kăply hổng dám chắc là nó đang cố nuốt cơn giận trong lòng hay đang cố nhốt một con sư tử dưới gầm bàn.

Kăply kín đáo quan sát Amara, thấy thằng nhãi làm thinh được một lúc. Chỉ một lúc thôi, rồi nó có vẻ không thể làm chủ bản thân lâu hơn.

- Thầy ơi thầy… – Cuối cùng Amara đứng phắt dậy, ngoác miệng đến tận mang tai, kêu lớn.

Thầy Haifai giật nảy, lời giảng đột ngột tuột khỏi môi thầy. Trước vẻ mặt thắc thỏm của cả lớp, thầy lừ lừ quay cái trán dồ về phía tên học trò phá đám, đôi mắt sâu hoắm lóe lên thứ ánh sáng rờn rợn:

- Ta nghĩ không phải là trò tự dưng phát điên đó chớ, Amara?

- Thưa thầy, chẳng lẽ thầy không biết hiện nay có hai con ma đang đi lại lơn tơn trong trường mình. – Amara cáu tiết xổ một tràng, chẳng buồn để ý đến vẻ mặt đe dọa của thầy Haifai – Con không hiểu Bộ giáo dục đã hay biết chuyện này chưa. Cả thầy nữa, con không nghĩ thầy lại có thể tán thành một chuyện vô nguyên tắc như vậy.

- Ta thì ta chẳng thấy gì gọi là vô nguyên tắc. – Thầy Haifai khìn khịt mũi, giống như thể có một viên đạn từ trong đó sắp sửa vọt ra – Đó là hai con ma của họa sĩ Yan Dran, một giáo viên xuất sắc và cần thiết cho lớp Hướng nghiệp. Mà ai chứ Yan Dran thì ta rất hài lòng nếu ông mang theo vỏn vẹn có hai con như hiện nay.

Y như bị ăn tát, Amara nhướn cao mày cố bắt chước thầy Haifai bắn ra những tia sáng giận dữ nhưng cặp mắt ti hí của nó gắng cách mấy cũng không giống như trợn lên được. Thế là nó lại hả họng rống to theo cái cách không thể nhầm được của người ưa ăn vạ:

- Cô ơi cô! Hổng lẽ cô…

Nhưng ngay cả khi giở đến chiêu cầu cứu sư mẫu, Amara vẫn không gặp may. Từ đôi môi đỏ chót của thầy Haifai, một giọng nữ lanh lảnh bật ra:

- Hổng lẽ cái con khỉ! Chỉ có đứa đại ngu mới đụng đến họa sĩ Yan Dran thôi.

Cô Haifai lật đật nói tiếp, vẻ mặt ngơ ngác của tên đệ tử ruột khiến giọng cô mềm đi:

- Tốt nhất là con không nên tru tréo lên nữa, Amara. Chuyện họa sĩ Yan Dran, thằng nhóc Yan Jik lẫn hai anh em Pôcô – Pôca được bố trí ở trong trường Đămri, không chỉ Bộ giáo dục mà cả Hội đồng Lang Biang cũng đã biết rồi.

Kăply khoái chí nhìn thằng Amara thả người rơi phịch xuống ghế và tức tối xộc mười ngón tay vô mái tóc xoăn như muốn đào một cái lỗ ngay đỉnh đầu. Thiệt ra, ngay từ khi thầy Haifai còn là Krazanh và Kim thì giữa vợ chồng thầy và họa sĩ Yan Dran đã có một mối giao tình đậm đà. Hôm trước, qua tấm gương lưu trữ trong văn phòng hiệu trưởng, Kăply đã tận mắt chứng kiến cảnh vợ chồng thầy Haifai xả thân cứu Yan Dran khỏi tay trùm Bastu như thế nào và vợ chồng thầy vì vậy đã biến thành hình thù quái dị như ngày nay ra sao. Thằng Amara không biết chuyện đó nên đã chơi cái trò ngu ngốc là tìm cách tấn công họa sĩ Yan Dran, kết cục là bây giờ nó đang ngồi đực ra như bị thằn lằn ị trúng mặt.

Nhưng buổi sáng đó cũng không hoàn toàn là những khoảnh khắc vui sướng với Kăply. Lúc ra về, nhỏ Mua cứ xán lại cạnh nó. Luôn miệng hỏi han:

- Vụ truy tìm báu vật tới đâu rồi, K’Brêt? Sao mấy hôm nay bạn không nói gì với tôi hết vậy?

- Tôi và K’Brăk đang mò mẫm, Mua à.

Kăply ngập ngừng đáp, lòng bất giác quặn lại. Không cần phải lạc quan lắm nó cũng biết là thứ sáu này tụi nó chắc chắn sẽ lọt vào bí thất của ông K’Tul. Nếu đúng như Suku suy đoán thì khi tụi nó đeo chiếc găng có dấu vân tay của ông K’Tul vào và áp lên cánh cửa, thần chú Tới luôn sẽ phát huy tác dụng. Có thể tụi nó sẽ tìm thấy chiếc gương trong bí thất, rồi sau đó cũng rất có thể tụi nó sẽ khám phá ra điều gì đó liên quan đến báu vật ở lâu đài K’Rahlan.

Nhưng nếu chỉ có vậy thì chẳng việc gì Kăply phải nói dối Mua. Sở dĩ nó không nói với nhỏ bạn về chuyện tụi nó sắp tìm ra tấm gương trong bí thất của ông K’Tul chẳng qua vì mấy hôm nay nó mãi vật lộn với ý nghĩ nhỡ nó và Nguyên tìm thấy hai chiếc ghế ngựa vằn trong căn phòng bí thất đó thì sao há. Chắc là tụi nó sẽ mừng rỡ leo lên ghế và vội vã vù về làng Ke! Kăply bần thần nhủ bụng. Nó và Nguyên xa nhà đã khá lâu rồi, tụi nó có nấn ná ở lại xứ Lang Biang trong vai trò những chiến binh giữ đền bất đắc dĩ cũng chỉ vì tụi nó chưa dò ra cái chỗ ông K’Tul cất giấu hai chiếc ghế ngựa vằn. Một khi tìm được hai chiếc ghế đó rồi, không có lý do gì tụi nó không lập tức trở về làng Ke, hẳn nhiên là càng nhanh càng tốt. Mà như vậy có nghĩa là tụi nó sẽ không còn gặp lại những đứa bạn thân thiết như Êmê, K’Tub, Suku, Păng Ting, Bolobala, Tam… và nhất là Mua. Phải lìa xa Mua đối với Kăply là chuyện vô cùng khổ tâm, nó càng cảm thấy ray rứt hơn khi chia tay nhỏ bạn mà không kịp nói lời từ giã. Kăply không biết mình có thể chịu đựng được sự thật đó không, rồi Mua nữa, Kăply không dám tưởng tượng khi biết được nó đã đột ngột ra đi và không hẹn ngày quay lại, tâm trạng của nhỏ bạn sẽ như thế nào.

- Bạn và K’Brăk đã giải được câu đố của cậu K’Tul chưa? – Câu hỏi của Mua cắt ngang sợi tơ buồn đang giăng trong lòng Kăply.

- Chưa. Nhưng sớm muộn gì tụi này cũng giải ra, Mua à.

Kăply lại nói dối và quay mặt đi, trong đầu chợt lóe lên ý nghĩ nếu khám phá được bí mật trong tấm gương của ông K’Tul, mình sẽ tiết lộ cho Mua biết đáp án của câu đố. Lúc đó, đáp án chẳng còn giá trị gì nhưng ông Pirama sẽ có cơ hội tới tiệm Những Dấu Hỏi để lãnh khoản tiền thưởng 200.000 năpken. Với gia cảnh của Mua, số tiền đó thậm chí còn lớn hơn một gia tài. Chà!

Kăply tự khen mình, suýt chút nữa đã buột miệng reo lên nhưng rồi nó kềm lại được. Kăply không nghĩ ra mình nên nói gì tiếp theo nhưng mặt nó đã lấy lại vẻ tươi tỉnh.

- Khi nào có tin gì mới, bạn không được giấu tôi đấy nhé. – Mua đi sát vào Kăply, thì thầm dặn, giọng phảng phất lo âu, có lẽ trực giác cho nó biết Kăply không hoàn toàn xổ hết gan ruột ra với nó.

- Tôi nhớ rồi mà.

Kăply gật đầu đáp, tránh nhìn vào mắt Mua, sợ nhỏ bạn đọc được những ý nghĩ ngổn ngang trong đầu mình.

Để lảng đi câu chuyện, Kăply nhìn thằng Tam và Bolobala đang cặp kè bên nhau, nói lớn:

- Lâu quá tao hổng thấy mày làm thơ đó, Tam.

Nguyên liếc vẻ lúng túng của Tam, mỉm cười đỡ lời:

- Đừng đòi hỏi nhiều thế, K’Brêt. Đôi khi suốt cả đời con người ta chỉ cần làm một bài thơ là đủ.

- Anh nói hay lắm, anh K’Brăk. – Êmê nhanh nhẩu vọt miệng, như thể cô nàng rình Nguyên từ nãy giờ – Nhưng cho đến hôm nay anh vẫn chưa hề làm tặng em một bài thơ nào hết đó nha.

Vừa nói Êmê vừa nhìn Nguyên bằng ánh mắt mà đứa nào cũng thấy rõ là chứa đầy trách móc. Nguyên càng thấy rõ điều đó hơn ai hết, cho nên màu đỏ trên mặt Tam lập tức chạy qua mặt nó, nhanh còn hơn người ta đổi màu trên bảng quảng cáo điện tử.

Dứt một lúc bốn, năm sợi tóc, Nguyên làm một động tác giống như cười mà không phải cười, trông nó ngượng ngùng đến mức cuối cùng Êmê đành phải nói thêm một câu nữa:

- Em chỉ trêu anh thôi. Khi nào muốn nói gì với em thì anh gặp em anh nói thẳng chứ đâu cần phải làm thơ như thi sĩ Rchom Tam, anh K’Brăk há?

Khi nói như vậy, Êmê không biết nó càng làm cho Nguyên bối rối hơn nữa. Lúc nãy, mặt Nguyên dở cười dở khóc. Còn bây giờ rõ ràng là khóc thiệt rồi.

Chương 17

NGƯỜI MẤT BÓNG

Rồi ngày thứ sáu mà hai đứa trẻ làng Ke chờ đợi cũng tới. Đêm hôm trước, Nguyên gần như không chợp mắt được, rõ ràng có cái gì đó chắn ngang giữa nó và giấc ngủ. Cũng như Kăply, nó nghĩ về tấm gương trong bí thất của ông K’Tul thì ít, mà nghĩ về hai chiếc ghế ngựa vằn thì nhiều. Và cũng như bạn mình, lòng nó trộn lẫn bao nhiêu là cảm xúc. Nó vừa nôn nao mong đến thời khắc được quay về làng Ke, nó nhớ mọi người ở làng, nhớ gia đình nhớ bạn bè, nhớ cả thầy Râu Bạc, nhưng đồng thời khi nghĩ đến chuyện rời bỏ xứ sở mà đến hôm nay nó đã cảm thấy vô cùng gắn bó, nghĩ đến chuyện chia tay và có lẽ sẽ không bao giờ gặp lại Êmê ở nhà và tụi Bolobala ở trường, tự dưng nó lại cảm thấy bùi ngùi không nở. Đó là chưa kể đến những người mà nó không thể nghĩ khác hơn là vô cùng thân thiết với nó như thằng Suku, nhỏ Păng Ting, thầy hiệu trưởng N’Trang Long, thầy Haifai, thầy Akô Nô, cả cô Kemli Trinh nữa – là người kể từ sau vụ Buriam đã giữ lời hứa “ta sẽ coi con như con của ta” bằng cách mỗi khi đi ngang nó, cô hay giúi vô tay áo chùng của nó khi thì một chiếc bánh Nhớ dai mua chỗ mụ Gian khi thì một túm cỏ xạ hương – thứ vật liệu dùng để pha chế nước tắm tình yêu khiến mỗi lần lôi ra khỏi túi nó cứ phải dáo dác nhìn xem có đứa bạn nào trông thấy hay không. Nguyên ít có dịp trò chuyện với cô Kemli Trinh, nhưng cái cách cô đối xử với nó, bất chấp việc cô phải dành nhiều thì giờ quan tâm đến thằng Mom (gần đây cô đã công khai chuyện thằng Mom với sự đồng ý vui vẻ của pháp sư Lăk), tất cả những điều đó cộng với tính tình dịu dàng, hiền lành của cô khiến Nguyên vô cùng cảm động, mặc dù đôi lúc nó thắc mắc hổng biết cô đã thấy con nhỏ Êmê quàng tay nó bao giờ chưa mà cứ hay nhét cỏ xạ hương vô túi áo nó.

Nguyên nằm nghĩ ngợi miên man, nhắm mắt lại vờ ngủ, tin rằng như vậy Kăply sẽ không có cớ bắt chuyện, không biết thằng bạn nằm giường bên cạnh cũng đang thao thức và suy nghĩ lung tung không khác gì mình.

Có thể thấy rõ là đêm hôm đó Nguyên và Kăply đều bị ám ảnh bởi những chiếc ghế ngựa vằn nhưng rốt cuộc cả hai đã không hề nói với nhau về chuyện tụi nó sẽ làm gì nếu tìm thấy hai chiếc ghế đó trong bí thất của ông K’Tul, nhưng như vậy thì lẽ ra sáng hôm sau, trước khi cùng thằng Suku chun vô căn nhà kho, tụi nó cũng trao đổi với nhau về chuyện này mới phải. Vậy mà trên thực tế hổng có gì giống như vậy hết: tụi nó đứa nào cũng im im, từ lúc leo xuống khỏi giường, đi tắm, thay đồ rồi ngồi đợi Suku, cả Nguyên và Kăply đều tránh nhìn vào mắt nhau, nếu bốn ánh mắt lỡ giao nhau thì cả hai liền hấp tấp quay mặt đi, làm như thể nếu nhìn nhau lâu hơn chút nữa thì chắc nụi là cả hai sẽ òa ra khóc.

Dĩ nhiên Nguyên hiểu rõ những gì đang xảy ra trong lòng tụi nó, vì thế mà nó rất khó chịu về tình huống mà nó và Kăply đang rơi vào. Lúc mới lạc bước đến xứ Lang Biang, Nguyên nôn nóng tìm ra hai chiếc ghế ngựa vằn biết bao, mong muốn cháy bỏng nhất của nó trong lúc đó là bằng mọi giá phải thoát ngay về làng Ke, nhưng bây giờ thì Nguyên bối rối, thậm chí khổ sở khi bắt gặp những thay đổi trong lòng mình. Dù sao thì nó và Kăply cũng phải quay về làng. Điều đó không cần phải bàn cãi nhưng Nguyên biết là nó (và chắc chắn là cả Kăply nữa) chưa muốn xa rời xứ Lang Biang trong lúc này. Sứ mạng tìm kiếm báu vật chưa hoàn thành, sứ giả Buriăk và hữu hộ pháp Balikem đang quần quanh đâu đây, trong khi đó trùm Bastu sắp quay lại và lão Ôka Na lúc nào cũng sẵn sàng trỗi dậy như một nguy cơ tiềm ẩn – trước bao nỗi rối ren đó, Nguyên cảm thấy ra đi trong lúc này chẳng khác nào một cuộc chạy trốn, nhất là tụi nó đang được bao nhiêu người kỳ vọng. Về hay không về? Nguyên tự hỏi không phải chỉ một lần, và cũng không chỉ một lần nó không tìm ra câu trả lời dứt khoát. Vì vậy mà nó không dám nhìn thẳng vào mắt Kăply và nó biết cũng với lý do tương tự mà Kăply không dám nhìn thẳng vào mắt nó. Bởi tụi nó thật khó mà chọn cho được một vẻ mặt phù hợp với tâm trạng đang rối bời và nhỡ đứa kia buột miệng hỏi về đề tài gay cấn đó thì đứa này thiệt tình không biết phải đáp làm sao. Cho nên tốt nhất (mà cũng có thể là xấu nhất) là chẳng nói gì hết, mặc dù Nguyên thấy rõ khi vờ làm ra vẻ không nghĩ gì đến những chiếc ghế ngựa vằn thì tụi nó lại càng có vẻ chỉ nghĩ về mỗi chuyện đó thôi.

Suku không biết nỗi lòng của hai bạn nên vừa đút đầu vô phòng, nó tưởng mình bị hoa mắt:

- Làm gì mà hai anh dầu dầu vậy? Em cam đoan bữa nay thế nào cũng mở được cánh cửa chết tiệt đó mà.

Thằng nhóc không nói ngoa. Khi đứng trước bí thất của ông K’Tul, nó đeo chiếc găng tự chế vào rồi áp tay lên hình bàn tay in lõm trên cánh cửa, lầm rầm niệm chú: trước vẻ mặt đau đáu của Nguyên và Kăply, cánh cửa đột ngột trượt qua một bên như có ai kéo mạnh.

So với căn phòng âm u phía ngoài, bí thất của ông K’Tul giống như đang phơi mình dưới nắng: một quả bí được phù phép đang tỏa sáng rực rỡ đằng góc phòng khiến bọn trẻ phải đưa tay lên dụi mắt bốn, năm lần trước khi đặt chân qua ngưỡng cửa.

