Sương đỏ 91-120

★ Chương 91

Hôm nay là một ngày nắng đẹp.

Bầu trời trong xanh không một gợn mây. Ánh nắng dìu dịu chứ không gay gắt như thường ngày. Cung Đoan Nguyên của Nguyên Thục rợp bóng cây xanh nên vô cùng mát mẻ. Trời đẹp, cảnh đẹp, ấy thế mà trong lòng Nguyên Thục ảm đạm tựa mưa rơi, nguyên nhân chính cũng bởi vì ba ngày nay nó đã không gặp được Trịnh Khải.

Ba ngày trước, bữa tiệc của Thánh mẫu đã bị một đoàn người lạ mặt giả dạng vũ công phá hoại. Nguyên Thục vô cớ bị cô gái áo đỏ đả thương dù cả hai không quen biết gì nhau. Mọi chuyện chưa dừng lại ở đó, Nguyên Thục lại còn bị thánh mẫu đem giam lỏng ở cấm cung dù nó đã hết lời thanh minh. Ở trong cung Đoan Nguyên, Nguyên Thục đứng ngồi không yên. Nó nôn nóng muốn biết bên ngoài diễn tiến đến đâu, nhưng ngặt nỗi mỗi khi mở cửa bước ra là nó lại bị hai người lính canh mời quay trở vào. Vừa bực bội, vừa tủi thân, Nguyên Thục đóng sầm cửa lại thật mạnh, dù biết rằng làm thế thật khó coi.

Sống trong cảnh chim lồng cá chậu, Nguyên Thục chán đến tận cùng. Suốt ngày ăn, ngủ, sau đó thuê thùa chút đỉnh rồi lại đi loanh quanh trong phòng không làm gì, một ngày đối với Nguyên Thục chẳng khác chi cực hình. Thỉnh thoảng, nó cũng được phép ra ngoài dạo chơi để thay đổi không khí với hai người lính canh gác ở phía sau, nhưng dạo chơi hậu hoa viên mà không có Trịnh Khải bên cạnh, Nguyên Thục mất hết hứng thú. Nó đi vẩn vơ một lúc rồi thui thủi quay trở về phòng. Thấy Nguyên Thục rầu rĩ, A Đào và A Vân dù rất muốn làm nó vui lên nhưng không được. Bệnh tương tư là bệnh muôn đời khó chữa, liều thuốc chữa dứt bệnh cho Nguyên Thục hai cô lại không có, thử hỏi còn biết làm sao hơn.

Trịnh Khải bảo rằng ba ngày sau sẽ gặp lại, quả nhiên anh làm thế thật. Nguyên Thục cứ tưởng anh nói thế để hòa hoãn với Thánh mẫu thôi, rồi sẽ ghé đến thăm nó, nhưng ai ngờ hết trông rồi lại ngóng tới ba ngày, nó vẫn chẳng thấy bóng dáng anh đâu. Mỗi lần nghe ngoài hành lang vang lên tiếng bước chân là Nguyên Thục lại chạy ra ngoài cửa, ngóng xem đó có phải Trịnh Khải không. Đến khi thấy đó chỉ là những nàng cung nữ đi tưới hoa về, Nguyên Thục vô cùng thất vọng. Mặt nó xịu xuống rồi quay trở vào phòng ngồi thẫn thờ, sau đó lại ra cửa đứng cho đến hết một ngày dài.

Nhìn Nguyên Thục buồn bã vì nhớ Trịnh Khải, A Đào và A Vân đã cố làm mọi cách cho nó vui lên nhưng cũng vô vọng. Nguyên Thục không còn tâm trí nào nữa. Những cố gắng của hai nàng cung nữ làm cho nó rất cảm kích, nhưng nó không thể nào cười nổi khi bóng dáng của Trịnh Khải vẫn như cá biệt tăm.

Có thể nói, ba ngày trôi qua đối với Nguyên Thục vô cùng khó khăn. Ngoài kia cây vẫn xanh lá, nhưng Nguyên Thục lại tưởng rằng mấy mùa thu đã trôi qua. Chưa bao giờ nó lại thấy một ngày dài đến thế. Truyện Kiều của Nguyễn Du có câu “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, đối với Nguyên Thục mà nói, câu thơ đó đã phản ánh đúng tâm trạng. Ngoài vườn hoa nở, bướm bay rập rờn, cảnh đẹp đó Nguyên Thục không còn lòng dạ nào thưởng ngoạn. Trong đầu nó chỉ lởn vởn những câu hỏi tại sao. Tại sao Trịnh Khải lại không đến thăm nó, anh hiện giờ đang làm gì? Anh có nhớ đến nó không? Còn nó thì nhớ anh lắm, lúc nào cũng nhớ đến anh, nhớ rất nhiều.

Nguyên Thục càng nghĩ càng giận, nó lâm vào tình cảnh chẳng đặng đừng này tất cả chỉ vì cô gái áo đỏ lạ mặt kia đã gây ra. Nó không có thù oán gì với cô ta, lại càng không biết cô ta là ai, ấy thế mà cô ta đã làm nó bị thương, làm nó bị Thánh mẫu giam lỏng, hại nó không được gặp Trịnh Khải. Tuy vết thương đã lành lặn nhờ thảo dược của Hồ ngự y, nhưng dấu tích còn lại trên má Nguyên Thục là một vết sẹo dài. Mỗi lần chải tóc, Nguyên Thục phải nhờ A Đào chải giùm vì nó không muốn nhìn vào gương. Nó sợ sẽ thấy một khuôn mặt xấu xí, tàn tạ với vết sẹo kia. Dù đã lấy nghệ thoa lên mặt để làm mờ vết sẹo nhưng kết quả vẫn không mấy khả quan. Nguyên Thục buồn tủi. Nó có chút mặc cảm vì vết sẹo ấy, nhưng nỗi mặc cảm thì một, còn nỗi nhớ nhung lại lên tới mười.

Một ngày không gặp được Trịnh Khải, Nguyên Thục chẳng làm gì ra hồn. Đầu óc nó không còn tâm trí để nghĩ ngợi đến những chuyện khác. Nguyên Thục hết giận cô gái áo đỏ, nó lại quay sang giận lây Trịnh Khải. Dù biết rằng anh đang tìm cách để giải oan cho nó, nhưng có cần phải thực hiện lời nói gặp lại sau ba ngày không. Chẵng lẽ anh không biết nó đang nhớ anh, nếu biết tại sao anh không đến thăm nó. Hay là anh đã quên nó rồi, hay là anh đang ở bên cạnh Ngọc Xuân đánh cờ mà quên mất ý định sẽ đến cung Đoan Nguyên.

Đã không nghĩ thì thôi, Nguyên Thục càng nghĩ càng thấy sợ. Hết sợ rồi nó lại cảm thấy buồn và tủi thân. Nó và anh cùng ở trong một phủ chứ có phải ở hai đầu bắc nam đâu mà lại xa xôi đến thế. Nguyên Thục không nén được tiếng thở dài, nó tiến lại song cửa, mắt nhìn những áng mây trôi trên bầu trời mà lòng lại nhớ đến Trịnh Khải vô cùng.

Non yên dù chẳng tới miền
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong
Cảnh buồn người thiết tha lòng
Cành cây sương đượm, tiếng trùng mưa phun

Nguyên Thục bất giác ngân nga bài thơ Chinh Phụ Ngâm. Nó cảm thấy những câu thơ ấy hợp với mình vô cùng. Chỉ không gặp Trịnh Khải ba ngày thôi mà nó tưởng như thời gian ngừng trôi, ấy vậy mà những người phụ nữ thời xưa có chồng đi chinh chiến nơi xa lại có thể chờ đến suốt cả cuộc đời. Nguyên thục lại thở dài. Thời xưa, chẳng phải nó cũng đang sống ở thời xưa sao. Ở chốn quá khứ này nó chẳng có ai là người quen, ngoại trừ Nguyên Thiên, Bách Nhật, và Anh Tú. Sống ở quá khứ, Nguyên Thục mới cảm thấy cuộc sống trước kia thật hạnh phúc biết bao. Nó có cha, có mẹ, có bạn bè luôn ở bên cạnh. Lạc về đây rồi thì xung quanh nó chẳng có ai, tất cả những gì nó có là Trịnh Khải. Anh là người đã làm nó cảm thấy rằng cuộc sống thật tốt đẹp. Anh là người đã làm cho những thương nhớ trong lòng nó dần nguôi ngoai, làm cho nó luôn tươi cười hạnh phúc. Cứ mỗi lần nghĩ đến chuyện một mai trở về hiện tại,được gặp lại mọi người mà không có Trịnh Khải, Nguyên Thục lại đau lòng. Chính vì thế, sau bao đêm trằn trọc suy nghĩ nên về hay ở nếu có cơ hội, Nguyên Thục đã đi đến quyết định cuối cùng, đó chính là mãi mãi ở lại đây để được sống bên cạnh anh.

Có thể nói, quyết định đó đối với Nguyên Thục thật không dễ dàng. Từ bỏ gia đình, bè bạn, và những gì quen thuộc suốt mười bảy năm nay, thật nó không đành lòng. Nguyên Thục biết nó không thuộc về chốn này. Ở lại đây, đường đời nó sẽ rất dài và nhiều chông gai ở phía trước, nhưng vì Trịnh Khải, nó chấp nhận tất cả. Nó chấp nhận từ bỏ mọi thứ để được ở bên cạnh anh, nhìn thấy anh và ở trong vòng tay anh mãi mãi. Nó yêu Trịnh Khải, anh là mối tình đầu tiên cũng là duy nhất của nó. Nó cần có anh bên cạnh, cần có anh vỗ về, chở che. Nó yêu anh mãi mãi, không bao giờ thay đổi, và nó tha thiết mong rằng trái tim anh cũng chỉ có một mình nó mà thôi.

Nguyên Thục lại nhìn về phía cửa, hôm nay đã là ngày thứ tư nhưng Trịnh Khải vẫn chưa thấy đến. Một ý nghĩ nhen nhóm trong đầu Nguyên Thục khiến nó lo lắng. Lỡ đâu Trịnh Khải hết hạn ba ngày chưa tìm được cách nào để chứng minh thân thế của nó? Như thế cả đời nó sẽ không được gặp anh nữa và chôn chân mãi mãi trong cung cấm này hay sao. Nguyên Thục lắc đầu, nó cố gạt đi ý nghĩ không may ấy. Trịnh Khải đã nói anh sẽ minh bạch được xuất thân của nó, anh nói được tất sẽ làm được. Nó phải tin vào anh, tuyệt đối tin tưởng vào anh...

- Thưa Hồ tiệp dư, Thánh mẫu có lệnh cho vời người đến lầu Cần Chánh!

Nguyên Thục ngẩn phắt đầu lên khi một người lính gác bên ngoài cất tiếng. Hôm nay là ngày thứ tư, thời hạn ba ngày đã hết, Thánh mẫu cho vời nó, chẳng lẽ Trịnh Khải đã minh chứng được xuất thân của nó rồi sao. Nguyên Thục nửa mừng nửa lo. Nó vội chải tóc gọn gàng, xiêm áo chỉnh tề rồi theo hai người lính canh cửa đến lầu Cần Chánh. Trên đường đi, Nguyên Thục rất hồi hộp. Nó tự hỏi Trịnh Khải làm cách nào để chứng minh thân phận của nó trong khi nó là người từ tương lai hiện đại trở về quá khứ. Thậm chí nếu nó có nói thật chuyện này ra cho anh hay thì biết đâu anh tưởng nó nói đùa cũng không biết chừng.

Lầu Cần Chánh hiện ra trước mặt Nguyên Thục. Nhìn những bóng người thấp thoáng phía trong, Nguyên Thục liếm nhẹ môi. Ngày hôm nay, số phận nó như thế nào sẽ được quyết định. Bây giờ, nó chẳng khác nào bị cáo ra trước vành móng ngựa để cho các vị thẩm phán và bồi thẩm đoàn xét xử tội trạng. Khổ nỗi bên nguyên cáo thì nhiều mà luật sư bào chữa thì nó chẳng có ai cả. Nguyên Thục cố gắng trấn tĩnh trái tim đang đập nhanh trong lồng ngực. Nó hít vào một hơi thật sâu rồi bước vào lầu Cần Chánh.

Vừa thấy bóng dáng Nguyên Thục, tất cả mọi người đang có mặt trong lầu Cần Chánh đều dồn mục về phía nó. Trịnh Khải kia rồi, Nguyên Thục reo thầm trong bụng. Cuối cùng thì hôm nay nó cũng đã gặp được anh sau bao ngày nhung nhớ. Anh đang ngồi trên chiếc đôn dài, trước mặt là một bình trà ấm. Nhìn thấy Nguyên Thục, ánh mắt anh trở nên ấm áp. Anh nhìn nó mỉm cười. Nụ cười dịu dàng thân quen ấy làm Nguyên Thục chợt trở nên yếu đuối. Ở lầu Cần Chánh này nó không quen biết một ai, và không ai chấp nhận nó. Thánh mẫu ngồi chính giữa với gương mặt lạnh lùng, Dương thái phi và Ngọc Xuân thì không để lộ chút cảm xúc nào. Bá quan văn võ trong triều đều nhìn nó bằng đôi mắt xa lạ. Chỉ có Trịnh Khải là mỉm cười với nó, là người mà nó yêu nhất đang hiện diện nơi đây.

Trong lầu Cần Chánh mọi vị trí đều đã có chỗ, chỉ có một chiếc ghế lạc lõng đặt ở giữa đại sảnh. Nguyên Thục nắm chặt tay lại, nó biết đó là vị trí của mình trong buổi xét xử hôm nay, nhưng nó không muốn phải trân mình chịu đựng những cái nhìn soi mói ấy. Nguyên Thục tiến về chỗ ngồi thật chậm, thật chậm. Nó tha thiết nhìn Trịnh Khải. Nó muốn được ngồi ở bên cạnh anh,muốn được anh che chở trước những cái nhìn thiếu thiện cảm của mọi người. Trong lầu Cần Chánh, chỉ có anh là người thân thương duy nhất của nó mà thôi.

- Thục nhi, nàng lại đây!

Không biết có hiểu được mong muốn của nó hay không mà Trịnh Khải nhẹ nhàng lên tiếng. Nghe được giọng nói dịu dàng ấy, gương mặt Nguyên Thục rạng rỡ như hoa mới nở. Nó vội vàng nắm lấy bàn tay đang giơ ra của Trịnh Khải rồi ngồi xuống bên cạnh anh, trong lòng vô cùng ngọt ngào. Chứng kiến cảnh tượng ấy, Ngọc Xuân ngoài mặt tuy không để lộ cảm xúc nhưng trong lòng đang xao động. Nhìn Nguyên Thục ngồi nép bên cạnh Trịnh Khải, Thánh mẫu nhíu mày. Chỗ ngồi của Nguyên Thục lẽ ra phải ở giữa đại sảnh để cho bà tiện xét xử, nhưng cháu của bà lại muốn thế thì bà cũng không còn cách nào khác. Hôm nay là hạn cuối cùng, Trịnh Khải đã tìm ra được chứng cứ để chứng minh xuất thân của Nguyên Thục không liên quan gì đến cô gái áo đỏ lạ mặt hôm ấy. Bà cũng tò mò muốn biết con bé này thật ra là ai, vào phủ chúa có mục đích gì để bị người ta đả thương nặng nề đến thế.

- Đoan Nam vương! Tối hôm trước người đã nói với ta rằng đã tìm được lai lịch xuất thân của Hồ tiệp dư. Thời hạn ba ngày đã hết, trước mặt bá quan văn võ trong lầu Cần Chánh, mong người hãy thỏa ý ta, làm minh bạch xuất thân của Hồ tiệp dư.

Thánh mẫu cất giọng, bầu không khí đang xôn xao trong lầu liền im lặng. Ai nấy đều muốn biết Đoan Nam vương làm rõ thân phận của Nguyên Thục thế nào. Cũng trong tâm trạng nôn nóng như mọi người, Nguyên Thục nhìn Trịnh Khải. Nó cũng muốn xem anh làm thế nào để chứng minh lai lịch của nó, trong khi nó không phải người quá khứ. Gia đình không có, tên làng không có và sổ hộ khẩu của Nguyên Thục cũng không có nốt, Trịnh Khải sẽ phải làm sao đây.

Trước sự nôn nóng của mọi người, Trịnh Khải lại vô cùng bình thản. Anh lướt mắt về phía ngưỡng cửa, giọng nhẹ như cơn gió.

- Những gì Thánh mẫu và mọi người muốn biết, chỉ có một người giải đáp được, đó chính là đạo hoa vương, người đã đưa Nguyên Thục tới Lượng phủ.

Lời Trịnh Khải vừa dứt, tức thì một con gió nhẹ nhàng thổi vào lầu Cần Chánh, khiến những sợi tóc của Nguyên Thục bay phất phơ. Đạo hoa vương. Đạo hoa vương Trần Ưu Phong! Nguyên Thục thốt lên, gần như là kinh ngạc. Nó gần như là quên mất cái tên này, nay nghe Trịnh Khải nhắc đến nó mới sực nhớ ra. Quả đúng như thế, đạo hoa vương Trần Ưu Phong ai ai cũng biết, và chính anh là người đã đưa nó đến phủ chúa làm cung nữ. Cách đây gần năm, đạo hoa vương đã không từ mà biệt. Cơn gió ấy lang thang khắp nơi, không ai có thể tìm thấy chốn nào là nơi gió nghỉ chân, ấy vậy mà không hiểu bằng cách nào đó, Trịnh Khải lại tìm được. Tìm được Ưu Phong đồng nghĩa với việc thân thế của nó sẽ được sáng tỏ. Nguyên Thục cắn môi, nó liếc về gương mặt lạnh như tượng của Thánh mẫu. Nếu bà mà biết lần đầu tiên Ưu Phong gặp nó là ở lầu xanh thì chắc chắn bà sẽ không cho Trịnh Khải lập một cô gái có thân phận thấp kém như thế làm Vương phi. Tai hại hơn, nếu bà bắt nó không được ở bên cạnh Trịnh Khải để tránh ảnh hưởng đến thanh danh của anh thì Nguyên Thục chắc chắn sẽ hận Ưu Phong suốt đời.

Không biết đến những lo lắng của nó, cơn gió ưu phiền ấy vẫn nhẹ nhàng thổi vào lầu Cần Chánh. Ngay trước ngưỡng cửa, một tà áo trắng quen thuộc xuất hiện. Trong làn sáng mờ ảo, tà áo ấy bay phấp phới, trắng như một áng mây trời. Nhìn thấy tà áo trắng ấy, mọi người trong lầu Cần Chánh đều đổ mắt về phía ngưỡng cửa. Một chàng trai thanh tú nhẹ nhàng tiến vào. Ánh mắt tựa như cười, tựa lại không, bờ môi thanh tú điểm một nụ cười trên gương mặt phong sương. Đó không ai khác chính là nhân vật Trịnh Khải đã nhắc tới, Đạo Hoa vương Trần Ưu Phong.

Lần trước rời khỏi phủ chúa, Ưu Phong đi rất gấp gáp, bây giờ quay trở lại, bước chân anh có phần ung dung hơn. Vì đã quá quen với chuyện mọi người đều tập trung nhãn quang về phía mình, Ưu Phong thản nhiên như chốn không người. Anh tiến tới gần Thánh mẫu, tay khấu chào và cất giọng nhẹ nhàng.

- Ưu Phong vấn an Thánh mẫu. Đã lâu không gặp, người vẫn bình an chứ?

Thánh mẫu khoát tay miễn lễ rồi mỉm cười. Nụ cười hiếm hoi của bà trong buổi sáng ngày hôm nay.

- Ta vẫn khỏe, đa tạ lời thăm hỏi của người.

Ưu Phong mỉm cười. Anh bước đến chiếc ghế trống duy nhất ở trong lầu Cần Chánh rồi ngồi xuống. Từ khi Ưu Phong đến, hai nàng cung nữ đứng quạt cho Thánh mẫu cứ nhìn theo anh không rời, đến khi bắt gặp ánh mắt của anh, hai nàng cung nữ thẹn thùng cuối đầu xuống. Trong giang hồ, danh tiếng của Tử phụng cung ai ai cũng biết. Trong Tử phụng cung lại toàn những thiếu nữ xinh đẹp hút hồn với tay nghề ủ rượu, ướp trà nổi tiếng. Hôm nay nhìn thấy cung chủ Tử phụng, ai nấy đều cảm thấy mở rộng tầm mắt. Với thần thái bất phàm và gương mặt thanh tú đó, mọi người đều cảm thấy không thể đắc tội với con người này, mà chỉ có kính nhường mà thôi.

Ưu Phong vừa ngồi xuống, chẳng biết vô tình hay cố ý mà đánh mắt về phía Nguyên Thục. Bắt gặp nụ cười của anh, Nguyên Thục giật thót một cái. Dù biết đó là phép lịch sự, nhưng Nguyên Thục vẫn cảm thấy dường như anh đang cười mình. Anh đã gặp nó ở lầu xanh, sau đó mang nó đến phủ chúa, có lẽ anh cũng không nghĩ rằng cô gái ấy sẽ lên đến chức Hồ tiệp dư, để rồi ngày hôm nay Trịnh Khải lại nhờ anh đến để làm rõ xuất thân của nó. Nhưng Ưu Phong sẽ lấy gì chứng minh đây khi anh cũng không biết nhiều về Nguyên Thục. Chẳng lẽ anh lại đi nói với mọi người rằng anh đã gặp nó ở lầu xanh sao. Nếu thế thì… Chúa ơi, xin đừng.

- Đạo Hoa vương, hôm nay ta mời người đến đây có chuyện gì, chắc hẳn người cũng đã biết rồi, phải không?

Nguyên Thục lo lắng liếc mắt về phía Ưu Phong khi Trịnh Khải lên tiếng. Ưu Phong và Trịnh Khải là hai người bạn tri kỷ, nhưng trước mặt bá quan văn võ thì cả hai đối xử với nhau theo phép tắc bình thường, tránh để mọi người cho rằng Ưu Phong vì có mối thâm giao với anh mà nói khéo cho Nguyên Thục. Không đáp lại ánh nhìn của Nguyên Thục, Ưu Phong đáp lời.

- Phải! Dù sao Hồ tiệp dư cũng là người tôi đưa đến, nếu không làm minh bạch mọi chuyện thì quá oan ức cho Tiệp dư rồi.

Nguyên Thục cắn môi khi Ưu Phong nhắc đến hai chữ “ Tiệp dư” một cách ẩn ý. Nó mặc kệ anh nghĩ về nó như thế nào, nhưng nếu anh không những không làm sáng tỏ được thân phận của nó mà lại còn làm mọi chuyện đổ bể thì nó sẽ oán hận anh suốt đời. Dường như muốn kéo dài thời gian ra để Nguyên Thục hồi hộp chơi, Ưu Phong quét mắt về phía Thánh mẫu, miệng tươi cười.

- Thánh mẫu, chẳng hay tôi có thế biết Hồ tiệp dư đã gây ra chuyện tày đình nào mà khiến cho Đoan Nam vương phải đích thân mời tôi đến làm sáng tỏ thân phận cô ấy không?

- Chẳng giấu gì người, cánh đây ba ngày, Hồ tiệp dư đã bị một cô gái giả dạng vũ công đến đển hành thích. Hồ tiệp dư đã bảo rằng không quen biết gì cô gái ấy, thế nhưng nếu không quen biết và không có oán cừu gì, thì tại sao cô gái áo đỏ lại bất chấp nguy hiểm, đột nhập vào phủ chúa, đi hành thích cô ta. Cho nên ta mới nghi ngờ Hồ tiệp dư trước đó đã có ân oán với người giang hồ. Hồ tiệp dư đang trong thời kỳ tranh chấp ngôi vị Vương phi, ta không muốn phủ chúa lại có một Vương phi không rõ lai lịch xuất thân, đã thế còn dính líu đến ân oán giang hồ như thế. Nay đạo hoa vương đã đến, ta cũng mong chuyện này kết thúc, tránh nghi ngờ cho cả đôi bên.

Thánh mẫu cười nhạt khi nhớ đến buổi tiệc bị phá hoại. Giọng nói của bà đều đều, không cảm xúc, dường như chẳng có chút thú vị nào khi nhắc đến Nguyên Thục. Ưu Phong ngồi yên nghe Thánh mẫu thuật lại mọi chuyện. Vốn trong thư Trịnh Khải đã kể hết đầu đuôi, nhưng anh vẫn muốn nghe từ miệng của Thánh mẫu hơn. Khi Thánh mẫu dứt lời, Ưu Phong liếc mắt về phía Nguyên Thục. Thấy anh nhìn mình, Nguyên Thục mấp máy môi, đôi mắt nó long lanh, khẩn cầu Ưu Phong đừng nói chuyện anh đã gặp nó trong lầu xanh cho Thánh mẫu biết. Thái độ bồn chồn của nó khiến anh muốn cười nhưng lại phải nghiêm mặt. “Cô ngốc! Biểu hiện thế càng khiến cho mọi người chú ý mà thôi”

Thánh mẫu vừa thuật lại câu chuyện cho Ưu Phong nghe xong, bà liếc mắt về phía Nguyên Thục soi mói, lâu thật lâu rồi mới lên tiếng.

- Hồ tiệp dư, hãy nghe ta hỏi, phụ thân của ngươi tên gì, người ở đâu?

- Dạ thưa Thánh mẫu! Phụ thân của thần là Hồ Nguyên Hãn, người ở An Nhơn ạ.

Nguyên Thục thận trọng trả lời. Nó chỉ dám nhắc đến tên An Nhơn, do trước đây đã được Trịnh Khải giảng cho nghe một lần lúc nó muốn tìm hiểu địa lý thời xưa, chứ không dám nhắc đến tên xã, huyện vì sợ Thánh mẫu sẽ cho người điều tra. Trước câu trả lời của Nguyên Thục, Thánh mẫu gật đầu, bà tiếp tục truy tới.

- Mẹ ngươi tên gì? Người ở đâu? Họ hàng của ngươi thế nào? Có anh em ruột thịt gì?

Nguyên Thục mím môi. Những chuyện này nó chưa nghĩ đến, thế nên Thánh mẫu hỏi nó nhất thời chưa trả lời được. Đã bí mà còn trả lời, chắc chắn sẽ để lộ ra nhiều sơ hở cho Thánh mẫu vịn vào đó mà truy vấn. Nếu với môt người bình thường, Nguyên Thục đã có thể bịa đại một sơ yếu lí lịch cho mình, nhưng đối với Thánh mẫu thì lại khác. Bà có quyền uy, những câu trả lời của nó chắc chắn bà sẽ cho người tra xét lại, khi đó mọi chuyện sẽ đổ bể, lời nói dối của nó sẽ bị phơi bày và mọi chuyện coi như xong xuôi.

Nguyên Thục cắn môi. Mùi trầm hương thoang thoảng trong không khí khiến nó dần bình tâm trở lại. Nó quyết không thể để mất Trịnh Khải, nó quyết không thể để bất cứ ai ngăn cản nó đến với anh.

- Hồ tiệp dư, ta hỏi sao ngươi không trả lời?

Quan sát từng biểu hiện trên gương mặt Nguyên Thục, Thánh mẫu trầm giọng khi nó cúi đầu không đáp. Phải đóng kịch thôi. Nguyên Thục nhủ thầm. Nó từ từ ngước đầu lên, nhìn thẳng vào mặt Thánh mẫu, đôi mắt long lanh.

- Thánh mẫu, xin người tha thứ cho thần. Câu hỏi của người đã làm cho thần nhớ tới phụ mẫu, trong cơn xúc động thần chưa kịp trả lời mong người lượng thứ. Mẫu thân của thần cũng là người ở An Nhơn, là con gái của một gia đình giàu có trong vùng. Phụ thân của thần là thư sinh nhà nghèo, lại thêm vừa mới cử tang phụ mẫu nên đành phải đến ở nhà mẫu thân thần để dạy học. Qua những lần gặp gỡ, trao đổi thơ phú, mẫu thân và phụ thân của thần vô cùng tâm đầu ý hợp. Hai người dần nảy sinh tình cảm với nhau. Do mẫu thân là tiểu thư khuê các trong khi phụ thân của thần chỉ là một thầy đồ nghèo, ông ngoại của thần đã không chấp nhận tình duyên này. Kết quả là mẫu thân đã hy sinh tất cả, từ bỏ cuộc sống nhung lụa để đi theo phụ thân thần. Thấy con gái mình đã bỏ nhà đi, ông ngoại thần nổi giận từ con. Ngay cả anh em ruột thịt, họ hàng cũng không chấp nhận mẫu thân thần vì xấu hổ, phụ thân và mẫu thân phải chuyển đến Gia Lâm sinh sống. Cách đây khá lâu, khi hạ sinh ra tiểu đệ thần, mẫu thân và tiểu đệ đều không qua khỏi. Vì quá thương nhớ mẫu thân, phụ thân thần đã quyết định chuyển vào Thanh Hoa ở để tránh gặp cảnh cũ mà người xưa không còn. Năm ngoái, trên đường về Gia Lâm thăm mộ mẫu thân thì thần gặp đạo hoa vương. Đạo hoa vương cùng với phụ thân thần bàn chuyện thi ca rất tâm đắc. Khi đến đất Gia Lâm, do bệnh cũ tái phát, lại thêm nỗi sầu khổ trong lòng, phụ thân thần đã thác theo mẫu thân. Em thần lại bị lạc mất, chỉ còn thần côi cút một mình trên thế gian. May là bây giờ đã tìm được nó, chứ nếu không thì...

Nguyên Thục càng kể, mắt càng rưng rưng. Những lời nó nói cũng có một phần tâm trạng của nó trong đó. Nhớ đến gia đình, bạn bè, nhớ đến nụ cười của cha và những món ăn ngon của mẹ, Nguyên Thục nghe cay nơi khóe mắt. Một thân một mình ở nơi xa lạ, sẽ không còn được gặp lại những gương mặt thân thương nữa, Nguyên Thục lòng đau như cắt. Nước mắt nó lăn dài trên má, rồi đọng lại, mặn đắng trên môi, nỗi nhớ nhà cứ theo đó dâng trào.

Thấy Nguyên Thục khóc thút thít khi nhắc đến chuyện gia đình, Trịnh Khải vòng tay kéo nó vào lòng. Bàn tay ấm áp của anh vuốt ve suối tóc đen mượt của nó. Sự dịu dàng ấy khiến nỗi buồn thương trong Nguyên Thục dần nguôi ngoai. Nó rúc vào lòng anh, bất kể hàng chục ánh mắt đổ dồn vào mình. Mùi trầm hương nhẹ nhàng từ áo anh tỏa ra khiến bờ vai Nguyên Thục thôi thổn thức. Những hờn giận, thương nhớ đong đầy của ba ngày nay đều tan.

Nhìn Nguyên Thục ở trong lòng Trịnh Khải, Thánh mẫu nhíu mày. Những cảm xúc trên gương mặt nó rất chân thật, tuyệt không có chút giả tạo, giấu diếm nào. “Chẳng lẽ những lời con bé ấy nói đều là sự thật?” Thánh mẫu tự hỏi. Câu chuyện của Nguyên Thục rất kín lẽ, không để lộ bất cứ sơ hở nào để bà bắt bẻ, nhưng nếu thế thì bà thật không cam lòng.

Ngồi đối diện Nguyên Thục, Ưu Phong để yên cho nó kể. Với đôi mày đang nhướng lên của Thánh mẫu, anh biết bà đang nửa tin nửa ngờ. Để viết tiếp câu chuyện này theo những lời Nguyên Thục kể nhằm đánh tan nghi hoặc trong lòng Thánh mẫu, Ưu Phong điềm đạm tiếp lời.

- Trong một lần ngao du đến Gia Lâm, tôi cùng ngồi chung thuyền với gia đình của Hồ tiệp dư, trò chuyện dăm ba câu mới biết phụ thân của Hồ tiệp dư là thầy đồ. Hồ tiệp dư sớm mồ côi mẹ, nhưng lại được phụ thân hết lòng dạy dỗ. Khi thuyền cập bến, phụ thân của Hồ tiệp dư đột ngột chuyển bệnh rồi qua đời. Không nỡ thấy Hồ tiệp dư thân nhi nữ dặm trường, phải rày đây mai đó, tôi đã quyết định giúp an táng thân phụ cô ấy và đưa Hồ tiệp dư cùng em gái đến phủ chúa để làm cung nữ. Thật không may, em gái của cô ấy bị thất lạc trên đường đi, chỉ còn một mình cô ấy đến đây. Tôi tự ý đưa Hồ tiệp dư vào phủ mà không báo lại với người, đó là lỗi của tôi, Hồ tiệp dư không có lỗi gì cả. Gia đình Hồ tiệp dư đã không còn ai, chỉ còn duy nhất một cô em gái, nay phủ chúa xem như chính là nhà của cô ấy, chẳng lẽ Thánh mẫu nhẫn tâm đuổi cô ấy đi sao?

Ưu Phong vừa kể xong, Nguyên Thục không nén được đã thở phào nhẹ nhõm. Nó thầm cám ơn Ưu Phong không nhắc gì đến chuyện lầu xanh. Trước sự phối hợp ăn ý của Ưu Phong và Nguyên Thục, Thánh mẫu không thể tìm ra kẽ hở nào để bắt bẻ. Bà nhíu mày, lâu thật lâu rồi cất lời.

- Theo như ngươi nói ngươi là con gái của một thầy đồ. Đã là con gái của một thầy đồ thì tại sao lại dính đến ân oán riêng của giang hồ, lại bị một người lạ mặt không quen biết hành thích chứ?

- Thánh mẫu! Chuyện đó thì chính là lỗi tại tôi rồi.

- Lỗi tại ngươi?

- Thật ra, cô gái áo đỏ ấy là người đã thầm thương trộm nhớ tôi từ lâu.

Ưu Phong nói dứt, cả lầu Cần Chánh không nhịn được liền ồ lên một tiếng. Nguyên Thục lúc này đã rời khỏi lòng Trịnh Khải, nhưng tay nó vẫn níu lấy áo anh cho an tâm, nghe Ưu Phong nói về thân phận của cô gái áo đỏ, Nguyên Thục tròn xoe mắt vì không hiểu anh nói thật hay đang đùa. Không quan tâm đến phản ứng của mọi người, Ưu Phong thản nhiên tiếp lời.

- Cô gái ấy tên là Kim Thúy, là người của Huyết ly cung. Trong một lần đi du ngoạn ở Tây hồ, tôi đã tình cờ gặp cô gái ấy. Sau lần gặp gỡ, cùng đối ẩm dăm ba câu, cô gái đó tỏ lòng thương mến tôi, muốn cùng tôi nên duyên phu phụ. Bản tính tôi thích ngao du đây đó, muốn được thỏa chí tang bồng nên đã từ chối tấm lòng của cô ấy. Nào ngờ, cô ấy từ yêu chuyển sang hận, cô ấy đã thề độc rằng sẽ giết chết người con gái nào kề cận bên tôi. Trên đường đưa Hồ tiệp dư đến phủ chúa, tôi đã gặp lại cô gái ấy. Thấy tôi chăm sóc cho Hồ tiệp dư chu đáo, nên cô ấy đã tưởng Hồ tiệp dư là hồng nhan tri kỷ của tôi. Có lẽ sau khi điều tra được nơi ở của Hồ tiệp dư là phủ chúa, nhân dịp trong phủ tổ chức tiệc, thấy đó là thời cơ thích hợp, cô ta đã trà trộn vào để hành thích Hồ tiệp dư. Suy ra tất cả mọi chuyện đều là do tôi. Nếu tôi không gặp cô gái ấy, không làm cô ấy tổn thương, không làm cô ấy đau lòng, thì chuyện đáng tiếc này sẽ không xảy ra cho Hồ tiệp dư.

Những lời Ưu Phong vừa dứt, lầu Cần Chánh bắt đầu nổi lên những tiếng rì rầm. Ai cũng biết đạo hoa vương nổi tiếng đào hoa, có người con gái nào thầm thương là điều đương nhiên, từ yêu chuyển sang hận cũng là điều dễ hiểu. Vậy là thân thế của Hồ tiệp dư đã sáng tỏ, mọi người tuy chưa hết lo lắng nhưng cũng thở một hơi nhẹ nhõm.

Nguyên Thục đưa mắt nhìn Ưu Phong. Tuy biết câu chuyện kia là giả, nhưng nó thầm cảm ơn anh đã đỡ lời cho nó, phối hợp với nó, làm cho thân thế của nó được rõ như ban ngày. Ngồi bên cạnh Thánh mẫu, Ngọc Xuân đưa mắt về phía Nguyên Thục. Nhìn sự dịu dàng trên gương mặt Trịnh Khải mỗi khi nhìn nó, trái tim Ngọc Xuân vô cùng hụt hẫng. Nhớ lại câu chuyện kể của Nguyên Thục, Ngọc Xuân tính cất tiếng, nhưng Dương thái phi đã nhanh hơn cô một bước.

- Hồ tiệp dư, phụ thân ngươi là một thầy đồ, chắc ngươi cũng được phụ thân dạy dỗ rất cẩn thận. Chẳng hay ngươi có thể cho ta mở rộng tầm mắt một lần hay không?



★ Chương 92

Ý kiến của Dương thái phi vừa nêu quả rất hợp lòng Thánh mẫu. Không chỉ có bà, mà mọi người trong lầu Cần Chánh cũng muốn xem tài ba và sở học của Nguyên Thục ra sao. Là một Vương phi, ngoài tiền hô hậu ủng còn phải có những tố chất cần thiết như thi ca, thơ phú và tài trí không kém ai. Vương phi như thế mới là người có thể làm chủ Hậu cung, mới là người có thể cùng chúa đảm việc nước, lo việc nhà.

Nguyên Thục im lặng, nó biết không thể thoái thác được một khi Dương thái phi đề nghị. Bên cạnh đó, Thánh mẫu đang đăm đăm nhìn nó, cứ như thể nếu nó từ chối bà sẽ có dịp vịnh vào đó để nghi ngờ và bác bỏ thân thế là con thầy đồ của nó. Nguyên Thục cắn môi. Nếu Dương thái phi muốn thử thách trí tuệ, câu đố thì nó còn có hy vọng mong manh chứ bà mà muốn nó làm thơ, chơi đàn hay đánh cờ thì thật nguy lắm thay.

Trong khi Nguyên Thục đang do dự, Dương thái phi lại nhẹ nhàng cất tiếng.

- Hồ tiệp dư, ngươi có đồng ý lời đề nghị đó không?

- Thưa thái phi, chẳng hay người muốn thần phải làm thế nào ạ?

Dương thái phi mỉm cười, bà khoát tay.

- Phụ thân của Hồ tiệp dư nói chuyện thi phú tâm đắc với đạo hoa vương, chắc chắn ông ấy là người rất tài hoa. Hồ tiệp dư là ái nữ, có lẽ đã được phụ thân chú tâm dạy dỗ cẩn thận. Hôm nay trước mặt bá quan, ta muốn Hồ tiệp dư giở sở học ra cho mọi người cùng biết một phen.

Dương thái phi nói thật chậm rãi để thăm dò phản ứng của Nguyên Thục. Thấy sắc mặt Nguyên Thục có chút thay đổi, bà nhếch môi, hỏi tới.

- Thế nào, Hồ tiệp dư? Sao ngươi không trả lời câu hỏi của ta, hay ngươi cho mọi người ở đây không xứng để ngươi trổ tài nghệ?

- Bẩm thái phi, người đã quá lời. Người có thể nói cụ thể là muốn thần làm gì không ạ?
Nguyên Thục nhắc lại câu hỏi ban nãy. Nó muốn biết đích xác Dương thái phi muốn nó giở “sở học” gì ra. Ở hiện đại, Nguyên Thục giỏi nhất là anh văn, mỗi lần kiểm tra bao giờ nó cũng đạt chín, mười điểm. Nếu Dương thái phi muốn, nó có thể đọc vanh vách một bài thơ bằng tiếng anh cho bà nghe. Nhưng ngặt nỗi đây là thời xưa, chỉ có văn thơ nôm và hán tự, nó mà đọc thơ bằng tiếng anh dám chắc sẽ bị mọi người cho là có vấn đề. Nguyên Thục còn đang nghĩ thì Dương thái phi đã tiếp lời.

- Hồ tiệp dư là con gái của thầy đồ, chắc là rất giỏi thi phú, ngươi hãy làm một bài thơ theo đề ta ra, như vậy được chứ?

Lại thơ với ca, người thời xưa có vẻ như ăn no rồi chỉ biết làm thơ hay sao ấy, Nguyên Thục than thầm. Nó chỉ than trong bụng thế thôi chứ ngoài mặt vẫn cố tươi cười. Làm thơ bình thường đã khó, huống chi Dương thái phi lại còn bắt nó làm thơ theo đề. Bình thường, Nguyên Thục cũng có thể làm võ vẽ hai, ba câu thơ, nhưng là theo kiểu thơ hiện đại như của Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, chứ còn làm thơ hán việt, quy củ hẳn hòi thì nó chỉ có nước chào thua.

- Hồ tiệp dư? Ngươi thấy thế nào?

Thấy Nguyên Thục không trả lời, Dương thái phi nhướng mày hỏi tới. Biết mình không thể làm ngơ được nữa, Nguyên Thục đành gật đầu, trong bụng bắt đầu tính kế.

- Vâng! Xin thái phi ra đề ạ.

- Tốt lắm! Ngươi đã chấp nhận thì ta cũng sẽ không chậm trễ nữa. Đề thơ ta ra là “nhai thượng”, ngươi hãy thử làm thử xem.

Dương thái phi vừa ra đề xong, mặt Nguyên Thục trở nên ngơ ngác. Nó không hiểu “nhai thượng” ở đây có nghĩa là gì, mà đã không hiểu thì làm sao có thể làm thơ.Thấy Nguyên Thục ngẩn ngơ, Trịnh Khải nhíu mày. Ngay từ lúc Nguyên Thục nói nó là con gái của thầy đồ lúc bị Thánh mẫu truy vấn, Trịnh Khải đã lấy làm lạ. Khi anh và nó quen nhau, chính anh là người dạy chữ cho nó. Nếu Nguyên Thục đã là con gái của thầy đồ thì tại sao chữ nhất bẻ đôi cũng không biết, và bây giờ lại tỏ ra ngơ ngác vì đề “nhai thượng” mà mẹ anh đưa ra. Mang nghi vấn trong đầu, nhưng vì có mặt mọi người Trịnh Khải không tiện hỏi. Sau này mọi chuyện êm xuôi, anh nhất định phải hỏi lai lịch của Nguyên Thục thật rõ ràng. Không nỡ để Nguyên Thục bóp trán suy nghĩ thêm nữa, Trịnh Khải nghiêng người nhắc khẽ, đủ để nó nghe.

- “Nhai thượng” nghĩa là trên đường phố.

Nguyên Thục mừng như bắt được vàng khi Trịnh Khải nhắc khẽ. Từ “nhai thượng” có nghĩa là ngoài phố, và bây giờ nó phải căng óc ra suy nghĩ bài thơ hán việt nào có từ “nhai thượng” trong đó. Làm thơ thì Nguyên Thục tất lẽ làm không được, nhưng đọc thì nó đã đọc nhiều. Giờ nó đành giở kế cũ, vay mượn mấy bài thơ hán việt của những nhà thơ khác để ứng phó vậy. Lý Bạch? Cái tên này Nguyên Thục gạch ngay từ đầu. Lý Bạch nổi tiếng thế, ai ai cũng biết thơ của ông ta, nay nó đem ra sử dụng là lộ liền ngay tức khắc. Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Từ là những nhà thơ mới, còn những nhà thơ xưa thì trong nhất thời nó không tài nào nhớ nổi, thật nản ơi là nản.

- Hồ tiệp dư? Thế nào? Ngươi có thể làm thơ được chứ.

- Dạ thưa... vâng ạ _ Nguyên Thục liếm môi. Trong những lúc đang phải tập trung suy nghĩ mà bị hối thúc, quả đúng là chuyện tệ nhất trên đời.

- Thế ngươi còn đợi gì mà không mau làm đi.

- Dạ...

Nguyên Thục ngập ngừng, lòng bàn tay nó ướt đẫm mồ hôi. Nếu nó làm thơ không được, Dương thái phi và Thánh mẫu sẽ phát hiện ra ngay lời nói dối của nó. Nếu bị phát hiện thì một mình nó chịu là đủ, nay để Ưu Phong bị liên lụy vì đã tung hứng cùng thì Nguyên Thục thật không muốn chút nào.

Đang trong cảnh ngàn cân treo sợi tóc, Nguyên Thục chợt reo khẽ một tiếng khi nó nhớ đến một nhà thơ vĩ đại, đó chính là Hồ Chí Minh. Hồi còn ở hiện đại, nó đã đọc tập thơ nhật ký trong tù, trong đó, Bác có làm một bài thơ là “nhai thượng”, quả thật vô cùng hợp với đề bài Dương thái phi mới ban ra. Nguyên Thục mừng như bắt được vàng. Chưa bao giờ nó thấy yêu Bác Hồ đến thế. Dù lòng mặc cảm tội lỗi vì đã lấy thơ của Bác ra dùng, nhưng trong tình thế cấp bách này thì nó chẳng còn kế sách gì khác hơn.

- Thưa thái phi, đề “nhai thượng” của người thần đã nghĩ ra ạ.

- Thế sao! Thế ngươi mau đọc lên cho mọi người nghe.

- Dạ vâng! Thần xin đọc bài thơ “nhai thượng”

Nhai thượng nhân tranh khán Hán gian
Hán gian dữ ngã bản vô can
Vô can nhưng thị hiềm nghi phạm
Sử ngã tâm trung giác điểm hàn.

[Ngoài phố tranh nhau xem Hán gian.
Hán gian, ta vốn thực vô can.
Vô can nhưng bị nghi là có.
Thực khiến lòng ta lạnh tới gan.]

Nguyên Thục vừa đọc xong bài thơ, mọi người trong lầu Cần Chánh đều “ ồ” khẽ một tiếng. Bài thơ “nhai thượng” của Hồ Chí Minh dịch nghĩa ra chẳng khác chi tình cảnh của Nguyên Thục bấy giờ. Nghe xong bài thơ Nguyên Thục “làm”, Dương thái phi nhướng mày, còn Thánh mẫu thì chiếu tia nhìn lạnh lẽo vào mặt nó. Tuy không ai nói ai, nhưng mọi người đều hiểu ngầm Nguyên Thục mượn bài thơ để tỏ rõ oan khuất khi bị Thánh mẫu nghi ngờ có liên quan đến người trong giang hồ.

Nguyên Thục làm xong bài thơ, trong lầu Cần Chánh vang lên tiếng vỗ tay lốp bốp làm mọi người đưa mắt nhìn. Thì ra chủ nhân của những tiếng vỗ tay ấy là Ưu Phong. Anh lên tiếng tán thưởng, phớt lờ ánh mắt của Thánh mẫu đang soi về phía mình.

- Hay! Hay lắm! Bài thơ rất hay. “Vô can nhưng thị hiềm nghi phạm”. Tôi thích câu này.
Nguyên Thục nhoẻn cười cám ơn Ưu Phong. Nó đưa mắt nhìn Thánh mẫu và Dương thái phi, lòng vừa hồi hộp, vừa thích thú khi gương mặt của cả hai lạnh như tiền trong những tiếng thì thầm của mọi người. Ho khẽ một tiếng để bá quan văn võ im lặng, Dương thái phi nhìn Nguyên Thục, ánh mắt bà tõ rõ sự căm ghét, khiến Nguyên Thục giật mình.

- Giỏi lắm! Hồ tiệp dư quả được phụ thân dạy dỗ chu đáo. Thảo nào Đoan Nam vương lại yêu quý ngươi đến thế.

Lời nhận xét của Dương thái phi làm Nguyên Thục dè dặt, nó không biết bà đang khen hay đang mỉa mai nó. Trong khi Nguyên Thục còn đang suy nghĩ thì Dương thái phi lại tiếp lời.

- Thi phú của Hồ tiệp dư thật khiến ta mở rộng tầm mắt, nhưng ta còn có một yêu cầu nữa, chẳng hay ngươi có chấp thuận yêu cầu đó của ta hay không?

Nguyên Thục cắn môi do dự. Dương thái phi quả tình đang muốn gây khó cho nó. Lần thử tài thứ nhất là do nó ăn may mới qua được, còn lần thử tài thứ hai thì kết quả thế nào có trời mới biết. Người xưa hay có màn “cầm, kỳ, thi, họa”, ban nãy Dương thái phi đã thử tài “thi” của nó, không lẽ bây giờ bà muốn thử “cầm, kỳ, họa” hay sao.

- Dương thái phi còn có yêu cầu gì ở thần ạ?

Nguyên Thục thận trọng hỏi, nó không thể nhận lời khi chưa biết yêu cầu còn lại của Dương thái phi là gì. Như đoán biết suy nghĩ của nó, Dương thái phi mỉm cười.

- Hồ tiệp dư chớ lo! Ta không muốn gây khó dễ cho ngươi, chẳng qua ta chỉ nhờ ngươi giải đáp một câu đố cho ta mà thôi.

- Được Dương thái phi yêu cầu là may mắn của thần, thần nào dám nói người gây khó dễ cho thần. Chẳng hay Dương thái phi muốn thần giải đáp câu đố gì ạ _ Nguyên Thục bình tĩnh đáp. Nó không dám nói Dương thái phi gây khó dễ cho nó, mà nó chỉ nghĩ thôi.

- Tối hôm qua, ta được một người thợ làm lồng đèn nổi tiếng trong kinh thành tặng cho ba cái lồng đèn hình bé gái.

Dương thái phi vừa nói vừa vẫy tay. Từ chiếc rèm trúc sau lầu Cần Chánh, một nàng cung nữ thướt tha tiến ra. Trên tay nàng ta là một chiếc khay có đặt ba cái lồng đèn hình bé gái được trang hoàng lộng lẫy. Nhìn thấy ba cái lồng đèn tinh xảo ấy, mọi người có mặt trong lầu đều dồn mắt về nàng cung nữ, còn Nguyên Thục thì ngơ ngác vì không hiểu Dương thái phi có mục đích gì khi đem ba chiếc lồng đèn đó ra.

Trước những cái nhìn hiếu kỳ của mọi người, nàng cung nữ cầm khay thong thả bước xuống phía dưới. Nàng ta lần lượt đưa lồng đèn cho mọi người xem xét. Đến lượt Nguyên Thục, nó cố mở to mắt để xem ba cái lồng đèn này có gì đặc biệt. Nhưng không, ba chiếc lồng đèn tinh xảo giống hệt nhau, giống từng đường nét và màu sắc. Điều khác biệt ở chúng chính là giá cả. Con thứ nhất một lượng bạc, con thứ hai hai lượng bạc và con thứ ba là ba lượng bạc. Màu sắc, kích cỡ, hình dáng đều giống nhau, chỉ có giả cả là khác. Chẳng lẽ yêu cầu của Dương thái phi là...

- Hồ tiệp dư, ngươi đã nhìn rõ rồi chứ! Ba chiếc lồng đèn này không hề khác nhau chi tiết nào, nhưng tại sao người thợ làm lồng đèn lại định giá khác nhau, ngươi có thể giải thích cho ta hiểu được không?

Nguyên Thục nhíu mày, quả nhiên yêu cầu của Dương thái phi là muốn nó giải đáp sự kỳ lạ ở ba chiếc lồng đèn. Ngắm nghía ba chiếc lồng đèn lại thêm một lần nữa, Nguyên Thục bóp trán, cố tìm xem chúng khác nhau ở điểm nào. Lầu Cần Chánh im phăng phắc, ai nấy đều chú tâm vào Nguyên Thục để xem nó giải đáp câu đố của người thợ làm lồng đèn ra sao. Thời gian trôi pha chậm chạp, vầng trán cao của Nguyên Thục đổ mồ hôi. Ngay vào giữa lúc bế tắc nhất, Nguyên Thục chợt phát hiện ra một điểm kỳ lạ ở ba con búp bê bằng đèn lồng này.

Không hiểu vì ngẫu nhiên hay cố ‎ý mà ba con búp bê này giống hệt nhau từ màu sắc, kích cỡ, hình dáng không sai mảy may nào, nhưng giá thành đính trên ba con búp bê lại khác nhau. Nguyên Thục săm soi từng chi tiết trên ba con búp bê một hồi lâu mới phát hiện ra ở chúng có một sự kỳ lạ, đó chính là trên đôi tai của mổi con búp bê đều có dùi một cái lỗ nhỏ xíu, nếu không tinh ý thì khó có thể phát hiện ra. Sau khi tìm ra điểm khác lạ, Nguyên Thục bắt đầu bóp trán suy nghĩ. Nó săm soi, sờ mó, quan sát tổng thể ba con búp bê một cách cẩn thận. Chẳng biết thời gian trôi qua bao lâu, nhưng dường như thời gian càng trôi thì Dương thái phi và Thánh mẫu ngồi trên cao có vẻ càng đắc ý. Thấy Nguyên Thục lay hoay, săm soi ba con búp bê mãi mà không giải đáp, Dương thái phi cất lời.

- Hồ tiệp dư, ngươi có thể giải đáp câu đố ấy được chứ?

Nguyên Thục không trả lời, nó đang dồn hết tâm trí vào cái lỗ bí ẩn trên tai con búp bê nên nhất thời không nghe Dương thái phi nói gì. Chợt, một điểm sáng lóe lên trong đầu Nguyên Thục khi nó quan sát con búp bê lại một lần nữa. Trước đôi mắt đang nhướng lên của Dương thái phi, Nguyên Thục ghé miệng nói nhỏ vào tai của một nàng cung nữ đang đứng hầu bên cạnh. Chẳng biết Nguyên Thục nói gì mà nàng cung nữ dạ khẽ một tiếng, rồi quay người đi.

Dõi theo nhất cử nhất động của Nguyên Thục, Dương thái phi ngạc nhiên khi thấy nó thì thầm vào tai nàng cung nữ nọ. Bà chưa kịp hỏi chuyện gì thì nàng cung nữ đã quay trở lại một cách nhanh chóng, trên tay nàng ta là ba cọng rơm vàng.

Nhận được cọng rơm nàng cung nữ dâng lên, Nguyên Thục rạng nét mặt. Nó cẩn thận đút cọng rơm vào chiếc lỗ nhỏ trên tai từng con búp bê, sau đó nó vui mừng khi phép thử cọng rơm đã mang lại ba kết quả khác nhau. Con búp bê thứ nhất, cọng rơm chìa ra khỏi tai nọ. Con búp bê thứ hai, cọng rơm chìa ra khỏi miệng, và con búp bê thứ ba cọng rơm hoàn toàn biến mất tiêu.

- Hồ tiệp dư, ngươi đã có câu trả lời rồi chứ?

Đợi lâu mà không thấy Nguyên Thục lên tiếng, Dương thái phi sốt ruột cất giọng. Lần này thì Nguyên Thục ngước mặt lên, tươi cười

- Thưa vâng, thái phi. Thần đã tìm ra câu trả lời.

Dương thái phi hơi ngạc nhiên khi nghe Nguyên Thục trả lời đầy tự tin. Nhìn ba chiếc lồng đèn trong tay Nguyên Thục, bà hỏi, giọng không giấu tò mò.

- Thế điểm khác nhau giữa ba chiếc đèn lồng ấy là gì.

- Dạ thưa, điểm khác nhau giữa ba chiếc đèn lồng hình búp bê này là ở cái lỗ trên cái tai ạ.

Nguyên Thục chỉ vào cái lỗ nhỏ trên tai của ba con búp bê rồi tiếp tục giải thích.

- Ba chiếc đèn lồng hình búp bê này vốn giống nhau về họa tiết, màu sắc, hình dáng và kích cỡ, nhưng tại sao giá của chúng lại khác nhau đến thế, tất cả là do cái lỗ này. Sau khi quan sát kỹ càng ba con búp bê, thần phát hiện trên tai của mỗi con đều có đục một chiếc lỗ nhỏ. Muốn thử xem người thợ làm lồng đèn đục lỗ để làm gì, thần mới nhét ba cọng rơm vàng vào các lỗ trên tai ba con búp bê. Kết quả như Dương thái phi và mọi người thấy đấy, cùng một cái lỗ, nhưng đường ra của cọng rơm vàng khác nhau.

Nguyên giơ cao ba con búp bê cho mọi người trong lầu Cần Chánh thấy rõ vị trí của cọng rơm, rồi quay về Dương thái phi, mỉm cười.

- Cọng rơm đã xuyên qua hai tai của con búp bê thứ nhất. Con búp bê này tượng trưng cho loại người nghe tai nọ xọ tai kia, lời nói thoảng qua tai. Nó tượng trưng cho loại người lời nói gió bay cho nên giá rẻ nhất. Con búp bê thứ hai thì cọng rơm chìa ra ngoài miệng, như vậy con búp bê này tượng trưng cho loại người hay ton hót, mách lẻo,tkhông đáng tin cậy vì thế giá cả vừa phải. Con búp bê thứ ba thì cọng rơm lọt hẳn vào bụng, tượng trưng cho người thận trọng, nói gì đều ghi nhớ và bảo mật thông tin, có thể tin tưởng, như vậy giá nó mắc nhất. Thưa thái phi, chẳng hay người có hài lòng với câu giải đáp này của thần không?!

Nguyên Thục vừa dứt lời, lầu Cần Chánh liền lao xao. Ai nấy đều vỡ lẽ ra điểm mấu chốt về giá cả của những con búp bê nên gật đầu tán thưởng. Ngự trên cao, Dương thái phi đưa mắt nhìn Thánh mẫu, cả hai thử thách bà đưa ra Nguyên Thục đều đã vượt qua. Cả lầu Cần Chánh bây giờ đã bắt đầu khen Nguyên Thục vì sở học của nó, điều đó khiến Dương thái phi không hài lòng. Bà mở miệng, tính nói câu gì đó thì Trịnh Khải bất chợt lên tiếng.

- Mẫu thân, Thục nhi vì thực hiện ý muốn của người nên đã giở sở học ra. Qua hai yêu cầu trên, mẫu thân có lẽ đã công nhận tài học và trí tuệ của Thục nhi không kém cạnh ai, phải không thưa mẫu thân?

Trịnh Khải lên tiếng hỏi, nhưng Dương thái phi hiểu rằng đó là sự khẳng định của anh. Giờ nếu bà lại tiếp tục làm khó Nguyên Thục, thì Trịnh Khải sẽ không hài lòng, và bá quan văn võ trong triều sẽ nghĩ bà cố tình bắt bẻ nó. Dương thái phi nhìn Trịnh Khải, anh đáp lại ánh mắt của bà bằng một nụ cười. Bao giờ cũng thế, mỗi khi Trịnh Khải mỉm cười với Dương thái phi, bà đều cảm thấy lòng mềm lại. Con trai bà đối xử với ai cũng dịu dàng, nhưng sau vẻ dịu dàng đó là một cá tính cương quyết, một khi nó đã muốn thì không ai có thể trái lời. Lần này cũng thế, trước biểu hiện ấy của Trịnh Khải, Dương thái phi ngập ngừng. Bà yêu con trai bà, bà không muốn nó phải thêm ưu phiền, phải thêm nhiều gánh nặng lo toan trong khi việc nước đã quá bộn bề.

Dương thái phi thở dài, bà đưa mắt nhìn Thánh mẫu hội ý. Đáp lại ánh mắt của bà là nụ cười của Thánh mẫu. Nụ cười ung dung, điềm nhiên của bà khiến Dương thái phi ngạc nhiên. Trong giây phút ấy, chợt nhớ ra một vấn đề nào đó, Dương thái phi gật đầu và mỉm cười cùng Thánh mẫu. Bây giờ thì bà không cần phải thử tài sở học của Nguyên Thục nữa làm gì.

- Đoan Nam vương nói rất đúng. Hai yêu cầu của ta, Hồ tiệp dư đã hoàn thành xuất sắc. Ta công nhận Tiệp dư có tài hơn người.

Những lời Dương thái phi rõ ràng đang khen nó, khiến Nguyên Thục vô cùng mát ruột. Nó bẽn lẽn, hỏi lại Dương phi với giọng ngập ngừng.

- Vậy… Vậy thân thế của thần…

- Thân thế của ngươi vậy là đã minh bạch rõ ràng, ta cũng không còn gì để tra xét. Ngươi có thể tự do.

Thánh mẫu trả lời thay cho Dương thái phi. Ngay sau khi hai chữ “tự do” vừa thoát khỏi miệng Thánh mẫu, Nguyên Thục reo khẽ một tiếng. Sau bao ngày hồi hộp chờ đợi, cuối cùng nó cũng được minh oan. Sau bao ngày bị giam cầm, cuối cùng Nguyên Thục cũng được tự do. Bây giờ nó có thể tung tăng khắp phủ chúa, bây giờ nó có thể ở bên cạnh Trịnh Khải hằng ngày mà không còn phải nếm mùi tương tư.

Nguyên Thục biết, để có được kết quả ngày hôm nay, người đầu tiên nó biết ơn chính là Trịnh Khải. Anh đã không quản khó khăn, vất vả, ngược xuôi để mời Ưu Phong đến phối hợp với nó, làm Thánh mẫu không có cớ để bắt bẻ nó nữa. Nguyên Thục thấy lòng bồi hồi, nó khẽ ngước nhìn anh. Ba ngày không gặp mà sao trông anh thay đổi quá. Đôi mày kiếm hơi chau lại, ánh mắt sâu thẳm hun hút nhuốm ưu phiền. Có lẽ nó đã làm liên lụy đến anh nhiều quá, đã làm anh lo toan nhiều quá. Ba ngày qua nó chỉ biết ngồi ở trong phòng hờn dỗi anh, oán trách anh sao không đến thăm nó, sợ anh bỏ rơi nó mà không hề nghĩ suy đến những vất vả, ngược xuôi mà anh phải trải qua để tìm kiếm Ưu Phong về minh oan cho mình. Nó chỉ biết giận dỗi anh, hờn trách anh, mà chưa từng lo lắng cho anh. Nó chỉ biết tủi hờn và cô đơn mà không hề nghĩ anh cũng phải trải qua những cảm giác như nó. Nó thật ích kỷ và vô tâm biết bao.

Nghĩ đến đó, khóe mắt Nguyên Thục chợt cay cay. Trịnh Khải là một vị chúa, anh còn biết bao công việc bộn bề phía trước, còn phải có trách nhiệm với đất nước, muôn dân. Anh phải điều khiển đất nước trong thời đại nhiễu nhương với biết bao khó khăn, thế mà giờ đây anh lại còn gánh thêm một mối lo khác, đó chính là nó. Trong giây phút ấy, Nguyên Thục cảm thấy thương Trịnh Khải biết bao. Nó vô hình chung đã trở thành gánh nặng của anh, đã khiến anh phải bận tâm thật nhiều. Trong khi anh phải quan tâm nhiều đến nó, lo lắng và chăm sóc cho nó, thì nó lại chưa làm được gì cho anh. Đã không làm gì được cho anh thì thôi, lại còn trở thành gánh nặng của anh, Nguyên Thục cảm thấy mình sao quá nhỏ bé và bất lực đến vô cùng.

Trong ba ngày qua, không có nó ở bên, Trịnh Khải ăn uống thế nào, anh ngủ có ngon không, có còn hay thức khuya như trước không. Nguyên Thục thấy nhói lòng, nó khẽ chạm vào bàn tay gầy của anh, khẽ gạt những sợi tóc lòa xòa trên vầng trán ưu tư của anh. Nghĩ đến trách nhiệm anh đang phải gánh, nghĩ đến những phiền muộn mà nó mang đến cho anh, Nguyên Thục cảm thấy đau lòng. Khi anh tìm cách minh bạch thân thế của nó, anh có gặp phải trở ngại nào không, có gặp nguy hiểm gì không. Cô gái áo đỏ kia đã nhắm vào nó, nhưng liệu sâu xa trong đó cô ta có nhắm đến Trịnh Khải không. Anh có trở thành mục tiêu của cô ta không, có bị cô ta làm hại không. Nếu thế, thì nó phải làm như thế nào để bảo vệ anh, nó làm như thế nào để trở thành bờ vai để anh dựa vào mỗi khi mệt mỏi, hay nó chỉ biết dựa vào anh, nhõng nhẽo với anh, hờn dỗi anh mà thôi.
Nguyên Thục càng nghĩ, càng cảm thấy buồn vô hạn. Trịnh Khải quan tâm tới nó nhiều quá, chăm sóc cho nó nhiều quá, vậy mà nó lại chẳng có gì cho anh. Vương vị không có, thực quyền không có. Nó suốt ngày chỉ biết dựa dẫm vào anh, chỉ biết lo lắng, bất an khi không thấy anh đâu, chỉ biết hờn dỗi, tủi thân thân khi không thấy anh bên cạnh nó. Nguyên Thục mím môi. Nó tự nhủ phải cố gắng lên, không được yếu lòng, cố gắng giảm mọi gánh nặng của anh từ nó. Nó phải cố gắng tự chăm sóc bản thân, tự bảo vệ bản thân, tự giải quyết những vấn đề cá nhân để anh không phải phiền lòng, bận tâm vì nó mà có thể chuyên tâm đến việc trị nước.

Trước đây nó chỉ biết yêu Trịnh Khải, chỉ biết nói yêu anh mãi mãi, nhưng giờ nó nhận ra đó chỉ là lời nói suông của nó. Nó chỉ biết nói mà không làm gì cả. Nó yêu anh nhưng chưa làm được gì vì anh cả. Nó yêu anh nhưng lại khiến anh gặp thêm nhiều rắc rối, muộn phiền. Nó yêu anh nhưng sự yếu đuối của nó chẳng khác nào lại chất lên vai anh gánh nặng tình cảm, trong khi anh đã phải oằn lưng với biết bao trách nhiệm nặng nề. Trước kia là thế, nhưng bây giờ nó sẽ cố gắng, sẽ cố gắng thật nhiều vì anh, sẽ tự tin và quyết đoán hơn. Nó sẽ không lo âu nghĩ ngợi vẩn vơ và tuyệt đối tin tưởng vào anh, người mà nó yêu nhất, và muốn bảo vệ nhất trên đời.

Nguyên Thục hít vào một hơi thật sâu. Nó đã có quyết định, và bây giờ nó phải vững vàng hơn, mạnh mẽ hơn để thực hiện được những điều nó vừa quyết định. Thánh mẫu có làm khó dễ nó cũng được, Dương thái phi không chấp nhận nó cũng chẳng sao. Nhưng để Trịnh Khải được yên tâm, bước đầu tiên của nó là phải làm thân với hai người này.

Thánh mẫu là bà nội anh, Dương thái phi là mẹ của anh, và nó là người anh yêu. Đối với Trịnh Khải, ai cũng rất quan trọng, thế nên Nguyên Thục sẽ làm anh vui bằng cách thân thiện, tiếp xúc với Thánh mẫu và Dương thái phi nhiều hơn. Nếu hóa giải được tình cảm của họ, nếu cả ba có thể cảm thông và xích lại gần nhau, thì chẳng phải đó chính là điều Trịnh Khải mong muốn nhất, là điều anh cảm thấy vui nhất ư?

Nguyên Thục nắm bàn tay ấm áp của Trịnh Khải, nó xiết chặt tay anh, lòng thầm nhủ cho dù bất có chuyện gì xảy ra, nó cũng sẽ không rời bỏ bàn tay ấm áp này. Hơi ngạc nhiên vì sự chủ động của Nguyên Thục, Trịnh Khải đưa mắt nhìn nó. Nhìn gương mặt rạng ngời và nụ cười tươi tắn trên môi Nguyên Thục, lòng Trịnh Khải trở nên nhẹ nhõm. Anh lồng những ngón tay của mình đan vào tay Nguyên Thục. Ba ngày qua không nhìn thấy nụ cười đáng yêu này, anh thật sự cảm thấy trống vắng biết bao.

Nếu như đây là ở ngự lâu của Trịnh Khải, Nguyên Thục chắc chắn sẽ giang tay ôm anh vào lòng, bao bọc anh bằng sự ấm áp của nó, thế nhưng đây là lầu Cần Chánh, có đông đủ bá quan văn võ nên Nguyên Thục chỉ có thể nắm chặt lấy tay anh mà thôi.

- Mọi việc như thế đã xong! Thánh mẫu, Đoan Nam vương, Ưu Phong tôi có việc phải đi. Tôi xin cáo từ trước, hẹn lần sau sẽ gặp lại.

Nguyên Thục như bừng tỉnh khi Ưu Phong nhẹ lên tiếng. Nó bẽn lẽn nhìn anh, đôi mắt long lanh thay cho lời cám ơn. Ban nãy vì chỉ nghĩ đến Trịnh Khải, Nguyên Thục quên mất Ưu Phong. Bây giờ anh lên tiếng, nó mới nhớ ra rằng anh cũng góp công không nhỏ trong chuyện nó được tự do, nó đúng thật là vô tâm mà.

- Cám ơn anh, Ưu Phong. Cám ơn anh nhiều lắm.

Ưu Phong mỉm cười khi Nguyên Thục cảm kích. Khấu chào Thánh mẫu và Dương thái phi, Ưu Phong gật đầu với Trịnh Khải, anh xoay bước trở ra ngoài. Khi Ưu Phong đi được vài bước, Nguyên Thục như chợt nhớ ra điều gì đó, nó vội vàng lên tiếng.

- Ưu Phong! Bách Nhật đang ở Quy Nhơn đó.

Lời nhắn của Nguyên Thục rơi tõm vào thinh không. Ưu Phong đã lướt ra ngoài cửa, tà áo trắng hòa tan trong ánh sáng, khiến cả người Ưu Phong như phiêu diêu, vô định hệt như cái tên của anh. Nguyên Thục cắn môi, chẳng biết Ưu Phong có nghe thấy những gì nó nói hay không, nhưng nó cảm thấy cần phải nói điều ấy với anh. Tại sao thì Nguyên Thục không biết, nhưng mỗi khi nhớ đến gương mặt dịu dàng, pha chút nỗi buồn phảng phất của Bách Nhật khi trở về từ Hương sơn, nó thấy lấn cấn. Bách Nhật vốn kín đáo, có nỗi buồn cũng không thổ lộ với ai, cái gì cũng luôn chôn sâu vào lòng trong khi lại tận tâm giải tỏa ưu phiền của bạn bè. Nếu như ngày hôm đó, Bách Nhật không trở về một mình mà bên cạnh còn có Ưu Phong thì liệu Bách Nhật có buồn như thế không, Nguyên Thục cũng không biết. Nếu Bách Nhật thật sự có cảm tình với Ưu Phong thì chỉ rước khổ vào thân. Ưu Phong là cơn gió, lang thang vô định không biết nơi nào dừng chân, Bách Nhật chỉ là một cô gái nhỏ bé, mỏng manh, làm cách nào để tìm đến với gió đây. Nguyên Thục càng nghĩ, càng thấy thương cho Bách Nhật vô cùng.

- Hồ tiệp dư, nhân đây ta cũng muốn công bố với ngươi và tất cả mọi người một chuyện.
Đợi cho Ưu Phong đi khuất, Thánh mẫu mới từ tốn lên tiếng để lầu Cần Chánh thôi rầm rì. Đang ngồi ngẩn ngơ lo nghĩ cho Bách Nhật, Nguyên Thục giật mình khi nghe những lời Thánh mẫu vừa nói. Giọng nói của bà lộ vẻ nghiêm trang, gương mặt trắng như tượng pha chút thích thú và vui vẻ, một biểu hiện mà trước nay Nguyên Thục chưa thấy bao giờ. Điều đó làm cho nó có dự cảm không lành

- Thưa Thánh mẫu, người muốn công bố chuyện gì ạ?

Cả lầu Cần chánh im lặng do muốn biết Thánh mẫu cần công bố chuyện gì mà chưa bãi tọa. Trịnh Khải cũng ngạc nhiên như Nguyên Thục. Chuyện thân thế của Nguyên Thục đã rõ ràng. Thánh mẫu và mẹ anh cũng đã công nhận tài trí và trả tự do cho Nguyên Thục thì còn muốn công bố chuyện gì. Chẳng lẽ Thánh mẫu lại nghĩ ra những chuyện khác để gây khó dễ cho Nguyên Thục sao.

Trong khi Trịnh Khải đang suy nghĩ, Thánh mẫu lại lướt mắt lên từng khuôn mặt của mọi người, sau đó dừng lại ở Nguyên Thục rất lâu, khiến nó chột dạ. Đang khi Nguyên Thục tự hỏi không biết Thánh mẫu muốn công bố chuyện gì thì sau tấm rèm ngọc, một nàng cung nữ bê một cái hũ bọc vải điều đặt lên chiếc bàn trước mặt Thánh mẫu. Nhìn thấy cái hũ đỏ ấy, trái tim Nguyên Thục chợt đập nhanh một nhịp. Đó chính là cái hũ dùng để bỏ phiếu phân định thắng thua giữa nó và Ngọc Xuân, Thánh mẫu đem ra để làm gì, chẳng lẽ bà muốn...

- Hồ tiệp dư, ngươi còn nhớ cuộc tranh cử Vương phi giữa ngươi và Ngọc Xuân chứ?
Nguyên Thục liếm đôi môi khô nứt của mình, nó thận trọng đáp lời.

- Thưa vâng, thần không quên.

- Ngươi đã không quên, vậy ngươi có biết hôm nay chính là ngày hạn một tháng đã kết thúc không.

Thánh mẫu vừa nói vừa mỉm cười, nụ cười của bà nở rộng dưới ánh nến. Nguyên Thục mở to mắt khi những lời Thánh mẫu vừa vọng vào tai nó. Hôm nay là ngày cuối cùng của thời hạn một tháng, nó bất ngờ không phải vì đã hết hạn mà là vì Thánh mẫu vẫn theo như ước định ban đầu cho mở phiếu ngay khi thời hạn đã hết. Ba ngày trước nó bị hành thích, bị giam lỏng trong phòng, lẽ ra Thánh mẫu phải cho ngừng lại cuộc tranh đua để làm sáng tỏ lai lịch của nó trước mới phải chứ. Nó bị giam, mọi hoạt động tranh cử đều bị đông cứng, thanh danh bị nghi ngờ, trong khi Ngọc Xuân bên ngoài vẫn tiếp tục cuộc tranh đua. Khỏi cần phải nói, chắc chắn phần thiệt sẽ nghiêng về nó, cớ sao Thánh mẫu lại xem như chưa từng có chuyện gì xảy ra?

- Thưa Thánh mẫu, thần không hiểu. Hôm nay đúng là kết thúc thời hạn một tháng, nhưng vì có sự cố xảy ra đối với thần, thần mong Thánh mẫu hãy gia hạn thêm thời gian ạ.

Nguyên Thục cố gắng thuyết phục Thánh mẫu với lời lẽ chân thành nhất. Nào ngờ, khi nghe những lời trần tình của Nguyên Thục, Thánh mẫu nhếch môi lãnh đạm.

- Hồ tiệp dư, ngươi nói thế không thấy vô lý hay sao? Việc ngươi đã xảy ra sự cố gì ta không quan tâm, đó là chuyện riêng của ngươi chứ không can hệ gì đến cuộc tranh cử ngôi vị Vương phi này. Ta căn cứ theo lời ước hẹn của ngươi rằng một tháng sau sẽ mở phiếu quyết định ngôi vị Vương phi, hôm nay đến hẹn thì ta cứ thế mà làm. Ngươi xin ta gia hạn thêm thời gian mà không thấy mình đòi hỏi vô lý và quá bất công cho Ngọc Xuân sao. Lẽ ra Ngọc Xuân đã có thể đường đường chính chính làm Vương phi, nhưng để ngươi được tâm phục khẩu phục nên đã chấp nhận cuộc tranh cử cùng với ngươi. Bây giờ ngươi chẳng những không chịu, mà lại còn muốn xin ta gia hạn, còn muốn Ngọc Xuân phải chấp nhận một yêu cầu nữa của ngươi. Hồ tiệp dư, ngươi đừng thấy chúng ta chấp nhận yêu cầu của ngươi mà hết lần này đến lần khác tiếp tục lấn tới. Được voi thì đòi tiên, câu ấy đối với ngươi quả không sai chút nào.

Những lời Thánh mẫu nói vô cùng hợp lý và sắc bén đến độ Nguyên Thục không sao phản bác lại lời nào. Nó ấm ức, tính mở miệng nói điều gì đó nhưng cuối cùng lại im lặng. Chuyện thân thế của nó mới tạm yên, bây giờ nó không muốn khơi thêm ngòi nổ khác, thế nên Nguyên Thục đành im lặng. Nó bất lực nhìn Thánh mẫu lệnh cho quan tham tụng Bùi Huy Bích và Nguyễn Khản, hai người được bá quan ca ngợi là công chính liêm minh nhất mở số phiếu ra đếm.

Vì cả hai cái hũ đều bọc vải đỏ, chỉ dán một mảnh giấy ghi tên nó và Ngọc Xuân, cho nên Nguyên Thục không thể biết được số phiếu của ai nhiều hơn. Nó vừa nhìn Bùi Huy Bích mở từng tờ giấy một, trái tim vừa đập như trống dồn. Bầu không khí trong lầu Cần Chánh trở nên cô đặc, Nguyên Thục có thể nghe rõ tiếng hơi thở dồn dập của mình. Thời gian chậm chạp rơi từng giọt, lòng bàn tay Nguyên Thục ướt đẫm, triệu chứng cửa sự căng thẳng và hồi hộp quá mức. Số phiếu sẽ quyết định ai sẽ là Vương phi, số phiếu đó sẽ quyết định nó có được ở bên cạnh Trịnh Khải được hay không... số phiếu đó....

- Thưa Thánh mẫu, hạ thần đã đếm phiếu xong, bây giờ hạ thần đã có kết quả trong tay rồi ạ

Nguyên Thục giật mình đánh thót khi quan tham tụng Bùi Huy Bích lên tiếng. Những ngón tay của nó nhẹ run khi Thánh mẫu yêu cầu Bùi Huy Bích công bố kết quả cho mọi người biết. Nguyên Thục cắn môi, nó xiết chặt tay Trịnh Khải, tay còn lại vịn vào thành ghế, người nó hơi ngả về phía trước. Nó đang chờ đợi trong sự căng thẳng tột cùng. Kết quả sẽ như thế nào? Vương phi sẽ là ai? nó hay là Ngọc Xuân đây...?

Vương phi sẽ là...

- Thưa Thánh mẫu, sau khi thần và quốc sư tổng kết số phiếu, sau đó đổi lại cho nhau kiểm tra kết quả, thì số phiếu của Ngọc Xuân tiểu thư nhiều hơn số phiếu của Hồ Tiệp dư ạ. Số phiếu của ….

Nguyên Thục mở to mắt.

Nó nhìn đăm đăm vào số phiếu trên bàn.

Nó nhìn mà phía trước chỉ là một khoảng trắng vô định, bồng bềnh

Tai nó ù đi, không còn nghe thấy số phiếu cụ thể nữa.   

Nó chỉ nghe thấy tiếng cười hài lòng của Thánh mẫu, và gương mặt rạng rỡ vui mừng của Ngọc Xuân.

Vậy là đã có kết quả…

Và nó đã thua cuộc rồi…

Trên cao, Thánh mẫu và Dương thái phi cùng mỉm cười. Nhìn Nguyên Thục như hóa đá, Thánh mẫu cất cao giọng. Giọng nói của nói bà len lỏi khắp lầu Cần Chánh. Từng câu, từng chữ, từng lời của bà như con dao nhọn đâm vào Nguyên Thục, đau đến tận tim.

- Hồ tiệp dư! Như ngươi đã thấy, quốc sư và tham tụng sau khi kiểm tra còn đổi lại cho nhau để kiểm. Với sự cẩn thận đó ta tin rằng kết quả hai người vừa đưa ra vô cùng chính xác. Hồ tiệp dư, ngươi còn nhớ giao hẹn giữa chúng ta chứ? Nếu ngươi thắng trong cuộc tranh cử thì ngôi vị Vương phi sẽ thuộc về ngươi, nhược bằng không, ngươi sẽ phải rời xa Khải nhi mãi mãi. Hôm nay dưới sự chứng kiến của bá quan văn võ, ngươi đã thua cuộc, ngôi vị Vương phi đã thuộc về Ngọc Xuân. Ta đã giữ chữ tín, thực hiện nguyện vọng của ngươi, thế nên ta muốn ngươi cũng hãy thực hiện giao ước của ngươi, ngay bây giờ!

★ Chương 93

Quán trọ Bồng Lai, nơi vốn được xem là trung tâm của Gia Định, thế nhưng bây giờ lại tiêu điều, ảm đạm, bởi khách khứa không còn nhiều như trước, âu cũng là do Gia Định hiện giờ đang có chiến tranh.

Ngồi dưới lầu làm bạn với ấm trà con, Anh Tú nhìn ánh chiều tà buông xuống, nhuộm đỏ bầu trời mà không nén được tiếng thở dài. Tại sao nó lại ở Gia Định mà lại không ở trong Hoàng cung, âu đó cũng là một câu chuyện dài.

Kể từ khi bị Duy Khiêm cho Ngọc Vũ “mượn” dài hạn, Anh Tú thật sự như đặt chân vào địa ngục. Nó biết lúc trước đã trót phạm một sai lầm, nhưng không ngờ sai lầm đó lại dẫn đến hệ quả nghiêm trọng đến thế. Ngọc Vũ “mượn” được Anh Tú chẳng khác nào như cá trong nước, ngày nào cô cũng tác oai tác quái làm nó ăn ngủ không yên. Trong cung Thủy Nguyệt cung có rất nhiều cung nữ, lại thêm cái cung đó không rộng lớn, đi quanh quẩn một lát đã chạm mặt nhau ầm ầm, đám cung nữ nhiều khi còn ngồi chơi xơi nước chẳng làm gì, ấy thế mà không hiểu sao Ngọc Vũ lại đào đâu ra lắm việc để cho nó làm đến thế.

Ngày đầu tiên, Ngọc Vũ bắt Anh Tú lau nhà. Cô quy định nó phải lau thật bóng, thật sạch và không được để lại vết bụi nào, bằng không sẽ cho nó nhịn đói. Thông thường, từ cung nữ cho đến thái giám, ai ai ở trong cung cũng đi hài, mọi người ra ngoài dạo chơi hậu hoa viên cho đến khi trở về phủ đều tha theo một lượng đất cát không nhỏ. Sàn nhà trong cung không phải là gạnh bông tráng men bóng loáng như bây giờ mà chỉ là loại gạch nung đỏ điểm hoa văn, đi rất nhám, đến nước lau nhà Vim siêu cấp cũng chớ hòng bóng loáng không tì vết. Đã biết thế, ấy vậy mà Ngọc Vũ lại bắt Anh Tú phải lau sạch như lau như li cho đến khi nào cô chịu thì thôi, thật là điều không tưởng.

Bắt Anh Tú lau nhà hoài cũng chán, Ngọc Vũ lại xoay việc khác cho Anh Tú làm. Cung Thủy Nguyệt của Ngọc Vũ trồng rất nhiều hoa. Hằng ngày, người chuyên phụ trách việc tưới hoa là một nàng cung nữ, nhưng bây giờ cô ta đã thất nghiệp vì Anh Tú “được” Ngọc Vũ điều đi làm công việc đó. Nếu là một người bình thường, tất nhiên những chuyện đó rất bình thường, nhưng nếu đó là Ngọc vũ, thì những công việc đó chính là cực hình. Mỗi lần Anh Tú đi tưới hoa, Ngọc Vũ luôn đi theo để quan sát nó, và nó lại được dịp nghe Ngọc Vũ luôn miệng trách mắng. Đại loại như “ngươi làm gì tưới nước nhiều quá vậy,muốn hoa bị úng sao” hay “sao ngươi tưới ít nước thế, hay là ngươi sợ phải đi lấy nước thêm lần nữa”, lại còn “có mỗi chuyện tưới hoa mà tưới cũng không xong, vậy còn làm được gì nữa”. Cứ thế, cô nàng liên tục làm phiền bên tai nó, khiến nó vô cùng bực mình vì sự khó chìu của cô.

Sau khi hành hạ Anh Tú tưới cây, dường như hứng thú của Ngọc Vũ đã giảm, cô nàng đào ra cho nó một công việc khác, đó là lau rửa ly tách. Trước đôi mắt của giám sát viên Ngọc Vũ, Anh Tú phải cố sức chùi rửa. Khó khăn lắm nó mới làm sạch được những vệt trà hoen ố bám trong bình, những vết dơ ẩn sâu trong các khe hở, vậy mà Ngọc Vũ vẫn chưa hài lòng. Cô cầm từng chiếc ly Anh Tú vừa rửa lên săm soi, ngắm nghía, hết xoay bên này lại xoay bên khác, hết nhìn trước rồi lại ngó sau, thiếu điều lấy cả kính lúp ra soi cho đồng bộ. Chiếc ly nào vinh hạnh được Ngọc Vũ kiểm tra, trăm phần trăm Anh Tú phải rửa lại, dù nó nhìn đỏ cả mắt vẫn không phát hiện ra dơ chỗ nào.

Hết lau nhà, lau dọn ly tách, cho đến tưới hoa, thôi thì không có công việc nào mà Anh Tú không làm. Riết rồi nó thấy mình thành thạo chẳng khác nào mẫu đàn ông giỏi tề gia nội trợ, chỉ thiếu điều chui vào bếp nấu ăn nếu Ngọc Vũ bắt làm mà thôi.

Khi còn ở hiện đại, Anh Tú xem phim về vua chúa, nó tự hỏi ngày xưa người ta sống ra làm sao, bây giờ trở về quá khứ thì câu hỏi đó được giải đáp ngay tức thì. Ở trong cung, Anh Tú mới thấy rằng cuộc sống của một nàng công chúa thật nhàn hạ đến tẻ nhạt. Ngọc Vũ hết được các nữ quan đến dạy thi phú, thơ từ, hội họa, luận bàn điển xưa tích cũ, thêu thùa may vá, xong lại cùng cô nàng Ngọc Hân nô đùa ngoài hậu hoa viên đến chán chê. Nhưng điều đó không làm nó chán bằng việc đi đâu Ngọc Vũ cũng lôi nó theo. Cô ta chơi đùa một mình thì thôi đi, đằng này lại lôi mình theo cơm bưng nước rót, khiến nó bực bội vô cùng.

Có thể nói trong Thủy Nguyệt cung, Ngọc Vũ hầu như không làm gì cả. Cô ăn có người mang đến, uống trà có người pha cho, thậm chí khi đi ngủ cũng có người bưng nước rửa chân vào. Ngọc Vũ tối ngày chỉ biết sai bảo người khác, ngay cả cái móng tay cũng không động đến việc gì, thử hỏi loại công chúa như thế ngoài làm bình hoa di động trong cung thì còn biết làm việc gì khác. Nấu cơm không biết, quét nhà không biết, thậm chí dám con trâu và con bò khác nhau thế nào, cô ta nhìn thấy chắc cũng không biết, nếu không có dịp lẻn ra ngoài dạo chơi như dạo rồi.

Chính vì quá hiểu cuộc sống an nhàn của Ngọc Vũ cho nên Anh Tú vô cùng ngán mấy nàng công chúa vô tích sự, chẳng làm được gì. Có một lần, vì bị Ngọc Vũ quay như chong chóng, Anh Tú đã quay lại và nói thẳng với Ngọc Vũ rằng: “ngoài chuyện chỉ tay năm ngón ra, cô còn biết làm gì? Ngay cả chuyện uống trà cũng phải có người mang đến, ăn cơm cũng phải có người dọn ra. Chẳng bao giờ tôi thấy cô biết giúp đỡ người khác một chuyện gì, công chúa như cô thật vô tích sự”. Sau khi nói xong câu đó, Anh Tú biết nó chắc chắn gặp phiền phức to do khiến Ngọc Vũ nổi giận. Thế nhưng, trước sự ngạc nhiên của nó, Ngọc Vũ nghe câu ấy xong chỉ yên lặng, đôi mắt cô long lanh, chẳng rõ là giận hay buồn.

Đêm đó, Anh Tú bị mấy tên lính cận vệ đánh mười hèo vì can tội dám xúc phạm công chúa. Sau khi bị đòn xong, Ngọc Vũ sai người mang thuốc đến cho Anh Tú, nhưng nó thà bán thân bất toại còn hơn bôi cái thứ thuốc quỷ quái của Ngọc Vũ lên người. Thái độ kiên quyết chối từ của nó khiến nàng cung nữ phải mang thuốc quay về cung Thủy Nguyệt. Sau một đêm mỏi nhừ người, hai mắt thâm quầng vì không thể ngủ được, Anh Tú thôi không động chạm gì đến Ngọc Vũ nữa. Không phải vì Anh Tú sợ hay e dè, mà là vì sau trận đòn thừa chết thiếu sống đó, Anh Tú mới cảm thấy cái mạng của nó có thể bị mất bất cứ lúc nào. Xuống suối vàng mà chưa tìm thấy bé Lan của nó, nó thật không cam lòng. Cho nên, bằng bất cứ mọi giá, nó phải nhẫn nhịn chịu đựng, rồi sau đó xin Đoan Nam vương cho nó rời khỏi nơi này để đi tìm Linh Lan.

Sau chuyện trị tội Anh Tú, Ngọc Vũ vẫn như chưa từng có chuyện gì xảy ra. Cô vẫn sai vặt nó như trước, nhưng đã có thể tự tay rót trà mà không cần ai mang đến. Nhận thấy Ngọc Vũ thay đổi, dù chỉ một tí ti, Anh Tú chỉ cười nhạt mà không nói gì. Nếu là thường ngày thì Anh Tú đã lên tiếng, nhưng từ khi bị mười hèo đau đến rêm mình, Anh Tú thôi không để ý đến Ngọc Vũ nữa. Cô muốn làm gì thì làm, nó không quan tâm. Cái nó quan tâm trước mắt chỉ là bảo toàn mạng sống chờ ngày làm chim xổ lồng mà thôi.

Anh Tú chưa kịp xổ lồng ra khỏi Hoàng cung thì Ngọc Vũ đã tự động mang cái lồng chim ấy đến nơi nó muốn…

Vào một ngày đẹp trời, một con chim bồ câu do Diệu Đức mang tới đáp xuống nóc cung Thủy Nguyệt. Nhận ra đó là con chim bồ câu liên lạc quen thuộc, Ngọc Vũ húyt sáo. Con chim trắng liền rời khỏi cành cây và đậu trên tay Ngọc Vũ, trên chân có kèm theo một cuộn giấy nhỏ. Cẩn thận lôi bức thư ra đọc, sắc mặt đang vui vẻ của Ngọc Vũ liền chuyển sang nét ngạc nhiên, bỡ ngỡ, cứ như thể đã nhận được tin tức gì làm cô chấn động. Không đợi Anh Tú kịp hỏi, Ngọc Vũ đã quay sang nó, nói luôn.

- Hoàng huynh ta sắp lấy vợ rồi!

Đưa mắt nhìn Ngọc Vũ, Anh Tú không hiểu tại sao cô lại nói chuyện này cho nó biết, nhưng sau khi xảy ra chuyện “ thần khẩu hại xác phàm”, Anh Tú không muốn nói bất cứ thứ gì với Ngọc Vũ nữa. Nó phải giữ im lặng để tránh xảy ra những tai nạn ngoài ý muốn.

Không để ý đến tâm trạng của Anh Tú, Ngọc Vũ thả cho con chim bồ câu bay đi. Cô nói, giọng xa xôi.

- Hoàng huynh ta bây giờ đã không còn ở trong cung nữa, nhưng ta vẫn có thói quen gọi huynh ấy là Hoàng huynh. Một năm nay không gặp huynh ấy, không nghe tin tức gì của huynh ấy, ta thật sự rất nhớ và lo lắng. Chẳng ngờ, lần này lại nhận được tin huynh ấy chuẩn bị lấy cung chủ Ngọc Long cung, đám cưới được chuẩn bị rộn ràng, náo nhiệt, vậy mà huynh ấy chẳng hề nói với ta lời nào.

-...

- Nếu không nhờ Diệu Đức báo lại, ta có lẽ cũng không biết huynh ấy sẽ lấy vợ. Lúc trước huynh ấy thỉnh thoảng cũng đến thăm ta, tuy thỉnh thoảng thôi nhưng ta vẫn vui lắm. Tiểu Anh tử, ngươi biết không, ta biết Hoàng huynh ta không muốn quay trở về cung, phụ hoàng cũng không nhắc đến Hoàng huynh một lần nào, ta biết Hoàng huynh ta có điều khó xử, nhưng ta vẫn muốn huynh ấy đến thăm ta thật nhiều. Trong Hoàng cung, phụ hoàng tuổi đã cao, Hoàng huynh Duy Cận lại xa cách, Hoàng muội Ngọc Hân chưa trưởng thành, Hoàng tỷ Ngọc Trâm không ưa ta, các Hoàng tỷ, Hoàng huynh khác lại ghanh ghét, cung nữ không dám đắc tội với ta, muốn nói chuyện, tâm sự cũng không biết nói với ai. Tiểu Anh tử, ngươi nói xem, làm một người nông dân bình thường, thiếu cái ăn cái mặc nhưng lại có một gia đình vui vẻ, hạnh phúc là tốt, hay là một nàng công chúa ăn sung mặc sướng, ngay cả cái móng tay cũng không động đến việc gì, nhưng lại sống trong cảnh cá chậu chim lồng, ngay cả số phận của mình cũng không quyết định được là tốt?

Ngọc Vũ vô tình nhắc lại câu “ngay cả cái móng tay cũng không động đến việc gì” hôm qua của Anh Tú, khiến Anh Tú ngạc nhiên nhìn Ngọc Vũ. Nó không ngờ nàng công chúa hồn nhiên, vô tư, thường ngày hay hạch hỏi người khác, lại có nhiều tâm sự thế. Nhìn gương mặt xinh đẹp vẫn còn đượm nét thơ ngây của Ngọc Vũ, Anh Tú bỗng thở dài. Cái thở dài đó làm Ngọc Vũ chú ý, cô quay sang nhìn nó, cau mày.

- Ngươi thở dài cái gì?

- Không có gì. Tôi thở dài vì nhớ đến em gái của tôi thôi.

- Em gái ngươi? Phải rồi, lúc trước khi ngươi đánh ta, ngươi đã nhắc đến cô gái ấy, cô ta hiện giờ ở đâu?

Nghe Ngọc Vũ lại tình cờ nhắc đến vụ “một tên bắn rơi hai con nhạn”, Anh Tú khụt khịt mũi. Cứ mỗi lần nhớ đến Linh Lan, là lòng nó lại bâng khuâng.

- Em gái tôi hiện giờ đang lưu lạc bên ngoài, tôi rất muốn gặp lại nó mà không được. Nghe những lời cô nhắc về Hoàng huynh cô, làm tôi nhớ đến nó. Cũng như cô, đã lâu rồi hai anh em tôi chưa được gặp nhau, không biết bây giờ nó như thế nào rồi.

Anh Tú ngậm ngùi. Đã không nhắc thì thôi, càng nhắc nó càng thấy lo. Không biết Linh Lan hiện giờ xấu đẹp thế nào, mập ốm ra sao. Lúc trước, em gái nó rất xinh, nếu không thì thằng Tùng “samsung” đã không gởi thư tỏ tình cho em nó. Nay trở về quá khứ, đối diện với cái nắng thiêu đốt mà không có găng tay, mạng che mặt, thì làn da em nó sẽ đen như cột nhà. Chưa hết, ở đây Linh Lan phải chịu gian khổ, vất vả đủ thứ, chắc chắn cân nặng sẽ xuống như sàn chứng khoáng. Em gái nó mà vừa xấu vừa ốm thì ai mà yêu, không có ai yêu làm sao lấy chồng, không lấy chồng thì làm sao sinh con, mà không sinh con thì làm sao có được một gia đình. Anh Tú càng nghĩ càng xa thì càng cảm thấy lo lắng, nó chỉ hận mình không có trực thăng để bay khỏi Hoàng cung cho nhanh đặng đi tìm Linh Lan. Nhìn thấy mặt Linh Lan, thì Anh Tú mới an tâm và những lo âu, thắp thỏm này mới thôi không tích tụ trong lòng.

Nhìn sắc mặt Anh Tú nắng mưa thất thường, Ngọc Vũ cau mày nghĩ ngợi, lát sau, cô cất lời.

- Tiểu Anh tử, ngươi có muốn đến Quy Nhơn không?

- Sao? Quy Nhơn có gần Phú Yên không? - Anh Tú như không tin vào tai mình, nó vội vàng hỏi lại. Chắc chắn Ngọc Vũ đang nói đùa, cô nàng tai tướng này mà biết làm điều thiện cho ai.

- Ta cũng không biết, nhưng Hoàng Huynh ta đang ở Quy Nhơn. Chắc huynh ấy sẽ tổ chức đám cưới ở Tử Phụng cung. Dù huynh ấy không gởi thiệp mời, nhưng ta cũng sẽ đến chúc mừng huynh ấy. Ta không muốn bỏ lỡ ngày vui của Hoàng huynh ta, và ta cũng muốn xem cô gái nào đã làm Hoàng huynh ta dừng chân, thôi không ngao du nữa. Thế nào, ngươi có muốn đi không?

- Có! Tất nhiên là có. Trời ơi! Tôi yêu cô quá, Ngọc Vũ ơi.

Đối với Anh Tú, được Ngọc Vũ cùng cho đi Quy Nhơn chẳng khác nào tử tù mà được miễn xá tội chết. Nó sung sướng ôm lấy Ngọc Vũ, rồi hôn cái chóc lên trán cô. Bất ngờ bị Anh Tú ôm lấy, rồi lại còn hôn lên trán, Ngọc Vũ sững sờ. Cô mở to mắt, nhìn trân trân vào mặt Anh Tú, nhất thời vẫn chưa tin được anh chàng này vừa làm gì mình.

Sau cơn vui mừng đến phát rồ, Anh Tú mới nhận ra được hành động nó đã thực hiện vô cùng… ngu ngốc. Người ta nói “vui quá hóa rồ”, câu đó cấm có sai. Bằng chứng là khi nãy nghe tin được đi Quy Nhơn, có dịp ra khỏi Hoàng cung, hồn Anh Tú bay lên mây. Nó đã vòng tay ôm Ngọc Vũ, rồi lại còn hôn lên trán cô mà không nghĩ đến hậu quả sau hành động bộc phát ấy là gì. Nhớ đến trận đòn đau ngắc ngoải tối qua, Anh Tú toát mồ hôi lạnh. Mới phê phán vài câu đã bị đòn, huống chi bây giờ nó đã có hành động… “sàm sỡ” với công chúa. Đối với Anh Tú, bị thêm vài trận đòn cũng không sao, nhưng mà lỡ Ngọc Vũ nổi giận không cho nó đi Quy Nhơn nữa thì coi như mọi hy vọng tiêu tan.
Trong khi Anh Tú đang lo lắng, thì Ngọc Vũ dường như vẫn chưa tỉnh ra sau sự đụng chạm ấy. Mặt cô ngơ ngẩn, mắt đăm đăm nhìn Anh Tú, chân tay thừ ra mãi mà vẫn chưa thốt được câu nào. Ban nãy… ban nãy hắn ta đã làm gì mình? Hắn ta… Ngọc Vũ lẩm bẩm, cô bất giác sờ lên trán, nơi nụ hôn vẫn còn âm ấm. Ngọc Vũ mới mười sáu tuổi, cái tuổi vẫn còn rất non nớt ngây thơ, nhất là với một nàng công chúa chỉ quanh quẩn trong bốn bức tường Hoàng cung. Dù chưa đến tuổi trưởng thành nhưng Ngọc Vũ rất đẹp, đẹp như một bông hoa sen trắng nở trên mặt nước, làm cả Hoàng cung tỏa ngát hương thơm dịu dàng của loài hoa thanh khiết kia. Ngọc Vũ sống trong cung trước nay chỉ có cung nữ, chưa bao giờ có một người đàn ông nào bước chân vào Thủy Nguyệt cung. Diệu Đức là cận vệ trung thành, anh không dám mạo phạm Ngọc Vũ và luôn kính cẩn đối với cô. Từ trước tới nay, Ngọc Vũ chưa bao giờ đụng chạm với người khác phái nào, nay đột nhiên bị người khác ôm chầm lấy, rồi lại còn hôn lên trán, dù đó có là thái giám, nhưng Ngọc Vũ vẫn sững người ra, nhất thời chưa thể hành xử như bình thường.

Ngọc Vũ nhìn Anh Tú đăm đăm. Có lẽ sau vài ba phút bất ngờ, đầu óc của cô đã bắt đầu hoạt động và hiểu ra chuyện gì vừa xảy ra. Trong phút chốc, đôi má măng tơ, mịn màng của Ngọc Vũ phơn phớt sắc hồng, rồi màu hồng ấy lan dần ra gương mặt xinh xắn, khiến cô càng thêm xinh đẹp lạ kỳ. Ngọc Vũ nghe má nóng ran, cô ngượng nghịu, hai tay ôm lấy đôi má rồi quay mặt đi, quên mất cả chuyện trị tội sự vô lễ của tên thái giám to gan kia.

Thấy Ngọc Vũ đột nhiên bối rối, lại còn giấu mặt đi, Anh Tú ngơ ngác. Tuy nó không hiểu Ngọc Vũ đang nghĩ gì, nhưng cô không trừng phạt nó thì đã may lắm rồi. Nhớ lại sự thất lễ của nó ban nãy, Anh Tú vỗ vào đầu mấy cái. Nó tự nhủ từ bây giờ dù có vui mừng đến đâu nó cũng sẽ phải kiểm soát hành động, để tránh những trường hợp mang họa vào thân. Nghĩ đến chuyện sẽ được ra khỏi Hoàng cung, được đi Quy Nhơn và có cơ hội tìm Linh Lan, Anh Tú vô cùng phấn khích. Nó sốt sắng.

- Công chúa, thế chừng nào đi?

- Ba… ba ngày nữa chúng ta sẽ khởi hành. Bây giờ ngươi chuẩn bị là vừa.

Vẫn hai tay ôm má, Ngọc Vũ trả lời mà không quay lại. Nguyên ngày hôm đó, Anh Tú rất hưng phấn, Ngọc Vũ có sai gì nó cũng làm trong vui vẻ, không hề ca thán lấy nửa câu. Chỉ nghĩ đến việc ba ngày tới nó sẽ lên đường đi Quy Nhơn thôi là Anh Tú đã thấy rạo rực trong lòng. Dù không biết Quy Nhơn có gần Phú Yên hay không, nhưng có cơ hội ra khỏi Hoàng cung là may lắm rồi. Đợi đến Quy Nhơn, nó sẽ hỏi những người dân sống tại đó xem Phú Yên ở đâu, rồi hy vọng từ đó mà tìm ra được tung tích của Linh Lan.

Đến đây, dòng hồi tưởng đã chấm dứt, Anh Tú thở dài ngán ngẩm. Trước khi khởi hành nó đã nôn nao biết bao, thì bấy giờ nó lại thất vọng bấy nhiêu. Theo như kế hoạch đã định, Ngọc Vũ bí mật rời khỏi cung, mang theo Anh Tú và Diệu Đức- viên cận vệ trung thành. Ban đầu, Diệu Đức không chấp nhận việc Ngọc Vũ rời khỏi Hoàng cung để đến Quy Nhơn xa xôi, hiểm trở, nhưng trước sự nài nỉ cộng đe dọa nhịn ăn nhịn uống của Ngọc Vũ, Diệu Đức đã mềm lòng và khăn gói cùng cô nàng đến Quy Nhơn. Nói mang tiếng cùng Ngọc Vũ đến Quy Nhơn, nhưng Anh Tú chẳng khác nào đầy tớ thứ thiệt. Trong khi Ngọc Vũ ngồi trong kiệu xe ở phía sau, Diệu Đức thong dong đánh xe phía trước, thì Anh Tú lại phải… đi bộ ở phía dưới, khiến nó tức giận không sao kể xiết.

Tất nhiên, với thân phận hiện giờ của nó, một nô tài mà ngồi chung kiệu với một công chúa quý báu của Hoàng cung là điều không tưởng, nhưng ngồi phía trước như Diệu Đức thì có sao? Ấy thế mà nó lại “được vinh hạnh” đi bộ trong khi cặp đôi kia nói cười vui vẻ ở trên xe. Cũng may Ngọc Vũ không phải là một cô nàng quá vô tình. Thấy nó đi đường xa mồ hôi mẹ mồ hôi con đua nhau tuôn chảy, nét mặt vô cùng ảm đạm, Ngọc Vũ đã vén rèm bảo Anh Tú lên xe ngồi. Lẽ ra nó đã có thể cùng ngồi trong kiệu xe cùng Ngọc Vũ, thế nhưng trước sự can ngăn quyết liệt của Diệu Đức, Anh Tú phải ra ngoài ngồi cùng anh chàng dưới cái nắng chang chang.

Chả biết Diệu Đức có thù oán gì với Anh Tú không, nhưng nó lờ mờ nhận ra rằng hình như anh chàng này không ưa mình, bằng chứng là Diệu Đức đã luôn hành nó. Từ vác hành lý cho đến chuyện thuê và nhận phòng, bao giờ nó cũng là người è cổ ra làm trong khi anh ta lại đứng bên cạnh Ngọc Vũ nói cười tỉnh bơ. Dù bên trong rất giận Diệu Đức, nhưng ngoài mặt Anh Tú vẫn cố tươi tỉnh. Nó biết dựa vào võ công nó không thể bằng Diệu Đức, về ngoại hình cũng gọi là kém xa, nhưng ăn thua gì, cổ nhân có câu quân tử báo thù mười năm chưa muộn, huống chi đây mới chỉ vài ngày. Rồi sẽ có ngày nó tìm ra điểm yếu của anh chàng này để lấy đó hành hạ lại anh ta cho bõ những gì Diệu Đức đã gây ra cho nó suốt mấy ngày nay.

Chuyến này đi Quy Nhơn, Anh Tú tưởng ít ra có thể có thời gian rảnh để dò tìm tin tức của Linh Lan, nào ngờ chưa kịp làm gì thì nó đã bị Ngọc Vũ lôi đến Tử Phụng cung. Tử Phụng cung, mỗi khi nhắc đến cái cung này là Anh Tú lại mơ màng. Quy mô của Tử Phụng cung khá lớn, nhìn từ xa, mái ngói lưu ly của Tử Phụng cung đã lấp lánh trong ánh nắng, nổi bật hơn hẳn những ngôi nhà mái rơm ẩm thấp xung quanh. Không biết vị cung chủ này là ai, bản lĩnh đến đâu mà trong cung toàn là con gái, cô nào cô nấy “da trắng dáng xinh”, khiến Anh Tú tưởng như mình đang xem chương trình hoa hậu thế giới được tổ chức mỗi năm.

Đón tiếp các vị khách từ phương xa đến, nét mặt của các cô gái đều hiện rõ vẻ ngạc nhiên khi Ngọc Vũ giới thiệu cô là muội muội của Đạo Hoa vương. Không ai nói với nhau lời nào, họ lẳng lặng nhìn Ngọc Vũ từ đầu đến chân, rồi cười bảo rằng rất tiếc cung chủ tử hiện giờ không ở đây mà đang ở Gia Định để tổ chức hôn lễ bên nhà vợ. Khi nghe tin tức ấy từ người của Tử Phụng cung, Ngọc Vũ đã rất ngạc nhiên. Nhưng vì nôn nóng muốn gặp Hoàng huynh, cộng thêm sợ bỏ lỡ ngày vui của huynh ấy nên cô gặn hỏi rõ ràng thêm một lần nữa rồi quay trở về quán trọ, sửa soạn đến Gia Định mà không cho Anh Tú kịp phản bác lại lời nào.

Nghe Ngọc Vũ bảo không ở Quy Nhơn nữa mà cả hai sẽ đến Gia Định, Anh Tú cực lực phản đối. Cuối cùng, khi Ngọc Vũ ra hạ sách sau khi đi Gia Định xong cô sẽ cử Diệu Đức đi tìm tung tích của Linh Lan, còn không thì cả ba sẽ trở về Thăng Long rồi cô sẽ đi Gia Định một mình thì Anh Tú mới thôi phản đối. Ngẫm ra chuyến này đi ra ngoài âu cũng là dịp khám phá những miền đất xưa, và cũng có thể Linh Lan từ Phú Yên đã trôi giạt đến Gia Định không biết chừng, thế nên Anh Tú mới gật đầu đồng ý sau phút cân nhắc kỹ càng.

Để đến được Gia Định, trở ngại đầu tiên của Ngọc Vũ chính là Diệu Đức. Diệu Đức là cận vệ trung thành của Ngọc Vũ, anh luôn chiều chuộng và làm theo mọi yêu cầu của cô, chính vì yếu tố đó nên anh đã bị Ngọc Vũ bỏ rơi ở Quy Nhơn. Biết chắc chắn Diệu Đức sẽ không cho cô đến Gia Định, sau bao ngày suy nghĩ và sắp xếp, Ngọc Vũ đã bắt Diệu Đức tìm mua được món bánh rán tẩm mật ong ở tiệm Hiên Viên nổi tiếng rồi cô mới về Thăng Long theo ý muốn của anh. Tội nghiệp Diệu Đức, anh không hề hay biết gì về cái bẫy của Ngọc Vũ. Vì sợ cô thất vọng, anh đã quanh đi quẩn lại khắp các nẻo đường ở Quy Nhơn chỉ để tìm cái tiệm Hiên Viên vô hình nào đó mua bánh cho Ngọc Vũ, mà không hề biết cô và Anh Tú đã xuống thuyền đi Gia Định từ khi nào.

Có lẽ đồng ý cùng đến Gia Định tìm Hoàng huynh với Ngọc Vũ là một sai lầm của Anh Tú.

Vừa mới đặt chân đến Gia Định, Anh Tú đã nhận thấy một bầu không khí bất thường. Có lẽ vì nơi đây vừa xảy ra chiến tranh nên nhìn đâu nó cũng chỉ thấy một màu tan tóc, thê lương. Khác hẳn với một Gia Định phồn thịnh mà Anh Tú đã hình dung, Gia Định bây giờ xáo xào tan tác. Những bụi tre bị cháy vàng, hoa màu bị giẫm nát. Những mái nhà tranh lơ thơ, tàn tạ, mấy luống rau sau vườn đều đã héo tựa không ai chăm sóc. Dân chúng ở Gia Định luôn cảnh giác với người lạ, họ sống lầm lũi như một cái bóng. Tiếng cười đùa của trẻ thơ vắng hẳn, bầu không khí quạnh hiu đó khiến Anh Tú lo lắng vì nơi đây có lẽ không lành.

Do Ngọc Vũ và Anh Tú đến Gia Định vào lúc tình hình bất ổn, nên Ngọc Vũ phải trả cho nhà trọ một số tiền gấp đôi mới có chỗ dừng chân. Thông qua lời chủ trọ nói, Anh Tú cũng đã nắm sơ qua tình hình Gia Định hiện giờ. Gia Định hiện đang có chiến tranh. Hơn một tháng trước, quân Tây Sơn kéo vào để tấn công vị chúa trẻ tuổi cát cứ tại Gia Định. Kết quả chung cuộc ra sao thì chưa dám nói, nhưng hiện tại thì quân Tây Sơn đang thắng thế, họ đang trú lại Gia Định và chỉnh đốn lại quân đội, thành trì.

Tình hình Gia Định loạn lạc, giặc giã khắp nơi nổi lên như ong, chúng tổ chức thành đoàn, ngang nhiên xông thẳng vào nhà dân cướp bóc mà chẳng hề kiêng kỵ gì. Táo bạo hơn trong số chúng, có người còn giả mạo quân Tây Sơn để đi cướp bóc. Người dân sống ở đây chỉ là nông dân bám víu vào mảnh đất quê hương để sống, ai đang nắm phần thắng họ chẳng quan tâm, chỉ mong yên thân mà sống. Bị những tên cướp giả danh kẻ thắng thế vào cướp bóc, họ không dám phản kháng, chỉ biết đứng trơ mắt nhìn những bao thóc gạo rơi vào tay lũ xâm lược mà chẳng dám kêu ca.

May thay, nạn giả danh Tây Sơn cướp bóc chỉ kéo dài được ba ngày vì lời nhân dân than oán đã đến được tai vị tướng quân Long Nhương. Ông ta đích thân lĩnh quân đi dẹp loạn, đồng thời ra điều lệnh nghiêm ngặt trong quân đội và toàn dân biết rằng bất cứ ai dám động đến của cải của nhân dân đều chém không tha. Những tên cướp giả danh Tây Sơn hết đất dụng võ liền bị dẹp, nhân dân tạm yên ổn sinh sống, làm ăn như trước. Dù thế nhưng họ vẫn lo âu phập phồng, thấy người lạ nào đến thì vô cùng cảnh giác, thế cho nên Ngọc Vũ và Anh Tú bị nghi ngờ cũng là lẽ tự nhiên.

Nghe những lời người chủ trọ kể, Anh Tú bắt đầu lo lắng. Nó lo mình sẽ bỏ mạng vô cớ tại nơi này. Tuy quân Tây Sơn đã dẹp nạn cướp bóc, nhưng đám cướp này chẳng khác nào nấm mọc sau mưa, Gia Định lại rộng lớn, đám này bị dẹp thì đám khác sẽ mọc lên. Chúng xuất hiện lẻ tẻ, nay nơi này mai nơi khác, khó mà ra tay tóm gọn ổ. Nó và Ngọc Vũ ở lại đây sẽ rất nguy hiểm, lo cho bản thân còn khó chứ đừng nói phải chăm sóc cho cô công chúa kia. Có Diệu Đức thì còn có chút an lòng nhưng đáng tiếc là anh chàng võ công đầy mình này đã bị Ngọc Vũ cho rớt lại ở Quy Nhơn do can tội phản đối cô lên đường đến Gia Định. Nghĩ cũng buồn cười, Gia Định đang xáo xào thế này, thân còn không giữ được, ai mà đến đây để lấy vợ theo lời mấy nàng trong Tử Phụng cung nói chứ. Đến thằng ngốc cũng chẳng tin chứ nói chi đến người đang tỉnh táo là nó.

- Ngọc Vũ! Tôi nghĩ chúng ta nên quay về là hơn. Gia Định đang xảy ra chiến tranh, tôi nghĩ anh cô không đến đây để tổ chức hôn lễ đâu.

Lời Anh Tú nói khiến Ngọc Vũ do dự. Đến Gia Định đã ba hôm, ngày nào cũng nghe ngóng tình hình, nhưng cô tuyệt đối vẫn không nhận được một chút tin tức gì của Hoàng huynh cô. Nghĩ cũng thật lạ, nếu như những thiếu nữ trong Tử Phụng cung bảo rằng Hoàng huynh cô đang ở đây thì thiết nghĩ họ cũng phải thông báo với huynh ấy một tiếng về chuyện cô sắp đến chứ. Thế nhưng tại sao cô đã đến Gia Định ba ngày mà huynh ấy vẫn không xuất hiện, cũng không thấy ai biết gì về một đám cưới rình rang của cung chủ Tử Phụng. Chẳng lẽ cô đã bị gạt? Chẳng lẽ huynh ấy thật sự không có ở đây như lời Anh Tú nói? Ngọc Vũ lo lắng, cô lắc đầu cố xua tan suy nghĩ đó. Nhìn Anh Tú với đôi mắt đanh lại, cô kiên quyết.

- Những người ấy chắc chắn sẽ không nói dối ta, Hoàng huynh ta chắc chắn ở đây.
Thấy Ngọc Vũ bướng bỉnh, Anh Tú bực bội.

- Nếu anh cô ở đây thì tại sao chúng ta đã đến ba ngày rồi mà vẫn không thấy ai hết, trong vùng cũng chẳng nghe thấy cái đám cưới nào. Gia Định đang giặc cướp hoành hoành, ai lại dám lấy vợ, chỉ sợ vợ chưa lấy được thì đã bị giặc xông vào cướp rồi.

- Hoàng huynh ta không vô dụng như ngươi!

Ngọc Vũ quắc mắt sửa lưng làm Anh Tú khựng người lại. Trong hoàn cảnh dầu sôi lửa bỏng, Anh Tú biết đây không phải là lúc tranh cãi hay cáu giận. Nó từ tốn, cố thuyết phục Ngọc Vũ quay về Thăng Long, hay ít nhất cũng là rời xa nơi này.

- Ngọc Vũ, cô nghe tôi nói. Tôi biết cô rất thương Hoàng huynh cô, nhưng cô cũng nên suy nghĩ thấu đáo một chút có được không. Như tôi đã nói khi nãy, thời buổi loạn lạc, chẳng ai xuống Gia Định để tổ chức hôn lễ, đó là cái thứ nhất. Cái thứ hai, không loại trừ khả năng những người ấy đã nói dối cô.

- Họ nói dối ta? Tại sao?

- Cô cứ thử nghĩ đi, cô thì biết anh cô, anh cô thì biết cô, nhưng còn mấy người đó thì sao, họ đâu biết cô, lấy gì chứng minh cô là em gái của cung chủ. Ai biết cô có ý đồ gì, có định gây khó dễ cho cung chủ của họ hay không. Theo lời cô nói, anh cô rất đào hoa, còn được mệnh danh là Đạo Hoa vương, nhỡ đâu cô là một trong số những cô gái theo đuổi, say mê hay mang thù hận gì đó với Đạo Hoa vương, muốn gặp người ta để vòi vĩnh, bám đuôi hay trả thù gì đó thì sao. Cho nên, tôi nghĩ nếu họ nói dối cô cũng là điều dễ hiểu thôi, bớt được một rắc rối bao giờ chẳng hay hơn, đuổi đi càng xa càng tốt cơ mà.

- Nhưng…

- Công chúa của tôi ơi, nhưng nhị gì nữa. Chúng ta phải mau chóng rời khỏi đây thôi, còn ở lại, lỡ như đụng độ bọn cướp thì không hay đâu. Tôi thì không nói, cùng lắm là một dao nhắm mắt, nhưng còn cô xinh đẹp như thế, chắc không muốn làm áp trại phu nhân chứ hả.

Nghe Anh Tú nói đến áp trại phu nhân, Ngọc Vũ tái mặt. Cô thừ người ra, đôi mày liễu cau lại chứng tỏ đang động tâm. Nghĩ đến chuyện không gặp được Hoàng huynh, Ngọc Vũ rất buồn. Khó khăn lắm cô mới trốn ra khỏi Hoàng cung, khi trở về chắc chắn sẽ đối diện với cơn thịnh nộ của phụ hoàng, nhưng điều đó không làm cô bận tâm bằng việc mong ngóng gặp được Hoàng huynh. Nào ngờ, Hoàng huynh không gặp được, lại còn bị người ta lừa đến chốn Gia Định binh đao này. Diệu Đức đã bị cô gạt cho ở lại Quy Nhơn, chứ nếu có anh ở đây, thì bọn cướp này sẽ chỉ là chuyện vặt vãnh. Nếu chạm trán phải bọn giặc cướp thô lỗ ấy, cô chẳng thà cắn lưỡi tự tử còn hơn để cho bàn tay nhơ bẩn của chúng chạm vào người.

- Thôi được! Chúng ta quay về Thăng Long.

Trái ngược với vẻ mặt xịu xuống của Ngọc Vũ, Anh Tú lại vô cùng mừng rỡ khi thuyết phục được Ngọc Vũ ngoan ngoãn làm theo ‎ý nó. Không chần chừ thêm giây phút nào nữa, nó hăm hở gói ghém đồ đạc, khiến Ngọc Vũ ngạc nhiên.

- Ngươi làm gì vậy?

- Thấy rồi còn hỏi, dĩ nhiên là thu dọn hành lý để lên đường rồi, chẳng lẽ cô còn muốn ở đây nữa sao?

- Nhưng mà…. Đợi chiều mai hẵn đi không được sao?

- Không được! Rời khỏi đây sớm chừng nào hay chừng đó. Chúng ta làm sao biết chuyện gì sẽ xảy ra.

Ngọc Vũ im lặng thôi không hỏi nữa. Cô ngồi ôm chân, cằm tựa vào gối nhìn Anh Tú sắp xếp đồ đạc ngay ngắn. Nhìn những sợi tóc lòa xòa trước trán Anh Tú, ánh nến lung linh hắt lên khuôn mặt nó, tạo thành những vệt tối bí ẩn, chập chờn, Ngọc Vũ ngập ngừng.

- Tiểu Anh tử…

- Tôi tên là Anh Tú. Tôi đã nói cô ra ngoài đừng gọi tôi như thế, nhỡ đâu người ta biết chúng ta là người trong Hoàng cung thì sao?!

Ngọc Vũ ngập ngừng, rõ ràng cô chưa quen với việc gọi tên Anh Tú. Trước nay đối với những tiểu hoàng môn khác, Ngọc Vũ chưa bao giờ để ý đến, thế nhưng chỉ có con người này là làm cô phải bận tâm nhiều nhất. Bản tính hắn ta khá lạ, khi mềm, khi rắn, đặc biệt luôn thẳng thừng với cô mỗi khi không hài lòng chuyện gì. Từ bé, Ngọc Vũ sống trong cung đã quen được phụ hoàng yêu chiều, được mọi người răm rắp nghe theo lời sai bảo của cô, duy chỉ có tên tiểu hoàng môn này lại là người đầu tiên phản kháng cô, thậm chí chỉ trích cô không tiếc lời trước mặt bao nhiêu người. Đơn cử chuyện hắn ta đã mắng cô là “đồ vô dụng”, lẽ ra hắn đã bị chém bay đầu vì tội xúc phạm đến công chúa, nhưng tại sao cô lại không cho chém mà chỉ cho đánh mười hèo để cảnh cáo, sau đó lại còn mang thuốc cho hắn ta. Cô đã có lòng thương mang thuốc cho hắn, thế mà hắn lại từ chối, không thèm sử dụng, khiến cô ngẩn ngơ nhiều hơn là tức giận vì chẳng hiểu tại sao.

Nhớ lại còn chuyện hôm đó, đến bây giờ Ngọc Vũ vẫn tự hỏi, tại sao cô lại có thể thổ lộ những suy nghĩ của cô cho một người xa lạ như hắn ta biết, tại sao cô không đánh hắn khi hắn ta ôm hôn cô. Nhớ đến nụ hôn, Ngọc Vũ bất giác sờ tay lên trán, cô cắn nhẹ môi vì không hiểu từ lúc nào mình lại trở nên mâu thuẫn đến thế. Một mặt cô muốn trừng trị tên tiểu hoàng môn này vì những gì hắn đã xúc phạm đến cô, không vâng lời cô, làm lòng tự trọng của cô bị tổn thương. Nhưng mặt khác cô lại muốn hắn ở bên cạnh cô, muốn hắn thẳng thắn với cô như thế, để cô cảm nhận rằng, ít ra trong Hoàng cung còn có một người luôn luôn thật lòng với cô.

Lần này cũng thế, ra khỏi Hoàng cung cô cũng đưa hắn theo, trong khi có Diệu Đức bên cạnh là cô đã an toàn. Tên tiểu hoàng môn này ngoài khuôn mặt đẹp, vóc dáng cao ráo ra, còn lại chẳng thể làm gì được. Hắn ta không giỏi võ như Diệu Đức để bảo vệ cô, vậy lẽ ra người cô bỏ rơi lại ở Quy Nhơn phải là hắn ta mới đúng, chứ sao lại là Diệu Đức - cận vệ trung thành của cô suốt bốn năm qua.

Ngọc Vũ tựa lưng vào tường. Tuy miệng Ngọc Vũ luôn nói tên tiểu hoàng môn này vô dụng, nhưng suốt cuộc hành trình vừa qua, thực tế lại khắc hẳn. Khi cả hai lên đường đến Gia Định, tên tiểu hoàng môn này đã cho cô dựa vào vai khi mệt mỏi trên một chiếc thuyền đông đúc. Vì thuyền đông nên sự đụng chạm tất là điều dễ hiểu, nhưng hắn đã ngồi chắn trước cô, cho cô nép sau lưng hắn để tránh khỏi đụng chạm. Vì lần đầu tiên đi thuyền, lại thêm biển động, cô đã say sóng đến mệt lả người, may nhờ có hắn bên cạnh, chăm sóc và pha trà gừng cho cô uống nên mới chóng lại sức. Ăn ở, chi tiêu, thuê phòng thế nào đều một tay hắn lo liệu, nếu không có hắn, quả thật cô cũng không thể bình an đến Gia Định. Nếu không có hắn thì…

- Được rồi! Tôi đã trải chiếu xong, chúng ta đi ngủ sớm để sáng mai lấy sức lên đường. Trở về Hoàng cung cô phải học trải chiếu đi, mấy chuyện này cô phải tự làm, sau này không có người hầu hạ bên cạnh thì còn biết tự chăm sóc bản thân. Vận đổi sao dời, ai biết chuyên tương lai thế nào.

Anh Tú phủi tay vào nhau. Nó đặt gói hành lý xuống và nằm gối đầu lên. Sáng mai nó và Ngọc Vũ phải đi sớm, hy vọng tất cả sẽ thuận buồm xuôi gió. Vì để tiết kiệm lộ phí, dành dụm phòng khi có việc cần đến, nó và Ngọc Vũ thuê chung một phòng. Ngẫm lại thì cũng chẳng có gì quá đáng, đối với Ngọc Vũ, nó là tiểu hoàng môn, còn đối với nó, Ngọc Vũ chỉ là một cô em gái nhỏ, xếp sau Linh Lan, có thế mà thôi.

- Anh…Tú…

Nằm quay mặt vào tấm bình phong, Anh Tú lim dim chuẩn bị ngủ nhưng phút cuối lại bị đánh thức bởi giọng nói quen thuộc của Ngọc Vũ. Nó ngáp dài, hỏi lại mà vẫn quay lưng về phía cô.

- Sao?

- Nếu như ta không có người hầu kẻ hạ bên cạnh, thì ngươi có…ở bên cạnh ta không?
Anh Tú nhíu mày, nó xoay mặt lại. Ngọc Vũ đang nằm trên chiếc giường đối diện nó, nhưng vì cô nằm khuất trong bóng tối nên nó không thể thấy được gì ngoại trừ đôi mắt lấp lánh như ánh sao đêm. Giọng nói cô ngập ngừng, tựa như không chắc lắm về điều vừa mới nói. Từ lúc quen Ngọc Vũ cho đến nay, cô luôn là một nàng công chúa kiêu kỳ trong mắt Anh Tú, nay thấy cô bỗng chốc trở nên khác thường thế, thật không giống Ngọc Vũ nó đã quen chút nào.

- Cô sao thế? Cô là công chúa thì thiếu gì kẻ hầu người hạ, đâu cần phải có tôi.

- Trả lời đi.

Giọng Ngọc Vũ hơi đanh lại, khiến Anh Tú cau mày. “Lại giở giọng ra lệnh rồi đấy”

- Tôi không thể ở bên cô được. Tôi không thuộc về nơi này, mà nếu có thuộc về thì tôi cũng sẽ không ở trong Hoàng cung. Tôi muốn ở bên cạnh em gái tôi, bảo vệ nó, chăm sóc nó, hưởng một cuộc sống tự do tự tại, chứ không phải sống trong cảnh cá chậu chim lồng, trên quỳ dưới cuối, để cho người khác sai vặt.

Anh Tú nói xong, nó cứ đinh ninh Ngọc Vũ sẽ phản ứng lại, nhưng đáp lại lời nó chỉ là một sự im lặng kéo dài. Không nghe Ngọc Vũ trả lời, Anh Tú nhìn sang thì thấy cô đã nằm im từ bao giờ. “Có lẽ con bé đã ngủ”, Anh Tú nghĩ thầm rôi cũng quay lưng vào bình phong, mắt nhắm lại và nhanh chóng rơi vào giấc ngủ mộng mị, chập chờn suốt đêm…

oOo

Ánh nắng xuyên qua kẽ lá, tiếng chim hót chào ngày mới. Hôm nay bầu trời Gia Định trong xanh không một áng mây, cái nắng oi nồng và những cơn mưa bất chợt như lùi vào dĩ vãng, nhường chỗ lại cho những cơn gió lao xao mát lành.

Chính vì tiết trời trong lành như thế nên sáng nay, tâm trạng của Anh Tú cũng vui vẻ phần nào. Hôm qua nó không ngủ được vì phòng trọ quá nhiều muỗi, chợp mắt mơ màng được một lát đã gãi liên miên do bị muỗi bu vào đốt. Gia Định thật lắm muỗi, chả bù cho Hoàng cung Thăng Long, một đêm cứ thế ngon giấc, chả có muỗi mòng gì.

Đất Gia Định là đất Sài Gòn nay. Có dịp quay trở về quá khứ để nhìn thấy Gia Định thưở tiền nhân khai phá cũng lắm cái hay ho. Gia Định xưa sông rạch chằng chịt, dân chúng trong vùng chủ yếu giao lưu bằng đường sông. Bến nhỏ không lập thành chợ thì gọi là bến lạ, còn bến đổi là nơi hẹn để đổi nước ngọt. Nhà thì không rào, làng không lũy tre, khí hậu vẫn chỉ có hai mùa mưa nắng. Mùa khô oi nồng hơn ở Bắc Hà. Do sống ở Bắc Hà đã quen, bây giờ ở Gia Định ba ngày, Anh Tú chẳng khác gì bị sốc nhiệt do thời tiết thay đổi đột ngột. Cũng may cả nó và Ngọc Vũ không ai đổ bệnh, chỉ có Ngọc Vũ thỉnh thoảng nhức đầu, say nắng, cảm mạo vặt, nghỉ ngơi là khỏi, chứ cô mà đổ bệnh nặng thì e phiền phức to.

Chuyến đi này không gặp được Linh Lan, Anh Tú tràn trề thất vọng. Bây giờ nó phải quay trở về Hoàng cung, sau này sẽ rất khó khăn nếu muốn ra ngoài. Không tìm được em gái, Anh Tú dường như không còn cảm thấy niềm vui. Những háo hức được khám phá miền đất mới trong nó biến mất, thay vào đó là sự chán chường, lo lắng triền miên.
Trời về chiều, bến thuyền Bổng Nguyệt hiện ra thấp thoáng đằng xa. Dù không tấp nập như thường ngày nhưng cũng vẫn khá đông người. Có lẽ vì cái ăn trước mắt nên mọi người tạm quên đi những lo lắng về tình hình nhiễu nhương hiện thời, tiếp tục cuộc sống thường ngày. Nhìn thấy tấm phướn căng hai chữ Bổng Nguyệt treo trên một ngọn cây cao, lòng Anh Tú dần trút bỏ tảng đá đè nặng trong lòng. Trên đường đi nó và Ngọc Vũ đã thấp thỏm không yên, nhưng cuối cùng cả hai đã đến bến Bổng Nguyệt an toàn mà không gặp đám cướp nào, âu cũng là do trời phật độ trì.

Anh Tú vừa mới nghĩ đến đó, nó không biết rằng một lần nữa nó đã phạm sai lầm.
Từ đằng xa, một đoàn người ngựa nai nịt gọn gàng thong dong tiến tới. Tuy không biết đó là phe nào, nhưng cẩn tắc thì vô ưu, Anh Tú vội kéo tay Ngọc Vũ đứng nép vào ven đường. Bất chấp sự khó chịu của Ngọc Vũ, Anh Tú ấn đầu cô xuống. Nó biết rằng Ngọc Vũ rất xinh đẹp, tuy đã cải trang thành dân thường, nhưng khí chất sao sang quyền quý và vẻ đẹp của cô chắc chắn không thể lọt qua được bất cứ ánh nhìn sắc bén nào. Nếu bọn họ là quân lính đi tuần thì sẽ không tránh khỏi việc hạch hỏi thân phận, thêm nhiều phiền toái trong khi nó và Ngọc Vũ cần sớm lên thuyền rời khỏi đây. Còn nếu đoàn người ngựa ấy chả phải tốt đẹp gì, để chúng nhìn thấy cô, biết đâu lòng ham muốn chiếm đoạt của chúng sẽ trỗi dậy và bắt lấy Ngọc Vũ. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu công chúa lá ngọc cành vàng của Bắc Hà rơi vào tay thổ phỉ, không cần nói cũng biết Anh Tú cũng khó mà giữ mạng mình, cho dù có là có thoát khỏi bọn cướp này đi chăng nữa.

Anh Tú nín thở nghe tiếng vó ngựa mỗi lúc một tới gần, nó và Ngọc Vũ cứ lầm lũi đi như hai bóng ma, lòng thầm mong sẽ không gặp bất cứ cản trở nào. Trước sự lo lắng của nó, đoàn người thản nhiên thúc ngựa chạy qua mà không thèm để ý gì tới hai người nông dân đang nép bên vệ đường. Đợi cho đoàn người đi khuất, Anh Tú có liếc mắt trông thấy một tên. Nó chau mày lại khi gương mặt của người mà nó trông thấy tuyệt không phải hạng tốt lành. Gã ta mặc áo xanh, râu ria xồm xoàm, hai mắt nhỏ trũng sâu, mũi như diều hâu và đôi má hóp vào. Gạt bỏ những dự cảm không lành, Anh Tú nắm tay Ngọc Vũ bước nhanh đến bến đò Bổng Nguyệt. Chỉ còn mấy sải tay nữa thôi là sẽ đến bến thuyền, chỉ còn mấy sải tay nữa thôi là cả hai sẽ trở về Thăng Long, chỉ còn…

- Hai người kia! Đứng lại đó cho ta.

Đang cắm cúi đếm khoảng cách, Anh Tú giật thót khi một tiếng quát găng gắt vang lên xé tan không khí. Anh Tú liếm môi than thầm. Chỉ còn chút nữa thôi là sẽ thoát khỏi Gia Định, ấy thế mà phút cuối lại đào thoát chẳng thành, hôm nay nó đã bước ra đường bằng chân nào mà xui dữ vậy trời.

- Ta nói các ngươi đứng lại, sao không nghe hả?

Tiếng quát lại vang lên, lần này lại có thêm tiếng vó ngựa. Biết đứng lại thì khó bề yên thân, Anh Tú bèn nắm lấy tay Ngọc Vũ bỏ chạy. Phía sau lập tức vang lên tiếng quát giận dữ, đoàn người đã quay ngoắt trở lại và nhanh chóng đuổi theo nó. Nắm chặt tay Ngọc Vũ, Anh Tú chạy như bay, nhưng Ngọc Vũ vì là công chúa, trước nay lại chưa bao giờ phải trốn chạy một ai, lại thêm thấm mệt vì đi bộ một quãng đường dài nên không thể chạy nhanh như Anh Tú. Anh Tú phải kéo theo Ngọc Vũ, lại chẳng thể bỏ cô lại nên bắt buộc phải chạy chậm theo cô. Bình thường, chạy nhanh muốn thoát cũng khó, huống chi bây giờ Anh Tú lại đèo bòng thêm một người, chẳng mấy chốc cả hai đã bị đoàn người đuổi kịp. Trong tích tắc, đoàn người ngựa đã quây nó và Ngọc Vũ, những khuôn mặt nham hiểm lộ vẻ đắc thắng khi dồn hai người vào đường cùng. Trong tình thế bức bách, Anh Tú và Ngọc Vũ không còn đường chạy. Hai người đã bị bao vây.

Đứng án ngữ trước mặt Ngọc Vũ, che chắn cho cô khỏi những cái nhìn khả ố của đám người hung tợn, Anh Tú hít vào một hơi thật sâu để lấy bình tĩnh. Nó quét mắt nhìn lên khuôn mặt của từng người, rồi lấy giọng nhu hòa.

- Thưa các quan lớn. Anh em chúng tôi đang vội, phải về Quy Nhơn gấp để kịp nhìn mặt cha đang bệnh nặng lần cuối, nếu trễ một giây một phút nào thì chúng tôi sẽ mang tội bất hiếu suốt đời. Mong các ngài hãy thương tình mà nhường đường cho anh em chúng tôi.
Anh Tú cất giọng, nó thận trọng chọn lựa từ ngữ sao cho hợp lòng đoàn người chặn đường. Một gã cưỡi ngựa mặc áo xanh, là người Anh Tú nhìn thấy ban nãy, tách vòng vây tiến lên phía trước. Hắn ta vân vê cằm, mắt nhìn hau háu vào người Ngọc Vũ, khiến cô lo lắng nép sau lưng Anh Tú vì cái nhìn khiếm nhã của hắn ta.

- Ta không muốn ngăn trở hai anh em ngươi làm người con có hiếu. Ngươi có thể đi… Nhưng còn em gái ngươi thì không.

Những lời của gã áo xanh vừa thoát khỏi miệng, Ngọc Vũ đã quắc mắt nhìn hắn. Ánh mắt cô long lanh sắc giận vì giọng điệu cợt nhả của gã áo xanh. Cô dấn lên một bước, tay rút thanh đoản kiếm bọc trong tay nải ra, quyết một phen sống mái nếu tên nào cả gan chạm vào người cô. Đúng như lo lắng của Anh Tú, nhìn rõ dung mạo của Ngọc Vũ, gã mặc áo xanh ngồi trên ngựa ngây ra, rồi sau đó chuyển sang cái nhìn thèm muốn, khát khao chiếm đoạt được người con gái xinh đẹp, uyển chuyển đang ở trước mặt mình.

Tình hình ngày càng nguy ngập. Anh Tú biết Ngọc Vũ có thể hạ một tên, hai tên chứ quyết không thể đấu lại nổi mười mấy tên cướp, nhưng với cá tính của cô, nó biết chắc chắn cô thà tự sát còn hơn để những bàn tay nhơ bẩn ấy chạm vào người. Đảo mắt xung quanh, Anh Tú thất vọng khi những người dân đi đường lảng ra thật xa hoặc vội vã đi qua, chứ không ai có ý định dây vào đám người này làm gì. Xem ra cái câu “giữa đường thấy chuyện bất bình chẳng tha” chỉ áp dụng được cho những người nào giỏi võ, còn không thì sống chết mặc bay. Anh Tú thu tay lại thành nắm đấm, nó không thể dễ dàng bỏ mạng lại nơi này, cũng như không thể để Ngọc Vũ lọt vào tay của đám cướp ấy, bằng mọi giá nó phải nghĩ ra một cách, bằng mọi giá…

- Các vị, trước khi các vị mang em gái tôi đi, xin cho tôi hỏi một câu được không?

- Ngươi muốn hỏi gì?

Nghe Anh Tú lên tiếng, gã áo xanh hỏi lại nhưng vẫn không rời mắt khỏi Ngọc Vũ. Cô chĩa kiếm vào đoàn người trước mặt, bờ môi anh đào mím lại cương quyết, ánh mắt lấp lánh sát khí. Dáng bộ cầm kiếm như sẵn sàng kết liễu ai dám động đến mình, vừa kiêu ngạo vừa oai vệ của Ngọc Vũ khiến gã thấy hứng thú. Từ nhỏ đến lớn, gã đã gặp qua rất nhiều cô gái, từ tiểu thư, dân thường cho đến kỹ nữ, nhưng chưa bao giờ trông thấy một cô gái vừa xinh đẹp vừa khí phách ngần này. Nhất định lần này gã phải sở hữu được cô gái, nhất quyết không phải nhường lại cho tên đại ca vẫn thường hay lấy hết mọi của ngon vật là của gã, mà chẳng để lại cho gã bất cứ thứ gì.

- Ngài có thấy em gái tôi xứng đáng làm vợ của ngài không?

- Xứng! Tất nhiên là xứng!

Anh Tú ướm hỏi gã áo xanh. Nó nhếch môi khi gã trả lời vồn vã. Phớt lờ ánh mắt nửa ngạc nhiên, nửa tức giận của Ngọc Vũ, Anh Tú vẫn bình thản tiếp lời.

- Thật chẳng dám giấu gì các ngài, tôi là anh trai của nó. Bấy lâu nay tôi vẫn luôn muốn em gái tôi có một tấm chồng xứng đáng, nay nó được ngài để ý quả là may mắn của em gái tôi. Tôi vốn định mang em gái tôi về quê để nhìn mặt cha lần cuối, nhưng giữa đường gặp ngài đây, âu cũng là do duyên phận. Dẫu sao, khi em gái tôi trở thành vợ của ngài thì chúng ta sẽ trở thành người một nhà, tôi cũng cần phải biết danh tính, chức tước của ngài để về bẩm báo lại cho song thân, để họ có xuống suối vàng cũng yên lòng vì em gái tôi đã có chốn nương thân. Ngài thấy tôi nói có đúng không?