Đồ đạc trong phòng bày la liệt, cũ kỹ, bụi bặm, trông như một cái nhà kho thu nhỏ. Nguyên và Kăply vừa bước vào phòng, ánh mắt lập tức xẹt ngang xẹt dọc và khi nhác thấy hai chiếc ghế ngựa vằn quen thuộc kê sát vách bên tay trái, trái tim tụi nó như muốn vọt ra khỏi lồng ngực, trong một thoáng đứa nào đứa nấy đều bắt gặp cảm giác lạnh ngắt nơi sống lưng.

Hoàn toàn không tự chủ, cả Nguyên lẫn Kăply đều run rẩy nhích chân về phía hai chiếc ghế, nhưng mới đi được vài ba bước, cả hai thình lình đứng lại, đứa này liếc đứa kia để xem phản ứng của bạn mình nhưng dĩ nhiên là chẳng đứa nào trông thấy đứa nào khi cả hai đều trong chiếc áo tàng hình.

Kăply ngoái nhìn về phía bức vách sau lưng, nơi phát ra những tiếng lục đục cho biết thằng Suku đang mò mẫm tuốt đằng đó, thở nhẹ một cái rồi ngoảnh sang chỗ mà nó tin là Nguyên đang đứng, hạ giọng thì thầm:

- Bây giờ sao?

- Sao ư?

Bằng giọng vo ve như muỗi kêu, Nguyên đáp lại câu hỏi của bạn bằng một câu hỏi khác, phân vân và ngơ ngác – điều Kăply thiệt tình không chờ đợi. Ngay lúc này đây, Kăply không nhìn thấy Nguyên nhưng nó vẫn ngạc nhiên mường tượng ra vẻ mặt hoang mang của thằng-bạn-đại-ca-nói-gì-cũng-đúng của mình.

- Về làng không?

Cuối cùng, Kăply quyết định hỏi thẳng, mặc dù khi hỏi như vậy thực sự nó cũng không biết nó đang mong đợi ở Nguyên câu trả lời như thế nào: rằng nên về làng ngay hay nên hoãn lại.

Câu hỏi vừa rời khỏi môi, Kăply ngóc cổ hồi hộp chờ đợi, không biết ở bên cạnh Nguyên đang nhắm mắt lại, như thể khi không nhìn thấy gì hết thì nó mới đủ can đảm để chọn lựa câu trả lời. Nhưng rốt cuộc thì Kăply vẫn không biết ý kiến của bạn mình như thế nào (và chắc cũng chẳng có ai biết hết). Trong lúc Nguyên sắp thất bại trong ý định trì hoãn việc bày tỏ thái độ và chuẩn bị đáp lời Kăply thì ở bức vách đối diện, tiếng thằng Suku thình lình vang lên:

- Lại đây, anh K’Brăk, anh K’Brêt!

Hai đứa giật mình ngoảnh lại, thấy một tấm gương tròng đang lơ lửng giữa không trung. Tất nhiên tụi nó đoán ngay Suku vừa lôi thứ này ra từ đâu đó trong mớ đồ chất vương vãi trên sàn nhà.

- Tìm thấy rồi à?

Nguyên hối hà bước lại chỗ Suku, mừng rỡ hỏi, không rõ mừng vì thằng oắt đã tìm được tấm gương hay mừng vì khỏi phải trả lời câu hỏi hóc búa của Kăply.

- Ờ.

Suku đáp khẽ và cùng lúc với tiếng nói, tấm gương từ từ trôi về phía chiếc bàn đằng góc phòng, ngay dưới chiếc đèn quả bí, cho biết là thằng oắt đang định đặt tấm gương lên đó để xem xét.

Cả ba chụm đầu vô tấm gương, chúi mắt săm soi. Đây là tấm gương cuối cùng trong lâu đài K’Rahlan, bọn trẻ biết thế nên sáu con mắt mở lớn hết cỡ: tấm gương bị lật sấp lật ngửa, xoay tới xoay lui, các ánh mắt cẩn thận mân mê từng nét chạm, từng vết xước, tỉ mỉ như bác sĩ đang tìm kiếm vi khuẩn trong kính hiển vi.

Nhưng cũng như những tấm gương trước đó, bọn trẻ vẫn chẳng phát hiện ra điều gì khác lạ mặc dù suốt một lúc lâu tụi nó đã xúm vô vật lộn với tấm gương của ông K’Tul đến toát mồ hôi.

Nguyên chép miệng, hoàn toàn thất bại khi cố ép mình làm ra vẻ điềm tĩnh:

- Hổng lẽ chữ “ai” trong câu đố thực sự không phải chỉ tấm gương?

Kăply há hốc mồm nhìn qua chỗ vừa phát ra tiếng nói, không tin đó là tiếng nói của Nguyên. Trong một lúc, nó tưởng mình nghe lầm khi thằng bạn đại ca của nó bất ngờ thở ra giọng điệu bi quan của thằng K’Tub bữa trước.

- Là tấm gương, K’Brăk! Dứt khoát là tấm gương!

Kăply hùng hổ vọt miệng và hoàn toàn không báo trước, nó lột phăng chiếc áo tàng hình ra khỏi đầu, đột ngột đến mức Nguyên và Suku không kịp thốt lên được một tiếng nào.

Trước ánh mắt sửng sốt của hai bạn, Kăply thò chiếc đầu lơ lửng vô tấm gương, chành miệng ra cười. Cười xong, nó lại sụp mặt xuống, mếu máo như vừa bị thằng Amara đá vô mông, nói chung trông Kăply lúc này giống như đang phát rồ.

Nhưng Kăply dĩ nhiên không rồ. Mếu xong, nó toét miệng bô bô:

- Thấy chưa! Ai vui ta sẽ vui cùng. Ai buồn ta sẽ buồn chung với người…

Kăply định ba hoa thêm vài câu nhưng quai hàm nó đột nhiên cứng như gỗ. Trong tấm gương, bên cạnh khuôn mặt đang thộn ra của nó là hai câu thơ không biết xuất hiện từ lúc nào, ngay trên đầu nó – với những con chữ xanh lè như mắt mèo đang không ngừng chớp nháy:

“TRONG 100 VỤ ÁN OAN

VỤ THỨ 39 HOÀN TOÀN 93!”

Tuy không nhìn thấy Nguyên và Suku, Kăply đoán là hai đứa chắc cũng đang lịm người đi như mình. Lâu thiệt lâu nó mới nghe tiếng Suku thở phào:

- Anh hên thiệt đó, anh K’Brêt. Câu đố về tấm gương chính là mật khẩu để giải mã…

Kăply hỏi lại, chưa hết ngẩn ngơ:

- Câu Ai vui ta sẽ vui cùng… á?

- Đúng vậy. – Tiếng Nguyên nhẹ nhõm – Muốn biết được lời chỉ dẫn bí mật, phải soi mặt vào tấm gương và đọc lên hai câu thơ đó.

Kăply ấp úng, niềm vui quá lớn khiến nó cà lăm ngang xương:

- Thế… thế… bây giờ tụi mình… phải làm gì?

- Lập tức ra khỏi đây. – Suku hăng hái – Và nhanh chân đi tìm cuốn Một trăm vụ án oan trong lịch sử của Đam San.

Nguyên nhìn Kăply, nhăn nhó:

- Chui đầu vô lại trong chiếc áo đi, đồ…

Tiếng “ngốc” chưa kịp bắn ra khỏi miệng, Nguyên đã vội nuốt trở lại xuống bụng. Nó sực nhớ ra hôm nay thằng Kăply không ngốc chút xíu nào, thậm chí nếu không nhờ cái-đầu-cục-gạch của nó, bí mật của tấm gương có lẽ sẽ mãi mãi chìm trong bóng tối.

Nhưng Nguyên không có thì giờ để ngẫm nghĩ nhiều hơn về bạn mình. Kăply vừa rúc đầu vào lại trong áo, tiếng rè rè đã vang lên: cánh cửa bí thất đã đóng lại khi tụi nó vừa đặt chân vào bên trong bây giờ bất ngờ chạy qua một bên và cả bọn gần như chết điếng khi dáng người lêu nghêu của ông K’Tul thình lình hiện ra ngay ngưỡng cửa, đầy đe dọa.

Mặt xám xịt, tóc gáy dựng đứng, ba đứa nín thở nhìn nhau, yên tâm được một chút khi nhớ ra tụi nó vẫn đang an toàn trong những chiếc áo tàng hình. Trong bọn, Kăply yếu bóng vía hơn hết. Ngay từ lúc ông K’Tul xuất hiện, trái tim nó đã văng đi đâu mất, và khi tin chắc ổng không nhìn thấy mình, trái tim nhát hít của nó vẫn không thèm quay lại. Nó nhìn cặp mắt sáng quắc và bí hiểm của ông K’Tul đang quét quanh căn phòng, bụng quặn lại khi nghĩ tia nhìn lấp loáng đó dường như có thể xuyên qua tấm áo màu cánh gián tụi nó đang mặc.

Đến khi ông K’Tul bước lại chỗ góc phòng, nhíu mày nhìn tấm gương đang nằm im lìm trên mặt bàn như tự hỏi tại sao nó lại ở đây thì Kăply phải nghiến chặt răng để đừng ngã lăn ra. Nó càng hoảng hơn nữa khi đột nhiên nhận ra trong phòng không hề có một chiếc bóng nào in lên sàn nhà. Nó, Nguyên và Suku đang tàng hình, không có bóng đã đành, nhưng ngay cả ông K’Tul cũng không hề rọi bóng xuống sàn mặc dù ông đang đứng ngay dưới chiếc đèn quả bí sáng rực. Sao thế nhỉ? Kăply ngạc nhiên nhủ bụng, đoán là Nguyên cũng đã phát giác ra hiện tượng kỳ lạ này khi nó có cảm giác cánh tay Nguyên vừa chạm khẽ vào người nó một cách cố tình.

Bữa đó, không chỉ tụi Kăply khám phá ra chuyện ông K’Tul không có bóng. Chính ông K’Tul, sau một lúc ngẩn người ra nhìn tấm gương, đảo mắt xuống sàn nhà và giật mình “a” lên một tiếng khi không nhìn thấy chiếc bóng của mình đâu. Như người bị ma đuổi, ông hối hả lao ra khỏi phòng, có vẻ như chuyện mất bóng đối với ông còn quan trọng hơn cả chuyện tấm gương đang nằm dưới đất bất ngờ nhảy tót lên bàn một cách khó hiểu.

Bọn Kăply như trút được một gánh nặng khi ông K’Tul thình lình bỏ đi. Nhưng mặc dù cánh cửa bí mật đã khép lại từ lâu, vẫn không đứa nào dám lên tiếng. Như thể vừa được vớt ra khỏi thùng nước đá, phải đợi một lúc lâu ba đứa mới cảm thấy người ấm lên được một chút và màu hồng mới bắt đầu rón rén quay lại trên gương mặt của tụi nó.

- Đi ra được chưa? – Kăply thấp thỏm hỏi.

- Chờ thêm chút đi. – Nguyên thì thào như sợ bị nghe lỏm.

Kăply ngập ngừng một chút, rồi nói, giọng sợ sệt:

- Cậu K’Tul không có bóng…

- Tao thấy rồi. – Nguyên đáp.

Ngay sau đó là giọng Suku:

- Em cũng thấy.

- Về phòng rồi tính.

Nguyên nói, cố tỏ ra dạn dĩ và bước về phía cánh cửa. Khi nãy nó để ý thấy hể có người bước vào bên trong, cánh cửa sau lưng tự động đóng lại và khi bên trong muốn đi ra, cánh cửa lại tự động mở ra.

- Để tấm gương lại chỗ cũ chớ. – Kăply rụt rè đề nghị.

- Không cần đâu, anh K’Brêt. – Tiếng Suku vang lên từ chỗ nào đó sau lưng Kăply – Đằng nào thì cậu K’Tul cũng đã nhìn thấy tấm gương trên bàn rồi.

Kăply vẫn chưa hết run:

- Khi nãy cậu có biết tụi mình đột nhập vô đây không há?

- Khó nói lắm, anh K’Brêt. – Suku lưỡng lự đáp.

- Có lẽ là không.

Nguyên hắng giọng và thận trọng bước qua cánh cửa vừa trượt sang một bên khi nó lại gần, theo sau là Kăply và Suku. Cả ba đứng yên một lúc cho quen với thứ ánh sáng tù mù bên ngoài bí thất rồi cẩn thận quét mắt ra bốn phía, cả bọn dọ dẫm chui qua đường hầm tối om om để trở ra căn nhà kho kế hành lang.

oOo

Cả ba cái miệng cùng thở phào khi sung sướng ném người lên hai chiếc giường nệm lông chim trong căn phòng ấm cúng của Nguyên và Kăply.

Kăply ngả đầu lên chiếc gối mà chưa bao giờ nó thấy êm ái như bữa nay, rên lên:

- Thoát rồi. May quá.

Nguyên ngồi co chân, tựa lưng vào thành giường và nhìn Suku (lúc này cả bọn đã chui ra khỏi áo tàng hình), giọng băn khoăn:

- Kỳ quái thiệt! Hóa ra cậu K’Tul là người không có bóng.

- Hèn gì trước nay tụi mình chẳng hề thấy cậu K’Tul đi lại vào ban ngày. – Kăply hơi nhóm đầu lên khỏi chiếc gối, phụ họa – À quên, buổi trưa cậu vẫn ngồi ăn trong vườn…

- Ngồi ăn trưa trong khu vườn đầy bóng râm như thế chả có nghĩa lý gì hết, K’Brêt. – Nguyên cắt ngang – Ánh mặt trời bị những tán lá dày ngăn lại, ngay cả tụi mình cũng chẳng hề có bóng.

Suku hất mạnh những lọn tóc sắp chui vào mắt, tặc lưỡi như một ông cụ non:

- Có lẽ cậu K’Tul không muốn ai biết bí mật đó của mình. Em nhớ rồi, hôm nọ ở cửa tiệm của lão Luclac, rõ ràng cậu cố tình chọn vị trí tối tăm nhất để xuất hiện. Còn trong lâu đài K’Rahlan, hầu như chỗ nào cũng mờ mờ. Chỉ có bí thất của cậu là sáng sủa…

- Vì cậu nghĩ ngoài cậu ra, không ai có thể đặt chân vào đó. – Nguyên tiếp lời và cùng với câu nói, một sợi tóc đã nằm gọn trong tay nó.

- Nhưng tại sao câu K’Tul lại không có bóng? Và người không có bóng là người như thế nào mới được chớ? – Kăply gần như ré lên, lần này thì nó ngồi bật dậy luôn khỏi nệm.

Nguyên trả lời câu hỏi của Kăply bằng cách dán mắt vào gương mặt sáng sủa của Suku, trong khi thằng oắt đang dán chặt mắt lên trần nhà.

Suku thôi miên những tấm ván trên cao lâu thật lâu. Đến khi Nguyên và Kăply có vẻ đã bắt đầu hết kiên nhẫn thì nó mới từ từ hạ mắt xuống, và trước vẻ mặt nôn nóng của hai bạn, câu trả lời của nó y như muốn làm cho hai đứa sụm bà chè quách cho rồi:

- Người không có bóng là người như thế nào, em cũng không có biết mấy anh à.

Kăply ngã lăn ra, đập đầu lên gối cái “bộp”, kêu lên ai oán:

- Suku ơi là Suku! Mày không biết thì nói đại là không biết ngay từ đầu cho rồi, còn làm ra vẻ ta đây thông thái lắm. Hừm, nghĩ với chả ngợi!

- Em nghĩ chuyện khác, anh K’Brêt. – Suku thình lình nói, đôi mắt trong veo của nó đưa qua đưa lại như hai vì sao sắp sửa đổi ngôi – Chắc chắn trong thư viện của ông em có một cuốn sách nói về hiện tượng này. Hai anh chờ em một chút.

Nói vừa dứt câu, Suku biến mất chỗ cửa phòng nhanh như khói. Chắc nó vọt về nhà! Kăply nhủ bụng và đưa mắt nhìn Nguyên, thắc thỏm hỏi:

- K’Tub và Êmê có biết ông K’Tul không có bóng không há?

- Tao nghĩ tụi nó không biết. – Nguyên trầm ngâm – Cả bà Êmô có lẽ cũng không biết. Và tụi mình cũng không nên cho K’Tub và Êmê biết làm gì.

Ánh mắt của Nguyên bất thần rực lên:

- Mày và Suku nhớ giữ mồm giữ miệng đó.

- Tao biết mà.

Kăply đáp, mặt sụp xuống, bất mãn vì thằng bạn nó lúc nào cũng nghĩ nó là đứa không có đầu óc.

Suku quay trở lại với cuốn sách dày cộm trên tay. Nó tông cửa phòng đánh rầm, vừa thở hổn hển vừa toét miệng cười hì hì:

- Đây nè.

Nguyên khệ nệ đỡ lấy cuốn sách nặng trịch từ tay Suku, mở to mắt săm soi. Bìa sách làm bằng da rái cá rất bền nhưng nom cũ kỹ đến mức tên sách phải mò mẫm một hồi mới đọc ra: Tám mươi mốt hiện tượng bất thường trong cuộc sống – thống kê và khảo sát. Tên tác giả mờ đến nỗi phải lật vô trang trong mới biết đó là công trình của giáo sư Xu Man.

Suku nhanh nhẩu lật thêm vài trang và chỉ tay vào trang hướng dẫn:

- Hai anh xem đây nè.

Theo tay chỉ của thằng oắt, Nguyên và Kăply tò mò đọc:

APÔLÔ: Người bay.

BIĐÔ: Người hai đầu.

EYEYEYE: Người ba mắt.

KHEC: Người khỉ.

KIKI: Người sói.

MIĐIMÔ: Người mất bóng.

- Đây là những thuật ngữ chuyên môn. – Suku giải thích – Nếu không có bảng hướng dẫn này, mình sẽ chẳng biết đường nào mà tra cứu.

Nguyên tò mò tra từ APÔLÔ ở ngay trang đầu tiên của mẫu tự A. Giáo sư Xu Man giải thích “Người bay là người có hiện tượng mắc bệnh thần kinh, không thích ứng và cũng không giải quyết được những mâu thuẩn trong cuộc sống. Những dồn nén nội tâm dữ dội đến một mức nào đó sẽ tạo ra những xung lực giúp họ bay lên khỏi mặt đất như một cách trốn chạy thực tại. Người bay không nguy hiểm với đồng loại. Họ chỉ gây nguy hiểm cho chính mình, vì họ có thể bay nhiều ngày liền, vượt qua những khoảng cách rất lớn, nhưng họ cũng rất hay bị rơi…”

Nguyên lật lia lịa qua mẫu tự B. Nó, Kăply và Suku cắm mắt vô từ BIĐÔ: “Người hai đầu có thề nhìn về phía trước lẫn phía sau cũng như có khả năng nhìn thấy quá khứ và tương lai của người khác. Về lý thuyết người hai đầu có tiềm năng chinh phục và thống trị thế giới, nhưng trong lịch sử chưa có người hai đầu nào tu luyện đến tầm cỡ Đại phù thủy, chỉ vì hai cái đầu của họ thường xuyên bất hòa với nhau. Do vậy, người hai đầu thường chỉ thành công khi thi thố tài nghệ trong lãnh vực bói toán, mà nhà tướng số lừng lẫy Lunlun Sai cách đây 457 năm là một ví dụ…”

Nguyên lại hiếu kỳ lật đến từ EYEYEYE để xem người ba mắt là người như thế nào. “Trong đa số trường hợp, con mắt thứ ba thường là con mắt xấu. Điều đó giải thích tại sao người ba mắt thường có khuynh hướng hắc ám. Con mắt thứ ba của họ luôn gây ra chết chóc…”. Nhưng Nguyên mới đọc tới đó, Kăply đã thò tay lật loạt soạt một lúc chục trang, miệng nôn nóng:

- Ba mắt hay bốn mắt từ từ coi sau, K’Brăk. Mình tìm hiểu về người mất bóng trước đi.

Lần đầu tiên Kăply làm trái ý thằng bạn đại ca của nó một cách thô bạo, nhưng Nguyên không có tỏ thái độ phản đối. Nó nhìn bàn tay láu táu lật sách của Kăply bằng ánh mắt sốt ruột.

Kăply lật và lật, tim đập binh binh trong ngực. Nhưng lật tới trang cuối cùng, nó vẫn chẳng thấy từ MIĐIMÔ đâu hết, thậm chí nó không tìm thấy cả mẫu tự M.

- Sao lạ vậy nè.

Kăply ngạc nhiên kêu lên và cẩn thận dò lại từ đầu. Lần này nó tin chắc mình không bỏ sót một trang nào, nhưng cũng như lần trước, Kăply không làm sao tìm được từ MIĐIMÔ. Cuốn sách dày cộp kia kết thúc ở mẫu tự L.

- Cuốn sách này chỉ có tới chữ L thôi, Suku. – Kăply quay sang thằng oắt, giọng nghi hoặc – Hay bộ sách này có hai tập. Đây chỉ là tập 1.

- Vô lý.

Suku cau mày và giành lấy cuốn sách của giáo sư Xu Man trên tay Kăply, lật giở từng trang, rồi cũng như Kăply, miệng nó há hốc khi nhận thấy đúng là cuốn sách đột ngột chấm dứt ở mẫu tự L.

Nguyên nhìn vẻ mặt ngẩn ngơ của hai bạn, cảm thấy không cần phải tự mình xem lại, chỉ nói:

- Xem cuốn sách có chú thích gì không. Nếu đây là bộ sách hai tập, ít ra phải có dòng chữ “HẾT TẬP 1”, hoặc “XEM TIẾP TẬP 2”…

Ánh mắt Kăply và Suku cùng quét xuống cuối trang, vội vàng như để giành là người đầu tiên reo lên. Nhưng trong một lúc quai hàm của hai đứa bất thần trơ ra như bị ai nắm lấy.

Ở phía dưới trang sách cuối cùng quả nhiên có một dòng chữ. Nhưng trái với suy đoán của Nguyên, dòng chữ nếu không phải trêu chọc tụi nó thì quả là giống y một bản tin buồn:

“Do bị bạo bệnh bất ngờ, giáo sư Xu Man đã đột ngột qua đời khi mới biên soạn đến mẫu tự L. Trên thực tế, tác giả mới chỉ kịp khảo sát 38 trường hợp lạ trong đời sống nhưng vì tôn trọng ý nguyện lúc sinh thời của người quá cố, chúng tôi quyết định vẫn giữ nguyên nhan đề Tám mươi mốt hiện tượng bất thường trong cuộc sống – thống kê và khảo sát. Mong độc giả thông cảm và lượng thứ”…Chương 18

VỤ ÁN THỨ 39

Bây giờ thì cả trường đều đã biết Pôcô là thằng nhóc có con rắn trắng, còn Pôca là chủ nhân con rắn xanh. Nhưng đứa nào là anh đứa nào là em thì tụi học trò trường Đămri suốt ngày cãi nhau chí chóe vẫn không ai chịu ai. Tụi Kăply thân thiết với hai con ma nhóc là thế mà còn không xác định được, những đứa khác dĩ nhiên có tài thánh mới hòng mò ra.

Vậy mà sáng nay thằng Amara đi đâu cũng vênh mặt oang oang:

- Pôcô là anh, còn Pôca là thằng em. Tao là người duy nhất biết được điều đó. Đứa nào không tin thì đánh cược với tao. Mười vohen một kèo, quá rẻ!

Tất nhiên là không đứa nào dám cược với Amara mặc dù chẳng mấy đứa tin lời tuyên bố huênh hoang của nó. Mười vohen là 10.000 năpken, số tiền quá lớn so với những cô bé cậu bé còn mài đũng quần trên ghế nhà trường.

Amara đi rảo một vòng quanh sân, cuối cùng tóm vai K’Tub, cười hềnh hệch:

- Hà hà, cược không nhóc? Mày chơi thân với hai đứa nó lắm mà.

- Không. – K’Tub vùng khỏi cái nắm của Amara, cau có đáp.

Amara nheo đôi mắt hí, giọng khiêu khích:

- Sợ thua à?

K’Tub hứ mũi:

- Sợ thắng.

- Láo toét. – Amara vung tay – Không dám chơi thì biến đi!

- Chơi đi, K’Tub!

Kăply vừa nói vừa tiến lại gần.

Amara liếc xéo Kăply:

- Ngon thì chơi. Đừng xúi người khác.

- Thích thì chiều. – Kăply đưa tay ra – Tao cược với mày.

Amara cũng đưa tay ra. Hai đứa hằm hè bắt tay nhau như hai võ sĩ quyền Anh trước khi quyết đấm vỡ mặt nhau, đứa này bóp chặt tay đứa kia như cố làm cho những ngón tay đối phương gãy rời.

Đánh hơi được cuộc náo nhiệt, bọn nhóc gần đó nhanh chóng đổ xô lại, bu quanh Amara và Kăply như bầy ruồi bu quanh hai cục đường.

Hất mặt về phía K’Tub, Kăply nghiêm trang:

- Thằng K’Tub làm chứng bên tao. Thằng Y Đê làm chứng bên mày.

Y Đê luôn luôn là cái đuôi của Amara. Nghe nhắc tới mình, cái đuôi thò ra, ve vẩy:

- Tao sẵn sàng.

Amara và Kăply lập tức buông tay ra.

Chỉ đợi có vậy, K’Tub nhảy tưng tưng:

- Anh K’Brêt thắng rồi. Xưa nay Pôcô và Pôca hổng đứa nào chịu làm em hết á.

Kan Tô không biết xuất hiện từ lúc nào, cười hè hè:

- Mày thua rồi, chung tiền đi, Amara!

Amara bĩu môi:

- Còn lâu.

Nó nhướn cặp mắt ti hí, nom vất vả như hai dấu trừ đang cố trở thành dấu cộng, giọng đắc thắng:

- Nói cho tụi mày biết nè. Hôm qua tao đã theo rình hai thằng Pôca – Pôcô cả buổi chiều…

- Mày làm trò lén lút đó để làm gì vậy? – Kăply hỏi giọng khinh bỉ – Hổng lẽ mày là cộng tác viên đặc biệt của Cục an ninh?

Amara hơi khựng lại một chút. Nó nhún vai, mặt ửng đỏ:

- Tao không nghĩ tao có nhiệm vụ phải báo cho mày biết về việc làm của tao.

- Mày muốn dò xem anh em Pôca – Pôcô có quậy phá gì không để mách lẻo với lão Amara Đliê chứ gì. – Nguyên chen vào giữa Kăply và K’Tub, thản nhiên nói – Tao nói thiệt, dùng tờ Tin nhanh N, S & D để gây áp lực với Hội đồng Lang Biang là cái trò cũ rích và hổng có tác dụng gì đâu, Amara.

- Mày đừng có tỏ ra ta đây thông minh, K’Brăk. – Amara xì một tiếng, vừa nói vừa xua tay lia lịa – Nhưng hôm nay tao không muốn cãi nhau với tụi mày, nhất là về những chuyện vớ vẩn như chuyện này. Tao chỉ muốn cho tụi mày biết là chiều hôm qua tao đã nghe hai thằng Pôca – Pôcô xưng hô với nhau…

Câu chuyện của Amara lập tức thu hút sự chú ý không chỉ của tụi Kăply. Bọn nhóc đứng chung quanh lúc này cũng không muốn làm điều gì khác hơn là vểnh tai chờ nghe Amara nói nốt.

- Thằng Pôcô nói với thằng Pôca “Anh không muốn đi học chút nào hết, Pôca”. Thằng Pôca đáp “Em cũng vậy. Nếu buộc phải đun đầu vô lớp Sơ cấp 1, em nghĩ thà chúng ta về hồ Ma ở quách còn hơn”. Chính tai tao nghe rõ mồn một…

- Nói láo! – K’Tub đỏ mặt tía tai – Pôca mà chịu làm em Pôcô hả? Không đời nào!

- Muốn chứng minh điều đó, rất đơn giản, K’Tub. – Amara tỉnh rụi, thái độ của kẻ biết mình nắm chắc phần thắng trong tay – Bây giờ mày đi kiếm hai thằng đó tới đây đi.

Vẻ tự tin của Amara khiến Kăply đâm chột dạ. Nó quay sang Nguyên, thì thầm:

- Mày nghĩ sao?

Nguyên dè dặt đáp, mặt nó đột nhiên như phủ một làn khói xám:

- Tao nghĩ Amara không bịa chuyện.

Làn khói từ mặt Nguyên tức khắc lan qua mặt Kăply. Nó hít vô một hơi thật sâu và lo lắng đảo mắt nhìn quanh. Và khi nhác thấy thằng Yan Jik cùng cặp ma song sinh Pôcô – Pôca đang lững thững từ xa đi tới, trái tim trong lồng ngực nó chuyển qua chơi một điệu gì đó rất giống nhạc rock.

- Khỏi cần kiếm nữa. Tụi nó tới đây rồi.

Tiếng rao của thằng Amara nện vô tai Kăply như một nhát búa.

- Gì mà vui vậy, anh K’Brêt?

Yan Jik thò đầu vào giữa đám náo nhiệt, tò mò nhìn quanh và háo hức hỏi.

Như không nghe thấy Yan Jik, Kăply chớp chớp mắt nhìn Pôca, vẫn có cảm giác như nhìn xuyên qua sương mù, cất giọng thăm dò:

- Chừng nào tụi em mới bắt đầu đi học hả Pôca?

- Bố Yan Dran bảo tuần tới, anh K’Brêt. Nhưng em hổng muốn đi chút nào hết á. – Pôca phụng phịu đáp.

Kăply thận trọng di chuyển ánh mắt qua thằng nhóc đeo chiếc thắt lưng màu trắng, hồi hộp hỏi:

- Thế còn em, Pôcô?

- Em cũng thế. – Pôcô rụt cổ – Anh Pôca không đi thì em cũng không đi.

- Cái gì?

Cả Nguyên, Kăply lẫn Amara, cả ba cái miệng cùng sửng sốt kêu lên.

- Mày nói gì thế, Pôcô? – Amara gầm gừ giận dữ – Mày kêu thằng Pôca bằng gì?

- Bằng anh chứ bằng gì. – Pôcô ngạc nhiên – Hổng lẽ anh bị ai nhét bông gòn vô lỗ tai hả anh Amara?

Thằng K’Tub lại nhảy cẫng, miệng không ngớt hò reo, cứ như thể nó sẽ được phân nửa tiền cá cược:

- Chung tiền đi! Chung tiền đi!

- Mày đừng có hòng chơi tao, Pôcô. – Amara nói giọng tức tối, thái độ của thằng K’Tub làm nó thêm bầm gan – Hôm qua tao nghe rõ ràng mày kêu thằng Pôca bằng em kia mà.

Pôcô tròn mắt:

- Ủa, hôm qua anh ở đâu mà nghe?

- Tao ở đâu kệ tao. – Amara bứt tóc (chắc chắn không phải để làm cho tóc nó bớt xoăn hơn) – Mày nói đi, có đúng là hôm qua mày kêu thằng Pôca bằng em không?

- Đúng. – Pôcô gật đầu, mắt vẫn nhìn chằm chằm Amara, không hiểu tại sao thằng này bỗng dưng nổi giận đùng đùng về chuyện xưng hô giữa anh em tụi nó.

- Vậy sao hôm nay mày lại kêu nó bằng anh? – Amara nghiến răng trèo trẹo – Có phải tụi mày biết tao đánh cược với thằng K’Brêt nên cố tình làm cho tao banh ta lông không hả?

- Ê, cái anh kia. – Yan Jik huơ huơ cây cọ vẽ trước mũi Amara – Biết thì nói, không biết thì làm thinh đi nha.

- Hỗn láo. – Amara thu nắm đấm, khi nó gào lên có cảm tưởng lửa sắp xịt cả vòi qua lỗ mũi – Mày tưởng tao không dám đập mày hả nhóc?

Yan Jik chẳng coi lời hăm dọa của Amara ra ký lô nào.

- Chắc chắn là không dám rồi.

Nó đáp tỉnh queo, tay không ngừng vung vẩy cây cọ khiến Êmê đứng cạnh phải hớt hải kêu lên:

- Ê, em không được xài câu thần chú kia đó nha, Yan Jik.

- Anh kia nghe đây nè. – Phớt lờ Êmê, ánh mắt Yan Jik vẫn không rời gương mặt bốc khói của Amara, khoái trá tiếp – Pôcô và Pôca xưa nay dĩ nhiên là không ai chịu làm em hết. Cả hai cứ cãi nhau suốt ngày về vụ này khiến ba em vô cùng bực mình. Cách đây hai ngày, ba em bảo: nếu tụi mày không ai chịu ai thì mỗi đứa làm anh một ngày, ngày hôm sau tới phiên đứa khác, ở đây là trường Đămri chớ hổng phải nhà mình, tụi mày cứ chí choét từ sáng đến tối, ngài hiệu trưởng sẽ tống cổ chúng ta ra khỏi đây cho coi…

Yan Jik nói tới đây, thằng Amara thình lình buột ra một tiếng gì đó như tiếng rên, người nó đột nhiên ngắn đi một khúc.

Nhìn Amara sụm người xuống, K’Tub một lần nữa rất muốn bay lên nhưng thấy khuôn mặt thằng này như bị ai làm cho biến dạng đi, nó cố ghìm cơn phấn khích của mình lại, và dĩ nhiên một đứa hiếu động như thằng K’Tub mà buộc phải đứng yên trong tình huống này cũng khổ sở không kém gì những lần nó bị bà Êmô bắt đi tắm.

oOo

Nỗi hân hoan trong lòng Kăply sau khi thắng cược Amara kéo dài suốt buổi sáng hôm đó, và chỉ đột ngột bị dập tắt khi nó và Nguyên ngồi đối diện với chiếc bàn giấy trong văn phòng hiệu trưởng sau giờ học, lúc đầu chìa bộ mặt háo hức vô mắt thầy N’Trang Long để rồi lập tức xệ mặt xuống khi nghe thầy trả lời câu hỏi của tụi nó:

- Cuốn Một trăm vụ án oan trong lịch sử của Đam San hả? Trời đất, sao tụi con không nói sớm? Hồi con nhỏ Bolobala nộp cho ta, ta vẫn để trong ngăn kéo. Nhưng cách đây mấy hôm, ta táy máy tay chân đem nộp cho Hội đồng Lang Biang rồi.