Anh Tú càng nói, Ngọc Vũ càng giận. Cô quay ngoắt người lại, tay vung đoản kiếm lên và chém về phía Anh Tú. Vội hụp đầu xuống để né tránh đường kiếm ấy, Anh Tú mở miệng tính mắng, nhưng đến khi nhìn thấy đôi mắt long lanh, ươn ướt pha lẫn giận dữ, thất vọng của Ngọc Vũ, Anh Tú nhíu mày, những lời trách mắng đang ở đầu môi liền kềm lại. Nó nhìn thẳng vào mắt Ngọc Vũ, ánh nhìn kiên quyết đầy ẩn ý, lòng thầm mong cô sẽ hiểu và ngoan ngoãn phối hợp cùng nó.

Những gì Anh Tú vừa nói ra đã làm gã áo xanh thích thú. Gã nói, trong những tiếng reo hò của lũ đồng bọn kế bên mà không chú ý nhiều đến biểu hiện của nó và Ngọc Vũ lúc này.

- Được! Xét lời ngươi nói cũng có lý, ta lấy em gái ngươi làm vợ thì xem như chúng ta là người một nhà. Ta là Lê Anh, phó tướng của quân Đông Sơn.

-----------------------------
Chú thích:

Đông Sơn quân là đạo quân của Đỗ Thanh Nhân [ hay Đỗ Thành Nhơn ]
Đỗ Thanh Nhân trước kia là tướng của Nguyễn Ánh, nhưng do nhiều lý do về chuyện quyền lực, Ánh cho giết ông ấy. Đông Sơn quân của ông ấy không phục, trở mặt với Nguyển Ánh, rút lui về một cõi, do hai vị phó tướng là Võ Nhàn và Đỗ Bảng chỉ huy, chống Tây Sơn lẫn chúa Nguyễn
Ánh thu phục ko dc hai ng' này nên đã dùng kế, cho ng' trà trộn vào bắt và giết, kể từ đó, quân Đông Sơn bị phân tán
Vậy cho nên Đông Sơn quân là có thật, ko phãi hư cấu. Còn Lê Anh thì là của chúng tôi, Tình hình trong Sương đang là bối cảnh Đông Sơn quân sau khi Võ Nhàn và Đỗ Bảng mất, họ bị phân tán, chỉ còn một số ở lại, không còn là đạo binh lớn mạnh như xưa mà chỉ là 1... đại loại như cướp thôi. Tuy vậy, mối thù với chúa Nguyễn thì họ vẫn còn giữ, và họ nhất định sẽ trả thù. Trả thù như thế nào, liên quan gì đến Tây Sơn thì dần dần sẽ dc giải đáp



★ Chương 94
 
Khi nghe gã mặc áo xanh tự xưng là Lê Anh - phó tướng quân Đông Sơn, Anh Tú đã rất đỗi ngạc nhiên. Đông Sơn là quân nào, sao nghe giống Tây Sơn quá, Anh Tú nhủ thầm. Nếu biết trước có ngày nó sẽ quay trở về thời Lê Trung Hưng, thì ở hiện đại nó đã chăm chỉ học lịch sử, tuy không biết tường tận chi tiết, nhưng chí ít cũng nắm sơ qua tình hình, chứ không đến nỗi phải chôn chân ở đây đoán già đoán non như thế này.

Có vẻ như thấy Anh Tú đã thuận gả “em gái” cho mình nên Lê Anh không cần vội vàng nữa. Nhìn sắc trời đã dần xẩm tối, Lê Anh sực nhớ đến công việc mà chủ tướng đã giao phó. Tình hình gần đây ở Gia Định, quân Đông Sơn của gã nắm rõ như lòng bàn tay. Chúa Nguyễn đã bị quân Tây Sơn đánh bật khỏi Gia Định, thời cơ báo thù của Đông Sơn quân đã đến. Trước đây, quân Đông Sơn của gã rất hùng mạnh chứ không yếu ớt như bây giờ. Dưới sự lãnh đạo của tướng quân Đỗ Thanh Nhơn, Đông Sơn đã từng tung hoành một cõi, từng làm quân Tây Sơn phải e dè. Quy thuận chúa Nguyễn, những tưởng sẽ được trọng dụng, nào ngờ, chỉ vì những lời dèm pha mà Nguyễn Ánh đã cho giết Đỗ tướng quân. Phẫn uất vì cái chết của chủ tướng, hai phó tướng là Võ Nhàn và Đỗ Bảng nổi lên, thoát ly khỏi quân Nguyễn và chống lại họ để báo thù cho cái chết của chủ tướng. Lẽ ra kế hoạch chống chúa Nguyễn lẫn Tây Sơn sẽ tiến hành dài lâu, nhưng Nguyễn Ánh đã dùng mưu mẹo loại trừ được Võ Nhàn và Đỗ Bảng. Mất đi người đứng đầu lãnh đạo, quân Đông Sơn nhanh chóng phân tán, mỗi người mỗi ngã, lẩn lút khắp nơi do sợ quân Nguyễn truy sát.

Sau lần phân tán ấy, dần dà, Đông Sơn cũng đã tập hợp lại lực lượng, nhưng thanh thế đã không còn được như xưa. Cái chết của ba vị tướng quân vẫn còn lẩn khuất trong lòng họ và họ đã thề sẽ báo thù cho chủ tướng bằng mọi giá. Trước thế lực quá mạnh của quân Nguyễn, Đông Sơn chưa thể trả được thù. Lần trước, khi quân Nguyễn bị Tây Sơn đánh bật ra khỏi Gia Định, lực lượng của họ quá mỏng manh, vẫn còn phân tán khắp nơi do hậu quả của những cuộc càng quét trước đó nên chưa thể tính đến chuyện trả thù. Nay thời cơ đã đến, quân Nguyễn lại một lần nữa bị đánh bật khỏi Gia Định, sĩ số Đông Sơn tuy là chưa thể sánh với năm xưa nhưng cũng đủ để tính món nợ máu với Nguyễn Ánh.

Tuy tôn chỉ trước đây là chống cả Tây Sơn và chúa Nguyễn, nhưng tình hình hiện nay đã thay đổi. Kẻ thù của kẻ thù chính là bạn. Để trả được món nợ với Nguyễn Ánh, việc cấp thiết lúc này của họ là thiết lập mối quan hệ hợp tác với Tây Sơn, mượn thêm binh lực hùng hậu của Tây Sơn để truy lùng và tiêu diệt tận gốc quân Nguyễn. Lê Anh là người đã được chủ tướng Đinh Hồ giao cho nhiệm vụ thỏa hiệp với Tây Sơn. Ngay khi nhận được nhiệm vụ, từ trưa, gã đã nai nịt lên đường, nửa đường lại gặp bọn Anh Tú và Ngọc Vũ cho nên chưa thể hoàn thành nhiệm vụ Đinh Hồ giao.

Biết nấn ná lại thêm phút nào thì nhiệm vụ của gã sẽ không thể hoàn thành, ánh chiều tà cũng gần tắt, thời gian không còn nhiều, gã phải tranh thủ đến được nơi đóng quân của Tây Sơn trước khi trời tối. Anh Tú đã đồng ý gả em gái thì gã không cần phải vội, nhiệm vụ là trên hết, sau về làm lễ động phòng cũng chẳng thiệt thòi gì. Lê Anh xoa cằm nhìn Ngọc Vũ với đôi mắt thèm khát, cô gái xinh như mộng này mà để lọt vào tay người khác thì gã nhất định không cam tâm.

- Bây giờ ta phải tiếp tục đến nơi đóng quân của Tây Sơn, năm người các ngươi hãy đưa hai anh em này về dinh trước đợi ta. Hãy nhớ để cô gái này vào chỗ kín kẽ một chút, không được để chủ tướng nhìn thấy, có biết chưa!!

Lê Anh cẩn thận dặn dò thuộc hạ, gã hài lòng khi chúng dạ ran một tiếng. Đây là những thuộc hạ tâm đắc của gã, chắc chắn sẽ không có chuyện phản bội, và cô gái đẹp này sẽ thuộc về gã. Nghĩ đến đó, Lê Anh không giấu nổi vẻ đắc thắng, gã quét mắt lên người Ngọc Vũ, môi nặn ra nụ cười hung hiểm.

- Tiểu mỹ nhân, đợi ta làm xong nhiệm vụ, ta và nàng sẽ động phòng hoa chúc ngay.

Trước những lời khả ố của Lê Anh, Ngọc Vũ chỉ muốn một kiếm giết chết tên cường đạo này ngay tức khắc. Nhận thấy sắc giận trong mắt Ngọc Vũ, Anh Tú vội nắm tay cô kéo lại, nhường đường cho Lê Anh phóng ngựa đi. Bị Anh Tú ngăn cản, Ngọc Vũ giận lắm, cô phẫn uất nhìn nó, nhưng đáp lại sự tức giận của cô là ánh mắt mềm mỏng của Anh Tú. Ánh mắt vừa mềm mỏng, nhưng không kém phần kiên quyết ấy đã khiến cơn tức giận của Ngọc Vũ tạm thời nén lại. Cô biết ban nãy Tiểu Anh Tử cư xử điềm đạm, cẩn thận khác thường, chắc chắn đó là kế hoãn binh, rồi sau đó sẽ tìm cách thoát thân. Hắn ta chắc chắn không bao giờ bỏ rơi cô. Nghĩ thế, Ngọc Vũ bình tĩnh lại, cô ngoan ngoãn làm theo lời Anh Tú, điều đó khiến Anh Tú hài lòng. Gì chứ cô nàng Ngọc Vũ kiêu ngạo, bướng bỉnh thường ngày nay lại nghe lời nó đến thế, âu cũng là kỳ tích lắm rồi.

Lê Anh vừa phóng ngựa đi, thì năm tên thuộc hạ còn lại cũng thúc giục Anh Tú và Ngọc Vũ nhanh chân đến doanh trại của Đông Sơn. Biết một khi lọt vào ổ địch, muốn thoát ra sẽ khó khăn gấp bội lần, Anh Tú vừa đi vừa tính kế. Nó không thể để Ngọc Vũ bị gã Lê Anh mặt nham mày nhở kia xâm phạm, càng không thể để tính mạng mình gặp nguy hiểm. Bằng mọi giá, trên đường đi, nó và Ngọc Vũ phải thoát khỏi bốn tên thuộc hạ này, chứ nếu không, e là về đến Đông Sơn, số phận của nó và Ngọc Vũ chẳng khác nào cá nằm trong lưới, giãy giụa cách mấy cũng không tài nào thoát ra. Thế nhưng Lê Anh cũng thật gian xảo, tuy Anh Tú đã bằng lòng gả Ngọc Vũ cho gã, nhưng Lê Anh vẫn đề phòng nó trở chứng, bằng cách cử năm tên thuộc hạ to khỏe như bò mộng hộ tống cả hai về trại. Ngọc Vũ tuy có võ, nhưng với sức của cô thì cùng lắm chỉ có thể hạ được hai tên, Anh Tú lại không biết võ. Nghĩ đi nghĩ lại muốn trốn thoát cũng không dễ, tình huống bây giờ thật nan giải.

Trời đã bắt đầu tối, Gia Định càng trở nên hoang vắng. Đi không ngừng nghỉ suốt từ chiều tới giờ cũng đã mệt mỏi, lại thêm không nghĩ sẽ phát sinh chuyện trên đường đi, nên cả bọn không ai mang theo đèn đuốc. Trời tối, cảnh vật bắt đầu mù mờ, tạo cơ hội tốt cho cô gái xinh đẹp và anh trai có thể bỏ trốn, năm tên lính Đông Sơn bắt đầu tìm chốn dừng chân để dễ bề trông chừng. Đêm Gia Định hoang hoải, gió luồn qua vách lá lào xào, xung quanh chỉ toàn cây với cối, suốt mấy dặm không có ánh đèn nào báo hiệu có một quán trọ hay nhà dân để có thể trú chân. Những tưởng sẽ phải ôm bụng đói vất vưởng ngoài trời, năm tên lính sáng mắt khi nhìn thấy một ngôi nhà tranh thấp thoáng sau rặng dừa ở phía trước. Không chậm trễ, năm tên lính giục Anh Tú và Ngọc Vũ đi nhanh về phía ấy. Đến gần nơi, chúng mới phát hiện ra đó là một ngôi nhà tranh dột nát đã bị bỏ hoang. Không giấu nổi thất vọng, năm tên lính đành miễn cưỡng tiền vào vì trời đã tối hẳn.

Theo sau năm tên lính, Anh Tú đảo mắt một vòng ngôi nhà để tìm cách thoát thân. Ngôi nhà tranh này mái đã bị vạt xuống một nửa, để lộ ra bầu trời đêm đen như mực, không ánh sao khuya. Bốn bức vách đã bị hư hại đáng kể, tấm liếp che phe phẩy, cọt kẹt theo cơn gió. Đứng giữa một ngôi nhà hoang không ánh lửa, không thức ăn nước uống, năm tên lính lộ vẻ chán chường, chúng bắt đầu sục dạo khắp ngôi nhà để tìm thứ gì bỏ vào bụng. Lần ra phía sau, năm tên lính phấn chấn ra mặt khi trông thấy khu vườn khoai xơ xác không ai chăm sóc. Đứng lấp ló phía sau hai tên lính Đông Sơn khi bị chúng kềm kẹp, đầu Anh Tú lóe lên một tia sáng vì những cây khoai mì đang rung rinh trong đôi mắt nheo lại của nó. Khoai mì, củ khoai mì, cứu tinh của nó chính là đây.

- Ồ! Tôi cứ tưởng hôm nay không có gì bỏ vào bụng, ai ngờ trời phật thương tình còn cho chúng ta tìm thấy vườn khoai mì này. Tôi sẽ luộc khoai lên làm bữa tối cho chúng ta, các anh thấy thế nào. Có còn hơn không chứ hả.

- Được, ngươi mau luộc khoai cho chúng ta ăn, bổn đại gia chúng ta đói lắm rồi.

Nghe Anh Tú muốn luộc khoai, năm tên lính gật đầu tán thưởng. Để ba tên lính lại giám sát Ngọc Vũ, cả bọn cùng Anh Tú túa ra sau vườn, nhổ bật những cây khoai mì lên để lấy củ. Cũng may đây là ngôi nhà hoang, nhưng còn lại khoai mì trồng ở phía sau vườn, củ nào củ nấy vừa to vừa dài, khiến cho hai tên lính phấn chấn vì sắp được xơi bữa khoai no nê. Sau khi đã thu hoạch một bọc khoai mì, đủ no căng bữa tối, Anh Tú đi vào trong nhà để bắt đầu chế biến khoai mì dưới năm đôi mắt giám sát của bọn lính Đông Sơn. Mặc cho những cái nhìn canh chừng của chúng, Anh Tú vẫn thản nhiên làm công việc đầu bếp của mình. Nó mượn một con dao nhỏ của tên lính đứng bên cạnh để lột vỏ khoai, rồi sau đó cho tất cả vào chiếc nồi mẻ, đã sứt cả hai quai, vừa mới tìm được trong xó nhà. Được sự giúp sức của một tên lính do thấy nó đánh vật với hai cục đá lửa, một cái bếp thô sơ được dựng lên bằng mấy cục đá xếp liền nhau. Nồi khoai mì yên vị trên bếp, năm tên lính ngồi dựa vào vách giám sát nó và Ngọc Vũ trong khi chờ khoai chín.

Ngồi bên cạnh Ngọc Vũ, Anh Tú nhìn đăm đăm vào ngọn lửa cháy bập bùng, lòng nó đang nôn nóng muốn nồi khoai mì sôi càng nhanh càng tốt, bởi nó biết rằng một khi nồi khoai chính, thì nó và Ngọc Vũ sẽ có cơ hội thoát thân.

Tại sao Anh Tú lại mừng rỡ đến thế khi nhìn thấy vườn khoai mì, và tại sao khoai mì chính là cứu tinh của nó, âu đó cũng là thường thức mà nó đọc được trong sách báo hằng ngày. Có thể nói, Anh Tú rất thích đọc báo thường thức, coi những chương trình khoa học và rất có hứng thú về các thí nghiệm hóa, lý. Nếu nói võ nó không bằng ai, nhưng những kiến thức phổ thông thì chẳng ai lại có thể hơn được nó. Theo như những gì nó đã đọc trong báo, khoai mì tuy là một món ăn vô cùng ngon, bổ, rẻ, nhưng bên cạnh đó lại tiềm ẩn những độc tố chết người vì trong khoai mì tích tụ nhiều chất glucosid. Nạn đói năm 1945, vô số người ngộ độc dẫn đến tử vong do đã ăn cả vỏ khoai mì, nơi tích tụ độc tố glucosid, vì quá đói. Ngoài ra, trong khoai mì cũng có chứa độc chất xyanua, xyanua ở phần vỏ và ngay cả phần củ. Dù lột vỏ nhưng khoai vẫn còn một lượng xyanua nhất định. Khi luộc, đặc biệt là luộc với số lượng lớn thì chất này sẽ đóng váng trên bề mặt nước. Nếu ăn phải chất này với hàm lượng cao, người ăn sẽ bị ngộ độc ngay. Muốn dùng khoai mì an toàn, trước khi luộc, bao giờ người ta cũng lột vỏ, sau đó ngâm trong nước lạnh nhiều giờ để loại bỏ chất xyanua. Ngoài ra, trong lúc luộc phải mở nắp nồi để chất xyanua bay đi, khi ấy mới có thể an tâm mà dùng. Quá hiểu rõ những thuộc tính đó của khoai mì, Anh Tú đã cố ý gọt vỏ sơ sài, không thèm ngâm rửa mà đem đi luộc ngay, sau đó nó còn lấy ván gỗ đậy lên nồi, bảo là cho mau chín nhưng thực chất là để lưu lại chất độc. Vừa có xyanua, lại cộng thêm lớp váng đọng trên bề mặt nước không được vớt bỏ, năm tên trâu mộng này ăn vào chắc chắn sẽ bị ngộ độc, vấn đề chỉ là thời gian ngộ độc đến nhanh hay chậm mà thôi.

Trước sự trông ngóng của Anh Tú và năm tên lính Đông Sơn, nồi khoai mì đã nắt đầu sôi ùng ục. Nhẩm tính thời gian khoai mì đã chín, Anh Tú từ từ mở nắp nồi ra. Cẩn thận vớt những củ khoai mì ra để trên ván gỗ, Anh Tú cười thầm khi thấy nước trong nồi gần cạn và lớp váng độc tố đọng dày. Không đợi khoai nguội, năm tên lính lao vào ăn ngay do quá đói. Vì mải mê ních căng bụng, chẳng ai để ý Anh Tú và Ngọc Vũ chỉ ngồi yên bên cạnh, không ăn một củ nào.

Nhìn năm tên lính say sưa ngốn khoai, hàm bạnh ra, Anh Tú nôn nóng. Chúng ngốn ngấu lượng khoai mì nhiều thế, chắc chắn không đầy canh giờ sau là độc tính sẽ phát tác. Sau khi đã ăn khoai mì đến no căng bụng, năm tên lính quệt mép thở một hơi khoan khoái. Chúng dựa lưng vào vách tường nghỉ ngơi để chờ trời sáng là khởi hành ngay. Ngôi nhà hoang chìm trong im ắng, chỉ có những tiếng thở đều và tiếng trở mình sột soạt do bị muỗi cắn. Thời gian trôi chậm chạp trong sự hồi hộp của Anh Tú, nó đang chờ độc tố xyanua và glucosid tiềm ẩn trong người năm tên lính phát tác, rồi nhân đó mà trốn thoát khỏi tay bọn chúng.

Đúng như dự đoán của Anh Tú, độc tố xyanua và glucosid chưa đầy một giờ đồng hồ đã bắt đầu phát tác. Một tên lính đang đang rù rì nói chuyện với đồng bọn kế bên bỗng nhiên ngưng lại. Hắn ta cảm thấy khó thở, tay ôm lấy bụng, người cúi gập xuống nôn hết những gì vừa mới ăn được ra ngoài. Sau khi nôn xong, hắn ngã vật xuống đất, đầu ngón tay xanh tím và dần chìm vào hôn mê, đó chính là triệu chứng khi ngộ độc khoai mì. Nhìn thấy hiện tượng đó, bốn tên lính còn lại kinh ngạc nhất tề xúm lại quanh gã đang hôn mê. Anh Tú để ý thấy ban nãy, tên này là người ăn nhiều nhất, thế nên độc tính phát tác nhanh nhất, kế đó là tên lính mặc áo xám ngồi bên cạnh ăn nhiều thứ hai. Nó vừa suy nghĩ xong, tên lính mặc áo xám liền ngửa mặt lên, miệng hớp hớp không khí vì bỗng nhiên cảm thấy khó thở. Giống hệt đồng bọn, tên lính áo xám cũng có những triệu chứng tương tự, hắn ta ngã vật xuống đất, bất tỉnh, khiến ba tên lính còn lại mở to mắt vì không hiểu chuyện gì đang xảy ra.

Nhác thấy hai tên lính chịu chung số phận khi bị độc tố xyanua và glucosid phát tác do ăn khoai mì nhiều nhất, ba tên lính còn lại chẳng chóng mà chầy cũng sẽ bị ngộ độc, Anh Tú chớp lấy thời cơ. Nhân lúc ba tên lính đang xem xét tình trạng của đồng bọn, Anh Tú nắm lấy tay Ngọc Vũ rồi lao nhanh ra ngoài như một mũi tên. Vì có biến cố bất ngờ xảy ra, lại không ngờ Anh Tú táo bạo đến thế, ba tên lính không kịp phản ứng, đến khi hoàn hồn lại thì Anh Tú và Ngọc Vũ đã thoát được ra ngoài. Anh Tú chạy mất không sao, nhưng nếu không có Ngọc Vũ, chắc chắn bọn chúng sẽ khó lòng ăn nói với Lê Anh. Không chần chừ thêm giây phút nào nữa, ba tên lính bật dậy, tay cầm đao đuổi theo Anh Tú, miệng quát tháo khi ngờ rằng, chính tên nhóc con ấy đã giở trò với hai đồng bọn của mình. Mà nếu đúng thế thật thì càng phải bắt lại để lấy thuốc giải, nếu không muốn chịu chung số phận.

- Các ngươi mau đứng lại cho ta!

- Các ngươi có chạy cũng không thoát được bọn ta đâu!

- Khôn hồn thì mau đứng lại, bằng không chớ tránh chúng ta vô tình

Mặc cho những lời đe nạt lẫn gạ gẫm, Anh Tú và Ngọc Vũ vẫn chạy như có cánh trên chân. Lẽ ra nếu ba tên lính đã có triệu chứng ngấm chất độc thì Ngọc Vũ có thể nhanh chóng hạ được bọn chúng. Nhưng vì ba tên này khỏe như vâm, lại quá to lớn, phải mất một lúc lâu chất độc mới phát tán được, Ngọc Vũ đối phó với chúng lúc này là rất khó khăn. Hơn nữa nếu đang trong lúc long tranh hổ đấu, tên Lê Anh cùng động bọn quay trở về, đi ngang qua ngôi nhà tranh phát hiện ra, thì công sức của nồi khoai mì sẽ đi tong. Chính vì thế, trước phản ứng của Ngọc Vũ muốn triệt hạ ba tên lính to con đó, Anh Tú phớt lờ, nó dắt cô nàng chạy cho thật nhanh, thật xa rồi hẵn tính sau.

Chẳng biết ba tên lính này là người hay là ma mà mãi chẳng thấy dấu hiệu trúng độc, Anh Tú chạy cách mấy cũng nghe thấy bọn chúng đuổi phía sau ngày càng gần. Vừa cắm cúi chạy, Anh Tú vừa than thầm trong bụng. Đây là thời xưa, cái thời đem quân đánh nhau liên miên, bộ binh chạy bộ theo chủ tướng đang cưỡi ngựa mà vẫn bám theo sát gót, chả thấy mệt, nhiêu đó cũng đủ biết sức bền và tốc độ của lính bộ binh thế nào. Đối với mấy người này, vô địch maraton thế giới còn không đấu lại huống chi là một đứa xưa nay chỉ quen đi xe máy như nó.

Đúng với lo lắng của Anh Tú, ba tên lính ngày càng đuổi sát sao, Ngọc Vũ chừng như đã mệt nên tụt lại phía sau. Đã chạy đến đây, Anh Tú không cam tâm bị bắt lại. Nó bắt đầu tính kế. Gia Định là vùng sông nước, kênh rạch chằng chịt, ban nãy đám lính Đông Sơn đã tìm được nước để luộc khoai, chứng tỏ gần đây phải có sông ngòi gì đó. Ba tên lính này không thể không bị ngộ độc, chỉ vì thể trạng của mỗi người khác nhau nên độc tố cũng phát tác khác nhau, nhưng dù nói thế thì nó và Ngọc Vũ cũng không thể mạo hiểm để chúng bắt trở lại. Nếu tính toán của Anh Tú sai, bị giải về trại Đông Sơn rồi độc tính trong chúng mới phát tác thì nguy to. Anh Tú nhíu mày, nó cảm nhận đươc gió bắt đầu lạnh lên, lại ẩm hơi nước, như vậy nó đang chạy ra hướng bờ sông. Hai bên là đồng không mông quạnh, chẳng có chỗ nào đủ an toàn để ẩn nấp. Sông thì chắc chắn phải có lau lách rậm rạp, lại thêm trời tối, sông rộng mênh mông, đám lau sậy cao quá đầu người chắc chắn sẽ là nơi ẩn thân tốt nhất của nó. Anh Tú quyết định nhanh, nó nắm lấy tay Ngọc Vũ, chân tăng tốc chạy nhanh về hướng gió đang thổi.

Gia Định ngày xưa sông rạch nhiều vô số kể, Anh Tú chỉ chạy loáng một cái là đã đến bờ nước. Những bụi lau rậm rạp phơ phất, gió thổi từ mặt nước phả vào mặt mát lạnh. Nước sông đen tuyền một màu bí ẩn, tạo cho Anh Tú dự cảm không lành. Nhảy xuống sông vào đêm tối lạnh ngắt là điều nó không hề muốn, nhưng với sự truy đuổi bức bách phía sau thì chẳng còn cách nào khác. Vất nhanh tay nải quàng sau lưng vào bụi cây gần đó, phớt lờ sự do dự của Ngọc Vũ, Anh Tú nắm chặt tay cô và nhảy ùm xuống sông. Nước sông ban đêm lạnh ngắt, mơn man da thịt, khiến Anh Tú và Ngọc Vũ rùng mình. Cắn chặt hàm răng va vào nhau lập cập, Anh Tú nắm tay Ngọc Vũ, lặn một hơi xuống dưới mặt nước. Chọn một bờ lau sậy rậm rạp để ẩn thân, Anh Tú trồi lên, bứt lấy hai cây sậy rỗng ruột rồi đưa cho Ngọc Vụ một cái. Thấy Ngọc Vũ ngơ ngác, Anh Tú ngán ngẩm. Cô nàng này ngoài chuyện sai bảo ra, đúng là chẳng biết thứ gì.

¬- Ngậm nó vào miệng, nó dùng để thở khi ở dưới nước!

Có vẻ như từ trước tới nay Ngọc Vũ chưa làm theo cách này bao giờ, nên mãi mà cô vẫn dùng dằng chưa dứt. Anh Tú ngậm cọng sậy vào miệng, tim nó nhảy lên một cái khi nghe tiếng bước chân dồn dập, vội nhét cọng sậy vào miệng Ngọc Vũ, Anh Tú dìm cô xuống nước. Ngay khi cả hai vừa chìm xuống nước, một lưỡi dao sáng loáng khua vào bụi cỏ lau ngay chỗ cả hai vừa ẩn nấp, khiến Anh Tú giật thót mình.

- Tìm đi! Chắc chắc chúng nó chỉ trốn quanh quẩn đâu đây thôi.

Đó là giọng của tên lính Đông Sơn bắt Anh Tú luộc khoai, nhưng giọng nói của gã mất hẳn vẻ sang sảng như lúc đầu, trái lại còn nghe rất yếu ớt. Biết chất độc đã bắt đầu phát tác, Anh Tú mừng thầm. Trên bờ, ba tên lính chậm rãi dò xét dòng sông, cứ mỗi lần dừng chân ở bụi rậm nào là chúng là khua khoắng, mong dồn được hai kẻ đào phạm ra ngoài. Cố gắng chịu đựng cái lạnh đang xâm nhập vào cơ thể, Anh Tú ngậm chặt cọng sậy trong miệng. Bàn tay Ngọc Vũ bấu chặt lấy tay nó, run rẩy, điều đó khiến Anh Tú lo lắng bởi Ngọc Vũ đang chịu đựng cực hạn. Nếu ba tên lính này không mau chóng bỏ đi, nó thật không biết Ngọc Vũ chịu được cái lạnh buốt da này bao lâu nữa.

Có lẽ sau phút sục sạo từng bụi rậm mà vẫn không tìm được Anh Tú và Ngọc Vũ, lại bác bỏ ý nghĩ cả hai đang ở dưới sông do không nghĩ ai mà có thể ở dưới nước lâu đến thế, ba tên lính đã bắt đầu nản. Chất độc dần phát tác khiến chúng cảm thấy khó thở, nên động tác chậm dần. Sợ số phận mình sẽ như đồng bọn khi nãy, ba tên lính cả sợ. Chúng nhanh chóng bỏ cuộc truy đuổi và tìm đường quay trở về doanh trại để gặp thầy lang càng sớm càng tốt. Tuy khó ăn nói với Lê Anh nhưng dẫu sao, tính mạng vẫn quan trọng hơn rất nhiều.

Ẩn mình sâu trong đám lau sậy, án binh bất động cho đến khi chắc chắn chúng đã đi xa, Anh Tú như nhấc được tảng đá ngàn cân đè nặng trước ngực. Chờ cho đến khi không còn nghe thấy động tĩnh gì nữa, Anh Tú kéo Ngọc Vũ trồi lên khỏi mặt nước. Rút cọng sậy ra khỏi miệng, Anh Tú há miệng hớp lấy mấy hơi thật dài để lưu thông không khí. Ngoảnh sang Ngọc Vũ, Anh Tú cả kinh khi cô nhắm nghiền mắt, sắc mặt trắng bệch, người mềm nhũn trong vòng tay nó như không còn sinh khí.

Vội vàng đưa Ngọc Vũ lên bờ, Anh Tú cố gắng lay Ngọc Vũ tỉnh lại. Quần áo cả hai ướt sũng nước, bám chặt vào da thịt. Dưới cơn gió đêm của Gia Định, người Anh Tú run lên bần bật, hai hàm răng va vào nhau lộp cộp chẳng khác nào trong động băng. Nhanh chóng tìm túi hành lý của mình, Anh Tú dùng tất cả những gì có thể để đắp lên người Ngọc Vũ, giúp cô ổn định lại thân nhiệt. Tình hình khá lên, Ngọc Vũ dần hồi tỉnh lại. In trong đôi mắt yếu ớt của cô là gương mặt lo lắng của Anh Tú, cô khẽ rên một tiếng nhỏ rồi trở mình ngồi dậy. Đang lo lắng cho Ngọc Vũ, đôi mày chau tít lại của Anh Tú dần giãn ra. Ổn rồi! Ngọc Vũ tỉnh lại thì chắc là không sao, cả hai đã an toàn. Anh Tú thở phào một hơi nhẹ nhõm. Nó dìu Ngọc Vũ đứng lên để tìm chỗ ẩn thân phòng khi chẳng may có ai đó đi ngang qua.

Trời càng về đêm càng lạnh, sương dần buông, lại thêm Anh Tú và Ngọc Vũ đang ướt như chuột lột, nên hơi thở đều ra khói. Ngọc Vũ hầu như không còn chút sức lực nào, cô tựa hẳn vào người Anh Tú, cả hai dìu nhau đi trong tiết trời lạnh lẽo. Những bước chân liêu xiêu, lập cập và chệnh choạng, tựa như không còn đở nổi thân người đang lạnh cóng của cả hai.

Với tình cảnh hiện giờ, nếu không mau chóng tìm được môt ngôi nhà nào để trú thân và hong khô quần áo thì cả hai chắc chắn sẽ chết cóng. Anh Tú vừa dìu Ngọc Vũ vừa nhìn quanh quất. Cả hai đã đi được một đoạn khá xa nhưng vẫn chẳng thấy một ngôi nhà dân nào để trú tạm qua đêm. Chẳng lẽ hôm nay phải bỏ mạng nơi đây, Anh Tú không cam lòng. Ngọc Vũ đã không đi nổi nữa, cô ngồi bệt xuống đất, sắc mặt càng lúc càng nhợt nhạt, đôi môi hồng bây giờ trở nên tím tái, bờ vai thon không ngừng run lẩy bẩy vì lạnh. Tình cảnh của Ngọc Vũ khiến Anh Tú bất nhẫn. Nó vắt khô mấy tấm áo khoát ướt sũng bên ngoài, rồi đắp trở lại cho Ngọc Vũ để tạo chút hơi ấm cho cô, sau đó ghé lưng cõng Ngọc Vũ lên, vì cả hai tuyệt đối không thể dừng chân nghỉ qua đêm ngoài trời.

Hai tay quàng lấy cổ Anh Tú, Ngọc Vũ lả đi, đầu ngả lên bờ vai của nó, hai mắt nhắm nghiền vì thể lực đã suy kiệt do cuộc chạy trốn. Nhận thấy tình hình nguy hiểm của Ngọc Vũ, Anh Tú vô cùng lo lắng. Bất chấp sự mệt mỏi đang kéo dài, Anh Tú cắn răng gia tăng tốc độ, nó vừa đi vừa nhìn quanh quất, lòng hy vọng sẽ tìm thấy một ngôi nhà dân nào đó để xin tạm trú qua đêm. Bất chợt, gương mặt đang đông cứng của Anh Tú thoáng chút mừng rỡ khi nhìn thấy có ánh lửa cháy bập bùng khuất sau một lùm cây. Quên hết mệt mỏi đang đeo nặng trong lòng, Anh Tú tăng tốc, bước nhanh về phía ánh lửa, hy vọng duy nhất của nó trong đêm.

Càng đến gần, Anh Tú phát hiện ra đó là một ngôi miếu hoang sập xệ, không người qua lại. Bên trong ngôi miếu, mùi cá nương thơm lừng tỏa ra khiến nó nuốt nước miếng. Thở phào một hơi nhẹ nhõm vì cuối cùng cũng đã tìm thấy ánh sáng trong đường hầm hun hút, Anh Tú bước vào trong sau khi phỏng đoán chắc người ở trong ngôi miếu không phải ba tên lính Đông Sơn. Vừa đặt chân vào bệ cửa, Anh Tú nhìn thấy một người đang ngồi xoay lưng về phía nó, bên cạnh là đống lửa ấm áp cháy bập bùng. Bên trên đống lửa là bốn xiên cá nướng thơm phưng phức, mùi thơm quyến rũ Anh Tú nhất từ trước tới nay....



★ Chương 95

Qua ánh lửa cháy tỏ, Anh Tú nhìn thấy người ngồi trong miếu là một cô gái, trạc tuổi Ngọc Vũ, dung mạo rất xinh đẹp. Khác với vẻ sang trọng, tiểu thư của Ngọc Vũ, cô gái này toát lên sự từng trải, bôn ba khắp nơi, dù trông cô còn rất trẻ. Nước da cô không trắng mịn là lại mang màu khỏe khoắn, một nét đẹp tinh xảo và đầy sức sống. Chẳng buồn để ý đến người vừa mới bước vào là ai, cô gái vẫn thản nhiên ngồi lau kiếm, bốn xiên cá nướng tỏa mùi thơm khắp ngôi miếu, làm Anh Tú không cầm lòng mà nuốt nước miếng liên hồi.

Anh Tú cõng Ngọc Vũ dò dẫm lại bên cạnh đống lửa, anh chưa kịp mở miệng xin ngồi sưởi chung thì cô gái đã bất thần lên tiếng.

- Không được ngồi xuống đây, chỗ này là của ta!

Giọng nói cô gái sắc nhọn, bàng quan và thờ ơ, làm Anh Tú nhíu mày vì không ngờ cô gái này lại lạnh lùng đến thế. Nếu chỉ có một mình, Anh Tú đã bước thẳng ra ngoài ngồi, nhưng vì Ngọc Vũ đang run cầm cập vì lạnh, anh không nhẫn tâm để cô hứng gió chịu sương. Cố trấn áp sự bất mãn trong lòng, Anh Tú nhìn cô gái, nói nhẹ nhàng.

- Tôi biết chỗ này là của cô, nhưng người hai chúng tôi giờ đang rất lạnh. Sức lực em gái tôi giờ như ngọn đèn trước gió, cô có thể rộng lòng chia sẻ cho chúng tôi chút lửa được không. Nếu được thì tôi cám ơn cô rất nhiều.

Không đợi Anh Tú nói dứt, cô gái áo đỏ đã nói luôn.

- Ta nói không… nghĩa là không. Ngươi đừng phí lời.

Anh Tú đã cố dẹp hết tự ái qua một bên để cầu xin, ấy thế mà đáp lại lời anh chỉ là sự lạnh lùng không thể nào hơn của cô gái, điều đó khiến anh vô cùng bực bội. Không nói thêm gì với cô gái áo đỏ nữa, Anh Tú quày quả quay người đi. Tiến đến sát góc bên trái ngôi miếu, Anh Tú đặt Ngọc Vũ cùng bọc hành lý xuống. Để Ngọc Vũ dựa lưng vào tường, Anh Tú vô cùng lo lắng khi người cô lạnh toát. Dù vẫn còn tỉnh táo, nhưng nếu tình trạng này kéo dài thì cơ thể Ngọc Vũ sẽ suy kiệt và tính mạng khó lòng bảo toàn. Trong ngôi miếu hoang rách nát, gió lùa từng cơn, bốn bề là đồng không mông quạnh, chỉ có duy nhất ánh lửa của cô gái áo đỏ nhưng anh đã bị chối từ. Bằng mọi cách Anh Tú phải tìm ra lửa để Ngọc Vũ sưởi ấm, bằng không nàng công chúa ngọc ngà của Bắc hà e là phải bỏ mạng trong ngôi miếu hoang này mất thôi.

Không được cô gái cho lửa, Anh Tú đành phải tự tìm cách xoay trở. Cô gái áo đỏ tạo được lửa, chẳng lẽ thân nam nhi sức vóc như anh lại không, Anh Tú nhủ thầm. Nhìn quanh ngôi miếu hoang, mắt anh sáng lên khi nhìn thấy một thân tre nằm lăn lóc trong góc miếu. Trước đây, Anh Tú đã từng tham dự một khóa kỹ năng rèn luyện khi đi tham dự trại hè với trường, bây giờ xem ra những kỹ năng ấy đã bắt đầu có đất dụng võ. Nhặt lấy thân tre, Anh Tú dùng thanh đoản kiếm của Ngọc Vũ để chẻ đôi nó ra làm hai phần. Úp một nửa thân tre xuống, anh tiếp tục khoét một lỗ hình vầng trăng khuyết trên bề mặt, đủ rộng để làm bàn ma sát. Vớ lấy một búi rơm khô từ mái tranh của ngôi miếu, Anh Tú độn rơm dưới khe cắt, sau đó đặt thanh tre còn lại vào lỗ khoét hình bán nguyệt và bắt đầu cưa. Đối với kiểu tạo lửa bằng tay đơn sơ này, Anh Tú bắt buộc phải kiên nhẫn và thật tập trung. Theo lý thuyết, ban đầu anh cưa chầm chậm, cứ nhịp đều như thế cho đến khi thấy bốc khói thì mới bắt đầu tăng tốc độ lên.

Nhưng lý thuyết lúc nào cũng đơn giản hơn thực hành, đối với cách tạo lửa từ thời tiền sử này, Anh Tú cưa đến vã cả mồ hôi mà vẫn chưa thấy kết quả khả quan. Mặc dù trời thì lạnh và người anh vẫn còn ướt, nhưng những giọt mồ vẫn tứa ra, tuôn dài trên vầng trán cao của anh. Hai lòng bàn tay của anh bắt đầu ướt đẫm mồ hôi, đau rát vì cạnh sắc thanh tre cứa vào. Anh Tú cưa miệt mài và kiên nhẫn nhưng quá lâu mà vẫn không thấy dấu hiệu gì là sẽ có lửa. Cưa mãi mà không thấy khói bốc lên, anh đâm nản, tính bỏ cuộc, nhưng đến khi thấy Ngọc Vũ dựa lưng vào tường, mắt nhắm nghiền, sắc mặt trắng bệch, hơi thở mỏng manh, hai tay bấu chặt vào bờ vai nhỏ, đang run lên vì lạnh, Anh Tú lại không đành lòng. Anh tiếp tục kiên trì với công việc tạo lửa của mình. Đúng với câu có công mài sắt có ngày nên kim, sau một lúc đánh vật với mớ công cụ tạo lửa thô sơ, Anh Tú mừng rỡ khi thấy khói bắt đầu bốc lên từ khe cắt, dù là rất mỏng manh. Từ nhịp cưa chầm chậm ban đầu,anh từ từ gia tăng tốc độ, và rồi khi thấy tia lửa thấp thoáng, Anh Tú liền bốc thêm một nắm rơm cho vào khe cắt và thổi cho lửa bùng lên...

Ánh lửa bập bùng trong đôi mắt Anh Tú. Anh vội vàng thêm bất cứ gì có thể cháy được vào để thổi bùng ngọn lửa rồi kéo Ngọc Vũ xích lại gần để sưởi ấm. Đang nửa tỉnh nửa mê, nay được ánh lửa ấm áp xua tan cái lạnh đang xâm nhập vào người, Ngọc Vũ dần hồi tỉnh. Cô ngồi dựa lưng vào lòng Anh Tú, hai bàn tay nhỏ nhắn hơ trên lửa, gương mặt tái xanh dần lấy lại sắc hồng vốn có. Từng ngón tay cô ngọ nguậy, rồi từng ngón chân cô nhúc nhích, Ngọc Vũ vươn vai để khởi động lại cơ thể sau thời gian đóng băng. Đưa mắt nhìn Anh Tú đang vắt khô áo và hơ lửa bên cạnh, trong lòng Ngọc Vũ thầm cám ơn anh. Nếu không có anh chẳng ngại mệt nhọc cõng cô đến ngôi miếu này, nếu không có anh cố sức tạo ra lửa để cả hai được sưởi ấm, thì có lẽ cô đã không còn mạng để quay trở về Hoàng cung nữa rồi.

Nhờ có đống lửa do Anh Tú tạo ra, Ngọc Vũ dần tỉnh táo, nhưng khổ nỗi khi người ta tỉnh táo, thì điều đầu tiên họ nghe thấy lại là cái bụng đang đánh trống biểu tình. Ngọc Vũ cũng thế, suốt từ trưa tới giờ cô chưa ăn gì. Ban nãy khi ở trong ngôi nhà hoang cùng năm tên lính Đông Sơn, Anh Tú không cho cô ăn khoai mì vì sợ cô sẽ bị trúng độc. Hết chạy trốn khỏi sự truy đuổi của ba tên lính, lại phải ngâm mình dưới nước một thời gian khá lâu, sau đó lại phải lên bờ chạy trốn, Ngọc Vũ gần như kiệt sức nên rơi vào tình trạng nửa tỉnh nửa mê. Bây giờ tỉnh lại, việc đầu tiên cô nghĩ đến là ăn uống để lấy lại sức sau một chuyến hành trình dài.

Mùi cá nướng từ chỗ cô gái áo đỏ lan tỏa trong không khí, càng thơm hơn bao giờ hết. Ngọc Vũ nuốt nước miếng, bụng cô đói cồn cào khi nhìn bốn con cá nướng béo mẫm nằm trên xiên. Từ trước đến nay, Ngọc Vũ là công chúa cành vàng lá ngọc của Hoàng cung, cô chưa bao giờ chịu đói chịu khát, chưa trải qua tình cảnh trốn chui trốn nhủi thảm thương như thế này bao giờ. Lúc ở trong cung, cô được ăn sung mặc sướng, cô không muốn ăn cũng có người tự động dọn lên, thậm chí khi ấy cô còn chẳng thèm liếc mắt qua những món sơn hào hải vị bày la liệt trên bàn. Bây giờ, cái đói cận kề, Ngọc Vũ mới cảm thấy nó đáng sợ như thế nào. Đói đến bủn rủn tay chân, đói đến hoa cả mắt, con người ta mới biết quý trọng thức ăn, và Ngọc Vũ chưa bao giờ thấy muốn ăn đến thế. Bốn con cá nướng ấy không phải cá anh vũ, không phải cá lăng, cá bỗng, phần thịt bị nướng cháy xém đôi chỗ, không được bắt mắt như trong cung, thế nhưng đối với Ngọc Vũ chúng còn hơn cả sơn hào hải vị trong Hoàng cung rất nhiều.

Ngồi bên cạnh Ngọc Vũ, thấy cô nhìn đăm đăm bốn con cá nướng, Anh Tú thở hắt ra một hơi. Không riêng gì Ngọc Vũ, sau cuộc chạy trốn vất vả, bụng anhcũng đang đói cồn cào, ngặt nỗi cả hai lại không mang theo bánh trái gì. Nhìn gương mặt lạnh như sương của cô gái áo đỏ, Anh Tú nhíu mày. Cô gái áo đỏ chắc hẳn biết được hai kẻ cùng trú trong miếu hoang đang rất đói, nhưng lại chả buồn liếc mắt hay lên tiếng, tựa như cả hai có đói chết cũng không quan hệ gì đến cô. Ban nãy, Anh Tú chỉ mới xin ngồi chung để sưởi ấm thôi mà cô gái còn từ chối, bây giờ xin cô ta một con cá, há lẽ nào cô ta lại rộng lượng cho. Anh Tú nghĩ thầm trong bụng, anh liếc mắt về phía Ngọc Vũ. Lúc này, cô thôi không nhìn đăm đăm bốn con cá nướng nữa, mà lại nhìn không chớp mắt vào ánh lửa cháy bập bùng. Ánh lửa đỏ soi hồng khuôn mặt đẹp đang xịu xuống của cô. Nhìn Ngọc Vũ co gối ôm bụng, ngồi tiu nghỉu hệt như một chú mèo con bị chủ bỏ rơi, Anh Tú động lòng. Bị cô gái áo đỏ từ chối, Anh Tú đã rất tự ái. Anh có thể nhịn ăn, không thèm mở miệng cầu xin cô gái áo đỏ, nhưng còn Ngọc Vũ thì không thể. Cô là công chúa, vốn quen no đủ, nay gặp chuyện không may mà lưu lạc bên ngoài, chịu cực khổ trăm bề, chắc chắn sẽ rất tủi thân. Từ trưa đến giờ cả hai không ăn gì, còn vất vả ngược xuôi, anh là nam nhi nên còn gắng gượng và chịu đựng được, nhưng Ngọc Vũ là con gái, chân yếu tay mềm, lại không quen gian khổ, sớm muộn gì cô cũng sẽ ngã bệnh nếu không được chăm sóc kỹ càng. Anh Tú thở hắt một hơi, anh lại cố nén lòng tự trọng mà đứng dậy, tiến về cô gái áo đỏ trước đôi mắt ngơ ngác của Ngọc Vũ. Không còn cách nào khác, muốn có ăn thì anh phải dẹp bỏ tự ái mà cầu xin người ta thôi.

Ngồi giữa ngôi miếu, cô gái áo đỏ trước sau vẫn chăm chú lau thanh kiếm cho sáng bóng, đến nỗi lưỡi kiếm có thể soi rõ gương mặt xinh đẹp của cô, mà chẳng hề quan tâm đến thế sự. Khi nghe bước chân Anh Tú tiến về phía mình, cô gái áo đỏ vẫn chẳng buồn phản ứng. Sự thờ ơ đó khiến Anh Tú chờn lòng, anh do dự trong giây lát, rồi mềm mỏng cất lời.

- Xin hỏi, cô có thể rộng lòng nhường cho chúng tôi một con cá nướng được không?

- Không! Ta chẳng có con cá nào dư để cho các ngươi cả - Cô gái áo đỏ lạnh lùng trả lời, đầu vẫn không hề ngẩng lên.

- Nhưng cô có tới bốn con cá kia mà, sao lại không dư con nào?

Trước sự vô lý của cô gái áo đỏ, Anh Tú vẫn giữ giọng nhẹ nhàng, không hể tỏ ra cáu giận. Lúc bấy giờ, cô gái áo đỏ mới chậm rãi ngẩng đầu lên. Ánh mắt nâu của cô ta lấp lánh ánh sáng, thứ ánh sáng vừa tinh quái, vừa tàn nhẫn, trái ngược hẳn với gương mặt xinh đẹp lạnh lùng, làm Anh Tú chột dạ. Trước ánh mắt sững sờ của anh, cô gái áo đỏ vung kiếm, chém phăng bốn cái xiên, khiến bốn con cá bay khỏi đống lửa và đáp xuống sàn nhà dơ bẩn đầy bụi đất. Sau khi đã thực hiện xong hành động đột ngột đó, cô gái áo đỏ thản nhiên chùi lưỡi kiếm vào chiếc khăn đỏ bên cạnh, nói giọng thản nhiên.

- Giờ thì không còn dư con nào.

Anh Tú sầm mặt. Cô gái áo đỏ này quả thật rất quá quắt. Ban nãy đã không cho anh và Ngọc Vũ cùng sưởi chung lửa, bây giờ lại nhẫn tâm hất đổ bốn con cá nướng trong khi cả hai đói đến mờ mắt chân run. Lướt mắt lên khuôn mặt xinh đẹp của cô gái áo đỏ, Anh Tú không nổi giận cũng chẳng lớn tiếng chỉ trích sự tàn nhẫn, lạnh lùng của cô ta, anh chỉ nhếch môi cười nhạt rồi quay trở về ngồi bên cạnh Ngọc Vũ. Nhìn bốn con cá béo mẫm lấm bẩn, nằm trơ trên nền đất lạnh, Ngọc Vũ ngẩn ngơ, ánh mắt lộ vẻ thất vọng và tiếc nuối. Đang khi cô xịu mặt vì cơn đói dồn dập kéo đến, Anh Tú chợt đứng lên, anh quay sang cô nói nhẹ nhàng.

- Ở đây giữ cho lửa đừng tắt, tôi đi bắt cá về cho cô.

Ngọc Vũ ngơ ngác, bất giác cô níu lấy tay Anh Tú. Mặc dù cô đang rất đói, nhưng để Anh Tú ra ngoài vào lúc đêm khuya lạnh lẽo thế này, cô cũng không được yên tâm. Rủi như Anh Tú chẳng may bị đám lính Đông Sơn khi nãy bắt được, chẳng phải sẽ nguy hiểm đến tính mạng hay sao.

- Tiểu... Anh Tú, thôi, ta không sao, ta có thể chịu đựng được. Bây giờ ngươi ra ngoài, lỡ có chuyện gì thì...

Bóp nhẹ bàn tay mềm mại của Ngọc Vũ, Anh Tú nhìn sâu vào mắt cô. Lần đầu tiên, Ngọc Vũ nhận thấy ánh mắt của người này lại dịu dàng đến như thế.

- Tôi sẽ không sao, cô đừng quá lo lắng. Cô cứ ngồi đây giữ lửa, đợi tôi bắt cá về thì chúng ta sẽ nướng ăn. Nghe lời tôi, đừng lo lắng nhiều, tôi nhất định sẽ bình yên quay trở về.

- Đó là một lời hứa?

- Ừ! Là một lời hứa.

Anh Tú mỉm cười khi Ngọc Vũ hỏi lại trong lo lắng. Anh liếc mắt về phía cô gái áo đỏ, trong ánh mắt ánh lên sự thách thức và cao ngạo, rồi quay lưng bước ra ngoài. Nhìn theo bóng dáng Anh Tú mất hút trong màn đêm, Ngọc Vũ ngồi dựa lưng vào tường, đợi chờ trong lo lắng. Gió ngày càng lạnh, những bức vách rách nát không đủ che chắn, ngọn lửa leo lét có thể phụt tắt bất cứ lúc nào. Rúc vào trong chiếc áo khoác mà Anh Tú đã hong khô và choàng lên người, Ngọc Vũ hà hơi, xoa hai tay vào nhau để chống cái lạnh đang len lỏi vào người. Mỗi lần nhìn thấy ánh lửa leo lét như sắp tàn, Ngọc Vũ cuống quýt, cho thêm rơm rạ vào trong để giữ lửa. Thời gian chậm chạp trôi qua, chim ăn đêm cất tiếng kêu hoang hoải ngoài trời khiến Ngọc Vũ rùng mình. Bên trong ngôi miếu chỉ có cô và cô gái áo đỏ, nhưng cô gái áo đỏ trước sau vẫn im lặng, dường như không biết sự có mặt của Ngọc Vũ trong ngôi miếu hoang này.

Ngồi thu lu trong góc, Ngọc Vũ vô cùng sốt ruột khi đợi đã lâu mà vẫn chưa thấy Anh Tú quay trở về. Một mối lo lắng trỗi dậy, xâm chiếm đầu óc cô. Anh Tú ra ngoài đã lâu mà chưa thấy về, chẳng lẽ hắn ta đã gặp chuyện chẳng lành, chẳng lẽ ba tên lính Đông Sơn kia quay lại và đã tìm thấy hắn, hay hắn ta không gặp chúng mà lại gặp đám cướp khác cũng đang hoành hành ở Gia Định. Ngọc Vũ càng nghĩ càng nôn nóng. Bây giờ chỉ có một mình cô bơ vơ ở trong miếu hoang với một cô gái xa lạ, xung quanh chỉ có tiếng rừng cây lao xao, không có lấy bóng dáng người thân nào bên cạnh, Ngọc Vũ chua xót. Chịu cảnh lạc lõng, bơ vơ, người thân cách xa hàng ngàn dặm, cô mới cảm thấy cô đơn buồn tủi biết bao. Cô nhớ nụ cười dịu dàng, trìu mến của phụ hoàng, cô nhớ Hoàng muội ngoan ngoãn Ngọc Hân, thậm chí ngay cả Ngọc Trâm cô cũng thấy nhớ. Lẽ ra cô nên nghe lời Anh Tú, lẽ ra cô không nên đến Gia Định làm gì, để rồi Hoàng huynh không tìm thấy, lại phải vất vưởng chịu đói, chịu khổ trong ngôi miếu hoang này.

Anh Tú vẫn chưa về.

Ngọc Vũ cắn môi lo lắng, cô xiết chặt tấm áo khoác. Một mặt cô rất muốn ra ngoài cửa để ngóng xem Anh Tú về chưa, nhưng mặt khác lại sợ nếu sơ ý thì sẽ để lửa tắt ngóm. Mang tâm trạng dùng dằng như thế, Ngọc Vũ đứng ngồi không yên. Một ý nghĩ chợt đến trong đầu khiến Ngọc Vũ sợ hãi. Lẽ nào hắn ta đã bỏ rơi cô, lẽ nào hắn ta đã để cô lại ở đây để lên đường đi tìm người em gái thất lạc của hắn, chẳng lẽ nhân lúc cô hoạn nạn, hắn bỏ mặc cô một mình để cô phải trả giá vì tính xốc nổi của mình. Ngọc Vũ cắn môi, mắt cô rơm rớm. Không đâu, Ngọc Vũ lắc đầu, hắn ta đã hứa là sẽ quay trở lại, một lời hứa của nam nhi bốn ngựa khó theo, hắn ta nhất định sẽ không bỏ rơi cô, hắn ta nhất định sẽ quay lại.

Thường ngày, Ngọc Vũ là một nàng công chúa cứng rắn, không dễ gì yếu lòng và rơi nước mắt, nhưng đây là lần đầu tiên Ngọc Vũ lưu lạc bên ngoài, lại nếm không ít gian khổ. Đối với hoàn cảnh hiện tại, Ngọc Vũ không thể không cảm thấy sợ hãi. Có thể nói, Anh Tú hiện giờ là người thân duy nhất của cô, nếu như cả anh cũng bỏ mặc cô, Ngọc Vũ sẽ không thể bám víu vào ai được, không thể dựa dẫm vào ai được. Chỉ có một thân một mình ở nơi xa lạ, trùng trùng hiểm nguy, Ngọc Vũ không tránh khỏi nảy sinh cảm giác lo lắng, bất an và trở nên yếu đuối. Cô cắn môi, bàn tay nhỏ nhắn quệt lên mắt, ngăn không cho những giọt lệ nóng hổi trào khỏi khóe mi. Anh Tú hứa sẽ quay trở lại, hắn ta đã hứa, hắn ta đã hứa sẽ không bỏ rơi cô...

- Ngọc Vũ, tôi về rồi đây.

Mọi bất an của Ngọc Vũ tan theo mây khói khi nghe thấy giọng nói vui vẻ của Anh Tú vang lên. Ngọc Vũ vội quay phắt người lại, Anh Tú đang tiến về phía cô, toàn thân ướt sũng và trên tay là ba con cá to mẫm đang quẫy đuôi tanh tách. Ngọc Vũ mở to mắt, bờ môi đào mím lại, cô không khóc nhưng đôi mắt lại long lanh, ươn ướt. Không để ý đến biểu hiện của cô, Anh Tú ngồi xuống cạnh đống lửa. Quên cả cái lạnh, anh nhanh tay dùng kiếm làm sạch cá, rồi sau đó xiên vào cành cây và nướng trên lửa. Thời gian nhanh chóng trôi qua, ba con cá đã bắt đầu chín, mùi cá nướng thơm lừng lan tỏa trong không khí càng làm cho Ngọc Vũ đói cồn cào. Ước chừng cá đã chín, Anh Tú nhấc xuống, anh lấy một xiên, thổi cho nguội bớt rồi đưa cho Ngọc Vũ và nhẹ mỉm cười khi đôi mắt Ngọc Vũ sáng lên cùng với gương mặt rạng ngời.

Ba con cá nhanh chóng biến thành ba bộ xương nằm trơ trên nền đất. Sau khi đã trấn áp được cơn đói, Ngọc Vũ nhìn đôi tay dính tro than của mình, cô liếm môi, mắt đảo quanh quất để tìm chỗ rửa tay theo thói quen. Thấy Ngọc Vũ muốn lau tay mà không biết phải làm sao, Anh Tú mỉm cười. Anh nắm lấy tay Ngọc Vũ, nhẹ nhàng dùng chiếc áo đã sũng nước lau những ngón tay búp măng của cô. Vừa lau, Anh Tú vừa bông đùa.

- Cô đó, khi trở về nhà, làm ơn học cách làm việc giùm tôi, đừng có cái gì cũng trông chờ người khác mang đến. Nếu như hôm nay không có tôi thì cô sẽ làm như thế nào? Không phải lúc nào mọi người cũng ở bên cạnh cô, thế nên nếu cô chịu khó học cách tự lập, tự xoay trở một mình mà không cần có người khác thì xem như cô mới có thể trưởng thành lên được, công chúa của tôi ạ!

Nếu là mọi khi, Ngọc Vũ chắc chắn sẽ đáp trả lại, nhưng hôm nay cô lại thấy cõi lòng êm dịu lạ thường khi nghe bốn chữ “công chúa của tôi”, nên chỉ lẳng lặng để Anh Tú lau sạch những ngón tay lem luốc mà không nói câu nào. Trong ngôi miếu, ánh lửa bập bùng, Ngọc Vũ nằm bên cạnh Anh Tú. Vì không biết sẽ có bất trắc nào xảy ra khi cả hai đang ngủ, Anh Tú ngồi dựa lưng vào tường, phần che chắn Ngọc Vũ không bị gió lạnh ngoài cửa luồn vào, phần sẵn sàng ứng phó nếu chẳng may xảy ra biến loạn. Nhìn những sợi tóc phơ phất trước trán Anh Tú, Ngọc Vũ bỗng muốn chạm tay vào vầng trán cao ấy. Ý nghĩ đó khiến cô đỏ mặt. Cũng may Anh Tú không biết được những suy nghĩ trong đầu cô, chứ nếu không thì cô ngượng ngùng đến chết mất thôi.

- Anh Tú, ngươi hát cho ta nghe đi.

Đang lim dim bên ngọn lửa ấm áp, lòng suy nghĩ ngày mai sẽ tìm cách về Bắc hà như thế nào, Anh Tú mở mắt ra khi nghe Ngọc Vũ nói. Qua ngọn lửa lung linh, đôi mắt Ngọc Vũ long lanh lạ thường. Nhìn Ngọc Vũ nằm trên lớp rơm do chính tay cô trải, Anh Tú hài lòng vì ít ra cô cũng đã tiếp thu những gì anh nói. Ngọc Vũ đang nhìn nó, ánh lửa ấm áp soi lên gương mặt xinh đẹp ửng hồng. Nàng công chúa lá ngọc cành vàng của Bắc hà đang nằm trên nệm rơm, mình khoác chiếc áo rộng thùng thình của Anh Tú, trông đáng yêu và dễ thương gấp bội phần. Cứ mỗi lần nhìn Ngọc Vũ, Anh Tú lại nhớ đến Linh Lan, em gái bé bỏng của anh, cho nên trước những yêu cầu của Ngọc Vũ, dù đôi khi làm anh khó chịu,nhưng đa phần anh chưa từ chối cô bao giờ, chỉ ngoại trừ những yêu cầu quá quắt, vô lý ra.

- Tôi hát dở lắm, cô nghe chỉ thêm khó ngủ thôi.

- Không, ngươi cứ hát đi, ta muốn nghe. Ta không thích sự im lặng của ngôi miếu này, ngươi hát cho ta nghe đi.

Ngọc Vũ nài nỉ, cô không ra lệnh mà là đang nài nỉ anh. Anh Tú suy nghĩ giây lát, anh nặn óc cố nhớ ra bài hát nào mà mình đã thuộc. Thường ngày, người hay nghe nhạc nhất là Linh Lan, còn anh, tuy tây, ta, tàu gì anh nghe đủ cả, nhưng lại chẳng nhớ nổi ca từ và giai điệu của bài hát nào. Trước sự chờ đợi của Ngọc Vũ, Anh Tú chợt nhớ đến bài hát “khoảnh khắc” của Trương Quý Hải mà anh khá thích, bởi ca từ tha thiết và dịu dàng của bài hát, cũng như chất giọng ấm áp của Elvis Phương, khiến bài hát càng thêm có hồn.

- Được rồi! Cô mà có mất ngủ cũng đừng đổ lỗi tại tôi đấy.

- Không sao, ngươi mau hát đi.

Trước sự hối thúc của Ngọc Vũ, Anh Tú im lặng đôi phút để nhớ lại bài hát, rồi từ từ cất giọng nhẹ nhàng...

“Chỉ còn một chiếc lá cuối thu mong manh
 Chỉ còn một mình anh xót xa chờ em
 Chỉ còn đêm nay, mai lá kia rơi
 Chỉ còn đêm nay, mai lá kia rơi...
 Khi mùa thu khuất nơi cuối trời...
 Giọt nước mắt khô không lời....”

Và rồi mùa thu qua, trống tênh buồn vui
Vùi lòng mình băng giá, tháng năm lặng trôi....

Ánh lửa dần tàn, đêm dần trôi. Anh Tú ngồi tựa lưng vào vách nghe gió trườn trên mái lá. Đêm nay anh không ngủ được, dường như những chuyện xảy ra ngày hôm nay đã khiến anh lo nghĩ nhiều. Thân nam nhi như anh phải đối mặt với những chuyện này đã rất mệt mỏi, nếu là Linh Lan chắc chắn còn thê thảm hơn. Từ khi đến Gia Định, Anh Tú không lúc nào ngớt lo lắng. Thời đại này chiến tranh liên miên, cướp bóc quá nhiều, Linh Lan làm sao có thể tồn tại được ở chốn xa lạ thế này. Càng nghĩ, anh càng thêm quyết tâm tìm Linh Lan, nhất định anh phải găp được em gái mình, tận mắt nhìn thấy Linh Lan khỏe mạnh anh mới an tâm.

- Mẹ... Mẹ ơi...

Anh Tú nhíu mày, anh quay sang Ngọc Vũ. Cô đang ú ớ trong cơn mê, gương mặt xinh đẹp nhuộm nét buồn thương, đau khổ khiến Anh Tú ngạc nhiên. Vội sờ tay lên trán Ngọc Vũ, Anh Tú kinh ngạc khi trán cô nóng ran, đổ mồ hôi đầm đìa, hơi thở nặng nhọc. Ngọc Vũ đang sốt, lại còn sốt rất cao, nếu không nhanh chóng điều trị, rất có thể xảy ra biến chứng, nguy hiểm đến tính mạng. Anh Tú cau mày, quanh đây không hề có nhà dân, tìm ra thầy lang lại càng là điều không thể, nhưng nếu không kịp thời chữa bệnh cho Ngọc Vũ, để bệnh cô trở nặng thì e là ngay cả Hoa Đà tái thế cũng không thể cứu nổi cô.

Anh Tú lo lắng. Không thể chậm trễ thêm một phút nào nữa, Anh Tú nhanh chóng thu dọn đồ, đỡ Ngọc Vũ ngồi dậy, choàng áo cho cô rồi cõng Ngọc Vũ lên lưng để đi tìm đại phu. Tuy biết Ngọc Vũ đang sốt, băng mình đi trong đêm khuya lạnh lẽo thì có thể sẽ dẫn đến sưng phổi, nhưng nó vẫn quyết định liều một phen, thế còn đỡ hơn là ngồi bó gối trong miếu mà chẳng làm gì.

Vừa đúng lúc Anh Tú cõng Ngọc Vũ lên thì cô gái áo đỏ bất chợt cất tiếng. Giọng nói tuy vẫn lạnh lùng nhưng đã có phần mềm mỏng đôi chút.

- Cô ta đang sốt. Ngươi muốn cô ta chết nhanh hay sao mà còn cõng cô ta chạy ra ngoài trong tiết trời như thế này.

- Cám ơn cô đã có lòng quan tâm, nhưng chẳng thà làm cái gì đó còn hơn ngồi chịu chết trong ngôi miếu hoang này.

Anh Tú đáp mà không quay đầu, những bước chân gấp gáp của anh vẫn không chậm lại. Đến khi đến gần ngạch cửa, cô gái áo đỏ lại lên tiếng, nhưng lần này đã khiến Anh Tú đứng yên.

- Ta biết gần đây có một vị thầy lang rất nổi tiếng, ngươi có muốn đưa cô ta đến đó không?

Anh Tú quay ngoắt người lại, anh quay trở vào trong miếu. Đứng sừng sững trước mặt cô gái áo đỏ, Anh Tú nhướng mày lên, hỏi giọng nghi hoặc vì chưa thể tin được cô gái này lại tốt bụng đột xuất đến như thế….

- Cô nói thật chứ?

- Dối đấy, đừng tin.

Cô gái áo đỏ mỉm cười, nụ cười đầu tiên giữa Anh Tú và cô, làm bừng lên khuôn mặt trái xoan thanh tú. Nụ cười của cô gái như hoa nở, nhưng Anh Tú lại cảm thấy ẩn chứa trong đó là chất mật độc chết người. Anh nhếch mép. Cô gái kỳ lạ này bỗng nhiên lên tiếng giúp đỡ, chắc chắn phải có điều kiện trao đổi nào đó chứ chẳng khi nào cô ta chịu giúp đỡ mà không đổi lại được lợi lộc gì.

- Nói đi! Cô muốn tôi làm gì?

Đôi mắt cô gái lấp lánh thứ ánh sáng nguy hiểm, nhưng lại không kém phần dịu êm. Tra thanh kiếm vào vỏ, cô gái áo đỏ ung dung đứng lên. Lướt mắt qua Ngọc Vũ, mày liễu của cô nhướng lên. Thấy cô ta thủng thỉnh tiến ra khỏi ngôi miếu, Anh Tú không chần chừ cũng vội vàng cõng Ngọc Vũ đi theo sau. Ngay từ lúc gặp cô gái trong ngôi miếu, Anh Tú đã cảm thấy cô gái này rất cổ quái, tính tình lại khá bạo ngược. Cô ta muốn anh làm gì anh chưa biết, nhưng để cứu mạng Ngọc Vũ trước hết phải thỏa thuận với cô gái ấy, rồi sau này tìm cách ứng phó với yêu cầu của cô ta sau.

Dường như biết được suy nghĩ của Anh Tú, cô gái áo đỏ đang đi thủng thỉnh phía trước liền dừng lại. Cô xoay người đối diện với Anh Tú, bàn tay búp măng đang nắm lại chìa ra trước mặt anh. Anh Tú ngớ người, anh không hiểu cô gái muốn làm gì thì những ngón tay thon thả của cô ta lần lượt xòe ra, để lộ một viên thuốc nhỏ màu đỏ nằm giữa lòng bàn tay. Trước gương mặt ngơ ngác của Anh Tú, cô gái mỉm cười, một nụ cười chứa chất độc ngọt ngào.

- Xưa nay ta chưa hề làm không công cho người khác mà không được lợi lộc gì. Cô gái này ta sẽ cứu, nhưng đổi lại, ta muốn mạng sống của ngươi từ nay sẽ thuộc về ta. Nếu ngươi không đồng ý thì xem như ta chưa nói gì, nhưng nếu ngươi đồng ý thì hãy nuốt viên thuốc này.

- …

- Viên thuốc này tất nhiên là thuốc độc, nếu không có thuốc giải của ta thì ngươi sẽ có một cái chết vô cùng đau đớn. Ngươi sẽ có cảm giác hàng vạn con trùng bò lên người ngươi, cắn đốt cơ thể ngươi. Ngươi sẽ cảm thấy rất ngứa ngáy, vô cùng ngứa ngáy. Ngươi sẽ gãi, gãi cho đến khi nào rách da, rách thịt, nhưng ngươi vẫn cứ gãi mãi cho đến khi toàn thân lở loét, thất khiếu chảy máu. Một cái chết vạn lần đau đớn, đau hơn những gì ngươi có thể hình dung ra rất nhiều. Thế nào, dùng mạng của ngươi để đổi lấy mạng của cô gái đó, một mạng đổi một mạng, rất công bằng đúng không? Hãy suy nghĩ cho thật kỹ trước khi đưa ra quyết định, bằng không sau này chớ bảo ta dùng kế ép ngươi phải tuân theo.

Nhìn đăm đăm vào gương mặt kiều diễm của cô gái áo đỏ, Anh Tú không thể ngờ cô ta lại quá tàn độc như thế. Có nằm mơ anh cũng không nghĩ cô gái này muốn mạng sống của anh thuộc về cô ta, trong khi anh và cô ta chỉ mới gặp nhau lần đầu trong ngôi miếu hoang này. Nghĩ đến cái chết tàn nhẫn mà cô gái đã đề cập, sống lưng Anh Tú lạnh ngắt, nhưng hơn ai hết anh cảm nhận được sức nặng và hơi nóng từ nhịp thở yếu ớt của Ngọc Vũ trên tấm lưng rộng của mình. Một mạng đổi một mạng, dùng mạng của anh để đổi mạng của Ngọc Vũ, đó là điều anh chưa từng nghĩ đến, nhưng nếu không làm thế thì Ngọc Vũ chắc chắn sẽ không qua khỏi. Anh Tú chau mày. Thời gian đông đặc. Chưa bao giờ anh phải tranh đấu, quyết định chuyện gì phức tạp như thế này. Nếu chết đi trong khi không tìm thấy Linh Lan thì anh không cam tâm, nhưng nếu để Ngọc Vũ chết đi thì...
Anh Tú cắn răng, anh hít vào một hơi thật sâu rồi nhìn thẳng vào đáy mắt cô gái áo đỏ. Anh Tú nói chậm rãi, gương mặt vô cùng bình tĩnh.

- Được! Rất công bằng, một mạng đổi một mạng. Tôi sẽ làm theo ý cô.

Nói rồi, Anh Tú cầm lấy viên thuốc màu đỏ ma quái trong lòng bàn tay cô gái và bỏ tọt vào miệng. Anh nghe cổ họng ngòn ngọt, nhưng vị ngọt đó đối với anh chẳng khác nào chất độc đoạt mạng. Một tia sáng lóe lên trong đôi mắt cô gái, cô ta đăm đăm nhìn anh, rồi nhìn sang Ngọc Vũ, hỏi dò.

- Cô gái này là gì đối với ngươi?

- Chẳng là gì cả? Đừng ở đây dông dài nữa, mau dẫn tôi đến gặp thầy lang.

Anh Tú đáp lạnh lùng, gương mặt anh như phủ một làn sương. Cô gái áo đỏ cũng thôi không thắc mắc nữa, nở một nụ cười ngọt ngào chết người, cô quay lưng đi, tà áo đỏ lất phất trong đêm tối, nổi bật như một bóng ma.

- Được, ta sẽ dẫn ngươi đến gặp thầy lang. Từ nay mạng sống của ngươi thuộc về ta, cho nên ngươi hãy khắc sâu vào tim tên của ta. Ta là Ngọc Uyển.

Khi Anh Tú chấp nhận lời đề nghị của cô gái áo đỏ, một mạng đổi một mạng, thì Ngọc Vũ có cơ hội sống sót, còn mạng sống của Anh Tú lại thuộc về cô gái mới chỉ gặp mặt nhau lần đầu. Trong bụng Anh Tú lúc này tồn tại vô vàn những câu hỏi tại sao nhưng không thể nào giải đáp được. Phần cô gái - tức Ngọc Uyển - sau khi đã giới thiệu tên, thì không còn nói gì với Anh Tú nữa. Cô cứ ung dung đi phía trước, tựa như không biết Anh Tú đang nôn nóng đi phía sau, do lo lắng cho Ngọc Vũ đang trong tình trạng hôn mê.

Chính vì lo lắng cho Ngọc Vũ, Anh Tú cứ cắm cúi theo Ngọc Uyển mà chẳng biết mình đã đi qua những nơi nào. Cả hai cứ lẳng lặng đi suốt đêm, chẳng ai nói với nhau câu nào, đến khi trời tờ mờ sáng Ngọc Uyển mới dừng chân lại. Cô quay người nhìn Anh Tú rồi cất tiếng, trong giọng nói ẩn chứa sự tinh quái lạ thường.

- Nghe cho kỹ đây, lát nữa đến nơi, khi ta chưa cho phép, ngươi tuyệt đối không được nói câu nào, cũng như không được có bất cứ hành động khả nghi hay sơ suất gì, đã rõ chưa!
Nghe những lời như ra lệnh của Ngọc Uyển, Anh Tú chỉ thở dài và gật đầu. Con gái thời này sao mà giống nhau như đúc. Hết Ngọc Vũ cho đến Ngọc Uyển, cá tính đều ương bướng, ngạo ngược, chỉ biết ra lệnh cho người khác, bất kể tâm trạng của người đối diện như thế nào. Ngặt nỗi, lúc này Anh Tú đang phải nhờ vả người khác, qua sông thì phải lụy đò, chứ bình thường thì còn lâu cô gái này mới ra lệnh được cho anh. Chính vì ấn tượng ban đầu đối với Ngọc Uyển đã không tốt đẹp, bây giờ nghe cô đột ngột yêu sách này nọ mà không thèm giải thích, ác cảm trong lòng Anh Tú càng tăng thêm nhiều lần.
Cả ba người đi suốt đêm không ngừng nghỉ, sau cùng cũng đã tới nơi khi trời tờ mờ sáng. Nơi Ngọc Uyển đưa Anh Tú đến có vẻ như là một doanh trại, nằm sâu trong rừng cây và được che chắn kín đáo. Nhác thấy Ngọc Uyển từ xa tiến tới, hai người lính gác cổng liền ngăn cản lại với thái độ vô cùng cảnh giác. Không nói không rằng, Ngọc Uyển móc trong túi một tấm mộc bài ra đưa cho hai người canh gác. Chẳng biết trên đó viết chữ gì mà chỉ thấy hai người lính mặt biến sắc. Họ khấu tay tạ tội với Ngọc Uyển rồi nhanh chóng nhường đường cho cô đi qua. Trước ánh mắt ngạc nhiên của Anh Tú, Ngọc Uyển điềm nhiên cất tấm thẻ bài vào trong túi, cô hất đầu về phía Anh Tú,và Ngọc Vũ, đoạn trầm giọng với hai người lính gác.

- Trên đường bị quân Tây Sơn truy đuổi, ta còn mạng về đến đây đều nhờ vào công lao của hai người này. Bây giờ ta phải đi gặp Hoàng huynh, ngươi giúp ta chuẩn bị môt chỗ sạch sẽ cho họ ở, sau đó gọi thầy lang đến chữa bệnh cho cô gái kia, rõ chưa.

Hai người lính đưa ánh mắt soi mói nhìn Anh Tú và Ngọc Vũ, rồi sau rốt cũng gật đầu. Ngọc Uyển mỉm cười. Sau khi giao lại Anh Tú cho hai người lính, cô ung dung bước qua cánh cổng trại, nhưng chưa đi được vài bước thì cổ tay đã bất thần bị nắm lại. Đôi mày liễu nhướng lên, Ngọc Uyển quay phắt người lại, cánh tay cô khoa thành hình vòng cung, hóa giải được cái nắm tay của Anh Tú, sau đó chụp lấy cổ tay anh, bẻ ngoặt một bên. Mọi thứ diễn ra chỉ trong chớp mắt, khiến Anh Tú vô cùng bất ngờ. Để yên cánh tay bị bẻ ngoặt môt bên, dù đau đớn, nhưng Anh Tú bình tĩnh nhìn thẳng vào mắt Ngọc Uyển, không hề có chút sợ hãi. Vì anh cao hơn cô khá nhiều nên Ngọc Uyển ngước lên còn Anh Tú thì nhìn xuống. Anh trầm giọng, đủ để chỉ mình cô nghe thấy.

- Bình tĩnh đi, tôi không cố ý chạm vào người cô, tôi chỉ muốn hỏi đây là đâu, có phải là doanh trại của Đông Sơn không?

- Phải thì sao?

Ngọc Uyển nhướng mày lên, cô mỉm cười trả lời. Nụ cười nửa khiêu khích, nửa ngọt ngào của cô khiến Anh Tú cau mày. Xưa nay, Anh Tú rất ghét những câu trả lời hai chiều như thế. Đối với ánh, đúng là đúng, sai là sai, chứ không có chuyện lấp lửng như thế này.

- Ngọc Uyển, tôi nghiêm túc hỏi cô thì tôi cũng mong muốn cô trả lời tôi nghiêm túc như thế, đó cũng là cách tôn trọng lẫn nhau. Tuy mạng sống của tôi thuộc về cô, nhưng không có nghĩa là cô có quyền định đoạt tất cả những gì thuộc về tôi. Nếu đây là doanh trại của Đông Sơn, chúng tôi có chết cũng không bước vào. Bây giờ tôi hỏi cô một lần nữa, mong cô hãy nghiêm túc trả lời tôi. Đây là đâu, có phải là doanh trại của quân Đông Sơn không?

Anh Tú nói, không chậm rãi, cũng không nhấn mạnh từng tiếng, chỉ có ánh mắt là đang nhìn thẳng vào Ngọc Uyển, mạnh mẽ và rực sáng. Đôi mắt đó khiến nụ cười trên môi Ngọc Uyển dần khép lại. Ngọc Uyển lướt mắt nhìn Ngọc Vũ đang thiêm thiếp trên lưng Anh Tú, cô trả lời, giọng nói thoáng chút lạnh lùng.

- Ngươi yên tâm, quân Đông Sơn là kẻ thù của Nguyễn quân, ngày nào Đông Sơn còn thì đó vẫn là hiểm họa cho chúng ta. Đây là doanh trại quân Nguyễn, chỉ cần ngươi không phải người trong Tây Sơn thì ngươi tuyệt đối an toàn.

Ngọc Uyển nhìn thẳng vào mắt Anh Tú. Ánh mắt cô vừa sắc bén lại vừa ngạo nghễ như đáp trả lại cái nhìn của anh, khiến Anh Tú nhíu mày. Cô gái này quả là không bao giờ chịu thua kém bất cứ ai.

- Được! Chúng tôi không phải người trong Tây Sơn thì cũng chẳng việc gì phải sợ. Giờ thì thả tay tôi ra, có biết đau không?

- Ta nghe nói nam nhi các ngươi quyết đổ máu chứ không rơi lệ, cớ sao nay mới chỉ đau một chút đã chịu không nổi thế kia.

Giọng nói Ngọc Uyển không giấu vẻ mỉa mai. Anh Tú cảm tưởng như cô đang bóp chặt cánh tay của anh hơn nữa, khiến những khớp xương trong người anh kêu răng rắc, như chuẩn bị rạn nứt tới nơi. Trước sự bạo ngược của Ngọc Uyển, Anh Tú nhếch môi, anh thản nhiên trả lời.

- Nam nhi thì cũng là con người chứ không phải thánh thần hay sắt đá. Muốn khóc thì cứ khóc, thấy đau thì nói đau, ngay cả cảm xúc chân thật của mình mà còn không dám thừa nhận hay đối diện thì sau này còn có thể làm được gì?!

Đôi mắt nâu lấp lánh của Ngọc Uyển nheo lại, những ngón tay cô dần nới lỏng, rồi thả Anh Tú ra. Ra hiệu cho hai người lính dẫn Anh Tú đi, Ngọc Uyển nhìn theo cho đến khi bóng dáng Anh Tú dần khuất sau những lùm cây xanh, rồi sau đó mới thả bộ về hướng ngược lại, tìm đến phòng Hoàng huynh của mình.

Sau khi quân Tây Sơn kéo vào Gia Định tấn công, quân Nguyễn rút lui, tạm thời nhường lại cục diện cho Tây Sơn nắm giữ. Hơn một tháng sau, Nguyễn quân trở về tập trung ở Đồng Tuyên, tái thiết lực lượng và bày bố, phòng thủ chặt chẽ để chuẩn bị phản công. Lần Tây Sơn tấn công, Ngọc Uyển đã an toàn rút lui sau khi thanh kiếm nhuộm máu vì chống trả những đợt tấn công vũ bão của đám truy binh Tây Sơn. Sau bao ngày lưu lạc và lẩn trốn bên ngoài, Ngọc Uyển đã nghe ngóng được tin tức của quân Nguyễn, cô quyết định tìm đến nơi đóng quân của quân Nguyễn ở Đồng Tuyên và giữa đường thì gặp Anh Tú và Ngọc Vũ nên thuận tiện mang cả hai đến nơi này.

Thật ra, ban đầu Ngọc Uyển chẳng mấy chú ý đến họ chứ đừng nói là có ý định đưa hai người họ cùng đến doanh trại Nguyễn quân. Cá tính cô khá mạnh mẽ, quyết đoán và tàn nhẫn, ngồi trong ngôi miếu hoang, cô không hề chú ý đến Anh Tú và Ngọc Vũ khi cả hai bước vào. Họ nói gì, làm gì cô cũng mặc kệ, tựa như trong ngôi miếu ấy chỉ hiện hữu mỗi một mình cô.

Lẽ ra, Ngọc Uyển cứ bàng quan như thế, nhưng khi Anh Tú không được cô cho lửa đã tự tạo lấy lửa, cô đã bắt đầu chú ý đến anh. Một gã thanh niên cao lớn, trong tình trạng ướt sũng, lạnh ngắt và kiệt sức, vậy mà vẫn kiên nhẫn vật lộn với những thứ đơn sơ tìm được trong ngôi miếu hoang để tạo ra lửa, thật khiến Ngọc Uyển thấy thú vị. Muốn xem gã này ngoài tạo ra lửa thì còn có thể làm gì, Ngọc Uyển đã thẳng thừng từ chối khi gã lại đến xin một con cá nướng để cho cô gái đi cùng ăn lót lòng.

Không hiểu sao, Ngọc Uyển lại không thích cô gái đi cùng gã thanh niên này. Cô gái đi cùng gã dù còn trẻ tuổi nhưng vẫn rất đẹp, nếu cô ta trưởng thành, chắc chắn còn xinh đẹp rạng rỡ hơn bây giờ rất nhiều. Tuy mặt mũi lem luốc, lấm bẩn nhưng vẫn không át được khí chất cao sang của cô ta. Chỉ nhìn qua, Ngọc Uyển cũng đoán ra được lai lịch cô gái này không bình thường. Cử chỉ cô ta rất yểu điệu, thanh thoát và mềm mại, xem ra có vẻ là loại thiên kim tiểu thư chứ không phải là người hay làm những việc nặng nhọc. Loại người chỉ biết trông chờ vào người khác như cô ta thật làm Ngọc Uyển thấy khó chịu. Tuy sinh ra trong dòng dõi vua chúa, nhưng từ nhỏ, Ngọc Uyển đã phải học cách tự lập để sinh tồn. Cô được dạy sử dụng thành thạo cung kiếm, săn bắn, bản lĩnh không thua gì nam nhi, thế nên nếu có lưu lạc bên ngoài cũng có thể sinh tồn dễ dàng chứ không yếu đuối, dựa dẫm vào người khác như thế này. Chính vì thấy khó chịu nên cô thà bỏ đi bốn con cá còn hơn nhường cho cô ả một con.

Thấy cô gái đã quá đói, gã thanh niên dường như không đành lòng, gã ta ra ngoài và bằng cách nào đó, sau cùng cũng xoay sở đem về được ba con cá. Gã tỉ mỉ chăm sóc cô gái thật chu đáo, để cô ta ăn thỏa thích, sau đó còn lau tay cho cô ta. Khi cô ta đi nghỉ, hắn còn tinh tế ngồi ngoài, che chắn gió giúp cô ta, lại còn hát cho cô ta ngủ, những hành động đó khiến Ngọc Uyển ngày càng chú ý và cảm thấy gã thanh niên này khác lạ. Sinh trưởng trong vương tộc vào thời loạn lạc, Ngọc Uyển bao giờ cũng chí có một mình. Cô phải tự lực cánh sinh từ rất sớm, cô có thể sinh tồn ngay trong những môi trường khắc nghiệt nhất. Để tồn tại mạnh mẽ trong thời buổi chiến loạn, cô học cách tự bảo vệ mình, không phải phiền lụy đến ai. Những tháng ngày sống kề cận chiến tranh, nhìn thấy khoảng cách mong manh giữa sự sống và cái chết đã trui rèn cho Ngọc Uyển tính cách mạnh mẽ, kiên cường và độc lập. Dù là thế, nhưng sâu thẳm bên trong, Ngọc Uyển vẫn chỉ là một thiếu nữ vừa tròn mười bảy tuổi, vẫn là nữ nhi, nhìn thấy những hành động của gã thanh niên đối với cô gái đó, trong lòng cô lại nảy sinh những tư tưởng kỳ lạ. Trong thâm tâm cô bỗng nhiên cũng muốn được như cô ta, muốn được dựa dẫm, muốn được chăm sóc, bảo vệ, dù chỉ là một chút thôi.

Tư tưởng ấy vừa mới nhen nhóm, Ngọc Uyển đã ngay lập tức dập tắt nó. Cô cười cho cái sự ngây ngô của mình. Dựa dẫm vào người khác thì có gì là tốt, được chăm sóc, bảo vệ thì có gì là hay, như thế chỉ khiến cho người ta sinh ỷ lại và trở nên yếu mềm mà thôi. Cô gái xinh đẹp kia sống chết ra sao Ngọc Uyển không bận tâm, cái cô quan tâm là gã thanh niên lạ lùng ấy. Theo lời hắn ta nói, cô gái này là em gái hắn, nhưng qua cách cư xử và xưng hô giữa hai người, Ngọc Uyển không cho rằng họ là anh em. Anh em gì mà lại xưng ta - ngươi, tôi - cô như thế. Anh em không, tình nhân chắc chắn càng không. Ngọc Uyển ngầm quan sát gã thanh niên và nhận thấy rằng hắn không hề có tình ý gì với cô gái xinh đẹp ấy cả. Tình nhân không phải, cốt nhục tình thâm cũng không, ấy vậy mà tại sao hắn ta lại không do dự nuốt viên thuốc của cô, tại sao hắn ta lại đồng ý dùng mạng mình đổi lấy mạng cô gái ấy, trong khi cả hai không có bất kỳ quan hệ nào với nhau.
Ngọc Uyển càng nghĩ càng thấy gã thanh niên này rất thú vị. Hắn ta như một món đồ chơi mà Ngọc Uyển xưa nay chưa từng thấy, cũng chưa từng có, chính vì chưa từng có nên cô muốn sở hữu hắn. Và vì chưa biết chơi như thế nào nên cô càng muốn hắn ở bên cạnh mình, thuộc về mình. Một món đồ chơi thật tuyệt vời...

Ngọc Uyển vừa đi vừa suy nghĩ, cho đến khi đặt chân đến cuối lối đi. Nhìn cánh cửa liếp khép im lặng, Ngọc Uyển nhẹ mỉm cười, một nụ cười ngọt ngào đầy ranh mãnh. Cô chạm tay vào cánh cửa liếp, rồi nhè nhẹ mở ra và bước vào. Trong căn phòng bài trí đơn giản, gọn gàng, một chàng trai mặc áo vàng đang ngồi trên chiếc ghế gỗ, ánh mắt nâu trong suốt lướt theo những đường biên ngoằn ngèo của tấm bản đồ trải dài trên chiếc bàn tre. Bên cạnh chàng trai là một tách trà bốc khói nghi ngút. Nhìn thấy hình ảnh quen thuộc ấy, trái tim Ngọc Uyển đập nhè nhẹ. Cô chậm rãi tiến tới gần chàng trai, bờ môi đỏ mọng cất tiếng dịu dàng.

- Anh, em về rồi đây!



★ Chương 96

Do kịp thời đưa Ngọc Vũ đến doanh trại quân Nguyễn, lại thêm vị thầy lang chữa trị rất mát tay, thế nên chỉ sau ba ngày, bệnh tình của Ngọc Vũ đã thuyên giảm, chỉ còn phải uống thêm mấy thang thuốc để bồi bổ thì sức khỏe của cô sẽ hoàn toàn bình phục.

Trong thời gian Ngọc Vũ mê man trên giường bệnh, Anh Tú đã phải vất vả rất nhiều. Anh phải canh thuốc cho cô, bón cho cô từng muỗng thuốc, bát cháo, ban đêm còn phải trông chừng cô, đắp khăn lạnh lên trán cô thường xuyên để hạ sốt. Tỉ mỉ hơn, anh còn đốt thêm hương chống muỗi để Ngọc Vũ có thể an giấc. Chăm sóc cho Ngọc Vũ thật sự rất vất vả, nhưng do trước đây đã có kinh nghiệm chăm sóc Linh Lan khi con bé bệnh một trận nặng không thua gì Ngọc Vũ, nên Anh Tú chẳng phiền hà hay ca thán khi bỗng dưng phải đeo gông vào cổ như thế này.

Nhờ sự chăm sóc chu đáo của Anh Tú, Ngọc Vũ dần dần hồi phục, cô đã có thể ngồi dậy và dạo bước loanh quanh dù vẫn còn chóng mặt. Nhìn Anh Tú sắc thuốc, thổi nguội và kiên nhẫn bón cho cô từng muỗng, đôi mắt Ngọc Vũ chợt long lanh. Mấy ngày mê man trên giường bệnh, Ngọc Vũ đã mơ thấy rất nhiều ác mộng. Cô mơ thấy ngày mẫu thân cô qua đời, bỏ cô lại một mình cho bà nhủ mẫu già chăm sóc. Ngày ấy, cô khóc cạn hết nước mắt, nhưng người mẹ xinh đẹp, hiền từ của cô vẫn nhắm nghiền mắt, bàn tay ấm áp thường ngày lạnh dần, lạnh dần và vĩnh viễn ra đi.

Trong giấc mơ, Ngọc Vũ thấy mình đang đứng giữa Hoàng cung. Cả Hoàng cung lặng ngắt, điêu tàn và hoang phế, cây cỏ trong vườn ngự uyển đều úa màu. Xung quanh không có bóng dáng ai, chỉ có một mình cô trơ trọi, lạc lõng, nhìn quanh quất giữa Hoàng cung rộng lớn. Ngọc Vũ sợ hãi, chưa bao giờ cô cảm thấy sợ hãi đến thế. Trong mơ, cô chạy khắp Hoàng cung, miệng không ngừng gọi phụ hoàng và mọi người, nhưng đáp lại lời cô chỉ là một bầu không khí im lìm, chết chóc. Dãy hành lang nhện giăng khắp lối như kéo dài vô tận, nỗi hoang mang chiếm ngự tâm trí cô, khiến cô cảm thấy khó thở. Đột ngột, Ngọc Vũ cảm thấy những viên gạch nứt ra, mặt đất dưới chân cô rung chuyển và rồi tất cả đổ vỡ. Ngọc Vũ chới với, cả thân người cô rơi tuột xuống hố đen thăm thẳm ấy, hai chân cô vùng vẫy, hai cánh tay quơ quào mong nắm giữ lại được vật gì đó, nhưng tất cả đều vô vọng. Người cô rơi xuống mỗi lúc một sâu, dưới chân cô chỉ là một hố đen thăm thẳm, sâu hun hút đến rợn người. Ngọc Vũ gào thét trong truyệt vọng, cô vội mở mắt, hai hạt lệ trong vắt, ấm nồng chảy dài trên gương mặt xanh xao.

Khi Ngọc Vũ mở mắt, thứ đầu tiên mà cô nhìn thấy chính là Anh Tú. Anh đang ngồi bên cạnh cô, đôi mắt hiện rõ vẻ lo lắng khi nhìn thấy những nét đau khổ, sợ hãi in hằn trên gương mặt Ngọc Vũ. Nhìn thấy Anh Tú, Ngọc Vũ ngơ ngác, cô mấp máy môi nhưng cổ họng khô rát, mãi không thể thốt ra được lời nào

Mấy ngày nay đang lo lắng tại sao Ngọc Vũ mãi chưa tỉnh dậy, nay nhìn thấy cô mở mắt, Anh Tú không nén được tiếng thở phào nhẹ nhõm. Nhẹ nhàng đắp chiếc khăn ướt lên trán cô, Anh Tú mỉm cười, nụ cười đầu tiên của anh kể từ khi đặt chân đến doanh trại Nguyễn quân.

Mãi đến sau này, dù trải qua bao nhiêu đau khổ và cay đắng, Ngọc Vũ vẩn không bao giờ quên được nụ cười của Anh Tú khi ấy. Mở mắt ra nhìn thấy nụ cười đó, Ngọc Vũ cảm thấy lòng thanh thản và nhẹ nhõm. Cơn ác mộng trong cô dường như đã tan biến theo những làn mây trắng trôi trên cao.

Vì được chăm sóc chu đáo, bệnh tình của Ngọc Vũ đã nhanh chóng khỏi hẳn, Anh Tú nửa mừng nửa lo. Anh mừng vì Ngọc Vũ đã khỏi bệnh và lo vì có thể anh sẽ không thể hộ tống Ngọc Vũ quay trở về Bắc hà, bởi giờ đây mạng sống của anh không thuộc về chính mình, mà đã nằm trong tay cô gái tên Ngọc Uyển. Anh Tú thở dài. Nếu thật phải ở lại đây cùng Ngọc Uyển thì anh sẽ bắt buộc Ngọc Vũ phải thực hiện giao ước lúc trước của hai người, đó là Ngọc Vũ sẽ cử người đi hỏi thăm tin tức của Linh Lan và rước em gái anh về Hoàng cung, đoàn tụ với Bách Nhật, Nguyên Thục và Nguyên Thiên. Nếu tìm được và đưa Linh Lan bình yên vô sự về đoàn tụ với mọi người thì kể như không uổng chuyến đi đến Gia Định của anh lần này, và cũng coi như Ngọc Vũ đã đáp trả lại sự chăm sóc của anh bao lâu vậy.

Tuy Ngọc Vũ đã khỏi bệnh, nhưng cơ thể của cô còn rất yếu, vẫn cần phải bồi bổ nhiều, nên Anh Tú vẫn đều đặn sắc thuốc cho cô hằng ngày. Kể từ lúc Ngọc Uyển đưa cả hai vào doanh trại đến nay, Anh Tú chẳng thấy bóng dáng Ngọc Uyển đâu. Thế cũng tốt, anh nhủ thầm, gặp lại cô nàng ngang ngược ấy, biết đâu anh và cô ta lại chẳng xảy ra xung đột, cải vã, và nếu để Ngọc Vũ biết được giao ước một mạng đổi một mạng của Ngọc Uyển thì sẽ phiền phức to.

- Xem ra cô ta đã hoàn toàn khỏe hẳn rồi, đại phu của chúng ta quả thật cũng mát tay lắm.

“Vừa nhắc Tào Tháo, Tào Tháo tới liền, phải chi nhắc tiền nhắc bạc được như vậy cũng đỡ”, Anh Tú làu bàu trong bụng. Ngọc Uyển đang đứng trước cửa, vẫn chiếc áo đỏ tươi quen thuộc như lúc cả hai gặp nhau lần đầu tiên trong miếu hoang, bờ môi đỏ mọng hé nở nụ cười làm khuôn mặt cô bừng lên dưới nắng sớm. Biết quá rõ cá tính ngang ngạnh của Ngọc Uyển, nụ cười xinh đẹp đó chẳng mảy may làm Anh Tú động lòng. Cái gì càng rực rỡ, càng đẹp thì lại càng nguy hiểm. Ngọc Vũ thường ngày tuy hay ra lệnh cho người khác, nhưng chí ít cô cũng biết nghe và biết phân biệt đúng sai, còn cô gái này thì ngược lại. Người ta hỏi một đằng cô ta trả lời một nẻo, lúc hứng lên lại khiêu khích sức chịu đựng của người khác, cá tính lại bá đạo khôn lường. Nếu cứ dây dưa với cô ta, chẳng chóng thì chầy cũng sẽ rước họa sát thân.

Có vẻ như Ngọc Vũ sau cơn bạo bệnh, đầu óc vẫn chưa trở lại linh hoạt như thường ngày. Nhìn Ngọc Uyển đứng bên cạnh Anh Tú, môi nở nụ cười xinh, Ngọc Vũ cảm thấy bức bối trong lòng. Cô nhướng mắt, cất cao giọng nói.

- Cô đến đây làm gì?

Không thèm đưa mắt nhìn Ngọc Vũ, Ngọc Uyển đứng tựa lưng vào vách, hai tay khoanh lại nhìn Anh Tú sắc thuốc, lạnh lùng trả lời.

- Nhà ta, sao ta không được đến?

- Nhà của cô? - Ngọc Vũ trố mắt, giọng không giấu ngạc nhiên. Mấy hôm nay cô đã gặng hỏi Anh Tú rằng đây là đâu nhưng anh luôn né tránh và trả lời qua quýt, nay vỡ lẽ ra rằng đây là nhà của cô gái áo đỏ, Ngọc Vũ càng giận trong lòng. Nếu đây là nhà của cô ả thì anh cứ việc nói thẳng với cô, có gì mà phải giấu giấu diếm diếm như thế.

- Này, ngươi không nói với cô ta chuyện gì đã xảy ra sao?

- Tên tôi là Anh Tú, không phải là “này”

Anh Tú sửa lại lời Ngọc Uyển, anh đứng thẳng người lên, hai tay mang số thuốc đã sắc được cho vào chiếc nồi nhỏ rồi đậy nắp lại. Nhướng mắt nhìn Anh Tú, Ngọc Uyển mỉm cười, nụ cười ngọt ngào đến độ Ngọc Vũ thấy cô nàng này quả thật rất ngứa mắt mà chẳng hiểu vì sao.

- Đã chịu nói tên cho ta biết rồi cơ đấy, ngươi đối xử với ân nhân của mình như thế hay sao?! Ta tôn trọng ngươi thì ngươi cũng phải tôn trọng ta chứ, phải không?

Biết Ngọc Uyển cố ý nhắc lại câu nói mấy hôm trước, Anh Tú thở hắt ra một hơi vì không ngờ cô gái này lại nhớ dai đến thế. Ngẫm ra anh cũng có phần không đúng. Tuy là phải trả giá đàng hoàng, một mạng đổi một mạng, nhưng quả thật ở trong doanh trại quân Nguyễn, Anh Tú thật sự cảm thấy rất dễ chịu. Hiện đang thời buổi chiến tranh, đây là doanh trại của quân Nguyễn, theo như anh biết thì quân Nguyễn đang đối phó với Tây Sơn, nếu có người lạ từ bên ngoài vào, lẽ dĩ nhiên họ phải đề phòng và canh chừng sát sao. Thế nhưng, khi AnhTú tá túc ở đây, quân Nguyễn tuy có đi tuần ngang qua nhưng chẳng ai dòm ngó, hạch hỏi, hay gây khó khăn gì. Cứ ngày hai bữa, đại phu lại đến khám cho Ngọc Vũ, thậm chí ngay cả thức ăn và thuốc thang cũng có người đưa tới tận nơi chứ anh không phải tốn công tìm kiếm, như thế cũng đủ thấy Ngọc Uyển có uy tín trong quân Nguyễn, và hậu đãi anh như thế nào. Nghĩ đến đó, những ác cảm đối với Ngọc Uyển trong lòng Anh Tú dần lắng lại, anh quay sang Ngọc Uyển mỉm cười.

- Xin lỗi! Vì mấy ngày nay phải suy nghĩ nhiều quá nên tâm trạng tôi không được tốt. Nếu tôi làm cô phật lòng thì xin hãy bỏ qua cho.

Trước thái độ hòa hoãn của Anh Tú, Ngọc Uyển gật đầu hài lòng. Gã thanh niên này khi mềm khi rắn, quả là biết cách đối nhân xử thế, có được món đồ chơi thế này cũng không uổng số thuốc đã tốn trong mấy ngày qua. Trong khi Ngọc Uyển rất hài lòng, thì trái lại, Ngọc Vũ ngồi trên gường lại đang rất bực bội. Tại sao cô lại bực bội, Ngọc Vũ không biết, chỉ biết khi trông thấy Anh Tú và cô ả áo đỏ kia nói nói cười cười như thế, cô lại thấy khó chịu trong lòng, một sự khó chịu âm ỉ mà trước đây cô chưa từng trải qua bao giờ. Tại sao Anh Tú lại đưa cô đến tá túc trong nhà của cô ta, chẳng lẽ hắn ta không nhớ là đã phải chịu nhục như thế nào ở trong miếu hoang hay sao. Hay là hắn ta đã say mê sắc đẹp của cô gái ấy, cho nên mới bất chấp tất cả mà ở lại đây để được nhìn ngắm cô ta ngày ngày. Nghĩ tới đó, Ngọc Vũ thấy trong lòng bức bối, một cục tức dâng lên, nghẹn lại ở cổ, khiến gương mặt cô đỏ ửng lên như người say rượu.

Không biết những chuyển biến tâm lý phức tạp trong lòng Ngọc Vũ, Anh Tú lo lắng khi nhìn thấy gương mặt đỏ ửng của cô. Sợ căn bệnh của Ngọc Vũ đột ngột chuyển biến, Anh Tú đến bên cạnh giường, sờ tay lên trán để kiểm tra thân nhiệt cho cô và cất tiếng hỏi thăm.

- Ngọc Vũ, cô không sao chứ?

- Ta không sao hết, ngươi tránh ra đi!

Ngọc Vũ vùng vằng, cô hất mạnh tay Anh Tú ra, hành động đột ngột ấy khiến Anh Tú cau mày. “Mới ngoan ngoãn được vài hôm, nay lại giở thói công chúa ra rồi”, Anh Tú nghĩ thầm. Mặc cho sự giận dỗi vô cớ của Ngọc Vũ, Anh Tú không quan tâm cũng chẳng dỗ dành bởi cá tính vui buồn thất thường của cô anh đã hiểu quá rõ. Đưa mắt sang Ngọc Uyển, đang đứng dựa lưng vào vách, nhưng đôi mắt vẫn quan sát Anh Tú và Ngọc Vũ với sự ranh mãnh, Anh Tú hỏi dò.

- Cô đến đây có chuyện gì không?

- Không! - Ngọc Uyển chậm rãi đáp lời - Ta chỉ đến đây xem, bệnh tình cô gái đó đã thuyên giảm chưa, nay thấy cô ta khỏe mạnh thế, ta cũng an tâm phần nào. Anh Tú, ta đã thực hiện phần của mình, ngươi đừng quên giao ước giữa hai chúng ta đấy.

Hai từ giao ước vừa thoát ra khỏi đầu môi Ngọc Uyển, Ngọc Vũ nghe chẳng khác nào sấm động giữa trời quang. Cô sực tỉnh. Phải rồi, cô gái ngạo ngược này chẳng thà vất bỏ bốn con cá nướng còn hơn cho cô một con, vậy hà cớ gì lại chịu để cho cả hai đến tá túc trong nhà cô ta, cô ta mà lại tốt bụng đến thế sao? Giải thích cho tất cả những thái độ và hành động của Anh Tú, chỉ có thể kết luận một điều, chắc chắn là cô gái này thừa gió bẻ măng, nhân lúc người khác gặp hoạn nạn để ra yêu sách. Anh Tú hẳn là thấy cô nguy kịch nên phải chấp nhận yêu cầu của cô ta, bỏ qua sĩ diện mà đến đây tá túc vài hôm, lo chạy chữa.. Nhất định là thế rồi, nhất định Ngọc Uyển đã bắt Anh Tú phải thực hiện yêu cầu nào đó mới chịu chạy chữa cho cô. Anh Tú đã vì cô mà bất kể đến sĩ diện của mình, cô đã không biết ơn thì thôi, ban nãy lại còn dỗi hờn vô cớ như thế, Ngọc Vũ ơi là Ngọc Vũ, ngươi đúng là bệnh quá mà lú lẫn mất rồi.

Ngọc Vũ tự trách mắng mình, cô níu lấy tay Anh Tú, đôi mắt long lanh, miện ấp úng mãi mới nói được tròn câu.

- Anh Tú, ta... xin...lỗi ngươi. Ngươi đừng... giận ta...

Anh Tú ngạc nhiên nhìn Ngọc Vũ. Cô vừa mới xin lỗi anh. Nàng công chúa Bắc hà kiêu ngạo ngày thường nay lại biết thành tâm nhận lỗi với người khác, điều đó thật khiến anh vô cùng kinh ngạc. Đối với người bình thường, một lời xin lỗi đã rất khó nói, ấy thế mà một nàng công chúa vốn quen được chiều chuộng như Ngọc Vũ, nay lại có thể nói lời thành tâm xin lỗi anh như thế, âu cũng là đã cố gắng sửa đổi lắm rồi. Anh Tú mỉm cười, anh xoa đầu cô hài lòng, cử chỉ dịu dàng đó khiến gò má Ngọc Vũ ửng hồng lên. Ban nãy gương mặt cô còn đỏ phừng như thế, nay thoắt cái đã chuyển sang sắc hồng, trông đáng yêu lạ thường.

- Anh Tú, ta muốn biết ngươi đã giao ước gì với cô ta. Ngươi nói đi!

Ngọc Vũ tha thiết hỏi, cô nắm lấy tay Anh Tú, bàn tay nhỏ nhắn run nhẹ trong tay anh. Nhìn biểu hiện của Ngọc Vũ, Anh Tú càng không muốn nói ra giao ước giữa anh và Ngọc Uyển. Nếu như Ngọc Vũ biết anh đã dùng mạng để đổi lấy mạng của Ngọc Vũ, biết anh không thể đưa cô trở về Bắc hà nữa thì Ngọc Vũ sẽ phản ứng như thế nào? Anh Tú thở dài, có lẽ anh đã cả nghĩ quá rồi, có lẽ Ngọc Vũ sẽ không quá hoang mang như anh đã hình dung. Đối với cô, anh dẫu sao cũng chỉ là một tiểu hoàn môn, mất người này thì có người khác, huống chi cô còn có anh chàng cận vệ Diệu Đức võ công trác tuyệt, vô cùng trung thành kia. Không có anh, vẫn còn có Diệu Đức hộ tống Ngọc Vũ về Bắc hà an toàn. Ai chứ Diệu Đức thì Anh Tú rất an tâm. Chỉ mong khi đã an toàn về đến Bắc hà thì Ngọc Vũ hãy nhớ đến lời hứa của cô đối với anh, nể tình anh đã không nề công, tận tình chăm sóc cô mấy ngày qua mà cho người tìm kiếm Linh Lan và đưa em gái anh về Hoàng cung. Được như thế âu cũng là điều an ủi lớn nhất cho anh rồi.

- Xin lỗi! Tôi được Dương đại phu nhờ đưa thuốc đến, xin hãy ra nhận thuốc đi ạ.

Anh Tú còn đang mải suy nghĩ thì một giọng nói dịu dàng từ bên ngoài bất chợt vang lên. Giọng nói ấy nhỏ nhẹ, không quá lớn, chỉ đủ để người bên trong nghe thấy, nhưng đối với Anh Tú chẳng khác nào sét nổ bên tai. Trước đôi mắt ngạc nhiên của Ngọc Vũ và Ngọc Uyển, Anh Tú đứng phắt dậy và lao nhanh ra ngoài như một mũi tên. Đứng trước mặt anh là một cô gái vận chiếc áo màu hoa thiên lý, trên tay là ba gói thuốc được xâu thành một chuỗi, cùng với nụ cười dịu dàng. Vừa nhìn thấy Anh Tú, cô gái dường như cũng kinh ngạc không kém, đôi mắt hạnh của cô mở to, một nụ cười quen thuộc nở trên môi, khiến cả gương mặt cô bừng sáng như ánh mặt trời.

- Bách Nhật!!

Anh Tú mừng như điên khi nhận ra cô gái đó chẳng ai xa lạ mà chính là Bách Nhật. Gặp được bạn thân ở nơi lửa đạn, xa xôi, trong lòng Anh Tú dâng lên niềm vui choáng ngợp cả tâm trí. Anh Tú chạy như bay về phía Bách Nhật, hai tay ôm choàng lấy bạn và nâng bổng Bách Nhật lên rồi cất tiếng cười sảng khoái.

Về phần Bách Nhật, dường như vẫn chưa hết ngỡ ngàng vì gặp được Anh Tú ở đây, phải mất một lúc sau nó mới ý thức được rằng Anh Tú đột ngột bế thốc mình lên như một cô bé con.

- Bách Nhật! Sao bà lại ở đây? Nếu tôi nhớ không lầm thì lẽ ra bà phải đang ở Bắc hà, bên cạnh Nguyên Thục kia mà!!

- Gặp được ông ở đây tôi cũng bất ngờ lắm. Ông thả tôi xuống đi, vào nhà tôi kể hết mọi chuyện cho ông nghe.

Là một cô gái kín đáo, Bách Nhật không quen bị người khác ẵm lên như thế, dù vui mừng không kém bạn, nó vẫn nhẹ nhàng nhắc nhở Anh Tú thả mình xuống. Biết khi nãy vì quá vui mừng mà có hành động thất thố, Anh Tú cười khì, anh đặt Bách Nhật xuống, ngắm nhìn Bách Nhật kỹ càng từ đầu tới chân. Đã lâu không gặp, Anh Tú nhận ra bạn mình đã có nhiều thay đổi. Mái tóc mượt mà của Bách Nhật nay dài hơn, được tết thành hai bím gọn gàng, nước da trắng của Bách Nhật không ăn nắng, nên khi ở ngoài trời, hai má của cô hồng lên, trông duyên dáng và đằm thắm lạ kỳ. Như đã từng nói, Anh Tú không chú ý đến những cô gái nhìn qua là biết đẹp, anh chỉ thích những cô gái có duyên ngầm, điển hình như Bách Nhật. Ở cô, Anh Tú thích nhất nụ cười rạng rỡ, làm bừng sáng cả khuôn mặt trái xoan dịu dàng. Lâu ngày nhìn thấy nụ cười như hoa mặt trời ấy, Anh Tú cảm thấy lòng ấm lại. Bách Nhật bao giờ cũng thế,sự hiện diện của cô luôn làm người khác cảm thấy bình yên.

Ngồi bên trong nhà nhìn ra ngoài, thấy Anh Tú ôm ấp một cô gái lạ, nét mặt tỏ ra vui mừng, ánh nhìn thì dịu dàng, trìu mến, Ngọc Vũ cảm thấy trái tim thắt lại. Đã quen với Anh Tú từ lâu, nhưng chưa bao giờ cô thấy anh có biểu hiện như thế. Đối với cô, anh một là cau mày, hai là không quan tâm, khá khẩm nhất cũng chỉ là mỉm cười, chứ chưa bao giờ hớn hở như vậy. Cô gái này tên là Bách Nhật, em gái của Anh Tú tên là Linh Lan, thế nên tất nhiên cô gái tên Bách Nhật này không phải là em gái anh. Nếu không phải em gái mà Anh Tú lại mừng rỡ thì đủ biết cô gái ấy quan trọng với anh biết bao, có lẽ cô ta là người trong mộng của Anh Tú cũng không biết chừng...

Nghĩ đến đó, Ngọc Vũ mím môi. Một nỗi hờn tủi từ đâu trào lên, chiếm ngự lấy cô. Cõi lòng cô nặng trĩu, trái tim cô ngẹn lại, bức bối và khó thở hơn cả lúc nãy, khi nhìn thấy Ngọc Uyển... Hình ảnh trước mắt trở nên nhạt nhòa. Cô cảm thấy giận Anh Tú, giận anh ghê gớm. Không muốn nhìn cảnh tượng đau lòng ấy thêm một giây nào nữa, Ngọc Vũ nằm xuống. Cô kéo chăn trùm kín đầu, mắt nhắm nghiền và hai tay bịt chặt lấy tai, như không muốn nghe tiếng Anh Tú tíu tít với cô gái kia.

Không giận dỗi ra mặt như Ngọc Vũ, nhưng nhìn thấy biểu hiện thân thiết của Anh Tú, đôi mắt Ngọc Uyển lại lóe lên những tia sáng kỳ lạ. Cô gái này là nữ lang y đã chăm sóc cho Hoàng huynh Phúc Điển của cô khi anh ấy bị thương, kẹt lại phía sau. Trước đây cô không để ý đến cô gái này mấy, nhưng hôm nay nhìn thấy sự quyến luyến của gã thanh niên đó dành cho cô ta thì Ngọc Uyển đâm ra không thích cô ta. Đã nói Anh Tú thuộc sở hữu của Ngọc Uyển, là đồ chơi của cô, thì cô phải có toàn quyền sử dụng món đồ chơi này. Cô không cho phép ai động đến nó, càng không muốn món đồ chơi của cô tỏ ra thích thú, quan tâm tới bất cứ ai ngoại trừ cô.

Ngọc Uyển nhếch môi. Nhìn Bách Nhật và Anh Tú tíu tít với nhau như thế đã quá đủ, cô tiến tới, không nói không rằng, vươn tay véo thật mạnh vào tai Anh Tú. Đang có bao nhiêu chuyện cần hỏi Bách Nhật, nay bị Ngọc Uyển véo vào tai đột ngột thế, Anh Tú “á” lên một tiếng, anh quay sang Ngọc Uyển, trừng mắt vì hành động bạo lực vô lý của cô.

- Cô làm gì vậy?

- Không được đứng trước mặt ta mà nói cười thơn thớt như thế, có biết ngươi đang làm ta xốn mắt không?

- Gì...gì chứ?

Anh Tú ấp úng vì không ngờ Ngọc Uyển lại nói thẳng thừng như thế, và cũng không hiểu cô muốn ám chỉ điều gì. Gặp lại Bách Nhật, anh còn đang mừng không để đâu cho hết, thế thì liên quan gì mà Ngọc Uyển lại bảo anh làm thế khiến cô xốn mắt, thật chẳng hiểu cô gái này có biết lý lẽ là gì hay không nữa. Chẳng để cho anh kịp phản bác, Ngọc Vũ lại nắm lấy tai Anh Tú mà véo mạnh một cái. Cô ra tay mạnh đến nỗi vành tai của Anh Tú ửng đỏ, mặt anh nhăn nhó, sau đó cô liếc mắt về phía Bách Nhật, cất giọng lạnh lùng.

- Đây là nhà ta, không phải nhà các ngươi. Các ngươi làm gì sau lưng ta, ta không quan tâm, nhưng công khai trước mặt ta thì ta không chấp nhận. Lần sau mà còn như thế thì coi chừng cái mạng của ngươi đó.

Nói xong, Ngọc Uyển liếc Anh Tú một cái. Ánh mắt cô sắc đến nỗi Anh Tú phải thấy rùng mình. Cô gái này tính cách vô cùng thất thường, ban nãy còn cười ngọt ngào như mật ong, vậy mà thoắt cái đã như hai người xa lạ chẳng liên quan tới nhau. Ngọc Uyển nhếch môi, cô quay người bỏ đi sau khi ném thêm cái nhìn băng giá về phía Bách Nhật, làm nó vô cùng ngạc nhiên vì không hiểu đã làm gì khiến Ngọc Uyển khó chịu đến thế.

Nhìn Ngọc Uyển mất hút sau những lùm cây, Anh Tú hừ nhạt một tiếng. Không bận tâm đến cách khu xử kỳ lạ của Ngọc Uyển, anh nắm tay Bách Nhật trở vào nhà để làm sáng tỏ những thắc mắc đang lởn vởn trong đầu mình.

oOo

Trong căn phòng bài trí đơn sơ, ánh nắng từ khung cửa sổ tràn vào, soi tỏ gương mặt thanh tú của một chàng trai áo trắng. Chàng trai đang ngồi trên một chiếc đôn nhỏ, tay xoay xoay chén trà, đôi mày thanh tú hơi nhíu lại dường như đang bận tâm về một chuyện nào đó, trong khi bạn thân của anh, Nguyễn Ánh, lại đang chăm chú xem những tin tức mà Nguyễn quân vừa mới đưa về, chàng trai ấy chính là Ưu Phong.

Đối với Ưu Phong, mỗi khi đi thăm bạn bè, bao giờ anh cũng là người im lặng, cân nhắc những gì cần nói và những gì không nên nói. Lần trước đi thăm Trịnh Khải, Ưu Phong chỉ hỏi han đến những chuyện thường ngày, chứ không bao giờ động đến chính trị hay tình hình chiến sự xảy ra trong và ngoài phủ chúa. Bây giờ cũng vậy, nhân lúc đến Gia Định tìm Ngọc Vũ khi nghe được tin Tiểu Cúc báo lại, Ưu Phong tranh thủ đến thăm Nguyễn Ánh vì cả hai lâu rồi chưa gặp nhau. Không khó khăn mấy để anh tìm được nơi đóng quân của Nguyễn Ánh bởi cả hai có những phương pháp riêng trong việc liên lạc, nhưng ngoài những chuyện chung ra thì cuộc hội ngộ trò chuyện của họ không đả động gì đến những chuyện khác. Anh là người của giang hồ, anh không muốn dính dáng đến chuyện chiến tranh, tranh giành quyền lực của người khác, trong khi bạn bè anh đa phần đều là những người hai vai mang nặng trách nhiệm đối với dòng tộc của mình.

Nhìn đôi mày kiếm của Nguyễn Ánh nhíu lại khi lướt mắt qua một cuộn giấy, Ưu Phong biết rằng Nguyễn Ánh đang dành nhiều tâm sức để xây dựng lại lực lượng, tiếp tục chống Tây Sơn. Kể cũng lạ, những người bạn anh quen, tuy ngẫu nhiên nhưng vô hình chung lại là kẻ thù của nhau. Văn Bình là Long Nhương tướng quân của Tây Sơn, Nguyễn Ánh là chúa của nhà Nguyễn, Trịnh Khải là Đoan Nam vương, còn thằng cháu Duy Khiêm của anh đã được tấn phong làm thái tử, nay mai sẽ thừa kế ngai vàng. Bốn người, bốn thế lực tách biệt hùng cứ trên khắp đất nước. Cuộc chiến giữa họ, từ lâu anh đã nhận ra, nhưng anh không thể nghiêng về phía ai, cũng không thể can thiệp vào. Đành là một người đứng ngoài bàng quan, nhưng tuyệt đối anh sẽ không ngoảnh mặt làm ngơ nếu bạn bè cần giúp đỡ, trong phạm vi có thể của anh.

- Ưu Phong, tôi nghe mọi người đồn rằng cậu sắp lấy vợ, phải thế không?

Đang nhìn vạt nắng xuyên qua làn khói mỏng manh thoát lên từ chén trà trên bàn, Ưu Phong ngẩng đầu lên khi giọng nói trầm ấm của Nguyễn Ánh phá tan không gian yên lặng. Nhiều tháng trước, anh phải vội vã rời khỏi Hương Sơn cũng là vì chuyện này, ngay cả Nguyễn Ánh là người ngoài mà cũng nghe chuyện thì đủ biết cái tin này đã lan rộng đến mức nào. Chẳng trách Ngọc Vũ từ Hoàng cung lặn lội vào Quy Nhơn để tìm gặp anh.

- Cậu tin sao?

Đáp lại câu hỏi của Ưu Phong chỉ là một nụ cười của Nguyễn Ánh, nụ cười lửng lơ đó khiến Ưu Phong tủm tỉm. Nguyễn Ánh bao giờ cũng rất bí mật, không ai biết anh đang nghĩ gì trong đầu, và tất nhiên Ưu Phong cũng thế. Mỗi người cất giữ một bí mật, Ưu Phong cũng không muốn biết hay khám phá bí mật ấy là gì, bởi bản thân anh cũng đang cất giữ nhiều bí mật không muốn người khác khám phá ra.

 Thời gian đã không còn sớm, câu chuyện giữa anh và Nguyễn Ánh đã hết từ lâu, nhưng anh vẫn muốn ngồi nán lại thêm chút nữa để thưởng thức cái vị trà vừa ngọt, vừa chát chỉ riêng Nguyễn Ánh mới có. Phải rồi, vị trà vừa ngọt vừa chát, Ưu Phong chưa hỏi Nguyễn Ánh điểm thú vị này là gì.

- Ánh, trên đời này tôi đã uống rất nhiều loại trà. Trảm Mã trà, Ô Long trà, Mạn trà,… nhưng loại trà có vị ngọt, chát là lạ như thế này tôi mới uống qua lần đầu đấy, đây là trà gì thế?

Rời mắt khỏi cuộn giấy, Nguyễn Ánh quay người lại. Đôi mắt nâu trong suốt lướt qua một tia sáng nhỏ, mơ hồ. Nhìn chén trà trong tay Ưu Phong, Nguyễn Ánh mỉm cười.

- Chén trà mà cậu đang uống không phải loại trà nổi tiếng nào cả, nó chỉ đơn giản là một chén trà tươi pha với ít đường mà thôi.

- Trà pha đường?

Ưu Phong ngạc nhiên hỏi lại, xưa nay anh chưa từng nghe thấy ai thưởng thức trà bằng cách pha với đường như thế bao giờ. Nghĩ trong lòng là thế nhưng anh cũng không hỏi gì thêm nữa, uống một hơi cạn sạch, Ưu Phong đặt chén trà xuống bàn rồi ung dung đứng lên. Đã đến lúc anh phải đi, Gia Định là nơi chiến tranh loạn lạc, mấy ngày qua anh đã cất công đi tìm nhưng vẫn chưa nhận được tin tức gì của Ngọc Vũ. Nếu như Ngọc Vũ mà có mệnh hệ nào thì anh chắc chắn sẽ ân hận suốt đời.

- Tôi đi đây. Một ngày nào đó tôi sẽ lại tìm đến cậu.

- Được!

Nguyễn Ánh đáp lại bằng một tiếng “được” gọn gàng. Thế và chỉ có thế, không một lời chúc, không một tiếng chào,cũng không có câu từ biệt, nhưng Ưu Phong hiểu rằng như thế mới là Nguyễn Ánh. Nếu anh mà đứng lên tỏ rõ lưu luyến thì Ưu Phong quả thật thấy không tự nhiên chút nào.

Khép lại cánh cửa liếp, Ưu Phong ngẩng nhìn bầu trời trên cao. Hôm nay trời trong xanh, gió dìu dịu, rất thích hợp cho công việc tìm kiếm Ngọc Vũ. Anh ung dung sải bước ra ngoài, đôi mắt dõi theo một cánh chim trắng tan trong những đám mây. Chính vì mải nhìn theo cánh chim ấy, đến một ngã quẹo, Ưu Phong không để ý đến một người bất thần tiến ra. Kết quả là người ấy va phải anh, khiến anh giật mình nhìn xuống và cất lời xin lỗi vì sự vô ý của mình theo thói quen. Khi nhìn rõ dung mạo của người mà anh vừa va phải, Ưu Phong ngạc nhiên ngẩn người ra.

 Trên đời này, anh vốn không tin số mệnh, cũng chẳng tin vào hai chữ ngẫu nhiên hay duyên nợ, thế nhưng giờ đây, ở nơi xa xôi thế này, chính anh đang tỏ ra kinh ngạc vì sự tình cờ đến không ngờ đang xảy ra trước mắt mình. Người anh vừa đụng trúng ấy, không ai khác chính là cô gái có nụ cười như ánh mặt trời- Bách Nhật.

Và Bách Nhật cũng đang nhìn anh. Sững sờ...



★ Chương 97

Về phần Bách Nhật, trong lúc ra ngoài để mua thêm thuốc về cho quân y ở Gia Định, nó đã bị một chàng trai lạ mặt bắt cóc về chữa trị cho chủ nhân của anh ta. Thì ra chủ nhân của chàng trai lạ mặt ấy là Nguyễn Phúc Điển, em trai của Nguyễn Ánh, kẻ thù của Tây Sơn, điều đó xác định rằng nó đã lọt vào tay quân Nguyễn.

Tất nhiên rơi vào tay quân Nguyễn, Bách Nhật không bao giờ nói ra chuyện nó là người trong Tây Sơn. Đơn giản bây giờ nó chỉ là một cô gái biết y thuật, không nỡ ngoảnh mặt làm ngơ khi người khác bị thương, cho dù đó có là Tây Sơn hay quân Nguyễn đi nữa. Giữa đôi bên có là kẻ thù của nhau, có chiến tranh chém giết liên miên nó không cần biết, chỉ biết nó là thầy lang và trách nhiệm trên hết của nó là cứu người mà thôi.

Không để bụng chuyện bị bức ép, Bách Nhật đã tận tâm cứu chữa cho Phúc Điển, kết quả là vết thương sâu trên vai của anh dần hồi phục. Cá tính Bách Nhật không thích xen vào chuyện của người khác, nó chỉ tận tâm với vai trò thầy thuốc của mình nên ngoài những giờ thay băng, liệt kê đơn thuốc ra, nó không bao giờ lai vãng đến chỗ của Phúc Điển. Kể từ khi buộc phải theo Phúc Điển về doanh trại Nguyễn quân, Bách Nhật ngoài việc chăm sóc cho anh, thời gian rỗi, nó còn chuẩn trị cho khá nhiều quân lính bị thương. Vì doanh trại canh gác khá nghiêm ngặt, bất kể ai lang thang bên ngoài khi chưa được sự cho phép đều bị trị tội, nên Bách Nhật phải thận trọng vô cùng. Nó là người ở trong Tây Sơn, giữa lòng địch mà để họ phát hiện ra thân phận thật, e nó sẽ gặp nhiều rắc rối. Cẩn tắc vô ưu, chi bằng hạn chế tiếp xúc chừng nào hay chừng nấy, bảo toàn tính mạng trước rồi mới tìm cách thoát ra khỏi hang hùm.

Ban đầu, những người lính trong quân Nguyễn khá cẩn mật đối với nó. Dần dà, họ nhận thấy Bách Nhật chỉ toàn tâm toàn ý vào công việc, chẳng có ý định muốn khám phá hay có hành động khả nghi nào nên dần nới lỏng kiểm soát. Thậm chí họ còn coi sự có mặt của Bách Nhật trong quân Nguyễn là điều tất nhiên, bởi thầy lang trong đội ngũ của họ khá ít. Hôm nay, Bách Nhật được Dương đại phu nhờ đem thuốc đến cho một bệnh nhân ở căn nhà lá phía đông, do ông đang bận tay chăm sóc cho người lính chẳng may bị rắn cắn. Theo lời Dương đại phu, Bách Nhật được một người lính chỉ dẫn căn nhà lá phía đông, và nó thật không thể ngờ tại nơi này nó lại có thể hội ngộ cùng Anh Tú, người mà nó nghĩ rằng hiện tại đang yên phận ở Bắc hà mới phải.

Gặp lại Anh Tú, Bách Nhật vừa kinh ngạc vừa vui mừng. Nó kinh ngạc là vì không biết tại sao Anh Tú lại có mặt ở chốn heo hút này, và vui mừng vì ít ra nó vẫn còn có người thân bên cạnh. Trước mặt Anh Tú, Bách Nhật lặng người đi một lúc, rồi sau đó mới lấy lại cảm giác khi Anh Tú ôm nó vào lòng. Vốn là một cô gái kín đáo, sự kinh ngạc và vui mừng của Bách Nhật chỉ ánh lên một khoảnh khắc trong đôi mắt xám tro, rồi sau đó lại êm ả như ban đầu, dù ngón tay út của nó không ngừng run nhẹ.

Anh Tú hớn hở cầm lấy gói thuốc, anh dẫn Bách Nhật vào nhà rồi nhanh chóng kéo ghế cho nó ngồi. Bách Nhật vừa ngồi xuống, còn chưa kịp nói câu nào thì Ngọc Vũ đang trùm chăn, nằm im trên giường bỗng bật dậy, khiến cả hai giật mình vì hành động đột ngột ấy của cô. Nhìn đăm đăm Bách Nhật, Ngọc Vũ nhíu mày khi nhận thấy cô gái này tuy không đẹp, nhưng sự hồn hậu, dịu dàng của cô ta khiến người khác ít nhiều cũng có thiện cảm. Chẳng lẽ gã Anh Tú kia vì thế mới tỏ ra thắm thiết với cô ta đến thế, chẳng lẽ hắn thật sự cảm mến cô nàng rồi hay sao.

Ngọc Vũ còn đương phỏng đoán thì Anh Tú đã nhìn quanh quất kiểm tra, đến khi chắc chắn không còn người ngoài thì anh chỉ vào Bách Nhật tươi cười.

- Giới thiệu với bà, đây là Ngọc Vũ - công chúa Bắc hà. Ngọc Vũ, còn đây là Bách Nhật, bạn thân của tôi. Hai người làm quen nhau đi.

Anh Tú vừa nói dứt, đôi mắt Ngọc Vũ chợt trở nên lấp lánh, Ngọc Vũ nghe tiếng trái tim đập khe khẽ, và tiếng thở phào nhẹ nhõm của chính mình. Thì ra cô ta chỉ là bạn thân của Anh Tú, lâu năm không gặp, dĩ nhiên có thái độ thân thiết cũng là điều dễ hiểu. Ngọc Vũ gật gù như vừa vỡ lẽ ra một chuyện nào đó, đôi mày liễu đang cau lại liền giãn ra, bóng mây u ám che phủ gương mặt xinh xắn đã tan biến. Trong lòng Ngọc Vũ như có từng cơn gió mát dìu dịu thổi, khiến tâm hồn cô thư thái lạ thường. Cô nhìn Bách Nhật mỉm cười thân thiện, trái ngược hẳn với vẻ khó chịu ban đầu của mình.

Nhìn những thay đổi trên gương mặt Ngọc Vũ, Bách Nhật tuy không tường tận nguyên nhân tại sao nhưng cũng đã đoán được phần nào. Ngay từ lúc gặp mặt nàng công chúa ấy, Bách Nhật đã tinh ý nhận ra rằng cô dường như không thích nó. Đến khi nghe Anh Tú giới thiệu nó là bạn thân, thì cô ấy rõ ràng đã tươi lên đôi chút. Trước sự thân thiện của Ngọc Vũ, Bách Nhật cũng mỉm cười chào lại. Đợi cho hai người đã qua màn chào hỏi, Anh Tú liền bắt ghế ngồi đối diện Bách Nhật, anh nôn nóng muốn biết chuyện gì đã xảy ra cho nó, và tại sao nó lại lưu lạc đến đây. Dù trong bụng cũng đang thắc mắc hệt Anh Tú, nhưng trước sự nôn nóng của bạn, Bách Nhật tạm gác thắc mắc của mình qua một bên, và bắt đầu thận trọng thuật lại cho Anh Tú những gì đã xảy ra đến với mình.

Ngồi bên cạnh Bách Nhật, Anh Tú chăm chú lắng nghe những lời nó kể, đến khi nghe Bách Nhật bảo Linh Lan đang ở Quy Nhơn, Anh Tú hầu như không tin vào tai mình. Anh đã buộc Bách Nhật dừng lại, kể lại thật chi tiết ba bốn lần, đến nỗi Bách Nhật phải thuộc lòng. Qua lời Bách Nhật, Anh Tú mừng đến muốn nhảy cẫng lên khi nghe tin Linh Lan hiện đang ở tại Quy Nhơn. Chưa hết, em gái anh vô cùng khỏe mạnh và còn ở trong Tây Sơn, nơi có Quang Trung hoàng đế, nhân vật được lịch sử nước nhà ca tụng nhiều nhất.
Trước thông tin quý giá ấy, Anh Tú như người đi trên mây. Anh gặn hỏi Bách Nhật hàng trăm lần rằng điều đó có thật không. Anh phải tự nhéo vào má mình để biết rằng đây không phải là một giấc mơ. Trong tất cả những quyết định của Anh Tú, anh cảm thấy quyết định theo Ngọc Vũ rời khỏi cung là sáng suốt nhất, chỉ đáng tiếc là anh cũng đã đến Quy Nhơn, cũng dừng chân ở đó nhưng lại không gặp được Linh Lan. Nhưng trong cái rủi có cái may, dù rời Quy Nhơn đến Gia Định, nhưng ít nhất thì anh đã gặp được Bách Nhật, và nhờ gặp được Bách Nhật nên mới biết đứa em gái yêu quý của anh lại đang ở Quy Nhơn.

Linh Lan đang ở Quy Nhơn, em gái anh khỏe mạnh hơn bao giờ hết, mừng quá đi thôi, tạ ơn trời phật, tạ ơn trời phật. Biết được tin tức của Linh Lan sau bao nhiêu ngày tìm kiếm vô vọng, anh chẳng khác nào người chết vừa mới sống lại. Anh mừng như chưa bao giờ mừng đến thế, vui như chưa bao giờ vui đến thế. Trong phút chốc, anh chỉ mong mỏi sao cho mình đang có mặt ở Quy Nhơn để hội ngộ cùng Linh Lan, để được nhéo yêu vào đôi má của con bé, để tin chắc rằng em gái anh đang hiện hữu trước mặt anh, và để chấm dứt những con ác mộng triền miên mỗi đêm dài.

Bách Nhật yên lặng để niềm vui của Anh Tú lắng xuống, rồi sau đó đến lượt nó cần phải hỏi để biết tại sao Anh Tú lại có mặt ở đây. Đang nôn nao vì tin tức của Linh Lan, Anh Tú nói câu nọ xọ câu kia, liên miên lan man chẳng rõ đầu đuôi, đến nỗi Ngọc Vũ, vốn không tham dự vào câu chuyện giữa nó và Anh Tú, cũng phải chen lời vào, kể thay.

- Chuyện là thế này. Ta nghe tin Hoàng huynh của ta, hiện là cung chủ Tử Phụng cung sẽ lấy vợ, thế nên ta mới cùng hắn đến Quy Nhơn để dự đám cưới. Nào ngờ đến nơi, thuộc hạ của huynh ấy lại nói rằng huynh ấy đã đến Gia Định để tổ chức tiệc cưới, cho nên cực chẳng đã, ta phải cùng hắn xuống Gia Định để tìm huynh ấy. Số trời run rủi, Gia Định đang có chiến tranh, ta ở Gia Định ba ngày không tìm được Hoàng huynh bèn lên đường trở về Bắc Hà...

Ngọc Vũ còn kể nhiều, nhưng những lời sau của Ngọc Vũ, Bách Nhật không nghe được gì nữa. Mọi thứ trước mắt nó trong phút chốc chợt trở nên mơ hồ, và bên tai nó chỉ còn nghe loáng thoáng tiếng của Ngọc Vũ. Nó cảm thấy mình đang trôi xa, trôi rất xa. Gương mặt nó bất động, đôi mắt xám tro quạnh hiu, cảnh vật trước mắt nhạt nhòa tưởng chừng như nó đang nhìn qua màn mưa. Bách Nhật mím môi, đôi bàn tay nhỏ nhắn nắm lấy mép áo, xiết chặt. Cánh môi dưới của nó run nhẹ, run nhẹ, những cử động ấy rất nhỏ, nhỏ và vô thức đến nỗi bản thân Bách Nhật cũng không cảm thấy gì.

Sau khi nghe tin Ưu Phong đi lấy vợ, Bách Nhật cảm thấy mệt mỏi. Tâm hồn nó chùng xuống, dường như mọi niềm vui thú trên thế gian này đều trôi sượt qua nó, mất tăm. Dù biết sẽ rất bất nhã với Anh Tú nhưng nó không còn cảm giác muốn trò chuyện thêm nữa. Giao thuốc cho Anh Tú xong, Bách Nhật nhanh chóng rời khỏi căn nhà lá, để lại sau lưng ánh mắt lo lắng của Anh Tú khi phát hiện những thay đổi bất thường của nó.

Bách Nhật thả bộ về phòng nhưng tâm trí lại trống rỗng, chẳng thể nghĩ suy được gì. Ưu Phong lấy vợ. Cũng phải thôi, trai lớn dựng vợ, gái lớn gả chồng, đó là điều tất yếu của cuộc sống, chuyện đó thì có can dự gì đến nó đâu. Có gì can dự đến nó đâu mà tại sao lòng nó lại trống rỗng như vừa đánh mất một cái gì đó, rất nhỏ, rất mơ hồ nhưng cũng rất tiếc nuối. Lần đầu tiên nó lại để đánh mất bản thân mình, lần đầu tiên nó không thể làm chủ bản thân, không thể làm chủ cảm xúc và không thể hiểu nổi bản thân mình muốn gì. Chuyện gì đang xảy ra với nó, chuyện gì đang xảy ra...

Chính vì bước đi trong tâm trạng miên man nên Bách Nhật đã không để ý gì đến xung quanh, kết quả là nó đã đụng phải một người. Khi ngước lên, định bụng nói lời xin lỗi thì Bách Nhật chẳng thể thốt nên lời. Hiện ra trong đôi mắt xám tro của nó là một chàng trai áo trắng, gương mặt thanh tú, phong sương của anh khiến trái tim Bách Nhật thắt lại. Người đó không ai khác lại chính là người nó đang nghĩ đến lúc này, người đã khiến nó trở nên mất kiểm soát với bản thân. Đó chính là Ưu Phong.

Trên đời này thật có chuyện “hữu duyên thiên lý năng tương ngộ” hay không, Bách Nhật không biết, chỉ biết ngay giờ phút này, nhìn chàng trai áo trắng đang hiện hữu trước mặt, nhìn nụ cười phong trần ngày nào trên gương mặt ấy, đôi mắt xám tro của Bách Nhật mở to, bất động và sững sờ. Nó không thể tin Ưu Phong đang hiện hữu trước mắt nó, nó không thể tin trên đời này lại có sự ngẫu nhiên trùng hợp đến thế. Chính vì không thể tin vào mắt mình nên Bách Nhật khẽ nhắm mắt lại rồi mở ra. Ưu Phong vẫn đứng đó, không tan biến, tà áo trắng bay phất phơ như áng mây trắng trên cao, ánh mắt nửa như cười nửa lại như không. Bách Nhật chớp mắt, chớp mắt, rồi lại chớp mắt, những hình cảnh, cảm xúc trong lòng lũ lượt tràn về, ùa vào, quây kín trái tim nó. Trong đời Bách Nhật, chưa bao giờ nó cảm thấy bản thân khó hiểu đến thế. Thứ cảm xúc buồn có, vui có, giận có và hờn trách cũng có, và sâu thẳm đâu đó còn có cả sự nhớ nhung tích tụ qua bao ngày tháng. Tất cả vỡ ra, dồn dập như những đợt sóng nối nhau vỗ vào bờ, nhưng trái tim Bách Nhật lại quá nhỏ bé, nó chỉ biết lặng người đi một lúc lâu chứ không sao thốt nên được lời nào...

Ưu Phong hiện giờ đang chuẩn bị cưới vợ. Ngọc Vũ từ Bắc hà lặn lội xuống Gia Định là để dự tiệc mừng của anh. Những lời đó lao xao trong trái tim Bách Nhật, khiến nó thảng thốt. Cảm xúc của nó như một tấm gương rơi xuống đất, vỡ tan, những mảnh nhọn của chiếc gương ấy găm vào tim nó, thật sâu, thật đau, khiến nó cảm thấy hụt hẫng và khóe mắt cay cay.