Như thường lệ, Kăply buồn bực đến mức giọng điệu của nó bắt đầu trượt tới một chỗ nào đó rất xa với phép lịch sự:

- Nộp chi vậy thầy? Hổng lẽ đến thầy mà cũng không dám giữ cuốn sách đó?

- Trò coi ta là ai mà trò nghĩ ta dám đùa với pháp luật hả K’Brêt? – Thầy N’Trang Long cất cao giọng – Hừm, chỉ những kẻ có cái đầu làm bằng gạch thì mới khoái gặp rắc rối với những chuyện không đâu thôi.

Kăply tin rằng thầy N’Trang Long không hề biết thằng Nguyên vẫn hay ví cái đầu của nó với cục gạch, nhưng dù vậy câu nói vô tình của thầy vẫn khiến mặt nó nóng ran.

- Lúc đầu thú thiệt là ta chẳng quan tâm đến cuốn sách này cho lắm. – Thầy N’Trang Long tóm bâng quơ một sợi râu cằm, thản nhiên nói tiếp, không biết rằng Kăply sắp cháy thành than vì xấu hổ – Nhưng từ khi lão Ama Moto mò xuống tận đây, ta nghĩ tốt nhất là đem cuốn sách đi nộp quách. Hừ, cái lão đó, nếu ai nói lão có mắt ở dưới mông là ta tin ngay.

Nguyên thúc cùi chỏ vô hông Kăply khi nhận thấy thằng này sắp sửa phun ra một câu bá láp tiếp theo.

Kăply đành nhấn chìm nỗi thất vọng vào tận đáy lòng, thất thểu theo chân Nguyên lê bước xuống không biết bao nhiêu bậc cầu thang, hoàn toàn không hay nó sắp đón nhận một tin buồn khác đến từ nhỏ bạn mà nó yêu mến nhất.

Mua đứng đợi Nguyên và Kăply ngay trước phòng y tế bằng gương mặt trắng bệch giống như người mới ra tù:

- K’Brêt! K’Brăk! Ba tôi đã đến tiệm Những Dấu Hỏi rồi.

Kăply sực nhớ hôm qua là thứ sáu và trước đó mấy ngày tụi nó đã tiết lộ cho Mua biết đáp án câu đố của ông K’Tul.

- Ồ, thế ba bạn có nhận được tiền thưởng không? – Kăply reo lên, không để ý đến thái độ khác lạ của nhỏ bạn.

- Có.

- 200.000 năpken chứ? – Kăply liếm môi.

- Không tới 200.000n năpken.

- Không sao. – Kăply xoa hai tay vào nhau, vui vẻ nói – Đương nhiên phải trừ phần trăm hoa hồng cho lão Luclac.

- Có chuyện gì thế Mua? – Nguyên đột ngột hỏi, giọng quan tâm, nãy giờ nó đang ngạc nhiên về nét mặt dàu dàu của nhỏ bạn mà theo nó lẽ ra phải ngược lại mới đúng: gần 200.000 năpken với Mua phải nói là cả một gia tài.

- Ba tôi đem tiền về nhưng khi mẹ tôi hỏi, ba tôi bảo là không biết tiền ở đâu ra. – Mua đáp bằng giọng hoang mang.

Nguyên và Kăply cả hai cái miệng cùng “a” lên một tiếng.

Kăply nhíu mày, băn khoăn:

- Tại sao ba bạn lại giấu mẹ bạn chuyện này nhỉ?

Nguyên nhún vai:

- Không phải thế đâu.

- Tôi không nghĩ là ba tôi cố ý giấu mẹ tôi chuyện này, K’Brêt. – Mua lúc lắc hai bím tóc như để xua đuổi những ý nghĩ u ám ra khỏi óc – Thiệt sự là ông không giải thích được nguồn gốc của số tiền mà ông mang về. Thậm chí ông không nhớ trên đời có một nơi gọi là tiệm Những Dấu Hỏi.

- Lạ thật. – Kăply tròn xoe mắt, nó đưa tay lên đầu nhưng sực nhớ dứt tóc không phải là trò êm ái gì nên bỏ tay xuống.

Trong khi đó, rất giống nhà thông thái Suku, Nguyên bắt đầu ngẩng mặt nhìn lên trời.

Khi nó hạ tầm mắt xuống, cả Kăply lẫn Mua đều thấy nó biến hẳn sắc mặt.

- Gì thế, K’Brăk? – Mua hấp tấp hỏi, đôi môi đột nhiên khô rang.

- Bùa Lú. – Nguyên lẩm bẩm, cố nói thật nhỏ như thể không muốn cho Mua nghe thấy.

- Bùa Lú? – Kăply ré lên – Đúng rồi. Là bùa Lú. Chính cậu K’Tul đã ra tay. Ngoài cậu ra, cậu không muốn cho bất cứ ai biết được đáp án của câu đố.

- Không hẳn đâu, K’Brêt. – Nguyên trầm ngâm – Có thể cậu K’Tul cũng là nạn nhân. Biết đâu kẻ ra tay là một phù thủy Hắc Ám đang trà trộn trong số hội viên của tiệm Những Dấu Hỏi.

- Bây giờ phải làm sao đây? – Mua kêu lên, trông nó đã có vẻ rất muốn òa ra khóc.

- Yên tâm đi, Mua. – Kăply nhìn nhỏ bạn, lòng bất giác chùng xuống – Tôi nghĩ pháp sư Lăk và pháp sư K’Buđăng sẽ có cách phục hồi trí nhớ lại cho ba của bạn.

- Cũng chưa chắc là ba của bạn đã mất hết trí nhớ đâu. – Nguyên đột nhiên làm cái chuyện mà khi nãy Kăply không dám làm là dứt mạnh một sợi tóc, thong thả nói tiếp – Khi ba bạn vẫn nhận ra được mẹ bạn và bạn, có nghĩa là trí nhớ của ông không có tổn thất gì nghiêm trọng. Có thể đây là loại bùa Lú chỉ có tác dụng trong phạm vi hẹp, chỉ xóa những ký ức liên quan đến tiệm Những Dấu Hỏi thôi.

- Ôi, nếu đúng như vậy thì may quá. – Mặt Mua dần tươi lên – Tôi không nghĩ ba tôi lại cần loại ký ức đó làm gì.

Đang nói, Mua bỗng nhìn sững Nguyên và Kăply:

- Ủa, thế còn hai bạn? Hai bạn đã phục hồi trí nhớ chưa?

- Phục hồi trí nhớ á? – Kăply ngơ ngác – Tụi này đâu có trúng phải bùa Lú.

- Nhưng trước đây hai bạn đã trúng phải lời nguyền Tan xác của Buriăk.

- Ờ, ờ… đúng rồi. Mình nhớ rồi. – Kăply giật thót, có vẻ nó rất muốn xáng cho mình một bạt tai – Nói chung thì chưa phục hồi được chút nào hết.

- Đúng rồi. Là bùa Lú. Chính cậu K’Tul đã ra tay.

Đôi mắt Mua mở lớn:

- Sao mình nghe nói những quả táo vàng ở núi Lưng Chừng có công dụng phục hồi trí nhớ?

- Không đơn giản thế đâu, Mua. – Nguyên tặc lưỡi – Theo như cậu K’Tul cho biết, để tạo ra thuốc phục hồi trí nhớ cho những kẻ trúng lời nguyền Tan xác, phải đem những quả táo vàng đó nghiền thành bột, rồi bỏ vào vạc nấu với gan rồng và mật cá kiếm trong một trăm ngày…

- Trong khi mình và K’Brăk chỉ sực mỗi món táo thôi. – Kăply láu táu đế thêm, tin rằng đó là cách hay nhất để chuộc lại cái tội đãng trí vừa rồi.

Ba đứa vừa trò chuyện vừa đi lần ra cổng, nơi tụi Păng Ting đang ngóc cổ chờ.

- Tụi anh làm gì mà chui vô ngọn tháp đó hoài vậy? – K’Tub quạu quọ vì phải đợi lâu.

Nguyên vỗ vai thằng oắt:

- Tụi anh định hỏi mượn thầy N’Trang Long cuốn sách hôm nọ của Bolobala.

- Cuốn Một trăm vụ án oan trong lịch sử hả K’Brăk? – Bolobala ngạc nhiên.

Nguyên chưa kịp đáp, Êmê đã nhíu mày lo lắng:

- Cuốn đó là sách cấm, anh mượn làm gì?

Trong một lúc, Nguyên không biết có nên hé lộ những bí mật quanh cuốn sách cho tụi bạn biết hay không. Nó dứt một sợi tóc, buông ra, dứt thêm sợi nữa, lại buông ra. Dứt thêm sợi thứ ba, nó quyết định nói thẳng:

- Theo như tụi anh biết, cuốn sách của Đam San chứa đựng chỉ dẫn liên quan đến báu vật mà tụi anh đang tìm kiếm.

- Hay quá, anh K’Brăk. – K’Tub đấm thùm thụp vào lưng Nguyên, quên mất trước đây một phút mặt nó còn chầm dầm một đống. Nó chìa tay ra, hí hửng – Anh lấy cuốn sách ra cho em xem chút đi.

- K’Tub. – Êmê nạt – Đây không phải là đồ chơi.

- Nhưng thầy N’Trang Long đã không còn giữ cuốn sách đó nữa. Thầy nộp cho Hội đồng Lang Biang rồi. – Nguyên thở dài, trông nó xụi lơ như người chuẩn bị đi du lịch chợt phát giác mình đánh rơi mất vé tàu.

- Vậy mà cũng nói. – K’Tub thõng tay xuống, giọng xịu như bún, Nguyên xụi lơ làm nó xụi lơ theo.

- Sao anh không hỏi Suku? – Păng Ting bất thần lên tiếng, nó chĩa cái tóc bữa nay vồng lên như một cái cổng chào vô bộ mặt héo úa điêu tàn của Nguyên – Hình như thư viện của ông nó có lưu trữ một cuốn…

- Suku á?

Nguyên há hốc miệng như thể lần đầu tiên nghe tới cái tên này. Liền theo đó, nó reo lên (nếu Kăply nhớ không lầm thì chưa bao giờ thằng bạn đại ca của nó reo lớn như thế):

- Đúng rồi. Hôm trước chính thằng Suku đã kể vanh vách về những gì Đam San ghi chép trong cuốn sách này, về dị chứng di truyền theo dòng họ của các buyagan…

Đang thao thao, chợt nhác thấy vẻ mặt Bolobala xám đi, Nguyên giật mình, lật đật lái sang chuyện khác:

- Ủa, cả tuần nay thằng Suku biến đi đâu kìa?

- Thiệt tình! – Kăply bứt tai – Có cuốn sách đó trong tay lẽ ra nó phải đến gặp tụi mình ngay mới phải chớ.

oOo

Suku chui ra từ chiếc ống Siêu cảm ứng, nách kẹp cuốn sách, hai tay xua xua làn khói lảng vảng trước mặt. Chưa ai hỏi gì, nó đã rối rít:

- Xin lỗi, xin lỗi nha.

- Không ai tha lỗi cho mày đâu, Suku. – Kăply gầm gừ, chẳng buồn xưng hô anh em với thằng nhóc – Mấy ngày vừa rồi mày đi đâu?

- Cả tuần qua em bận tối mày tối mặt mà.

Êmê hỏi giọng thông cảm:

- Em bận chuyện gì thế?

Thằng oắt rút cuốn sách trong nách ra, vung lên:

- Nghiên cứu cuốn này né.

Nguyên đọc dòng chữ ngoài bìa sách, thấy đúng là cuốn Một trăm vụ án oan trong lịch sử. Nó nhếch môi:

- Ôm cuốn sách trong người suốt cả tuần lễ, chắc em đã phát hiện được khối thứ quan trọng rồi hả Suku?

Câu hỏi mát của Nguyên y như một làn hơi lạnh thổi qua người Suku. Nó rụt cổ lại:

- Em chẳng tìm được chút dấu vết nào hết, anh K’Brăk.

Êmê lại hỏi, hy vọng có thể dùng câu hỏi thay cho cục gôm, tẩy bớt vẻ ngượng ngùng trên khuôn mặt xinh xắn của thằng oắt:

- Em đã đọc kỹ vụ án thứ 39 rồi chứ?

- Ủa, chị biết hết rồi hả, chị Êmê? – Suku ngạc nhiên, nó hỏi bà chị nhưng tia nhìn lại hướng về phía Nguyên.

- Anh đã kể cho mọi người nghe về cuốn sách của Đam San rồi. – Nguyên gật đầu và chìa tay ra – Em đưa cuốn sách anh xem thử nào.

Nguyên cầm lấy cuốn Một trăm vụ án oan trong lịch sử từ tay Suku, lật đúng trang viết về vụ án oan thứ 39, thận trọng lần dò từng chữ:

“Vào năm 1752, Ka Lênđi, một nữ ca sĩ chuyên hát phục vụ các lễ hội bị bệnh mãn tính khiến tóc bị hung đỏ và da đầu bị tróc ra từng mảng khiến cô phải từ bỏ nghề ca hát. Trước đó hai năm, một người hành nghề uốn tóc tên là Y Conma đến gặp Ka Lênđi, khen cô có mái tóc đẹp và hỏi cô có muốn sở hữu một mái tóc đẹp nhất xứ Lang Biang hay không, Ka Lênđi từ chối và chỉ trong vòng vài giờ sau cô cảm thấy đau đầu khủng khiếp. Cơn đau kéo dài suốt nửa năm, chỉ chấm dứt khi cô được pháp sư K’Băngđu chữa trị. Nhưng khi cơn đau qua đi, tóc cô trở nên kỳ dị, nó chuyển thành màu đỏ, vón cục và không tài nào chải được. Rốt cuộc chồng cô đành phải cắt cụt tóc cô khiến da đầu cô cứng lại, đóng thành vảy và tróc ra. Theo điều tra sau đó của Cục an ninh, Y Conma là một yusikan, một loại quái nhân có sở trường trù ếm người khác bằng những lời khen. Vào thế kỷ thứ 18, yusikan phát triển đến mức người ta rất sợ ai đó khen mình. Ngay cả trong các trường học, Bộ giáo dục cũng khuyến cáo các thầy cô giáo không được tùy tiện khen ngợi học sinh. Y Conma bị bắt, ba ngày sau bị xử treo cổ ở khu rừng thau lau phía bắc làng Ea Tiêu. Nhưng mười lăm năm sau, chính danh y K’Băngđu bất ngờ tiết lộ một khám phá động trời: Ca sĩ Ka Lênđi sở dĩ mắc chứng bệnh kỳ quặc nọ là do tình cờ ăn phải một loại thảo mộc lạ có tên là inicô cho tới lúc đó vẫn chưa được y học biết đến…”.

Cùng với Nguyên, cả Kăply, Êmê lẫn K’Tub đều chụm đầu vào trang sách, trông mặt thì hình như cả bọn đều bị câu chuyện về Y Conma và Ka Lênđi bắt mất hồn, đến mức chẳng đứa nào nhớ ra mục đích chính của tụi nó. Cho đến khi Suku sốt ruột kêu lên “Có thấy gì lạ không, anh K’Brăk?” thì bốn gương mặt mới bàng hoàng nhấc lên khỏi trang sách, ngơ ngác nhìn nhau và cùng buồn bã lắc đầu.

Suku chớp mắt:

- K’Băngđu là ba của danh y K’Buđăng, còn ca sĩ Ka Lênđi chính là cô ruột của dì Ka Lên.

- Thế à. – Nguyên nói, giọng hờ hững – Nhưng thông tin này cũng chẳng giúp ích gì cho cuộc điều tra…

- Cái gì đây?

Kăply thình lình ré lên, và theo tay chỉ của nó, cả bọn lại vục mặt vào trang sách:

“Cành thứ 9 của cây thau lau thứ 3 tính từ bìa trái khu rừng là nơi Y Conma thọ hình, đến hôm nay những ai gặp oan ức trong cuộc sống vẫn thường đến dưới gốc cây, hướng lên chỗ đó để cầu xin được giải oan”.

- Chìa khóa nằm ở đây rồi. “Vụ án 39 hoàn toàn 93” chính là muốn đề cập đến vị trí Y Conma bị treo cổ. – Nguyên hớn hở reo, mặt giãn ra, vừa nói vừa liếc Suku bằng ánh mắt dù vô tâm đến mấy bọn trẻ cũng nhận ra là đầy ngụ ý.

- Vô lý. – Suku đỏ mặt la lớn – Em đọc đi đọc lại câu chuyện này hàng trăm lần, không hề thấy có dòng chữ này.

Nguyên mỉm cười:

- Thế theo em là có ai mới viết thêm vào hả Suku?

Nguyên hỏi Suku bằng cái giọng như thể muốn nói mày là đồ ba xạo hết chỗ nói đó Suku, làm thằng oắt nhột nhạt kinh khủng.

- Em không hề nói xạo. – Nó ngửa mặt lên trần nhà, gần như tru lên, lúc này nếu nghĩ nó là một con sói con cũng không có gì là quá đáng – Dòng chữ đó hôm qua không hề có.

- Oan quá há, Suku? – Kăply đập cả hai tay lên vai thằng oắt, nhe răng cười khì khì – Nếu Đam San còn sống, anh nghĩ ổng sẽ thêm vụ này vào trong sách và tên sách chắc phải sửa lại thành Một trăm lẻ một vụ án oan trong lịch sử quá hà…

Kăply có lẽ định trêu thằng oắt thêm vài câu nữa nhưng đúng lúc đó, Êmê vụt kêu lên thất thanh:

- Xem nè. Dòng chữ khi nãy biến mất rồi.

Y như bị gậy quất vô lưng, bọn trẻ nhảy dựng, lập tức quét mắt xuống trang sách. Trừ Êmê là đứa phát hiện, bốn đứa còn lại gần như không thở được: quả nhiên dòng chữ vừa rồi đã không còn ở chỗ cũ.

- Thấy chưa. – Suku hét lên sung sướng – Em đã nói là em không hề nhìn thấy dòng chữ đó mà.

Không buồn nghe thằng oắt, Nguyên cầm cuốn sách lên, gí sát vào chóp mũi. Nó dùng mắt mân mê trang sách từ dưới lên trên rồi từ trên xuống dưới, như vậy cả chục lần, lâu đến mức tụi bạn tưởng là nó đã ngủ.

- Lạ thật. – Cuối cùng, Nguyên đặt cuốn sách xuống, thở ra một hơi dài thườn thượt.

Chỉ đợi có vậy, thằng K’Tub nhanh nhẩu tóm lấy cuốn sách, hy vọng mình sẽ là người đầu tiên tìm ra sự bí ẩn của dòng chữ khi nãy. Nhưng hết K’Tub đến Êmê rồi Suku, chẳng đứa nào khám phá được vì sao dòng chữ nọ đột ngột hiện ra rồi đột ngột biến mất như ảo ảnh.

- Hổng lẻ mình bị hoa mắt? – K’Tub chìa bộ mặt ngẩn ngơ vào mắt mọi người, giọng nghi hoặc.

- Làm gì có chuyện cả đống người cùng hoa mắt một lúc. – Kăply khịt mũi và chỉ tay vào trang sách – Khi nãy dòng chữ đó nằm ở ngay chỗ này nè.

Một lần nữa, bọn trẻ cảm giác có ai đánh mạnh vô lưng: Ngón tay Kăply vừa chạm vào trang sách, dòng chữ khi nãy thình lình hiện ra.

- Rụt tay lại coi, anh K’Brêt. – Suku la lên.

Kăply nhấc tay ra, và quả đúng như Suku suy đoán, dòng chữ lại biến mất không còn một vết tích.

Lần này, không đợi Suku xúi, Kăply tự mình lặp đi lặp lại động tác đó thêm năm, sáu lần nữa. Kết quả y hệt: khi nó chạm tay vào trang sách, dòng chữ bí mật lập tức hiện ra, khi nó rụt tay lại, dòng chữ lặn theo luôn.

- Em hiểu rồi. – Suku hất mạnh đầu, không hiểu là để cho món tóc trước trán trượt qua một bên hay để cho sự nặng nề ra khỏi tâm trí.

- Mày hiểu gì? – K’Tub láu táu, mắt nó long lanh còn quai hàm thì trễ xuống như chờ ngốn ngấu một món ăn hấp dẫn.

- Rõ ràng anh K’Brêt có một năng lực đặc biệt. – Suku thoắt trầm ngâm – Năng lực đó chúng ta không ai có. Ảnh có thể đánh thức được dòng chữ bí ẩn trong cuốn sách Đam San. Cũng như ảnh có khả năng nghe được lời nguyền rủa thầm của buyagan. Và khi nhìn vô tấm gương…

Chỗ này, Suku không có cơ hội để nói hết ý nghĩ trong đầu. Tiếng tằng hắng to như sấm của Nguyên đã nhấn chìm luôn phần sau của câu nói.

Suku giật mình, mặt ửng lên vì nhận ra nó suýt để lộ cho Êmê và K’Tub biết chuyện tụi nó lén lút đột nhập vào bí thất của ông K’Tul. Bây giờ nhớ lại, Suku biết chắc hôm đó câu mật mã sở dĩ hiện ra trong tấm gương là do Kăply đã soi mặt vào đó chứ hai câu thơ “Ai vui ta sẽ vui cùng. Ai buồn ta sẽ buồn chung với người” có lẽ không phải là mật khẩu để giải mã như nó và Nguyên suy luận.

- Còn vụ con chim vàng bữa trước nữa. – Êmê nhắc, vô tình kéo Suku ra khỏi cơn bối rối.

K’Tub vỗ tay đôm đốp, giọng húng khởi như thể nó chính là Kăply:

- Ờ, con chim vàng nữa. Hôm xảy ra đánh nhau ở con suối phía sau nhà họa sĩ Yan Dran, con chim vàng bay ra từ người anh K’Brêt đã đẩy lùi cả Bạch kỳ lân lẫn Hắc tinh tinh. Ác liệt thiệt tình!

Kăply thần mặt ra nghe, trước nay nó cũng biết nó có một vài khả năng khác thường nhưng bây giờ nghe tụi bạn xúm vào bảo nó là nhân vật đặc biệt, bỗng dưng nó đâm ra hoang mang.

- Ờ, lạ thiệt há?

Lâu thật lâu, Kăply mới mở miệng, ngơ ngác như người vừa ra khỏi một giấc mơ. Cúi xuống cuốn sách của Đam San, nó bất giác đặt tay vào chỗ khi nãy như muốn kiểm tra xem có đúng là nó có khả năng kỳ lạ thiệt không.

Khi nó vừa chạm khẽ những ngón tay vào, dòng chữ bí ẩn lại xuất hiện khiến nó bần thần ngước mắt nhìn tụi bạn, bụng thắc thỏm không biết nên mừng hay nên lo trước hiện tượng quái chiêu đó. Cho nên cũng dễ hiểu là bộ mặt nó lúc này nom đần đần y như vừa trúng phải bùa Ngốc của Buriăk.

Chương 19

GIÁO SƯ LÃNG QUÊN

Khi Nguyên và Kăply đặt chân vào văn phòng của thầy N’Trang Long, định hớn hở báo cho thầy biết là tụi nó đã tiến một bước dài trên con đường truy tìm báu vật gì gì đó, hai đứa bỗng khựng lại khi nhìn thấy cái báo động kế quen thuộc đang giãy giụa đùng đùng trên vách, ngay vị trí trước đây tụi nó thường nhìn thấy.

Đã một thời gian dài, kể từ ngày Buriam – sứ giả thứ tư của phe Hắc Ám trong lốt giáo sư Hailixiro – bị sa lưới, tụi nó không còn nhìn thấy cái báo động kế treo ở chỗ đó nữa. Dĩ nhiên là cả hai rất thắc mắc nhưng không nghe thấy thầy N’Trang Long đả động gì đến chuyện đó, tụi nó không dám hỏi, đành tự bằng lòng vơi cách giải thích rằng một khi mầm họa trong trường đã bị dập tắt, thầy không cần đến nó nữa nên đã cất đi.

Nguyên và Kăply gần như quên bẵng cái báo động kế đi rồi thì nó lại đột ngột xuất hiện ngay vào lúc không ngờ nhất. Hai đứa nhìn chằm chằm về phía cái báo động kế, ngạc nhiên tại sao bữa nay thầy N’Trang Long lại lôi nó ra, muốn lại gần xem nhưng không dám.

- Tụi con cứ bước lại xem đi.

Thầy N’Trang Long e hèm một tiếng, dễ dãi nói, ra vẻ nếu không đi guốc trong bụng học trò thì không xứng là hiệu trưởng.

Chỉ chờ có vậy, Nguyên và Kăply hối hả xán lại chỗ bức vách gần như bay ngang căn phòng.

Vừa nhìn thấy chất lỏng màu đỏ trong cái báo động kế sôi xèo xèo ở 95°, hai đứa giật bắn người, lật đật thả tay xuống, tụi nó lại vội vã xát tay lên mắt lần nữa, như thể không làm vậy thì con số 95° sẽ không chịu biến đi.

Đến khi biết chắc mình không trông lầm, cả hai bất giác run lên, mặt xám ngoét như vừa tròng lên chiếc mặt nạ màu tro.

Nguyên không ở trong số những đứa trẻ nhát gan nhưng lúc này cũng phải ngoảnh mặt về phía thầy N’Trang Long, lắp ba lắp bắp.

- Sao… sao nó… lên cao quá vậy thầy?

Kăply, như thường lệ, lại xì ra một câu chẳng ý tứ chút nào hết:

- Trường ta sắp banh ta lông rồi hả thầy?

- Chắc cũng sắp rồi. – Thầy N’Trang Long nghiêm nghị nói, bàn tay nhảy lên trán, thận trọng xoa quanh chỗ đó như đang trị chứng nhức đầu – Nếu mà nó dâng thêm 5° nữa thì trường Đămri chắc biến thành cái nghĩa địa quá hà.

Kăply liếc cái báo động kế vừa sôi vừa giật ầm ầm và xẹt lửa tứ tung, bụng quặn lại:

- Lại có một con ma cà rồng trong trường mình hả thầy?

Thầy N’Trang Long lắc đầu và làm một động tác gì đó giống như là nhún vai:

- Có mười con ma cà rồng đi lại lơn tơn trong trường thì mực máu trong báo động kế cũng không dâng cao đến thế con à.

- Con đoán ra rồi. – Nguyên bất thần vọt miệng, và khi nó nói tiếp có thể thấy rõ là đôi môi nó không ngớt giần giật – Nguyên nhân có lẽ xuất phát từ lão Ôkô Na phải không thầy?

Như thể có một thế kỉ trôi qua sau câu nói của Nguyên. Trong bầu không khí lặng phắt, có thứ gì đó như là sự khắc khoải chạy quanh căn phòng và Kăply tin rằng mình có thể nghe rõ tiếng ruồi bay nếu thầy N’Trang Long nổi hứng thả ra một con ruồi.

Không biết là thời gian có ngừng lại hay không, nhưng khi thầy N’Trang Long “e hèm” một tiếng thì Kăply có cảm giác thời gian mới bắt đầu trôi.

Thầy nói, giọng rầu rầu:

- Rất tiếc là con đã suy nghĩ giống như ta, K’Brăk à.

Kăply chưa hiểu tại sao Nguyên nói đúng mà thầy lại bảo là “rất tiếc” thì thầy lại nói tiếp, như thể biết thừa một cái đầu như nó bao giờ cũng cần nghe tới câu thứ hai để có thể hiểu được câu thứ nhất:

- Kể từ khi cái báo động kế đột ngột vọt lên con số 95° rùng rợn kia, ta luôn luôn hướng suy nghĩ của mình về lão Ôkô Na và thiệt tình là ta luôn luôn hy vọng mình nghĩ sai.

Thầy chép miệng, nhìn thẳng vào hai đứa học trò đang nhấp nhổm trước mặt, đôi mắt to cồ cộ vụt long lanh:

- Nhưng ngoài lão Ôkô Na ra, thú thiệt là ta không nghĩ ra có ai khác có khả năng đặt trường Đămri vào tình trạng báo động cao như vậy.

Nguyên nuốt nước bọt:

- Nhưng cho đến nay, thầy và thầy Akô Nô vẫn khống chế và giám sát được lão Ôkô Na mà, thầy.

- Cho đến nay thì đúng là như vậy. Ban đêm lão già thổ tả đó vẫn ngáy khò khò trong chiếc cũi, như tụi con đã từng nhìn thấy. Nhưng ai mà biết được ngày mai, ngày kia chuyện gì sẽ xảy ra. Trong cuộc đời bấp bênh và đầy bất trắc này, không chuyện gì là không thể, tụi con à.

Thầy N’Trang Long đột ngột chuyển sang giọng triết lý, hoàn toàn không ý thức, nhưng vì thế càng làm cho câu chuyện trở nên nặng nề hơn.

Kăply hít vào một hơi thật sâu, nhăn nhó nói:

- Vậy hóa ra Cục trưởng Cục an ninh Ama Moto quyết định khai trừ thầy Akô Nô là quyết định đúng hả thầy?

- Đúng ư? – Thầy N’Trang Long mở to mắt, có vẻ hết sức ngạc nhiên, như thể Kăply vừa phun ra một con cóc – Làm sao một quyết định thúi um như vậy mà đúng được kia chớ.

Thầy nhịp những ngón tay quả chuối xuống bàn, mặt nghiêm lại:

- Tụi con nghe đây nè. Thầy Akô Nô là thầy Akô Nô, còn lão Ôkô Na là lão Ôkô Na, không thể vì muốn sát hại người này mà cho mình quyền giết oan luôn người kia. Hừm, hành động như vậy thì có khác gì bọn người của phe Hắc Ám…

- Thế muốn không giống phe Hắc Ám thì phải làm sao hở thầy? – Kăply láu táu hỏi, nó sốt ruột đến mức không thể chờ thầy N’Trang Long nói hết câu.

- Phải nghĩ ra cách! Phải nghĩ ra một cách nào đó, con à. Một cách lưỡng toàn.

- Thế thầy đã nghĩ ra cách gì chưa?

- Ờ, ờ… chưa. – Thầy N’Trang Long cụp mắt xuống, vai thầy cũng trĩu xuống theo như thể thầy đang gánh một gánh đá trên vai.

- Thầy ơi. – Nguyên chợt kêu lên, vẻ mệt mỏi của thầy hiệu trưởng làm nó xúc động, vì nó chưa thấy thầy rơi vào tình trạng này bao giờ – Thầy không nên lo lắng quá. Dù sao thì cho đến lúc này, lão Ôkô Na vẫn chưa có cách nào chống lại những lá bùa dán ở đền thờ phúc thần Kalăm

- Nhưng nếu trùm Bastu đột nhập vào đây thì hắn có thể cứu lão ra, K’Brăk. – Kăply phản bác – Hôm trước hắn đã từng đánh tháo cho lão một lần rồi.

- Ờ. – Thầy N’Trang Long ưu phiền nói – Thần chú kim cương có thể gỡ được những lá bùa mà ta đang dán trên chiếc cũi.

Như không muốn hai đứa học trò thêm hoảng sợ, thầy hắng giọng và lái câu chuyện sang phía khác:

- Ủa tụi con lên đây gặp ta không phải vì định chõ mũi vào chuyện của nhà trường đó chớ?

- Dạ không. – Nguyên gãi tai, ấp úng – Tụi con định báo cho thầy là ngày mai tụi con sẽ đến làng Ea Tiêu…

- Ta biết rồi. – Thầy N’Trang Long ngắt lời – Ở phía bắc làng Ea Tiêu có khu rừng thau lau…

Trong khi Nguyên há hốc miệng thì Kăply reo ầm:

- Sao thầy biết hay vậy thầy? Có đứa nào mách lẻo với thầy hả?

Giơ bàn tay to tướng lên như muốn chặn họng tên học trò nhí nhố, thầy N’Trang Long điềm nhiên nói:

- Nếu trực giác của ta không phản lại ta thì ta nghĩ tụi con đang đi đúng hướng.

Đôi mắt thầy nheo lại như có hạt bụi vừa rơi vô và hàng ria rậm khẽ nhúc nhích như thể thầy vẫn quen nói bằng ria:

- Nói thiệt với tụi con chứ cuốn Một trăm vụ án oan trong lịch sử của Đam San về mặt nội dung hổng có gì đáng để cấm đoán hết. Một trăm năm mươi năm trước sở dĩ nó bị Hội đồng tối cao xứ Lang Biang tịch thu chẳng qua vì nó chứa cái bí mật mà tụi con vừa khám phá ra.

Nguyên và Kăply buột miệng “à” lên một tiếng, nhưng trước khi tụi nó kịp thắc mắc về tác giả cuốn sách, thầy N’Trang Long đã nói luôn:

- Đam San dĩ nhiên không hay biết gì về bí mật chứa đựng trong cuốn sách của mình. Ông ta chỉ ghi chép các vụ án sai dưới cái nhìn khách quan của một nhà sử học.

- Thầy ơi, – Nguyên khẽ cựa quậy người – nếu đúng như thầy nói thì tại sao Đam San lại phù phép dòng chữ nói về vị trí Y Conma bị treo cổ?

- Điều gì thì ta không dám chắc nhưng riêng chuyện này, ta có thể quả quyết Đam San không phải người phù phép dòng chữ đó.

Thầy N’Trang Long thong thả đáp và trước khi Kăply kịp bật ra câu hỏi “Thế thì ai hả thầy?”, thầy đã xua tay về phía cửa phòng không biết đã mở ra từ lúc nào, tỉnh queo nói:

- Ta sẽ rất vui nếu tụi con đủ thông minh để hiểu được tại sao cửa phòng ta tự dưng lại mở ra trong khi không có ai bước vào hết trọi.

Nguyên và Kăply bất đắc dĩ phải đứng lên trước lời đuổi khách, tức mình là tụi nó đã không cáo từ trước khi bị tống cổ như bao lần khác.

- Mày ngu quá. – Nguyên cáu kỉnh nói, khi cả hai lần mò leo xuống những bậc cấp – Chính Hội đồng Lang Biang đã phù phép dòng chữ đó chứ ai. Có vậy mà cũng hỏi.

- Tao hỏi hồi nào? – Kăply cãi.

- Nếu thầy hiệu trưởng không thẳng tay đuổi tụi mình như đuổi ruồi, mày đã vo ve hỏi rồi. – Nguyên làu bàu – Chính vì biết mày sắp sửa lằng nhằng, thầy mới tống khứ tụi mình đó.