- Bách Nhật! Đã lâu không gặp, cô vẫn khỏe chứ?

Ưu Phong là người lên tiếng trước. Tuy anh vẫn còn đang kinh ngạc vì không ngờ sẽ gặp lại Bách Nhật ở đây, nhưng những biểu hiện của nó khiến anh cảm thấy có một cái gì đó đang thay đổi ở cô gái nhỏ bé này.

Bách Nhật nghe tiếng trái tim khẽ thở một hơi dài như cả thế kỷ. Nó chớp mắt, cố trấn tĩnh cơn xúc động đang chiếm lấy tâm trí, rồi điềm đạm trả lời.

- Tôi khỏe, cám ơn anh. Tôi bây giờ có việc phải đi trước, xin lỗi.

Ưu Phong hơi ngạc nhiên khi giọng nói Bách Nhật lạnh lẽo, có chút gấp gáp. Anh mỉm cười khi nó chào anh, rồi cả hai cứ thế lướt qua nhau mà không nói thêm câu nào. Nghe tiếng bước chân Ưu Phong giẫm lên sỏi đá ngày càng xa dần, Bách Nhật ngẩn ngơ, thẫn thờ. Nó có cảm giác như mình sắp đánh mất một cái gì đó, nhưng lại không biết chính xác đó là cái gì. Nó muốn đi thật xa khỏi Ưu Phong, nhưng sâu trong tiềm thức lại có những tiếng nói thôi thúc nó quay lại. Bách Nhật thốt nhiên thở dài, bờ môi đào tươi tắn mím lại, buồn rầu, nó quay ngược bước chân, trở lại theo lối Ưu Phong vừa đi khuất. Nếu chậm một chút thôi thì cơn gió ấy sẽ bay mất, nếu chậm một chút thôi thì ngay cả bông hoa ấy cũng không biết gió vừa thổi qua.

- Ưu Phong, khoan đã!!

Đang thả bộ trên con đường dẫn ra cổng doanh trại, Ưu Phong dừng chân khi có tiếng Bách Nhật gấp gáp ở phía sau. Đôi mày kiếm nhẹ chau, Ưu Phong quay người lại, Bách Nhật đang đứng phía sau anh, gương mặt lấm tấm mồ hôi ửng hồng trong nắng sớm, đôi mắt xám tro lấp lánh. Đó là do ánh nắng soi vào đôi mắt ấy, hay là do anh tự tưởng tượng ra.

- Có chuyện gì sao?

- Anh có một cô em gái tên là Ngọc Vũ, đúng không?

Nghe Bách Nhật hỏi, Ưu Phong vô cùng ngạc nhiên. Tại sao Bách Nhật lại biết Ngọc Vũ trong khi anh chưa hề nói với nó một lần nào, chẳng lẽ là...

- Cô đã gặp Ngọc Vũ sao?

- Phải, chính xác là vừa mới gặp xong. Hiện cô ấy đang ở căn nhà lá phía đông, để tôi dẫn anh đến đó.

Bách Nhật mấp máy môi như muốn nói thêm điều gì đó, nhưng nghĩ sao nó lại quay đi. Thật lòng nó muốn hỏi Ưu Phong về chuyện đám cưới của anh nhưng lại không thể mở lời, một phần nó không muốn can dự vào chuyện của người khác, phần còn lại lớn hơn, là vì nó sợ sẽ lại suy nghĩ nhiều khi anh lên tiếng xác nhận thông tin đó. Ưu Phong cưới ai đó là chuyện của anh, không liên quan gì tới nó. Cả hai chẳng qua chỉ là bèo nước gặp nhau, rồi nó sẽ có ngày quay trở về hiện đại, có luyến lưu thêm cũng chẳng được ích gì, chi bằng trước khi cái gì đó kịp phát triển trong lòng nó, thì cắt đứt sớm chừng nào hay chừng đó, chí ít tổn thương sẽ giảm đi rất nhiều.

Đi phía sau Bách Nhật, Ưu Phong lặng yên không nói một câu nào. Ngọc Vũ đang ở trong quân Nguyễn, thật đúng là xa tận chân trời gần ngay trước mắt. Mấy ngày qua anh đã cất công tìm kiếm Ngọc Vũ nhưng lại không thu thập được tin tức gì, bây giờ chẳng tìm mà lại có, mọi chuyện diễn ra vô cùng suôn sẻ làm Ưu Phong hài lòng. Anh sẽ đưa Ngọc Vũ quay trở về Bắc hà trước khi chuyện này kịp đồn thổi ra ngoài. Nếu là một người nào khác, quân Nguyễn chắc chắn sẽ gây khó, nhưng Ưu Phong là bạn lâu năm của chúa công họ, Nguyễn Ánh cho phép thì sẽ không ai có thể gây khó dễ cho anh.
Nhìn bóng dáng nhỏ bé của Bách Nhật ở phía trước, đôi mắt nâu ấm áp của Ưu Phong chợt mơ hồ. Đã lâu không gặp, trông Bách Nhật không thay đổi là mấy. Vẫn sự điềm đạm hiếm thấy, vẫn sự nghiêm túc khó gần và vẫn một gương mặt rạng rỡ luôn làm người khác không khỏi yêu mến, nhưng tiếc thay lần gặp mặt này, gương mặt rạng rỡ ấy lại lạnh như sương, cứ như thể cả hai chưa từng quen biết nhau. Không nhìn thấy nụ cười bừng lên như ánh mặt trời, Ưu Phong cảm thấy luyến tiếc, một niềm luyến tiếc mơ hồ len lỏi trong tâm trí anh, khiến anh chợt mỉm cười, lắc đầu cho sự mông lung không tên đó của mình. Gió đã ưu phiền rồi, sao nỗi ưu phiền cứ ngày một dày thêm.

oOo

Anh Tú ngồi trong nhà nấu nước, anh đang canh chừng nồi nước sôi rồi bắc xuống dùng. Ở quá khứ, người dân không biết câu ăn chín uống sôi là gì, muốn uống nước thì cứ ra cái lu chứa nước trước nhà mà uống, mặc cho nguồn nước ấy lấy từ đâu, có lọc kỹ càng chưa, có đun sôi để nguội chưa. Anh Tú nghĩ, sở dĩ người ta uống nước dễ dàng thế, một là do dạ dày của họ tốt hơn hơn người hiện đại, hai là nước ở đây không bị ô nhiễm, có thể uống bất cứ lúc nào cũng được. Nói thì nói thế, nhưng cẩn tắc thì vô ưu, bao giờ Anh Tú cũng chắt lọc, đun sôi nước cẩn thận trước khi uống, âu đó cũng là một cách để tự bảo vệ bản thân mình.

Ngồi trên giường nhìn Anh Tú đun nước, Ngọc Vũ chống cằm, nghĩ đến cô gái vừa gặp Anh Tú khi nãy. Bao lần cô đã tự nhủ rằng Anh Tú chỉ là môt tiểu hoàn môn, và cô gái kia cũng chỉ là bạn anh, chẳng có gì để cho cô phải nghĩ, chẳng có gì để cô phải nhọc lòng, nhưng chẳng hiểu sao khi nhớ đến cảnh Anh Tú ôm chầm Bách Nhật là Ngọc Vũ lại tưng tức trong lòng. Tức rồi lại dỗi, mặc cho anh có quan tâm hay hỏi han gì Ngọc Vũ cũng không thèm trả lời.

Ban đầu, thấy Ngọc Vũ bỗng nhiên hờn dỗi mà không hiểu lý do vì sao, Anh Tú còn quan tâm hỏi han này nọ, đến khi thấy đã làm mọi cách mà cô vẫn hờn dỗi, Anh Tú đành bó tay đầu hàng. Mặc cho Ngọc Vũ nằm trùm mền kín mít, cô không trả lời thì anh Anh Tú giả lơ, làm như chẳng thấy gì. Đúng là công chúa, hở chút là giở thói đỏng đảnh ra. Mặc kệ cô ta, mình bây giờ còn phải tìm cách đưa Bách Nhật rời khỏi nơi chiến tranh này, chẳng hơi đâu mà quan tâm đến mấy chuyện vặt vãnh của cô nàng khó chiều này. Anh Tú nghĩ thầm, anh bắc nồi nước sôi xuống rồi để nguội, mặc cho Ngọc Vũ nằm im trên giường như thể cô chẳng tồn tại.

Thấy Anh Tú bỏ lơ, không thèm ngó ngàng đến mình, Ngọc Vũ vô cùng ấm ức, khó chịu. Bụng tính Anh Tú hạ giọng năn nỉ một chút thôi thì cô sẽ cho qua, nào ngờ anh chỉ hỏi han vài câu lấy lệ rồi không thèm quan tâm nữa, khiến Ngọc Vũ giận càng thêm giận. Anh Tú đáng ghét, Anh Tú khó ưa, Ngọc Vũ mắng thầm Anh Tú hết lời. Cô bực bội đưa mắt nhìn ra khoảng nắng mênh mông trước hiên nhà, và rồi khựng lại khi trông thấy cô gái ban nãy từ xa đang tiến tới, và phía sau cô ta chính là Hoàng huynh của cô, Ưu Phong, người mà cô đã không quản gian khổ lặn lội đến tận nơi xa xôi này để tìm gặp.
Ngọc Vũ mở to mắt. Cơn giận hờn trong lòng cô vụt biến mất, cô vội tung chăn, nhảy xuống giường và chạy ra ngoài cửa trước đôi mắt ngạc nhiên của Anh Tú. Người đó đúng là Hoàng huynh của cô, là Hoàng huynh của cô. Ngọc Vũ reo vui, đôi mắt cô long lanh ngấn lệ, bao nhiêu buồn tủi dồn nén trong lòng nay bùng phát, những giọt lệ lấp lánh chầm chậm tuôn ra khi cô nhào vào lòng Ưu Phong, khóc òa.

- Anh! Anh ơi!

Ôm Ngọc Vũ trong tay, Ưu Phong trìu mến vuốt ve mái tóc dài như suối của Ngọc Vũ. Con bé vẫn như xưa, vẫn trong trẻo, hồn nhiên tinh khôi không bao giờ thay đổi. Trong tất cả các anh em, cô em gái mà Ưu Phong yêu quý nhất chính là Ngọc Vũ. Hôm nay gặp lại đứa em gái yêu thương ấy, Ưu Phong cảm thấy lòng mềm lại, xót xa khi một công chúa vốn quen sống trong nhung lụa nay vì anh mà phải vất vả bôn ba. Trăm sự cũng do Ngọc Long cung tung tin đồn thất thiệt, để ai cũng tin lấy tin để rằng Tử Phụng và Ngọc Long sắp trở thành người một nhà, khiến Ngọc Vũ phải lao đao lận đận như thế này.
Nhìn cảnh Ngọc Vũ nhào vào lòng anh trai, khóc nức nở như một cô bé con, sự kiêu ngạo, ngang ngược trong cô đã biến mất, thay vào đó là một cô gái mềm yếu, muốn được bảo vệ và chở che, Anh Tú thở dài cảm khái. Cảnh anh em nhà người ta đoàn tụ làm anh chợt nhớ Linh Lan vô cùng. Em gái anh rất kiên cường và tinh quái, gặp lại anh, bé Lan của anh sẽ chẳng khóc đâu, có khi còn véo tai anh la rầy vì cái tội dám bỏ em gái lại một mình cũng không biết chừng. Nghĩ đến đó, Anh Tú thấy lòng nôn nao.

Nghe Bách Nhật kể Linh Lan đang ở Quy Nhơn, an toàn trong hàng ngũ Tây Sơn, Anh Tú mừng như phát điên. Hơn bao giờ hết, anh muốn bay ngay về Quy Nhơn để gặp Linh Lan. Linh Lan đã được an toàn, lại còn khỏe mạnh hơn bao giờ hết, đó chính là điều an ủi lớn nhất của Anh Tú khi trở về quá khứ. Không chỉ ở trong hàng ngũ Tây Sơn, Linh Lan lại còn gặp được Quang Trung hoàng đế. Anh Tú chợt cảm thấy hưng phấn, Linh Lan gặp Quang Trung thì có gì lạ, nếu muốn, nhiều khi nó còn gặp cả Gia Long rồi ấy chứ. Mà ngẫm, nếu như Quang Trung và cả Gia Long hoàng đế đều yêu quý em gái anh, thì chuyện gì sẽ xảy ra nhỉ? Ngẫm đến đó, Anh Tú bật cười, dù biết rõ đó là điều không tưởng, nhưng anh vẫn cảm thấy thích thú khi nghĩ đến trường hợp “bất khả thi” đó. Nếu cả Nguyễn Huệ và Nguyễn Ánh đều yêu em gái anh, tất nhiên anh sẽ ủng hộ …

- Anh Tú! Ngươi có nghe ta nói gì không đó?

Luồng suy nghĩ của Anh Tú bị cắt đứt khi giọng nói quen thuộc, pha chút giận dữ của Ngọc Vũ vang lên. Định thần nhìn lại, Anh Tú thấy Ngọc Vũ đang nhìn mình, gương mặt lộ sắc giận do anh đã không chú ý đến cuộc trò chuyện giữa bốn người, mà lại thả hồn bay bổng tận đâu đâu. Thấy ai cũng đăm đăm nhìn mình, Ưu Phong lại còn hơi mỉm cười, Anh Tú gãi đầu, anh đưa mắt nhìn Bách Nhật, hỏi dò.

- Xin lỗi, mọi ngươi đang nói gì vậy?

- Ngươi còn hỏi nữa sao, chúng ta đang bàn chuyện làm thế nào để thoát khỏi đây. Ta và cô gái này đi khỏi đây thì rất dễ, nhưng e rằng ngươi thì không. Ngươi và cô gái áo đỏ kia đã có giao ước thì cô ta sẽ không cho ngươi đi dễ dàng như thế. Cho nên ta đang muốn biết giữa ngươi và cô gái áo đỏ kia đã có giao ước gì để dễ bề tính toán, nhưng hỏi đến hai, ba lần ngươi vẫn không trả lời, rốt cuộc ngươi nói được chưa?

Anh Tú hỏi Bách Nhật, nhưng người trả lời lại là Ngọc Vũ, rõ ràng cô rất khó chịu mỗi khi nhắc đến giao ước ngầm giữa Anh Tú và Ngọc Uyển. Anh Tú im lặng, câu hỏi này nhắc anh về hiện thực nguy hiểm lúc này, chuyện toàn mạng trở về Quy Nhơn gặp Linh Lan với anh chẳng đơn giản. Anh lại càng không muốn để Ngọc Vũ biết được vì cứu cô, anh đã đổi một mạng với Ngọc Uyển. Nếu Ngọc Vũ biết chuyện này, chắc chắn cô sẽ không chịu trở về Bắc hà, mà anh thì lại không muốn thế chút nào.

Nghĩ như thế, Anh Tú gượng cười.

- Giữa tôi và cô ta thì có giao ước gì, cô đừng tin lời cô ta.

- Ngươi nói dối. Nếu quả thật hai người không có giao ước gì thì tại sao cô ta lại chịu tìm thầy lang chữa bệnh cho ta, ta biết cô ta không phải là người tốt đến mức đó. Anh Tú, ngươi trả lời đi, giao ước đó rốt cuộc là gì?

Anh Tú cười khổ, Ngọc Vũ đã không hỏi thì thôi, đã hỏi thì phải hỏi cho ra vấn đề, điều đó làm anh khó xử. Nhìn Anh Tú lúng túng, Ưu Phong nãy giờ vẫn im lặng liền đằng hắng một tiếng, anh quay sang Ngọc Vũ, nói nhẹ nhàng.

- Vũ nhi, em và Bách Nhật ra ngoài chờ, anh có chuyện muốn nói với Anh Tú.



★ Chương 98
 
Ngồi bên ngoài cùng Bách Nhật, Ngọc Vũ cứ chốc chốc ngoái đầu lại, nôn nóng cố nghe xem hai người trong nhà đang nói với nhau những gì. Rốt cuộc Anh Tú và Ngọc Uyển đã có giao ước gì, tại sao hắn ta lại không thể nói ra, chẳng lẽ hắn ta đã yêu thích cô nàng đó nên không muốn rời xa cô ta sao. Ngọc Vũ càng nghĩ càng giận, lòng cô trào dâng một mối lo lắng mơ hồ.
 
Trong khi Ngọc Vũ đứng ngồi không yên thì Bách Nhật lại tỏ ra vô cùng bình thản. Nó không quan tâm đến Anh Tú và Ưu Phong đang nói với nhau những gì trong đó, và dường như nó cũng chẳng bận tâm làm sao để thoát ra khỏi nơi này. Giờ đây, thật sự nó cảm thấy không thể quan tâm đến bất cứ gì khác nữa. Thờ ơ, bàng quan và lãnh cảm, dường như đó là tất cả cảm xúc của Bách Nhật bây giờ.
 
Trong lúc chờ đợi Anh Tú, Bách Nhật cầm một cành cây nhỏ và vẽ xuống mặt đất ba vòng tròn đặt theo vị trí ba đỉnh của một hình tam giác. Đây chính là hình vẽ yêu thích từ nhỏ của nó. Bách Nhật nhớ mẹ nó đã từng nói rằng, nếu muốn biết người nào tâm linh tương thông với mình, thì hãy xem người đó có vẽ tiếp được hình mà mình đã bỏ lửng trước đó. Bằng cách đó, mẹ nó đã tìm được ba nó, người mà bà yêu thương nhất. Qua câu chuyện của mẹ, Bách Nhật cũng tạo cho mình một hình vẽ dở dang, lòng tự nhủ, nếu như ai đó có thể vẽ được hoàn chỉnh bức vẽ ấy thì có lẽ đó chính là người tâm linh tương thông với nó, người nó chờ đợi và là người nó yêu thương.
 
Ba vòng tròn đặt theo vị trí ba đỉnh của một hình tam giác là hình vẽ bí ẩn của Bách Nhật, trước đây không ai có thể vẽ được và không ai có thể hiểu được hàm ý của nó là gì. Bạn bè cho rằng Bách Nhật quá mơ mộng, quá viễn vông và không hiện thực, trước những ý kiến đó, Bách Nhật chỉ mỉm cười. Hơn ai hết, nó có lòng tin, rằng nhất định sẽ có một ngày nó tìm ra người tâm linh tương thông với mình như mẹ đã tìm ra ba nó. Nhất định nó sẽ tìm ra được một người hoàn chỉnh bức vẽ dỡ dang của nó, tìm ra một người mà nó yêu thương, chỉ duy nhất dành cho nó và ngược lại. Bách Nhật đã chờ, đã đợi và sẽ tiếp tục đợi người ấy trong tương lai...
 
- Bách Nhật, Ngọc Vũ, chúng tôi quyết định xong rồi.
 
Bách Nhật ngẩng đầu lên khi giọng Anh Tú vang lên. Anh và Ưu Phong đã bàn bạc xong, nếu có thể thì tối nay cả bốn sẽ đến gặp Ngọc Uyển thương lượng rồi lập tức rời khỏi đây. Ánh mắt Anh Tú rực sáng, giờ đây, mặc cho Ngọc Uyển đưa ra yêu sách gì, Anh Tú cũng vẫn sẽ rời khỏi đây. Anh sẽ đến Quy Nhơn gặp Linh Lan, không ai có thể cản lại ý định nung nấu đó của anh được.

Đứng bên cạnh Ngọc Vũ, Ưu Phong hài lòng khi thấy nét mặt ủ rũ của Anh Tú đã được thay bằng sự tự tin và hưng phấn. Lướt mắt xuống chỗ Bách Nhật đang ngồi, thấy ba vòng tròn lửng lơ mà nó vẽ trước đó, Ưu Phong chợt mỉm cười. Anh cúi xuống, cầm lấy chiếc que nhỏ và bắt đầu quẹt vài ba nét vào bức vẽ dở dang của Bách Nhật. Hành động của anh khiến Bách Nhật chú ý, nó nhìn theo bức tranh anh vẽ, và đôi mắt dần mở to vì trông thấy những gì dưới mặt đất đã được hình thành.
 
Bức vẽ dở dang ban đầu của Bách Nhật nay đã hoàn thành. Từ ba vòng tròn nằm ở vị trí ba đỉnh của tam giác ban đầu, nay đã trở thành hai bông hoa cùng hướng về ánh mặt trời tỏa sáng trước mặt. Trong khoảnh khắc ấy, đôi mắt Bách Nhật trở nên lấp lánh như có nước mắt, hai bông hoa cùng ông mặt trời trên cao lung linh trong đôi mắt nó. Nếu một ai đó hoàn chỉnh được bức vẽ dở dang thì người đó có tâm linh tương thông với nó, là người mà nó luôn chờ đợi, là người mà nó luôn đi tìm, và ngày hôm nay, nó đã tìm ra người ấy, người ấy đã hoàn chỉnh bức vẽ của nó, người ấy là Ưu Phong.
 
Bách Nhật ngước nhìn Ưu Phong, vẻ lạnh lùng trên gương mặt biến mất, đôi má nó phơn phớt hồng, ánh mắt long lanh đằm thắm, cánh môi hồng hé mở, ngập ngừng, tựa như vẫn còn ngỡ ngàng vì những gì vừa mới phát hiện ra. Ưu Phong có hiểu ý nghĩa của bức tranh ấy không, hay chỉ nhất thời quẹt lên như thế. Anh có biết bức tranh đó rất quan trọng đối với nó, anh có biết bức tranh đó sẽ tìm ra ai là người nó yêu thương, là người nó trân trọng, quý mến. Anh có biết điều đó không?
 
Bách Nhật bồi hồi, nó cảm thấy trong lòng nôn nao lạ thường. Tay nó run nhẹ, đôi mắt lấp lánh muôn ngàn tia nắng. Ưu Phong đang đứng trước mặt nó tươi cười, tà áo trắng như một áng mây giăng ngang bầu trời. Cuối cùng nó cũng đã tìm được người nó muốn tìm, cuối cùng nó cũng đã tìm được người nó yêu thương nhất. Đã tìm được rồi, đã thấy được rồi, chuyện tiếp theo nó sẽ phải làm gì đây? Bách Nhật không biết, thật sự không biết. Mọi chuyện đến với nó bất ngờ quá, đột ngột quá, nó vẫn chưa thể nào chấp nhận và tin được. Nó phải làm sao đây, nó phải làm sao để có thể đuổi theo gió được đây...
 
oOo
 
Gia Định về đêm vô cùng mát mẻ, cái nắng hanh hao đã nhường chỗ lại cho những cơn gió đêm yên bình thổi từ mặt sông, quấn quýt theo những chiếc lá xanh. Ngọc Uyển đứng tựa lưng vào một thân cây cổ thụ, mắt nhìn ra hướng bờ sông lộng gió. Trưa hôm nay gã thanh niên ấy đột ngột đến gặp cô, bảo tối nay có chuyện muốn nói. Đó cụ thể là chuyện gì thì cô chưa thể biết, nhưng cô tin rằng chuyện mà gã muốn nói, chỉ có thể là vấn đề một mạng đổi một mạng mà thôi.
 
- Ngọc Uyển, chúng tôi tới rồi đây!
 
Đang chìm trong suy nghĩ, Ngọc Uyển nhíu mày khi giọng nói quen thuộc vang lên. Từ đằng xa, Ưu Phong, Anh Tú, Ngọc Vũ cùng Bách Nhật đi tới. Dù biết tối nay Anh Tú hẹn mình, nhưng cô cũng không nghĩ là có tới những ba người đoạn hậu ở phía sau, trong đó lại còn là Ưu Phong, bằng hữu thân thiết của Hoàng huynh cô. Ngọc Uyển nhướng mày, lòng tự hỏi, gã thanh niên này làm sao quen biết được cung chủ Tử Phụng cung chứ.
 
Trong khi Ngọc Uyển còn đang suy nghĩ thì Anh Tú đã đứng trước mặt Ngọc Uyển. Tối nay, anh sẽ nói rõ ràng hết mọi chuyện với cô, và bằng mọi giá cùng Bách Nhật rời khỏi Gia Định đến Quy Nhơn gặp Linh Lan. Đôi mắt Anh Tú như có ánh lửa chiếu soi, anh nhìn thẳng vào mắt Ngọc Uyển, trầm giọng.
 
- Ngọc Uyển, tối nay hẹn cô ra đây là vì tôi muốn nói với cô một chuyện. Đó là...
 
- Là ngươi sẽ rời khỏi Gia Định chứ gì.
 
Anh Tú chưa kịp nói hết lời đã bị Ngọc Uyển đoán trúng, làm anh há miệng đã bị mắc quai, giờ không sao ngậm lại được. Cười nhạt vì tình trạng của Anh Tú, Ngọc Uyển nói luôn.
 
- Ngươi đúng là đồ vong ân bội nghĩa. Ngươi đã giao ước với ta thế nào? Nay ta thực hiện lời hứa rồi mà ngươi muốn gạt bỏ hết hay sao?
 
- Hắn ta đã hứa gì với cô thì ta thay mặt hắn trả lại. Mong cô rộng lòng để bọn ta rời khỏi Gia Định, thế thôi.
 
Không để Anh Tú trả lời, Ngọc Vũ đã vọt miệng đáp thay anh. Ánh mắt cô sắc bén, đầy quyết liệt khi nhìn vào mắt Ngọc Uyển. Chẳng mảy may động tâm vì ánh mắt kiên quyết ấy, Ngọc Uyển thờ ơ đáp lời.
 
- Ngươi có phải hắn ta đâu mà đòi trả. Ngươi có muốn biết hắn ta đã giao ước gì với ta không. Đó là dùng mạng hắn để đổi lấy mạng ngươi, một mạng đền một mạng. Ta đã tìm thầy lang cứu chữa ngươi thì hắn cũng nên thực hiện đúng giao ước đó chứ.
 
Anh Tú tính ngăn không cho Ngọc Uyển nói hết nhưng đã quá muộn. Vừa nghe xong những lời Ngọc Uyển nói, Ngọc Vũ nhìn trân trân vào mặt Anh Tú. Đôi đồng tử của cô như đông lại, bàn tay nắm chặt, bờ môi mềm mại hé mở như muốn nói mà chẳng thể thốt ra lời nào. Tại sao? Tại sao hắn ta lại đồng ý giao ước đó với Ngọc Uyển? Tại sao lại lấy mạng hắn đổi cho mạng cô? Cô với hắn không phải bạn bè, huynh muội hay có tình ý gì với nhau. Cô và hắn đơn giản là quan hệ chủ nhân và tôi tớ, mà quan hệ chủ tớ giữa hai người cũng không đủ tốt đẹp để hắn phải trung thành, vì cô mà bỏ mạng. Nếu cô chết đi thì hắn sẽ được giải thoát khỏi gông cùm, phải cảm thấy thoải mái hơn mới phải chứ. Hắn tưởng rằng hắn làm thế là cô sẽ cám ơn hắn ta sao, sẽ cảm kích hắn ta sao. Tự tiện dùng tính mạng của hắn để đổi lấy mạng cô mà chưa có sự cho phép của cô, hắn ta xem cô là gì chứ?!

- Ngọc Uyển, giao ước của chúng ta là cô cứu Ngọc Vũ, mạng sống của tôi sẽ thuộc về cô. Cô đã thực hiện lời hứa của mình, tôi cũng đã uống viên thuốc đoạt mạng cô đưa. Giờ đây tôi muốn rời khỏi Gia Định chứ không hề cầu xin cô thuốc giải, cầu xin cô trả lại tính mạng, vốn đã thuộc về cô, cho tôi. Giữa chúng ta đã sòng phẳng, tôi cũng đã thực hiện phần giao ước của mình, hà cớ gì cô lại bảo tôi bội tín, vọng ân bội nghĩa chứ.

Anh Tú thở dài rồi nhìn thẳng vào Ngọc Uyển, bình tĩnh đáp lời, từng câu từng chữ đều nhã nhặn, vừa đủ, không đả kích, cũng không khiêu khích Ngọc Uyển. Đăm đăm nhìn sự kiên quyết thể hiện trên gương mặt cũng như trong lời nói của Anh Tú, nụ cười có phần chế giễu, đắc thắng của Ngọc Uyển tắt ngấm.
 
Trong khi Ngọc Vũ đang thừ người ra, Ngọc Uyển chưa kịp phản ứng lại lời Anh Tú thì Ưu Phong nhẹ nhàng lên tiếng.
 
- Ngọc Uyển, cô là tiểu muội của Nguyễn Ánh, cậu ấy lại là bạn thân của tôi nên tôi không muốn gây khó cho cô, và cũng mong cô không gây khó mà để chúng tôi đi.
 
Vì Ưu Phong là bạn thân của Hoàng huynh, hơn nữa lại là cung chủ Tử Phụng cung, danh tiếng không phải ít, một khi anh đã mở lời, Ngọc Uyển không thể không có chút nể mặt. Ngọc Uyển liếc mắt nhìn Ngọc Vũ, cô gái này đi hay ở cô không quan tâm, nhưng còn vị nữ y đang đứng bên cạnh Ưu Phong là của thầy lang riêng của ngũ Hoàng huynh Phúc Điển, cô ta cũng rất có ích cho quân Nguyễn vào thời điểm này, để cô ta đi thế cô thật sự không muốn chút nào.
 
- Cung chủ nói phải lắm. Tôi cũng hy vọng người sẽ không làm khó tôi. Cô gái kia người muốn sao cũng được, nhưng cho hỏi cô gái này có quan hệ thế nào với người?
 
Ưu Phong đưa mắt nhìn Bách Nhật, vừa hay nó lại đưa mắt nhìn anh. Trong phút chốc, khi hai ánh nhìn gặp nhau, Ưu Phong nhíu mày khi anh có cảm giác rằng người con gái ấy đang nhìn anh bằng ánh mắt vô cùng trìu mến và dịu dàng. Chuyện gì đã xảy ra, mới trước đây thôi người con gái ấy còn vô cùng hờ hững, lạnh lùng với anh kia mà.
 
- Cô muốn nói đến Bách Nhật, cô ấy là... - Nói đến đây, Ưu Phong ngừng lại, anh lại lướt mắt về phía Bách Nhật, rồi sau đó tiếp lời - Là tiểu hiền thê của tôi.
 
Lời Ưu Phong vừa dứt, tức thì có hai tiếng “hả” cùng lúc vang lên, một là của Anh Tú, một là của Ngọc Vũ. Nghe Ưu Phong thốt ra ba chữ “tiểu hiền thê”, Bách Nhật mở to mắt. Nó cũng ngỡ ngàng như Anh Tú và Ngọc Vũ, nhưng trái ngược với bản tính, biểu hiện của nó chẳng tỏ vẻ gì là nổi giận hay khó chịu. Bách Nhật cúi đầu để che giấu vẻ thẹn thùng, hai bàn tay nó đan vào nhau bối rối. Một sự ngọt ngào kỳ lạ từ từ trỗi lên, lan tỏa khắp ngõ ngách trong tâm hồn nó, như dòng nước nhỏ thấm sâu vào lòng đất, khiến nó cảm thấy bồng bềnh như trên một đám mây.

Trông thấy những biểu hiện khác lạ đó, Anh Tú vô cùng kinh ngạc. Trong nhóm, Bách Nhật là một người nghiêm túc, có chừng mực, ngay cả nhóm tứ quỷ hay quậy trong lớp của tụi anh cũng không trêu chọc Bách Nhật bao giờ. Cho dù những lời Ưu Phong vừa nói có là vì tình thế cấp bách đi nữa, nhưng nói dối như thế thì Bách Nhật sẽ phản ứng ngay, dù là không phá hỏng màn kịch đi nữa nhưng cũng sẽ tỏ rõ thái độ. Nhưng đằng này Bách Nhật lại chẳng phản ứng gì, đã thế đôi mắt còn long lanh, gương mặt lại ửng hồng, hai tay bối rối mân mê tà áo, chẳng lẽ... chẳng lẽ Bách Nhật và Ưu Phong thật sự... rồi sao...?
 
- Cô gái này là thê tử của người? Tại sao tôi không nghe ai nói đến chuyện này? – Nghe Ưu Phong bảo Bách Nhật là tiểu hiền thê, Ngọc Uyển hỏi giọng nghi hoặc. Cung chủ Tử Phụng cung xưa nay đi đâu cũng có mỹ nhân, lẽ nào lại để mắt đến cô gái bình thường, không xinh đẹp như thế này.
 
- Cô chưa nghe ai nói cô ấy là tiểu hiền thê của tôi, nhưng chắc đã nghe không ít về chuyện giang hồ đồn đãi tôi lấy vợ chứ. Nhắc đến chuyện này bản thân tôi cũng thấy có lỗi. Tôi và cô ấy mới thành thân chưa được bao lâu, cô cũng biết biệt danh đạo hoa vương của tôi rồi đấy. Được tin tôi đã có thê tử, các cô gái lần lượt kéo đến làm phiền với ý định xem thử dung mạo thê tử tôi thế nào. Vì không muốn thê tử tôi gặp phiền phức hay thấy khó chịu, tôi đã bí mật đưa cô ấy đến nơi khác để sắp xếp hết mọi chuyện rồi mới đón cô ấy trở về. Chẳng ngờ khi đến Gia Định, tôi và cô ấy lạc mất nhau, nay tìm thấy cô ấy trong doanh trại của quân Nguyễn, tôi thật mừng không để đâu cho hết. Nay phu thê chúng tôi đã đoàn tụ, tôi muốn đưa cô ấy rời khỏi Gia Định để bù đắp những ngày tháng vất vả vừa qua của cô ấy. Ngọc Uyển, cô cũng là nữ nhi, thế nên tôi mong rằng cô hãy hiểu cho chúng tôi.
 
Ưu Phong vừa nói, vừa kéo Bách Nhật về phía mình. Rõ ràng dư âm cái... tát đau điếng khi cả hai gặp nhau lần đầu tiên của Bách Nhật vẫn còn trong tâm trí anh, nên anh vừa nắm tay Bách Nhật, vừa nhấp nháy cho nó biết rằng đây chỉ là một vở kịch tạm thời. Không biết Bách Nhật có hiểu được ám hiệu của anh hay không mà bước chân của nó nửa chậm chạp như muốn trì hoãn, nữa lại tiến nhanh như muốn đến bên cạnh anh. Nắm bàn tay mềm mại của Bách Nhật, Ưu Phong cảm thấy bàn tay ấy nhẹ run rẩy. Anh nhíu mày nhìn nó, và rồi lặng yên khi đôi mắt xám tro in bóng hình của anh, trong trẻo như mặt nước mùa thu.

Ngọc Uyển đưa mắt nhìn Bách Nhật, ánh mắt cô tỏ vẻ nghi ngờ nhưng không tiện phản bác. Ưu Phong đã nói đó là vợ của anh, và cô gái kia xem ra rất quyến luyến phu quân mình, thế nên châu về hợp phố cũng là điều dễ hiểu, cô có thể để họ đi. Nhưng ai cũng có thể đi, còn gã thanh niên kia thì không. Hắn đã một mạng đổi một mạng với cô, sống hay chết thì hắn ta không thể đi, có nói thế nào thì cô cũng không thể đồng ý được, trừ phi…. Nghĩ đến đó, trong đầu Ngọc Uyển chợt lóe lên một tia sáng, cô mỉm cười, hướng về phía Anh Tú, rồi buông lời.
 
- Còn ngươi, thật sự muốn đi khỏi đây sao?
 
Giọng nói Ngọc Uyển êm dịu tựa mật ngọt, nhưng đằng sau vẽ mỹ miều xinh tươi ấy bao giờ cũng tiềm ẩn một thứ chất độc chết người. Nếu bình thường thì Anh Tú đã cân nhắc kỹ câu hỏi của Ngọc Uyển rồi mới trả lời, thế nhưng tin tức về Linh Lan đã đánh tan mọi lo lắng của anh. Bây giờ anh chỉ mong mau chóng bay đến Quy Nhơn để đoàn tụ cùng em gái nên chẳng còn lòng dạ nào phân tích thiệt hơn cùng Ngọc Uyển. Nhìn sâu vào mắt cô, Anh Tú kiên quyết nhấn mạnh câu trả lời.
 
- Phải!
 
- Dù bất chấp tính mạng? - Ngọc Uyển nhướng mày.
 
- Không sai - Anh Tú gật đầu chắc chắn.
 
- Ngươi hãy nghĩ cho kỹ, suy cho kỹ. Chẳng lẽ ngươi đã quên những gì ta nói về tử hồn đan với ngươi rồi sao?
 
Tử hồn đan, đôi mắt đẹp của Ngọc Uyển lóe sáng khi nhắc đến cái tên này. Phàm người nào uống nó vào cũng đều rước lấy cái chết chậm chạp nhất, đau đớn nhất. Anh Tú đã uống tử hồn đan của cô, nếu không có thuốc giải của cô thì hắn cầm chắc mười mươi cái chết kinh khủng nhất trong tay. Ngoài cô ra trên đời này chỉ có một người có khả năng cứu hắn, nhưng hắn là ai chứ, hắn là ai mà nuôi hy vọng có may mắn gặp được người đó. Nhướng mày nhìn nụ cười ngọt ngào đầy tự tin của Ngọc Uyển, Anh Tú cười nhạt và trầm giọng.
 
- Tôi không bao giờ quên!
 
- Vậy ngươi cũng không quên cái chết đi kèm theo nó chứ.
 
- Làm sao mà tôi quên được!
 
- Tốt! Thế ngươi vẫn muốn rời khỏi Gia Định hay sao?
 
- Chưa bao giờ mong muốn như lúc này.
 
Anh Tú cao giọng đáp lại lời Ngọc Uyển. Từng câu từng chữ của anh đều chậm rãi, nhưng lại nhấn mạnh, để thể hiện quyết tâm đi khỏi Gia Định, mặc cho sống chết của mình đang nằm trong tay cô. Sự can trường, quyết liệt tên gương mặt Anh Tú lúc này chẳng khác nào lời thách thức đối với Ngọc Uyển, đánh thẳng vào lòng tin có thể dùng mạng sống khống chế anh của cô. Ngọc Uyển nhướng mày, nụ cười biến mất, ánh mắt nhìn Anh Tú có phần kinh ngạc và đôi chút khó chịu. Hắn hoặc là đang thách thức cô, hoặc là muốn chết nên mới đòi đi khỏi Gia Định bất chấp hậu quả cô đã nói như thế.

Được, Ngọc Uyển gật gù. Hắn muốn đi, cô không ngăn cản nữa, nhưng xưa nay người có thể giải được tử hồn đan chỉ có cô. Bây giờ độc tính chưa phát tác nên hắn mới có thể hùng hồn mạnh miệng như thế, nhưng để xem đến khi đối mắt với cái chết đau đớn nhất, thê thảm nhất, hắn ta có chịu quay về đây để cầu xin cô hay không. Ngọc Uyển nghĩ thầm, cô nhếch môi cười nhạt. Để cho hắn rời khỏi Gia Định cô cũng không mất mát gì, nhưng để hắn ta cùng cô gái này rời khỏi đây dễ dàng quá, thì lòng kiêu hãnh của cô không cho phép.
 
Nghĩ đến đó, Ngọc Uyển ung dung quan sát từ đầu tới chân Anh Tú như thể đang tính toán, ước lượng gì đó. Cô nhướng mắt nhìn Anh Tú, bàn tay giơ ra, chạm vào cằm anh rồi vuốt nhẹ xuống cổ khiến Anh Tú sửng sốt, trong khi Ngọc Vũ trố mắt ra vì không ngờ cô gái này lại bạo dạn đến như thế.
 
- Nè! Cô làm gì vậy, không được chạm vào hắn ta.
 
Ngọc Vũ nắm tay lại thành quyền và tung vào gương mặt xinh đẹp của Ngọc Uyển. Khẽ lách người qua một bên, đôi môi đỏ tươi của Ngọc Uyển hé mở hình thành một nụ cười chế nhạo khiến Ngọc Vũ nóng bừng mặt vì giận. Sau khi né được cú đánh của Ngọc Vũ, Ngọc Uyển lướt mắt nhìn Anh Tú, cô cất cao giọng, trong giọng nói như có tiếng cười.
 
- Được! Ngươi đã muốn đi ta cũng không ép, nhưng sau khi trả nợ cho ta đã.
 
Cùng lúc với lời nói, Ngọc Uyển lao về phía Anh Tú, thanh trủy thủ không biết từ khi nào đã nằm trong tay cô, sáng loáng và đâm thẳng vào ngực anh. Vì khoảng cách cả hai quá gần, lại thêm không ai lường trước Ngọc Uyển sẽ bất ngờ hành động như thế, nên chẳng ai kịp phản ứng. Đến khi mọi người định thần lại thì tất cả mọi chuyện đã xong xuôi. Một thanh trủy thủ sáng lóa cắm vào ngực Anh Tú, gương mặt anh như đông lại vì vẫn chưa hiểu chyện gì đã xảy đến cho mình. Cảm nhận dòng máu nóng thấm qua kẽ tay, tuôn ra từ vết thương, Anh Tú cảm thấy cả người anh như bị xé toạt ra, từng khớp xương trong người căng cứng, và rồi gãy vụn, gãy vụn. Anh Tú lờ mờ nhìn thấy gương mặt đắc thắng, nhuốm vẻ tàn độc của Ngọc Uyển đang mỉm cười, hình như Ngọc Vũ và Bách Nhật đang thất thanh gọi tên anh, và hình như anh nghe đâu đây tiếng Linh Lan vọng về, thật xa xôi…
 
Anh Tú!!


 
★ Chương 99

*Flash back*

- Anh Tú! Đây là em gái của con, tên em ấy là Linh Lan!

Vào một ngày mưa phùn lất phất, người cha yêu quý chợt dẫn một bé gái có đôi má phúng phính, đôi mắt to đen như nhung về nhà. Cậu bé lặng yên nhìn sinh linh nhỏ bé trước mặt, ánh mắt cậu hết dừng ở cô bé rồi lại nhìn chiếc băng đen nhỏ xíu đính trên ngực cha. Mẹ cậu mất đã được hai năm, và thêm một năm nữa cậu mới mãn tang bà. Và hôm nay là ngày cậu chào đón thêm thành viên mới trong nhà, một cô bé, một đứa con khác của cha…

Con rất vui
Nhưng ba à…
… Nếu đó là em gái của mẹ con sinh ra thì hay biết mấy…

*End flash back*

Anh Tú chậm chạp mở mắt.

Dường như anh đã có một giấc ngủ thật dài nên khi mở mắt ra anh nhất thời vẫn chưa khôi phục được thị giác. Bóng tối lờ mờ, nhòe nhoẹt trước mặt anh. Lâu thật lâu, những đường viền nhòe nhoẹt đó dần tụ lại thành một gương mặt. Gương mặt ấy trong suốt, chập chờn, với những giọt lệ chưa khô, và hình như một trong số những giọt lệ ấy đã rơi trên mặt anh, ấm nồng.

Ai đang khóc? Ta đang ở đâu đây?

- Anh Tú! Hay quá, cuối cùng ngươi cũng đã tỉnh lại rồi…

Một giọng nói cất lên, run rẩy, nghe như vỡ òa. Giọng nói trong trẻo ấy rất quen thuộc. Tại sao anh lại nằm đây, tại sao anh không thể động đậy, tại sao anh lại nghe thấy từng khớp xương trong người như đã di chuyển sai vị trí, và tại sao anh lại nghe thấy tiếng sóng biển thì thầm như đang thở than.

- Anh Tú, ông không sao chứ? Ông cảm thấy không khỏe chỗ nào thì nói cho tôi biết. Ông đã hôn mê nhiều ngày rồi đó.

Lại một giọng nói quen thuộc cất lên, giọng nói nhẹ nhàng đó đã đánh thức mọi giác quan trong người Anh Tú. Ký ức như một cuộn phim quay chậm trong đầu. Đêm Gia Định không trăng. Nụ cười Ngọc Uyển ánh lên vẻ hoang dã, tàn độc dòng máu nóng từ ngực anh tuôn ra, thấm qua kẽ tay. Rồi sau đó, tất cả chỉ là một màn đêm đen kịt, đến khi tỉnh dậy thì anh đã thấy mình nằm trong ánh đèn dầu tù mù từ trên bàn tỏa ra.

Anh Tú chớp mắt, trí nhớ đã trở về. Anh chống tay, cố gắng ngồi dậy nhưng cả thân người như bị cột chặt vào một tảng đá, không sao nhấc lên được. Một bàn tay mềm mại đặt lên vai Anh Tú, ấn nhẹ anh nằm xuống, giọng nói nhẹ nhàng lại tiếp tục cất lên.

- Đừng cử động, ông hãy nằm yên nghỉ ngơi cho vết thương hồi phục. Tuy tính mạng đã an toàn nhưng ông vẫn còn yếu lắm, cần phải được bồi bổ nhiều.

Bây giờ, khi các giác quan đã được hồi phục trở lại, Anh Tú nhận ra người vừa lên tiếng là Bách Nhật, cô bạn thân lâu năm của anh. Dưới ánh đèn dầu leo lét, khuôn mặt dịu dàng của Bách Nhật chập chờn trong bóng tối, những tia sáng mỏng soi lên đôi má bầu bĩnh. Dưới đôi mắt xám tro kiên nghị xuất hiện hai quầng thâm rõ rệt. Có lẽ mấy ngày qua Bách Nhật đã phải thức đêm để trông nom, chăm sóc cho Anh Tú, điều đó làm anh cảm thấy áy náy, nhưng đồng thời lại thầm cám ơn Bách Nhật đã có mặt ở đây, bên cạnh anh. Nếu như tỉnh lại mà thấy mình đang ở một nơi xa lạ, cùng với những gương mặt xa lạ, thì tâm trạng của anh chắc chắn sẽ không bình yên như bây giờ.

- Anh Tú, ngươi cảm thấy thế nào? Có còn đau nữa hay không?

Đã nhận ra Bách Nhật, tất nhiên Anh Tú cũng nhận ra cái giọng trong trẻo thấp thỏm vừa cất lên là của Ngọc Vũ. Đưa mắt nhìn cô, Anh Tú lắc đầu một cách yếu ớt. Nhìn bộ dạng thảm thương của Anh Tú, đôi mắt Ngọc Vũ lại long lanh nước vì lo lắng.

Ngay khi Anh Tú vừa bị Ngọc Uyển đâm, bất chấp còn đang ở trong lòng địch, Ngọc Vũ rút kiếm ra để quyết chiến với Ngọc Uyển. Nhanh tay ngăn cản Ngọc Vũ, Ưu Phong quét mắt qua gương mặt đắc thắng của Ngọc Uyển, mày kiếm nhíu lại vì biết Ngọc Vũ làm thế chẳng được ích gì. Trước sự uất ức của Ngọc Vũ, Ưu Phong mang cả ba rời khỏi Gia Định ngay trong đêm ấy, tìm một chỗ trú để chữa trị vết thương cho Anh Tú kịp thời.

Nhờ Bách Nhật và Ngọc Vũ tận tình chăm sóc, lại thêm thuốc thang mà Bách Nhật đã đem theo trước đó, vết thương do Ngọc Uyển gây ra đã được sơ cứu kịp lúc, không còn nguy hiểm đến tính mạng. Nhưng ngặt nỗi vì mất máu quá nhiều, Anh Tú rơi vào tính trạng nữa tỉnh nửa mê suốt nhiều ngày liền, khiến ai nấy đều cảm thấy lo lắng. Nay nhìn thấy anh tỉnh lại, cả Bách Nhật và Ngọc Vũ đều thở phào nhẹ nhõm. Bách Nhật lại tiếp tục nấu thuốc cho Anh Tú, và Ngọc Vũ trở thành người bón thuốc cho anh như vài hôm trước Anh Tú đã làm.

Lần đầu tiên chăm sóc cho người khác, Ngọc Vũ rất lúng túng. Trước nay cô chỉ quen được người khác chăm sóc chứ chưa có trường hợp ngược lại bao giờ. Về phần Anh tú, nhìn Ngọc Vũ vụng về bón từng muỗng thuốc, lại cuống quýt khi thuốc rơi ra ngoài áo, Anh Tú vừa buồn cười lại vừa cảm động. Cô nàng công chúa này ít ra cũng biết quan tâm đến người khác chứ không còn ích kỷ, chỉ biết đến thân như lúc ban đầu gặp mặt. Xem ra chuyến đi Gia Định lần này không vô ích, Ngọc Vũ đã có thay đổi, và quan trọng hơn là anh đã tìm thấy Linh Lan.

Anh Tú tựa lưng vào tường, hồi tưởng lại tất cả mọi chuyện. Ngày hôm đó, Ưu Phong đã bảo Ngọc Vũ và Bách Nhật ra ngoài, chỉ còn lại hai người đàn ông trong căn nhà lá để dễ nói chuyện. Những tưởng sẽ tiếp tục nghe truy hỏi về giao ước của Ngọc Uyển, nhưng Anh Tú còn chưa kịp nói gì thì Ưu Phong đã lên tiếng, giọng nhẹ thênh.
 
- Có phải Ngọc Uyển đã ra giao ước một mạng đổi một mạng không?
 
Chẳng cần vòng vo tam quốc, Ưu Phong nói luôn vào vấn đề chính. Lời anh vừa thốt ra đã làm Anh Tú giật mình vì không ngờ anh lại biết rõ như người trong cuộc vậy. Nhìn Ưu Phong, An Tú ngơ ngẩn, lòng nghi hoặc chẳng lẽ Ngọc Uyển đã nói hết cho người này nghe rồi sao.
 
- Đừng nhìn tôi như thế, tất cả chỉ là do tôi phỏng đoán mà thôi. Nhưng căn cứ vào những biểu cảm trên mặt cậu, nghĩa là tôi đã nói đúng?
 
- Sao...sao anh biết?
 
- Chuyện đó có gì khó. Tôi đã có lần tiếp xúc với Ngọc Uyển nên thừa biết tính cách của con bé. Tính cách của Ngọc Uyển rất tự lập và khá bàng quan đối với chuyện của người ngoài. Sẽ không có chuyện con bé giúp không công cho ai, bao giờ cái giá của họ cũng tương xứng với điều kiện nó đặt ra. Cậu và em gái tôi là người xa lạ với Ngọc Uyển, nhưng nó lại chịu cứu em gái tôi, trừ phi nó đã đổi được thứ gì đó tương xứng từ cậu, bằng không thì sẽ không bao giờ ra tay cứu cả hai. Tôi đoán cái giá của cậu khi chấp nhận lời đề nghị của Ngọc Uyển là một mạng sống. Dùng mạng của cậu để đổi lấy mạng của Ngọc Vũ, đó cũng là cá tính của Ngọc Uyển nên tôi không lấy làm lạ. Cậu trước sau không chịu nói ra giao ước, có phải sợ Ngọc Vũ sẽ hành động nông nổi, không về Bắc hà, hay sợ dù có đi được thì tính mạng vẫn sẽ không đảm bảo bởi vì đã trót nuốt viên thuốc độc của Ngọc Uyển phải không?
 
Ưu Phong càng nói, Anh Tú càng toát mồ hôi hột, đến khi anh nói xong thì Anh Tú ngơ ngẩn, mãi chẳng thể thốt ra tiếng nào như bị ai điểm huyệt. Trước đây, Anh Tú chỉ đơn thuần nghĩ Ưu Phong là người đào hoa, là cung chủ tử phụng cung chắc bản lĩnh cũng không ít, nhưng đến khi tận mắt chứng kiến thì mới vỡ lẽ ra Ưu Phong quả là một người khó đoán. Qua lời kể của Ngọc Vũ mà anh đã có thể nói chính xác đến như thế, câu nào câu nấy đánh trúng vào tâm lý Anh Tú, khiến Anh Tú thán phục con người ung dung, điềm đạm trước mặt mình. Quả là cung chủ uy chấn giang hồ có khác, mới chỉ bằng lời lẽ thôi đã làm người khác nể phục, nếu giở võ học ra thì không biết siêu quần đến mức nào.
 
Trước sự ngơ ngẩn của Anh Tú, Ưu Phong bật cười. Anh nheo mắt, hạ giọng đủ để Anh Tú nghe thấy.
 
- Cậu nghe đây! Thuốc giải độc trong người cậu tôi không có, nhưng tôi biết người có thể giải độc cho cậu hiện đang ở đâu?
 
- Sao? Có người có thể giải được loại độc này sao? Anh không đùa đấy chứ?
 
Nghe Ưu Phong bảo chất độc trong người nó có thể giải được, Anh Tú la lớn. Đáp lại câu hỏi của anh chỉ là một cái nhướng mày của Ưu Phong, và Anh Tú nghiễm nhiên cho rằng đó là câu trả lời. Cung chủ tử phụng cung có khác, ngay cả cái nhướng mày cũng có trọng lượng, quả là trời phật thương kẻ hiền lành nên mới cho Ưu Phong đến cứu anh, nếu không e cả đời anh phải trở thành đồ chơi trong tay Ngọc Uyển mất thôi.

Theo lời Ưu Phong, Anh Tú đã có tự tin, an tâm rời khỏi nơi này mà không cần phải thấp thỏm. Anh hẹn gặp Ngọc Uyển, nói ra ý định sẽ rời khỏi đây, nhưng nào có ai ngờ, kết quả là đã bị Ngọc Uyển cho một dao nằm ngắc ngoải mấy ngày trời trên giường. Không thể di chuyển ngay vì sợ vết thương lại chảy máu, càng không thể xuất hiện trước mặt Linh Lan với bộ dạng thê thảm thế này, Anh Tú ở lại Gia Định ít lâu để dưỡng thương, rồi sau đó mới trở về Quy Nhơn để tìm gặp Linh Lan. Dù luôn chê bai anh đủ điều, nhưng hơn ai hết, Anh Tú hiểu rõ Linh Lan rất thương mình. Hai anh em đi đâu cũng có nhau, nay trở về quá khứ mỗi người một nơi. Bằng mọi giá anh phải chiến thắng vết thương trên người, phải chiến thắng bệnh tật để xuất hiện trước mặt Linh Lan một cách lành lặn nhất, để Linh Lan không phải lo lắng cho anh như anh đã lo lắng cho nó.

Nhắc đến Linh Lan, Anh Tú lại nghĩ đến giấc mơ đó. Giấc mơ đã từ rất lâu, khi anh còn là một cậu bé. Gia đình anh chỉ có bốn người, mẹ đã qua đời, anh và Linh Lan lại bị trở về quá khứ, chỉ còn lại một mình cha anh ở lại hiện tại. Cha anh bây giờ thế nào, ông có khỏe không, mái đầu có thêm bạc và gạt tàn thuốc có được ai đổ bớt không, có biết rằng hai đứa con của ông đang mắc kẹt ở quá khứ và ngày ngày đều nhớ đến ông hay không.

Anh Tú thở dài. Ở quá khứ này, anh chỉ có thể làm yên lòng cha mình bằng cách chăm sóc Linh Lan thật chu đáo, đồng thời tìm cách đưa hai anh em quay trở về hiện tại. Dù không nói ra, nhưng Anh Tú biết cha thương nhất là Linh Lan, ông luôn chăm sóc con bé một cách cẩn thận, ngay cả khi lớn lên, dù hình thức chăm sóc của ông chuyển sang thầm lặng, không thể hiện trực tiếp ra như trước đây.

Cha anh thương yêu Linh Lan, và Anh Tú cũng thế, anh cũng rất thương Linh Lan. Mỗi lần nhìn vào đôi mắt đen như bầu trời đêm đó, anh luôn cảm thấy một khoảng trống mơ hồ trong tâm hồn con bé. Mất mẹ ngay lúc còn nhỏ, Linh Lan trưởng thành với tình yêu của cha và anh, con bé có một cá tính kiên nghị và luôn có một sức sống tiềm tàng ẩn sâu trong đôi mắt đen ấy, cái sức sống đã cứu Anh Tú khi anh đang đứng giữa ranh giới của sự sống và cái chết. Nhờ nhìn thấy Linh Lan trong giấc mơ, nhìn thấy sức sống trong đôi mắt con bé mà anh đã có thêm nghị lực và ý chí sinh tồn. Nhờ có nó, Anh Tú mới có thể thoát khỏi bóng tối, anh có thể vùng dậy và mở mắt ra, để lắng nghe hơi thở và tiếng mạch đập nhè nhẹ của mình.

Anh vẫn sống!
Cám ơn em, Linh Lan!!

oOo

Sau bao ngày lênh đênh trên biển, cuối cùng Anh Tú cũng đã đặt chân trở lại Quy Nhơn. Cảng Thị Nại ở Quy Nhơn tấp nập không kém gì Kẻ chợ và phố Hiến. Các thương buôn người Hoa đi tàu thuyền vào các cửa biển như Cửa Thử, Đề Di, Hà Ra, Kim Bồng… rồi tỏa vào cư trú ở Nước Mặn, Phú Đa, Đập Đá…Nhà cửa ở các cảng là nhà trệt san sát nhau, cửa hiệu gắn liền với nhà ở. Anh Tú đã để ý một căn nhà của người Minh hương thì thấy, nhà người Minh hương có nhiều phòng, phòng ngoài để trưng bày hàng hóa, nối tiếp với các phòng trong để ở. Còn người Việt thì cửa hiệu ở mặt đường, còn nhà lại ở trong làng. Các cô gái Việt lấy chồng Hoa thì ăn mặc theo bên chồng, nhưng ngay cả các cô gái ở cảng thị, thích cái lạ, cũng mặc quần, áo cài khuy một bên. Sự giao thoa văn hóa phong phú ở đây làm Anh Tú nửa lạ lẫm nửa bâng khuâng. Anh lạ lẫm vì chứng kiến sự giao thương phát triển ở Quy Nhơn, bâng khuâng vì nhớ đến chiếc áo yếm đỏ thắm và bộ áo tứ thân mềm mại đã nhìn quen mắt ở Bắc hà.

Từ cảng Thị Nại, cả bọn lại tiếp tục ngồi xe ngựa để đến thôn Xuân Hòa, nơi Linh Lan đang ở. Qua lời kể của Bách Nhật, Anh Tú vô cùng cảm kích Bùi gia vì đã nhận Linh Lan làm con nuôi, cho con bé một nơi tá túc, tránh cảnh rày đây mai đó. Anh Tú bây giờ rất khỏe mạnh, vết thương cũ đã khép miệng, chỉ còn chờ liền da nữa là sẽ khỏi hoàn toàn. Tuy hiện tại anh ốm đi nhiều, không phong độ như xưa, nhưng có thể khỏe mạnh đứng trước mặt Linh Lan, âu đó cũng là điều may mắn lắm rồi. Lát nữa đây, chỉ lát nữa đây thôi hai anh em sẽ hội ngộ cùng nhau. Anh Tú nhất định sẽ buộc Linh Lan kể lại chi tiết tất cả sự việc đã xảy ra kể từ ngày hai anh em thất lạc. Chỉ nghĩ đến việc nhìn thấy gương mặt trái xoan ngạc nhiên mừng rỡ của em gái, nhìn thấy đôi mắt đen to tròn biết nói đó, là Anh Tú đã cảm thấy người hồi hộp và nôn nao lạ thường.

Nhìn nét mặt háo hức và bồn chồn của Anh Tú, Bách Nhật nhẹ mỉm cười. Nó rất hiểu nỗi lòng bây giờ của Anh Tú nhưng lại chẳng thể thốt ra một câu động viên nào, bởi lẽ nó cũng như bạn, cũng đang bồn chồn và nôn nao khi nghĩ hình vẽ dở dang đã được hoàn thành của mình.

Khẽ liếc nhìn Ưu Phong, trái tim Bách Nhật lại ngân nga những giai điệu ngọt ngào. Cuối cùng nó cũng đã tìm thấy người tâm linh tương thông với nó, thật may mắn làm sao khi người đó lại là Ưu Phong chứ không phải là một ai khác. Ý nghĩ đó vừa nhóm lên trong đầu, đôi má Bách Nhật đã ửng đỏ, một nụ cười bẽn lẽn nở trên bờ môi đào. Lúc trước vì có những rào cản, Bách Nhật đã trăm ngàn cách ngăn không cho mình nghĩ đến một ai đó, không cho tình cảm có cơ hội chen lấn lý trí, nhưng bây giờ, khi phát hiện ra người mà nó tìm kiếm không ai khác là Ưu Phong, Bách Nhật cứ để cho tình cảm tuôn trào như nước vỡ bờ. Không còn sự kèm cặp của lý trí, không còn sự dặn dò của con tim, không còn sự bảo vệ của khối óc, tình cảm của Bách Nhật như một mầm sống ngọ nguậy trong lòng đất, nay đột ngột thoát khỏi những xiềng xích ràng buộc, nhanh chóng vươn lên mặt đất, nở xòe những mầm xanh dưới ánh mặt trời.

 Một thoáng mơ hồ đã trở nên sống động, một cái gì đó không tên nay đã được định hình và hiển hiện rõ ràng hơn bao giờ hết. Lúc gặp Ưu Phong lần đầu tiên, Bách Nhật đã cảm thấy đôi mắt mênh mông nhuốm ưu tư của anh rất lạ, thật lạ. Ở phủ Đoan Nam vương, hình ảnh những bông hoa đậu trên lưỡi kiếm vừa đẹp lại vừa lạnh lùng ấy đã làm Bách Nhật cảm thấy ngộp thở. Ở Hương sơn, sau những loạt thi tâm đầu ý hợp, Bách Nhật đã rất hy vọng Ưu Phong sẽ tìm ra nó trong hàng chục chiếc kiệu hoa phủ rèm che. Ở trong vòng tay anh đêm ấy, Bách Nhật cảm tưởng rằng, đây là giấc ngủ ngon nhất, sâu nhất của nó từ trước tới giờ.

Ngày đó, khi anh đột ngột ra đi không nói lời từ biệt, bỏ lại mình nó giữa con phố đông người qua lại, Bách Nhật đã cảm thấy hụt hẫng, vô cùng hụt hẫng. Con phố lạnh lẽo năm nào vẫn còn trong tâm trí nó, như một lời nhắc nhở rằng giữa anh và nó vẫn còn cách nhau xa lắm. Ký ức trong lòng Bách Nhật tràn về, làm đôi mắt xám tro long lanh như có nước mắt. Bách Nhật đã nhận ra sự khó chịu, thất vọng khi nghe tin từ Ngọc Vũ là gì, và nó cũng nhận ra niềm vui, niềm hy vọng khi gặp lại anh là gì. Chẳng phải nó đã thích Ưu Phong rồi hay sao, chẳng phải nó đã thích anh từ rất lâu, lâu lắm rồi hay sao…

Bách Nhật xiết chặt đôi tay đang nhẹ run. Một cô gái xưa nay luôn điềm tĩnh như nó lại mất kiểm soát với bản thân mình. Nhận ra được tình cảm của mình rồi thì sao? Đối mặt với nó, không tránh né nữa rồi thì sao? Gió vẫn muôn đời là gió, đến rồi đi như chưa bao giờ tồn tại. Khi gặp Linh Lan rồi thì mạnh ai sẽ đi đường nấy, Ưu Phong rồi sẽ trở về Tử phụng cung, còn nó lại tiếp tục ở trong Tây Sơn, làm thầy thuốc như từ trước tới nay vẫn thế.

Đột ngột, Bách Nhật mím chặt môi, đôi mắt xám tro vụt lấp lánh, thứ ánh sáng quyết tâm, kiên trì trong mục tiêu của mình. Không thể như thế được. Khó khăn lắm Bách Nhật mới tìm thấy và nhận ra Ưu Phong. Khó khăn lắm nó mới gặp được người mà nó tin sẽ mang lại hạnh phúc cho mình. Ưu Phong là hạnh phúc của nó. Hạnh phúc đang ở ngay trước mắt, thế nên bằng mọi cách nó phải nắm lấy, phải biết giữ lấy hạnh phúc cho riêng mình như lời mẹ nó vẫn thường hay nói. Bách nhật sẽ rời khỏi Tây Sơn, nó sẽ đi theo Ưu Phong.

 Dù nó là một cô gái chân yếu tay mềm, không có võ nghệ, ở bên cạnh anh chắc chắn sẽ liên lụy đến anh, và trên hết, Ưu Phong có thể không muốn nó đi cùng, nhưng nó mặc kệ. Vì nó là Bách Nhật nên nó có cách. Nó có cách khiến Ưu Phong phải tình nguyện cho nó theo, nó có cách để Ưu Phong nhận ra rằng trên đời này chỉ có Bách Nhật là người duy nhất Ưu Phong không tìm thấy ở đâu khác. Hơn ai hết, nó hiểu bản thân mình muốn gì, thích gì và quyết tâm gì. Nó thích anh, nó thích Ưu Phong, nó muốn chăm sóc cho anh, muốn ở bên cạnh anh, muốn lấp đầy khoảng trống trong đôi mắt ưu tư đó và muốn anh hé mở quá khứ của anh cho riêng mình nó biết mà thôi…

Ngồi bên cạnh Ngọc Vũ, Ưu Phong vẫn yên lặng suốt từ Gia Định đến Quy Nhơn. Ánh mắt anh mông lung dõi theo đồng lúa vàng mênh mông bên ngoài, đôi mày kiếm hơi chau lại, suy tư, chẳng biết đang suy nghĩ những gì.

Xe ngựa bắt đầu đi chậm lại, đã đến thôn Xuân Hòa, Anh Tú nhấp nhỏm như đang ngồi trên ổ kiến lửa. Anh chui ra ngoài xe, ngồi bên cạnh bác xà ích, mắt nhìn ngắm những mái nhà tranh lô nhô sau lũy tre vàng. Thấy một chiếc xe ngựa từ xa đến, bọn trẻ tóc trái đào đang chơi trong làng liền ngoảnh theo hiếu kỳ. Theo lời người dân trong thôn chỉ dẫn, chiếc xe ngựa chậm chạp dừng lại trước một ngôi nhà ba gian khang trang rộng lớn. Nhìn hàng rào tre bao bọc khuôn viên rộng lớn, tim Anh Tú đập như trống dồn. Em gái anh đang sống ở đây sao, Linh Lan hiện đang có mặt trong ngôi nhà này sao? Nó có biết rằng anh đang đứng trước cổng không, có biết rằng anh đang nôn nóng muốn gặp mặt nó hay không?

Anh Tú nhảy phắt xuống xe, hai tay anh run run, chứng tỏ đang rất kích động. Nhác thấy khách lạ, ba con chó đang nằm thiu thiu dưới một gốc xoài liền phóng ra, sủa liên hồi để báo động cho người trong nhà. Có tiếng cửa cót két, có tiếng dép loạt xoạt, từ trong nhà một bóng người vội vàng tiến ra, miệng quát ba con chó không được làm kinh động khách đến. Xuất hiện trước mặt Anh Tú là một cụ già mặc áo dài thêu những cánh hoa rẽ quạt, mái tóc hoa râm búi thành củ tỏi cùng chòm râu trắng như cước, tạo cho cụ một vẻ phúc hậu, phương phi.

Nhìn Anh Tú đang đứng lóng ngóng trước cổng, cụ già nheo mắt lại, có lẽ đang tự hỏi chàng trai này là ai. Thấy Anh Tú lóng ngóng vì không biết phải mở lời như thế nào, Bách Nhật tiến tới, nó lễ phép chào cụ rồi nhẹ nhàng cất lời.

- Bác Lương, bác còn nhớ cháu không ạ?

Rời ánh mắt khỏi Anh Tú, một nụ cười hiền hòa nở trên gương mặt cụ già. Cụ gật đầu, giọng nói sang sảng khiến người khác ngạc nhiên vì nó còn rất “trẻ” so với tuổi tác của cụ.

- Bách Nhật, cháu đấy ư, lâu lắm rồi ta mới gặp lại cháu đấy.

- Vâng! Mấy tháng nay vì bận một số chuyện nên cháu không thể đến thăm bác được. Bác cho cháu hỏi Linh Lan có ở nhà không ạ?

Nhắc đến Linh Lan, Anh Tú đứng bên cạnh tim đập thình thịch như tiếng trống, sốt ruột bám hai tay vào thanh tre hàng rào, mắt nhìn ngó bên trong để xem có trông thấy bóng dáng Linh Lan không. Nhíu mày vì hành động nôn nóng của Anh Tú, cụ già nhẹ lắc đầu.

- Tiếc quá, cháu đến không đúng lúc rồi. Nhạn nhi đi làm nhiệm vụ đặc biệt do Long Nhương tướng quân giao, đã không có ở nhà hơn tháng nay rồi.

Những lời cụ Lương thốt ra, chẳng khác có sét giáng xuống người Anh Tú. Toàn thân anh cứng đờ, đôi mắt mở to, nhìn trân trân vào mặt cụ Lương, cứ như thể anh vừa nghe lầm hay cụ đã nói sai. Bộ dạng chẳng khác nào Từ Hải chết đứng của Anh Tú làm Bách Nhật thương cảm. Nó quay sang cụ Lương, nhẹ giọng.

- Vậy bác có biết Linh Lan đi công vụ ở đâu và khi nào trở về không ạ?

- Không! Ta không biết - Cụ Lương trầm ngâm - Nó đi rất vội vàng, không kịp nói rõ và ta cũng không tiện hỏi, chỉ biết rằng nó đang nhận nhiệm vụ mà thôi.

- Bác ơi! Bác cố nhớ lại đi, Linh Lan có nói là đi đâu, khi nào về không? Bác làm ơn cố nhớ lại đi bác!!

Cụ Lương chưa kịp dứt lời thì Anh Tú đã vội lên tiếng. Giọng nói nó gấp gáp, nửa cầu khẩn nửa thiết tha. Nhíu mày nhìn Anh Tú, cụ Lương khẳng khái đáp lời.

- Không. Nó không nói gì với ta cả. Chuyện Long Nhương tướng quân giao cho nó là bí mật, ta là người ngoài, không tiện hỏi đến việc quân. Ta không biết khi nào Nhạn nhi về, nhưng khi nó về ta sẽ thông báo lại cho cậu ngay. Cậu là ai? Có quan hệ thế nào với nó?

- Cháu…cháu là anh của Linh Lan. Cháu là Anh Tú, anh trai nó.

Đôi mắt cụ Lương vụt lấp lánh khi nghe Anh Tú trả lời. Cụ đưa mắt nhìn từ đầu tới chân Anh Tú rồi chốt lại trên gương mặt nôn nóng pha lẫn lo lắng, thất vọng của anh, giọng nhẹ nhàng.

- Thì ra cậu là anh trai bị thất lạc của Nhạn nhi. Lúc trước ta có nghe nó nói về cậu, đến nay mới được gặp. Tiếc là cậu đến không đúng lúc, nó đã đi công vụ, không biết bao giờ mới về.

Đã đến được Quy Nhơn rồi mà không gặp được nhau, đó là số trời hay cái số con rệp của Anh Tú. Khó khăn lắm mới ra khỏi Hoàng cung được, khó khăn lắm mới biết tin tức của Linh Lan, ấy vậy mà đến tận nơi Linh Lan ở mà vẫn không gặp được, ngỡ gần nhau trong gang tấc, hóa ra lại quá xa nhau. Ý nghĩ ấy khiến Anh Tú khó chịu, bực bội và thất vọng. Mọi niềm vui và hy vọng lúc đến Quy Nhơn đều đã biến mất, thay vào đó là sự chán nản và hụt hẫng tột cùng. Linh Lan không ở đây, con bé đã đi đâu, rốt cuộc con bé đã đi đâu?

Nhìn Anh Tú thẫn thờ thất vọng, Bách Nhật cảm thấy thương cho bạn. Rõ ràng đã đến được đây mà không gặp được nhau, đúng là số trời thích trêu người. Nén tiếng thở dài, Bách Nhật gật đầu với cụ Lương, rồi nói.

- Vậy thôi được ạ. Cháu cám ơn bác nhiều, thôi chào bác, chúng cháu đi đây ạ.

- Ơ! Thế các cháu không vào nhà chơi sao. Còn cậu, cậu là anh của Nhạn nhi thì cũng coi như là con ta, chi bằng ở lại nhà ta, đợi nó trở về đoàn tụ.

- Không! Không được! Hắn… Hắn sẽ không ở lại đây, hắn sẽ về Bắc hà cùng với ta!!

Lời cụ Lương còn chưa nói dứt, Ngọc Vũ đứng bên cạnh đột ngột cất tiếng. Giọng nói của cô thảng thốt, lo lắng, còn tay thì níu áo Anh Tú, tựa như sợ bị bỏ rơi. Trước biểu hiện khác lạ của Ngọc Vũ, Ưu Phong nheo mắt, rồi như vừa chợt nghĩ ra một chuyện gì đó, anh mỉm cười buông lời.

- Không sao đâu bác, Anh Tú cần phải quay trở về Bắc hà để hoàn thành nhiệm vụ của mình. Cháu và Bách Nhật sẽ ở đây để đợi Linh Lan trở về rồi báo tin lại cho cậu ta cũng không muộn.

Anh Tú nhìn Ưu Phong trân trối. Rõ ràng Ưu Phong thừa hiểu anh mong muốn gặp Linh Lan biết bao, muốn được nhìn thấy em gái thế nào, ấy vậy mà còn bảo anh có nhiệm vụ ở Bắc hà. Nhiệm vụ gì mặc kệ, anh không cần biết, anh chỉ biết bằng mọi giá anh phải gặp được Linh Lan. Không gặp Linh Lan, anh có chết cũng không cam lòng. Anh nhất định phải ở lại Quy Nhơn chờ Linh Lan trở về, chứ không bao giờ về Bắc hà theo lời Ưu Phong nói. Không bao giờ!

Những lời đó Anh Tú còn chưa kịp nói thì Ưu Phong đã ra hiệu cho Anh Tú im lặng, rồi rảo bước đến chiếc xe ngựa đang đậu gần gốc đa. Khó hiểu vì hành động ấy, Anh Tú miễn cưỡng đi theo, còn chưa kịp cất tiếng thắc mắt thì Ưu Phong đã đáp lời.

- Cậu thật muốn ở lại đây để chờ em gái cậu trở về?

- Phải! - Anh Tú nhấn mạnh từng tiếng - Và tôi sẽ không đi đâu hết nếu chưa gặp được em gái tôi!

- Kiên quyết lắm - Ưu Phong cười nhạt - Nhưng tôi e chưa kịp gặp em gái cậu thì cậu đã không còn sống trên đời này nữa rồi.

- Sao?

Đang trong lúc thất vọng vì không gặp được Linh Lan nên khi nghe Ưu Phong bảo mình sẽ chết, anh nhất thời ngớ người ra vì không hiểu Ưu Phong muốn ám chỉ đến chuyện gì. Trước sự ngơ ngẩn của Anh Tú, Ưu Phong lắc đầu.

- Đừng nói với tôi là cậu đã quên viên thuốc độc mà cậu đã uống của Ngọc Uyển nhé. Chất độc này chỉ có Đoan Nam vương mới giải được, cậu không về Bắc lấy ai cứu mạng cậu. Em gái cậu đi công vụ không biết khi nào về, có thể một ngày, hay ngày, một tháng, hai tháng hoặc nửa năm, cậu chờ được, nhưng chất độc trong người cậu thì chờ được không? Chẳng lẽ cậu muốn chưa gặp được em gái đã chết ở đây mà chẳng được ích gì sao? Cho dù cậu may mắn chờ được em gái cậu trở về, nhưng lỡ như khi đó độc tính phát tác, cậu sẽ chết rất thê thảm trước mặt em gái cậu thì sao? Cậu đành lòng sao, cậu nhẫn tâm để em gái cậu bơ vơ một mình trên thế gian này à? Theo tôi, tốt nhất bây giờ cậu hãy lo bảo toàn tính mạng, trở về Bắc Hà nhờ Đoan Nam vương giải hết độc, cơ thể hoàn toàn khỏe mạnh rồi mới quay lại đây để tìm em gái. Tôi và Bách Nhật nhất định sẽ giúp cậu nghe ngóng tin tức, nếu gặp được em gái cậu, chắc chắn tôi sẽ cho người đến Bắc hà báo tin ngay, như thế chẳng phải vẹn toàn sao?!

Ưu Phong tuy đang hỏi, nhưng câu hỏi của anh nghiễm nhiên lại là câu trả lời. Anh Tú nghe xong thừ người ra. Không biết vì nắng nóng hay vì những lời Ưu Phong nói mà mồ hôi trên trán Anh Tú lấm tấm. Dù không cam lòng, nhưng anh công nhận rằng Ưu Phong nói đúng. Anh có thể chờ Linh Lan, nhưng chất độc trong người anh lại không thể. Chẳng biết bao giờ nó phát tác, không gặp được Linh Lan anh cố nhiên không cam lòng, nhưng gặp Linh Lan rồi chết, để Linh Lan lại một mình không ai chăm sóc, anh còn đau hơn gấp nhiều lần.

Anh Tú thở dài,ý muốn gặp Linh Lan vẫn còn đó, nhưng ý chí của anh đã lung lay. Phải! Ưu Phong nói đúng, anh phải quay trở về Bắc hà nhờ Đoan Nam vương giải độc, rồi sau đó mới toàn tâm toàn ý tìm gặp Linh Lan, chuyện trong này đã có Ưu Phong và Bách Nhật giúp anh giải quyết. Ưu Phong là cung chủ Tử phụng cung, tai mắt rất nhiều, Bách Nhật lại là bạn thân của Linh Lan, quen biết ông Lương và cá tính cẩn thận chu đáo. Hai người ấy mà hợp lại với nhau chắc chắn chuyện gì cũng có thể giải quyết được, vậy nên gặp lại Linh Lan không còn quá khó đối với anh như lúc đầu.

Anh Tú đắn đo suy nghĩ, sau một lúc cân nhắc thiệt hơn, cuối cùng anh cũng gật đầu đồng ý. Anh Tú đồng ý trở về Bắc hà là vì tính mạng của anh và vì Linh Lan, chẳng can hệ gì đến Ngọc Vũ, thế mà tự nhiên khi nhìn thấy anh gật đầu, nét mặt lo lắng, thấp thỏm của cô liền giãn ra. Lòng cô như vừa trút được gánh nặng ngàn cân. Mọi chuyện tiếp theo cô không biết sẽ như thế nào, nhưng Anh Tú chịu về Bắc hà đã khiến cô thấy vui. Nãy giờ theo dõi câu chuyện của Hoàng huynh cô và Anh Tú, Ngọc Vũ đã rất lo lắng, cô rất lo Anh Tú sẽ không về Bắc hà cùng cô. Vô hình cô nắm chặt tay lại, hơi thở nhẹ như làn khói, đến khi thấy Anh Tú gật đầu, Ngọc Vũ mới thấy phấn chấn trở lại. Cô mở tay ra thì nghe lòng bàn tay nóng hổi, thì ra tay cô ướt đẫm mồ hôi từ bao giờ.

Mọi chuyện đã hoạch định xong, Bách Nhật cám ơn và gởi lời chào tạm biệt đến ông Lương, rồi đưa tiễn Anh Tú và Ngọc Vũ lên đường quay trở về Thăng Long. Nhìn theo chiếc xe ngựa cho đến khi mất hút, Bách Nhật mới tiến lại gần Ưu Phong. Nó nhìn anh bằng sự trìu mến, trái tim đập nhè nhẹ. Chỉ còn lại hai người, Bách Nhật không biết phải làm gì và nói gì với Ưu Phong. Và trong lúc Bách Nhật còn đang suy nghĩ thì Ưu Phong đã lên tiếng, nhẹ nhàng.

- Anh Tú đã đưa Vũ nhi quay trở về Bắc hà, còn chúng ta ở lại Quy Nhơn, chờ tin tức em gái cậu ta thôi.



★ Chương 100
 
Tháng năm nắng nóng, Gia Định như một chiếc bánh ngọt xốp giòn đang nằm trong lò nướng chờ được lấy ra. Dù trong thành có bóng cây xanh che mát, nhưng với cái nắng hanh hao trên cao thì có nhiệt huyết đến đâu, Linh Lan cũng khó lòng mà tập trung vào việc luyện kiếm của mình.
 
Dậy từ lúc mặt trời chưa mọc, đến giờ cũng đã giữa trưa, những chiêu kiếm Văn Bình dạy cho từ mấy hôm trước, bây giờ Linh Lan mới ôn xong. Quệt ống tay áo lên vầng trán lấm tấm mồ hôi, nó ngồi xuống ghế đá, nhìn lòng bàn tay có những nốt chai nhỏ do cầm kiếm mà khẽ thở dài. Bàn tay của nó bây giờ không mềm mại như xưa, làn da đã chuyển sang màu bánh mật do dang nắng, duy chỉ có mái tóc dài là vẫn đen nhánh, không thay đổi, âu cũng là sự an ủi cho Linh Lan vì nó biết cách chăm sóc tóc mình.
 
Sau gần hai tháng ở Gia Định, gương mặt Linh Lan giờ có vài bé mụn “xinh xinh” ngự trị bởi dang nắng dầm sương nhiều, thân người lại ốm tong ốm teo bởi phải luyện tập vất vả trong quân ngũ. Mỗi lần nhìn vào gương chải tóc, Linh Lan thầm cười khổ. Dù thường ngày nó không mấy quan tâm đến dung nhan nhưng nay cũng phải nhận thấy mình xuống sắc hơn lúc trước rất nhiều. Nhưng bù lại cho nhan sắc, thể lực của Linh Lan giờ đã được nâng cao, bản thân nó đã có thể tự bảo vệ bản thân và tháo vát hơn lúc trước. Nguyên Thục, Nguyên Thiên, Bách Nhật và ông anh vừa kiêu vừa điêu của nó mà gặp lại thì bảo đảm chỉ có nước cả bốn sẽ tròn xoe mắt mà nhìn.
 
Nghĩ đến đó, Linh Lan không thể bật cười được vì nhớ đến Bách Nhật. Gần hai tháng nay, nó nó ăn ngủ không yên khi được tin Bách Nhật không trở về doanh trại sau khi ra ngoài mua thuốc men. Thời buổi nhiễu nhương, loạn lạc, Bách Nhật lại là con gái chân yếu tay mềm, ra ngoài vào lúc tối trời như thế chắc chắn sẽ lành ít dữ nhiều. Từ dạo Bách Nhật mất tích, Linh Lan đứng ngồi không yên. Nó thường xuyên ra ngoài thăm dò tin tức về Bách Nhật, cũng như Văn Bình đã cho người đi tìm khắp nơi nhưng kết quả vẫn là con số không, Bách Nhật vẫn bặt vô âm tín. Thời gian ngày một trôi nhanh, thấm thoát mà đã gần hai tháng kể từ khi Bách Nhật mất tích nhưng vẫn không có chút tin tức nào, khiến Linh Lan không sao vơi được phiền muộn trong lòng.
 
Đối với Linh Lan, nó rất ghét việc phải chứng kiến từng người thân ra đi lần lượt trước mặt nó. Đầu tiên là để lạc Anh Tú, sau đó là Bách Nhật một đi không trở về, điều đó khiến Linh Lan tự trách bản thân vì đã không bảo vệ được họ. Ngày đó, nếu Linh Lan kịp chạy theo Anh Tú thì cả hai đâu đến nỗi phải lạc mất nhau. Ngày đó, nếu Linh Lan hộ tống Bách Nhật ra ngoài mua thuốc thì giờ đây đã không phải chôn chân một chỗ, lo bạn mình lành ít dữ nhiều như thế này. Tất cả mọi chuyện là lỗi một phần của nó, là nó chỉ biết nhìn những người thân yêu biến mất ngay trước mặt mà không làm được gì. Càng nhớ lại, Linh Lan càng cảm thấy mình thật vô dụng làm sao.
 
Bởi vì suy nghĩ và ý chí được hun đúc hình thành sau những mất mát, nên ngày nào Linh Lan cũng miệt mài luyện tập kiếm thuật và võ nghệ. Dưới sự kềm cặp trực tiếp của Văn Bình, Linh Lan bây giờ đã tiến bộ rõ rệt, đến nỗi Phan Văn Lân phải tròn mắt ngạc nhiên vì sự thay đổi của nó. Kể ra, để được như bây giờ, Linh Lan cũng phải cám ơn Văn Bình vì những gì anh làm cho nó. Dù bận việc quân, phải tái thiết lực lượng và chỉnh đốn lại quân bị, nhưng những lúc rảnh rỗi, Văn Bình đều dành thời gian dạy nó luyện kiếm. Nhưng ngoài việc luyện kiếm ra thì anh lại không nói chuyện gì với nó, làm Linh Lan có cảm giác, rất mơ hồ, rằng hình như Văn Bình đang tạo khoảng cách giữa hai người.
 
Linh Lan tuy biết, nhưng nó cũng không nói gì, dù rằng bản thân thấy hơi buồn một chút. Đối với nó, người đầu tiên khiến nó thấy an tâm là anh, người đầu tiên che chở cho nó cũng là anh, nay nhận thấy anh và nó bỗng dưng không còn thân thiết như xưa, mà lại có khoảng cách trong mối quan hệ, Linh Lan cảm thấy buồn.
 
Từ dạo Văn Bình hé mở một nửa câu chuyện của anh và Nguyễn Huệ đến nay, anh không nói thêm chuyện nào nữa. Dù chỉ nghe được phần đầu câu chuyện, nhưng Linh Lan cũng có thể kết luận mối quan hệ của anh và Nguyễn Huệ khi còn thơ rất tốt. Điều nó cảm thấy khó hiểu nhất là tại sao cả hai lại trở mặt với nhau, Nguyễn Huệ tại sao lại ở trong thân xác Văn Bình, lại còn rất căm ghét người anh sinh đôi của mình, đến mức muốn hủy hoại những gì Văn Bình đang có. Câu hỏi đó có lẽ chỉ có Văn Bình mới trả lời được, nhưng anh không muốn nhắc đến chuyện đó thì nó dù muốn biết cũng không tiện hỏi thêm làm gì.
 
Linh Lan thở hắt ra một hơi. Trước đây, nó đã có ý nghĩ sẽ thân với Văn Bình hơn, sẽ cùng chia sẻ những buồn vui của anh, thế nhưng ý định đó xem ra không thể thực hiện được. Nó đã vấp rào cản từ phía Văn Bình, anh không mở lòng với nó, cũng như giấu kín mọi buồn vui thường trực của một con người. Anh luôn xuất hiện trước mặt nó với sự điềm đạm thường ngày, nó chưa bao giờ nhìn thấy anh tỏ ra mệt mỏi, dù bờ vai rộng đó đang gánh lấy trách nhiệm nặng nề trên vai. “Thiên hạ trở thành người một nhà”, đó là ước mơ của Văn Bình, anh đang cố gắng thực hiện ước mơ đó bằng trách nhiệm, tài năng và công sức của mình, nhưng anh có bao giờ chia sẻ ước mơ đó cho ai không? Lý do gì anh muốn thiên hạ trở thành người một nhà, có phải là vì thiên hạ, hay chỉ vì bản thân anh? Linh Lan không biết. Nó chỉ biết rằng những chuyện ấy có lẽ nó sẽ không bao giờ biết, trừ phi Văn Bình bộc bạch bản thân mình cho nó. Nhưng đến bao giờ đây? Linh Lan e rằng sẽ chẳng bao giờ đâu.
 
- Cô còn ngồi đây sao? Đội nữ binh đã bắt đầu luyện tập rồi đó.
 
Một giọng nói bất thần vang lên, cắt đứt dòng suy tưởng của nó. Linh Lan ngẩng đầu lên, Phan Văn Lân đang đứng trước mặt nó, gương mặt thư sinh tươi cười, đôi mắt nheo nheo như vừa phát hiện một chú mèo con đang trốn mẹ đi chơi. Vốn dĩ Lân không nằm trong số các tướng lĩnh xuất quân lần này, thế nhưng cách đây một tháng, anh vào Gia Định với tư cách người truyền tin của Thái Đức hoàng đế đến cho Văn Bình, và được Văn Bình giữ lại, giúp anh trông coi công việc. Thấy trên tay Lân là ba tảng đá dày chồng lên nhau, Linh Lan rất ngạc nhiên. Thường ngày anh vốn kín tiếng, lại không hay trò chuyện với một ai, khi các binh sĩ mới gia nhập yêu cầu anh biễu diễn võ nghệ cho họ xem do thấy dáng vẻ thư sinh của anh, Lân chỉ mỉm cười và từ chối. Ngoài những giờ luyện tập bình thường trong đội ngũ, Linh Lan không thấy Lân luyện tập thêm như những đô đốc khác, té ra là anh lẳng lặng ra đây để luyện một mình. Đúng là nơi này và yên tĩnh vừa kín đáo, có trổ tài học ra cũng chẳng ai dòm ngó hay bình phẩm gì.
 
Nhìn ánh mắt tinh quái của Linh Lan khi chiếu vào ba phiến đá dày trên tay, Phan Văn Lân lúng túng. Anh không nghĩ nơi này sẽ lại gặp Linh Lan nên mới ra ngoài này để luyện tập thêm. Ban nãy, lẽ ra anh không nên cất tiếng gọi nó, cứ lẳng lặng mà đi, thế nhưng không hiểu sao, khi thấy bóng dáng ấy ngồi trên bậc đá nghĩ ngợi, mái tóc dài xõa xuống bờ vai, trông vừa nhỏ bé trước thế gian rộng lớn, lại vừa như cất giữ một bí mật tôn nghiêm, không ai được xâm phạm chốn riêng tư ấy, Lân lại lên tiếng, đánh thức mái tóc đen phủ trên tấm lưng thon. Điều ấy khác hẳn với bản tính thường ngày ít nói của anh.
 
- Này Lân, ba phiến đá đó để anh luyện tập phải không?
 
Lúc trước, chính nhờ có anh mà mạng sống của Linh Lan mới giữ lại được, thế nên nghiễm nhiên, Linh Lan nợ anh một mạng. Bây giờ đối với anh, Linh Lan vừa biết ơn, lại vừa cảm kích, nó nhìn ba tảng đá trên tay anh, hỏi với giọng tinh quái. Quả nhiên, khi nó hỏi thế, Phan Văn Lân giấu phắt tảng đá ra phía sau lưng, lúng túng.
 
- Đâu có! Tôi đâu có luyện tập gì?
 
- Không luyện tập vậy anh mang nó ra đây để làm gì?
 
- Để...ngồi!!
 
Phan Văn Lân vừa nói xong, Linh Lan không nhịn được liền bật cười. Tiếng cười giòn tan, trong trẻo của nó càng khiến anh lúng túng. Vỗ nhẹ lên ba tảng đá, Linh Lan nói êm ru.
 
- Thôi, khai thật đi ông anh. Vì anh không thích người khác nhìn ngó, bình phẩm lung tung, nên mới mang ba phiến đá đó ra chốn vắng vẻ này để luyện tập để không bị ai quấy rầy chứ gì?
 
Phan Văn Lân làm thinh, không trả lời, như vậy nghĩa là Linh Lan đã nói đúng. Nhìn gương mặt thư sinh đỏ lên, Linh Lan muốn cười nhưng lại thôi. Nó đã tự hứa là sẽ không trêu chọc anh nữa, thế nên dù muốn tấn công tiếp, Linh Lan cũng dằn lòng cho qua.
 
- Nhắc mới nhớ, từ lúc vào Tây Sơn đến nay, tôi chưa thấy anh biễu diễn tài nghệ lần nào đấy. Ngoài này chỉ có anh và tôi, anh thử biểu diễn cho tôi mục kiến một phen xem nào.
 
Trước đề nghị của Linh Lan, Phan Văn Lân lắc đầu. Thừa biết anh chàng thư sinh này một khi không dùng kế sẽ chẳng chịu lộ sở học ra, Linh Lan hừ mũi một cái. Nó lấy ba phiến đá trên tay Phan Văn Lân đặt xuống đất. Một mắt nheo lại để ước lượng độ dày, Linh Lan giơ cao tay trái lên, đến khi chuẩn bị chém xuống ba phiến đá thì Phan Văn Lân đã kịp thời chụp lấy tay nó, hỏi dồn.
 
- Cô làm gì vậy?
 
- Thấy rồi còn hỏi, dĩ nhiên tôi muốn chém vỡ ba tảng đá này rồi.
 
- Cô đã luyện tập chiêu ấy bao giờ chưa?
 
- Chưa.
 
Nghe Linh Lan đáp tỉnh bơ, Phan Vân Lân trố mắt nhìn nó. Anh lo lắng.
 
- Cô chưa luyện tập qua bao giờ sao lại gan lì như thế? Đến tôi phải mất cả năm mới thực hiện được, cô chưa tập luyện gì sao có thể làm được.
 
- Anh đã luyện tập rồi thì vậy anh biểu diễn cho tôi xem đi, rồi tôi không làm nữa. Chỉ một lần thôi.
 
Linh Lan nheo mắt, vẻ tinh quái của nó khiến Phan Văn Lân ngớ người, đến khi vỡ lẽ ra là nó đã gài anh, thì mọi chuyện đã rồi. Cô gái này nào dám chém ba phiến đá ấy, cô ta chỉ khích tướng anh thôi, nếu anh không ngăn lại mà cứ thản nhiên để cô ấy chém thì có cho vàng cô ta cũng không dám. Cô ấy không hỏi, nhưng anh đã tự khai mình có luyện tập, chẳng khác nào lạy ông tôi ở bụi này. Phan Văn Lân thở dài, cô gái này chẳng khác nào trái ớt hiểm, tuy bé nhỏ nhưng làm người khác cay đến nhớ đời.
 
Phan Văn Lân buông tay Linh Lan ra. Anh nhìn nó, cái nhìn nửa nghiêm túc, nửa trìu mến, nhưng sự trìu mến ấy chỉ thoáng qua rồi nhanh chóng vụt tắt, tựa ánh sao băng rơi trên bầu trời. Phan Văn Lân quay mặt đi, ba phiến đá nằm trơ trên mặt đất, tiếng thở dài đâu đó vọng lại. Phan Văn Lân chậm rãi giơ cao tay trái lên, nhằm ba phiến đá chém xuống. Nhanh như chớp, ba phiến đá dày chồng lên nhau vỡ đôi.
 
Chứng kiến Phan Văn Lân giở tuyệt nghệ, Linh Lan mở to mắt, nó chồm lên, ngắm nghía thật kỹ ba phiến đá đã vỡ đôi, lòng thầm thán phục anh, tuy dáng dấp thư sinh nhưng lại có sức mạnh kinh hồn. Lướt mắt lên gương mặt thản nhiên như không của Phan Văn Lân, Linh Lan buột miệng.
 
- Này Lân, anh gia nhập Tây Sơn từ khi nào vậy?
 
Vừa gạt những mảnh vụn của những phiến đá bị vỡ sang một bên để ngồi xuống, Phan Văn Lân vừa trả lời.
 
- Tôi đã nói rồi mà, được năm năm.
 
- Thế à! Tôi quên mất. Thế anh gia nhập Tây Sơn bằng cách nào?
 
Phan Văn Lân phủi tay, anh quay người lại đối diện với Linh Lan. Đôi mắt anh thẫm lại khi nhớ đến những ngày đầu tiên anh gặp Long Nhương tướng quân. Khi ấy, anh vẫn còn là một thanh niên trẻ tuổi, khăn gói từ Bắc hà vào Quy Nhơn dự lễ tang của chị ruột, chứ không nghĩ đến sẽ có ngày mình làm chức nội hầu trong Tây Sơn như thế này.
 
- Ngày đó, tôi đang trên đường đến Quy Nhơn để dự lễ tang chị tôi, nửa đường chẳng may tôi gặp cướp, may nhờ tướng quân cứu thoát, nếu không tôi cũng chẳng thể đứng đây.
 
- Tướng quân? Ý anh là Văn Bình?
 
Phan Văn Lân gật đầu. Cô gái này gọi tướng quân bằng một cái tên khác, và ngoại trừ cô ấy ra thì không còn ai gọi như thế, điều đó làm anh ngạc nhiên, vì xem ra tướng quân lại dễ chịu mỗi khi nghe cô gái ấy gọi tên Văn Bình.
 
- Phải! Là tướng quân đã cứu tôi. Thế nên tôi đã nợ tướng quân một mạng, từ đó tôi theo tướng quân gia nhập Tây Sơn để trả ơn cứu mạng cho người.
 
- Sao? Anh gia nhập Tây Sơn chỉ để trả ơn cứu mạng thôi à? - Linh Lan tròn mắt - Tôi tưởng anh gia nhập Tây Sơn để chống lại sự áp bức bóc lột của tầng lớp chính quyền, giải thoát nhân dân khỏi ách thống trị hà khắc chứ?
 
- Với người khác thì có lẽ thế, nhưng với tôi lại là một chuyện khác - Phan Văn Lân mỉm cười - Tôi chỉ đơn giản là người có oán báo oán, có ân báo ân, không mắc nợ ân tình một ai. Tướng quân cứu tôi một mạng, tôi gia nhập Tây Sơn để trả lại ân tình đó, thế thôi. Còn chuyện đứng lên khởi nghĩa, chống lại áp bức bóc lột, giải thoát nhân dân khỏi ách thống trị hà khắc gì đó như lời cô nói, thì đó không phải chuyện của tôi. Ngay cả bản thân tôi khi lâm nguy còn phải nhờ sự giúp đỡ của người khác, nói chi giải thoát nhân dân.
 
Lần đầu tiên nghe Phan Văn Lân thẳng thắn bộc bạch, lại là những lời trong đáy lòng anh, Linh Lan chợt hiểu ra nhiều điều. Thì ra trong Tây Sơn, không phải tất cả tướng sĩ đều có tư tưởng chống lại sự cai trị hà khắc của tầng lớp phong kiến thối nát, đại diện cho tầng lớp áo vải giải thoát nhân dân. Điển hình như Phan Văn Lân, anh là một đô đốc, lại còn đến tước nội hầu, nhưng với anh gia nhập Tây Sơn chỉ đơn giản là để báo đáp ân tình vì không muốn nợ ơn cứu mạng của Văn Bình mà thôi.
 
Trong phút chốc, Linh Lan nhớ đến Văn Bình, nhớ đến những trọng trách anh đang mang trên vai. Như Phan Văn Lân nói, giải thoát nhân dân khỏi ách thống trị hà khắc, thiết lập một trật tự mới không phải chuyện của anh, vậy thì chuyện đó là của ai, chẳng lẽ là của Văn Bình và của nhà Tây Sơn hay sao? Linh Lan thở dài, nó chợt trở nên mông lung vì những gì mới nghe từ Phan Văn Lân. Nhìn những chiếc lá lao xao, Linh Lan hỏi khẽ, mà không hay mình đã hỏi từ khi nào.
 
- Ước mơ của anh là gì?
 
- Sao?
 
- Ước mơ của anh là gì?
 
Nghe Linh Lan hỏi, Phan Văn Lân im lặng trong thoáng chốc, anh nhìn theo hướng Linh Lan. Mái tóc đen dài nhẹ cuốn theo chiều gió, tấm lưng thon bất động, ánh mắt xa xăm như đang hướng về chân trời bình yên ở phía xa. Trong khoảnh khắc đó, Phan Văn Lân cảm thấy mơ hồ. Ước mơ của anh là gì? Ước mơ của anh rất đơn giản, nhưng anh biết nó sẽ không trở thành hiện thực, ước mơ cũng chỉ mãi là mơ ước mà thôi.
 
- Ước mơ của tôi là một ngày có được hai bữa cơm ngon!!
 
Linh Lan quay người lại, ánh mắt đen láy của nó như đang cười khi nghe ước mơ giản đơn của Lân. Chàng thư sinh này bao giờ cũng thế, không mơ ước xa vời, không mục đích lớn lao, tất cả rất đỗi bình thường và rất đỗi con người. Điều đó làm nó cảm thấy anh thật gần gũi, chứ không cao vời, xa cách như những dũng tướng khác trong Tây Sơn.
 
Vén làn tóc mai qua vành tai xinh xắn, Linh Lan nhặt lấy thanh kiếm đặt hờ trên phiến đá và quay người, rảo bước về phía đội nữ binh sau khi buông câu nói cuối cùng, vừa đủ lớn để Lân nghe.
 
- Khi nào thiên hạ trở thành người một nhà, thì một ngày của anh sẽ có được hai bữa cơm ngon.
 
Linh Lan quay bước đi, chỉ còn lại một mình Phan Văn Lân đứng trong vườn. Tiếng bước chân xa dần, khu vườn trở lại yên lặng, chỉ có tiếng chim hót ríu ríu trong các tàn cây, và ánh nắng lung linh đổ dài xuống vai anh, tạo thành chiếc bóng đơn lẻ, nghiêng nghiêng trong vườn.
 
Ước mơ ngày có hai bữa cơm ngon....
 
oOo
 
Song cửa trong căn phòng phía đông mở toang để đón lấy những cơn gió hiếm hoi trên bầu trời Gia Định. Văn Bình đang đứng tựa lưng vào song cửa, mắt nhìn ra sân tập, nơi có tiếng cười trong trẻo của một người con gái vọng lại. Lúc nào cũng thế, mỗi lần cảm thấy mệt mỏi hay phiền muộn, chỉ cần nghe tiếng cười giòn tan ấy là Văn Bình trở nên nhẹ nhõm, bao ưu phiền như tan biến, chỉ còn đọng lại những dư âm dịu dàng đang ngân nga trong trái tim anh.
 
Kể từ khi bộc lộ với Linh Lan một nửa câu chuyện bí mật của mình, Văn Bình thôi không tiếp xúc với Linh Lan nhiều như trước nữa. Dường như cái chết đột ngột của Liên vẫn còn trong tâm trí anh, những đau khổ mà anh đã đem tới cho Liên vẫn còn ám ảnh anh nên nhất thời Văn Bình chưa thể tiếp nhận thêm một mối dây tình cảm nào khác. Trong mối quan hệ hiện thời, Văn Bình là người chủ động giữ khoảng cách với Linh Lan, ngoài chuyện dạy kiếm thuật và yến phi quyền cho Linh Lan, Văn Bình không đả động đến một chuyện nào khác. Không còn sự thân mật, không còn những câu bông đùa, điều đó khiến anh cảm thấy thiếu thốn, nhưng anh lại buộc mình phải chấp nhận sự thiếu thốn ấy, buộc mình phải dập tắt mầm mống tình cảm trong anh, trước khi nó kịp phát triển và trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc đời anh.
 
Đối với Văn Bình, anh bây giờ chỉ có công việc, công việc và công việc. Ước muốn thiên hạ trở thành người một nhà của anh nhất định phải trở thành hiện thực, và anh chưa bao giờ nung nấu nó như lúc này. Tiếng trái tim đập nhè nhẹ trong lồng ngực Văn Bình, như một lời nhắc nhở rằng trái tim này chỉ có một nửa là thuộc về anh. Văn Bình nắm chặt tay lại, những gân xanh chạy dài trên mu bàn tay. Phải! Anh làm sao quên được thân xác anh đang bị xẻ làm đôi, một nửa thuộc về anh, còn một nửa lại thuộc về đứa em trai đã khuất của anh, Nguyễn Huệ.
 
Nhớ lại ngày ấy, khi kể cho Linh Lan nghe về tuổi thơ đã chìm vào quên lãng, Văn Bình như sống lại thời thơ ấu. Anh tưởng mình đang bé lại, anh tưởng mình đang chạy trên cánh đồng An Thái, mùi vị thơm ngon, giòn giòn của thịt heo quay năm nào trong lễ hội Đỗ giàn như đang tan trong miệng anh. Giây phút quá khứ đã trôi qua, anh lại sực tỉnh trở về hiện tại, đối diện với sự thật, cõi lòng anh trống tênh. Quá khứ ngày xưa giờ xa xôi lắm, chỉ có hiện thực tàn nhẫn là đang đối đầu với anh mà thôi.
 
Ước muốn thiên hạ trở thành người một nhà, e Nguyễn Huệ khó lòng cho anh thực hiện. Nguyễn Huệ muốn phá hủy tất cả những gì anh xây dựng, muốn phá hủy những gì anh đã tạo dựng ra, những gì anh yêu thương, kể cả người con gái ấy, người đã bước vào cuộc đời anh không một lời báo trước. Nguyễn Huệ đã có lần muốn giết Linh Lan, và anh không đảm bảo được chuyện đó có xảy ra lần thứ hai hay không. Những thứ quan trọng với anh, anh tất không thể để nó tan biến và sụp đổ. Đạp đổ một cái gì đó rất dễ, nhưng để xây lại nó lại khó gấp bội lần. Nguyễn Huệ muốn đánh đổ, anh càng không thể để cho hắn thực hiện được ý định đó. Thế nhưng oái ăm thay, chính anh và Nguyễn Huệ lại trong cùng một thân xác, hắn có thể điều khiển anh, còn anh lại khó lòng mà điều khiển hắn. Dường như, sau năm năm trời, Nguyễn Huệ trở lại trong thân xác anh với một niềm tin nào đó, và chính vì niềm tin đó đã khiến hắn mạnh, rất mạnh, mạnh đến nổi có thể thoát khỏi sự kềm chế của anh mà tung hoành trong thân xác này.
 
Không thể để tất cả đều bị Nguyễn Huệ hủy hoại, bằng mọi cách Văn Bình phải bảo vệ những gì quan trọng với mình, kể cả cô gái ấy. Anh không thể để Nguyễn Huệ giết chết cô gái ấy, anh không thể để cho hắn làm tổn hại một sợi tóc nào của cô ấy, vì thế, anh phải tránh xa Linh Lan. Anh phải nén lại tình cảm của mình để có thể đối diện với người con gái ấy bằng một trái tim bình lặng nhất. Anh biết, chỉ cần một xao động trong trái tim anh, chỉ cần một phút đắm mình trong đôi mắt đen như nhung ấy là Nguyễn Huệ có thể lấy mạng của Linh Lan bất cứ lúc nào. Bằng mọi giá, anh phải bảo vệ Linh Lan, phải kềm chế bản thân mình, bình thường hóa mối quan hệ của cả hai, phải làm cho Nguyễn Huệ tin rằng, đối với Linh Lan, anh không hề có một chút tình cảm nào, anh chỉ xem Linh Lan như là em gái và đối xử với nó bình thường như bao người khác, không thiên vị. Nhưng điều đó đối với anh thật khó làm sao…
 
Ở bên cạnh Linh Lan, anh có thể ngăn không cho tình cảm bộc phát, ngăn sự thân mật đối với Linh Lan, nhưng anh lại không thể ngăn ánh mắt trìu mến khi nhìn nó, ngăn trái tim rung nhè nhẹ khi ngửi mùi hương hoa bưởi dìu dịu trên mái tóc mềm mại, ngăn tâm hồn mình dễ chịu khi bờ môi ấy thốt lên hai tiếng “Văn Bình”. Tất cả những chi tiết, dù nhỏ nhặt đó, cũng khó lòng qua mắt Nguyễn Huệ, thế nên bây giờ anh phải hạn chế gặp Linh Lan để cất sâu những cảm xúc ấy vào lòng. Vậy mà, mọi chuyện thật không dễ dàng như anh nghĩ. Một ngày không gặp người con gái ấy, không nghe thấy tiếng cười trong trẻo ấy, không nhìn thấy đôi mắt đen lấp lánh, ẩn chứa một sức sống tiềm tàng ấy, không trông thấy gương mặt tinh nghịch ấy, là Văn Bình lại thấy thiếu thốn. Anh khó lòng tập trung vào việc khác, dù công việc ngồn ngộn trước mắt và tình hình về quân Nguyễn đã nắm đầy đủ trong tay.
 
- Chú tám, ta nghe nó chú đã từ chối hợp tác với quân Đông Sơn, có phải thế không?
 
Những dòng suy nghĩ cuồn cuộn của Văn Bình ngừng lại khi giọng nó ồm ồm của Nguyễn Lữ vang lên. Ông đang trải những cuộn binh thư trên bàn để đọc, đôi mày rậm chau lại, dường như đang thắc mắc một vấn đề nào đó mà chưa nói ra. Tạm rời khỏi những suy nghĩ của mình, Văn Bình quay trở về hiện tại, đối mặt với cuộc chiến chưa ngả ngũ với quân Nguyễn của Tây Sơn.
 
- Thưa vâng! Em đã từ chối lời đề nghị liên minh của họ.
 
- Tại sao? - Nguyễn Lữ ngẩng đầu lên, hàng lông mày của ông tạo thành một đường thẳng.
 
- Có hai lý do khiến em từ chối lời đề nghị đó - Văn Bình trầm giọng - Thứ nhất, quân Đông Sơn là một thế lực đồn trú ở Gia Định đã lâu, chủ tướng của họ từng phục vụ cho Nguyễn Ánh nhưng sau cái chết của hắn ta, họ đã trở mặt với quân Nguyễn dù Nguyễn Ánh không ít lần thu phục, mua chuộc. Điều đó cho thấy họ là đạo quân không thể thu phục và sử dụng. Đông Sơn quân chỉ trung thành với chủ tướng của họ và mảnh đất này. Họ đề nghị hợp tác, hoàn toàn không có ý quy phục chúng ta mà chỉ muốn lợi dụng chúng ta để trả thù riêng. Sau khi toại nguyện, bọn họ sẽ lại trở thành kẻ đối địch của chúng ta. Một khi muốn bình ổn Gia Định này, Đông Sơn quân cũng nằm trong số những thế lực cần phải tiêu diệt. Thứ hai, em không muốn lợi dụng bọn họ hay để bọn họ lợi dụng. Cuộc chiến này là của chúng ta, chỉ có chúng ta mới có thể giải quyết, không cần phải vay mượn thêm bất cứ sự giúp đỡ nào cả. Đó là tại sao em từ chối lời đề nghị của bọn họ.
 
Những lời Văn Bình phân tích vừa đanh thép, lại vừa thuyết phục, khiến Nguyễn Lữ không nói gì thêm nữa, dù rằng ông cũng muốn hợp tác với quân Đông Sơn trong việc càn quét quân Nguyễn. Thêm một thế lực, thêm một người giúp thì quân số của Tây Sơn sẽ đông hơn, thiệt hại sẽ ít hơn, huống chi quân Nguyễn chưa bao giờ bị triệt tiêu hoàn toàn. Hễ Tây Sơn kéo quân khỏi Gia Định là Nguyễn Ánh lại trở về như chưa bao giờ bị đánh bại. Hơn ai hết, Nguyễn Lữ muốn nhanh chóng đập tan quân Nguyễn hoàn toàn để khẳng định ai mới là người chủ Gia Định thật sự. Sau bao tháng nghe ngóng, cuối cùng, thám báo của Tây Sơn đã thu thập được tin tức rằng quân Nguyễn đang tập trung quân ở Đồng Tuyên, và Nguyễn Lữ muốn nhân cơ hội này vớt gọn mẻ lưới, tiêu diệt hoàn toàn, không chừa một ai chạy thoát. Mục tiêu số một của ông là Nguyễn Ánh, vị chúa trẻ luôn thoát khỏi vòng vây điệp điệp trùng trùng của Tây Sơn, khiến lực lượng của ông hết lần này đến lần khác, tổn hao không ít. Hơn ai hết, lần này ông muốn vá lại lỗ thủng trong chiếc lưới bủa vây của Tây Sơn nhằm không cho Nguyễn Ánh thêm một cơ hội nào nữa.
 
- Chú đã nghe quân thám báo của ta đưa tin về tình hình đóng quân của quân Nguyễn chưa?
 
- Rồi ạ! Theo như quân ta báo lại, thì Nguyễn Ánh đã từ Phú Quốc trở về, đang tập trung quân ở Đồng Tuyên và phân phối nhiệm vụ cho các tướng sĩ. Nguyễn Kim Phẩm được làm Tiền phong, Nguyễn Huỳnh Đức trông coi đám binh người Miên làm Hậu ứng, Trung quân có Tôn Thất Dụ, Chưởng cơ Hoằng giữ Tả chi, Nguyễn Văn Quý Hữu chi, tổng cộng có hơn một trăm chiến thuyền.
 
Biết em mình đã nắm rõ các thông tin cũng như sự tổ chức của Nguyễn Ánh, Nguyễn Lữ gật đầu hài lòng, ông nói chậm rãi.
 
- Thế chú dự tính ra sao? Đã phân phối nhiệm vụ cho tướng sĩ chưa, ngày nào sẽ xuất chinh, kế hoạch tác chiến thế nào?
 
- Đối với một sứ xở kênh rạch chằng chịt như Gia Định, chúng ta vẫn sẽ sử dụng thủy quân. Thủy quân Tây Sơn sẽ xuất phát theo hình mũi tên xuôi theo sông Lật, áp sát doanh trại bọn chúng. Trương Văn Đa lãnh cánh quân tiên phong. Lê Văn Kế phụ trách cánh quân tả, Nguyễn Văn Kim lãnh cánh hữu. Hai cánh quân này sẽ đồng loạt tấn công ngay khi cánh quân tiên phong dùng pháo đánh mạnh vào đội thuyền của chúng. Em sẽ chỉ huy cánh quân trung tâm, hỗ trợ và chặn đường tháo chạy của chúng. Em tin rằng quân Nguyễn lần này sẽ tan vỡ hoàn toàn.
 
- Tốt lắm - Nghe Nguyễn Huệ(*) phân bổ nhiệm vụ đâu vào đấy cho các tướng sĩ, Nguyễn Lữ nở một nụ cười đắc thắng - Thế chú định ngày nào xuất quân?
 
- Ngay tối nay!
 
- Sao? Ngay tối nay?
 
Văn Bình mỉm cười, một tia sáng lướt qua trong ánh mắt của anh. Anh rà tay xuống cuộn giấy ngả vàng trước mặt Nguyễn Lữ, tay chỉ vào nơi Nguyễn Ánh đang đóng quân, rồi nhẹ giọng.
 
- Phải! Mấy tháng qua các tướng sĩ đều đã tập luyện chăm chỉ. Em muốn thấy thủy quân của ta đã tiến bộ đến mức nào. Hơn nữa lần này, chúng ta không nên cho hắn có thời gian lẩn trốn và lớn mạnh trở lại mà phải chủ động đánh úp cho hắn bất ngờ một phen.
 
Nguyễn Lữ tròn mắt, ông vẫn chưa hết bất ngờ vì kế hoạch này. Trong mắt ông, xưa nay Nguyễn Huệ(*) chưa bao giờ dùng binh đánh úp, em trai ông luôn đường hoàng mà tiến thẳng vào, thế nhưng hôm nay thì lại dùng binh theo một cách khác. Nghĩ thế, nhưng Nguyễn Lữ thôi không hỏi thêm gì nữa. Ông gật đầu khi nhìn vào đôi mắt sáng của em mình, một khi anh đã quyết, không gì có thể thay đổi quyết định đó của anh. Thế cũng tốt, quân Nguyễn luôn quen cách xuất hiện đường hoàng của Tây Sơn, nay Tây Sơn bất ngờ tiến quân và đánh úp trong khi quân Nguyễn không hề có chút thông tin nào, chúng tất không kịp trở tay và sẽ đại bại nhanh chóng ngay thôi.
 
- Được! Chú đã quyết định rồi thì ta không nói thêm gì nữa. Ta tin rằng Nguyễn Ánh lần này chắc chắn sẽ đại bại, và quân Nguyễn sẽ hoàn toàn bị triệt tiêu.
 
- Nguyễn Ánh đại bại ư? Không! Anh đã sai, hắn ta chưa bao giờ đại bại...
 
Đột ngột, em ông cất tiếng, giọng nói của anh nửa như giễu cợt, nửa như vọng về một chốn hoang mạc xa xôi nào đó. Một cơn gió khẽ lướt qua khiến Nguyễn Lữ lạnh toát, ông nhìn đứa em trai đang đứng trước mặt mình, nhưng vì anh đang đứng quay lưng về phía ông, nên ông không thể thấy biểu hiện của anh lúc này là gì.
 
- Chú nói vậy nghĩa là sao?
 
- Có gì mà khó hiểu! Quân Tây Sơn bao giờ cũng để Nguyễn Ánh thoát được cho dù đã nắm chắc phần thắng trong tay. Dù bị dồn đến tình cảnh hiểm nghèo nhưng hắn ta vẫn luôn thoát ngay mũi Tây Sơn. Vậy cho nên không phải hắn đại bại mà là cho đến giờ, hắn luôn thắng, hắn đã luôn thắng chúng ta...
 
Nguyễn Lữ sa sầm mặt. Nguyễn Huệ(*) đã nói trúng mối lo của ông, nói đúng suy nghĩ mà ông không bao giờ muốn thừa nhận. Chính vì sự tinh tế đó, chính vì Nguyễn Huệ(*) đọc thấu những suy nghĩ xấu hổ của ông, về việc một thằng nhãi hơn hai mươi tuổi mà lại nhởn nhơ trước những viên tướng lão lãng của Tây Sơn, đùa cợt họ, làm Tây Sơn phải kéo vào Gia Định hết lần này đến lần khác, khiến Nguyễn Lữ cảm thấy bực bội và khó chịu. Ông cảm thấy rất tức giận về những gì em ông vừa nói, cho dù đó có là sự thật đi chăng nữa.
 
- Chú là người trong Tây Sơn, là người lãnh đạo ba quân, sao lại có thể nói những lời thoái chí đó. Nếu để các tướng lĩnh nghe được thì sao?
 
- Thì đã sao! Nhìn vào sự thật bao giờ cũng là cách để chúng ta thôi huyễn hoặc bản thân mình và cố gắng hơn.
 
Nguyễn Lữ như hóa đá trong chính chiếc ghế của mình. Lời lẽ của Nguyễn Huệ(*) tuy đanh thép, nhìn thẳng vào sự thật, nhưng lại như có chút mỉa mai nào đó, khiến mũi ông phập phồng. Cố đè nén cảm giác khó chịu trong người, Nguyễn Lữ nhận ra sự thẳng thắn khác thường của Nguyễn Huệ(*) khiến ông vừa cảm thấy lạ, nhưng cũng lại thấy quen, một nét quen thuộc nào đó, mà tưởng chừng như ông đã lãng quên. Bây giờ, Nguyễn Huệ(*) mới quay lưng lại, đối diện với đôi mắt sáng của anh, Nguyễn Lữ chợt nhận thấy có một bóng tối mơ hồ lướt qua trong đôi mắt đó, nhanh và mơ hồ đến nỗi ông tưởng rằng mình đã nhìn nhầm.
 
Không để ý đến những phản ứng của Nguyễn Lữ, hoặc có thể thấy nhưng làm ngơ, bờ môi kiên nghị của Văn Bình lướt qua một nụ cưòi khẽ, anh ung dung tiến bước về phía cửa, những bước chân sải dài vững chãi. Mở toang cánh cửa để gió tràn vào, những tia nắng còn sót lại của buổi chiều tà phủ trên gương mặt anh, tạo thành những vùng sáng tối bí ẩn. Nhìn người lính đang đứng gác nghiêm ngặt, Văn Bình cất tiếng, giọng nói trầm và lạnh.
 
- Cho gọi các đô đốc đến đây!
 
------------------------
A/N
(*): Những đoạn có dấu sao là nhìn theo suy nghĩ của Nguyễn Lữ về người đừng trước mặt ông. Trong lòng Nguyễn Lữ, Nguyễn Nhạc và tất cả mọi ng', Long Nhương tướng quân là Nguyễn Huệ, ng' chết năm xưa là Văn Bình nên khi họ nói chuyện, trong mắt họ luôn đinh ninh Văn Bình là Nguyễn Huệ, gọi anh là Nguyễn Huệ. Vậy cho nên đoạn này có chút lộn xộng trong cách xưng danh, hy vọng mọi người hiểu.



★ Chương 101

Sông Lật đang mùa gió, từng bụi lau rậm rạp phất phơ trên mặt nước lạnh lẽo. Bốn bề im ắng như tờ, chỉ có tiếng nước vỗ ì oạp vào mạn thuyền, và tiếng côn trùng kêu rỉ rả tang thương.

Trong đêm tối như mực ấy, nổi bật lên ánh sáng leo lét từ chiếc đèn nhỏ treo trên đài gác cao, đó là nơi đóng quân của quân Nguyễn ở Đồng Tuyên. Dưới nước, hàng chục chiến thuyền dập dềnh theo nhịp gió đưa, trên bờ, quân Nguyễn đang tuần tra, canh gác khá nghiêm ngặt và cẩn mật. Hơi nước từ mặt sông thoát lên, tạo thành một màn sương mỏng, phả vào mặt lành lạnh, khiến họ rùng mình, hai tay xoa vào nhau để tìm chút hơi ấm trong đêm khuya.

Đang kiểm tra lại các mối dây buộc vào thuyền cho chắc chắn, một người lính nhíu mày khi cảm thấy một cái gì đó khác lạ trong không khí. Gió đang đổi hướng, bờ lau reo phất phơ trong màn sương mỏng, bóng tối như đang ẩn chứa một mối họa tiềm tàng. Tên lính hồi hộp, hắn ta đứng phắt dậy, giơ ngọn đuốc về phía trước, mắt căng ra, cố nhìn xuyên qua màn đêm mịt mùng trên sông Lật.

Mặt sông yên tĩnh, rì rào như có gì đang khuấy động. Một âm thanh từ xa vọng lại, mơ hồ như tiếng mái chèo khua nước lọt vào tai gã. Gã liếm môi, trời đang lạnh, nhưng những giọt mồ hôi từ trán gã lăn xuống, rơi vào trong mắt xay xè. Phía trước vẫn là màn đêm mờ sương, cô quạnh bao bọc lấy con sông Lật quanh co, chia thành nhiều nhánh nhỏ với vô số những bụi lau rậm rạp, cao quá đầu người. Với địa hình trắc trở như thế, sông Lật như một con nhện, với những cái chân tỏa ra khắp nơi, ẩn chứa một sự nguy hiểm kín đáo và bất ngờ.

Quân Nguyễn chọn khúc sông này để đóng quân âu cũng là một địa điểm thuận lợi, nhưng cũng khá nguy hiểm, thậm chí là với những binh lính biết bơi như gã. Con sông này vừa lớn vừa sâu, trong màn đêm tịch mịch, hoàn toàn không biết trước được những nguy hiểm nào ẩn chứa trong lòng nó. Nếu bị tấn công bất ngờ, gã và các binh lính sẽ đứng trước nguy cơ đem thân làm mồi cho cá, mãi mãi nằm lại dưới lòng sông lạnh lẽo này mà chưa kịp lấy vợ và sinh con. Nghĩ đến đó, gã rùng mình, lắc mạnh đầu để tống khứ suy nghĩ xui rủi đó ra, rồi tiếp tục công việc kiểm tra thuyền bè của mình nếu không muốn bị khiển trách bởi cấp trên.

Chợt, tên lính quay đầu nhìn về phía sau. Tiếng gió thì thào bên tai gã, tiếng nước quẫy òng ọc càng ngày càng rõ dần. Bóng đêm nở nụ cười ma quái, như chuẩn bị cho gã một món quà bất ngờ. Đột ngột, bóng đêm nở ra, ánh sáng tràn xuống con sông Lật. Hàng loạt tiếng nổ làm rung chuyển màn đêm, trước mặt gã đột ngột chói lòa, con sông Lật sáng bừng lên với vô số ánh lửa bay vun vút về phía gã đang đứng. Một trận cuồng phong nổi lên, tiếng la hét phá vỡ màn đêm yên tĩnh. Sông Lật nổi sóng, tiếng nước cuồn cuộn trào dâng. Hằng hà sa số ánh lửa trên không giáng xuống, bao bọc lấy đồn thủy quân. Những chiếc thuyền dưới chân gã bốc cháy, từng cột lửa đỏ bén vào quần áo, ôm lấy chân gã, và chỉ trong tích tắc, cả người gã bị bao bọc trong ngọn lửa đỏ. Gã biến thành một ngọn đuốc khổng lồ.

Trong bóng đêm mờ ảo, những chiến thuyền lần lượt nuối đuôi nhau xuất hiện, lá cờ đào căng gió, bay lồng lồng trong đêm. Trên thuyền, lớp lớp binh sĩ Tây Sơn dàn kín, họ đang thi nhau bắn hỏa hổ về phía thủy đồn của quân Nguyễn, lớp này bắn xong thì lùi xuống, để lớp khác tiến lên. Phần vì không nghĩ đêm nay quân Tây Sơn sẽ bất thần tập kích, phần không có người chỉ huy, binh lính quân Nguyễn nháo nhào như ong vỡ tổ. Ai nấy đều bỏ vị trí, chạy tháo thân khi hỏa hổ và đạn pháo từ Tây Sơn bắn như mưa về phía họ. Bầu trời đỏ lửa, sông Lật sáng bừng lên như đêm hội hoa đăng. Tiếng lửa cháy tí tách, tiếng chân chạy rầm rập, tiếng nước dao động khi binh lính đua nhau nhảy xuống, tất cả âm thanh đó trộn lẫn lại, tạo thành nỗi ám ảnh kinh hoàng cho những binh sĩ đang lúng túng ở phía sau.

Bên kia chiến tuyến, Linh Lan bám tay vào mạn thuyền khi thuyền lắc lư dữ dội vì lực đẩy của nước. Nhìn những gương mặt kinh hoàng của quân Nguyễn cùng thảm trạng của họ, Linh Lan cảm thấy khó chịu và bức bối. Ánh lửa cháy trong mắt nó, khiến đôi mắt đen huyền sáng rực trong đêm. Trước đây, dù đã tham dự chiến trận một lần, chứng kiến nhiều cái chết thê thảm của lính Nguyễn cũng như Tây Sơn, Linh Lan những tưởng mình sớm sẽ quen với những hình ảnh đó nếu ở quá khứ, nhưng nó đã lầm. Giờ đây, nhìn bầu trời rợp ánh lửa, nghe tiếng súng đại bác nổ ì oành nã về phía thủy quân Nguyễn, Linh Lan bấu chặt tay vào mạn thuyền đến nỗi mép thuyền như lưỡi dao cứa vào lòng bàn tay nó, dạ dày Linh Lan cuộn lại, bữa cơm chiều trôi tuột qua dạ dày nó, trống rỗng không còn chút vết tích nào.

Trên thuyền chính, Văn Bình đang chỉ huy cho lính Tây Sơn chiến đấu. Chiếc áo bào đỏ lộng gió, bay phần phật trong đôi mắt Linh Lan. Bộ giáp đồng của anh sáng lấp lánh tựa như có vầng khí bạc bao bọc quanh người, ánh mắt sáng như sao băng nhìn đăm đăm về phía trước. Trên thuyền, tất cả mọi người trong đội nữ binh đều tuốt kiếm sẵn sàng cho một trận giao chiến, chỉ việc chờ đợi phá xong đồn thủy quân là họ sẽ nhất tề tràn lên theo lệnh của Long Nhương tướng quân.

Sau phút bất ngờ và hoảng loạn, quân Nguyễn nhanh chóng trấn tĩnh và tổ chức bắn trả lại về phía Tây Sơn, nhưng sự nỗ lực của họ không đi đến kết quả nào khi sĩ số hai bên quá chênh lệch, lại thêm bị đặt vào thế bị động. Tây Sơn có nhiều thuyền chiến, có hỏa hổ, có súng đại bác, lại thêm yếu tố bất ngờ, chẳng mấy chốc, đồn thủy quân bị phá vỡ hoàn toàn. Đám du binh người Miên do Nguyễn Huỳnh Đức trông coi chưa chiến đấu đã bỏ chạy. Chưởng cơ Hoàng và Nguyễn Văn Quý bị chết cháy trong khi nỗ lực cứu lấy quân tiên phong của Nguyễn Kim Phẩm. Thế trận nghiêng về phía Tây Sơn hoàn toàn.

Sông Lật rực sáng, tiếng con nước lao xao dồn dập, thuyền bè tan vỡ, tạo thành những vực xoáy, hút lấy xác quân Nguyễn rơi xuống không nổi lên, tiếng reo hò vũ bão nổi lên, lan nhanh khắp nơi. Quân Tây Sơn bắt đầu tràn lên đồn thủy quân của quân Nguyễn để chém giết. Tuy bị thiệt hại không nhỏ, nhưng Nguyễn quân vẫn cố gắng chống trả khi Tây Sơn kéo đến. Tôn Thất Dụ chỉ huy cánh trung quân tiến lên, phối hợp với binh bộ Minh trong việc ngăn quân Tây Sơn chiếm đồn. Trận chiến diễn ra, ánh chớp lóe lên loang loáng. Quân Tây Sơn như thế chẻ tre ùa lên, hăng say chém giết, biến đồn thủy quân của quân Nguyễn thành địa ngục trần gian.

Trong lúc quân Tây Sơn kéo lên đồn, Văn Bình đứng trên mũi thuyền lặng yên quan sát. Trong tất cả những viên tướng đang chiến đấu bên dưới, không có vị chúa trẻ Nguyễn Ánh. Văn Bình cau mày, anh đảo mắt nhìn quanh, để tìm kiếm xem Nguyễn Ánh ẩn ở nơi nào. Đúng lúc đó, từ nhánh sông sau đồn thủy quân, một chiếc thuyền lặng lẽ lướt ra. Dù chỉ trong phút chốc, lại thêm những đám cỏ lau che khuất, nhưng Văn Bình vẫn tinh ý nhận ra tà áo vàng phấp phới như đùa cợt trong gió. Đôi mắt sao rực sáng, bàn tay vung lên, chỉ thẳng về phía chiếc thuyền bí mật đang lướt về phía trước. Chỉ nghe uỳnh một tiếng vang rền, một cột nước vọt thẳng lên không trung, chiếc thuyền nghiêng ngả, tròng trành. Văn Bình có ý bắt sống Nguyễn Ánh, nên không ra lệnh nã pháo trực tiếp vào thuyền, mà chỉ đánh lạc phương hướng của nó, ngăn không cho nó thoát trước khi quân Tây Sơn tiếp cận, bao vây.

Không chầm chứ thêm một phút nào nữa, Văn Bình lệnh cho thuyền tiến lên, bao vây lấy con thuyền, phong tỏa mọi lối thoát. Nhận được hiệu lệnh của Văn Bình, lại thêm hướng gió hỗ trợ, đoàn thuyền Tây Sơn ùn ùn kéo đến, lướt như bay về phía chiếc thuyền của vị chúa trẻ, trông chẳng khác nào cá mập đang tấn công con mồi.

Vừa nhìn thấy chiếc thuyền bí mật đó, trái tim Linh Lan giật thót một cái khi thấy tà áo vàng thấp thoáng. Nguyễn Ánh! Linh Lan bật kêu thầm trong đầu. Tuy biết đây là đồn thủy quân của quân Nguyễn, nhưng nó không ngờ anh lại đang có mặt ở đây, nó cứ đinh ninh rằng Nguyễn Ánh đang đóng quân ở một nơi khác bí mật hơn, chỉ để lại chiếc đồn này làm nhiệm vụ canh chừng động tĩnh của quân Tây Sơn. Linh Lan cắn môi, nó phóng tầm mắt về phía trước, Văn Bình đã đổ bộ lên chiến thuyền của Nguyễn Ánh, hai bên giao chiến. Quân Tây Sơn và quân Nguyễn lao vào nhau kịch liệt, xem chừng như Nguyễn Ánh khó lòng mà thoát khỏi sự bao vây trùng điệp của quân Tây Sơn.

Bùi Thị Xuân đang dần đầu đội nữ binh chiến đấu trên đồn thủy quân thành ra bây giờ chỉ có mình nó trên thuyền cùng với những tướng sĩ khác. Nhìn Nguyễn Ánh đang so kiếm với Văn Bình, tim Linh Lan đập nhanh, một mối lo sợ mơ hồ dần trỗi lên, chiếm lấy tâm trí nó. Trong vô số binh sĩ đang lao vào nhau trên thuyền, nổi bật nhất là màu áo đỏ và vàng của Văn Bình và Nguyễn Ánh. Dù đang trong tình thế hiểm nguy, nhưng cái nhếch môi kiêu ngạo của Nguyễn Ánh vẫn ngự trị trên gương mặt thanh tú, đôi mắt nâu trong suốt lấp lánh ánh lửa cháy ngùn ngụt phía xa. Hình ảnh đó khiến Linh Lan nắm chặt tay lại, tim đập thình thịch khi những đường đao của Văn Bình ép Nguyễn Ánh dồn về phía mạn thuyền.

Nếu Nguyễn Ánh không thoát khỏi, nếu Nguyễn Ánh bị Văn Bình giết chết, thì chuyện gì sẽ xảy ra? Linh Lan nuốt nước bọt, cổ họng nó khô rát. Nếu Nguyễn Ánh chết đi thì vua Gia Long sẽ không tồn tại, đất nước Việt Nam liệu có được sát nhập toàn vẹn lãnh thổ và tương lai có còn theo guồng quay cố định? Nếu tương lai bị thay đổi, liệu nó, những người bạn của nó, những người thân của nó có còn được sinh ra và tồn tại nữa hay không?Nếu ngay lúc này, Nguyễn Ánh chết đi, thì liệu nó có biến mất theo cùng cái tương lai bị lệch hướng đó chăng? Một giọt mồ hôi lạnh buốt lăn vào trong mắt Linh Lan, khiến cảnh vật trước mắt như nhạt nhòa. Một ý nghĩ lướt qua tâm trí nó, dù chỉ lướt qua thôi, nhưng nó sẽ quyết định Linh Lan sẽ làm thế nào trong tình huống ngàn cân treo sợi tóc này.

Trong khoảnh khắc, Linh Lan chau mày lại, tạo thành dấu ngã, khi phải thực hiện một quyết định khó khăn. Linh Lan nhắm chặt mắt, trái tim nó giằn xé. Sự mặc cảm tràn ngập trong tâm trí vì tội lỗi nó sẽ gây ra cho Văn Bình, cho binh lính trong Tây Sơn khiến hàng mi dài của nó run rẩy. Mái tóc dài bay trong gió lạnh, bóng dáng nhỏ bé như nghiêng ngả trong đêm. Đột ngột, Linh Lan mở bừng mắt, sự kiên nghị cháy trong đôi mắt đen lung linh, như soi sáng cả mặt nước sông Lật. Hít một hơi dài, Linh Lan nắm chặt thanh trường kiếm trong tay. Ánh kiếm bạc phản chiếu lửa trong đôi mắt, Linh Lan tung chân nhảy lên thuyền của Nguyễn Ánh, tay còn lại dùng bao kiếm, đánh ngã hai ba viên lính Nguyễn trên thuyền để tiến đến gần Văn Bình.

- Nguyễn Ánh, hôm nay tôi quyết trả hết những gì anh đã gây ra cho tôi!!

Đang dồn Nguyễn Ánh sát vào trong, chỉ còn một chiêu nữa là sẽ đoạt lấy mạng của vị chúa trẻ, Văn Bình nhíu mày khi một giọng nói bất thần vang lên, sau đó là một bóng dáng nhỏ bé lao vào Nguyễn Ánh. Nhận ra đó là Linh Lan, sự ngạc nhiên hiện rõ trong đôi mắt Văn Bình, mũi đao đang đâm tới của anh vội dừng lại trong tích tắc rồi chuyển hướng, bởi cứ đà đó lao tới, người bị thương chắc chắn là Linh Lan.

Thấy Linh Lan lao vào giữa cuộc chiến, miệng đòi trả hết những ân oán trước đây, sát khí tỏa ra ngùn ngụt, đôi mắt nâu của Nguyễn Ánh chợt tối lại, chỉ trong thoáng qua, rồi lại trong suốt như lúc ban đầu. Không màng đến biểu hiện của Văn Bình và Nguyễn Ánh, bất chấp hành động mình gây ra sẽ để lại hậu quả, thanh kiếm trong tay Linh Lan lấp loáng. Nó tấn công Nguyễn Ánh dồn dập, chiêu nào chiêu nấy đều nhắm vào yếu huyệt trên người anh. Nó bây giờ như đang thí mạng với Nguyễn Ánh, trong khi những đường kiếm của anh lại không động đến những yếu huyệt trên người nó, nhưng mặt khác lại gây ra những vết thương trên người tuy không sâu, nhưng đủ để máu chảy và tạo thành những vết sẹo khó phai sau này.

Nhìn khắp người Linh Lan đầy thương tích, nhưng ngược lại nó không hề có ý định dừng tay, mà vẫn liên tục tấn công, Văn Bình lo lắng. Thanh Ô Long đao trong tay anh trễ xuống để xác định phương hướng, rồi đột ngột điểm về phía Nguyễn Ánh để cứu lấy Linh Lan. Vốn dĩ, anh nghĩ rằng làm thế, Nguyễn Ánh sẽ thôi không truy kích Linh Lan mà quay lại đỡ đường đao của anh, nhưng mọi chuyện lại diễn ra hoàn toàn khác hẳn. Nguyễn Ánh để mặc thanh đao chém một nhát vào bả vai, máu tuôn ướt áo, nhưng bên cạnh đó anh cũng kịp thời hất tung thanh kiếm của Linh Lan rơi xuống sàn thuyền, sau đó một tay ôm lấy thắt lưng nó, tay còn lại kề ngay lưỡi kiếm vào cổ nó. Tất cả chỉ diễn ra trong cái chớp mắt, nhưng rất may là cái chớp mắt đó đủ để Văn Bình kịp thời thu ngay đao về. Nếu đường đao của anh tiếp tục thừa thắng xông lên, đâm thẳng vào Nguyễn Ánh, tất Linh Lan cũng sẽ mất mạng, mà anh thì không muốn như thế bao giờ.

Nhác thấy chủ tướng khựng lại, quân Tây Sơn ngạc nhiên. Nhìn Linh Lan đang ngọ nguậy, chống cự kịch liệt khi bị Nguyễn Ánh khống chế và phần Nguyễn Ánh đã bị thương không nhẹ, họ liền xông về phía anh. Thấy tình hình nguy kịch, rất có thể sự vận động của binh lính sẽ làm Nguyễn Ánh xuống tay với Linh Lan, Văn Bình cau mày quát lớn.

- Lùi lại!

Đang nhất tề xông về phía Nguyễn Ánh, quân Tây Sơn đều khựng lại. Họ đưa mắt về phía Văn Bình rồi vội vàng lùi xuống theo hiệu lệnh của anh, lòng ngơ ngác vì không hiểu cô gái này quan hệ như thế nào đối với chủ tướng mà người lại lo lắng cho cô ta đến thế. Cục diện đã thay đổi, bây giờ lợi thế đã nghiêng về phía Nguyễn Ánh. Nhận ra sự nôn nóng và lo lắng trên gương mặt điềm tĩnh của Văn Bình, Nguyễn Ánh nhếch môi. Một người xưa nay vào sinh ra tử vẫn thản nhiên như không, nay lại vì cô gái này mà nôn nóng đến thế, cô gái này quả nhiên rất quan trọng đối với hắn ta.

Nguyễn Ánh mỉm cười, đôi mắt lấp lánh những tia nhìn giễu cợt khi nhìn thấy sự lo lắng của Văn Bình. Cánh tay đang ôm Linh Lan vô thức xiết chặt lại, khiến Linh Lan cảm thấy ngột ngạt, khó thở. Nó vùng vẫy, cố thoát ra khỏi gọng kềm đang siết chặt lấy, nhưng vẫn không ăn thua gì.

- Thả tôi ra! Thả tôi ra mau!

Không màng đến phản ứng của Linh Lan, đôi mắt Nguyễn Ánh vẫn quan sát nhất cử nhất động của Văn Bình. Vết sẹo trong lòng bàn tay anh chưa phai mờ, như nhắc nhở anh về ngày hôm ấy. Ngày hôm ấy, cô gái này đã leo lên vọng cao, tuyên bố với cả thiên hạ cô ta thích gã Long Nhương tướng quân đó, chưa hết, cô ta lại còn ôm ấp hắn, ngay trước mặt anh, cứ như thể đang ở trong phòng riêng chỉ có hai người với nhau. Từng ký ức tái hiện lại trong đầu Nguyễn Ánh, chậm chạp, sống động và rõ nét hơn bao giờ hết. Bờ vai anh máu tuôn ướt áo, nhưng anh lại không hề cau mày. Một tia sáng đột ngột lóe lên trong đôi mắt, Nguyễn Ánh xiết chặt tấm thân mềm mại bằng cánh tay bị thương, bờ môi thanh tú lướt trên mái tóc dày đen nhánh, rồi hôn một cái thật kêu vào má linh lan, khiến nó giật bắn mình, sững sờ.