Lần này thì Kăply nín thinh, vì thằng bạn đại ca của nó nói đúng quá.

Kăply cũng hiểu rằng cách tốt nhất để đừng chọc giận thằng Nguyên trong lúc này là tiếp tục dán miệng mình lại, lặng lẽ chui ra khỏi những căn nhà lá dưới chân tháp, lặng lẽ băng ngang sân trường đầy nhóc những con mắt ngó ra từ các cửa sổ mà không thèm ngọ nguậy đầu, đại khái phải cố ra vẻ ta đây là một đứa vừa câm vừa điếc.

Nhưng lúc lướt ngang qua phòng học có cửa kính tím, Kăply không thể nào ép mình làm thinh được nữa. Nó khẽ kêu lên, miếng băng keo vô hình dán ngang miệng rớt đâu mất.

- Ê, Yan Jik và anh em Pôcô – Pôca kìa.

Ba đứa nhóc cũng vừa nhìn thấy Nguyên và Kăply. Mặt tươi hơn hớn, Pôca bay vèo ra cửa như một làn khói.

- Hai anh đi đâu đây?

- Đi chơi.

Nguyên đáp và tò mò nhìn gương mặt rạng rỡ của Pôca, ngạc nhiên thấy thằng này hổng có vẻ gì là rầu rĩ khi bị nhét vô cái chỗ mà nó vẫn ghét cay ghét đắng.

- Vô lớp đi Pôca. Coi chừng bị thầy giáo phạt đó.

Kăply lên tiếng nhắc, vừa liếc mắt vào lớp Sơ cấp 1, hoang mang khi chẳng thấy thầy phụ trách lớp đâu hết. Chiếc bàn giáo viên vẫn trống trơn như lần nó và Nguyên lò dò vô đây theo lời dặn của thầy N’Trang Long.

- Dạy tụi em là cô giáo chứ không phải thầy giáo. – Pôca cười khì khì.

- Cô giáo? – Cả Nguyên lẫn Kăply cùng bật hỏi.

- Ờ, cô giáo. – Pôca nói tiếp với vẻ khoái trá – Cô giáo đẹp lắm. Nhưng tụi học trò hổng đứa nào nhìn thấy cô hết. Đã vậy, vừa ôm cặp ra khỏi lớp là chẳng đứa nào nhớ ra cô giáo của mình là ai nữa.

Nguyên giật mình một cái, chột dạ hỏi, không còn bụng dạ đâu để nổi nóng trước lời nhận xét bừa bãi của thằng nhóc về học trò trường Đămri:

- Cô giáo em già hay trẻ?

- Trẻ măng à. – Pôca huơ tay, hào hứng – Cô lớn hơn chị Êmê có vài tuổi hà.

Nguyên và Kăply bất giác quay sang nhìn nhau, đứa này đều đọc được trong mắt đứa kia cái tên mà tụi nó đang phân vân nghĩ đến: Păng Sur.

Hết sức thận trọng, Nguyên ngoắt Pôca lại chỗ khuất sau bờ tường, cúi đầu hỏi nhỏ:

- Cô giáo em tên gì?

- Em chẳng thấy ai gọi tên cô hết á. – Pôca chớp mắt – Em hỏi bố Yan Dran, bố bảo thầy hiệu trưởng chỉ gọi cô là giáo sư Lãng Quên.

- Giáo sư Lãng Quên…

Nguyên thì thầm nhắc lại cái tên lạ lẫm đó, chợt hiểu ra tại sao từ khi đặt chân vô trường Đămri đến nay, nó không hề nghe đứa học trò nào thắc mắc về vị giáo viên đặc biệt này. Tụi học trò lớp Sơ cấp 1 chẳng tỏ vẻ gì ngạc nhiên về cô giáo vô hình của mình, có lẽ những băn khoăn của tụi nó đã bị một loại bùa phép nào đó gột sạch khỏi đầu óc. Ngay cả tụi Êmê, K’Tub, Păng Ting, Mua, Tam, Bolobala cũng không bao giờ bàn tán về người phụ trách lớp Sơ cấp 1. Đây chắc là một loại bùa có tác dụng như bùa Lú, nhưng hẳn là loại bùa cực mạnh, Nguyên nơm nớp nghĩ, nếu không thì tại sao cả đội ngũ giáo viên tài giỏi của trường Đămri lẫn đám phóng viên tọc mạch và ưa mách lẻo như Chor và Pôlôna xưa nay đều xem như không hề có vị giáo viên này trong bộ nhớ của mình.

- Thế Yan Jik…

- Yan Jik cũng như mấy đứa kia. – Pôca nhún vai cắt ngang câu hỏi của Nguyên – Em kể cho nó nghe về cô giáo, một chốc nó lại quên ngay.

Kăply nheo mắt:

- Tóm lại, chỉ có hai đứa em là nhìn thấy cô giáo và luôn biết rằng có một cô giáo như thế trong trường mình, điều đó khiến em và Pôcô rất ư là khoái chí, đúng không?

- Dĩ nhiên rồi, anh K’Brêt. Nhưng có một chuyện tụi em không khoái lắm. – Bộ mặt tươi tỉnh của Pôca chùng xuống và khi nói tiếp ánh mắt nó chợt tối đi – Không hiểu sao khi tụi em ngồi trong lớp, hai con thanh xà bạch xà cứ đờ ra như hai con rắn bằng gỗ, hổng nhúc nhích gì hết. Chỉ khi nào ra khỏi lớp, tụi nó mới bắt đầu trở lại trạng thái bình thường.

- Chuyện đó anh cũng không hiểu, Pôca. – Nguyên tặc lưỡi và hất đầu về phía cửa lớp – Thôi, tụi anh về đây, em vô lớp đi.

Vừa chui ra khỏi cổng trường, Kăply đập mạnh vô lưng Nguyên, nói như xả ấm ức, trông bộ tịch thì có lẽ nãy giờ nó bị cả đống câu hỏi dày vò:

- Pôcô – Pôca là hai con ma, tụi nó biết trong trường có một vị giáo viên ở lớp Sơ cấp 1 đã đành, nhưng tại sao tao và mày cũng biết điều đó trong khi những đứa khác đều mù tịt hả Nguyên?

- Mày đừng quên là tụi mình đến từ một thế giới khác. Đừng bao giờ quên điều đó, Kăply.

Nguyên giải thích bằng giọng nghiêm nghị đến mức Kăply chỉ biết thốt lên hai tiếng “Ờ há” rồi lẳng lặng lê bước qua các quầy bánh giăng giăng hai bên đường, buồn bã nhận ra cái đầu mình lúc này đã tiến bộ khá nhiều nhưng chắc còn lâu lắm mới có thể gọi là thông minh.

oOo

Chiếc bàn ăn ở lâu đài K’Rahlan trưa hôm đó giống như một bãi chiến trường. Mé bên này ông K’Tul gân cổ nã đại liên bằng đủ thứ từ ngữ đao búa nhất mà ông có thể lôi ra từ cái đầu nóng hừng hực của mình. Ở phòng tuyến đối diện, bọn trẻ K’Rahlan hợp thành một đội quân mà hai chiến sĩ hăng hái nhất bao giờ cũng là hai tên lính xung kích K’Tub và Kăply, mặc dù để chống lại những đòn tấn công ồ ạt của ông K’Tul, hai đứa nó chỉ có thể dùng loại súng lục bắn từng phát một.

- Tụi bay chống mắt lên mà coi. – Ông K’Tul nhếch mép, cay độc – Ngày tận thế đến thiệt rồi đó. Rồi sẽ chết tiệt hết cả lũ. Lão N’Trang Long của tụi bay là người tiêu tùng trước tiên. Kế đến là những thằng ngu xưa nay vẫn ủng hộ lão.

- Mắt ba bị làm sao rồi. – Thằng K’Tub tỉnh rụi – Con chẳng thấy có dấu hiệu gì của ngày tận thế hết.

- Đồ ngu. – Ông K’Tul long mắt lên nhìn thằng con, có vẻ tiếc là đã trót đẻ ra nó – Chính mày bị mù thì có. Hai hôm nay chim ruồi bay rợp trời mày không thấy sao?

Bọn trẻ tự nhiên nghe sống lưng lạnh ngắt khi nhớ đến lời Suku nói trong rừng bữa trước: chim ruồi cùng với chim đầu rìu và chim gõ kiến là ba loại chim có ma thuật. Chim ruồi từ các cánh rừng xa xôi bỗng nhiên kéo hết về đây hẳn không phải điềm lành.

Ông K’Tul có vẻ rất ư khoái chí khi ngắm vẻ sợ hãi trên mặt bọn trẻ. Ông hí hửng khạc thêm một tràng như muốn làm mấy đứa nhóc sụm luôn cho rồi.

- Tờ Tin nhanh N, S & D vừa phát hành cách đây nửa tiếng đồng hồ còn cho biết rạng sáng hôm nay, một phù thủy đi chợ sớm đã hết sức kinh hoàng khi trông thấy một bầy kền kền đông vô kể, có đến hàng trăm con, đang bu lúc nhúc trên các cành cây dọc hai bên hẻm Gieo sự chết.

Nói tới đây, hàng ria trên mặt ông cựa quậy một cách thích thú:

- Mà kền kền là loài chim gì thì tụi bay cũng được học rồi đó.

Êmê sợ hãi đến mức quên cả mình cùng phe với K’Tub và Kăply. Nó run run nói, mặt bệch ra như sắp bị bỏ vào vạc dầu sôi:

- Đó là loài chim ăn thịt xác chết phải không cậu?

- Ăn thịt xác chết chỉ là chuyện nhỏ. – Ông K’Tul chậm rãi nói, cố tình nhấn nhá từng từ để thưởng thức sự khiếp đảm đang ngấm dần vào bọn trẻ – Trước đó, khi linh hồn người chết thoát qua miệng để ra ngoài, chim kền kền có nhiệm vụ dẫn linh hồn đó đi chỗ khác…

K’Tub hừ mũi:

- Ý ba muốn nói là chim kền kền về đông như thế thì xứ Lang Biang sắp ngủm củ tỏi hết chứ gì?

- Ta không thèm nói gì hết. Tự tụi bay hay cái đầu đần độn của tụi bay suy ra đi. – Ông K’Tul gầm gừ đáp, câu hỏi khiêu khích của thằng con làm ông cáu đến mức quên phắt vừa rồi chính ông đã quả quyết xứ Lang Biang “sẽ chết tiệt hết cả lũ”.

Kăply đã định không lên tiếng, mặc dù thái độ của ông K’Tul làm nó bất mãn hết sức. Nhưng đến khi ông nhắc tới cụm từ ”cái đầu đần độn” thì không hiểu sao nó thấy nhột nhạt quá mạng – chắc tại hồi sáng vẻ phật ý của thằng Nguyên làm nó khó chịu. Thế là nó bực bội vọt miệng:

- Nếu đúng như bố nói thì con thấy chẳng có gì đáng để bố hò reo như từ nãy đến giờ. Nếu xứ này chẳng may tanh banh hết thì nhà mình chắc cũng hổng còn một mống nào.

Y như bị kê một chiếc tủ vào giữa họng, ông K’Tul há hốc miệng, quai hàm đột nhiên cứng như gỗ. Ông nhìn trừng trừng Kăply, mắt rực lên nhưng không thốt được tiếng nào, đại khái trông ông giống hệt khẩu tiểu liên bị kẹt đạn.

- Này… này…

Mãi một lúc ông mới nấc được một hai tiếng, mặc dù ông không hề muốn nhưng rõ ràng sự ấp úng của ông khiến Nguyên và Kăply tự nhiên liên tưởng đến một quả pháo bị xì.

Đã vậy, thằng K’Tub còn toét miệng cười hì hì:

- Anh K’Brêt nói đúng quá hả ba?

Phải nói là K’Tub đã làm một trò đại ngu. Cái lối đổ dầu vô lửa đó lập tức thổi bùng cơn phẫn nộ trong lòng ông K’Tul, làm đứt tung hết những sợi dây vô hình đang trói chặt ông.

- Đúng cái đầu tụi bay! – Như sư tử sút chuồng, ông K’Tul thình lình đứng phắt lên khỏi ghế, mặt đỏ gay, ông nói như quát vào từng khuôn mặt, hàng ria rung bần bật như sắp văng ra khỏi mép – Ta cảnh báo để tụi bay liệu hồn chứ ta hò reo cái con khỉ gì. Hừm, nếu thích thì lũ nhãi tụi bay cứ việc chết hết đi. Nhưng ta thì không. Không bao giờ!

Ông K’Tul thở phì phò, ngực áo phồng lên xẹp xuống, gấp rút như thể ông chỉ thở bằng một lá phổi. Ông ngửa mặt nhìn lên các tán lá trong vườn, giọng đột nhiên lảm nhảm, trông ông lúc này dường như không còn là ông nữa, mà như một người nào đó đang giả mạo chính ông:

- Chim ruồi. Chim kền kền. Ngày tận thế sắp đến. Ngài sắp quay lại. Tất cả chỉ là bắt đầu…

Nếu không có cái lưng ghế phía sau thì bọn trẻ, và cả bà Êmô nữa, đã ngã lăn ra trước thái độ giống như không còn thần trí của ông K’Tul, và nhất là những câu lầm bầm của ông. Cũng như mọi người, Kăply điếng hồn nhận ra đó là những câu mà tay chân của trùm Bastu đã quảng cáo trên chiếc đầu trọc của ông Pirama cách đây mấy hôm.

- Ba ơi ba. – Thằng K’Tub ré lên – Ba nói cái gì vậy?

- Ta nói cái gì ư? – Ông K’Tul như người mộng du, vấp phải câu hỏi của thằng con, giật mình choàng tỉnh – Ta có nói cái gì đâu.

K’Tub nhắc lại bằng giọng ngờ vực:

- Ba vừa nói: Ngày tận thế sắp đến. Ngài sắp quay lại. Tất cả chỉ là bắt đầu. Ba moi ở đâu ra mấy câu đó vậy?

- Ở đâu ra ư? – Ông K’Tul lúc lắc đầu như để sàng lọc lại trí nhớ – Ta đọc thấy nó ở đâu đó. Ở ngoài đường…

- Trên một cái đầu… – Êmê mấp máy môi.

- Ờ, có thể là trên một cái đầu. – Đang lẩm bẩm, ông K’Tul vụt long lanh mắt, hét lớn – Nhưng trên một cái gì thì đâu có quan trọng. Quan trọng là nó nói đúng. Đó là một lời cảnh báo nghiêm túc.

- Chẳng nghiêm túc chút nào hết. – K’Tub dài môi ra – Cho dù chim ruồi và chim kền kền…

- K’Tub. – Bà Êmô kêu lên, vừa ngắt lời thằng nhóc bà vừa ve vẩy chiếc khăn tay không biết đã được rút ra từ khi nào, và vì bà luôn luôn đóng vai trò gìn giữ hòa bình trong cuộc chiến bất tận giữa ông K’Tul và bọn trẻ nên Nguyên có cảm giác cái đang phơ phất trên tay bà không phải là chiếc khăn để thỉnh thoảng xì mũi mà là lá cờ của Liên hiệp quốc.

Mặt quạu đeo, ông K’Tul giẫm mạnh đôi guốc gỗ lên lớp sỏi và bất thần rời khỏi bàn ăn nhân khoảnh khắc hưu chiến ngắn ngủi, không nói một tiếng nào. Chắc chắn không phải vì ông đã no bụng – bọn trẻ thấy từ khi bắt đầu bữa ăn, ông chỉ húp đúng hai muỗng canh, toàn bộ thời gian còn lại ông dành cho việc nói về chim chóc, về cái chết và chửi người khác ngu và đần độn.

- Thấy chưa. – Bà Êmô đưa đôi mắt ưu phiền nhìn K’Tub – Ba con giận rồi đó.

K’Tub gừ gừ trong miệng, nó thấy mình không có lý do gì để gây gổ với bà Êmô mà nó rất yêu quý, phần khác lúc này miệng nó đang lèn chặt thức ăn.

- Những điều ba con nói không phải là không có lý. – Bà Êmô tiếp tục bằng giọng lo lắng, tay nắm chặt chiếc khăn như thể đó là lá bùa hộ mạng – Một khi chim ruồi và chim kền kền đột ngột tập trung về đây, hiện tượng bất bình thường đó rất đáng để chúng ta lưu tâm đề phòng.

Có vẻ như bà đang muốn thay thế vai trò của ông K’Tul khi bắt đầu điểm báo:

- Theo tờ Tin nhanh N, S & D, sáng nay Cục an ninh vừa phát hiện năm xác hết ở khu vực chung quanh Hòn Đá Tảng. Các nạn nhân đã chết nhiều ngày trước, và căn cứ vào tình trạng thi thể bị vùi trong đất, rất có thể họ đã trúng phải lời nguyền Tan xác của Buriăk.

Hình ảnh cuộc chạm trán sinh tử giữa Mua, Păng Ting và Suku với sứ giả thứ năm của trùm Bastu tại hẻm Gieo Sự Chết hôm trước hiện về mồn một trong đầu khiến Nguyên và Kăply không hẹn mà cùng rên lên.

Rất may là những người ngồi quanh bàn ăn hiểu tiếng rên của hai đứa nó theo nghĩa khác.