Đang bụng như lửa đốt khi trận chiến tưởng chừng như đã kết thúc, lại rơi vào tình thế tiến thoái lưỡng nan vì sợ Linh Lan sẽ mất mạng, Văn Bình sa sầm mặt xuống khi chứng kiến hành động ấy của Nguyễn Ánh. Thanh đao Ô Long trong tay anh run lên, đôi mắt tối lại, trái tim anh gõ nhịp liên hồi, từng mạch máu căng phồng lên, tưởng chừng như sắp vỡ tung. Quan sát tất cả những biểu hiện ấy, Nguyễn Ánh cười nhạt, rồi đột ngột vung kiếm tấn công Văn Bình, trong khi tay còn lại vẫn ôm lấy Linh Lan, không rời. Một cơn gió ào tới, cảnh vật trước mắt Văn Bình như một màn sương che phủ, chỉ nghe một tiếng keng chát chúa vang lên, khi Văn Bình định thần lại thì thấy Phan Văn Lân đã kịp thời ngăn chặn đường kiếm của Nguyễn Ánh trong tích tắc.

Trên chiến trường, điều tối kỵ nhất là để phân tâm, vậy mà một vị tướng dày dạn chinh chiến như Văn Bình lại phạm phải điều cấm kỵ đó. Trong đầu vẫn chưa hết choáng váng vì nụ hôn của Nguyễn Ánh dành cho Linh Lan ngay trước mặt mình như một lời thách thức, Văn Bình đã không phản ứng kịp khi Nguyễn Ánh đột ngột tấn công. Phần không nghĩ Nguyễn Ánh lại táo bạo đến thế, phần vì chủ tướng ra lệnh lùi xuống, quân Tây Sơn không kịp trở tay. Cũng may có Phan Văn Lân bên cạnh ra đỡ kịp thời, chứ nếu không, Văn Bình cũng sẽ lãnh một nhát kiếm chí mạng trên vai như vừa rồi.

Chứng kiến hành động của Nguyễn Ánh, mồ hôi Linh Lan toát ra, ướt đẫm lưng áo. Tất cả câu chuyện này là một màn kịch do nó dựng lên để mở con đường thoát thân cho Nguyễn Ánh, nhưng không ngờ lại gây ra hậu quả nặng nề như thế này. Ban nãy, khi ở trên thuyền, Linh Lan đã quyết định sẽ cứu Nguyễn Ánh, cũng là cứu lấy mạng mình cùng những người thân. Nó quyết định giữ cho lịch sử không bị xáo trộn nên mới nhằm Nguyễn Ánh mà tấn công quyết liệt như thế. Nhìn vết thương trên vai Nguyễn Ánh khi bị thanh Ô Long đao gây ra, Linh Lan lo lắng do thấy máu tuôn từ vết thương ngày càng nhiều, thấm cả qua lớp áo của Linh Lan khi anh ôm chặt lấy nó. Giờ đây, mắt thấy Nguyễn Ánh suýt chút nữa là đả thương Văn Bình vì sự phân tâm của anh, Linh Lan biết mình không thể chần chừ thêm một giây một phút nào nữa. Nguyễn Ánh phải thoát khỏi đây. Vết thương trên vai anh cần phải được chữa trị nhanh chóng, Văn Bình cũng sẽ không gặp nguy hiểm nếu Nguyễn Ánh lại tiếp tục tấn công. Quyết định nhanh trong đầu, Linh Lan cắn chặt môi, thò tay vào trong áo. Trên thuyền đang lộn xộn, tất cả chỉ chăm chú vào Nguyễn Ánh nên không ai chú ý đến nó, thừa cơ Phan Văn Lân ngăn chặn một kiếm của Nguyễn Ánh, Linh Lan móc nhanh trong túi áo ra một vật và kín đáo thả xuống sàn. Chỉ nghe bùm một tiếng, một làn khói dày đặc từ trái cầu nhỏ bốc lên, tỏa ra và nhanh chóng bao phủ khắp con thuyền.

Không bỏ lỡ thời cơ, nhân lúc mọi người đang hoang mang, Linh Lan vòng tay ôm lấy Nguyễn Ánh, lao nhanh về phía trước, nơi con sông Lật cuồn cuộn trào dâng và nhảy xuống. Nhắm chặt mắt khi làn nước giá lạnh xộc vào mũi, thân thể Linh Lan chìm dần xuống dưới, nó cảm thấy khó thở vì không quen lặn xuống nước bao giờ. Và nhắc đến nước mới nhớ, Linh Lan không biết bơi.

Làn nước lạnh lẽo và tối tăm của con sông Lật nuốt chửng lấy Linh Lan. Nó nín thở theo thói quen, bằng mọi giá phải tìm cách trồi lên để hít lấy không khí vào buồng phổi, nhưng Linh Lan chưa kịp thực hiện ý định đó, thì đột ngột, một cánh tay vươn ra nắm lấy cánh tay nó. Không hiểu chuyện gì đang xảy ra, Linh Lan cuống quýt khi thân thể nó ngày càng chìm sâu xuống dưới đáy. Qua làn nước mở ảo, lạnh buốt, Linh Lan lờ mờ nhìn thấy gương mặt thanh tú không rõ nét của Nguyễn Ánh đang kề sát mặt mình. Hình như anh bờ môi anh xuất hiện một nụ cười giễu cợt, tàn nhẫn, hình như đôi mắt nâu trong suốt của anh không còn êm ả và bình thản, hình như anh không có ý định để nó trồi lên, và hình như anh đang kéo nó thật sâu xuống dưới đáy, mãi mãi không nhìn thấy ánh mặt trời.

Linh Lan kinh hoảng. Lẽ nào Nguyễn Ánh lại muốn giết nó? Nhưng vì sao? Linh Lan hoàn toàn không hiểu chuyện gì đang xảy ra, nó chỉ biết Nguyễn Ánh không có ý định trồi lên, và cũng không để nó trồi lên khỏi mặt nước. Linh Lan sợ hãi, chới với, bàn tay nó vẫy vẫy trong làn nước như muốn níu kéo bất cứ vật gì có thể nắm được, nhưng vòng tay Nguyễn Ánh như một gọng kềm, khiến Linh Lan không thể nào thoát khỏi. Nó ho sặc sụa nhưng không thành tiếng, nó muốn kêu cứu nhưng nước sông lạnh buốt đua nhau tràn vào mũi, miệng khiến nó kinh hoàng.

Sau một hồi vẫy vùng tuyệt vọng, Linh Lan cảm thấy khó thở, lồng ngực nó đau nhói như bị hàng triệu cây kim châm vào, buồng phổi Linh Lan buốt từng cơn vì thiếu không khí, sức ép của nước ngày càng mạnh khiến toàn thân nó đau đớn, rã rời và như muốn vỡ nát ra thành từng mảnh. Đột ngột, Nguyễn Ánh thả lỏng tay, anh vòng tay ôm nó vào lòng, xiết chặt. Bờ môi thanh tú lướt trên vầng trán tái nhợt của Linh Lan, và rồi đặt lên đôi má của nó một nụ hôn dài. Trong giây phút ấy, Linh Lan không còn cảm nhận thấy gì nữa, đôi mắt nó mờ dần, mờ dần, hơi thở càng ngày càng rời xa nó. Đầu óc nó quay cuồng, tai nó đau nhói và cảnh vật trở nên mơ hồ, mơ hồ và tối đen như mực. Nó đã ngất, cánh tay buông thõng và thân thể trở nên bất động trong làn nước giá lạnh của sông Lật đêm khuya.



★ Chương 102
 
“Bé Lan! Dậy đi! Trời sáng rồi”
 
Đang trong cơn mơ màng, Linh Lan giật mình choàng tỉnh khi tiếng gọi quen thuộc của Anh Tú vọng vào tai. Vừa mở mắt ra, nó đã vội nheo lại. Ánh sáng mặt trời trên cao rọi thẳng vào mắt nó, gay gắt và bỏng rát. Khi đã tỉnh hẳn, quen với ánh nắng sớm thì ký ức đêm qua lại ùa về, khiến Linh Lan giật thót mình và vội vàng ngồi dậy. Tưởng rằng mình đã chết, hóa ra vẫn còn sống sờ sờ, Linh Lan thở phào nhẹ nhõm. Nhớ lại chuyện đêm qua, Linh Lan vẫn chưa hết rùng mình sợ hãi. Dưới làn nước sâu tăm tối, Nguyễn Ánh đã giữ chặt, không có ý định cho nó trồi lên, chỉ suýt chút nữa thôi là phổi nó đã nổ tung và chết ở đáy con sông dữ. Mỗi lần nghĩ đến cảm giác đứng giữa ranh giới sống chết đó, Linh Lan không khỏi cảm thấy mình còn may mắn lắm. Thở hắt ra một hơi, nó đưa mắt nhìn xung quanh. Ngay lập tức, đập vào mắt nó là hình ảnh Nguyễn Ánh đang ngồi dựa vào một thân cây cách nó vài bước chân, hai mắt nhắm hờ. Vết thương trên vai anh do thanh Ô Long đao gây ra giờ đang rỉ máu, vùng da xung quanh nơi thì tái nhợt, nơi lại thâm tím, khiến Linh Lan rùng mình.
 
Nhắc đến chuyện đó, Linh Lan lại thấy khổ tâm. Nó đã cứu Nguyễn Ánh, tức là đã phản bội lại Văn Bình. Nếu Văn Bình không biết chuyện này, nó còn có thể trở về Tây Sơn, nhưng nếu anh biết thì nó sẽ không còn cơ hội nào nữa. Nhưng cho dù anh không biết thì đã sao, nó sao có thể nhìn thẳng vào mắt anh, sao có thể đối diện với anh nữa khi bản thân đã gây ra một lỗi lớn. Nếu biết chuyện, anh chắc chắn sẽ thất vọng về nó, sẽ uổng công bấy lâu nay anh vẫn quan tâm chăm sóc nó. Và dù anh không khiển trách hay trừng phạt thì nó cũng sẽ đối mặt với bản án của lương tâm, và sẽ còn ray rứt đến suốt đời.
 
Nhìn vết thương trên vai Nguyễn Ánh, Linh Lan cắn môi. Với một người đa mưu túc trí, kiêu ngạo như Nguyễn Ánh, chắc chắn vết thương đó không làm khó được anh, còn nó, nó cũng không có ý định đi cùng anh. Chỉ đơn giản thấy anh gặp nguy hiểm ngay trước mắt thì nó cứu, nay anh đã bình yên, quân Tây Sơn không đuổi đến thì nó cũng chẳng có việc gì để mà ở lại. Linh Lan gật gù với ý nghĩ đó, nó đưa mắt liếc nhìn Nguyễn Ánh thêm một lần nữa. Thấy anh vẫn đang nhắm mắt, không động đậy, chỉ có những sợi tóc phất phơ trước trán, tự hồ đang ngủ, Linh Lan rón rén, nhón từng bước rồi quay người bỏ đi...
 
- Mau lên! Mau chia ra tìm kiếm hắn ta!
 
Vừa đi được ba bước, Linh Lan vội vàng quay dừng lại khi trông thấy những chiếc thuyền con từ xa đang tỏa ra khắp các ngõ ngách con sông để tìm kiếm. Tiếng lính tráng chia thành từng toán nhỏ thúc giục nhau, tiếng giáo khua lách cách, tiếng vạch cành cây, bụi cỏ, truy lùng kỹ càng khiến Linh Lan chưa kịp vui mừng đã thấy lo lắng. Quân Tây Sơn, họ đã đuổi đến đây.

Linh Lan kêu thầm trong bụng. Nó lướt mắt về phía Nguyễn Ánh thì thấy anh vẫn ngồi im, không nhúc nhích, tựa như chẳng biết chuyện gì đang xảy ra. Nó thì dễ rồi, chỉ cần nó kêu lên hay xuất hiện thì có thể theo họ về trại của Tây sơn, nhưng còn Nguyễn Ánh. Khó khăn lắm nó mới cứu Nguyễn Ánh thoát được tình cảnh ngàn cân treo sợi tóc, khó khăn lắm cả hai mới sống sót tới được đây, nếu như lúc này quân Tây Sơn mà bắt được Nguyễn Ánh, nếu như anh lại rơi vào tay họ một lần nữa thì những công lao trước giờ của nó sẽ trở thành công cốc. Nghĩ đến đó, Linh Lan không thể kiềm lòng thêm nữa, nó tiến về phía Nguyễn Ánh, lên tiếng thúc giục.
 
- Nguyễn Ánh, quân Tây Sơn đến kìa, anh mau chạy đi, nhanh lên!!
 
Lúc này, Nguyễn Ánh mới từ từ mở mắt ra. Đôi mắt nâu trong suốt lạnh băng. Linh Lan đang đứng trước mặt, mắt nhìn đăm đăm vào anh, gương mặt trái xoan đầy vẻ lo lắng, đôi mày liễu cau lại. Khoảng cách giữa anh và Linh Lan khá xa, nhìn khoảng cách đó, bờ môi Nguyễn Ánh nhếch lên, chẳng rõ đang cười hay đang mỉa mai. Đêm qua quân Nguyễn bị Tây Sơn tập kích nên không kịp trở tay, hai tháng xây dựng lực lượng chỉ trong một đêm đã tan rã. Nhờ đã có những bước tính toán từ trước, Nguyễn Ánh đã lên thuyền rút lui, nhưng có vẻ như lần này gã Long Nhương quyết không tâm không để cho anh thoát. Súng đại bác, hỏa hổ bắn như mưa về phía anh, binh lính vây chặt lấy anh, và nếu cô gái này không tự thân sa vào tay anh thì anh khó có thể thoát khỏi sự bủa vây dày đặc của quân thù lúc đó. Nắm chặt bàn tay, nơi vết sẹo vẫn chưa phai nhạt, anh nên cám ơn cô gái ấy hay là oán hận cô ta đây.
 
- Sao còn chưa đi?
 
Nhìn xoáy vào đôi mắt Linh Lan, Nguyễn Ánh hỏi, giọng anh lạnh lùng, tưởng chừng băng còn không lạnh được như thế. Cắn chặt môi, Linh Lan vội tiến về phía Nguyễn Ánh, một tay quàng qua lưng, tay còn lại đỡ anh đứng dậy. Nào ngờ, dù nó có cố sức cách mấy Nguyễn Ánh vẫn không dịch chuyển, cứ như thể anh là một hòn đá tảng, làm Linh Lan toát cả mồ hột. Chuyện gì thế? Chẳng lẽ Nguyễn Ánh không có ý định trốn đi, không lo cho tính mạng của mình hay sao?
 
- Có chuyện gì thì để nói sau, bây giờ thì anh phải mau đi thôi, quân Tây Sơn sắp đến rồi kìa!!
 
Dù cho Linh Lan xuống giọng năn nỉ, Nguyễn Ánh vẫn ngồi yên, không đứng lên. Anh thậm chí chẳng buồn nhúc nhích mặc cho Linh Lan ra sức kéo anh đứng dậy. Đột ngột, Nguyễn Ánh vươn tay, quàng qua vai và ghì chặt nó xuống, khiến gương mặt nó kề sát mặt anh. Nhìn thẳng vào mắt nó, Nguyễn Ánh nhếch môi, anh thì thầm.
 
- Cún con! Cô biết không, tôi không thể nào tha thứ chuyện cô đã ôm hắn ta trước mặt tôi, nhưng cô đã cứu tôi, và tôi là người ân oán phân mình. Nước sông Lật đủ để cô nhớ đến chuyện trong thành Gia Định và ánh nắng mặt trời đủ để trả ơn cứu mạng của cô. Bây giờ, giữa chúng ta không còn nợ nần nhau, sống hay chết là việc của tôi. Ở đây không có việc cho cô. Đi đi!!
 
Nhìn gương mặt thất thần của Linh Lan, Nguyễn Ánh cười nhạt. vòng tay anh dần nới lỏng ra, rồi đẩy Linh Lan sang một bên. Đôi mắt nâu trong suốt gợn sóng, tưởng chừng như vừa có cơn giông kéo qua nơi ấy, bóng tối chậm chạp phủ màu trong suốt bằng một vực sâu thăm thẳm mơ hồ.
 
Nghe những lời Nguyễn Ánh vừa nói, Linh Lan rùng mình, nó mở to mắt nhìn anh. Gương mặt thanh tú đang nở một nụ cười tàn nhẫn, đôi mắt nâu tối sẫm, lạnh lẽo bao phủ nó như nước sông Lật đêm qua. Bây giờ Linh Lan mới vỡ lẽ hết mọi chuyện. Nó không ngờ chuyện nó lợi dụng anh, “công khai tình cảm” đối với Văn Bình ở Gia Định đã làm Nguyễn Ánh khó chịu như thế. Chính vì nó đã phạm lỗi với anh nên anh đã cho nó nếm mùi thống khổ của cái chết trong làn nước mênh mông lạnh buốt để trừng phạt. Sau đó, cũng là anh cứu nó lên, cho nó nhìn thấy ánh mặt trời để trả ơn cứu mạng của nó đêm qua. Ân oán trả cùng một lúc, lại khiến người ta phải nhớ đến suốt đời, có lẽ điều này chỉ có ở Nguyễn Ánh mà thôi.
 
- Thôi được! Anh và tôi không còn nợ nần gì nhau. Chuyện hôm nay coi như là tôi tự nguyện, không cần anh trả ơn. Tôi năn nỉ anh đấy, bây giờ chúng ta phải đi nhanh trước khi quân Tây Sơn tìm đến. Có được không?
 
Giọng Linh Lan khẩn khoản, nó ôm lấy cánh tay Nguyễn Ánh, tay kia cố sức nâng anh lên. Những tưởng nó sẽ phải tốn khá nhiều công sức để thuyết phục Nguyễn Ánh, nào ngờ, Linh Lan vừa nói xong, Nguyễn Ánh đã đứng dậy, khiến nó loạng choạng mấy bước vì sức nặng của anh đổ dồn lên người.
 
Đưa mắt nhìn anh, Linh Lan mừng rỡ vì cuối cùng Nguyễn Ánh cũng đã nghe lời mình. Hơn ai hết, cả anh và nó đều biết quân Tây Sơn đang truy đuổi sát sao, thế nên phải tránh mạng lưới bao vây của họ xa chừng nào hay chừng đó. Chuyện suýt bị chết chìm ở sông Lật Linh Lan thôi không nhớ đến, nó phải đưa Nguyễn Ánh rời khỏi này, đến một nơi an toàn để chữa trị vết thương cho anh kịp thời. Tiếng bước chân ngày càng gần, những chiếc nón tua đỏ của quân Tây Sơn thấp thoáng trong những tàn cây phía xa. Không chậm trễ, Linh Lan vội dìu Nguyễn Ánh đi vào rừng, lòng hy vọng trong rừng cành cây tua tủa, lá cây rậm rạp, chí ít có thể che khuất tầm nhìn của quân Tây Sơn.
 
Mặt trời lên cao dần, gương mặt Linh Lan đỏ hồng lên. Lớp lá dưới chân nó kêu lạo xạo, ánh nắng xuyên qua tàn cây tạo thành những vệt hình thù kì dị trên mặt đất. Dù đang rất mệt vì phải dìu thêm một người nặng gấp đôi mình, nhưng Linh Lan không than vãn một lời. Nó cố gắng dìu Nguyễn Ánh sao cho không động đến vết thương của anh, lại cố di chuyển thật nhanh, phòng quân Tây Sơn đuổi đến.
 
Vì đang bị thương, Nguyễn Ánh để cho Linh Lan dìu anh đi. Quàng tay qua bờ vai Linh Lan, anh gần như ôm trọn nó vào lòng. Nhìn sợi tóc mai bết vào hai vầng thái dương lấm tấm mồ hôi, đôi mắt kiên nghị nhìn thẳng về phía trước, bờ môi mím lại quyết tâm, đôi mắt nâu trong suốt của Nguyễn Ánh lao xao, tựa sóng biển vỗ vào bờ cát rì rào. Cứ như thế, hai bóng người tựa vào nhau lặng lẽ đi trong rừng, chỉ có tiếng lá khô vỡ vụn dưới bước chân, tiếng gió luồn xào xạc và những giọt mồ hơi rơi trên nền đất mềm.
 
Do cả hai đi khá chậm, lại vừa đi vừa nghe ngóng động tĩnh, trời dần về chiều Linh Lan và Nguyễn Ánh mới tới được bờ một con lạch. Đoạn lạch này tên là Rạch Chanh, tuy không rộng nhưng khá sâu, nước xoáy khá dữ, trong khi Linh Lan không biết bơi và Nguyễn Ánh lại đang mang thương tích. Nhìn dòng nước in ráng chiều đỏ rực, đôi mắt Linh Lan thẫm lại, lung linh. Nó đang đứng tần ngần vì không biết phải định liệu như thế nào thì Nguyễn Ánh đã lên tiếng, giọng anh nhẹ như gió thoảng.
 
- Cô đi dọc bờ sông, xem có đàn trâu nước nào quanh đây không. Nếu có, chúng ta sẽ nhờ nó đưa qua sông!
 
Linh Lan gật đầu, nó lẳng lặng dìu Nguyễn Ánh dọc theo bờ sông, mắt không ngừng nhìn quanh, lòng hy vọng sẽ có đàn trâu nước nào đó theo lời anh nói. Quả thật Linh Lan không phải tìm lâu, trên bờ sông, có một đàn trâu nước to lớn đang nằm nghỉ ngơi cạnh một bụi cây gần đó. Nhìn đàn trâu nước nằm lim dim trên bờ, con nào con nấy lùi lũi, chiếc sừng cong nhọn hoắt, sẵn sàng húc thủng ruột bất cứ kẻ thù nào, Linh Lan lấy làm e ngại. Tuy chúng trông có vẻ hiền lành, chiếc đuôi ve vẩy, thong thả nghỉ ngơi, nhưng cứ nghĩ đến việc bầy trâu nước đó nổi điên mà lao lên tấn công thì có cho vàng nó cũng không dám đến gần.
 
Trái ngược với vẻ thận trọng của Linh Lan, Nguyễn Ánh lại vô cùng bình thản. Linh Lan thận trọng dìu anh lại gần một con trâu nước với sự lo lắng. Nguyễn Ánh ngồi xuống, đôi mắt nâu ấm lại, tay anh chạm vào mình con trâu rồi vỗ nhẹ cùng với sự dịu dàng. Như cảm nhận được sự dịu dàng, ấm áp đó, con trâu nước xác nhận người ngồi trước mặt không có ý chọc giận hay làm nó sợ hãi, con trâu ngước đôi mắt lên nhìn anh, chiếc đuôi ve vẩy, ve vẩy, hai tai vểnh lên như đang nghe ngóng gì đó. Nguyễn Ánh mỉm cười, anh quay sang Linh Lan và đột ngột bế thốc nó, đặt ngồi lên lưng trâu. Đến khi Linh Lan kịp định thần lại thì Nguyễn Ánh đã ngồi sau lưng nó từ bao giờ.
 
Con trâu nước ngúc ngoắc đầu, rồi chậm rãi đứng lên trước sự lo lắng tột độ của Linh Lan. Con trâu này to nhất, khỏe nhất trong số trâu nằm trên bờ nên sức nặng của Linh Lan và Nguyễn Ánh cộng lại cũng không làm khó được nó. Trước nay, Linh Lan chỉ quen cưỡi ngựa, nay đột nhiên cưỡi trâu, lại là một con trâu nước chưa thuần chủng, không có dây cương điều khiển, thân to bè, trơn tuột, nên lòng nó rất hồi hộp và lo lắng. Theo hiệu lệnh của Nguyễn Ánh, con trâu lững thững bước xuống nước, mỗi bước đi của nó, người Linh Lan lại nghiêng ngiêng tưởng chứng như sắp ngã, muốn bám chặt cũng không biết phải bám vào cái gì. Dù Nguyễn Ánh đã vòng tay qua thắt lưng nó, ôm lấy nó, tạo thành một vành đai chắc chắn để nó khỏi ngã, nhưng ngực Linh Lan vẫn phập phồng lo lắng, vô thức, nó tựa hẳn vào lòng anh để tìm chỗ dựa an toàn.
 
Ngồi trên lưng trâu, Linh Lan phóng tầm mắt qua bờ bên kia. Rừng cây xanh xanh nhạt nhòa trong ánh hoàng hôn, cơn gió mát rượi luồn vào mái tóc khiến cõi lòng nó mênh mang. Ngồi phía sau Linh Lan, Nguyễn Ánh không nói một lời nào. Anh nhìn về phía trước, đôi mắt nâu trong suốt bàng bạc con nước, lấp lánh, loang đỏ ánh chiều tà, mùi hương hoa bưởi theo gió nhẹ đưa. Chiều hoàng hôn, nước sông bao giờ cũng chảy nhanh hơn, mạnh hơn, mặt sông không hề êm ả, tựa như những năm tháng buôn ba lên rừng xuống bể của anh.
 
Đến giữa đường, đột ngột, Nguyễn Ánh nhíu mày khi nghe tiếng nước reo ùng ục, gió thổi mạnh, báo hiệu thời khắc thủy triều dâng lên. Đúng như anh suy nghĩ, nước sông bỗng chảy gấp gáp, sự hiền hòa biến mất, thay vào đó là con nước ngày càng dâng cao và chảy xiết. Ban đầu, nước sông chỉ đến bụng trâu, sau đó đã xấp xỉ lưng trâu và thoáng chốc thì trâu đã mất dạng và bị cuốn trôi trong làn nước dữ. Thủy triều đã về.
 
Đang thơ thẩn ngắm mây trời, lòng ngổn ngang trăm mối khi nghĩ về Văn Bình, Linh Lan giật mình khi nhìn thấy thủy triều dâng lên một cách nhanh chóng. Nước triều như cơn lốc, ào ạt cuốn lấy con trâu nước to khỏe, nhấn chìm nó trong dòng chảy xiết. Trâu chìm, Linh Lan chới với, nỗi ám ảnh sông Lật lại tái diễn. Hai tay nó quơ quào trong không khí, đầu óc choáng váng, mũi miệng sặc sụa do nước sông đua nhau tràn vào.
 
Bụng Linh Lan quặn lại, nó thảng thốt, miệng muốn kêu cứu nhưng không thể, nước triều dâng cao, trắng xóa, đôi mắt nó nửa chìm nửa nổi trong dòng nước. Linh Lan mất phương hướng, nó như một chiếc lá lay lắt giữa dòng, không biết nơi nào là bờ. Giữa lúc nó tuyệt vọng vì không thể bám víu bất cứ vật gì, đột nhiên, một cánh tay vòng qua thắt lưng Linh Lan, kéo nó trồi lên khỏi mặt nước. Không cần phải suy nghĩ, Linh Lan cũng biết ngay vòng tay đó là của ai. Trong khoảnh khắc đó, chưa bao giờ Linh Lan cảm thấy mừng rỡ như lức này.
 
Khi con trâu nước bị thủy triều cuốn đi, Linh Lan và Nguyễn Ánh ngay lập túc chìm trong nước. Thấy Linh Lan ngày càng bị nước thủy triều cuốn xa, chì còn lại hai cánh tay vùng vẫy, ngay lập tức, Nguyễn Ánh lao nhanh về phía nó. Dòng chảy mạnh mẽ không cản nổi anh, mực nước dâng cao không thể nhấn nhìm bàn tay anh nắm lấy Linh Lan và kéo nó về phía mình. Ôm Linh Lan vào lòng bằng cánh tay bị thương, Nguyễn Ánh chống chọi lại cơn nước lũ, dốc sức vượt qua nó mà không để bản thân cùng Linh Lan bị cuốn trôi. Thủy triều bọt tung trắng xóa, nước reo hò, mặc sức nhào nặn hai người trong đôi bàn tay đỏ ngầu của mình.
 
Linh Lan và Nguyễn Ánh như chiếc lá nửa chìm nửa nổi trong nước, sau những phút nỗ lực, cuối cùng Nguyễn Ánh đã đưa được Linh Lan lên bờ. Dường như mọi sức lực của anh đều đổ vào dòng thủy triều để giữ lấy Linh Lan và sinh mạng cho mình, nên vừa đặt chân được lên bờ bên kia, bỏ lại Rạch Chanh đang tức giận gào thét, Nguyễn Ánh liền thả lỏng cơ thể. Anh ngã ra đất, kéo theo Linh Lan ngã nhào vào vòng tay của mình. Nhìn áng mây chu sa kéo thành một vệt dài trên bầu trời, nhuộm đỏ cả không gian, Nguyễn Ánh mỉm cười, một nụ cười kiêu ngạo. Anh chợt buông lời, dù giọng nói không còn mấy sức lực.
 
- Lâu lắm rồi tôi mới bơi một trận thỏa thích như thế này.
 
Tương tự Nguyễn Ánh, cuộc vật lộn giữa dòng nước dữ đã rút cạn sức lực của Linh Lan nên nó không còn chút lực nào để kháng cự. Quần áo nó ướt sũng nước, chiều hoàng hôn gió lạnh, thấm vào da thịt tê buốt khiến Linh Lan rùng mình nhưng khi nghe lời Nguyễn Ánh vừa mới nói, nó phải mở to mắt vì kinh ngạc. Vai mang thương nặng, lại chống chọi với cơn thủy triều hung bạo, ấy thế mà đối với Nguyễn Ánh, đó đơn giản chỉ là một chuyến bơi lội thỏa thích. Trong ranh giới sống chết như thế mà Nguyễn Ánh vẫn bình thản như không, chẳng lẽ chính tính cách này đã tạo nên một hoàng đế Gia Long trong lịch sử hay sao?!
 
Mặt trời đã lặn khuất, bóng chiều nhanh chóng phủ xuống khu rừng. Bản nhạc côn trùng bắt đầu trỗi lên, đánh nhịp nỉ non khiến đêm càng thêm buồn thảm. Đưa mắt ngước nhìn những ngôi sao trên cao, đôi mắt nâu trong suốt của Nguyễn Ánh như trở thành hai vì sao lấp lánh. Người con gái trong vòng tay anh đã mệt mỏi thiếp đi, tấm thân mềm mại rúc vào lòng anh tìm hơi ấm như một chú chim non. Cảm nhận từng đường nét trên gương mặt Linh Lan với những ngón tay, Nguyễn Ánh nhẹ mỉm cười, nụ cười vô cùng dịu dàng nếu Linh Lan có thể nhìn thấy. Qua cảm nhận của bàn tay, đôi mắt đen đang nhắm, vành mi hơi động đậy tựa như đang mơ thấy gì, đôi má bầu bĩnh, bờ môi mềm mại hơi hé mở, vương những giọt nước như cánh hoa đọng sương…
 
Luồn tay vào mái tóc mềm như suối đổ dài trên vai rồi vuốt nhẹ, Nguyễn Ánh lại nhìn lên trời cao. Vết thương trên vai trở nhức nhưng anh không để ý đến. Gió thổi mênh mang. Những mảng ký ức vụn vặt đã qua lại tìm về. Phụ thân qua đời khi anh còn rất nhỏ, hình dáng của phụ thân như thế nào anh không nhớ, chỉ nhớ ông có đôi mắt lấp lánh như ánh sao. Đã lâu rồi anh không thảnh thơi nằm ngắm sao trời. Bầu trời lung linh như khi ở Long Xuyên, nhưng có điều, đêm nay, anh không phải chỉ có một mình. Và hôm nay, chưa bao giờ anh được bơi thỏa thích như thế này.
 
oOo
 
Linh Lan choàng tỉnh giấc, nó đưa tay dụi mắt thì nhận ra trời vẫn còn tối, trên cao chỉ có vầng trăng dịu dàng tỏa sáng. Nhận ra mình đang nằm trong vòng tay Nguyễn Ánh, Linh Lan giật mình ngồi dậy, nó vỗ vỗ tay lên trán và nhớ lại mọi chuyện xảy ra đến với mình. Ban chiều, sau khi chống chọi với dòng thủy triều, Linh Lan đã kiệt sức nên ngủ thiếp đi, đến khi mở mắt dậy thì điều đầu tiên mà nó nhìn thấy lại là gương mặt thanh tú của Nguyễn Ánh. Anh đang ngủ, dường như ngủ rất say. Trông anh lúc này vô cùng dịu dàng chứ không kiêu ngạo, tàn nhẫn như lúc bình thường. Linh Lan hơi ngần ngừ, nó không đánh thức anh dậy vì gương mặt nhẹ nhõm ấy, nhưng đồng thời cũng xích lại gần anh để xem xét vết thương trên vai như thế nào.
 
Bị thanh Ô Long đao chém vào, may thay vì lúc đó Nguyễn Ánh đang kề kiếm vào cổ Linh Lan nên Văn Bình đã không xuống tay quá nặng, nhưng thế thôi cũng đủ tạo thành một vết cắt dài, và sâu trên bờ vai anh. Hai lần ngâm mình dưới nước, vết thương chẳng còn chảy máu nhưn trắng nhợt, trở nặng. Linh Lan cắn nhẹ môi. Bằng mọi giá, nó phải đưa Nguyễn Ánh đến thầy thuốc để chữa trị vết thương kịp thời, chứ nếu để lâu e vết thương sẽ biến chứng, không nặng cũng trở thành nặng, không nguy hiểm tính mạng cũng thành nguy hiểm, đến lúc đó thì Gia Long hoàng đế cũng sẽ không còn.
 
Đang cúi xuống xem xét vết thương của Nguyễn Ánh, Linh Lan lúng túng và lùi lại một bước khi anh đột ngột mở mắt. Còn chưa kịp khỏa lấp sự lúng túng của mình thì cái bụng một ngày trời không ăn không uống gì của nó chợt kêu rồn rột. Có lẽ, tiếng bụng sôi của nó rất lớn, đến nỗi Nguyễn Ánh cũng nghe thấy và đưa mắt nhìn nó. Đôi mắt anh nheo lại, nhìn Linh Lan chế giểu, khiến nó bối rối, dời mắt nhìn xuống ngón tay của mình vẽ thành từng vòng lằn ngoằn lên ống tay áo. Một nụ cười phớt qua bờ môi thanh tú của Nguyễn Ánh, anh lại cất tiếng, lần này đã mềm mỏng, thôi không lạnh lùng như lúc ban đầu.
 
- Quanh đây có dâu đất (*), cô có thể hái về ăn.
 
- Sao anh biết quanh đây có dâu đất?
 
- Trước đây tôi đã đi ngang qua vùng này một lần.
 
Khi nói câu ấy, đôi mắt trong suốt của Nguyễn Ánh thẫm lại, bóng tối kéo qua đó như một vệt mây đen trên bầu trời, rất nhanh rồi biến mất. Biết có hỏi Nguyễn Ánh cũng không nói, Linh Lan chỉ gật đầu rồi quay lưng đi vào rừng, mắt bắt đầu tìm kiếm trái dâu đất để ăn lót lòng.
 
Nguyễn Ánh nói xung quanh có dâu đất, nhưng Linh Lan không ngờ nó lại ở sâu đến thế. Vẹt những cành cây, bụi cỏ, bị gai cào rách cả tay, trời lại tối, chỉ dựa vào mỗi ánh trăng, khó khắn lắm Linh Lan mới nhìn thấy từng chùm dâu đất bám chặt vào cành cây trên cao. Nuốt nước miếng trong miệng, Linh Lan xắn tay áo nhặt vài ba hòn đá dưới chân, mắt nheo lại định vị trí rồi bắt đầu ném. Ban đầu,dù Linh Lan ném rào rào, nhưng từng chùm dâu đất vẫn cứng đầu bám chặt vào cành, khiêu khích tại nghệ của nó. Vì đã có kinh nghiệm sau vài lượt ném đầu, cuối cùng, Linh Lan cũng ném trúng được bốn chùm dâu rơi xuống. Vội vàng kéo vạt áo, thu nhặt những trái dâu đất lăn lóc dưới đất, tay Linh Lan dính đầy mủ, mồ hôi trên trán lấm tấm. Nhẩm tính ngần này là đã đủ cho nó và Nguyễn Ánh, Linh Lan ba chân bốn cẳng chạy về chỗ cũ vì sợ Nguyễn Ánh sẽ phải chờ lâu.
 
Thả bốn chùm dâu đất xuống trước mặt Nguyễn Ánh, Linh Lan cười rạng rỡ, thế nhưng nó còn chưa kịp chia ra thì anh đã lấy tất cả về phía mình, rồi sau đó bẻ từng trái ra và chia cho cả hai. Ngớ người ra vì không hiểu tại sao Nguyễn Ánh lại làm như thế, Linh Lan im lặng, theo dõi từng hành động của anh, đến khi nhìn thấy bên Nguyễn Ánh thì nhiều, bên nó thì ít, Linh Lan nhíu mày vì kết quả không như nó mong muốn. Rõ ràng là nó muốn ăn phần nhiều hơn.
 
Dù hơi bất mãn trong lòng, nhưng Linh Lan không nói ra. Đơn giản Nguyễn Ánh bây giờ là người đang bị thương nặng, nhường anh một chút, để anh ăn nhiều hơn nó một ít cũng không sao. Nó khỏe mạnh, chỉ bị xây xát không đáng kể, đói thì tự động đi hái thêm ăn, chứ Nguyễn Ánh thì với cái vai trái thương tích thế kia làm sao đi nổi. Với suy nghĩ đó, Linh Lan thôi không âm ức nữa, nó ngoan ngoãn bóc vỏ dâu đất ra, rồi bắt đầu ăn. Vị ngọt dịu của dâu đất khiến Linh Lan quên đi cái đói đang hoành hành trong cơ thể. Nhìn Linh Lan ăn ngon lành, đôi má ửng hồng, Nguyễn Ánh chợt mỉm cười, nụ cười nhẹ khiến gương mặt anh trở nên dịu dàng lạ thường.
 
- Cún con, cô biết tôi đang nghĩ gì không?
 
- Anh nghĩ gì sao tôi biết được - Nghe Nguyễn Ánh hỏi lại, Linh Lan lắc đầu.
 
- Tôi đang nghĩ nếu tôi yêu cô, thì sẽ rất phiền phức. Cho nên, đừng khiến tôi yêu cô, bằng không cô sẽ gánh lấy hậu quả. Tôi đã cảnh báo rồi đấy!
 
Nguyễn Ánh vừa nói vừa cười, đôi mắt nâu lấp lánh tia sáng, nhưng lại rất đỗi dịu dàng, trái hẳn với vẻ lạnh lùng tàn nhẫn ban sáng, khiến Linh Lan chẳng thể hiểu nổi con người này thật sự nghĩ những gì. Tốt nhất không nên đụng đến anh ta vì chẳng ai biết anh ta sẽ làm gì nếu chẳng may nổi giận. Linh Lan nhủ thầm, nhớ đến lời cảnh báo của Nguyễn Ánh, nó lại ngẩn ngơ. Gì thế nhỉ, Nguyễn Ánh đã nói nó đừng khiến anh yêu nó, nếu anh yêu nó chắc chắn nó sẽ gánh lấy hậu quả. Hừ! Gánh hậu quả gì chứ, nó gặp anh đã là gánh lấy hậu quả rồi, chứ mà còn nói đến chuyện yêu hay không yêu.

Nghĩ đến ý tưởng gặp anh là gánh lấy hậu quả, Linh Lan chun mũi. Nuốt vội hột dâu đất xuống cổ họng, xém chút nữa nó đã bị sặc vì nhớ đến những gì đã nói với Anh Tú, khi cả hai còn ở hiện tại. Lần đó, lúc học về trận Đống Đa - Ngọc Hồi của Quang Trung, Anh Tú đã nói rằng Quang Trung dù nhiều chiến công hiển hách, nhưng người lên ngôi thống nhất thiên hạ lại là Gia Long. Anh Tú khi đó đã hỏi nó rằng, nếu một ngày nào đó nó gặp được Quang Trung và Gia Long, nó sẽ đi theo ai. Khi ấy, dù Linh Lan đã cười vì câu hỏi mang tính trừu tượng của anh mình, nhưng nó cũng trả lời vì câu hỏi ấy đối với nó chẳng khó khăn gì.
 
 “Nếu có một ngày gặp được Gia Long và Quang Trung... “
 
Và bây giờ, người đang ngồi trước mặt nó chẳng ai khác là chính là Gia Long hoàng đế, người sẽ thống nhất đất nước, lập ra vương triều Nguyễn. Nó đã gặp được Gia Long rồi, đã ở bên cạnh rồi và cũng đã trải qua hoạn nạn rồi, liệu nó sẽ làm gì với lời tuyên bố của mình đây....
 
“... Thì em nhất định sẽ theo Gia Long”

---------------------------
Chú thích:

(*) Trái dâu đất : Là trái bòn bon đó các bạn ^^. Loại trái này có mùa chín từ tháng 5 đến tháng 10. Là một loài trái gắn liền với Gia Long, sau này dc ông ban cho cái tên Nam Trân, tức báu vật phương Nam.
 
[Spoiler tiếp theo:

Lướt mắt về phía Linh Lan đang ngồi lay hoay giặt đồ phía sau vườn, Nguyễn Ánh mỉm cười. Bóng nắng lung linh soi vào đôi mắt anh.

- Cô ấy là vợ tôi.]



★ Chương 103
 
Trời vừa tờ mờ sáng, Nguyễn Ánh trở sốt. Ngồi bên cạnh anh, Linh Lan lo sợ khi toàn thân Nguyễn Ánh nóng bừng như có lửa đốt, trong khi bàn tay lại lạnh ngắt, dấu hiệu của cơn sốt cao.
 
Biết vết thương của Nguyễn Ánh vì không được chăm sóc cẩn thận, dẫn đến cơn sốt, bụng Linh Lan lo ngay ngáy. Nguyễn Ánh dường như đang chìm vào giấc mơ. Không biết trong mơ anh đã thấy những gì mà nét mặt biến đổi vô cùng phức tạp, khi ưu phiền, khi băng giá, khi lại cuồng nộ, toàn những biểu hiện từ trước đến nay Linh Lan chưa thấy bao giờ. Trong vô thức, bàn tay anh xiết tay Linh Lan, chặt đến nỗi nó phải nhăn mặt vì đau.
 
- Nguyễn Ánh, anh sao thế? Anh có nghe tôi nói không?
 
Linh Lan gắng sức lay Nguyễn Ánh nhưng vẫn không có động tĩnh gì. Dường như anh đang chìm sâu trong giấc mơ của mình, chỉ có đôi mày kiếm là hằn sâu như một vết cắt, làm Linh Lan hơi hoảng. Ngẩng đầu nhìn quanh, trong đôi mắt Linh Lan là sự tuyệt vọng. Nguyễn Ánh đang gặp nguy hiểm nhưng quanh đây toàn rừng với rừng, chỉ có tiếng chim hót khan chứ chẳng thấy bất cứ bóng dáng ai lai vãng, ngoài nó và anh. Chẳng lẽ số phận của Gia Long đến đây là hết sao, chẳng lẽ lịch sử sẽ thay đổi, chẳng lẽ sau tất cả cố gắng, những người thân yêu của nó vẫn sẽ biến mất sao?
 
Linh Lan rùng mình, nó vội lắc đầu để trục xuất những ý nghĩ không lành đó. Tháo chiếc thắt lưng màu thiên thanh, Linh Lan ra bờ sông, nhúng chiếc thắt lưng vào nước, rồi sau đó nhanh chóng quay trở lại, thấm nước lên mặt nhằm cố gắng giảm nhiệt cho Nguyễn Ánh. Tình trạng bây giờ của Nguyễn Ánh vô cùng nguy kịch, anh đang chìm vào cơn mê, trán nóng ran, đôi môi lại khô khốc nứt nẻ, dấu hiệu của thiếu nước. Không chậm trễ, Linh Lan vội bẻ một ống sậy làm ống hút, sau đó chọn những chiếc lá to còn đọng sương sớm mát lạnh rồi rót vào miệng cho anh. Độ năm sáu lần truyền nước, trông tình hình của anh cũng không khá hơn là bao, tính mạng vẫn như chỉ mành treo chuông, điều đó làm Linh Lan rối rắm vô cùng.
 
Không thể ngồi yên ở đây chờ thần chết mang Nguyễn Ánh đi, cũng không thể trông mong ai đó đi ngang qua vùng hẻo lánh này, Linh Lan đành phải tự thân vận động, nó sẽ cõng anh đi tìm người giúp. Cố gắng đỡ Nguyễn Ánh ngồi dậy mà không động vào vết thương, Linh Lan thận trọng quàng hai tay anh qua vai mình, rồi loạng choạng đứng lên. Do anh to cao, trong khi Linh Lan lại thấp bé, nó không thể cõng Nguyễn Ánh hẳn lên được, hai chân của anh thõng xuống, kéo dài trên mặt đất. Bặm môi để chịu đựng sức nặng từ cơ thể Nguyễn Ánh dồn lên người, Linh Lan run rẩy, bước từng bước một, dò dẫm đi về phía thượng nguồn, lòng mong manh hy vọng sẽ tìm thấy một ai đó có thể giúp đỡ tình trạng bi đát của cả hai.
 
Đi được một quãng, bờ vai Linh Lan đã nặng trĩu, đầu nó choáng váng, chân nó không còn sức để nhấc lên, đành ngồi xuống nghỉ ngơi dăm phút. Đặt Nguyễn Ánh nhẹ nhàng dựa vào thân cây, Linh Lan ngồi phệt ra đất thở dốc, tay nó đấm nhẹ lên bờ vai đau nhức. Từng khớp xương trong người nó rã rời, lưng áo ướt đẫm, những giọt mồ hôi mặn như muối biển chảy vào trong mắt, cay xè.

Dù đang rất mệt, nhưng nó vẫn không quên giữ cho Nguyễn Ánh không bị mất nước. Tiếp tục đi tìm những chiếc lá to đọng sương sớm, Linh Lan dùng ống sậy để tiếp nước cho anh. Sau khi đã đắp khăn lên trán Nguyễn Ánh để hạ nhiệt, Linh Lan lại cõng anh men theo con sông để tìm sự sống. Mắt Linh Lan hoa lên, cảnh vật trước mắt nó như nhạt nhòa.
 
Lần thứ tư trong suốt quãng đường, Linh Lan lại đặt Nguyễn Ánh nằm xuống và truyền nước. Nhìn vết thương thâm tím, bắt đầu sưng phồng lên trên vai anh, Linh Lan không khỏi chua xót. Tình thế bây giờ vô cùng ngặt nghèo, Nguyễn Ánh đang có nguy cơ đối mặt với tử thần, sức lực nó thì sắp cạn kiệt, vậy mà khung cảnh xung quanh vẫn không thay đổi. Vẫn rừng cây ấy, vẫn con sông ấy, chẳng có lấy một mái nhà tranh, làm Linh Lan tưởng chừng mãi từ nãy tới giờ nó vẫn chưa nhích thêm được bước nào.
 
Biết có ngồi đây tự hỏi cũng chẳng được ích lợi gì, Linh Lan lau mồ hôi trên trán, nó cố quên đi sự mệt mỏi, đau nhức trên cơ thể, rồi lại đứng lên, cõng Nguyễn Ánh đi tìm sự sống. Cõng Nguyễn Ánh suốt cả một đoạn đường dài, hai chân Linh Lan mỏi nhừ, bờ vai tê cứng, nhưng một khi chưa tìm thấy sự giúp đỡ thì dù mệt đến đâu nó vẫn quyết không dừng chân. Nếu nó dừng lại lúc này, mọi hy vọng cũng sẽ tắt ngấm. Chốc chốc lại xốc Nguyễn Ánh lên, Linh Lan cắn chặt môi, từng bước lần về phía trước, mắt nhìn quanh tìm kiếm với một niềm tin mãnh liệt, rằng trời chắc chắn sẽ không phụ lòng người.
 
Trời chắc chắn không phụ lòng người, niềm tin của Linh Lan đã được đền đáp. Đang rảo mắt rà soát xung quanh, gương mặt mệt mỏi của Linh Lan sáng bừng lên khi nhìn thấy một mái nhà tranh thấp thoáng sau những bụi cây lô nhô. Sự phấn khích lan tỏa khắp người, bờ vai Linh Lan run nhẹ. Hy vọng Nguyễn Ánh được cứu khiến Linh Lan quên hẳn mệt mỏi. Đôi chân nó như được chắp cánh, tiến nhanh nhất có thể về phía ngôi nhà với niềm phấn khởi.
 
Hiện ra trong sự hồi hộp của nó là mái nhà tranh ươm vàng dưới hừng đông buổi sớm. Tấm cửa liếp được chống bằng một cành cây, nên Linh Lan có thể nhìn vào bên trong ngôi nhà. Ngồi trên chiếc giường tre là một người đàn ông trung niên mặc áo màu gai, vóc người nhỏ thó, nước da màu nâu sẫm, trên vai là một chiếc túi vải, xung quanh là đồ đạc đang được gói ghém cẩn thận. Không chần chừ thêm nữa, Linh Lan vội đẩy cửa bước vào. Hành động đột ngột ấy khiến người đàn ông giật mình, ngồi sững trên gường vì không biết hai người khách lạ này là ai.
 
- Cháu… cháu xin lỗi! Cháu không có ý làm chú sợ, nhưng chú cho cháu hỏi, quanh đây có ai là thầy thuốc không ạ? Hiện anh trai cháu đang bị thương rất nặng, nếu không chữa trị kịp thời sẽ nguy hiểm đến tính mạng, chú làm ơn giúp giùm cháu với.
 
Linh Lan nói lắp bắp, lời nói đứt quãng do thở gấp, gương mặt khẩn cầu sự giúp đỡ. Ban đầu, người đàn ông tuy hơi hoảng hốt khi bỗng đâu có người tự nhiên xông vào nhà mà vào lúc trời còn chưa sáng tỏ, nhưng đến khi thấy đó là một cô gái mặt mày lấm lem, quần áo đôi chỗ bị rách, lại đang cõng một thanh niên hôn mê trên vai, cầu cứu ông với đôi mắt tha thiết, lời lẽ khẩn khoản, tuyệt không có ý xấu, thì sự cảnh giác trên gương mặt người đàn ông cùng nỗi sợ hãi dần tan biến. Vỗ nhẹ vào túi vải đang đeo trên vai, người đàn ông mỉm cười.
 
- May cho cô đấy, tôi là thầy thuốc!
 
Lời người đàn ông vừa mới thốt ra, đối với Linh Lan chẳng khác nào đang chết đuối mà vớ được phao. Bao mệt mỏi trong nó đều tan biến. Nó mừng rỡ, cuống quýt nói.
 
- Vâng vâng! Quả thật may mắn cho cháu quá. Chú giúp cháu xem xét vết thương của anh cháu đi ạ.
 
Vừa nói, Linh Lan vừa cõng Nguyễn Ánh lại gần người đàn ông. Cẩn thận giúp nó đặt anh nằm xuống giường, nhìn thấy vết thương trên vai Nguyễn Ánh, ông nhíu mày, rồi nhanh nhẹn tháo túi vải trên vai đặt xuống. Lựa những túi dược thảo cùng mấy miếng vải sạch trong chiếc hộp gỗ ra, người đàn ông thắc mắc.
 
- Anh trai cô làm sao mà bị thương nặng đến thế này?
 
- Dạ! - Không muốn người đàn ông biết được thân phận thật sự của Nguyễn Ánh để đảm bảo an toàn, Linh Lan nghĩ nhanh trong đầu, rồi liếm môi - Trên đường lánh khỏi Gia Định, bọn cháu không may gặp phải cướp. Tuy hai anh em thoát khỏi bọn chúng nhưng anh trai cháu lại bị trọng thương, đang không biết phải làm sao thì may gặp được chú, thật may mắn quá.
 
- Anh em cô nên cẩn thận, vùng này bây giờ đang có chiến tranh, loạn lạc, giặc cướp khắp nơi nổi lên như ong. Quân Tây Sơn đang có chiến tranh với quân Nguyễn, tôi đang chuẩn bị lánh đi nơi khác, đợi mọi chuyện êm xuôi rồi mới quay trở về đây.
 
Nghe người đàn ông nói, Linh Lan vâng dạ cho xong chuyện, nó không muốn nói nhiều, bởi sợ sẽ để lộ ra những chuyện không cần thiết. Theo lời người đàn ông nói, rất may là nó đã đến đúng lúc, chứ nếu chậm thêm chút nữa thì nơi này sẽ chỉ là căn nhà hoang không có người và tính mạng của Nguyễn Ánh sẽ không thể cứu vãn được bởi vết thương trở nặng. Linh Lan nghe mà rùng mình, bởi nó không thể tưởng tượng được việc Nguyễn Ánh chết đi và mọi chuyện sau đó sẽ ra sao.
 
- Xong rồi! Tính mạng anh cô tạm thời không còn nguy kịch, nhưng vẫn còn phải nghỉ ngơi, tịnh dưỡng một thời gian thì mới lành lặn được. Cứu người thì cứu cho trót, tôi sẽ nán lại vài hôm để chữa trị cho anh cô rồi đi cũng không muộn.
 
Trước tấm lòng của người thầy thuốc, Linh Lan vô cùng cảm kích. Nó cám ơn ông rối rít. Thế là tính mạng của Nguyễn Ánh đã được cứu, Gia Long hoàng đế vẫn tồn tại, những cực khổ của nó xem như đã được đền bù. Đưa mắt nhìn Nguyễn Ánh nằm thiếp đi trên giường, Linh Lan thở phào nhẹ nhõm. Giờ nhớ lại, nó cũng không biết nguồn sức mạnh nào khiến nó có thể cõng trên vai một người nặng gấp đôi mình đi quãng đường dài như vậy. Nhưng mặc kệ, sức nó giờ đã cạn kiệt, mệt lã cả người, nó muốn ngủ. Nó cần được nghỉ ngơi.
 
oOo
 
Bóng chiều chạng vạng buông trên con nước mênh mông. Gió lộng xôn xao đượm mùi chết chóc. Trong một cánh rừng thưa, cậu thiếu niên ngồi trên lưng con tuấn mã trắng như tuyết, mắt nhìn theo chàng trai khoác chiếc áo choàng màu xanh đang đứng quay lưng nhìn bầu trời. Chiếc áo choàng xanh bay lồng lộng, che khuất cả bầu trời trong đôi mắt nâu của cậu. Chợt, có tiếng vó ngựa dồn dập, tiếng reo hò truy đuổi, mùi máu tanh lan nhanh trong không khí, chàng trai quay người lại vỗ mạnh tay thúc ngựa. Con tuấn mã hí lên, rồi tung vó lao nhanh về phía trước. Bên tai cậu ngoài tiếng gió, tiếng vó ngựa phi, còn vọng lại cả tiếng cười. Ai oán và đau thương...
 
“Nếu con chết, ta cũng sẽ chết!”
 
Nguyễn Ánh mở bừng mắt, vầng trán anh lạnh toát, đôi mắt trong suốt bao phủ một làn sương, nhạt như màu khói. Xung quanh yên lặng như tờ, chỉ nghe thấy tiếng trái tim anh đập khó khăn trong lồng ngực. Sự yên lặng, tịch mịch bao trùm, chỉ có tiếng gió xào xạc trên mái lá khiến giấc mơ trong những ngày qua lại hiện về. Trong giấc mơ, anh đang đứng trên chiến trường, có gió, có máu, có những xác người và có cả tro tàn. Định vương(*), Tân Chính vương(**), phụ thân anh, đại huynh, nhị huynh, ngũ đệ(***) và cả gia tộc của anh đang ở phía trước. Tất cả họ nhạt nhòa, mờ ảo và lay lắt như một chiếc bóng. Với chiếc áo bào màu xanh quen thuộc trong gió, Định vương giơ tay ra, tất cả mọi người đều nhìn về phía anh, đợi chờ.
 
Anh nhìn họ, họ nhìn anh. Đôi bên đều im lặng. Mặc cho những cánh tay gầy gò, xám nghoét vươn về phía mình, níu kéo, anh vẫn bất động, đôi mắt nâu trong suốt phảng phất những chiếc bóng mờ. Anh yên lặng nhìn họ từ bên kia chiến trường rồi quay lưng đi, tà áo vàng phất phơ trong gió. Sau lưng, tiếng cười bi thương trỗi lên, mặt đất dưới chân anh như chuyển động. Đột ngột, tất cả đều biến mất, chỉ còn mình anh trên cánh đồng bông lau trắng như sương như khói, mắt in màu bầu trời hoàng hôn tĩnh lặng, hoang tàn.
 
Giấc mơ kết thúc, Nguyễn Ánh trở về thực tại, anh thấy mình nằm trên một chiếc giường tre, vết thương trên vai đã được đắp thảo dược và băng bó cẩn thận. Linh Lan! Trái tim anh bật lên tiếng gọi, anh liền ngồi dậy, mắt tìm kiếm bóng dáng nhỏ bé, mặc cho cơ thể nặng như chì và các khớp xương như muốn tháo rời.
 
- Này, anh mới vừa tỉnh lại thôi, không nên ngồi dậy như thế.
 
Một giọng nói trong trẻo cất lên, tấm phên cửa hé mở, Linh Lan ôm rổ rau bước vào, vẻ mặt không hài lòng khi nhìn thấy Nguyễn Ánh không chịu nằm yên trên giường. Đặt rổ rau lên chiếc bàn tre, Linh Lan đến bên cạnh Nguyễn Ánh, xem vết thương của anh có biến chứng gì không. Nào ngờ, vừa mới lại gần, Nguyễn Ánh đã đột ngột vươn tay, kéo nó ngã hẳn vào lòng mình. Tấm thân mềm mại, ấm áp ấy khiến đôi mắt nâu thôi không còn bị bao phủ bởi màu sương khói, mùi thơm trên mái tóc Linh Lan xua tan mùi máu tanh, mùi tro cháy trên chiến trường, khiến trái tim anh bình tâm lại và cõi lòng dịu êm.
 
Bụng chỉ định xem vết thương của Nguyễn Ánh có tiến triển tốt không, Linh Lan mới mon men lại gần anh, ai ngờ đâu bỗng nhiên lại bị anh ôm chặt, khiến nó hoảng hồn. Tính xô Nguyễn Ánh ra một bên, nhưng Linh Lan lại không thể cựa quậy được vì vòng tay anh xiết quá chặt. Đang còn chưa biết xử trí thế nào thì Nguyễn Ánh đột ngột vùi mặt vào mái tóc nó, hôn lên đó một cái thật lâu, xong rồi mới nới lỏng tay ra, khiến Linh Lan vô cùng tức giận. Thoát khỏi vòng tay Nguyễn Ánh, Linh Lan lùi lại phía sau, suýt chút nữa là làm rơi cả rổ rau xuống đất, mắt nó nhìn anh trừng trừng.

Đối với Linh Lan, trừ phi là người mà nó yêu thương, chứ nó không thích ai đụng chạm hay bị ôm ấp, còn con người Nguyễn Ánh tính khí vô cùng bá đạo, muốn ôm là ôm, không cần phải hỏi han hay để ý đến cảm giác của người khác. Linh Lan cau mày không hài lòng. Nhưng Nguyễn Ánh đã có sức ôm nó như thế thì chắc cũng hồi phục sức khỏe hết tám, chín phần rồi, vậy thì nó không cần quan tâm đến vết thương trên vai anh nữa làm gì.
 
Cầm lấy rổ rau trên bàn, Linh Lan bỏ ra ngoài mà không thèm nói tiếng nào, nó còn phải nấu canh rồi giặt đồ, để lại sau lưng ánh mắt lấp lánh của Nguyễn Ánh. Linh Lan vừa bước ra ngoài, thì Hữu Huân - người thầy thuốc cũng mang thảo dược bước vào. Nhìn Nguyễn Ánh đang ngồi trên giường, Hữu Huân tỏ vẻ ngạc nhiên, ông mở miệng hỏi, vừa hỏi vừa đem tất cả số thảo dược vừa hái được cho vào nồi.
 
- Chà! Tôi thật không ngờ cậu lại khỏe nhanh chóng thế đấy. Lúc em gái cậu mang cậu đến chỗ tôi, cậu vẫn còn sốt mê man trên vai cô ấy nữa kia.
 
Nghe Hữu Huân nói, Nguyễn Ánh nhíu mày. Anh hỏi, giọng có chút ngạc nhiên.
 
- Cún con đã mang tôi đến đây?
 
- Phải! Em gái cậu đã cõng cậu đến đây, bộ dạng khi ấy của cả hai trông vô cùng thê thảm. Đối với một cô gái nhỏ bé như em gái cậu, để cõng được cậu đến đây quả thật phải có một nghị lực phi thường. Khi đặt cậu xuống giường, dù đã kiệt sức nhưng cô ấy vẫn phải tận mắt nhìn tôi chữa trị cho cậu và bảo cậu không sao, thì khi đó mới chịu nghỉ ngơi. Mà sao cậu lại gọi em gái cậu là “cún con”, đó là tên nhà của cô ấy à.
 
Đáp lại lời Hữu Huân chỉ là sự yên lặng, Nguyễn Ánh không trả lời. Giấc mơ đêm qua vẫn còn đó, anh không quên, nhưng nó cũng đã không còn đè nặng trong tâm trí. Bầu trời xanh phủ mây trắng, đồng hoa lau trắng muốt trong chiều gió lộng, nơi ấy, vĩnh viễn chỉ thuộc về duy nhất một người.
 
- Đại phu, ông lầm rồi...
 
- Sao?
 
Lướt mắt về phía Linh Lan đang ngồi giặt đồ phía sau vườn, bờ môi mềm hé mở, mái tóc đen cột cao, tay áo xắn lên, miệt mài với những bộ đồ trong chậu. Bóng nắng lung linh soi vào đôi mắt anh. Nguyễn Ánh mỉm cười, gương mặt thanh tú dịu dàng trong nắng.
 
- Cô ấy là vợ tôi!

oOo

Nguyễn Lữ vô cùng lo lắng, suốt từ sáng tới giờ, ông hết đi tới đi lui trong phòng rồi lại ngồi xuống ghế, nhúng đầu bút lông vào nghiêng mực, tính viết, nhưng lại thừ ra vì chẳng biết nên viết như thế nào.

Kể từ khi cùng Nguyễn Huệ kéo quân vào Gia Định, tâm trạng của Nguyễn Lữ lúc nào cũng bực bội không yên. Suốt hai tháng qua, Tây Sơn tung quân tỏa ra khắp nơi để dò xét động tĩnh cũng như triệt hạ vây cánh của Nguyễn Ánh, thế mà hắn vẫn ung dung trở về, tập trung quân tại Đồng Tuyên và phân bố nhiệm vụ cho các tướng để chuẩn bị phản công Tây Sơn. Hai lần kéo quân là hai lần để xổng con cá lớn, nguyên nhân tất cả đều tại sự mềm yếu của em trai ông đối với cô gái họ Bùi trong đội nữ binh. Ở Gia Định, vì cô ta mà Nguyễn Ánh thừa cơ biến mất vào đám khói mù, còn trong trận Đồng Tuyên, nếu em trai ông không vì tình riêng thì với sự phong tỏa chặt chẽ đó, Nguyễn Ánh có mọc cánh cũng không thể thoát được. Hệ quả của hai thất bại liên tiếp đó là giờ ông không biết phải báo lại với vua anh như thế nào về tình hình Gia Định trong những ngày vừa qua.

“Dù bị dồn đến tình cảnh hiểm nghèo nhưng hắn ta vẫn luôn thoát ngay trước mũi Tây Sơn. Vậy cho nên không phải hắn đại bại mà là cho đến giờ, hắn luôn thắng. Hắn luôn thắng chúng ta”

Nguyễn Lữ hừ mũi khi nhớ đến những lời Nguyễn Huệ nói trước lúc xuất quân, cây bút trong tay ông trĩu nặng. Biết phải báo cáo thế nào với vua anh đây, nói rằng Nguyễn Ánh lại thoát một lần nữa cho dù Tây Sơn đã trực tiếp tấn công trước ư? Không thể được! Nguyễn Lữ xiết chặt cây bút lông. Chuyến xuất quân lần này vua anh đã tin tưởng anh em ông sẽ nhổ cỏ tận gốc nên mới thuận theo lời đề nghị nán lại Gia Định của Nguyễn Huệ. Nếu biết đến nay Nguyễn Ánh vẫn chưa bị bắt, nếu biết đến nay hai anh em ông vẫn còn phải truy lùng tin tức của hắn, thì anh trai ông chắc chắn sẽ nổi trận lôi đình ngay.

Dưới trướng Nguyễn Nhạc đã lâu, Nguyễn Lữ thừa biết tính cách của anh trai mình thế nào. Anh trai ông thận trọng, điềm đạm, đối với người trong nhà xuề xòa, có thể không giữ lễ vua tôi, nhưng một khi nổi giận thì rất khó kiềm chế. Lần này, nếu nhận được thư báo của ông, biết mọi chuyện không như những gì mình mong muốn, thì chắc chắn ông sẽ bị khiển trách. Mà sự khiển trách của anh trai đối với ông còn nặng nề hơn hình phạt gấp nhiều lần.

Sau một khắc đắn đo suy nghĩ, Nguyễn Lữ quyết định viết thư báo tin về cho Nguyễn Nhạc, với nội dung báo cáo quân số, lương thực, việc chiêu dân ở Gia Định và nói giảm, nói tránh khi đề cập đến tình hình Nguyễn quân. Từ trước tới nay, việc viết thư báo cáo gần như là một trách nhiệm mà Nguyễn Nhạc giao cho ông, thế nên, dù muốn dù không thì lá thư này sớm muộn vẫn phải hoàn thành.

Hài lòng với nội dung đã định sẵn, Nguyễn Lữ bắt đầu cắm cúi viết, nhưng vừa hí hoáy được một lúc thì Nguyễn Huệ đột ngột bước vào. Em trai ông đã đi lấy khẩu cung của những tướng sĩ bắt được tại trận Đồng Tuyên, chẳng biết có lấy được tin tức nào không mà nét mặt chẳng lộ chút cảm xúc nào. Gật đầu chào ông, Nguyễn Huệ ngồi xuống chiếc đôn kê sát góc phòng, tay rót chén trà rồi đưa lên miệng uống, thật lâu mà chẳng nói lời nào khiến ông sốt ruột vô cùng.

Từ hôm diễn ra trận đánh ở Đồng Tuyên đến giờ, Nguyễn Huệ như trở thành một người khác. Sự ấm áp quen thuộc, nói năng chừng mực của em trai ông đã biến mất, thay vào đó là sự lạnh lùng, thẳng thắn đến đáng sợ. Đối với những thay đổi chóng váng đó ban đầu Nguyễn Lữ còn ngạc nhiên, nhưng dần dà ông lại nảy sinh một cảm giác rất lạ. Trước đây, ông chỉ cho rằng thời gian đã hàn gắn những vết thương và làm bản tính con người trở nên thay đổi, nhưng càng ngày, sự thay đổi ấy càng làm ông phải suy nghĩ đến nhiều vấn đề.

Trong những năm trở lại đây, Nguyễn Huệ hoàn toàn không giống với Nguyễn Huệ xưa kia, mà lại có phần giống với Văn Bình - đứa em trai đã mất trong một tai nạn thương tâm của ông. Đột ngột, mấy hôm trước Nguyễn Huệ lại đổi khác. Gương mặt em ông luôn ngự trị một nét cười thách thức, cứ như thể thế gian này chỉ là tro bụi với nó, ánh mắt u tối hơn vực sâu, khiến người khác cảm thấy bất an. Giọng nói trầm, lạnh, đanh thép, lại pha chút giễu cợt người đối diện. Em trai ông luôn là một câu hỏi mơ hồ cho những ai muốn khám phá nó. Rốt cuộc, bí mật của em trai ông là gì? Tại sao lại có sự thay đổi lớn lao tới mức ông phải ngỡ ngàng đến nghi hoặc? Bao lần Nguyễn Lữ tự hỏi, rồi cũng tự trả lời bằng cách đổ cho thời gian...Thời gian! Câu trả lời thật khiên cưỡng, nhưng lại không biết phải tìm lời giải đáp nào cho thích hợp hơn.

- Chú tám, chú có tra được gì từ bọn Huỳnh Đức về Nguyễn Ánh không?

- Không!

Lâu thật lâu mà vẫn không nghe Nguyễn Huệ báo cáo lại gì, dù đó là trách nhiệm của anh, Nguyễn Lữ không nhịn nổi, ông buộc phải lên tiếng. Nghe ông hỏi, Nguyễn Huệ thản nhiên đáp. Rất gọn, không thêm gì hơn. Câu trả lời của anh làm đôi mày rậm của Nguyễn Lữ nhướng lên, tạo thành dấu ngã, dấu hiệu của sự không hài lòng. Ngước mặt nhìn đứa em trai ngồi bắt chân chữ ngũ trước mặt, Nguyễn Lữ cảm thấy xa lạ. Sự tự tin, ung dung ấy khiến ông không giấu nổi sự ngạc nhiên trong lời nói.

- Không là thế nào, chẳng lẽ chúng không hé răng lấy một lời sao? Bên cai ngục không dùng biện pháp nào để lấy được lời khai à?

- Chúng sẽ không phản bội Nguyễn Ánh! Nếu có phản bội thì từ kẻ khác chứ không phải những người này, cho nên có tra tấn cũng chẳng được ích gì.

Nói đến đây, bờ môi Nguyễn Huệ vẽ thành một nụ cười khó hiểu, đôi mắt sao băng thường ngày nay lạnh lẽo và tăm tối như đáy biển, nơi ánh sáng không thể soi đến. Bí mật cất giấu trong đôi mắt ấy vĩnh viễn sẽ chẳng ai tìm ra, trừ bản thân của người trong cuộc. Và dù muốn dù không, Nguyễn Lữ cũng không thể đọc được suy nghĩ của Nguyễn Huệ như cái cách em trai ông đã làm, đặc biệt vào hoàn cảnh này.

- Nếu đã không khai, vậy chú tính làm gì với chúng?

- Đơn giản! Chúng ta còn thiếu nhân lực trong việc tu sửa thành trì, pháo đài, đóng thuyền bè và xây dựng các trạm liên lạc với nhau. Thêm sức lao động thì công việc sẽ nhanh hơn, huống chi chúng đều là thanh niên khỏe mạnh.

Thấy Nguyễn Huệ không có ý định xử tử tướng lĩnh của Nguyễn Ánh, mà ngược lại, còn biến chúng thành tay chân của mình, Nguyễn Lữ trợn mắt kinh ngạc.

- Nhưng chúng là thuộc hạ của Nguyễn Ánh! Vả lại chú cũng đã nói chúng sẽ không phản bội hắn ta, chú có thể đảm bảo chúng sẽ không ngấm ngầm khích động quân lính hay dân chúng tạo phản, chống lại chúng ta? Chú có thể đảm bảo chúng sẽ không mật báo tin tức của chúng ta về cho quân Nguyễn? Chú có thể đảm bảo chúng sẽ không liên lạc với tàn quân còn lại của Nguyễn Ánh, nội ứng ngoại hợp để tấn công chúng ta hay sao?

Nguyễn Lữ nói một hơi không ngừng nghỉ. Ông càng nói, chất giọng càng đanh lại và cuối cùng thì như một tiếng quát, khiến hai người lính đứng bên ngoài phải giật mình. Không vội trả lời Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ lim dim mắt nhìn ông, hai tay bàn tay anh đan vào nhau, tư thế vô cùng thoải mái, tựa như không bận tâm lắm với những gì ông vừa nói. Sau vài phút để Nguyễn Lữ trấn tĩnh sự kích động, Nguyễn Huệ chậm rãi đáp lời.

- Quân Nguyễn Ánh sẽ không phản bội lại hắn ta, vậy chẳng lẽ quân Tây Sơn lại phản bội lại chúng ta? Sau trận Đồng Tuyên, quân Nguyễn giờ tan tác muôn phương, muốn tập họp lại cũng không phải một sớm một chiều. Hơn nữa, dù có liên lạc thì cũng sẽ là bên ngoài liên lạc đến bọn tướng lĩnh tù nhân, đó chẳng phải cũng là cơ hội cho chúng ta dò tìm tin tức đến hang ổ của chúng hay sao? Trong thời gian đó, chẳng lẽ Tây Sơn ta không đủ vững mạnh sao mà phải lo sợ vì vài tên tù nhân kích động? Là anh không có lòng tin vào lực lượng chúng ta sau hai lần để Nguyễn Ánh chạy thoát, hay là bọn chúng thật sự đáng lo ngại như lời anh nói?

Trả lời câu hỏi của Nguyễn Lữ lại là những câu hỏi khác của Nguyễn Huệ, và cái cách anh hỏi khiến ông vô cùng khó chịu, nhưng lại không thể phản biện bởi vì em trai ông nói đúng. Trước đây, ông và Nguyễn Huệ chưa bao giờ phải tranh luận to tiếng với nhau lần nào, bởi em trai ông luôn biết dừng đúng lúc mỗi khi cả hai bất đồng ý kiến. Nhưng dạo gần đây, đặc biệt là lần này, Nguyễn Huệ không hề có ý định nhường ông. Cả hai thường xuyên tranh cãi, nhưng lần nào ông cũng là người thua cuộc vì lời lẽ sắc bén của Nguyễn Huệ. Em trai ông tinh tế, đọc được suy nghĩ người khác, giỏi bắt bẻ lời nói, lại toàn những vấn đề chạm vào lòng tự ái của ông, khiến ông cảm thấy trong Tây Sơn, mình chỉ có quyền mà không có hành.

- Hay cho câu “hai lần để Nguyễn Ánh thoát”. Chú tám! Chú xem lại đi, là ai đã để cho hắn ta thoát. Trong trận Đồng Tuyên, nếu không phải vì chú lo cô gái đó bị Nguyễn Ánh làm hại, thì bây giờ ta đã có thể hãnh diện báo cho vua anh tin thắng trận, chẳng phải sao?

Những lời cuối cùng của Nguyễn Lữ vừa thốt ra, đôi mắt Nguyễn Huệ chợt thẫm lại. Vẫn tư thế bắt chân chữ ngũ, hai tay đan vào nhau, nhưng từ người anh toát ra một luồng khí lạnh lẽo, gương mặt phong sương băng giá, đôi mắt u tối nhìn xoáy vào Nguyễn Lữ không khoan nhượng. Cái nhìn vừa mạnh mẽ, vừa dữ dội, có thể làm người khác đông cứng chỉ bằng một ánh mắt uy quyền ấy khiến Nguyễn Lữ giật mình. Trước sự hoang mang trên nét mặt Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ nhếch môi, tạo thành một nét cười.

- Phải! Chỉ vì cô gái đó nên Nguyễn Ánh mới có thể chạy thoát. Cô gái đó rất quan trọng, rất quan trọng...

Nguyễn Huệ chỉ nói đến đó rồi bỏ lửng, từng ngón tay gõ lốc cốc trên thành ghế, ánh mắt đen thẫm, thành thử Nguyễn Lữ không biết câu tiếp theo anh muốn nói gì. Ban nãy, nhắc đến trận Đồng Tuyên, cơn giận của ông lại bùng phát. Chung quy cũng chỉ tại Nguyễn Huệ vì tình riêng, cầm vàng còn để vàng rơi, hại ông không biết phải báo tin thế nào với vua anh. Những tưởng rằng Nguyễn Huệ sẽ phản bác lại lời ông nói, Nguyễn Lữ tính bồi thêm hai ba câu nữa cho hả cơn giận, ai ngờ em trai ông thẳng thắn nhận lỗi khiến ông mất hứng, lại thêm ánh mắt rực lửa ấy làm ông chẳng còn lòng dạ nào ngồi hạch sách chuyện cũ. Cơn giận trong đầu xẹp xuống, Nguyễn Lữ rảo bước về phía lá thư đang chờ được hoàn thành trên bàn, ông thở dài.

- Ta đang viết thư báo cáo tình hình Gia Định cho Thái Đức hoàng đế, mong rằng...

Lời Nguyễn Lữ còn chưa nói hết, Nguyễn Huệ đã đột ngột đứng dậy, tiến về phía ông. Liếc nhanh qua dòng chữ đen còn chưa ráo mực, anh vươn tay chụp lấy lá thư, rồi bất ngờ xé toạt. Trong đôi bàn tay rộng lớn của Nguyễn Huệ, tờ giấy hóa thành hàng trăm mảnh nhỏ. Đưa đám giấy vụn lên ngọn đèn đốt cháy, những mảnh vụn bén lửa, lả tả bay như những cánh bướm đỏ khi có cơn gió nhẹ thổi vào phòng. Trong phút chốc, tờ giấy đã trở thành hư không.

- Đó là là thư ta sẽ gởi cho Thái Đức hoàng đế, sao chú dám làm thế?

Trước hành động to gan và đột ngột của Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ đứng bật dậy, quát lớn. Đôi mắt ông xuất hiện những tia máu đỏ ngoẳn nghèo, bàn tay tạo thành nắm đấm, nện mạnh lên chiếc bàn tre ọp ẹp. Hứng chịu cơn thịnh nộ của Nguyễn Lữ, chiếc bàn tre rên lên thảm thiết, rồi nhanh chóng đổ sụm xuống đất. Nhìn mu bàn tay rỏ máu của Nguyễn Lữ khi dằm tre đâm vào, đôi mày rậm dính hẳn vào nhau, Nguyễn Huệ chẳng biểu lộ cảm xúc nào. Lướt mắt lên đống tro tàn của lá thư rơi vãi trên sàn, rồi lại dời mắt đến gương mặt đỏ bừng vì giận của Nguyễn Lữ, ánh mắt đen thẫm, tăm tối của anh khiến ông toát mồ hôi. Với ánh mắt ấy, em trai ông đang nhìn thấu mọi suy nghĩ của ông.

- Anh đã biết Thái Đức hoàng đế chắc chắn nổi giận khi biết được tình hình Gia Định, vậy còn báo về làm gì? Trước khi xuất quân, em đã đề nghị được ở lại Gia Định để nhổ cỏ tận gốc, vua anh miễn cưỡng đồng ý chứ thực tâm không muốn chúng ta đóng quân ở đây quá lâu. Nếu báo việc hai lần đễ Nguyễn Ánh thoát, vua anh nhất định sẽ lấy đó làm lý do để triệu chúng ta trở về. Sau hai lần bị đánh tan, quân Nguyễn giờ đây đã phân rã, tướng sĩ bị bắt. Chúng ta đã cho người truy đuổi, bao vây khắp mọi ngõ ngách và xiết chặt mọi con đường thoát thân của Nguyễn Ánh. Nếu bị triệu về lúc này thì những gì đã làm trong hai tháng qua thật uổng phí, ta sẽ lại cho Nguyễn Ánh cơ hội và thời gian trỗi dậy, khả năng tập họp và tổ chức lại quân đội. Việc báo tin chúng ta sẽ làm, nhưng không phải lúc này.

Mặc dù cơn giận vẫn còn đang hoành hành vì Nguyễn Huệ to gan xé nát bức thư khi chưa có sự cho phép của mình, nhưng Nguyễn Lữ vẫn đủ tỉnh táo để nhận ra rằng em ông nói đúng. Tây Sơn đang ráo riết khép chặt vòng vây trong việc truy sát Nguyễn Ánh, nếu bị vua anh triệu về lúc này, chuyện trách phạt chỉ là chuyện nhỏ, nhưng chuyện tạo cơ hội cho Nguyễn Ánh vùng dậy lại là chuyện lớn. Hai tháng vất vả đóng đô ở Gia Định đang đứng trước nguy cơ xôi hỏng bỏng không.

Nhưng dù nghĩ tường tận như thế, Nguyễn Lữ vẫn không thể không tức giận. Em trai ông táo bạo đến mức giật lấy lá thư ông đang viết mà đem xé và đốt đi. Quyền huynh thế phụ, Thái Đức hoàng đế không có ở đây thì đáng ra Nguyễn Huệ phải vâng lời ông, phải phục tùng ông, vậy mà tại sao em trai ông lại hoành hành bá đạo, không biết tôn ti trật tự là gì như vậy chứ?

- Thưa tiết chế, tướng quân, quân truy kích báo tin về, họ đã lục soát hết ven sông mà vẫn không thấy tung tích của Nguyễn Ánh đâu cả.

Đang trong cơn tức giận, lại nghe viên lính Tây Sơn vừa mới đến báo tin về, cơn giận trong đầu Nguyễn Lữ chẳng khác nào được đổ thêm lửa. Đôi vai bè rung lên vì giận, ông vung tay về phía tên lính, quát lớn.

- Vậy thì tăng thêm người, mở rộng vùng tìm kiếm đến thượng và hạ lưu, tiếp tục truy cho đến khi nào bắt được hắn thì thôi!!!

Thấy đôi mắt Nguyễn Lữ đỏ ngầu do tức giận, tên lính Tây Sơn run bắn. Trong khi hắn ta còn đang ấp úng vì sợ, thì Nguyễn Huệ đã cướp lời.

- Không cần! Báo lại cho các đô đốc rằng lệnh truy tìm đã được hủy, nhanh chóng thu quân về để tiến hành kế hoạch khác.

Quắc mắt nhìn Nguyễn Huệ, râu tóc Nguyễn Lữ như dựng ngược lên khi anh thản nhiên hủy lệnh mình vừa ban bố. Xoay người về phía Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ nhìn ông. Đôi mắt tối và lạnh của anh lóe lên tia sáng, như những chiếc thuyền thắp đèn đi câu mực trong đêm.

- Anh cho rằng Nguyễn Ánh vẫn còn quanh quẩn ở đó sao? Thật phí công!

- Hay lắm! Chú càng ngày càng không coi ta ra gì. Được! Nếu không làm thế thì phải làm thế nào, chú nói ta nghe?

Nguyễn Lữ gằn từng tiếng, ông tiến sát lại gần Nguyễn Huệ, nhìn xoáy vào mắt anh như muốn tìm kiếm con người thật sự của em mình. Không né tránh ánh mắt ấy, Nguyễn Huệ để mặc cho Nguyễn Lữ dò xét từng ngóc ngách trong tâm hồn. Môi anh mấp máy tính nói gì đó, nhưng kịp thành lời thì ngừng lại, nghe người lính đang quỳ bên dưới rụt rè thưa.

- Dạ... dạ bẩm..., còn... còn một chuyện nữa, đó là thủ lĩnh Đông Sơn quân xin được yết kiến. Ông ta đang chờ ở góc lầu phía tây.

Nguyễn Lữ quay phắt người lại, ông nhìn đăm đăm vào mặt tên lính khiến hắn vội vã cúi đầu xuống, sẵn giọng.

- Hắn đến đây làm gì?

- Dạ thưa...

- Em đã chủ động mời hắn đến đây.

- Để làm gì?

- Để bàn chuyện hợp tác!

Nguyễn Huệ vừa nói vừa nhếch môi, đủ để tạo thành một nét cười lửng lơ. Không đợi Nguyễn Lữ nói thêm tiếng nào, anh quay người bước ra ngoài, những bước chân sải dài hướng đến góc lầu phía tây, nơi thủ lĩnh Đông Sơn quân đang đợi. Nhìn theo bóng Nguyễn Huệ khuất dần phía xa, đôi mày của Nguyễn Lữ xoắn lại. Lúc trước, chính Nguyễn Huệ là người đã từ chối lời đề nghị hợp tác của Đông Sơn quân, nay cũng lại chính anh chủ động mời chúng đến để nối lại chuyện hợp tác. Sự thay đổi nắng mưa thất thường ấy khiến Nguyễn Lữ nghi hoặc.

Trước đây, Nguyễn Huệ còn có một người anh sinh đôi là Văn Bình. Hai anh em thân với nhau đến nỗi ngay cả ông và Nguyễn Nhạc cũng không thể chen chân vào mối quan hệ của họ. Cách biệt tuổi tác và việc trưởng thành ở xa gia đình từ bé đã khiến cho tình cảm của Nguyễn Huệ và Văn Bình rất gắn bó với nhau, nhưng tình còn huynh đệ giữa ông và Nguyễn Nhạc đối với cặp sinh đôi này lại nhạt nhòa, tưởng chừng như không có. Văn Bình điềm đạm, mềm mỏng, lễ phép, biết tiến lui đúng lúc, ngược lại, Nguyễn Huệ thì ngang ngạnh, thẳng thắn, không kiêng nể một ai, ngoại trừ Văn Bình. Nhưng cho dù trái ngược về tính cách, cả hai lại rất ăn ý với nhau đến nỗi, ngay cả ông cũng vẫn khó mà nhận ra đứa nào là anh, đứa nào là em.

Thời gian trôi qua, hai anh em ngày càng gắn bó thân thiết. Chúng làm gì cũng có nhau, ngay cả trên chiến trường cũng sát cánh đồng hành. Văn Bình nổi tiếng là người tốc chiến tốc thắng, còn Nguyễn Huệ thì rất giỏi trong việc vạch định kế sách. Lẽ ra, chúng sẽ mãi là một cặp đôi ăn ý nếu như Văn Bình không mất trong một tai nạn thương tâm, để lại một mình Nguyễn Huệ. Có lẽ vì Văn Bình là người quan trọng nhất đối với Nguyễn Huệ, thế nên trước cái chết của Văn Bình, Nguyễn Huệ đã chịu đả kích rất mạnh, đến nỗi không thể nào chấp nhận được. Từ một người ngang tàng, ngạo nghễ, Nguyễn Huệ trong thoáng chốc đã thay đổi, trở thành một người điềm đạm, mềm mỏng, hệt như Văn Bình. Nhìn thấy những biến đổi đó, bản thân Nguyễn Lữ cũng thấy rất lạ lẫm, nhưng rồi năm tháng trôi qua, ông cũng quen dần với chuyện ấy. Đó có lẽ là cách mà Nguyễn Huệ giữ cho anh mình luôn sống, khi chẳng thể chấp nhận được sự ra đi của Văn Bình.

Nếu mọi chuyện chỉ có thế thì ông sẽ không phải bận tâm, điều đáng nói ở đây là dạo này, Nguyễn Huệ lại thay đổi, thay đổi một cách chóng vánh. Sự dịu dàng, điềm đạm biến mất, thay vào đó là sự ngang tàng, lạnh lùng hệt như xưa. Chẳng lẽ giờ đây em ông đang trở lại là chính mình, với những cá tính cách thật sự của mình, hay là nó đang che giấu một chuyện gì đó rất lớn mà không ai biết? Nguyễn Lữ tự hỏi, song rồi cũng tự lắc đầu. Chuyện gì đã xảy ra thì không một ai biết, chỉ có bản thân ông là thấy khó hiểu trước đứa em ngày càng xa cách của mình mà thôi...

------------------------
Chú thích:
(*) : Định vương Nguyễn Phúc Thuần, chú ruột của Ánh, bị bắt khi Tây Sơn truy kích đến Long Xuyên, đưa về Gia Định và hành quyết ở chùa Kim Chương năm 1777, thọ 23 tuổi
(**) : Tân Chính vương Nguyễn Phúc Dương, em họ Ánh, bị bắt ở Ba Vát [Vĩnh Long], đưa về Gia Định và hành quyết cùng Định vương năm 1777.
(***) : - Cha Ánh là Nguyễn Phúc Luân, bị quyền thần Trương Phúc Loan hại, giam vào ngục, bệnh chết trong đó năm 1765 [Ánh 3 tuổi].
- Đại huynh là Phúc Hạo làm cai cơ, đánh nhau với Tây Sơn chết trận.
- Nhị huynh là Phúc Đồng, làm Đội trường, hộ giá Định vương Phúc Thuần. Năm 1777 cũng bị Tây Sơn giết ở Long Xuyên.
- Ngũ đệ Phúc Mân, đồn Giác Ngư thất thủ, chạy qua cầu phao thì bị Tây Sơn chặt cầu phao làm chết đuối năm 1783 [trong Sương là bị giết đó các bạn, coi lại các chap trước]

[cái này bạn beta nhiều chuyện, năm 1783 này, Ánh còn mất thêm 1 ng' cháu gọi bằng bác là Tôn Thất Cốc, 1 hoàng cô là trưởng công chúa Ngọc Chú, lục đệ Phúc Điển, ng' anh em ruột cuối cùng của Ánh, và anh rể lớn là cai cơ Lê Phước Điển =.=. Số Ánh thiệt là hưởng. Cái này là mới tính trong năm mình đang nói, 1783 thôi, về sau còn nhiều]



★ Chương 104

Dù chỉ mới lưu lại nhà Hữu Huân mấy hôm, nhưng một là nhờ vị thầy thuốc tận tâm, hai là nhờ Linh Lan không ngại tốn công chăm sóc, vết thương của Nguyễn Ánh đã kéo da non và bắt đầu hồi phục, điều đó khiến Linh Lan như trút được mối lo ngại trong lòng.
Sỡ dĩ Linh Lan không còn lo ngại nữa là vì tính mạng của Nguyễn Ánh đã không còn nguy hiểm. Anh còn tức lịch sử còn, mà lịch sử còn thì người thân của nó cũng sẽ tồn tại khỏe mạnh. Dù bụng đã hết lo, nhưng để cho chắc ăn, Linh Lan quyết định lưu lại bên cạnh Nguyễn Ánh hai, ba hôm nữa, đợi vết thương của anh lành hẳn rồi nó mới tìm cách quay trở về Tây Sơn sau.

Trong thời gian chờ vết thương của Nguyễn Ánh lành lại, việc chăm sóc thuốc thang cho anh Linh Lan chẳng nề hà gì, điều duy nhất nó phiền lòng là không biết anh đã nói thế nào với Hữu Huân mà ông cứ gọi nó là vợ Nguyễn Ánh, mặc cho nó thanh minh hết lời. Để tiện cho đôi “vợ chồng son” mới cưới, Hữu Huân đã kín đáo nhường lại chiếc giường độc nhất cho anh và nó, còn mình thì ra hẳn ngoài hiên mà nằm hứng gió trời. Nếu như là chuyện khác thì có lẽ Linh Lan sẽ rất biết ơn sự lịch sự của ông, nhưng trong chuyện bất đắc dĩ này thì nó chỉ có nước than trời.

Do Nguyễn Ánh đang mang thương tích nên Linh Lan nhường lại chiếc giường cho anh, còn thân mình thì trải rơm kế bên mà nằm. Khí trời đêm trở lạnh, chiếc chăn lại khá mỏng, nền nhà thì lồi lõm, kết quả là sáng ra hai vai của Linh Lan mỏi nhừ, người thì rêm lên bởi cả đêm không sao ngủ được. Suốt cả ngày hôm đó, hai mắt Linh Lan thâm quầng, thậm chí lúc giặt đồ nó còn ngủ gục vì mệt mỏi, làm Hữu Huân cứ lâu lâu lại nhìn nó rồi tủm tỉm cười, mà ông cười gì thì có trời biết...

Tình trạng mệt mỏi bởi không ngủ được của Linh Lan chỉ kéo dài một ngày, đến sáng ngày thứ hai, khi tỉnh dậy thì nó đã thấy mình nằm trên giường,lại còn trong lòng Nguyễn Ánh từ bao giờ. Ban đầu, Linh Lan rất tức giận vì rõ ràng tối qua nó còn nằm ở dưới đất, nhưng bao giờ cũng thế, mỗi khi thức dậy là tình trạng cũ lại tiếp diễn, khiến nó vô cùng bực mình.

- Nguyễn Ánh, tôi hỏi anh, tại sao sáng nào tôi cũng ngủ trên giường trong khi tối qua rõ ràng tôi đã nằm ở dưới đất hả?

- Là tôi mang cô lên.

- Tại sao? - Linh Lan ngớ người ra khi Nguyễn Ánh thản nhiên trả lời - Tôi không cần anh lo. Tôi ngủ đâu cũng được, cần anh quan tâm làm gì chứ?

- Tôi đâu quan tâm tới cô!

Nguyễn Ánh đưa mắt nhìn Linh Lan, trong ánh mắt anh hiện rõ sự mỉa mai không che giấu, môi lại còn điểm nụ cười chế giễu khiến Linh Lan nóng mặt, la lớn.

- Được! Nếu vậy thì lần sau tôi ngủ ở đâu thì làm ơn cứ để mặc tôi ngủ ở đó!

- Không được!

- Sao không? - Nghe Nguyễn Ánh điềm nhiên trả lời, Linh Lan cau mày. Anh đã nói không quan tâm tới nó mà lại không cho nó ngủ đâu tùy thích dù không liên quan tới anh, thế nghĩa là làm sao đây?

- Bởi vì chúng ta là vợ chồng.

- Cái gì? - Linh Lan trợn mắt lên. Sực nhớ ra mình đã quá lớn tiếng, nó vội hạ giọng xuống, nhấn mạnh từng lời - Chúng ta không phải vợ chồng, cùng lắm chỉ là danh nghĩa anh em thôi, không gì hơn.

- Với cô là anh em, với tôi là vợ chồng. Nhưng cho dù là gì đi chăng nữa thì chuyện chồng lại để cho vợ ngủ dưới đất, hay anh trai nằm ngủ trên giường trong khi em gái co mình trên đống rơm cũng không thuận mắt với người ngoài. Khi nào cô còn ngủ dưới đất, tôi vẫn sẽ mang cô lên giường, nếu không muốn thế thì đừng ngủ.

Trước phản ứng của Linh Lan, Nguyễn Ánh chỉ nhếch môi, chẳng rõ là đang cười hay đang chế giễu. Ngược lại, Linh Lan thì tức muốn nổ đom đóm mắt khi anh thản nhiên tuyên bố như thế. Nhưng dù có tức giận cách mấy, Linh Lan cũng đủ ý thức để biết rằng Nguyễn Ánh đã nói là làm, và anh đã tuyên bố thế thì dù nó có nằm ngủ ở đâu, anh cũng sẽ mang nó về giường, họa hoằn chăng là nó thức suốt, không ngủ mà thôi.

Chính vì lời Nguyễn Ánh nói, cho nên Linh Lan dù uất ức nhưng cũng thôi không nằm dưới đất nữa, nó cũng không thèm để ý đến anh nữa mà tự động leo lên giường, nằm sát vách, tránh Nguyễn Ánh càng xa càng tốt và nhắm mắt ngủ một giấc cho đến sáng mai. Chẳng biết là cái tật khi ngủ phải ôm gối của Linh Lan có cải thiện được chút nào không, mà sáng nào nó cũng chết điếng khi thấy mình nằm trong lòng Nguyễn Ánh ngủ say sưa. Ngày qua ngày, chuyện đó vẫn cứ tiếp diễn, riết đến nỗiLinh Lan không còn bận tâm về nó nữa. Đơn giản, đối với nó, anh là một cái gối ôm không hơn, thế thôi.

Hôm nay đã là ngày thứ năm lưu trú tại đây. Trời nắng đẹp, Linh Lan dậy thật sớm. Tiếng chim hót líu lo, gió hây hây thổi cũng khiến tâm trạng nó phấn chấn lên nhiều. Hữu Huân đã dậy từ bao giờ, ông đang thổi cơm, nấu thuốc, những làn khói cuộn lên, thoát khỏi mái nhà tranh và tan vào bầu trời mây trắng. Phía sau nhà, Nguyễn Ánh đang chẻ củi để đun nước nấu trà. Nhìn anh, sẽ chẳng ai cho rằng đây là vị chúa Nguyễn đang bị Tây Sơn truy lùng ráo riết, ngoại trừ cái phong thái kiêu ngạo hiếm có vẫn không thay đổi. Khung cảnh thanh bình, yên ả đó khiến Linh Lan bất chợt mỉm cười. Gian khổ bao ngày thế là đã đủ, hôm nay nó phải đi bắt cá để bồi bổ sức khỏe cho Nguyễn Ánh và trả công Hữu Huân thôi.

Hài lòng với quyết định đó, Linh Lan quày quả xách chiếc giỏ đan bằng lạt bước ra ngoài. Trông thấy nó hăm hở, Hữu Huân bắc nồi gạo lên bếp lò hỏi với theo bằng giọng ngạc nhiên.

- Cô nhà đi đâu thế?

- Cháu ra ngoài kiếm đồ ăn chú ạ - Cố phớt lờ hai chữ “cô nhà” của Hữu Huân, Linh Lan mỉm cười - Mấy hôm nay chỉ toàn rau cháo, ít ra cũng phải có gì để thay đổi chứ.
- Ái chà! Cậu Phúc quả là có cô vợ đảm đang nhỉ!

Hữu Huân quay ra sân sau nháy mắt với Nguyễn Ánh. Khi ông hỏi tên, Nguyễn Ánh đã nói rằng anh tên Phúc, lấy từ tên Phúc Ánh, còn Linh Lan thì dù xưng tên gì thì ông cũng gọi nó là “cô nhà” hay “vợ cậu Phúc”, cho dù nó đã giải thích hàng trăm lần. Vừa rồi, nghe Hữu Huân khen mà Linh Lan chẳng thể vui được, nó liếc Nguyễn Ánh, vừa hay đúng lúc anh nhìn nó. Ánh mắt nâu dịu dàng, lại lấp lánh sự chế giễu làm Linh Lan quay mặt đi, chân bước nhanh theo hướng bờ sông vì không muốn phải nghe Hữu Huân khen tiếp chuyện “vợ chồng son mặn nồng”.

Đường ra bờ sông không quá xa, Linh Lan chỉ đi độ nửa tiếng là đã tới. Khúc sông này có khá nhiều bụi tre um tùm, Linh Lan chọn một thân tre đường kính vừa bằng bàn tay nắm lại rồi bắt đầu dùng rựa chặt. Sau mấy chục nhát, thân tre rung rinh, từng chiếc lá nảy lên bần bật rồi đổ nhào xuống đất. Không chậm trễ, Linh Lan tước hết phần cành lá rồi chẻ đầu tre ra làm tám phần, dài độ hai phần ba gang tay. Sau đó, nó dùng thanh tre nhỏ cố định để tám thanh ấy tách nhau ra rồi bắt đầu vót nhọn từng đầu. Thế là nó đã có được một cây chĩa để bắt cá ngon lành.

Ngắm nghía cây chĩa bắt cá như ý, Linh Lan hài lòng, ít ra nó đã nhớ và làm theo đúng hướng dẫn của Anh Tú khi ba cha con đi cắm trại, giờ chỉ còn xem bao nhiêu chú cá xấu số ngày hôm nay thôi. Xắn tay áo lên cao, Linh Lan bước xuống dưới nước. Trước đây, khi cả nhà đi cắm trại, Linh Lan do không biết bơi nên chỉ ở trên bờ nhóm lửa. Lúc ấy, Linh Lan chỉ việc ngồi ăn cá do cha và anh nướng cho, còn bây giờ đích thân ra trận, Linh Lan mới cảm thấy việc bắt cá chẳng dễ như nó đã tưởng.

Chẳng biết là do Linh Lan hậu đậu, hay do cá ở dòng sông này đều đã thành tinh mà nó lay hoay hoài cũng không đâm trúng con nào. Nước ở khúc sông này trong vắt, lại chẳng sâu, có thể thấy cá bơi lội tung tăng, và dù Linh Lan đã ngắm thật kỹ lưỡng trước khi phóng chĩa xuống, nhưng nó vẫn chậm hơn con cá một nhịp. Con cá vẫn luồn lách kịp và bơi nhởn nhơ trước ánh mắt bất lực của Linh Lan. Cứ mỗi lần phóng cây chĩa xuống, nước lại bắn lên tung tóe, hết lần này đến lần khác, cả người Linh Lan ướt sũng, hai bàn tay phồng rộp lên nhưng cá thì vẫn chưa bắt được con nào.

Mặt trời đã bắt đầu lên cao, Linh Lan cực chẳng đã phải trở lại bờ, nó tựa lưng vào gốc cây thở dốc. Nhìn dòng sông nước lấp lánh, Linh Lan chán nản. Ý định bắt cá đã nguội dần trong tâm trí nó, nhưng nếu quay về nhà Hữu Huân mà không có gì trong tay Linh Lan cũng cảm thấy ngại phần nào. Sực nhớ đến những trái dâu đất mà lúc trước nó đã hái ăn, đôi mắt Linh Lan sáng lên, nó vội vàng bật dậy và chạy vào rừng cây, lòng mong sẽ lại tìm được thứ trái cây ngọt dịu ấy để mang về nhà.

Rừng cây nhập nhòa ánh nắng, Linh Lan đi mãi, đến lúc nó tưởng chừng như loại cây này chẳng tồn tại thì những chùm trái vàng nhạt, đung đưa trên cao lại hiển hiện ngay phía trước, khiến Linh Lan mừng rỡ, quên hết cả cái mệt trong người. Lần này Linh Lan không chọi đá nữa mà dùng ngay cây chĩa để khều trái. Có dụng cụ hỗ trợ, Linh Lan làm nhanh hơn nhiều, chỉ loáng một cái là trái rơi rào rào xuống đất, nó chỉ việc nhặt lấy cho vào rổ, lòng sung sướng vì ít ra chuyến đi này cũng chẳng đến nỗi tay không trở về.
Ôm rổ dâu lần ra khỏi rừng cây, Linh Lan chợt nhớ tới lần Nguyễn Ánh đã chia dâu cho nó. Dù hơi phật lòng vì phần trái của anh nhiều hơn, nhưng nó vẫn để ý rằng dường như những trái bên Nguyễn Ánh có vỏ trơn, mượt hơn của nó. Chau mày suy nghĩ, Linh Lan lấy một quả dâu đất da trơn tương tự đưa lên miệng ăn. Phì một tiếng, Linh Lan thả vội trái dâu xuống đất, vị chua gắt đọng lại đầu lưỡi khiến nó nhăn mặt. Lựa trái dâu thứ hai, Linh Lan cẩn thận đưa lên miệng nếm, lần này, trái dâu lại ngọt, rất ngọt, hệt như những trái dâu mà Nguyễn Ánh đã chia cho nó.

Trong phút chốc, Linh Lan yên lặng, đôi mắt nó mông lung, rổ dâu trên tay rung nhẹ. Thì ra Nguyễn Ánh đã biết những trái dâu da trơn mượt rất chua, nên mới gom hết số dâu lại lựa và nhường những trái ngọt nhất cho nó. Linh Lan ngước nhìn lên bầu trời xanh, lòng thật sự không hiểu nổi Nguyễn Ánh là người như thế nào. Anh chính là người đã muốn giết chết nó, nhưng cũng chính anh lại là người đã cứu nó, nhường cho nó những gì ngon nhất. Tại sao? Nguyễn Ánh, tại sao vậy?

Linh Lan thẫn thờ tự hỏi, nhưng sự thẫn thờ ấy chỉ diễn ra trong thoáng chốc. Nó nắm chặt cây chĩa, đôi mắt ánh lên sự quyết tâm. Ôm lấy rổ dâu đất trong tay, Linh Lan tiếp tục bước, nhưng lần này bước chân của nó nó rẽ hướng về phía bờ sông, nơi những con cá béo mẫm bơi lội giữa dòng nước xanh trong.

oOo

Nguyễn Ánh ngồi trước cửa, tay anh cầm chén trà nhưng mãi vẫn chưa uống một giọt nào. Cơm nước đã xong xuôi đâu đó, vậy mà đến giờ bóng dáng Linh Lan vẫn biệt tăm, khiến Hữu Huân sốt ruột, luôn miệng lo lắng có chuyện gì đã xảy ra cho Linh Lan rồi.
Đưa mắt nhìn ra tàn cây xanh bên ngoài, Nguyễn Ánh không phản ứng khi Hữu Huân thúc giục anh đi tìm Linh Lan. Cô gái ấy không gặp nguy hiểm, anh là người biết rõ chuyện ấy hơn ai hết, còn lý do tại sao cô ta mãi vẫn chưa quay trở về thì Nguyễn Ánh không thích nghĩ đến. Ngẫm cũng kỳ lạ, dù anh không bao giờ muốn nghĩ tới chuyện Linh Lan sẽ rời khỏi anh, nhưng những suy nghĩ ấy cứ hiện lên trong đầu anh, và anh không có cách nào kiểm soát chúng trong những giấc mơ của mình.

Đêm nào cũng thế, mỗi khi ôm Linh Lan vào lòng, Nguyễn Ánh đều ôm rất chặt, nhưng dù ôm chặt đến đâu anh vẫn cảm thấy không đủ. Anh biết, chỉ cần nới lỏng tay, cô gái ấy nhất định sẽ biến mất. Dù biết thế, nhưng anh lại không quan tâm Linh Lan đi đâu và làm gì, anh chỉ cần khi mở mắt ra là nhìn thấy gương mặt trái xoan bướng bỉnh, chỉ cần vươn tay ra là có thể ôm được tấm thân bé nhỏ ấy vào lòng. Anh không quan tâm cô gái ấy là ai, là người bên phe nào, mà chỉ cần sự dễ chịu, bình yên mà cô gái ấy mang đến cho anh. Hôm nay, nếu cô gái ấy không quay trở về, nếu cô ấy mãi mãi rời xa anh, nếu cô ấy trở thành điểm yếu của anh và nếu vì cô ấy mà tình cảm của anh bất tuân lý trí, thì anh sẽ không do dự gì mà....

Nguyễn Ánh nhìn bóng mình qua chén trà, đôi mắt trong suốt của anh có một vệt tối. Anh nhếch môi, xòe lòng bàn tay, nơi có một vết sẹo rồi mỉm cười.

... giết chết người con gái anh yêu bằng chính đôi tay này.

Có tiếng Hữu Huân mừng rỡ, có tiếng bước chân giẫm lên những chiếc lá khô, Nguyễn Ánh chậm rãi ngẩng đâu lên. In trong đôi mắt anh là bóng dáng bé nhỏ ướt sũng nước của Linh Lan, trên tay là một rổ dâu cùng hai con cá. Thấy Hữu Huân và Nguyễn Ánh trước ngưỡng cửa, Linh Lan giơ cao hai con cá lên, nét mặt lộ vẻ đắc thắng, những giọt nước từ tóc rỏ xuống được ánh nắng chiếu vào khiến toàn thân Linh Lan như bừng sáng. Chén trà xao động, đôi mắt nâu lấp lánh, trái tim Nguyễn Ánh chợt nhẹ bỗng, từng ngón tay nắm chặt chén trà được nới lỏng, anh thở nhè nhẹ. Cún con của anh đã trở về.

Vừa bước vào nhà, Linh Lan xin lỗi Hữu Huân rối rít vì đã về trễ, sau đó ra sau bếp để nướng cá. Ngồi trong nhà, Hữu Huân bất giác nuốt nước bọt khi mùi cá nướng tỏa ra, thơm lừng cả gian nhà tranh. Bữa ăn hôm nay ngoài món rau luộc chấm mắm ruốc, thêm cá nữa là đã quá thịnh soạn. Hữu Huân không cần phải đợi lâu, lụi hụi một lúc ở góc bếp, Linh Lan đã mang hai con cá nướng lên. Ngay khi vừa nhìn thấy hai con cá cháy... đen thui trên lớp lá chuối, Hữu Huân chẳng biết nên khóc hay cười. Trong tất cả các món, nướng cá là dễ nhất, ấy thế mà cô gái này lại nướng cháy đến khét lẹt cả. Dù nghĩ thế, nhưng ông không đành nói ra khi trông thấy gương mặt lem luốc vì khói hun của Linh Lan đang rất tươi. Biết cô gái này bắt được cá chẳng dễ dàng gì, Hữu Huân không nỡ nặng nhẹ, hơn nữa, tuy có cháy nhưng cũng không đến nỗi phải bỏ đi, chỉ cần cạo phần cháy đen đi thì vẫn có thể ăn được như bình thường.

- Cô nhà cậu lạ thiệt, nướng cá mà không làm sạch cá sao?

- Ơ!... Cháu tưởng cá nướng thì phải nguyên con...

Trước câu trả lời thật thà của Linh Lan, Hữu Huân trố mắt. Ông liếc mắt nhìn Nguyễn Ánh rồi lại nhìn xuống mâm thức ăn, tủm tỉm cười và hỏi.

- Mà sao chỉ có hai con cá thôi, chúng ta có ba người mà, hay là cô cậu dùng…

- Không! Cháu... không thích ăn cá, cho nên chỉ bắt hai con thôi. Không sao. Chú cứ ăn đi.

Linh Lan nói dối khi Hữu Huân hỏi, nó không dám nói thật rằng vật lộn cả buổi sáng mà chỉ bắt được hai con trong khi cá lội tung tăng dưới sông. Lướt mắt nhìn lên mâm cơm, Linh Lan có hơi thất vọng. Trong tất cả các món, nó ghét trứng chiên nên chỉ có thể ăn rau cải và mắm ruốc. Không để lộ sự thất vọng ra mặt, Linh Lan ngồi xuống ghế, tay thoăn thoắt bới cơm cho cả ba rồi bắt đầu gắp ăn. Vừa mới ngửi thấy mùi ruốc, Linh Lan mím môi lại bởi vì mùi mắm... khá tanh, trong khi nó không thể chịu được mùi tanh vì rất khó ăn. Đã lỡ gắp vào chén, không thể lấy ra, Linh Lan đành nhắm mắt nhắm mũi lùa cơm vào miệng. Mùi tanh của ruốc sộc lên mũi, khiến nó nhăn mặt nhưng cũng không còn cách nào khác đành nuốt xuống cho êm.

Trong khi Linh Lan, đang cố nuốt trôi món rau chấm mắm ruốc, mọi hành động cũng như biểu hiện của nó đều không qua khỏi mắt Nguyễn Ánh. Không nói không rằng, anh cầm bát mắm ruốc đứng lên, tiến về phía bếp trước sự ngơ ngác của Hữu Huân và Linh Lan. Không biết Nguyễn Ánh sẽ làm gì với bát mắm đó, Linh Lan tò mò nhìn theo anh, đến khi anh quay lại thì bát ruốc đã được trộn thêm một số thứ mà Linh Lan nhìn mãi cũng chẳng biết đó là gì.

- Anh cho thêm cái gì vào vậy?

- Ăn đi, đừng hỏi nhiều.

Nguyễn Ánh đáp ngắn gọn, khiến Linh Lan tự ái và không thèm nói thêm gì nữa. Quết một miếng ruốc cho vào chén, lần này, miếng ruốc không còn tanh nữa, mà trái lại còn có một mùi thơm nhẹ. Nhấp một miếng, Linh Lan cảm nhận được những gia vị mà Nguyễn Ánh đã trộn thêm vào, nào là vị tiêu, tỏi cay cay, vị hồi hương thơm dịu (*). Món mắm ruốc lúc này không còn mặn như ban đầu mà trở nên dễ ăn, lại còn ngon đến không ngờ. Ngồi bên cạnh Linh Lan, Nguyễn Ánh mỉm cười khi nó đã bắt đầu ăn một cách ngon lành, đôi mày liễu thôi không cau lại nữa. Gắp lấy con cá nướng trên lá chuối, Nguyễn Ánh nhẹ nhàng bẻ làm hai và sớt qua chén Linh Lan. Trước ánh mắt ngạc nhiên của nó, anh lại tiếp tục sẻ nửa bát cơm cho Linh Lan khi chén cơm của nó đã vơi. Tất cả những hành động đó Hữu Huân đều nhìn thấy, ông gắp rau chấm vào bát mắm ruốc, miệng tủm tỉm cười khi nhớ đến vợ mình, đoạn nói ôn tồn.

- Chà! Đúng là vợ chồng son có khác.

Lại “vợ chồng son”, Linh Lan nhăn mặt, tính phản bác lại lời Hữu Huân nói nhưng phút cuối lại im lặng. Cứ để Hữu Huân nghĩ thế cũng chẳng hề hấn gì, bởi nó và Nguyễn Ánh dẫu sao cũng chỉ là hữu danh vô thực, miễn sao ông không nghi ngờ tung tích cả hai là được. Sau khi ăn xong cơm, Linh Lan mang tất cả chén bát ra ngoài rửa. Trong khi nó đang rửa chén thì Hữu Huân xích lại gần Nguyễn Ánh, thì thầm.

- Này Phúc! Cậu về dạy lại vợ đi nhé, cưng chiều quá không tốt đâu. Ai đời nướng cá mà cũng không biết cách nướng thế kia.

- Không sao! Đó là cách nướng cá đặc biệt của cô ấy, tôi thích như thế.

Trước lời góp ý chân thành của Hữu Huân, Nguyễn Ánh mỉm cười đáp lại. Sở thích đặc biệt của anh khiến Hữu Huân chỉ biết lắc đầu, ông vỗ vai anh vài cái rồi ra sau vườn xem xét số thuốc đang được hong khô. Còn lại Nguyễn Ánh, anh lướt mắt về góc bếp, nơi Linh Lan xếp chén vào trong chạn. Nhìn gương mặt trái xoan vương nước, đôi bàn tay thoăn thoắt lau chén, Nguyễn Ánh cảm thấy vô cùng dễ chịu. Một sự dễ chịu nguy hiểm, nhưng lại êm đềm lan tỏa khắp ngõ ngách tâm hồn anh.

Không biết từ bao giờ, anh đã quen với hình ảnh ấy, đã quen nhìn thấy người con gái ấy quanh quẩn bên cạnh anh, làm các công việc lặt vặt rất đỗi bình thường. Nó ngồi rửa chén, anh ngồi pha trà, cả hai tuy không nói với nhau lời nào, nhưng anh lại cảm thấy những khoảnh khắc hiếm hoi thế này lại là nơi chốn bình yên nhất trong quãng đời đã qua của mình. Một nụ cười dịu dàng nở trên bờ môi thanh tú của Nguyễn Ánh. Khói lửa, chiến tranh đi qua trong đời anh, mang đến những vết sẹo khắc sâu trong lòng, mãi không lành, thế nhưng những ngày lưu lại nhà của Hữu Huân, Nguyễn Ánh chợt như thấy mình được sống trọn vẹn nhất. Anh có môt mái nhà êm ấm, anh có một gia đình nhỏ bé, có một người vợ “đảm đang” với món cá nướng còn... nguyên con.

oOo

Trời càng về chiều càng mát mẻ, rừng cây rì rào trong gió, lớp lá tranh kêu xào xạc trên mái. Nguyễn Ánh đang luyện kiếm sau vườn, trong khi Linh Lan đang ngồi sao thuốc giùm Hữu Huân khi ông ra ngoài tìm thuốc. Đang luyện đến đường kiếm thứ mười, Nguyễn Ánh liền ngừng lại khi nhìn thấy một con chim bồ câu trắng muốt đậu trên ngọn tre gần đó, trên chân là một mảnh giấy nhỏ được buộc cẩn thận. Trong phút chốc, đôi mắt nâu trong suốt thẫm lại. Nguyễn Ánh huýt nhẹ một tiếng, con chim bồ câu nghiêng đầu, rồi sau đó vỗ cánh xà xuống, đậu lên bàn tay đang vươn ra của anh.

Gỡ nhẹ lá thư đính trên chân chim rồi thả cho nó bay đi, đôi mày kiếm của Nguyễn Ánh nhíu lại khi đọc vỏn vẹn hai chữ đen thẫm trên mảnh giấy “Hủ tiếu”. Trong tất cả các món ăn, hủ tiếu nổi tiếng ngon và đậm đà nhất chỉ có ở Mỹ Tho, vậy là Lê Văn Duyệt cùng các thuộc tướng thoát được đang tập trung tại đó, tất cả đều đã sẵn sàng, chì chờ anh đến. Những lần trước, Hậu Giang luôn là con đường để anh thoát, nhưng lần này anh sẽ xuống Mỹ Tho trước rồi mới tìm đường ra khơi sau, bởi chắc chắn Tây Sơn đã rút kinh nghiệm những lần truy kích trước đó mà phong tỏa mọi lối thoát của anh. Nguyễn Ánh nhếch môi, cho dù cái lưới của quân Tây Sơn đang thắt chặt lại, nhưng anh vẫn tìm ra được một kẽ hở để thoát, chẳng khó khăn gì.

Nguyễn Ánh đã nhận được tin báo, giờ anh phải tính đến thời điểm lên đường. Duyệt và các thuộc tướng đang ở Mỹ Tho, như vậy, anh phải nhanh chóng rời khỏi nơi này càng sớm càng tốt để hội quân. Ngước nhìn bóng chim chao lượn trên bầu trời, đôi mắt nâu trong suốt của anh chợt trở nên mơ hồ. Mỹ Tho! Nơi gia quyến anh đang tạm trú, nơi có người mẹ hiền đang đặt kỳ vọng vào anh,

“Vì con là vị chúa cuối cùng”

Gia đình...

Xoẹt!

Nguyễn Ánh nắm chặt thanh kiếm, một nhát kiếm vung lên như rạch đôi bầu trời. Tiếng gió xé vun vút, gương mặt thanh tú trở nên lạnh lùng. Ngày mai anh sẽ lên đường đến Mỹ Tho hội quân. Ngày mai, anh lại trở về với cuộc sống của một vị chúa, một vị chúa đang tìm cách giành lại cơ đồ, nhằm đổi lại xương máu những người đã ngã xuống, đổi lại niềm kỳ vọng của tất cả mọi người. Nguyễn Ánh dừng kiếm, anh ngẩng lên nhìn bầu trời xanh, tà áo vàng bay phất phơ, ánh mắt nâu vụt trở nên thăm thẳm, sáng lấp lánh. Ngày mai tất cả mọi chuyện sẽ trở về guồng quay cố định, anh sẽ trở về với máu, với chiến tranh. Nhưng nếu có cô gái ấy ở bên cạnh, đối với anh, chiến trường cũng trở thành nơi bình yên...

Nguyễn Ánh mỉm cười, một nụ cười kiêu ngạo không bao giờ thay đổi. Anh tra vỏ kiếm vào bao rồi quay trở vào nhà. Vừa mới ngồi xuống, Nguyễn Ánh chưa uống chén trà đã rót thì Linh Lan từ dưới bếp đi lên, gương mặt tươi cười rạng rỡ, trên tay nó là một cái rổ đựng một thứ gì đó hình thù kỳ dị. Nhìn thấy thứ đó, Nguyễn Ánh lộ vẻ ngạc nhiên, anh chưa hỏi gì thì Linh Lan đã vọt miệng nói luôn.

- Thế nào, thơm không? Món này có tên gọi là bồ câu nướng đất. Ngon cực kỳ đó nha.

- Bồ câu?

- Phải! Lúc nãy đột nhiên có con chim bồ câu bay ngang qua, đậu lại trên cành cây. Chỉ với một ít thóc và một cái thúng là con chim sa vào bẫy liền, nếu không thì lấy đâu ra món này.

Trông thấy nét mặt kỳ quái của Nguyễn Ánh, Linh Lan hồn nhiên đáp. Nó đặt cục đất sét hãy còn tỏa khói xuống bàn, rồi nhanh nhẹn bóc từng lớp ra. Không biết hành động của Linh Lan có gì ngộ nghĩnh, mà chỉ thấy Nguyễn Ánh tủm tỉm cười. Anh xoay cục đất sét về phía mình và bắt đầu bóc, đoạn nói lấp lửng.

- Cái gì của tôi cũng là của cô!

Nghe Nguyễn Ánh nói, Linh Lan tròn mắt. Nó nhìn anh, anh nhìn nó. Ánh mắt dịu dàng của anh làm Linh Lan vội chuyển hướng, chú mục vào món ăn trên bàn để tránh cái nhìn thăm thẳm ấy. Tuy chẳng hiểu câu nói của anh có hàm ý gì, nhưng khi nhớ đến những gì anh đã gây ra cho nó, thì nó lại cảm thấy lạnh cả người.

- Anh mà tốt đến thế sao? Hồi ở sông Lật ai đã có ý định dìm chết tôi?

- Ai?

- Anh chứ ai!

- Thế thì cô nhầm rồi, tôi không có ý định dìm chết cô...

Nguyễn Ánh nói đến đây liền ngưng lại, anh đột ngột xoay người Linh Lan lại và nâng mặt nó lên. Nhìn sự bỡ ngỡ trong ánh mắt của nó, Nguyễn Ánh nhếch môi, giọng nói anh sắc lại, trầm và lạnh.

-... Mà là tôi muốn dìm chết cô!

Những chữ cuối cùng Nguyễn Ánh nói nhẹ như gió thoảng, nhưng lại làm cho Linh Lan rùng mình. Nó nhìn vào mắt anh, ngỡ ngàng.

- Tại sao?

- Câu này tôi hỏi cô mới phải. Cún con, tại sao cô lại cứu tôi?

Nhìn xoáy vào đôi mắt Linh Lan, Nguyễn Ánh lạnh lùng hỏi. Linh Lan vội gạt tay anh ra nhưng không được, nó đành nhẫn nhịn trả lời.

- Vì để đạt được mục đích riêng của tôi.

Khi Linh Lan vừa thốt ra câu đó, đôi mắt Nguyễn Ánh tối lại. Anh kéo Linh Lan lại sát gần mình, sát đến nỗi gương mặt của hai người kề nhau, nghe rõ cả hơi thở của nhau, khiến Linh Lan giật mình.

- Cún con, có điều này cô nên biết! Trong đời tôi vốn ghét nhất ba chuyện, đó là bị tổn thương, bị lợi dụng và bị xúc phạm. Trên vọng đài, cô nói thích tên Long Nhương đó, có nghĩa là đã tổn thương tôi, cô vì muốn đạt được mục đích riêng mà cứu tôi, đó chính là lợi dụng tôi, cô và hắn âu yếm nhau trước mặt tôi, đó chính là xúc phạm tôi! Cô trong một lúc phạm vào ba điều cấm kỵ lớn nhất, lẽ ra tôi đã bỏ mặc cô dưới lòng sông Lật, nhưng vì trước đó cô đã cứu tôi nên tôi mới mang cô lên. Tôi nhắc để cho cô nhớ, lần sau, tuyệt đối đừng tái phạm điều đó lần thứ hai với tôi. Nếu không, cô chắc chắn sẽ chết!

Linh Lan biết, Nguyễn Ánh không nói đùa, và nó cũng biết, bây giờ nó mà thốt ra câu nào thì chắc chắn sẽ bị tai họa giáng xuống đầu. Gương mặt Nguyễn Ánh lạnh băng nhưng bờ môi lại nhếch lên, tạo thành một nét cười tàn nhẫn. Sự êm ả ở đôi mắt trong suốt biến mất, thay vào đó là sát khí ẩn hiện, lấp lánh nguy hiểm như những tia sét rạch ngang bầu trời. Trong vô thức, bàn tay Nguyễn Ánh xiết chặt lại, bờ vai Linh Lan đau nhói. Nó nhăn mặt, chưa kịp phản ứng thì anh đã ôm nó vào lòng, xiết chặt, bờ môi thanh tú lướt trên mái tóc Linh Lan rồi dừng lại ở vành tai, thì thầm.

- Cún con! Đừng quên, cô vẫn còn nợ tôi một mạng.

Lần đầu tiên Linh Lan thấy Nguyễn Ánh đáng sợ như thế. Trong phút chốc, nó quên cả ý định phản kháng mà co người lại, vành mi run rẩy vì những gì Nguyễn Ánh vừa nói vào tai. Giọng Linh Lan thốt lên lo lắng.

- Tôi... Tôi đã trả đầy đủ cho anh rồi còn gì...

- Khi nào?

Thấy Nguyễn Ánh thản nhiên phủi bỏ hết mọi công lao của nó, Linh Lan cả giận. Nó vùng vẫy kịch liệt nhưng vòng tay anh vẫn không suy chuyển, trái lại còn xiết chặt thêm khiến nó khó thở, nói nhanh.

- Thì.. tôi đã đưa anh đi tìm thầy thuốc. Nếu không nhờ tôi thì anh làm gì còn sống tới ngày hôm nay mà đe dọa, so sánh thiệt hơn với tôi chứ!

- Cún con! Cô lại nhầm rồi. Tôi không cầu cô, mà chính cô đã tự động mang tôi đến đây.

- Cái gì?

- Vì cô đã tự nguyện cứu tôi, cho nên cô vẫn còn nợ tôi một mạng tại rạch Chanh.

- Được! Tôi thì chẳng muốn nợ anh gì cả, vậy nên anh muốn tôi trả nợ cho anh thế nào đây?

Đáp lại sự tức giận của Linh Lan chỉ là một nụ cười mỉm của Nguyễn Ánh. Anh hôn lên mái tóc đen của nó, rồi từ mái tóc đen lướt xuống vầng trán cao. Nụ hôn đột ngột ấy khiến Linh Lan giật bắn mình, nó vùng khỏi vòng tay Nguyễn Ánh nhưng anh đã thả nó ra trước, đồng thời nhìn sâu vào mắt nó, nói trong nụ cười nguy hiểm.

- Không! Tôi muốn cô nợ tôi. Nợ suốt đời!

Phớt lờ gương mặt sửng sốt của Linh Lan, Nguyễn Ánh quay trở về công việc bóc lớp đất bên ngoài món chim nướng. Khi lớp đất xám ghi rơi ra, mang theo cả lông của con chim bồ câu, những thớ thịt trắng ngà, béo ngậy, thơm phưng phức của con chim đưa tin tội nghiệp hiện ra dưới mắt anh. Ngón tay gầy ấn vào giữa ngực con chim, Nguyễn Ánh mỉm cười, một nụ cười lửng lơ, mắt lấp lánh những tia sáng lạ, chẳng hiểu anh đang suy tính những gì.

- Ngày mai chúng ta sẽ lên đường.

-------------
Chú thích :
(*) : Món này bạn author ko có chế nha mọi người, có thật đó, chính sử ghi chép đàng hoàng. Ai có nhã hứng thì làm ăn thử xem mùi vị thật nó thế nào, ăn xong kể bạn author nghe nữa nha, vì bạn cũng chưa thử :">. Nguyên văn món này như sau.
Sử nhà Nguyễn ghi chép, vua thích ăn cơm với mắm ruốc trộn tiêu, ớt, hồi hương, quế chi, tỏi, gừng, ô mai giã nhỏ trộn vào nhau, bữa nào cũng dùng.
A/N : Thể nào ở đây cũng đang có người thắc mắc thời này sao lại có món hủ tiếu để mà ông Duyệt đề cập trong thư cho anh Ánh, xin thưa, có rồi đấy ạ.
Tương truyền rằng hủ tiếu là món ăn của người Hoa đem tới xứ Mỹ Tho này. Các cụ kể, khi gánh người Hoa do Dương Ngạn Địch, tổng binh Long Môn, tướng nhà Minh không chịu đầu phục triều Thanh, dẫn bầu đoàn thê tử, tuỳ tùng sang Việt Nam lánh nạn được chúa Nguyễn cho vào cư ngụ làm ăn ở vùng Mỹ Tho hồi năm 1679, lập ra Mỹ Tho đại phố mua bán sầm uất, khi đó món hủ tiếu xuất hiện. Ai mà về Mỹ Tho nhớ ăn một tô hủ tiếu chính cống nhà mọi người. Không ngon không lấy tiền



★ Chương 105
 
Đường đến Mỹ Tho khá xa xôi vất vả, nếu đi bằng ngựa thì sẽ nhanh hơn, nhưng vì đề phòng, cả hai chọn cách băng rừng mà đi nên không dùng đến ngựa. Chỉ trừ những phút nghỉ ngơi, Nguyễn Ánh và Linh Lan đi cả ngày lần đêm. Ban đầu, cả hai đi khá gấp gáp và sử dụng đường nhỏ để phòng quân Tây Sơn đuổi kịp, về sau, khi gần đến nơi, Nguyễn Ánh và Linh Lan đi chậm lại, thư thả nghỉ ngơi trước khi băng qua cánh rừng thưa, đến được địa phận Mỹ Tho.
 
Ngồi tựa vào thân cây nhỏ, Linh Lan lướt mắt về hàng dừa nước thấp thoáng phía xa, lòng rộn lên bao suy nghĩ miên man. Lẽ ra nó sẽ không đi cùng Nguyễn Ánh đến Mỹ Tho, nhưng suy đi tính lại thì vết thương của Nguyễn Ánh vẫn chưa hồi phục hoàn toàn, lại thêm trên đường đi rất có thể anh sẽ gặp Tây Sơn. Dù sao, đưa anh đến nơi hội quân an toàn cũng là cách Linh Lan tự an ủi rằng việc làm của nó không vô ích. Nguyễn Ánh không còn lo ngại chi nữa thì nó có thể yên lòng quay trở về Tây Sơn, đối diện với Văn Bình, đối mặt với bản án lương tâm của mình.
 
Chính vì suy nghĩ đó nên Linh Lan mới đồng ý đi cùng Nguyễn Ánh. Trải qua đoạn đường dài, Linh Lan đã thấm mệt. Giờ đây, ngồi nghỉ chân dưới tán rừng thưa, mắt hướng về đất Mỹ Tho bên kia rặng dừa xanh, Linh Lan mới cảm thấy quyết định của mình hơi phiêu. Chuyện tìm đường về thì nó không sợ, bởi trên đường đi, nó đã ghi nhớ các lối rẽ, cũng như những dấu hiệu nhận biết khi tìm đường quay trở về. Cái mà nó lo lắng, thứ nhất là làm sao để thoát khỏi Nguyễn Ánh một khi đưa anh đến nơi hội quân, thứ hai là trên đường tìm về Tây Sơn, không biết nó có gặp phải trộm cướp hoặc những vấn đề phát sinh nào hay không. Linh Lan thở dài, dù thế nào đi chăng nữa thì nó cũng đã quyết định, giờ chỉ có thể lo giải quyết từng chuyện một chứ chẳng thể tính quá xa. Trước mắt nó phải tìm cách rời khỏi Nguyễn Ánh mà không gặp bất cứ trở ngại nào đã rồi mới có thể tính đến những tình huống phát sinh sau đó.
 
Trong khi Linh Lan đang tính kế, Nguyễn Ánh ngồi ngả lưng vào thân cây, hai tay anh khoanh trước ngực, chân bắt chữ ngũ, một phong thái vô cùng nhàn hạ. Chợt, đôi mày kiếm nhíu lại như đang suy nghĩ gì đó rồi giãn ra, Nguyễn Ánh xoay Linh Lan lại đối diện với anh. Đang còn ngơ ngác vì không hiểu Nguyễn Ánh làm gì, đến khi nhìn xuống thì Linh Lan đã thấy trên cổ mình lấp lánh một sợi dây kết bằng chỉ đỏ, mặt dây chuyền là một con chim phụng bằng bạc, vô cùng tinh xảo. Nhận ra đó là sợi dây chuyền mà Nguyễn Ánh đang đeo, Linh Lan vô cùng ngạc nhiên.
 
- Đây là gì vậy?
 
- Dây chuyền.
 
- Hở? Sao anh không đeo mà lại đưa tôi làm gì?
 
- Đeo nó, quân Nguyễn khi nhìn thấy sẽ không giết cô.
 
Nguyễn Ánh vừa nói vừa cười, nhưng Linh Lan biết anh không nói đùa. Vì tính mạng là chuyện quan trọng, Linh Lan không phản đối khi anh đeo cho nó. Cầm lấy mặt dây chuyền ngắm nghía, Linh Lan mở to mắt do nhận ra hai chữ được chạm khắc tinh tế nằm trên đầu con phụng hoàng. Giơ con phụng hoàng ra trước mặt Nguyễn Ánh, Linh Lan hỏi dò.
 
- Hai chữ này là gì?
 
Nguyễn Ánh nheo mắt nhìn sát vào con phượng hoàng, bờ môi thanh tú của anh vẽ thành một nụ cười lấp lửng, rồi anh đột ngột vươn tay ra, ôm choàng Linh Lan vào lòng. Quá bất ngờ trước hành động của Nguyễn Ánh, Linh Lan tính la lên phản đối như thường ngày, nhưng phút cuối nó lại im lặng và trân mình chịu đựng. Ba ngày qua nó đã suy nghĩ rất nhiều, sau khi đưa Nguyễn Ánh đến Mỹ Tho hội quân thì nó sẽ rời khỏi anh ngay lập tức, nhưng vấn đề là nó phải làm sao khi anh luôn để mắt tới nó, nó luôn trong tầm mắt anh thì làm sao có thể thực hiện kế hoạch cho riêng mình? Linh Lan cắn môi suy nghĩ, sau cùng, nó cũng đã tìm ra một biện pháp để giải quyết kế hoạch bất khả thi ấy. Nó cần phải lấy lòng tin của Nguyễn Ánh, cần phải ngoan ngoan làm theo lời anh, như thế anh mới không còn cảnh giác, không còn đề phòng và lơi lỏng kiểm soát với nó. Chỉ có như thế nó mới có thể dễ dàng trốn đi mà không gặp bất cứ trở ngại nào.
 
Vì đã quyết định từ trước, nên dù vô cùng khó chịu, Linh Lan vẫn để cho Nguyễn Ánh ôm vào lòng. Nó ngồi yên trong lòng anh, tay mân mê con phụng hoàng, lòng thắc mắc hai chữ chạm khắc đó có ý nghĩa gì mà Nguyễn Ánh không giải thích cho mình. Đang săm soi con phụng, Linh Lan ngẩng đầu lên khi Nguyễn Ánh chỉ tay về phía trước, anh nói nhẹ nhàng.
 
- Chỉ cần băng qua hàng dừa nước đó là chúng ta sẽ tới Mỹ Tho. Cún con, cô có biết ở đó, món nổi tiếng nhất của vùng là gì không?
 
- Không - Linh Lan lắc đầu. Nó sống ở thành phố Hồ Chí Minh, chưa bao giờ có dịp du lịch miền tây sông nước nên chẳng biết tý gì về đặc sản ở đó cả.
 
- Ở Mỹ Tho nổi tiếng nhất là hủ tiếu.
 
- Ơ! Thời này mà cũng có hủ tiếu sao?
 
Nghe Nguyễn Ánh nói, Linh Lan quay phắt người lại nhìn anh đầy ngạc nhiên. Nhẹ hôn lên vầng trán bướng bỉnh ấy, Nguyễn Ánh lại xiết chặt Linh Lan vào lòng, anh tựa cằm lên bờ vai của nó, nói thì thầm qua vành tai nhỏ nhắn.
 
- Tại sao lại không? Sợi hủ tiếu làm bằng thứ gạo Gò Cát của làng Mỹ Phong mới là ngon nhất, dai nhất. Tôi đã từng ăn qua một lần, chỉ một lần thôi nhưng vẫn còn nhớ cho đến bây giờ.
 
Lúc Nguyễn Ánh giơ tay lên chỉ về phía rừng dừa, Linh Lan tinh mắt thấy trong lòng bàn tay anh có một vết sẹo. Sẹo gì mà ở lòng bàn tay nhỉ? Linh Lan nghĩ thầm. Nó vốn không tính hỏi, nhưng có mấy ai được dịp nghe Gia Long hoàng đề nói về bản thân mình, thế nên sau phút ngần ngừ, nó bèn hỏi dò.
 
- Này, tay anh làm sao có vết sẹo vậy?
 
Nghe Linh Lan hỏi, đôi mắt Nguyễn Ánh sẫm lại, anh xòe lòng bàn tay ra thì Linh Lan nhướng mày lên do anh có tận hai vết sẹo. Một vết sẹo ở đầu ngón tay cái và một vết sẹo khá dài ở lòng bàn tay. Chỉ vào vết sẹo ở ngón tay cái, Linh Lan thắc mắc.
 
- Cái này là sao đây?
 
Nhìn vết sẹo bằng đôi mắt nâu, ký ức xưa như làn gió thổi, Nguyễn Ánh yên lặng, đến chừng Linh Lan tưởng anh sẽ không nói thì anh lại đáp lời.
 
- Hồi còn ở Phú Xuân, khi còn nhỏ, Định vương có phát cho tôi một cây pháo hoa rất đẹp đốt mừng năm mới. Khi giao thừa đến, tôi đã đốt cây pháo hoa đó, nhưng vì tôi thích cây pháo hoa đó nên tôi cứ nắm chặt lấy nó không buông. Pháo cháy, cháy cho đến khi nó đã cháy hết tôi vẫn không buông ra, kết cuộc tay tôi đã bị phỏng. Vết bỏng vẫn còn đến bây giờ nhưng cây pháo thì đã cháy từ lâu.
 
Linh Lan à lên một tiếng khi Nguyễn Ánh vừa dứt lời. Thì ra từ nhỏ anh ta đã cứng đầu, bướng bỉnh thế. Vì yêu thích cây pháo hoa nên cứ nắm chặt lấy dù nó đã cháy hết, không phỏng cũng uổng. Phì cười vì ý nghĩ đó, Linh Lan lại hỏi vu vơ.
 
- Anh vừa nhắc đến Định vương, thế Định vương là ai vậy?
 
- Là chú tôi!
 
- Chú anh còn sống không?
 
- Đã qua đời.
 
- Thế à? Tại sao qua đời?
 
- Bị Tây Sơn giết chết.
 
Do đang mải ngắm nghía con phụng hoàng, Linh Lan không nhận thấy giọng nói của Nguyễn Ánh sắc lại. Đến khi nghe việc Định vương bị quân Tây Sơn sát hại, Linh Lan im bặt, không nói gì nữa. Trong phút chốc, bầu không khí chợt trở nên cô đọng, chỉ nghe hơi thở nhẹ nhàng của Nguyễn Ánh trên vành tai Linh Lan. Dù không nhìn thấy nét mặt của Nguyễn Ánh, nhưng Linh Lan cảm nhận được anh đang xiết chặt lấy nó, những ngón tay dài co duỗi như đang nắm một thứ gì đó, rồi thả ra cho tan theo mây trời.
 
- Vậy... còn vết sẹo kia.
 
Linh Lan bối rối, nó vội chuyển sang đề tài khác để khỏa lấp bầu không khí lặng yên hiện thời. Chỉ tay vào vết sẹo còn lại của Nguyễn Ánh, nó hỏi nhanh. Từng ngón tay của Nguyễn Ánh duỗi ra, rồi bất chợt co lại, đan lấy bàn tay Linh Lan thật chặt, không rời.
 
- Vết sẹo ấy là do tôi muốn nhắc nhở bản thân mình, thế thôi.
 
Trong phút chốc, Linh Lan cảm thấy giọng nói của anh rất ấm, ấm và dịu dàng, điều đó khiến nó rất ngạc nhiên vì không ngờ Nguyễn Ánh cũng có những lúc dịu dàng như thế. Thời gian nhè nhẹ trôi qua, rừng cây rì rào trong gió, hàng dừa nước đung đưa những cánh tay xanh thẫm phía xa, khung cảnh thanh bình hệt như chưa từng có chiến tranh khiến Linh Lan cảm khái. Ngồi trong lòng Nguyễn Ánh, Linh Lan cảm thấy bờ vai nó nằng nặng, đến khi nhìn lại thì nó ngớ ra khi Nguyễn Ánh đã ngủ trên vai mình từ bao giờ.
 
Nguyễn Ánh đang ngủ, một tay anh ôm lấy Linh Lan, tay còn lại đan vào bàn tay nó, đôi mắt nhắm lại, gương mặt thanh tú nhẹ nhõm, như một đứa bé con. Chẳng biết anh ngủ thật hay chỉ nhắm mắt nghỉ ngơi mà vòng tay anh vẫn rất chặt, thật chặt, khiến Linh Lan không thể cựa quậy và cũng không nỡ cựa quậy mà ngồi yên.
 
Trong rừng thưa, có một chàng trai ngủ trên bờ vai một cô gái, không biết chàng trai ấy có mơ gì hay không mà chỉ thấy bờ môi nhẹ mỉm cười. Một nụ cười thật bình yên.
 
oOo
 
Phải đến xế chiều, Linh Lan và Nguyễn Ánh mới đặt chân đến được địa phận Mỹ Tho, và theo kế hoạch, từ Mỹ Tho anh sẽ đi Phú Quốc để che mắt Tây Sơn. Do đã đến được nơi hẹn, Nguyễn Ánh không cần đi nhanh nữa, anh vừa có một giấc ngủ ngon thế nên tâm trạng vô cùng dễ chịu. Nắm tay Linh Lan thả bộ dưới rặng dừa xanh, anh ngẩng mặt đón lấy những cơn gió mát dịu. Lúc này, ngay cả cái nắng hanh hao cũng trở nên hiền hòa. Chiều về mang theo bình yên.
 
Chợt, những bước chân của Nguyễn Ánh chậm lại, đôi mày thanh tú khẽ cau khi cảm nhận được mặt đất đang rung chuyển. Không hiểu tại sao Nguyễn Ánh dừng lại, Linh Lan phóng mắt nhìn về phía sau, trong phút chốc, gương mặt nó tỏ vẻ lo lắng khi nghe thấy tiếng vó ngựa phóng như bay trên đường. Chẳng lẽ quân của Lê Văn Duyệt đến? Nếu vậy thì Nguyễn Ánh đã không cau mày như thế, vậy... chẳng lẽ đó là quân Tây Sơn hay sao.
 
Đã đến đây còn bị bắt lại, Linh Lan quả thật không cam lòng, nó vội vàng nhìn quanh để tìm chỗ nấp nhưng vô cùng thất vọng. Xung quanh là ruộng lúa, chỉ có những bụi cây thấp lè tè, không đủ để một người ẩn nấp nói chi đến hai người. Linh Lan than thầm, nó chưa kịp tìm ra kế sách nào thì Nguyễn Ánh đã kéo nó tăng tốc. Hành động đó của Nguyễn Ánh càng làm Linh Lan thêm chắc rằng tiếng vó ngựa phía sau là của kẻ địch. Thật xui xẻo, gần đến chỗ hẹn với quân Nguyễn rồi mà lại gặp trục trặc. Căn cứ vào tiếng vó ngựa rầm rập, chứng tỏ đang đuổi theo phải là cả một đoàn trong khi nó và Nguyễn Ánh chỉ có hai người. Nếu trận chiến xảy ra, khỏi nói cũng biết kết quả chung cuộc sẽ như thế nào.
 
Linh Lan không cần phải phỏng đoán lâu, từ sau làn bụi đỏ, một đoàn người nhanh chóng lao về phía nó và Nguyễn Ánh như chớp. Dẫn đầu đoàn người là một gã có vết sẹo trên má trái. Cả toán người, ai nấy đều đằng đằng sát khí, tay lăm lăm gươm giáo. Nhìn cách ăn mặc của họ cũng đủ biết đó không phải là quân Nguyễn cùng Duyệt đi đón Nguyễn Ánh, và càng chẳng phải Tây Sơn.
 
Nhìn thấy đoàn người đó, khóe miệng Nguyễn Ánh khẽ nhếch lên, khoảng cách giữa anh và đoàn người ngựa ngày một thu hẹp lại, cuối cùng thì anh và Linh Lan đã bị bao vây. Cho ngựa đi vòng vòng đối thủ đã bị dồn vào giữa, tên thủ lĩnh đoàn quân săm soi từ đầu tới chân Linh Lan, như để đánh giá, rồi rà mắt về phía Nguyễn Ánh. Đôi mắt hẹp kéo dài ra như một sợi chỉ, sự thích thú hiện rõ trên gương mặt lưỡi cày của hắn. Hắn cất tiếng, giọng ồm ồm.
 
- Chúa công! Chẳng hay ngài có còn nhớ đến ta không?
 
Nhướng mày nhìn gã, Nguyễn Ánh chỉ mỉm cười mà không nói câu nào. Đối với tên thủ lĩnh, trên đời này hắn ghét nhất nụ cười tự tin đó, nụ cười luôn khiến hắn cảm thấy mình thật ngu ngốc khi ở dưới trướng vị chúa trẻ tuổi này.
 
- Nếu ngài không nhớ thì để ta nhắc cho ngài nhớ, ta là Đinh Hồ, thủ lĩnh Đông Sơn quân. Chắc ngài vẫn chưa biết, để tìm ra ngài, Đông Sơn chúng tôi đã hợp tác với kẻ thù không đội trời chung của ngài là Tây Sơn chứ.
 
Trong khi Đinh Hồ nói, đôi mắt Nguyễn Ánh lấp lánh bàng bạc. Anh kéo Linh Lan lại gần mình và đứng trước mặt nó, ngăn những cái nhìn soi mói của quân Đông Sơn lên người Linh Lan.

Tiết lộ của Đinh Hồ khiến trái tim Linh Lan khẽ đập nhanh. Tây Sơn đã liên kết với những người này sao? Đó là ý kiến của ai? Chẳng phải Văn Bình đã từ chối hợp tác khi phó tướng Đông Sơn là Lê Anh đến tìm anh hay sao? Tại sao giờ đây Tây Sơn lại liên kết với chúng? Sau khi Đinh Hồ nói dứt, hắn đinh ninh Nguyễn Ánh sẽ rất kinh ngạc hay nổi giận, nhưng không, viên chúa trẻ vẫn bình thản, chẳng chút cảm xúc nào trên gương mặt ấy ngoài sự mỉa mai, khiến hắn cảm thấy mình đang bị chế giễu vì thân là thủ lĩnh mà phải cầu cạnh Tây Sơn để trả mối thù xưa. Sự ngạo mạn, ngay cả trong những phút nguy hiểm, của viên chúa trẻ khiến Đinh Hồ khó chịu. Hắn quẹt mũi, cười gằn.
 
- Chúa công, lúc trước chúng tôi đã thề rằng nhất định sẽ báo thù cho Đỗ tướng quân, Võ tướng quân, cuối cùng, ngày đó đã đến. Nể tình lúc trước chúng tôi đã từng dưới trướng ngài, ta sẽ cho ngài một cái chết ít đau đớn nhất, còn cô gái kia thì ta sẽ mang về để hầu hạ...
 
Đinh Hồ chưa nói dứt lời, tức thì một ánh kiếm bạc lóe lên. Tiếng ngựa hí lên thảm thiết, Đinh Hồ thấy người chao đảo, ngay lập tức hắn vội nhảy xuống ngựa theo phản xạ. Vừa lúc đó, tiếng gió vun vút kéo tới và một tiếng keng chát chúa vang lên. Đinh Hồ định thần lại thì sống lưng của hắn ướt đẫm mồ hôi. Con tuấn mã hắn đang cưỡi bị chém đứt hai chân trước đang quoằn quại dưới đất, còn hắn thì giữ được mạng sống là do đồng bọn kịp thời nhoài người ra ngăn chặn lưỡi kiếm lạnh lùng của Nguyễn Ánh. Nếu chậm thêm một giây nữa thì hắn đã gặp Đỗ Nhàn Trập và Võ Bảng bên kia thế giới rồi.
 
Đinh Hồ vội lấy lại bình tĩnh và đứng vững. Viên chúa trẻ đang đứng trước mặt hắn, gương mặt ngang tàng điểm nụ cười ngạo nghễ, tay nắm thanh kiếm đẫm máu, ánh mắt nâu sắc lạnh như một lưỡi kiếm bạc. Một luồng hàn khí lạnh lẽo tỏa ra, phảng phất tử khí, khiến Đinh Hồ toát mồ hôi khi nhớ lại tình cảnh ngàn cân treo sợi tóc vừa rồi.
 
- Tiến lên, giết Nguyễn Ánh để trả thù cho các vị cố tướng quân.
 
Đinh Hồ gào lớn, hắn gạt giọt mồ hôi ngang mắt rồi nhất tề xông về phía Nguyễn Ánh cùng các thuộc tướng, lòng quyết tâm lấy mạng viên chúa trẻ để cúng tế vong hồn chủ cũ. Đẩy Linh Lan lùi ra khỏi vòng chiến, Nguyễn Ánh nhếch môi, thanh kiếm trong tay anh loang loáng ánh bạc. Trong phút chốc, cánh đồng yên ả liền biến mất, thay vào đó là chiến trường đẫm máu. Tiếng ngựa hí giãy chết, tiếng gào thét báo thù, máu rơi nhuộm đỏ mặt đất nâu sẫm, làm Linh Lan vừa hoảng vừa lo vì sợ Nguyễn Ánh sẽ không chống lại được ngần ấy người.
 
Không thể để cho Nguyễn Ánh một mình đấu với đám quân Đông Sơn, Linh Lan chạy lại gần một tên lính đã bị chém chết để tìm vũ khí trợ giúp. Do tên lính nắm quá chặt, Linh Lan bặm môi gỡ từng ngón tay đầy máu của hắn ra để lấy kiếm. Sau phút chật vật, Linh Lan cũng đã nắm được thanh kiếm trong tay, dù vẫn hơi rờn rợn khi hơi ấm của từ thi còn vương lại trên đốc kiếm. Không lãng phí thêm một giây, Linh Lan vội lao vào khi thấy một tên lính thừa cơ tập kích sau lưng Nguyễn Ánh. Bao kiếm trong tay Linh Lan vung lên, giáng trúng lưng tên lính khiến hắn ối lên một tiếng đau đớn. Vừa gạt hết những kẻ đang lao vào vòng chiến, Linh Lan dần tiến lại bên cạnh Nguyễn Ánh, hơi thở nó nặng nể, đứt quãng do phải dùng sức quá nhiều.
 
Lúc này, tình hình Nguyễn Ánh vô cùng nguy hiểm. Dù có tài giỏi đến đâu, nhưng mãnh hổ nan địch quần hồ. Trên người Nguyễn Ánh đã xuất hiện nhiều vết thương, tà áo vàng lấm máu, lưỡi kiếm từ màu bạc chuyển sang màu đỏ, sát khí rợn người. Nhìn thấy tình trạng đó, Linh Lan dù rất lo lắng nhưng lại không thể phân tâm bởi còn phải đối phó với những tên lính Đông Sơn đang ùa lên. Đã được Văn Bình huấn luyện, lại thêm sự kiên trì miệt mài luyện tập trong suốt mấy tháng qua, đối phó với đám người này cũng không quá khó đối với nó, nhưng ngặt nỗi, từ trước đến nay, Linh Lan chưa bao giờ trải qua trận thực chiến nào quyết liệt như thế này. Lớp này bị thương thì lớp khác lại xông lên, thêm Linh Lan chỉ đánh bằng bao kiếm nên chẳng gây sát thương được cho ai.
 
Với lối trực chiến như thế, Linh Lan càng đánh càng xuống sức, trong khi Đông Sơn càng đánh càng hăng. Quân Đông Sơn kéo lên, lớp này lớp khác, bao vây Nguyễn Ánh vào giữa và khiến Linh Lan hoang mang. Cứ mỗi lần muốn tiến lại gần Nguyễn Ánh, nó lại bị ba bốn tên lính Đông Sơn chặn đường và đánh bật lại phía sau. Liên tiếp bốn năm lần, Linh Lan đã bắt đầu cáu. Ngay giây phút ấy, một tiếng cười chói tai vang lên, thanh kiếm Đinh Hồ nhuốm máu, cánh tay trái của nguyễn ánh bị một vết chém dài. Trông thấy những gì đang diễn ra trước mặt, Linh Lan vô cùng tức giận. Nó dùng hết sức đánh bật những tên lính bao vây ra ngoài và lướt lại gần Nguyễn Ánh. Đúng lúc đó, một tên lính từ phía sau Nguyễn Ánh đánh bật lên, phối hợp với Đinh Hồ đang đánh xuống. Giữa lúc ngàn cân treo sợi tóc, Linh Lan tái mặt hốt hoảng vì Nguyễn Ánh chẳng thể chặn nổi hai đầu. Trong khoảnh khắc ấy, Linh Lan đã không thể suy nghĩ được gì nữa, đầu óc nó rối lên như một cuộn chỉ và vội vàng phóng tới bên cạnh anh,.ánh kiếm bạc trong tay lóe lên. Một vòi máu bắn thẳng vào mặt Linh Lan. Tên lính trợn trừng mắt khi bị lưỡi kiếm cắm ngập vào tận ngực, hắn ta ôm lấy vùng bụng máu tuôn như suối rồi ngã vật ra đất, chết tươi.
 
Trong khoảnh khắc đó, Linh Lan có cảm giác như nó vừa đặt chân vào địa ngục. Đôi mắt của tên lính mở trừng trừng, nhìn xoáy vào mặt nó. Thanh kiếm trong tay nó đẫm máu, run run. Cả người nó đông cứng, tê dại khi ngửi thấy mùi máu tanh chảy ròng ròng trên mặt.

Mình vừa giết người, mình vừa giết người.

Linh Lan run lẩy bẩy, mắt nó nhòa đi, những tiếng gào thét, ong ong trong đầu Linh Lan. Tiếng gào ban đầu rất nhỏ, nhưng ngày một to dần, to dần khiến lồng ngực Linh Lan như muốn nổ tung. Cái cảm giác lấy đi một sinh mạng, cái cảm giác máu của người vừa tanh lại vừa nóng khiến đầu óc Linh Lan trống rỗng, tê liệt và bần thần.
 
Mình vừa giết người...
 
Lần đầu tiên ra tay giết người, tinh thần Linh Lan bị chấn động, kết quả là nó không thể nào nhấc nổi thanh kiếm lên để chiến đấu. Nhân cơ hội đó, một tên lính phía sau nhằm lúc nó hoảng loạn mà vung đao chém tới. Chỉ nghe phập một tiếng, tên lính ngã lăn ra đất chết không kịp ngáp, trên ngực là lưỡi kiếm cắm sâu, máu nhuộm đỏ cả chiếc áo màu chàm.
 
Vì để cứu Linh Lan, Nguyễn Ánh đã phóng mũi kiếm về phía tên lính, kết liễu đời hắn. Cùng lúc với hành động phóng kiếm, Nguyễn Ánh lướt về phía Linh Lan, một tay anh ôm ngang thắt lưng, tay còn lại nắm lấy tay nó, điều khiển thanh kiếm lia ngang người những tên lính Đông Sơn ùa vào.
 
Trong lúc tình thế vô cùng nguy ngập, vòng vây của Đông Sơn ngày càng xiết chặt, Nguyễn Ánh chợt cau mày khi nghe tiếng vó ngựa từ xa vọng đến. Chẳng lẽ Đông Sơn lại có thêm viện quân? Suy nghĩ đó vừa bật lên khỏi đầu, Nguyễn Ánh liền dập tắt ngay. Đôi mày kiếm cau lại liền giãn ra khi nhìn thấy tà áo đen quen thuộc của người ngồi trên lưng ngựa, đó là Nguyễn Văn Thành, sau lưng là Nguyễn Phúc Điển, em trai anh, cùng những thuộc tướng thoát được sau trận Đồng Tuyên.
 
Nhìn thấy quân Nguyễn, Đinh Hồ mặt biến sắc, hắn ta vô cùng tức giận khi kết quả hôm nay không được như mong muốn. Trong tích tắc, quân Nguyễn đã kéo tới và xông vào vòng chiến. Sự dũng mãnh của Nguyễn Văn Thành, một đao đã lấy mạng nhiều người, khiến quân Đông Sơn sợ hãi. Cuộc chiến diễn ra, quân Đông Sơn tan tác như ong vỡ tổ, thế trận nghiêng dần về phía quân Nguyễn. Biết không thể chống chọi lại do đã hao binh tổn tướng, Đinh Hồ nghiến răng phóng lên ngựa tháo lui sau khi đám thuộc hạ yểm trợ phía sau. Lúc này, trận chiến đã tan, Văn Thành thu đao, tiến tới cạnh Nguyễn Ánh. Liếc mắt nhìn Linh Lan đang đứng ngẩn ngơ bên cạnh, trên cổ là sợi dây chuyền lấp lánh, Văn Thành nhíu mày, anh vòng tay khấu chào, đoạn lo lắng.
 
- Chúa công, những vết thương của ngài...
 
- Ta không sao - Nguyễn Ánh cắt lời Văn Thành, anh lướt mắt nhìn những thuộc tướng thân cũ một lượt, rồi nói tiếp - Tình hình bên Duyệt như thế nào?
 
- Bẩm chúa công, Lê Văn Duyệt đã đưa gia quyến ngài đến trước, hiện tất cả bọn họ đang chờ ngài ở mé tây cạnh con sông đầu làng ạ.
 
Nguyễn Ánh gật đầu không nói gì, tay vuốt ve con ngựa mà Thành đem tới. Dời mắt sang Linh Lan, Nguyễn Ánh nhíu mày khi thấy nó vẫn còn thẫn thờ vì chưa tỉnh cơn sốc. Đưa tay chùi những vệt máu hoen dài trên mặt Linh Lan, anh nhẹ nhàng đặt lên trán nó một nụ hôn thật lâu. Bế Linh Lan lên ngựa, một tay anh ôm lấy nó, một tay nắm lấy cương, Nguyễn Ánh thúc ngựa tiến về phía trước, theo sau là quân Văn Thành, Phúc Điển cùng các binh sĩ lục tục kéo đi.
 
Chứng kiến tình trạng chấn động đến đông cứng người của Linh Lan, không cần nó phải nói, Nguyễn Ánh cũng đã đoán ngay ra sực việc. Chắc chắn đây là lần đầu tiên nó giết người nên mới bị ám ảnh như thế. Sống trong thời chiến tranh phải tự biết bảo vệ bản thân mình, ta không giết họ thì họ sẽ giết ta, xung đột là điều không thể tránh khỏi. Nếu muốn được sống thì phải chấp nhận sống chung với máu cùng những mưu mô của riêng mình. Để cứu anh, Linh Lan đã phải ra tay giết người, anh biết chuyện này sẽ còn ảnh hưởng tới Linh Lan rất nhiều. Nhưng không sao, anh sẽ tập cho cún con của anh làm quen với chuyện này để có thể tồn tại được trong hoàn cảnh khắc nghiệt như hiện thời. Bất giác, Nguyễn Ánh ghì chặt Linh Lan vào lòng. Anh nhẹ mỉm cười và nói nhỏ vào tai nó, từng lời.
 
- Cún con, tôi đã cảnh báo, đừng khiến tôi yêu cô nhưng cô không nghe. Bây giờ thì cô sẽ phải lãnh nhận hậu quả mà cô gây ra đến suốt đời.
 


★ Chương 106

Bên trong căn nhà lá đơn sơ, quân Nguyễn thoát được ở trận Đồng Tuyên đang hội họp cùng Nguyễn Ánh. Ngồi trên một tấm phản, tay tựa hờ trên đầu gối, hai chân xếp bằng, anh lướt mắt qua những thuộc tướng đang đứng xung quanh. Thiếu đội quân Lương Sơn của Châu Văn Tiếp, đôi mày kiếm của Nguyễn Ánh nhíu lại, viên dũng tướng này sau thất bại ở đồn Giác Ngư đã chạy thẳng qua Xiêm, đến giờ vẫn chưa có tin tức gì.

- Duyệt, tình hình Nguyễn quân sau trận Đồng Tuyên thế nào rồi?

Vốn là người chuyên ghi chép cẩn thận tình hình sau trận chiến, Lê Văn Duyệt vội vã bước ra khi Nguyễn Ánh trầm giọng hỏi. Vòng tay khấu chào, ông thận trọng đáp lời.

- Bẩm chúa công, do bị tấn công bất ngờ, quân Nguyễn trở tay không kịp. Sau trận Đồng Tuyên, sĩ số quân ta thiệt hại khá nhiều. Nguyễn Đình Toàn, binh bộ Minh, tham mưu Trần Đại Huề, hữu chi Nguyễn Văn Quý chết tại trận. Lại bộ Hồ Đồng, Hậu ứng Nguyễn Huỳnh Đức đã bị bắt. Một trăm thuyền chiến của ta bị đánh chìm, chỉ còn lại được độ mười chiếc dự phòng. Hồ Văn Lân, Tôn Thất Hội cùng cánh quân của họ đã bị đứt liên lạc, hiện không biết trú ngụ nơi nào. Còn nữa...

Lê Văn Duyệt vừa báo cáo vừa thăm dò phản ứng của Nguyễn Ánh, đến khi thấy anh chẳng tỏ chút cảm xúc nào, ông mới liếm môi, nói tiếp.

-...Theo những gì mật thám báo về, Đông Sơn đã phối hợp với Tây Sơn để báo thù cho chủ cũ. Hiện chúng đang hợp tác với nhau trong việc tìm kiếm chúng ta. Chúa công, người dự tính thế nào?

Nguyễn Ánh nhếch môi khi nghe Lê Văn Duyệt hỏi, những ngón tay gầy của anh gõ nhẹ lên tấm phản, tạo thành tiếng cóc cách trong gian nhà im phăng phắc. Thông tin Đông Sơn liên kết với Tây Sơn chẳng có gì lạ, bởi cách đây mấy canh giờ anh đã nghe chính miệng Đinh Hồ - thủ lĩnh Đông Sơn nói. Nhưng cho dù không biết trước, thì anh cũng chẳng làm lạ. Anh biết, mối thù Đỗ Thanh Nhơn, Đỗ Nhàn Trập và Võ Bảng bị giết vẫn chưa lúc nào nguôi trong ký ức quân Đông Sơn. Chúng chỉ trung thành với tướng quân của mình chứ không bao giờ tuân lệnh bất cứ ai. Sau cái chết của Đỗ Nhàn Trập và Võ Bảng, quân Đông Sơn phân tán, nhưng dần dà đã tập hợp lại lực lượng, chuyện chúng tìm đến Tây Sơn hợp tác chỉ là vấn đề thời gian, không lúc này cũng lúc khác.

- Đông Sơn muốn hợp tác với ai ta không quan tâm. Nếu không phải quân Tây Sơn mà là một thế lực khác mạnh hơn thì chúng cũng sẽ tìm đến, sau khi hợp tác xong chúng lại trở mặt với Tây Sơn như trước đó, thế thôi. Bây giờ, ngươi, Phúc Điển cùng Văn Thành tập trung tất cả lực lượng lại, sửa soạn thuyền bè và chuẩn bị lương thực, ngày mai chúng ta sẽ lên đường đi Phú Quốc.

Lê Văn Duyệt, Nguyễn Phúc Điển và Văn Thành cùng vòng tay nhận mệnh lệnh. Cuộc họp lại tiếp tục, Nguyễn Ánh ngồi nghe thuộc tướng báo cáo về tình hình Tây Sơn và những con đường mà Tây Sơn đã phong tỏa. Chốc chốc, anh lại đưa mắt nhìn ra ngoài, gương mặt lạnh lùng chợt nhẹ nhõm khi nhìn thấy Linh Lan đang ngồi chống tay lên cằm qua song cửa. Một nụ cười khẽ lướt qua trên bờ môi anh, sau đó, nụ cười đanh lại thành cái nhếch môi khi nhìn về phía đạo quân Hòa Nghĩa đang lơ đễnh ở hàng phía sau. Đám quân này từ lâu đã khó đồng hóa, nhưng anh vẫn để chúng trong quân Nguyễn để làm dày thêm lực lượng. Anh biết, nếu bị săn đuổi lâu, tất chúng sẽ trở lòng làm phản, anh sẽ bí mật, lệnh cho Tôn Thất Cốc trông coi để mắt đến đám binh Hòa Nghĩa đạo này.

Trong khi Nguyễn Ánh bàn việc quân cùng tướng sĩ, tại một gian nhà lá khác, Linh Lan ngồi thẫn thờ bên ngoài, cùng với gia đình anh. Một tay đặt lên gối, một tay chống cằm nhìn mông lung, dường như nó thẫn thờ vì mùi tanh nồng của máu người vẫn còn ám ảnh cho đến bây giờ.

- Cô gái, cô bị mệt à? Có phải bị trúng gió không?

Một giọng nói nhẹ nhàng cất lên khiến Linh Lan giật mình, bừng tỉnh khỏi cơn mê. Người phụ nữ dịu dàng ngồi bên cạnh nó chính là chủ nhân của giọng nói êm êm khi nãy. Bà là mẹ Nguyễn Ánh, bà đang nhìn Linh Lan với đôi mắt quan tâm khi thấy nó ngơ ngác như người mất hồn. Gãi nhẹ sóng mũi, Linh Lan gượng cười.

- Dạ không, không có gì đâu bác. Cháu không sao.

Người phụ nữ mỉm cười, nụ cười hồn hậu khiến Linh Lan cảm thấy ấm lòng. Lúc Nguyễn Ánh dẫn nó đến trước gia đình giới thiệu, nó chỉ chào hỏi lấy lệ vì sự kiện lần đầu tiên nhuốm máu vẫn chưa phai nhòa trong nó, bây giờ, bình tâm trở lại, Linh Lan mới có thể quan sát từng gương mặt trong gia đình Nguyễn Ánh một cách rõ nét. Người đang ngồi bên cạnh nó là mẹ Nguyễn Ánh, bà ngồi cùng với ba thiếu nữ xinh đẹp mặc áo nâu, nước da mặn mà. Một nàng đang ôm đứa bé trong lòng, đứa còn lại mặt bầu bĩnh, khoảng ba, bốn tuổi, mặc áo xanh đang ngồi nghịch những viên đá cuội trước nhà.

Ban nãy, Linh Lan mang máng nghe Nguyễn Ánh giới thiệu, hình như người phụ nữ đang bế con là vợ anh. Quan sát kỹ người thiếu phụ ấy, Linh Lan công nhận cô gái này có vẻ đẹp mặn mà, một nét đẹp đơn giản, khỏe mạnh chứ không kiêu sa, đài các như những nàng cung phi khác trong giới hoàng tộc. Nguyễn Ánh đã có vợ con, cũng phải thôi, nữ thập tam nam thập lục, thời buổi này mà Nguyễn Ánh chưa có vợ mới là đáng ngạc nhiên. Linh Lan thầm nhủ, đúng lúc đó, thiếu phụ chợt ngẩng đầu lên nhìn nó. Bắt gặp ánh mắt của nó, nàng nở nụ cười dằm thắm làm Linh Lan lúng túng, nhưng theo phép lịch sự nó cũng nhoẻn cười.

- Mẫu thân, con đã về rồi đây!!

Từ phía xa, một giọng nói lảnh lót vang lên, liền sau đó, một cô gái mặc áo đỏ xuất hiện, trên tay là những chùm trái ngon lành. Vừa nhìn thấy chùm trái trên tay cô gái, cậu bé áo xanh vội vàng chạy ra, tíu tít, đôi mắt sáng rỡ vui mừng. Ôm cậu bé vào lòng, cô gái áo đỏ nhoẻn cười giúi chùm trái vào tay cậu, rồi dắt cậu trở về ngồi cùng với mọi người.

Vừa mới bước chân qua cái cổng xập xệ được kết bằng những lá dừa khô, gương mặt cô gái áo đỏ sa sầm khi trông thấy Linh Lan ngồi trên ghế. Không nói không rằng, cô gái áo đỏ xăm xăm đi về phía nó, sát khí từ người cô tỏa ra nặng nề, khiến Linh Lan nửa chờn chợn, nửa ngạc nhiên vì trông cô gái này quen quen, nhưng nhất thời nó chẳng thể nhớ ra mình đã gặp ở đâu.

- Tại sao ngươi lại có cái này?

- Cái gì kia?

- Sợi dây chuyền này, ở đâu ngươi có?

Chỉ còn cách Linh Lan ba bước chân, cô gái áo đỏ đột ngột vươn tay ra, chụp lấy sợi dây chuyền trên cổ Linh Lan, khiến nó theo đà phải đứng dậy đối diện với cô ta. Nhìn con chim phụng bằng bạc lấp lánh, đôi mắt cô gái tối lại, đầy đe dọa. Tâm trạng vốn không được tốt, nay bỗng nhiên ở đâu lại xuất hiện một cô gái lạ mặt, vô lý quát tháo, khiến Linh Lan rất đỗi bực mình. Giựt lại sợi dây chuyền từ tay cô gái, Linh Lan nhíu mày khi cô ta ghì lại, rất chặt. Sẵn cơn giận không biết xả đâu, Linh Lan rút phắt thanh trủy thủ giắt ngang thắt lưng cô gái và vung lên, nhằm vào sợi dây chuyền chém xuống. Ngay lúc đó, cô gái áo đỏ liền thả sợi dây chuyền ra và lùi lại một bước. Cánh tay Linh Lan khoa thành hình vòng cung rồi ngưng lại nửa chừng, sau đó liền hạ xuống, sợi dây chuyền đung đưa trước cổ nó như trêu ngươi. Nhìn thẳng vào gương mặt đanh lại của cô gái áo đỏ, Linh Lan nhấn mạnh từng chữ.

- Sợi dây chuyền này ở đâu tôi có không liên quan đến cô.

- Ngươi có biết sợi dây chuyền này mang ý nghĩa gì không?

Đăm đăm nhìn con chim phụng lấp lánh trên cổ Linh Lan, cô gái áo đỏ lạnh lùng. Quăng thanh trủy thủ xuống dưới đất, Linh Lan bắt chéo chân, hai tay khoanh vào nhau rồi nói êm ru.

- Không! Và tôi cũng không muốn biết nguồn gốc, xuất xứ, cũng như sự tích của nó như thế nào?

- Sợi dây chuyền đó là vật gia bảo truyền từ đời này sang đời khác trong Hoàng tộc. Khi một vị chúa muốn gắn bó trọn đời với ai đó, họ sẽ trao cho người ấy sợi dây chuyền này. Ngươi thật sự không biết hay giả vờ không biết?

Nghe cô gái áo đỏ nói một hơi không ngừng nghỉ, Linh Lan trố mắt ra vì không ngờ con chim phụng hoàng bé xíu này lại có nguồn gốc xâu xa đến thế. Cô ta nói thật hay giả vậy? Con chim phụng này là vật định ước trăm năm sao? Linh Lan la hoảng trong lòng. Đầu nó lại ong ong thêm một lần nữa khi vỡ lẽ ra những ý nghĩa hàm chứa ẩn sau con phụng đó. Trong phút chốc, từng sự kiện lần lượt diễn ra trong đầu Linh Lan, chuyện Nguyễn Ánh nhường dâu ngọt, chuyện Hữu Huân gọi nó là “cô nhà”, câu nói “cái gì của tôi cũng là của cô”, rồi lại đến vật đính ước đời đời trong dòng họ. Linh Lan choáng váng. Nó ngồi phịch xuống ghế, cả người bần thần vì vẫn chưa tin những gì mình đã nghe thấy. Lúc ở nhà Hữu Huân, nó đã ngờ ngợ ra rằng Nguyễn Ánh đối xử không bình thường với nó, nhưng vì sự vui buồn thất thường cũng như tính cách cổ quái, khi dịu dàng khi tử thần của anh đã làm nó gạt phắt ngay ý nghĩ đó. Bây giờ, nghe Ngọc Uyển nói về ý nghĩa của sợi dây chuyền bạc, Linh Lan dù muốn dù không cũng phải nghi ngờ rằng Nguyễn Ánh thật sự đã có tình cảm với nó, và vượt lên trên tất cả, rằng anh còn muốn gắn bó trọn đời với nó nên mới đeo cho nó sợi dây chuyền này. Hèn chi khi đeo cho nó, anh đã nói quân Nguyễn sẽ không làm hại nó. Họ làm sao có thể làm hại người mà chúa công họ muốn gắn bó suốt đời cơ chứ. Trời ạ! Chuyện này thật hay giả đây, mọi thứ đã đi quá xa rồi.

- Sợi dây này ở đâu ra? Là ngươi lợi dụng lúc Hoàng huynh ta gặp nguy khó mà ăn trộm phải không?

- Ngọc Uyển, không được vô lễ.

Tiếng quát khó chịu của Ngọc Uyển liền ngưng bặt khi âm thanh dịu dàng của bà Nguyễn Thị Hoàn, thân mẫu của Nguyễn Ánh, cất lên. Đưa mắt nhìn bà, Ngọc Uyển vội cúi đầu khi đọc được trong ánh mắt bà là sự không hài lòng. Dù vẫn còn đang ấm ức chuyện Hoàng huynh trao vật đính ước cho cô gái ngang ngạnh đã làm cô xém đứt lưỡi lúc ở nhà giam trong thành Gia Định, mà không phải là chị dâu Tống Thị Lan, người đã theo Nguyễn Ánh bôn ba khắp chốn, nhưng Ngọc Uyển vẫn ngoan ngoãn im lặng. Sau khi trách cứ Ngọc Uyển, Nguyễn Thị Hoàn hướng mắt về Linh lan, ân cần nói.

- Cô đừng trách Uyển nhi. Con bé vừa trải qua một hành trình dài, vẫn còn mệt, cô đừng chấp nhặt lời nó nói làm gì.

Phát hiện ra chuyện Nguyễn Ánh có tình cảm với mình, Linh Lan thật sự không thể nào chấp nhận chuyện đó được. Nó không yêu anh, nó không thích anh, cũng chẳng có chút tình cảm nào với anh cả, thử hỏi nó phải phản ứng như thế nào trong trường hợp này? Phút chốc, trong một ngày, trải qua hai sự kiện chấn động là lần đầu tiên giết người và phát hiện ra tình cảm của Nguyễn Ánh, dù chỉ là phỏng đoán, nhưng cũng làm đầu nó rối tung. Linh Lan bần thần, nó chỉ biết ngồi thẫn mặt ra mà chẳng biết phải trả lời Ngọc Uyển như thế nào. Ngọc Uyển! Cô gái đó là Ngọc Uyển! Linh Lan ngạc nhiên. Đến bây giờ nó mới nhận ra vì sao lại thấy cô gái này quen đến thế, hóa ra trước đây chính nó đã gặp qua cô nàng một lần trong nhà giam. Trước sự dịu dàng của Nguyễn Thị Hoàn, Linh Lan ngượng ngịu, nó tháo sợi dây chuyền trên cổ ra và chìa về phía bà, nói nhẹ nhàng.

- Cái này cháu trả lại cho cô.

Đọc được dấu hỏi trong đôi mắt hiền từ của bà, Linh Lan nói tiếp.

- Cháu không phải là người mà con trai cô muốn chung sống trọn đời đâu. Cháu nghĩ, người thích hợp với sợi dây chuyền này không phải cháu.

Linh Lan vừa nói, vừa đánh mắt về phía Tống Thị Lan, đang đăm đăm nhìn sợi dây chuyền trên tay nó. Nguyễn Thị Hoàn mỉm cười, bà đẩy nhẹ tay Linh Lan về phía nó, trong thoáng chốc, ánh mắt bà trở nên xa xăm, giọng nói như đang vọng về miền xa xôi.

- Nếu chính tay con trai ta đeo sợi dây chuyền này cho cô thì ta tin vào quyết định của nó. Cô hãy cứ giữ lấy, vì nó là của cô.

- Không đâu cô ạ. Nếu thế cháu càng không thể đeo sợi dây chuyền này, vì cháu không yêu Nguyễn Ánh. Cháu không yêu cũng như chẳng hề có chút xíu cảm tình nào với anh ta.

Linh Lan trả lời thành thật. Nét mặt của nó chẳng chút giả tạo, khiến Nguyễn Thị Hoàn king ngạc, bởi bà chẳng thể tin vào những gì nó vừa thốt ra.

- Ta nghe Duyệt nói cô từng là người trong Tây Sơn. Đã là người trong Tây Sơn tại sao lại giúp con trai ta, trong khi cô không hề có cảm tình với nó?

- Đúng! Cháu không phủ nhận cháu là người trong Tây Sơn, nếu muốn lĩnh công thì ngay từ đầu cháu đã báo tin cho Tây Sơn để họ đến đây bắt tất cả mọi người đưa về Gia Định, nhưng cháu không làm thế vì cháu có lý do riêng của mình chứ không phải vì cháu có tình cảm với Nguyễn Ánh. Những điều cháu vừa nói có thể cô không tin nhưng nó là sự thật. Cháu không thể giữ sợi dây chuyền quý giá như thế này, cô hãy cầm lấy và trả về cho Nguyễn Ánh đi ạ.

Linh Lan nhìn thẳng vào mắt người phụ nữ đang ngồi trước mặt, nói rành mạch từng chữ. Nghe xong những gì Linh Lan vừa nói, Nguyễn Thị Hoàn không phản ứng. Nén tiếng thở dài sâu vào tiềm thức, bà nhìn nó, lắc đầu.

- Nếu thế cô hãy tự tay giao nó lại cho con trai ta. Ta không thể giúp cô chuyện này được.

Linh Lan gượng cười khi Nguyễn Thị Hoàn từ chối. Nó không thể tự tay đưa lại cho Nguyễn Ánh vì anh chắc chắn sẽ không lấy, còn nếu quăng đi thì... Linh Lan không dám. Sợi dây chuyền này là vật định ước đời đời trong dòng tộc chúa Nguyễn, nếu nó đem vất tín vật linh thiêng này, chẳng khác nào nó đã chà đạp lên niềm tin của họ, còn nếu bảo đeo thì nó lại không thể. Linh Lan cau mày, ngẫm nghĩ một lúc, nó đem sợi dây chuyền bỏ tót vào túi. Không thể đeo, càng không thể vứt, chi bằng nó cứ để đó, tính sau vậy, huống hồ bây giờ nó còn chuyện to lớn khác phải nghĩ đến đó là bỏ trốn.

Linh Lan liếm môi, nó bí mật nhìn quanh. Quân Nguyễn đã chọn một căn nhà lá gồm ba căn liên tiếp. Nguyễn Ánh đang họp quân ở căn thứ nhất, nó cùng gia đình anh ở căn thứ hai và căn thứ ba là dành cho quân lính. Hầu như toàn bộ tướng lĩnh và quân lính đã vào họp nên nhất thời, bên ngoài chỉ có độ hai ba lính canh gác đi tuần. Phía sau gian nhà có khoảng chục con ngựa thu được của quân Đông Sơn đang được cột vào các thân cây. Nguyễn Ánh đang bận họp cùng tướng lĩnh thế nên chẳng có ai trông chừng, hơn nữa hình như anh đã bắt đầu yên tâm, lơi lỏng canh chừng khi hai ba lần nhìn sang đều thấy Linh Lan hiển hiện trong tầm mắt của mình. Trái tim Linh Lan đập khe khẽ, nó nhẹ nhàng đứng dậy. Nó biết quyết định của mình bây giờ rất táo bạo, nhưng nếu nó không nắm bắt cơ hội trời cho này thì may mắn sẽ chẳng bao giờ ghé thăm nó lần thứ hai.

- Cô đi đâu vậy?

- Hồi trưa chắc tôi ăn gì đó nên bụng không yên, tôi ra ngoài một lát.

Cố giữ giọng tự nhiên nhất khi Tống Thị Lan lên tiếng hỏi, Linh Lan khoan thai ra vườn sau, nơi có đàn ngựa đang nhởn nhơ gặm cỏ. Ngoài mặt ung dung nhưng trong lồng ngực thì tim nó đang đập thình thịch vì sợ bị ai đó phát giác ý định bỏ trốn. Giả vờ đi khuất sau một lùm cây để đánh lừa sự chú ý của mọi người trong nhà, Linh Lan rón rén vòng trở lại đàn ngựa sau khi đã quan sát kỹ càng. Cố gắng bước thật nhẹ nhàng để tránh làm bầy ngựa giật mình hí lên, Linh Lan vuốt nhẹ lên đầu chú ngựa đứng gần nó nhất với sự thân thiện. Có vẻ như chú ngựa cũng đã quen hơi người, chú cạ cạ đầu vào tay Linh Lan, làm đôi mắt nó lấp lánh vì ý định bỏ trốn đã thành công được nửa đường.

Nhìn quanh quất thêm một lần nữa, Linh Lan khá yên tâm vì chẳng ai chú ý tới nó. Nơi Nguyễn Ánh ngồi bị mấy bụi cây che khuất, trong nhà thì mọi người đang nghe Ngọc Uyển kể về chuyến phiêu lưu tìm đến doanh trại Nguyễn quân lúc ở Đồng Tuyên. Lạy trời phù hộ, Linh Lan khấn thầm trong bụng, nó nhẹ nhàng tháo sợi dây buộc con tuấn mã và leo lên lưng chú ngựa. Con tuấn mã giựt giựt vài cái rồi lộc cộc cất bước ra khỏi vườn sau. Linh Lan cúi thật thấp, ôm cổ chú ngựa, cố thúc thật nhẹ nhàng và hướng cho chú ngựa đi trên lớp cỏ êm để hạn chế gây ra tiếng động. Trái tim nó đập lô tô trong lồng ngực khi thúc ngựa tiến tới, nó rất lo sẽ có một ai nhìn thấy và báo động cho Nguyễn Ánh biết. Nó rất sợ lại có thêm một mũi tên xé gió, cắm phập vào lưng mình trong đêm tối mịt mù.

Trong sự hồi hộp của nó, con tuấn mã từ từ cất bước đi xa dần cùng với tiếng thở phào nhẹ nhõm của Linh Lan. Sau một quãng, đủ xa để người trong nhà không thể nghe tiếng vó ngựa, Linh Lan ngồi thẳng dậy, thúc ngựa tăng tốc rồi khuất dạng sau rừng dừa nước ven đường mà không biết rằng có một ánh mắt từ trong gian nhà lá đã chứng kiến tất cả sự việc đang diễn ra.

Cuối cùng, cuộc họp cũng kết thúc, Nguyễn Ánh đã phân bố nhiệm vụ cho các tướng sĩ chuẩn bị lên đường đến Phú Quốc vào ngày hôm sau. Để cho mọi người cùng được nghỉ ngơi sau chặng đường dài, Ánh ra lệnh giải tán. Đưa mắt sang gian nhà bên cạnh, mày kiếm Nguyễn Ánh nhíu lại khi không còn nhìn thấy Linh Lan ngồi bên song cửa nữa. Đứng dậy tiến ra ngoài, Nguyễn Ánh sải những bước dài về phía căn nhà. Vừa nhìn thấy anh, mọi người trong nhà đều đứng lên, cậu bé mặc áo xanh chạy về phía anh, líu ríu. Nhẹ xoa đầu đứa bé, Nguyễn Ánh đưa mắt nhìn khắp gian nhà, trái tim anh chợt cảm thấy một sự trống vắng mơ hồ. Anh không thấy Linh Lan.

- Chúa công, ngài ra sau vườn tìm thử xem, cô ấy nói có việc phải ra ngoài, đến giờ vẫn chưa thấy trở vào.

Bắt gặp ánh mắt tìm kiếm của Nguyễn Ánh, Tống Thị Lan nói, giọng đượm buồn vì rõ ràng cô gái có đôi mắt biết nói ấy rất quan trọng với phu quân của cô. Cô nhìn anh, anh lướt qua cô, ánh mắt xa vắng. Không nói không rằng, Nguyễn Ánh nhanh chóng bước ra ngoài vườn. Dù đã tìm khắp từng bụi cây, ngọn cỏ, lùng sục trong từng ngóc ngách, bóng dáng nhỏ bé ấy vẫn không thấy đâu. Trong phút chốc, đôi mắt Nguyễn Ánh tối sầm lại khi nhận ra đàn ngựa thiếu mất một con. Một tia chớp giáng thẳng xuống tâm trí Nguyễn Ánh. Anh phóng vụt lên lưng ngựa, giật mạnh dây cương khiến con tuấn mã chồm hai vó lên không trung và phóng như bay về con đường mòn phía trước, trong những tiếng kêu ngạc nhiên rơi rớt lại của mọi người.

Con đường mòn dài đằng đẵng, Nguyễn Ánh thúc ngựa như lướt trên mặt đất nhưng vẫn không tìm thấy được cô gái đã bỏ đi trước đó. Xiết chặt dây cương, kẽ tay anh ri rỉ máu. Rừng cây nhạt nhòa, tiếng gió thổi thốc, ù ù bên tai, con đường như không có điểm dừng khi đôi mắt anh mải miết nhìn về phía trước.

Không thấy…

Tiếng vó ngựa gõ điên cuồng trên mặt đất sầm sập, nghe như tiếng mưa rơi.

Vẫn chẳng thấy đâu…

Nguyễn Ánh nhếch môi cười, gương mặt anh lạnh lùng như sương. Đột ngột, tay anh ghì chặt sợ dây cương, con ngựa đang hối hả phóng như bay nay bị kiềm chế liền cất tiếng hí lồng lộng xé toạt không gian. Vó ngựa gỗ lốc cốc mấy tiếng rồi đứng im, chỉ còn ánh mắt nâu trong suốt vẫn vượt qua rừng cây xôn xao, tìm kiếm bóng dáng ai ở chân trời xa thẳm, mịt mờ.

Nguyễn Ánh ngồi bất động trên lưng ngựa. Không gian yên lặng. Trái tim anh đập từng nhịp khó khăn. Cô gái ấy đã ra đi. Cô ta đã rời khỏi vòng tay anh ngay vào lúc anh tin tưởng cô ấy sẽ ở lại bên cạnh mình. Anh đã tin tưởng cô gái ấy. Xưa nay anh chưa bao giờ tin tưởng ai nhiều như thế. Anh đã tin cô gái ấy sẽ luôn ở bên cạnh anh, sát cánh cùng anh. Anh đã luôn tin tưởng cô ấy sẽ mãi ở trong vòng tay anh, tin tưởng cô ấy sẽ là nơi chốn bình yên nhất của anh, là nơi anh có thể tìm lại được những giây phút êm đềm sau khói lửa tang thương trên chiến trường.

Anh đã tin tưởng cô gái ấy. Tin tưởng thật nhiều. Tin tưởng đến thương yêu, nhưng vào giờ phút cuối cùng, lúc anh cần cô ấy nhất thì cô ấy đã bay xa khỏi tầm tay anh. Cô ấy âm thầm ra đi, lặng lẽ biến mất mà chẳng để lại chút dấu vết nào. Cô ấy đã phản bội anh, phản bội lại lòng tin của anh.

Tại sao…?

Trái tim cồn cào của Nguyễn Ánh bật lên câu hỏi tha thiết.

Tại sao…?

Đôi mắt nâu trong suốt của anh giờ nổi giông tố như bão vần vũ trên đại dương.

Tại sao lại bỏ đi?

Chậm rãi, Nguyễn Ánh lướt mắt xuống vết sẹo trong lòng bàn tay. Vết sẹo giờ đang rỉ máu, cứa xát vào tay anh, trở nhức, và vĩnh viễn cũng không lành. Yên lặng thúc ngựa quay hướng, anh nhìn thấy Lê Văn Duyệt đang đứng đợi phía sau. Viên tướng ấy không dám thúc ngựa tiến đến gần anh mà chỉ cúi đầu khi anh lướt ngang qua, lạnh lùng như tượng đá.

Do sợ chúa công sẽ gặp nguy hiểm trên đường đi, Lê Văn Duyệt gấp rút lên ngựa đuổi theo. Thúc ngựa chạy như bay, Lê Văn Duyệt càng chạy càng lo lắng khi không nhìn thấy bóng dáng Nguyễn Ánh ở phía trước. Vì lo lắng, ông đã không ngừng thúc ngựa, kết quả là con tuấn mã của ông đã gần như kiệt sức, miệng sùi bọt mép vì chạy quá độ. Bụng ông nóng như lửa đốt, lo lắng cho con ngựa thì một nhưng lo lắng cho chúa công lại đến mười. Từ khi theo vị chúa trẻ ấy cho đến nay, ông chưa bao giờ thấy vị chúa ấy hành động khác lạ đến thế. Trong mắt ông, chúa công luôn điềm tĩnh, bình thản và trên môi luôn là nụ cười kiêu ngạo, khiến người khác phục tùng. Con đường ngày càng dài, gian nhà lá càng ngày càng xa tít tắp và bóng dáng của chúa công vẫn chẳng thấy đâu. Rốt cuộc là chuyện gì đã xảy ra? Cô gái ấy là ai mà lại khiến chúa công hành động như thế? Cô gái ấy là ai mà lại khiến chúa công đánh mất bản thân mình như thế? Cô gái ấy là ai?

Lê Văn Duyệt vừa thúc ngựa vừa suy nghĩ, đến khi nhìn thấy con tuấn mã của Nguyễn Ánh ở phía trước, ông mừng rỡ và không nén được tiếng thở dài nhẹ nhõm. Vội kềm ngựa lại, Lê Văn Duyệt giữ ý đứng ở phía sau chúa công ông một khoảng cách đủ xa để không phá vỡ bầu không khí xung quanh người, nhưng cũng đủ gần để ứng biến nếu chẳng may có bất trắc xảy ra.

Lặng lẽ quan sát Nguyễn Ánh từ phía xa, Lê Văn Duyệt ngạc nhiên khi lâu thật lâu mà chúa công của ông vẫn không quay trở lại. Ngài vẫn một mình đứng nhìn về phía chân trời xa, chiếc bóng cô độc đổ dài xuống trong ánh trăng hiu quạnh, bất động, tựa như thời gian đã ngừng trôi. Lê Văn Duyệt sốt ruột, ông nửa muốn lên tiếng, nửa lại muốn im lặng để tôn trọng không gian riêng tư đó. Đang lúc Lê Văn Duyệt phân vân, không biết nên làm thế nào thì đột ngột chúa công của ông thúc ngựa quay trở lại. Từ đằng xa, Lê Văn Duyệt nhận thấy chúa công có gì đó rất khác lạ. Bầu không khí bao trùm xung quanh ngài là yên lặng, sự yên lặng của chết chóc, khiến ông thoáng rùng mình.

Khi vị chúa trẻ tuổi tiến lại gần, Lê Văn Duyệt liền cúi đầu xuống, nhưng trong thoáng chốc đó, gương mặt của chúa công khiến ông hoang mang. Gương mặt ngài lạnh, rất lạnh, nhưng điều mâu thuẫn là ngự trị trên gương mặt lạng lùng ấy còn là một nụ cười nửa miệng tàn nhẫn, pha lẫn giữa sự ngạo nghễ và chua chát, xót xa. Sự mâu thuẫn đó khiến ông kinh ngạc vì cảm xúc ấy lần đầu tiên ông mới nhìn thấy ở chúa công. Chúa công ông đang cười đời, cười người, hay cười chính bản thân, ông không biết, chỉ biết sâu trong chúa công đã có một thứ gì đó thay đổi. Thay đổi đến nỗi khiến ông cảm thấy ngỡ ngàng và gần như là sợ hãi vì tia nhìn băng giá từ đôi mắt nâu trong suốt ấy như xuyên thấu vào tim ông...

Đêm tịch mịch. Vầng trăng khuyết hiu quạnh treo giữa trời, phủ lên cánh rừng trước mặt màu của tàn phai

Cuối con đường, tà áo vàng bay lất phất. Cô độc. Và chênh vênh.



★ Chương 107

Trên góc lầu phía tây, Nguyễn Lữ đang đứng vịn tay vào lan can, gió thổi làm những sợi tóc trước trán ông bay lòa xòa. Phóng tầm mắt nhìn ra dòng sông Tân Bình cuồn cuộn nước khi chiều về, Nguyễn Lữ cảm thấy bâng khuâng. Ông nhớ Quy Nhơn, nhớ hoàng đế thành và nhớ con sông Côn chở nặng phù sa. Cắm rễ tại Gia Định hơn hai tháng, ông đã chán ngấy những luồng gió nóng bỏng rát và sự hoang tàn cô tịch nơi này. Giờ đây, ông chỉ muốn được quay trở về Quy Nhơn ngay lập tức, quay về bên mảnh vườn yêu quý với những giò hoa mà nếu không được chăm sóc đúng cách, sẽ héo rũ trước khi ông kịp trở về.

Phía sau lưng ông, Nguyễn Huệ đang ngồi xem những tin tức về tình hình của Nguyễn quân và Đông Sơn do thám báo Tây Sơn mang về. Lướt mắt lên những cuộn giấy nhỏ với năm sáu nếp gấp, khóe miệng anh khẽ mỉm cười. Nụ cười đó Nguyễn Lữ vừa quay lại đã trông thấy nên có phần ngạc nhiên.

- Tình hình thế nào rồi? Có chuyện gì mà chú có vẻ tâm đắc thế?

- Đã có tin tức của quân Nguyễn. Đông Sơn đã chạm trán với Nguyễn Ánh chiều qua rồi.

Nguyễn Huệ trả lời, nhưng mắt vẫn nhìn tờ giấy nhỏ trên tay. Quá quen với cách cư xử thất thường của Nguyễn Huệ sau lần tranh cãi hôm đó, Nguyễn Lữ chẳng buồn bắt bẻ. Ông quẹt ngón tay lên mũi, giọng sốt sắng, lòng hy vọng Đông Sơn đã giết được Nguyễn Ánh, như thế ông có thể rời khỏi Gia Định càng nhanh càng tốt để về Quy Nhơn.

- Kết quả thế nào?

- À! Thất bại rồi.

Nói đến thất bại, nhưng nét mặt của Nguyễn Huệ chẳng chút thất vọng hay tức giận, ngược lại còn mỉm cười như thể đó là chuyện đương nhiên, biểu hiện đó của anh khiến Nguyễn Lữ chưng hửng. Ghé mắt vào tờ giấy trên tay anh, Nguyễn Lữ dò từng chữ. Đọc đến đâu, đôi mày rậm của ông cau lại đến đó. Cuối cùng, Nguyễn Lữ không nhịn được, ông vỗ tay lên bàn một cái thật mạnh khiến chén trà sóng sánh nước đổ ra ngoài, loang trên những tờ giấy, làm nét mực nhòe ra thành những hình thù kỳ quái. Nguyễn Ánh lại thoát thêm một lần nữa, hy vọng hoàn thành sớm công việc ở Gia Định đã đi tong. Nguyễn Lữ tức giận, thật sự tức giận, hai vành tai ông đỏ lên và cơn giận của ông càng dâng cao khi nhìn vào ánh mắt điềm nhiên của Nguyễn Huệ. Thái độ của anh chẳng khác gì dầu đổ vào lửa, khiến ông lại càng cay cú.

- Chú đã biết tin thất bại, thế nhưng chẳng những chú không lo lắng mà dường như còn tươi tỉnh, hài lòng lắm đấy. Ta lấy làm khó hiểu, những lần trước Nguyễn Ánh luôn đi đường Hậu Giang, lần này hắn biết chúng ta sẽ xiết chặt vòng vây thì chẳng thể bỏ qua con đường này, tất nhiên, hẳn chẳng dại gì mà đâm đầu vào đó, phải chọn lấy một con đường khác. Chuyện đơn giản như thế ai cũng có thể đoán biết, vậy mà tại sao chú lại nhất quyết cho Tây Sơn ôm lấy con đường Hậu Giang và giao cho cái lũ Đông Sơn ô hợp ấy con đường Mỹ Tho. Kết quả là gì? Kết quả là Nguyễn Ánh lại ung dung thoát thân, còn Đông Sơn quân thì thất bại thảm hại khi con mồi đã ở ngay trước mắt. Chú tám, chú hợp tác với Đông Sơn để có kết quả này hay sao? Hay chú tin vào khả năng phán đoán của mình, rằng chú sẽ không bao giờ lầm hoặc thất bại?

Trước sự mỉa mai của Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ không phản ứng. Anh dựa lưng vào ghế, tay chống lên cằm, mắt nhìn ra bụi tre vàng óng xào xạc bên ngoài, dường như chẳng để tâm lắm đến những lời vừa rồi của Nguyễn Lữ. Thái độ điềm nhiên, phớt lờ của anh khiến Nguyễn Lữ sửng sốt. Ông hết nhìn ra bên ngoài, nơi ánh mắt của Nguyễn Huệ treo lại, rồi lại nhìn lên gương mặt em ông, cố tìm xem đằng sau cái lớp vỏ điềm đạm, thách thức đời với nụ cười ngạo nghễ đó ẩn chứa những suy nghĩ gì. Sau một hồi quan sát, Nguyễn Lữ chẳng thể kết luận được điều gì, ông tằng hắng một tiếng rồi cất lời, giọng nói dùng dằng trong cuống họng.

- Chú tám, chú có nghe ta nói gì không?

- Có!

- Vậy sao chú không trả lời?

- Vì em muốn để anh suy nghĩ… Nhưng có vẻ như, anh thì không suy nghĩ được gì ngoài việc chỉ biết hỏi người khác tại sao!

Nguyễn Lữ nhướng mắt, ông đứng thẳng lưng, cắt ngang tầm nhìn của Nguyễn Huệ. Không quan tâm đến hành động ấy, đôi mắt tăm tối của Nguyễn Huệ nhìn xuyên qua Nguyễn Lữ, tìm đến với vùng trời xanh bên ngoài, tựa như chẳng có vật cản nào. Thái độ của anh khiến ông vừa khó chịu vì sự thờ ơ ấy, vừa tức giận vì dường như em ông không coi ông là anh trai của mình.

- Chú nói thế nghĩa là sao?

Vừa nói xong, Nguyễn Lữ chợt cau mày khi nhận ra ông lại vừa hỏi “tại sao…?”, hệt như những gì Huệ đã nói. Nhìn những nếp nhăn trên trán Nguyễn Lữ xếp lại với nhau, Nguyễn Huệ nhếch môi cười, anh từ tốn.

- Không phải những chuyện đó em không biết, mà là em không làm. Anh cũng biết quân Nguyễn sau trận Đồng Tuyên thoát được không bao nhiêu. Đụng độ Nguyễn Ánh, Đông Sơn tuy thất bại nhưng điều đó không có nghĩa là Nguyễn quân đuổi được chúng đi mà không hao tổn một binh một tốt nào. Chưa kể con đường tiếp theo Nguyễn Ánh chọn là ra khơi đến Phú Quốc, mà ngoài biển khơi thì anh cũng biết đang có các toán cướp biển người Xiêm hoành hành. Hắn sẽ còn phải đụng độ đám cướp biển đó, sớm thôi.

- …

- Bố trí Tây Sơn chặn Hậu Giang, mục đích là buộc Nguyễn Ánh và quân đội của hắn phải đi đường Mỹ Tho. Qua nhiều chặn đường và chướng ngại như thế, muốn hay không muốn, vượt qua hay không vượt qua thì cái giá hắn phải trả chính là sự suy kiệt lực lượng dần dần. Chúng ta chỉ cần ngồi chờ và trông chừng bọn chúng, không phải động một binh một tốt nào mà khiến chúng tiêu hao sinh lực từ từ. Đến khi toàn quân hắn rệu rã thì đến lượt chúng ta ra tay, tung một mẻ lưới hốt sạch. Làm thế chẳng những lợi dụng các thế lực khác một cách triệt để, tránh hao binh tổn tướng của ta, mà còn từng bước khiến quân Nguyễn trở thành lũ chuột chạy trong mê cung đã được dựng nên, đẩy chúng dần tiến đến kết cục mà ta đã chuẩn bị ở lối ra. Vừa là một trò chơi thú vị, vừa là một kế sách hay, há chẳng phải vẹn toàn lắm sao?

Tuy không thích cá tính ngạo ngược của Nguyễn Huệ bây giờ, nhưng Nguyễn Lữ phải công nhận rằng em trai ông tính toán kế hoạch rất tỉ mỉ và chu đáo, đến độ không tìm thấy bất cứ sơ hở nào. Mấp máy môi tính nói gì đó, Nguyễn Lữ kịp thời ngưng lại khi một người lính Tây Sơn đang vội vã bước vào lầu với thái độ khẩn trương. Khấu đầu trước hai vị chủ tướng, người lính nói nhanh.

- Bẩm tiết chế, tướng quân, thuộc hạ vừa nhận được tin thủ lĩnh Đinh Hồ và nhiều binh sĩ của Đông Sơn được tìm thấy đã chết ở cánh rừng thưa phía tây, cách địa phận Mỹ Tho không xa. Chúng thuộc hạ nghi ngờ bọn họ đã bị Nguyễn quân truy kích và tiêu diệt ạ.

Nhận được tin tức mới nhất từ thuộc hạ bẩm báo, những lời Nguyễn Lữ tính nói, chưa thoát khỏi đầu môi đã vội bay hơi. Ông quay sang Nguyễn Huệ, nhìn em trai với ánh mắt chế giễu, đồng thời nhấn nhá từng lời.

- Chà! Chú tính toán thật chu đáo, chu đáo đến nỗi thủ lĩnh Đông Sơn chết khi nào cũng không biết. Như thế mà muốn tổn hao sinh lực của Nguyễn Ánh sao?

Trước sự mỉa mai của ông, Nguyễn Huệ yên lặng, không phản bác cũng chẳng tỏ vẻ khó chịu mà chỉ nhìn vào mắt Nguyễn Lữ, điềm đạm. Ánh mắt u tối, thẫm lạnh chẳng chút ánh sáng của anh khiến trán Nguyễn Lữ rịn mồ hôi. Đến lúc Nguyễn Lữ tưởng chừng như nội tâm của ông đều phơi bày rõ rệt dưới ánh mắt tăm tối ấy thì đột ngột, Nguyễn Huệ đứng lên rời khỏi phòng mà không nói với ông câu nào. Anh chỉ dặn dò tên lính ngắn gọn rồi quay đi.

- Hãy thông báo những gì ngươi vừa nói với ta cho các phó tướng Lê Anh, Đình Toàn, Đặng Triệu của Đông Sơn. Nhớ, chính xác những gì ngươi vừa nói.

Hành động bất ngờ và khó hiểu ấy khiến Nguyễn Lữ ngạc nhiên, ông muốn hỏi như anh đã bước ra khỏi phòng. Nhìn theo bóng dáng Nguyễn Huệ, giờ chỉ còn là một chấm nhỏ, Nguyễn Lữ lại phân vân tự hỏi rằng, thật ra ẩn sau lớp ngoài gai góc ấy, em trai ông đang suy nghĩ những gì.

Rời khỏi lầu cao, Nguyễn Huệ ra khỏi thành, anh tìm đến bờ sông, nơi gió rì rào reo trong nắng chiều. Nơi này ít người qua lại nên rất yên tĩnh, và Nguyễn Huệ đặc biệt thích sự yên tĩnh, yên tĩnh như chính con người anh. Rút thanh kiếm giắt ngang thắt lưng, ánh kiếm lung linh phản chiếu, khiến đôi mắt thẫm tối của Nguyễn Huệ bàng bạc như phủ sương.

Thủ lĩnh Đông Sơn cùng thuộc hạ đã chết ở mé rừng phía tây.

Khóe miệng Nguyễn Huệ vẽ thành nụ cười mơ hồ. Mé rừng phía tây, đó là nơi Đinh Hồ và tàn quân của hắn đã hẹn anh đến chi viện sau khi để Nguyễn Ánh thoát đi…

oOo

Hoàng hôn nhanh chóng buông xuống, cánh rừng phía tây nhạt nhòa trong vạt nắng cuối ngày. Dưới những hàng dừa thì thào trong ánh tà dương, Nguyễn Huệ ngồi trên lưng ngựa, tấm áo bào bay phần phật trong gió, sắc đỏ như tan vào màu hoàng hôn. Đôi mắt anh lấp lánh tia sáng, nhìn về phía trước, lặng yên như một pho tượng đá. Phía sau lưng anh là năm viên lính Tây Sơn khác, tất cả đều ngóng mắt về phía trước, chờ đợi toán quân Đông Sơn của Đinh Hồ xuất hiện theo lời hẹn với chủ soái.

Họ không cần phải chờ đợi lâu. Trời vừa tắt nắng, sau rừng dừa thưa thớt, Đinh Hồ nhanh chóng xuất hiện cùng với đám thuộc còn lại của mình. Nét mắt hắn vô cùng mệt mỏi, nhưng trong sự mệt mỏi đó còn chất chứa sự thống hận vì cơ hội đã vuột qua tầm tay. Trông thấy Nguyễn Huệ đứng đợi ở phía trước, gương mặt vuông vức, chán chường của Đinh Hồ rạng dần lên. Hắn tiến về phía anh, vòng tay khấu chào đầy kiểu cách.

- Phiền đích thân tướng quân đến tận đây, chúng tôi thật áy náy quá!

Đinh Hồ vừa nói vừa cười, Nguyễn Huệ cũng mỉm cười. Đôi mắt lạnh và sâu thẫm lại, phản chiếu vệt đỏ cuối trời khiến ánh mắt ấy như có lửa. Lướt mắt nhìn dàn quân Đông Sơn còn sót lại chỉ hơn chục mạng, Nguyễn Huệ cất tiếng, giọng nói êm ru.

- Đã đụng độ với Nguyễn Ánh rồi sao?

- Vâng! Đã đụng độ, nhưng tiếc thay quân Nguyễn lại đến cứu viện kịp lúc, chứ không thì...

Nhắc đến chuyện đã xảy ra, Đinh Hồ không tránh khỏi tức giận. Hắn gằn từng tiếng một, trong khi Nguyễn Huệ lại vô cùng bình thản.

- Vậy là các ngươi đã thất bại?!

- Không! Là chúng tôi sẽ thành công nếu không có quân Nguyễn can thiệp vào - Đinh Hồ phản bác ngay lập tức, xưa nay hắn rất ghét hai từ thất bại, nhất là trong trường hợp này.

- Đối với ta, thành công là thành công, thất bại là thất bại. Không có chữ “nếu”

Nguyễn Huệ ném vào gương mặt đỏ phừng như tôm luộc vì tức giận của Đinh Hồ một nụ cười mỉa mai, khiến hắn phải im lặng. Hắn biết rằng lúc này, có nói gì đi nữa thì sự thật hiển nhiên là hắn đã để vuột mất Nguyễn Ánh ngay trước mũi. Khụt khịt hai ba cái, Đinh Hồ ướm lời.

- Phải! Tôi thừa nhận chúng tôi đã thất bại, nhưng chúng tôi cũng đã biết tung tích Nguyễn Ánh hiện đang ở đâu. Bây giờ chúng ta quay lại đó và đuổi theo cũng không muộn. Các cánh quân do các phó tướng của tôi chỉ huy giờ không thể đến kịp, nếu chỉ có mình chúng tôi thì không thể chọi lại quân Nguyễn, nhưng nếu có tướng quân giúp sức thì...

Đinh Hồ chưa nói hết câu, đột ngột, hắn cảm thấy bụng mình đau nhói. Đưa mắt ngó xuống, đôi mắt Đinh Hồ trợn lên như muốn rách khóe khi nhìn thấy một thanh đoản kiếm cắm sâu vào bụng, máu tuôn ra như suối. Những nếp nhăn trên mặt Đinh Hồ xếp chồng lại, giày xéo và đau đớn. Hắn khó khăn ngẩng đầu lên nhìn Nguyễn Huệ. In trong đáy mắt lạc dần đi của hắn là một gương mặt ngạo nghễ, khóe môi nhếch lên tạo thành một nụ cười lạnh lẽo, ánh mắt tối tăm lóe lên những tia sáng ma quái, những tia sáng bóp nghẹt trái tim Đinh Hồ khi hắn ngã lăn xuống đất. Hắn đã chết mà không hiểu tại sao mình lại chết, nên đôi mắt vẫn mở to, nhìn trân trân lên gương mặt phong sương của tử thần.

Mới thấy Đinh Hồ nói chuyện đôi ba câu, thế mà bỗng nhiên lăn đùng ra chết, cái chết nhanh chóng của chủ tướng khiến quân lính Đông Sơn kinh ngạc, hoảng hốt. Không biết tự bao giờ, Tây Sơn đã bao vây Đông Sơn vào giữa rồi ra tay ngay khi Đinh Hồ ngã vật ra và bọn chúng còn chưa hết bàng hoàng. Trong phút chốc, một cơn mưa máu rợp trời, những tiếng hự uất nghẹn cùng tiếng thây người đổ xuống đất như những bao gạo nặng nề vang lên. Đứng giữa vòng tròn tử thi, tử khí từ người Nguyễn Huệ tỏa ra, băng giá, đượm mùi chết chóc. Thanh kiếm trong tay anh đã chuyển sang màu đỏ, máu từ mũi kiếm nhỏ xuống mặt đất, tí tách từng nhịp như tiếng mưa rơi.

Sau khi hoàn thành công việc chủ tướng giao phó, những người lính Tây Sơn đá vào các xác chết không hồn của quân Đông Sơn trên mặt đất rồi tiến đến dàn thành hàng ngang trước mặt Nguyễn Huệ đợi lệnh. Một người lính tiến lên, vòng tay khấu đầu và nói sốt sắng.

- Bẩm tướng quân, toán quân Đông Sơn này đã bị tiêu diệt, tiếp theo thuộc hạ phải làm gì đây ạ?

Nguyễn Huệ mỉm cười, anh lướt mắt lên gương mặt hãy còn thiếu kinh nghiệm của người lính. Lưỡi kiếm trong tay nhanh như cắt, uốn éo như một con linh xà màu thẫm màu rồi cứa thẳng vào cổ tên lính đang đứng chờ đợi mệnh lệnh trước mặt mình. Giọng anh lạnh tanh, nói nhẹ nhàng từng tiếng như lời tử thần phán quyết.

- …Giữ bí mật!

Một tia máu nóng phụt ra, viên lính Tây Sơn mở trừng mắt nhìn chủ tướng, rồi sau đó đổ vật xuống đất, trước những ánh mắt kinh hoàng của những người còn lại....

Không gian nhuộm mùi máu tanh nồng nặc, bóng tối lan xuống cánh rừng. Những thuộc hạ đi theo anh giờ chỉ còn là những tử thi nằm la liệt,không phân biệt trên mặt đất, bên cạnh những cái xác không hồn của Đinh Hồ và quân Đông Sơn. Máu đỏ hòa lẫn vào nhau trong ánh mắt hoang lạnh của Nguyễn Huệ. Anh đứng đó, cẩn thận từng bước chân để máu không dây vào người, mỉm cười ngạo nghễ, có phần tàn độc. Thanh kiếm lóng lánh máu nhuộm ánh trăng, đẹp hoang tàn trong đôi mắt của bóng đêm.

oOo

Nguyễn Huệ mỉm cười khi dòng hồi tưởng kết thúc. Anh nâng thanh kiếm lên cao rồi bất thần chém vào không khí. Tiếng lưỡi kiếm nuốt gió rin rít, tà áo nâu bay lất phất trong không gian. Ban nãy, trước chất giọng chế giễu đắc thắng của Nguyễn Lữ khi nghe tin báo thủ lĩnh Đông Sơn đã bị Nguyễn quân giết, anh không buồn phản bác lại, hay nói đúng hơn là anh không việc gì phải nói ra tất cả cho con người lúc nào cũng chỉ biết hỏi tại sao mà không suy nghĩ được điều gì đó. Anh rất ghét những kẻ không biết sử dụng đầu óc, lúc nào cũng chỉ muốn nghe sự lý giải từ người khác, và Nguyễn Lữ là một trong số đó, cho dù đó là anh trai của anh.

Đối với Nguyễn Huệ, tất cả những chuyện đã xảy ra đều nằm đúng trong sự tính toán của anh. Một cánh rừng không thể có hai hổ, Tây Sơn muốn làm chủ Gia Định thì không chỉ là Nguyễn Ánh mà Đông Sơn quân cũng phải bị tiêu diệt, không sớm thì muộn thôi.

Mà đã thế thì tại sao không phải là bây giờ….

Nguyễn Huệ nhếch môi, đối với anh, không có gì là không thể được, chỉ là kẻ trong cuộc liệu có nắm bắt được thế trận, thời cuộc và tạo ra luật chơi cho riêng mình hay không. Dù chỉ tiếp xúc với chủ tướng Đinh Hồ và ba phó tướng Lê Anh, Đình Toàn, Đặng Triệu của Đông Sơn quân mới một lần, nhưng Nguyễn Huệ đã tinh ý nhận ra đạo quân này không còn được tổ chức tốt như dưới thời Đỗ Thanh Nhơn. Chúng bằng mặt nhưng không bằng lòng, ai cũng có mưu đồ riêng, cũng muốn tranh phần lợi cho mình, riêng chỉ có mối thù với Nguyễn Ánh thì ai cũng có, và đó đang là thứ giữ chúng kết nối với nhau. Tin tức thủ lĩnh Đông Sơn bị giết hại truyền ra, chắc chắn kẻ bị tình nghi chỉ có thể là Nguyễn quân. Mượn danh nghĩa quân Nguyễn giết đi tên thủ lĩnh sẽ dẫn đến cục diện mới với hai điều lợi. Một là khắc sâu thêm mối thù của Nguyễn quân và Đông Sơn, hai là khiến chúng yếu đi từ bên trong vì nội loạn.

Hiện thời, ưu tiên trước mắt là tiêu diệt Nguyễn Ánh, nhưng điều đó không có nghĩa là anh phải bỏ qua Đông Sơn. Không có gì hủy hoại một lực lượng mạnh mẽ và nhanh chóng hơn những mâu thuẫn bên trong. Bất đồng quyền lợi và tham vọng đã là thứ sẵn có, việc anh cần làm chỉ là cho chúng một cơ hội, một lý do, rồi thản nhiên nhìn chúng chia phe cánh, tranh đoạt quyền lợi, tự tàn sát lẫn nhau. Quẳng một mồi lửa vào chảo dầu đang nóng rồi để mặc nó tự bùng nổ, anh có thể rảnh tay, yên tâm truy sát quân Nguyễn, sau đó quay lại thu dọn tàn cuộc hỗn loạn của Đông Sơn.

Trải qua một cuộc tranh giành nội bộ, nội lực của chúng sẽ không tránh khỏi thương tổn nặng nề. Lê Anh, Đình Toàn hay Đặng Triệu, ai là kẻ chiến thắng cuối cùng, anh chẳng quan tâm, đối với anh, đằng nào cũng có lợi. Dù có thắng, lên nắm quyền Đông Sơn thì trước mặt chúng cũng chỉ còn lại một đoàn quân rệu rã, nội bộ suy yếu. Nếu thấy cần thiết thì anh sẽ quét sạch bọn chúng, nếu thấy không cần thì anh sẽ tiếp tục lợi dụng chúng, biến chúng thành công cụ để đối phó với Nguyễn quân. Nói cho cùng, ai lên làm thủ lĩnh thì mối thù của Nguyễn quân và Đông Sơn vẫn ngày một sâu đậm mà thôi.

Tạo ra những ván cờ với luật lệ của riêng mình rồi ung dung theo dõi nghêu sò đánh nhau là một thú vui của anh. Ngồi xem kẻ thù của mình lay hoay như những con rối trên sấn khấu mà anh đã vạch sẵn cho chúng quả thật thú vị, thú vị nhất trong tất cả những thứ hay ho mà anh đã trải qua... bao gồm cả Văn Bình và cô gái ấy.

Văn Bình và cô gái ấy, cô gái đã khiến tinh thần của hắn ta xáo trộn, bất an. Chính vì những xáo trộn, bất an nhỏ nhất đó, anh mới có thể vùng lên và chiếm hữu thân xác này. Anh sẽ sử dụng thân xác này để tạo ra cuộc chơi thú vị của riêng mình. Và anh sẽ chừa phần cho cả cô ta nữa, người con gái mà hắn yêu.

Nguyễn Huệ mỉm cười, một nụ cười ngạo nghễ, cứ như thể xung quanh anh, mọi thứ chẳng khác chi những trò chơi mà anh dễ dàng thao túng. Dưới ánh nắng cuối tháng năm, thanh kiếm trong tay anh lia vun vút, phát ra những tia sáng bạc mềm mại, phóng khoáng và lấp lánh như con rồng vươn mình uốn lượn giữa bầu trời. Đột ngột, Nguyễn Huệ nhíu mày khi nghe thấy có tiếng vó ngựa phi nước đại sau hàng cây. Thanh kiếm trong tay anh lơ lửng nửa chừng, rồi bất thần bắn thẳng về phía phát ra tiếng vó ngựa, sắc lạnh như chính ánh mắt anh hiện giờ.

Một tiếng “ối” hoảng hốt vang lên, thanh kiếm cắm phập vào thân cây gần đó. Trong khoảnh khắc ấy, sự ngạc nhiên lướt nhanh qua gương mặt Nguyễn Huệ khi hiện ra dưới ánh nắng chiều là một cô gái mặt mày lem luốc, mái tóc đen xơ rối, đôi mắt to tròn nhìn anh không chớp. Đó chính là cô gái đã làm Văn Bình phải mất tự chủ, đó chính là cô gái đã khiến Văn Bình nắm chiến thắng trong tay rồi mà lại tự thả ra. Đó chính là Linh Lan.

Và cô ta vẫn còn sống để trở về đây.

Trong khi Nguyễn Huệ đang yên lặng quan sát nó từ đầu tới chân thì Linh Lan cũng ngại ngần với bộ dạng thê thảm của nó bây giờ. Từ lúc cưỡi ngựa trốn thoát khỏi Nguyễn Ánh, Linh Lan lần tìm về những nơi mà nó đã đi qua bằng trí nhớ của mình. Trên đường lẩn trốn, Linh Lan đã rất lo sợ sẽ chạm mặt quân Đông Sơn hay bị Nguyễn Ánh cho quân đuổi theo. Khỏi phải nói, nếu bị bắt lại, chắc chắn nó sẽ lãnh lấy hậu quả thảm khốc vì đã dám trốn khỏi anh. Mũi tên cắm phập vào lưng trong đêm Gia Định đen thẫm, nó vẫn chưa quên.

Chính vì mang tâm trạng sợ hãi như thế, Linh Lan đi cả đêm lẫn ngày không ngừng nghỉ, vượt qua bao nhiêu rừng rậm, sông suối, đến khi người ngựa cùng kiệt sức thì bóng dáng thành Gia Định quen thuộc mới hiện ra trước mắt nó. Sau bao ngày nơm nớp lo sợ, giờ đây Linh Lan như nhấc được tảng đá nặng nghìn cân đang đè nặng lên trái tim trong lồng ngực. Một nụ cười yếu ớt nở trên bờ môi khó nhọc của nó. Linh Lan cảm thấy vui mừng và ấm lòng khi nhìn thấy thành Gia Định nghiêng nghiêng trong bóng nắng chiều.

Đặt chân trở về Gia Định, Linh Lan không thể ngờ người đầu tiên mà nó nhìn thấy lại là Nguyễn Huệ. Ngồi trên lưng ngựa, nó nhìn anh không chớp mắt. Gương mặt phong sương lạnh lẽo, nụ cười bàng quang, thách thức đời trên môi anh nhắc Linh Lan nhớ, anh chính là người đã từng muốn giết chết nó.

Giết!

Dạ dày Linh Lan thốn lên. Đôi mắt trợn trừng của viên lính Đông Sơn lại hiển hiện trước mắt, thanh kiếm đẫm máu trong tay nó cắm sâu vào người anh ta. Tiếng thây người đổ vật xuống đất đến bây giờ nó vẫn chưa quên, và vĩnh viễn chẳng thể quên. Hình ảnh đó mãi vướng lại trong đầu nó, ám ảnh từng phút, từng giây.

Trên đường chạy trốn, mối lo sợ bị Nguyễn Ánh bắt được cứ lởn vởn trong đầu, nên nó không để tâm đến những chuyện khác. Nhưng giờ đây, về đến Gia Định, bỗng nhiên nhìn thấy Nguyễn Huệ, từng sự kiện xảy ra trong những ngày qua lũ lượt hiện về, rõ mồn một trong trí óc nó. Phải rồi, nó làm sao có thể quên được nó đã giết người, bàn tay nó đã nhuốm máu. Dòng máu ấm nóng dường như vẫn còn lăn trên mặt nó, tanh và nồng. Nó đã giết người.

Trong phút chốc, đôi mắt Linh Lan rưng rưng. Nó biết, đứng trước mặt nó không phải Văn Bình. Người ấy là Nguyễn Huệ, một Nguyễn Huệ tàn bạo với nụ cười ngạo mạn, thách thức cuộc đời trên môi.

Anh ta không phải Văn Bình.
Thế mà lại hay.
Vì anh ta không phải Văn Bình.

Linh Lan lẩm bẩm, đôi mắt nó ngân ngấn nước. Từng giọt lệ nóng hổi cứ thế dâng đầy, rồi chậm chạp lăn dài trên gò má nó. Từ một giọt nước mắt, bây giờ đã hóa thành một trận mưa nhạt nhòa. Linh Lan khóc. Nó bật khóc ngon lành. Từng mảng ký ức vỡ vụn, quay cuồng trong đầu nó. Sự chịu đựng, nỗi lo sợ nơm nớp trong từng giấc ngủ, mặc cảm tội lỗi dồn ép trong lòng nó nay bỗng nhiên vỡ òa theo những giọt nước mắt, tuôn tràn như thác vỡ bờ. Thế là Linh Lan khóc. Nó khóc như chưa bao giờ được khóc, khóc như mưa. Đôi vai gầy nhỏ bé run run, nức nở theo những giọt nước mắt tan vỡ trên môi.

Đang nheo mắt quan sát Linh Lan với những đánh giá thú vị trong đầu, Nguyễn Huệ ngớ người ra khi nhìn thấy Linh Lan bật khóc tức tưởi. Nụ cười ngạo nghễ trên môi vụt tắt, làn sương bạc lạnh lùng trên gương mặt dần tan, chỉ còn lại sự ngạc nhiên hiện rõ trong ánh mắt anh. Lần đầu tiên anh nhìn thấy con gái khóc, lại là người con gái mà Văn Bình yêu quý. Nguyễn Huệ ngẩn ra, anh bỗng có một cảm giác rất lạ mà anh không thể gọi tên. Một cảm giác xa lạ, mơ hồ trước nay chưa từng có, len lỏi trong trái tim anh, rồi trở thành những sợi tơ mỏng, vươn tới lý trí của anh, báo cho anh biết rằng cảm giác lạ lẫm đó chính là khó chịu. Khó chịu? Anh đang khó chịu? Anh khó chịu vì điều gì cơ chứ?

Gạt phắt cảm giác khó chịu lạ lẫm, có lẽ là vì lần đầu tiên có sự việc diễn ra mà không nằm trong dự tính của mình, Nguyễn Huệ lên tiếng. Giọng nói anh lạnh lẽo, chẳng biểu lộ chút sắc thái nào. Chắc chắc cô gái này đã được Văn Bình chiều chuộng nên mới sinh tật khóc lóc vô lý như thế này. Không được! Anh phải nhanh chóng kiểm soát tình huống này, nếu cô ta cứ khóc lóc như thế, Văn Bình chắc chắn sẽ phản ứng và nôn nóng vùng dậy, thoát khỏi sự kềm chế của anh. Trò chơi vẫn còn chưa bắt đầu, anh sẽ không cho phép bất cứ ai làm cho những toan tính của anh rối tung lên.

- Cô có biết ta là ai không?

- Biết... Anh... Là Nguyễn Huệ...

Linh Lan vừa nói vừa khóc, giọng nó đứt quãng trong tiếng nấc nghẹn ngào. Không nghe Linh Lan trả lời thì thôi, khi đã nghe, Nguyễn Huệ lại càng ngạc nhiên. Cô gái này biết anh không phải là Văn Bình, cô gái này nhận ra anh là Nguyễn Huệ, biết anh là người từng muốn giết chết cô ta, thế tại sao cô ta lại khóc? Tại sao cô ta không trốn đi mà vẫn khóc trước mặt anh?

Thình thịch!

Nguyễn Huệ cau mày. Tiếng trái tim của anh… không, chính xác là của Văn Bình đang trở mình ngày một mạnh mẽ. Văn Bình đang xót xa khi nghe thấy tiếng khóc nức nở của cô ta, hắn đang phản kháng. Nguyễn Huệ nhếch môi, anh phải làm cho cô ta thôi khóc, phải làm cô ta im đi mới có thể kiểm soát lại Văn Bình hoàn toàn.

Không nói không rằng, Nguyễn Huệ sải những bước chân dài tiến về phía Linh Lan. Đột ngột, anh vươn tay vòng qua thắt lưng nó, rồi kéo nó rời khỏi lưng ngựa mà ngã hẳn vào lòng mình. Không để cho Linh Lan kịp phản ứng, Nguyễn Huệ xiết chặt nó vào lòng, rồi anh đặt môi hôn lên vầng trán cao của nó. Từ vầng trán, bờ môi thanh tú di chuyển xuống đôi mắt đang nhòa nước, từ đôi mắt lại chuyển sang đôi má đẫm nước mắt và cuối cùng, nụ hôn của anh dừng lại ở bờ môi mềm mại ấy. Một nụ hôn thật lâu, thật sâu, khiến bờ môi anh vương nước mắt của Linh Lan. Và từ đây, lần đầu tiên anh nếm được vị mằn mặn như muối biển từ những giọt nước mắt của con người.

Linh Lan chết sững người. Mọi việc diễn ra trong tích tắc khiến những sợi dây thần kinh trong đầu nó căng lên, tê liệt. Có nằm mơ Linh Lan cũng không thể ngờ lại xảy ra trường hợp này. Nguyễn Huệ đang ôm nó, chẳng những thế, anh còn hôn nó. Những nụ hôn của anh lấy đi những giọt nước mắt của nó, khiến nó hoảng, hoảng đến mức quên cả khóc. Anh đang dùng đúng cái cách mà nó đã thoát khỏi anh để khống chế lại nó. Và cho dù có hoảng loạn đến đâu thì Linh Lan cũng không quên rằng đây là nụ hôn đầu tiên của nó. Nụ hôn đầu tiên của nó lại xảy ra vào lúc này, trong trường hợp này, với người con trai này ư?

Những câu hỏi dồn dập ùa đến, đầu óc Linh Lan quay cuồng. Nó đã cưỡi ngựa về Gia Định suốt một ngày một đêm không ngừng nghỉ, chỉ có nước lã cầm hơi, thế nên sức lực của nó giờ đã cạn kiệt, tay chân bải hoải, nhấc còn không lên chứ đừng nói là động thủ. Gắng sức xô Nguyễn Huệ ra, nhưng vòng tay anh ôm lại thật chặt, chặt đến nỗi nó cảm thấy khó thở và không thể cựa quậy. Thấy Linh Lan đã hết khóc, ngược lại còn mở to mắt nhìn anh thảng thốt, Nguyễn Huệ mỉm cười, nụ cười đầy chất mỉa mai của anh khiến nó khó chịu. Anh nâng gương mặt nó lên thật sát mặt mình, đến nỗi sóng mũi cao của anh đụng vào mũi nó, khiến Linh Lan hoảng hốt. Gương mặt nó đỏ như gấc chín, vành tai nóng ran, tim đập nhanh vì sự gần gũi này.

- Nếu còn khóc, ta sẽ còn hôn cô. Hôn đến khi nào cô cạn nước mắt thì thôi.

Linh Lan vội vàng bụm miệng lại, tay gạt đi những giọt nước mắt hãy còn vương nơi rèm mi. Nó lắc đầu nguầy nguậy. Giọng nói run run của nó cất lên, thoát ra qua những kẽ tay.

- Không! Không khóc nữa. Tôi không khóc nữa. Thả tôi ra, thả tôi ra đi.

- Chắc không?

Nguyễn Huệ nheo mắt, ánh nhìn của anh lấp lánh tia sáng ma quái. Anh ghé mặt vào sát mặt nó, bờ môi mềm chạm vào sóng mũi Linh Lan khiến nó tái mặt và nghiêng đầu sang một bên, ngả người ra sau, giọng gào lên như lạc hẳn đi.

- Chắc! Chắc mà! Thả tôi ra mau đi.

Nguyễn Huệ lừ mắt nhìn nó. Ánh mắt anh như ánh kiếm bạc lạnh lẽo, tàn nhẫn, khiến Linh Lan rùng mình. Gật đầu lia lịa để xác nhận mình sẽ không khóc, Linh Lan nhanh chóng lùi tuốt ra xa khi Nguyễn Huệ nới lỏng vòng tay. Đầu nó vẫn còn váng vất vì dư âm của những nụ hôn, đôi vai Linh Lan run lẩy bẩy. Nó trừng mắt nhìn anh, nỗi căm hờn dâng đầy rồi quay người chạy vụt đi, để con ngựa đứng nhìn theo vì chẳng hiểu tại sao Linh Lan lại bỏ mặc mình đứng gặm cỏ ở đây.

Nhìn theo bóng dáng Linh Lan xa dần, Nguyễn Huệ nhếch môi. Anh tiến lại gần con ngựa trắng và vỗ nhẹ lên đầu nó. Cô gái này đã chạy trốn khỏi quân Nguyễn an toàn, lại còn vượt qua cả một chặng đường dài để trở về Gia Định. Cũng tốt, cô ta đã trở về rồi thì anh cũng có trò chơi dành riêng cho cô ta. Chà! Sẽ phải bắt đầu trò chơi nào trước đây? Nguyễn Huệ ngẫm nghĩ. Trong khoảnh khắc, đôi mắt anh lấp lánh ánh sáng, thứ ánh sáng kỳ lạ le lói trong ánh mắt tối thẫm như mặt biển đêm, khiến gương mặt phong sương đượm nét hoang tàn. Đang còn nghĩ ngợi, đột ngột, Nguyễn Huệ nghe thấy tiếng bước chân từ xa đang tiến về phía mình. Lướt mắt về phía tiếng bước chân, Nguyễn Huệ nhướng mày khi nhận ra đó là cô gái đã bị anh hôn khi nãy. Cô ta muốn làm gì, muốn trả thù anh vụ khi nãy sao?

Trong khi Nguyễn Huệ vừa vuốt ve chú ngựa trắng vừa phỏng đoán, thì Linh Lan từ xa xăm xăm tiến về phía anh. Khi chỉ còn cách anh độ ba bước chân, nó dừng lại. Đứng trước mặt Nguyễn Huệ, ánh mắt Linh Lan lấp lánh sự kiên quyết. Nó ngẩng cao đầu, hít vào một hơi thật sâu, trấn áp trái tim đập lô tô trong lồng ngực vì dư âm của chuyện ban nãy, Linh Lan cất cao giọng.

- Nguyễn Huệ! Tôi có chuyện muốn nói với anh.

Nhướng mày nhìn cô gái nhỏ bé đứng trước mặt, Nguyễn Huệ còn chưa trả lời thì Linh Lan đã nhìn sâu vào ánh mắt u tối của anh, nói rành rọt từng tiếng với một sự nghiêm túc không thể nào hơn.

- Tôi muốn anh dạy tôi cách làm quen với chuyện lấy mạng người!



★ Chương 108

Tại góc lầu phía tây, Nguyên Thục ngồi rèn luyện chữ viết trên một chiếc bàn đá. Suốt cả buổi chiều, Nguyên Thục lay hoay mãi mà cũng chỉ được một tờ giấy, chung quy chỉ vì nó viết được một chữ, rồi lại ngồi thẫn thờ suy nghĩ một lúc, thế nên mãi mà chẳng luyện được bao nhiêu.

Sở dĩ Nguyên Thục mất tập trung như thế là vì nó đang nghĩ đến kết quả tranh cử ngôi vị Vương phi với Ngọc Xuân mấy tháng trước. Trong cuộc tranh cử ấy, nó đã thua cuộc và cái giá phải trả là suýt chút nữa nó đã bị Thánh mẫu vịn vào giao kèo của hai bên để đuổi nó ra khỏi phủ chúa. Mỗi lần nhớ đến hôm ấy, trái tim Nguyên Thục lại đập thình thịch trong lồng ngực. Nó đã hứa với Thánh mẫu là nếu thua trong cuộc đua tranh, thì nó vĩnh viễn sẽ không xuất hiện trước mặt bà. Sợ Nguyên Thục nuốt lời, Thánh mẫu đã bắt nó viết giấy điểm tên, và thật may mắn, chính nhờ cam kết đó mà Nguyên Thục vẫn còn được ở bên Trịnh Khải cho đến giờ.

Thật ra, ban đầu Nguyên Thục đã rối trí trước mệnh lệnh được ban ra của Thánh mẫu, nhưng rất nhanh sau đó, nó đã bình tĩnh trở lại và lắng nghe thật kỹ cam kết trong tờ giấy mà Thánh mẫu công bố trước mọi người.

“…Nếu thua sẽ vĩnh viễn không xuất hiện trước mặt Thánh mẫu và Dương thái phi”.

Chỉ là Thánh mẫu và Dương thái phi thôi. Một tia sáng lóe lên trong đầu Nguyên Thục, nó đòi Thánh mẫu cho tất cả mọi người hiện diện ở đó được xem bản cam kết mà nó đã ký. Giơ cao tờ giấy lên khi mọi người đều đã xem qua, Nguyên Thục nói rành rọt.

- Thưa Thánh mẫu, những gì thần đã nói, thần nhất định sẽ thực hiện. Vì thần đã thua, ngôi vị Vương phi đã thuộc về Ngọc Xuân, vậy cho nên thần sẽ thực hiện những điều được ghi trong tờ cam kết này. Như mọi người đều đã đọc, theo thỏa thuận trong cam kết, từ nay thần sẽ không xuất hiện trước mặt người và Dương thái phi nữa, chứ không phải rời khỏi phủ chúa, xin người hãy xem xét kỹ càng ạ.

Trước gương mặt trắng sáp tái lại vì tức giận của Thánh mẫu, Nguyên Thục thản nhiên trao lại tờ cam kết cho Bùi Văn Bích để ông đem lên cho Dương thái phi tra xét. Đúng như lời Nguyên Thục nói, trong cam kết, nó chỉ hứa sẽ không xuất hiện trước mặt Thái phi và Thánh mẫu, chứ không nói sẽ rời xa Trịnh Khải. Bản cam kết tất cả mọi người đều đã đọc qua, giờ nếu tiếp tục làm khó Nguyên Thục, e sẽ khiến cho quần thần dị nghị, dèm pha. Đến nước này, Thánh mẫu và Dương thái phi chỉ biết thả rơi người xuống ghế, nhìn Nguyên Thục trừng trừng mà không nói được lời nào.

Về phần Nguyên Thục, bất đắc dĩ lắm nó mới phải dùng đến cách lách luật này. Căn cứ vào nét mặt của Thánh mẫu cùng Dương thái phi thì nó đã biết là khoảng cách giữa đôi bên đang ngày một sâu thêm, không sao lấp đầy được. Chuyện hòa hợp với hai người họ để Trịnh Khải vui lòng giờ đây quả thật quá khó, nếu không muốn nói là không nhiều hy vọng. Trước chuyện lách luật, Nguyên Thục cảm thấy áy náy, nhưng nó lại không còn cách nào khác hơn vì bản thân nó không hề muốn rời xa Trịnh Khải. Nó muốn được ở bên cạnh anh, cho nên nếu phải hy sinh thì nó đành hy sinh mối quan hệ giữa nó và Thánh mẫu, thái phi. Dẫu sao thì quan hệ của nó với hai người họ vốn cũng không tốt, nay có phát triển theo chiều hướng xấu đi cũng chẳng vấn đề gì.

Nghĩ đến đó, Nguyên Thục bất giác thở dài. Ngọc Xuân có hậu thuẫn, lại giỏi dang, đặc biệt cô gái ấy cũng rất yêu Trịnh Khải, tình yêu mà Nguyên Thục vô tình nhận ra qua ánh mắt e lệ, đằm thắm của cô dành cho anh. Ngọc Xuân xứng đáng là Vương phi hơn ai hết. Việc Ngọc Xuân làm Vương phi, Nguyên Thục không buồn, việc cô sẽ được tấn phong trong nay mai không làm nó bận tâm đến. Thế nhưng điều nó lo nhất, sợ nhất và đau lòng nhất đó là việc với địa vị của mình, không sớm thì muộn, Ngọc Xuân sẽ phải sinh con cho Trịnh Khải để ngôi chúa có người nối dõi. Mỗi lần nghĩ đến đó, tim Nguyên Thục nghẹn lại, nó không muốn bất kỳ cô gái nào ở trong vòng tay của Trịnh Khải, sinh cho anh những đứa con xinh xắn ngoài nó. Đã nói trước đây anh có bao nhiêu người nó không cần biết, chỉ biết đã có nó rồi thì anh không được có một ai khác. Trịnh Khải đồng ý, nó tin anh, nhưng liệu Thánh mẫu và Dương thái phi có đồng ý điều đó hay không?
Nguyên Thục nhìn những chữ viết nghệch ngoạc, lem nhem trên giấy trắng mà thở dài, nó không thể luyện chữ khi mà lòng dạ rối bời như thế. Xếp tất cả giấy bút, nghiên mực trao cho A Đào và A Vân mang vào phòng cất, Nguyên Thục rũ áo đứng lên, chân hướng về tòa Ngự lâu. Dẫu biết giờ này chắc chắn Trịnh Khải đang phê duyệt tấu chương, sẽ không có thời gian dành cho nó, nhưng nó vẫn muốn đến thăm anh bởi mỗi lần phiền muộn, chỉ cần nhìn thấy anh là Nguyên Thục đã cảm thấy những u uất trong lòng vơi đi phần nào.

Đối với mọi người, Ngự lâu là nơi cấm kỵ, không phải ai cũng có thề tự tiện đến, còn muốn đến thì phải có người báo tin cho Trịnh Khải trước, nhưng với Nguyên Thục thì không cần phải rườm rà thế. Trịnh Khải đã dành một ngoại lệ đặc biệt cho nó, đó là nó có thể đến Ngự lâu bất kỳ lúc nào mà không cần phải thông báo. Trong bóng chiều tà, mái ngói vàng óng của tòa Ngự lâu chiếu những tia sáng rực rỡ soi bóng xuống mặt hồ. Hoa sen tháng sáu nở, hương thơm nhè nhẹ đưa. Nguyên Thục thoáng vu vơ. Mỗi lần đến phòng Trịnh Khải nó đều mang theo hoa cắm, nhưng với tâm trạng u ám như hôm nay thì nó khó có thể hoàn thành tốt bất cứ việc gì.

Đúng với suy đoán của Nguyên Thục, Trịnh Khải đang ngồi trên một chiếc đôn bọc gấm, trước mặt là một chồng tấu chương cao ngất. Cây bút lông cán trúc trong tay anh không ngừng lay động, đôi mày kiếm chau lại, dường như đang gặp một vấn đề nan giải nào đó mà chưa thể phê duyệt. Nghe có tiếng mở cửa, Trịnh Khải ngẩng đầu lên, đôi mày chau lại giãn ra, trên môi nhẹ nở nụ cười khi nhìn thấy Nguyên Thục rón rén bước vào.

Cố gắng không phát ra trong tiếng động trong tòa Ngự lâu tĩnh lặng, Nguyên Thục nhẹ nhàng ngồi xuống bên cạnh Trịnh Khải. Qua bờ vai rộng lớn của anh, nó nhìn thấy những dòng chữ đen thẫm, báo về nạn ruồi, muỗi tấn công trâu bò ở trấn Kinh Bắc với mật độ cao, xin được chỉ cách giải quyết, trong tấu chương anh đang phê duyệt. Ruồi muỗi tấn công trâu bò, còn truyền vô số bệnh tật cho vật nuôi, nếu như thế chăn nuôi sẽ giảm sút, nhân dân sẽ đói kém và không thể nộp tô thuế đầy đủ cho triều đình. Nguyên Thục chau mày, nạn ruồi muỗi này làm sao để giải quyết một cách nhanh chóng mà không ảnh hưởng gì đến gia súc, trong khi thời này không có thuốc hóa học hay trừ sâu.

Nguyên Thục ngẫm nghĩ, chỉ một phút sau, đôi mắt nó sáng lên vì một sáng kiến lóe lên trong đầu. Níu áo Trịnh Khải buộc anh quay người lại, Nguyên Thục hớn hở, nói nhanh.
- Anh này, chỉ cần đốt tầm một cân lá bầu khô hay hai cân bã chè búp khô để khói xông vào chuồng trại gia súc, gia cầm, khói của lá bầu khô và chè xanh có tác dụng xua đuổi ruồi khỏi chuồng trại. Sau đó sắc một cân rưỡi lá bầu tươi, lấy nước tắm cho một con trâu, bò trưởng thành hay hai con bê, nghé, lợn lớn. Mùi lá bầu tươi có tác dụng xua đuổi ruồi khỏi cơ thể vật nuôi, như vậy có thể hạn chế được phần nào bệnh tật từ gia súc rồi.
Trịnh Khải ngạc nhiên nhìn Nguyên Thục. Trước ánh mắt ấy, Nguyên Thục cười đằm thắm.

- Thật mà! Cách này có thể chống lại nạn ruồi muỗi đang hoành hành ở các vùng quê, tin em đi. Hồi em còn ở quê, em đã có lần thấy mọi người dùng cách này rồi, hiệu quả lắm...

Nghe Nguyên Thục trình bày cách giải quyết với sự hăm hở, Trịnh Khải mỉm cười. Cây bút lông trong tay anh lay động, ý kiến của Nguyên Thục đã được anh chấp nhận và phê vào tấu chương kèm theo cách giải quyết. Nhìn những dòng chữ nho nhã của Trịnh Khải, Nguyên Thục vui lắm, nó vui vì đề nghị của nó được phê duyệt, và vui vì cảm thấy mình có ích cho anh. Niềm vui ấy vừa dâng lên, khuôn mặt Thánh mẫu và Dương thái phi lại hiện ra khiến lòng Nguyên Thục chùng xuống. Do thua cuộc với Ngọc Xuân nên nó phải tuân thủ giao kèo giữa hai bên, tuy đã lách được luật nhưng hậu quả kèm theo là việc hai người họ ở đâu thì nó phải tránh mặt chỗ ấy, điều đó làm nó không được vui. Suốt mấy tháng qua, ngày nào Dương thái phi cũng cùng Ngọc Xuân đến ngự lâu của Trịnh Khải. Nó biết bà đang cố vun đắp cho Ngọc Xuân và anh, và nó cũng nghe rằng Thánh mẫu đã lựa được ngày lành tháng tốt làm lễ tấn phong Vương phi cho Ngọc Xuân.

Lễ tấn phong Vương phi cho Ngọc Xuân, và sau đó là...

Trái tim Nguyên Thục nhói lên, đau thắt. Nó nhắm tịt mắt, lắc mạnh đầu để tống khứ suy nghĩ ấy ra khỏi tâm trí, nhưng những ý nghĩ ấy cứ như rễ sâu bám chặt vào trái tim nó, khiến nó bứt rứt vì cảm giác khó chịu, nặng nề.

Khi sớ tấu cuối cùng đã phê duyệt, Trịnh Khải xếp tất cả tấu chương vào chiếc tráp vàng dùng cho buổi thiết triều ngày mai. Gác chiếc bút lông thẫm mực lên giá, Trịnh Khải quay sang Nguyên Thục, đôi mày thanh tú nhíu lại khi in vào đáy mắt thăm thẳm của anh là gương mặt ủ ê, sầu muộn của nó. Dù Nguyên Thục không nói ra, nhưng Trịnh Khải vẫn hiểu hết những u uất trong lòng nó. Đối với anh, ai có là Vương phi cũng không quan trọng, nhưng hình như Nguyên Thục lại không nghĩ thế. Qua sự việc vừa rồi, anh mới nhận ra rằng dường như anh không biết gì về Nguyên Thục, về xuất thân cũng như những sở thích của nó. Thói quen của anh Nguyên Thục đều ghi nhận hết, nó chăm sóc anh rất chu đáo. Nguyên Thục dành phần lớn thời gian của mình để làm bánh, nấu ăn, cắm hoa và tỉ mẩn làm những túi hương đặt dưới gối vỗ về giấc ngủ cho anh. Tất cả những chi tiết nhỏ nhặt đó anh đều ghi nhận, Nguyên Thục đang cố gắng vì anh, và anh, hình như chưa bao giờ thể hiện tình cảm hay chăm sóc Nguyên Thục một lần nào.

Trịnh Khải thở nhẹ, anh vươn tay gạt những sợi tóc mai rũ xuống trước trán Nguyên Thục, cử chỉ đó khiến nó ngạc nhiên. Ngước mặt lên, đôi má Nguyên Thục ửng hồng khi bóng hình nó lấp lánh trong ánh mắt trìu mến của anh. Nhẹ kéo Nguyên Thục ngã vào lòng, Trịnh Khải choàng tay vòng qua người Nguyên Thục, một cái ôm thật chặt, nhưng cũng thật dịu dàng.

Bỗng nhiên được Trịnh Khải ôm vào lòng, trái tim Nguyên Thục đập rộn ràng. Mùi trầm hương từ ống tay áo anh nhẹ vây lấy người nó, khiến phiền muộn trong nó tan theo những áng mây bay ngoài trời. Dựa hẳn vào lòng Trịnh Khải, Nguyên Thục đan những ngón tay nhỏ nhắn, lấp đầy khoảng cách giữa các ngón tay gầy của anh. Bàn tay ấm áp, rộng lớn này khiến trái tim nó trở nên yếu đuối. Từ trước tới nay Nguyên Thục luôn sống độc lập, không dựa dẫm vào một ai, nhưng kể từ khi lạc về quá khứ, gặp anh và yêu anh, nó cảm thấy mình sao yếu đuối đến thế, luôn lo sợ, luôn bất an và luôn muốn có anh bên cạnh chở che.

- Thục nhi, quê hương nàng ở đâu?

Giọng nói ấm áp của Trịnh Khải kề bên tai Nguyên Thục, khiến nó vừa thẹn thùng lại vừa ngạc nhiên. Bao lâu nay anh chưa bao giờ hỏi đến thân thế của nó, nay đột ngột lại muốn tìm hiểu, chẳng lẽ anh nghi ngờ lời khai của nó lúc Thánh mẫu truy vấn, chẳng lẽ đến cả anh cũng cho rằng nó không phải người thuộc về nơi này hay sao?

Thấy Nguyên Thục im lặng không trả lời, Trịnh Khải nhẹ nhàng lên tiếng., đôi mắt anh thẫm lại, như có bóng tối loang dần.

- Nàng không muốn trả lời cũng không sao!

Trong thoáng chốc, giọng nói của Trịnh Khải nhẹ tênh. Nguyên Thục cuống quýt, nó vội vã quay người lại đối diện với anh, miệng thanh minh vì sợ Trịnh Khải không vui.

- Không! không phải em không muốn trả lời, chỉ là không biết phải nói như thế nào thôi.

- Nàng nói đi! Ta sẽ nghe.

Trịnh Khải mỉm cười, nụ cười ấy khiến Nguyên Thục an tâm. Nó rúc vào vòng tay anh, lòng suy nghĩ sẽ phải nói như thế nào để Trịnh Khải hiểu, và cũng không lộ ra chuyện nó vì một làn sương đỏ kỳ lạ mà lạc chân về quá khứ xa xưa.

- Em ở một nơi xa lắm, rất xa. Quê hương em có nhiều tên gọi, thường thì người ta gọi nơi đó là thành phố Hồ Chí Minh, nhưng em lại thích cái tên Sài Gòn hơn.

- Thành phố Hồ Chí Minh?

Trịnh Khải cau mày khi nghe thấy một địa danh lạ lẫm từ Nguyên Thục. Anh hỏi lại với giọng ngạc nhiên, sự ngạc nhiên đó khiến Nguyên Thục thích thú. Nó bật cười khúc khích.

- Em đã nói là em ở một nơi xa lắm, rất xa, xa đến nỗi trên bản đồ không có đâu. Quê hương em rất đẹp, có sông Sài Gòn, có chợ Bến Thành, có nhà thờ đức bà, có bến Bạch Đằng, có hàng me xanh lá… Và còn rất nhiều những món ăn mà em thích nữa.

Nguyên Thục kể đến đâu, gương mặt nó rạng ngời đến đó. Nó say sưa kể cho Trịnh Khải về sài gòn, về quê hương yêu dấu của nó. “Nắng Sài Gòn anh đi chợt mát, bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông”. Trong thoáng chốc, Nguyên Thục tưởng như rằng nó đang dạo chơi ở chợ Bến Thành, đang hóng mát trên bến Bạch Đằng, đang đạp xe trên con đường rợp bóng cây hay đang chun mũi hít hà vì vị cay xé lưỡi của món bún bò Huế gần trường. Mọi ký ức lần lượt trôi qua, đọng lại trong tim Nguyên Thục là sự nhung nhớ. Tất cả chỉ là tưởng tượng. Và nó ngậm ngùi, tiếc nuối khi biết rằng sẽ không thể nào bước đi trên vỉa hè rợp bóng me xanh thêm lần nào nữa.

- Nàng nhớ quê hương lắm phải không?

Ôm Nguyên Thục trong vòng tay,Trịnh Khải nhẹ nhàng hỏi. Nguyên Thục trả lời, giọng bùi ngùi.

- Vâng! Nhớ lắm.

- Nàng có muốn trở về không?

- Em rất muốn, nhưng không thể được. Bởi vì... bởi vì...

Nguyên Thục nói đến đây liền ngập ngừng vì không biết phải nói như thế nào. Làm sao có thể trở về được khi quê hương nó cách đây những ba trăm năm, làm sao nó có thể trở về được khi làn sương đỏ kỳ lạ ấy biến mất như chưa từng tồn tại? Nhưng, nếu nó có thể trở về được thì nó có trở về không? Câu trả lời là không, bởi vì ở hiện tại không có Trịnh Khải. Chỉ nghĩ đến việc sẽ phải rời xa anh thôi là Nguyên Thục đã thấy khó thở, huống chi nếu mãi mãi không nhìn thấy anh nữa thì đối với nó đó trái đất này cũng chỉ là một đám bụi tàn. Nguyên Thục cắn môi, nó vùi mặt vào lòng Trịnh Khải, tay xiết chặt áo anh. Nó rất muốn trở về hiện tại, về với gia đình, về với góc phố, nơi nó đã trải qua thời thơ ấu đẹp tươi, nhưng nếu phải chọn lựa giữa quá khứ và hiện tại thì nó sẽ ở lại đây. Vượt qua ba trăm năm mới tìm thấy người mình yêu, nó không thể từ bỏ, cuộc sống xưa kia, gia đình êm ấm, nó sẽ trân trọng cất giữ vào một ngăn trong trái tim mình, đến suốt đời.

Thấy Nguyên Thục ngập ngừng rồi không nói tiếp, Trịnh Khải cũng thôi không gặng hỏi nữa. Anh không muốn làm nó khó xử vì nhận ra sự tiếc nuối, vương vấn trong giọng nói của Nguyên Thục. Dù biết rằng không phải, nhưng lòng anh chợt nhẹ nhõm, chợt vui khi Nguyên Thục bảo mình sẽ không đi, ít nhất là Nguyên Thục không rời xa anh. Nguyên Thục nhớ nhà, anh biết, nhưng anh cũng biết bản thân ích kỷ, chỉ muốn Nguyên Thục không đi mà ở lại bên cạnh anh, mãi mãi. Nhẹ vuốt mái tóc dài xõa trên đôi vai nhỏ nhắn, Trịnh Khải yên lặng nghe thời gian nhỏ giọt. Nguyên Thục rõ ràng rất nhớ làng, nhớ nhà, nhưng tại sao nó lại không thể trở về thì vẫn là một câu hỏi lớn. Nguyên Thục không nói, anh cũng không ép, bởi vì mỗi người đều có những bí mật riêng, nhưng thấy Nguyên Thục phiền muộn vì chuyện của Thánh mẩu và buồn bã vì không thể trở về quê hương anh cũng cảm thấy không vui.

- Anh này...

Đang chau màu suy nghĩ, Trịnh Khải cuối xuống nhìn Nguyên Thục khi giọng nói nhẹ như hơi thở của nó cất lên. Nguyên Thục đang nhìn anh, đôi mắt long lanh tựa có nước mắt. Đôi mắt ấy khiến Trịnh Khải mềm lòng, anh vuốt nhẹ gò má mịn màng của nó, nơi vết sẹo đã mờ dần và biến mất nhờ túi thảo dược của Ưu Phong.

- Chuyện gì?

- Anh... anh... Ngọc Xuân bây giờ đã trở thành Vương phi... liệu anh có...liệu có...

- Sao?- Trịnh Khải nhíu mày khi Nguyên Thục trở nên ấp úng, chỉ khi nào nói những chuyện quan trọng thì Nguyên Thục mới có biểu hiện xúc động như thế. Nhưng xúc động vì chuyện gì? Chẳng lẽ vì chuyện tấn phong Vương phi sẽ được cử hành trong nay mai hay sao?

- Khi Ngọc Xuân đã trở thành Vương phi rồi thì anh và cô ấy sẽ có con nối dõi, đúng không?

Khi nói đến chuyện này, trong đầu Nguyên Thục đã chuẩn bị tư tưởng trước, nhưng không hiểu sao nó vẫn không thể giữ được các ngón tay thôi run lên. Giọng nói nó run rẩy, đôi mắt nó nhìn anh thiết tha, chờ đợi câu trả lời. Trước sự căng thẳng, hồi hộp của Nguyên Thục, Trịnh Khải ngạc nhiên khi nó đột ngột đề cập đến chuyện nối dõi, rồi sau đó anh phì cười. Nụ cười ấy khiến Nguyên Thục lúng túng, chẳng lẽ nó đã nói gì sai?

- Tại sao nàng lại nghĩ thế?

- Vì... vì Thánh mẫu và Dương thái phi muốn dòng dõi chúa Trịnh có người kế tục, thế nên mới lựa chọn kỹ lưỡng và đưa Ngọc Xuân vào làm Vương phi…

- Nàng muốn Ngọc Xuân sinh con cho ta sao?

- Không đời nào!!

Trịnh Khải nheo mắt hỏi, đáp lại lời anh là phản ứng dữ dội của Nguyên Thục. Môi nó mím lại, mắt mở to trừng trừng, chẳng khác nào một chú mèo đang xù lông khi gặp kẻ thù. Trước phản ứng ấy của Nguyên Thục, Trịnh Khải chỉ mỉm cười, anh vuốt nhẹ bờ môi mềm mại của nó, ánh mắt trìu mến, dịu dàng khiến trái tim Nguyên Thục đập nhanh. Run rẩy khép mắt lại, chờ đợi, Nguyên Thục như muốn tan chảy khi Trịnh Khải đặt lên môi nó một nụ hôn ngọt ngào. Trong khoảnh khắc khát khao, Nguyên Thục vươn tay vòng qua cổ Trịnh Khải, xiết chặt. Nó nhắm mắt, cảm nhận từng nụ hôn của anh âu yếm lên trán, lên má, lên môi, và chuyển dần xuống chiếc cổ cao trắng ngần của nó. Một cảm giác rạo rực, khát khao bùng lên trong trái tim Nguyên Thục. Những lúc cả hai ở bên nhau, Trịnh Khải luôn ôm nó, luôn trao cho nó những nụ hôn ngọt ngào, nhưng chỉ dừng lại ở mức giới hạn. Hôm nay, ngoài những nụ hôn âu yếm, cơ thể Nguyên Thục nóng bừng lên khi anh hôn lên chiếc cổ run rẩy của nó. Nó không muốn Ngọc Xuân sinh con cho anh, nó không muốn bất kỳ cô gái nào ngoài nó ở trong vòng tay anh. Và, hơn tất cả, nó mong muốn mình là người phụ nữ duy nhất của anh, là mẹ của những đứa con anh và được làm một người vợ thật sự của anh, chứ không phải hữu danh vô thực như thế này.
Nguyên Thục khát khao đón nhận những nụ hôn của Trịnh Khải. Cả thân người nó nhẹ nhàng ngã xuống chiếc giường nệm êm ái, vòng tay nó ngày càng xiết chặt lấy anh, run rẩy, từng nụ hôn vẫn kéo dài ngọt ngào khiến nó chếnh choáng say. Nó nhắm mắt chờ đợi, chờ đợi, lâu thật lâu vẫn không có động tĩnh gì, Nguyên Thục liền nhè nhẹ mở mắt ra...

In trong đáy mắt của nó là gương mặt dịu dàng của Trịnh Khải. Anh đang nhìn nó. Cái nhìn sâu thẳm đến mức nó cảm thấy chơi vơi. Vuốt nhẹ bờ môi hé mở của Nguyên Thục, Trịnh Khải gỡ nhẹ cánh tay của nó khỏi cổ mình, anh ngồi dậy và tiến về giá sách. Hành động đó khiến Nguyên Thục ngỡ ngàng, lòng hoang mang tự hỏi nó đã làm gì sai để Trịnh Khải dừng lại mọi chuyện. Nó muốn được làm vợ anh, một người vợ thật sự, nhưng tại sao anh lại không tiến tới? Chẳng lẽ anh không yêu nó, chẳng lẽ anh cảm thấy thất vọng về nó vì đã quá dễ dãi với anh, và bây giờ anh đang lạnh nhạt với nó, có phải thế không?

Nguyên Thục tự chất vấn, bao nhiêu mối nghi hoặc dâng lên, khiến nó cảm thấy tủi thân và muốn khóc. Trong khi Nguyên Thục đang tự suy vấn thì Trịnh Khải đã quay lại, trên tay anh là một khối gỗ và một con dao nhỏ. Ngồi xuống cạnh Nguyên Thục, Trịnh Khải bắt đầu gọt. Con dao nhỏ trong tay anh thoăn thoắt chuyển động, khối gỗ dần dần thành hình. Và rồi với những nét khắc cuối cùng, Trịnh Khải xòe tay ra, trong lòng bàn tay anh là một con con thỏ bằng gỗ xinh xắn, khiến Nguyên Thục tròn mắt ngạc nhiên, những giọt lệ chưa kịp rơi vươn lại trên rèm mi.

- Ta tặng nàng!

Đặt vào tay Nguyên Thục con thỏ bằng gỗ xinh xắn, Trịnh Khải choàng tay ôm xiết Nguyên Thục vào lòng. Bao nhiêu cảm xúc, nghi hoặc, hờn giận, tủi thân của Nguyên Thục ban nãy dâng lên, và rồi vỡ òa trên bờ vai anh. Vỗ về bờ vai không ngừng run rẩy của Nguyên Thục, Trịnh Khải hôn lên mái tóc thoang thoảng hoa sen của nó, anh nói, giọng thật dịu dàng.

- Thục nhi, ta xin lỗi. Đừng khóc, đừng khóc.

Nguyên Thục thổn thức, nó đã chờ đợi ngày này biết bao lâu, chờ đợi sẽ trở thành một người vợ thật sự của anh biết bao lâu, nhưng anh đã không làm thế. Anh không làm thế và điều đó đã làm cho nó hoang mang vô cùng. Vùi mặt vào áo anh, Nguyên Thục cất tiếng, giọng nghẹn ngào.

- Tại sao?

- Vì bây giờ chưa phải lúc.

- Tại sao?

- Vì ta muốn tìm hiểu nhiều hơn về nàng. Ta muốn biết nàng thích gì, ghét gì. Ta muốn tạo cho nàng nhiều kỷ niệm thật vui vẻ, thật hạnh phúc. Rồi sau đó, ta muốn nàng sinh cho ta những đứa con thật đáng yêu như mẹ của nó!

Nguyên Thục ngẩng đầu lên. Trái tim của nó đập thật nhanh, thật rộn ràng khi nghe những lời Trịnh Khải vừa nói. “Ta muốn nàng sinh cho ta những đứa con thật đáng yêu như mẹ của nó”. Thật thế không? Có thật thế không? Nguyên Thục nhìn đăm đăm vào gương mặt thanh tú của Trịnh Khải. Nó hỏi nhanh vì vẫn chưa thật sự tin vào tai mình…

- Thật không? Anh... thật sự muốn như thế thật không, có thật thế không?

- Tất nhiên là thật!

Trước sự cuống quýt của Nguyên Thục, Trịnh Khải mỉm cười, đôi mắt anh lấp lánh bóng hình nó. Lau khô những giọt nước mắt trên má nó bằng những nụ hôn nồng nàn, Trịnh Khải nhẹ nhàng đáp lời. Những nụ hôn ấy khiến Nguyên Thục sung sướng. Nó nhìn anh, hỏi bằng giọng thiết tha.

- Nếu anh đã nghĩ như thế từ trước, vậy tại sao còn...

- Là vì....

Trịnh Khải đang nói liền ngưng nửa chừng, và lần đầu tiên Nguyên Thục phát hiện ra trên gương mặt anh là sự bối rối. Anh đang bối rối, Trịnh Khải đang bối rối, Nguyên Thục reo lên. Sự khám phá nho nhỏ ấy khiến Nguyên Thục thích thú, nó hỏi dồn.

- Là vì sao?

Trịnh Khải không trả lời mà đánh mắt sang nơi khác, anh càng tỏ ra ngập ngừng thì nó càng nôn nóng muốn biết câu trả lời.

- Vì sao? Anh nói đi? Vì sao nào?

- Vì... mỗi lần ôm nàng, ta luôn phải kiềm chế. Nhưng cũng có lúc ta không thể kiềm chế được, giống như khi nãy...

Nguyên Thục “A” lên một tiếng khi Trịnh Khải vừa nói dứt. Trước đây Nguyên Thục luôn tự hỏi tại sao khi cả hai ở bên nhau, Trịnh Khải vẫn chưa một lần nào làm gì quá giới hạn, đến bây giờ nó mới biết, thì ra những lúc ấy anh đang kiềm chế bản thân dữ lắm. Anh đang kiềm chế mà sao mặt vẫn tỉnh như thường, làm nó hiểu lầm rằng nó chẳng có sức hút nào với anh. Nguyên Thục cười tươi như hoa, lời thú nhận của anh như những mạch nước ngầm len lỏi vào trong trái tim nó, tưới mát tâm hồn nó. Anh thú nhận sự thật, rằng luôn phải kiềm chế mỗi khi cả hai gần nhau, nhưng điều này càng làm nó yêu anh nhiều hơn. Anh nói rằng có những lúc anh không kiềm chế được, nhưng cuối cùng anh cũng vẫn kiềm chế được, giống như ban nãy đó thôi.

Nguyên Thục tủm tỉm cười, nghĩ đến chuyện ”rồi sau đó” của anh, đôi má Nguyên Thục lại hồng lên, nó vùi mặt vào lòng Trịnh Khải, lắng nghe trái tim đập ngỡ ngàng vì hạnh phúc. Trịnh Khải nói anh muốn tìm hiểu về nó, anh muốn biết những sở thích của nó, như vậy chứng tỏ anh có quan tâm đến nó, có yêu nó và... Nguyên Thục đỏ mặt, nó không nghĩ tiếp nữa. Tay mân mê con thỏ bằng gỗ, gương măt Nguyên Thục rạng ngời niềm vui. Trịnh Khải biết gọt gỗ lại còn chạm khắc thành những con thú xinh xắn như thế này tặng cho nó. Những gì anh tặng cho nó đều là báu vật. Nó bây giờ đang rất hạnh phúc, vô cùng hạnh phúc.

- Sao anh biết làm những con thú bằng gỗ thế này?

Nguyên Thục nằm trong lòng Trịnh Khải, nó giơ cao con thỏ lên, xoay xoay trước mặt anh. Nhìn gương mặt rạng rỡ của nó, Trịnh Khải mỉm cười.

- Mỗi lần buồn phiền, ta đều kiếm một việc gì đó làm, đặt tâm trí vào đẽo gọt những con thú này thì phiền muộn trong ta sẽ vơi đi phần nào.

Nguyên Thục im lặng, dù đang rất vui nhưng nó vẫn không quên trách nhiệm Trịnh Khải đang gánh trên vai cùng quá khứ đã khép của anh. Nén lòng không hỏi đến quá khứ ấy, Nguyên Thục nhoẻn cười.

- Vậy anh từ nay đẽo gỗ, còn em tô màu, được không?

- Nàng tô màu?

Trịnh Khải hỏi, giọng ngạc nhiên. Nguyên Thục ngước nhìn anh bằng đôi mắt long lanh.

- Không được sao?

- Không! Được chứ.

- Vậy thì ngày mai nhé, ngày mai em và anh đến ngự hoa viên. Anh đẽo gỗ, em tô màu. Xong có gì chúng ta đổi lại, em đẽo gỗ, anh tô màu. Anh sẽ không phải làm việc này chỉ có một mình nữa, được không?

Nguyên Thục vừa nói, vừa mơ màng vẽ ra khung cảnh khi ấy. Trong ngự hoa viên, muôn hoa đua nở, Trịnh Khải ngồi đẽo ra những con thú xinh xắn, sau khi anh đẽo xong con nào thì sẽ chuyền qua cho nó, rồi nó sẽ cặm cụi tô màu. Những hình ảnh êm đềm ấy mới chỉ hiện ra trong đầu nhưng đã khiến Nguyên Thục tự cười một mình, lòng mong sao chóng đến ngày mai. Nhìn nó hứng thú đến như thế, Trịnh Khải không nói gì, anh chỉ mỉm cười.

Anh sẽ không làm việc này chỉ có một mình nữa…

Người con gái này rất quan trọng với anh.

[Spoiler
" Trong ánh nến hoàng lạp lung linh, đôi má Nguyên Thục đỏ hồng lên, không biết vì men rượu hay là vì niềm hạnh phúc đang dâng lên trong lòng.
Cuối cùng, giây phút này cũng đã đến rồi...." ]



★ Chương 109
 
Phủ chúa đêm nay bừng sáng, tòa Ngự lâu lấp lánh bởi những chiếc đèn lồng rực rỡ treo trên cao, những dải lụa đỏ tươi trang hoàng trước cửa bay phấp phới như đang reo vui. Trong ánh hoàng lạp lung linh, đôi má Nguyên Thục đỏ hồng lên, không biết vì men rượu hay là vì niềm hạnh phúc đang dâng lên trong lòng.
 
Cuối cùng, giây phút này cũng đã đến rồi...
 
Giấc mơ đêm qua, Nguyên Thục chỉ nhớ được có vậy. Thế nên sáng nay, mặc dù vô cùng ấm ức vì chẳng thể nhớ nổi những tình tiết sau đó, nhưng Nguyên Thục vẫn cảm thấy hạnh phúc khi hồi tưởng lại giây phút thiêng liêng trọng đại của ngày tân hôn, cho dù đó chỉ mới là mơ. Trong giấc mơ, Nguyên Thục cảm nhận rất rõ tiếng trái tim đập rạo rực của mình, cảm nhận rõ sự sung sướng, e lệ và niềm hân hoan tràn ngập khắp châu thân. Chỉ là một giấc mơ thôi mà Nguyên Thục đã bồi hồi đến thế, nếu là sự thật thì chẳng biết nó sẽ còn hạnh phúc đến đâu.
 
Vì giấc mơ đẹp đêm qua nên tâm trạng của Nguyên Thục bây giờ rất tốt. Ngự hoa viên buổi sáng mát mẻ, trên bàn đá là những chiếc bánh đậu xanh kèm bình trà sen mà sáng nay Nguyên Thục đã dậy từ rất sớm để làm. Trịnh Khải giờ này đang thiết triều, nó phải ngồi đây đợi anh giải quyết công việc xong rồi mới đến ngự hoa viên tìm nó. Trong lúc đợi anh đến, Nguyên Thục lại lấy con thỏ bằng gỗ ra ngắm nghía, lòng rộn ràng.
 
- Tiệp dư! Chúa công đã đến rồi.
 
Không cần A Vân phải thông báo, Nguyên Thục đã nhận ra ngay tiếng bước chân giẫm lên lá vàng khô ấy là của ai, nó vội quay người lại, trên môi là nụ cười rạng rỡ. Dưới ánh nắng sớm, tà áo xanh lục của Trịnh Khải sáng lấp lánh như một giọt sương, anh nhìn nó và mỉm cười. Dù đã nhìn thấy nụ cười này rất nhiều lần, nhưng mỗi khi anh cười, tim Nguyên Thục lại đập rộn ràng như thưở ban đầu. Nụ cười của anh rất đẹp, đẹp và ấm áp. Chỉ cần nhìn thấy nụ cười ấy là bao lo lắng phiền muộn trong nó đều tiêu tan, bầu trời lại trong vắt như chưa từng có giông bão kéo qua.
 
Đặt những khối gỗ con con vào tay Nguyên Thục, Trịnh Khải lướt mắt lên những món đồ mà nó đã bày biện trên bàn. Một khay bánh đậu xanh, một bình trà sen tỏa khói và một hộp màu, tất cả đều đã chuẩn bị sẵn sàng chờ anh đến. Trịnh Khải bất giác mỉm cười. Để chuẩn bị những thứ này, Nguyên Thục chắc chắn phải dậy từ rất sớm. Bánh đậu xanh còn chưa khô, bình trà vẫn còn ấm nóng, đôi mắt Nguyên Thục lại có quầng thâm, có lẽ vì đêm qua nó đã ngủ rất muộn và sáng nay lại phải dậy thật sớm để tự tay chuẩn bị mọi thứ đâu vào đó như thế này.
 
Trịnh Khải yên lặng, những ngón tay thon dài của anh miết nhẹ lên quầng thâm dưới mắt Nguyên Thục, cử chỉ đó khiến đôi má Nguyên Thục ửng hồng. Nó nhìn anh, lặng lẽ. Có anh, nó rất hạnh phúc, duy chỉ một điều làm nó bận lòng là cánh cửa quá khứ đã khép của anh. Nó rất muốn anh hé lộ một chút thông tin, dù chỉ nhỏ nhoi, nó muốn anh mở rộng tấm lòng ra để đón lấy nó, muốn nó có thể cùng anh chia sớt buồn vui. Những vui buồn, giận hờn nó đều chia sẻ cho anh hết, vậy tại sao anh cứ ôm lấy quá khứ để làm nỗi niềm riêng.
 
- Thục nhi, nàng có tô màu không?
 
Nguyên Thục giật mình bừng tỉnh, giọng nói nhẹ nhàng đượm vẻ ngạc nhiên của Trịnh Khải đã đánh thức nó. Do mãi suy nghĩ, mắt nó đăm đăm nhìn anh mà không thấy chú gà con bằng gỗ xinh xắn đang nằm trên bàn. Thì ra trong lúc nó để tâm trí tận đẩu tận đâu, Trịnh Khải đã gọt xong chú gà con bằng gỗ. Cầm chú gà mân mê, Nguyên Thục nhoẻn cười, khỏa lấp sự bối rối vì đã trót nhìn anh quá lâu.
 
- Vâng! Em tô màu ngay đây.
 
Nói rồi, Nguyên Thục mở hộp gỗ ra, bên trong có các ngăn đựng bột màu. Rắc một ít bột màu vàng lên chiếc đĩa sứ, Nguyên Thục khéo léo hòa một ít nước và bắt đầu công việc tô màu cho chú gà con. Nhìn Nguyên Thục căng mắt, mím môi, cẩn thận tô vẽ từng lớp màu lên chú gà, Trịnh Khải mỉm cười, anh tiếp tục đẽo gọt những khối gỗ còn lại thành muôn hình vạn trạng cho Nguyên Thục thỏa thích tô màu.
 
Cứ thế, từng con thú sinh động lần lượt ra đời, nào mèo, nào công, nào chim hoàng yến. Trịnh Khải làm xong, anh lại tiếp tục đẽo những con thú mà Nguyên Thục hứng chí vẽ ra trên giấy. Theo lời Nguyên Thục giải thích, các con vật ấy rất quen thuộc, cũng là chó, là mèo, là chuột, thế nhưng chuyện chó, mèo, chuột mặc quần áo ngộ nghĩnh thì từ trước tới nay anh chưa bao giờ nhìn thấy bao giờ.
 
- Con này là con gì?
 
- Vịt Donad đó.
 
- Còn con này?
 
- Mèo Kitty!
 
- Còn đây?
 
- A ha! Là trâu vàng seagame.
 
Đứng hầu hai bên, A Đào và A Vân mắt tròn mắt dẹt do lần đầu tiên nhìn thấy những con vật ngộ nghĩnh mà Nguyên Thục vẽ ra. Và họ còn kinh ngạc hơn nữa khi lần đầu tiên trông thấy Đoan Nam vương như một đứa bé con bắt đầu nhận thức và tìm hiểu những chuyện xảy ra xung quanh mình. Đương nhiên Nguyên Thục cũng nhận thấy điều đó, nó nhận thấy sự tò mò ở anh, nhận thấy anh như một cậu bé con đang học hỏi nên rất hào hứng. Nó hết vẽ tờ này đến tờ khác, hết vẽ Pucca rồi đến chó Snoppy, chỉ duy nhất một điều là muốn làm anh vui.
 
Thời gian yên bình trôi qua, trong ngự hoa viên luôn rộn rã tiếng cười. Trịnh Khải ngồi gọt những con thú trong hình vẽ của Nguyên Thục, còn Nguyên Thục tỉ mỉ tô màu cho những con thú anh vừa đẽo ra. Chốc chốc anh và nó dừng tay ngắm nghía và bình luận tác phẩm của nhau, rồi cùng cười vì những ý tưởng ngộ nghĩnh nào đó. Khung cảnh đầm ấm này khiến Nguyên Thục hạnh phúc, nó những mong sao thời gian sẽ ngưng lại, để ở mãi bên cạnh anh, vui vẻ như thế này.
 
Mặt trời đã lên cao, chói chang. A Đào cùng A Vân thay phiên nhau dọn bữa rồi sau đó lẳn lặng rút lui, nhường lại không gian riêng cho hai người. Mâm thức ăn thịnh soạn, tỏa mùi hương quyến rũ mời gọi nhưng Nguyên Thục vẫn chưa chịu động đũa vì mãi chú ý vào tác phẩm của anh và nó. Anh gọt gỗ, nó tô màu, mà lại rất đẹp, thật là sự phối hợp ăn ý, trên cả tuyệt vời. Chợt nghĩ, những món đồ dễ thương này rồi sẽ trở thành đồ chơi cho con trẻ, Nguyên Thục lại đỏ mặt và tự cười khúc khích một mình. Một buổi sáng ngọt ngào, khởi đầu bằng giấc mơ hạnh phúc đêm qua, và giờ đây Trịnh Khải lại đang ngồi bên cạnh, gắp cho nó một chén đầy thức ăn, quả thật tâm trạng Nguyên Thục lúc này không còn gì vui bằng.
 
Không quá khó để nhận ra sự vui vẻ rạng ngời trên gương mặt Nguyên Thục, Trịnh Khải chỉ mỉm cười, anh không nói gì bởi anh cũng đang vui. Chưa bao giờ anh lại thấy vui như thế. Trước đây, cũng ngự hoa viên này, cũng buổi sáng trong trẻo này, cũng hương hoa sen thoang thoảng trong gió này, nhưng anh lại cảm thấy nó xa vời và quạnh hiu một cách ngột ngạt, nhưng bây giờ, cũng cảnh vật cũ, anh lại cảm thấy bình yên và êm đềm đến thế. Tiếng cười giòn tan của Nguyên Thục đã đánh thức những giác quan ngủ yên trong anh, khơi dậy những mong muốn mà anh vùi sâu trong lòng. Anh muốn được yêu thương. Anh muốn có một cuộc sống bình thường như bao người khác, muốn có một gia đình, một người vợ hiền cùng những đứa con ngoan. Thế nhưng lời nguyền từ chính phụ thân anh vẫn còn đó, nhắc nhở anh gánh nặng giang sơn mà anh đang mang trên vai, ngay cả họ Trịnh trong cái tên của anh cũng đã là một sự ràng buộc. Anh không phải đang sống cho bản thân mà sống vì cơ đồ này, vì trách nhiệm và những kỳ vọng của dòng tộc. Anh đang cố gắng làm hết khả năng của mình, đang cố gắng chống đỡ cho một vương triều sắp đổ nát. Anh và cơ đồ này đã hòa làm một, khi vương triều sụp đổ, bản thân anh cũng sẽ không còn. Trước đây anh không bận tâm về điều này cũng như chưa bao giờ suy nghĩ nhiều về nó, nhưng còn bây giờ...
 
Đôi má ửng hồng của Nguyên Thục dưới nắng ban trưa in trong đôi mắt sâu thẳm của Trịnh Khải, từng sợi tóc mảnh mai vương trên áo anh, quyến luyến. Mùi hương ngọt ngào từ mái tóc đen mượt ấy khiến tâm hồn anh xao động. Giữa người con gái này và cơ đồ dòng họ, bên nào nặng hơn? Giữa tình yêu và trách nhiệm, bên nào sẽ khiến anh phải từ bỏ? Nguyên Thục yêu anh nhiều đến thế nào? Nếu như anh không còn thì nó sẽ ra sao, sẽ ra sao...?
 
- Thục nhi...
 
- Vâng!
 
Đang nhắm mắt tận hưởng ngụm trà sen mát dịu hương thơm, Nguyên Thục mở mắt ra, “vâng” một tiếng khi Trịnh Khải gọi tên nó. Anh đang nhìn nó, ánh mắt dịu dàng, nhưng lại sâu hun hút, lẩn khuất ưu phiền không tên khiến Nguyên Thục cảm thấy bất an. Khoảng không trong ánh mắt của anh làm nó lo lắng, cứ như thể anh sẽ đi đến một nơi rất xa, rất xa mà không thể mang nó theo được nên mới nhìn nó như thế. Đó là ánh mắt cùa sự phân ly.
 
- Hôm nay nàng muốn ra ngoài dạo chơi không, ta sẽ đưa nàng đi.
 
Nghe Trịnh Khải nói sẽ dẫn mình ra ngoài chơi, mắt Nguyên Thục sáng lên, nhưng sự bất an, lo lắng vẫn lẩn quất trong lòng khiến nó dè dặt hỏi lại.
 
- Ngày mai anh phải đi đâu sao?
 
- Sao nàng lại nghĩ thế?
 
- Vì ánh mắt anh lạ lắm, cứ như thể anh sẽ đi đâu thật xa vậy. Ánh mắt ấy làm em không yên tâm.
 
Nguyên Thục thành thật trả lời, nó không muốn giấu diếm những cảm xúc, suy nghĩ của mình với Trịnh Khải. Nếu muốn anh hé lộ quá khứ cho nó thì trước hết nó phải chân thật với anh. Nghe Nguyên Thục thổ lộ, giọng buồn hẳn, Trịnh Khải cau mày, anh nắm lấy tay nó, xiết chặt. Nguyên Thục rất tinh tế, nó đã mơ hồ biết được những gì mà anh chưa thể nói ra chỉ qua ánh mắt, và sự tinh tế của nó làm anh xao động khi biết rằng những phức tạp trong lòng anh đều có tác động không nhỏ đến nó. Bằng sự yêu thương của mình, Nguyên Thục đã nhận ra những chuyển biến nhỏ nhất từ anh.
 
- Đừng suy nghĩ nhiều về ánh mắt ta như thế, ngày mai ta vẫn sẽ ở bên nàng, sau này vẫn sẽ ở bên nàng.
 
Trịnh Khải nói ngày mai vẫn sẽ ở bên nó, sau này vẫn sẽ ở bên nó, nó tin, nhưng liệu mọi chuyện có được suôn sẻ như thế hay không. Trái tim nó thốn lên, đau nhói khi nghĩ đến chuyện anh sẽ đến một nơi mà nó không thể đến được. Đâu phải Nguyên Thục không nghĩ đến chuyện này, mà là cố tránh nghĩ đến chuyện ấy nhiều chừng nào hay chừng đó. Thời buổi loạn lạc, nhiễu nhương, nó cũng đã được học trong sách sử rằng Tây Sơn ra Bắc phò Lê diệt Trịnh, đánh đuổi quân Thanh. Nguyên Thục rùng mình, phò Lê diệt Trịnh, vậy Trịnh Khải của nó thì sao, người mà nó yêu thì sao. Nó biết rằng anh không thể từ bỏ trách nhiệm trên vai, biết rằng anh không thể từ bỏ hết mọi thứ để đến với nó, và nó cũng nhận ra mình chưa thể khiến anh đủ hạnh phúc để nhìn lại quá khứ mà không phải bận lòng. Anh sẽ sống chết vì cơ nghiệp của mình, anh sống chết cho lý tưởng, cho trách nhiệm của anh, nhưng còn nó thì sao? Nó đã chấp nhận ở lại quá khứ này vì anh, nó sẽ ra sao khi anh không còn, nó sẽ thế nào khi mùi trầm hương luôn làm nó ấm lòng không còn ở bên?
 
- Anh này, hứa với em một chuyện được không?
 
Nguyên Thục khe khẽ lên tiếng, giọng nghẹn lại vì xúc động. Nó nhìn anh đôi mắt long lanh, biểu hiện ấy khiến Trịnh Khải nhíu mày. Anh yên lặng, một lúc sau mới trả lời.
 
- Chuyện gì?
 
- Anh hứa đi, hứa rồi em mới nói.
 
Thấy Nguyên Thục khăng khăng đòi mình hứa với sự nghiêm túc, Trịnh Khải mỉm cười. Anh kéo Nguyên Thục đến gần, đặt nó ngồi vào lòng, những ngón tay mảnh khảnh vuốt nhẹ trên má nó và đáp nhẹ nhàng.
 
- Được! Ta hứa!
 
- Bằng cả trái tim nhé?
 
- Bằng cả trái tim.
 
Nghe Trịnh Khải hứa chắc chắn, Nguyên Thục an tâm. Nó vòng tay ôm lấy cổ anh, nhìn sâu vào mắt anh rồi chậm rãi nói từng lời.
 
- Sau này anh có đi đến nơi nào thì hãy dẫn em theo với nhé.
 
Yên lặng!

Trịnh Khải không trả lời.

Điều đó lại càng làm Nguyên Thục bất an.
 
- Anh đã hứa rồi, đúng không, vậy thì em muốn anh đi đến đâu cũng dẫn em theo, đâu cũng được, chỉ cần nơi đó có anh.
 
Những lời cuối cùng của Nguyên Thục gần giống một tiếng nấc, như chỉ chực chờ anh lắc đầu là những giọt nước mắt sẽ vỡ ra. Trong phút chốc, đôi mắt Trịnh Khải thẫm lại, thăm thẳm như vực sâu, và Nguyên Thục đang chơi vơi trong vực sâu khôn cùng đó. Nguyên Thục đã nói muốn anh đi đâu cũng dẫn nó theo, nhưng nếu anh đi đến một nơi nào đó rất xa mà không thể mang theo Nguyên Thục thì sẽ thế nào? Đối với anh, lời hứa rất quan trọng, tuyệt đối quan trọng, anh không thể hứa bừa để làm Nguyên Thục vui lòng, càng không thể nào trả lời qua quýt được. Anh không thể dẫn Nguyên Thục đi theo, anh không thể để Nguyên Thục cùng sa lầy chung với anh. Anh muốn nó được hạnh phúc, được vui vẻ, luôn giữ nụ cười tươi tắn rạng ngời trên môi và không bị cuốn vào thời thế đảo điên này.
 