- Chưa hết đâu, tụi con. – Bà Êmô nhìn Nguyên và Kăply bằng ánh mắt ngạc nhiên, ý chừng bà cho rằng nhát hít như thế làm sao mà làm chiến binh giữ đền cho nổi, rồi thắc thỏm nói tiếp – Thông tin về những cái chết trên tờ báo của Ama Đliê dù sao cũng không kỳ lạ bằng tin tức mà tờ Lang Biang hằng ngày vừa tiết lộ sáng nay: Có những dấu hiệu cho thấy tiệm Những Dấu Hỏi sẽ đóng cửa vô thời hạn. Thời gian gần đây, nhiều người bắt gặp lão Luclac xuất hiện thường xuyên ở tiệm Cái Cốc vàng, say bét nhè và hầu như không nhớ chút xíu gì về cửa tiệm mà lão từng điều hành bao nhiêu năm nay.

Một lần nữa, Nguyên và Kăply đã rất muốn ợ lên một tiếng rên nhưng lần này tụi nó kềm lại được. Như vậy là trong cái ngày ông Pirama lên tiếng giải mã câu thơ của ông K’Tul, ngay cả lão chủ tiệm cũng trúng phải bùa Lú của thủ phạm chứ không chỉ các khách hàng. Thủ phạm chắc là ông K’Tul rồi. Nguyên nơm nớp nghĩ. Rõ ràng là cho đến nay, ông K’Tul chẳng hề tỏ ra hề hấn gì hết, và không cần phải thiệt là thông thái mới hiểu rằng người không trúng phải bùa Lú chính là người đã sử dụng bùa Lú trong ngày hôm đó.

Nguyên đưa đôi mắt hoang mang nhìn theo hướng ông K’Tul vừa bỏ đi như nhìn theo một dấu hỏi to tướng, giật mình thêm cái nữa khi sực nhớ ra ông không hề có bóng như mọi người.

Trong một thoáng, Nguyên có cảm giác nó đang ngâm mình trong hầm nước đá và kể từ lúc đó, những lời giáo huấn của bà Êmô trượt qua tai nó loáng thoáng như gió thoảng và nếu như lúc đó có ai phát hiện ra dáng ngồi bất động của nó và hét lên rằng có một con basilic đang bò loanh quanh trong vườn, chắc chắn những người khác sẽ lập tức tin ngay.Chương 19

GIÁO SƯ LÃNG QUÊN

Khi Nguyên và Kăply đặt chân vào văn phòng của thầy N’Trang Long, định hớn hở báo cho thầy biết là tụi nó đã tiến một bước dài trên con đường truy tìm báu vật gì gì đó, hai đứa bỗng khựng lại khi nhìn thấy cái báo động kế quen thuộc đang giãy giụa đùng đùng trên vách, ngay vị trí trước đây tụi nó thường nhìn thấy.

Đã một thời gian dài, kể từ ngày Buriam – sứ giả thứ tư của phe Hắc Ám trong lốt giáo sư Hailixiro – bị sa lưới, tụi nó không còn nhìn thấy cái báo động kế treo ở chỗ đó nữa. Dĩ nhiên là cả hai rất thắc mắc nhưng không nghe thấy thầy N’Trang Long đả động gì đến chuyện đó, tụi nó không dám hỏi, đành tự bằng lòng vơi cách giải thích rằng một khi mầm họa trong trường đã bị dập tắt, thầy không cần đến nó nữa nên đã cất đi.

Nguyên và Kăply gần như quên bẵng cái báo động kế đi rồi thì nó lại đột ngột xuất hiện ngay vào lúc không ngờ nhất. Hai đứa nhìn chằm chằm về phía cái báo động kế, ngạc nhiên tại sao bữa nay thầy N’Trang Long lại lôi nó ra, muốn lại gần xem nhưng không dám.

- Tụi con cứ bước lại xem đi.

Thầy N’Trang Long e hèm một tiếng, dễ dãi nói, ra vẻ nếu không đi guốc trong bụng học trò thì không xứng là hiệu trưởng.

Chỉ chờ có vậy, Nguyên và Kăply hối hả xán lại chỗ bức vách gần như bay ngang căn phòng.

Vừa nhìn thấy chất lỏng màu đỏ trong cái báo động kế sôi xèo xèo ở 95°, hai đứa giật bắn người, lật đật thả tay xuống, tụi nó lại vội vã xát tay lên mắt lần nữa, như thể không làm vậy thì con số 95° sẽ không chịu biến đi.

Đến khi biết chắc mình không trông lầm, cả hai bất giác run lên, mặt xám ngoét như vừa tròng lên chiếc mặt nạ màu tro.

Nguyên không ở trong số những đứa trẻ nhát gan nhưng lúc này cũng phải ngoảnh mặt về phía thầy N’Trang Long, lắp ba lắp bắp.

- Sao… sao nó… lên cao quá vậy thầy?

Kăply, như thường lệ, lại xì ra một câu chẳng ý tứ chút nào hết:

- Trường ta sắp banh ta lông rồi hả thầy?

- Chắc cũng sắp rồi. – Thầy N’Trang Long nghiêm nghị nói, bàn tay nhảy lên trán, thận trọng xoa quanh chỗ đó như đang trị chứng nhức đầu – Nếu mà nó dâng thêm 5° nữa thì trường Đămri chắc biến thành cái nghĩa địa quá hà.

Kăply liếc cái báo động kế vừa sôi vừa giật ầm ầm và xẹt lửa tứ tung, bụng quặn lại:

- Lại có một con ma cà rồng trong trường mình hả thầy?

Thầy N’Trang Long lắc đầu và làm một động tác gì đó giống như là nhún vai:

- Có mười con ma cà rồng đi lại lơn tơn trong trường thì mực máu trong báo động kế cũng không dâng cao đến thế con à.

- Con đoán ra rồi. – Nguyên bất thần vọt miệng, và khi nó nói tiếp có thể thấy rõ là đôi môi nó không ngớt giần giật – Nguyên nhân có lẽ xuất phát từ lão Ôkô Na phải không thầy?

Như thể có một thế kỉ trôi qua sau câu nói của Nguyên. Trong bầu không khí lặng phắt, có thứ gì đó như là sự khắc khoải chạy quanh căn phòng và Kăply tin rằng mình có thể nghe rõ tiếng ruồi bay nếu thầy N’Trang Long nổi hứng thả ra một con ruồi.

Không biết là thời gian có ngừng lại hay không, nhưng khi thầy N’Trang Long “e hèm” một tiếng thì Kăply có cảm giác thời gian mới bắt đầu trôi.

Thầy nói, giọng rầu rầu:

- Rất tiếc là con đã suy nghĩ giống như ta, K’Brăk à.

Kăply chưa hiểu tại sao Nguyên nói đúng mà thầy lại bảo là “rất tiếc” thì thầy lại nói tiếp, như thể biết thừa một cái đầu như nó bao giờ cũng cần nghe tới câu thứ hai để có thể hiểu được câu thứ nhất:

- Kể từ khi cái báo động kế đột ngột vọt lên con số 95° rùng rợn kia, ta luôn luôn hướng suy nghĩ của mình về lão Ôkô Na và thiệt tình là ta luôn luôn hy vọng mình nghĩ sai.

Thầy chép miệng, nhìn thẳng vào hai đứa học trò đang nhấp nhổm trước mặt, đôi mắt to cồ cộ vụt long lanh:

- Nhưng ngoài lão Ôkô Na ra, thú thiệt là ta không nghĩ ra có ai khác có khả năng đặt trường Đămri vào tình trạng báo động cao như vậy.

Nguyên nuốt nước bọt:

- Nhưng cho đến nay, thầy và thầy Akô Nô vẫn khống chế và giám sát được lão Ôkô Na mà, thầy.

- Cho đến nay thì đúng là như vậy. Ban đêm lão già thổ tả đó vẫn ngáy khò khò trong chiếc cũi, như tụi con đã từng nhìn thấy. Nhưng ai mà biết được ngày mai, ngày kia chuyện gì sẽ xảy ra. Trong cuộc đời bấp bênh và đầy bất trắc này, không chuyện gì là không thể, tụi con à.

Thầy N’Trang Long đột ngột chuyển sang giọng triết lý, hoàn toàn không ý thức, nhưng vì thế càng làm cho câu chuyện trở nên nặng nề hơn.

Kăply hít vào một hơi thật sâu, nhăn nhó nói:

- Vậy hóa ra Cục trưởng Cục an ninh Ama Moto quyết định khai trừ thầy Akô Nô là quyết định đúng hả thầy?

- Đúng ư? – Thầy N’Trang Long mở to mắt, có vẻ hết sức ngạc nhiên, như thể Kăply vừa phun ra một con cóc – Làm sao một quyết định thúi um như vậy mà đúng được kia chớ.

Thầy nhịp những ngón tay quả chuối xuống bàn, mặt nghiêm lại:

- Tụi con nghe đây nè. Thầy Akô Nô là thầy Akô Nô, còn lão Ôkô Na là lão Ôkô Na, không thể vì muốn sát hại người này mà cho mình quyền giết oan luôn người kia. Hừm, hành động như vậy thì có khác gì bọn người của phe Hắc Ám…

- Thế muốn không giống phe Hắc Ám thì phải làm sao hở thầy? – Kăply láu táu hỏi, nó sốt ruột đến mức không thể chờ thầy N’Trang Long nói hết câu.

- Phải nghĩ ra cách! Phải nghĩ ra một cách nào đó, con à. Một cách lưỡng toàn.

- Thế thầy đã nghĩ ra cách gì chưa?

- Ờ, ờ… chưa. – Thầy N’Trang Long cụp mắt xuống, vai thầy cũng trĩu xuống theo như thể thầy đang gánh một gánh đá trên vai.

- Thầy ơi. – Nguyên chợt kêu lên, vẻ mệt mỏi của thầy hiệu trưởng làm nó xúc động, vì nó chưa thấy thầy rơi vào tình trạng này bao giờ – Thầy không nên lo lắng quá. Dù sao thì cho đến lúc này, lão Ôkô Na vẫn chưa có cách nào chống lại những lá bùa dán ở đền thờ phúc thần Kalăm

- Nhưng nếu trùm Bastu đột nhập vào đây thì hắn có thể cứu lão ra, K’Brăk. – Kăply phản bác – Hôm trước hắn đã từng đánh tháo cho lão một lần rồi.

- Ờ. – Thầy N’Trang Long ưu phiền nói – Thần chú kim cương có thể gỡ được những lá bùa mà ta đang dán trên chiếc cũi.

Như không muốn hai đứa học trò thêm hoảng sợ, thầy hắng giọng và lái câu chuyện sang phía khác:

- Ủa tụi con lên đây gặp ta không phải vì định chõ mũi vào chuyện của nhà trường đó chớ?

- Dạ không. – Nguyên gãi tai, ấp úng – Tụi con định báo cho thầy là ngày mai tụi con sẽ đến làng Ea Tiêu…

- Ta biết rồi. – Thầy N’Trang Long ngắt lời – Ở phía bắc làng Ea Tiêu có khu rừng thau lau…

Trong khi Nguyên há hốc miệng thì Kăply reo ầm:

- Sao thầy biết hay vậy thầy? Có đứa nào mách lẻo với thầy hả?

Giơ bàn tay to tướng lên như muốn chặn họng tên học trò nhí nhố, thầy N’Trang Long điềm nhiên nói:

- Nếu trực giác của ta không phản lại ta thì ta nghĩ tụi con đang đi đúng hướng.

Đôi mắt thầy nheo lại như có hạt bụi vừa rơi vô và hàng ria rậm khẽ nhúc nhích như thể thầy vẫn quen nói bằng ria:

- Nói thiệt với tụi con chứ cuốn Một trăm vụ án oan trong lịch sử của Đam San về mặt nội dung hổng có gì đáng để cấm đoán hết. Một trăm năm mươi năm trước sở dĩ nó bị Hội đồng tối cao xứ Lang Biang tịch thu chẳng qua vì nó chứa cái bí mật mà tụi con vừa khám phá ra.

Nguyên và Kăply buột miệng “à” lên một tiếng, nhưng trước khi tụi nó kịp thắc mắc về tác giả cuốn sách, thầy N’Trang Long đã nói luôn:

- Đam San dĩ nhiên không hay biết gì về bí mật chứa đựng trong cuốn sách của mình. Ông ta chỉ ghi chép các vụ án sai dưới cái nhìn khách quan của một nhà sử học.

- Thầy ơi, – Nguyên khẽ cựa quậy người – nếu đúng như thầy nói thì tại sao Đam San lại phù phép dòng chữ nói về vị trí Y Conma bị treo cổ?

- Điều gì thì ta không dám chắc nhưng riêng chuyện này, ta có thể quả quyết Đam San không phải người phù phép dòng chữ đó.

Thầy N’Trang Long thong thả đáp và trước khi Kăply kịp bật ra câu hỏi “Thế thì ai hả thầy?”, thầy đã xua tay về phía cửa phòng không biết đã mở ra từ lúc nào, tỉnh queo nói:

- Ta sẽ rất vui nếu tụi con đủ thông minh để hiểu được tại sao cửa phòng ta tự dưng lại mở ra trong khi không có ai bước vào hết trọi.

Nguyên và Kăply bất đắc dĩ phải đứng lên trước lời đuổi khách, tức mình là tụi nó đã không cáo từ trước khi bị tống cổ như bao lần khác.

- Mày ngu quá. – Nguyên cáu kỉnh nói, khi cả hai lần mò leo xuống những bậc cấp – Chính Hội đồng Lang Biang đã phù phép dòng chữ đó chứ ai. Có vậy mà cũng hỏi.

- Tao hỏi hồi nào? – Kăply cãi.

- Nếu thầy hiệu trưởng không thẳng tay đuổi tụi mình như đuổi ruồi, mày đã vo ve hỏi rồi. – Nguyên làu bàu – Chính vì biết mày sắp sửa lằng nhằng, thầy mới tống khứ tụi mình đó.

Lần này thì Kăply nín thinh, vì thằng bạn đại ca của nó nói đúng quá.

Kăply cũng hiểu rằng cách tốt nhất để đừng chọc giận thằng Nguyên trong lúc này là tiếp tục dán miệng mình lại, lặng lẽ chui ra khỏi những căn nhà lá dưới chân tháp, lặng lẽ băng ngang sân trường đầy nhóc những con mắt ngó ra từ các cửa sổ mà không thèm ngọ nguậy đầu, đại khái phải cố ra vẻ ta đây là một đứa vừa câm vừa điếc.

Nhưng lúc lướt ngang qua phòng học có cửa kính tím, Kăply không thể nào ép mình làm thinh được nữa. Nó khẽ kêu lên, miếng băng keo vô hình dán ngang miệng rớt đâu mất.

- Ê, Yan Jik và anh em Pôcô – Pôca kìa.

Ba đứa nhóc cũng vừa nhìn thấy Nguyên và Kăply. Mặt tươi hơn hớn, Pôca bay vèo ra cửa như một làn khói.

- Hai anh đi đâu đây?

- Đi chơi.

Nguyên đáp và tò mò nhìn gương mặt rạng rỡ của Pôca, ngạc nhiên thấy thằng này hổng có vẻ gì là rầu rĩ khi bị nhét vô cái chỗ mà nó vẫn ghét cay ghét đắng.

- Vô lớp đi Pôca. Coi chừng bị thầy giáo phạt đó.

Kăply lên tiếng nhắc, vừa liếc mắt vào lớp Sơ cấp 1, hoang mang khi chẳng thấy thầy phụ trách lớp đâu hết. Chiếc bàn giáo viên vẫn trống trơn như lần nó và Nguyên lò dò vô đây theo lời dặn của thầy N’Trang Long.

- Dạy tụi em là cô giáo chứ không phải thầy giáo. – Pôca cười khì khì.

- Cô giáo? – Cả Nguyên lẫn Kăply cùng bật hỏi.

- Ờ, cô giáo. – Pôca nói tiếp với vẻ khoái trá – Cô giáo đẹp lắm. Nhưng tụi học trò hổng đứa nào nhìn thấy cô hết. Đã vậy, vừa ôm cặp ra khỏi lớp là chẳng đứa nào nhớ ra cô giáo của mình là ai nữa.

Nguyên giật mình một cái, chột dạ hỏi, không còn bụng dạ đâu để nổi nóng trước lời nhận xét bừa bãi của thằng nhóc về học trò trường Đămri:

- Cô giáo em già hay trẻ?

- Trẻ măng à. – Pôca huơ tay, hào hứng – Cô lớn hơn chị Êmê có vài tuổi hà.

Nguyên và Kăply bất giác quay sang nhìn nhau, đứa này đều đọc được trong mắt đứa kia cái tên mà tụi nó đang phân vân nghĩ đến: Păng Sur.

Hết sức thận trọng, Nguyên ngoắt Pôca lại chỗ khuất sau bờ tường, cúi đầu hỏi nhỏ:

- Cô giáo em tên gì?

- Em chẳng thấy ai gọi tên cô hết á. – Pôca chớp mắt – Em hỏi bố Yan Dran, bố bảo thầy hiệu trưởng chỉ gọi cô là giáo sư Lãng Quên.