Nếu Nguyên Thục không yêu anh mà yêu một người khác, thì có lẽ cuộc sống của Nguyên Thục sau này sẽ hạnh phúc và êm đềm hơn, có lẽ người đó sẽ bảo vệ, che chở cho Nguyên Thục nhiều hơn anh bây giờ. Nhưng nếu Nguyên Thục không đến với anh, không xuất hiện trước mặt anh, thì anh sao có thể cảm nhận được thế nào là bình yên, thế nào là hạnh phúc. Nếu Nguyên Thục đến với người con trai khác thì liệu anh có vui không, nếu Nguyên Thục không yêu anh mà lại yêu một người khác thì liệu anh có còn đủ bình tĩnh để suy nghĩ đến những chuyện khác không. Và nếu Nguyên Thục thành hôn với một người con trai khác, có những đứa con xinh xắn với người khác, thì liệu anh có thể thành tâm chúc phúc cho họ và cảm thấy hạnh phúc hay không?
 
Câu trả lời là không.
 
Tuy biết làm thế là không phải, tuy biết không thể để Nguyên Thục cùng chịu đựng những gì anh đang chịu đựng, nhưng anh càng không hề muốn để Nguyên Thục rời xa mình. Anh không muốn nó yêu một người con trai nào khác ngoài anh, anh muốn Nguyên Thục ở bên cạnh anh, dù ích kỷ nhưng hãy là mãi mãi, cho đến những giây phút cuối cùng của cuộc đời. Anh mong rằng trước khi nhắm mắt, anh vẫn còn có thể nhìn thấy ánh mắt ấy, nụ cười ấy, đôi môi ấy, vòng tay ấy, Nguyên Thục sẽ cười với anh, sẽ ôm lấy anh và sẽ trao cho anh những nụ hôn ngọt ngào.
 
- Anh hãy hứa đi, hứa với em là sau này dù anh có đi bất cứ đâu, anh sẽ vẫn đưa em theo nhé! Nhé anh!
 
Lâu thật lâu vẫn không nghe Trịnh Khải trả lời, Nguyên Thục lo sợ, nó vội vàng hối thúc anh, giọng tha thiết như sợ anh sẽ từ chối. Xiết chặt vòng tay lại, Nguyên Thục nhìn anh chờ đợi, cái nhìn nửa lo lắng, nửa bất an, nửa tuyệt vọng, ánh mắt khiến Trịnh Khải mềm lòng. Anh không muốn Nguyên Thục đến với người con trai khác, anh muốn giữ Nguyên Thục cho riêng mình và anh muốn nó sẽ mãi mãi ở bên cạnh anh, yêu anh, quan tâm anh như bây giờ.
 
- Ta hứa!
 
Đó là một lời nói dối chân thật. Ngoại trừ cõi chết, anh luôn muốn mang Nguyên Thục đi bất cứ đâu, chỉ cần nơi đó có anh và nó, có một mái nhà tranh êm ấm, với những đứa con xinh xắn, tách biệt với thế gian, tách biệt với thời thế loạn lạc bên ngoài.
 
- Thật không! Thật thế không, anh đã hứa thì anh phải giữ lời đấy nhé!
 
Cuối cùng, sự chờ đợi của Nguyên Thục đã có kết quả, nghe câu trả lời của Trịnh Khải, tim Nguyên Thục như vỡ ra vì sung sướng. Có được lời hứa của anh, nó sẽ không còn sợ gì nữa cả, không còn lo lắng gì nữa cả. Nguyên Thục nhoẻn cười rạng rỡ, nó rúc vào lòng anh, vùi gương mặt đang đỏ bừng dưới lớp áo ấm áp phảng phất mùi trầm hương dịu dàng. Khoảng trống chơi vơi trong đôi mắt anh nó sẽ cố gắng lấp đầy, nó sẽ cố gắng tìm hiểu nhiều về anh, cùng anh chia sẻ hoạn nạn, buồn vui. Chuyện Thánh mẫu và Dương thái phi, nó sẽ tìm cách hàn gắn mối quan hệ giữa hai bên, nó sẽ còn phải phấn đấu thật nhiều để trở nên xứng đáng với anh. Hình như Trịnh Khải thích chơi cờ, trong khi nó siêu tệ hại về môn này, mà trong phủ người chơi cờ giỏi nhất lại là Ngọc Xuân. Đã vậy, nó sẽ gạt hết tự ái, mặc cảm để đến chỗ Ngọc Xuân tầm sư học đạo, rồi sau đó cùng chơi cờ với Trịnh Khải. Rồi còn cùng đẽo gỗ với anh nữa chứ và nhất là nó mong sao giấc mơ ngọt ngào đêm qua sẽ sớm trở thành hiện thực.
 
- Thục nhi, nàng muốn ta đi đâu cũng dẫn nàng đi theo phải không?
 
- Vâng! - Nguyên Thục bẻn lẽn trả lời.
 
- Vậy bây giờ ta muốn đến thăm một người, nàng có muốn đi không?
 
- Một người ư? Ai thế?
 
Nguyên Thục vội ngẩng đầu hỏi nhanh khi nghe Trịnh Khải nói. Nó nhìn anh, lòng thầm tự hỏi không biết người mà anh muốn thăm là ai, là nam hay là nữ. Là nam thì không sao nhưng là nữ, lại thêm còn trẻ thì nó chẳng thích chút nào. Nhìn ánh mắt nghi hoặc của Nguyên Thục, Trịnh Khải mỉm cười, anh bẹo má nó, nói dịu dàng.
 
- Đó là Quận Đông!



★ Chương 110
                            
Từ phủ chúa băng qua cửa chính môn, Trịnh Khải dẫn Nguyên Thục đi theo hướng sông Nhĩ hà để đến quần thể kiến trúc dinh thự ngoài phủ gần mạn bờ sông. Lẽ ra cả hai có thể đi kiệu, võng hoặc dùng ngựa, nhưng Nguyên Thục không muốn, nó muốn được đi bộ để dạo mát và thưởng ngoạn cảnh đẹp bên ngoài hơn.

Trời chiều gió mát, dải lụa trên áo Nguyên Thục bay phấp phới, gió thổi làm những sợi tóc mai nó phơ phất, cài qua làn môi mềm. Đưa tay vén lấy những sợi tóc rối của Nguyên Thục, Trịnh Khải mỉm cười khi má nó ửng hồng vì những ngón tay thon dài của anh chạm khẽ vào vành môi nó. Vừa đi, Nguyên Thục vừa tiếp tục kể cho anh nghe về quê hương Sài Gòn yêu dấu, mỗi khi anh ngạc nhiên vì những thuật ngữ lạ lùng mà chỉ nó mới có thể hiểu như điện thoại di động hay game, Nguyên Thục lại rất thích thú bởi những lúc này nét mặt của anh như một đứa bé con lần đầu khám phá thế giới bên ngoài.

Trên đường đi, Nguyên Thục đã tự hỏi không biết cái người tên Quận Đông mà Trịnh Khải nói là ai, cho đến khi nhìn thấy một dinh thự rộng lớn, bãi sân trước là hàng trăm con voi thì đến lượt Nguyên Thục phải ngạc nhiên. Trong khi nó còn đang mắt tròn mắt dẹt thì Trịnh Khải đã dẫn nó ra phía sau phủ. Cạnh nhà chứa voi, một người đàn ông trung niên, gương mặt phúc hậu đang đứng quan sát xem đội quản tượng cho voi ăn bỗng ngẩn người ra khi nhìn thấy Trịnh Khải xuất hiện. Trong phút chốc, đôi mắt của ông vụt trở nên lấp lánh, ông vội chùi hai bàn tay vào gấu quần bạc phếch, môi nở nụ cười hiền hậu khi Trịnh Khải tiến đến gần.

 - Quản Phúc, hôm nay ta đến thăm ông đây!

Trịnh Khải mỉm cười khi nhận ra sự xúc động trên gương mặt phúc hậu ấy, anh giơ tay ra và người đàn ông- tức Quản Phúc liền nắm chặt lấy. Với đôi mắt yêu thương, Quản Phúc nhìn anh từ đầu đến chân, ông nói, cố giữ giọng trung dung nhưng Nguyên Thục tinh ý nhận ra giọng nói của ông không hơn một tiếng thì thào.

 - Chúa công, sao hôm nay người lại quá bộ đến thăm già thế này.

- Quản Phúc, chẳng phải ta đã nói với ông rằng khi nào tìm được người con gái ta yêu, ta sẽ dẫn nàng ấy đến ra mắt ông sao.

Đứng bên cạnh Trịnh Khải, Nguyên Thục thẹn thùng mân mê vạt áo khi nghe những gì anh vừa nói. “Người con gái ta yêu”, năm chữ ấy chẳng khác nào Nguyên Thục đang ngậm một viên kẹo mật ong ngọt ngào trong miệng. Quản Phúc “à” một tiếng, ông chùi đôi bàn tay thô kệch của mình vào quần năm sáu cái, thói quen mỗi khi bối rối điều gì. Đưa mắt ngắm nghía Nguyên Thục, Quản Phúc nhướng mày, tuy cô gái này không phải là một mỹ nhân nhưng lại toát ra sự chân thành mộc mạc, còn có sự năng động, tự tin không giống với những tiểu thư khép nép e lệ, quan trọng nhất đó là người chúa công yêu. Quản Phúc gật gù, ông mừng thầm vì cuối cùng chúa công đã tìm thấy người con gái mình yêu, chứ không trước sau một mình cô độc như ông vẫn thường hay lo lắng.

 - Cháu chào chú ạ, cháu là Nguyên Thục, Thục trong từ thục nữ dịu dàng.

Nguyên Thục lễ phép chào Quản Phúc, đồng thời giới thiệu tên mình. Lời giới thiệu của nó không khác gì lúc nó và Trịnh Khải gặp nhau lần đầu tiên, khiến anh tủm tỉm cười. vội xua tay khi Nguyên Thục gật đầu chào, Quản Phúc cười toe, để lộ một chiếc răng trống ở hàm trên.

- Già không dám. Cuối cùng chúa công cũng đã có ý trung nhân, thế là mong ước của già đã thành hiện thực, già này có thể nhắm mắt mà chết rồi.

Quản phúc nói mà mắt rưng rưng. Trong phút chốc, đôi mắt của Trịnh Khải trở nên sâu thẳm. Anh nhìn người quản tượng trung thành tóc đã hai màu trước mặt mà lòng mơ hồ nhớ về tuổi thơ đã chôn vùi sâu trong ký ức. Bóng tối lướt qua trong đôi mắt rồi tan biến, Trịnh Khải mỉm cười, anh hỏi nhẹ

- Quận Đông đâu rồi, Quản Phúc!

Nghe Trịnh Khải nhắc tới Quận Đông, gương mặt Quản Phúc chợt bừng sáng. Ông đứng thẳng lưng, tay chùi nhanh vào quần rồi chỉ về phía sân sau, lắc đầu.

- Bẩm chúa công, Quận Đông đang ở nhà sau đó. Mấy ngày nay không biết Quận Đông bệnh gì mà không ăn không uống cũng không chịu động đậy, già này cũng hết cách. Có chúa công đến, già xem Quận Đông còn bướng đến khi nào.

Quản Phúc vừa nói vừa cười, nhưng Nguyên Thục lại chẳng thể mở miệng cười nổi. Chắc chắn cái người tên Quận Đông này là con gái, chỉ có con gái mới ưa hờn dỗi, nhõng nhẽo với người yêu như thế. Dẫu biết Trịnh Khải yêu nó, anh đã dẫn nó ra mắt Quản Phúc với tư cách là người yêu, nhưng Nguyên Thục vẫn cảm thấy tưng tức khi nghe tin cô nàng Quận Đông nhịn ăn nhịn uống chờ Trịnh Khải đến, cho nên nó theo sau anh mà bước chân như đeo đá vì không được vui.

Dường như không để ý đến tâm trạng của Nguyên Thục, Trịnh Khải có vẻ rất vui, bước chân ngày thường vốn ung dung của anh nay sải dài gấp gáp. Bước qua cánh cổng bằng sắt, Trịnh Khải đột ngột dừng lại, Nguyên Thục chưa kịp hiểu ra chuyện gì thì đã giật mình khi nghe thấy một tiếng rống ồ ồ vang lên. Từ đằng xa, một con voi to lớn, hùng dũng chạy sầm sậm lại, bốn chân nặng nề của nó khiến Nguyên Thục tưởng rằng những viên đá lót sân đều nẩy bật lên và vỡ vụn. Trong khi Nguyên Thục hốt hoảng thì Trịnh Khải lại rất bình thản, anh không né tránh con vật hung hãn đang tiến về phía anh như vũ bão mà môi lại còn nở một nụ cười.

- Anh à, đứng đây nguy hiểm lắm, chúng ta mau đi thôi!!

Nhác thấy khoảng cách giữa con voi và cả hai ngày một gần, Nguyên Thục run giọng, nó nắm lấy tay Trịnh Khải kéo qua một bên, thế nhưng trước những cố gắng lôi kéo của nó, Trịnh Khải không hề nhúc nhích, anh chỉ đứng bình thản nhìn con voi to lớn ấy chạy huỳnh huỵch về phía mình, tà áo xanh phơ phất như một cách hạc bay ngang trời.

Chứng kiến sự ung dung điềm đạm đó,Nguyên Thục vô cùng sửng sốt, trái tim nó đông lại khi con voi ngày càng tiến lại gần, sừng sững như một trái núi. Khi khoảng cách giữa hai người và con voi ngày một thu hẹp, đến nỗi từng sợi lông trắng trên người con voi in trong đôi mắt của nó, thì con voi đột ngột dừng lại, quỳ xuống, hai tai ve vẩy khiến Nguyên Thục ngây người ra vì không nghĩ con voi sẽ hành động như thế này.

Dường như không lạ với điều ấy, Trịnh Khải mỉm cười, anh đưa tay ve vuốt cái đầu trọc lóc của con voi to lớn, khuôn mặt hòa hoãn như gặp lại bạn thân lâu ngày. Quay sang Nguyên Thục đang đứng ngơ ngẩn, Trịnh Khải nhẹ nhàng

- Giới thiệu với nàng, đây là Quận Đông!!

- Quận Đông?

Nguyên Thục ú ớ hai tiếng! Nó tưởng Quận Đông là một cô nàng hóa ra cái tên mỹ miều ấy lại là một con voi. Nguyên thục xấu hổ, hai vành tai nó ửng đỏ, bẽn lẽn vì đã nghi oan cho Trịnh Khải. Thấy Nguyên Thục ngại ngần đưa mắt nhìn Quận Đông nằm phủ phục dưới chân, Trịnh Khải liền nắm lấy tay nó chạm lên đầu Quận Đông. Lần đầu tiên sờ voi, lại là một con voi lớn đến thế, làn da dày ram ráp khiến Nguyên Thục thích thú, nó hết vuốt ve đầu chú voi rồi lại sờ hai cái tai to hệt như chiếc quạt nan xinh xắn đang phe phẩy. Chú voi này thật đáng yêu.

- Thục nhi, nàng có muốn Quận Đông đưa đi dạo không?

- Có được không ạ?!

- Sao lại không được!!

Trong khi hai người còn đang nói chuyện thì Quản Phúc đã đặt xong một cái bành có lọng che lên lưng chú voi. Vỗ nhẹ vào đầu Quận Đông hai ba cái, Trịnh Khải mỉm cười khi đôi tai Quận Đông ve vẩy tỏ ý vui mừng. Khi anh và nó đã yên vị trên bành voi, Quận Đông lúc lắc cái đầu rồi từ từ đứng lên khiến chiếc bành lắc lư, làm Nguyên Thục vội vàng níu tay Trịnh Khải vì chưa cưỡi voi bao giờ.

Quản Phúc vội vàng tiến về phía trước để dẹp lối cho Quận Đông. Chú voi to lớn thong thả bước ra khỏi phủ và bắt đầu đi dọc bờ sông Nhĩ hà. Lần đầu tiên cưỡi coi, lại ngồi cùng với Trịnh Khải, đối với Nguyên Thục thật không còn gì hơn. Phóng mắt qua bên kia sông, gió từ bờ sông lồng lộng thổi, Nguyên Thục nhìn thấy cánh cò chao liện cùng những bãi nương dâu rập rờn sóng. Sự êm đềm ấy khiến Nguyên Thục khoan khoái, nó ngả đầu vào vai Trịnh Khải, mắt nhắm lại, tận hưởng cảm giác bình yên.

Cứ như thế, Quận Đông đưa Nguyên Thục và Trịnh Khải đi dọc một vòng bờ sông Nhĩ hà. Ngồi trên lưng voi, thăm những cảnh cũ đã lâu anh không đặt chân tới, đôi mắt Trịnh Khải chợt trở nên mơ hồ. Thời gian như trang sách đã được lật qua, không ai muốn coi lại những trang cũ khi trang mới còn chưa lật đến. Anh cũng thế, quá khứ bây giờ đã là ký ức, đối với anh chỉ có hiện tại, nhưng mỗi khi đi qua những khung cảnh xưa cũ, lòng anh vẫn mênh mang và anh biết rằng quá khứ vẫn luôn nằm đâu đó một góc trong anh, chưa bao giờ phai nhòa.

- Anh này, làm sao anh có được quận đông vậy?

Đang trầm tư, giọng nói trong trẻo của Nguyên Thục vang lên, đưa Trịnh Khải trở về hiện tại, anh nhìn Nguyên Thục, bóng anh lung linh trong đôi mắt nó, sáng lấp lánh. Vuốt suối tóc mượt của Nguyên Thục đổ dài trên vai, Trịnh Khải đáp lời

- Năm ta lên mười tuổi, có một lần ta đến phủ ngoài bờ sông Nhĩ hà chơi, khi ấy ta đã gặp Quận Đông.

Ngày Trịnh Khải gặp quận đông là một ngày mưa phùn, bầu trời u ám. Khi đó, cậu bé mười tuổi Trịnh Khải đã nghe các cung nữ bàn tán về chuyện mẫu thân cậu không được Thịnh vương sủng ái như Tuyên phi nên cậu bị bỏ lơ. Nghe được những lời ấy, dù đã biết trước nhưng cậu vẫn cảm thấy buồn. Cậu biết mình không được phụ thân yêu, cậu biết những giọt nước mắt mẹ rơi là vì phụ thân cậu và cậu biết dù có cố gắng đến mức nào đi chăng nữa, phụ thân cũng không thương yêu cậu nhưng cậu vẫn hàng mong.

Đáng lo đảng ác!
Đáng sợ nịnh thần!
Thanh lọc triều chính
Dùng người đức nhân
Mệnh trời dằng dặc
Cơ đồ vạn xuân!(*)

Với tâm trạng không được vui, cậu đã lén rời khỏi phủ chúa ra ngoài dạo chơi. Phố phường đông vui làm cậu lạ lẫm, sự náo nhiệt làm cậu hứng thú, cậu mải miết đi và chỉ dừng chân lại khi thấy một tòa phủ lộng lẫy với hàng trăm con voi đang được những người quản tượng tắm ở bến sông. Tròn mắt nhìn những chú voi to lớn đùa nghịch dưới nước, cậu đi một vòng nhìn ngắm và rồi bắt gặp một người đàn ông đang ra sức lôi kéo một chú voi ra bến sông. Có vẻ như chú voi này không thích tắm, nên dù người đàn ông hết dọa nạt rồi ngon ngọt dụ dỗ bằng cây mía trong tay, nhưng chú voi vẫn nằm ì dưới đất không chịu đứng lên.

Chứng kiến cảnh tượng người đàn ông nhăn nhó năn nỉ chú voi đến ráo cả nước bọt, Trịnh Khải không nhịn được liền bật cười. Đang bực tức vì xoay đủ mọi cách mà vẫn không khiến chú voi làm theo lời mình, người đàn ông vô cùng bực tức khi nghe thấy tiếng cười trẻ con vọng vào tai. Quắc mắt nhìn quanh xem ai dám cả gan cười nhạo mình, gương mặt đang đỏ bừng vì giận dữ của người đàn ông liền dịu lại khi thấy một cậu bé con ăn vận sang trọng, gương mặt bầu bĩnh đáng yêu đang đứng phía sau. Nhướng đôi mày cụt ngủn lên, người đàn ông hỏi, để lộ ra một chiếc răng trống ở hàm trên.

- Nhóc con, ngươi cười gì?

- Tôi cười ông!

- Sao cười ta?

- Vì không phải ông bắt con voi đó làm theo ý mình mà là con voi đó đang bắt ông làm theo ý nó.

Trịnh Khải vừa nói vừa cười. Câu trả lời của cậu làm người đàn ông ngẩn ra, rồi chuyển sang lúng túng vì cậu nói đúng. Thật ra nếu có thể, ông đã cho con voi này nếm mùi roi vọt theo khuôn phép như những con khác trong phủ, thế nhưng ngặt nỗi đây là con voi mà Thịnh vương thích nhất. Con voi này là voi trắng, đôi mắt lại long lanh có thần, nổi tiếng bướng bỉnh không chịu thuần phục một ai thế nên Thịnh vương rất quý và cho đó là giống loài hợp với vương tướng vì không để ai khuất phục, khiến ông luôn phải chật vật vì không biết phải làm sao để khiến chú voi này nghe theo lời mình.

Chùi đôi tay vào lưng quần bạc phếch, người đàn ông lúng túng

- Thế ngươi bảo giờ phải làm sao mới khiến nó nghe theo ta đây?

Trịnh Khải mỉm cười, cậu lướt mắt lên chú voi đang nằm phục dưới đất như một hòn đá tảng, rồi nháy mắt

- Muốn nó nghe theo lời ông, thì trước hết, ông phải coi nó là con người chứ không phải là con vật.

Trịnh Khải vừa nói vừa ngồi xuống đối diện với chú voi, đưa tay vuốt ve đầu chú, cậu nhìn chú voi với ánh mắt dịu dàng.

 - Voi ơi voi ơi, bây giờ ta đi tắm đây, ngươi có muốn tắm cùng với ta không?

Trịnh Khải nói, thật chậm rãi, đồng thời tay không ngừng vuốt đầu chú voi. Dường như con vật có linh tính, thế nên khi nghe Trịnh Khải nói cũng như cảm nhận được sự dịu dàng thân thiện của cậu, hai cái tai to đang rũ ra bất động của chú voi liền ve vẩy, rồi từ từ đứng lên trước sự kinh ngạc của người đàn ông đứng phía sau.

Dẫn chú voi ra bờ sông, Trịnh Khải cầm chiếc gáo dừa múc những gáo nước trong lành đổ lên người chú. Chiếc vòi của chú voi cong lên, chú cuối xuống bờ sông, hút nước và phun tun tóe lên người Trịnh Khải khiến cậu bật cười.

Đó là ngày đầu tiên Trịnh Khải gặp được Quận Đông, ấy thế mà chớp mắt mười năm đã qua đi, bài châm “Tri nhân” vẫn còn trong tâm trí nhưng để thực hiện được điều đó lại rất khó khăn khi nạn kiêu binh vẫn còn, con thuyền vương triều anh đang lái lại đứng trước bão giông. Năm tháng qua đi, thời gian thay đổi và anh biết mình cũng đã thay đổi, nhưng cho dù anh thay đổi đến mức nào thì Quận Đông vẫn nhận ra anh, vẫn vui mừng với anh và vẫn chở anh đi một vòng bờ sông Nhĩ hà, dù đó là ngày nắng hay mưa...

Đáng lo đảng ác!
Đáng sợ nịnh thần!
Thanh lọc triều chính
Dùng người đức nhân...  
                     
oOo

Nguyên Thục vừa đi vừa nhảy chân sáo, trong khi những lúc Nguyên Thiên làm thế, Nguyên Thục đã rầy la em mình vì cái tội con gái mà đi đứng không nên thân. Không để ý đến những ánh mắt và nụ cười tủm tỉm của các nàng cung nữ, trên đường trở về cung, Nguyên Thục vừa ve vẩy cành hoa dại Trịnh Khải tặng cho vừa khe khẽ hát hết sức yêu đời. Hôm nay nó rất vui, vui vì Trịnh Khải đã đưa nó đi chơi, vui vì anh đã giới thiệu nó với Quản Phúc, vui vì đã cùng anh cưỡi Quận Đông, vui vì anh đã ân cần chăm sóc nó và vui vì hôm nay anh đã cười rất nhiều. Nguyên Thục mong sao từ nay về sau, ngày nào anh cũng vui vẻ như thế, ngày nào anh cũng quan tâm tới nó như thế, chỉ thế thôi là nó đã hạnh phúc lắm rồi.

Đêm dần buông, Tiệp cung rực rỡ ánh lồng đèn đủ màu sắc do chính tay Nguyên Thục trang trí. Trước khi trở về ngự lâu, Trịnh Khải đã hứa với Nguyên Thục rằng tối nay sẽ đến dùng cơm với nó sau khi phê duyệt xong tấu chương. Hôm nay là một ngày vui, cho nên tối nay cũng đặc biệt hơn một chút, do thế Nguyên Thục mới cất công trang hoàng Tiệp cung thật rực rỡ để kỷ niệm ngày hạnh phúc hôm nay.

Theo lời nhờ của Nguyên Thục, A Đào và A Vân ra hồ để lựa chọn những búp sen đẹp nhất cắm vào bình. Còn một mình trong phòng, Nguyên Thục bày biện các đĩa thức ăn ra bàn sao cho đẹp mắt. Dù không phải những món sơn hào hải vị mà chỉ là đậu hũ kho sốt cà, cá chiên, rau muống luộc và một to canh rau dền thật to, nhưng những món ăn dân dã Nguyên Thục đã soạn ra và nấu nướng lại cung cấp rất nhiều chất dinh dưỡng bồi bổ cho Trịnh Khải. Tuy tay nghề nấu ăn không ngon như Bách Nhật, nhưng bản thân Nguyên Thục biết mình cũng nêm nếm được chứ không đến nỗi nào.

Đang khe khẽ hát, Nguyên Thục mừng rỡ quay đầu lại khi nghe có tiếng y phục loạt xoạt ở phía sau. Miệng nở nụ cười tươi tắn vì cho rằng Trịnh Khải đã đến, nhưng rất nhanh sau đó, nụ cười ấy đã tắt ngóm trên môi khi xuát hiện trước mặt nó là một cô gái mặc áo xanh. Vừa nhìn thấy cô gái ấy, Nguyên Thục tái mặt và lùi về phía sau mấy bước. Dù vết sẹo đã lành hẳn, nhưng Nguyên Thục vẫn còn nhớ như in cái ngày kinh hoàng ấy, ngày mà nó đột nhiên bị một cô gái trong đoàn ca múa tấn công xém chút đã mất mạng mà không hiểu tại sao.

Và bây giờ cô gái ấy đang ở trước mặt nó.

- Tiệp dư, chúng em đã hái hoa xong rồi đây, người xem có đẹp không?!

A Đào hớn hở ôm một bó sen hồng còn vương những giọt nước long lanh trong tay bước vào Tiệp cung. Đột ngột, bó sen trong tay cô rơi xuống, đôi mắt cô mở to khi nhìn thấy chiếc bình hoa vỡ tung tóe trên sàn nhà, còn Hồ tiệp dư thì đã biến mất không chút vết tích nào.

--------------------------
Chú thích.

(*)Bài châm “Tri nhân”(Biết người). Ngay từ bập bẹ tập nói, các hoàng tử, vương tử, vương tôn đã được quan A bảo dạy cho thuộc lòng bài châm “Tri nhân”



★ Chương 111

Trong tòa ngự lâu thanh vắng, Trịnh Khải đang chăm chú phê duyệt tấu chương bên ánh đèn tịch mịch. Đồng hồ nhỏ giọt tí tách, cây bút lông trên tay anh không ngừng lay động do phải tìm cách giải quyết thiên tai khiến đân mất mùa đói kém, đồng thời tiễu trừ những thế lực nổi loạn đang hoành hành ở các miền núi cao. Khi đang phê duyệt tờ tấu chương cuối cùng của Bùi Văn Bích, những bước chân gấp gáp của ai đó vang lên trên hành lang khiến Trịnh Khải nhíu mày. Gác chiếc bút lông thẫm mực lên giá, Trịnh Khải thong thả đứng dậy, anh mở cửa bước ra ngoài, tiếng xì xào im bặt, chỉ còn lại gương mặt hốt hoảng của A Đào khiến Trịnh Khải ngạc nhiên. Lát nữa thôi là anh sẽ đến Tiệp cung, A Đào có chuyện gì gấp gáp mà phải tới tận đây?

- Chúa công…. chúa công... Tiệp dư…. Tiệp dư…

Do quá hoảng loạn, A Đào cứ lắp bắp mãi không tròn câu. Không để cho cô kịp nói hết, Trịnh Khải liền nhằm hướng Tiệp cung thẳng tiến, bỏ mặc viên công công hối hả chạy theo sau với chiếc áo khoác màu lục trong tay. Vẫn đăm đăm nhìn về phía trước, Trịnh Khải vừa đi vừa hỏi nhanh.

- Thục nhi thế nào?

- Bẩm… bẩm chúa công, ban nãy nô tì cùng A Vân đi hái sen, đến khi quay trở về cung thì Tiệp dư đã biến mất, chiếc bình hoa trong phòng thì vỡ tan tành dưới đất, nô tì sợ….

A Đào ngập ngừng bứt rứt, gương mặt thanh tú của Trịnh Khải liền hiện vẻ lo lắng, với những bước chân sải dài,Tiệp cung nhanh chóng hiện ra trong tầm mắt anh. Bước qua ngưỡng cửa, Trịnh Khải cau mày khi A Vân đang đứng khúm núm trong phòng, mặt hoa thất thần vì vẫn chưa hiểu được chuyện gì đang xảy ra. Rảo mắt nhìn quanh, Trịnh Khải nhận thấy đồ đạc trong phòng không bị xê dịch, chỉ có những mảnh gốm vỡ tung tóe dưới sàn còn Nguyên Thục đã biết mất từ bao giờ.

Trong phút chốc, đôi mắt sâu hun hút của Trịnh Khải thẫm lại, phủ đầy bóng tối. Anh đi khắp Tiệp cung, vạch từng tấm màn, hỏi từng cung nữ, nhìn từng ngõ ngách để xem Nguyên Thục có chơi trò trốn tìm với anh không. Nhưng không, anh đã tìm khắp nơi vẫn không thấy, Nguyên Thục đã biến mất, không vết tích, hệt như chưa từng tồn tại trên cõi đời này.

Không có Nguyên Thục, ở đây không có Nguyên Thục… Trong khoảnh khắc, trái tim Trịnh Khải như ngừng đập, không khí chợt trở nên ngột ngạt, hơi thở của anh trở nên khó khăn. Trịnh Khải vịn tay vào thành ghế, một cơn choáng kéo ngang, những giọt mồ hôi chậm chạp lăn trên vầng trán. Đưa tay bóp nhẹ hai vầng thái dương trở nhức, Trịnh Khải bỗng cảm thấy mệt mỏi, vô cùng mệt mỏi, trên vai anh là một sức nặng vô hình đè xuống và chưa bao giờ anh cảm thấy mình bất lực như thế này.

Từ trước tới nay, Trịnh Khải chưa bao giờ suy nghĩ về việc anh đang sống như thế nào, anh chưa bao giờ để ý đến việc sống một mình sẽ ra sao mà luôn đi theo lịch trình đã vạch sẵn: sáng thiết triều, trưa phê duyệt tấu chương và tối đọc sách cho đến hết ngày. Nhưng kể từ khi Nguyên Thục xuất hiện, từng chút một, cô gái ấy đã ảnh hưởng đến cuộc sống tiêng tư của anh, đã bước chân vào cuộc đời anh, và mặc nhiên, anh đã suy nghĩ rằng Nguyên Thục ở bên cạnh anh là lẽ đương nhiên, không ai có thể thay đổi. Anh chấp nhận điều đó, an tâm về ý niệm đó, yên lòng về suy nghĩ chỉ cần mở mắt ra là nhìn thấy nụ cười tươi tắn của Nguyên Thục kề bên…

Giống như mỗi sáng khi tỉnh dậy, ta đều thấy ánh nắng ấm áp trên cao, còn bây giờ khi thức dậy, ta chỉ thấy một màn đêm thăm thăm, Trịnh Khải bây giờ cũng thế, anh đang cảm thấy mất phương hướng. Mỗi ngày đều nhìn thấy nụ cười ấy, bóng dáng ấy đã thành một thói quen để bây giờ cái ý nghĩ Nguyên Thục đã tan biến làm anh lúng túng, rối loạn khi không biết phải làm gì

- Chúa công, người không sao chứ! Chúa công?

A Đào vội đỡ lấy tay Trịnh Khải, nhưng anh đã gạt ra trong vô thức, điều ấy khiến cô e ngại, đôi mắt đỏ hoe như sắp khóc. Vào phủ từ năm mười tuổi, chưa bao giờ A Đào nhìn thấy chúa công mất bình tĩnh như thế. Khi phủ chúa dậy sóng, khi thế thời biến động, nhưng chúa công vẫn luôn điềm tĩnh, chẳng chút rối loạn và xử lý mọi việc đâu vào đó một cách gọn gàng. Bây giờ, khi nghe tin Tiệp dư biến mất, thần sắc của chúa công đã thay đổi, ánh mắt sâu thẳm kia bỗng trở nên lạc lõng, vô định,chiếc bóng cô độc đổ dài xuống đất, chông chênh, khiến cô cảm thấy bất an và đau lòng.

Ngồi yên lặng trên ghế, Trịnh Khải nhắm mắt, đôi mày kiếm hằn sâu trên gương mặt thanh tú như một vết cắt, khi anh mở mắt, cả thế giới như chao ngiêng. Chợt, Trịnh Khải hơi nghiêng người về phía trước, anh phát hiện ngoài mùi hương hoa sen của Nguyên Thục còn xen lẫn một mùi hương khác. Mùi hương vừa ngọt ngào vừa thanh thoát đó lẩn khuất quanh phòng khiến giác quan của anh được đánh thức. Mùi hương rất quen, nhưng anh nhất thời không nhớ ra được mùi hương ấy là của ai. Trịnh Khải nhíu mày, anh bóp trán, anh phải bình tĩnh lại, phải thôi không hoang mang nữa để có thể tập trung vào ký ức, tìm ra được người sở hữu mùi hương này

Hoàng Thanh Loan...

Trong khoảnh khắc, ba chữ “ Hoàng Thanh Loan” bật ra khỏi tâm trí Trịnh Khải, trái tim anh dao động khi ba từ xa xôi ấy bỗng nhiên nhắc đến. Chuyện cũ đã qua, nhưng xem ra người xưa vẫn còn nhớ đến. Tại bữa tiệc của thánh mẫu, cô gái ấy đã gây ra lộn xộn khiến Nguyên Thục phải khổ sở, bây giờ thêm một lần nữa, cô gái ấy can thiệp vào cuộc sống của anh, mang Nguyên Thục đi mất, và lần này thì anh không thể bỏ qua.

 Biết được nguyên nhân vì sao Nguyên Thục lại biến mất, Trịnh Khải thở nhẹ, sự hoang mang trong lòng dần tan và anh dần bình tâm trở lại. Dù lo lắng cô gái ấy sẽ đổ những ân oán riêng tư giữa hai người lên Nguyên Thục, nhưng ít ra anh cũng đã tìm được phương hướng và cách giải quyết, nhất là khi cô gái ấy chỉ muốn lợi dụng Nguyên Thục để anh phải tìm đến Huyết ly cung.

Huyết ly cung…

Trịnh Khải nhắm mắt, một vệt mờ kéo qua tâm trí anh rồi nhanh chóng tan biến khi anh mở mắt ra. Muốn đến Huyết ly cung, anh phải nhanh chóng giải quyết hết những tấu chương cho hai ngày tới, ổn định việc triều chính. Quay sang A Đào đang đứng khép nép kế bên, trịnh khải mỉm cười, nhưng ánh mắt lại quá đỗi mênh mông.

- A Đào, cô mau dọn dẹp những mảnh vỡ trong phòng, chuyện Thục nhi mất tích đừng để người khác biết. Ta sẽ sớm đưa cô ấy quay trở về.

oOo

Nguyên Thục mở bừng mắt…

Đập vào mắt nó là chiếc lồng đèn đỏ đung đưa treo trên xà nhà, một cơn đau nhói ở cổ khiến Nguyên Thục nhăn nhó. Vừa đưa tay xoa gáy, Nguyên Thục vừa chống tay ngồi dậy. Rảo mắt nhìn quanh, đôi đồng tử của Nguyên Thục nở to ra khi phát hiện mình đang nằm trong một căn phòng lộng lẫy, khắp nơi đều trang hoàng một màu đỏ. Chiếc gường nó đang nằm màu đỏ, bộ bàn ghế màu đỏ, ấm tách màu đỏ, tấm mành trúc ngăn với phòng khách màu đỏ và ngay cả cánh cửa sổ đóng im ỉm cũng màu đỏ, thế nhưng điều đó không làm nó ngạc nhiên bằng việc ngửi thấy một mùi hương nhẹ nhàng quen thuộc lãng đãng trong phòng.

Đó là mùi trầm hương…

Mùi trầm hương dịu dàng quyến luyến mà nó yêu vô cùng vương trên áo Trịnh Khải, trong khi đây không phải là Tiệp cung, vậy tại sao mùi trầm hương ấy lại lẩn khuất quanh đây. Nguyên thục cau mày, nó vội nhảy xuống giường, thân người loạng choạng vì dư âm của cơn đau vẫn còn ảnh hưởng tới thần trí. Tấm rèm đỏ... cô gái áo đỏ... Nguyên Thục buột miệng kêu lên. Cách đây mấy phút, nó còn đang ở trong Tiệp cung bận bịu chuẩn bị bữa ăn, thế rồi đột ngột, cô gái áo đỏ đã gây ra náo loạn hôm sinh thần thánh mẫu bỗng nhiên xuất hiện. Không để Nguyên Thục kịp kêu cứu, cô gái áo đỏ đã lướt tới, kế đó tỉnh lại thì nó đã thấy mình nằm chơ vơ ở căn phòng sang trọng, lạ lẫm này.

Trong căn phòng nhung gấm màu đỏ, Nguyên Thục vô cùng nhức mắt, nó vội vã lại gần cửa sổ, mở toan và tức thì ngẩn người ra. Biển. Mặt biển xanh thăm thẳm như đôi mắt Trịnh Khải đang rì rào, gió từ mặt biển thổi vào lồng lộng, lạnh buốt khiến Nguyên Thục rùn mình. Phóng tầm mắt nhìn biển khơi mênh mông, Nguyên Thục bàng hoàng khi nhận ra rằng đây là một hòn đảo, chỗ nó đang đứng là sát mép vực, sóng biển tung trào trắng xóa phía dưới. Nguyên Thục chóng mặt, nó chầm chậm khép cửa lại, lòng vô cùng hoang mang. Đây là đâu? Tại sao cô gái áo đỏ lại đưa nó tới đây? Nó phải làm sao mới có thể thoát khỏi căn phòng này khi bốn bề là biển khơi?

Nguyên Thục bần thần, sự bối rối khiến đôi mắt nó dần đỏ hoe. Không được! Không được khóc! Không được hoảng loạn, bây giờ nó cần phải bình tĩnh, thật bình tĩnh để tìm ra cách thoát khỏi đây. Đến Tiệp cung mà không thấy nó, Trịnh Khải chắc chắn sẽ rất sốt ruột, cho nên nó phải nhanh chóng quay trở về để anh không phải lo lắng gì nhiều

- Cô đã tỉnh rồi sao?

Đang tự trấn an tinh thần, Nguyên Thục quay phắt người lại khi một giọng nói thanh tao từ phía sau bất chơt vang lên. Một bóng hình yểu điệu đứng trước ngưỡng cửa, đôi mắt đen lấp lánh nhìn ra mảnh trời xanh bao la qua cánh cửa sổ đang khép hờ. Đó là một nàng thiếu nữ xinh đẹp, gương mặt phù dung nhuộm vẻ u sầu, chiếc áo lụa màu đỏ phơ phất tựa một cánh bướm lửa. Dù đây là lần đầu tiên Nguyên Thục gặp cô gái, nhưng nó vẫn chưa quên làn thu ba rực sát khí lúc lưỡi dao lạnh lùng kề sát má nó. Là cô ta, cô gái đã gây náo loạn tại bữa tiệc, và là người đã làm Nguyên Thục phải một phen hoảng hồn

Không đế ý đến sắc mặt thay đổi của Nguyên Thục, cô gái áo đỏ bình thản tiến gần chiếc giường, nơi mùi trầm hương dịu dàng phảng phất. Ngồi xuống giường, cô gái áo đỏ vừa vuốt ve chiếc chăn thêu đôi chim loan phụng đang quấn quýt với nhau, vừa hỏi Nguyên Thục, giọng vu vơ

- Mùi trầm hương này có giống với người đó không?

Lợi dụng lúc cô gái áo đỏ quay lưng về phía mình, Nguyên Thục nhìn quanh quất để tìm chỗ trốn thoát, nhưng án ngữ ngay cửa là bốn tên hộ vệ thân hình lực lưỡng khiến nó thất vọng, thế nên trước câu hỏi của cô gái áo đỏ, Nguyên Thục lơ đãng trả lời.

 - Ai?

- Người đó? Người duy nhất có mùi trầm hương này.

- Cô muốn nói đến...

- Có giống không?

Vẫn những lời nhẹ nhàng, cô gái áo đỏ mải miết vuốt ve từng đường chỉ thêu trên đôi loan phụng. Đứng chôn chân phía sau, Nguyên Thục vẫn còn chưa hết ngẩn ngơ về những gì mới nghe được. Người duy nhất có mùi trầm hương dịu dàng chẳng phải là Trịnh Khải hay sao, cô gái áo đỏ này là ai, có mối quan hệ gì với anh mà sao chất giọng lại trìu mến khi nhắc đến anh như thế.

Nguyên Thục cau mày, lần trước cô gái áo đỏ này đã đột nhập phủ chúa hành thích nó, lần này thì lại bắt nó về đây, rốt cuộc cô ta muốn gì. Mới nghĩ đến đó, lại thêm mùi hương phảng phất trong phòng giống mùi trầm hương từ ống tay áo của Trịnh Khải khiến nó cảm thấy bức bối. Chắc chắn quan hệ giữa cô gái này với anh không đơn giản, anh lại không bao giờ nhắc đến chuyện xưa với nó, phải chăng cô gái này cũng là một trong những chuyện xưa mà anh không bao giờ muốn nói ra.

- Không! Không hề giống chút nào!
Nguyên Thục đáp, giọng lạnh lùng. Sự phủ nhận của nó khiến bờ vai thon mảnh bất động ấy thoáng run nhẹ. Trong khi Nguyên Thục tưởng đối phương sẽ nổi giận thì cô gái áo đỏ chậm rãi đứng lên và quay người đối diện với nó, nét mặt u sầu phảng phất sát khí khiến Nguyên Thục bất giác lùi về phía sau mấy bước. Cô gái này có làn da trắng toát, đôi môi đỏ tươi như máu, mái tóc dài đen nhánh, trông chẳng khác nào một bóng ma.

- Tại sao lại không giống?

Cô gái áo đỏ mấp máy môi, ánh mắt giá lạnh nhìn xoáy vào Nguyên Thục như một mũi dao. Cố trấn tĩnh lại trái tim đang đập thình thịch trong lồng ngực, Nguyên Thục hít một hơi thật sâu, nó ngẩng cao đầu, đáp rành rọt

- Vì mùi trầm hương từ anh ấy rất dịu dàng, tựa có mà tựa không, còn mùi hương này ngửi thoáng qua thì rất giống, nhưng nó lại gắt hơn và nồng hơn!

Nguyên Thục đáp với giọng tự tin, câu trả lời của nó khiến đôi mắt cô gái áo đỏ như có ánh lửa bùng cháy, cô nhìn Nguyên Thục đăm đăm không chớp mắt, lâu thật lâu rồi mới buông lời

- Trên người cô cũng có mùi hương này.

Nguyên Thục ngẩn người ra, một chút thẹn thùng phớt hồng trên đôi má, nó chưa kịp nói gì thì cô gái áo đỏ lại tiếp lời

- Thế nên ta rất muốn biết người ấy sẽ vì cô như thế nào.

- Sao?

Nguyên Thục buột miệng hỏi lại, trong đầu nó đã lờ mờ đoán ra được nguyên nhân vì sao nó lại bị bắt tới đây. Nó không phải là mục tiêu của cô gái, ngược lại, người mà cô ta muốn nhắm tới có thể chính là Trịnh Khải. Trong khi còn chưa biết cô gái này có ý đồ gì, tốt hay xấu, thì bằng mọi cách nó nhất định phải thoát khỏi nơi này và trở về trước khi Trịnh Khải đến đây. Dường như biết được tính toán của nó, vành môi đỏ tươi của cô gái vẽ thành một nụ cười nửa miệng, cô ung dung rời khỏi phòng, tà áo bay phơ phất, vọng lại là giọng nói thanh tao khiến Nguyên Thục giật mình

- Đừng nghĩ đến chuyện thoát khỏi đây! Trước khi người ấy đến, ta hứa sẽ không làm gì hại đến cô!



★ Chương 112

Bóng chiều buông xuống trên Huyết Ly cung. Từ nơi Nguyên Thục đứng có thể nhìn thấy mặt trời lặn xuống biển. Ánh chiều tà vươn những cánh tay gầy dài ngoẵng ôm lấy đại dương, nhấn chìm căn phòng trong màu li biệt khiến Nguyên Thục cảm thấy bất an.

Lần đầu tiên ở một nơi xa lạ cách đất liền hàng ngàn cây số, không phải Tiệp cung thân thuộc của nó, Nguyên Thục vô cùng lo lắng. Huyết Ly cung nằm trên một hòn đảo neo người, heo hút, bốn bề chỉ có tiếng sóng vỗ, tuyệt không thấy ai lai vãng đến ngoại trừ những con thuyền buôn cung cấp lương thực và nước uống theo định kỳ. Chôn chân trong phòng mấy hôm nay, Nguyên Thục không thể thám thính ngõ ngách trong Huyết Ly cung để tìm đường thoát. Nó cũng đã xem xét kỹ càng căn phòng đang ở hòng mong tìm thấy địa đạo bí mật nào đó, nhưng không như nó mong muốn, trong phòng chỉ trổ độc nhất một cửa sổ, nhìn xuống là biển khơi. Nó không thể mạo hiểm leo xuống trong khi chưa biết chắc những gì đang đón chờ nó ở phía dưới. Đi không được trốn cũng không xong, Nguyên Thục đành ngồi lại chờ đợi những gì sẽ xảy ra với mình, đồng thời chuẩn bị tâm lý vững vàng cùng kế sách để đối phó với cô gái áo đỏ nếu cả hai phải đối mặt nhau.

Nguyên Thục tự nhủ là thế, nhưng đã ba ngày trôi qua mà Thanh Loan vẫn không hề đả động gì đến Nguyên Thục. Với vị trí căn phòng và địa thế hòn đảo này, Thanh Loan không cần cử người canh gác nhưng vẫn khiến Nguyên Thục có cảm giác mình như bị đối phương nắm rõ trong lòng bàn tay. Chính vì suy nghĩ đó, cộng thêm cảm giác uất ức bất lực khi nghĩ mọi hướng vẫn không tìm ra cách nào khả thi để thoát khỏi Huyết Ly cung, Nguyên Thục bắt đầu thấy bất an, mất bình tĩnh và cảm thấy mình chưa bao giờ vô dụng đến thế này.

- Hồ tiểu thư, cung chủ chúng tôi có lệnh mời cô đến Thanh Hương lầu.

Đây là ngày thứ tư Nguyên Thục có mặt trên đảo, lòng nó đang rối như tơ vò khi không biết Trịnh Khải bây giờ thế nào, mục đích của cô gái áo đỏ ra sao, Nguyên Thục giật mình quay lại khi một giọng nói lạnh tanh vang lên. Đứng trước mặt nó là một chàng trai trẻ tuổi, mình vận áo giáp đỏ, gương mặt như sương chẳng để lộ chút cảm xúc nào. Cô gái áo đỏ mời nó đến Thanh Hương lầu, cô ta muốn làm gì đây, Nguyên Thục cắn môi nghĩ ngợi, nó theo chân chàng trai đến điểm hẹn, trong lòng chuẩn bị sẵn tư tưởng và tâm lý. Cô gái áo đỏ có quan hệ như thế nào đối với Trịnh Khải, liệu cô ta có biết gì về quá khứ của anh không, rồi đây nó sẽ có câu trả lời.

Thanh Hương lầu nằm ở phía tây Huyết Ly cung. Trái ngược với suy nghĩ của Nguyên Thục, không còn màu đỏ nhức nhối, Thanh Hương lầu có lẽ đúng với cái tên của nó với những cánh rèm màu xanh lục dịu mắt, những khóm hoa trắng muốt như đang cười trong gió mang theo mùi hương dễ chịu. Đặt chân đến Thanh Hương lầu, Nguyên Thục bỗng thấy xôn xao, căn lầu này càng làm cho nó nhớ đến Trịnh Khải hơn bao giờ hết. Cũng tà áo xanh, cũng sự dịu dàng dễ chịu, cũng mùi hương thoang thoảng khi có khi không luôn khiến trái tim nó run lên nhè nhẹ. Trong Huyết Ly cung đâu cũng nhuộm đỏ thì Thanh Hương lầu lại nổi bật lên như một nốt ngân nhẹ nhàng.

- Cung chủ, thuộc hạ đã đưa Hồ tiểu thư đến rồi!

Cô gái áo đỏ đang đứng khoanh tay tựa cửa, nghe thuộc hạ bẩm báo liền quay lại. Bắt gặp Nguyên Thục đang nhìn quanh Thanh Hương lầu với sự ngạc nhiên, bờ môi đỏ tươi của cô gái cong lên, tạo thành một nụ cười lãnh đạm. Trỏ tay về phía chiếc bàn đá, cô gái áo đỏ cất giọng nhẹ nhàng.

- Huyết Ly cung có khách quý, tất nhiên phải mở tiệc chiêu đãi. Hồ tiểu thư, mời ngồi!

Nguyên Thục liếc mắt về phía chiếc bàn đá, nó phải công nhận rằng thức ăn được bày trên bàn toàn là cao lương mĩ vị. Một con phụng hoàng đang tung cánh, một con cá chép bơi trong đĩa bạc, một đóa hoa sen đang nở tỉa bằng dưa hấu, và vô số các món mà Nguyên Thục chưa thấy bao giờ. Thết tiệc thế này thì có kém cạnh gì phủ chúa hay Hoàng cung đâu.

- Ngồi xuống đi, đừng đứng mãi như thế. Ta tên là Thanh Loan, nói cho cô biết để tiện xưng hô.

Vừa nói, Thanh Loan vừa đẩy một chiếc ghế về phía Nguyên Thục, nó ngại ngần ngồi xuống, bụng hoài nghi không biết Thanh Loan hẹn nó ra đây để làm gì, chắc chắn không đơn giản chỉ là một bữa tiệc chiêu đãi như lời cô ta nói. Ngay lúc Nguyên Thục ngồi xuống, từng chiếc đèn lồng treo quanh thanh hương lầu đồng loạt thắp sáng, ánh nến lung linh, đâu đây thoang thoảng mùi trầm hương dịu dàng.

Nguyên Thục xiết chặt đôi đũa trong tay, hễ nơi nào có cô gái này thì nơi đó có mùi trầm hương, cứ như thể cô ta muốn giữ mùi hương ấy ở bên cạnh, tượng trưng cho sự hiện diện của Trịnh Khải vậy. Bực bội vì ý nghĩ đó, bụng Nguyên Thục no ngang, mùi thức ăn thơm lừng cũng không làm nó cảm thấy đói. Thấy Nguyên Thục mãi không đụng đũa, Thanh Loan mỉm cười, cô thong thả gắp thức ăn vào chén Nguyên Thục, nói nhẹ nhàng.

- Bữa tiệc hôm nay ta chủ ý làm để chiêu đãi cô, cô không ăn là không nể mặt ta rồi.

- Cám ơn cô về bữa tiệc chiêu đãi này, nhưng bản tính tôi không thích vòng vo, có gì cứ nói thẳng, mục đích cô bắt tôi tới đây để làm gì?

Nguyên Thục gạt nhẹ đôi đũa của Thanh Loan sang một bên, nó nhìn thẳng vào mắt cô, nói từng chữ một. Trước phản ứng đó của Nguyên Thục, đôi mày liễu của Thanh Loan hơi nhướng lên, cô vươn tay bỏ cọng rau muống xào vào trong chén của mình, đoạn đáp lời.

- Không có gì, chỉ là ta muốn xác nhận một số chuyện mà thôi!

- Xác nhận? Chuyện gì?

- Chuyện người đó có còn yêu ta nữa không!

Những lời Thanh Loan nói nhẹ như gió thoảng, nhưng Nguyên Thục nghe như sấm động bên tai. Nó sững người, mắt mở to nhìn Thanh Loan không chớp. “Xác định chuyện người đó có còn yêu ta nữa không”, vậy là sao? Không lẽ Thanh Loan và Trịnh Khải, hai người đó trước đây đã từng có tình cảm với nhau… Nguyên Thục lắc đầu, nó nhắm chặt mắt, vành mi run run, hai bàn tay bấu chặt vào vạt áo. Nếu Trịnh Khải và Thanh Loan trước đây có gì thì đó cũng là quá khứ, mà đã là quá khứ thì nó không cần quan tâm.

- Những món ta làm để thết đãi cô đều là những món người ấy thích ăn nhất, vị lạt, người ấy không thích ngọt hay mặn.

Dù tự nhủ không cần quan tâm, nhưng sao khi nghe những gì Thanh Loan vừa nói, tim Nguyên Thục thắt lại. Nó rảo mắt nhìn toàn bộ thức ăn trên bàn, tất cả toàn món lạt, không hề có lấy một món ngọt hay mặn nào, trong khi nó lại hay làm bánh ngọt để mang đến cho Trịnh Khải. Anh đã không thích ăn ngọt, vậy tại sao không nói cho nó biết, để nó tưởng rằng anh sẽ vui khi ăn những món nó làm cho anh.

- Hồ tiểu thư, cô là gì của Đoan Nam vương?

Dường như để gia tăng sự lo lắng trong lòng Nguyên Thục, Thanh Loan lại nhẹ nhàng lên tiếng. Cố gắng không nghĩ đến chuyện quá khứ của Trịnh Khải, Nguyên Thục bình tĩnh đáp lời, nó cố giữ giọng thật ung dung.

- Chuyện đó có liên quan gì tới cô?

- Bởi có vẻ như cô không biết chút gì về ngài ấy cả.

Dù đã biết nó không hề biết gì về Trịnh Khải, nhưng khi nghe chính miệng người khác nói ra, Nguyên Thục không khỏi cảm thấy ngậm ngùi. Đối với mọi người, nó và Trịnh Khải lúc nào cũng quấn quýt vui vẻ bên nhau, nhưng có mấy ai biết rằng nó chẳng hiểu chút gì về anh, về sở thích cũng như những suy nghĩ riêng anh. Nó biết làm sao? Anh không nói những suy nghĩ của anh cho nó biết, anh không chia sẻ những tâm tư của anh cho nó biết, nó lại chẳng thể khiến anh đủ tin tưởng để trải lòng thì sao có thể đòi hỏi được nhiều hơn mức bình thường.

- Tôi hiểu anh ấy hay không là chuyện của chúng tôi, không liên quan đến cô.

Nguyên Thục trầm giọng, nó nhướng mày lên khi khóe môi Thanh Loan điểm một nụ cười.

- Cô sai rồi, những chuyện của người ấy đều liên quan đến ta, và hiện giờ ta thấy rằng cô không hiểu người ấy, khiến người ấy phải từ bỏ nhiều thói quen và sở thích của mình chỉ vì cô. Hồ tiểu thư, cô cũng biết là Đoan Nam Vương chuyên về thảo dược và độc dược phải không? Thế cô có biết tác dụng của chúng dùng để làm gì, cô có thấy ngài ấy chế tạo chúng bao giờ chưa? Phòng thảo dược ở đâu? Tất cả những chuyện nhỏ nhặt đó cô có biết như ta không?

Nguyên Thục không nói gì, Thanh Loan quả thật biết rõ về Trịnh Khải hơn nó. Tuy biết anh am hiểu về thảo dược và độc dược, nhưng chưa bao giờ nó được bước chân vào chốn riêng đó, chưa bao giờ thấy anh chế tạo thuốc cũng như nói cho nó nghe những công dụng ấy là gì. Nó còn chưa từng nhìn thấy phòng thuốc, ấy thế mà Thanh Loan đều đã đặt chân đến những nơi ấy, lại còn cùng anh chế tạo thuốc nữa chứ. Riêng về chuyện này thôi cũng đã thấy Thanh Loan vượt hơn nó rồi.

Nguyên Thục thầm nghĩ, nó ngồi như dán chặt trên ghế, sóng mũi nó ửng đỏ, rèm mi đã bắt đầu run run. Vờ như không để ý đến cảm xúc đó của Nguyên Thục, Thanh Loan vẫn buông từng lời.

- Hồ tiểu thư, cô ở bên cạnh Đoan Nam Vương lâu như thế, cô có biết trong phủ chúa rộng lớn, nơi ngài ấy hay đến nhất, nơi ngài ấy thích nhất là đâu không?

Nguyên thục im lặng, lại một chuyện “ nhỏ nhặt” nữa mà nó không biết. Thường ngày mỗi khi rảnh rỗi, Trịnh Khải luôn đưa nó đi dạo những nơi mà nó muốn đến, còn lại nó chỉ biết ngồi trong phòng làm bánh, tập thêu thùa may vá để đợi anh đến. Quả thật càng nghe Thanh Loan nói, Nguyên Thục càng cảm thấy hoang mang. Thật ra nó có hiểu anh không? Thật ra nó có biết anh đang nghĩ gì, thích gì, ghét gì không? Thanh Loan biết tất cả những chuyện nhỏ nhất về Trịnh Khải, điều đó chứng tỏ anh đã tin tưởng cô ta, chia sẻ cùng cô ta những sở thích của anh. Cả hai hẳn đã có những kỷ niệm mà người khác không thể chen chân vào được, kể cả nó. Ngay cả những chuyện nhỏ nhặt nhất mà nó cũng không biết, thì làm sao có thể tự tin nó sẽ là một nơi bình yên dành cho anh những khi mệt mỏi hay ưu phiền.

- Hồ tiểu thư, cô hay thân cận với Đoan Nam vương nên trên người cô cũng vương mùi trầm hương, thế nhưng cô có biết rằng trên cánh tay của người ấy có một vết sẹo nhỏ do luyện kiếm hay không?

Đến nước này thì Nguyên Thục không thể im lặng được nữa, nó ngẩng phắt đầu lên, ánh mắt đanh lại. Rõ ràng cô gái này và Trịnh Khải đã từng quen biết nhau, không những thế lại còn rất thân. Những gì cô ta vừa kể, nó chẳng biết chút gì cả, thế cho nên cô ta mới mời nó đến để khơi lại chuyện cũ, để thị uy, đồng thời nhắc khéo cho nó biết rằng nó hoàn toàn mịt mờ về Trịnh Khải, sao có thể là thiếp yêu của anh.

Vừa hoang mang lại vừa tức giận, Nguyên Thục đánh mất bình tĩnh, nó sẵn giọng, mà quên mất rằng mục đích tới đây của mình là gì.

- Những chuyện cô nói, tôi thừa nhận là mình không hề biết, thế nhưng những cái tôi biết chắc gì cô đã biết. Chuyện cô và anh ấy trước đây như thế nào tôi không quan tâm, mong cô đừng kể chuyện trước đây của hai người cho tôi nữa, tôi không muốn nghe!!

Dường như phản ứng của Nguyên Thục không nằm ngoài dự đoán của Thanh Loan, thế nên nó vừa nói xong, cô chỉ mỉm cười.

- Thế ư? Chẳng hay cô biết những gì mà ta không biết vậy? Trong phủ chúa nơi nào mà ta chưa đến? Ngõ ngách nào mà ta chưa đặt chân qua?

- Tất nhiên, cô thông thuộc đường đi nước bước trong phủ chúa như thế mới có thể dễ dàng đến Tiệp cung mà bắt tôi đi chứ. Thế còn ngoài phủ chúa? Cô có dám chắc rằng cô biết hết không?

- Ngoài phủ chúa?

Nhìn đôi lông mày lá liễu hơi nhướng lên của Thanh Loan tỏ ý ngạc nhiên, Nguyên Thục nhếch môi. Chắc chắn nó phải có một điểm gì để hơn cô nàng này, chứ không thể mặt nào cũng thua như thế.

- Phải! Ngoài phủ chúa. Chẳng hay cô đã từng đến thăm Quận Đông chưa, đến gặp chú quản Phúc và được anh ấy giới thiệu với tư cách là người của anh ấy chưa? Thanh Loan, tôi nói ở đây không phải để khoe khoang hay so bì với cô, tôi chỉ xin nhắc cho cô nhớ, rằng nếu cô và Trịnh Khải có những bí mật riêng của hai người, thì tôi và anh ấy cũng có bí mật riêng với nhau. Tương lai tôi sẽ cùng anh ấy tạo ra nhiều kỷ niệm, tạo ra nhiều bí mật hơn nữa. Những chuyện cô nói hôm nay, tôi cám ơn cô vì cô đã cho tôi biết thêm nhiều điều về anh ấy. Và tôi cũng mong cô đừng đưa những chuyện xa xưa này ra làm vũ khí để lung lạc tinh thần tôi, làm tôi thấy hoang mang, không có ích đâu! Bây giờ tôi xin phép về phòng, cám ơn vì sự chiêu đãi nồng hậu của cô!

Nguyên Thục nói một hơi, nói xong nó liền đứng lên và quay bước trở về căn phòng cũ để suy nghĩ lại những gì đã xảy ra tối hôm nay. Tuy mạnh miệng nói với Thanh Loan như thế, nhưng Nguyên Thục lại vội vàng rời khỏi đó để tránh nghe câu trả lời từ cô và giữ lại chút tự tin cho mình. Đầu óc nó lúc này rối bời, bờ môi đào mím lại vì những gì Thanh Loan đã nói cứ lởn vởn trong tâm trí, không cách nào xua đi được. Nó tự hỏi bây giờ Trịnh Khải đang làm gì, có nhớ đến nó hay vương vấn Thanh Loan, rồi khi gặp nó sẽ đối mặt với anh như thế nào đây khi đã có gút mắt trong lòng. Quá khứ của anh nó có nên biết để hiểu anh hơn, hay cứ để nó ngủ yên mãi mãi. Nhưng nếu như thế, trong lòng Nguyên Thục lại cảm thấy không vui…

Còn lại một mình trong căn lầu, Thanh Loan nhìn theo bóng dáng Nguyên Thục khuất dần sau bụi tre nhấp nhô, ánh mắt cô đen thẫm như mặt biển đêm. Ban nãy, khi mời Nguyên Thục ra, Thanh Loan đã rất tự tin, tự tin là cô vẫn có một chỗ đứng vững chắc trong lòng Trịnh Khải khi những gì cô kể ra, Nguyên Thục đều ngơ ngác. Trong giây phút ấy cô rất vui, niềm vui như mạch nước ngầm luồn lách dưới lòng đất rồi lan tỏa khắp châu thân. Cô vui vì tin rằng người đó vẫn còn nhớ đến cô, vẫn còn trân trọng cô nên thế giới bí mật, riêng tư của hai người không ai có thể biết được. Thế nhưng, cũng rất nhanh, sự tự tin và niềm vui đó ngay lập tức tan biến khi Nguyên Thục nhắc đến Quận Đông, Quản Phúc. Cô còn không biết họ là ai, chứ đừng nói chi đến chuyện được giới thiệu với tư cách là người yêu. Trong khoảnh khắc ấy, trái tim của Thanh Loan như bị bóp nghẹt lại. Ngoài mặt làm ra vẻ lạnh lùng, nhưng khi rót trà, ngón út của cô đã run nhẹ, biểu hiện mỗi khi bất an và lo lắng, dù cô đã cố gắng che giấu.

“Những chuyện cô nói, tôi thừa nhận là mình không hề biết, thế nhưng những cái tôi biết chắc gì cô đã biết”

Thanh Loan cau mày. Lời Nguyên Thục nói cứ vang vọng trong tâm trí cô. Có thật thế không? Có thật là người ấy đã chia sẻ cùng cô gái đó những bí mật riêng tư mà ta không được biết? Chẳng lẽ người ấy đã quên ta rồi sao, đã không còn yêu ta nữa sao? Ta biết! Ta biết ngày đó là ta có lỗi với người, nhưng ta đã làm hết sức mình, đã cố gắng bù đắp cho người ấy, hết lòng vì người ấy, chỉ mong người ấy hiểu cho ta, tin tưởng ta và chờ đợi ta cũng như ta đang chờ đợi người ấy từng ngày. Vậy mà…Tại sao? Tại sao…? Người có biết ta đang chờ đợi người, thương nhớ người đến héo mòn rồi chăng…?

Thanh Loan bần thần tự hỏi, ánh nến phản chiếu trong mắt cô, lấp lánh. Gió lồng lộng mang theo mùi mằn mặn của biển, thổi tà áo đỏ bay chập chờn trong đêm như ánh lửa sắp tàn. Huyết Ly cung nằm trên một hòn đảo trơ vơ, bốn bề là biển, biển xanh ngắt, biển miên man, ngày đêm rì rào buồn bã, một mình đơn độc nơi này mãi hướng về phía đất liền xa xăm.

Ngắt nhẹ một bông hoa đang nở trong vườn, Thanh Loan nhìn những cánh hoa mềm mại, mát rượi trong lòng bàn tay một lúc lâu rồi bất chợt vò nát. Những cánh hoa rơi rụng xuống chân, nằm trơ trên nền đất lạnh, rồi có cơn gió thổi qua cuốn theo hoa bay lên trời…

Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết

Đêm qua sân trước một nhành mai

Nhưng tay ta ngắt luôn nhành mai ấy, cây khô chỉ còn trơ cành.



★ Chương 113 [Part 1]

Dinh thự của Huy quận công (*) tuy rộng thật, nhưng so với Lượng phủ chỉ là một khuôn viên bé nhỏ trong hoàng thành rộng lớn. Đó là ý nghĩ đầu tiên của Thanh Loan khi cô theo chân anh mình vào trong phủ, thế nhưng giờ đây ý nghĩ đó đã không còn nữa, bởi vì dù phủ chúa rộng đến đâu, dễ bị lạc đến đâu, nơi cô đến chỉ một, và con đường dẫn đến nơi đó đã trở nên thân thuộc với cô, đó là thư lầu.

Hôm nay cũng như bao ngày khác, Thanh Loan đã đến thư lầu của công tử Trịnh Khải, trưởng tử của Tĩnh vương, để tiếp tục giúp người giã thuốc. Căn phòng nhỏ thơm mùi thảo dược cùng ánh mắt dịu dàng quen thuộc của Trịnh Khải luôn khiến cô cảm thấy ấm áp. Trịnh Khải rất thích tìm hiểu các tính năng và bào chế dược thảo, căn phòng nhỏ mà anh hay mày mò học hỏi trước nay chỉ có mình cô biết, đó là một bí mật trong những bí mật Trịnh Khải đã chia sẻ cho cô. Chỉ cần nghĩ đến đó thôi cũng đủ khiến Thanh Loan vui sướng và tự hào, trong vô thức, bờ môi đào khe khẽ hé cười khi nghĩ đến mơ ước sẽ trở thành người nâng khăn sửa túi cho người cô yêu

Vừa đặt chân về đến cổng phủ, Thanh Loan thoáng ngạc nhiên khi thấy quân lính thưa thớt, đèn đóm chưa thắp, phủ quận công vắng lặng kỳ lạ. Tuy bây giờ trời chưa tối hẳn, nhưng sao Thanh Loan cảm thấy có một chút gì đó thật lạ khi băng ngang qua vườn hoa. Hành lang dài vắng bóng cung nữ, hai bên tấm mành sáo kêu lách cách khi gió thổi vào, làm cô chợt cảm thấy nôn nao. Theo lẽ thường, khi về đến phủ, hình ảnh đầu tiên mà cô nhìn thấy chắc chắn sẽ là trưởng huynh Đình Bảo, với gương mặt lo lắng đang chắp tay đi qua đi lại chờ đợi vì đến giờ này em gái vẫn chưa về. Thế nhưng hôm nay, anh cô không thấy xuất hiện, đèn đóm chưa được thắp lên, lính canh thì chẳng thấy ai, khiến cho cô cảm thấy khó hiểu lạ lùng

Dù hơi khó hiểu, nhưng lúc này, không thấy anh trai của mình đứng đợi, Thanh Loan lại có phần cảm thấy nhẹ nhõm. Dù cô luôn cố gắng về phủ sớm, thế nhưng với anh trai cô thì sớm thế nào cũng không đủ, vậy nên nếu bị anh bắt gặp, chắc chắn cô lại bị thuyết giáo rầy la và bản thân cô cũng không muốn để Đình Bảo phải lo lắng cho mình. Nở một nụ cười tinh nghịch khi phòng mình đã hiện ra trong tầm mắt, Thanh Loan tính chạm tay mở cửa, nhưng đến phút cuối, đôi mày liễu của cô nhíu lại khi nhớ ra một việc. Chẳng là sáng nay, trước khi sang phủ chúa gặp Trịnh Khải, Đình Bảo đã gọi cô lại, bảo tối nay muốn nhờ cô cho ý kiến về việc chọn quà mừng sinh thần của Tuyên phi, cô đã hứa sẽ về sớm để giúp anh, nhưng vì mải vui nên bây giờ mới trở về được. Có lẽ vì cô về trễ nên anh cô đã đi chọn quà một mình rồi chăng? Thanh Loan cắn môi hối lỗi, ngày mai đã là tiệc sinh thần của Tuyên phi, lẽ ra cô phải giúp anh chọn một món quà thật đẹp để Tuyên phi hài lòng thay vì mải chơi thế này.

Không vội vào phòng, Thanh Loan muốn đến xem Đình Bảo có còn trong phủ hay không. Men theo hành lang phía tây, cô bước thoăn thoắt về phía thư phòng của anh trai. Cánh cửa màu gụ hiện ra trước mắt, đôi mày liễu của Thanh Loan nhíu lại khi không nhìn thấy hai người lính, gươm giáo nghiêm ngặt đứng canh gác bên ngoài như mọi khi.

Chẳng lẽ Đình Bảo đã ra ngoài mà không chờ cô thật sao…?

Nhưng kể cả như thế thì thư phòng của Đình Bảo không thể không có người canh gác như vậy, chuyện này chưa từng xảy ra bao giờ vì anh cô vốn là người rất cẩn thận. Thanh Loan thở nhẹ, linh tính mách bảo cô có điều gì đó bất thường đã xảy ra. Gõ vài tiếng nhưng không thấy có người trả lời, Thanh Loan đánh bạo đẩy cửa bước vào, thế nhưng cô còn chưa kịp nhìn xung quanh thì đã nghe thấy tiếng bước chân dẫm lên đá cuội trong vườn. Theo bản năng, Thanh loan vội trốn sau kệ sách nằm khuất trong góc phòng. Cánh cửa mở toang khi cô vừa giấu mình. Dưới ánh trăng lạnh lẽo, một nhóm người đang vội vã tiến vào trong, dẫn đầu là cấp sự Nguyễn Huy Bá, người mà trước đó đã bị cách chức vì tội tham ô.

Nguyễn Huy Bá tính rất giảo hoạt, cuối trên luồn dưới, hà cớ gì anh trai của cô lại dính dáng đến hạng người này. Thanh Loan nhíu mày suy nghĩ, cô nép mình một cách kín đáo, thở thật nhẹ để không đánh động những người trong phòng. Hình như đang có một cuộc họp diễn ra ở đây, thế nên ngoài giọng của Đình Bảo còn có những tiếng nói lao xao khác ở trong phòng.

Thật là lạ! Anh cô mở một cuộc họp mà không cần binh lính canh gác bên ngoài, thật không giống tính cách cẩn trọng thường ngày chút nào, trừ phi… Trái tim Thanh Loan đập dồn dập. Trừ phi đây là một cuộc họp bí mật và quan trọng đến nỗi không thể cho phép bất kỳ ai- ngoài những người có mặt trong phòng- nghe ngóng hay biết đến sự tồn tại của nó. Đúng rồi, chỉ có như thế thì anh cô mới phải cho giải tán lính gác. Nhưng, chuyện gì mà lại cơ mật đến thế chứ?

Vốn không phài người tò mò, nhất là với những chuyện quốc gia đại sự, thế nhưng tình cảnh của Thanh Loan hiện giờ buộc cô không muốn cũng phải nghe những thứ mà cô chẳng hứng thú chút nào. Những tưởng bản thân phải chịu trận cho đến khi cuộc họp này kết thúc, thế nhưng Thanh Loan đã nhầm. Lúc này, bản thân cô hoang mang vô cùng trước những gì mà nhóm người kia đang trao đổi với nhau.

- Theo những gì viên hầu cận thân tín của tôi thu thập được thì trưởng công tử Trịnh Khải đang nhân lúc chúa công se(**) trong người, muốn làm phản, tranh lấy ngôi chúa.

Hai chữ Trịnh Khải tuy được nói rất khẽ, nhưng lọt vào tai Thanh Loan chẳng khác nào tiếng sét. Cô vội vàng đặt tay lên ngực, trấn an trái tim đang đập loạn nhịp, đầu óc choáng ngợp vì những gì vô tình nghe thấy được. Giọng nói ồm ồm vừa cất lên khi nãy chính là giọng của Cấp sự trung Nguyễn Huy Bá, người ban nãy cô đã nhìn thấy.

- Ngài có chắc không? Nguồn tin có đáng tin cậy không? Mưu phản là một tội lớn, chuyện này phải hết sức cẩn thận, để lộ ra chúng ta vu khống cho trưởng công tử thì bay đầu cả đám như chơi.

Một giọng nói khác vang lên, đầy nghi hoặc. Thanh Loan xiết chặt gấu tay áo khi nhận ra đó là giọng của anh cô – Quận Huy Hoàng Đình Bảo.

- Huy quận công cứ an tâm, thông tin này hoàn toàn chắc chắn. Thuộc hạ thân tín của tôi vốn làm môn khách của Tuân sinh hầu (***) đã lâu, gần đây hắn cho biết, Tuân sinh hầu, Hồng lĩnh hầu (****) thường xuyên được trưởng công tử và thuộc hạ mời gặp. Sau một tháng theo dõi thám thính, thuộc hạ của tôi đã nắm mọi tin tức và hoạt động của trưởng công tử. Hắn ta báo lại rằng đêm mai, trưởng công tử, Đàm Xuân Thụ, Thế Thọ, Thẩm Thọ, Vĩnh Vũ cùng hai vị hầu gia sẽ hội họp bí mật để bàn chuyện soán ngôi. Địa điểm là…

Những lời sau cùng đã được Nguyễn Huy Bá hạ giọng đến mức thì thầm, khiến cho Thanh Loan dù rất tập trung và áp sát tai cũng không nghe thấy gì. Cuộc họp kết thúc chóng váng ngay sau khi Đình Bảo lên kế hoạch cho cuộc truy bắt đêm mai. Mọi người nhanh chóng rời khỏi phòng, để lại một mình Thanh Loan đứng như trời trồng trong bóng tối.

Gió đêm thổi ngoài cửa sổ, vầng trán Thanh Loan lạnh toát, những lời của Nguyễn Huy Bá cứ vang lên trong đầu cô. Trịnh Khải muốn tạo phản, có thật không? Tạo phản là một tội rất nặng, nhất là khi Trịnh Khải lại tạo phản, soán ngôi chính phụ thân của mình. Tại sao lại như thế? Liệu những lời kia có phải là bịa đặt để làm hại Trịnh Khải không? Thế nhưng những chứng cứ mà Nguyễn Huy Bá nêu ra không phải là không có cơ sở, chính bản thân Thanh Loan cũng từng nghe báo rằng Hồng lĩnh hầu và Tuân sinh hầu nhiều lần xin gặp Trịnh Khải. Hơn nữa dạo gần đây, cô rất hay thấy Trịnh Khải nói chuyện với họ khi cô đến tìm anh. Những cuộc trò chuyện đó luôn trở thành bí mật mỗi khi cô hay bất cứ ai xuất hiện gần đó, họ im bặt rồi nhanh chóng kiếu từ ra về. Trước đây cô chỉ nghĩ đó là luận bàn quốc gia đại sự nên không mấy quan tâm, thế nhưng nếu đúng theo những gì mà cô vừa được biết, mưu tính chuyện tày trời như thế thì hai người họ im lặng mỗi khi có ai đó xung quanh là lẽ đương nhiên.

Thanh Loan càng nghĩ càng rối. Cô không tin Trịnh Khải lại có chủ ý mưu tính làm phản, và nếu như chuyện đó có là thật đi nữa thì hẳn đó không phải là ý của anh, chỉ là vì sự dèm pha, xúi giục của Hồng lĩnh hầu và Tuân sinh hầu mà thôi. Cô tin Trịnh Khải, và nhất định cô phải thông báo cho anh về cái bẫy này. Cho dù không đồng tình với những lời xúi giục của hai vị trấn thủ đi nữa nhưng nếu bị bắt gặp đi cùng bọn họ thì sẽ khiến cho Trịnh Khải rơi vào tình huống khó xử, danh dự bị hoen ố, oan án khó giải, tiếng xấu khó phai.

Trước mắt, Thanh Loan đã quyết định, những gì cô phải làm là thông báo Trịnh Khải biết mọi chuyện ngay lập tức, rằng anh phải nhanh chóng hủy ngay cuộc họp bí mật ngày mai, sau đó là cân nhắc kỹ càng, đâu là trung, đâu là gian, tránh mang oan án đại nghịch bất hiếu.

Địa điểm bí mật mà Nguyễn Huy Bá nhắc đến, Thanh Loan không nghe thấy, nhưng cô biết phải tìm Trịnh Khải ở đâu. Đó luôn là những bí mật giữa cô và anh, những bí mật anh đã chia sẻ cho chỉ một mình cô mà thôi.

oOo

Trong căn phòng ấm áp, phảng phất mùi hương trầm nhẹ nhàng, Trịnh Khải đang ngự trên sập, trải dài trước mặt anh là những cuộn sách giấy viết chi chít những chữ. Đôi mày kiếm chau lại, từng dòng chữ đen thẫm lấp lánh trong ánh mắt anh như một bí mật mơ hồ, chờ đợi được làm sáng tỏ.

Ngồi trên ghế quan sát những thay đổi kín đáo trên nét mặt Trịnh Khải, Hồng lĩnh hầu Nguyễn Khản vô cùng sốt ruột. Lúc nhận mật thư đến giờ đã tàn một nén hương, thế mà trưởng công tử vẫn yên lặng, chưa có chủ ý hay phán xét gì khiến ông nôn nóng. Khó khăn lắm mới có người chịu đứng ra tố cáo Đặng Mậu Lân tham ô ăn hối lộ, cưỡng bức con gái nhà lành. Trong triều, ai ai cũng biết Đặng Mậu Lân là em ruột Tuyên phi Đặng Thị Huệ. Có chị gái được Tĩnh vương sủng ái, lại thêm chức danh quận mã nên hắn càng ngày càng hống hách, bạo ngược, ngang nhiên giết chết nội giám sử Thọ hầu mà không ai dám cản ngăn hay lên tiếng. Dù bị đày ở An Quảng nhưng ai chẳng biết đó chỉ là cái vỏ để an lòng quần thần chứ thật sự chẳng có hình phạt nào cho hắn. Đi đày mà vẫn xênh xang áo mũ, tì thiếp vô số, suốt ngày đàn hát véo von, quả thật sung sướng không gì sánh kịp. Tuy mang tội, nhưng Mậu Lân vẫn mặc sức làm càn, chỗ dựa từ Tuyên phi đủ để đảm bảo không ai dám làm khó hắn, khiến hắn ngày một ngông cuồng. Và chính sự ngông cuồng của hắn nên ông và Tuân sinh hầu mới sinh bất bình, lòng dân ca thán, triều thần bất phục. Âm thầm cử người điều tra, Hồng lĩnh hầu và Tuân sinh hầu miệt mài thu thập chứng cứ cũng như lời khai của những nạn nhân và lấy tay điểm chỉ để có bằng chứng xử tội Đặng Mậu Lân theo phép nước. Lần trước có Tuyên phi nhúng tay vào nên Mậu Lân mới thoát tội, lần này ông sẽ bí mật điều tra và tâu trực tiếp lên Tĩnh vương để định tội, xử lý Đặng Mậu Lân rồi mới công bố ra ngoài, đến lúc Tuyên phi biết chuyện thì sự cũng đã rồi. Chỉ cần trưởng công tử giúp sức, lần này tấu sớ, lời oan thán của nhân dân sẽ đến được tận tay Tĩnh vương.

Cuộc họp hôm nay để bàn bạc về chuyện xử tội Đặng Mậu Lân trong vòng bí mật như thế nào. Thư tấu đã dâng lên, kế hoạch đã trình bày, chỉ chờ trưởng công tử hạ lệnh là các ông cùng cận thần sẽ hành động. Thế nhưng, trái với mong đợi, các ông ngồi chờ mãi một lúc lâu mà vẫn chưa nghe Trịnh Khải hạ lệnh gì, điều đó khiến ông cảm thấy ngạc nhiên và hoài nghi.

Dường như đọc được suy nghĩ của Nguyễn Khản, Trịnh Khải mỉm cười, một nụ cười nhẹ, rồi gấp các bằng chứng lại, đặt lên bàn. Lướt mắt về phía hai vị trấn thủ cũng như những gia thần đang có mặt trong phòng, Trịnh Khải nhẹ lời.

- Những người đứng ra tố cáo Đặng Mậu Lân đều đã được bảo vệ hết rồi chứ?

- Thưa vâng! Chúng thần đã đảm bảo họ và gia quyến của mình được an toàn.

- Chuyện này không thể vội vàng được, chúng ta cần phải có thêm thời gian suy nghĩ thật kỹ càng rồi hẵn hành động.

Đang nôn nóng muốn dẫn quân áp giải Đặng Mậu Lân về kinh, bao nhiêu hăm hở của Nguyễn Khản tất ngóm khi nghe Trịnh Khải nói. Đôi mày rậm nhướng lên, hàm râu đen nhánh rung rinh, Nguyễn Khản nói, cố giữ giọng nhẹ nhàng để khỏi mạo phạm bề trên.

- Công tử, thần không hiểu, chúng ta đã có nhân chứng, vật chứng rõ ràng, chỉ còn phải trình lên chúa công để trị tội Đặng Mậu Lân, tại sao người lại còn muốn có thêm thời gian?

Trước sự bất bình không hiện rõ lên mặt của Nguyễn Khản, Trịnh Khải mỉm cười.

- Hồng lĩnh hầu, ta biết ông đang rất nôn nóng. Đặng Mậu Lân dựa vào Tuyên phi được sủng ái mà hiếp đáp dân lành cố nhiên ai cũng bất bình. Nhưng chuyện này liên quan đến mạng người, ta nhất định phải cẩn thận. Một khi Tuyên phi phát hiện ra chuyện ông và mọi người bắt Đặng Mậu Lân, khiến hắn phải chết, chắc chắn bà ấy sẽ không bỏ qua. Ta thì không sao, nhưng các ông còn có gia quyến của mình, hẳn ông không muốn họ rơi vào vòng nguy hiểm chỉ vì ông chứ? Nên nhớ, minh thương dễ đỡ, ám tiễn khó phòng.

Những bất bình, khó hiểu trong lòng Nguyễn Khản chợt vơi khi nghe Trịnh Khải phân tích. Trong phút chốc, căn phòng đang xôn xao liền im lặng, chỉ còn mùi trầm hương nhẹ nhàng lãng đãng. Một giọt mồ hôi rịn trên vầng trán tái nhợt của Nguyễn Khản, rõ ràng ông chưa tính đến chuyện này. Tuyên phi khác với Đặng Mậu Lân, bà ta có mối liên hệ trực tiếp với chúa công. Cùng với việc sinh ra công tử Trịnh Cán, vị trí quyền lực của bà ta rõ ràng rất vững, một tay có thể che trời. Nếu Đặng Mậu Lân là được nể tình mà dung túng thì bà ta cố nhiên sẽ được làm ngơ hoặc quở trách lấy lệ, cho dù phạm bất cứ lỗi lầm gì. Bắt Đặng Mậu Lân danh chính ngôn thuận về kinh xử tội, bà ta có thể không làm gì được, nhưng ai dám đảm bảo bà ta không hãm hại sau lưng các ông và gia quyến của họ nhằm uy hiếp họ làm theo ý mình. Làm không khéo, rất có thể họ sẽ hại ngược lại bản thân, nhất là khi Tuyên phi rất yêu chiều cậu em bạo ngược kia. Chẳng phải bà ta đã bao phen dùng đủ cách năn nỉ chúa công gia ân khi Mậu Lân bị tội nên hắn mới giữ được cái mạng của mình đó sao.

Trong lúc Nguyễn Khản còn đang lượng lự, Tuân sinh hầu vội vàng lên tiếng, giọng hơi trầm xuống.

- Công tử, vậy người bảo chúng thần phải làm sao đây?

- Không cần phải vội. Cổ nhân có câu “trăm nghe không bằng một thấy”, chúng ta phải khéo léo sắp xếp làm sao để phụ thân ta tận mắt nhìn thấy những việc làm bạo ngược của Đặng Mậu Lân. Khi ấy, không cần chúng ta phải ra tay, phụ thân cũng sẽ khép tội Đặng Mậu Lân, Tuyên phi dù có muốn cầu xin cũng không thể được, vì bà ta đã ra mặt giùm cho hắn ta quá nhiều lần rồi. Và chuyện “tình cờ” đó cũng không liên quan gì đến các ông, bà ta sẽ không thể trút giận vào các ông được.

Trịnh Khải vừa mỉm cười, nụ cười nhẹ nhàng của anh khiến mọi người trong phòng tin tưởng và bình tâm lại. Suy nghĩ thấu đáo mọi việc chứ không nôn nóng hành động như các ông, nếu Trịnh Khải không thay các ông giải quyết đến vấn đề này, thì chắc chắn các ông đã phạm một sai lầm khó có thể sửa chữa.

Nguyễn Khản thở nhẹ một tiếng, ông liếc măt nhìn Tuân sinh hầu, vừa hay Tuân sinh hầu cũng nhìn lại ông. Cả hai người nhìn nhau, vuốt râu rồi gật nhẹ đầu, không khí trong căn phòng bắt đầu có những tiếng bàn tán với ý định sẽ thực hiện lại sự sắp đặt “tình cờ” này như thế nào. Chợt, tất cả âm thanh ầm rì im bặt khi họ nghe thấy có tiếng bước chân vội vã vang lên. Không ai bảo ai, mọi người đưa mắt nhìn nhau, rồi cùng quay đầu về hướng có tiếng bước chân ấy, cảnh giác. Dưới ánh nến lung linh, một bóng hình yểu điệu hiện ra, nét mặt lo lắng, mái tóc dài xõa trên bờ vai run rẩy vì lo lắng quá nhiều hơn là vì phải chạy một đoạn dường dài để thông báo gì đó. Bóng hình ấy không ai khác chính là Thanh Loan.

Đang ngồi trên sập, nhìn thấy gương mặt nhuộn đầy lo lắng của Thanh Loan, Trịnh Khải nhíu mày, anh tính lên tiếng nhưng liền ngưng lại khi thoáng nghe thấy tiếng bước chân rầm rập đổ dồn về thư lầu bí mật. Một tia chớp lóe lên trong đêm tối, đôi mắt Trịnh Khải thẫm lại khi nhìn thấy bóng dáng cao gầy của quận công Hoàng Đình Bảo tiến vào bên trong, theo sau là Nguyễn Huy Bá cùng các binh lính gươm giáo sáng ngời.

- Phụng mệnh Tĩnh vương! Ta tới đây để bắt trưởng công tử và gia thần vì đã có mưu đồ phản nghịch!

Đưa mắt nhìn những gương mặt ngạc nhiên hiện có trong phòng, Hoàng Đình Bảo cất tiếng dõng dạc. Lời hắn vừa thốt ra, Tuân sinh hầu, Hồng lĩnh hầu và những người có mặt trong thư lầu đều đứng phắt dậy, nét mặt vô cùng căm phẫn vì bỗng nhiên mang tội danh vào người, mà còn là tội tạo phản, bất trung.

- Quận công, ngài đừng gắp lửa bỏ tay người. Chứng cứ nào cho thấy chúng ta muốn làm phản chứ?

Trước sự tức giận của Nguyễn Khản, Hoàng Đình Bảo nhếch môi.

- Tang chứng rành rành mà ngài còn muốn chối cãi nữa sao. Nếu không làm loạn vậy tại sao lại tụ họp vào lúc nửa đêm, lại trong một căn phòng bí mật như thế này. Ngài là trấn thủ Sơn Tây, còn ngài, ngài là trấn thủ Kinh Bắc, trong tay các ngài là binh quyền, thế mà lại tự tiện bỏ vị trí về kinh, lại còn nửa đêm họp bàn bí mật với trưởng công tử, ngay lúc chúa công ngã bệnh. Theo ngài thì, ta phải hiểu thế nào cho phải đây. Nơi này quả thật rất bí mật, rất lí tưởng, nếu không có tiểu muội ta dẫn đường, chắc chắn ta sẽ không thể nào nào tìm được căn cứ bí mật của các ngài, không kịp ngăn cản mưu đồ phản nghịch soán ngôi của các ngài rồi!!

- Ông đừng ăn nói hàm hồ!

Tuân sinh hầu phản kháng yếu ớt, những lời của Quận Huy Hoàng Đình Bảo vô cùng sắc bén, khiến ông không thể phản bác lại. Cuộc họp này được tổ chức để bàn kế hoạch bắt giữ Đặng Mậu Lân, vạn nhất phải bí mật vì không thể đánh động đến Tuyên phi, lặp lại sai lầm như lần trước. Thư lầu này vốn là chốn bí mật của trưởng công tử, chỉ có nội bộ thân tín biết, ngoài ra thì chỉ có Thanh Loan, tri kỉ của trưởng công tử từng đến đây. Nhưng Thanh Loan còn là tiểu muội của Hoàng Đình Bảo, người thuộc phe Tuyên phi, chính vì thân phận này nên Tuân sinh hầu đã nhiều lần lo ngại về việc trưởng công tử tin cẩn cô ta, đưa cô ta đến thư lầu bí mật này. Trong lòng nghi hoặc, nhưng vì ý của Trịnh Khải đã quyết nên ông không biết phải làm sao hơn, chỉ có thể kín đáo không để lộ thông tin gì khi có cô ta gần đó.

Quả đúng như ông nghĩ, cô ta nói cho cùng cũng là tiểu muội của Quận Huy, không ngần ngại phản bội lòng tin của trưởng công tử, lợi dụng trưởng công tử để thám tính tình hình cho Quận Huy. Ông thật không thể ngờ một cô gái dịu dàng, luôn tươi cười với mọi người như Thanh Loan lại thâm độc đến nhường này. Ân hận. Ông quả thật ân hận trước đây đã không quyết liệt can ngăn công tử, để giờ đây một phút sa cơ mà hủy cả tương lai, mang tiếng xấu muôn đời. Ông thật ân hận vì một lúc thiếu kiên quyết mà làm ảnh hưởng đến cơ đồ mai sau, nhìn quyền lực rơi dần vào tay Tuyên phi.

Đang đứng ngơ ngác vì không hiểu tại sao anh mình lại có mặt ở đây, đôi mắt đẹp của Thanh Loan mở to, nhìn trân trân vào mặt Đình Bảo vì những gì anh trai mình vừa thốt ra. Như có tiếng sét đánh ngang tai, Thanh Loan quay phắt người lại đối diện với Trịnh Khải. Mọi người đều đang nhìn cô, những ánh mắt căm giận và oán hờn đang bủa vậy cô, nhưng tất cả không khiến cô sợ hãi, hoảng hốt như ánh mắt của Trịnh Khải – người mà cô vô cùng yêu thương – đang nhìn cô.

Ngồi trên sập cao, Trịnh Khải vẫn không đứng dậy hay tỏ ra hoảng hốt khi binh lính của Quận Huy ập đến, anh cũng không nóng giận hay phản ứng với những lời cáo buộc của ông ta về những chuyện anh không làm. Anh chỉ ngồi đó, đưa mắt nhìn Thanh Loan, ánh mắt tối hun hút như vục sâu, đôi bàn tay đan lại với nhau, những ngón tay bất động. Anh chỉ nhìn cô, không nói, nhưng ánh mắt ấy lại khiến cô chết lặng và tê cứng người

Anh nghĩ rằng cô là gián điệp ư…

- Quân đâu! Mau bắt lấy hai vị hầu gia cùng những người có mặt trong thư lầu!

Hoàng Đình Bảo kéo lui Thanh Loan và vung tay chỉ về phía những người có mặt trong thư lầu, giọng đanh lại. Lệnh vừa ban ra, Nguyễn Huy Bá đã huy động binh lính từ phía sau ùa lên, bao vây tất cả mọi người, khiến ai nấy đều thất sắc. Trước biến cố xảy ra, Trịnh Khải vẫn ngồi yên trên ghế không động đậy, khi bốn tên lính xăm xăm tiến về phía mình, ánh mắt như sao băng của anh khiến chúng khựng lại, lúng túng và lùi lại. Chứng kiến thái dộ của bốn tên lính, Đình Bảo ho một tiếng, hắn hiểu rõ, vị công tử trước mặt tuy trẻ tuổi, thân thiện, nhưng không phải là người có thể bất kính hay mạo phạm được. Khoát tay để bốn tên lính về lại chỗ cũ, Đình Bảo nhìn thẳng vào ánh mắt của Trịnh Khải được một chốc, rồi ngoảnh mặt đi, vì đôi mắt sâu hun hút ấy khiến hắn cảm thấy sợ, một nỗi sợ vu vơ.

- Ngoại trừ… công tử, những người còn lại đem giam vào ngục, chờ chúa công xét xử!!

- Quận Huy, ông dám…?!

Bỗng nhiên vô cớ bị vu khống, lại còn bị bắt giam, Tuân sinh hầu vô cùng tức giận, ông quát lớn, khiến ba tên kính đang chĩa giáo vào người ông liền lui lại. Cười khảy một tiếng, Hoàng Đình Bảo xoa hai tay vào nhau, mắt lấp lánh.

- Sao lại không dám. Đối với bọn phản loạn các ngươi, bất cứ ai đều có thể bắt giữ, đó là cách thể hiện tấm lòng trung thành mà bọn ta dành cho chúa công, thay chúa công dẹp yên phản loạn, thử hỏi, dám hay không chứ? Quân đâu, đưa bọn chúng đi!!

- Hoàng Đình Bảo! Rồi ngươi sẽ phải trả giá cho những việc ngươi làm!

Khi bị quân lính bắt giải đi, Tuân sinh hầu phẫn hận, ông ngoái đầu lại, gào lớn, cảnh tượng trong thư lầu đã bắt đầu hỗn loạn. Thanh Loan đứng chết lặng, để mặc Đình Bảo kéo mình đi, cô không ngờ mọi chuyện lại xảy ra như thế này, đến khi nghe tiếng gào của Tuân sinh hầu, Thanh Loan mới chợt bừng tỉnh. Cô vội níu chặt lấy cánh tay của anh trai, giọng khẩn thiết.

- Anh, em nghĩ họ không có hội họp làm phản như anh đã nghĩ đâu. Họ trước giờ luôn một lòng trung thành, anh hãy thả mọi người ra đi!

- Anh là anh ruột của em, em không tin người trong nhà mà lại đi tin bọn phản loạn đó sao? Trưởng công tử cùng các thuộc hạ chắc chắn muốn làm phản, nếu không tại sao lại hội họp vào ban đêm, lại là một nơi vô cùng bí mật như thế này? Em là em gái của anh, em tưởng bọn họ sẽ tin em mà nói hết những việc mà họ đang làm cho em biết hay sao? Làm phản là tội rất lớn, anh không thể để em liên lụy vì bọn chúng được. Thanh Loan, em yên tâm đi, nếu họ thật sự không làm phản thì anh sẽ thả họ ra ngay, Cây ngay không sợ chết đứng, sợ gì chứ!

Bóp nhẹ đôi bàn tay run run của Thanh Loan, Đình Bảo trấn an em gái mình. Nghe những lời anh trai vừa nói, nét mặt của Thanh Loan đã giãn ra, tuy vẫn còn lo lắng. Anh cô nói đúng, nếu như họ thật sự không làm phản thì sớm muộn gì họ cũng sẽ được thả ra. Anh trai cô là người có nguyên tắc, quyết không thể nào đổ tội oan cho những gì họ không làm. Nghĩ như thế, Thanh Loan cảm thấy yên tâm hơn phần nào, cô gật nhẹ đầu, nới lỏng tay ra.

Sau cơn nguy biến, quận Huy kéo binh bỏ đi, thư lầu lại chìm trong yên lặng. Thanh Loan cố tình ở lại để gặp Trịnh Khải, biết không thể miễn cưỡng, Đình Bảo đành chấp thuận theo ý cô. Chậm chạp tiến vào căn phòng đã được bố trí canh gác cẩn thận, khóe môi cô run run khi đối diện với Trịnh Khải, vẫn ngồi trên sập như chưa từng có chuyện gì xảy ra. Trong khoảnh khắc hai ánh nhìn giao nhau, Thanh Loan bỗng cảm thấy chơi vơi và lạ lẫm. Rõ ràng Trịnh Khải chỉ cách cô mấy bước chân, nhưng sao cô cảm thấy phía trước là vực sâu thăm thẳm. Thứ cảm xúc lạ lùng ấy khiến cô khó xử, bức bối và trái tim nhói đau.

- Trịnh Khải, có thật là ngài nhân lúc Tĩnh vương đang se mà muốn làm phản không? Tôi… không muốn tin những lời anh tôi nói, nhưng nếu không làm phản, tại sao ngài lại hội họp quần thần vào ban đêm tại thư lầu như thế này. Ngài nói đi!

Khó khăn lắm Thanh Loan mới nói thành lời, giọng cô run run, nửa muốn biết sự thật, nửa lại không ngờ chính miệng mình có thể nói ra những lời đó. Câu hỏi ấy Trịnh Khải không trả lời, anh chỉ nhìn cô, một nỗi buồn mênh mang ngự trị trong đôi mắt ấy, khiến cô chợt nhận ra rằng câu hỏi của mình mới ngu ngốc làm sao.

- Với một người sớm đã không tin thì có nói gì cũng vô ích. Hoàng tiểu thư, cô về đi, ta muốn nghỉ ngơi!

- Không! Chỉ cần ngài nói ngài không làm những chuyện phản nghịch ấy thì tôi nhất định sẽ tin!

Thanh Loan vội vàng nói lớn, đôi mắt cô rưng rưng, sóng mũi đỏ ửng, thân người cô hơi ngả về phía trước, chờ đợi, nửa muốn chạy đến bên cạnh Trịnh Khải, nửa lại ngập ngừng, như có một sức lực vô hình nào đó níu chân cô lại. Thư lầu lảng bảng sương khói, Trịnh Khải nhẹ nhàng đứng lên, anh quay người bước vào trong mà không nhìn cô lại lần nào. Mùi trầm hương dịu dàng xa dần, xa dần rồi tan biến, chỉ còn mình Thanh Loan đứng đó, mắt đăm đăm nhìn tấm mành sáo đung đưa, nơi Trịnh Khải vừa khuất dạng. Gió thổi xào xạc, trái tim của cô giờ sóng dậy trong lòng. Trịnh Khải rất tin tưởng cô, cô biết anh rất tin tưởng cô nên mới chia sẻ những bí mật từ nhỏ nhoi cho đến to lớn. Chuyện sở thích của anh, chuyện thảo dược, rồi cả căn lầu bí mật này, nhiêu đó thôi cũng đủ thấy anh đã tin tưởng cô, dù thân phận cô có thế nào đi nữa. Ấy vậy mà cô lại ngờ vực anh, dù chỉ là thoáng qua trong tích tắc, nhưng đó chẳng khác nào đã phụ lòng tin bao năm giữa cô và anh.

Cô không phản bội anh, cô tin anh, tuyệt đối tin anh. Chuyện xảy ra ngày hôm nay là lỗi tại ai? Tại sao lại ra nông nỗi này, cô không cam lòng để mất đi Trịnh Khải, mất đi người mà cô yêu thương nhất, mất đi lòng tin ấy. Mọi chuyện có lẽ vẫn còn cứu vãn được, bây giờ cô phải quay trở về tìm Đình Bảo, phải chứng minh cho anh ấy thấy Trịnh Khải không làm phản. Cô phải giúp Trịnh Khải làm rõ chuyện này, có như thế cô mới có lại lòng tin của anh, có lại mối quan hệ tốt đẹp mà bao lâu nay cô trân trọng, nâng niu. Vì Trịnh Khải, cô sẽ làm mọi thứ. Mọi thứ…

-------------------------
Chú thích:

(*) Huy quận công: Tước danh của Hoàng Đình Bảo

(**) Se: Từ chỉ bệnh tật. Thời phong kiến, trong cung kiêng kỵ những chữ không tốt, vì thế, thay vì nói chúa công đang bệnh thì phải nói tránh đi là chúa công đang se

(***) Tuân sinh hầu: Trấn thủ Kinh Bắc Nguyễn Khắc Tuân

(****) Hồng lĩnh hầu: Trấn thủ Sơn Tây Nguyễn Khản



★ Chương 13 [Part 2]

Thanh Loan chạy thật nhanh về phủ, tà áo bay lất phất, hơi thở gấp gáp, từng bước chân như không chạm đất cho đến khi về đến dinh thự Huy quận công. Bây giờ đèn đóm đã được thắp, lính canh lại tiếp tục tuần tra như thường ngày. Nhìn thấy gương mặt ửng đỏ, cùng dáng bộ gấp gáp của cô, hai người lính canh ái ngại và tính nói gì đó, nhưng Thanh Loan bỏ ngoài tai, không thèm để ý đến họ. Cô nhắm hướng thư phòng của anh trai mình, trong lòng chuẩn bị sẵn những gì phải nói, để thuyết phục Đình Bảo rằng trưởng công tử không hề có ý định chiếm ngôi.

Thư phòng của Hoàng Đình Bảo nhanh chóng hiện ra trong tầm mắt, đèn trong phòng đã được thắp sáng, hắt lên cửa sổ bóng của hai người đang trò chuyện. Đôi mày đang nhíu lại của Thanh Loan lại càng đăm chiêu hơn khi nhận ra ngoài bóng dáng thân thuộc của anh trai cô, hình bóng còn lại rất yểu điệu, chứng tỏ đó là một nữ nhân. Nữ nhân! Ai lại đến thăm anh mình vào lúc đêm hôm khuya khoắt như thế, cũng không thấy lính gác đâu. Kinh nghiệm lần trước cho cô cảm giác, đây là một cuộc gặp gỡ không bình thường.

Giảm tốc độ, Thanh Loan thận trọng tiến dần về thư phòng của Đình Bảo, vòng ra phía sau và nép mình vào bụi cây để không bị ai phát hiện, rồi bắt đầu nghe ngóng cuộc nói chuyện bên trong. Thanh Loan không phải chờ lâu, một giọng nói êm ả, ngọt ngào cất lên, khiến đôi mắt cô mở to vì kinh ngạc. Nhìn trừng trừng như muốn xuyên qua bức tường màu gạch cua, không khó khăn gì để Thanh Loan nhận ra đó là giọng nói của Đăng Tuyên phi, thiếp yêu của chúa công. Tại sao Tuyên phi lại có mặt ở đây vào lúc này, lại còn trong phòng riêng của anh cô. Chuyện này mà để người khác biết được, anh cô sẽ bị tội bêu đầu.

- Quận công! Ta đã nghe về cuộc truy quét đêm nay cùa ngài. Làm tốt lắm. Và ta mong là ông sẽ không để lại bất cứ sơ hở nào để Trịnh Khải vịn vào đó mà lật ngược thế cờ!

- Tuyên phi, xin an tâm, với tội chứng lần này, bọn chúng khó lòng mà thoát. Thần sẽ tâu lên Tĩnh vương, thêm vào đó là sự bồi đắp của Tuyên phi, thần chắc chắn Tĩnh vương sẽ hạ lệnh xử tội bọn chúng và trưởng công tử ngay.

Nghe những lời Đình Bảo vừa thốt ra, Thanh Loan đứng bên ngoài như chết lặng. Tại sao, tại sao lại như thế? Anh cô đã trấn an cô rằng nếu không có tội thì họ sẽ được thả ra, trưởng công tử sẽ được minh oan, vậy tại sao giờ anh cô lại nói như thế với Tuyên phi? Tại sao Đình Bảo lại cố ý gán tội cho họ, tại sao anh cô lại muốn đẩy họ vào chỗ chết? Chẳng lẽ là vì Tuyên phi ư? Chẳng lẽ vì người đàn bà đó hay sao? Lúc này Thanh Loan chợt hiểu ra, ánh mắt mà cô luôn thắc mắc mỗi khi thấy anh mình dành cho vị phi tần này, đó chính là ánh mắt ngưỡng mộ và say đắm. Chính bà ta, nguyên nhân tất cả chính là ở bà ta. Chính bà ta quyến rũ anh cô, lợi dụng anh cô, làm anh cô say đắm đến nỗi làm ra những chuyện tày đình, làm anh cô bán đứng cả người em gái ruột thịt của mình?

- Tốt lắm! Quận Huy, ông làm tốt lắm. Bọn chúng tưởng rằng thu thập đầy đủ chứng cứ thì có thể khiến chúa công xử tội Mậu Lân hay sao. Để xem với tội danh khó cãi lần này, chúng có thể chạy đâu cho thoát. Quận Huy! Lần này em ta thoát nạn, Trịnh Khải chịu tội, ta và Cán nhi cũng có thể kê cao gối mà ngủ. Một mũi tên bắn trúng hai nhạn, ông quả thật không làm ta thất vọng. Công lao này của ông Tuyên phi ta sau này tuyệt đối sẽ không quên.

- Đa tạ Tuyên phi, chỉ cần người trở lại vui vẻ như xưa thì thần đã thấy mãn nguyện rồi!!

Một tiếng cười khẽ vang lên, hương thơm thoang thoảng đưa tới, Thanh Loan vội vàng nép vào bụi cây khi cánh cửa nhẹ nhàng mở ra. Dưới ánh trăng rằm, Tuyên phi Đặng Thị Huệ khoác một chiếc áo choàng đen tuyền, những sợi tóc mai mượt mà bay trong gió, đôi mắt phượng thông minh lấp lánh tham vọng, gương mặt như hoa phù dung đang mỉm cười, một nụ cười ngọt ngào khiến Hoàng Đình Bảo ngẩn ngơ. Một người phụ nữ đầy tham vọng, nụ cười và giọng nói quyến rũ và ma mị đến thế, thảo nào Tĩnh vương không say lòng, thảo nào anh trai cô không mê đắm, để không còn tâm trí đâu mà suy xét đúng sai.

Anh! Chẳng lẽ bà ta quan trọng với anh vậy sao…

Thanh Loan thốt lên trong đau đớn. Nhìn theo bóng dáng của Đình Bảo khi tiễn Tuyên phi, Thanh Loan có cảm giác thật đau đớn. Người này không phải là anh trai cô, hay ít nhất, không còn giống anh trai cô. Anh trai cô trước nay là một người có lòng khoan dung, công tư phân minh. Khi trấn thủ Nghệ An giữa lúc nơi này bị nạn đói hoành hành, chính anh trai cô là người đã ra lệnh cho các nhà giàu trong vùng xuất lúa gạo cứu người nghèo, điều đó đã làm cô tự hào biết bao, hãnh diện biết bao, vậy mà bây giờ… Vậy mà bây giờ anh cô vì một người phụ nữ mà đánh mất thanh danh của mình, vì một người phụ nữ mà lập mưu giá họa người vô tội, vì một người phụ nữ mà khiến trưởng công tử bị án oan, vì người phụ nữ mà nỡ lừa dối cô, người thân duy nhất của ông. Niềm tự hào của cô, lòng hãnh diện của cô, ước mơ của cô và niềm tin của cô trong phút chốc đã sụp đổ tan tành rồi theo mây khói bay đi…

Quỳ sụp xuống đất khi đôi chân không còn đứng vững, đôi bàn tay Thanh Loan run rẩy, bấu chặt ngực áo, nước mắt cô đã giàn giụa từ bao giờ. Từng giọt lệ trong suốt rơi xuống đôi bàn tay đang nắm chặt, nóng hổi, rồi lạnh ngắt. Thanh Loan cắn chặt môi, cố nén tiếng khóc nghẹn ngào. Cô loạng choạng đứng lên, rồi chạy vụt vào màn đêm mênh mông, nơi chỉ còn lại tiếng loài chim đi ăn đêm vọng về.

Thanh Loan chạy như bay trên mặt đất, bàn chân cô giẫm lên những viên gạch lát đường ươn ướt bởi sương đêm. Cô cứ chạy, chạy mãi, cho đến khi kiệt sức rồi mới ngồi bệt xuống, gương mặt ửng lên vì mệt, và vì nước mắt vẫn chưa ngừng rơi. Gục đầu lên đôi bàn tay mình, cô để những tiếng nức nở đầu tiên bật ra, tan vào trong đêm.

Ngày hôm nay có quá nhiều chuyện xảy đến với cô, nó dồn dập kéo tới, không để cô kịp chuẩn bị tinh thần, buộc cô phải đối diện với những sự thật đau lòng. Trưởng công tử Trịnh Khải - người mà cô rất mực yêu thương bị Hoàng Đình Bảo - người anh trai mà cô hết mực kính trọng gán tội phản nghịch. Giờ đây, ngoài một trái tim tan vỡ vì trót biết quá nhiều, Thanh Loan lại lâm vào cảnh tiến thoái lưỡng nan. Nếu đứng ra vạch trần âm mưu của Tuyên phi, chứng minh Trịnh Khải và gia thần vô tội thì anh trai cô sẽ bị tội, nhược bằng không thì Trịnh Khải sẽ phải mang án oan khó rửa, tiếng xấu muôn đời, tương lai bị hủy trong thoáng chốc. Cô phải làm sao đây? Giữa hai người đàn ông quan trọng nhất đời mình, cô phải làm sao đây? Phụ mẫu sớm đã qua đời khi cô còn chưa hiểu chuyện, anh trai cô đã tự tay mình chăm sóc và nuôi dạy cô. Đối với cô, Đình Bảo chẳng khác nào cha mẹ khi đã lo lắng, dạy dỗ cô nên người. Còn Trịnh Khải, đó là người cô yêu, là giấc mơ của cô, là người cô mong sẽ được nương tựa, mang đến hạnh phúc suốt đời cho cô. Một bên là huynh trưởng, một bên là người trong mộng, cô phải làm sao để vẹn cả đôi đường, cô phải làm sao để trọn nghĩa đôi bên. Trời hỡi, ông trời sao lại bắt cô phải lựa chọn khó khăn như thế này…

Nếu không vì người phụ nữ đó…

Một tia sáng lóe lên trong đầu Thanh Loan. Phải, nếu không vì người phụ nữ ma mị đó thì anh trai cô sẽ không phải làm những việc trái với lương tâm, trưởng công tử sẽ không bị đổ oan và cô sẽ không bị lâm vào tình cảnh trớ trêu này. Người phụ nữ này có rất nhiều tham vọng, bà ta không những quyến rũ Tĩnh vương mà còn quyến rũ cả anh trai cô, đưa anh trai cô vào vòng xoáy tranh giành quyền lực của bà ta, biến anh trai cô thành công cụ để thực hiện tham vọng của bà ta. Trịnh Khải bị tội, bà ta là người được lợi nhiều nhất, em trai bà ta sẽ an toàn, con trai bà ta sẽ đứng trước cơ hội được phong thế tử, quyền lực của bà ta sẽ ngày một vững mạnh và phát triển to lớn. Phải! Chắc chắn toàn bộ chuyện này là chủ ý của bà ta. Nếu không vì người phụ nữ đó thì tất cả cớ sự sẽ không như ngày hôm nay. Nếu thế! Người có tội, người đáng trách, người phải hứng chịu cho tất cả những chuyện ngày hôm nay không phải là anh cô, càng không phải trưởng công tử mà chính là bà ta…

Đột ngột, Thanh Loan ngẩng đầu lên, đôi mắt cô lấp lánh những tia sáng, nhìn trừng trừng vào khoảng không bao la đen tối trước mặt, bờ môi mím lại đầy quyết tâm. Cô đã biết chính xác bây giờ cô nên làm gì. Nếu kể hết mọi chuyện với anh trai cô, chắc chắn huynh ấy sẽ vì bà ta mà ngăn cản cô, đó không phải là cách có thể khiến anh trai cô thức tỉnh và thoát khỏi sự mê muội này. Hiện tại cô chỉ có một mình, nhưng cô nhất định bắt người phụ nữ đó phải trả giá, trả giá vì những gì bà ta đã làm, đã gây ra cho mọi người. Cô biết, để lật đổ được người phụ nữ đó không dễ, vì quyền lực của bà ta đã bao phủ khắp nơi, những cái rễ của bà ta đã cắm sâu vào tòa Lượng phủ, thế nên cô phải cần lập một kế hoạch hoàn hảo, thật chặt chẽ, và với sự trợ giúp của họ, những người trong huyết ly cung, kế hoạch đó của cô chắc chắn sẽ thành công.

Thanh Loan đứng dậy, rũ sạch bụi bám trên váy áo, cô đưa mắt nhìn về phía phủ quận công, đôi mắt lấp lánh những nỗi đau. Sau chuyện này cô cần phải ra đi, đến một nơi không ai biết, phần để chuẩn bị cho kế hoạch của mình, phần vì cô không thể nhìn thẳng vào mắt Đình Bảo, xem như chưa từng có chuyện gì xảy ra. Trong thâm tâm, cô rất muốn đến thư lầu của Trịnh Khải để nói lời tạm biệt, nhưng Trịnh Khải chắc chắn sẽ không gặp cô. Cô ra đi lần này sẽ rất nhớ anh, nhớ ánh mắt ấm áp cùng mùi trầm hương dịu dàng ấy, nhưng vì anh, vì Đình Bảo và vì cả chính cô, cô bắt buộc phải ra đi, và cô sẽ khiến mọi chuyện đâu vào đấy khi cô quay trở về…

Trịnh Khải, hãy chờ em một thời gian, em nhất định sẽ quay trở về!

oOo

Thấm thoắt mà đã hai năm trôi qua, nay ta lại đặt chân về cố hương, Nơi cũ còn đó, nhưng người đang ở đâu?

Phủ chúa đêm khuya sáng bừng lên bởi ánh lửa, tiếng bước chân rầm rập của lính tam phủ, tiếng la hét quát tháo, tiếng gươm giáo khua loạn xạ khuấy động cả không gian. Trong Bội Lan thất, Tuyên phi Đặng Thị Huệ thất thần đứng trước tấm gương đồng. Trong tấm gương soi, dung nhan xinh đẹp của bà nay trở nên tiều tụy, đôi mắt thông minh chất chứa tham vọng năm nào nay thất thần. Vương phi uy quyền ngày nào giờ đây chỉ là một người phụ nữ bé nhỏ bất lực trước cuộc binh biến. Khi mộng đẹp đã tan, những gì còn lại chỉ sự thật đến bàng hoàng

- Lệnh bà, người mau chạy đi, quận Huy vì chống lại kiêu binh nên đã bị giết, Mậu Lân đã bị bọn chúng bắt khi cố giải vây cho lệnh bà. Chốc nữa thôi là lính tam phủ sẽ kéo đến nơi này, khi ấy lệnh bà không thể thoát được đâu!

Nhìn thấy Đặng Thị Huệ cứ chần chừ mãi mà chưa đi, quận Diễm nói nhanh. Gắn bó với thái phi bao nhiêu năm nay, ông tất hiểu rõ, rời bỏ giấc mộng vàng son này là điều không thể đối với bà, nhưng để giữ lại tính mạng thì không còn cách nào khác hơn là phải chấp nhận sự thật. Bờ vai thon thả khẽ động đậy, Đặng Thị Huệ chậm chạp quay ra, đối diện với quận Diễm, ánh mắt đen như màn đêm không chút hy vọng. Có nằm mơ bà cũng không nghĩ cục diện sẽ xoay chiều như thế này.

Khi Tĩnh vương băng hà, bà đã làm mọi cách để ngôi chúa về tay Trịnh Cán, những tưởng bà đã có thể cai trị tòa Lượng phủ này, nuôi mộng làm một nữ chúa nắm đầy quyền lực trong tay, nhưng đến cuối cùng bà lại mất tất cả chỉ vì những lời đồn đại ác nghiệt. Nào là bà tư thông với người ngoài, Cán nhi không phải là cốt nhục của Tĩnh vương... Tin đồn lan nhanh như một ngọn lửa thả vào vũng dầu, nó bùng lên vào đúng lúc tân triều còn non trẻ, khiến lòng người hoài nghi. Những thế lực chống đối chỉ chờ có thế, chúng vịn ngay vào tin đồn để làm lí do trút phế Cán nhi. Kiêu binh làm phản, vây cánh xung quanh bà bị triệt tiêu nhanh đến không ngờ. Tĩnh vương đã băng hà, quận Huy tử trận, Mậu Lân bị bắt, bà đã bị cô lập, đã bị phong tỏa hoàn toàn mọi lối thoát. Đứng giữa Bội Lan thất lộng lẫy xa hoa, lần đầu tiên bà cảm thấy phủ chúa không còn nơi nào dành riêng cho mình.

- Mẫu thân! Khải ca đâu, sao Khải ca không cùng đi với chúng ta!

Dòng suy nghĩ miên man của Đặng Thị Huệ đột ngôt ngưng lại khi một giọng con trẻ vang lên. Cuối xuống nhìn hài tử duy nhất của mình, đôi mắt bà lấp lánh như có nước mắt. Với gương mặt non nớt thơ ngây, Trịnh cán níu tay mẹ hỏi, câu hỏi của con khiến ngọn lửa căm giận trong bà bùng cháy. Kiêu binh tạo phản, chúng phế mẹ con bà để đưa Trịnh Khải lên ngôi, thế mà không hiểu Trịnh Khải đã làm gì mà con của bà lúc nào cũng luôn miệng nhắc tới, lại không chịu theo quận Diễm đi lánh nạn vì không có Trịnh Khải đi cùng.

- Con ngoan! Khải ca của con rất khỏe mạnh. Lát nữa huynh ấy sẽ ra sau, còn bây giờ con cứ theo quận Diễm lánh nạn trước đi!

- Không chịu! Con không chịu đâu! Con muốn đi cùng với Khải ca thôi. Mẫu thân, chúng ta đợi Khải ca thêm một lúc nữa có được không?

Trời ơi, con tôi…

- Cán nhi ngoan! Nghe lời mẫu thân, nếu thấy con còn ở đây chắc chắn Khải ca sẽ giận, mà Khải ca giận thì sẽ không đi cùng chúng ta đâu. Chẳng lẽ con muốn thế sao?

Vòng tay ôm lấy Trịnh Cán, Thái phi Đặng Thị Huệ thì thầm vào vành tai của con, giọng nói còn nhỏ hơn cả tiếng thì thầm, cốt để che giấu nội tâm đang xáo trộn. Bà rất hận Trịnh Khải, rất ghét, ghét và oán, thế nhưng rủi sao ngày hôm nay, bà lại nhờ vào Trịnh Khải để vỗ về con mình, nhờ Trịnh Khải để con mình đi lánh nạn mà không bị kiêu binh làm hại. Sự tréo ngoe đó khiến bà khó chịu, bực bội và ê chề, nhưng bà lại chấp nhận sự ê chề đó để con mình được an toàn. Chồng qua đời, chẳng phải người thân duy nhất của bà là Trịnh Cán hay sao.

- Mẫu thân! Vậy Cán nhi đi nhé, Cán nhi đến trước để đợi mẫu thân và Khải ca!!

Dù đã được quận Diễm bế đi, nhưng Trịnh Cán vẫn cố ngoái lại, bàn tay nhỏ xíu vẫy vẫy, nét mặt ngây thơ tươi cười. Trong giây phút đó, Đặng Thị Huệ muốn vươn tay nắm chặt bàn tay nhỏ bé đó, nhưng bà biết, một khi bà nắm lấy, thì sẽ không đành lòng để con đi. Vì Trịnh Cán, bà phải ghìm lòng lại. Bà ngồi yên nhìn quận Diễm bế con đi khuất, nét mặt tươi cười, bàn tay thon thả giơ lên vẫy chào. Đến khi bóng dáng Trịnh Cán và quận Diễm chỉ còn là một chấm nhỏ, bà gục xuống, những giọt nước mắt bất lực, phẫn hận và xót xa tuôn tràn trên khóe mắt.

Lượng phủ xảy ra biến loạn, kiêu binh lùng sục bên ngoài, Bội Lan thất rồi cũng sẽ bị chúng tìm đến, nếu cứ ngồi mãi ở đây khóc lóc cũng chẳng được ích gì. Bà phải sống để gặp lại Trịnh Cán, sống để gầy dựng và lấy lại những gì đã mất. Quận Huy không còn, nhưng bà còn nhiều thế lực khác ở bên ngoài, bà không thể để mọi thứ bà dầy công kiến tạo lại dễ dàng trôi sông trôi biển như thế. Cơ nghiệp của chồng bà phải thuộc về con trai bà. Nghĩ nhanh trong đầu, Đặng Thị Huệ vụt đứng dậy, nhanh chóng thay y phục, khoác lên người một tấm khăn rồi thận trọng tiến ra bên ngoài.

Bốn bề hỗn loạn, tiếng người la hét, tiếng bước chân chạy loạn, phủ chúa chìm trong khỏi lửa, ai nấy lo chạy thoát thân, không ai để ý đến một người phụ nữ yểu điệu từ Bội Lan thất chạy ra ngoài. Lần đầu tiên bà cảm thấy phủ chúa rộng đến thế, nguy hiểm đến thế, chính môn, Tuyên Vũ môn đều bị kiêu binh canh gác, bà biết đi đâu, biết ẩn nấp vào đâu để qua cơn binh biến. Trong cơn vô thức, Đặng Thị Huệ lần bước về hậu cung giờ đây lạnh lẽo, hoang tàn để ẩn trốn, chờ thời cơ thích hợp để lẻn ra ngoài. Chẳng phải nơi nguy hiểm nhất luôn là nơi an toàn nhất sao.

Khu hậu cung rộng lớn, lúc trước nhiều tiếng cười đùa, đèn hoa đăng sáng rực cả một góc, nay trở nên hoang vắng và lạnh lẽo. Những tấm rèm trắng câm lặng bay trong gió, thi thoảng có tiếng chim bay vội qua khiến Đặng Thị Huệ giật mình. Quấn chiếc khăn sát vào người, Đặng Thị Huệ gạt những giọt mồ hôi chực rơi vào mắt, hơi thở bà gấp gáp, nặng nhọc do phải vội vã vừa chạy, vừa trốn đến khu hậu cung này.

Càng bước vào sâu, một cảm giác chơi vơi từ từ chiếm lĩnh lấy tâm trí bà. Nghe đâu đây có tiếng cười văng vẳng, tiếng sên ca dập dìu. Đưa tay chạm vào từng chiếc rèm trắng, rồi để nó trôi tuột qua kẽ tay, Đặng Thị Huệ quên mất ý định đến đây để ẩn nấp, trong đầu bà giờ tràn ngập những ngày tháng huy hoàng năm xưa. Bà bước đi như trong cõi mộng. Ngày ấy bà chỉ là một nàng tì nữ được sai mang hoa quả đến cho Tĩnh vương, vì tài pha trà cùng với dung nhan diễm lệ, chẳng mấy chốc, bà một bước lên tiên, từ nàng thị nữ trở thành đệ nhất phi tần, rồi giờ đây từ một người phụ nữ đỉnh cao quyền lực trở thành một góa phụ yếu đuối, bất lực lang thang trong hậu cung mong tìm chỗ ẩn nấp để qua loạn binh đao. Chợt, Đặng Thị Huệ sững người lại khi nhìn thấy một tấm gương đồng phản chiếu bóng hình bà trong đó. Bà chợt hoảng loạn khi không còn nhận ra đó là mình. Trong gương là một người phụ nữ tiều tụy, đôi mắt thất thần đang đứng nhìn bà. Tuyên phi Đặng Thị Huệ đây ư? Vương phi quyền lực và xinh đẹp nhất phủ chúa đây ư?

- Thái phi… À không, bà không còn là Thái phi nữa rồi. Tuyên phi, tôi chờ bà đã lâu. Kể cả khi hoảng loạn sợ hãi nhất, bà vẫn rất thông minh. Nơi nguy hiểm nhất chính là nơi an toàn nhất, tôi nói có đúng không, Tuyên phi?

Trong đêm khuya tịch mịch, một giọng nói thanh tao vang lên, khiến Đặng Thị Huệ giật mình lùi lại. Phía sau chiếc gương đồng đột ngột xuất hiện một bóng người yểu điệu giấu mình trong tấm áo choàng dài. Dưới ánh trăng, hiện diện một gương mặt xinh đẹp, bờ môi đào thoáng cười mà như không cười, ánh mắt nhìn thẳng vào bà chất chứa đầy nỗi đau và niềm oán hận. Cô gái ấy tiến đến gần bà, những đường nét quen thuộc trên gương mặt xinh đẹp khiến Đặng Thị Huệ dù trong cơn hoảng hốt vẫn nhận ra được đó chính là Hoàng Thanh Loan, em gái của quận Huy - người đã tử nạn khi chống chọi với kiêu binh đêm nay.

- Tuyên phi, bà cảm thấy thế nào khi gặp tôi trong tình cảnh này? Đệ nhất phi tần giờ đã thất thế, vây cánh bị triệt tiêu, ngay cả cơ hội gượng dậy cũng không có. Bao nhiêu đó đối với bà đã đủ chưa?

Những lời Thanh Loan nói như những nhát dao cứa vào lòng bà. Cố không để lộ sự xúc động hiện ra trên nét mặt, Đặng Thị Huệ ngẩng cao đầu, dù có xảy ra chuyện gì, bà tuyệt đối không để cho người khác thấy thương hại và xem thường.

- Ta còn tưởng là ai, hóa ra là cô. Một thời gian không gặp, cô đã ăn nói sắc sảo hơn rất nhiều, một Thanh Loan dịu dàng, rụt rè và hiền lành khi tiếp xúc với người lạ mà ta biết đâu rồi?

- Bà lầm rồi! Tôi vẫn là Thanh Loan như ngày xưa, duy chỉ một điều thay đổi, đó là đối với những người mà tôi oán ghét, không việc gì tôi phải hiền lành và dịu dàng cả, nhất là bà!

- Ô! Ta đã làm gì khiến cô oán ghét nào? - Nhận ra trong giọng nói của Thanh Loan lộ rõ lòng căm hận, Đặng Thị Huệ nhíu mày hỏi lại.

- Bà còn phải hỏi tôi xem mình đã làm gì ư? Để tôi nhắc cho bà nhớ, chính bà đã xui khiến anh tôi lập mưu bắt giữ gia thần của trưởng công tử, bức hại họ đến con đường cùng, khiến người bị giam, kẻ vong mạng. Bà xàm tấu trước mặt Tĩnh vương, vu oan tội phản nghịch cho trường công tử, khiến người mang tiếng đại nghịch bất hiếu, bị Tĩnh vương giáng xuống làm con út và giam trong tam nhàn đường, khiến ngôi Thế tử thuộc về con bà. Tất cả những chuyện anh tôi làm đều là theo kế hoạch của bà, phục vụ cho mưu lợi và tham vọng của bà. Sau khi làm tất cả vì bà, số phận của anh tôi như thế nào, anh ấy đã chết, đã vì bà mà chết, vậy tại sao bà còn sống, trong khi anh tôi lại phải chết?

Những lời cuối cùng của Thanh Loan cao vút, lại thêm đôi mắt lấp lánh sát khí của cô khiến Đặng Thị Huệ lùi lại, mặt hoa thất sắc vì e Thanh Loan sẽ đánh động quân lính đến. Nhìn thấy gương mặt tái nhợt của Đặng Thị Huệ, Thanh Loan nhếch môi, cô từng bước tiến đến gần cho đến khi ép bà lùi đến sát tường, lưng chạm vào chiếc gương đồng.

- Bà đừng lo! Tôi sẽ không giết bà đâu, tôi sẽ để bà sống, sống để nhìn thấy những gì bà khao khát, những gì bà dành cả đời để tranh đấu, sụp đổ trước mắt. Chỉ với tội danh phản bội chúa công, bà đừng mơ sẽ có thể vực dậy được những năm tháng vàng son đó.

- Ta không phản bội chúa công, chưa từng - Đôi mắt phượng của Đặng Tuyên Phi long lên tức giận.

Thanh Loan nhìn thẳng vào đôi mắt Đặng Thị Huệ mà không hề e ngại. Cô nở nụ cười mỉa mai.

- Bà chưa từng phản bội chúa công, Trịnh Cán là cốt nhục của Tĩnh vương, bà biết không, tôi hoàn toàn tin bà. Thế nhưng mà, bà cảm thấy thế nào Tuyên phi? Cảm thấy thế nào khi chỉ trong chớp mắt, bà mất tất cả mọi thứ mà mình gây dựng, chỉ vì việc bà không hề làm. Cảm giác bị hàm oan, thanh danh bị hủy hoại, cảm giác xung quanh không một ai tin mình, có đau đớn không, Tuyên phi? Ngày đó bà đã hủy đi mọi thứ của Trịnh Khải, nay tôi bắt bà phải trả lại tất cả, bắt bà cũng phải nếm trải những uất ức tủi nhục mà ngài ấy đã phải chịu đựng. Bà biết không, bà rất thông minh, nhưng lại quá tự phụ. Xung quanh bà có rất nhiều kẻ thù, nhưng bà coi thường bọn họ. Tất cả những gì họ cần là một lí do, và tôi chỉ cần cho họ một mồi lửa để họ có thể thiêu cháy bà. Thế nào Tuyên phi, bà hài lòng chứ?

Đôi mắt hạnh của Đặng Tuyên Phi mở to khi nghe Thanh Loan nói, trong phút chốc, bà đã hiểu ra tất cả, thì ra người đứng sau giật dây là Thanh Loan. Chính cô ta đã tung tin đồn thất thiệt về bà, chính cô ta đã gieo sự ngờ vực vào lòng quần thần, chính cô ta đã khiến dân chúng bất bình, quân lính tạo phản. Cô ta đã âm thầm theo dõi và chờ đợi, để rồi giờ đây xuất hiện trước mặt bà với tư cách người chiến thắng, cười nhạo vào sự thất thế của bà. Cô ta hiểu rõ bà, cô ta không trả thù bà bằng cái chết, mà khiến cho lòng tự tôn của bà bị tổn thương, khiến bà phải nếm trải tất cả uất ức, bất lực khi nhìn vào công sức bao năm của mình bị cô ta từng chút một xô đổ, giấc mơ của bà bị chà đạp. Đến cuối cùng cô ta để cho bà sống, để bà sống và chịu đựng tất cả. Chính là cô ta.

Đặng Thị Huệ đột ngột ngửa mặt cười to. Giờ đây bà không còn sợ gì cả. Bà nhìn thẳng vào Thanh Loan, ánh mắt đầy kiêu hãnh. Các người càng muốn chà đạp ta, ta càng mạnh mẽ đối diện. Thanh Loan, cô tưởng chỉ với chừng ấy là có thể hạ gục ta sao. Ta sẽ không để cô thanh thản như thế đâu.

- Vậy ra, tất cả là kế hoạch của cô sao Thanh Loan, kế hoạch của cô để trả thù cho Trịnh Khải, để giành lại những gì đã mất cho hắn ta à?

- Phải, và cho cả những người đã chết dưới tay bà hay vì bà mà chết?

- Thật đáng thương, vì hắn mà cô hại chết cả anh ruột của mình sao Thanh Loan. Có đáng không, người anh đó đã yêu thương cô nhiều đến thế.

- Đừng nhắc đến anh tôi, bà không có tư cách. Tôi không hại chết anh ấy, chính là bà.

- Cô sai rồi, là chính cô hại chết Đình Bảo. Cô bảo ta hại Trịnh Khải, vu oan cho hắn, khiến hắn mất tất cả, vậy còn cô, cô đã làm gì? Khi cô tung ra tin đồn, thổi lên mồi lửa, cô có từng nghĩ nó ảnh hưởng đến anh trai cô thế nào không hay chỉ nghĩ đến hắn? Anh trai cô là vì cô mà chết, chết trong tủi nhục, chết trong oan ức. Vậy Thanh Loan, cô có khác gì ta?

- Bà im đi!

- Thanh Loan, cô có biết vì sao trong vụ án Canh Tý, Đình Bảo lại cố tình biến cô thành gián điệp, biến cô thành kẻ chống lại Trịnh Khải không. Kế hoạch đó sẽ thành công và kín đáo nếu như không lôi cô vào, nhưng Đình Bảo sợ rằng cô sẽ bị liên lụy khi Trịnh Khải chịu tội. Đình Bảo sợ cô chịu thiệt thòi. Kéo cô vào, công khai biến cô thành người khác phe Trịnh Khải sẽ đảm bảo cô không bị liên đới khi Tĩnh vương trị tội bọn chúng, khiến cô còn có công. Vậy mà cô đã làm gì hả Thanh Loan. Cô vì Trịnh Khải, không tiếc hy sinh anh trai mình. Có đáng không? Cô ảo tưởng rồi. Cô nghĩ hắn sẽ mang ơn cô sao, sẽ lập cô làm phi tử của hắn sao. Thanh Loan, cô làm em gái của Đình Bảo, là kẻ thù của hắn, hắn sẽ tin những gì cô làm cho hắn sao? Hắn sẽ yêu cô sao? Hắn hận cô. Thanh Loan, cô hy sinh anh mình vì cái gì đây?

- Ngài ấy không như thế. Ngài ấy sẽ không như thế. Bà im đi…

- Để rồi xem. Ta sẽ chờ xem, cô hy sinh người đàn ông duy nhất trên đời này, yêu thương cô, lo lắng chô cô không một chút tư lợi để chạy theo thứ tình cảm ảo tưởng từ hắn. Thanh Loan, cô sẽ hối hận, tuyệt đối hối hận. Cô rồi sẽ không khác gì ta, sẽ mất tất cả. Nhưng ta còn có Cán nhi, có tình yêu của Tĩnh vương, còn cô, cô có gì? Cả một người thân cũng không còn, cô thật đáng thương.

Đặng Thị Huệ cười to, từng lời nói của bà ta như những nhát đao đâm vào lòng của Thanh Loan, khiến cô cay đắng nhận ra cái giá mà cô phải nhận lãnh sau khi đã trả được mối thù. Cô đã đòi được nợ, cô đã khiến người phụ nữ này mất tất cả chỉ trong vòng một đêm, phải lãnh nhận trái đắng mà bà ta đã gieo. Phải! cô đã trả được thù, nhưng cũng chính vì thế mà anh trai cô đã thọ nạn, trong phút chốc cô trở nên bơ vơ lạc lõng trong cuộc đời này. Gương mặt cô giờ tràn ngập bi ai và sầu muộn, nỗi buồn thương thi nhau tràn ra khóe mắt. Anh cô bị lính kiêu binh đâm đến chết, gia phủ bị phá sạch không còn một miếng ngói. Cô đã mất tất cả, chỉ còn ngài ấy là những gì cô bấu víu và hy vọng. Cô đã thắng, đã giúp người cô yêu thương trả được thù, đã giành lại cho ngài ấy, tương lai, ngai vị và mọi thứ vốn thuộc về người ấy, thế nhưng vì sao nỗi lòng cô triũ nặng, sự thương xót này cứ vây kín lấy cô, khiến trái tim cô nặng nề, khiến nước mắt cứ từng giọt rơi đẫm cả gương mặt…

Anh cô đâu?
Người mà cô yêu thương đâu?



★ Chương 114

Huyết Ly cung nằm trên một hòn đảo chơ vơ ngoài biển khơi, bốn bề chỉ có tiếng sóng vỗ. Đứng trên mũi thuyền, từ phía xa, sau màn sương mỏng, Trịnh Khải đã nhìn thấy màu đỏ u buồn của tòa điện ngọc, khi ẩn khi hiện, làm cho người khác cảm thấy tịch liêu.

Từ khi Nguyên Thục bị Thanh Loan đưa đi, Trịnh Khải rất lo lắng và nhớ nó. Anh nhanh chóng thu xếp công việc cho gọn gàng, rồi giao lại cho tể tướng Bùi Huy Bích để đến đón Nguyên Thục trở về. Đến Huyết Ly cung đồng nghĩa với việc anh sẽ gặp lại Thanh Loan, người con gái đã từng là tri kỷ của anh, người con gái đã từng được anh tin tưởng, chia sẻ những bí mật riêng tư của mình… Một tiếng thở nhẹ trong tâm thức, Trịnh Khải đưa mắt nhìn biển cả mênh mông, sóng nhấp nhô trập trùng. Con sóng này chưa đi con sóng khác đã vội tới, con sóng này chưa tới con sóng khác đã vội ra đi, cứ như đời người, không bao giờ được bình yên.

Miên man trong dòng suy nghĩ thác lũ, đến khi Trịnh Khải định thần lại thì thuyền đã cập bến trên đảo. Đưa cho chủ thuyền một lạng bạc, Trịnh Khải dặn dò kỹ lưỡng rồi mỉm cười khi người chủ thuyền da đen sạm vì nắng gió vội vã ra lệnh cho thủy thủ cập thuyền vào một chỗ khuất gió, chờ đợi. Sống ở vùng biển này, ai ai cũng biết đến Huyết Ly cung cũng như điều lệ của nó. Chỉ trừ những thuyền buôn cung cấp rau quả, thực phẩm cùng các mặt hàng thiết yếu, còn lại không ai được lai vãng đến gần nơi này, nếu không muốn bị chết oan mạng. Hòn đảo này nằm khá xa đất liền, quanh năm chìm trong sương mù, chỉ có những ai thông thuộc đường lối và dày dạn kinh nghiệm mới tới được, thế nên nó nghiễm nhiên không thuộc quyền quản lý của triều đình, luật lệ ở đây đều do Huyết Ly cung đặt ra, không ai dám trái lời. Duy nhất chỉ có thuyền của Đoan Nam vương là nằm ngoài luật cấm ấy, nhưng người chủ thuyền vẫn cẩn thận cho thủy thủ neo thuyền ở mội nơi kín đáo để đợi Trịnh Khải quay ra.

Vừa đặt chân lên đảo, Trịnh Khải đã nhíu mày khi nhìn thấy từ xa có hai thanh niên đi tới, trên tay họ không gươm giáo, thái độ lại rất khoan hòa, như thể Thanh Loan đã biết anh đến và cử người ra đón. Mạng lưới bảo vệ trên đảo rất tốt, chỉ cần người lạ đến là biết ngay. Tuy không phải là người trong giang hồ, nhưng anh cũng đã từng nghe đến tên tuổi của bốn cung này, Thanh Long cung cùng Tử Phụng cung ở Nam hà, Bắc hà thì có Linh Quy cung và Huyết Ly cung ở ngoài đảo khơi. So với ba cung kia, Huyết Ly cung ít người biết đến nhất bởi vì nó nằm cách xa đất liền, nhưng lại nổi danh không kém với ngành vận tải biển, đi trên biển như đi trên đất liền.

- Hôm nay Huyết Ly cung được Đoan Nam vương hạ giá đến thăm, chúng tôi quả thật lấy làm vinh hạnh. Mời ngài đi lối này.

Khi cách Trịnh Khải khoảng chừng bốn bước chân, hai người thanh niên khẽ cuối người xuống, và chìa tay về phía trước nhường lối. Mỉm cười đáp lễ, Trịnh Khải đi trước. Có lẽ đây là lối đi gần nhất, thế nên chẳng mấy chốc, tòa điện ngọc của Huyết Ly cung đã hiện ra trong tầm mắt, rực rỡ như ánh lửa, bởi đâu đâu cũng treo những chiếc lồng đèn đỏ. Mỗi khi gió biển thổi vào lồng lộng, từng chiếc đèn lồng đỏ đu đưa, dập dềnh hệt như ngọn sóng biển đỏ thẫm, như đón chào khách lạ đến thăm.

Trong suốt thời gian qua, Thanh Loan đã sống ở đây sao…

- Đoan Nam vương, mời ngài! Cung chủ đang bày tiệc rượu đợi ngài ở Thanh Hương lầu.

Đưa Trịnh Khải đến gần Thanh Hương lầu, hai người thanh niên dừng lại và mời anh vào bên trong. Thanh Loan đang đợi anh, không những thế còn bày sẵn tiệc rượu, như vậy chứng tỏ cô đã biết anh đến. Đã lâu không gặp, Thanh Loan càng ngày càng tinh tế và suy nghĩ nhiều hơn xưa. Thời gian trôi qua, anh đã thay đổi, đã thôi chia sẻ những bí mật của mình cho người khác, nhưng còn Thanh Loan thì sao? Câu hỏi này anh đã tự hỏi mình rất nhiều lần, Thanh Loan ngày trước và bây giờ có còn là một, hay đã là hai người tách biệt? Tại sao lại làm Nguyên Thục bị thương, tại sao lại bắt Nguyên Thục đi, rốt cuộc Thanh Loan muốn gì, nghĩ gì? Anh không thể tự trả lời được, nhưng ngày hôm nay, khi đối mặt nhau, có lẽ những câu hỏi này sẽ được giải đáp, khi đến Huyết Ly cung, anh đã có sự chuẩn bị trước, Thanh Loan không thể làm khó dễ anh và anh nhất định phải đưa Nguyên Thục quay trở về.

Càng đến gần Thanh Hương lầu, một thoáng ngạc nhiên lướt qua trong đôi mắt Trịnh Khải khi anh nhìn thấy những chiếc đèn lồng màu xanh ẩn hiện sau những khóm trúc. Thanh Hương lầu, đúng như cái tên của nó, không còn màu đỏ nhức mắt, Thanh Hương lầu nổi bật lên bởi sự bài trí đặc biệt, nằm ở vị trí đặc biệt, trông giống như là trái tim của Huyết Ly cung. Thấp thoáng trong khóm trúc là một thiếu nữ mặc áo đỏ, mái tóc đen mượt chảy dài trên tấm lưng thon, bàn tay yểu điệu đang ve vuốt những bông hoa vừa mới nở. Người thiếu nữ ấy không ai khác chính là chủ nhân của Huyết Ly cung, người đã khiến anh đến đây, Hoàng Thanh Loan.

Đứng giữa những khóm trúc nhỏ xanh mướt, tà áo đỏ của Thanh Loan nổi bật lên như một bông hoa mới nở. Đang chăm sóc chậu hoa nhỏ, bàn tay ngọc của Thanh Loan ngưng lại, cô ngẩng đầu lên, bờ môi đào mấp máy, rồi chậm chạp quay người lại, đôi mắt lấp lánh như có nắng soi vào. Đứng đối diện với cô là Đoan Nam vương Trịnh Khải, người mà cô rất mực yêu thương. Vẫn tà áo lục nhẹ nhàng ấy, vẫn mùi trầm hương dịu dàng ấy, nhưng ánh mắt ấm áp kia không còn nữa, mà chỉ là vực sâu hun hút, hệt như lúc anh trai cô tìm đến thư lầu đêm ấy.

Trong phút chốc, trái tim Thanh Loan quặn đau. Cô quay đi, kín đáo bấu tay vào ngực áo, mắt nhắm nghiền lại, rồi sau đó đứng thẳng người lên như chưa từng có chuyện gì xảy ra. Trấn áp giông tố đang kéo đến trong lòng, Thanh Loan đi vòng qua bàn, nở một nụ cười ngọt ngào rồi lên tiếng, cố giữ giọng thật trung dung.

- Đã lâu không gặp! Đoan Nam vương, ngài vẫn khỏe chứ?

Câu hỏi ấy Trịnh Khải không trả lời, anh chỉ gật đầu. Không hiểu sao khi nhìn thấy Thanh Loan, anh đã có cảm giác rằng cô không thay đổi, vẫn là Thanh Loan nhu mì, hiền hậu như ngày nào. Nén tiếng thở dài vào lòng, Trịnh Khải đưa mắt hướng về tòa lầu cao nhất của Huyết Ly cung. Hình như có ai đang đứng đó, bóng dáng quen thuộc nhìn về phía anh nơi Thanh Hương lầu. Đó không phải là…

- Ngài đã thấy rồi sao! Nàng ấy là người mà ngài muốn tìm. Ngài yên tâm, đối với Huyết Ly cung, nàng ấy là khách quý, sẽ không có chuyện tra tấn hay bạc đãi đâu. Tôi đã dặn dò sai người đưa cô ấy xuống gặp ngài rồi, trong khi chờ đợi, sao chúng ta không uống một ly rượu mừng ngày tái ngộ.

Thanh Loan vừa nói, vừa đưa chén rượu ngọc về phía Trịnh Khải. Cầm lấy chén rượu, anh lướt mắt về phía tòa lầu cao một lần nữa rồi chậm rãi ngồi xuống ghế đá. Mùi trầm hương thoang thoảng khiến rèm mi Thanh Loan khẽ lay động. Đã lâu lắm rồi cô mới tìm lại được mùi hương trầm này, dịu dàng, ấm áp như ánh mắt mà ngày xưa anh vẫn hay nhìn cô.

- Đoan Nam vương, mời ngài một ly!

Tay nâng chén rượu, Thanh Loan giơ lên ngang mặt rồi uống cạn. Đôi mày liễu của cô chau lại, tựa như đang nuốt bao cay đắng vào lòng khi nhìn thấy ánh mắt của Trịnh Khải luôn hướng về phía Nguyên Thục, đầy quan tâm. Nhìn thấy Nguyên Thục, dù chỉ là hình bóng xa xăm trên tòa lầu, nhưng Trịnh Khải đã thôi lo lắng. Nguyên Thục vẫn bình an, và như cách nói của Thanh Loan thì nó vẫn khỏe mạnh, không hề bị thương tổn gì. Quay người lại, ngồi đối diện Thanh Loan, Trịnh Khải lướt mắt trên bàn, đôi mắt trở nên mênh mông khi nhận ra tất cả những món ăn đều là những món anh thích, ngay cả cách bày biện cũng rất đẹp mắt. Nếu không có chuyện xảy ra ngày đó thì cả hai vẫn sẽ mãi là tri kỷ của nhau, không thay đổi, vết thương lòng sẽ không có, niềm tin vẫn còn và anh sẽ tiếp tục chia sẻ với Thanh Loan những bí mật riêng của mình như ngày nào.

- Đoan Nam vương, ngài có biết vì sao tôi lại đưa Hồ tiểu thư đến Huyết Ly cung không?

Bầu không khí yên lặng giữa Thanh Hương lầu chợt biến mất khi Thanh Loan lên tiếng hỏi. Xoay chén rượu trong tay chưa uống vội, Trịnh Khải mỉm cười, nụ cười theo thói quen, nhưng lại khiến trái tim Thanh Loan đập nhanh hơn thường ngày.

- Không biết. Nhưng ta tin mình sẽ được biết ngay bây giờ.

- Phải! Nếu tôi không mang phi tử yêu quý của ngài đi, thì có bao giờ ngài quá bộ đến đây chăng?

Rót thêm một ly rượu cho mình, Thanh Loan cụng nhẹ vào chén rượu của Trịnh Khải. Cử chỉ đó khiến Trịnh Khải nhíu mày, vì đó là giao ước sẽ không bao giờ nói dối đối phương của cả hai lúc xưa.

- Thanh loan, cô muốn hỏi ta chuyện gì?

“Thanh Loan”, “Thanh Loan”, lâu lắm rồi cô mới được nghe lại tên mình được gọi từ người cô yêu một cách nhẹ nhàng như thế này. Phải! Đã lâu lắm rồi. Trong phút chốc, những kỷ niệm xưa tràn vào tâm trí cô, những lúc cả hai cùng nhau giã thuốc, những lúc cả hai chơi cờ, những lúc cả hai cùng bàn luận một điển tích nào đó, tất cả những kỷ niệm đó vẫn luôn sống động, chưa bao giờ thôi phai mờ trong cô. Cho dù năm tháng trôi qua, từng khoảnh khắc hạnh phúc đó cô đều nhớ rất rõ, nhưng Trịnh Khải có còn nhớ hay không, khi mà bên cạnh anh đã có người con gái khác, chỉ cần nghĩ thế thôi là tim cô lại đau nhói, như từng mũi kim châm vào ruột gan.

- Tôi muốn hỏi ngài chuyện gì ư, nhiều lắm. Có rất nhiều chuyện tôi muốn hỏi ngài, nhiều đến nỗi tôi không biết phải bắt đầu từ đâu. Nhưng chung quy lại, câu hỏi mà tôi muốn biết nhất, muốn nghe câu trả lời nhất và cũng sợ nhất, đó là Đoan Nam vương, ngài có từng yêu tôi không?

Câu nói cuối cùng của Thanh Loan nghe như một lời thì thầm, và lời thì thầm đó khiến đôi mắt Trịnh Khải thẫm lại. Giao ước không bao giờ nói dối, đó là giao ước rất riêng giữa hai người, cho dù giữa anh và Thanh Loan đã xảy ra chuyện gì, nhưng với giao ước đó, anh sẽ thật lòng với cô.

- Thanh Loan, nếu đã làm cô hiểu lầm thì thứ lỗi cho ta, đối với ta cô là tri kỷ, không phải là người ta yêu!

Dù đã chuẩn bị trước tinh thần nhưng khi nghe câu trả lời từ chính Trịnh Khải, Thanh Loan vẫn cảm thấy hụt hẫng. Cảnh vật trước mắt cô trở nên mơ hồ, tiếng cười oan nghiệt của Đặng Thị Huệ xoáy vào tai cô, nhức buốt. Trịnh Khải không yêu cô, anh chưa từng yêu cô. Cô đã chờ, chờ đến héo hắt, nhưng tất cả đợi chờ mòn mỏi của cô chỉ là ảo tưởng, là hư không. Giấc mộng mà cô tự đắm chìm trong ấy, phút chốc chỉ còn mình cô ngơ ngác lạc lõng. Anh trai cô đã qua đời, chỉ còn mình cô trơ trọi trên thế gian này, tất cả niềm tin và hy vọng của cô đều gởi gắm cho Trịnh Khải. Anh là chỗ trông cậy và nương tựa duy nhất của cô, nhưng bây giờ thì tất cả đã tan vỡ. Anh không yêu cô, chưa từng yêu cô, cô phải làm sao đối diện với sự thật này đây? Cô phải làm sao đây?

Câu hỏi cần biết giờ cô đã có câu trả lời. Cô yêu Trịnh Khải, yêu rất nhiều. Thời gian qua cô đã cố gắng giữ vững niềm tin và hy vọng của mình, mặc cho những lời nói năm xưa của Tuyên phi không ngừng giày vò, ám ảnh, khiến cô lo sợ. Thế nhưng sự thật thì vẫn là sự thật, cái tin Đoan Nam vương có một phi tần yêu quý đến với cô chẳng khác nào một nhát dao chí mạng. Để kiểm chứng việc này, Thanh Loan đã cố tình gây náo loạn ở phủ chúa trong thọ thần của Thánh mẫu, khiến cô ta chịu tội oan rồi chờ xem phản ứng của Trịnh Khải đối với việc này thế nào. Và cô đã chứng kiến Đoan Nam vương tìm mọi cách để giải oan cho cô ta, ngay cả khi ngài ấy không có một cơ sở nào đủ chắc chắn để chứng minh cô ta vô tội, thế nhưng ngài ấy vẫn tin cô ta, vô điều kiện. Bấy nhiêu đó quá đủ để Thanh Loan bắt đầu nhận ra rằng rằng dường như tất cả những gì cô mong chờ đều là ảo mộng tự cô dệt lấy, khi giấc mộng tàn, chỉ còn mình cô say đắm với tình yêu đó, còn mộng đẹp thì đã tan.

Đoan Nam vương, ngài ấy có từng yêu cô không? Nếu có tại sao ngày ấy lại không tin cô, tại sao sau khi lên ngôi lại không cho người tìm cô trở về, hay ít nhất cũng là liên lạc với cô. Còn nàng phi tần kia, rõ ràng cô ta rất quan trọng với ngài ấy, rất quan trọng, thế nên ngài ấy mới gác tất cả lại, đôn đáo tìm đường gỡ tội cho cô ta, và nay lại còn vì cô ta ra tận nơi heo hút này.

Thanh Loan càng nghĩ, càng cay đắng. Thời gian qua cô đã trưởng thành hơn, dần bình tĩnh hơn và suy nghĩ thấu đáo mọi chuyện đã qua. Những lời của Tuyên phi ngày đó gieo vào lòng cô một nỗi sợ hãi, ám ảnh, nay đã có lời giải đáp. Bà ta đã đúng, hay nói chính xác hơn là cô đã tự huyễn hoặc mình quá lâu rồi, lâu đến nỗi đứng trước hiện thực hôm nay, trái tim cô như muốn vỡ tan thành trăm ngàn mảnh nhỏ. Anh không yêu cô, đó là sự thật, nhưng nó cũng không thể thay đổi một sự thật khác, đó là cô yêu anh. Những gì cô đã làm vì anh, là cô tự nguyện, và dù sự thật ngày hôm nay có thế nào đi chăng nữa, cô cũng không hối tiếc hay oán trách anh điều gì. Tất cả còn lại chỉ là nỗi đau vỡ òa, như con sóng dữ cuồn cuộn vỗ mạnh vào bờ, cuốn trôi tất cả những hy vọng và khao khát tìm kiếm một vòng tay quen thuộc bảo bọc, yêu thương.

- Cám ơn ngài… vì đã không nói dối tôi. Đoan Nam vương, ngài bây giờ hạnh phúc chứ?

Câu hỏi ấy Trịnh Khải không trả lời. Anh trầm ngâm, rồi chỉ mỉm cười, nhưng nụ cười ấy đã nói lên tất cả. Đoan Nam vương đã thay đổi, và người làm cho anh thay đổi chính là cô gái ấy. Đôi mày kiếm đã thôi không còn chau lại, suy tư, nụ cười trở nên dịu dàng thật sự chứ không còn vướng bận ưu phiền.Thanh Loan thoáng mỉm cười, nụ cười nhuốm màu chua xót, cô khẽ rót cho Trịnh Khải một ly rượu sóng sánh đầy, đổ tràn cả ra ngoài. Nhìn thấy biểu hiện ấy của Thanh Loan, tuy không nói ra nhưng Trịnh Khải biết cô đang xúc động. Đối với anh, ngoại trừ Ưu Phong, Thanh Loan chính là tri kỷ thứ hai trong đời. Cô hiểu rõ tường tận từng sở thích của anh, suy nghĩ của anh và tâm trạng của anh, nhưng anh lại không hề biết Thanh Loan lại yêu anh. Nếu biết thì anh sẽ không để cô phải hiểu lầm rồi thất vọng như thế này. Trong phút chốc, anh muốn nói gì đó, nhưng lại yên lặng, bởi anh biết, có nói gì cũng là vô nghĩa. Thanh Loan đã từng là tri kỷ của anh, không phủ nhận năm xưa giữa cả hai có chuyện xảy ra, nhưng nhìn Thanh Loan đau lòng, anh cũng không được vui, và luôn ưu phiền mỗi khi nghĩ đến cô.

- Đoan Nam vương! Ngài có còn hận tôi không?

Thanh Loan hỏi, giọng cô nhẹ như hơi thở, cô ngưng mục, nhìn sâu vào ánh mắt mênh mông thăm thẳm ấy. Nhiều nỗi buồn quá, ánh mắt ấy cất giấu nhiều nỗi buồn quá. Trái tim đập phập phồng của cô chùn xuống, cô muốn đưa tay vuốt ve đôi mắt ấy biết bao, nhưng cô biết rằng mình không thể, vì ngài ấy không thuộc về cô, mãi mãi không thuộc về cô…

- Ta chưa bao giờ hận cô. Còn chuyện cũ đã qua thì đừng nhắc lại nữa! Thanh Loan, cô sống ở đây thế nào?

- Tôi vẫn khỏe! Ngài đừng lo. Về phía ngài, Đoan Nam vương, ngài không nên giữ thói quen cất giấu mọi bí mật trong lòng và chịu đựng một mình nữa, như thế sẽ mệt mỏi lắm. Hãy chia sẽ với người mà ngài tin tưởng, trân trọng người trước mắt. Tôi chúc ngài hạnh phúc cho đến hết cuộc đời.

_ Đa tạ cô, Thanh Loan!

Nghe những lời Thanh Loan nhắn nhủ, Trịnh Khải thoáng ngạc nhiên, anh nhìn Thanh Loan, một nụ cười nhẹ khẽ lướt trên gương mặt thanh tú. “Thanh Loan”. Vào những khoảnh khắc cuối cùng này, cô còn được nghe tên mình từ ngài ấy, nhìn thấy nụ cười của ngài ấy, thế cũng đã đủ lắm rồi. Ngài ấy đang hạnh phúc, ngài ấy đang có một người yêu thương ngài ấy hết lòng và ngài ấy cũng thế. Ngài ấy cũng không còn nhớ đến chuyện ngày xưa, vậy thì nhắc lại mối oan ức cũ cũng chẳng để làm gì. Tất cả những gì cô làm, tất cả những gì cô mong mỏi là mang đến hạnh phúc cho ngài ấy, nay ngài ấy đã lên ngôi chúa, đã có người mình yêu thương thì cô còn bận lòng chi nữa. Không có mối ràng buộc nào nữa, không còn kỳ vọng hay ảo mộng nữa, bây giờ, cô đã hoàn toàn tự do.

oOo

Nguyên Thục đứng ngồi không yên trong phòng, nó hết lại gần cửa sổ ngóng xuống Thanh Hương lầu, rồi lại lay hoay mò mẫm, mong tìm thấy một lối thoát bí mật nào đó. Trịnh Khải đã đến, anh đã đến đây để đón nó. Đứng trên lầu cao, nó không mấy khó khăn để nhận ra tà áo lục quen thuộc giữa khóm trúc xanh mướt, trong giây phút ấy, trái tim nó đập rộn rã, lòng nó nôn nao, sung sướng khi anh đã đến đây vì nó. Ba ngày không gặp nhau, nó rất nhớ anh, nhớ lắm, nhớ vòng tay ấm áp và mùi trầm hương dịu dàng quen thuộc. Ngay bây giờ nó chỉ hận không có cánh để bay xuống Thanh Hương lầu, để được anh ôm vào lòng, cho thỏa những ngày nhung nhớ vừa qua.

Nguyên Thục càng nghĩ càng nôn nóng, Trịnh Khải ở ngay dưới Thanh Hương lầu mà nó lại bị giam cầm, chỉ có thể đứng từ xa nhìn anh và Thanh Loan nói chuyện với nhau. Thu tay lại thành nắm đấm, Nguyên Thục ra sức đập rầm rầm vào cánh cửa gỗ, hy vọng sẽ có người thấy nó làm loạn mà ra mở cửa. Nguyên Thục không phải đợi lâu, vừa mới đập được cái thứ ba, cánh cửa liền bật mở, một bàn tay cứng như thép nắm lấy cánh tay Nguyên Thục khiến nó nhăn mặt vì đau. Đó không ai khác chính là người thanh niên trước đó đã dẫn nó đến Thanh Hương lầu.

- Cung chủ có lệnh, mời cô xuống Thanh Hương lầu.

Đang tính yêu cầu người thanh niên thả mình ra, Nguyên Thục liền ngưng lại, mắt mở to ngạc nhiên khi anh ta lên tiếng trước. Đang muốn đến Thanh Hương lầu thì cô nàng Thanh Loan đã tự động cho người dẫn nó đến, Nguyên Thục ngạc nhiên vô cùng do không nghĩ mọi chuyện lại diễn ra suôn sẻ như thế. Mới đây còn hạnh họe mình, chả biết hôm nay lại muốn giở chiêu nào với nó nữa đây. Nhưng không sao, chỉ cần gặp được Trịnh Khải thì thế nào nó cũng chịu đựng được, chỉ cần nhìn thấy anh thôi, những gì Thanh Loan sắp đặt chắc chắn nó sẽ đối phó được không mấy khó khăn gì.

Theo chân người thanh niên đến Thanh Hương lầu, trong bụng Nguyên Thục đã chuẩn bị sẵn tư tưởng sẽ đối phó với Thanh Loan, nhưng cái ý nghĩ sẽ gặp được Trịnh Khải lại làm tâm trí nó xôn xao. Khi gặp nó, không biết Trịnh Khải sẽ như thế nào nhỉ? Anh có thay đổi gì không, có khỏe không, có nhớ nó không, thôi thì hàng trăm câu hỏi dồn dập trong đầu nó, khiến nó rối lên, chân bước nhanh hơn về phía Thanh Hương lầu

Chẳng mấy chốc, những tấm rèm xanh dần hiện ra trong tầm mắt nó, gương mặt bầu bĩnh của Nguyên Thục tươi tắn, rạng ngời, bờ môi mấp máy bao điều muốn nói khi nhìn thấy bóng dáng quen thuộc ấy. Không thể chờ đợi phút nào thêm nữa, Nguyên Thục chạy vụt về phía Trịnh Khải, khiến người thanh niên đi theo phía sau vội chụp nó lại, nhưng không kịp. Một tiếng reo khẽ vang lên, chân Nguyên Thục như chấp cánh. Bất chấp Thanh Loan đang ngồi đó, Nguyên Thục xà vào lòng Trịnh Khải, nó rúc vào lòng anh, tận hưởng mùi trầm hương quen thuộc mà nó nhung nhớ suốt ba ngày qua dịu dàng vây lấy nó. Hơi ấm này, bàn tay to lớn đang nhẹ nhàng vuốt tóc nó, tất cả đều khiến Nguyên Thục có cảm giác bình an, những lo lắng, thấp thỏm bao ngày qua dần đước xua tan. Trịnh Khải đã đến đây, đến để đón nó về, những ý nghĩ ấy khiến Nguyên Thục sung sướng, cuối cùng nó lại trở về bên cạnh anh, kết thúc những ngày buồn tẻ và nhung nhớ trên đảo. Hy vọng A Đào và A Vân sẽ nhớ nó và Tiệp cung vẫn giữ vẹn nguyên để chờ nó về.

Nhìn Nguyên Thục trong vòng tay của Trịnh Khải, đôi mắt Thanh Loan rạng vỡ như bóng trăng trên mặt hồ dậy sóng, trái tim cô đau nhói tựa ngàn mũi kim châm. Dù đã chấp nhận và đối diện với sự thật này, nhưng Thanh Loan không thể từ bỏ tình yêu mà cô dành cho Trịnh Khải, dù có chết, tình yêu này chắc chắn cô sẽ mang theo xuống tuyền đài. Vẫn biết trong mắt ngài ấy vốn không có mình, nhưng cô cũng không thể chịu đựng nổi khi nhìn thấy người con gái khác trong vòng tay ấy, nhìn thấy sự dịu dàng mà từ trước tới nay cô chưa bao giờ thấy của ngài ấy giành cho một người con gái khác, không phải cô. Rồi cả hai người họ sẽ rời khỏi Huyết Ly cung, sẽ trở về tòa Lượng phủ, sớm tối quấn quýt bên nhau, chỉ còn mình cô ở lại trên hòn đảo này. Thế cũng tốt. Thanh Loan mỉm cười, một nụ cười chất chứa bi thương. Thế cũng tốt…

Ôm Nguyên Thục trong vòng tay, Trịnh Khải nhận thấy rằng hình như nó đã ốm hơn trước. Cảm nhận hơi ấm từ nó, nghe thấy tiếng cười của nó, tảng đá nặng trong lòng anh đã được cởi bỏ. Nhẹ vuốt mái tóc dài mượt xõa trên bờ vai, Trịnh Khải mỉm cười. Chỉ mới không gặp ba ngày mà cứ ngỡ như ba mùa thu trôi qua vậy. Đôi mắt lấp lánh nước, gương mặt bầu bĩnh, bờ môi hờn dỗi lúc nào cũng rạng rỡ như mặt trời mọc, tất cả những đường nét quen thuộc ấy đã in sâu trong tiềm thức anh, trở thành một phần không thể tách rời…

- Đoan Nam vương, tôi không nói dối ngài chứ. Phi tử của ngài vẫn mạnh khỏe đúng không?! Chuyện tôi cần biết cũng đã biết, ngài và phi tử của ngài có thể rời khỏi đây được rồi! Thứ lỗi cho tôi khi không thể tiễn hai người.

Không thể chịu đựng cảnh hai người quấn quýt bên nhau thêm một giây phút nào nữa, Thanh Loan quay đi, hướng mắt nhìn ra biển, nói nhẹ nhàng. Nghe những gì Thanh Loan nói, Nguyên Thục tròn mắt, nó không thể ngờ là Thanh Loan có thể để cho Trịnh Khải và nó đi dễ dàng như thế. Nó biết, cô gái này cũng rất yêu Trịnh Khải, yêu nhiều lắm qua những lời cô ta đã nói với nó và mùi trầm hương tự tạo ra xung quanh mình. Nếu Thanh Loan đã yêu nhiều như thế, Nguyên Thục tưởng cô ta sẽ gây khó dễ cho anh và nó, hay ra điều kiện thương lượng nào đó. Không phải là nó muốn nghĩ xấu cho người khác, nhưng với một cô gái đột ngột rạch mặt nó, đột ngột bắt nó tới đây và giam cầm, chắc chắn phải có dụng ý gì đó chứ không thể chỉ vì hờn ghen nhi nữ bình thường. Phải rồi, trước khi nó xuống đây thì Trịnh Khải và Thanh Loan hình như đã nói chuyện với nhau. Hai người nói với nhau những gì nó không biết, nhưng Nguyên Thục thầm mong Thanh Loan sẽ để cả hai rời khỏi đảo này mà không gây khó khăn gì.

Lướt mắt nhìn Thanh Loan đang ngồi bất động trên ghế đá, mắt hướng ra biển, tà áo đỏ bay lất phất, Trịnh Khải yên lặng không nói gì. Vào đêm xảy ra chuyện tại thư lầu, khi nhìn thấy quận Huy xuất hiện sau lưng cô, anh đã nhìn cô, muốn hỏi rằng mọi chuyện có phải như thế không, nhưng cô đã không trả lời, và anh đã thất vọng. Hai năm ở trong Tam nhàn đường, anh như bị cách ly khỏi thế giới bên ngoài, ngày ngày đối diện với bốn bức tường lạnh lẽo, có chăng chỉ là những bông hoa nở muộn trong vườn hoa trước mặt. Thời gian hai năm đó không quá dài, cũng không quá ngắn, nhưng đủ để cho anh bình tâm lại và đã thôi không còn thất vọng nữa, không còn để tâm đến chuyện xưa nữa. Không thể phủ nhận Thanh Loan đã khiến anh bị tổn thương, nhưng vết thương đó đã thôi không còn nhức nhối như ngày đầu tiên. Thời gian trôi qua, trái tim anh bình lặng, và anh đã nghĩ về cô, tự hỏi cô ra sao trong thời biến loạn này. Anh chưa bao giờ giận cô, nên không nói đến tha thứ. Khi thời cuộc xoay đổi, anh lên ngôi chúa, quận Huy đã bị kiêu binh giết chết, tin tức của Thanh Loan cũng biệt tăm. Anh đã sai người hỏi thăm về cô nhưng thông tin vẫn như hòn đá chìm sâu xuống đáy hồ. Phải mất một thời gian sau anh mới biết giữa biển người mênh mông, Thanh Loan đã lưu lạc đến hòn đảo này, và còn trở thành cung chủ Huyết Ly cung. Nhưng cho đến khi Thanh Loan mang Nguyên Thục đến đảo cách trở này, anh mới tìm đến đây lần đầu tiên.

Nếu không vì Nguyên Thục, anh có đến Huyết Ly cung không?

- Cám ơn cô, Thanh Loan! Chúng tôi sẽ rời khỏi Huyết Ly cung ngay, cô ở lại bảo trọng sức khỏe.

Trịnh Khải mỉm cười, anh xiết chặt tay Nguyên Thục, cử chỉ đó khiến Nguyên Thục đỏ bừng mặt. Nó ngước nhìn anh, cười rạng rỡ khi sâu trong mắt anh là bóng hình của nó. Đôi bàn tay lồng vào nhau, trái tim Nguyên Thục như reo vui, nó cùng Trịnh Khải rời khỏi Thanh Hương lầu, miệng tíu tít hỏi thăm tình hình sức khỏe của A Đào và A Vân trong ba ngày qua. Cùng anh sóng bước, cả hai tiến ra bến thuyền, bỏ lại sau lưng Huyết Ly cung rực đỏ dưới ánh nắng chiều. Sắc đỏ như một đốm lửa sắp tàn.

Ngồi chôn chân tại chỗ, nhìn theo tà áo lục phất phới trong gió ngày một xa dần, xa dần, rồi biến mất khỏi tầm mắt, Thanh Loan mỉm cười, rót cho mình thêm một chén rượu tràn. Ngài ấy đã đi rồi, ngài ấy đã đi thật xa, đến một nơi cô không thể nào với tới. Tiếng sóng biển rì rầm, gió lạnh ùa về khiến những chiếc đèn lồng khẽ đu đưa, Thanh Loan vòng tay ôm lấy người mình, cảnh vật trước mắt chợt trở nên mờ ảo, nhạt nhòa, từng giọt nước mắt nóng hổi lặng lẽ rơi xuống mặt bàn đá lạnh ngắt, vỡ tan.

Thanh Loan đứng dậy, thân hình cô loạng choạng, đôi bàn tay xanh xao bấu chặt vào ngực áo, nơi trái tim cô đang vụn vỡ. Ngài ấy đã đi rồi, không một lần nhìn lại. Thế cũng tốt, thế cũng tốt, nếu ngài ấy quay đầu nhìn lại, cô sẽ không có can đảm để ra đi, nếu ngài ấy quay đầu nhìn lại thì sẽ bận lòng khi nhìn thấy cô đang đau đớn biết chừng nào. Thế không tốt, cô muốn ngài ấy ra đi mà không vướng bận bất cứ điều gì cả. Cô đã là quá khứ, tất cả những gì cô làm, những bí mật được chôn giấu cũng là quá khứ, mà quá khứ thì nên quên đi để hướng đến tương lai. Cô sẽ giữ lại ngày hôm qua và chôn vùi nó cùng mình, mãi mãi.

Hối hận, cô có hối hận không? Chắc chắng là không! Cô không bao giờ hối hận vì đã sống hết mình cho tình yêu ấy. Cô yêu ngài ấy, cô yêu ngài ấy hơn cả bản thân mình, cô sống vì ngài ấy, làm tất cả vì ngài ấy, nhưng ngài ấy không thuộc về cô. Đã thế thì cô phải để ngài ấy ra đi, chúc phúc cho ngài ấy. Nỗi đau này, chỉ cần một mình cô gánh lấy là đủ rồi, chỉ cần ngài ấy hạnh phúc, chỉ cần ngài ấy không còn buồn phiền về cô nữa, thì cô đã mãn nguyện, đã có thể đến gặp anh cô mà không còn lo lắng, suy nghĩ nữa rồi…

Thanh Loan ngước nhìn bầu trời. Hoàng hôn đang dần buông, ráng chiều kéo nhau về, chấp chới như ngọn lửa trong đôi mắt cô. Thanh Loan nhẹ mỉm cười, đôi mắt cô từ từ khép lại, giữ lấy bóng hoàng hôn, tấm thân yểu điệu nhẹ ngã xuống, tà áo đỏ phấp phới như giăng ngang bầu trời, phủ lên không gian màu của tàn phai.

Anh! Em đến với anh đây!

oOo

Vừa đặt chân lên thuyền, Nguyên Thục sung sướng lắm. Nó giang hai tay, hít thở mùi biển mằn mặn, lắng nghe tiếng sóng rì rào và để cho gió lùa tung mái tóc của mình. Mặt biển xanh trong như tà áo lục của Trịnh Khải, những rặng dừa thấp thoáng trên triền cát trắng phau, khẽ đu đưa chuyện trò khi cơn gió vờn qua. Ngắm kỹ thì hòn đảo này thật yên tĩnh, nguyên sơ, cảnh đẹp chả khác thiên đường, nhưng Nguyên Thục lúc này chỉ trông ngóng quay trở về đất liền sớm chừng nào hay chừng nấy. Nơi đây không phải chỗ ở của nó, lại thêm nó rất nhớ Nguyên Thiên, hy vọng em gái nó không hay biết gì về vụ bắt cóc này để tránh lo lắng. Mỗi khi lo Nguyên Thiên thường hay quýnh lên, trông đến tội, vụ bắt cóc này tốt nhất em nó không nên biết thì hơn.

Huyết Ly cung vốn cấm thuyền lạ neo đậu gần đó, nhưng vì là thuyền của Đoan Nam vương nên ngoại lệ. Nắm lấy tay Nguyên Thục giúp nó lên thuyền, Trịnh Khải mỉm cười khi gương mặt Nguyên Thục rõ là đang nôn nóng trở về nhà. Chuyến đi lần này anh không nghĩ là có thể suôn sẻ và nhanh chóng đến thế, không mất đến một ngày mà đã có thể đưa Nguyên Thục về. Trước đây, anh những nghĩ, đối diện với Thanh Loan trong lòng sẽ còn nhiều vướng mắc, nhưng hôm nay, khi gặp lại cô, chuyện cũ vẫn còn đó, nhưng đã không còn nhức nhối và anh đã có thể trò chuyện với Thanh Loan như bình thường. Điều ấy, có lẽ là nhờ Nguyên Thục, người con gái đã từng bước thay đổi anh chăng.

Thanh Loan! Cám ơn cô.

Trước khi đặt chân lên thuyền, Trịnh Khải quay nhìn về hướng Thanh Hương lầu, nhẹ mỉm cười, đúng lúc đó, một tiếng chuông ai oán vang lên, lồng lộng giữa không trung, kéo dài không dứt rồi sau đó tan theo mây trời. Nghe thấy tiếng chuông, đôi mày kiếm của Trịnh Khải nhíu lại. Trong khoảnh khắc ấy, anh dường như nghe thấy có ai đó gọi tên mình, những lời thì thầm rất nhỏ, nhưng cũng đủ khiến đôi mắt anh thẫm lại vì linh tính có chuyện không lành xảy ra.

- Thục nhi, ta quay trở lại Huyết Ly cung một lát, nàng đứng đây đợi ta, tuyệt đối không được đi đâu, nhớ chưa!

Đang ngạc nhiên nhìn về phía Huyết Ly cung khi nghe tiếng chuông từ Thanh Hương lầu vọng ra, Nguyên Thục chưa kịp trả lời thì Trịnh Khải đã vội vã quay đi. Nhìn theo bóng dáng anh, Nguyên Thục cắn môi lưỡng lự, nó không biết bên trong Huyết Ly cung đã xảy ra chuyện gì, nhưng tiếng chuông sầu thảm ai oán ấy nhất định không phải chuyện lành, Trịnh Khải đi vào đó liệu có bất trắc gì không. Anh dặn nó đợi ở đây rồi có quay trở ra với nó không, hay là… Nguyên Thục lắc đầu, Trịnh Khải đã nói nó ở đây đợi anh thì không có lý do gì để nó phải lo lắng, nghi ngờ. Nó phải ngoan ngoãn ngồi đây đợi anh quay trở ra như lời hứa, rồi sau đó cả hai sẽ lên thuyền rời khỏi Huyết Ly cung, trở về phủ chúa, trở về Tiệp cung của nó như nó đã hằng mong chờ.

Trong khi Nguyên Thục ngồi đợi trên thuyền thì Trịnh Khải đã nhanh chóng quay ngược trở lại Thanh Hương lầu, linh tính mách bảo anh đang có chuyện gì đó xảy ra, rất nặng nề. Thanh Hương lầu dần hiện ra trước mặt, nhưng lúc này không còn vắng lặng nữa, mà chật kín người, những tiếng ồn ào, than khóc vang lên, khiến trái tim anh càng đập nhanh hơn. Nhìn thấy Trịnh Khải quay trở lại, những người trong Huyết Ly cung nhìn anh bằng ánh mắt khác lạ, môi mấp máy như đang nói gì đó nhưng anh không nghe rõ. Vạch đám đông đang xúm xít trước mặt, đôi mắt Trịnh Khải tối lại khi nhìn thấy bóng hình yểu điệu đang nằm trên sàn đá lạnh lẽo, đôi môi đỏ tươi ri rỉ một dòng máu, đôi mắt nhắm nghiền, bất động từ bao giờ.

- Thanh Loan!!

Trịnh Khải bật thốt lên, anh vội lao vào vòng tròn đang quây quần bênThanh Loan và đỡ lấy người cô từ một cô gái khác. Thanh Loan đã uống loại thuốc cực độc nên khóe miệng mới chảy ra dòng máu đen. Gương mặt phù dung say ngủ, nhưng đôi môi kia không thể mỉm cười nữa, ánh thu ba không còn lấp lánh nữa, đôi tay ngọc không còn ấm áp nữa mà đã lạnh toát như mặt biển mùa đông. Trễ rồi! Trễ quá rồi! Anh đã đến trễ rồi.

“Đoan Nam vương! Cám ơn ngài đã không nói dối tôi.”

Trịnh Khải nhìn đăm đăm vào gương mặt say ngủ của Thanh Loan, trong phút chốc, anh vẫn chưa thể nào tin được những gì đang xảy ra trước mắt mình. Thanh Loan đã uống thuốc độc tự vẫn tri kỷ của anh, người con gái duy nhất anh sẻ chia bao bí mật, người con gái duy nhất anh tin tưởng và trải lòng mình nhiều như thế đã ra đi. Giữa biển người mênh mông, tìm được tri kỷ là điều không dễ, anh may mắn lắm mới có dược hai người, nhưng cũng đau lắm khi một trong số đó đã rời xa anh. Ngày hôm nay anh đã có thể trò chuyện bình thường với Thanh Loan và thật tâm anh cũng mong cô quên đi những chuyện xưa kia mà được hạnh phúc. Anh xem cô là tri kỷ, nhưng dường như với cô như thế là chưa đủ. Cô yêu anh và cũng muốn được anh yêu, được anh bảo vệ, chở che, nhưng anh lại không thể làm điều đó, bởi vì người anh yêu, người anh muốn bảo vệ và chở che chỉ có duy nhất Nguyên Thục. Tuy là thế nhưng anh cũng không mong Thanh Loan sẽ đi đến bước đường cùng này.

Nhưng nếu biết quyết định này của Thanh Loan, thì anh sẽ làm sao? Sẽ yêu cô và đáp trả lại tình cảm của cô ư? Điều đó không thể. Phải, nếu biết trước thì anh cũng chẳng thể làm gì được, chỉ bất lực nhìn cô ra đi, anh làm sao có thể ích kỉ yêu cầu cô sống nếu như cô không muốn. Thanh Loan chọn lấy kết cục này là lỗi tại anh, nếu ngày đó anh dứt khoát, nếu ngày đó anh nói rõ ràng với cô thì có lẽ mọi chuyện sẽ không đi đến kết cuộc này. Nhìn Thanh Loan nằm trong vòng tay mãi mãi không tỉnh lại nữa, đôi mày kiếm của anh hằn sâu thành một vết cắt, cô đã khiến anh bị tổn thương và giờ đây, cô lại làm tổn thương anh lần nữa, tại sao lại như thế, Thanh Loan?

“Đoan Nam vương! Ngài hạnh phúc chứ?”

Ánh hoàng hôn li biệt cuối bầu trời, đỏ như màu áo của Thanh Loan và cháy lên trong đôi mắt đen thẫm của anh nỗi đau không nói nên lời.

oOo

Nguyên Thục hết đứng rồi lại ngồi ở trên thuyền, nó đang trông ngóng về hướng Thanh Hương lầu vì đã lâu rồi mà Trịnh Khải vẫn chưa thấy trở ra. Chẳng lẽ người của Huyết Ly cung gây khó dễ anh ấy, chẳng lẽ Thanh Loan đổi ý, giữ anh ấy ở lại sao. Biết bao ý nghĩ nhen nhóm trong đầu Nguyên Thục khiến nó lo lắng. Đã bao phen Nguyên Thục muốn quay trở vào tìm anh nhưng vì lời dặn của Trịnh Khải nên nó còn lưỡng lự, chưa dám quyết. Nhỡ khi nó rời thuyền, Trịnh Khải quay trở ra thì sao, anh không thấy nó chắc chắn sẽ rất lo lắng và sẽ đi tìm, nhưng ở lại đây thì nó sẽ còn lo lắng mãi không thôi. Nguyên Thục bứt rứt, nó đi qua đi lại khiến thủy thủ trên thuyền phải lắc đầu ngán ngẩm. Cuối cùng nó quyết định tiếp tục chờ, Trịnh Khải đã nói sẽ quay ra thì anh nhất định sẽ giữ đúng lời hứa. Nó sẽ cố gắng ngồi chờ, biết đâu trong khi nó đang suy nghĩ nên vào hay đứng đợi ở đây thì anh đang trên đường quay trở ra thì sao.

Nguyên Thục còn đang suy nghĩ, chợt, nó ngẩng đầu lên, mặt rạng rỡ khi nhìn thấy Trịnh Khải từ phía xa xuất hiện. Nó biết mà, nó biết anh sẽ giữ đúng lời hứa mà, thật may khi nó tin tưởng anh và thật hên khi nó chưa làm trái lời anh nói bao giờ.

Nhảy phốc xuống thuyền, Nguyên Thục chạy về phía Trịnh Khải, nhưng càng tiến lại gần, nó càng nhận ra Trịnh Khải nhìn rất lạ. Đôi mắt anh như đang lạc lõng ở phương trời nào đó, gương mặt thanh tú đang nhìn về phía trước, nhưng trong đôi mất ấy không có bóng hình nó, mà lại có một làn sương mù thấp thoáng. Đôi mắt vực sâu ấy khiến Nguyên Thục rùng mình, rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì.

- Anh! Huyết Ly cung… đã xảy ra chuyện gì thế?

Nguyên Thục ngập ngừng hỏi nhưng dường như Trịnh Khải đang để tâm trí ở nơi xa xôi nào đó nên không nghe thấy câu hỏi của nó. Đến khi Nguyên Thục giật tay áo của anh, Trịnh Khải mới nhìn nó. Cái nhìn lạc lõng, đau đớn khiến nó hoang mang.

- Thanh Loan...

- Sao ạ?

- Nàng ấy chết rồi!

Trịnh Khải nói chỉ có thế, không gì thêm, nhưng trong phút chốc, Nguyên Thục cảm thấy mặt đất dưới chân nó như đang lún xuống. Thanh Loan đã chết, tại sao? Mới ban nãy thôi nó còn thấy Thanh Loan ung dung ngồi đó, tiễn biệt cả hai người cơ mà. Nó đã từng lo lắng, nghi kỵ rằng Thanh Loan muốn giở trò, tìm cách không để nó và Trịnh Khải rời khỏi Huyết Ly cung dễ dàng như thế, nhưng bây giờ, những ý nghĩ đó đã sụp đổ khi nghe tin Thanh Loan đã chết. Thanh Loan chết, điều đó đã tác động rất lớn đối với Trịnh Khải, sự đau đớn hiện lên trong đôi mắt anh, khiến đôi mắt ấy chơi vơi, nhiêu đó đã đủ để Nguyên Thục biết rằng Thanh Loan đối với anh rất quan trọng. Nhìn Trịnh Khải tiến về phía thuyền, trái tim Nguyên Thục đau như cắt khi nhìn thấy từng bước chân anh lún sâu trên cát, như những vết thương hằn sâu trong lòng.

Nguyên Thục xiết chặt hai tay vào nhau, sóng mũi nó đỏ ửng, đôi mắt lấp lánh. Đứng trên thuyền, trông về Huyết Ly cung bây giờ chỉ còn là một chấm nhỏ như đốm lửa tàn, Nguyên Thục liếc trộm Trịnh Khải. Chẳng biết anh đang nghĩ gì mà gương mặt thanh tú lạnh băng, ánh hoàng hôn phủ trong đôi mắt, những ngón tay lạnh xiết chặt mạn thuyền. Trong phút chốc, Nguyên Thục cảm thấy anh như đang ở một phương trời riêng tư nào đó mà nó không thể đến được. Khó khăn lắm nó mới có thể khiến anh mở rộng trái tim, mới có thể mong chờ một hạnh phúc mai sau, nhưng lần này, xem ra mọi chuyện sẽ còn khó khăn hơn rất nhiều. Nó sẽ phải làm gì đây, sẽ phải nói gì đây trong hoàn cảnh này.

Nguyên Thục cắn môi suy nghĩ, ánh mắt nó chợt lấp lánh niềm quyết tâm, nó vươn hai tay ra, rồi kéo Trịnh Khải, ôm vào lòng thật chặt, bàn tay nhẹ vuốt mái tóc anh với cử chỉ dịu dàng, trìu mến. Ngay giây phút này đây, nó muốn anh biết rằng nó vẫn sẽ luôn bên cạnh anh, chia sẻ những nỗi niềm trong lòng anh, và sẽ là chỗ dựa chắc chắn những khi anh mệt mỏi hay buồn phiền. Trong lòng nó có rất nhiều điều muốn nói, rất nhiều, nhưng dường như mọi lời nói đó đều vô nghĩa, nó chỉ im lặng, ôm anh thật chặt, để anh cảm nhận được nhịp đập của trái tim nó. Để rồi khi Trịnh Khải vòng tay ôm lấy tấm lưng thon của nó, xiết chặt, anh vùi mặt vào áo nó, không nói, chỉ thế thôi nhưng Nguyên Thục vô cùng hạnh phúc. Anh hãy tin rằng nó sẽ luôn bên cạnh anh, dù gian khổ hay khốn khó, yêu anh, dù cay đắng hay ngọt ngào cho đến hết cuộc đời mình…

“Đoan Nam vương! Hãy trân trọng người trước mắt. Tôi chúc ngài hạnh phúc cho đến hết cuộc đời.”



★ Chương 115

Sau bao ngày nắng nóng gay gắt, cuối cùng Gia Định cũng đã có một trận mưa to, nhờ đó mà cảnh quang sáng nay trông tràn đầy sức sống vì đã được gột rửa và tưới mát từ tối hôm qua. Đứng giữa bãi luyện tập còn lờ mờ tối, Linh Lan nắm chặt cây giáo trong tay, nó ngẩng nhìn bầu trời cao vời vợi, lòng khoan khoái khi những cơn gió mát mẻ của buổi sớm tinh mơ lướt nhẹ trên môi.

Sau bao ngày rèn luyện không biết mệt mỏi, hôm nay Linh Lan đã có thể tự hào rằng nó là người dậy sớm nhất trong quân. Hừng đông hãy còn chưa ló dạng, cảnh vật xung quanh như dát một lớp bạc mỏng, thi thoảng còn nghe tiếng gà đập cánh lẻ loi. Vạn vật im ắng trước lúc bình minh này khiến Linh Lan có cảm giác rằng thế gian này chỉ có một mình nó. Đứng giữa khung cảnh bao la, nếm nhận cảm giác đơn độc và lẻ loi, giây phút ấy, đất trời như đang ấm dần lên, thời gian như trôi qua thật chậm, bên tai chỉ còn nghe tiếng gió lao xao và tiếng trái tim đập nhẹ nhàng trong lồng ngực. Chốc nữa thôi là mọi người sẽ thức dậy, không gian sẽ bị đánh thức bởi những tiếng cười nói lao xao, và những giờ phút riêng tư này sẽ tan biến, điều đó khiến Linh Lan cảm thấy tiếc nuối, một tiếc nuối vu vơ.

Ngẩng nhìn rừng cây xa xa trước mặt, Linh Lan chợt nhìn thấy bóng dáng của một ai đó đang đứng trên đài canh gác. Với chiếc áo bào đỏ bay lồng lộng trong gió sớm, Linh Lan không khó khăn mấy khi nhận ra đó là Nguyễn Huệ. Trên đài canh gác, Nguyễn Huệ yên lặng nhìn chân trời bao la, những tia nắng ban mai đầu tiên chậm chạp phủ lên người Nguyễn Huệ, khiến toàn thân anh chợt lấp lánh sáng. Thì ra nơi này không chỉ có mình nó, Linh Lan nhủ thầm, nó quay ngoắt lưng lại, mắt nhìn đăm đăm cây giáo trong tay, bờ môi đào mím lại và bắt đầu bài luyện tập thường ngày của mình.

So với một tháng qua, bây giờ Linh Lan đã thuần thục hơn rất nhiều. Bàn tay mềm mại của nó bắt đầu chai cứng, vết tích của những ngày tháng luyện tập vừa qua. Cho đến tận bây giờ, Linh Lan vẫn không hiểu tại sao ngày đó nó lại yêu cầu Nguyễn Huệ dạy cho mình cách làm quen với mùi máu, cách sinh tồn trong cuộc chiến. Trong Tây Sơn có rất nhiều người, vợ chồng chị Bùi Thị Xuân, Huỳnh Thị Cúc, còn có cả anh chàng Phan Văn Lân kia, tại sao nó không nhờ ai khác mà lại nhờ đến Nguyễn Huệ, người đã muốn giết chết nó, người mà nó luôn đề phòng mỗi khi cả hai gặp mặt nhau.

Linh Lan vung tay đâm thẳng cây giáo về phía trước, nếu như trước kia, ngay cả cách cầm giáo sao cho vững nó cũng không biết, thì bây giờ nhờ “ơn” Nguyễn Huệ, chẳng những nó tự bảo vệ được bản thân mình, mà còn có thể đánh ngang ngửa với Huỳnh Thị Cúc, một thành viên ưu tú của đội nữ binh. Để đạt được thành quả như ngày hôm nay, Linh Lan buộc phải cố gắng rất nhiều với những bài huấn luyện nặng nhọc mà Nguyễn Huệ đã giao cho. Nào là bắt nó tập chạy hàng cây số với hai bao cát nặng buộc vào chân, nào là bắt nó tập đánh với hàng chục thanh gỗ treo lơ lửng trên cây, để nó bị thương tích đến nỗi khắp thân người toàn vết thương. Nào là gánh nước đổ đầy vào những cái lu thật to mà không được tràn ra ngoài, nào là bắn cho đủ một trăm mũi tên mỗi ngày, khiến cánh tay nó run lên tê cứng đến nỗi không thể cử động đước chứ đừng nói giương cung. Tất cả những bài luyện tập đó rất vất vả và cực khổ, nhưng Linh Lan không muốn đầu hàng. Nó từng cho là Nguyễn Huệ cố tình làm khó nó, cố tình trêu đùa trên ý định nghiêm túc của nó nên mới giao những bài tập mà đến các binh sĩ cũng lè lưỡi lắc đầu. Có lẽ anh muốn nó bỏ cuộc, rồi sau đó cười nhạo nó. Càng nghĩ như thế, Linh Lan càng thêm quyết tâm, thêm cố gắng. Nó không muốn Nguyễn Huệ xem thường nó, nhìn nó bằng con mắt giễu cợt, khinh thường. Một khi ghét ai, nó không bao giờ muốn ở thế hạ phong chút nào. Vả lại, những bài tập này không phải là không có lợi cho nó, chưa nói đến chuyện ra trận giết địch, chỉ riêng chuyện gia tăng bản lĩnh để không phải nơm nớp lo sợ mỗi khi đến gần anh với nó cũng đủ lắm rồi.

Linh Lan thở hắt ra một hơi, nó đâm mạnh cây giáo xuống đất kết thúc bài luyện tập đầu tiên trong ngày. Nguyễn Huệ đã không còn đứng trên đài canh gác nữa, anh đã biến mất tự bao giờ. Thế cũng tốt, có anh ta đứng đó, dù không nhìn nó nhưng nó vẫn cảm thấy ngột ngạt, khó chịu. Cho dù Nguyễn Huệ là người đã giúp nó luyện tập, dù Nguyễn Huệ là người giúp nó thôi không còn ám ảnh cảm giác nhìn máu nóng trên đôi bàn tay, nhưng nó vẫn ghét anh, rất ghét. Ghét vì anh đã giam Văn Bình ngủ trong góc nào đó của tâm hồn, và ghét sự căng thẳng khi đối diện với anh, ghét cả cảm giác luôn bị đe dọa khi đến gần anh, sợ sẽ bị kết liễu mạng sống lúc nào không hay.

- Cô Nhạn, sao hôm nay cô dậy sớm thế?

Đang viết nghệch ngoạc những chữ Nguyễn Huệ mới dạy trên mặt đất, Linh Lan ngẩng đầu lên khi giọng nói dịu dàng của Bùi Thị Xuân cất lên. Thấy Linh Lan đang viết chữ, Bùi Thị Xuân ngạc nhiên khi nhìn những con chữ xiêu vẹo của nó, cô đưa ngón tay trỏ vạch thêm một nét vào một chữ dưới đất, rồi mỉm cười.

- Chữ “nước” phải thêm một gạch nữa, cô viết thiếu rồi.

- Ơ! Em quên mất! - Linh Lan cười trừ, nó đưa tay gãi đầu - Mấy chữ này khó nhớ quá à!

- Không sao! Chỉ cần học nhiều là cô sẽ nhớ thôi.

Bùi Thị Xuân vừa nói vừa cười, nhưng Linh Lan chẳng thể cười nổi do cô vô tình khơi lại “nỗi đau” mà nó cố tình quên đi. Khi phát hiện Linh Lan không biết chữ, Nguyễn Huệ đã bớt thêm chút thời gian dạy cho nó, lẽ ra nó nên cám ơn nhưng mỗi lần đến thư phòng Nguyễn Huệ, nơi chỉ có hai người, Linh Lan cảm thấy còn căng thẳng hơn khi luyện tập ngoài bãi. Nó chưa quên Nguyễn Huệ là người đã từng muốn giết nó, thế nên nó luôn ngồi cách xa anh, dao gài thắt lưng để có thể tự vệ nếu có chuyện không may xảy ra. Chính vì vừa học vừa phòng thủ, dây thần kinh của Linh Lan căng như dây đàn. Không hiểu Nguyễn Huệ có biết được điều đó hay không, mà thấy nét mặt tập trung cao độ của Linh Lan, khóe môi của anh lại nhếch lên, chẳng rõ để giễu cợt, hay để cảnh cáo nó chớ làm gì khiến anh phật lòng. Có lẽ chính vì gồng người lên cảnh giác nên Linh Lan học trước quên sau, rốt cuộc cũng chả nhớ nổi chữ nào.

- Mà cô Nhạn này, cô thân cận với tướng quân như thế, cô có nhận thấy tướng quân đã thay đổi không?

Đang lay hoay luyện tập, Linh Lan giật mình khi lời của Bùi Thị Xuân nói bất chợt vang lên bên tai. Vẫn chăm chú nhìn những dòng chữ trên đất để tránh ánh mắt dò hỏi của Xuân, Linh Lan nói chậm rãi.

- Khó trách được chị à. Phu nhân tướng quân vừa mới mất, con trẻ còn thơ dại, hơn nữa, Gia Định chưa bình ổn, tướng quân bận rộn trăm bề, tâm tính của tướng quân có thể khác xưa là điều dễ hiểu, con người chứ có phải thần thánh đâu.

Căn cứ vào nét mặt đăm chiêu của Xuân, Linh Lan biết cô chưa tin lời nó lắm, nhưng dù có ghét Nguyễn Huệ đến đâu, Linh Lan phải công tâm mà nói rằng anh quả thật rất bận rộn, thời gian học tập và huấn luyện nó chỉ chiếm một phần nhỏ trong thời gian biểu của anh. Hết xem từng binh sĩ luyện tập, rồi lại đến xét hậu cần lương thực, xong lại đảo ra bến tàu coi số gỗ vừa mới nhập về và công tác sửa chữa tàu chiến, có hôm anh lại ở nguyên ngày trong phòng đóng kín cửa. Những lúc ấy, Linh Lan tưởng rằng anh đang suy nghĩ, bàn tính kế sách gì đó cùng các thuộc tướng, nhưng đến giờ học, nó gõ cửa rồi bước vào thì thấy trong phòng chẳng có ai, cũng không thắp đèn, chì có Nguyễn Huệ đang ngồi quay lưng về phía nó, ánh mắt nhìn ra đâu đó ngoài hiên, nơi có những luống cải vàng đã đâm hoa. Khi ấy anh đang nghĩ gì nó không biết, nhưng đến lúc quay lại đối diện với nó, gương mặt anh không chút cảm xúc nào ngoài cái nhếch môi châm biếm quen thuộc thường ngày.

Linh Lan hừ nhạt một tiếng, nó thôi không suy nghĩ lung tung nữa. Nắm tay Bùi Thị Xuân thân mật, Linh Lan mỉm cười.

- Trước mắt chúng ta còn có nhiều việc phải làm lắm, chị đừng suy nghĩ nhiều làm gì. Hôm nay chúng ta sẽ ăn món gì, chị biết không?

- Một người dân ở Gia Định vừa tặng cho chúng ta mấy lồng gà, thế nên hôm nay chúng ta sẽ có thịt gà ăn, cô thích không?

Bùi Thị Xuân vừa nói xong, dạ dày của Linh Lan thốn lên một cái, nó vội vã quay người đi, cố tránh cái nhìn ngạc nhiên của Xuân do thấy sự khác lạ trên nét mặt của nó. Gà, Linh Lan lẩm bẩm, việc đầu tiên mà Nguyễn Huệ buộc nó làm quen với máu chính là bắt nó cắt cổ một con gà. Ngày hôm đó, khi chưa biết việc Nguyễn Huệ yêu cầu nó làm, Linh Lan đã nhìn chú gà chơi ngoài sân với vẻ thích thú. Trong số những con gà khác trong quân, Linh Lan thích con này nhất, bởi nó luôn mổ thóc trong lòng bàn tay Linh Lan, lại còn quanh quẩn bên cạnh mỗi khi Linh Lan luyện tập trông chẳng khác nào thú cưng.

Đến bây giờ, Linh Lan vẫn còn nhớ rất rõ, đó là vào một buổi chiều tà, Nguyễn Huệ đã mang con gà ấy đến trước mặt nó, bảo nó hãy cắt cổ gà để làm thịt. Khi nghe yêu cầu ấy, Linh Lan không thể nào tin nổi vào tai mình, nó hết nhìn Nguyễn Huệ, rồi lại nhìn chú gà trân trân, lòng bàn tay ướt đẫm mồ hôi. Không nói thêm lời nào, cũng không bắt buộc hay thúc ép nó, Nguyễn Huệ chỉ đơn giản là bỏ mặc Linh Lan đứng đó với con dao trong tay rồi quay vào phòng. Yêu cầu làm quen với máu là từ nó, giờ có muốn làm hay không anh cũng để tự nó quyết định. Nó có thể bỏ cuộc, cũng có thể trốn chạy, anh không bắt buộc, nhưng hôm sau khi trở ra ngoài, anh đã thấy Linh Lan đứng đó, nước mắt giàn giụa, con dao trong tay đẫm máu, chú gà dưới chân đã chết tự bao giờ. Kể từ đó, bài tập làm quen với máu của Linh Lan chính là cắt cổ những chú gà trong quân ngũ, và cũng từ khi đó, Linh Lan không bao giờ ăn thịt gà.

Trong tất cả những bài huấn luyện Nguyễn Huệ giao cho, Linh Lan luôn phải tìm ra những lý do thuyết phục, để có thể hoàn thành các bài tập ấy mà không bỏ cuộc giữa chừng. Học chữ tất nhiên bao giờ cũng có lợi, bao cát đeo vào chân khi chạy để có thể giúp chạy nhanh hơn bình thường, tập luyện với hàng chục thanh gỗ treo lơ lửng trên cây để rèn phản xạ nhạy bén, gánh nước để luyện sức chịu đựng và cắt cổ gà để làm quen với việc phải lấy đi sinh mạng của một sinh vật khác, trước khi là con người. Sống trong thời chiến tranh, ta không giết người thì người sẽ giết ta, nhưng mãi mà nó vẫn chưa thể thuyết phục được bản thân mình chấp nhận lý do này. Đơn thuần chỉ là bảo vệ bản thân mà phải lấy đi mạng sống của người khác, chẳng lẽ chỉ vì lý do đó thôi sao.

Linh Lan thẫn thờ, nó nhìn đôi bàn tay đầy vết chai cứng của mình, lòng chua chát. Có ai cầm đao, cầm kiếm mà bàn tay vẫn mềm mại cơ chứ. Xưa kia, nó vốn là một người vô tư, vô lo, từ bao giờ nó lại lo nhiều đến thế, từ khi nào nó lại để tâm chuyện sống chết đến như thế. Bàn tay này ngày trước chỉ biết cầm bút, cầm đũa, nay lại cầm đao, kiếm, những thứ có thể lấy đi sinh mạng của con người. Có ai ra chiến trận mà tay không vấy máu, có ai sống trong thời đại nhiễu nhương mà không một lần vì bản thân mình, mắt thấy sự thật nhưng tâm lại không muốn chấp nhận rằng chuyện đó đã xảy ra. Ba ơi, anh ơi, nếu hai người biết con vì sinh tồn nên bàn tay này đã nhuộm máu, đã không còn là con bé Linh Lan như ngày xưa, thì liệu con có được hai người tha thứ hay không?

Linh Lan ngẩng nhìn lên bầu trời, để những giọt nước mắt chưa kịp rơi được hong khô. Kể từ lúc bước vào đợt luyện tập khắc nghiệt, những khi mệt mỏi, những khi chán nản và những khi sức chịu đựng của bản thân đã đến cực hạn, sóng mũi nó đỏ ửng, cổ họng nghèn nghẹn, khi ấy nó liền ngẩng nhìn lên bầu trời, cho làn gió mơn man lau đi những giọt lệ chực rơi. Những ngày này thì nó không được yếu đuối, không được bỏ rơi bản thân mình, càng luyện tập nhiều thì nó càng phải ăn nhiều, để bồi bổ dinh dưỡng, để có sức khỏe mà chiến đấu. Bây giờ, Linh Lan lại có thú vui là thích tắm đêm, để tận hưởng cảm giác khi làn nước lạnh cắt da cắt thịt khiến nó run rẩy, khiến nó quên đi những vất vả, vết tích của buổi luyện tập. Chính vì sở thích tắm đêm đó nên có đôi lần Linh Lan đã bị cảm lạnh, nhưng dù mặt hoa mày váng, chân tay nhấc không lên, nói không ra hơi nhưng nó vẫn phải ra bãi luyện tập, bởi không muốn Nguyễn Huệ nghĩ nó lâm trận lại rút lui. Không làm thì thôi, đã làm thì làm cho tới bến, người khác muốn bắt nó chết thì nó càng phải sống, người khác muốn nó bỏ cuộc thì nó phải hoàn thành cho họ thấy. Trả thù đối thủ một cách ngọt ngào nhất chính là phải thành công, đó chính là điều duy nhất mà Linh Lan không thay đổi từ khi trở về quá khứ này.

Linh Lan đứng thẳng lưng, nó nắm chặt cây giáo trong tay, tỏ rõ quyết tâm không bỏ cuộc. Ngay lúc ấy, một tiếng kẻng vang lên, báo hiệu giờ tập của quân sĩ bắt đầu, Linh Lan vươn vai hít vào một hơi thật sâu, một ngày mới cho những khởi động mới, nó quay sang nắm lấy tay Bùi Thị Xuân, mỉm cười.

- Đến giờ luyện tập rồi, mình đi thôi chị.

Đáp lại nụ cười của Linh Lan là một nụ cười dịu dàng khác của Bùi Thị Xuân, cả hai nhanh chóng đi về hướng bãi luyện tập bấy giờ đã đông người. Theo lịch sinh hoạt thường trực, khi đã cùng quân lính tập luyện xong, Linh Lan lại lò dò đến thư phòng của Nguyễn Huệ để tiếp tục học chữ. Vừa đẩy cửa bước vào, Linh Lan vô cùng ngạc nhiên khi Nguyễn Huệ đã ngồi vào bàn từ bao giờ. Trước đây, mỗi khi nó đến, anh luôn ngồi trước án thư làm việc, một tay rà bản đồ, một tay chống hờ lên trán, nét mặt mông lung, dường như đang suy nghĩ gì đó, nay thấy anh chờ đón như vậy, Linh Lan lại càng thận trọng hơn vì không biết anh muốn làm gì.

- Ngồi xuống đi!

Linh Lan còn đang phỏng đoán thì Nguyễn Huệ đã lên tiếng trước, anh mỉm cười, nụ cười không mang chút biểu cảm nào khiến nó cảm thấy hơi ngột ngạt. Ngồi xuống đối diện Nguyễn Huệ, không đợi anh nhắc, Linh Lan với lấy cây bút lông để hờ trên bàn và bắt đầu viết những chữ hôm trước mới học xong. Trước khi đến trả bài cho Nguyễn Huệ, sáng nay Linh Lan đã ôn bài thật kỹ, nhưng chẳng hiểu sao khi viết đến chữ chiến trường, thì nó lại cắn môi, vì chẳng nhớ chữ ấy viết như thế nào.

- Quên rồi phải không?

Dường như chẳng lạ việc Linh Lan học trước quên sau, Nguyễn Huệ lên tiếng, trong giọng nói của anh có chút mỉa mai, khiến Linh Lan nắm chặt cây bút lông trong tay, mắt nhìn đăm đăm tờ giấy trước mặt mà không ngẩng đầu lên. Thôi rồi! Mình quên bén mất chữ ấy viết ra sao rồi, tức quá, đã tự nhủ sẽ không để hắn ta coi thường, vậy mà… Linh Lan nhủ thầm, vành tai nó bắt đầu nóng lên khi từng ngón tay của Nguyễn Huệ gõ lộp cộp trên mặt bàn. Bực mình thật, rốt cuộc chữ ấy viết làm sao cơ chứ…

- Thôi được rồi! Bỏ qua, hôm nay ta sẽ dạy cho cô những chữ mới.

Trong khi Linh Lan đang cố nặn óc để nhớ được bài học thì Nguyễn Huệ đã đột ngột cắt ngang luồng tư tưởng của nó. Chuyện thật hay đùa đây, hôm nay anh ta thay đổi tâm tính, không châm biếm nó mà còn bỏ qua, tiếp tục dạy cho nó những chữ mới. Sự dễ dàng đó khiến Linh Lan mở to mắt, nghi hoặc. Trước đôi mắt dè chừng của nó, Nguyễn Huệ thản nhiên thảo những chữ mới lên giấy, những dòng chữ mạnh mẽ, cứng cáp đó khiến Linh Lan hoa mắt vì quá nhiều nét. Mới những từ đơn giản, thông dụng thôi mà nó đã lên bờ xuống ruộng, huống chi những chữ cầu kỳ phức tạp như thế này, mà hình như còn là một câu hoàn chỉnh nữa chứ.

- Hôm nay cô sẽ học câu này, nhớ cho kỹ, chớ có quên.

Nguyễn Huệ đẩy tờ giấy ướt mực về phía Linh Lan, anh ngồi thẳng, hai bàn tay đan vào nhau, đôi mắt lấp lánh ánh sáng khiến Linh Lan thận trọng, nó hỏi dò.

- Câu này có nghĩa là gì?

- Ra ngoài trướng mà hỏi, ai cũng biết, chỉ có mình cô không biết mà thôi!

Vốn biết chuyện chữ nghĩa mình học rất chậm, nhưng chuyện ai cũng biết, chỉ nó là không, mà Nguyễn Huệ nói khiến Linh Lan tức anh ách. Rõ ràng trong Tây Sơn, những người không biết chữ chắc chắn rất nhiều chứ không riêng mình nó, sao anh lại nói ai cũng biết chỉ có nó là không biết, đây là câu gì mà thông dụng đến thế chứ. Không thèm nhìn Nguyễn Huệ, Linh Lan đứng phắt dậy, nó mở cửa bước ra ngoài để hỏi mọi người xem chữ này có nghĩa là gì mà anh ta úp mở đến thế. Linh Lan vừa bước ra ngoài, đúng lúc Phan Văn Lân có việc vào diện kiến Nguyễn Huệ. Nhác thấy Phan Văn Lân, Linh Lan hớn hở, nó túm lấy áo anh, tay giơ tờ giấy lên cho anh thấy và mỉm cười.

- Lân này, anh có thể đọc giùm tôi những chữ được viết trên giấy không?

Trước sự nhờ vả đột ngột của Linh Lan, Văn Lân thoáng ngạc nhiên, anh nhìn vào những chữ nằm ngay ngắn trên giấy mất một lúc, rồi lại nhìn Linh Lan. Cứ thế hai lượt thì anh mới trả lời, lại còn thoáng mỉm cười.

- Cô là đồ ngốc!

- Cái gì? Anh nói gì?

- Cô là đồ ngốc!

Linh Lan xiết chặt tay áo của Phăn Văn Lân, nét mặt vừa kinh ngạc vừa uất ức, nó tức đến đỏ mặt. “Cô là đồ ngốc”, anh đang mắng nó sao, tại sao lại mắng nó, tại sao lại có nụ cười đó. Linh Lan nhíu mày, nó lại giơ tờ giấy lên, nhưng chưa kịp hỏi rõ thì Phan Văn Lân đã vội vào diện kiến Nguyễn Huệ khi nghe thấy một tiếng ho từ trong thư phòng vọng ra. Nhìn cánh cửa đóng lại trước mặt, Linh Lan đứng chôn chân tại chỗ. Hôm nay Văn Lân sao thế, nó không làm gì anh mà sao anh lại mắng nó thế chứ, chẳng lẽ chỉ vì nó ko biết dòng chữ này sao. Đợi đấy, lát nữa gặp anh tôi sẽ tính sổ cho xem.

Linh Lan lè lưỡi trước cánh cửa gỗ đóng im ỉm, nó quay lưng đi, tiếp tục tìm người khác để hỏi cho rõ những chữ mà Nguyễn Huệ đã viết. Lần ra bãi tập, nét mặt Linh Lan tươi lên khi thấy Bùi Thị Xuân đang ngồi nói chuyện với đội nữ binh trong lúc giải lao. Thấy Linh Lan tiến về phía mình một cách hăm hở, Bùi Thị Xuân ngạc nhiên, cô chưa kịp hỏi gì thì Linh Lan đã chìa ra trước mặt cô một tờ giấy, miệng tươi cười.

- Chị xuân, chị xem giùm em tờ giấy này viết gì nhé?

Cầm lấy tờ giấy trên tay Linh Lan, Bùi Thị xuân và ba người còn lại trong đội liền ghé sát lại để xem tờ giấy viết gì. Hết nhìn những dòng chữ cứng cáp rồi họ lại nhìn Linh Lan, trên mặt ai cũng thoáng nét cười, giống hệt phản ứng của Phan Văn Lân khi nãy. Bùi Thi Xuân là người lên tiếng đầu tiên.

- Cô là đồ ngốc!

- Hả?

- Đúng mà, cô là đồ ngốc! - Trước sự sửng sốt của Linh Lan, Trần Thị Lan mỉm cười nghiêng đầu nhìn vào tờ giấy trên tay Xuân lần nữa rồi nói.

- Cô là đồ ngốc, còn không phải sao?

Nguyễn Thị Dung đang ngồi bên cạnh Xuân cũng lên tiếng khiến Linh Lan nóng ran mặt mày. Chưa bao giờ nó bị ai mắng rát mặt như thế, đầu tiên là Phan Văn Lân, rồi bây giờ đến cả các chị em trong đôi nữ binh, hết người này đến người khác mắng nó ngốc, vậy là sao? Linh Lan cau có, nó nhìn nét mặt của cả bốn người đều rất chân thật, tự nhiên, không chút châm biếm hay mỉa mai khiến Linh Lan bình tĩnh lại và suy xét kỹ càng. Tờ giấy, Linh Lan cắn môi, nó chỉ những chữ Nguyễn Huệ đã viết, chậm rãi hỏi lại lần nữa.

- Ý của các chị là những chữ viết trên này có nghĩa là “cô là đồ ngốc”

- Phải!!

Bùi Thị Xuân gật đầu, đồng thanh cùng mọi người. Cái gật đầu của cô khiến Linh Lan nóng mặt. Nó đứng phắt dậy, mắt nhìn về phía thư phòng của Nguyễn Huệ bằng ánh mắt oán giận. “Cô là đồ ngốc” thế mới thấy Nguyễn Huệ thâm ý đến mức nào. Chắc chắn là vì chuyện nó chậm tiêu nên anh ta mới bày ra chuyện như thế này. Viết những chữ này lên giấy, không cho nó biết nghĩa mà bảo nó đi hỏi từng người, kết cuộc khiến nó có cảm giác mình bị mắng là con ngốc khi mọi người đọc những dòng chữ ấy. Chưa hết, nó lại càng bực mình hơn khi nhớ đến câu nói của Nguyễn Huệ “ai cũng biết, chỉ có mình cô không biết”, câu đó khác nào ám chỉ ai cũng biết nó ngốc, có mình nó không biết mà thôi.

Linh Lan nghiến răng, từ thưở lọt lòng đến nay, chưa bao giờ nó bị bẽ mặt đến như thế, muôn sự cũng tại nó cả, học hành chẳng tới đâu, để người ta xỏ xiên như thế. Nguyễn Huệ ơi là Nguyễn Huệ, tôi mà không học thành tài thì không còn là Linh Lan. Linh Lan xiết chặt tay lại, nó nhìn đăm đăm vào tờ giấy trên tay, những con chữ nhảy múa như cười cợt vào mặt nó. Nó không cam tâm để anh ta mỉa mai nó như thế, nó không thể để anh ta đùa giỡn với nó mãi thế, ngày hôm nay, với sự quyết tâm này, với danh dự này, nó thể sẽ học hành chăm chỉ để làm Nguyễn Huệ sáng mắt ra mới thôi.

Linh Lan xé toạt tờ giấy, ánh mắt nó rựa lửa giận. Trước sự ngạc nhiên của Xuân và mọi người, Linh Lan quay lưng bỏ đi, những bước chân nó lún sâu trên bãi cát, như muốn trút oán hờn vào những hạt cát vô tri kia.

Nguyễn Huệ! Tôi nhất định phải khiến anh thừa nhận thực lực của tôi!



★ Chương 116

Đứng trong căn phòng không có ánh đèn, Phan Văn Lân có hơi bối rối. Sáng nay, khi nhận được tin quan trọng đến từ Quy Nhơn, anh đã lập tức đến diện kiến tướng quân, thế nhưng bây giờ anh lại đứng gãi tai bối rối vì không biết phải mở lời thế nào. Đương còn lúng túng, Phan Văn Lân chợt thấy căn phòng tối tăm dần bừng sáng, ánh đèn dầu đã được thắp từ bao giờ. Ngồi trước mặt anh là tướng quân, thứ ánh sáng lập lòe từ ngọn đèn dầu soi rõ một nửa gương mặt kiên nghị của vị đại tướng, nửa còn lại chìm trong bóng tối, thần bí, xa lạ. Đôi mắt sáng như sao xuyên qua bóng đêm, nhìn thẳng về phía Phan Văn Lân, khiến anh cảm thấy căn phòng như không đủ không khí để cho anh thở, nhưng lại không dám để lộ điều đó ra ngoài.

- Bẩm tướng quân, thuộc tướng nhận được tin Thái Đức hoàng đế đã cho người triệu Tiết chế và người rút đại quân trở về. Sau khi nhận được thư, Tiết chế đã tức tốc hồi đáp lại, có lẽ sáng nay thư hồi đáp đã được gửi về Quy Nhơn rồi.

Không thể giữ yên lặng quá lâu, Phan Văn Lân liền bẩm báo lại những chuyện cần thiết. Sau khi anh đã dứt lời, Nguyễn Huệ vẫn không lên tiếng, chỉ có những ngón tay nhịp trên mặt bàn, như đang đuổi theo một ý nghĩ nào đó. Những ngón tay ấy chỉ ngừng lại khi nghe thấy tiếng bước chân mạnh mẽ vang lên ngoài hành lang. Một nụ cười lướt qua trên bờ môi, Nguyễn Huệ đánh mắt về phía Phan Văn Lân, nhận được ánh mắt đó, Lân liền cúi đầu, rồi nhanh chóng lui ra bên ngoài.

Vừa bước chân ra khỏi thư phòng, Phan Văn Lân đã nhìn thấy gương mặt chữ điền đăm chiêu của Nguyễn Lữ, anh vòng tay chào, sau đó quay người đi khi Nguyễn Lữ gật đầu. Nhìn theo bóng dáng Phan Văn Lân xa dần, đôi mày rậm của Nguyễn Lữ nhíu lại, ông đẩy cửa bước vào phòng, rồi tằng hắng một tiếng khi thấy Nguyễn Huệ đang ngồi quay lưng về phía mình. Lúc nào cũng thế, cứ bước chân vào thư phòng của Nguyễn Huệ, ông lại thấy em trai đang ngồi nhìn ra ngoài. Với ông, bên ngoài chỉ có khoảnh vườn nhỏ với vài luống rau, cảnh vật đơn điệu, nhàm chán, chẳng hiểu có gì đặc biệt để em ông nhìn suốt ngày như thế. Những lúc ấy, ông luôn thắc mắc trong lòng Nguyễn Huệ đang nghĩ gì, để rồi khi quay lại, gương mặt kiên nghị ấy chẳng biểu lộ chút sắc thái nào, ngoại trừ cái nhìn hờ hững, dửng dưng. Ánh nhìn ấy khiến ông cảm thấy xa lạ, và tự hỏi người này có phải là đứa em trai quen thuộc của ông hay không?

- Anh đã hồi đáp thế nào với Thái Đức hoàng đế?

Phải mất một lúc, Nguyễn Lữ mới hiểu ra Nguyễn Huệ đang nói về bức thư anh trai đã gởi cho hai anh em ông. Xem ra Nguyễn Huệ biết cả rồi, chỉ ngồi đây nhưng đúng là không có động tĩnh nhỏ nào có thể qua mắt nó. Dẫu vậy, cách nói chuyện không đầu, không đuôi mà cứ đi thằng vào vấn đề chính, cứ như chỉ muốn biết kết quả rõ ràng mà không cần biết quá trình bắt đầu ra sao, khiến Nguyễn Lữ hơi bực. Dù sao ông cũng là anh trai nhưng dường như lại chẳng nhận được chút tôn trọng tối thiểu nào. Đặt mạnh lá thư xuống bàn, Nguyễn Lữ nhìn thẳng vào mắt Nguyễn Huệ, nhấn mạnh từng tiếng.

- Đây là lá thư ta phúc đáp cho Thái Đức hoàng đế, vẫn chưa gửi đi, chú tự mà xem.

Nhìn lá thư thư nằm trên bàn, Nguyễn Huệ mỉm cười, anh vuốt nhẹ lá thư cho phẳng phiu rồi lướt mắt lên những con chữ đen thẫm. Chợt anh lên tiếng hỏi, nhưng mắt vẫn nhìn những dòng chữ không rời, gương mặt tuyệt nhiên không có chút biểu cảm khác lạ nào.

- “Để Nguyễn Ánh thoát, khiến hoàng thượng phải thất vọng, đó là lỗi của chúng thần”, như vậy là sao?

- Chú còn hỏi ta? Tung quân vào Gia Định lần này, chẳng phải chú đã mạnh miệng tuyên bố với hoàng thượng sẽ nhổ cỏ tận gốc quân Nguyễn sao, thế nhưng kết quả là Nguyễn Ánh vẫn chạy thoát. Mấy tháng đóng quân ở Gia Định vẫn chưa bắt được hắn, hoàng thượng đã viết thư khiển trách chúng ta về điều này, để hoàng thượng phải thất vọng, để Nguyễn Ánh chạy thoát, đó chẳng phải là chúng ta có lỗi hay sao?

Nguyễn Lữ nói một hơi không ngừng nghỉ, ông nhấn mạnh ở câu cuối, cốt để cho Nguyễn Huệ thấy tầm quan trọng của sự việc như thế nào. Trước lời ông nói, Nguyễn Huệ chỉ nhếch môi, tưởng rằng đang cười nhưng hóa ra lại không.

- Sự việc chưa đến hồi kết, ai thắng ai thua vẫn chưa biết, chúng ta không có lỗi tại sao phải nhận! Còn nữa, câu “chúng thần sẽ nhanh chóng trở về Quy Nhơn ngay” là thế nào?

Trước những lời bình thản của Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ cau mày, ông sẵn giọng.

- Chuyện đã đến nước này mà chú còn cho đó không phải lỗi của mình ư? Mấy tháng ròng ở Gia Định, tung tích của Nguyễn Ánh ở đâu cũng không thu thập được, tàn quân của hắn lẩn khuất khắp nơi, chúng ta chỉ dậm chân tại chỗ chứ không thu được thành quả nào. Ai thắng ai thua vẫn chưa biết, thế ta hỏi chú khi nào mới biết. Hoàng thượng đã rất nóng lòng, người không hài lòng với tình hình hiện tại nên đã triệu chúng ta về Quy Nhơn gấp. Hơn nữa, trong trận Đồng Tuyên, theo binh sĩ báo cáo lại thì quân Nguyễn Ánh thiệt hại rất nặng nề, hầu hết dũng tướng của hắn đã bị chúng ta bắt hoặc giết, hắn bây giờ như ngọn đèn trước gió, không nhất thiết phải là chúng ta ra tay. Chuyện ở Gia Định hãy để lại cho Trương Văn Đa cùng một số tướng sĩ trấn giữ, còn chúng ta về Quy Nhơn thôi.

Nguyễn Lữ nói một hơi, mang hết những lí lẽ mà ông cho là hợp lý nhất ra để thuyết phục Nguyễn Huệ. Trái với sự nôn nóng của ông, Nguyễn Huệ một tay chống cằm, ngồi nghe rất bình thản. Ngay khi ông vừa nói dứt, Nguyễn Huệ như thoáng cười, anh đột ngột ngồi thẳng dậy, xé toạc bức thư trên tay và châm lên ngọn lửa đèn dầu đốt đi.

- Anh muốn về, muốn nhận lỗi thì cứ việc, em ở lại. Lưới đã tung ra thì phải thu về, không thể để phí hoài.

Trước hành động ngang tàng của Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ tức đến phát điên. Ông đập tay xuống bàn, cả người chồm về phía trước, giọng nói đầy giận dữ và đe dọa.

- Cái gì? Chú không nghe rõ sao! Là hoàng đế cho triệu chúng ta về, chú là quân thần, không về xem như kháng chỉ. Kháng chỉ sẽ bị chém đầu, bất kể đó là ai!

- Chẳng phải đã nói rõ rồi sao, anh muốn về thì cứ việc, chém đầu em chứ không phải anh. Anh không thích Gia Định, cũng không ưa dân Gia Định nên mới muốn về, hà cớ gì phải lấy Thái Đức hoàng đế ra làm cái cớ. Em sẽ ở lại, đến khi xong việc, không cần ai hối thúc em sẽ tự về.

Nguyễn Huệ nói, giọng trung dung, lại có phần châm biếm khiến nét mặt Nguyễn Lữ sa sầm xuống bởi em ông đã nói đúng những gì ông không muốn thừa nhận hay phải nói ra. Mấy tháng ròng rã ở Gia Định đã làm ông phát chán. Tin tức của Nguyễn Ánh không thấy, suốt ngày hết ra bến tàu xem xét lại đến chấn chỉnh quân đội, thêm những cái nhìn thiếu thiện cảm của dân chúng Gia Định mỗi khi ông ra ngoài khiến ông càng thêm bực bội. Tâm trạng bực bội, chồn chân nhưng lại không thể phát tiết khiến trong người ông căng thẳng khó chịu. Cứ thế, ngày qua ngày, khối u ấy lớn dần trong ông, khiến ông chán nản, cáu gắt, chỉ muốn mau chóng quay trở về Quy Nhơn với những công việc yêu thích xưa kia.

Nguyễn Huệ nói đúng, ông ghét Gia Định, ghét cái nắng như thiêu như đốt, ghét những cơn mưa dai dẳng không dứt, ghét những con đường nhão nhoẹt bùn sình, ghét khí hậu thất thường và những đám muỗi, mòng hoàng hoành trong doanh trại. Sau vụ tàn sát đám Minh Hương năm ngoái, ông biết dân chúng Gia Định không hoan nghênh Tây Sơn. Vụ thảm sát ấy in vào trí óc họ như một tấn thảm kịch kinh hoàng, khiến họ nhìn Tây Sơn bằng đôi mắt e dè, sợ sệt. Họ sợ Tây Sơn không phải vì uy danh hay chiến công của các ông, mà sợ vì lo ngại số phận của mình cũng như đám khách trú Minh Hương nọ, bị tàn sát vô tội vạ mà không cần lý do cũng chẳng có phán xử công khai.

Đôi khi, ông tự nhìn lại bản thân mình, nhìn lại lý tưởng và ước mơ chung của anh em ông khi đứng lên khởi nghĩa. Các ông, đơn thuần muốn dân chúng thoát khỏi ách áp bức, nhưng có khi nào lại vô tình tạo ra một ách áp bức khác, một chế độ cai trị khác chăng. Các ông muốn thiết lập một trật tự mới, một xã hội mới công bằng hơn cho dân chúng, nhưng các ông lại thảm sát người Minh Hương vì lý do trả thù cá nhân, vậy thử hỏi, các ông có khác gì bọn quyền thần áp bức người vô tội như Trương Phúc Loan trong mắt dân chúng đâu.

Nguyễn Lữ càng nghĩ càng hoang mang. Trước đây ông nào có nghĩ thế, nhưng khi đối diện với ánh mắt thiếu thiện cảm của dân chúng, đối diện với bốn bức tường lạnh ngắt, những đêm trằn trọc không ngủ được, ông đã bắt đầu suy nghĩ lại. Từ những chuyện xa xưa khi anh em ông vừa đứng dậy khởi nghĩa, cho đến những chiến thắng vinh quang ngày hôm nay, ông không khỏi cảm thấy hoài nghi cho ước mơ và lý tưởng của mình. Anh trai ông có nghĩ thế hay không, em trai ông có từng do dự hay không? Ông muốn về Quy Nhơn không phải vì cảm thấy có lỗi, ông muốn về Quy Nhơn là để trốn tránh cảm giác bất lực, khó chịu và hoang mang này mà thôi.

- Được rồi! Chú muốn ở lại thì cứ việc, còn ta sẽ quay về. Đến khi hoàng đế trách tội thì chú hãy tự gánh vác, không ai giúp được gì đâu.

Nguyễn Lữ hừ nhạt một tiếng vì sự bướng bỉnh của em trai, nói xong ông liền quay lưng bỏ đi. Tiếng gót giày vang lên lộp cộp trên thềm nhà, tiếng cánh cửa đóng sập lại thật mạnh cũng không khiến Nguyễn Huệ quay lại, anh đang nhìn ra vườn, đôi mắt sao băng dừng lại trên nụ hoa vàng vừa mới nở. Lâu thật lâu, bờ môi kiên nghị của anh lướt nhẹ nụ cười khi tiếng cánh cửa kẽo kẹt vang lên.

- Lân, gọi Linh Lan đến đây, ta có chuyện muốn nói với cô ta.

oOo

Trong thư phòng của Nguyễn Huệ, Linh Lan đã đến được một lúc lâu, ngồi ngắm chán chê mọi thứ trong phòng mà vẫn không thấy Nguyễn Huệ nói năng gì, tựa như chẳng hề để ý đến sự tồn tại của nó. Ban nãy đang gầm đầu học hành, bất đắc dĩ lắm Linh Lan mới phải rời khỏi sách vở khi Phan Văn Lân gọi nó đến gặp Nguyễn Huệ theo lệnh. Cơn giận vì bị Nguyễn Huệ xỏ xiên khi nãy vẫn chưa hết, nay lại gặp mặt anh, lòng nó không vui chút nào. Không muốn bị khép tội kháng lệnh cấp trên, Linh Lan đành miễn cưỡng đến thư phòng Nguyễn Huệ. Nó phải dẹp việc riêng của mình để đến đây gặp anh, vậy mà ngồi chán chê mê mỏi vẫn chẳng thấy động tĩnh gì, do anh còn đang chăm chú xem những bức thư vừa được gởi tới. Cái cảm giác bị coi như không tồn tại, muốn gì gọi đến, cần thì kêu chứ cơ bản không cho nó vào mắt khiến Linh Lan lấy làm khó chịu trong lòng.

- Nè, anh gọi tôi tới có việc gì?

Không thể lãng phí thời gian thêm được nữa, Linh Lan đành phải lên tiếng hỏi. Tới lúc này, Nguyễn Huệ mới hạ những lá thư xuống, ngước lên nhìn nó, mỉm cười.

- Ta có việc muốn giao cho cô.

Nụ cười của Nguyễn Huệ không làm Linh Lan thấy nhẹ nhõm, trái lại càng tăng thêm sự cảnh giác trong nó. Khoanh hai tay lại với nhau, Linh Lan nhướng mày.

- Giao việc cho tôi? Là việc gì?

- Cô hãy đến quân trại của Hòa Nghĩa quân, với tư cách là một người đại diện cho Tây Sơn.

Những tưởng công việc Huệ giao không quan trọng, Linh Lan tròn mắt khi nghe những gì anh vừa nói. Đến quân trại của Hòa Nghĩa quân với tư cách là một người đại diện cho Tây Sơn, có lẽ để đàm phán gì đó. Công việc này thiên về ngoại giao, đúng sở trường của nó, nhưng cũng có rất nhiều người có thể đảm nhiệm công việc này, tại sao Nguyễn Huệ không chọn ai lại chọn nó. Hơn nữa, Hòa Nghĩa quân là gì? Quan hệ trước đây với Tây Sơn là thế nào? Cụ thể thì anh muốn nó đàm phán thỏa thuận những gì? Vai trò công việc đó thế nào? Nếu đó là việc cực kỳ quan trọng, thành công, hẳn nhiên mang đến cho Tây Sơn nhiều lợi ích, nhưng nếu thất bại thì hậu quả gì sẽ xảy ra đây. Thất bại, đó là hai từ Linh Lan không muốn nhắc đến chút nào.

Đang chờ đợi Nguyễn Huệ nói tiếp về công việc cụ thể thế nào, Linh Lan tròn mắt khi trái với sự chờ đợi của nó, anh lại quay về với những bức thư trong tay, cứ như thể là đã xong việc với nó rồi vậy. Đợi thêm một lúc, Linh Lan bực dọc hỏi lại.

- Chỉ thế thôi à?

- Chỉ thế thôi! – Nguyễn Huệ nói mà không hề nhìn nó lấy một lần, mặc kệ Linh Lan đang hết sức hoang mang.

- Đến quân trại của Hòa Nghĩa quân với tư cách là một người đại diện cho Tây Sơn, rồi làm gì nữa? Kêu gọi Hòa Nghĩa quân hợp tác với Tây Sơn, chiêu hàng chúng hay thương lượng đàm phán? Chúng hiện đang ở đâu? Tình hình hiện ra sao? Gồm những ai, tôi không biết gì về chúng cả?

- Nếu không làm được thì ta giao cho người khác.

Trước hàng loạt câu hỏi của Linh Lan, Nguyễn Huệ điềm nhiên trả lời. Anh ngước lên nhìn nó, ánh mắt sáng và nụ cười có chút giễu cợt của anh khiến Linh Lan nhíu mày, nó cảm thấy mình đang bị anh đánh giá thấp, bị coi thường và điều này khiến nó không vui. Dù sao đây cũng là một cơ hội tốt, nó nhất định cố gắng để khiến anh phải thay đổi cách nhìn, phải thừa nhận thực lực của nó. Vuốt nhẹ lọn tóc xõa dài trên bờ vai, Linh Lan nhìn thẳng vào đôi mắt của Nguyễn Huệ, nói chậm rãi, không lớn tiếng, cũng chẳng hạ giọng, mà đủ để cả hai nghe thấy.

- Được! Anh giao thì tôi nhận. Nếu không còn việc gì nữa, tôi xin phép ra ngoài.

Đáp lại lời Linh Lan là nụ cười của Nguyễn Huệ, nó nhẹ nhàng đứng lên rồi khoan thai ra khỏi phòng, tay nhẹ nhàng khép cửa lại. Gọi nó đến để giao việc, nhưng lại tiết lộ rất chung chung về công việc và nó phải làm, đối tượng mà nó phải gặp, anh ta đúng là biết cách làm khó người khác. Nhưng nếu Nguyễn Huệ giao việc càng khó, thì nó càng phải hoàn thành một cách xuất sắc để anh ta hết coi thường. Hiện tại nó chỉ biết vị trí của mình và đối tượng cần tiếp xúc, phải tiến hành công việc thế nào phụ thuộc rất nhiều vào hiểu biết của nó về đối tượng. Việc đầu tiên mà giờ đây nó cần làm là tìm hiểu kỹ càng về nhóm Hòa Nghĩa quân này, biết địch biết ta, trăm trận trăm thắng, thông tin chẳng bao giờ là thừa cả. Nói là nói vậy, nhưng Linh Lan chỉ mới ở trong Tây Sơn một khoảng thời gian không lâu, những chuyện trước đó nó không được tỏ tường. Nếu muốn biết lai lịch xuất thân của Hòa Nghĩa quân, thì nó phải tìm một người lâu năm trong Tây Sơn, là thuộc tướng thân cận của Văn Bình, theo chinh chiến nhiều nơi mới có thể biết được những điều này. Mà đã thế, ứng cử viên hội tụ đủ những yếu tố đó, không ai khác chính là Phan Văn Lân.

Linh Lan mỉm cười hài lòng, chân thẳng tiến ra bãi luyện tập. Giờ này, Văn Lân chắc chắn đang ở ngoài bãi để luyện đao. Quả đúng như suy nghĩ của nó, vừa mới dẫm chân lên những viên sỏi rải dọc lối đi, Linh Lan đã nghe thấy tiếng đao vun vút xé gió. Hình ảnh Phan Văn Lân đang múa những đường đao tuyệt đẹp khiến Linh Lan lại nhớ đến Văn Bình. Trong khi nó đang mướt mồ hôi với những thế võ của Yến Phi quyền thì Văn Bình lại luyện đao, những lúc ấy, nó đều ngồi bệt xuống đất để xem anh luyện tập, sau đó đòi cầm thử đao, để rồi le lưỡi vì thanh đao quá nặng khiến Văn Bình bật cười.

Giờ đây, gương mặt tươi cười của Văn Bình nó không còn nhìn thấy nữa. Sự ấm áp, bình yên không còn khiến Linh Lan cảm thấy trống vắng, một nỗi buồn riêng len lỏi vào trong trái tim nó, khiến nó bần thần. Linh Lan chớp mắt, nó ngẩng nhìn lên bầu trời, sóng mũi cay cay. Đã hứa sẽ cố gắng tìm hiểu chuyện gì đã xảy ra giữa anh và Nguyễn Huệ, đã hứa sẽ đưa anh quay trở lại, ấy thế mà lời hứa đó nó vẫn chưa thực hiện được, nó thật có lỗi với anh biết bao. Anh đã luôn quan tâm nó, chăm sóc nó, dịu dàng với nó, vậy mà nó lại để những chuyện hơn thua với Nguyễn Huệ làm xao lãng mục tiêu của mình, nó thật không xứng với những gì văn bình đã giành cho nó, thật không xứng chút nào.

- Linh Lan, cô sao thế?

Đang chìm trong những cảm xúc của riêng mình, Linh Lan chợt tỉnh lại khi giọng nói lo lắng của Phan Văn Lân chợt vang lên. Đưa tay gạt những giọt nước mắt ngân ngấn trên rèm mi, Linh Lan quay người lại, cố lấy giọng tươi tỉnh khi thấy ánh mắt khó hiểu của Phan Văn Lân đang nhìn mình.

- À, không sao, không có gì. Tôi đến đây để hỏi anh chút việc thôi.

- Chuyện gì? – Nhận ra giọng nói của Linh Lan có đôi chút khác lạ, Phan Văn Lân nhíu mày.

- Tướng quân gọi tôi đến để giao việc, đó là công việc liên quan đến Hòa Nghĩa quân, tôi sẽ đến gặp bọn họ với tư cách một người đại diện cho Tây Sơn, nhưng thú thật tôi không biết Hòa Nghĩa quân như thế nào nên mới đến hỏi anh, hy vọng anh biết về họ.

- Hòa Nghĩa quân? Tất nhiên tôi biết!

Linh Lan mừng rỡ khi nghe Phan Văn Lân nói, nếu thế, công việc của nó sẽ không còn khó khăn nữa mà có thể triển khai dễ dàng hơn. Vội kéo tay Lân ngồi xuống mấy tảng đá lô nhô trong vườn, Linh Lan hỏi nhanh, khiến anh còn chưa kịp lau đi những giọt mồ hôi lấm tấm trên trán sau buổi luyện đao.

- Nếu anh biết về đám Hòa Nghĩa quân này thì tốt cho tôi quá. Bây giờ anh hãy cho tôi biết lai lịch xuất thân, nơi đóng quân của chúng đi, càng nhiều càng tốt, được thế tôi cám ơn anh nhiều.

Nhìn vẻ mặt nôn nóng chờ đợi của Linh Lan, Phan Văn Lân mỉm cười, anh nói chậm rãi, cốt để Linh Lan có thể tiếp thu kịp thông tin.

- Hòa Nghĩa quân vốn là có nguồn gốc gắn kết với chúng ta. Theo tôi được biết, Hòa Nghĩa quân thành lập vào những năm đầu Tây Sơn khởi nghĩa, được chỉ huy bởi Lý Tài, xuất thân là một thương nhân người Hoa. Sau này, do xích mích với tướng quân và bất đồng mục đích chung, Lý Tài làm phản, mang lực lượng của mình tách khỏi Tây Sơn, về đầu quân cho Nguyễn quân.

Hòa Nghĩa quân là đám khó thuần phục nhất trong quân Nguyễn nhất là từ sau khi Lý Tài chết đi, hành động của chúng càng khó kiểm soát. Để có thêm lực lượng, Nguyễn Ánh đã để chúng ở trong trướng nhưng lại không giao nhiệm vụ quan trọng gì, điều này khiến chúng rất bất mãn. Quan hệ của Hòa Nghĩa lúc này và Nguyễn quân chỉ dựa vào lợi ích nhận được từ hai phía. Theo thám báo Tây Sơn báo lại, sự sa cơ và cuộc sống lưu vong của Nguyễn quân đã không còn mang lại lợi ích cho chúng, nên chúng đã manh nha trở lòng.

Hiện tại, không hiểu là xích mích gì mà Nguyễn Ánh đã cho chém thủ lĩnh Hòa Nghĩa quân là Trần Đình. Hành động này như giọt nước tràn ly, khiến cho đám thuộc hạ của Đình là Trần Hưng và Lâm Phúc tạo phản, thống lĩnh Hòa Nghĩa quân tách ra và chiếm cứ Hà Tiên.

Nếu muốn đến gặp Hòa Nghĩa quân thương lượng, cô phải đến Hà Tiên. Từ Gia Định xuống đó khá xa, đi ngựa mất mấy ngày đường mới đến, chưa kể tình hình ở đó khá loạn, dọc đường còn có các tàn quân của Nguyễn Ánh, thổ phỉ rồi nhiều nguy hiểm khác. Mà đó là còn chưa nói đến bản chất bọn Hòa Nghĩa quân này, chúng rất hiếu sát, cứng đầu và không chịu thuần phục ai ngoài thủ lĩnh của chúng. Cô cũng thấy rồi đó, hết phản lại Tây Sơn rồi phản lại Nguyễn quân, bọn chúng vốn không đáng tin, cô tính sẽ làm gì khi gặp chúng đây? Cẩn thận đấy Linh Lan, nếu cô làm không khéo, Tây Sơn sẽ có thêm kẻ thù, hay tình huống tồi tệ nhất là cô sẽ mất mạng trong tay chúng đấy. Hãy suy nghĩ thật cẩn thận, cô có thể từ chối mà. Tôi không muốn cô chỉ có đi mà không có về đâu.

Phan Văn Lân nói xong, Linh Lan không vội trả lời ngay, nét mặt nó đăm chiêu, mày liễu nhíu lại, dường như đang suy nghĩ, cân nhắc về những gì anh vừa nói. Thời gian chậm chạp trôi qua, bóng chiều tràn xuống khu vườn, phủ lên gương mặt nghiêm nghị của Linh Lan thứ sắc hồng dịu dàng trên đôi má, lâu thật lâu, Linh Lan ngẩng đầu lên, đôi mắt lấp lánh, tỏ rõ quyết tâm, nó mỉm cười.

- Không sao! Tất nhiên là tôi muốn sống sót trở về rồi, thế nên sẽ cẩn thận, đừng lo. Giờ thì tôi biết việc của mình là làm gì rồi, tôi phải về phòng để suy nghĩ xem làm cách nào đây. Cám ơn anh nhiều nhé.

Linh Lan chậm rãi đứng dậy, nó mỉm cười với Phan Văn Lân thêm một lần nữa rồi quay người trở về phòng. Chợt, ánh mắt nó dừng lại ở cuối góc vườn, nơi có bông lau đang phất phơ trước gió. Giữa đám cỏ dại xanh rờn, nổi bật lên bông lau trắng muốt, bông lau vươn cao, đung đưa theo chiều gió, khiến đôi mắt Linh Lan chợt trở nên mông lung khi thoáng nhớ đến cánh đồng lau trắng nhạt nhòa hôm ấy.

Linh Lan yên lặng, nó hướng mắt về hoàng hôn đang phủ lên rừng cây nhạt nhòa một màu đỏ quạnh hiu. Trong khoảnh khắc ấy, đôi mắt nó chợt mênh mông, những sợi tóc mây khẽ cài qua vành môi mềm mại đang hé mở, như muốn nói một điều gì đó mà không thể thốt nên lời. Không được! Đêm nay, nó sẽ phải suy nghĩ rất nhiều thứ, chuẩn bị rất nhiều thứ để tiến hành công việc Nguyễn Huệ giao phó, sao lại còn thời gian nghĩ mông lung như thế. Linh Lan lắc đầu, chân nó lại sải bước, bỏ lại bông lau trắng ngơ ngác đang vươn về phía nó, chờ đợi một điều gì đó mơ hồ…

Tôi xin lỗi…
… Xin lỗi anh, rất nhiều!



★ Chương 117

Đảo Phú Quốc ban đêm lộng gió, từng con sóng bạc trắng không ngừng vỗ vào bờ. Sóng lặng lẽ đến rồi, rồi vội vã đi, không báo trước, để cho triền cát ướt đẫm, không bao giờ khô dưới ánh nắng mặt trời. Ngồi ở hàng hiên của căn nhà lá đơn sơ dựng tạm để che nắng mưa, Nguyễn Ánh nhìn ra ngoài biển đêm heo hút mênh mông. Tiếng sóng biển rì rào, từng cành dừa cọ vào nhau, tạo nên thứ âm thanh mơ hồ, khiến đôi mắt nâu trong suốt trở nên mông lung, bất định như ánh sao đêm nhạt nhòa trên bầu trời.

Bước lên một bước là hoàng hôn
Lui về một bước là đời người
Gió thổi sóng gầm làm con tim mệt mỏi
Một hòn đảo nhốt giữ một con người.(*)

- Chúa công, theo lệnh người, thuộc hạ đã tập hợp mọi người đến đông đủ rồi.

Tiếng gió gào trên biển trong thoáng chốc đã lắng lại khi giọng nói của Lê Văn Duyệt nhẹ nhàng vang lên. Vẫn nhìn ra mặt biển mênh mông, Nguyễn Ánh không quay người lại, anh chỉ gật nhẹ đầu. Nhận được cử chỉ đó, Nguyễn Văn Thành đang đứng bên cạnh Lê Văn Duyệt liền bước lên, vòng tay khấu chào và báo lại tình hình mà tình báo quân Nguyễn đã thu thập về.

- Bẩm chúa công, theo thám báo của ta, Hòa Nghĩa quân sau khi làm phản đã chiếm đóng ở Hà Tiên. Biết được tin ấy, Nguyễn Huệ tức tốc cử người đến gặp bọn chúng. Chúa công, tình hình này chúng ta sẽ làm sao?

Nguyễn Văn Thành báo cáo xong, một lúc sau Nguyễn Ánh mới quay người lại, đôi mắt nâu trong suốt ánh lên những tia sáng kỳ lạ. Nhìn từng nét mặt mệt mỏi của thuộc tướng, Nguyễn Ánh cất tiếng hỏi, giọng nhẹ tênh.

- Các ngươi không sao chứ?

- Bẩm chúa công, chúng thuộc hạ vẫn khỏe, người an tâm.

Bỗng nhiên được chúa công thăm hỏi sức khỏe, các binh sĩ vội vàng đứng thẳng lưng, gương mặt tươi tỉnh, họ đồng thanh đáp. Không hiểu sao khi nhìn vào đôi mắt nâu lấp lánh ấy, họ cảm thấy dù có cố gắng bao nhiêu vẫn chưa đủ. Mấy tháng qua chúa công cùng chung hoạn nạn, chia ngọt sẻ bùi với họ, chúa công không tỏ ra mệt mỏi, chán nản thì tại sao những thuộc hạ dưới trướng người lại tỏ ra thất chí như thế.

Nguyễn Ánh mỉm cười, anh vỗ nhẹ lên vai một người lính đứng gần Lê Văn Duyệt, hành động ấy khiến người lính lúng túng, nhưng đầu lại ngẩng cao tỏ rõ lòng tự hào. Nhìn các thuộc tướng theo mình bôn ba khắp nơi, không rõ Nguyễn Ánh nghĩ gì mà đôi mày kiếm khẽ nhíu lại, ngồi xuống một tảng đá, anh quét mắt nhìn binh sĩ một lượt, bờ môi thanh tú nhếch lên, tạo thành nét cười kiêu ngạo thường ngày.

- Chuyện Tây Sơn muốn liên kết với Hòa Nghĩa quân ta đã lường trước ngay khi chúng tạo phản. Dù cho mục đích thật sự của Nguyễn Huệ là gì thì ta chỉ cần giết chết tên sứ giả đó là có thể giải quyết được mọi chuyện thôi.

- Chúa công, liệu có thể không? – Ngay khi Nguyễn Ánh vừa dứt lời, Lê Văn Duyệt vội hỏi ngay – Khi thám báo của chúng ta báo tin về đồng nghĩa với việc tên sứ giả ấy đã lên đường, thậm chí có thể là đã đến và gặp được Hòa Nghĩa quân để bàn bạc rồi. Chúng ta đã chậm một bước, hành động lúc này liệu có kịp ngăn chặn liên minh của chúng không?

- Không chậm, thậm chí là còn rất tốt!

Nguyễn Ánh trả lời, giọng nói ung dung, không giấu được ánh nhìn đầy tự tin và cái cười kiêu ngạo cố hữu.

- Đường từ Phú Quốc đến Hà Tiên tất nhiên gần hơn nhiều so với đi từ Gia Định. Bây giờ, các ngươi hãy chia quân ra làm hai đạo, đạo thứ nhất theo ta, đạo thứ hai, không cần đông, nhanh chóng xuống Hà Tiên, kín đáo mai phục tên sứ giả đó ngay trên địa phận đóng quân của bọn Hòa Nghĩa. Không cần biết hắn ta đã đàm phán gì với bọn chúng, thành công hay thất bại, nhưng chỉ cần hắn ta chết ở trên đất của bọn chúng, mối liên kết giữa Tây Sơn và chúng sẽ gãy đổ ngay. Nên nhớ, Hòa Nghĩa quân vốn xuất thân trong hàng ngũ Tây Sơn và đã từng phản bội, nay, cho dù mang tiếng là kiên kết hay hợp tác gì đi nữa thì lòng tin giữa chúng rất mong manh. Chỉ cần tên sứ giả chết trong địa phận của Hòa Nghĩa quân thì Tây Sơn nhất định cho là Hòa Nghĩa quân làm, dù có trăm cái miệng chúng cũng không thể thanh minh được. Đến lúc này, mối liên kết của chúng sẽ gãy đổ, Tây Sơn chẳng phải sẽ thay chúng ta quét sạch bọn chúng hay sao. Cứ để chúng đánh nhau, thiệt hại có xảy ra cho bên nào thì phần lợi vẫn sẽ thuộc về chúng ta.

- Nhưng liệu Tây Sơn có vì một sứ giả mà gây chiến với bọn chúng, bỏ qua khả năng liên kết hợp tác không, chúa công?

- Ngươi quên chuyện thảm sát người Minh Hương năm ngoái rồi sao. Mà cho dù không như thế thì…

Chuyện mới xảy ra năm ngoái, tất nhiên Lê Văn Duyệt vẫn chưa quên. Chỉ vì cái chết của một viên hộ giá mà Tây Sơn đã cho tàn sát hàng ngàn người Minh Hương trú ở Gia Định, bất kể là quân lính, binh sĩ hay thường dân. Với kiểu hành động như vậy, dễ hiểu vì sao chúa công ông lại dự đoán và khéo léo sắp đặt để khơi dậy hiềm khích giữa Tây Sơn và Hòa Nghĩa quân. Mặc dù đã hiểu dụng ý của của chúa công, nhưng câu nói lưng chừng ấy khiến Lê Văn Duyệt không khỏi thắc mắc, trong khi chúa công chỉ nói đến đây rồi ngưng lại, điều đó khiến ông không nén được tò mò.

- Nếu không thì sao, chúa công?

Lê Văn Duyệt hỏi, nhưng Nguyễn Ánh không trả lời, anh chỉ nhìn ông và mỉm cười, nụ cười ngạo nghễ ấy khiến Lê Văn Duyệt khó hiểu, nhưng ông lại không dám hỏi gì thêm. Sau khi đã giao nhiệm vụ rõ ràng cho các binh sĩ, Nguyễn Ánh hạ lệnh giải tán, trên bãi đất trống chỉ còn lại anh và Lê Văn Duyệt. Trời ngày càng lạnh, sương rơi xuống càng nhiều, gió từ biển thổi thốc vào, khiến tà áo vàng bay lật phật. Nguyễn Ánh yên lặng nhìn ra ngoài khơi, tất cả xung quanh anh chỉ là một màu đen như mực, không nhận ra đâu là mặt biển, đâu là bầu trời.

Con sóng này chưa đi
Con sóng kia đã tới
Giữa biển người mênh mông là sóng to gió lớn

- Chúa công, trời đã trở lạnh, người nên vào trong nghỉ ngơi thôi.

- Ngươi cứ vào nghỉ, ta ở ngoài này một lúc nữa.

- Chúa công…

Lê Văn Duyệt tính nói điều gì đó, nhưng phút cuối ông lại im lặng khi thấy ánh mắt sâu hun hút như mặt biển đêm của Nguyễn Ánh. Đôi mắt ấy tuy không nổi giông tố như biển cả bao la ngoài kia, nhưng ông biết dưới mặt nước êm ả ấy là những cơn sóng ngầm không ngừng xô đẩy. Từ khi cô gái ấy ra đi, ông cảm thấy chúa công đã thay đổi, một sự thay đổi mơ hồ mà bây giờ ông mới nhận ra. Nụ cười của chúa công vẫn thế, vẫn kiêu ngạo và thách thức thời gian, nhưng sự dịu dàng, bình yên trong nụ cười ấy đã không còn nữa, dường như cô gái đó khi rời xa chúa công cũng đã mang theo nó mất rồi.

Lê Văn Duyệt thở dài. Dù không hề thích cô gái tên Linh Lan ấy, nhưng ông phải thừa nhận rằng, chúa công dịu dàng đến thế khi ở bên cạnh cô ta, mỉm cười nhiều như thế khi cô ta dỗi hờn. Tất cả những thay đổi nhỏ nhặt ấy ở chúa công làm ông ngạc nhiên, từ sự ngạc nhiên trở thành tất nhiên. Cô ta ở bên cạnh chúa công là lẽ đương nhiên thôi, và bây giờ, cô ta ra đi cũng là lẽ dĩ nhiên…. hay sao?

Lê Văn Duyệt bần thần tự hỏi khi lặng lẽ rút lui, nhường lại khoảng không gian mênh mông lại cho chúa công của mình. Đi được một khoảng khá xa, Lê Văn Duyệt bỗng nhiên ngoảnh đầu lại. Chúa công của ông vẫn ở đó, vẫn nhìn ra ngoài khơi xa. Trong khoảnh khắc ấy, chúa công vui hay buồn, đang suy nghĩ gì ông không biết, nét mặt chúa công có biểu cảm thế nào ông cũng không biết, ông chỉ biết bóng dáng chúa công đứng cô độc trên vách đá, dưới chân là sóng biển cuộn tràn, vỡ tan thành bọt li ti, tà áo vàng bay trong gió, trông thật kiêu hãnh, nhưng cũng thật chênh vênh

Con sóng này chưa tới
Con sóng kia đã vội ra đi
Từ xưa đến nay mộng vốn là hư ảo

Thái Bình dương sâu bao nhiêu
Lòng càng đau bấy nhiêu…

oOo

Mất vài ngày lênh đênh trên biển, sáng tinh mơ hôm nay, Linh Lan và Bùi Định, người dẫn đường của nó, mới đặt chân đến Hà Tiên. Thành thật mà nói, sau khi nghe những thông tin mà Phan Văn Lân cho biết, Linh Lan cũng có chút e ngại. Không ít lần nó đã nghĩ sao mình không từ chối, hay ít nhất là đề nghị có một ai đó đi cùng để giúp đỡ, để bản thân an tâm hơn, thế nhưng mỗi khi nghĩ đến đó, ánh mắt chế giễu của Nguyễn Huệ lại hiện lên khiến nó dập ngay ý định của mình.

Khi giao việc cho nó, Nguyễn Huệ không hề nhắc đến ai khác nên trong suốt thời gian suy nghĩ và lên kế hoạch chuyến đi, Linh Lan luôn chuẩn bị sẵn tinh thần rằng nó sẽ phải đi một mình. Ấy vậy mà đến ngày khởi hành, Nguyễn Huệ đột nhiên “nhân từ” khi thông báo sẽ cử thêm người đi cùng. Khi nghe thông tin này, Linh Lan đã mừng khấp khởi trong lòng, tưởng anh sẽ cử một ai đó trong quân ngũ làm bạn đường. Thế nhưng trái với mong đợi, người dẫn đường của nó lại là một thường dân lưng còng, ốm yếu, da xanh xao như bệnh mấy tháng, ngoài thông thuộc đường lối ra thì chẳng biết gì. Hết nhìn anh chàng Bùi Định rồi lại nhìn Nguyễn Huệ, Linh Lan không giấu được nỗi chán nản, thất vọng trong mắt. Nó thở dài, đành tự an ủi bản thân, có người dẫn đường thì khỏi sợ lạc, thế cũng tốt lắm rồi, còn có thể mong gì hơn ở Nguyễn Huệ chứ.

Trên đường đi, khi biết được nơi cả hai muốn đến, những ngươi ngồi chung thuyền đã nhìn Linh Lan bằng con mắt e ngại. Theo lời họ nói, ở Hà Tiên có một nhóm quân từ đâu đến cát cứ, ngày ngày thả người vào cướp bóc xung quanh, đến nỗi có người không thể chịu đựng được sự quấy nhiễu đó nên phải bỏ xứ mà đi. Hà Tiên đang loạn lạc, Linh Lan là thân con gái, bạn đồng hành lại ốm yếu, xanh xao như đang bệnh, nguy hiểm trăm bề, thế nên ai nấy đều lo lắng lắc đầu.

Nhìn nét mặt của từng người, Linh Lan biết nó đang dấn thân vào nguy hiểm lắm chứ, nhưng vì nó đã mạnh miệng tuyên bố với Nguyễn Huệ rằng sẽ làm, nay thấy nguy hiểm mà chùn bước, chẳng khác nào tự nhận mình chỉ giỏi nói miệng, gặp khó khăn là rụt cổ. Thất bại không phải là điều Linh Lan ngại, bởi nếu đã cố gắng hết sức thì kết quả không quá quan trọng, nhưng nếu chưa lâm trận đã thoái lui thì nó sẽ phái sống trong sự chế giễu cả đời. Không chỉ sự chế giễu của người ngoài, nếu mãi trốn tránh, bản thân Linh Lan cũng sẽ khó mà trưởng thành, trở nên mạnh mẽ để đối diện với khó khăn và tồn tại trong thời buổi loạn lạc. Chính vì vậy bằng mọi giá, chuyến đi này Linh Lan phải cố gắng thành công, nó phải kêu gọi Hòa Nghĩa quân hợp tác với Tây Sơn, thêm bạn là bớt đi một kẻ thù, thế sẽ có ích cho rất nhiều người.

Với suy nghĩ như thế, Linh Lan thấy yên lòng hơn. Đã đặt chân đến Hà Tiên thì không có đường quay trở lại, nó phải tiến thẳng về phía trước mà thôi. Mấy tháng được Nguyễn Huệ rèn giũa, võ nghệ của nó đã tiến bộ rất nhiều, thổ phỉ hay Hòa Nghĩa quân gì nó cũng không sợ, chỉ sợ địch đông mà ta thì ít, chẳng khác nào mãnh hổ nan địch quần hồ. Vào Hà Tiên, nó nhất định phải nhìn trước ngó sau, không đụng chạm hay gây chú ý cho bất cứ ai, có kiêng có lành, cứ cẩn thận thì sẽ hạn chế được rủi ro.

Lên bờ, Linh Lan và Bùi Định ghé chân vào một quán nước để nghỉ ngơi lấy sức, mua lương thực cho chặng đường tiếp theo. Trên đường đi, Bùi Định trước sau chẳng hé răng lấy một câu, nó có nói gì thì chàng ta cũng chỉ gãi đầu, mặt ngơ ngác, điều đó khiến nó chán nản nên thôi không bắt chuyện với chàng ta nữa. Dọc đường, chốc chốc Linh Lan lại thấy vài người dắt díu vợ con đi lánh nạn, nét mặt hơ hải, bước chân vội vã, tiếng trẻ con khóc ré làm Linh Lan chạnh lòng. Đã qua rồi thời phồn thịnh, Hà Tiên bây giờ như mái tóc rối xơ xác của người quả phụ đã lâu không chải, phiên chợ nghèo lác đác, phần lớn nhà cửa đều đóng, khung cảnh vắng lặng, chỉ có tiếng gió thổi, khiến nó cảm thấy không khí thật ngột ngạt. Trước kia, khi nghe lời kể của những ai đã đến Hà Tiên, Linh Lan cảm thấy lòng nôn nao lắm, nó được biết Hà Tiên rộn ràng, sầm uất chẳng khác nào chốn kinh kỳ. Mạc Thiên Tứ đã mở cảng, cho phép tự do buôn bán, khách thương nhân phương xa đến neo thuyền tấp nập, tạo nên một bộ mặt sinh động, nhộn nhịp cho Hà Tiên. Bây giờ chiến tranh diễn ra, các thế lực nổi lên cát cứ, dân trôi giạt tứ xứ, thương cảnh xưa giờ hoang tàn, chỉ còn tấm bảng hiệu sứt mẻ cắm lại trơ trọi, như nhắc đến một quá khứ huy hoàng xưa kia.

Nhìn Hà Tiên nằm trong khói chiến tranh, Linh Lan thở dài, lòng buồn man mác, nhưng được một lát, nó buộc mình phải quên đi những tình cảm cá nhân, phải gạt bỏ những niềm riêng trong lòng ra ngoài. Hiện thời nó đến Hà Tiên để làm nhiệm vụ chứ không phải dạo chơi, để than thở cho một Hà Tiên tàn lụi. Công việc thì chưa hoàn thành, trước mắt có nguy hiểm gì đang đợi nó vẫn chưa biết, an nguy bản thân còn lo chưa xong, thử hỏi sao có thể nghĩ lan man đến chuyện khác. Linh Lan mím môi, nó cốc lên đầu mình một cái để tự trừng phạt, rồi sau đó gọi chủ quán tính tiền và nhanh chóng cùng Bùi Định tìm đến căn cứ của Hòa Nghĩa quân.

Theo lời Bùi Định chỉ dẫn, chẳng mấy chốc, Linh Lan đã tìm được nơi đóng quân của Hoà Nghĩa đạo. Cuối con đường, khi bóng dáng doanh trại quân Hoà Nghĩa thấp thoáng sau những lùm ây xanh, trái tim Linh Lan bắt đầu đập thình thịch như trống dồn.

Bình tĩnh, bình tĩnh, mày nhất định sẽ làm được mà, Linh Lan.

Hít vào một hơi thật sâu để trấn an bản thân, Linh Lan nhắm mắt, bình ổn lại nhịp thở rồi chậm chạp mở mắt ra, từ trong đôi mắt đen láy lấp lánh ánh sáng quyết tâm. Ung dung tiến lại gần, Linh Lan nhìn thấy trong doanh trại, từng tốp lính đang ra vào tuần tra, trên tay là gươm giáo sáng ngời. Mãnh hổ nan địch quần hồ, chuyến này nếu nó làm không khéo thì…

- Đứng lại đó, các ngươi là ai, nghĩ đây là đâu, không muốn sống nữa hay sao mà dám lại gần!!

Đang xem xét tình hình trước mắt, Linh Lan giật bắn người khi một tiếng quát lớn vang lên, đến khi định thần lại thì đã thấy năm sáu tên lính Hòa Nghĩa quân túa ra, bao vây nó vào giữa, nét mặt ai nấy đều đằng đằng sát khí khiến nó không dám khinh xuất. Trấn an trái tim đang đập nhanh trong lồng ngực, Linh Lan đưa mắt nhìn từng người, rồi cất giọng dịu dàng.

- Các vị tướng gia, chúng tôi là sứ giả của Tây Sơn, hôm nay tôi thay mặt Long Nhương tướng quân đến đây để đàm phán với thủ lĩnh của các vị, mong các vị vào bẩm báo lại với chủ soái giùm cho.

- Ngươi là người của Tây Sơn?

Nghe Linh Lan giới thiệu, một tên có đôi mắt to như lộ hẳn ra ngoài nhìn nó, dò xét từ đầu đến chân rồi cất giọng hỏi đầy nghi. Cũng phải thôi, chuyện quan trọng thế này, đâu phải cứ nói ra là tin ngay được. Hiểu được sự nghi hoặc của chúng, Linh Lan mỉm cười hoà nhã, hai tay giơ lên, nét mặt ôn hòa.

- Phải! Tôi là người của Tây Sơn, tôi đến đây với mục đích đàm phán hợp tác chứ không hề muốn gây hấn gì cả, chúng tôi chỉ có hai người, làm sao mà dám gây sự hay lừa gạt các vị đây chứ. Mong các vị tướng gia có thể đưa tôi vào gặp chủ soái có được không?

Thấy Linh Lan là con gái, nét mặt lại rất tự tin nhưng không kém phần thành thật, lại không có ác ý, người bên cạnh thì ốm yếu xanh xao, thêm, chuyện nó nói là một tin lớn, không phải tự tiện có thể bịa đặt được, nét hoài nghi của những tên lính dần giảm đi. Một tên trong số chúng lên tiếng, giọng vẫn chưa hết nghi ngờ.

- Ngươi nói thật hay không, bọn ta lấy gì để tin ngươi?

- Dĩ nhiên lời tôi nói là thật. Đây là lệnh bài mà Long Nhương tướng quân đã trao cho tôi, là thật hay là giả, tôi tin là chủ soái của các vị nhìn thấy sẽ nhận ra ngay. Hơn nữa, chúng tôi chỉ có hai người, có gan đến đâu cũng nào dám gây chuyện tại quân doanh của các vị tướng gia dũng mãnh đây chứ. Đó đúng là lao đầu vào chỗ chết, mà tôi thì không muốn thế đâu.

- Được! Ta tạm tin các ngươi, mau theo ta đi gặp chủ soái!!!

Vừa dứt lời, tên lính liền quay người đi, ngay sau đó, Linh Lan và Bùi Định bị mũi giáo của những tên lính phía sau chĩa vào lưng thúc giục. Đến gặp Hòa Nghĩa quân đàm phán, tư cách của nó là sứ giả nhưng lại bị giải đi chẳng khác nào tù nhân, điều này khiến Linh Lan khó chịu nhưng ngoài mặt lại làm ra vẻ tươi tỉnh. Bước chân qua cổng, mọi ánh mắt trong doanh trại đều đổ dồn về phía Linh Lan, những tiếng thì thào, bàn tán nổi lên, nhưng nó vẫn ngẩng cao đầu, mặt tươi cười, mắt nhìn thẳng về phía trước và trong đầu đang tính toán các bước tiếp theo khi gặp được thủ lĩnh của Hòa Nghĩa quân.

Dẫn Linh Lan đi qua các khúc cua, ngoặt, cuối cùng, nhóm binh lính đưa nó và Bùi Định vào trong một chiếc lều được dựng bằng cành cây thô sơ nhưng lại rất rộng rãi và vững chắc. Đập vào mắt Linh Lan là một nhóm binh sĩ đang đứng quanh trên một chiếc sập, trên sập là hai người đàn ông cao lớn, một gã bị chột mắt, gã còn lại có vết sẹo dài ở cánh tay, theo vị thế này, đây có lẽ là Trần Hưng và Lâm Húc, hai tên thuộc tướng đã làm phản quân Nguyễn và chiếm cứ Hà Tiên theo lời Phan Văn Lân đã kể.

- Ta nghe thuộc hạ báo lại, ngươi tự xưng mình là sứ giả của Tây Sơn do Long Nhương tướng quân phái đến?

Nhìn Linh Lan từ đầu đến chân, rồi sau đó chú mục vào gương mặt trái xoan của nó, Trần Hưng thình lình lên tiếng. Không né tránh ánh mắt dò xét của hắn, Linh Lan điềm nhiên đáp lời.

- Phải!

- Ta dựa vào đâu để tin ngươi đây? Hơn nữa, cho dù những điều ngươi nói là thật, thì phái một phụ nữ làm sứ giả để đến đàm phán với chúng ta, như thế chẳng phải hắn quá coi thường Hòa nghĩa quân hay sao?

Trước sự nghi hoặc của Trần Hưng, Linh Lan một lần nữa rút thẻ bài mà Nguyễn Huệ đã giao cho nó ra, giơ lên cho tất cả những binh sĩ có mặt trong trướng, rồi mỉm cười.

- Ông thắc mắc hay lắm, nhưng nếu không phải là sứ giả của Tây Sơn phái đến thì tôi mạo hiểm giả danh và đặt ra chuyện đàm phán này để được lợi lộc gì? Nếu không phải là người của Tây Sơn, tôi chỉ có thể là người trong Nguyễn quân hay thường dân. Nếu đã là người trong Nguyễn quân, chẳng phải chuyện Tây Sơn và Hoà Nghĩa quân các ngài hợp tác sẽ gây bất lợi rất nhiều cho Nguyễn quân hay sao, đã là người của Nguyễn quân thì việc gì tôi phải gây thêm bất lợi cho mình. Còn nếu tôi là thường dân mạo danh thì tôi thu được lợi lộc gì khi lừa dối các ngài như thế? Thanh thế Tây Sơn thế nào, không cần nói, ai trong chúng ta cũng rõ, là một cô gái bình thường thì to gan mấy cũng không dám mạo danh sứ giả của họ để tự chuốc lấy hoạ diệt thân. Hơn nữa, như các ông đã thấy, trên tay tôi là lệnh bài cho Long Nhương tướng quân cấp, tôi tin rằng với hiểu biết sâu rộng của mình, các ông có thể nhận ra ngay chân tướng thật giả thế nào.

Còn chuyện tôi là nữ nhi, các ông quả thật còn có điều chưa rõ. Trên danh nghĩa đàm phán, tôi là sứ giả, nhưng trên danh nghĩa nội bộ, tôi là em vợ của Long Nhương tướng quân, là con gái của Bùi gia. Đối với ngài ấy, tôi là người thân trong nhà, cử người thân đến đàm phán với Hòa Nghĩa quân chứ không phải thuộc hạ dưới trướng, điều đó cho thấy tướng quân tôi rất coi trọng Hòa Nghĩa quân chứ không hề có ý coi thường như các ông đã nghĩ.

Những lời giải thích của Linh Lan khiến Trần Hưng và Lâm Húc nhìn nhau, sự chế giễu khi thấy sứ giả là một phụ nữ khi nãy liền biến mất. Lâm Húc khoanh hai tay vào nhau, hừ nhạt.

- Tướng quân của cô tự tin quá đấy, muốn hợp tác với Hòa Nghĩa quân mà đi tay không đến đây, bọn ta được lợi lộc gì khi hợp tác với các người chứ? Ta còn chưa quên Hòa Nghĩa quân và Tây Sơn từng là kẻ thù của nhau, sao ta dám chắc ông ấy sẽ không lấy cái cớ hợp tác, đợi chúng ta đến để một mẻ hốt gọn? Hơn nữa, nếu ngươi là người thân của ông ta, cử ngươi đến đây không sợ ta sẽ bắt ngươi làm con tin, gây bất lợi cho ông ta hay sao?

Nhìn thẳng vào mắt Lâm Hút không chút e dè, Linh Lan mỉm cười.

- Chuyện ông nghi hoặc là điều không thể xảy ra. Tôi đến được nơi các ông đóng doanh trại, tất nhiên tướng quân chúng tôi phải biết về nơi này, nếu đã có ý tiêu diệt các ông, vậy sao không nhân lúc các ông lơi lỏng phòng bị mà điều quân thần tốc đánh úp, bắt gọn hết một lượt. Như thế có phải nhanh hơn, gọn hơn không, việc gì tướng quân phải phái tôi đến, việc gì phải lấy cái cớ hợp tác với các ông, làm nhiều việc mất công đến thế. Hơn ai hết các ông phải hiểu vị trí của mình bây giờ là gì. Hòa Nghĩa quân và Tây Sơn tuy từng là kẻ thù của nhau, nhưng đó là khi các ông đầu quân cho Nguyễn Ánh. Mục tiêu lớn nhất của Tây Sơn luôn là truy quét Nguyễn quân, nay các ông đã phản Nguyễn Ánh, tất nhiên Nguyễn quân cũng trở thành kẻ thù của các ông như Tây Sơn của chúng tôi. Kẻ thù của kẻ thù, chẳng phải là bạn hay sao. Tính khí Nguyễn Ánh thế nào, hẳn các ông rõ hơn tôi, tách khỏi Nguyễn quân, lại biết quá nhiều về nội bộ Nguyễn quân, không lý nào anh ta lại bỏ qua cho các ông. Truy lùng và tiêu diệt các ông càng sớm càng tốt, đó là mục tiêu cấp thiết của Nguyễn quân lúc này để tránh hậu hoạ. Chuyến đi này, tôi mang đến cho các ông món quà quá lớn rồi còn gì.

Linh Lan dừng lại một lúc để theo dõi phản ứng của toàn bộ người trong trướng. Thấy vẻ chăm chú gần như bị thuyết phục của họ, nó khẽ mỉm cười hài lòng. Không đợi Lâm Húc cất tiếng hỏi, Linh Lan nói tiếp.

- Lời đề nghị hợp tác chính là sự đảm bảo an toàn tính mạng cho tình thế của các ông lúc này, đó chẳng phải là món lễ vật lớn mà tôi mang đến cho các ông hay sao. Nếu từ chối Tây Sơn, mặc nhiên các ông sẽ rơi vào thế lưỡng đầu thọ địch, tình thế nguy cấp vô cùng. Giữa tình thế này, mở ra cho các ông một con đường, hợp tác với chúng tôi, giảm bớt một mối nguy, thêm một đồng minh lớn, các ông sẽ có lợi thế trước Nguyễn quân, có thể trả được mối thù giết chủ tướng mà Nguyễn Ánh đã gây ra còn gì. Tướng quân chúng tôi không vì các ông đang gặp khó khăn mà trục lợi, đem quân vây đánh, lại còn cử tôi đến để đàm phán, hẳn các ông phải thấy rõ thiện ý của tướng quân chúng tôi chứ. Còn chuyện các ông bắt tôi làm con tin, tôi tin rằng điều này không thể xảy ra. Trên chiến trường không có thân nhân, nếu như các ông lợi dụng tôi để gây sức ép cho tướng quân, người sẽ không vì tình riêng mà chậm trễ việc lớn. Về phía bản thân, bị người khác lợi dụng để phục vụ cho mưu đồ của họ, đó là điều tôi căm ghét nhất, chẳng thà chết đi còn hơn để họ lợi dụng tôi mà đạt được mục đích riêng của mình. Nếu tôi chết đi, không có con tin trong tay, tướng quân càng thêm rảnh tay, đến lúc đó, tôi e là… Hai vị tướng gia, những gì tôi muốn nói đã nói hết, các vị hãy cân nhắc cho kỹ, lời nói đã thốt ra thì không rút lại được đâu.

Linh Lan nói hết, liền ngồi xuống ghế, hai tay khoanh lại để chờ quyết định của Trần Hưng và Lâm Húc. Thời gian chầm chậm trôi qua mà hai gã chủ soái vẫn chưa lên tiếng trả lời. Nhìn đôi mày thưa đang chau tít lại và những nếp nhăn đua nhau xếp trên vầng trán của chúng, Linh Lan biết những lời nó nói đã tác động đến chúng không ít, thành công hay không chính là lúc này. Nó đã giỡ hết các lý lẽ ra để thuyết phục, nó đã chỉ ra vị thế hiện thời của Hòa Nghĩa quân, phân tích cái lợi và thiệt hại mà chúng nhận được qua việc đồng ý hay từ chối lời đề nghị này. Chúng không còn con đường nào khác, nếu muốn bảo toàn tính mạng chúng phải hợp tác với Tây Sơn, ở đây không còn chuyện muốn hay không nữa mà chúng buộc phải thế. Linh Lan mím môi, chuyến đàm phán này nó phải thành công, không được thất bại, bản thân nó rất tự tin, giờ chỉ còn chờ nghe câu trả lời.

- Cô tên gì?

Đang chờ đợi câu trả lời từ hai gã đứng đầu, Linh Lan nhướng mày khi Lâm Húc chợt hỏi một câu không ăn nhập gì đến vấn đề, nhưng nó vẫn trả lời.

- Tôi là Linh Lan!

- Được, Linh Lan, những gì cô nói rất thuyết phục. Nhưng làm thế nào bọn ta có thể tin tưởng Tây Sơn các người không có ý gì bất lợi với bọn ta đây.

Câu nói của Lâm Húc khiến Linh Lan mỉm cười, xem ra chúng đã có quyết định, nhưng vẫn còn chút lo lắng. Nhìn thẳng vào mắt hai gã trước mặt, Linh Lan nói nhẹ nhàng.

- Thân phận của tôi chính là đảm bảo rõ ràng nhất cho thành ý của Tây Sơn trong cuộc gặp này. Nếu không có lòng tin và thành ý muốn hợp tác lớn đến thế, anh rể tôi sẽ không mạo hiểm tính mạng của tôi đâu. Mà nghĩ cũng lạ, câu này phải là câu tôi nên hỏi hai vị chủ soái mới đúng chứ. Các ông lấy gì đảm bảo để tôi tin các ông không trở mặt với chúng tôi đây?

Thấy Linh Lan đặt ngược câu hỏi, Trần Hưng nhíu mày.

- Cô không tin chúng ta?

- Tôi đã phải chứng minh rất nhiều thứ để thuyết phục các ông tin tôi, hy vọng các ông cũng làm tôi tin tưởng chứ, phải không?

Trần Hưng và Lâm Húc đưa mắt nhìn nhau, sau đó Lâm Húc gật đầu rồi thì thầm vài câu vào tai tên lính đứng bên cạnh. Chẳng biết Lâm Húc nói gì mà nét mặt tên lính lộ vẻ do dự, sau cũng ra khỏi trại khi nhìn thấy ánh mắt đanh lại của Trần Hưng.

Không biết Trần Hưng và Lâm Húc tính làm gì, Linh Lan đành ngồi đợi, nhưng nó không cần phải đợi lâu, dăm phút sau, tên lính đã quay trở lại, hắn không đi một mình mà còn có thêm một nam và một nữ bị áp giải theo sau. Trông thấy hai người ấy, Linh Lan nhướng mày lên, bởi nó không hiểu hai người này có liên quan gì đến chuyện mà nó vừa nói khi nãy. Bị tên lính áp giải đến trước mặt Trần Hưng và Lâm Húc nhưng hai người họ vẫn thản nhiên, chẳng tỏ vẻ sợ sệt, ngược lại còn nhìn thẳng vào mặt chúng, ánh mắt oán giận ấy khiến Trần Hưng nhếch mép. Hắn ta tuốt kiếm ra, Linh Lan chưa kịp kêu lên thì hai thân người đã đổ gục xuống, mềm nhũn, máu chảy lênh láng ướt đẫm cả sàn.

Trong giây phút đó, không hiểu sao nụ cười mỉa mai của Nguyễn Huệ chợt thoáng qua trong tâm trí Linh Lan. Nếu không được anh rèn luyện suốt mấy tháng qua thì nó khó có thể bình tĩnh đến thế khi nhìn những đôi mắt óan giận, vô hồn mở trừng trừng mà không nhắm lại cùng những thây người mềm oặt dưới kia. Nhẹ nhàng lau vết máu còn dính trên lưỡi kiếm, Trần Hưng nở nụ cười độc ác khi thấy Linh Lan nhìn mình, trong ánh mắt tỏ vẻ nghi hoặc vì không hiểu hành động ấy của Trần Hưng có ý nghĩa gì.

- Cô có biết hai người bọn chúng là ai không?

- Ai?

- Đó là công chúa Nguyễn Ngọc Chú, cô của Nguyễn Ánh và thuộc tướng Nguyễn Kim Phẩm của quân Nguyễn. Bọn ta đã bắt được họ khi họ vào Hà Tiên thu binh và mua lương thực. Giết họ, chứng tỏ bọn ta đã hoàn toàn cắt đứt với quân Nguyễn, không còn đường lui nữa, cũng không thể trở lại hàng ngũ Nguyễn quân nữa, bọn ta chỉ có thể hợp tác với Tây Sơn mà thôi. Thế nào, nhiêu đó đã đủ để cô tin tưởng chưa?

Trần Hưng nói tuy không to, nhưng đối với Linh Lan lại chẳng khác nào tiếng chuông đánh ngang tai. Nhìn trân trân vào hai xác chết không hồn, tiếng cười của Trần Hưng, Linh Lan không vô cùng khó chịu. Chỉ vì đạt được mục đích của mình mà lấy mạng người không hề do dự, bọn Hòa Nghĩa quân này quá tàn bạo và hiếu sát, hợp tác với chúng, liệu Tây Sơn sẽ như thế nào, ước muốn thiên hạ trở thành người một nhà của Văn Bình ra sao khi trong trướng lại có những kẻ bạo sát như thế. Linh Lan ngán ngẩm thở dài, nó nhớ đến sự gương mặt oán hờn của hai người khi nãy mà lại càng lo lắng cho Tây Sơn nhiều hơn. Nhưng bây giờ có lo cũng vô ích, liên minh đã được thiết lập, đôi bên cũng đã thỏa thuận, muốn rút cũng không được. Thôi thì nó chỉ hy vọng Nguyễn Huệ có thể trấn áp được đám hiếu sát này, và kế hoạch của nó được thành công mà thôi.

-------------------------------
Chú thích:
(*) Tất cả những đoạn in nghiêng đều lấy từ bài hát Thái Bình dương đau thương của Nhậm Hiền Tề.



★ Chương 118

Sau khi liên minh giữa Tây Sơn và Hòa Nghĩa quân được thiết lập, Linh Lan lập tức cáo từ Trần Hưng và Lâm Húc với lý do phải nhanh chóng quay trở về báo tin cho Long Nhương tướng quân biết. Tuy ngoài mặt vẫn nói cười như không có gì xảy ra, thế nhưng sau vụ Trần Hưng xuống tay hạ sát công chúa Ngọc Chú và Nguyễn Kim Phẩm không chớp mắt, trong bụng nó lại ngán ngẩm vì tính bạo sát của quân Hòa Nghĩa này. Rời khỏi đây càng sớm càng tốt, nếu nán lại thêm giây phút nào nữa thì Linh Lan sẽ cảm thấy khó chịu vô cùng.

- Linh Lan tiểu thư, cho chúng tôi gỏi lời thăm hỏi đến Long Nhương tướng quân, hy vọng qua lần hợp tác này, đôi bên sẽ kết mối giao hảo tốt, hiềm khích khi xưa giữa Tây Sơn với Hòa Nghĩa sẽ được cởi bỏ và trở thành bạn tốt của nhau.

Tiễn Linh Lan và Bùi Định ra khỏi doanh trại, Trần Hưng lên tiếng, hắn còn tặng cho Linh Lan hai con ngựa đi đường để tỏ lòng thành. Trước món quà ấy, Linh Lan không tiện từ chối, nó mỉm cười cám ơn theo phép lịch sự rồi nhanh chóng cùng Bùi Định theo con đường nhỏ dẫn đến bến thuyền để trở về Gia Định. Thả ngựa đi dọc theo lối mòn đầy hoa cỏ may, Linh Lan ngắm bầu trời xanh trên cao, lòng thở phào nhẹ nhõm khi chuyến đi đã thành công ngoài mong đợi. Với kết quả này, có lẽ Nguyễn Huệ sẽ thôi xem thường nó, có cái nhìn khác về nó và tôn trọng nó nhiều hơn bây giờ.

Linh Lan mỉm cười vu vơ, tuy những mối lo ngổn ngang vẫn còn đó, nhưng tâm trạng của nó hiện đã khá hơn nhiều. Mấy tháng miệt mài luyện tập, không phủ nhận nó đã tiến bộ nhiều cả về mặt võ nghệ và cách đối diện vấn đề khó khăn. Lúc thuyết phục Hòa Nghĩa quân, Linh Lan cũng không nghĩ rằng mình có thể ăn nói hùng hồn đến thế. Nhớ đến ánh mắt tỏ ra bối rối của Trần Hưng và Lâm Húc khi thuyết phục được chúng sứ giả là một phụ nữ, Linh Lan không khỏi phì cười, dù sao có được thành quả này thì công lao đầu tiên kể đến phải là Nguyễn Huệ. Nếu bình tâm rạch ròi, nếu không nghĩ anh đáng ghét, nếu không để tình cảm cá nhân xen vào, thì nó còn phải mang ơn anh rất nhiều.

Nói cho cùng thì có vẻ như Nguyễn Huệ nghiêm túc thực hiện yêu cầu của nó chứ không phải cố tình gây khó dễ để tìm cách chế giễu như nó đã nghĩ trước đây. Ngẫm lại ngày đó, khi yêu cầu Nguyễn Huệ tập cho mình làm quen với mùi máu, anh có thể thấy phiền phức mà từ chối, hoặc có thể nhận lời rồi để nó sống chết mặc bay chứ không phải dành thời gian nghĩ ra đủ thứ bài tập để bắt nó thực hành như thế. Tuy những bài tập đó vô cùng nặng nhọc khó khăn, nhưng quy lại đều nhằm khắc phục điểm yếu và phát huy tối đa điểm mạnh của nó, chứng tỏ Nguyễn Huệ nghiêm túc hoàn toàn trong chuyện huấn luyện theo yêu cầu này.

Nhiệm vụ liên minh giữa Tây Sơn và Hòa Nghĩa theo Linh Lan là rất quan trọng, vậy mà Nguyễn Huệ đã không chỉ định ai khác mà giao cho nó – một cô gái mới chập chững gia nhập Tây Sơn không lâu. Linh Lan nghĩ, nghĩ mãi nhưng vẫn không hiểu Nguyễn Huệ đang suy nghĩ những gì. Là anh muốn phá hoại Tây Sơn khi mối liên kết thất bại, hay muốn Tây Sơn bớt một đối thủ khi liên minh được thành lập? Là anh nhận lời nó, rèn luyện nó, tin tưởng phát huy năng lực của nó hay muốn xem nó vất vả khổ cực và cố tình giao nhiệm vụ khó khăn để đẩy nó vào chỗ chết? Tất cả những điều đó Linh Lan tự hỏi, rất nhiều lần, nhưng người có thể trả lời các câu hỏi ấy chỉ có Nguyễn Huệ. Sự thật thế nào chỉ có anh mới biết, và có lẽ những thắc mắc ấy mãi là một bí mật, không thể sáng tỏ trong một sớm một chiều.

Đang mải mê suy nghĩ, Linh Lan hơi ngạc nhiên khi Bùi Định bất chợt cho ngựa đi chậm lại, đôi mày rậm dính sát vào nhau, từng nếp nhăn xếp trên vầng trán, nét mặt anh tỏ ra căng thẳng, đôi tai vểnh lên nghe ngóng khiến Linh Lan nghi hoặc. Thúc ngựa tiến đến cạnh Bùi Định, Linh Lan khẽ hỏi, mắt dõi theo hướng Bùi Định nhìn, nhưng lại chẳng thấy gì ngoài rừng cây xanh rì rào.

- Bùi Định, anh đã thấy gì sao?

Linh Lan hỏi, nhưng Bùi Định không trả lời, anh ta vẫn nhìn đăm đăm về phía trước, biểu hiện ấy khiến trực giác của Linh Lan mách bảo rằng sẽ có chuyện không lành sắp xảy ra. Vẫn cho ngựa đi thong thả, nhưng Linh Lan bí mật quan sát xung quanh, đôi mày liễu nhíu lại tập trung nghe ngóng, liền ngay sau đó nó đã nhận ra rằng có một mối đe dọa đang rình rập xung quanh mình.

Rừng cây vẫn lao xao trong gió, nhưng không nghe thấy tiếng chim chóc ríu rít, lẫn trong mùi hương của cây cỏ do gió đưa tới còn có mùi khác lạ, lùm cây xum xuê thoáng rung rinh, tất cả những chuyển biến nhỏ nhặt đó khiến Linh Lan biến sắc. Xung quanh đang có mai phục! Không xong rồi, đây đang là đồng cỏ bằng phẳng, không có chỗ để ấn náu, nó và Bùi Định hoàn toàn ở thế bị động, phải nhanh chóng thoát ra khỏi chỗ này thôi.

Suy nghĩ vừa thoáng qua trong đầu, Linh Lan đã hành động ngay, nó giật mạnh dây cương, khiến con tuấn mã đang bước thong thả liền chồm lên và lao nhanh về phía trước, rừng cây lay động, bóng người thấp thoáng di chuyển, con tuấn mã của Linh Lan đang phi nước đại liền hí lộng lên khi có ba bóng người phóng ra cản đường. Trong phút chốc, cánh đồng bao trùm tử khí, Linh Lan bị quây tròn vào giữa, những thanh gươm sắc bén chĩa về phía nó quyết không chừa lối thoát nào.

Lướt mắt nhìn những gương mặt lạnh lùng không biểu cảm của đám người đang ở trước mặt, ý nghĩ Hòa Nghĩa quân trở mặt, cử người ám sát vừa thoáng qua liền tan biến ngay. Sau khi nghe nó phân tích thiệt hơn, chắc chắn Hòa Nghĩa quân sẽ không hành động để gây bất lợi cho chính họ như thế này. Vả lại, cho dù là có đi chăng nữa, sao họ không bao vây và giết nó ngay trong quân doanh, việc gì phải cử một toán người theo sau mai phục. Giả thiết họ không muốn cái chết của nó liên quan đến mình, tránh bị Tây Sơn trả thù cũng không thỏa đáng, vì đây vẫn còn là địa phận của họ, nó chết ở đây hay chết trong quân doanh không khác gì nhau. Như vậy tổng kết lại, đám sát thủ này chắc chắn chỉ có thể là quân Nguyễn mà thôi.

Nếu như Tây Sơn biết Hòa Nghĩa quân và Nguyễn quân bất hòa, thì việc Nguyễn Huệ cử sứ giả đến liên lạc với Hòa Nghĩa tất quân Nguyễn cũng sẽ biết. Nếu nó chết đi, không cần biết ai là thủ phạm thật sự nhưng chắc chắn trước mắt, mọi nghi vấn sẽ dồn về phía Hòa Nghĩa quân vì chúng đã từng phản bội Tây Sơn trong quá khứ, hơn nữa, nó lại chết trong địa phận của chúng. Một khi hiềm nghi xảy ra, bất hòa nảy sinh thì khối liên minh sẽ bị phá vỡ, Tây Sơn và Hòa Nghĩa sẽ đối đầu với nhau. Nghêu sò tranh nhau ngư ông đắc lợi, Nguyễn quân ám sát nó lại chỉ là một toán nhỏ gồm ba người, mục đích hẳn là nhằm che chắn tai mắt. Nếu đi quá đông, chắc chắn sẽ gây động đến Hòa Nghĩa quân, khó tránh xảy ra đụng độ và khiến Tây Sơn hiềm nghi về cái chết của nó do có sự xuất hiện của Nguyễn quân ở gần đó. Đi chỉ ba người vậy nên chắc toàn cao thủ, nếu vụ ám sát thành công, Hòa Nghĩa quân không thể thanh minh trước Tây Sơn. Kế hoạch thông minh, tính toán hoàn hảo, đúng là một chủ ý chu toàn, chắc hẳn, chủ nhân của kế hoạch này là Nguyễn Ánh rồi.

Linh Lan mím môi, trong thế lưỡng đầu thọ định này, kết quả luyện tập suốt mấy tháng qua của nó chắc chắn sẽ có đất dụng võ. Thế nhưng điều nó lo nhất không phải là địch đông ta ít, mà là Bùi Định bên cạnh không hề biết võ. Một mình nó thì còn có hy vọng, nhưng vừa đánh vừa bảo vệ thêm một người, liệu nó có đủ sức để thể đưa cả hai sống sót quay trở về hay không?

Linh Lan lo lắng, nhìn Bùi Định phía sau bị quân Nguyễn ép sát, lòng nó lại càng hoang mang hơn. Nhất định phải trở về được, Linh Lan tự nhủ, nhất định nó và Bùi Định phải trở về được, hoặc nếu trong trường hợp nguy kịch, ít nhất phải giữ cho một trong hai người có con đường thoát, có như thế, âm mưu của quân Nguyễn mới bại lộ, sự hợp tác giữa Tây Sơn và Hòa Nghĩa mới được đảm bảo. Nhưng đến nước đó thì Linh Lan quả thật không muốn chút nào, nó phải cố gắng, cố gắng đưa được cả hai trở về.

Trong khi Linh Lan còn đang suy nghĩ thì Nguyễn quân đã hành động, cả bọn vung kiếm xông lên, nhằm người nó chém xuống. Vội chụp lấy Bùi Định ném ra khỏi vòng sát thương, Linh Lan nhanh nhẹn lấy chiếc bọc đeo trên vai để che chắn khỏi những đường kiếm của quân Nguyễn, tay còn lại rút nhanh thanh trường kiếm giắt ở thắt lưng để trả đòn. Giữa những tiếng binh đao chạm nhau chát chúa, hai con tuấn mã hoảng sợ bỏ chạy, để mình Linh Lan trơ trọi giữa cánh đồng trong vòng vây mai phục của kẻ thù

Khi đối phó với quân địch, càng tỏ ra hoảng loạn thì càng lộ nhiều sơ hở. Dù địch đông, ta ít, nhưng nếu bình tĩnh phán đoán thì vẫn có thể tìm ra một lối thoát cấp kỳ.

Linh Lan lẩm bẩm, ngay bây giờ nó cần phải trấn áp trái tim đang đập thình thịch của mình. Bài tập với những thanh kiếm gỗ treo lơ lửng trên cây đã phát huy tác dụng, Linh Lan có thể phán đoán được hướng tấn công của địch, cũng như lắng nghe và né tránh được những đường kiếm tập kích phía sau lưng. Bên cạnh nó, Bùi Định tỏ ra khá lúng túng, anh nhanh nhẹn né tránh nhưng lại không biết phản đòn, phải liên tục lùi lại, hoặc đứng sau lưng Linh Lan để không bị quân Nguyễn dồn vào thế bí. Giữa lòng địch, chiến đấu một mình đã khó, nay Linh Lan vừa tấn công vừa tập trung bảo vệ Bùi Định, quả thật tiêu hao quá nhiều sinh lực khi phải lo cho cả hai phía như thế này.

Nếu ta không giết người thì người sẽ giết ta.

Linh Lan biết rât rõ điều ấy, biết rất rõ, nhưng mỗi khi lưỡi kiếm của nó điểm vào những nơi yếu hiểm trên người quân Nguyễn, ánh mắt nó lại hốt hoảng, tay chệch về một bên để tránh khỏi phải giết người. Nó nhân từ với địch, nhưng kẻ địch thì không nhân từ với nó. Linh Lan càng nhượng bộ, chúng càng lăn xả vào mà không cần biết nó lúng túng như thế nào khi cố gắng không phải sát sinh. Chính vì vừa đánh vừa lui, lại còn phải lo cho Bùi Định, chẳng mấy chốc Linh Lan đã bắt đầu thở dốc, còn quân Nguyễn kẻ bị thương ở chân người ở tay, nhưng tất cả chỉ là thương tích phần mềm, chúng vẫn nhanh chóng xông lên, quyết giết cho bằng được nó mới thôi.

“Cô là một con bé vừa sĩ diện hão, lại vừa cố chứng tỏ bản thân mình, nhưng kết quả lại chẳng ra gì.”

Trong giây phút đó, ánh mắt tối thẫm của Nguyễn Huệ, cùng lời nói đanh thép của anh chợt hiện lên trong đầu óc rối ren của nó. Nó không muốn giết người, nhưng tại sao họ lại ép nó, tại sao không cho nó một con đường thoát mà cứ phải dồn nó vào chân tường, tại sao?

Chính vì nương tay mà không nỡ sát thương, Linh Lan đã tự làm khó mình, buộc lòng phải thoái lui giữa những đợt tấn công vũ bão của quân Nguyễn. Vai nó mỏi nhừ, bước chân đã bắt đầu loạng choạng, những giọt mồ hôi thay nhau rơi vào mắt làm cảnh vật nhạt nhòa, những bóng người phía trước mờ ảo. Nhận ra những đường kiếm của Linh Lan đã bắt đầu kém linh hoạt, hai tên lính lập tức dòn ép, nghiến răng xả kiếm vào lưng nó. Đường kiếm thứ nhất nó có thể tránh được, nhưng lại không thể thoát được đường kiếm thứ hai. Vai trái của nó thốn lên, máu bắt đầu thấm ra. Nhân lúc nó còn chưa hoàn hồn, quân Nguyễn tràn lên, xiết chặt vòng vây và những lưỡi kiếm nhắm về phía nó, lia dài.

Thôi thế là hết…
Chấm dứt rồi.

Linh Lan mở to mắt nhìn những gương mặt hung hãn khi xả kiếm vào người nó. Quả là đáng mà, ta không giết người thì người giết ta. Nó đã hiểu quy luật khốc liệt ấy trong thời loạn mà vẫn muốn chối bỏ, bây giờ hậu quả nó tự gánh lấy, lòng nhân từ đặt không đúng chỗ chẳng khác nào tự đào mồ chôn bản thân mình, đó chẳng phải là điều Nguyễn Huệ đã từng nói với nó hay sao.

- Cô Lan! Cẩn thận!

Giữa phút nguy hiểm cận kề với cái chết, tiếng kêu thất thanh của Bùi Định vang lên, một bóng người lao vào, che chắn nó khỏi những nhát kiếm chí mạng, đó không ai khác chính là Bùi Định. Gương mặt anh vốn đã xanh nay lại xanh xao hơn, hai hàm răng nghiến chặt, máu từ cánh tay tuôn ra, nhỏ giọt xuống mặt đường.

- Bùi Định!!

Những tưởng đã cầm chắc cái chết trong tay, Linh Lan thất kinh khi Bùi Định lấy thân mình che chở cho nó, thanh trường kiếm trong tay nó lập tức vung lên như ánh chớp khiến quân Nguyễn lùi lại. Một tay giữ lấy Bùi Định, tay còn lại nâng thanh kiếm trước ngực thủ thế, ánh mắt lạnh lẽo của Linh Lan, cùng với sự oán giận tỏa ra từ người nó khiến quân Nguyễn nhất thời chưa tiến lại gần. Nếu không nhờ Bùi Định, chắc chắn nó đã mất mạng, nhưng chuyện đó có ích gì khi tính mạng của cả hai sẽ khó bảo toàn trong tình thế này.

- Cô Lan, nghe đây! Cô chạy đi, tôi sẽ cầm chân bọn chúng lại cho.

Đứng bên cạnh Linh Lan, tay ghì chặt vết thương của mình, ngăn cho máu ngừng chảy, vầng trán Bùi Định ướt đẫm mồ hôi, nhưng giọng anh kiên quyết rạch ròi. Vung kiếm lên đỡ khi một tên lính bất thần tấn công, Linh Lan nói lẫn trong hơi thở.

- Không được, ban nãy tôi còn nợ anh một mạng, tôi không thể bỏ anh ở lại đây được.

- Cô nghe đây, tôi chỉ là một người dẫn đường bình thường, xa lạ, chưa vợ, chưa con, có chết cũng không mất mát gì. Nhưng còn cô thì khác, cô là người tướng quân giao trọng trách, tướng quân đang chờ cô mang tin trở về, nếu như chúng ta cùng chết, chẳng phải đã giúp bọn chúng đạt được ý đồ hay sao. Những gì cô đã làm sẽ trở nên vô nghĩa, cái chết của chúng ta là phí hoài và sự kỳ vọng của tướng quân sẽ không được đền đáp. Nghe lời tôi, mau đi đi. Kẻ như tôi chết đi, nhưng nếu như cô có thể trở về thì chẳng phải sự hy sinh của tôi sẽ không phải là vô nghĩa hay sao.

Bùi Định quát lớn. Sự rụt rè, hiền lành biến đâu mất, ánh mắt anh nhìn xoáy vào Linh Lan khiến nó sững sờ. Không để Linh Lan đáp lời, Bùi Định nhanh chóng giật phắt thanh kiếm trên tay một tên lính đang nằm bất tỉnh dưới đất, anh hét to một tiếng rồi lao vào quân Nguyễn tả xung hữu đột trước sự kinh ngạc nhuốm lẫn lo âu của Linh Lan.

- Còn chần chờ gì nữa, mau đi đi!!

Tuy Bùi Định không biết võ, nhưng anh lại vung kiếm lao thẳng vào vòng vây, chém lung tung, chẳng khác nào con thiêu thân liều chết, khiến quân Nguyễn nhất thời không thể xông về phía Linh Lan. Anh lớn tiếng thúc giục nó, âm thanh lồng lộng ấy khiến Linh Lan bừng tỉnh, bàn tay nó run rẩy, ánh mắt mờ lệ, đôi môi đào mím chặt rồi quay người chạy vụt đi. Linh Lan chạy, cố sức chạy, bước chân nó như chắp cánh. Nó phải chạy, nhất định nó phải thoát khỏi quân Nguyễn, phải sống sót trở về thì hy sinh của Bùi Định mới không trở nên vô nghĩa. Nguyễn huệ đang chờ, Tây Sơn đang chờ. Bản thân nó lúc này thầm cầu mong phép màu xảy ra giúp Bùi Định được bình yên quay về, dù rằng tia hy vọng ấy vô cùng mỏng manh. Rừng cây xôn xao trong gió, tiếng binh khí dội vào tai nó, tiếng la hét vang vọng khiến đôi mắt nó mở to, nhìn trừng trừng về phía trước, trái tim chua xót nghẹn ngào.

Ta không giết người thì người giết ta.
Tất cả chỉ là như thế thôi sao!!!

oOo

Còn lại một mình giữa trận chiến, thanh kiếm trong tay Bùi Định vung loạn xạ, bộ pháp hỗn loạn khó đoán, khiến quân Nguyễn thận trọng không dám xông vào, nhất là khi trước mặt họ là một kẻ liểu mạng không hề sợ chết thế này. Chờ cho bóng dáng Linh Lan lên ngựa, khuất hẳn phía chân trời, đột nhiên, Bùi Định dừng tay, đứng thẳng lên dõi mắt về hướng mà Linh Lan vừa khuất. Anh khẽ thở phào nhẹ nhõm vì cuối cùng thì cô bé ngang ngạng ương bướng kia cũng chịu nghe lời mình.

Trở lại với ba tên lính Nguyễn đang nhìn mình bằng ánh mắt như muốn băm vằm kẻ phá đám, Bùi Định thoáng mỉm cười.

Tốt rồi, giờ thì đã có thể rảnh tay thực hiện nhiệm vụ của mình.

Thanh kiếm trong tay anh lại vung lên, nhưng lần này, đó không còn là những đường kiếm lung tung loạn xạ nữa…


oOo

Vừa mới trở về lán, Lê Văn Duyệt không kịp nghỉ ngơi sau mà đã vội tìm đến chúa công của ông ngay. Theo lời chúa công căn dặn, quân được chia thành hai đạo, một đạo xuống Hà Tiên truy sát sứ giả Tây Sơn, đạo còn lại theo chúa công thu phục Vinhlyma, tên tướng Xiêm chiếm cứ đảo Cổ Long sau loạn Phi-nhã Oan-sản. Tin tức từ đạo thứ nhất đã có, nhưng còn kết quả của chúa công thế nào thì ông vẫn chưa rõ nên phải tức tốc đến gặp ngay sau khi chúa công trở về.

Dường như biết Lê Văn Duyệt sẽ đến, thế nên Nguyễn Ánh đã ngồi đợi từ bao giờ. Trông thấy sự nôn nóng trên nét mặt Lê Văn Duyệt khi vừa bước vào, Nguyễn Ánh mỉm cười. Trông thấy chúa công dường như không phải trải qua cuộc giao chiến nào mà lại còn rất hài lòng, Lê Văn Duyệt không giấu được tiếng thở phào.

- Vinhlyma đã đưa quân thuần phục quân Nguyễn, ngươi không cần phải lo.

Không để Lê Văn Duyệt hỏi, Nguyễn Ánh đã lên tiếng trước, anh lướt mắt nhìn đội quân của Vinhlyma đang làm quen với các thuộc tướng bên ngoài, bờ môi thanh tú nhếch lên, những ngón tay gõ nhịp nhàng trên mặt ghế, không biết đang suy nghĩ những gì. Dù rất thắc mắc chúa công ông đã làm thế nào để thu phục được đám cướp biển ngang tàng, hung hãn đó, nhưng Lê Văn Duyệt không hỏi, đơn giản là ông có một mối lo lắng khác lớn hơn nhiều.

- Chúa công, Vinhlyma cát cứ ở khu vực này đã lâu, rất thông thạo địa hình, thu phục được chúng quả thật rất có lợi cho chúng ta. Hiện thời tin tức của đạo quân thứ nhất cũng đã được được đưa về, chỉ là, tin không được tốt lắm.

Ngập ngừng giây lát vì không biết phải bắt đầu từ đâu, cuối cùng Lê Văn Duyệt đành nói thật hết mọi việc.

- Công chúa Ngọc Chú và Nguyễn Kim Phẩm đã bị bọn phản nghịch Hòa Nghĩa bắt khi đến Hà Tiên mua lương thực và trưng quân. Hôm nay, để tỏ lòng hợp tác với Tây Sơn, hai người họ đã bị bọn chúng mang ra giết chết rồi.

Lê Văn Duyệt vừa nói vừa quan sát phản ứng của Nguyễn Ánh. Khi ông báo cáo xong, đôi mắt trong suốt ấy vẫn không thay đổi, những ngón tay của Nguyễn Ánh gõ trên mặt ghế đá ngày một nhanh dần, nhanh dần, đến cuối thì tạo thành một thứ âm thanh cao vút, rồi đột ngột ngưng bặt. Bầu không khí chợt im lặng, chỉ có tiếng gió thổi vi vu và tiếng sóng biển ngoài khơi rì rầm.

Lâu thật lâu mà vẫn không thấy Nguyễn Ánh lên tiếng, Lê Văn Duyệt đâm lúng túng, ông không biết nên báo cáo tiếp, hay rút lui để nhường lại không gian riêng tư lại cho chúa công mình. Đang trong lúc phân vân, Lê Văn Duyệt ngẩng đầu lên khi giọng nói trầm ấm của Nguyễn Ánh cất lên, không vui cùng không buồn, mà nhẹ tênh.

- Còn gì nữa?

- Bẩm chúa công, sát thủ mà chúng ta bố trí mai phục đã để cho sứ giả của Tây Sơn trốn thoát. Tất cả bọn họ đều đã bị giết chết rồi. Và, theo như những gì trinh sát của chúng ta thu thập được, thì…

Nói đến đây, Lê Văn Duyệt ngưng lại, ông nhìn sâu vào mắt Nguyễn Ánh, như để tìm kiếm một điều gì đó bên trong chúa công mình, lâu thật lâu rồi mới tiếp lời.

- Sứ giả mà Tây Sơn phái đi chính là cô gái đã ở bên cạnh người trong thời gian trước, Linh Lan.

Lê Văn Duyệt vừa dứt lời, Nguyễn Ánh đột ngột ngẩng phắt đầu lên nhìn ông, sự bình thản trong đôi mắt nâu ấy biến mất, thay vào đó là những con sóng đang kéo qua. Quả nhiên là như thế, mỗi khi nhắc đến cô gái ấy, nét mặt của chúa công ông liền thay đổi, không còn kiêu ngạo, không còn tự tin, mà là những nét chua xót ẩn hiện trong đôi mắt nâu, sự ưu phiền trên đôi mày kiếm đang nhíu lại, và cả sự tức giận trên đôi bàn tay đang nắm chặt, nổi rõ những đường gân xanh.

Cô gái ấy ảnh hưởng đến chúa công nhiều đến thế sao…

- Chúa công, thuộc hạ to gan muốn hỏi, nếu biết trước sứ giả Tây Sơn là cô ta, người có sai binh tướng truy sát không?

Dù đã nghe Lê Văn Duyệt hỏi, nhưng Nguyễn Ánh chỉ nhìn ra biển khơi mênh mông mà không trả lời. Sứ giả của Tây Sơn là Linh Lan, thuộc tướng của anh không thể giết được mà đã để cô ta chạy thoát, bất giác, Nguyễn Ánh nhếch môi cười. Tâm trạng anh bây giờ đang xáo trộn, và anh cũng không nghĩ rằng tâm tư mình lại dao động nhiều như thế. Từ khi Linh Lan ra đi, anh đã tự căn dặn bản thân rằng không được nhớ đến nó, không được nghĩ đến nó, không để nó khiến lòng anh mềm yếu, thế nhưng tình cảm lại bất tuân lý trí. Ban ngày anh có thể không nhớ đến, nhưng khi đêm về, anh đều nhìn thấy nụ cười đó, mơ thấy bóng dáng đó, tìm kiếm đôi mắt đen láy đó trên cánh đồng bông lau trắng ngập trời.

Những giấc mơ không lời ấy khiến Nguyễn Ánh vô cùng khó chịu, nhưng dù khó chịu và tức giận vì sự bất tuân đó, sâu thẳm trong anh lại là một sự dịu êm nhẹ nhàng. Với Linh Lan, anh nửa muốn nhìn thấy, nửa lại không, nửa không muốn nghe đến, nhưng đồng thời lại chờ đợi một hy vọng xa xôi sẽ nghe ai đó nhắc đến tên người con gái ấy, dù rất mơ hồ. Từ khi nào anh yếu mềm đến thế, từ bao giờ anh đã không còn hiểu được bản thân anh nghĩ gì? Thậm chí lúc này, anh thấy mình thật xa lạ, tâm tư khắc khoải rối bời. Rốt cục là từ khi nào, anh lại mềm yếu đến thế?

Khi nghe tin sứ giả Tây Sơn là Linh Lan, sâu trong anh là sự phẫn nộ và chua xót. Thì ra cô ta đã rời anh lại để quay trở về với hắn, thì ra cô ta chưa bao giờ thôi nhớ về hắn, như anh chưa bao giờ thôi nhớ về cô ta.

- Nếu biết trước, ta vẫn sẽ truy sát cô ta. Ta không muốn cô ta sống.

Lâu thật lâu, Nguyễn Ánh mới trả lời, giọng lạnh lẽo, khiến Lê Văn Duyệt bỗng nhiên toát mồ hôi. Đôi mắt ấy đang nổi giông tố, ông biết, chỉ khi nào nhắc đến cô gái ấy, chúa công của ông mới để lộ cảm xúc của bản thân ra ngoài mà thôi. Lê Văn Duyệt thở dài, ông truyền người thắp thêm lửa để sưởi ấm cho gian phòng của Nguyễn Ánh, rồi lặng lẽ lui ra ngoài, để lại chúa công trong căn phòng tối cùng với thế giới riêng tư của mình.

Còn lại một mình trong phòng, Nguyễn Ánh vẫn nhìn ra ngoài mặt biển, ánh lửa bập bùng nhảy múa trong đôi mắt anh, khi rực rỡ, khi lụi tàn. Hoàng cô Ngọc Chú đã mất, Nguyễn Kim Phẩm cũng không còn, người trong gia tộc lần lượt rời xa anh, tất cả đều đã chết trận. Hôm nay là Hoàng cô Ngọc Chú, rồi mai đây, người kế tiếp sẽ là ai, anh có thể dự đoán mọi chuyện, nhưng chỉ riêng chuyện sinh tử thì nằm ngoài tầm tay. Xương máu của gia tộc đổ xuống trên con đường anh đi, họ hy sinh để anh được sống, anh không thể hối hận, tuyệt đối không hối hận, dù chỉ còn lại một mình anh vẫn phải tiếp tục tiến về phía trước, không quay đầu lại, không vướng bận bất cứ một ai để có thể hoàn thành trọng trách mà cả gia tộc đã đặt lên vai mình.

Biển đêm miên man, sóng vỗ muôn trùng, gió thổi xào xạc trên mái lá, nghe như tiếng thở dài lặng lẽ của ai đó khi nhớ về đất liền xa xôi…



★ Chương 119

Linh Lan nằm dài trong phòng, đầu trùm kín chăn theo thói quen mỗi khi có chuyện gì đó làm nó tức giận, vết thương được băng bó cẩn thận trên tay không làm nó đau bằng vết thương trong lòng. Níu chặt lấy tấm chăn, Linh Lan nhìn trừng trừng vào khoảng tối, lòng vẫn không sao quên được những gì Nguyễn Huệ đã nói khi nó trở về gặp anh.

Sau khi chạy thoát được mai phục của quân Nguyễn, về tới doanh trại Tây Sơn, còn không kịp sơ cứu vết thương trên vai, Linh Lan nhanh chóng tìm gặp Nguyễn Huệ ngay để báo kết quả. Trước ánh mắt xót xa của nó khi báo tin Bùi Định đã không thể thoát khỏi mai phục, Nguyễn Huệ vẫn thản nhiên xem xét bản vẽ tàu thuyền mà không nói năng hay ừ hử gì, điều đó khiến Linh Lan rất tức giận. Nó bị thương không kể đến, nhưng việc Bùi Định có lẽ đã hy sinh khi cố bảo vệ nó chẳng mảy may có tác động gì đến Nguyễn Huệ hay sao.

- Anh có nghe tôi nói gì không vậy?

Linh Lan bực mình sẵn giọng, nó rất ghét việc trong khi mình đang nói thì đối phương lại tỏ ra lơ là như thế. Trước sự tức giận của nó, Nguyễn Huệ không buồn ngẩng đầu lên, anh nói, nhưng cây bút lông trong tay vẫn đánh vào những chỗ cần chỉnh sửa của con thuyền.

- Hợp tác thành công, cô bị mai phục, Bùi Định chết thay cô, phải không?

- Đúng thế! Bùi Định đã chết, anh ta bị quân Nguyễn hại chết khi muốn giúp tôi chạy thoát, Bùi Định là người anh đưa đến, chẳng lẽ điều đó chẳng khiến anh có chút thương xót nào sao?

Cây bút lông trong tay Nguyễn Huệ dừng lại, anh chậm rãi ngẩng đầu lên nhìn nó, ánh mắt đen thẫm như đáy vực sâu. Nguyễn Huệ nói, giọng bình thản lạ lùng.

- Nực cười, đến bây giờ mà cô vẫn cố trốn tránh trách nhiệm của mình trong cái chết của Bùi Định và đổ lỗi hoàn toàn cho lũ phục binh kia sao?

- Cái gì?

- Bùi Định chết không phải do bị phục binh sát hại, mà chính cô đã hại chết anh ta.

Nguyễn Huệ nói vừa đủ để Linh Lan nghe thấy, nhưng lại khiến nó nhíu mày vì nhất thời chưa hiểu anh muốn nói gì. Phải mất một lúc, những câu chữ mới thấm vào đầu nó, khiến nó nửa tức giận, nửa ngơ ngác khi Nguyễn Huệ quy tội nó hại chết Bùi Định. Công lao của nó còn chưa kể đến, ấy thế mà anh lại kết tội nó sao?

- Người hại chết Bùi Định không phải tôi. Anh đừng kết tội lung tung.

- Còn không phải? Bọn phục binh kia tuy giỏi, nhưng chẳng phải cô vẫn có thể cầm cự cùng chúng một lúc lâu hay sao, như vậy chứng tỏ cô thừa sức đối phó, ấy vậy mà cô lại nhân từ nương tay với chúng. Nếu cô hạ bọn chúng, cô sẽ không bị thương, Bùi Định cũng không phải liều chết cầm chân chúng cho cô chạy trốn, đó không phải là lỗi của cô, chẳng lẽ là của Bùi Định? Vậy ta nói chính cô đã hại chết anh ta thì không có cơ sở chỗ nào?

Trước nét mặt sững sờ của Linh Lan, Nguyễn Huệ cười nhạt, anh lại tiếp tục xem xét bản vẽ tàu thuyền, để mặc nó đứng như trời trồng giữa phòng.

Nếu không phải vì cô nương tay với chúng, Bùi Định sẽ không hy sinh oan uổng.

Có thật thế không, Bùi Định, có thật là như thế không? Linh Lan đau đớn ôm đầu, từng giây phút trải qua trên cánh đồng tái hiện trong tâm trí nó như một cuộn phim quay chậm. Sự hung hãn của quân Nguyễn, sự lúng túng của nó mỗi khi lưỡi kiếm trong tay điểm vào yếu huyệt trên người chúng, gương mặt xanh xao của Bùi Định, hình ảnh anh như con thiêu thân lao vào kẻ thù để giữ chân chúng cho nó có thêm thời gian chạy thoát. Tiếng gió ào ào bên tai, mùi máu cô quyện trong không khí, tất cả những hình ảnh đó ngưng đọng trong tâm trí nó, khiến Linh Lan cảm thấy khó thở, dạ nôn nao khó chịu, sóng mũi cay cay, bờ môi cắn chặt khi bên tai như còn vang vọng tiếng la thất thanh của Bùi Định.

Phải, là tại nó! Chính nó đã hại chết Bùi Định, chính nó đã hại chết anh.

Linh Lan gác tay lên trán, thẫn thờ. Dù đã trở về phòng nằm dưỡng thương theo lời thầy thuốc, nhưng nó vẫn không sao ngủ được vì những lời Nguyễn Huệ nói cứ lấn cấn trong đầu, không cách nào xua tan. Cứ mỗi lần nhắm mắt, những hình ảnh vào giây phút cuối cùng của Bùi Định lại hiện lên. Ánh mắt kiên quyết, gương mặt sợ hãi, bàn tay run rẩy nắm chặt thanh kiếm, anh và nó chỉ là hai kẻ xa lạ, mới tương ngộ lần đầu, vậy sao anh lại có thể hy sinh mạng sống cho nó, sao có thể không màng đến bản thân để bảo vệ nó. Còn nó, nó đã làm gì được cho anh? Anh cứu nó một mạng, thế mà nó không những không trả được cái ân đó, lại còn gián tiếp hại chết anh, cũng không thể tìm được xác anh để mang về chôn ở quê nhà.

Linh Lan càng nghĩ, càng thấy giận bản thân mình. Lẽ ra Bùi Định sẽ không chết, lẽ ra cả hai sẽ an toàn trở về Tây Sơn, ấy vậy mà chỉ vì sự ích kỷ của nó, chỉ vì nó không muốn phạm tội sát sinh mà vô tình đẩy Bùi Định vào con đường tuyệt mạng. Trong khi Bùi Định đã nằm lại đâu đó ngoài trời lạnh lẽo, thì nó lại nằm trong chăn ấm nệm êm, tịnh dưỡng vết thương. Nó đã nợ Bùi Định rất nhiều, phải làm sao đây để chuộc lại tội lỗi này, phải làm sao để thôi cảm giác ray rứt, ân hận và xót xa. Linh Lan cắn chặt môi, đôi bàn tay nó xiết chặt, vết thương trên vai lại đau buốt như để nhắc nhở. Căn phòng chìm trong im lặng, chỉ có những tiếng nấc nghẹn ngào phát ra trong tấm chăn, đau xót và buồn thương…

oOo

Vì bị thương khi giao chiến với quân Nguyễn, nên tạm thời Linh Lan không thể tiếp tục luyện tập như thường ngày được, mà phải nghỉ ngơi để vết thương có thể phục hồi nhanh chóng. Trong thời gian tịnh dưỡng, Linh Lan đã dần bình tâm lại. Sự dằn vặt tuy vẫn còn đó, nhưng Linh Lan đã dần ổn định tinh thần, bình tâm suy xét lại mọi việc, để rồi cuối cùng đi đến một quyết định, đó là từ nay về sau không thể để bản thân liên lụy đến ai nữa, cũng không thể để ai vì nó mà phải chết nữa. Một Bùi Định đã là quá đủ, nó không muốn có Bùi Định thứ hai, thứ ba, và tất cả đều chết do lỗi của nó một chút nào.

Khi Linh Lan mở mắt tỉnh dậy thì trời đã sẩm tối, nó vội vàng bật dậy do không ngờ mình lại ngủ lâu đến thế. Định bụng chỉ chợp mắt chút thôi rồi dậy học chữ, ấy thế mà loáng một cái đã thấy bóng chiều về. Tung chăn ngồi dậy, Linh Lan vươn vai khoan khoái. Vết thương đã gần lành lặn, mai mày nó sẽ bắt đầu luyện tập trở lại để rèn luyện thêm khả năng chiến đấu và tích lũy kinh nghiệm cho bản thân mình.

Bước xuống giường, Linh Lan đến mở cửa sổ để hít thở không khí trong lành. Tuy đã gần tối, nhưng ngoài doanh trại vẫn còn rộn ràng lắm, Xuân cùng mọi người trong đội nữ binh hãy còn chưa về. Nhắc mới nhớ, mấy ngày qua nó thấy trong quân tất bật khác thường, dường như đang chuẩn bị gì đó. Hỏi Xuân thì cô không rõ, chỉ biết Nguyễn Huệ cho người căn dặn các cô phải kiểm kê lương thảo, tính ra dư hụt bao nhiêu và bổ sung đầy đủ, điều này khiến Linh Lan không khỏi thắc mắc. Trong Tây Sơn, nó chỉ thân với mỗi Xuân và các chị em, lúc trước còn có Văn Bình nhưng giờ không phải anh mà là Nguyễn Huệ, muốn hỏi cũng không biết phải hỏi ai. Linh Lan ngán ngẩm thở dài, nó nóng lòng muốn biết thời gian nó không có ở đây đã xảy ra chuyện gì nhưng Nguyễn Huệ luôn rất bí mật, không bao giờ có chuyện anh nói ra suy nghĩ và dự tính của mình với ai, biết tìm ai để khai thác thông tin nó cần đây.

Linh Lan cắn môi suy nghĩ, đột nhiên, gương mặt nó rạng lên khi nhớ đến Phan Văn Lân. Phan Văn Lân là thuộc tướng thân cận của Nguyễn Huệ, chuyện gì đang diễn ra chắc chắn anh phải rõ hơn ai hết. Mặt khác, anh và nó có mối giao hảo tốt, cả hai cũng đã từng chung hoạn nạn, có thể xem như là thân, anh lại không bao giờ từ chối mỗi khi nó nhờ vả hay hỏi han điều gì, suy ra, người duy nhất có thể giúp nó bây giờ chỉ có Lân mà thôi.

Linh Lan hớn hở, nó nhằm hướng Tây thẳng tiến. Giờ này Phan Văn Lân chắc chắn đang ở trong phòng để lau binh khí, chỉ cần đến chơi, hỏi han đôi ba câu rồi khéo léo gợi chuyện thì trong quân có tin tức gì nó sẽ được biết ngay.

Ánh trăng trên bầu trời soi tỏa những bước chân Linh Lan, tiếng sỏi đá vang lên lạo xạo, tiếng lá cây sột soạt khi nó đi ngang qua, chẳng mấy chốc, chiếc đèn lồng màu dịu treo trên vách cửa phòng Phan Văn Lân đã hiện ra trong tầm mắt, làm Linh Lan phấn chấn. Nhè nhẹ tiến tới gần cửa, trong đầu Linh Lan bỗng nhiên nảy sinh cảm giác muốn trêu đùa. Nó giơ tay lên, tính gõ nhẹ cửa phòng rồi núp vào một bên, để khi Lân ra mở cửa thì hù một cái, nhưng ý định còn chưa kịp thực hiện đã phải gác lại khi nghe thấy giọng nói trầm ấm quen thuộc của Nguyễn Huệ từ bên trong vọng ra. Linh Lan nhíu mày, Nguyễn Huệ mà đến phòng người khác bàn chuyện sao, không phải anh triệu người ta đến thì thôi, nay đích thân anh đến tận nơi ở của Lân, chắc chắn phải là chuyện rất quan trọng rồi. Vốn không có thói quen nghe lén người khác nói chuyện, nhưng Linh Lan lại rất tò mò, chuyện gì mà quan trọng đến độ Nguyễn Huệ phải đến tận nơi để bàn bạc với Lân thế này. Cũng tốt, tuy không quang minh chính đại, nhưng nếu nghe ngóng được tin tức từ chính chủ tướng thì cũng hay.

oOo

Trong căn phòng dìu dịu ánh nến, Nguyễn Huệ đang ngồi trên ghế chăm chú xem xét những ghi chép và không ngừng dò xét với bản đồ đặt trên bàn. Gương mặt anh lúc này có chút mệt mỏi nhưng vẫn không át đi được nụ cười hài lòng và vẻ tự tin. Lướt nhìn Phan Văn Lân đang ngồi trên giường cùng với cánh tay được băng bó cẩn thận, Nguyễn Huệ mỉm cười, chẳng rõ để tán thưởng hay chế giễu vì nguyên nhân của vết thương kia.

- Tin tức mang về rất tốt. Với nó, chúng ta có thể nhanh chóng khởi binh thu hoạch mẻ lưới đã giăng rồi.

Không cần nói cũng nhận ra tướng quân đang rất hài lòng về thành quả công việc của mình, Phan Văn Lân không khỏi vui lây, anh gãi đầu, sau đó chợt nghĩ ra gì đó, liền cất tiếng hỏi.

- Tướng quân, thuộc hạ vẫn không hiểu, làm sao người có thể dự đoán được hành động lần này của Nguyễn quân. Người của ta phái đi đã nhiều lần, cũng đã dùng mọi cách nhưng vẫn không thể tìm ra động tĩnh gì từ bọn chúng, làm sao người biết chính xác lần này chúng sẽ hành động, để lộ ra sơ hở để chúng ta tóm lấy?

Phan Văn Lân buột miệng, điều này anh đã thắc mắc ngay từ lúc nhận nhiệm vụ lên đường nhưng không tiện hỏi. Nay nhân dịp kế hoạch thành công mĩ mãn, tướng quân lại đang vui vẻ, anh liền đánh bạo thăm dò.

- Ta không dự đoán hành động của chúng, ta khiến chúng phải hành động để rồi tự lộ ra sơ hở.

Nhìn nét ngạc nhiên tột độ trên gương mặt Lân, Nguyễn Huệ mỉm cười giải thích.

- Ngươi có biết vì sao mà suốt thời gian qua chúng ta không thu thập được chút tin tức gì từ Nguyễn quân không? Đó là vì chúng hiểu chúng ta, và chúng đang vịnh vào quy luật đó để kiên nhẫn ẩn thân, chờ thời cơ. Tây Sơn ra vào Gia Định đã nhiều lần, đều là ra vào theo mùa gió, điều này chắc chắn bọn chúng cũng nhận ra. Mùa gió sắp hết, như mọi khi, chúng ra phải rút quân trở về. Bọn chúng chính là kiên nhẫn chờ đợi giờ phút đó. Tự lượng khả năng của mình, chúng hiểu không thể trực tiếp đối đầu với đại quân của ta được, nhưng nếu chờ chúng ta đi rồi, thứ chúng phải đối phó chỉ là một đạo quân để lại canh giữ Gia Định mà thôi. Không cần nói cũng biết, như những lần trước, khả năng thắng và giành lại được Gia Định là rất cao. Không chỉ vậy, kiên nhẫn ẩn thân cũng cho chúng thời gian phục hồi sức lực để có thể trỗi dậy lần nữa. Chính vì địch bất động nên chúng ta rất khó tìm ra tung tích của chúng.

Nhưng chúng đã bất động, thì ta phải khiến cho chúng hành động.

Nhiệm vụ lần này, mục đích ta nhắm đến không phải là Hòa Nghĩa quân mà chính là đánh động Nguyễn quân, khiến chúng phải tự manh động, để lại dấu vết cho chúng ta tìm kiếm. Hòa Nghĩa quân chẳng phải là một lực lượng nòng cốt gì, hơn nữa Nguyễn Ánh đã khôn ngoan giết đi chủ tướng của chúng để hạn chế nguy hiểm của bọn chúng rồi. Tuy vậy, nếu Tây Sơn tiếp xúc với Hòa Nghĩa quân thì lúc này tình hình không còn đơn giản, bọn chúng từ vị trí vô hại sẽ trở nên rất nguy hiểm với Nguyễn quân vì chúng hẳn biết được nơi ẩn náu, biết số lượng và cả các bí mật quân sự, nếu chúng và Tây Sơn ta hợp tác thành công, há chẳng phải là rất bất lợi cho Nguyễn quân hay sao. Nằm im là chờ chết, vì thế Nguyễn quân phải hành động thôi.

Con người Nguyễn Ánh rất chu đáo và phòng xa, chắc chắn hắn luôn phải chuẩn bị phương án đối phó cho mọi tình huống có thề xảy ra. Ta cho hắn tình huống và chỉ chờ hắn hành động mà thôi. Không chỉ lên kế hoạch phá hoại liên minh giữa Tây Sơn và Hòa Nghĩa, hắn còn dự phòng cho trường hợp không thành công bằng cách làm dày thêm lực lượng của mình. Việc thu phục bọn Vinhlyma chính là vì lí do đó, quân của chúng đã bị lộ, hai ngày nữa đích thân ta sẽ dẫn quân tiêu diệt chúng, vừa nhanh gọn, vừa bất ngờ.

Trước những lời phân tích của Nguyễn Huệ, Phan Văn Lân như người được khai sáng, anh “à” lên một tiếng, mọi nghi vấn đều đã được giải tỏa thỏa đáng. Tướng quân của anh quả liệu việc thần, người không chỉ dự đoán tình huống, tính toán chu đáo, nắm bắt được tâm lý của địch mà còn có cách buộc chúng phải hành động theo ý người, để chúng tự lộ tung tích và lợi dụng những sơ hở đó tung lưới tóm gọn. Tầm nhìn cùng khả năng vạch chiến lược, lên kế hoạch của Nguyễn Huệ khiến anh kính nể, cái cách thao túng người khác dễ dàng của tướng quân khiến anh vừa phục, vừa sợ. Chính vì hiểu tướng quân đã nắm hết mọi thứ nên trong lòng Phan Văn Lân lúc này dậy lên một mối lo, anh tò mò hỏi thêm.

- Tướng quân, vậy còn đám Hòa Nghĩa quân đó, người tính làm gì với chúng?

- Ta chẳng có kế hoạch gì với chúng cả, bọn chúng sớm muộn gì cũng phải bị tiêu diệt mà thôi, chỉ là chưa phải lúc này.

- Vậy chẳng lẽ chuyến đi này của Linh Lan là hoàn toàn vô nghĩa sao? Thuộc hạ thấy cô ấy đã rất cố gắng mà.

Ngẩng đầu rời mắt khỏi tấm bản đồ trên bàn, trong phút chốc, trong đôi mắt đen thẫm của Nguyễn Huệ bỗng lướt qua một tia sáng, rất nhỏ, rồi biến mất, nhanh đến nỗi Phan Văn Lân không kịp nhận ra. Gương mặt mệt mỏi của anh nhìn thẳng vào Lân và trả lời, chất giọng lạnh lùng.

- Ta không hề bảo cô ta làm thuyết khách hay đám phán hợp tác gì với bọn chúng cả, là tự cô ta nghĩ ra và làm. Ta chỉ yêu cầu cô ta đến gặp bọn chúng với tư cách một người của Tây Sơn mà thôi. Không cần gặp, cũng không cần thuyết phục, chỉ riêng sự có mặt của một người trong Tây Sơn ở địa phận của Hòa Nghĩa quân đã đủ làm Nguyễn Ánh phải hành động và tạo điều kiện cho ngươi thu thập tin tức thuận lợi rồi. Cô ta đến được đó đã là hoàn thành nhiệm vụ, còn chuyện hợp tác gì đó, thành công hay không thành công, ta không quan tâm. Sao hả, ngươi sợ cô ta sẽ bị tổn thương hay sao?

Bị Nguyễn Huệ nói trúng những gì mình đang nghĩ, Phan Văn Lân yên lặng, không thừa nhận cũng không trả lời. Vẫn biết là tướng quân không sai, nhưng chuyện này với Linh Lan mà nói thì đúng là một đả kích lớn, anh e rằng nếu biết được sự thật, với bản tính giàu lòng tự trọng, có lẽ nó sẽ bị tổn thương. Trước phản ứng đó của Lân, Nguyễn Huệ chỉ cười nhạt, anh tiếp lời.

- Nếu biết sự thật, cô ta cám ơn ngươi còn không hết. Cám ơn vì ngươi đã không chết, cám ơn vì chính nhờ ngươi cầm chân quân Nguyễn mà cô ta mới có thể thoát được và trở về đây còn gì.

Phan Văn Lân mấp máy môi, anh tính nói gì đó nhưng đã bị ngăn lại bởi tiếng xô cửa thô bạo vang lên. Linh Lan đang đứng sừng sững ở cửa, đôi mắt mở to phẫn uất, gương mặt đỏ bừng lên bởi những gì đã nghe thấy được. Nhìn thấy nó đột ngột xuất hiện, Phan Văn Lân ngỡ ngàng, đôi mắt đen chất chứa oán giận đó khiến anh bối rối. Anh nhìn nó, nét mặt khổ sở, nửa muốn thanh minh gì đó, nửa lại không. Với một cô gái giàu tự trọng như Linh Lan, anh hiểu, lúc này có nói gì cũng đã muộn, có lẽ nó đã bị tổn thương khi nghe được những gì Nguyễn Huệ nói. Anh vốn không hề muốn nó nghe thấy, không muốn nó biết, và xem như đây là bí mật chỉ mình anh biết, anh hay mà thôi.

Đứng trước mặt Nguyễn Huệ và Phan Văn Lân, Linh Lan nắm chặt tay lại, đôi vai nó run rẩy vì không thể tin vào những gì vừa được nghe. Nhìn xoáy vào mắt Nguyễn Huệ, trái tim Linh Lan như bị ai bóp nghẹt khi anh nhếc môi cười bình thản rồi sau đó điềm nhiên quay lại với mớ tài liệu bản đồ trên bàn. Chuyến đi đàm phán với Hòa Nghĩa quân mà nó đã dốc hết sức, đến nỗi suýt mất mạng hóa ra chẳng quan trọng, tất cả chỉ là kế giương đông kích tây của Nguyễn Huệ. Anh ta tính toán giỏi như vậy, chắc chắn cũng tính ra chuyện nó sẽ bị Nguyễn quân truy sát, ấy vậy mà vẫn đẩy nó vào con đường đó, biến nó thành mồi nhử để thu hút sự chú ý của Nguyễn quân, khiến bọn họ hành động để rồi lộ ra sơ hở cho Phan Văn Lân thu thập thông tin. Phải rồi, Linh Lan cay đắng, Nguyễn Huệ làm sao có thể giao nhiệm vụ gì cho nó chứ, tất cả chỉ do nó tự đề cao bản thân, tự suy diễn, chứ thực chất nó chỉ là tấm bia để cho người ta bắn, là lá chắn để anh ta che giấu mục tiêu thật sự phía sau mà thôi.

Lướt mắt nhìn Phan Văn Lân, Linh Lan mím môi, mắt nhìn trừng trừng lên gương mặt thư sinh ấy. Trong doanh trại, anh là một trong những người nó tin tưởng nhất, thế mà anh lại lừa dối nó, đóng giả làm Bùi Định để nó tự dằn vặt bản thân, để nó hối hận biết bao khi tưởng anh đã chết rồi. Tại sao nó lại ngây thơ đến như thế, tại sao nó lại không nhận ra Bùi Định là Phan Văn Lân cải trang chứ, tại sao nó lại có thể để cho người khác dễ dàng thao túng để đạt được mục đích của mình như thế. Những câu hỏi tại sao ấy cứ quay cuồng trong đầu Linh Lan, sóng mũi nó đỏ ửng, đôi mắt xay xè, cảnh vật trở nên nhạt nhòa, bóng Nguyễn Huệ nhập nhòe trước mắt. Nó muốn hét lên, muốn lăn xả vào Nguyễn Huệ để đánh đấm khi anh đã lợi dụng nó, muốn quát vào mặt Phan Văn Lân khi anh đã lừa dối nó, nhưng nó không sao làm được. Tay chân nó nặng trịch, hơi thở đứt quãng, ngay cả tiếng nói cũng không sao cất nổi thành lời.

- Tại… sao?

Cố dồn nén những cảm xúc chỉ chực vỡ òa, khó khăn lắm Linh Lan mới có thể thốt lên. Trước câu hỏi ấy, Phan Văn Lân im lặng, còn Nguyễn Huệ thì vẫn đọc tờ giấy chi chít chữ mà anh cầm trên tay, tựa như không nghe thấy, không biết đến sự có mặt của nó trong phòng. Đến nước này thì cơn phẫn nộ của Linh Lan đã lên đến đỉnh điểm, nó giận dữ giật lấy tờ giấy trên tay anh, đập mạnh xuống bàn, quát lên.

- Tại sao chứ…?

Trước hành động đó của Linh Lan, Nguyễn Huệ đứng bật dậy, bàn tay cứng như thép của anh nắm lấy cổ tay nó, bóng dáng anh phủ lên người nó, ánh mắt tối sẫm như vực sâu trên gương mặt mệt mỏi của anh nhìn xoáy vào nó.

- Cô cho rằng mình là ai? Cô cho rằng chiến trường là trò chơi, cuộc sống này chỉ xoay quanh một mình cô thôi sao? Cô cho là mình bị lừa dối khi Bùi Định chưa chết, khi Phan Văn Lân chính là Bùi Định, nhưng chuyện đó có thay thế được sự thật là chính cô ngày hôm đó đã đẩy cả hai vào chỗ chết hay không. Bùi Định cũng được, Phan Văn Lân cũng được, tất cả đều là người đã bị cô đẩy đến đường cùng, là người phải ở lại hy sinh hay chặn đường địch, giết người để cô được sống sót mà ở đây giận dữ với ta. Phải, may mắn làm sao khi Bùi Định chính là Phan Văn Lân, nếu không thì cô có cơ hội thứ hai chắc, có cơ hội để cứu mạng anh ta chắc, hay có cơ hội ở đây trách mắng giận dỗi anh ta vì anh ta trót làm cô cắn rứt lương tâm của mình.

Khi đụng chuyện, cô chỉ nghĩ đến mỗi bản thân mình. Không muốn “bản thân” nhúng chàm, không muốn “bản thân” giết người, vậy cô có từng nghĩ người khác vì bảo vệ cô mà phải để tay mình nhuộm máu không? Cô trong sạch quá, cô chỉ biết khư khư giữ lấy sự trong sạch của mình, cho cái lòng nhân từ nửa mùa của mình, cô có từng nghĩ đến người khác không? Cả khi giết người, cô cũng chỉ nghĩ đến bản thân, nghĩ rằng mình không giết người thì người giết mình, cô chưa từng có ý niệm bảo vệ một ai đó, làm vì một ai đó. Cô chỉ biết bảo vệ mình trong khi người khác phải bảo vệ cô. Cô chỉ nhận mà không cho đi, sống như cô thật ích kỷ, sớm muộn gì cũng hại chết người khác mà thôi. Đến khi nào cô mới thôi cái lối suy nghĩ ấy và bắt đầu chịu trách nhiệm cho những việc mình gây ra. Trên chiến trường đâu chỉ có mạng cô đáng giá, đâu chỉ có sự trong sạch và lương tâm đầy lòng nhân từ của cô là cần giữ gìn, đến khi nào thì cô mới sống có trách nhiệm với sinh mạng bản thân và xung quanh hả. Giận hay lắm, giận rất hay, nếu Bùi Định không phải là Lân thì hôm nay có người đứng đây cho cô giận hay sao, mà thậm chí, có lẽ cô còn không toàn mạng để mà ở đây chất vấn “tại sao?” với ta.

Nguyễn Huệ nói xong liền buông tay ngồi xuống. Những lời anh nói từng chữ, từng chữ một chẳng khác nào những mũi dao nhọn đâm vào tim Linh Lan. Nó nhìn anh trân trân, bờ môi cắn đến bật máu, rồi nhanh chóng quay ra ngoắt ra ngoài mà không nói câu nào, bỏ mặc Phan Văn Lân đứng nhìn theo, đôi mày cau lại, như có gì khó nói trong lòng. Linh Lan đi như chạy, nó muốn chạy thật xa khỏi căn phòng đó. Nguyễn Huệ đã mắng nó, nhưng nó không thể phân trần hay giải thích một điều gì, nếu còn nán lại đó, nó biết nó sẽ bật khóc. Nó không muốn khóc trước mặt kẻ đã lợi dụng mình, nó không muốn khóc trước mặt người đã lừa dối mình, nó không muốn để lộ sự bất lực và mềm yếu cho những ai đã làm nó tổn thương.

Trăng ngày càng lên cao, bước chân của Linh Lan ngày càng dài, đến khi tìm đến khu đất hoang cây cỏ um tùm, không bóng người lui tới thì Linh Lan mới ngồi phệt xuống đất, ngẩng đầu lên nhìn vầng trăng nhưng những giọt nước mắt lại cứ không ngừng rơi. Trong bóng đêm, tiếng chim kêu khắc khoải hòa với những tiếng nấc chua chát, nghẹn ngào của nó. Trái tim nó bây giờ đau nhói như kim châm, khi phát hiện ra tất cả sự thật, nó cảm thấy những gì mà nó tin tưởng, tự hào đều bị đổ vỡ như bong bóng xà phòng. Mắt nhìn những chuyện ngang trái, tai nghe những chuyện đau lòng, trong một lúc lại bị lợi dụng, bị phản bội và lừa dối, tất cả điều đó làm nó cảm thấy mệt mỏi, vô cùng mệt mỏi, sức lực trong nó đều kiệt quệ, và ý chí sinh tồn đều tiêu tan.

Rốt cuộc nó ở đây để làm gì? Để bị người ta lợi dụng và phản bội hay sao? Rốt cuộc vào Tây Sơn có phải là quyết định đúng đắn của nó hay không? Trong mắt mọi người, nó là gì để bị đối xử như thế, nó đã làm sai chuyện gì để gánh lấy hậu quả như thế? Nó không hiểu, nó không biết, và cảm thấy những gì nó đã phấn đấu đến giờ đều vô nghĩa. Tây Sơn có lẽ không phải là nơi dành cho nó, nó không muốn phải chịu đựng như thế này nữa, nó không muốn bản thân bị tổn thương nữa, nó muốn gặp Anh Tú, nó muốn được gặp ba, nó muốn về nhà, nó muốn về nhà.

Nó muốn về nhà!!!

- Linh Lan!

Trong đêm khuya tĩnh mịch, một giọng nói nhẹ nhàng vang lên, khiến Linh Lan giật mình. Lau vội những giọt lệ trên rèm mi rồi quay đầu lại, hiện ra giữa ánh trăng là Phan Văn Lân, anh đang đứng đó, đôi mắt dịu dàng nhìn nó đầy cảm thông, nhưng điều đó không làm Linh Lan vơi đi oán giận trong lòng. Bây giờ nó muốn được yên tĩnh, nó không muốn gặp ai hết, càng không muốn nghe bất cứ điều gì, nhất là khi người đó là Phan Văn Lân. Linh Lan mím môi, nó đứng phắt dậy, tính bỏ đi thì Phan Văn Lân đã vội nắm lấy tay nó, giữ lại. Dường như biết đó là sự vô lễ, liền sau đó Lân vội thả ra, anh đứng chắn trước mặt nó, nói nhẹ nhàng.

- Linh Lan, nghĩ đến chuyện lần trước tôi đã mang cô từ Gia Định về Quy Nhơn trong lúc bị thương, cô có thể nán lại nghe tôi giải thích vài chuyện được không?

Không muốn gặp mặt Phan Văn Lân trong lúc này, nhưng anh đã nhắc đến chuyện đã cưu mang nó khi nó bị trọng thương suýt chết ở Gia Định, Linh Lan nén lòng đứng lại, nhưng mặt lại ngoảnh nhìn chỗ khác, như không muốn nghe anh nói bất cứ điều gì. Trước hành động đó, Phan Văn Lân thở dài, anh đã biết cô gái này vốn rất tự trọng, không dễ gì tha thứ khi người khác lừa dối mình, nhưng quan trọng là anh không cố tình lừa dối nó, nên anh muốn mọi chuyện đôi bên được sáng tỏ rõ ràng.

- Tôi có thể biết, cô nghe mọi chuyện từ đoạn nào không?

Lân dò hỏi, nhưng khi vấp phải sự im lặng kéo dài của nó, anh ngán ngẩm hòa hoãn.

- Thôi được, tôi sẽ xem như cô nghe hết mọi chuyện từ đầu. Chuyện tôi đóng giả Bùi Định là vì nhiệm vụ, không thể nào làm khác hơn được. Cô cũng thấy thần sắc mệt mỏi của tướng quân rồi đó, dạo gần đây, Thái Đức hoàng đế liên tục hối thúc người thu binh về, nhưng nếu thu binh lúc này thì công sức bỏ ra suốt mấy tháng qua của chúng ta sẽ trở thành công cốc. Áp lực với tướng quân là rất lớn, vì đã chống lại lệnh của Thái Đức hoàng đế nên ngài ấy chỉ có một con đường duy nhất là phải thành công, phải truy quét được toàn bộ tàn binh Nguyễn Ánh lẩn khuất tại Gia Định. Hóa trang thành Bùi Định sẽ giúp tôi che giấu thân phận, không đánh động đến Nguyễn quân và đảm bảo cho nhiệm vụ này thành công.

Còn nhiệm vụ của cô, có thể tướng quân có lỗi khi không nói rõ cho cô biết, nhưng tuyệt đối người không có ý đẩy cô vào chỗ chết đâu, nếu thật sự muốn thế ngài ấy sẽ không cử tôi đi cùng cô. Cô cũng thấy tướng quân dự tính như thần, mọi việc đều nằm trong suy đoán của ngài ấy, thế nên chuyện quân Nguyễn truy sát cô hẳn ngài ấy rõ hơn ai hết nên mới không để cô đơn thân một mình. Cô nghĩ xem, nếu không có chuyến đi của cô thì đã không thể đánh động quân Nguyễn và tôi cũng chẳng thể thu thập được tin tức gì, thế nên việc làm của cô không hẳn là không quan trọng. Vì quan trọng và vì lường trước được nguy hiểm nên người mới để tôi đi cùng cô còn gì.

Còn chuyện này là lời thật lòng của tôi, có thể nó khiến cô không vui nhưng đến lúc này, tôi vẫn cho là những việc làm, lời nói của tướng quân đều đúng cả. Nếu người đi cùng cô hôm đó không phải là tôi, liệu cô có thể sống sót đến bây giờ hay không? Nếu tôi không phải là Bùi Định thì cô còn có thể giận dữ với tôi hay không? Khi đối phó với Nguyễn quân, không phải cô không thể, mà là cô đã quá nhân từ với chúng. Với kiểu hành động đó, tôi e là ngay cả tính mạng của cô cũng không bảo đảm được, ngược lại sẽ còn liên lụy người khác. Linh Lan, nếu không phải là tôi mà thật sự có một Bùi Định ngày hôm đó phải bỏ mạng vì sự chần chừ thiếu quyết đoán của cô, vì lỗi của cô như thế thì liệu cô có thanh thản, có giận dữ trách móc như bây giờ được không? Tôi cho là tướng quân rất đúng khi giúp cô nhận ra chuyện này, hôm nay có thể cô trách chúng tôi làm cô tổn thương, nhưng mai này suy nghĩ lại, biết đâu cô lại cảm ơn chúng tôi vì giúp cô tránh khỏi dằn vặt lương tâm khi khiến một ai đó vì lỗi lầm của mình mà phải chết trong tương lai. Tôi thật sự không muốn lừa dối cô, cũng không muốn cô tự làm hại bản thân mình, hãy suy nghĩ thật kỹ về những điều tôi vừa nói, tôi và cả tướng quân chỉ muốn tốt cho cô mà thôi.

Vì trời khá tối, khu đất lại um tùm, âm u, nên Phan Văn Lân không thể nhìn thấy nét mặt của Linh Lan như thế nào, chỉ loáng thoáng thấy đôi mắt nó chợt lấp lánh, chẳng rõ vì những ngôi sao trên trời hay do nước mắt. Không nói không rằng, Linh Lan quay lưng bước đi, mái tóc mềm xõa dài bay trong gió. Nhìn từng bước chân của Linh Lan rời khỏi khu đất cho đến khi nó khuất dạng, một nỗi ưu phiền len lỏi vào trong trái tim anh. Anh biết, mối quan hệ của cả hai đã có những vết rạn, không còn tốt đẹp như lúc xưa nữa. Linh Lan nghĩ anh đã lừa dối nó, và nó sẽ không bao giờ tha thứ, như vết thương trên cánh tay anh, tuy lành, nhưng đã để lại một vết sẹo như để nhắc nhở về chuyện ngày hôm nay mãi không thôi…



★ Chương 120 [Part 1]

Nhật nguyệt trên cao, ta ngồi dưới thấp
Một giòng trong veo, sao lòng còn đục
Bầy vạc bay qua, kêu mòn tịch lặng
Đường đời không xa, sao chồn gối chân?(*)

Trời còn chưa sáng, Bùi Thị Xuân đã bị đánh thức bởi những tiếng động xào xạt ở bãi tập. Tránh đánh thức những nữ binh còn đang say ngủ, Bùi Thị Xuân nhẹ nhàng ngồi dậy, hé mở tấm liếp, mắt nhìn ra ngoài. Giữa khoảnh sân trống, vắng lặng, Bùi Thị Xuân dụi mắt khi thấy một người đang múa kiếm, tà áo trắng thấm sương bay phất phơ, mái tóc dài xõa trong gió, dải nơ hồng nhảy múa trên bờ vai thon, những đặc điểm đó khiến cô nhanh chóng nhận ra đó không ai khác là Linh Lan.

Bầu trời còn sâm sẩm, Linh Lan đang luyện kiếm, nhưng cái cách luyện tập của nó khiến Bùi Thị Xuân ngạc nhiên, bởi nó không giống đang luyện tập mà như đang trút giận. Trên cây cao treo đầy những thanh gỗ, Linh Lan đang tung hoành trong những thanh gỗ ấy, mỗi khi nó chém xuống, tiếng gió rít vun vút, những thanh gỗ lắc lư, thân cây rung rinh, lá vàng rơi rụng xuống sân. Do ở xa nên Bùi Thị Xuân không trông thấy nét mặt Linh Lan như thế nào, nhưng cái cách nó vung kiếm không ngừng nghỉ, lao vào những thanh gỗ rồi đâm chém túi bụi như thế, cũng đủ để Xuân nhận thấy Linh Lan đang gặp chuyện không vui trong lòng.

Khi Linh Lan dừng tay cùng là lúc trời sáng hẳn, bãi đất trống bây giờ đã chen chúc những người. Đang biểu diễn một bài quyền để hướng dẫn cho binh lính trong doanh, Phan Văn Lân ngừng lại khi thấy Linh Lan từ xa đi tới. Tính mở miệng để nói chuyện gì đó, nhưng phút cuối anh đành bỏ cuộc vì nét mặt lạnh như phủ sương của nó. Tựa như không thấy anh, Linh Lan thẳng bước, mắt hướng về phía trước. Nhìn những bước chân của nó, Phan Văn Lân ngạc nhiên khi hướng nó đến chính là thư phòng của Long Nhương tướng quân, điều đó khiến anh không tránh khỏi lo lắng. Không hiểu sao qua một đêm, anh nhận thấy Linh Lan đã thay đổi, sự tinh nghịch, lém lỉnh biến mất, thay vào đó là nét mặt lạnh lùng, tựa như không quen biết ai khiến Phan Văn Lân cảm thấy tiếc nuối. Mới sáng sớm đã đến phòng tướng quân, chẳng lẽ cô gái này muốn gây sự sao, chẳng lẽ muốn trút giận, muốn phản bác lại lời tướng quân nói hôm qua?

Không chỉ có Phan Văn Lân thắc mắc ngoài kia mà trong thư phòng, Nguyễn Huệ cũng nhướng mày lên khi thấy Linh Lan đứng sừng sững trước mặt mình. Theo lẽ thường, giờ này nó phải cùng Bùi Thị Xuân trao đổi binh pháp, chứ không phải đứng trong phòng anh khi chưa có lệnh, đó không phải là chuyện một cấp dưới như nó có thể làm khi chưa được sự cho phép của cấp trên. Hơn nữa, Nguyễn Huệ không phải không biết nó rất đề phòng anh, thường ngày, chỉ khi nào anh triệu đến thì nó mới đến chứ chưa bao giờ xuất hiện đột ngột trong thư phòng mà không báo trước một lời như thế này. Chẳng lẽ hôm nay cô ta đã ăn gan hùm hay sao.

- Đừng nhìn tôi như thế, tôi có chuyện muốn nói với anh nên mới đến đây, mong anh hãy nhín chút thời gian quý báu của mình cho tôi, tôi cám ơn nhiều. Sau này, khi chưa có lệnh, tôi tuyệt đối không bước vào đây, yên tâm.

Quá chán ngán về việc mỗi lần đến thư phòng Nguyễn Huệ, Linh Lan luôn phải chờ đợi anh cất lời, nhưng từ giờ, nó sẽ không bao giờ để chuyện đó tái diễn với mình nữa. Anh ta không nói, thì nó nói, chẳng việc gì phải chờ đợi, chẳng hạn như lần này.

- Chuyện của Bùi Định – Phan Văn Lân và mọi điều anh nói, tối hôm qua tôi đã suy nghĩ rất kỹ. Những gì anh nói đều đúng, không sai, chiến trường không phải trò chơi, tôi đã quá ích kỷ khi chỉ biết nghĩ cho bản thân. Nếu lúc ấy tôi không vì sự trong sạch của mình mà ra tay với quân Nguyễn thì Bùi Định sẽ không chết. Nhưng may mắn làm sao khi Bùi Định là Phan Văn Lân, nhờ vậy mà anh ấy mới không chết, tôi mới không phải nuối tiếc, ân hận, và có thể đứng đây để mà nói những lời này với anh.

Nói đến đây, Linh Lan chống tay lên bàn, lưng khom xuống, để mắt mình ngang tầm mắt với Huệ. Không để anh lên tiếng, nó đã nói luôn.

- Đúng như anh nói, tôi cần phải có trách nhiệm với những gì mình đã gây ra, cần phải có trách nhiệm với không chỉ mạng sống của bản thân mà còn của mọi người xung quanh. Nguyễn Huệ, trong mắt anh, tôi chẳng là gì cả, đúng không? Thế thì trong mắt tôi anh cũng chẳng phải là tướng quân nắm quyền sinh sát mà chỉ là một người bình thường, mà đã là người thì phải bình đẳng như nhau. Tôi phải chịu trách nhiệm về những gì mình gây ra, vì lòng nhân từ nửa mùa của tôi mà Bùi Định phải chết, vậy còn anh, anh chịu trách nhiệm thế nào với việc anh đã làm đây? Nếu ngày hôm đó, anh nói rõ ràng với tôi, rằng nhiệm vụ của tôi chỉ đến Hòa Nghĩa quân để che giấu cho hành tung của Phan Văn Lân, thì tôi rất vui lòng mà nghe theo, nhưng không, anh chỉ nói với tôi một câu lấp lửng, đầu không rõ, đuôi không thông, rồi để mặc tôi phải suy đoán, phải nghĩ xem anh muốn gì. Tôi đâu phải là anh, tôi chỉ là một người bình thường và tôi chán ngấy việc lúc nào cũng phải nhìn anh, nghe anh mà suy đoán xem phải làm gì. Tôi đã cố gắng làm việc của mình trong phạm vi và điều kiện có thể, nhưng tôi còn là con gái, cũng muốn được người ta đối xử dịu dàng, nhẹ nhàng. Nếu anh giải thích từ tốn với tôi chứ không phải to tiếng mắng mỏ, nặng lời thì tôi đã không cảm thấy bị lợi dụng, bị lừa dối, cũng không bị tổn thương. Anh biết quân Nguyễn sẽ cử người đến ám sát tôi, chính vì thế mới cho Phan Văn Lân cải trang thành người không biết võ để dạy cho tôi bài học về trách nhiệm và lòng nhân từ, anh giỏi lắm, anh đã dạy thì tôi tất nhiên phải tiếp thu nó để không phụ lòng mong mỏi của anh chứ.

Nói đến đây, Linh Lan ngưng lại một chút, rồi mỉm cười.

- Nhưng mà, có một chuyện làm tôi rất thắc mắc khó hiểu, đó là chuyện anh từng bảo mình muốn phá hoại hết mọi thứ mà Văn Bình gầy dựng cũng như yêu mến, nhưng tôi thấy hình như không phải thế, trái lại anh đã làm cho Tây Sơn tốt lên rất nhiều. Nếu muốn phá hoại, sao anh không bỏ lơ Tây Sơn, để mặc binh lính bài bạc, tổ tôm, ăn chơi trác táng, sai người vào các vùng lân cận cướp phá đồ đạc, để Tây Sơn bị ô danh, để Tây Sơn mang tiếng là quân cướp bóc. Đằng này, anh lại rèn giũa quân lính, lại bắt họ vào khuôn phép, theo dõi sát sao, tân trang vũ khí, trang bị chiến thuyền,… Tây Sơn bây giờ rất nghiêm minh, thậm chí còn tốt hơn khi Văn Bình nắm quyền. Anh nhọc công tính toán, suy nghĩ, công khai chống lại lệnh của Thái Đức hoàng đế để không phí hoài công sức của mọi người mấy tháng qua, Nguyễn Huệ, anh làm tôi thấy khó hiểu đó.

Linh Lan vừa nói vừa thăm dò phản ứng của Nguyễn Huệ. Ban đầu, nghe nó nói, Nguyễn Huệ chẳng có phản ứng nào khác lạ ngoài cái nhếch mép mỉa mai như thể chế giễu cái yêu cầu “dịu dàng, từ tốn” của nó, thế nhưng càng về sau, khi nó đề cập đến vấn đề mâu thuẫn trong cách anh nói và cách anh làm, nét mặt anh lại biến đổi nhanh chóng. Từ lạnh lùng, cười nhạt, chuyển dần sang bối rối, lúng túng. Rất nhanh, ánh mắt đen tối biến mất, thay vào đó, như có một tia nắng nhè nhẹ lan trong màu mắt đen thẫm ấy. Tuy chỉ thoáng chốc, nhưng Linh Lan đã tinh ý nhận ra sự thay đổi đó, còn Nguyễn Huệ thì nhanh chóng xoay mặt đi, anh nói lạnh lùng, mắt không còn nhìn thẳng vào mắt nó như ban đầu.

- Cô nói xong chưa?

Lần đầu tiên thấy phản ứng này của anh, Linh Lan rất ngạc nhiên, nó quyết định không ngừng lại, vấn đề nào khiến sắc mặt anh thay đổi, nó liền tiếp tục đào sâu vào.

- Anh đừng vội, tất nhiên là chưa. Giờ hãy nói đến tôi, nếu anh muốn đùa giỡn với tôi thì tại sao phải cử Phan Văn Lân giả làm Bùi Định theo tôi làm gì, việc gì anh phải nhọc công với tôi, việc gì anh phải vạch ra và chỉ trích cái mà anh gọi là “tư tưởng cá nhân, ích kỷ, nhân từ nửa mùa” của tôi. Lẽ ra anh phải để mặc tôi, để tôi tự sinh tự diệt mới phải chứ, anh chẳng phải từng muốn giết tôi sao? Còn nữa, khi anh mắng tôi, anh đã nói “khi giết người, tôi cũng chỉ nghĩ đến bản thân, nghĩ rằng mình không giết người thì người giết mình, chưa từng có ý niệm bảo vệ một ai đó, làm vì một ai đó, tôi chỉ biết bảo vệ mình trong khi người khác phải bảo vệ tôi, tôi chỉ nhận mà không cho đi, sống như tôi thật ích kỷ, sớm muộn gì cũng hại chết người khác. Trên chiến trường đâu chỉ có mạng tôi đáng giá, đâu chỉ có sự trong sạch và lương tâm đầy lòng nhân từ của tôi là cần giữ gìn, đến khi nào tôi mới sống có trách nhiệm với sinh mạng bản thân và xung quanh”, tôi trích dẫn đúng chứ. Anh nói hay lắm, vậy thì tôi hỏi anh, nói thế nghĩa là anh đã từng “có ý niệm bảo vệ một ai đó, vì ai đó mà giết người”, anh đã “cho đi cái gì đó”, anh đã “sống có trách nhiệm với bản thân mình và mọi người xung quanh”, anh đã “giữ sự trong sạch và lòng nhân từ cho người khác”, có phải thế không, Nguyễn Huệ?

Đến nước này thì sự bối rối và lúng túng trên gương mặt Nguyễn Huệ ngày càng lộ rõ đến nỗi bất cứ ai, nếu có mặt ở đây lúc này đều có thể nhận ra. Lần đầu tiên, Nguyễn Huệ không còn xù xì, không còn gai góc, không cười nhạt, cũng không hồ hững, anh đang bối rối thật sự. Anh không còn nhìn vào mắt nó, mà ánh mắt lảng tránh đâu đó ra bên ngoài, tay chống cằm, những ngón tay dài che khuất bờ môi kiên nghị đang cắn lại, như một đứa bé con. Biểu hiện của anh thật sự khiến Linh Lan ngạc nhiên nhưng cũng không kém phần hài lòng, đây là lần đầu tiên Nguyễn Huệ không áp đảo nó, không nói gì với nó, chỉ có sự lúng túng trong ánh mắt, sự bối rối muốn che giấu gì đó, nhưng lại không thể, cứ như một tờ giấy trắng đã được vạch những nét chữ đầu tiên.

Khi cảm giác thích thú lạ lẫm vì lần đầu tiên trả đũa được Nguyễn Huệ trôi qua trong tâm trí mình, Linh Lan bắt đầu nghiêm túc nhìn nhận lại những điều nó đã nói, những điều đang làm anh lúng túng đến vậy. Chẳng lẽ, đúng như lời nó thăm dò, anh ta quả thật đã từng vì một ai đó mà không màng đến vấy bẩn, vì một ai đó mà bảo vệ, vì một ai đó mà hy sinh chăng. Rốt cục, anh ta thật sự là người như thế nào đây. Tưởng nhẫn tâm nhưng “đã từng hy sinh vì một ai đó”, tưởng vô tình nhưng đã từng “vì ai đó mà bảo vệ”, tưởng lạnh lùng nhưng lại có thể chống lại vua anh chỉ vì nghĩ đến “công sức của bao nhiêu con người” mà anh ta chịu trách nhiệm. Rốt cục thì anh là người như thế nào đây, Nguyễn Huệ?

Chồm người về phía trước, Linh Lan túm lấy cổ áo của Nguyễn Huệ, kéo anh về phía mình, bắt anh nhìn thẳng vào đôi mắt của mình, rồi nói ngọt ngào.

- Nói cho anh biết, tôi là Linh Lan, là Linh Lan, một loài hoa có độc, chứ không phải là một con bé ngô nghê không biết gì, anh gọi đến là đến, bảo đi là đi, khi tôi nói anh lơ là, coi sự có mặt của tôi như không, ngay cả một chút tôn trọng tối thiểu cũng không có. Cấm hó hé, nghe tiếp đây. Tôi biết, trong mắt anh tôi chẳng là gì, nhưng không sao cả, anh cứ nghĩ thế đi, còn tôi thì rất thích thú với cảm giác một ngày nào đó, anh sẽ bị con bé Linh Lan mà anh chẳng coi ra gì ấy khám phá hết bí mật của mình. Đừng hù dọa tôi vô ích, cũng đừng nghĩ sẽ đuổi cổ được tôi, tôi đã tới đây nghĩa là đã quyết định sẽ thí mạng với anh, anh muốn gì tôi cũng theo được tất. Vì tôi là Linh Lan nên anh không sợ tôi, chẳng lẽ nào tôi sợ anh sao. Những gì tôi cần nói đã nói xong, một lần nữa, cám ơn vì bài học của anh, tôi sẽ ghi nhớ nó, suốt đời, tạm biệt.

Linh Lan nói xong liền buông áo Nguyễn Huệ ra, đầu cúi xuống chào, rồi quay lưng bỏ đi, nhanh như một cơn gió. Nhìn theo bóng Linh Lan khuất dạng sau những khóm trúc, tà áo trắng tung bay như đang cười, Nguyễn Huệ trước sau vẫn không nói tiếng nào, nét mặt anh vẫn chưa hết bối rối. Căn phòng chìm trong im lắng, chỉ nghe tiếng chim hót bên ngoài, và tiếng nhỏ giọt lặng lẽ của thời gian, ngồi thừ ra một lúc lâu, Nguyễn Huệ chậm rãi đứng lên, chẳng biết đi đứng thế nào lại vô tình làm rơi xấp giấy trên bàn xuống sàn. Nhìn những tờ giấy bay khắp nơi, anh cau mày ngồi xuống nhặt, nhặt rồi lại thả ra, thả ra rồi lại nhặt, đến cuối cùng thì bỏ mặc những tờ giấy bay lả tả khắp phòng, nhìn xuống đôi bàn tay đang nắm chặt lại của mình. Anh vốn không để cô gái ấy vào mắt, nhưng tại sao những lời cô ta nói cứ vang vọng trong đầu, khiến anh mất tập trung như thế này.

“Nói thế nghĩa là anh đã từng “có ý niệm bảo vệ một ai đó, vì ai đó mà giết người”, anh đã “cho đi cái gì đó”, anh đã “sống có trách nhiệm với bản thân mình và mọi người xung quanh”, anh đã “giữ sự trong sạch và lòng nhân từ cho người khác”, có phải thế không, Nguyễn Huệ.”

Phải thế không, Nguyễn Huệ…?

Nhật nguyệt trên cao, ta ngồi dưới thấp
Một đường cong queo, nắng vàng đột ngột

Nguyễn Huệ yên lặng, anh nhắm mắt lại, đến khi mở ra, đôi mắt ấy lại đầy bóng tối, ánh sáng lẻ loi đã tan biến, sự xao động trong lòng cũng đã không còn. Nhìn những tờ giấy nằm rải rác khắp phòng, anh nhíu mày, lại cúi xuống và nhặt lên. Những tờ giấy trắng tinh trong tay anh nhăn nhúm, rúm ró, không còn phẳng phiu như lúc ban đầu.

Như thế vẫn chưa đủ, sâu như thế vẫn chưa đủ. Nơi ấy ánh sáng vẫn có thể rọi vào bóng tối, vẫn có thể đẩy lùi bóng tối. Không được, anh phải dấn thân vào sâu, sâu hơn nữa, để bóng tối nuốt chửng lấy anh, để ánh sáng không thể soi tới anh, để không một ai có thể nhìn thấy anh đang đứng nơi nào trong bóng tối mênh mang thăm thẳm kia…

Từ độ chim thiêng, hót lời mệnh bạc
Từng giọt vô biên, tôi chìm tiếng tăm…

oOo

Tây Sơn bây giờ đang rộn ràng, tất bật hơn bao giờ hết. Suốt mấy ngày qua, binh lính trong trại đã vất vả chuẩn bị để sẵn sàng theo lệnh Nguyễn Huệ, xuất phát bất cứ lúc nào, lên đường càn quét quân Nguyễn. Vì thu thập thêm Vinhlyma, lương thực và việc bảo đảm hình tung thật sự trở thành vấn đề lớn với Nguyễn quân. Quân Nguyễn cho Vinhlyma vào Hà Tiên để tìm lương thực, kết quả đã lộ tung tích đúng như Nguyễn Huệ đã dự đoán. Chỉ chờ có thế, Nguyễn Huệ lập tức xuất quân, toàn lực truy bắt Nguyễn Anh. Lần ra quân này khiến binh lính vô cùng phấn chấn vì sau bao tháng, cuối cùng cũng đã có kết quả, không phụ sự nhẫn nại chờ đợi của mọi người.

Đứng lẫn trong hàng ngũ của đội nữ binh, trong khi Xuân và mọi người bàn tán về lần xuất quân này, thì Linh Lan lại ngồi lau chùi cẩn thận thanh trường kiếm của mình. Lưỡi kiếm sắc, lạnh, phản chiếu đôi mắt đen láy ưu tư của nó. Ra trận lần này, nó biết mình phải làm gì. Trước khi chưa tìm được lý do thật sự để giải thích cho chuyện giết chóc, nó nhất định phải xem trọng bản thân và người xung quanh, nhất định không phải liên lụy đến ai nữa. Nó chắc chắn phải gạt bỏ sự ích kỉ của mình vì bài học chỉ diễn ra một lần đã quá đủ, nó không muốn có lần thứ hai. Hôm nay đến gặp Nguyễn Huệ để trút hết những gì muốn nói trong lòng, nó không còn quan tâm hay sợ hãi chuyện Nguyễn Huệ sẽ đối xử với mình thế nào nữa, mà quan tâm tới những chuyện khác hơn. Sau mấy tháng chờ đợi Tây Sơn mới lần ra được tung tích của Nguyễn Ánh, chắc chắn lần này sẽ không để anh ta thoát, rồi còn Nguyễn Huệ nữa, nét mặt bối rối ấy khiến nó thật sự cảm thấy lạ lẫm và bất ngờ, suy nghĩ mãi mà vẫn chưa thông được. Lạ lẫm là vì biểu hiện này trước nay nó chưa từng thấy ở anh, và bất ngờ là vì những dự đoán của nó có vẻ như có tác động rất mạnh đến Huệ, khiến môt người bình tĩnh như anh ta lại biểu hiện như thế. Rốt cuộc thì, ẩn sâu bên trong vẻ ngoài tưởng chừng như gai góc của anh ta là những gì đây? Anh ta cuối cùng là người tốt hay kẻ xấu, là muốn giúp đỡ hay phá hoại Văn Bình? Mâu thuẫn quá, đã từng bảo vệ, hy sinh vì ai đó, sống có trách nhiệm với mọi người như thế sao lại muốn phá hoại Văn Bình chứ, chỉ riêng điều này thôi quả thật khó lý giải vô cùng.

Đang miên man suy nghĩ, Linh Lan giật mình ngẩng đầu lên khi nghe tiếng bước chân tiến về phía mình. Đứng trước mặt Linh Lan là Phan Văn Lân, trên gương mặt thư sinh là một nụ cười hiền lành lẫn bối rối. Tối qua suy nghĩ đã thấu đáo, Linh Lan biết rằng mình giận dỗi là vô lý vì Phan Văn Lân không có lỗi trong chuyện này, thậm chí, lẽ ra nó còn phải biết ơn anh vì anh đã bảo vệ nó, giúp đỡ nó, và trên hết là anh vẫn còn sống trở về. Anh chỉ làm theo những gì Nguyễn Huệ đã giao phó, hơn nữa, Huệ là cấp trên, anh là cấp dưới, đã là cấp dưới sao có thể kháng lệnh nếu không muốn bị chém bay đầu. Dù đã thông suốt như thế, nhưng không hiểu sao với Nguyễn Huệ thì nó đã thôi giận, nhưng với Phan Văn Lân thì vẫn còn lấn cấn trong lòng, có lẽ đó là do Lân là bạn đồng hành cùng chia hoạn nạn với nó, còn Huệ thì vẫn còn lạ lẫm nên dễ tha thứ hơn chăng?

- Chỉ ít phút nữa là xuất binh, cô đã sẵn sàng rồi chứ?

Trước lời hỏi thăm của Lân, Linh Lan chỉ gật đầu, không trả lời, biểu hiện đó của nó làm Lân thất vọng, anh muốn nói gì đó, nhưng lại không nghĩ ra chuyện gì để nói trong tình cảnh này, đành ngập ngừng vài phút rồi quay lưng đi.

- Lân!

Khi Phan Văn Lân dợm bước đi, tiếng gọi của Linh Lan đã níu bước anh quay lại. Nhìn Phan Văn Lân bằng ánh mắt dịu dàng, Linh Lan nhẹ mỉm cười.

- Chuyện hôm qua, tôi xin lỗi anh nhé!

Nghe lời xin lỗi từ Linh Lan, Phan Văn Lân tròn mắt, anh không nghĩ rằng cô gái bướng bỉnh này sẽ nhận lỗi với anh chứ đừng nói là nhận lỗi nhanh đến thế. Anh thậm chí còn nghĩ rằng sẽ mất ít nhất một tuần, hay thậm chí cả tháng Linh Lan mới nguôi ngoai được chuyện ngày hôm qua khi nó đã oán giận đến như thế. Nét mặt ngơ ngẩn, ngạc nhiên của Phan Văn Lân khiến Linh Lan nhíu mày.

- Đừng nghĩ tôi nhỏ mọn như thế, khi biết mọi chuyện, trong cơn nóng giận tôi mới như vậy. Trong chuyện này anh chỉ làm theo phận sự, không có lỗi gì cả, vì thế tôi không có lý do gì để giận anh, thậm chí còn phải cám ơn anh. Nhưng tôi cũng mong là lần sau sẽ không có chuyện tương tự như thế xảy ra nữa, tôi coi anh là bạn, chuyện gì anh cũng có thể nói với tôi mà.

Những lời Linh Lan nói rất bình thường, không ngôn từ hoa mỹ, nhưng lại làm cho nét mặt của Phan Văn Lân vui vẻ hẳn lên. Nét mặt ấy khiến Linh Lan phì cười, quả thật nó muốn giận Lân lắm, nhưng mỗi lần nhớ đến sự lo lắng, chăm sóc của anh khi nó bị trúng thương tại Gia Định thì lòng nó lại mềm lại. Hơn nữa, nếu giận anh, làm mặt lạnh với anh, thì chẳng có ai cho nó ăn hiếp, vòi vĩnh hay chiều chuộng nó nữa, chi bằng cứ làm hòa, rồi sau này bù lỗ lại. Mà trong chuyện này Lân hoàn toàn vô tội, nó mà giận, thì hóa ra chẳng vô lý lắm ư.

Sau khi làm hòa với Phan Văn Lân, tâm trạng Linh Lan đã khá hơn nhiều. Nhìn Nguyễn Huệ trên cao nói chuyện với các tướng sĩ, không hiểu sao Linh Lan lại nhớ đến nét mặt bối rối ban sáng của anh, khi ở trong phòng. Lần đầu tiên áp đảo được Nguyễn Huệ, lần đâu tiên nó là người nói, anh là người nghe, lần đầu tiên thấy anh bối rối, nét mặt bối rối ấy ngồ ngộ, hệt như một đứa bé đang ăn vụng bị bắt quả tang, khiến Linh Lan không khỏi tủm tỉm cười. Chẳng biết Nguyễn Huệ có biết nó đang cưởi tủm tỉm hay không, mà chỉ thấy anh vô tình lướt mắt về phía nó, nét mặt liền sa sầm xuống, nhưng chỉ trong thoáng chốc rồi lại điềm nhiên như chưa từng có chuyện gì xảy ra.

“Tôi là Linh Lan, một loài hoa có độc.”

Tháng 6 năm Qúi Mão [1783], Tây Sơn xuất quân.

★ Chương 120 [Part 2]

Hôm nay tiết trời không được tốt, ngoài khơi gió mạnh, mặt biển cuộn tràn, khiến Lê Văn Duyệt phải khó khăn lắm mới giữ vững những chiếc thuyền chở lương thực không bị tròng trành. Quan sát từng binh lính tất bật khuân vác đồ dùng cần thiết cho chuyến đi, Lê Văn Duyệt nhanh chóng đỡ lấy thân mẫu của chúa công khi người dợm ngã lúc bước lên thuyền. Gia đình chúa công đã có mặt đầy đủ, chỉ chờ khởi hành, thế nhưng mãi đến giờ này Nguyễn Ánh vẫn chưa trở ra, điều đó khiến Lê Văn Duyệt lo lắng trong lòng.

Chuyển giao công việc giám sát lại cho Nguyễn Văn Thành, Lê Văn Duyệt nhanh chóng lên bờ, tiến về căn nhà tranh nhỏ, nhưng chưa kịp tới nơi thì đã thấy Nguyễn Ánh trở ra ngoài. Nhìn Lê Văn Duyệt tất tả, Nguyễn Ánh không khỏi mỉm cười, con người này hễ không thấy anh ở đâu thì lại cuống lên, sợ có gì bất trắc xảy ra với mình. Trong số những thuộc tướng, anh biết, Lê Văn Duyệt là người sẽ không bao giờ phản bội mình. Sự cần mẫn, nhanh nhạy và thạo việc của ông khiến anh hài lòng, bất cứ việc gì anh giao cho ông ta cũng hoàn thành, và không bao giờ thắc mắc lấy nửa lời.

- Chúa công, tại sao lần này chúng ta lại đi gấp như thế. Trong khi chờ đợi tin tức của Châu Văn Tiếp báo về, ở ngoài này chẳng phải yên ổn sao.

Vừa hộ tống Nguyễn Ánh về phía chiến thuyền đợi sẵn, Lê Văn Duyệt vừa hỏi. Nhìn bao quát toàn bộ thuyền cùng binh lính trên biển, Nguyễn Ánh chậm rãi trả lời.

- Nếu chúng ta không đi gấp, Tây Sơn sẽ đuổi đến ngay. Mà không, ta cho rằng chúng đang trên đường đến đây rồi.

Nghe Nguyễn Ánh đáp lời, Lê Văn Duyệt liền sững lại, ông hỏi nhanh, giọng đầy nhạc nhiên như chưa thể tin vào những gì tai mình mới nghe.

- Không thể nào, Tây Sơn làm sao có thể biết chúng ta đang ở đây?

- Vì Vinhlima đã để lộ tung tích của chúng ta ra ngoài.

- Chúa công, chẳng lẽ Vinhlima đã phản bội lại chúng ta hay sao?

Những bước chân của Nguyễn Ánh chậm lại, anh lướt mắt về phía binh sĩ đang tất bật góp sức đẩy thuyền ra khơi, trên môi điểm nụ cười lửng lơ.

- Hắn ta sẽ không bao giờ làm chuyện ngu ngốc đó. Khi ta sai hắn vào Hà Tiên để kiếm khí giới, lương thực, ta đã lường trước chuyện hắn sẽ đánh động Tây Sơn, khiến chúng lần ra được nơi trú ẩn của chúng ta.

Không nghe giải thích thì thôi, nhưng Nguyễn Ánh càng nói, Lê Văn Duyệt lại càng hoang mang khó hiểu. Ông hỏi, giọng ngập ngừng.

- Chúa công, thứ lỗi cho thuộc hạ ngu muội không thể hiểu được, nếu như người đã biết Vinhlyma sẽ làm lộ nơi trú ẩn, vậy tại sao còn ra lệnh cho hắn vào Hà Tiên?

Dường như biết trước Lê Văn Duyệt sẽ hỏi câu này, Nguyễn Ánh nhíu mày. Anh nửa muốn nói, nửa muốn không, nhưng cuối cùng vẫn thủng thẳng đáp lời.

- Bởi vì không hẳn là tại hắn, mà là ta đã phạm sai lầm.

- Sao?

- Sau khi nghe ngươi thông báo kết quả việc cho mai phục sứ giả của Tây Sơn, ta biết mình đã phạm sai lầm.

Lê Văn Duyệt dừng bước, ông ngẩn người ra nhìn Nguyễn Ánh. Chúa công ông ngày thường tính toán rất chu đáo, không bao giờ đi lỡ một nước cờ nào. Suốt mấy năm theo hầu chúa công, đây là lần đầu tiên chúa công dự đoán sai, và thẳng thắn thừa nhận sai lầm của mình. Nét mặt ngỡ ngàng của Lê Văn Duyệt không làm Nguyễn Ánh để tâm, anh vẫn tiếp bước, giọng nói vẫn thản nhiên.

- Ngươi thấy lúc chúng ta thu phục Vinhlyma, thanh thế thế nào? Tuy Hoà Nghĩa quân chỉ là một đạo quân nhỏ, nhưng cũng có tổ chức rõ ràng chứ không phải một đám cướp núi vô dụng. Đi làm thuyết khách kêu gọi hợp tác, tuyệt đối không thể chỉ đi có một hai người, cố tình để sơ hở nhiều như thế cho chúng ta ra tay. Điều này chứng tỏ hắn không hề coi trọng chuyện thu phục hợp tác gì cả mà chỉ là đang giăng một cái bẫy dụ chúng ta vào tròng.

Đối thủ của ta không phải người tầm thường mà là Nguyễn Huệ, rất dày dạn kinh nghiệm chinh chiến. Suốt mấy tháng ở Gia Định không nắm được nơi trú ẩn, cũng như bất cứ thông tin nào về chúng ta, hắn đã lợi dụng chuyện Hoà Nghĩa quân tách ra, cho sứ giả đến chiêu dụ, khiến chúng ta tin rằng hắn muốn vịnh vào đám Hoà Nghĩa vô dụng đó để tìm chúng ta. Và ta đã đi sai nước cờ khi cử quân mai phục đến giết sứ giả mà không suy tính đến khả năng sứ giả thực chất chỉ là mồi nhử. Hắn ta quá xảo quyệt. Hắn đã đoán biết ta sẽ không tìm hiểu tên sứ giả đó đến Hòa Nghĩa quân với mục đích thật sự là gì mà chỉ cần giết chết hắn để mục đích gì cũng không thế thành lập, rồi sau đó nhanh chóng gia tăng thêm lực lượng để bổ sung quân số, chuẩn bị đối phó với bất cứ âm mưu nào của hắn. Đó chính xác là những gì mà hắn đã muốn ta làm. Ta đã hành động theo đúng ý đồ của hắn, thế nên việc bại lộ tung tích chắn chắn đã xảy ra từ hôm đó.

- Như vậy có nghĩa là….

- Phải, vì biết nơi trú ẩn đã bị bại lộ, ta không còn ngần ngại gì mà lệnh cho Vinhlyma vào Hà Tiên để nhanh chóng bổ sung lương thực, chuẩn bị khí giới cần thiết cho chuyến di chuyển này. Thứ nhất, Vinhlyma là cướp biển, quen thói cướp bóc, dân chúng Hà Tiên không ai là không biết, cử hắn ta đi, quân Nguyễn sẽ tránh ô danh. Thứ hai, Tây Sơn đã biết nơi trú ẩn của chúng ta, sớm muộn gì cũng sẽ tìm đến, đưa Vinhlyma vào Hà Tiên sẽ đánh lạc hướng chúng được một lúc, kiếm thêm cho chúng ta chút thời gian rút đi. Vinhlyma cát cứ ở đây đã lâu, hải trình hắn nắm rõ, di chuyển rất dễ dàng, có gì sẽ linh hoạt chạy trốn rồi đến điểm hẹn tụ họp với chúng ta sau. Ngươi hiểu rồi chứ?

Lê Văn Duyệt không trả lời mà đăm đăm nhìn Nguyễn Ánh, đôi mày dính sát vào nhau như đang suy nghĩ một chuyện nào đó. Lê Văn Duyệt không trả lời, Nguyễn Ánh cũng chẳng nói thêm gì, anh quay nhìn cứ điểm thêm một lần nữa, đôi mắt nâu trong suốt như phủ một làn sương lạnh, rồi chậm rãi bước lên thuyền. Như chờ đợi anh đã lâu, khi Nguyễn Ánh vừa bước lên, Tống Thị Lan đã nhanh chóng khoác cho anh chiếc áo ấm, nhằm tránh những con gió lạnh bất thường trên mũi Đá Chồng. Thấy Tống Thị Lan lo lắng cho mình như thế, Nguyễn Ánh nhíu mày, anh lại cởi ngược áo ra và khoác lên người Tống Thị Lan. Trước đôi mắt ngạc nhiên của cô, Nguyễn Ánh nhẹ mỉm cười.

- Trong thời gian này ta không thể chăm sóc cho mẫu thân và gia đình, tất cả nhờ ở nàng, nếu nàng đổ bệnh thì mẫu thân ta sẽ như thế nào!

Những lời Nguyễn Ánh nói tuy rất nhẹ nhàng, không lạnh lùng, cũng không âu yếm, nhưng lại khiến gương mặt trái xoan của Tống Thị Lan tươi lên, trong ánh mắt lấp lánh niềm vui rạng ngời. Quay sang mẫu thân đang đứng bên cạnh, Nguyến Ánh nắm lấy bàn tay đang lạnh của bà, nhìn những ngón tay gầy xương xương, Nguyễn Ánh yên lặng không nói, lâu thật lâu anh mới cất lời.

- Mẫu thân hãy giữ gìn sức khỏe, đừng lo cho hài nhi!

Nguyễn Thị Hoàn mấp máy môi, bà vuốt ve vầng trán cao của Nguyễn Ánh với cử chỉ trìu mến, rồi buông lời nhẹ nhàng.

- Mẫu thân chờ tin con!

Tất cả chỉ có thế, không gì hơn, nhưng lại khiến bàn tay của Nguyễn Ánh xiết chặt lấy đôi tay xương xương ấy trong phút chốc, rồi thả ra. Chậm rãi bước xuống thuyền để Nguyễn Văn Thành đưa thuyền ra khơi, Nguyễn Ánh nhìn bóng con thuyền từ từ rời bờ, xa dần, xa dần cho đến khi khuất dạng rồi mới quay người lướt nhìn những thuộc tướng quen thuộc đang chờ đợi trước mặt, bờ môi thanh tú điểm nụ cười kiêu ngạo thường ngày.

- Các ngươi sẵn sàng rồi chứ?

- Chúng thuộc hạ đã sẵn sàng, thưa chúa công!!!

- Tốt lắm, chúng ta ra khơi, thẳng tiến đến đảo Cổ Long.

Lời Nguyễn Ánh vừa dứt, binh sĩ đều đồng thanh hô vang, những chiếc thuyền lần lượt ra khơi, dẫn đầu là chiến thuyền của Nguyễn Ánh. Đứng trên đầu thuyền, nhìn lại mũi Đá Chồng chơ vơ trong gió, hai tay Nguyễn Ánh khoanh trước ngực, không biết anh suy nghĩ những gì mà chỉ thấy đôi mày kiếm lâu lâu chau lại, rồi giãn ra. Cùng cai cơ Lê Phước Điển đứng bên cạnh Nguyễn Ánh, Lê Văn Duyệt trước sau vẫn im lặng không nói gì, đến chừng không chịu đựng được nữa, ông bèn quay sang Nguyễn Ánh, liếm môi.

- Chúa công, thuộc tướng mạo muội xin hỏi người một câu!

- Nói đi.

- Người đã biết tin tức đã bị lộ, Tây Sơn sẽ sớm xuất quân đến mũi Đá Chồng vây bắt chúng ta, vậy tại sao không sớm rời đi mà phải đợi đến tận bây giờ. Có phải là người…

- Duyệt, ngươi có biết vì sao ta quý trọng ngươi không?

Lê Văn Duyệt còn chưa nói hết, Nguyễn Ánh đã đột ngột cắt lời. Giọng nói lạnh băng cùng đôi mắt nâu uy quyền ấy khiến Lê Văn Duyệt lúng túng, ông cúi đầu, đáp nhỏ.

- Thưa không ạ!

- Ta quý trọng ngươi, vì ngươi chỉ nói những gì nên nói.

Lê Văn Duyệt vội ngẩng đầu lên. Chạm phải ánh mắt sương giá như soi thấu tâm can của Nguyễn Ánh, Lê Văn Duyệt toát mồ hôi, ông lặng lẽ gật đầu, rồi lui về phía sau một bước mà không nói thêm lời nào. Nhìn Lê Văn Duyệt lúng túng, Nguyễn Ánh nhếch môi, anh nhìn về phía trước, nơi những chú chim hải âu chao lượn ở đường chân trời xa thẳm mênh mông. Tiếng sóng biển gào thét, con thuyền chập chùng, lắc lư dưới những lớp sóng bạc, trời trở gió, cuồng phong thổi mạnh, nhưng những hiện tượng đó không làm Nguyễn Ánh nhíu mày bằng giọng nói hốt hoảng của Lê Phước Điển bất chợt vang lên.

- Chúa…chúa công, người nhin kìa!!

Nhìn về hướng Lê Phước Điển vươn tay chỉ, Nguyễn Ánh nhíu mày khi thấy những con thuyền tít ở phía sau đang lướt như bay về phía trước một cách dũng mãnh. Ngay trong khoảnh khoắc ấy, Nguyễn Ánh biết ngay chuyện gì đang xảy ra, anh đã lường trước được Tây Sơn đuổi tới nên đi sớm hơn một bước, chỉ có điều lần này bọn chúng đuổi tới quá nhanh chóng, còn sớm hơn anh dự tính mà thôi.

oOo

Vì vẫn chưa quen với việc di chuyển trên biển, Linh Lan bám chặt tay vào mạn thuyền do bị say sóng, cả thân người tròng trành khi thuyền lắc lư. Nhìn Nguyễn Huệ đứng ở đầu thuyền, đôi mắt đen tối thẫm lại, nét mặt có vẻ đăm chiêu, lo lắng, chốc chốc lại ngước nhìn bầu trời, Linh Lan hiểu Nguyễn Huệ đang tiến đến rất gần chiến thắng, chỉ chốc nữa thôi là Tây Sơn sẽ đuổi kịp quân Nguyễn. Thủy binh Tây Sơn lướt nhanh trên mặt biển như hải âu tung cánh, quả không phụ lòng Nguyễn Huệ đã cho người đóng tàu theo phương pháp cải tiến cho chiến thuyền.

Nhìn khoảng cách giữa Tây Sơn và quân Nguyễn ngày càng rút ngắn, Linh Lan có thể lờ mờ thấy bóng tà áo vàng phất phơ từ đằng xa. Căn cứ vào quyết tâm và sự chuẩn bị kỹ càng lần này của Nguyễn Huệ, anh ta chắc chắn không để cho Nguyễn Ánh thoát. Bắt được Nguyễn Ánh, tất nhiên công sức mấy tháng qua của Tây Sơn sẽ được đền bù, nhưng còn Nguyễn Ánh, anh ta sẽ ra sao đây, chuyện gì sẽ xảy ra nếu Gia Long hoàng đế không tồn tại, Linh Lan đau đầu không muốn nghĩ đến nữa. Tại sao cứ hết lần này đến lần khác nó lại phải đứng ở giữa chiến tuyến như thế này, cứu Nguyễn Ánh thì phụ Tây Sơn và Văn Bình, nhưng để Nguyễn Ánh chết đi thì nước Việt Nam sẽ không có mặt trên bản đồ năm châu. Cứu hay không cứu, ông trời hỡi, giờ phút này thử hỏi nó phải làm sao đây?

Trong khi Linh Lan còn mải đấu tranh tinh thần thì Nguyễn Huệ đã hành động, anh lệnh cho binh lính bắn hỏa hổ về phía quân Nguyễn. Lệnh ban ra ngay lập tức được thi hành, những dải lửa bay vùn vụt về phía quân Nguyễn, có cái nửa chừng rơi tõm xuống biển nhưng vẫn bốc cháy ngùn ngụt, đủ để thấy uy lực hỏa hổ mà Nguyễn Huệ đã cải tiến có công dụng như thế nào.

Bị hỏa hổ từ Tây Sơn bắn rào rào về phía mình, quân Nguyễn đã bắt đầu hoảng loạn khi thuyền bốc cháy. Hàng thuyền ngay ngắn trong phút chốc liền xáo trộn, tan vỡ, mỗi người một hướng. Trông thấy cục diện đó, cai cơ Lê Phước Điển vội vàng rút gươm ra, một tay che chắn cho Nguyễn Ánh không bị hỏa hổ tấn công, mặt khác nói nhanh.

- Chúa công, nơi này không an toàn, người hãy nhanh chóng lên thuyền nhỏ rời khỏi đây, thần sẽ ở lại đánh lạc hướng bọn chúng.

Nhìn lớp lớp binh lính Tây Sơn hung hãn bắn hỏa hổ, đốt cháy những chiến thuyền quân Nguyễn phía sau, Lê Phước Điển hiểu sớm muộn gì Tây Sơn cũng đuổi kịp. Quân địch quá đông, còn quân Nguyễn lại quá ít, tuy đã bổ sung lực lượng bằng cách thu thập thêm đám Vinhlyma nhưng hiện giờ chúng không có ở đây, cũng chưa biết có thoát khỏi vòng vây Tây Sơn hay không, vốn là không thể trông cậy cứu viện từ chúng. Trước tình hình này chỉ còn cách, nhân khi Tây Sơn vẫy chưa vây chặt, chưa tràn đến còn thuyền này, chúa công phải xuống thuyền nhỏ dự trữ, nhanh chóng rời khỏi đây. Bản thân ông sẽ ở lại, cầm cự, che chắn chúa công khỏi hỏa hổ Tây Sơn, đánh lạc hướng chúng để người thoát đi an toàn.

Những lời khẩn thiết của Lê Phước Điển, Nguyễn Ánh đã nghe thấy, nhưng anh vẫn đứng yên, nhìn chiến thuyền Tây Sơn sừng sững trong gió. Đôi mắt nâu trong suốt thẫm lại khi thấp thoáng sau lưng Nguyễn Huệ đang đứng đầu thuyền là một tà áo trắng, tà áo trắng đã biết bao lần anh nhìn thấy trong giấc mơ…

- Chúa công, xin người hãy đi nhanh!!!

Mục kiến chiến thuyền của Nguyễn Huệ đang lướt nhanh trên biển như một con mãnh hổ, Lê Phước Điển lo đến toát mồ hôi. Nhận thấy tình hình nguy cấp, không nói không rằng, Lê Văn Duyệt nghiêng người thì thầm mấy câu vào tai Lê Phước Điển. Không biết Duyệt đã nói những gì, mà chỉ thấy nét mặt Lê Phước Điển đang căng thẳng, lo âu bỗng gật đầu lia lịa, rồi tỏa ra một quyết tâm không gì thay đổi được.

Không để ý đến hai viên thuộc tướng đang nói với nhau những gì, Nguyễn Ánh vẫn nhìn đăm đăm về phía trước, giữa rừng cờ sắc áo, không khó khăn mấy để anh nhận ra tà áo trắng đó. Cô ta đang ở bên cạnh Nguyễn Huệ, đang theo sát hắn ta. Trong khoảnh khắc, đôi mắt Nguyễn Ánh như có cơn giông kéo qua, anh không định nghĩa được cảm giác bây giờ trong lòng mình là gì. Hòa lẫn trong sự nhung nhớ, vui mừng là sự bi phẫn, tức giận và oán hận, một mặt anh muốn vươn tay ra, ôm choàng lấy cô gái ấy vào lòng, xiết chặt, nhưng một mặt lại muốn vung kiếm, đâm thẳng vào trái tim cô ta để kết thúc những cảm xúc yếu mềm trong anh. Anh bây giờ mâu thuẫn như thế này, vô định như thế này là vì ai, không phải là vì cô ta hay sao…

- Chúa công, tình thế đã rất cấp bách, quân địch đang ở trước mắt, khí thế hừng hực không gì đánh đổ được, bây giờ chỉ có cách để cai cơ Phước Điển làm Lê Lai thưở trước, đóng giả người, thu hút sự chú ý của Tây Sơn, đánh lạc hướng bọn chúng thì tình thế mới có chuyển biến mà thôi.

Giữa dòng suy nghĩ bộn bề, giọng nói cứng rắn của Lê Văn Duyệt bất chợt vang lên cắt ngang dòng tư tưởng của Nguyễn Ánh. Đến khi anh định thần lại thì đã thấy Lê Phước Điển mặc áo vàng, đóng giả thành mình từ bao giờ. Đôi mày kiếm cau lại, Nguyễn Ánh lại lướt mắt về phía trước nhưng Lê Văn Duyệt đã nhanh chóng án ngữ, che khuất tầm nhìn của anh. Nhìn vào đôi mắt nâu đầy sóng, ông nói, giọng rất quyết tâm.

- Chúa công, hãy nghĩ tới những thuộc hạ đã liều thân vì người mà nhanh chóng rời khỏi đây. Người muốn nhìn thấy cô ta thì cũng đã thấy rồi, gặp cũng đã gặp rồi, hãy dứt bỏ tất cả đi, đừng vấn vương cô ta nữa, đừng nhung nhớ cô ta nữa, đừng để cô ta làm người đau lòng nữa. Chúa công, vứt bỏ đi thôi!

Đừng vấn vương cô ta nữa

Vẫn nhìn đăm đăm về phía trước, xuyên qua Lê Văn Duyệt như để tìm tà áo trắng ấy, đôi mắt nâu của Nguyễn Ánh thẫm lại, thẫm lại rồi lại trở nên trong suốt như nắng thủy tinh, thứ ánh nắng mơ hồ, bất định như chính bản thân anh bây giờ.

Đừng nhung nhớ cô ta nữa

Tiếng sóng biển gào thét như vó ngựa vang vọng đâu đây. Ngày ấy, khi những tưởng cô ta sẽ ở bên cạnh anh mãi mãi, thì cô ta không nói một lời, lại ra đi, để anh lại với đồng lau trắng, để anh lại với sự mềm yếu, với một trái tim bị tổn thương cùng với những mâu thuẫn đan xen trong lòng.

Đừng để cô ta làm đau lòng nữa

Nguyễn Ánh nhắm mắt lại, nét mặt anh trở nên lạnh lùng hệt như đêm ấy, đêm anh đứng nhìn con đường mòn hoang hoải, lạnh lẽo dưới trời khuya.

Nguyễn Ánh
Vứt bỏ đi thôi

Trước sự ngạc nhiên của Lê Văn Duyệt, Nguyễn Ánh chậm rãi mở mắt ra, anh rút kiếm, tay vung lên, thanh kiếm lấp lánh chém vào không khí, động tác vô cùng dứt khoát, trên môi là một nụ cười mỉa mai và tàn nhẫn. Tra kiếm vào vỏ, Nguyễn Ánh vỗ nhẹ lên vai Lê Phước Điển, rồi xiết chặt. Nhận được cái vỗ vai đó, Lê Phước Điển vô cùng ngạc nhiên, ông nhìn Nguyễn Ánh, mỉm cười, nét mặt kiên quyết, như không bao giờ hối hận về quyết định của mình.

Nguyễn Ánh yên lặng, anh nhìn một lượt người thuộc tướng, người anh rể (*)đã theo mình bôn tẩu suốt thời gian qua, rồi quay lưng bước xuống con thuyền nhỏ mà Lê Văn Duyệt đã chuẩn bị sẵn, nét mặt lạnh như phủ sương. Một Nguyễn Ánh yếu mềm, vô định đã bị anh loại bỏ, bây giờ anh lại trở về với Nguyễn Ánh như ngày xưa, không tình cảm, không điểm yếu, không vương vấn bất cứ một ai. Con đường anh đi được xây dựng từ xương máu, một khi chưa đi hết con đường, máu thịt vẫn cứ rơi, và anh phải đạp lên máu thịt ấy để mà đi, đi cho đến cuối con đường.

Đợi con thuyền nhỏ rời xa, Lê Phước Điển, Tôn Thất Điển, Tôn Thất Cốc (**)liền trở lại với cuộc chiến đang đợi mình phía trước. Tuy không nói lời nào nhưng trong ai cũng tỏ rõ quyết tâm liều mình không hối hận.

- Chúa công, bảo vệ người là nhiệm vụ của thuộc hạ, đã là nhiệm vụ thuộc hạ sẽ cố gắng hết mình dù cho có phải hy sinh. Chúa công, ngươi đi đường bình an!

Thế nên Nguyễn Ánh, vứt bỏ đi thôi…

-------------------------
Chú thích:

(*) Lê Phước Điển: chồng của Long Thành công chúa Ngọc Tú, chị lớn của Ánh. Năm 1783 Điển mặc áo ngự chịu chết thay Ánh, bị Tây Sơn bắt giết ở hòn Đá Chồng.

(**) Tôn Thất Điển: Nguyễn Phúc Điển, em trai út của Ánh, cũng là người anh em ruột cuối cùng. Năm 1783 bị Tây Sơn bắt giết ở hòn Đá Chồng.

Tôn Thất Cốc, một người anh em họ hàng, cũng chết trong đợt vây bắt ở hòn Đá Chồng.



★ Chương 120 [Part 3]

Nhờ cải tiến thuyền bè theo phương pháp mới, chẳng mấy chốc Tây Sơn đã đuổi kịp quân Nguyễn. Bỏ lại những con thuyền rực cháy phía sau, Nguyễn Huệ lệnh cho thuyền lái nhanh chóng cập sát thuyền của Nguyễn Ánh, những chiếc móc câu đồng loạt quăng ra, Tây Sơn ồ ạt tràn lên thuyền chỉ huy quân Nguyễn. Con thuyền tròng trành, tiếng la hét quát tháo, bầu trời nổi gió lớn, mang theo mùi máu tanh nhuộm màu chết chóc.

Nắm chặt thanh kiếm trong tay, Linh Lan bám sát theo Nguyễn Huệ. Nhìn anh tung hoành giữa quân Nguyễn, chiếc áo bào đỏ hòa với màu máu, Linh Lan thừa biết Nguyễn Huệ dư sức đối phó với địch thủ, không cần nó theo sau giúp đỡ, có khi còn vướng víu tay chân hơn, thế nhưng không hiểu sao Linh Lan vẫn muốn bám sát theo sau Nguyễn Huệ. Nếu không nhìn vào đôi mắt đen thẫm đó, nếu không nhìn vào gương mặt lạnh lùng đó, thì từ phía sau lưng Nguyễn Huệ chẳng khác nào Văn Bình. Dõi theo bóng dáng quen thuộc ấy, quyết tâm bảo vệ trong nó càng trỗi dậy mạnh mẽ. Từ khi trở về quá khứ, Văn Bình đã bảo vệ nó, đã đối xử tốt với nó, đã cho nó cảm giác bình yên ở chốn quá khứ này thì giờ đây trên chiến trường, nó phải bảo vệ phía sau lưng anh, để anh an tâm tiến tới, không mảy may vướng bận hay lo lắng ngoái đầu.

Mục kiến Nguyễn Huệ như mãnh hổ, tung hoành trên chiến thuyền khiến quân Nguyễn không thể nào chống chọi nổi, Nguyễn Phúc Điển nhìn chăm chăm về phía trước, tay nắm chặt thanh đoản đao, đôi mắt lấp loáng ánh sáng khi chiếc buồm trắng trên cao đã vấy máu của thuộc hạ mình.

- Anh Cốc này, anh đã có vợ chưa?

Đang lăm lăm thanh đao trong tay, tìm sơ hở của Nguyễn Huệ để tấn công, nghe Nguyễn Phúc Điển đột ngột hỏi, Tôn Thất Cốc nhíu mày, nhưng vẫn đáp lời.

- Chưa!

- Anh biết không, lúc trước, em luôn mong muốn sẽ lấy được một người vợ vừa hiền thục, vừa đảm đang, cô ấy sẽ sinh cho em những đứa con thật kháu khỉnh và đáng yêu.

Nghe như Nguyễn Phúc Điển thoáng cười, Tôn Thất Cốc hấp háy mắt, giọng anh bỗng trở nên nhẹ nhàng.

- Cậu nhất định sẽ là một người cha tốt.

- Cám ơn anh!

Chữ “anh” vừa thoát ra khỏi đầu môi, thân ảnh của Nguyễn Phúc Điển lao nhanh về phía trước, không ngần ngại, Tôn Thất Cốc cũng bám sát theo sau người em họ của mình. Hai thân ảnh lao nhanh về phía Nguyễn Huệ, đôi mắt rực sáng, lá cờ của Nguyễn quân phất phới trong tâm trí. Dường như đã quá quen với những đợt tấn công bất ngờ, Nguyễn Huệ không mảy may dao động. Thanh kiếm trong tay anh vung lên, ngăn chặn đường đao của Tôn Thất Cốc, đồng thời xoay người sang một bên để tránh đường đao thứ hai của Nguyễn Phúc Điển, rồi trực chiến với cả hai người sau khi thoát khỏi vòng vây quân Nguyễn.

Theo sát bên cạnh Nguyễn Huệ không rời, Linh Lan tiếp lãnh lính Nguyễn ở phía sau để Nguyễn Huệ đối phó với Tôn Thất Cốc và Nguyễn Phúc Điển. Rảo mắt quan sát một vòng chiến thuyền, không thấy bóng dáng của Nguyễn Ánh, Linh Lan đâm nghi hoặc. Chẳng lẽ anh ta đã thoát được? Không đúng, ban này nó vẫn còn thấy tà áo vàng ấy phấp phới trên chiến thuyền, trong phút sát sao không thể nào thoát nhanh như vậy được, chẳng lẽ trong chuyện này còn có âm mưu toan tính nào khác hay sao.

Nghĩ tới những toan tính của Nguyễn Ánh sẽ gây bất lợi cho Nguyễn Huệ, Linh Lan lo lắng. Nó giao những tên lính còn lại cho Phan Văn Lân khi anh vừa trờ tới, rồi ngay lập tức xoay mũi kiếm tấn công Tôn Thất Cốc để trợ giúp Nguyễn Huệ một tay. Ý định còn chưa thực hiện, một bóng người từ sau cột buồm đột ngột lao ra, tấn công sau lưng Nguyễn Huệ, trong khi anh đang bận đối phó với Tôn Thất Cốc và Nguyễn Phúc Điển khiến Linh Lan biến sắc. Trong giây phút đó, không cần suy nghĩ nhiều, sự lo lắng choáng ngợp tâm trí Linh Lan. Linh Lan liền xoay mũi kiếm, nhằm ngay yếu huyệt bóng người áo vàng mà đâm tới. Do toàn tâm dốc sức tấn công Nguyễn Huệ, bóng người áo vàng không nhìn thấy Linh Lan, kết quả là mũi kiếm của nó cắm ngập vào lưng, xuyên qua tim, đồng thời bị Nguyễn Huệ vung kiếm chém luôn vào người sau khi kết liễu Tôn Thất Cốc và Nguyễn Phúc Điển. Một lúc bị hai nhát kiếm chí mạng, người áo vàng trợn mắt nhìn trừng trừng Nguyễn Huệ, miệng nở nụ cười hả hê khi thấy ánh mắt sửng sốt của anh, rồi ngã xuống bên cạnh Tôn Thất Cốc và Nguyễn Phúc Điển nằm trên sàn thuyền.

Nhìn hai chiến tướng cùng vào sinh ra tử biết bao lần trên chiến trường, thân người đẫm máu, Lê Phước Điển mỉm cười, ánh mắt ông mơ hồ khi nhìn bầu trời. Bầu trời mây đen vẩn vũ, nhưng trong lòng ông bầu trời lại vô cùng xanh trong, trong như ánh mắt của Ngọc Tú, vợ ông, khi đứng trên thuyền trông theo bóng dáng ông lúc đoàn quân ra khơi.

Ngọc Tú, chúng ta thắng rồi…

Ngay khi lúc Lê Phước Điển trúng phải lưỡi kiếm của Linh Lan thì Nguyễn Huệ cũng đã hạ được hai đối thủ đã ngáng đường mình. Nhìn tà áo vàng cùng phong thái khác thường và nụ cười hả hê của Lê Phước Điển, trong tích tắc, Nguyễn Huệ đã hiểu ngay chuyện gì đang xảy ra. Đôi mắt đen thẫm lại vì giận dữ, thanh kiếm đẫm máu trong tay anh vung lên, chất chứa phẫn nộ xả thẳng vào người Lê Phước Điển. Ngước nhìn bầu trời mây đen vần vũ, đôi mắt Nguyễn Huệ thấp thoáng lo lắng, nhưng cũng bùng cháy lên một quyết tâm không gì lay chuyển nổi. Lệnh cho tất cả binh lính rút về thuyền khi quân Nguyễn đã bị tiêu diệt hoàn toàn, Nguyễn Huệ tiếp tục cho quân đuổi theo Nguyễn Ánh, vì anh biết rằng mình đã phí phạm thời gian cho kế hoạch kim thiền thoát xác của bọn họ.

Sau khi một kiếm đâm thẳng vào người Lê Phước Điển, Linh Lan nhanh chóng định thần lại, nó hết nhìn Nguyễn Huệ, nhìn thanh kiếm đẫm máu trong tay, rồi lại nhìn Lê Phước Điển nằm chết trên sàn thuyền, bờ môi đào mím lại. Nhận thấy đó không phải Nguyễn Ánh mà chỉ là một kẻ thế thân, Linh Lan không giấu được tiếng thở phào nhẹ nhõm trong lòng. Ban nãy ngàn cân treo sợi tóc, nó chỉ thấy một bóng người áo vàng mà không rõ đó là ai, giờ ngẫm lại nếu đó đúng là Nguyễn Ánh thật, thì mũi kiếm này đã lấy mạng của anh ta, kết quả sau này thế nào nó thật không dám nghĩ tới. Thế cũng tốt, không phải Nguyễn Ánh thì nó đỡ phải suy nghĩ nhiều, bởi nội tâm của nó bây giờ không thể lý giải được. Lần đầu tiên nó không mang cảm giác tội lỗi và dằn vặt khi phải tước đi sinh mạng một ai đó, mà trái lại là sự bình tĩnh đến đáng ngạc nhiên. Phải rồi, những lần trước nó luôn mang suy nghĩ ta không giết người thì người giết ta để buộc mình phải nhúng máu một cách khiên cưỡng, nhưng bây giờ, nó đã có lý do chính đáng cho riêng mình, đó là nó muốn bảo vệ một ai đó. Khi nãy, nó muốn bảo vệ Văn Bình, mắt nhìn thấy Nguyễn Huệ bị tấn công, nguy hiểm đến tính mạng, nó buộc phải ra tay. Có lẽ Nguyễn Huệ đã nói đúng, trên chiến trường không thể chỉ dựa vào bản lĩnh cá nhân mà phải biết bảo vệ lẫn nhau để cùng tồn tại. Nếu nó cứ khư khư suy nghĩ về bản thân mình thì nó chẳng thể nào ra tay, thế nhưng một khi vì bảo vệ một ai đó, vì một ai đó mà không ngại dấn thân, vì một ai đó mà không ngại hy sinh, cảm giác của nó lại không còn khó chịu nữa. Nó vì một ai đó mà không ngại hy sinh thì người khác cũng vì nó mà sẵn sàng dấn thân, như thế, nó không còn dằn vặt bởi câu hỏi vì sao mình phải giết người nữa, bởi vì nó phải bảo vệ những người mà nó yêu quý, quan tâm.

Nhìn cái xác đẫm máu của Lê Phước Điển, quân Tây Sơn vô cùng tức giận, họ quây lấy Lê Phước Điển, mỗi người một mũi thương, khiến toàn thân hắn thủng lỗ chỗ, máu chảy lênh láng trên sàn thuyền.Thấy Tây Sơn mỗi người đâm một mũi lên người Lê Phước Điển quá tàn bạo, Linh Lan cau mày lên tiếng ngăn cản. Sự can thiệp của nó cùng với lời nhắc nhở của Phan Văn Lân khiến binh sĩ dừng tay, rồi nhanh chóng tản ra. Trong khi Linh Lan đứng nhìn Lê Phước Điển chăm chăm thì Nguyễn Huệ đã hạ lệnh cho binh lính ngay lập tức lên thuyền, tiếp tục truy đuổi Nguyễn Ánh cho đến khi nào bắt được mới thôi. Nhận được lệnh đó, Trương Văn Đa e ngại, ông nhìn lên bầu trời rồi nói nhanh.

- Tướng quân, trên trời mây đen kéo đến dày đặc, sóng biển đang vỗ mạnh, cứ đà này không khéo sẽ xảy ra bão. Vả lại Thái Đức hoàng đế đã lệnh cho người phải mang quân về ngay lập tức, chúng ta không nên…

- Không được, cứ tiếp tục truy đuổi Nguyễn Ánh cho ta. Hắn thoát khỏi tầm mắt của chúng ta, chắc chắn do đã dùng thuyển nhỏ. Trong lúc biển động, đang chuẩn bị có bão, hắn không thể, cũng không dám mạo hiểm đi tiếp mà phải lánh tạm vào đâu đó để qua cơn bão này. Trong các đảo rải rác quanh đây chỉ có đảo Cổ Long là có khả năng nhất, vì nơi ấy vừa gần, vừa nằm khuất, được các đảo lớn khác che chắn, đó là nơi trú ẩn tốt nhất. Theo lệnh ta, mau cho quân tiến đến đảo Cổ Long.

- Nhưng thưa tướng quân…

- Làm đi!

Nhận được chiếu chỉ phải rút quân về của Thái Đức hoàng đế không chỉ một lần, Trương Văn Đa rất lo lắng. Thời tiết lúc này lại đang thất thường, gió to, sóng lớn, việc di chuyển rất khó khăn, hải lộ phía trước lại không quen thuộc, nếu cứ mạo hiểm tiến lên e có chuyện không hay xảy ra. Nghĩ như thế, Trương Văn Đa cố ra sức ngăn cản Nguyễn Huệ tiếp tục truy đuổi Nguyễn Ánh để tránh thương vong, ông sững người lại khi anh gắt lên, ánh mắt lấp lánh lửa giận xoáy xâu vào ông khiến ông sợ hãi, vội cho lính giong buồm tiến thẳng về đảo Cổ Long.

Không màng đến sự lúng túng bất phục của Trương Văn Đa, Nguyễn Huệ nhìn về phía trước, nơi vùng biển mịt mờ đang dâng trào con sóng. Con thuyền tròng trành, ngả nghiêng theo nhịp đẩy của gió, chiếc buồm căn phồng, bay phần phật như muốn rách bung, những thay đổi dó khiến đôi mày kiếm của anh càng dính sát vào nhau vì lo lắng. Hơn ai hết, ngay từ lúc bắt đầu truy đuổi, anh đã biết sẽ có bão, biết nhưng lại tiếp tục cho thuyền tiến lên là bởi anh không chấp nhận công lao suốt mấy tháng qua của mình và tất cả mọi người bị trôi sông đổ biển. Anh đã dày công suy tính, mọi người dày công tập luyện, tất cả chỉ chờ đợi vào giây phút này, anh không cho phép bất cứ ai làm thay đổi kế hoạch ấy, không để bất cứ ai cản trở anh, kể cả khi phải chống lại lệnh của Thái Đức hoàng đế, anh trai của anh. Chút xíu nữa thôi, chỉ một chút xíu nữa thôi. Ván cờ này, anh đã đặt cược tất cả những gì mình có, anh sẽ không chấp nhận lùi bước một khi còn chưa hạ được Nguyễn Ánh.

Mặc cho những cơn giông đầu tiên kéo tới, lá cờ đào của Tây Sơn vẫn phấp phới trong gió. Con thuyền nghiêng ngả, chao đảo theo những nhịp sóng dồn, gió càng ngày càng mạnh, bầu trời bây giờ đã trở thành một tấm màn đen thăm thẳm. Bất chợt, một giọt mưa to mòng mọng rơi đánh bộp trên tay Nguyễn Huệ, liền sau đó, một giọt, hai giọt, rồi cả một trận mưa to thi nhau trút xuống con thuyền như chiếc xô dốc ngược đổ hết nước ra ngoài.

Con thuyền đang gắng sức trườn về phía trước bỗng nhiên bị khựng lại như có bàn tay vô hình nào níu lấy. Binh lính Tây Sơn kinh hãi trước cơn giận dữ của mẹ thiên nhiên. Mặt biển âm u gào thét, từng con sóng dâng cao, vươn cánh tay nước choàng lên con thuyền khiến mọi người đều ướt sũng. Những hạt mưa nặng nề thi nhau giáng xuống như hàng ngàn mũi kim đâm vào da thịt. Cột buồm kêu răng rắc, con thuyền giờ đây như khối bột nhào nặn dười bàn tay của người làm bánh, hết quay qua bên này, rồi nghiêng qua bên nọ, khiến binh lính trên thuyền lớp va đập vào nhau, lớp ngã lăn lông lốc trên sàn, có người còn rơi xuống và mất dạng trong lòng biển cả. Màn đêm mênh mông buông xuống, nước mưa, nước biển hòa vào nhau trắng xóa, giận dữ, khiến đoàn thuyền chật vật, chống trả yếu ớt giữa biển khơi.

Đứng đầu mũi thuyền, Nguyễn Huệ vịnh tay vào mạn thuyền, từng mạch gân trên mu bàn tay hiện rõ khi anh đang giữ không để mình ngả nghiêng theo mặt biển đang gầm thét. Hiện ra lờ mờ trong gió mưa là bóng dáng của đảo Cổ Long cùng những chiếc thuyền con đang chập chờn trên biển khơi. Nguyễn Ánh cùng đám tàn quân của hắn đang trú ẩn trên đó, anh biết và đã tìm tới, thế nhưng giữa khoảng cánh tưởng gần ấy lại hóa ra quá xa xôi trong cơn bão đang mặc sức hoành hành, khiến con thuyền không cách nào tiến tới được khi bị gió mưa vây trập trùng.

- Tướng quân, bão quá lớn, đã có thuyền bị đắm rồi. Chúng ta phải làm sao đây?

Giữa những tiếng thét gầm của sóng biển, tiếng gào của Trương Văn Đa bị nhấn chìm, nghe rất yếu ớt. Nguyễn Huệ đứng thẳng người lên, đôi mắt đen thẳm nhìn đăm đăm về phía trước, nơi hòn đảo Cổ Long nhập nhòa như trêu đùa. Tiếng binh lính sợ hãi, tiếng gió thét gào, tiếng sóng biển ào ào như đánh trận, cả con thuyền rung chuyển, oằn mình dưới gió mưa. Cảnh vật nhạt nhòa trong mắt Nguyễn Huệ, giông tố trên biển và bão tung hoành trong đôi mắt anh.

- Mau… rút quân!!

Khoảnh khắc yên lặng tưởng như hàng thế kỷ đã trôi qua, sau khi cân nhắc thiệt hơn, gạt bỏ tư tưởng đấu tranh dữ dội, Nguyễn Huệ mới thốt thành lời. Như chỉ chờ có thế, con thuyền tròng trành giây lát rồi lục đục chuyển hướng một cách khó khăn. Tưởng chừng có thể quét sạch quân Nguyễn, kết thúc chuỗi ngày ăn gió nằm sương ở Gia Định, ngờ đâu kết quả ngay trước mắt mà không thể với lấy, chuyến rút quân ngoài ý muốn lần này thật khiến anh không cam lòng.

Ở Quy Nhơn xa xôi, Nguyễn Lữ đã tấu trình lên Nguyễn Nhạc, khiến ông sốt ruột lệnh cho anh cấp tốc rút quân về. Hết lần này đến lần khác kháng lệnh, trở về đợt này, Nguyễn Huệ biết mình sẽ bị trừng phạt, nhẹ thì khiển trách, nặng thì tước bỏ binh quyền, và điều chắc chắn là anh sẽ khó có dịp trở lại Gia Định một lần nữa. Nguyễn Ánh lại tiếp tục thoát thân, mầm mống đại họa không thể tiễu trừ thì sau này sẽ đâm chồi và bám rễ sâu trong lòng đất, đến lúc đó có chuẩn bị kỹ càng đến đâu, cũng không thể tiêu diệt tận gốc như lần này. Càng nghĩ, Nguyễn Huệ càng tức giận, công lao suốt mấy tháng qua của mọi người đã tan thành mây khói, anh đã suy tính chu đáo, lao tâm khổ tứ để vạch ra kế hoạch chắc chắn, đánh cược mọi thứ mình có vào ván cờ lần này, ấy vậy mà phút cuối cùng lại thua, thua bởi ông trời.

Thua bởi ông trời

Nguyễn Huệ ngẩng mặt nhìn bầu trời xám xịt, anh gầm lên một tiếng, thu tay lại thành nắm đấm rồi đấm thật mạnh vào cột buồm, khiến bàn tay anh bật máu. Nước mưa vẫn tuôn xối xả, chảy dài trên gương mặt bi phẫn của anh, hòa vào dòng máu trên tay, nhỏ giọt xuống sàn thuyền. Là cờ đào rũ nước gắn trên cao lắc lư, rơi đánh bộp xuống đất. Chứng kiến tướng quân nổi giận, tất cả binh lính trên thuyền đều xanh mặt, không dám hó hé một tiếng, ai nấy lo lắng nhìn nhau vì lần đầu tiên nhìn thấy tướng quân của họ giận dữ đến như thế.

Đứng ôm chặt cột thuyền để không bị va đập khi sóng nhồi, Linh Lan đã chứng kiến tất cả. Nó nhìn Nguyễn Huệ đứng trong màn mưa, gió bão hoành hành trên đầu, chiếc áo bào đỏ ướt sũng nước, bị gió thổi tung như cánh bướm lạc lõng trong giông tố, lòng nó trỗi lên một cảm giác lạ thường. Tây Sơn đã có thể bắt được Nguyễn Ánh nếu như không có cơn bão đột ngột này, nếu Nguyễn Huệ thật sự muốn phá hoại tất cả những gì đã có của Văn Bình, tại sao nét mặt anh ta lúc này lại giận dữ, phẫn uất, bi thương đến thế, tại sao lại không cam lòng khi cuộc vây bắt bị thất bại, mọi thứ tưởng chừng đang có lại hóa không.

Linh Lan cắn môi tự hỏi, càng suy nghĩ nó lại càng thấy lạ. Nguyễn Huệ chắc chắn đang che giấu một điều gì đó, hành động và lời nói của anh ta hoàn toàn mâu thuẫn và trái ngược nhau, khiến nó lại càng nung nấu quyết tâm tìm hiểu xem giữa Văn Bình và Nguyễn Huệ đã xảy ra chuyện gì. Nhìn lá cờ đào nằm quắt queo trên sàn thuyền, mặc cho mưa gió táp vào, Linh Lan cau mày. Nó cẩn thận lần theo mạn thuyền để tránh bị sóng biển làm chao đảo, rồi tiến về phía Nguyễn Huệ. Không nói không rằng, Linh Lan nhặt lá cờ lên, ôm vào lòng, tay vuốt cho sạch nước, rồi nói nhẹ nhàng.

- Dù anh có giận thế nào thì lá cờ của Tây Sơn tuyệt đối không thể nằm dưới đất được.

Không để ý đến những lời Linh Lan nói, Nguyễn Huệ vẫn nhìn đăm đăm ra ngoài biển khơi mịt mù, nét mặt mang những nét cảm xúc phức tạp của anh cùng với vết thương trên mu bàn tay vẫn không ngừng chảy máu khiến Linh Lan bất nhẫn. Rút trong người ra một chiếc khăn, Linh Lan chộp lấy tay của Nguyễn Huệ. Giữ chặt tay anh lại khi anh hất ra, Linh Lan vừa băng bó, vừa nói nhanh.

- Yên nào, không được ngọ nguậy. Bàn tay này dùng để cầm đao kiếm, rất quan trọng, nếu bị thương thì sẽ không hay đâu.

Khi Nguyễn Huệ chưa kịp nói gì, thì Linh Lan đã băng bó xong, nó nhìn anh, mỉm cười rồi quay về chỗ của mình, nhường lại cho Nguyễn Huệ không gian riêng tư. Còn lại một mình đứng ở đầu thuyền, Nguyễn Huệ ngẩng nhìn trời cao, để mặc cho những giọt mưa nặng hạt rơi trên gương mặt. Mưa vẫn chưa dứt, mây đen trên bầu trời vẫn vần vũ không thôi, mặt biển cuộn sóng bạc, gió vẫn than khóc cho những xác tàu, xác người đã nằm lại trong lòng biển khơi. Trên thuyền, chiếc áo bào đỏ vẫn bay phần phật, sắc thắm trong tiết trời xám xịt, mịt mù của trời đất, ánh lên như một ngọn lửa dẫn đường. Vững chãi và bất diệt.

Bão đến, rồi bão cũng sẽ tan, nhưng bão trong lòng người, biết khi nào mới thôi gào thét.



Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: #suong