- Giáo sư Lãng Quên…

Nguyên thì thầm nhắc lại cái tên lạ lẫm đó, chợt hiểu ra tại sao từ khi đặt chân vô trường Đămri đến nay, nó không hề nghe đứa học trò nào thắc mắc về vị giáo viên đặc biệt này. Tụi học trò lớp Sơ cấp 1 chẳng tỏ vẻ gì ngạc nhiên về cô giáo vô hình của mình, có lẽ những băn khoăn của tụi nó đã bị một loại bùa phép nào đó gột sạch khỏi đầu óc. Ngay cả tụi Êmê, K’Tub, Păng Ting, Mua, Tam, Bolobala cũng không bao giờ bàn tán về người phụ trách lớp Sơ cấp 1. Đây chắc là một loại bùa có tác dụng như bùa Lú, nhưng hẳn là loại bùa cực mạnh, Nguyên nơm nớp nghĩ, nếu không thì tại sao cả đội ngũ giáo viên tài giỏi của trường Đămri lẫn đám phóng viên tọc mạch và ưa mách lẻo như Chor và Pôlôna xưa nay đều xem như không hề có vị giáo viên này trong bộ nhớ của mình.

- Thế Yan Jik…

- Yan Jik cũng như mấy đứa kia. – Pôca nhún vai cắt ngang câu hỏi của Nguyên – Em kể cho nó nghe về cô giáo, một chốc nó lại quên ngay.

Kăply nheo mắt:

- Tóm lại, chỉ có hai đứa em là nhìn thấy cô giáo và luôn biết rằng có một cô giáo như thế trong trường mình, điều đó khiến em và Pôcô rất ư là khoái chí, đúng không?

- Dĩ nhiên rồi, anh K’Brêt. Nhưng có một chuyện tụi em không khoái lắm. – Bộ mặt tươi tỉnh của Pôca chùng xuống và khi nói tiếp ánh mắt nó chợt tối đi – Không hiểu sao khi tụi em ngồi trong lớp, hai con thanh xà bạch xà cứ đờ ra như hai con rắn bằng gỗ, hổng nhúc nhích gì hết. Chỉ khi nào ra khỏi lớp, tụi nó mới bắt đầu trở lại trạng thái bình thường.

- Chuyện đó anh cũng không hiểu, Pôca. – Nguyên tặc lưỡi và hất đầu về phía cửa lớp – Thôi, tụi anh về đây, em vô lớp đi.

Vừa chui ra khỏi cổng trường, Kăply đập mạnh vô lưng Nguyên, nói như xả ấm ức, trông bộ tịch thì có lẽ nãy giờ nó bị cả đống câu hỏi dày vò:

- Pôcô – Pôca là hai con ma, tụi nó biết trong trường có một vị giáo viên ở lớp Sơ cấp 1 đã đành, nhưng tại sao tao và mày cũng biết điều đó trong khi những đứa khác đều mù tịt hả Nguyên?

- Mày đừng quên là tụi mình đến từ một thế giới khác. Đừng bao giờ quên điều đó, Kăply.

Nguyên giải thích bằng giọng nghiêm nghị đến mức Kăply chỉ biết thốt lên hai tiếng “Ờ há” rồi lẳng lặng lê bước qua các quầy bánh giăng giăng hai bên đường, buồn bã nhận ra cái đầu mình lúc này đã tiến bộ khá nhiều nhưng chắc còn lâu lắm mới có thể gọi là thông minh.

oOo

Chiếc bàn ăn ở lâu đài K’Rahlan trưa hôm đó giống như một bãi chiến trường. Mé bên này ông K’Tul gân cổ nã đại liên bằng đủ thứ từ ngữ đao búa nhất mà ông có thể lôi ra từ cái đầu nóng hừng hực của mình. Ở phòng tuyến đối diện, bọn trẻ K’Rahlan hợp thành một đội quân mà hai chiến sĩ hăng hái nhất bao giờ cũng là hai tên lính xung kích K’Tub và Kăply, mặc dù để chống lại những đòn tấn công ồ ạt của ông K’Tul, hai đứa nó chỉ có thể dùng loại súng lục bắn từng phát một.

- Tụi bay chống mắt lên mà coi. – Ông K’Tul nhếch mép, cay độc – Ngày tận thế đến thiệt rồi đó. Rồi sẽ chết tiệt hết cả lũ. Lão N’Trang Long của tụi bay là người tiêu tùng trước tiên. Kế đến là những thằng ngu xưa nay vẫn ủng hộ lão.

- Mắt ba bị làm sao rồi. – Thằng K’Tub tỉnh rụi – Con chẳng thấy có dấu hiệu gì của ngày tận thế hết.

- Đồ ngu. – Ông K’Tul long mắt lên nhìn thằng con, có vẻ tiếc là đã trót đẻ ra nó – Chính mày bị mù thì có. Hai hôm nay chim ruồi bay rợp trời mày không thấy sao?

Bọn trẻ tự nhiên nghe sống lưng lạnh ngắt khi nhớ đến lời Suku nói trong rừng bữa trước: chim ruồi cùng với chim đầu rìu và chim gõ kiến là ba loại chim có ma thuật. Chim ruồi từ các cánh rừng xa xôi bỗng nhiên kéo hết về đây hẳn không phải điềm lành.

Ông K’Tul có vẻ rất ư khoái chí khi ngắm vẻ sợ hãi trên mặt bọn trẻ. Ông hí hửng khạc thêm một tràng như muốn làm mấy đứa nhóc sụm luôn cho rồi.

- Tờ Tin nhanh N, S & D vừa phát hành cách đây nửa tiếng đồng hồ còn cho biết rạng sáng hôm nay, một phù thủy đi chợ sớm đã hết sức kinh hoàng khi trông thấy một bầy kền kền đông vô kể, có đến hàng trăm con, đang bu lúc nhúc trên các cành cây dọc hai bên hẻm Gieo sự chết.

Nói tới đây, hàng ria trên mặt ông cựa quậy một cách thích thú:

- Mà kền kền là loài chim gì thì tụi bay cũng được học rồi đó.

Êmê sợ hãi đến mức quên cả mình cùng phe với K’Tub và Kăply. Nó run run nói, mặt bệch ra như sắp bị bỏ vào vạc dầu sôi:

- Đó là loài chim ăn thịt xác chết phải không cậu?

- Ăn thịt xác chết chỉ là chuyện nhỏ. – Ông K’Tul chậm rãi nói, cố tình nhấn nhá từng từ để thưởng thức sự khiếp đảm đang ngấm dần vào bọn trẻ – Trước đó, khi linh hồn người chết thoát qua miệng để ra ngoài, chim kền kền có nhiệm vụ dẫn linh hồn đó đi chỗ khác…

K’Tub hừ mũi:

- Ý ba muốn nói là chim kền kền về đông như thế thì xứ Lang Biang sắp ngủm củ tỏi hết chứ gì?

- Ta không thèm nói gì hết. Tự tụi bay hay cái đầu đần độn của tụi bay suy ra đi. – Ông K’Tul gầm gừ đáp, câu hỏi khiêu khích của thằng con làm ông cáu đến mức quên phắt vừa rồi chính ông đã quả quyết xứ Lang Biang “sẽ chết tiệt hết cả lũ”.

Kăply đã định không lên tiếng, mặc dù thái độ của ông K’Tul làm nó bất mãn hết sức. Nhưng đến khi ông nhắc tới cụm từ ”cái đầu đần độn” thì không hiểu sao nó thấy nhột nhạt quá mạng – chắc tại hồi sáng vẻ phật ý của thằng Nguyên làm nó khó chịu. Thế là nó bực bội vọt miệng:

- Nếu đúng như bố nói thì con thấy chẳng có gì đáng để bố hò reo như từ nãy đến giờ. Nếu xứ này chẳng may tanh banh hết thì nhà mình chắc cũng hổng còn một mống nào.

Y như bị kê một chiếc tủ vào giữa họng, ông K’Tul há hốc miệng, quai hàm đột nhiên cứng như gỗ. Ông nhìn trừng trừng Kăply, mắt rực lên nhưng không thốt được tiếng nào, đại khái trông ông giống hệt khẩu tiểu liên bị kẹt đạn.

- Này… này…

Mãi một lúc ông mới nấc được một hai tiếng, mặc dù ông không hề muốn nhưng rõ ràng sự ấp úng của ông khiến Nguyên và Kăply tự nhiên liên tưởng đến một quả pháo bị xì.

Đã vậy, thằng K’Tub còn toét miệng cười hì hì:

- Anh K’Brêt nói đúng quá hả ba?

Phải nói là K’Tub đã làm một trò đại ngu. Cái lối đổ dầu vô lửa đó lập tức thổi bùng cơn phẫn nộ trong lòng ông K’Tul, làm đứt tung hết những sợi dây vô hình đang trói chặt ông.

- Đúng cái đầu tụi bay! – Như sư tử sút chuồng, ông K’Tul thình lình đứng phắt lên khỏi ghế, mặt đỏ gay, ông nói như quát vào từng khuôn mặt, hàng ria rung bần bật như sắp văng ra khỏi mép – Ta cảnh báo để tụi bay liệu hồn chứ ta hò reo cái con khỉ gì. Hừm, nếu thích thì lũ nhãi tụi bay cứ việc chết hết đi. Nhưng ta thì không. Không bao giờ!

Ông K’Tul thở phì phò, ngực áo phồng lên xẹp xuống, gấp rút như thể ông chỉ thở bằng một lá phổi. Ông ngửa mặt nhìn lên các tán lá trong vườn, giọng đột nhiên lảm nhảm, trông ông lúc này dường như không còn là ông nữa, mà như một người nào đó đang giả mạo chính ông:

- Chim ruồi. Chim kền kền. Ngày tận thế sắp đến. Ngài sắp quay lại. Tất cả chỉ là bắt đầu…

Nếu không có cái lưng ghế phía sau thì bọn trẻ, và cả bà Êmô nữa, đã ngã lăn ra trước thái độ giống như không còn thần trí của ông K’Tul, và nhất là những câu lầm bầm của ông. Cũng như mọi người, Kăply điếng hồn nhận ra đó là những câu mà tay chân của trùm Bastu đã quảng cáo trên chiếc đầu trọc của ông Pirama cách đây mấy hôm.

- Ba ơi ba. – Thằng K’Tub ré lên – Ba nói cái gì vậy?

- Ta nói cái gì ư? – Ông K’Tul như người mộng du, vấp phải câu hỏi của thằng con, giật mình choàng tỉnh – Ta có nói cái gì đâu.

K’Tub nhắc lại bằng giọng ngờ vực:

- Ba vừa nói: Ngày tận thế sắp đến. Ngài sắp quay lại. Tất cả chỉ là bắt đầu. Ba moi ở đâu ra mấy câu đó vậy?

- Ở đâu ra ư? – Ông K’Tul lúc lắc đầu như để sàng lọc lại trí nhớ – Ta đọc thấy nó ở đâu đó. Ở ngoài đường…

- Trên một cái đầu… – Êmê mấp máy môi.

- Ờ, có thể là trên một cái đầu. – Đang lẩm bẩm, ông K’Tul vụt long lanh mắt, hét lớn – Nhưng trên một cái gì thì đâu có quan trọng. Quan trọng là nó nói đúng. Đó là một lời cảnh báo nghiêm túc.

- Chẳng nghiêm túc chút nào hết. – K’Tub dài môi ra – Cho dù chim ruồi và chim kền kền…

- K’Tub. – Bà Êmô kêu lên, vừa ngắt lời thằng nhóc bà vừa ve vẩy chiếc khăn tay không biết đã được rút ra từ khi nào, và vì bà luôn luôn đóng vai trò gìn giữ hòa bình trong cuộc chiến bất tận giữa ông K’Tul và bọn trẻ nên Nguyên có cảm giác cái đang phơ phất trên tay bà không phải là chiếc khăn để thỉnh thoảng xì mũi mà là lá cờ của Liên hiệp quốc.

Mặt quạu đeo, ông K’Tul giẫm mạnh đôi guốc gỗ lên lớp sỏi và bất thần rời khỏi bàn ăn nhân khoảnh khắc hưu chiến ngắn ngủi, không nói một tiếng nào. Chắc chắn không phải vì ông đã no bụng – bọn trẻ thấy từ khi bắt đầu bữa ăn, ông chỉ húp đúng hai muỗng canh, toàn bộ thời gian còn lại ông dành cho việc nói về chim chóc, về cái chết và chửi người khác ngu và đần độn.

- Thấy chưa. – Bà Êmô đưa đôi mắt ưu phiền nhìn K’Tub – Ba con giận rồi đó.

K’Tub gừ gừ trong miệng, nó thấy mình không có lý do gì để gây gổ với bà Êmô mà nó rất yêu quý, phần khác lúc này miệng nó đang lèn chặt thức ăn.

- Những điều ba con nói không phải là không có lý. – Bà Êmô tiếp tục bằng giọng lo lắng, tay nắm chặt chiếc khăn như thể đó là lá bùa hộ mạng – Một khi chim ruồi và chim kền kền đột ngột tập trung về đây, hiện tượng bất bình thường đó rất đáng để chúng ta lưu tâm đề phòng.

Có vẻ như bà đang muốn thay thế vai trò của ông K’Tul khi bắt đầu điểm báo:

- Theo tờ Tin nhanh N, S & D, sáng nay Cục an ninh vừa phát hiện năm xác hết ở khu vực chung quanh Hòn Đá Tảng. Các nạn nhân đã chết nhiều ngày trước, và căn cứ vào tình trạng thi thể bị vùi trong đất, rất có thể họ đã trúng phải lời nguyền Tan xác của Buriăk.

Hình ảnh cuộc chạm trán sinh tử giữa Mua, Păng Ting và Suku với sứ giả thứ năm của trùm Bastu tại hẻm Gieo Sự Chết hôm trước hiện về mồn một trong đầu khiến Nguyên và Kăply không hẹn mà cùng rên lên.

Rất may là những người ngồi quanh bàn ăn hiểu tiếng rên của hai đứa nó theo nghĩa khác.

- Chưa hết đâu, tụi con. – Bà Êmô nhìn Nguyên và Kăply bằng ánh mắt ngạc nhiên, ý chừng bà cho rằng nhát hít như thế làm sao mà làm chiến binh giữ đền cho nổi, rồi thắc thỏm nói tiếp – Thông tin về những cái chết trên tờ báo của Ama Đliê dù sao cũng không kỳ lạ bằng tin tức mà tờ Lang Biang hằng ngày vừa tiết lộ sáng nay: Có những dấu hiệu cho thấy tiệm Những Dấu Hỏi sẽ đóng cửa vô thời hạn. Thời gian gần đây, nhiều người bắt gặp lão Luclac xuất hiện thường xuyên ở tiệm Cái Cốc vàng, say bét nhè và hầu như không nhớ chút xíu gì về cửa tiệm mà lão từng điều hành bao nhiêu năm nay.

Một lần nữa, Nguyên và Kăply đã rất muốn ợ lên một tiếng rên nhưng lần này tụi nó kềm lại được. Như vậy là trong cái ngày ông Pirama lên tiếng giải mã câu thơ của ông K’Tul, ngay cả lão chủ tiệm cũng trúng phải bùa Lú của thủ phạm chứ không chỉ các khách hàng. Thủ phạm chắc là ông K’Tul rồi. Nguyên nơm nớp nghĩ. Rõ ràng là cho đến nay, ông K’Tul chẳng hề tỏ ra hề hấn gì hết, và không cần phải thiệt là thông thái mới hiểu rằng người không trúng phải bùa Lú chính là người đã sử dụng bùa Lú trong ngày hôm đó.

Nguyên đưa đôi mắt hoang mang nhìn theo hướng ông K’Tul vừa bỏ đi như nhìn theo một dấu hỏi to tướng, giật mình thêm cái nữa khi sực nhớ ra ông không hề có bóng như mọi người.

Trong một thoáng, Nguyên có cảm giác nó đang ngâm mình trong hầm nước đá và kể từ lúc đó, những lời giáo huấn của bà Êmô trượt qua tai nó loáng thoáng như gió thoảng và nếu như lúc đó có ai phát hiện ra dáng ngồi bất động của nó và hét lên rằng có một con basilic đang bò loanh quanh trong vườn, chắc chắn những người khác sẽ lập tức tin ngay.

- Ông đừng có nói là ngày xưa xa xôi tôi vẫn yêu màu tím đó nha.

Gương mặt Eakar ửng màu gạch cua:

- Ngài hiệu trưởng, tôi nghĩ luật pháp luôn bảo vệ những chuyện riêng tư…

- Ông Eakar, nhưng luật pháp cũng cho phép điều tra viên được quyền đặt bất cứ câu hỏi gì với những can phạm. – Từ chiếc ghế sát vách, Bộ trưởng Kan Kuru hùng hồn cất giọng, thái độ của ông lúc ngồi so với lúc đứng thiệt khác nhau xa.

- Ngươi cứ nói hết ra đi, Eakar. – Cục trưởng Ama Moto thở hắt ra – Nếu chuyện ăn mặc của ngươi không ăn nhập gì đến nội dung vụ án, ta sẽ có cách buộc ngài hiệu trưởng phải trả lời trước pháp luật về hành vi xâm phạm đời tư người khác…

Được sếp động viên, nhà thám tử cảm thấy sự bình tĩnh đang từ từ quay về với mình. Và ông bắt đầu nhớ lại…

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: