Sương đỏ 31-60
★ Chương 31: Quyết định sau cùng
Hồng Phương sốt ruột hết đi tới đi lui trên hành lang hồi lâu, rồi ngóng mắt về phía khu nhà bếp để xem rốt cuộc nàng cung nữ vừa mới vào kia bày biện những gì ở trong ấy. Số là sáng nay, Đạo Hoa Vương đột nhiên đến gặp Hồng Phương trong khi bà ta còn chưa quần áo chỉnh tề, tóc tai hãy còn rối rắm chưa kịp chải chuốt. Nhác thấy mình xuất hiện trước mặt Ưu Phong mà vẫn còn nguyên “hiện trường”, khuôn mặt của Hồng Phương đỏ ửng lên như quả cà chua chín khi bắt gặp cái nheo mắt của anh. Vội vàng đóng sập cửa lại và phục trang chỉnh tề - không quên dặm thêm một chút phấn trên khuôn mặt vốn đã hồng hào của mình - Hồng Phương mới từ tốn ra mở cửa ra và thủ sẵn nụ cười - được cho là - duyên dáng trên môi.
Những tưởng Đạo Hoa Vương nhằm lúc sáng sớm tinh mơ mình còn chưa tỉnh giấc gấp rút đến đây vì có việc quan trọng nào đó, té ra chỉ để mượn nhà bếp và một số nguyên liệu cho cái cô cung nữ mới đến trổ tài nấu ăn. Dù trong bụng có hơi khó chịu vì sự ưu đãi của Ưu Phong đối với con bé ấy, nhưng sau vài phút ngần ngừ, Hồng Phương cũng đành phải lễnh mễnh đến xin sự cho phép của Dương Thái Phi trước nụ cười – không - thể - từ - chối của Đạo Hoa Vương. Vì Ưu Phong là anh em tốt của con trai mình, vả lại bây giờ cũng chưa phải lúc cung nữ làm việc, thế nên sau phút trầm ngâm suy nghĩ, Dương Thái Phi cũng đã gật đầu. Và tất nhiên Hồng Phương truyền đạt lại cái gật đầu ấy bằng một bài văn vô cùng truyền cảm, ngụ ý rằng tổng quản tôi đây phải năn nỉ vất vả lắm nên Dương Thái Phi mới mở lượng hải hà, trước nụ cười lơ lửng của Ưu Phong vì thừa biết bà tổng quản này lúc nào cũng chỉ muốn vẽ rắn thêm chân.
Nhà bếp đã mở rộng cửa. Bên trong lại còn có rất nhiều nguyên liệu cho Bách Nhật chứ không cần phải đi mua hay lấy từ kho lương- do Hồng Phương đặc cách dọn sẵn, vì sợ nó sẽ biến nhà bếp thành chiến trường do không biết thực phẩm cất đâu. Ưu Phong đang ngồi đó. Hai tay khoanh hờ vào nhau để xem cô nàng này bảo anh nhất định phải hối tiếc bằng cách cho anh nếm những món ăn mình nấu như thế nào. Dù từ trước tới nay, anh không nghĩ mình là vua chúa nếm hết mọi thứ cao lương mỹ vị trên thiên hạ, nhưng với bản tính thích đi nhiều nơi cùng với việc dừng chân lại, để nếm món ăn của từng vùng xem chúng khác nhau như thế nào đã trở thành sở thích của anh. Bởi thế, anh có thể tự hào rằng dù ít hay nhiều cũng đã nếm qua đủ mọi món ăn ngon trên thế gian này. Thế nên cô gái nhỏ bé đó muốn anh hối tiếc vì đã không dẫn cô ta đi theo để nếm những món ăn mình làm, thì xem ra… phải tốn công vô ích một phen rồi.
Không chú ý đến việc Ưu Phong nhìn mình bằng đôi mắt như thế nào, bây giờ Bách Nhật đang chăm chú vào công việc của mình để làm cho Ưu Phong phải rút lại quyết định không dẫn nó đi theo. Nếu là Đạo Hoa Vương lại còn là cung chủ Tử Phụng cung, chắc chắn những món ngon trên thế gian này Ưu Phong ít nhiều gì đã từng nếm qua, và có lẽ dù nó có là Yan can cook, hay thiên hạ đệ nhất bếp như thế nào đi nữa cũng khó khiến Ưu Phong có động lực để thực hiện lời hứa. Nhưng không sao, vì nó là Bách Nhật, thế nên chắc chắn nó sẽ có cách riêng của mình.
- Ưu Phong! Mang vào đây một thau nước giùm tôi đi!
Đang ngồi dõi theo nhất cử nhất đông của Bách Nhật, Ưu Phong có hơi ngẩn người ra trong giấy lát khi lần đầu tiên Bách Nhật lên tiếng nhờ vả mình. Tuy trong bụng có hơi thắc mắc, thế nhưng Ưu Phong vẫn đứng lên vì mang một thau nước từ bên ngoài vào đây cũng không có gì quá sức. Nhìn theo bóng dáng cao lớn của Ưu Phong, Bách Nhật nở một nụ cười kín đáo. Nó nhìn khúc sườn non tươi ngon và hai khuôn đậu hũ kèm theo một mớ hẹ để trên bàn, và bắt đầu nhẩm tính thời gian để nấu hai món này sao cho thật khéo trước khi các cung nữ bắt đầu một ngày làm việc mới trong phủ chúa. Lúc này Ưu Phong đã quay lại, trên tay anh là một thau nước sóng sánh đầy. Đặt nhẹ thau nước xuống dưới cái bục được xây bằng những phiến đá xanh chắc chắn, Ưu Phong đưa mắt nhìn Bách Nhật như muốn nói “hài lòng chưa cô nương”, trước nụ cười mỉm chi của nó. Với tay lấy con dao to bự, sắc bén để bên cạnh những con dao nhỏ khác, Bách Nhật đặt khúc sườn non lên cái thớt to rộng nhẵn thín và bắt đầu chặt khúc sườn non ra thành từng miếng nhỏ. Dường như không muốn để cho Ưu Phong có thời gian an nhàn quá lâu, Bách Nhật lại cất giọng thỏ thẻ và không quên khuyến mãi thêm một nụ cười rất chi là dịu dàng.
- Ưu Phong! Anh có thể rửa giùm tôi mớ hẹ này được không?
Đang ngồi nhởn nhơ nhìn những tán lá xanh mướt bên ngoài khẽ rung rinh mỗi khi có gió thổi, Ưu Phong bất giác nheo mắt lại khi trong cùng một buổi sáng Bách Nhật đã lên tiếng nhờ vả anh hai lần. Chậc! Có lẽ cô nàng này không muốn ta ngồi yên một chỗ mà chơi đây mà. Ưu Phong nghĩ thầm trong bụng như thế, nhưng anh cũng đứng dậy và thực hiện nhiệm vụ được giao phó của mình. Đến khi đặt bó hẹ xanh mướt còn ướt đẫm nước vào cái rỗ lạt để sẵn trên bàn, đôi mày thanh tú của Ưu Phong nhíu lại khi nhận cái thớt từ tay Bách Nhật kèm theo cái hất đầu nhẹ nhàng. Đã lỡ rồi thì phải tới bến, bất đắc dĩ anh đành phải cầm lấy cái thớt và trong bụng bắt đầu ngán ngẩm vì thấy mình trở thành người sai vặt từ hồi nào không biết cho cô gái này. Chậc! Mang cô theo tôi không hối tiếc, nhưng Bách Nhật, điều làm tôi hối tiếc nhất vào lúc này là đã theo cô vào đây.
- Ưu Phong! Anh rửa xong chưa?
Đang vốc nước vào tấm thớt cho trôi sạch những miếng vụn đậu hũ và thịt còn bám trên bề mặt, giọng nói nhỏ nhẹ của Bách Nhật ở phía sau lại vang lên. Biết lần này cô nàng lại muốn nhờ mình một chuyện khác, Ưu Phong thở hắt ra một hơi và quay đầu lại thì y như rằng, nụ cười dịu dàng của Bách Nhật đang nở trên môi mỗi khi nhờ anh làm chuyện gì đó khiến Ưu Phong không tiện chối từ. Ôi trời! Nụ cười của con gái là thứ vũ khí lợi hại nhất trên đời.
- Chuyện gì nữa?
- Anh có thể chỉ cho tôi hũ nào là muối, hũ nào là đường không?
Đưa mắt nhìn theo hướng Bách Nhật, Ưu Phong nhìn thấy một loạt các hũ đựng gia vị, trên mỗi hũ có đính một mảnh gỗ nhỏ để ghi tên các loại mà Bách Nhật thì không biết đọc chữ Hán. Thời gian không còn nhiều, các cung nữ sắp bắt đầu công việc, thế nên Bách Nhật phải mau chóng hoàn thành món ăn của mình và dọn dẹp nhà bếp trước khi nó được sử dụng. Chỉ lát nữa thôi là nhà bếp rộng thênh thang này sẽ ồn ào, tấp nập và đông đúc người qua kẻ lại để làm những món ăn dâng lên những người sống trong phủ chúa này. Liếc sơ qua một dãy hũ đựng gia vị trên kệ, Bách Nhật đành bó tay vì không thể mở từng hũ một ra, xem bên trong đó là muối hay đường vì thời gian quá cấp bách, chi bằng cứ giao lại cho Ưu Phong thì hay hơn. Dù gì thì chữ Hán đối với anh cũng như chữ quốc ngữ đối với nó mà thôi.
- Cô cần gia vị nào? Muối? Đường? Tiêu? Nước mắm? Húng quế? Riềng, mẻ, quế chi, đại hồi…
- Không có bột ngọt hay xì dầu à?
Nghe Ưu Phong liệt kê ra một lô một lốc gia vị mà không có bột ngọt hay xì dầu, Bách Nhật ngạc nhiên hỏi lại và cũng nhận lại được cái nhìn không kém phần ngạc nhiên của Ưu Phong, do không biết hai thứ gia vị ấy là gì. Biết có giải thích cho anh cũng vô ích, Bách Nhật đành nhờ Ưu Phong lấy hũ muối, tiêu và đường xuống cho mình.Nhón lấy một chiếc muỗng nho nhỏ trong rổ đựng chén, Bách Nhật bắt đầu rắc mỗi thứ một ít vào tô sườn non và chén đậu hũ để trước mặt với một nét mặt vô cùng chăm chú. Có vẻ như sau mấy lần nhờ vả đã rút được kinh nhiệm, không để Bách Nhật phải lên tiếng, Ưu Phong đã nhanh chóng lấy từ trên kệ xuống một rổ hành, tỏi khô khi nhác thấy ánh mắt Bách Nhật nhìn quanh quất như tìm kiếm điều gì. Mỉm cười để tán dương sự nhạy bén của anh, Bách Nhật nhanh nhẹn bóc vỏ hành tỏi, đập dẹp và thả vào tô thịt. Sau đó trộn tất cả hòa lẫn vào nhau với sự thành thục rồi bắt tay vào chế biến thức ăn.
Sau khi giúp Bách Nhật nhóm lửa, nhen nồi vì nó không thuận cách nhóm lửa ở quá khứ cho lắm, Uu Phong đứng yên lặng kế bên để nhìn Bách Nhật trổ tài nữ công gia chánh. Đôi mắt anh chợt trở nên mênh mông khi một miền ký ức xa xôi nào đó len lỏi vào từng ngõ ngách của trái tim mình. Trong khi đó, Bách Nhật nhanh nhẹn bắc nồi canh lên lò, rồi cho một ít dầu lạc vào chiếc chảo trên một cái lò khác đoạn đảo đều cho dầu nóng lên. Đến khi nhắm chắc dầu đã độ chín tới, Bách Nhật cho vào trong đó chén hành tỏi đã xắt nhuyễn vào. Một tay đảo hành một tay gõ từng nhịp xuống mặt bếp, đến nhịp gõ thứ sáu, Bách Nhật nhanh nhẹn trút những miếng thịt đã thấm đẫm gia vị vào trong chiếc chảo đang nóng để làm món sườn xào chua ngọt quen thuộc của mình.
Yên lặng đứng bên cạnh, hết ngắm nhìn bàn tay thoăn thoát, mềm mại của Bách Nhât như đang múa, Ưu Phong lại nhìn những miếng thịt săn chắc, vàng óng trong chảo vì có pha một ít mật ong rồi dừng lại trên khuôn mặt đỏ hồng kia. Qua làn khói mờ ảo, vầng trán cao của Bách Nhật lấm tấm mồ hôi, những giọt mồ hôi trong trẻo lăn xuống đôi má đào ửng hồng vì sức nóng của lửa. Bờ môi nghiêm nghị mím lại khi tập trung vào một việc gì đó, làm Ưu Phong thóang nhớ về một hình bóng mơ hồ nào đó từ trong miền ký ức thưở bé thơ. Mùi thức ăn thơm lừng nhè nhẹ thoát lên, trở thành những làn khói xanh biếc, mỏng manh, vương lấy áo anh trước khi bay lờn vờn khắp cả gian nhà…
- Ưu Phong! Nhấc nồi canh xuống mau lên! Nó sôi rồi kìa!
Đang nhìn những miếng thịt vàng óng xoay đều theo đôi đũa tre của Bách Nhật, Ưu Phong chợt bừng tỉnh khi nghe tiếng Bách Nhật gấp rút vang lên. Nhẹ nhấc nồi canh đang sôi trên bếp lò xuống, Ưu Phong phất nhẹ tay áo, làm ngọn lửa trong lò đang cháy bùng lên chợt phụt tắt hệt như vừa lấy nguyên cả chậu nước dội vào. Ngay khi anh vừa bắc nồi canh xuống, Bách Nhật đã khéo léo làm một cú hất chảo điệu nghệ để thịt thấm nước sốt rồi trút nhanh ra chiếc đĩa bằng men sứ. Nhìn tô canh trong vắt trời mây, những miếng đậu hũ non mơ màng trắng mượt phủ lên trên một lớp hẹ xanh óng, kèm theo đĩa thịt vàng như mật, với nước sốt sền sệt hòa lẫn với màu xanh của lá hành tỏa mùi thơm ngào ngạt, Ưu Phong điểm nhẹ một nụ cười vì tay nghề của cô gái này xem ra cũng chẳng kém cạnh ai.
- Ăn đi! Thức ăn còn nóng mới ngon.
Đưa đôi đũa tre cho Ưu Phong để anh nếm thử món ăn, Bách Nhật chăm chú ngó từng động tác của anh vì nó liên quan đến vấn đề có gặp được Hải Thượng Lãn Ông hay không của mình. Rà đũa lên miếng thịt vàng óng nằm ngoan ngoãn trước mặt, Ưu Phong trù trừ một lúc rồi cũng gắp lên. Miếng thịt ngọt ngọt, chua chua, mặn mặn, cay cay và nong nóng tan dần trong miệng, khiến Ưu Phong ngạc nhiên vì Bách Nhật nêm nếm rất vừa ăn, nếu không muốn nói là ngon. Múc cho mình một bát canh đậu hũ trong vắt, Ưu Phong uống cạn một hơi và bất giác mỉm cười vì lời tuyên bố của cô gái này quả thật không ngoa. Tuy không thể nói Bách Nhật là thiên hạ đệ nhất bếp, nhưng những món ăn tưởng chừng như đơn giản này lại rất cầu kỳ theo một nghĩa khách quan nào đó. Bảo mình vào đây để sai vặt và chứng kiến từng bước để tạo ra một món ăn, cốt để cho người ta nhìn thấy sự vất vả và nghiêm túc của một người đầu bếp là như thế nào, khiến cho người khác cảm thấy không thể chối từ bất cứ điều gì trước các món ăn mình đã khổ công làm ra. Nhìn lên khuôn mặt đang chờ đợi của Bách Nhật, đôi mắt Ưu Phong chợt dừng lại, nơi những giọt mồ hôi của nó đang rịn ra trên vầng trán cao vì dồn công sức vào món ăn của mình. Thế này thì làm sao anh có thể để những giọt mồ hôi ấy phải trở nên phí hoài…
Bên ngoài khung cửa sổ, ánh mặt trời cũng đã dần lên cao, vườn cây xào xạc mỗi khi gió tới và phủ chúa lại thức dậy sau một đêm dài. Bầu trời Hương sơn bây giờ chắc cũng như thế, nơi những dòng sông, những con suối nhỏ trong vắt đầy đá cuội lặng lẽ in đậm ánh bình minh ửng hồng sau rèm núi mờ xa …
Hương sơn!
Đó là nơi gió đến và gió đi…
★ Chương 32: Đối đáp
“Nguyên Thục! Bà ở lại mạnh giỏi nhé! Tui đến Hương sơn vài ngày rồi sẽ về liền”
Những lời Bách Nhật động viên Nguyên Thục, khi cùng Ưu Phong đến Hương sơn gặp Hải Thượng Lãn Ông sáng hôm nay đã làm cho Nguyên Thục bần thần suốt cả buổi. Rổ rau xanh mướt trên tay Nguyên Thục như muốn dập nát vì nó đã rửa đi rửa lại mấy chục lần, do đang nhớ lại những gì Bách Nhật vừa nói với nó sáng nay. Mới hôm qua vẫn còn đang nói cười vui vẻ, thế mà đùng một cái Bách Nhật nỡ lòng bỏ nó lại dù chỉ… vài ngày để đến Hương sơn. Bách Nhật muốn gặp Hải Thượng Lãn Ông, đơn thuần chỉ để thỏa niềm mong ước bấy lâu nay của mình, hay còn có những nguyên nhân xâu sa nào khác mà Bách Nhật không tiện nói ra?
Nguyên Thục thở dài một cái não ruột. Từ khi lọt đến quá khứ này, Bách Nhật đã như là chị em thân thiết của nó, cùng chung hoạn nạn, lo buồn có nhau, thế mà bây giờ Bách Nhật lại đột ngột cùng Ưu Phong đi mất, bỏ mặc nó ở đây trong buồn chán và vò võ cô đơn một mình. Nguyên nhân chỉ vì trót hứa với Trịnh Khải sẽ làm phi tử “hờ” sau ba ngày tìm hiểu với anh ta. Làm người phải giữ chữ tín, ít nhất đây là chuyện nó có thể làm trong lúc này. Nếu không, biết đâu thấy nó bội tín, Trịnh Khải đùng đùng nổi giận lên thì chưa tìm thấy cách trở về nhà đã có nguy cơ trở thành ma không đầu. Nguyên Thục bất giác rùng mình khi nghĩ đến chuyện chết mất xác ở nơi đất khách quê người, cho dù trông Trịnh Khải không có vẻ gì là đáng sợ như nó nghĩ nhưng lòng người khó dò, suy cho cùng cứ đề phòng trước thì vẫn chắc ăn hơn.
- Dừng tay lại! Ngươi đang rửa rau hay đang phá hoại vậy hả?
Đang thẩn thơ suy nghĩ, Nguyên Thục hết cả hồn khi tiếng quát the thé đầy tức giận của Hồng Phương vang lên phía sau như sấm sét. Vội vàng quay đầu lại, Nguyên Thục chỉ còn biết cười giả lả khi nhìn thấy nét mặt hầm hầm của Hồng Phương, vì những bó rau tươi ngon nhất nay trở nên bầm giập và gãy khúc qua đôi bàn tay thô bạo của mình. Biết Hồng Phương đang nổi trận lôi đình, Nguyên Thục đành im lặng tỏ vẻ hối lỗi vì dẫu sao nguyên nhân làm cho những bó rau này nát bét đều bởi tại nó. Há miệng toan quát nạt Nguyên Thục theo thói quen mỗi khi có cung nữ sai phạm, nhưng đến phút cuối Hồng Phương đã kịp thời ngậm miệng lại, khi sực nhớ ra mọi người đang đồn đại nàng cung nữ này và chúa công mình có…quan hệ với nhau. Lý do thứ nhất : Nguyên Thục đang là “thiếp yêu” của chúa Trịnh, cho dù trước nay Hồng Phương chưa bao giờ thấy chúa công mình gần gũi với nữ sắc dù đã có cả hậu cung, nên nếu nàng cung nữ này bị la rầy thế nào lại đi hờn mát với chúa công thì tất nhiên ta sẽ bị tội. Lý do thứ hai cũng quan trọng không kém, đó là Hồng Phương không bao giờ muốn làm cho chúa công phải phiền lòng và bận tâm suy nghĩ. Nay chỉ vì một chuỵên cỏn con mà để chúa công phải nhíu mày vì thiếp yêu của mình, Hồng Phương dù có muốn la rầy nàng cung nữ này đến bao nhiêu thì cũng đành nén lòng cho qua, bởi ả không muốn đôi mắt sâu thăm thẳm kia lại lợn cợn những bóng mây ưu phiền…
- Thôi! Để rổ rau ấy lại cho Tiểu Thúy rửa, còn ngươi mau vào ngự trù mang chén canh đến cho Nghi phi.
Hồng Phương thở hắt ra một hơi và khoát tay ra hiệu cho Nguyên Thục vào ngự trù để đưa canh. Những tưởng phen này thế nào cũng bị giũa một trận ra trò vì cá tính ưa phách lối của mụ tổng quản này, thế nên Nguyên Thục tròn phải xoe hai mắt khi Hồng Phương chẳng có vẻ gì gọi là tức giận, ngược lại còn bảo mình đi đưa canh cho vị Nghi phi nào đó thì trong bụng hết sức ngạc nhiên. Bỏ rổ rau xuống và nhanh chân chạy vào ngự trù trước cái lắc đầu của Hồng Phương, Nguyên Thục bước vào khu nhà bếp rộng thênh thang và phớt lờ những cái nhìn tò mò của mọi người. Rảo mắt nhìn quanh và thấy khay canh còn nóng hổi nằm trên bàn tự bao giờ, Nguyên Thục biết chắc đây là chén canh mình cần bưng đến. Nó nhanh chóng bưng khay canh lên rồi ra khỏi nhà bếp, bỏ mặc sau lưng những cái nhìn nửa hiếu kỳ nửa ganh tị của các càng cung nữ, vì chỉ mới chân ướt chân ráo đến đây mà đã vớ được sự may mắn hiếm có mà bất cứ cung nữ nào cũng ao ước trên đời.
Không cần phải hoang mang vì chẳng biết phòng của Nghi phi nằm ở phía nào, Nguyên Thục vừa bước chân ra khỏi nhà bếp thì đã có một viên tiểu thái giám mặc áo xanh dẫn đường. Băng qua hồ sen rộng mênh mông và cây cầu được xây bằng đá cẩm thạch, Nguyên Thục đã đặt chân đến khu hậu cung của phủ chúa. Nó tròn mắt nghiêng ngó những kiến trúc cầu kỳ nơi chốn cấm cung và chợt nhận ra rằng ở đây thiếu hẳn không khí vui tươi, nói cười. Dừng chân trước cánh cửa có chạm trổ hình đôi phụng vờn mây đang để ngỏ, Nguyên Thục nhìn thấy một cô gái xinh đẹp, quần áo tha thướt, tóc mây búi cao cài một chiếc trâm ngọc để lộ chiếc cổ trắng ngần, đang cho một chú chim két có bộ lông vàng mềm mại uống nước. Trông thấy Nguyên Thục lễnh mễnh bưng khay canh bước vào, một nàng cung nữ đang đứng hầu gần đó liền ghé vào vành tai xinh xinh của cô gái thì thầm mấy câu. Chẳng biết nàng cung nữ kia bỏ nhỏ những gì, mà chỉ thấy đôi mắt hạnh của cô gái nhướng lên đầy vẻ ngạc nhiên về phía Nguyên Thục, trong khi nó trao lại khay canh cho một nàng cung nữ khác để kết thúc nhiệm vụ của mình.
- Ngươi là cung nữ vừa mới vào phủ chúa hôm qua, đúng không?
Tính quay người trở ra ngoài vì đã giao hàng đúng chủ nhân theo lời Hồng Phương căn dặn, Nguyên Thục ngạc nhiên khi giọng nói thanh tao của cô gái xinh đẹp cất lên, đúng lúc nó chạm tay vào cánh cửa. Tuy không biết cô Nghi phi này ra sao, nhưng có lẽ Nguyên Thục đã quá quen thuộc với những màn đấu đá trong chốn hậu cung, để tranh giành một người đàn ông và quyền lực trên phim, tuy thế nó vẫn đáp lại với một giọng nhún nhường nhất, dù không được tự nhiên cho lắm và ngẩng cao đầu nhìn thẳng vào mắt cô gái, theo thói quen mỗi khi nói chuyện với người đối diện mình.
- Vâng ạ!
- Ngươi ở lại đây nói chuyện với ta một lát, những người như ngươi chắc sẽ có nhiều chuỵên rất thú vị.
Cô gái xinh đẹp - tức Nghi phi - nói dứt lời liền ngồi xuống một chiếc ghế mây bọc nệm nhung, đôi mày lá liễu nhướng lên nhìn nó một cách dò xét. Nguyên Thục nhận ra rằng trong lời nói của cô nàng - chắc không quá tuổi mình bao nhiêu - chứa rất nhiều ẩn ý. Biết tin đồn giữa nó và Trịnh Khải chỉ trong một đêm mà đã lan truyền với tốc độ chóng mặt, thế nên hai nàng cung nữ hầu hạ Nghi phi kia cũng đã biết được và mách chuỵên đó lại cho chủ nhân. Thế nên nàng ta mới yêu cầu nó ở lại “tâm tình” vài câu và còn nhắc khéo “có rất nhiều chuỵên thú vị”, khiến Nguyên Thục thấy bực bội trong lòng vì chắc chắn họ không thể bỏ qua chuyện một vị Chúa không bao giờ quan tâm đến nữ nhi, nay lại có quan hệ tình cảm trên mức bình thường đối với cô cung nữ mới vào phủ - không xinh đẹp lại chẳng có gì tài ba - như thế này.
Trước tình huống đi cũng không được ở cũng chẳng xong, Nguyên Thục thở nhẹ một hơi. Cái đầu luôn suy nghĩ mọi chuyện để tìm ra giải pháp của nó nay bắt đầu hoạt động, để có thể trả lời cô gái này sao cho làm hài lòng đối phương, nhưng đồng thời cũng giữ được lòng tự trọng và thể diện cho mình một cách khôn khéo nhất. Có như thế thì mới được yên ổn sau này và tránh bị lôi kéo vào cuộc nội chiến chốn thâm cung
- Vâng! Những chuỵên bình thường của tiểu thần có lẽ đối với Nghi phi là rất thú vị, chẳng hay Nghi phi cần hỏi chuyện gì ạ?
Đôi mắt lá răm của Nghi phi nheo lại khi nhận thấy cô gái đứng trước mặt mình vô cùng khôn khéo, bằng chứng là cô ta đã không dùng tự “hạ thần” hay “tiểu nhân” để chỉ mình mà chỉ xưng là “tiểu thần”. Vừa tỏ ý cung kính vừa không hạ thấp mình xuống trước mặt người khác - cho dù đó là một người có địa vị cao hơn, nội riêng điều đó thôi cũng chứng tỏ cô gái này cũng biết suy nghĩ chớ không xấu xí, tầm thường như lời Hương phi đã nói. Được! Nghi phi ta cũng muốn xem ngươi có tài cán hay điểm gì đặc biệt mà đã nhanh chóng được chúa công yêu quý, trong khi ngài không ngó ngàng gì đến hậu cung của mình từ lúc mới lên ngôi
- Ngươi tên gì?
- Nguyên Thục ạ!Tiểu thần là Nguyên Thục.
- Nguyên Thục, ta nghe nói ngươi vào phủ chúa là do Đạo Hoa Vương tiến cử phải không?
- Vâng!
- Ngươi và Đạo Hoa Vương có quan hệ gì?
Nguyên Thục bất giác nhíu mày lại khi hiểu cô nàng Nghi phi này đang muốn chơi trò ú tim với mình. Bằng chứng là cô ta đang dò hỏi các mối quan hệ của nó để xem nó có chỗ dựa vững chắc và vây cánh nào khác không, mà ngay cả Đạo Hoa Vương nổi tiếng có nhiều mỹ nhân sắc nước hương trời bên cạnh cũng phải tiến cử nó vào cung. Đưa mắt nhìn khuôn mặt xinh đẹp kiêu kỳ của Nghi phi trong giây lát, Nguyên Thục nở một nụ cười hiền lành và ngây thơ theo một nghĩa nào đó, tỏ ý mình chỉ là một cô cung nữ vô cùng bé nhỏ, chứ không muốn hay chính xác hơn là không cần trèo cao tới ngôi vị cung phi cho bằng chị bằng em làm gì.
- Vâng! Tiểu thần quả may mắn nên Đạo Hoa Vương mới để thần vào làm cung nữ trong phủ chúa, chứ thần đâu thể tài sắc vẹn toàn như Nghi phi. Cho nên thần và Đạo Hoa Vương tuyệt đối không có quan hệ gì đâu ạ.
Bờ môi mọng của Nghi phi thoáng nhếch lên khi nghe Nguyên Thục trả lời. Cô gái này khi đối đáp với ta đã chọn lựa kỹ càng từng câu trả lời thích hợp sao cho vừa lòng cả hai. Câu “tiểu thần quả may mắn nên Đạo Hoa Vương để cho thần vào làm cung nữ trong phủ chúa”, cô ta đã nhanh chóng gạt phắt chữ “được” trước chữ Đạo Hoa Vương, ngầm ý rằng Đạo Hoa Vương kia để ý đến mình trước mới để vào làm trong phủ chúa, chứ không phải do mình để ý đến Đạo Hoa Vương mà chèo kéo xin được vào trong cung. Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau, người xưa đã dạy thế và cô gái này xem ra ứng dụng lời dạy ấy vô cùng thành thục và rành rẽ. Điều đó khiến Nghi phi gạt ngay cái nhìn khinh thường về Nguyên Thục, do những lời lẽ không thể bắt bẻ vào đâu của con bé cung nữ mới toanh này.
- Ngươi ăn nói khéo lắm, thảo nào vừa mới vào cung đã nhanh chóng được chúa yêu thương chiều chuộng thế kia.
Nguyên Thục cười thầm trong bụng khi chất giọng của Nghi phi đã pha lẫn sự ghen tị trong đó. Chậc! Cuối cùng thì cũng đã đề cập đến chuyện cần nói chứ không vòng vo tam quốc. Tốt! Nguyên Thục xưa nay vốn thích vào thẳng vấn đề chính và chúa ghét sự quanh co lấp lửng, vì như thế chỉ tổ mất thời gian cho cả hai mà chẳng mang lại lợi ích gì.
- Nghi phi quá lời rồi ạ! Thần xưa nay chỉ là một cô gái bình thường học hành chưa hết, nên đâu thể khéo léo và dịu dàng được như người. Còn chuyện mới vào cung mà được chúa yêu thích, thì có lẽ là do khi ấy chúa công vừa mới dự tiệc về, trong người còn men rượu nên mới tưởng lầm chim sẻ thành phượng hoàng. Chứ nếu gặp lúc người tỉnh táo thì không thế, huống chi xung quanh người còn có rất nhiều mỹ nhân tài sắc như Nghi phi.
Cái ý học hành chưa hết là thật sự Nguyên Thục chỉ mới học lớp mười một và chưa tốt nghiệp trung học nên nó mới nói như thế. Nhưng ở đây Nghi phi lại hiểu theo một ý khác, vì cho rằng Nguyên Thục ví von mình như một cô gái chữ nghĩa không nhiều và học hành chẳng có bao nhiêu. Hừ nhạt một tiếng khi Nguyên Thục câu nào cũng lấy danh nghĩa mình ra để làm bia đỡ đạn. Bằng cách viện cớ do chúa công đang say rượu nên nhìn chim sẻ thành phượng hoàng, chứ không phải do cô ta quyến rũ hay mồi chài đẩy đưa gì. Nội như thế đã không thể mỉa mai chuỵên cô ả mới vào phủ mà đã được chúa để mắt đến, Nghi phi ngược lại còn có nguy cơ bị mất danh dự vì câu nói “huống chi…” của nàng cung nữ này. Sẵn sàng nói tốt cho người khác nhưng đồng thời cũng không để bản thân mình trở thành người xấu, con bé này quả không phải tay vừa.
- Hừ! Ngươi đối đáp khéo thế thì ắt hẳn phải có tài cán gì đó chứ nhỉ? Đàn ca? Hát xướng hay nhảy múa?
- Đàn ca, hát xướng và nhảy múa thần không biết, nhưng thần biết làm thơ võ vẽ ạ.
- Làm thơ? Giỏi đấy. Được! Ngươi thử làm một bài ta xem.
Nguyên Thục mỉm cười khi Nghi phi nhướng đôi mày liễu lên nhìn nó bằng một vẻ mặt ngạc nhiên. Chậc! Làm thơ thì nó không biết nhưng đọc thơ thì nó biết rành. Đây là thời Hậu Lê, cái thời còn triều đại phong kiến vua chúa, bây giờ nó cứ lấy quách bài nào đó của ông nào đó ở năm…1975 mà đọc, có cho vàng bà Nghi phi này cũng chả tìm ra được chủ nhân thật sự của bài thơ đó là ai. Nghĩ chi cho xa, cứ lấy đại mấy bài thơ của bác Hồ ra mà đọc, gì chứ mấy bài “Nhật ký trong tù” nó thuộc cũng kha khá, do bà chị họ hàng xóm học lớp mười hai bên cạnh vẫn lôi ra tụng kinh hàng ngày. Bác Hồ! Vị lãnh tự vô vàn yêu kính của chúng con, xin người tha tội cho con vì… can tội chôm mấy bài thơ của người. Vạn nhất bấc đắc dĩ con mới làm thế, nếu người ở dưới suối vàng có nghe thấy mà cũng tha tội cho con. Amen.
- Sao thế? Làm thử một bài ta xem.
- Vâng! Thần đã nghĩ xong rồi ạ, thần xin đọc bài thơ như sau.
Vân ủng trùng sơn, sơn ủng vân
Giang tâm như kính tịnh vô trần
Bồi hồi độc bộ Tây Phong Lĩnh
Dao vọng Nam Thiên ức cố nhân.
Bài thơ do Nguyên Thục vừa “làm” đã khiến cho Nghi phi mở tròn đôi mắt, vì không nghĩ rằng con bé này lại có thể làm được thơ, lại là những vần thơ rất liền mạch, có cái thanh tao và một nỗi u hoài man mác khi vọng về cố nhân. Nếu đã có thể làm được bài thơ như thế thì học vấn của cô ta ắt không phải “chưa hết” như lời cô ta nói vừa rồi.
- Bài thơ khá lắm! Nếu đã biết làm thơ, liệu ngươi có thể viết tặng ta bài thơ ngươi làm hay không? Nhưng ta muốn bài thơ ấy ngươi không được viết lên giấy, lên cát, lên tay, lên cột hay lên bất cứ vật dụng gì, cũng không được nhờ người người khác viết giùm, thế không quá sức ngươi chứ?
- Vâng! Chuyện viết tặng Nghi phi một bài thơ quả rất may mắn cho thần - Biết cô nàng Nghi phi này thông qua chuyện làm thơ để gây khó dễ mình, Nguyên Thục nhìn thẳng vào mắt cô ta và nói rành rọt từng lời - Nhưng mong Nghi phi hãy hiểu cho, vì thần có rất nhiều việc trong phủ để làm tròn bổn phận do tổng quản giao phó, nên trừ các buổi tinh mơ, sáng, trưa, chiều, chạng vạng, tối, nửa đêm, còn lại Nghi phi cứ sai cung nữ của mình đến lấy bài thơ do thần làm ạ.
Khi nghe Nguyên Thục vừa dứt lời, bờ môi mọng đỏ của Nghi phi mím lại vì biết hôm nay mình chẳng thể làm gì gây tổn hại cho đối phương. Thấy Nghi phi cứ nhìn chằm chằm vào mặt nó bằng đôi mắt căm ghét sau khi đã hạch sách mình từ nãy đến giờ, Nguyên Thục chỉ nở một nụ cười kín đáo. Hờ! Trước khi cô nàng Nghi phi này kịp nghĩ ra cách gì đó để đối phó, thì tốt nhất nó nên nhanh chóng rút khỏi đây. Dù cho mình có tài ăn nói và khôn khéo đến cỡ nào, nhưng đang ở trong địa phận của quân thù thì sớm muộn gì cũng bị sa cơ lỡ bước do lợi thế của chủ nhà.
- Nếu Nghi phi không còn chuyện gì nữa thì thần xin lui ạ.
Nguyên Thục nhoẻn miệng cười thật tươi ra vẻ ngây thơ trái mơ khi nhận cái khoát tay bực bội của Nghi phi, rồi nó nhanh chóng quay người ra khỏi căn phòng trước khi cô nàng kịp nhớ ra điều gì và gọi giật nó lại. Đưa mắt nhìn theo bóng dáng nhỏ bé của Nguyên Thục khuất dần sau rặng liễu đung đưa, Nghi phi mím chặt môi lại, đôi mắt của cô lấp lánh những tia nhìn sắc lạnh pha lẫn sự ganh tỵ, vì con cung nữ nhan sắc bình thường đó lại được chúa Trịnh để mắt đến chứ không phải mình. Thông qua cuộc nói chuyện ngày hôm nay, Nghi phi đủ sắc bén để nhận ra rằng con bé này không để lộ ra bất kỳ một sơ hở nào. Miệng cười ra vẻ ngây thơ không biết gì, lời nói nhún nhường và khiêm tốn nhưng lại không thể vịn vào đó mà bắt bí hay làm khó được gì cô ta. Với tài ăn nói đó, con bé cung nữ này chắc chắn không phải hạng bình thường vì học vấn “chưa hết”, trái lại còn cho thấy trình độ của cô ta không đơn giản và sẵn sàng quay lại trả đũa bất cứ lúc nào nếu ép cô ta đến bước đường cùng.
- Chủ nhân! Người để cô ta đi dễ dàng vậy sao?
- Không! Hôm nay chỉ thế thôi, ta không tin với bản lĩnh của ta và sự hậu thuẫn của Dương thái phi, con bé này có thể dương dương tự đắc trong phủ chúa mãi như thế này.
★ Chương 33: Tai nạn
Nguyên Thục nhanh chóng trở về khu ngự trù để tiếp tục công việc của mình, sau khi đã đưa chén canh nóng hổi đến cho Nghi phi và chịu khó bị “thăm hỏi” vài câu. Do có trí nhớ và óc quan sát khá tốt, nên Nguyên Thục không cần viên tiểu thái giám khi nãy dẫn đường nữa mà đã có thể tự tìm đường trở về khu ngự trù, dù thi thoảng có đội quân cấm vệ đi ngang qua và đưa đôi mắt hiếu kỳ nhìn nó, khiến Nguyên Thục khó chịu và bước nhanh về ngự trù vì không thích lúc nào cũng bị người khác soi mói như thế này.
Do Nguyên Thục chỉ biết sơ về thời Trần và Lam Sơn, thế nên ở cái giai đoạn tận cuối thời Hậu Lê này nó khá là mù mờ. Chỉ nhớ mang máng rằng sau này Nguyễn Huệ đem quân ra Bắc đập tan cơ đồ gây dựng mấy trăm năm của chúa Trịnh, để rồi lịch sử nước nhà có thêm một gò đống đa vang dội trong truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Nghĩ đến việc phủ chúa này sẽ tan thành mây khói, Nguyên Thục bỗng cảm thấy tiếc cho cái dinh thự rộng lớn xinh đẹp này. Bao nhiêu lầu son gác tía, vườn cây, bờ hồ, chim muôn, những thân cột cao vút đỡ lấy mái ngói lưu ly, tất cả chẳng mấy chốc sẽ hóa thành bụi tro và chỉ còn được nhắc đến trong những trang sử mập mờ sau này.
Nguyên Thục thở dài não nuột. Khu ngự trù dần hiện ra trước mặt, những công việc rửa rau, rửa trái, xách nước và quét dọn đang chực chờ trước mặt làm nó thở dài thêm một cái nữa. Những khi ở nhà, nó và Nguyên Thiên được ba cưng chìu như trứng mỏng và không phải mó tay vào bất cứ việc gì, nay bỗng nhiên bị lọt về cái quá khứ này và trân mình ra làm đủ thứ chuyện, làm không khéo lại có nguy cơ bị chửi, bị chèn ép và bị sai khiến đủ điều. Nguyên Thục lại có thói quen rất hay ăn vặt, mỗi ngày ngoại trừ ba bữa chính ra, nó còn nhóp nhép mấy bịch bánh snack, khoai tây, kẹo dẻo riết đến nỗi ba nó phải nhắc nhở ăn luôn miệng như thế không khéo bị chứng béo phì. Bây giờ thì ba nó khỏi lo rồi, ăn bữa chính còn không được no và chuyện được phép ăn thêm một cái gì nữa ngoài…hai bữa chính thì quả thật có mà nằm mơ. Thế nên Nguyên Thục cứ mãi bé nhỏ thế này và chẳng mong lên cân được, ngược lại còn có nguy cơ bị sút ký do ăn uống kiêng khem còn hơn thực đơn giảm cân. Ông trời ơi là ông trời, con có ăn ở thất đức hay chơi xấu gì ông đâu mà ông nỡ đày đọa con thế này …
Do trong bụng đang mãi tả oán ông trời đã đẩy nó vào bước đường cùng, nên Nguyên Thục không nhìn thấy một bàn chân tinh quái đang thò ra ngáng đường mình, kết quả là “rầm” một cái, Nguyên Thục té sóng xoài ra đất và tay bị rỉ máu do cọ xát với sàn nhà. Trong phút chốc, những tiếng cười rộ giòn dã như nước vỡ đê đồng loạt vang lên. Ban đầu chỉ là những tiếng khúc khích, tiếp theo sau đó là mỗi lúc một to và giờ đây khu nhà bếp đã tràn ngập trong tiếng cười. Biết mình chỉ trong phút sơ ý nên mới bị mắc bẫy, Nguyên Thục lồm cồm bò dậy. Bờ môi nó mím lại và khuôn mặt thì đỏ ửng, nửa xấu hổ vì làm trò cười cho người khác, nửa tức giận vì đã có kẻ xấu bụng chơi khăm mình. Vờ phủi lại quần áo cho sạch bụi, vì thực chất sàn nhà bếp sạch boong không có lấy hạt bụi nào, Nguyên Thục ngẩng cao đầu nhìn tất cả những người có mặt trong ngự trù một lượt rồi mỉm cười. Cố gắng lấy vẻ tự nhiên nhất do đầu gối đang đau thốn bởi cú ngã chí mạng vừa rồi, Nguyên Thục bình thản tiến về phía những rổ rau đang đặt gần những chum nước vì chưa rửa. Biết bây giờ có tỏ ra tức giận hay ấm ức gì cũng không thể tìm ra thủ phạm, mà chỉ tổ khiến cho kẻ đó càng đắc ý, Nguyên Thục cầm lấy một rổ rau gần mình nhất rồi bắt đầu đổ muối vào chậu nước để làm sạch rau, trong bụng tự nhủ sau này sẽ cẩn thận hơn khi cố phớt lờ những tiếng cười rúc rích phía sau lưng
Đúng như Nguyên Thục nghĩ, chỉ cần chịu khó nghe tiếng cười một lúc, rồi sau đó tất cả sẽ tản ra để tiếp tục công việc và dần quên mất chuyện nó chụp ếch vừa rồi. Những tiếng cười khúc khích bây giờ đã im lặng, hoàn toàn im lặng và không có một chút tiếng động nào, làm Nguyên Thục thở ra một hơi vì cuối cùng cũng đã được yên thân. Kể ra thì các cô nàng này cũng có trật tự lắm, ban nãy còn ồn ào như ong vỡ tổ thế mà giờ đây lại im lặng như tờ, chỉ còn nghe hơi thở nhè nhẹ của nó và mùi trầm hương dịu dàng lẩn khuất trong không khí, làm tan đi mùi rau quả hăng hắc mà Nguyên Thục đang cầm rửa trong tay. Mùi trầm hương? Khoan đã! Trong nhà bếp thì làm gì có mùi trầm hương, chẳng lẽ lại là…
Nguyên Thục quay phắt người lại, đôi mắt đang nheo lại của nó bỗng mở to ra vì bóng dáng của Trịnh Khải đang đứng sau lưng mình không biết tự bao giờ. Hôm nay Trịnh Khải mặc áo bào tía, mang đai ngọc và đầu đội mũ tam sơn, trông anh vừa rực rỡ lại vừa oai nghiêm khiến Nguyên Thục ngẩn người ra nhìn vì lần đầu tiên trông thấy triều phục của chúa Trịnh như thế này. Thấy Nguyên Thục nhìn mình không chớp mắt, Trịnh Khải nhẹ mỉm cười. Nụ cười đó của anh làm Nguyên Thục bừng tỉnh, nó vội vàng cúi đầu xuống và tiếp tục công việc rửa rau của mình, bụng thầm thắc mắc không biết Trịnh Khải đến đây để làm gì.
- Tay cô sao thế?
Đang rửa rau, hay nói chính xác hơn là…vò nát những cọng rau trong tay vì bối rối, do mùi trầm hương càng lúc càng gần, Nguyên Thục giật mình khi giọng nói trầm ấm của Trịnh Khải nhẹ cất lên. Vội nhìn xuống đôi bàn tay của mình, Nguyên Thục bây giờ mới thấy rát do những vết xước khi nãy giờ đã đỏ tấy lên, và trở nên đau nhức do tác dụng của nước muối ngâm vào.
- Không sao! Chỉ là…
Nguyên Thục bất giác đưa mắt nhìn về những cung nữ đã cười chế giễu mình khi nãy- đang ngầm quan sát nó và Trịnh Khải bằng đôi mắt nửa ganh tị nửa ngạc nhiên. Cố ý kéo dài hai chữ “chỉ là” khi Trịnh Khải hỏi tới, Nguyên Thục kín đáo rảo mắt nhìn một loạt và tinh ý nhận thấy sắc mặt của nàng cung nữ đang đứng gần cửa sổ, hiện vẻ căng thẳng rõ rệt khi nghe nó nói lấp lửng nửa chừng. Hay lắm! Hóa ra cô là người đã gạt chân tôi…
- Chỉ là... chỉ là tôi sơ ý nên bị té thôi! Chuyện vặt vãnh này không sao.
Thấy Nguyên Thục không nói đến nguyên nhân thật sự mà chỉ nói do sơ ý, nàng cung nữ bây giờ thở phào nhẹ nhõm vì đã trút được gánh nặng ngàn cân đang ngự trị trong lòng. Chẳng biết Trịnh Khải có phát hiện ra Nguyên Thục đang nói dối hay không, mà chỉ thấy đôi mày thanh tú của anh nhẹ chau lại. Lấy trong người ra ra một chiếc lọ màu trắng ngà có kích thước bằng hai ngón tay út, Trịnh Khải mở nắp chiếc lọ ra và rịt một ít bột màu trăng trắng, thơm thơm lên tay Nguyên Thục, đoạn nhẹ giọng trước khuôn mặt nhăn nhó của nó khi thuốc đã bắt đầu thấm vào da thịt mình.
- Con gái thì không nên để lại sẹo.
Trước sự dịu dàng ân cần của Trịnh Khải, Nguyên Thục thấy có hơi lung túng, một phần vì những người có mặt trong ngự trù khi ấy đều đổ dồn mắt vào nhìn nó, một phần vì từ trước tới nay chưa có một người khác phái nào nắm lấy tay nó bao giờ. Dù rằng Trịnh Khải nắm lấy tay nó là để thoa thuốc, thế nhưng nắm tay thì vẫn là nắm tay, chả có từ đồng nghĩa nào có thể thay thế được. Nguyên Thục lại bất chợt nghĩ đến ba ngày tìm hiểu của mình đối với anh như lời đã hứa, nó đã liệt kê danh sách những việc sẽ làm trong ba ngày này cho Bánh Nhật nghe, thế nhưng thực chất nó cũng chẳng biết phải thực hiện kế hoạch ba ngày đó như thế nào cho phải đạo. Bản thân thì đầu tắt mặt tối với hằng hà sa số công việc trong ngự trù, đó là còn chưa kể lâu lâu còn phải làm sai vặt bất đắc dĩ cho Hồng Phương. Còn Trịnh Khải thì theo lời các cung nữ nói chuyện với nhau khi rảnh rỗi mà nó nghe được, thì anh tối ngày thiết triều bàn chính sự, còn lại thì ở trong ngự lâu không mấy bước chân ra ngoài. Với lịch sinh hoạt của cả hai như thế, thử hỏi lấy đâu ra thời gian cho cái ba ngày thử nghiệm mà nó đã nói với anh…
- Hết đau rồi chứ?
- À vâng… hết rồi! Cám ơn anh.
Nhìn những vết xước trên tay mình giờ đã lặn không còn dấu vết, Nguyên Thục thật sự rất ngạc nhiên vì không ngờ ở quá khứ này thuốc thang còn hiện đại hơn nó nghĩ rất nhiều. Cái chai thuốc nhỏ bé nhưng lại có công dụng đến không ngờ này, nếu đem ra bán cho mấy nàng bị sẹo, hay sát trùng khi nặn mụn chắc là sẽ rất hiệu quả. Khi nào có dịp, nhất định Nguyên Thục phải theo xin Trịnh Khải mấy lọ để làm của, sau này có thể trở về nhà rồi thì lôi ra đem bán lại, chắc chắn khi ấy cũng hốt được khối tiền.
- Làm xong việc hãy đến phòng tôi, tôi có chuyện muốn nói với cô.
Chả biết Trịnh Khải có hiểu được những suy nghĩ của nó hay không, mà khi thấy Nguyên Thục nhìn chằm chằm vào lọ thuốc nhỏ bé trên tay mình, anh liền đặt nhẹ lọ thuốc nhỏ bé đó vào tay Nguyên Thục trước đôi mắt ngạc nhiên của nó, rồi quay người bước ra khỏi khu ngự trù trước hàng chục cung nữ đang cúi đầu - vì không dám nhìn mặt chúa theo quy định khắc khe - đồng thời để lại câu nói khiến khuôn mặt đang ngơ ngác của Nguyên Thục nay lại càng ngơ ngác hơn. Hưm! Làm xong việc rồi thì đến phòng anh ta à. Có chuyện gì vậy nhỉ? Không phải để hối thúc việc ba ngày giảm giá xuống còn lại một, hay là thôi không cần đến lúc nó trả lời mà đã tìm thấy người thích hợp cho vai trò phi tử “hờ” của mình. Chậc! Thế cũng tốt! Nguyên Thục nghĩ thầm trong bụng. Ít ra như thế thì từ nay nó cũng sẽ yên ổn sống trong cái phủ chúa này trước khi tìm ra đường trở về nhà mà không bị ai tỵ nạnh, thù ghét hay chơi khăm nó như vừa rồi.
Trong khi Nguyên Thục còn đang bận phỏng đoán xem chuyện Trịnh Khải muốn nói với nó là gì, thì Trịnh Khải cũng đã về tới tòa ngự lâu quen thuộc của mình. Nhìn thấy hai hàng cung nữ đang đứng ngấp nghé trước cửa phòng, Trịnh Khải chỉ khoát tay ra hiệu cho tất cả lui trước sự ngại ngần và bối rối hiện rõ trên khuôn mặt của mỗi người. Bước chân vào phòng rồi đóng nhẹ cánh cửa sơn son lại, Trịnh Khải liền mở hết các cánh cửa sổ ra cho gió tràn vào, và đưa mắt nhìn xuống vườn hoa đang rực rỡ khoe sắc màu. Những cánh hoa mềm lay động trong gió, mùi hương hoa dịu dàng như phảng phất đâu đây, khiến cho anh cảm thấy tâm trí mình chợt trở nên mông lung
Sau khi đã thay áo đâu đó hoàn tất, Trịnh Khải tự tay rót cho mình một tách trà thơm còn ấm nóng rồi đặt lên bàn, khi nghe thấy tiếng gõ cửa ngập ngừng ở bên ngoài. Biết người mới gõ cửa không ai khác là Nguyên Thục, anh nhẹ nhàng mở cửa ra và mỉm cười khi trông thấy nét mặt bối rối của nó, do không biết anh gọi mình tới đây là có chuyện gì. Ngay lúc Nguyên Thục bước chân vào ngạch cửa tòa Ngự lâu, thì cũng là lúc một nàng cung nữ xinh đẹp từ xa tiến lại gần, trên tay ôm một bộ quần áo và chiếc hộp sơn son thếp vàng được cài then cẩn thận. Nhác thấy Nguyên Thục đứng tần ngần ở đó, đôi mắt hạnh của cô cung nữ chợt lóe lên một tia sáng lấp lánh nhưng chỉ trong chốc lát rồi phụt tắt. Bờ môi đỏ mọng nở một nụ cười rạng ngời khi trao những thứ trên tay mình cho Trịnh Khải, rồi duyên dáng cúi đầu thi lễ trước khi quay người đi, bỏ lại sau lưng cái nhìn tò mò của Nguyên Thục khi nó nhận thấy ánh mắt của nàng cung nữ liếc về phía mình sao có vẻ kiêu ngạo khác thường.
Không bận tâm đến những thắc mắc trong đầu của Nguyên Thục, hoặc cũng có thể biết mà không tiện trả lời, Trịnh Khải đặt tất cả những thứ vừa mới nhận được từ tay nàng cung nữ lên bàn đoạn từ tốn giải thích, trước đôi mắt ngạc nhiên của Nguyên Thục do không hiểu anh đang muốn làm gì.
- Hôm nay tôi đã nhận lời quốc sư rằng sẽ đến phủ ông ta để tham dự tiệc, cô có muốn đi cùng với tôi không?
- Sao? Đi dự tiệc á?
Ngay khi Trịnh Khải vừa dứt lời, Nguyên thục đã vọt miệng hỏi với nét mặt ngạc nhiên vì không nghĩ chuyện anh muốn nói với nó là chuyện này. Để cho Nguyên Thục đắn đo, suy nghĩ xem có nên nhận lời hay không, Trịnh Khải ung dung nhấp một ngụm trà giờ đã nguội trong khi ngồi đợi câu trả lời. Mùi hương nhẹ nhàng từ cây nến trầm đặt trên giá đồng dịu dàng phảng phất quanh căn phòng. Bầu không khí trong tòa ngự lâu trở nên cô đọng, từng giọt nước rơi tí tách nhỏ giọt của chiếc đồng hồ vang lên đều đều như đang đếm nhịp thời gian. Chừng như suy nghĩ đã lâu xem điều đó đối với mình có lợi hay hại, Nguyên Thục mới ngước nhìn khuôn mặt thanh tú của Trịnh Khải đang đăm chiêu suy nghĩ điều gì đó rất mông lung, rồi nó dè dặt lên tiếng vì sợ mình sẽ làm ảnh hưởng đến dòng suy nghĩ trong đầu anh cũng không biết chừng.
- À…ừm… đi dự tiệc cũng được. Nhưng tôi ăn mặc thế này, đến đó không có vấn đề gì chứ…
Trước sự bối rối của Nguyên Thục, Trịnh Khải chỉ mỉm cười, và nụ cười đó khiến Nguyên Thục phải đặt dấu hỏi to tướng đối với con người đang ngồi trước mặt mình. Đối với nụ cười của những người khác, Nguyên Thục không biết có cảm nhận ra sao chứ riêng đối với Trịnh Khải, những nụ cười của anh đều rất dịu dàng. Thế nhưng nụ cười đó bao giờ cũng đi kèm với một đôi mắt thật mênh mang, làm cho Nguyên Thục cảm thấy rằng ở con người này có một cái gì đó rất trầm lắng, hệt như một viên đá nhỏ bé rơi tõm xuống mặt hồ mà không để lại dấu vết gì. Trong lúc Nguyên Thục còn đang suy nghĩ, Trịnh Khải đã cầm lấy bộ y phục màu xanh lá chuối để trên bàn và trao vào tay Nguyên Thục trước sự ngạc nhiên vô kể của nó, đoạn mỉm cười.
- Không sao! Y phục và đồ trang điểm tôi đã chuẩn bị sẵn cho cô. Bây giờ cô mau thay đồ, trang điểm, rồi chúng ta cùng đến phủ quốc sư.
Nheo mắt lại vì Trịnh Khải đã chuẩn bị sẵn tất cả đâu vào đó, như biết chắc rằng nó sẽ đồng ý mà không thể chối từ. Nguyên Thục săm soi bộ y phục xanh nhạt trên tay mình và bất giác … mồ hôi hột túa ra vì không biết cách mặc bộ y phục này như thế nào. Áo cung nữ đã phải khó khăn lắm mới nhớ dây nào nằm ở vị trí nào, nay chơi nguyên bộ đồ màu xanh nhạt đúng điệu công chúa, tiểu thư thế này thật chẳng thể nào biết được nên mặc cái nào trước, cái nào sau. Trông thấy dáng bộ lúng túng của Nguyên Thục, Trịnh Khải có hơi ngạc nhiên trong chốc lát thế nhưng cũng nhanh chóng đoán ra được phần nào. Thế là anh lên tiếng hỏi kèm theo một nụ cười nhẹ khiến đôi má của Nguyên Thục đã đỏ nay lại càng đỏ thêm bội phần.
- Cô có biết mặc không?
- Ai nói… không biết! Để đó!! Tôi…tôi mặc cho anh xem, nhưng tôi cấm anh nhìn đó, biết chưa.
Quyết không để cho mình quê độ trước mặt Trịnh Khải, Nguyên Thục liền chối phắt khi đôi mắt nheo lại của anh đang nhìn mình. Đối với những chuyện vặt vãnh thế này, chỉ cần chịu khó mày mò chút xíu là ra, tuyệt đối không thể nhờ vả bất cứ một ai vì trong phủ chúa này lòng người khó đoán. Hơn nữa, nếu nhờ các nàng cung nữ mặc đồ giúp mình, biết đâu đấy họ lại chơi khăm hay để bụng vì nó được Trịnh Khải cho theo dự tiệc mà sinh lòng oán ghét thì vô cùng rắc rối. Chậc! Nói nó suy bụng ta ra bụng người cũng được, dẫu sao lo xa còn hơn buồn gần. Vả lại những chuỵên cỏn con thế này bây giờ nó không làm được, sau này sao có thể làm những chuyện khác quan trọng hơn.
Đưa mắt ngó nghiêng một vòng quanh tòa Ngự lâu, ánh mắt Nguyên Thục dừng lại sau bức bình phong khá kín, là nơi có thể thoải mái thay đồ mà không bị ai nhòm ngó gì. Nguyên Thục vội vàng ôm bộ y phục chui tọt vào trong đó sau khi cảnh cáo Trịnh Khải không được…nhìn trộm, dù biết tỏng anh chẳng làm thế bao giờ.
Trong lúc đợi Nguyên Thục thay y phục chỉnh tề, Trịnh Khải nhẹ mở nắp hộp trang điểm ra, từng ngón tay mảnh khảnh của anh lướt nhanh trên từng chiếc hộp son, phấn bé nhỏ, và bên tai nghe như có tiếng cười trong trẻo vọng lại đâu đây. Đồng hồ lại tiếp tục nhỏ giọt chậm chạp, báo hiệu thời gian từng khắc đã trôi qua mà Nguyên Thục vẫn chưa xuất đầu lộ diện, điều này khiến đôi mày thanh tú của Trịnh Khải chau nhẹ vì không nghĩ rằng đối với việc thay quần áo, Nguyên Thục lại lâu đến như thế này.
- Trịnh…Khải…
Đang tính lên tiếng hỏi Nguyên Thục tại sao đến giờ này vẫn chưa thay y phục xong, thì cái giọng ấp úng pha lẫn ngập ngừng của Nguyên Thục đã dè dặt vang lên làm Trịnh Khải ngạc nhiên vô kể. Biết chắc cô gái này đang gặp rắc rối về vấn đề y phục, thế mà lúc nãy cứ nói chắc như đinh đóng cột một hai rằng mình làm được, Trịnh Khải tiến lại gần bức bình phong và lên tiếng hỏi, vì không biết Nguyên Thục đang thay y phục đến “giai đoạn” nào.
- Sao thế?
- Tôi…tôi…Nó rối hết trơn rồi…
- Cái gì rối?
- Mấy…sợi dây! Tôi không biết…phải xỏ vào đâu…nên...
- Đưa tôi coi.
- Á! Anh không được vào đây! Không được! Đứng ngoài đó cho tôi!
Đằng sau bức bình phong, khuôn mặt của Nguyên Thục giờ đây đỏ còn hơn quả cà chua chín, khi nó đang gặp rắc rối với vấn đề y phục của mình và còn nghe Trịnh Khải bảo “đưa tôi coi” một cách tỉnh bơ. Ôi trời! Anh ta nghĩ gì vậy chứ! Thời buổi này không phải cái câu “nam nữ thọ thọ bất tương thân” kia vẫn còn có tác dụng hay sao. Nghĩ sao mà bảo nó đưa cho anh ta coi, trong khi nó lại đang trong tình trạng… hở hang như thế này. Nhưng nếu không thế thì mớ dây lùng nhùng và bộ y phục này sẽ không cách nào giải quyết được, thử hỏi nó bây giờ phải làm sao đây…
- Nguyên Thục! Sao thế? Mau đưa tôi xem mấy sợi dây ấy thế nào?
- Không! Anh cứ ở ngoài đó! Không… không được vào đây! Tôi không chịu đâu!
Nguyên Thục giật mình toát cả mồ hôi hột vì sợ. Nó dù rất muốn mặc xong bộ y phục này cho nhanh nhưng lại lay hoay mãi mà vẫn không tháo dây ra được. Trong khi đó, Trịnh khải ngoài kia lại yêu cầu như thế, khiến cho tay chân nó trở nên quýnh quíu và lúng túng khi cố sức gỡ từng sợi dây đang rối vào nhau. Chính vì quá hấp tấp và vội vàng, lại thêm xoay trở qua lại khi ráng giữ cố định chiếc áo xanh nhạt bên ngoài bằng một sợi dây lụa cùng màu, nên vô tình Nguyên Thục đã đụng phải tấm bình phong vẽ tranh thủy mặc đang che chở cho mình. Chỉ nghe “soạt” một tiếng nhẹ, bức bình phong dỗi hờn cái kẻ đã huých vào người mình không thương tiếc nên nằm lăn ra đất ăn vạ, để lại cho cái kẻ nhẫn tâm đó - là nó - một sự sửng sốt tột cùng vì không ngờ sự việc lại diễn biến theo chiều hướng xấu đi. Giờ đây, vật che chắn an toàn nhất cho mình đã bị đổ ngã, để rồi cả người nó bây giờ hiện rõ ra trước đôi mắt ngạc nhiên của Trịnh Khải khi anh quay người lại, vì nhận thấy có gió thổi tới từ phía sau lưng mình…
Ngay lúc này, trong tòa Ngự lâu chợt có tiếng la thất thanh của một nàng cung nữ đột ngột vang lên, khiến cho cả phủ chúa đang chìm trong yên tĩnh đột ngột bị đánh thức, do lần đầu tiên nàng cung nữ ấy thay đồ mà bị người khác phái vô tình trông thấy một cách lộ liễu như thế này…
★ Chương 34: Lạ
Trong phút chốc, cả phủ chúa Trịnh chợt trở nên xôn xao như bầy ong vỡ tổ bởi một tiếng la thất thanh từ tòa Ngự lâu đưa tới, khiến đám lính cấm vệ đang tuần tra ở dãy hành lang phía tây vội vàng thủ sẵn gươm giáo trong tay và chạy như bay về phía phát ra tiếng la thất thanh kia. Trong khi những cung nữ và thái giám đang đứng lảng vảng ở bên ngoài cùng với sự lo lắng vì e sợ bên trong có thích khách, thì Dương thái phi từ sau bức rèm hồng đã nhanh chóng xuất hiện. Khuôn mặt hoa của bà nhuốm vẻ hoang mang vì không biết chuỵên gì vừa mới xảy ra. Cùng lúc ấy, những tiếng chân chạy rầm rập trên hành lang đổ dồn về tòa Ngự lâu ngày một gần. Đám lính cấm vệ nhanh chóng xuất hiện cùng với gươm giáo sáng ngời để sẵn sàng đối phó với những gì đang diễn ra bên trong tòa Ngự lâu, nhằm bảo vệ tính mạng cho chúa công của mình được an toàn
Trông thấy lính cấm vệ đã tới, những cung nữ và thái giám vội vàng tránh ra hai bên để không cản trở người thi hành công vụ. Đưa mắt ngó nhau khi bên trong tòa Ngự lâu im lặng như tờ, đám lính cấm vệ đứng chần chừ bên ngoài với một nét mặt căng thẳng, vì ai nấy đang ngần ngừ chưa dám vào do sợ chất độc sẵn có bên trong Ngự lâu khiến Dương thái phi vô cùng bực mình. Buông lời nhiếc mắng đám lính cấm vệ vô dụng, Dương thái phi vì lo Trịnh Khải xảy ra sự cố gì liền dấn thân tới trước. Bàn tay mềm mại của bà tính đẩy cửa bước vào thì cánh cửa sơn son đang đóng im lìm đột ngột mở ra, khiến bà giật mình vội lùi về phía sau một bước trong khi đám lính cấm vệ vội vàng giơ kiếm lên thủ thế, đề phòng có chuỵên gì xảy ra còn có thể xoay trở kịp tình hình.
Rảo mắt nhìn những khuôn mặt căng thẳng để đề phòng có tập kích, Trịnh Khải chỉ mỉm cười không nói gì. Như trút được gánh nặng, tất cả thở phào nhẹ nhõm khi thấy chúa công của mình vẫn an toàn và không bị thương tổn sợi tóc nào. Đưa tay lên ngực vuốt nhẹ để trái tim đập bình ổn trở lại, Dương thái phi vội chạm vào người Trịnh Khải xem anh có bị thương tích nào không, và khuôn mặt hoa nhợt nhạt ban nãy giờ đã trở lại hồng hào khi con mình thật sự an toàn. Nhưng nếu con mình đã thật sự an toàn, vậy tiếng la thất thanh khi nãy bắt nguồn từ tòa Ngự lâu này là duyên cớ tại sao?
- Chúa công! Ngọc thể của ngài không sao chứ?
- Ta không sao! Các ngươi có thể trở về!! _ Gỡ nhẹ tay Dương thái phi xuống khi bà đã lo lắng quá mức cho mình, đôi mày thanh tú của Trịnh Khải thoáng nhướng lên khi lướt mắt qua đám cấm vệ, khiến cho chúng cảm thấy bối rối và tránh nhìn vào đôi mắt sâu hun hút của vị chúa này.
- Nhưng còn tiếng la khi nãy? Tiếng la ấy có phải từ trong vọng ra không?
Dương thái phi vội vàng lên tiếng hỏi và đưa mắt nhìn vào bên trong cánh cửa đang khép hờ của tòa Ngự lâu qua vai của Trịnh Khải. Đôi mắt hạnh của bà chợt tối lại khi trông thấy một cô gái đang quấn mình sau tấm rèm, khuôn mặt non nớt đỏ ửng lên vì chuỵên gì thì chỉ có cô ta và con trai mình mới hiểu. Vịn nhẹ tay vào cánh cửa để ngăn lại đôi mắt tò mò của Dương thái phi, Trịnh Khải nhìn thẳng vào mắt bà và chậm rãi buông từng lời.
- Chuyện nhỏ nhặt ấy mẫu hậu đừng bận tâm! Sức khỏe của người vốn không tốt, mẫu hậu nên ra ngoài hoa viên hít thở không khí trong lành rồi quay về phòng nghỉ ngơi để tránh khí lạnh ở đây gây xâm nhập vào cơ thể mình.
Đưa mắt ra hiệu cho đám lính cấm vệ rút đi để tránh tụ tập ồn ào, Trịnh Khải đặt bàn tay mềm mại của Dương thái phi vào cô cung nữ thân tín của bà, rồi ra hiệu cho nàng ấy đưa mẹ mình quay trở về cung. Dù còn muốn nán lại đây lâu hơn chút nữa để xem cô gái đang ở trong phòng Trịnh Khải là ai vì xưa nay con mình không gần nữ sắc, Dương thái phi cũng đành phải chuyển gót trở về cung, khi ánh mắt ôn hòa pha lẫn cứng rắn của Trịnh Khải nhìn về phía mình cùng với biết bao thắc mắc trong đầu.
Dõi mắt nhìn theo đám đông dần tản ra rồi khuất sau những tấm rèm bằng trúc, Trịnh Khải mới từ tốn đóng cửa lại. Anh đưa mắt nhìn Nguyên Thục đang vùi mình vào trong tấm rèm do gặp sự cố, khuôn mặt đỏ au khi nhớ đến tình cảnh có nằm mơ cũng không thể ngờ xảy ra lúc nãy, và Nguyên Thục chỉ còn đứng đó biết giương mắt nhìn Trịnh Khải, môi mấp máy chẳng thốt nổi câu nào vì chưa hết ngượng ngùng.
- Cô đã thay xong chưa? _ Trông thấy tình trạng dở khóc dở cười đó của Nguyên Thục, Trịnh Khải chỉ cười nhẹ và lên tiếng hỏi, cứ như thể chưa từng có chuyện gì xảy ra. Và điều đó khiến Nguyên Thục đang ngượng chín người vì xấu hổ cũng dần lấy lại bình tĩnh, khi tự trấn an mình rằng anh đã thản nhiên như thế thì có lẽ cũng chưa trông thấy được cái gì…
- Ch…chưa! Nh…nhưng có lẽ tôi không đi đến đó với anh được đâu. Dù không muốn thừa nhận nhưng tôi cũng phải nói thật, đó là tôi không biết mặc mấy loại áo rắc rối này.
Khi Nguyên Thục nói ra những điều đó, cũng có nghĩa nó đã chấp nhận một ánh mắt chế giễu hay một nụ cười mỉa mai từ Trịnh Khải. Thế nhưng trái với dự đoán của nó, đôi mắt của Trịnh Khải chỉ ánh lên nét ngạc nhiên trong thoáng chốc rồi biến mất. Thay vào đó là một nụ cười dịu dàng và thông cảm, khiến cho Nguyên Thục đang chuẩn bị đón nhận những lời “nặng nhẹ” của anh đại loại như “có mỗi việc mặc đồ cũng không xong”, hay “cô thật vô dụng” cũng phải ngẩn người ra vì không nghĩ rằng sẽ như thế này.
- Bước ra đây! Tôi giúp cô mặc áo.
Giọng nói của Trịnh Khải rất nhẹ, thế nhưng đối với Nguyên Thục chẳng khác nào loa phát thanh của đài FM oang oang ngoài cổng trường mỗi khi tan học về, khi nghe anh nói đến chuyện giúp mặc đồ mà mặt vẫn thản nhiên như không. Nghĩ sao vậy? Nó là con gái, và cái câu “nam nữ thụ thụ bất thân” kia lẽ ra Trịnh Khải phải biết chứ. Ôi trời, có khi nào cái tư tưởng nho giáo đó vào thời này bị thái hóa hết cả rồi không…
- Thôi thôi! Tôi không cần anh mặc giùm áo, cũng không muốn đi đến cái bữa tiệc gì đó đâu. Anh làm ơn ra ngoài để tôi thay lại y phục cung nữ của mình, cái đó còn dễ mặc hơn.
- Không sao! Ra đây! Tôi sẽ giúp cô mặc y phục.
Trịnh Khải vừa nói vừa tiến về phía Nguyên Thục đang đứng nép mình sau tấm rèm. Đôi mắt sâu thăm thẳm của anh nhìn về phía nó, và sâu trong đôi mắt ấy là một nỗi u hoài mênh mang, tuyệt nhiên không có chút gì vẩn đục và tà niệm khiến Nguyên Thục dù đang đánh lôtô trong lồng ngực, nhưng vẫn cảm thấy an tâm đồng thời sự e ngại trong lòng nó bây giờ cũng đã nhẹ vơi đi nhiều. Cắn môi do dự, cân nhắc xem mình bây giờ nên làm gì - một lúc lâu, Nguyên Thục bất giác ngước lên nhìn Trịnh Khải. Anh đang đứng đó chờ đợi, từ trong đôi mắt toát lên một sự ấm áp và nụ cười dịu dàng làm cho Nguyên Thục cảm thấy vô cùng an tâm. Dù mặt còn đỏ như gấc chín, thế nhưng Nguyên Thục cũng nhẹ gật đầu một cái, tỏ ý “anh có thể giúp tôi”.
Thời gian trong tòa Ngự lâu nhè nhẹ trôi qua. Bát hương trầm đặt cuối góc phòng nhẹ tỏa những luồng khói trắng mỏng. Qua làn khói trắng mỏng mờ ảo đó, Trịnh Khải đang giúp Nguyên Thục thắt những sợi dây thành hình một giải nơ nhỏ nhắn ôm lấy thắt lưng của nó. Nhìn những ngón tay mảnh khảnh của Trịnh Khải lướt nhanh trên dải lụa, Nguyên Thục tự hỏi không biết Trịnh Khải sao có thể hóa giải được cả đám dây lùng nhùng sợi nào ra sợi nấy, lại còn tạo thành một chiếc nơ xinh xắn đường hoàng như thế này.
- Được rồi! Bây giờ chỉ còn trang điểm nữa thôi, cô có biết trang điểm không?
Tính há miệng nói “được” một cách chắn chắn vì dẫu sao trang điểm cũng là một thế mạnh của phái nữ, nhưng đến khi trông thấy Trịnh Khải mở chiếc hộp trang điểm lên, để lộ ra một loạt những chiếc lọ nhỏ, kèm theo vài cây cọ được túm lại bằng những sợi lông mềm mại mà không có lấy thỏi son, hay chí ít là cách ngậm son trên môi như trong phim Trung Quốc mà nó đã từng xem khiến Nguyên Thục bối rối. Trông thấy nét mặt lúng túng của nó, không cần Nguyên Thục thật thà khai báo Trịnh Khải cũng đã hiểu ngay sự việc. Bờ môi thanh tú hé một nụ cười, Trịnh Khải đẩy nhẹ vai Nguyên Thục ngồi xuống chiếc ghế mây bọc nệm nhung, anh cầm lấy một chiếc hộp bạc nhỏ xinh lên tay, đoạn nhìn sâu vào đôi mắt đang mở to của Nguyên Thục- vì không hiểu anh muốn làm gì- và chậm rãi buông từng lời.
- Nhắm mắt lại.
- Hả?
- Ngốc! Không nhắm mắt lại, tôi sao trang điểm cho cô?
Khi nghe Trịnh Khải bảo nhắm mắt lại, Nguyên Thục lật đật “hả” lại một tiếng vì bất chợt nghĩ đến mấy trường hợp bảo đối phương nhắm mắt lại để… trao cho nhau một nụ hôn như các bộ phim mà nó vẫn thường hay coi trên tivi. Đến khi nghe mục đích của Trịnh Khải, Nguyên Thục chợt đỏ bừng cả mặt và vội nhắm mắt lại. Trong bụng nó ngầm thắc mắc tại sao một vị chúa như Trịnh Khải lại biết trang điểm, đồng thời cũng thầm trách mình từ nay hạn chế coi mấy phim tình cảm Đài Loan, Hàn Quốc lại, và chuyển qua phim kinh dị như Linh Lan cho chắc ăn…
- Trịnh Khải…
- Sao?
- Anh làm sao biết thắt những sợi dây đó và trang điểm vậy?
Đang chấm nhẹ đầu cọ mềm mại vào chất bột xanh mịn màng trong chiếc hộp nhỏ gọn trên tay, Trịnh Khải có hơi ngừng lại khi nghe Nguyên Thục bất chợt lên tiếng. Đưa tay kẻ những đường nét xanh nhạt mỏng manh trên mí mắt của Nguyên Thục, đôi mắt sâu thẳm của Trịnh Khải chợt trở nên mông lung, và giọng nói trầm ấm của anh cất lên từ tốn như đang thả hồn vào một miền xa xăm nào đó trong ký ức mơ hồ...
- Khi còn nhỏ, tôi có trang điểm cho mẹ tôi…
- Ồ! Thật à…
- Đừng mở mắt.
Đang hấp háy tính mở mắt ra theo thói quen mỗi khi nghe đến chuyện thú vị, Nguyên Thục vội vàng nhắm chặt mắt lại theo lời cảnh báo của Trịnh Khải. Nó hiểu rằng trong khi đang đánh mắt mà mở ra thì là một điều tối kỵ nếu không muốn bị bụi phấn rơi vào. Thế nhưng chuyện mà Trịnh Khải vừa nói quả thật vô cùng thú vị, vì nó chưa từng nghĩ một vị chúa Trịnh lại có thể trang điểm cho mẹ khi còn nhỏ, những điều này quả thật lịch sử chưa hề đề cập tới bao giờ.
- Khi còn nhỏ anh đã từng trang điểm cho mẹ à? Tại sao vậy?
Những ngón tay mảnh khảnh của Trịnh Khải vẫn miết nhẹ lên mi mắt của Nguyên Thục và tạo thành một đường kẻ bạc mỏng như màu khói trông vô cùng đẹp mắt. Tiếp tục lấy một hộp nhỏ khác và nhúng chiếc cọ vào ly nước để kế bên để rửa sạch phấn, Trịnh Khải lại lấy một chiếc cọ mềm khác và mài lên chất bột hồng hồng trong chiếc hộp cho đều tay, rồi đánh nhẹ lên đôi má của Nguyên Thục đọan chậm rãi nói từng lời.
- Phụ thân tôi không yêu mẹ tôi. Điều đó đã làm bà rất buồn.
Bàn tay của Trịnh Khải vẫn miết nhẹ lên má của Nguyên Thục, thế nhưng trong tâm trí anh lại hiện lên hình ảnh một vườn đào đầy những sắc hoa trắng hồng. Xác hoa đào cuối đông rải rác trong sân vườn và một người phụ nữ xinh đẹp đang ngồi đó, đôi mắt đẹp đẫm lệ nhìn những cánh hoa lay động trong gió. Và dường như bờ vai gầy mỏng manh của cô cũng lay động theo nắng gió ban mai.
“Mẫu thân!”
Người thiếu phụ thoáng giật mình khi một giọng nói trẻ con thấp thoáng sau rặng liễu bất chợt vang lên, phá tan bầu không khí hiu quạnh chiếm hữu bên trong khu vườn. Một cậu bé xinh xắn với đôi mắt đen to tròn mặc áo gấm, tay ôm chiếc hộp trang điểm sơn son chạy nhanh lại chỗ người thiếu phụ. Bàn tay nhỏ nhắn chùi nhanh trên gương mặt thanh tú của mẹ mình để lau khô những giọt lệ sầu muộn trong tim.
“Mẫu thân! Người đừng khóc. Khải nhi sẽ trang điểm cho mẫu thân thật đẹp. Để phụ thân thấy mẫu thân là người xinh đẹp nhất trên đời”
Những giọt nước mắt nóng hổi của người thiếu phụ chợt rơi xuống gò má phúng phính của cậu bé, khiến bàn tay nhỏ nhắn của cậu cuống quýt chùi nhanh những giọt nước mắt đong đầy chưa kịp rơi, miệng rối rít và giọng nói như muốn vỡ òa.
“Mẫu thân! người đừng khóc. Nếu người khóc, sẽ uổng công trang điểm của Khải nhi mất thôi. ”
Chậm chạp lau nhanh những giọt lệ còn đọng trong mắt, người thiếu phụ nở một nụ cười gượng gạo khi nhìn con mình thoăn thoắt mở chiếc hộp trang điểm ra. Với một vẻ mặt chăm chú và say mê, cậu bé lần lượt tô điểm cho đôi mắt hạnh, gò má hồng và bờ môi đào của mẹ mình bằng những chiếc cọ nhỏ mềm, để cho người cha đắm say hoa lạ bao năm kia nhận ra được nét đẹp rạng rỡ của mẹ mình mà tìm đường quay trở về.
o0o
- Tôi biết mẫu thân buồn vì phụ thân không đoái hoài tới bà ấy, thế nên mới học cách trang điểm từ các cung nữ để làm cho bà trở nên xinh đẹp hơn. Như thế phụ thân sẽ một lần quay lại nhìn ngắm bà, và biết mẹ tôi xinh đẹp như thế nào.
Không cần biết bụi phấn có rơi vào mắt mình hay không, Nguyên Thục chợt mở bừng mắt ra và bắt gặp ánh mắt đang sẫm lại của Trịnh Khải. Trong thoáng chốc, nó có cảm giác rằng con người này là một màn đêm thăm thẳm. Trong cái màn đêm đó người ta có thể cảm nhận được một nỗi u hoài trống trải, một nỗi hiu quạnh buồn thương ẩn đằng sau nụ cười dịu dàng và đôi mắt sâu thẳm như đại dương bao la.
- Phụ thân anh không đoái hoài tới mẹ anh, thế còn anh?
Lúc này, đôi má của Nguyên Thục hây hây như trái đào tiên đang chín hồng bởi bàn tay nghệ thuật của Trịnh Khải. Tiếp tục mở nắp hộp có chứa chất bột mịn màu đỏ tươi và nhúng cọ vào nước cho mềm, Trịnh Khải quét nhẹ đầu cọ trên chất bột ấy rồi thấm lên bờ môi đang hé mở của Nguyên Thục, và chậm rãi từng lời
- Tôi chưa từng được sinh ra.
Trịnh Khải chỉ nói thế, rồi lặng thinh cho đến khi hoàn thành công việc trang điểm của mình, trong khi Nguyên Thục bỗng cảm thấy bâng khuâng đối với những lời nói và hành động của vị chúa Trịnh cuối cùng trong lịch sử này. Nó bỗng có cảm thấy tò mò về Trịnh Khải. Có cảm giác con người này không đơn giản là quyền lực với toan tính, có cảm giác muốn nhìn thấy những ngõ ngách trong tâm hồn của anh. Có cảm giác muốn… Chết tiệt! Nó đang nghĩ gì thế này…
- Đựơc rồi! Y phục và trang điểm đã xong. Chúng ta đi thôi.
- Khoan... khoan đã. Trong phòng anh không có gương à?
Xếp những đồ trang điểm nằm lại ngay ngắn trong chiếc hộp, Trịnh Khải nhìn lần lượt từng đường nét trên khuôn mặt của Nguyên Thục và mỉm cười, khiến nó cảm thấy lúng túng hơn khi chạm phải ánh mắt dịu dàng của anh. Trịnh Khải đã trang điểm cho nó, không biết bây giờ nó như thế nào nhỉ? Có đẹp hơn không? Có xinh hơn được chút nào không hay vẫn mãi là một chú vịt con xấu xí. Nghĩ đến đó, Nguyên Thục dáo dác nhìn khắp phòng và thấy thất vọng khi không thấy có bóng dáng một chiếc gương nào, như thế làm sao nó có thể xem mình xấu đẹp ra sao?
- Cô cần gương để soi?
- Tất nhiên! Lỡ tay nghề của anh không được tốt thì sao, tôi phải coi mình xấu đẹp như thế nào chứ.
Trịnh Khải nheo mắt lại khi nghe Nguyên Thục tỏ ý nghi ngờ về tài trang điểm của mình. Thấy nó ngó quanh quất với hy vọng sẽ thấy một tấm gương nho nhỏ để “chiêm ngưỡng” dung nhan thế nào, anh nhẹ nắm lấy bờ vai của Nguyên Thục và xoay người nó đối diện với mình, rồi nhìn thật sâu vào mắt nó và mỉm cười.
- Nhìn vào mắt tôi. Đó là gương soi.
Có hơi bất ngờ khi Trịnh Khải đột ngột nắm lấy vai mình kéo lại, Nguyên Thục ngỡ ngàng mở to mắt ra nhìn lấy bóng mình trong đôi mắt của Trịnh Khải. Hiện rõ trong đó là một cô gái nhỏ nhắn, với đôi má hồng hồng và bờ môi đỏ mọng, mịn màng đang bẽn lẽn nhìn vào tấm gương “đặc biệt” nhất trên đời. Ngỡ ngàng khi nghe nhịp tim đập mỗi lúc một nhanh, Nguyên Thục vội vàng quay ngoắt người đi và đôi má của nó nóng như hơ lửa, đồng thời vành tai đỏ ửng lên do không quen gần gũi với người khác quá như thế này.
- Đã thấy chưa?
- Rồi! Thấy rồi!
Nguyên Thục vội trả lời cho qua chuyện vì không muốn nhìn vào mắt Trịnh Khải thêm một lần nữa. Nhẹ đưa tay lên ngực để trấn áp trái tim đang đập mỗi lúc một nhanh trong lồng ngực, Nguyên Thục bất giác nhíu mày lại khi nhìn thấy một sợi dây có đính một con phụng hoàng bằng chỉ thêu ngũ sắc đeo ở trên cổ mình. Tò mò cầm lấy con phượng hoàng, Nguyên Thục đưa mắt nhìn Trịnh Khải một cách ngạc nhiên vì không hiểu con phượng hoàng này ở đâu ra. Nhận thấy ánh mắt hoang mang đó của nó, Trịnh Khải chỉ nhẹ lời.
- Đeo nó, cô sẽ ở bên cạnh tôi mà không bị chất độc xâm nhập vào.
Mân mê con phuợng hoàng tinh xảo thêu bằng chỉ ngũ sắc trong tay, Nguyên Thục bất giác mỉm cười khi những lời Trịnh Khải vừa mới lọt vào tai mình. Nó ngước mắt lên nhìn anh đoạn nhẹ gật đầu một cái, rồi cùng Trịnh Khải khép nhẹ cánh cửa ngự lâu lại trước những những đôi mắt mở to của các cung nữ. Nguyên Thục nhìn thẳng về phía trước, nó ung dung cùng anh tiến bước đến hai chiếc kiệu sơn son đã chực chờ sẵn ngoài cổng phủ, để nhắm thẳng hướng đến phủ quốc sư.
★ Chương 35: Lần thứ hai
Linh Lan vội vàng mở choàng mắt khi ánh mặt trời len lỏi qua từng kẽ lá, soi rọi vào nơi nó đang cuộn tròn trong chăn như con mèo lười nhác nằm trên mái nhà. Ngó lên những tàn cây lung linh nắng, đôi mắt của Linh Lan giờ như gấu trúc vì đêm qua không tài nào ngủ được do còn thao thức trằn trọc, khi nghĩ đến Anh Tú hiện giờ không biết sống chết thế nào? Làm sao mới có thể tìm ra anh nó và làm cách nào để cả hai có thể quay trở về nhà? Lắng nghe tiếng thạch sùng than thở trong đêm, Linh lan chợt thở dài vì những ngày tháng êm ấm quen thuộc bên gia đình nay đã trôi xa, thay vào đó, nó lại một thân một mình lưu lạc ở chốn quá khứ không biết ngày mai sẽ ra sao thế này.
Biết mình có nằm suy nghĩ chán chê thì vẫn không thể tìm ra cách giải quyết, Linh Lan liền vùng dậy, gấp chăn mền ngay ngắn, đoạn xỏ đôi dép vào chân rồi đứng dậy đi ra ngoài. Hất những tia nước mát lạnh thấm sâu vào da thịt, Linh Lan nhìn những ngọn gió mơn man trên luống hoa cải vàng đằng sau khoảnh vườn nhỏ xinh trồng đủ loại rau, mà cảm thấy tâm hồn mình thư thái đi phần nào. Đang tập một vài động tác thể dục cho tinh thần phấn chấn, Linh Lan chợt nghe có tiếng lao xao ngoài ngõ. Tò mò, nó ra đằng trước hiên xem thử chuỵên gì đang xảy ra, thì trông thấy một nhóm thanh niên mặc áo nâu đứng cạnh hàng rào tre - trước mặt là hàng chục bao gạo và những sọt rau củ xanh tươi chất đầy lên những chiếc xe ngựa - đang nói cười vui vẻ với ông Lương.
Nhác thấy Linh Lan đứng lấp ló sau những chậu hoa gần đó với một đôi mắt tò mò, Bùi Đắc Lương liền nở nụ cười hiền hòa với Linh Lan đồng thời vẫy tay gọi nó lại gần. Chỉ tay về những chiếc xe chở đầy lương thực, Bùi Đắc Lương lên tiếng sang sảng trước khuôn mặt hiếu kỳ của nó, khi không biết những bao gạo này được chở đi đâu vào lúc sáng sớm như thế này.
- Ta đang không biết tìm ai rảnh để sai đi trong khi con cháu trong nhà đều đã có công việc, nay có con thì hay quá. Con hãy thay ta đem những bao lương thực này tới cho Long Nhương tướng quân, và nói rằng đây là chút quà mọn của ta gởi tặng tới nghĩa quân Tây Sơn.
Khi nghe hai chữ “Tây Sơn” vừa thoát ra khỏi miệng của ông Lương, Linh Lan bất giác đưa tay quẹt nhẹ má mình do không biết nghĩa quân Tây Sơn mà ông đề cập đến đóng trại ở đâu, nhưng đồng thời trong lòng nó cũng vô cùng thích thú, vì khi nhắc đến nghĩa quân Tây Sơn, người ta sẽ nghĩ ngay đến Quang Trung Nguyễn Huệ - vị vua đánh đâu thắng đó lừng danh trong sử sách Việt Nam. Nếu như thay mặt ông Lương đưa những chiếc xe lương thực đến trại Tây Sơn, thì rất có khả năng nó sẽ nhìn thấy con người huyền thoại, đầy tài năng do sử sách ca tụng này. Chỉ nghĩ đến việc nó sắp gặp được Quang Trung Nguyễn Huệ, dù chỉ trong chốc lát thôi, là Linh Lan cũng đã cảm thấy vô cùng phấn chấn trong người. Nhưng ngặt nỗi nó lại không biết đường đến trại thế nào, và rủi đi lạc hay nhầm đường một cái thì chỉ có nước ngẩng mặt kêu trời. Lương thực còn không chuyển đến được cho cái ông Long Nhương tướng quân nào đó, hơi đâu mà còn nghĩ tới việc gặp mặt Quang Trung.
- Dạ! Con cũng rất muốn chuyển những bao lương thực đến cho Long Nhương tướng quân, nhưng khổ nỗi con không biết đường, nên…
- Không sao! - Bùi Đắc Lương chợt cười xòa, khiến chòm râu bạc của ông nhẹ run, khi vừa nghe Linh Lan thú nhận mình không biết đường - Mấy cậu trai làng này biết Hoàng Đế Thành ở đâu. Con cứ đi chung với họ, đến nơi thì bảo với mấy cậu canh cửa dẫn thằng Phi ra nhận lương thảo, thế là xong.
Trong phút chốc, Linh Lan có hơi thất vọng khi người ra lấy lương thảo là cậu Phi nào đó, và nó chỉ được đứng ở ngoài, chứ không thể vào tận bên trong Hoàng Đế Thành để xem mặt hoàng đế Quang Trung như thế nào. Chậc! Thế cũng phải. Thông thường quân tướng cấp cao có bao giờ đi ra ngoài để cho thường dân nhìn thấy mặt - trừ khi đi đánh trận - bao giờ, nhất là khi đó còn là hoàng đế Quang Trung. Nghĩ như thế, sự thất vọng trong lòng Linh Lan tan biến nhanh chóng. Nó vẫy tay chào ông Lương và nở một nụ cười thật tươi tỏ ý con sẽ hoàn thành nhiệm vụ, rồi leo lên xe ngồi cạnh một người đàn ông râu ria xồm xoàm, ống tay áo xắn cao để lộ một hình xăm kỳ dị nơi bắp tay. Khẽ gật đầu chào khi người đàn ông nháy mắt với mình, Linh Lan vẫy tay với ông Lương thêm một lần nữa trước khi chiếc xe lăn bánh đi, bỏ lại lớp bụi mờ màu đỏ nhẹ bốc lên từ chiếc bánh xe đã bạc màu
Ngồi trên xe ngựa, Linh Lan thư thái phóng tầm mắt ra những ruộng lúa xanh mênh mông bạt ngàn. Chiếc xe ngựa vẫn đều đặn lăn bánh, thỉnh thoảng lại xốc lên xốc xuống làm Linh Lan ê ẩm cả người khi gặp những con đường lầy lội, gồ ghề sau trận mưa đêm. Rẽ ngoặc ra một con đường cái tương đối rộng, Linh Lan chợt ngồi thẳng lưng lên khi nhìn thấy một ao sen rộng lớn. Từng bông sen trắng hồng, mịn màng đang xòe cánh trên mặt ao xanh ngọc bích, lấp lánh điểm xuyết sắc trắng tinh khôi. Bức tranh thiên nhiên đồng quê tươi đẹp ấy đã làm cho Linh Lan chợt cảm thấy luyến tiếc trong dạ. Nó chạnh lòng nhớ đến thế kỷ hai mốt mà nó đang sống, nơi đó chỉ toàn các tòa nhà cao tầng và những cột khói đen thay thế dần cho những bức tranh thiên nhiên tươi đẹp. Tất cả đều đang dần biến mất dưới bàn tay tàn phá không biết điểm dừng của con người.
Đang miên man suy nghĩ về hiện tại và quá khứ, đôi lông mày của Linh Lan chợt nhíu lại khi nhìn thấy từ phía xa, thấp thoáng sau bụi tre cạnh ao là bóng dáng của một chàng trai mặc áo vàng, và gương mặt bị che khuất bởi một chiếc nón mây rộng vành đội trên đầu. Nếu chỉ có thế thôi thì Linh Lan đã không phải nhíu mày lại như thế. Điều đáng lưu ý ở đây là có vẻ như chàng trai này đang ngồi câu cá, thế nhưng sợi dây câu của anh ta lại không hề chạm đến mặt nuớc mà chỉ lơ lửng ở lưng chừng, việc đó khiến cho nó ngạc nhiên vô cùng vì không hiểu thật ra anh chàng này câu cá kiểu gì. Có vẻ như biết có người đang nhìn mình, chàng trai áo vàng bất chợt ngẩng đầu lên. Chiếc nón rộng vành đan bằng những sợi mây của anh ta trễ xuống, và Linh Lan thoáng thấy bờ môi thanh tú của chàng trai hơi nhếch lên, tạo thành một nét cười kiêu ngạo đến lạ lùng. Vâng! Chính xác là một nét cười chứ không phải nụ cười. Đồng thời cái nét cười ấy làm Linh Lan có cảm giác hơi lợn cợn một chút và vội lảng mắt sang chỗ khác, dù nó không định nghĩa được cái cảm giác đang lợn cợn trong lòng mình ấy là gì.
Chiếc xe ngựa dần tăng tốc, bỏ lại chàng trai áo vàng khuất dần sau những bụi tre rì rào, thế nhưng trong đầu Linh Lan vẫn còn để tâm đến hành động câu cá kỳ quái và nét cười ngạo mạn đó của chàng trai. Chỉ khi băng qua phiên chợ đông đúc, nhộn nhịp, và cánh cổng hoàng thành, thì những hình ảnh đó mới thôi bám riết lấy tâm trí của Linh Lan, để nhường chỗ cho hình ảnh của hoàng đế thành hiện ra sừng sững giữa trời mây. Trước đôi mắt ngạc nhiên của Linh Lan vì lần đầu tiên trông thấy nơi này, người đàn ông áo nâu chậm rãi đánh xe đi dọc lớp tường thành được xây bằng đá ong, và cho xe đỗ lại trước cánh cửa to, rắn chắc của cổng thành. Rồi cũng rất từ tốn, ông gật đầu chào với người lính gác cửa khi thấy anh ta đang trố mắt ra nhìn mình, vì không hiểu mới sáng tinh mơ thế này mà nguyên một đoàn ngươi ngựa tới đây để làm gì.
- Dạ chào anh!! đây là chút quà mọn của cha tôi gởi đến Long Nhương tướng quân. Chẳng hay các anh có thể gọi anh Phi ra nhận được không ạ?
Nhanh nhẹn nhảy xuống xe ngựa, Linh Lan tiến lại gần một người lính gác cổng và tươi cười thân thiện, đoạn bày tỏ mục đích của mình khi tới đây vào lúc sáng sớm như thế này. Nghe Linh Lan nhắc đến Long Nhương tướng quân, và Phi - người có trách nhiệm trông coi kho lương của Tây Sơn - người lính gác cổng nhướng đôi mắt hẹp của mình lên nhìn Linh Lan một lượt rồi hỏi han vài câu, sau đó, anh ta ra hiệu cho người bạn đang đứng phía sau mình chạy vào đội hậu cần để gọi Phi ra nhận lấy. Trong lúc chờ đợi người phụ trách kho đến lấy số lương thảo, Linh Lan đứng lâu thấy mỏi bèn leo lại lên xe ngồi. Bâng quơ nhìn khung cảnh phố phường tấp nập ở bên ngoài, đôi mắt Linh Lan bất chợt nheo lại khi trông thấy từ xa, một con ngựa toàn thân đen tuyền nhưng bốn vó lại trắng tinh như tuyết, điểm thêm một đốm bạc trên đỉnh đầu đang phóng như bay về phía cổng thành.
Ngồi trên lưng ngựa là một chàng trai mặc áo trắng, đôi mắt sáng như sao nhìn thẳng về phía trước. Khuôn mặt kiên nghị nghiêm lại như đang bận tâm đến một chuyện gì đó và thanh đao to tướng trên lưng nhịp nhàng lên xuống theo nhịp vó câu. Nhận ra chàng trai đang cưỡi ngựa ấy không ai khác là Văn Bình, Linh Lan tính mở miệng gọi anh nhưng nghĩ sao nó lại thôi. Bởi dù sao anh và nó cũng chưa có gì gọi là thân thiết, và bản tính của nó lại không tự tiện bắt chuyện với đàn ông con trai trước bao giờ.
Dường như cảm nhận được có người đang nhìn mình, chàng trai áo trắng - tức Văn Bình - liền đưa mắt nhìn về phía tay phải trước khi giục ngựa chạy vào cổng thành. Nhận ra cô gái đang ngồi đung đưa chân trên xe ngựa gần cây đa cổ thụ râm mát chính là cô em vợ tinh quái, người đã giúp mình đọat được thanh bảo đao Ô Long, Văn Bình liền kiềm dây cương lại và thúc ngựa chuyển hướng. Đang lơ đễnh ngắm những rặng núi lẩn khuất trong đám mây mù, bụng than thầm cái người tên Phi nào đó không biết đang ở Ai Cập hay Irắc mà để nó chờ lâu đến thế, thì Linh Lan vô cùng ngạc nhiên khi thấy Văn Bình cưỡi con ngựa ô ung dung đi về phía mình. Trông thấy Văn Bình từ xa cưỡi ngựa đến, người lính canh cửa đang nắm chặt cán giáo trong tay thoáng mở to đôi mắt. Khuôn mặt đang nghiêm trang bỗng chuyển sang kinh ngạc. Bờ môi mỏng run run biểu lộ sự ngỡ ngàng khôn xiết, đồng thời miệng hắn ta mấp máy tính thốt ra câu gì đó nhưng vội ngưng bặt khi Văn Bình nhẹ lắc đầu, ra hiệu hắn ta không nên nói gì.
- Ớt nhỏ! Có chuyện gì mà sáng tinh mơ cô đã có mặt ở đây?
- Gì chứ? Tôi có tên đàng hoàng nha - Đang nở một nụ cười tươi với Văn Bình, Linh Lan đã phải nhăn mặt lại khi anh bỗng nhiên gọi nó là ớt nhỏ, mà không biết nguồn gốc xuất xứ của cái tên này từ đâu ra mà lại đem gán cho mình - Cha tôi bảo tôi đem số lương thảo này đến cho Long Nhương tướng quân. Còn anh? Sáng sớm thế này mà đã đi đâu?
Trong thoáng chốc, đôi mắt sáng của Văn Bình chợt nheo lại khi Linh Lan nhắc đến Long Nhương tướng quân, thế nhưng nó không để ý đến biểu hiện đó của anh, vì đang bận vén những sợi tóc mai cài qua môi mình.
- Tôi ra ngoài luyện đao một chút để thư giãn gân cốt. Còn cô, cô đem lương thảo đến trao cho Long Nhương tướng quân, thế có biết ông ta là ai không?
- Không? Ai thế? Anh quen người đó à?
Linh Lan đáp lại lời Văn Bình với một khuôn mặt ngơ ngác, vì thời Lê Trung Hưng này thì thật lòng Linh Lan chỉ biết có mỗi Quang Trung - Nguyễn Huệ, hay cùng lắm là thêm được Gia Long hoàng đế chứ chả biết Long Nhương, long nhiếc là ai, thế nên nó mới tỏ ra thắc mắc khi Văn Bình hỏi tới vì nghĩ rằng có lẽ anh quen biết gì đó với người này. Ngưng mục nhìn sâu vào đôi mắt mà vui, buồn, giận hờn gì đều hiện rõ trong ánh mắt đen láy ấy, Văn Bình chỉ mỉm cười mà không trả lời câu hỏi đó của nó. Anh đưa mắt nhìn những chiếc xe chất đầy gạo và rau củ đang xếp hàng cạnh gốc đa râm mát, lòng nhẩm tính với số lương thực này nghĩa quân sẽ đủ dùng trong bao nhiêu ngày.
- Văn Bình, ban nãy tôi thấy anh tính đi vào Hoàng Đế Thành. Bộ anh có người quen trong đó hả? Thế anh có biết Nguyễn Huệ ở đâu không?
Đương nhìn những sọt rau củ tươi non trên xe ngựa và lòng thầm cám ơn sự chu đáo của nhạc phụ, Văn Bình vô cùng ngạc nhiên vì những lời Linh Lan vừa mới thốt ra. Chuyển mắt lên khuôn mặt tỏ ra háo hức của nó, đôi mày kiếm của anh nhẹ chau lại vì Linh Lan đã không biết Long Nhương tướng quân là ai, thế mà còn nhắc đến cái tên Nguyễn Huệ là có mục đích gì.
- Cô không biết Long Nhương tướng quân, thế sao lại biết Nguyễn Huệ?
- Thì thời này có ổng là nổi nhất chứ còn gì nữa. Trong sử ông này nổi tiếng đánh đâu thắng đó. Hơn nửa sử lại bảo ông này tóc quăn, mặt mụn, hai mắt rất sáng, giọng nói sang sảng như chuông, nên tôi tò mò không biết mặt mũi ông này ra sao, có như sử mô tả không đó mà.
Nghe Linh Lan mô tả hình dạng “tóc quăn, mặt mụn” của Nguyễn Huệ mà lịch sử đã miêu tả, Văn Bình từ ngạc nhiên chuyển sang thú vị nên không nhịn được mới bật cười thành tiếng, làm cho Linh Lan khó hiểu vô cùng vì không biết bản thân mình đã nói sai điều gì. Thấy Văn Bình chỉ cười mãi mà không nói gì, Linh Lan có hơi quê độ vì nụ cười giễu cợt đó của anh làm cho nó thấy mình hệt như một đứa bé con đang làm trò. Biết Linh Lan đang dỗi vì khuôn mặt phụng phịu đó của nó, Văn Bình liền e hèm một tiếng và lên tiềng làm hòa, dù cái mô tả “ hình dáng trong sử” của Linh Lan vẫn còn khiến anh cảm thấy buồn cười.
- Ớt nhỏ, cô muốn gặp mặt ông Nguyễn Huệ “tóc quăn” đó phải không?
- Phải thì sao?
Đưa mắt nhìn Văn Bình với sự nghi hoặc, khi nghe anh hỏi mình có muốn gặp Nguyễn Huệ không với một thái độ vô cùng bình thản, cứ như thể chỉ cần nó gật đầu một cái thì ông ta sẽ xuất hiện trước mặt nó ngay tức thì, thế nên Linh Lan mới hỏi lại anh với chất giọng đầy nghi ngờ, bởi dẫu sao thì người ta cũng là một danh tướng lẫy lừng, đâu phải ai muốn gặp là cũng được trong khi nó cũng chỉ là một cô gái bình thường, không phải công chúa cũng chẳng phải mệnh phụ phu nhân gì
- Cô muốn gặp ông ta thì cũng dễ thôi, nhưng nếu muốn tôi dẫn đi thì…
- Thì sao?
- Nếu cô có cách khiến tôi xuống ngựa, tôi sẽ dẫn cô đi gặp ông ta.
Văn Bình mỉm cười tinh quái khi nhìn vào đôi mắt đen láy của Linh Lan. Anh có cảm giác rằng cô gái lanh lợi mà nhạc phụ mình vừa mới nhận nuôi này biết được rất nhiều chuyện, và có lẽ những chuyện ấy sẽ đem đến cho anh ngạc nhiên ít nhiều, ít ra là đối với anh trong lúc này. Trố mắt ra nhìn Văn Bình vì thấy lúc nào anh cũng đưa nó vào tình thế khó xử. Linh Lan tự hỏi làm cách nào để khiến anh xuống ngựa trong khi đấu võ thì không thể bởi Văn Bình là đại cao thủ. Giả vờ rằng nó đau bụng, chóng mặt, hoa mắt, nhức đầu, có chuyện quan trọng cần nói gấp thì lại càng không, bởi những trò mèo đó thât khó lòng qua nổi sự tinh tường, nhạy bén ẩn đằng sau đôi mắt sáng đó của anh. Đắn đo suy nghĩ một hồi, Linh Lan biết mình không có cách nào làm Văn Bình xuống ngựa trong khi làm anh lên ngựa thì nó có thừa cách, thế nên sau phút suy nghĩ cân nhắc, nó đành thành thật trả lời.
- Chịu thôi! Khiến anh lên ngựa thì còn may ra chứ khiến anh xuống ngựa thì tôi bó tay.
Nhìn chăm chú vào khuôn mặt trái xoan của Linh Lan, đôi mày kiếm của Văn Bình khẽ nhướng lên khi nghe nó nói sẽ có cách khiến anh lên thay vì xuống chắc như đinh đóng cột nhà. Được thôi, ớt nhỏ! Cô muốn thì tôi chiều. Nghĩ thầm trong bụng như thế, Văn Bình ung dung nhảy xuống ngựa rồi mỉm cười nhìn Linh Lan, để xem nó làm cách nào có thể khiến anh ngồi lên lưng ngựa thay vì xuống như lời anh đã đề nghị vừa rồi.
- Dẫn tôi đi gặp Nguyễn Hụê đi.
Trái ngược với sự chờ đợi của Văn Bình khi muốn xem cô nàng ớt nhỏ này muốn bày trò gì, Linh Lan chỉ giương đôi mắt đen láy lên nhìn anh đoạn tỉnh bơ trả lời. Trong khoảnh khắc, Văn Bình có hơi ngẩn người ra vì thấy Linh Lan chưa làm cách nào để khiến anh lên ngựa, mà lại đòi dẫn đi gặp Nguyễn Hụê chứ chẳng buồn đề cập gì đến chuyện lên hay xuống như vừa rồi. Nhưng với một cái đầu nhạy bén, ngay lập tức Văn Bình đã phát hiện ngay ra rằng lại một lần nữa anh đã… bị sập bẫy. Bằng chứng là anh đang đứng ở dưới đất, điều đó có nghĩa là cô nàng ớt nhỏ này đã làm anh phải xuống ngựa một cách ngọt ngào bằng những cái bẫy tinh quái có thừa của mình. Ớt nhỏ! Nói cô là một trái ớt nhỏ quả thật đúng không sai.
- Ớt nhỏ! Cô giỏi lắm! Mau xuống đây, tôi sẽ đưa cô đi gặp Nguyễn Huệ.
★ Chương 36: Phơi bày
Trước khuôn mặt cười cười của Văn Bình khi nhắc đến Nguyễn Huệ, Linh Lan có hơi chột dạ vì đa phần những nụ cười của anh nếu không trêu chọc, thì cũng có ẩn ý sâu xa nào trong đó mà nó không tài nào hiểu được do không biết anh đang nghĩ gì. Nhanh nhẹn leo xuống xe sau khi nhắn nhủ vài lời với người đàn ông áo nâu, Linh Lan lại gần con ngựa đen tuyền, và dịu dàng vuốt nhẹ đầu nó khi thấy đôi mắt hiền từ của con tuấn mã đang nhìn mình. Nắm lấy bàn tay vững chãi của Văn Bình khi giúp nó leo lên lưng ngựa, Linh Lan cảm thấy thân người hơi hẫng một cái, để rồi nó còn chưa kịp định thần chuỵên gì vừa xảy ra do quá bất ngờ thì đã thấy mình ngồi yên vị trên lưng ngựa, còn Văn Bình ngồi ở phía sau, tay nắm chặt lấy cương và nhìn nó mỉm cười.
- Ngồi cho vững!
Chưa kịp trả lời anh thế nào, Linh Lan đã vội bám chắc vào con ngựa đen tuyền khi nó hí lên một tràng dài rồi chạy như bay vào cổng thành. Ngồi trên lưng ngựa, Linh Lan hiếu kỳ nhìn những côt điện chạm trổ hoa văn rồng, phượng bên trong thành với đôi mắt nửa thích thú nửa ngạc nhiên vì lần đầu tiên trông thấy nơi này. Băng qua lớp tường thành thứ nhất, Văn Bình cho ngựa rẽ về phía tay phải. Một người lính áo xanh, đầu đội nón sơn đỏ đang đứng canh gác khi nhác thấy con ngựa đen tuyền phóng về phía mình, liền vội vàng mở cửa ra vì có vẻ như đã quá quen thuộc với chủ nhân của con ngựa này. Nắm chặt dây cương trong tay để cho tuấn mã dừng lại, Văn Bình nhảy xuống lưng ngựa và đột ngột choàng tay bế thốc Linh Lan xuống, khi thấy nó lay hoay mãi do không biết phải tìm cách xuống như thế nào.
Băng qua cánh cửa thành rộng mở, Linh Lan vô cùng kinh ngạc khi khung cảnh bên trong đang hiện ra trước mắt mình. Giữa một khoảng sân rộng lớn, cuối góc sân có treo một giá binh khí, hàng trăm, hàng ngàn người với những bộ võ phục khác nhau, tay cầm giáo, đi chân trần đang hăng say luyện tập. Bên này đấu vật, bên kia luyện đao, giữa những tiếng hô vang trời và tiếng binh khí chạm nhau chan chát. Cảnh tượng vừa oai hùng vừa rộn ràng ấy làm cho Linh Lan say sưa ngắm nhìn mà quên mất cả Văn Bình. Vội bước lên phía trước để quan sát cho rõ, Linh Lan vô cùng thích thú khi lần đầu tiên nó chứng kiến được cảnh nghĩa quân Tây Sơn đang luyện tập trong khuôn viên hoàng thành vô cùng rông rãi. Những đường kiếm vun vút đầy khí thế, những tấm lưng thấm đẫm mồ hôi, khuôn mặt ai nấy tuy đỏ bừng dưới ánh nắng mặt trời nhưng vẫn hăng hái luyện tập như chưa từng biết mệt nhọc là gì.
- Ớt nhỏ! Cô cứ tham quan cho thỏa thích rồi sau đó đi gặp Nguyễn Huệ cũng chưa muộn..
Sau khi giao ngựa lại cho một viên lính đầu chít khăn nâu vừa trờ đến, Văn Bình chậm rãi nói với Linh Lan do thấy nó mải mê dán mắt vào đội quân Tây Sơn, để rồi mỉm cười khi nhận thấy đôi mắt sáng lên của nó khi nghe lời đề nghị hấp dẫn đó của anh. Đối với Linh Lan, đây đúng là cơ hội ngàn năm có một để tận mắt nhìn thấy khí thế của đội quân bách chiến bách thắng này. Trước khuôn mặt say mê của nó, Văn Bình thôi không nói thêm lời nào, anh tiến thẳng về phía trước, nơi một nhóm nghĩa quân đương luyện tập đao pháp để cho Linh Lan thoải mái quan sát toàn cảnh trong Hoàng đế thành. Đang hăng say luyện tập, những người lính mặc áo chàm nhác thấy Văn Bình đi tới vội vàng ngưng cả lại do bất ngờ, để rồi sau đó đồng thanh reo lên “tướng quân, tướng quân” khi nhìn thấy anh mỉm cười.
- Các ngươi cứ luyện tập bình thường, đừng để ý đến ta.
- Vâng! Thưa tướng quân.
Không muốn buổi luyện tập của mọi người bị gián đoạn vì sự xuất hiện của mình, Văn Bình thân thiện vỗ vào vai một người lính đang đứng ngẩn ngơ bên cạnh, rồi lại sải bước đến những tốp lính đang luyện tập khác để động viên, ủy lạo từng người. Thấy Văn Bình được phép ra vào tự do trong chốn hoàng thành, lại còn ngang nhiên đi vào nơi nghĩa quân đang tập luyện mà không ai ngăn cản hay hạch hỏi gì, Linh Lan đã bắt đầu nghi ngờ và phải băn khoăn suy nghĩ lại thân phận thật sự của anh. Gọi Văn Bình là tướng quân, lại còn khép nép khi anh đến gần, hớn hở khi nhận được lời động viên, như vậy chứng tỏ vai trò của Văn Bình trong đội quân này so với ông Long Nhương kia chắc chắn cũng không kém tầm
- Cô Nhạn, sao cô lại đến được đây?
Đang âm thầm ngắm nghía Văn Bình từ đầu đến chân để phỏng đoán xem chức vụ của anh trong Tây Sơn là gì, thì một giọng nói thanh tao từ đâu bất chợt vọng tới khiến Linh Lan thoáng giật mình. Hướng mắt về mé tay phải, Linh Lan vô cùng ngạc nhiên khi trông thấy Bùi Thị Xuân oai nghiêm trông bộ chiến bào, lưng thắt dải lụa điều, tay mang đoản đao cong vút tựa vầng trăng khuyết màu bạc đang đi về phía nó. Khuôn mặt xinh đẹp lộ vẻ ngạc nhiên và phía sau lưng là hàng chục nữ binh khác, trong tay đang nắm chặt ngọn thương lấp lánh dưới ánh mặt trời.
- Vâng…em theo lời dặn của cha đến Tây Sơn để đưa lương thảo cho Long Nhương tướng quân. Còn chị? Chị cũng trong nghĩa quân Tây Sơn sao?
Trong gia đình ông Lương, vai vế của Linh Lan có cao hơn Bùi Thị Xuân do nó là con gái nuôi của ông trong khi Xuân lại ở vai cháu. Điều đó làm cho Linh Lan cảm thấy ngượng miệng khi xưng hô như thế trước mặt mọi người, vì Xuân thực chất lớn tuổi hơn nó rất nhiều. Đưa mắt nhìn Văn Bình đang hướng dẫn đao pháp cho một người lính, Bùi Thị Xuân ngầm hiểu Linh Lan vào được đây ắt hẳn là nhờ đến anh. Thế nên khi nghe Linh Lan nhắc đến Long Nhương tướng quân một cách thản nhiên mà không hề kiêng nể gì, Bùi Thị Xuân chỉ cười tủm tỉm vì thừa hiểu Linh Lan không biết ông Long Nhương ấy thật ra là người nào.
- Vâng! Cháu và anh Diệu đều ở trong Tây Sơn. Còn cô, cô thấy mọi người trong đây thế nào, có muốn tham gia vào đội nữ binh của cháu không?
Tròn mắt trước lời đề nghị bất ngờ của Xuân, Linh Lan do dự cắn môi vì không chắc mình có thể thích hợp với vai trò mới này, vì bản thân nó chỉ biết võ đủ để phòng thân chứ không giỏi đến mức có thể cầm đao mà múa như mọi người. Nhìn thấy nét mặt ngần ngừ của nó, Bùi Thị Xuân vỗ nhẹ vào vai Linh Lan, đồng thời chỉ tay về đội nữ binh phía sau mình và tiếp lời.
- Cô cứ yên tâm. Một khi đã gia nhập vào đội cháu, thì cháu và mọi người sẽ từ từ hướng dẫn, rèn luyện cho cô. Cô thông minh thế nên chắc chắn sẽ tiếp thu nhanh chóng thôi.
Nghe Bùi Thị Xuân nói chắc như đinh đóng cột, lại còn khen mình thông minh, khuôn mặt của Linh Lan bất giác đỏ bừng lên vì từ trước tới nay nó không nghĩ mình thông minh như lời Xuân nói bao giờ. Gia nhập vào đội nữ binh Tây Sơn. Chà! Ý định đó cũng hay đấy, ít ra nó không còn cái cảnh ngồi ở nhà tập thêu thùa, may vá theo lời ông Lương bảo cho ra dáng thiếu nữ, vì khả năng của nó chỉ có thể xỏ được sợi chỉ qua lỗ cây kim chứ không hơn, điều này đã được Anh Tú chứng nhận và cấp bằng “quốc gia” cho cái sự vụng về đó của mình. Hơn nữa, điều quan trọng nhất là khi tham gia vào đội nữ binh Tây Sơn, Linh Lan sẽ được chứng kiến đoạn đường lịch sử từ thưở xưng vương ở Quy Nhơn cho đến khi Tây Sơn thống nhất nước nhà. Đó quả là một may mắn mà biết bao nhà sử học đã bỏ cả một đời để nghiên cứu, khám phá về giai đoạn đó. Họ có nằm mơ cũng không thể được trong khi nó không nằm mơ cũng thấy, vậy cớ sao lại bỏ qua cái sự may mắn hiếm có trên đời này.
- Thôi được! Nếu chị đã nói thế thì em cũng gia nhập xem sao, nhưng nói trước là em… không có khiếu lắm trong mấy chuyện đao, kiếm này đâu nha.
Sau khi đã cân nhắc kỹ càng, Linh Lan liền gật đầu đồng ý, và đi kèm với nụ cười rụt rè - vì vẫn chưa tin tưởng lắm vào khả năng của mình - trước khuôn mặt tươi lên của Xuân vì đội nữ binh lại có thêm người. Về phần Văn Bình - sau khi biểu diễn một bài quyền cho nghĩa quân thấy để họ luyện tập theo, anh liền thong thả tiến bước về phía Linh Lan đang nói chuyện với Xuân ra chiều tâm đắc. Nhẹ nhàng gật đầu khi Bùi Thị Xuân hành lễ, trước đôi mắt trong veo ngơ ngác của Linh Lan, đoạn từ tốn nói từng lời.
- Ớt nhỏ! Cô vẫn còn ý định đi gặp Nguyễn Huệ đấy chứ?
- Vâng, tất nhiên rồi! Tôi vào đây chỉ vì ông ta mà.
- Thế thì đi theo tôi.
Nghe Linh Lan hồn nhiên đối đáp với vị chủ tướng của mình, đôi mắt hạnh của Bùi Thị Xuân vẽ thành hình chữ “O”, bờ môi đào mấp máy tính nói điều gì đó nhưng đã kịp thời ngậm lại khi thấy Văn Bình nhìn mình tỏ ý không nên nói gì. Vội nhắn nhủ vài lời với Xuân, đại khái mình đi xem mặt Nguyễn Huệ xong sẽ quay lại, Linh Lan vẫy tay chào cô cùng mọi người trong đội nữ binh rồi chuyển người bước theo Văn Bình, mà trong lòng thầm hồi hộp khi không biết mặt mũi, dung nhan của Nguyễn Huệ như thế nào. Rời khỏi nơi nghĩa quân tập luyện, Văn Bình rẽ qua một cánh cổng cao lớn nằm bên tay phải, rồi bước vào trong một nhà kho gần đó, vốn là nơi để đồ quân dụng và các thứ linh tinh khác thường ngày. Ngước mắt lên nhìn bốn vách tường treo đầy những binh khí, còn có những bó giáo được cột chặt lại với nhau bằng dây mây được dựng sát góc tường, Linh Lan vô cùng kinh ngạc khi không ngờ ở đây lại có nhiều vũ khí đến như thế. Nào gươm, nào đao, nào kiếm, thậm chí trên trần nhà còn treo tòn ten những cây cung rắn chắc, đồng thời có cả những tấm khiên bằng đồng to lớn, vững chãi dựng san sát vách tường.
Vội vàng vịn vào tay Văn Bình khi chân vấp phải những quả cầu sắt dưới sàn, Linh Lan trong bụng ngạc nhiên khôn xiết vì không hiểu Văn Bình đã hứa dẫn nó đi gặp Nguyễn Huệ, thế mà lại đưa nó đến cái kho đựng đầy vũ khí, vật dụng của binh lính để làm gì. Như để giải đáp thắc mắc hiện lên to tướng trong đầu nó, Văn Bình lách qua những bó tên chứa trong bao da treo lủng lẳng, rồi tiến thẳng về phía góc nhà, nơi có đặt một chiếc gương đồng to lớn đã hoen gỉ, cao bằng cả thân người, trước đôi mắt tò mò của Linh Lan vì không hiểu anh làm thế là có ý gì.
- Ớt nhỏ, lại đây!
Khuôn mặt Linh Lan thoáng hiện vẻ tần ngần khi Văn Bình đứng trước tấm gương và nhìn về phía nó với một nụ cười nhẹ nhàng trên môi. Thận trọng bước qua những quả cầu sắt nằm dưới sàn, Linh Lan tiến về phía Văn Bình rồi liếc nhìn hình ảnh của anh và nó thấp thóang trong gương, sự thắc mắc trong lòng nó ngày càng tăng cao, để rồi chuyển qua nghi ngờ khi thoáng thấy nụ cười điềm đạm của Văn Bình phản chiếu sau lưng mình. Có khi nào Nguyễn Huệ lại là…
- Ớt nhỏ! Cô hãy nhìn kỹ trong gương đi. Đó chẳng phải là Nguyễn Huệ mà cô muốn gặp sao?
Những lời Văn Bình nói tuy nhẹ nhàng, thế nhưng đối với Linh Lan thật chẳng khác nào sấm động bên tai, vì sự thật đến kinh ngạc mà nó không thể nào ngờ: Nguyễn Huệ chính là Văn Bình. Vội vàng quay phắt người lại, Linh Lan ngẩng mặt lên nhìn anh vì chiều cao của hai người khá cách biệt. Đôi mắt nó sửng sốt nhìn chăm chăm vào khuôn mặt kiên nghị đang cười đó, như để xác minh những lời anh nói vừa rồi là thật hay đùa. Ôi trời! Văn Bình chính là Nguyễn Huệ. Người sau này sẽ lên ngôi Quang Trung hoàng đế và quét sạch hai chín vạn quân Thanh ra khỏi bờ cõi nước nhà, vị anh hùng mà nó từng học trong sách giáo khoa, người mà lịch sử ca tụng là một thiên tài quân sự…lại chính là Văn Bình ư? Chúa ơi! Đây đúng thật là bất ngờ còn trên cả bất ngờ mà.
- Ớt nhỏ? Cô sao thế? Không phải cô đã được thấy một ông Nguyễn Huệ “tóc quăn, mặt mụn” đó sao?
Thấy Linh Lan cứ ngây người ra nhìn mình không chớp mắt, Văn Bình mỉm cười và nhắc lại lời của nó khi nãy, khiến Linh Lan bừng tỉnh, lấy lại được tự chủ và hai vành tai đỏ ửng lên, vì trong giọng nói của anh hiện rõ sự chế giễu cách mà sử sách đã mô tả ngoại hình của mình. Khi sự xúc động vì được trông thấy một Quang Trung hoàng đế bằng xương bằng thịt trước mặt mình qua đi, Linh Lan chợt cảm thấy lo lắng vì lúc trước nó đã trót dại … lừa anh một vố ở quán ăn, lại còn hạnh họe, đe dọa đủ điều, để rồi giờ đây lo ngay ngáy vì sợ anh…trả thù mình cả vốn lẫn lời. Chậc! Đúng là sự đời chẳng ai có thể ngờ. Nó có biết Văn Bình lại là Nguyễn Huệ đâu, nếu biết thì nó đã…. lừa anh một cách nhẹ nhàng hơn và nói năng dịu dàng một chút, chứ chẳng phải đốp chát, đấu đá với anh từng lời từng chữ như thế này.
- Ờ…à! Đã là quân tử thì chấp chi mấy cái chuyện nhỏ nhặt đó. Sử có sao thì tôi nói vậy chứ có thêm mắm thêm muối cái gì đâu. Hơn nữa, anh dù sao cũng là… anh rể tôi, anh không nể mặt tôi thì cũng nể mặt… chị tôi chứ, phải không?
Linh Lan vừa nói vừa cười, nhưng hai ngón tay cái của nó lại đánh vòng với nhau, một dấu hiệu khi nó đang bối rối vì đôi mắt sáng của Văn Bình nhìn đăm đăm vào mình. Biết Linh Lan nói vòng vo xa gần, cũng không ngoài mục đích chính là mong anh đừng so đo những chuyện từ trước tới nay mà nó đã gây ra, Văn Bình chợt phì cười vì bỗng nhiên một cô gái ngày thường luôn lấn áp người khác và muốn phần hơn thuộc về mình, mà nay lại dịu dàng, nữ tính đến không ngờ.
- Ớt nhỏ! Tôi đã nói bỏ qua, thì sau này tuyệt đối đừng nhắc những chuyện đó trước mặt tôi. Gặp được Nguyễn Huệ, cô hài lòng rồi chứ?
- Vâng! Tất nhiên rồi - Thở phào nhẹ nhõm khi Văn Bình trả lời nó bằng chất giọng bông đùa thường ngày, Linh Lan chợt thấy phân vân vì không biết bây giờ nên gọi anh như thế nào cho đúng. Dù sao mọi người cũng gọi anh là tướng quân, chỉ có duy nhất nó là gọi thẳng tên anh trong khi vai vế của anh cao hơn nó gấp mấy lần - Vậy… từ giờ anh muốn tôi gọi anh như thế nào? Tướng quân, Nguyễn Huệ hay Văn Bình?
Nhìn bóng dáng cao lớn của mình trong gương, đôi mắt Văn Bình chợt lóe lên một ánh sáng nhỏ, hệt như ngôi sao băng xuất hiện trong màn đêm, rất nhanh rồi vụt biến mất trong phút chốc, chỉ còn lại bóng hình của Linh Lan đang đứng xoay lưng lại, từng sợi tóc dài mượt mà, đen nhánh của nó khẽ bay lên khi một cơn gió ngẩn ngơ đi lạc vào phòng. Trong vô thức, Văn Bình bất chợt chạm tay vào mặt gương, cứ như thể anh đang vuốt nhẹ tóc nó, nhưng vì Linh Lan đang đứng đối diện với Văn Bình nên không thể thấy được anh vừa làm gì. Ngưng mục nhìn sâu vào đôi mắt trong veo có thể soi rõ bóng mình, Văn Bình mỉm cười, một nụ cười nửa buồn nửa vui khiến Linh Lan ngạc nhiên vì trước nay chưa từng thấy biểu hiện đó của anh bao giờ.
- Văn Bình! Hãy gọi tôi là Văn Bình!
Trong tích tắc, đôi mày thanh tú của Linh Lan có hơi nhíu lại. Nó có cảm giác Văn Bình đang gồng mình lên để cố chịu đựng một cái gì đó, thế nhưng nó lại không chắc rằng cảm giác của mình có đúng hay không khi môi anh lại nở nụ cười. Chỉ biết rằng khi nhìn vào đôi mắt sáng ấy, nó lại thấy sâu trong đó là một sự chơi vơi, lạc lõng, hệt như một đứa bé đang đi trên đường chợt phát hiện rằng con đường này không biết sẽ đưa mình đến đâu. Nhẹ đưa tay sửa cổ áo của Văn Bình lại cho ngay ngắn, trước đôi mắt ngạc nhiên của anh, Linh Lan mỉm cười dịu dàng, một nụ cười hiếm thấy - theo lời Anh Tú bình luận - vì xưa nay nó không biết đến hai từ “thục nữ” là gì.
- Vâng! Văn Bình, vậy tôi sẽ gọi anh là Văn Bình.
★ Chương 37: Ngõ hẹp
Linh Lan đứng soi mình trước chiếc gương bằng đồng to lớn. Nó hết xoay người sang bên trái rồi lại chuyển người sang bên phải, cuối cùng cột thêm sợi dây lụa màu lam thành một chiếc nơ xinh xắn ôm lấy thắt lưng mình, rồi mỉm cười tự thưởng cho bản thân vì y phục đâu đó gọn gàng. Rảo mắt về chiếc rương đặt cuối góc kho - nằm bên cạnh những bó tên - có đựng hàng trăm thanh kiếm trong đó, Linh Lan vô cùng phân vân khi không biết phải chọn lựa thanh kiếm nào thích hợp cho mình.
Lặn ngụp hàng giờ trong chiếc rương, hệt như một tín đồ shopping đang chọn quần áo, với những thanh kiếm sắt thay vì các bộ quần áo rực rỡ sắc màu, Linh Lan hết thử thanh này đến thanh khác, đến nỗi tay nó như muốn rụng cả ra mà vẫn chưa tìm được một thanh kiếm nào thích hợp cho mình. Thanh thì quá to, thanh thì quá nặng, thanh thì quá ngắn, thanh lại quá dài. Không thể để Xuân bên ngoài chờ đợi lâu thêm, Linh Lan quyết định thực hiện phương pháp cầu may, hệt như mỗi lần đi mua một món đồ xinh xinh nào đó bằng cách dựa vào giác quan của mình. Nhắm chặt hai mắt, Linh Lan thọc tay sâu vào chiếc rương và quờ quạng để tìm lấy một thanh kiếm phù hợp. Cố gắng gạt hết những “đối tượng” nằm ngoài tầm phủ sóng, Linh Lan chợt dừng lại khi những ngón tay của nó chạm vào một thanh kiếm lạnh băng nằm sâu tận đáy rương. Như có một cảm xúc kỳ lạ nào đó trỗi lên, trái tim Linh Lan bất chợt đập nhanh hơn bao giờ hết. Nó vội vàng mở bừng mắt ra và dùng hai tay lôi thanh kiếm ấy lên để nhìn ngắm cho kỹ càng hơn.
Dưới ánh sáng lờ mờ như sương khói của ánh mặt trời luồn qua khung cửa, thanh kiếm nằm trên tay Linh Lan chợt sáng lấp lánh với hình một con phượng vờn mây uốn lượn trên vỏ bao. Khẽ thổi bay những mạt sắt và bụi bám trên thanh kiếm, Linh Lan nhẹ nhàng tuốt bao ra, để rồi đôi mắt của nó như bừng sáng. Trước mắt nó, tắm mình trong ánh dương nhạt nhòa là một lưỡi kiếm bạc lạnh lùng, sắc bén như thách thức bất kỳ đối thủ nào. Thanh kiếm hệt như một mầm sống đang ngủ yên bao năm trong lòng đất nay đột ngột phá tung chiếc vỏ ngột ngạt của mình ra, và vươn thẳng lên cao để đón lấy những tia nắng ấm áp của mặt trời.
Khỏi phải nói cũng biết Linh Lan mừng như thế nào khi công sức của nó được đền bù vì đã tìm thấy vũ khí dành riêng cho mình. Vuốt nhẹ thanh kiếm như để đánh thức thần khí bị quên lãng do chôn vùi dưới đáy rương, Linh Lan mỉm cười vu vơ rồi nhanh nhẹn bước ra ngoài khi thấy mình đã ở quá lâu trong này. Đang hướng dẫn kiếm pháp cho một nữ binh vừa mới vào đội, Bùi Thị Xuân liền ngẩng đầu lên khi nghe thấy tiếng bước chân nhẹ nhàng đi về phía mình. Trông thấy Linh Lan đứng trước mặt, y phục đâu đó gọn gàng, mái tóc đen nhánh cột cao, trên tay lại còn cầm thanh trường kiếm khá phù hợp với vóc dáng nhỏ bé của mình, bờ môi đào của Bùi Thị Xuân vẽ thành một nụ cười mềm mại. Bây giờ trông Linh Lan thật sự như một nữ binh chuẩn bị ra chiến trường.
- Cô Nhạn, mau lại đây! Cháu sẽ giới thiệu mọi người trong đội với cô.
Thấy những cô gái đang đứng phía sau nhìn Linh Lan bằng con mắt tò mò, Bùi Thị Xuân liền kéo tay nó lại gần và trỏ tay vào một cô gái áo trắng, có khuôn mặt lạnh lùng như phủ một làn sương, đoạn vui vẻ giới thiệu nó cho tất cả mọi người.
- Đây là Huỳnh Thị Cúc, còn đây là Bùi…
- Không! Linh Lan! Em là Linh Lan.
Không để cho Bùi Thị Xuân kịp nói hết, Linh Lan vội vàng cắt ngang lời cô vì nó không muốn Xuân giới thiệu mình là Bùi Thị Nhạn, bởi dẫu sao đó cũng chỉ là một cái tên tạm thời để ông Lương gọi mình trong nhà. Mỉm cười thân thiện trước cái gật đầu của Cúc – cô gái vẫn giữ một khuôn mặt lạnh như băng, do trước nay không quen thể hiện tình cảm bao giờ - Linh Lan lại nhìn sang cô gái áo xanh. Cô này tóc vấn đuôi gà đang nắm ngọn thương trong tay, bên cạnh là cô gái áo tím có ánh mắt sắc bén đang tươi cười với nó khi Bùi Thị Xuân giới thiệu đến tên mình.
- Còn đây là chị Lan và chị Dung, đây là Bùi…à không, là Linh Lan mà tôi đã nói với tất cả mọi người.
Trong phút chốc, Linh Lan có hơi ngượng ngập khi mọi nguời vây lấy nó, người hỏi câu này, người nói câu kia. Đối với một đứa xưa nay không có thói quen trò chuyện nhiều với người lạ, nó liền cảm thấy lúng túng vì sự thân mật này. Đang không biết phải đối đáp với mọi người như thế nào, Linh Lan thở phào nhẹ nhõm khi bất chợt một hồi trống dồn dập vang lên, làm những nàng nữ binh đang hỏi han luôn miệng liền tản ra nhanh chóng và đứng ngay ngắn thành hàng. Đương say sưa luyện tập đao, kiếm, tất cả binh lính trong hoàng thành đột ngột dừng tay lại khi nghe thấy tiếng trống vang lên. Họ quệt nhanh những giọt mồ hôi cay nồng vương trên mắt và vội xếp thành hàng lối chỉnh tề với một tốc độ đáng kinh ngạc, làm Linh Lan phải khen thầm vì sự nề nếp kỷ cương của quân đội Tây Sơn.
Trước cái nhìn nhắc nhở của Xuân do thấy nó đứng tần ngần giữa sân, Linh Lan liền đứng lẫn vào hàng nữ binh để rồi lại bị Xuân lôi lên… đứng đầu hàng, do vóc váng nhỏ bé nhất trong đội - hệt như mỗi khi xuống sân trường làm lễ chào cờ mỗi sáng thứ hai đầu tuần. Phớt lờ mọi ánh mắt châm chọc của những anh lính, khi thấy một cô gái vừa mới gia nhập đội nữ binh sao quá nhỏ con, Linh Lan chú mục nhìn về phía trước để chờ đợi xem nhân vật quan trọng nào sẽ xuất hiện, mà phải khiến mọi người phải xếp hàng thẳng tắp không hề rồng rắn, xiên xẹo như thế này.
Cánh cổng thành to lớn, chạm trổ những hình hoa văn lượn sóng nặng nề mở ra, tạo thành những âm thanh cọt kẹt, rin rít hệt như một cỗ máy lâu ngày không tra dầu, để rồi đôi mắt của Linh Lan chợt mở to, khi lần đầu tiên trông thấy Văn Bình trong bộ áo giáp võ tướng nhẹ nhàng bước vào. Tấm áo choàng đỏ rực lửa bay nhẹ trong gió, thanh Ô Lông đao đen tuyền tỏa sắc lạnh nằm oai vệ sau lưng. Phía sau anh là một hàng võ tướng với áo choàng màu xanh đen nghiêm nghị tiến vào giữa sân. Bốn bề im phăng phắc không một tiếng động, chỉ nghe thấy tiếng hơi thở nhè nhẹ và tiếng tim đập từng nhịp của mọi người. Không khí vừa oai hùng vừa trang nghiêm đó làm cho Linh Lan cảm thấy như muốn nghẹt thở vì tiếng tim đập dồn dập của mình. Ôi chao! Thầy dạy sử của em ơi, nếu thầy mà biết em đang có mặt trong đội quân Tây Sơn, và nhìn thấy Nguyễn Huệ - người anh hùng áo vải - mà thầy luôn ca ngợi bằng xương bằng thịt, chắc là thầy ghen tị đến chết với em mất thôi.
Đang thả mình theo những dòng cảm xúc, và dõi theo từng bước chân của Văn Bình cùng với những vị tướng đi phía sau anh – mà Linh Lan chỉ nhận ra được mỗi Trần Quang Diệu do đã có lần gặp mặt ở nhà ông Lương - đôi mắt của Linh Lan chợt nheo lại khi nhìn thấy chàng trai mảnh khảnh đi sau cùng, vì khuôn mặt như thư sinh này nhìn sao thấy quen quen. Nhíu mày lại khi trong trí nhớ của nó hình như phảng phất những đường nét quen thuộc của chàng trai, nhưng tiếc thay những đường đó lại giống như những đường phác vội vàng của cây bút chì sắp hết ngòi, hết sức mờ ảo và mơ hồ. Thế nên đứng nghĩ mãi mà Linh Lan vẫn không nhớ ra nổi chàng trai này là ai và mình đã gặp trong trường hợp nào. Chẳng biết ông trời có thương tình Linh Lan quá khổ sở khi khởi động lại bộ nhớ hay không, mà chỉ biết chàng trai thư sinh đang rảo mắt nhìn những người lính trong đội ngũ và dừng lại ở Linh Lan. Đôi mắt anh hốt nhiên mở to ra và nhìn chằm chằm vào nó, vì thấy cô gái này trông mặt khá là quen thuộc mà không nhớ nổi ra đó là người nào.
Thấy chàng trai “quen quá ta” đang đăm đăm nhìn mình, Linh Lan có hơi chột dạ trong bụng. Nó tính quay mặt sang chỗ khác để tránh cái nhìn tò mò đó thì bỗng một tia sáng lóe lên trong đầu, hệt như nhà đang cúp điện bỗng đột ngột bừng sáng. Vội vàng quay phắt người lại, cái miệng xinh xinh của Linh Lan vẽ thành hình chữ O khi trí nhớ đã được tìm về. Cái anh chàng áo đen, dáng thư sinh, mặt hiền lành, đi cùng con ngựa trắng như tuyết đã bị nó và Anh Tú cho vào tròng một cách ngọt sớt, để rồi phải ngậm ngùi trao hết tiền bạc tư trang của mình cho hai kẻ lừa đảo hòng mong được yên thân, lại chính là chàng trai bận áo giáp đang đi trước mặt mình. Chúa ơi! Phen này nó tiêu mạng rồi! Hết Văn Bình rồi đến chàng trai này, sao mà oan gia ngõ hẹp dữ vậy nè.
Trong phút chốc, hai luồng ánh mắt giao nhau, và hình như chàng trai cũng đã nhận ra cô gái bé nhỏ đứng xếp hàng trước mặt mình là ai, thế nên khuôn mặt mới đổi sắc và đôi mày kiếm thì chau hẳn lại vì ngỡ ngàng. Phát hiện ra kẻ lừa đảo đã gạt hết tiền mình đang có mặt trong đội nữ binh của đô đốc Bùi Thị Xuân, chàng trai mừng thầm trong bụng vì không cần phải đi tìm, kẻ thù cũng tự động dẫn xác đến cho mình. Ông bà ta thường hay nói “ông trời có mắt”, câu này thật đúng không sai.
- Lân, nãy giờ cậu có nghe ta nói gì không?
Đang âm thầm quan sát cô nàng “lừa đảo” kia lay hoay với thanh kiếm trong tay, để tập theo bài kiếm thuật mà Bùi Thị Xuân đang hướng dẫn, và tự hỏi cô ta vào đội nữ binh là có mục đích gì, Phan Văn Lân thoáng giật mình khi giọng nói trầm ấm của Văn Bình chợt vang lên, cắt đứt mạch suy nghĩ đang còn dang dở ở trong đầu. Lúng túng khi đối diện với ánh mắt nửa nghiêm khắc nửa ngạc nhiên của Văn Bình, vì lần đầu tiên mình tỏ ra lơ đãng trong khi chủ tướng đang nói, Phan Văn Lân liến chắp tay cúi đầu mong chủ tướng tha tội cho sự vô lễ đó. Đáp lại hành động ấy của Lân chỉ là một cái thở nhẹ, càng khiến anh thấy áy náy vô cùng khi chủ tướng không hề trách phạt câu nào.
- Cậu sao thế? Trong lòng đang tương tư nàng nào à?
- Thưa không! Thuộc tướng không dám - Trong thoáng chốc, khuôn mặt thư sinh của Phan Văn Lân chợt đỏ lên vì bối rối, do không quen đề cập đến những chuyện tình cảm cá nhân, nhất là khi Văn Bình lại hỏi với một chất giọng bông đùa - Vừa rồi tướng quân có nhắc đến sự phòng thủ ở Gia Định, có đúng không ạ?
- Tốt! Thế ra hồn thì đi mà lỗ tai vẫn còn để lại đây.
Nhìn bộ dạng lúng ta lúng túng như gà mắc tóc của Phan Văn Lân, Văn Bình bật cười vì sự hiền lành đến ngô nghê của anh chàng này, chẳng bù khi ra trận lại trở thành một trong những viên tướng dũng mãnh khó ai có thể so bì. Thôi không giễu cợt và bông đùa, ánh mắt Văn Bình thoáng hiện nét trầm ngâm khi nhắc đến Gia Định- một thân cây dù đã đốn nhưng rễ vẫn còn bám sâu trong lòng đất. Ba anh em của anh đã nhiều lần dẫn quân đến thế nhưng rốt cuộc vẫn chưa thể bình định được vùng đất màu mỡ, trù phú đó do sự có mặt Nguyễn Ánh, vị chúa cuối cùng còn sót lại của vương triều nhà Nguyễn sau đợt càn quét vào Gia Định năm Đinh Dậu. Lần này cũng thế, sau khi rút quân về Quy Nhơn, đất Gia Định giao lại cho đông sơn Đỗ Nhàn Trập và hộ bộ Bá, cùng với ba ngàn quân để trấn giữ. Với số quân ít ỏi mà Tây Sơn vương - Nguyễn Nhạc- đồng thời là anh trai mình- để lại như thế, những thuộc tướng của Nguyễn Ánh đã nhanh chóng tổ chức những trận đánh và chia quân chiếm lại Gia Định, kết quả tất yếu là Đỗ Nhàn Trập và hộ bộ Bá sau khi cố gắng chống chọi với Nguyễn quân, đến cuối cùng đành phải tháo chạy về Quy Nhơn, để cho Nguyễn Ánh mặc nhiên làm chủ vùng đất và gấp rút gây dựng lại thanh thế cho riêng mình.
- Thế tình hình ở Gia Định thế nào rồi? Cậu có nắm được tin tức gì không?
- Bẩm tướng quân! Thuộc tướng chưa thể nói chắc được điều gì vì phòng thủ của Nguyễn Ánh ở Gia Định thật sự rất chặt chẽ. Chỉ biết rằng hắn ta đang xây dựng hệ thống thành lũy, tu bổ hệ thống cũ và kiến tạo hệ thống mới. Phàm những ai ra vào thành Gia Định đều phải có thẻ bài. Đặc biệt gần đây, Nguyễn Ánh còn mua một số lượng gỗ rất lớn từ các thương nhân, đồng thời kiến nhập thêm vũ khí từ bọn Phú Lăng Sa do Bá Đa Lộc móc nối. Thuộc tướng thấy lần này hắn ta còn chuẩn bị kỹ càng và mật thiết hơn lần trước nên mất mấy tháng ròng cũng chỉ biết được đến thế, chưa thể biết được những thông tin nào hơn.
Nghe Phan Văn Lân bẩm báo lại với chất giọng không được tự tin lắm, Văn Bình nhẹ chau mày nhưng không nói gì. Mắt vẫn dõi theo những đô đốc đang tập trận cho binh sĩ, nhưng trong đầu anh thì lại đang suy nghĩ về tình hình Gia Định suốt mấy tháng qua. Dù Nguyễn Ánh là kẻ cựu thù của Tây Sơn, thế nhưng Văn Bình không phủ nhận chuyện Nguyễn Ánh có tài trong việc thu phục nhân tâm và có một sức sống bền bỉ, dẻo dai đến lạ thường. Đối với Tây Sơn, dù đã ba lần bốn lượt tấn công vào Gia Định, nhưng lần nào Nguyễn Ánh cũng thoát được sau những đợt càn quét ấy và tiếp tục trở về, vùng lên mạnh mẽ như để trêu ngươi kẻ thù của mình. Nhớ lại đợt tấn công vào Gia Định lần trước, chỉ vì hộ giá Phạm Ngạn say mê truy kích Nguyễn quân mà phải thiệt mạng tại cầu Tham Lương, dẫn đến lệnh tàn sát khách trú Minh Hương do anh trai mình ban bố. Hình ảnh Gia Định khi đó Văn Bình mãi không thể nào quên được. Đến tận bây giờ anh tưởng như vẫn còn nghe thấy tiếng gào khóc thất thanh của những thây người khi bị chết oan chất đầy sông ngòi
Sau vụ thảm sát của Tây Sơn vương do quá tức giận vì cái chết của viên hộ giá thân tín, Văn Bình đã nhanh chóng nhận ra rằng Tây Sơn đang dần trở nên bị cô lập. Những thương nhân Hoa kiều đã không quên được vụ thảm sát đồng hương của mình tại chợ Quán, nên phần lớn đã quay sang giao dịch với quân Nguyễn, âu cũng vì Nguyễn Ánh tại Gia Định có nhiều điều kiện để lôi kéo đám thương nhân người Hoa về phía mình. Về phía Tây Sơn, để có vật liệu cần thiết cho cuộc chiến, Văn Bình đã đề nghị anh mình mở rộng giao thiệp đối với các giáo sĩ bằng cách ban đạo luật tự do hành giáo, để móc nối buôn bán với các thương nhân Tây phương. Dù như thế nhưng Văn Bình cũng phần nào đoán được đám thương nhân Tây phương sẽ e dè, ngần ngại bởi cái gương của những người Minh Hương đã bị tàn sát. Đó là một vết nhơ không thể xóa bỏ cho nghĩa quân Tây Sơn, vì thế Văn Bình cũng đã nói khéo với anh mình rằng cần phải có thời gian để họ thật sự tin tưởng và quên đi vụ việc xảy ra ở chợ Quán vừa rồi.
- Thôi được, ở Gia Định cậu cố gắng thu thập thêm thông tin và đừng để lộ bất cứ sơ hở gì bởi Nguyễn Ánh không phải là một kẻ tầm thường. Hắn có một bộ óc rất nhạy bén nên cậu phải cẩn thận, tuyệt đối không được khinh suất mà thiệt thân.
- Thuộc tướng xin nghe lời dặn dò của tướng quân.
Phan Văn Lân gật đầu với một thái độ nghiêm trang khi nghe những lời Văn Bình vừa dặn dò. Nhẹ vỗ vào vai viên thuộc tướng thân tín của mình để động viên, Văn Bình liền cất bước đi một vòng quanh hoàng thành, theo sau là Phan Văn Lân để xem xét nghĩa quân tập luyện như thế nào.
Trong khi Văn Bình đang trò chuyện với Lân, thì Linh Lan trong đội nữ binh gần đó đang toát mồ hôi hột vì bài luyện tập của Bùi Thị Xuân. Thật sự trong đời mình, Linh Lan chưa bao giờ nghĩ rằng sẽ có ngày nó cầm đến thanh kiếm, lại là kiếm thật để sau này ra sa trường. Vì mới tập lần đầu đầu, lại chưa quen với sức nặng của kiếm, thế nên những động tác của Linh Lan vô cùng chậm chạp và có vẻ khó khăn, trong khi những nữ binh khác luyện kiếm thoăn thoắt, tạo ra những tia sáng bạc lấp lánh và âm thanh vun vút nghe đến vui tai.
Mặt trời ngày càng lên cao, Linh Lan ngày càng cảm thấy cơ thể mình rã rời hơn bao giờ hết. Những giọt mồ hôi nóng bức lăn tròn vào mắt nó cay xè và cánh tay cầm kiếm như muốn rệu rã tới nơi. Thấy Xuân và mọi người ai cũng say sưa luyện tập, Linh Lan tự nhủ rằng mình phải cố lên và không được thua sút mọi người. Dù đã tự nhủ thế, nhưng mới cố được dăm ba phút là Linh Lan cảm thấy mắt mình hoa lên do sáng nay chưa ăn gì. Kết quả là những bước chân của nó trở nên run rẩy, loạng choạng và thiếu điều muốn té xỉu tới nơi do không tài nào trụ vững thân hình. Đang chắc mẩm phen này mình sẽ ngã lăn ra đất, Linh Lan chợt nhận thấy một đôi bàn tay to lớn, vững chãi nhẹ đỡ lấy bờ vai của mình. Vội vàng ngoảnh lại phía sau để xem ai là người đã đỡ cho mình khỏi ngã, đôi mắt nó hiện rõ nét ngạc nhiên khi nhận ra đó không ai khác chính là Văn Bình. Anh đang nhìn nó mỉm cười. Tấm áo choàng rực lửa bay trong gió, đôi mắt sáng thấp thoáng sự dịu dàng trong đó và những ngón tay dài bóp nhẹ vai nó như một lời thăm hỏi, động viên.
- Cô không sao chứ?
- Vâng! Cám ơn anh! Tôi không sao, chỉ là hơi chóng mặt một chút thôi.
Đang mỉm cười cám ơn Văn Bình vì sự có mặt kịp thời của anh, nụ cười của Linh Lan chợt tắt ngóm khi nhác thấy anh chàng “ngây thơ” mà mình đã lừa đảo đang đứng ngay ở phía sau Văn Bình. Đôi mắt nâu của anh ta hiện rõ vẻ nghi ngờ khi nhìn về phía Linh Lan, khiến nó toát cả mồ hôi hột vì ngờ ngợ rằng hình như anh ta cũng đã nhận ra mình. Quả nhiên đúng như nó nghĩ, khuôn mặt thư sinh hiền lành của chàng trai lộ vẻ đắc thắng khi nhìn thấy sự lo lắng trong đôi mắt của kẻ thù, vì không ngờ oan gia lại có ngày chạm mặt nhau trong cái ngõ hẹp mà không ai báo trước như thế này.
- Tướng quân! Người và cô gái này quen nhau à?
- Cô ấy là con gái nuôi của nhạc phụ, là em vợ ta. Còn cậu? Không lẽ cậu và ớt nhỏ quen nhau sao?
Nghe Văn Bình giới thiệu Linh Lan là em vợ của mình, Phan Văn Lân đưa mắt nhìn khuôn mặt căng thẳng của Linh Lan rồi lại mỉm cười, đồng thời nhấn nhá từng chữ như để tăng thêm sự hồi hộp của nó, vì lo sợ cái “phi vụ lừa đảo” kia sẽ bị bóc trần trước mặt Văn Bình.
- Vâng! Thuộc tướng chẳng những quen mà còn lĩnh giáo được cao chiêu của em vợ người. Quen đã lâu nhưng bây giờ mới được nhìn ngắm kỹ càng, quả thật là vinh hạnh cho thuộc tướng vô cùng
★ Chương 38: Nhóc
Trong giây phút ấy, Linh Lan thật muốn có một cái lỗ nào đó dưới đất để chui vào cho khỏi ngượng, do thấy Văn Bình nhìn mình bằng một ánh mắt giễu cợt khi Phan Văn Lân vừa nói dứt lời. Vẫn biết rằng chuyện này sớm muộn gì cũng xảy ra bởi trái đất vốn tròn nhưng vành tai Linh Lan vẫn đỏ ửng lên chẳng biết vì xấu hổ hay do trời nắng. Tuy là vậy, nhưng Linh Lan vẫn nhìn xoáy vào mắt Lân không hề kiêng nể, làm cho anh có phần lúng túng vì đôi mắt của cô gái này như hai ánh lửa trong màn đêm.
- Trông bộ dạng anh thư sinh, hiền lành thế mà cũng nói mỉa mai ghê hen. Chuỵên đó không phải do tôi muốn mà là bất đắc dĩ. Hơn nữa, nếu nói lĩnh giáo cao chiêu của tôi thì chi bằng nói tôi đã chỉ cho anh phải cảnh giác khi bước ra đường. Không cám ơn thì thôi chứ sao lại còn nặng nhẹ với tôi như thế.
Trố mắt ra vì lý lẽ bắt nạt người khác của Linh Lan, Phan Văn Lân đành ngậm bồ hòn làm ngọt vì từ trước tới nay anh không quen tranh cãi với người khác, phần nữa do không biết phải nói sao mới đấu lại nổi cô gái ương bướng này. Biết Lân phải chịu thiệt, Văn Bình thở nhẹ một cái vì quen nhau tuy không lâu, nhưng anh lại hiểu quá rõ những cái bẫy tinh quái và cái tính thích bắt nạt người khác của Linh Lan. Đã nhiều lần anh định bụng sẽ sửa lại cái tính ngang bướng đó của nó, ngặt nỗi mỗi khi mở miệng hay trêu chọc nó điều gì, không hiểu sao khuôn mặt giận dỗi của Linh Lan lại làm cho Văn Bình không nỡ. Và anh luôn phải lên tiếng làm hòa trước bởi cái tính quê thì khó huề, huề rồi mà vẫn còn quê, câu cửa miệng vẫn thường hay nói của của cô nàng.
Khẽ hất đầu về phía những người lính mới gia nhập đội quân Tây Sơn, Văn Bình ra hiệu cho Phan Văn Lân đến đó hướng dẫn riêng họ, vì nhận thấy ai nấy đều đang lúng túng khi thực hiện những đường đao đòi hỏi phải có kỹ thuật của Võ Văn Dũng, trước sự mừng rỡ của Lân do thoát khỏi tình cảnh chẳng đặng đừng này. Đợi Lân vừa đi khuất, Linh Lan liền chun mũi một cái và vội cười trừ, khi bắt gặp ánh mắt không hài lòng của Văn Bình đang nhìn mình. Mở miệng tính nói điều gì đó, bờ môi mấp máy của Văn Bình thoáng ngưng lại khi nhìn thấy thanh kiếm mà Linh Lan đã chọn trong kho binh cụ, đang nằm vắt vẻo ngang thắt lưng nó - mà khi nãy anh đã không để ý. Trong phút chốc, đôi mắt sáng của Văn Bình chợt tối lại. Những mạch máu trong người như muốn căng phồng lên khi nhận ra con phụng hoàng quen thuộc, mềm mại đang uốn lượn trong mây. Văn Bình đăm đăm nhìn thanh kiếm, và nghe trái tim mình như có một vết rạn nào đó, một vết rạn nhỏ như những mạch rễ tí hon bám sâu trong lòng đất không cách nào đào được lên.
- Văn Bình! Anh sao thế?
Thấy Văn Bình đứng lặng im mãi mà chỉ nhìn thanh kiếm ngang thắt lưng mình, Linh Lan lo lắng chạm nhẹ tay vào Văn Bình để đánh thức anh. Vô hình chung nó lờ mờ nhận ra được ánh mắt của anh đang thay đổi. Và trong tích tắc nó như cảm giác được ánh mắt đó đang vỡ ra, hệt như mảnh trăng vàng lung linh, sáng vằng vặc trên mặt nước trở nên lao xao và tan ra thành những đợt sóng vàng nhấp nhô, khi có bàn tay của ai đó khẽ chạm vào giữa vòng sáng bạc lấp lánh in trên mặt hồ. Như đang đứng trong màn sương trắng thênh thang, Văn Bình cảm thấy từng chân tơ kẽ tóc đang lạnh dần lên trong màn sương mờ đục. Đôi mắt anh thoáng lay động khi có một hơi ấm nào đó nhẹ nhàng, mỏng manh, đang mơn man trên những ngón tay giá lạnh bất động của mình. Trong vô thức, những ngón tay của Văn Bình nhẹ nhúc nhích - hệt như một bệnh nhân bị liệt lâu ngày nay đã bắt đầu có ý thức trở lại - nhằm giữ lấy hơi ấm mong manh ấy, xua tan đi tảng băng vô hình đang bao bọc lấy thân mình.
- Văn Bình! Anh không sao chứ?
Như vừa thoát khỏi một giấc mộng dài, Văn Bình nhanh chóng bừng tỉnh khi một giọng nói trong trẻo pha lẫn sự quan tâm vang lên. Để rồi khi nhận ra mình đang nắm lấy bàn tay của Linh Lan, đôi mắt Văn Bình vụt qua nét ngỡ ngàng. Anh vội vã buông bàn tay nhỏ nhắn ấy ra như vừa phạm một điều cấm kỵ, khiến nó vô cùng lo lắng vì không hiểu những gì đang diễn ra trong tâm thức của Văn Bình. Sợ anh bị chóng mặt hay nhức đầu, Linh Lan liền nhón chân lên và sờ vào trán anh để xem nhiệt độ. Nhíu lại mày khi thấy trán Văn Bình vẫn mát và không có dấu hiểu gì gọi là cảm mạo, Linh Lan nhanh chóng bỏ tay xuống, nó nhìn sâu vào mắt anh để tìm xem những gì đang diễn ra đằng sau đôi mắt sáng ấy, và đôi chút thất vọng khi anh lảng tránh ánh mắt đó của nó, đồng thời buông lời nhẹ nhàng.
- Tôi không sao! Cô cứ ngồi nghỉ ở đây đến khi thấy khỏe hẳn. Tôi đi trước.
Trước đôi mắt bở ngỡ của Linh Lan, Văn Bình nói xong liền chuyển người đi mà không để cho nó kịp nói thêm lời nào. Nhìn theo bóng dáng cao lớn của Văn Bình đổ dài trên mặt đất, một cảm giác vu vơ hốt nhiên xâm chiếm lấy tâm trí Linh Lan. Nó tự hỏi không biết ẩn đằng sau khuôn mặt lúc nào cũng bình thản và pha chút giễu cợt đời ấy, thật ra trong đầu anh đang chất chứa những suy tư gì. Thở hắt một hơi vì bỗng dưng mình trở nên lẩm cẩm vì những chuyện không đâu, Linh Lan ngồi bệt xuống đất và dựa lưng vào lớp vỏ khô ráp, xù xì của cây cổ thụ râm mát, do cảm thấy vẫn chưa khỏe hẳn vì phơi nắng quá lâu dưới ánh mặt trời.
Sau khi nhìn một lượt những vị đô đốc đang huấn luyện cho thuộc tướng, lòng thắc mắc không biết họ là những ai trong lịch sử, Linh Lan lướt mắt qua Xuân rồi dừng lại ở Lân - đang múa đao biểu diễn - và Văn Bình - đang ở dưới hướng dẫn cho những người lính tập theo đúng những đường đao của Lân. Ngồi trong bóng râm quan sát những người lính - mặt mũi còn khá trẻ đó, Linh Lan lờ mờ nhận ra rằng có lẽ họ là tân binh, vừa mới gia nhập vào nghĩa quân Tây Sơn ít lâu. Có lẽ vì thế nên mới có một chỗ tập hơi cách biệt đối với những đội khác, đồng thời đao pháp vô cùng loạn xạ và tay chân lại vung vít lung tung mà không theo một lý thuyết nào. Anh này vung tay lên, anh kia hạ chân xuống, có anh lại vụng về làm rớt luôn cả thanh đao đang nắm trong tay, làm Linh Lan phải phì cười vì thấy sự ngô nghê, vụng về ấy sao quá giống mình.
Mặt trời đã đứng bóng. Từng tia nắng gay gắt chiếu thẳng xuống tấm lưng ướt đẫm mồ hôi của nghĩa quân, động tác của ai nấy đều đã chậm lại do mãi luyện tập từ sáng đến giờ. Cùng lúc đó, một tiếng kẻng ngân dài vang lên báo hiệu đã đến giờ nghỉ trưa. Nghe được tiếng kẻng ấy, mọi người vội dựng vũ khí vào sát tường, rồi tỏa ra các gốc cây ngồi đón cơn gió mát hong khô những giọt mồ hôi của mình. Nhìn Văn Bình đang đứng cùng với Phan Văn Lân và các tướng khác, Linh Lan ngầm hiểu có lẽ anh đang bàn đến việc binh, vì trông nét mặt ai nấy đều nghiêm túc. Ở góc khác, Bùi Thị Xuân lại đang tíu tít với đội nữ binh, còn những người lính mới thì đang ngồi cạnh nó và vội vã gật đầu chào khi nó mỉm cười.
Ngồi được một lát, Linh Lan cảm thấy nên đi rửa mặt cho đầu óc được tỉnh táo, nhằm xua tan đi cơn buồn ngủ đang kéo sụp mi mắt, do tác dụng của những cơn gió mát lành quấn quýt trên mặt mình. Được một người lính chỉ đường tới chỗ rửa mặt, Linh Lan uể oải đứng lên và nghe từng khớp xương kêu răng rắc, rã rời. Trong đời Linh Lan, thứ mà nó ghét nhất là mùi dầu gió, thế nhưng lúc này nếu có một chai dầu xoa bóp cho đỡ cơn nhức mỏi, được thế thì thật sự không còn gì tốt bằng. Băng qua hai hàng cây xanh mát tỏa bóng râm, Linh Lan trông thấy một bệ nước to, dưới chân bệ nước có sắp một hàng lu đậy nắp gỗ để bụi bẩn không rơi vào và một cái gáo dừa nằm trên. Cẩn thận mở nắp ra, Linh Lan múc một gáo đầy và vốc lấy những giọt nước mát lạnh lên mặt mình. Từng giọt nước lành lạnh, tê tê trên làn da làm nó thấy sảng khoái và tỉnh cả cơn buồn ngủ trong người. Tập vài động tác thể dục cho tỉnh táo, Linh Lan đưa mắt lên nhìn bầu trời xanh trong lộng gió. Lòng nó chợt dâng lên một nỗi niềm xao xuyến khó tả khi nhớ đến bầu trời xanh trong ở hiện tại - nơi mà nó đang sống - có anh, có bố và một gia đình êm ấm lúc nào cũng không ngơi tiếng cười.
Đang chìm đắm vào không gian suy tưởng, Linh Lan bất chợt trở về thực tại vì thoáng nghe thấy tiếng gió rít vun vút đâu đây. Ngạc nhiên thầm trong bụng, Linh Lan rón rén bước nhẹ về phía trước, để rồi đôi mắt nó bỗng nheo lại, khi trông thấy khuất sau tán cây rộng là một cậu bé mặc võ phục chỉnh chu đang hăng say luyện đao, dù những đường đao đó tuy không mạnh mẽ, nhưng cũng đủ để làm người khác phải mắt tròn mắt dẹt vì cậu bé tuy nhỏ tuổi mà tài lại cao thế này.
Có lẽ do mải mê luyện đao, nên cậu bé không trông thấy Linh lan đang thích thú khoanh tay đứng sau lưng mình. Thanh đao sắc bén phản chiếu ánh mặt trời trong tay cậu không ngừng vung lên, tạo ra âm thanh vun vút do lưỡi đao cứa vào gió nghe đến vui tai. Âm thầm quan sát một lúc, Linh Lan chợt nhận ra những đường đao của cậu bé trông rất quen thuộc. Phải nặn trán mất một lúc lâu nó mới chợt vỡ lẽ ra rằng, bài đao pháp ấy là của Văn Bình đã biểu diễn khi nãy cho đám tân binh xem. Chưa kịp nghĩ vì sao trong chốn quân đội lại đào đâu ra một cậu bé, thì một giọng nói mang âm sắc thình lình vang lên làm Linh Lan giật bắn mình.
- Cô là ai? Sao lại ở đây?
Đưa tay lên ngực vuốt nhẹ để bình ổn lại trái tim đang chạy maraton trong lồng ngực, Linh Lan lướt mắt lên mặt cậu bé. Một khuôn mặt xương xương rắn rỏi, tóc trước búi cao để lộ vầng tráng ương bướng. Một nước da bánh mật khỏe khoắn và cái miệng hơi mím lại, tạo cho cậu một nét chững chạc dù chưa đến tuổi- trái ngược hẳn với đôi mắt phảng phất nét mơ màng. Ái chà! Con trai mà có đôi mắt buồn mơ màng thế này, sau này chắc là đa tình lắm đây.
- Chị là Linh Lan, còn nhóc? Nhóc ở đây làm gì thế, không lo về phụ mẹ nấu cơm sao?
Khuôn mặt nghiêm nghị của cậu bé thoáng cau có khi Linh Lan hỏi mình với một thái độ giễu cợt. Thanh đao trong tay cậu chợt run lên và bất thần chĩa về phía Linh Lan nhanh như cắt, làm nó không kịp trở tay do quá bất ngờ. Chỉ nghe soạt một tiếng nhỏ, bờ vai của Linh Lan đã bị cứa một đường dài. Độ sâu tuy chỉ đủ để làm rách miếng vải chứ không mảy may chạm vào da thịt, nhưng cũng khiến Linh Lan phải kinh ngạc vì tốc độ vô cùng chuẩn xác của cậu bé này.
- Tôi cấm cô không được gọi tôi là nhóc.
Biết cậu bé lầm lỳ đang đứng trước mặt mình không phải người tầm thường, thế nhưng bản tính ương ngạnh của Linh Lan không cho phép nó tỏ ra sợ hãi, dè chừng. Vẫn khuôn mặt hơi hếch lên, vẫn đôi mắt nheo lại tinh nghịch, Linh Lan xoa bờ vai của mình khi làn gió nhẹ mơn man, đồng thời hỏi lại cậu bé với một thái độ vô cùng nghiêm trang.
- Đuợc được! Còn bé mà sao khó tính thế nhỉ. Vậy tôi không gọi là “nhóc” nữa mà gọi là “cậu” hen.
- Xem ra cô cũng có chút thông minh - Khuôn mặt cau có của cậu bé thoáng hiện nét hài lòng khi Linh Lan tỏ ra ngoan ngoãn. Trong khoảnh khắc, bờ môi cương nghị đang mím lại hơi giãn ra một chút, làm khuôn mặt của cậu chợt trở nên đáng yêu lạ thường.
- Tôi vốn là người thức thời mà, cậu…nhóc.
Trước khuôn mặt sa sầm lại của cậu bé, Linh Lan bật cười khúc khích vì cái tính ưa bắt nạt người khác của mình đã phát huy tác dụng. Sẵn cơn tức giận vì bị… chơi khăm, nay lại thấy Linh Lan cười như thế chẳng khác nào đổ thêm dầu vào lửa, làm cơn giận của cậu bé bùng phát như Hỏa Diệm Sơn. Từ suy nghĩ dẫn đến hành động, thanh đao trong tay cậu bé run lên và nhằm thẳng vai trái của Linh Lan mà tấn công. Do có sự đề phòng từ trước, Linh Lan vội lùi ra xa mấy bước rồi nhanh nhẹn đảo chân, nghiêng người về phía bên phải. Tay phải gạt qua vai trái, tay trái gạt qua dưới hông phải nên nó đã tránh được đường đao đó trong cảnh ngàn cân treo sợi tóc. Đồng thời cũng đã gạt được đao của cậu bé hơi chếch xuống để giữ an toàn cho bản thân, nhưng nó cũng phải le lưỡi vì tốc độ nhanh như chim cắt của cậu bé ngang tàng.
- Yến Phi Quyền! Cô làm sao biết Yến Phi Quyền? Cô đã học lén ở đâu hả?
Thu lại thanh đao ngay khi Linh Lan vừa xoay người lại, cậu bé gằn giọng hỏi nó. Khuôn mặt rắn rỏi đanh lại trước đôi mắt hấp háy của Linh Lan do không biết Yến Phi Quyền là gì. Như có một tia điện vừa chạy ngang trong đầu, Linh Lan chợt nhớ lại cách đây mấy ngày, trên đường trở về từ Ô Long sơn trang, Văn Bình đã hướng dẫn cho nó vài thế võ. Và vì trước đây cũng đã từng học võ với Nguyên Thiên nên Linh Lan không khó khăn mấy để tiếp thu bài dạy của Văn Bình. Nay trong lúc nguy cấp, Linh Lan đã sử dụng một trong những chiêu mà anh luyện tập cho mình, để thoát khỏi tình huống hiểm nghèo mà không hề hay biết. Ra là thế võ nó đã học ấy là Yến Phi Quyền…
- Này, cậu nhóc, ăn nói cho cẩn thận nhé, chị đây có người chỉ dạy đàng hoàng, học lén là lén thế nào?
- Cô nói dối. Rõ ràng Yến Phi Quyền chỉ dạy cho nam không cho nữ và còn không truyền cho người ngoài, làm sao cô có thể học được?
- Cái gì? Ở đâu ra cái luật chỉ truyền cho nam mà không truyền cho nữ. Sao mà phân biệt đối xử thế hả?
Trợn mắt lên vì cảm thấy bất bình cho cái lí lẽ phân biệt đó, Linh Lan đứng chống nạnh nhìn cậu nhóc- lúc này đang đỏ mặt tía tai vì phát hiện ra cô gái này đã sử dụng Yến Phi Quyền để đối phó với mình. Cô ta là ai? Tại sao lại được học môn võ ấy trong khi Yến Phi Quyền đặc biệt chỉ dạy cho nam không truyền cho nữ. Tại sao lại có sự ưu đãi trái với lệ thường như thế này?
- Tôi hỏi lại lần nữa? Cô làm sao biết được Yến Phi Quyền?
- Chị cũng nhắc lại lần nữa, chị đây học hành có người chỉ dạy đàng hoàng chứ không làm ba cái trò lén lén lút lút như thế, có chăng là nhóc ở đây làm chuyện mờ ám thôi.
- Cô nói cái gì?
Có vẻ như cậu bé này không phải là người thích đùa, nên khi nghe Linh Lan bảo mình làm chuyện mờ ám, trong nhất thời không kềm chế được cơn tức giận mà quát lên xông thẳng về phía Linh Lan. Hốt hoảng nhìn thanh đao sáng lóa trong tay cậu bé, Linh Lan vội vàng lùi lại phía sau và nghiêng người né tránh đồng thời tìm cách phản công. Một bên đao vung loang loáng, một bên lúng túng tránh né và tay không tấc sắt, không cần nói cũng biết phần thắng đang nghiêng về phía nào. Phần vì mỏi mệt do đã nhọc sức từ sáng tới giờ, phần vì sự tấn công của cậu bé này quá mãnh liệt nên cước bộ của Linh Lan đã có phần rối loạn. Nhận được sự thay đổi đó, cậu bé nhếch môi lên và chuyển đao sang tay trái trong chớp mắt, khiến Linh Lan không kịp trở tay và chỉ còn biết lùi lại theo phản ứng, để rồi ngã về phía sau do sơ ý vấp phải cục đá dưới chân mình.
Chắc mẩm phen này mình không bị lủng ruột thì máu cũng tuôn ào ào như suối khi lưỡi đao sắc bén đâm thẳng vào người, Linh Lan chợt thấy thân mình rơi gọn vào vòng tay vững chãi của ai đó từ phía sau đỡ lấy. Một mùi hương dễ chịu quen thuộc thoang thoảng đâu đây, làm Linh Lan ngỡ ngàng khi nhận ra người vừa mới đỡ lấy nó không ai khác là Văn Bình. Một tay anh ôm lấy thắt lưng nó, tay còn lại đang kẹp lấy mũi đao của cậu bé đang chực đâm vào người Linh Lan. Gương mặt điềm tĩnh lộ vẻ ngạc nhiên và không hài lòng khi nhìn thấy cảnh “đâm chém” không thuận mắt. Trong khi đó, Linh Lan chỉ còn biết cười trừ và đứng thẳng người lên, còn cậu bé lại lúng túng vô cùng khi đôi mắt nghiêm khắc của anh nhìn thẳng vào mình. Vội vàng thu đao lại, cậu bé ban đầu hung hăng là thế mà giờ lại trở nên ngoan ngoãn như một chú mèo con, làm Linh Lan trố mắt ra vì không nghĩ cái người lăm le chém mình khi nãy, bây giờ lại là một cậu nhóc hiền lành đang đứng trước mặt như thế này.
- Phụ…phụ thân.
★ Chương 39: Ngày dài
“Phụ thân?”
Khi nghe hai chữ “phụ thân” vừa thoát khỏi miệng cậu bé, Linh Lan bất giác há hốc miệng ra vì không nghĩ rằng cậu bé này lại là con của Văn Bình. Định thần nhìn kỹ lại gương mặt cậu, lòng nó không khỏi thắc mắc khi Văn Bình và cậu ta không giống nhau là mấy, ngoại trừ vầng trán cao và sự rắn rỏi trên gương mặt phong sương. Một cậu bé còn nhỏ mà đã có sự điềm tĩnh khác thường như thế, thật không biết lớn lên sẽ trở nên lạnh lùng hay khó gần, hoặc có lẽ là cả hai cộng lại cũng không biết chừng.
- Chuyện gì đang xảy ra ở đây?
Cau mày nhìn hai “con thỏ non” ngoan ngoãn đứng trước mặt, giọng nói của Văn Bình có phần sắc lại khi thấy vai áo của Linh Lan bị cứa rách một đường. Nhận thấy không khí vô hình chung đang quánh lại như bột nếp mẹ nhào, Linh Lan đánh mắt sang gương mặt bối rối của cậu bé. Nó liếm nhẹ môi trên của mình và tằng hắng một tiếng, để khỏa lấp sự ngượng ngập đang hiện hữu trong lòng cả hai người.
- Không! Đâu có gì, chỉ là chúng tôi giỡn chút thôi mà.
- Đến nỗi rách áo như thế này sao?
Đến lúc này thì Linh Lan đành phải im lặng. Nó ngờ rằng Văn Bình hình như gặp chuyện không vui, thế nên giọng nói vốn ôn hòa thường ngày của anh nay đanh lại tỏ vẻ không hài lòng. Thấy Linh lan im lặng, hai tay mân mê vạt áo, còn đứa con trai tám tuổi của mình - tức Quang Thùy - lúng ta lúng túng như gà mắc tóc do bị bắt quả tang tội tấn công lung tung, Văn Bình thở nhẹ một hơi. Anh thừa biết cá tính của Quang Thùy nếu đụng độ Linh Lan, không xảy ra cãi vã thì cũng dẫn tới đấu đá do không ai muốn chịu thua. Khi nãy nếu anh không đến kịp thời để ngăn cản lưỡi đao lạnh lùng ấy lại, thì thật chẳng biết hậu quả sẽ như thế nào.
- Quang Thùy! Con đi theo ta. Còn cô, mau quay trở lại đội nữ binh đi.
Nhìn hai khuôn mặt đang sám hối lần cuối, Văn Bình quay người trở gót sau khi để lại câu nói nhẹ tênh, không mang sắc giận cũng chẳng đượm vẻ quan tâm, làm Linh Lan thắc thỏm trong lòng vì không biết cảm xúc thật sự của anh bây giờ thế nào. Vội vàng theo chân Văn Bình khi bóng dáng anh dần khuất sau rặng liễu xanh, Quang Thùy không quên tặng cho Linh Lan một cái nhìn hình viên đạn, với ý nghĩa thù này không trả thề không là …Thùy, làm Linh Lan vờ rụt cổ le lưỡi tỏ ý sợ sệt vì cá tính ngang ngạnh của cậu bé này xem ra không hề thua kém mình là bao.
Bầu trời dần ngả sắc, mang theo không khí dịu mát của làn gió chiều xua tan cái nóng oi bức buổi ban trưa, khiến cho Linh Lan vô cùng dễ chịu. Sau một ngày dài tập luyện vất vả, dưới sự dìu dắt tận tình của Xuân và mọi người, Linh Lan cũng đã dần làm quen được sức nặng của thanh kiếm. Không chỉ thế, nó còn có thể biểu diễn vài đường cho Anh Tú phải lác mắt - nếu như ông anh hay chê bai của nó có mặt tại đây. Còn Văn Bình, từ sau khi bắt quả tang việc nó và cậu bé khó ưa đang ẩu đả, anh không hề xuất hiện tại sân tập, cũng như sự biến mất kỳ lạ của Phan Văn Lân làm Linh Lan ngạc nhiên vô kể. Trong đầu nó đặt biết bao câu hỏi không đầu không đuôi, cụ tỷ như Văn Bình có còn giận không? Sau khi “xử lý” xong thằng nhóc ấy, số phận của nó sẽ như thế nào? Còn anh chàng thư sinh kia biến đâu mất trong khi các vị đô đốc khác vẫn còn tập trung ở đây? Với hàng tá câu hỏi mà không có lời giải đáp, Linh Lan cứ đắm chìm trong mớ bòng bong đó cho đến khi bên tai nghe thấy tiếng trống báo hiệu đã hết giờ luyện tập, nó mới vội bừng tỉnh và hòa nhập vào dòng người đông đúc ra khỏi Hoàng Đế thành.
Một ngày tham gia đội nữ binh, Linh Lan đã có thể tổng kết được giờ giấc sinh hoạt của quân lính dưới thời Tây sơn thế nào. Theo lời kể của Lê Tính, sáng sớm lúc mặt trời còn chưa ló đầu ra khỏi ngọn núi, tất cả mọi người phải thức dậy chạy bộ đến ngọn tre đầu làng rồi quay về dùng cơm sáng. Tiếp đó họ sẽ luỵên tập binh khí cho đến giữa trưa, sau khoảng thời gian độ hai nén nhang nghỉ ngơi và dùng cơm, họ lại tiếp tục tập cho đến xế chiều và được tản bộ ngoài thành vài khắc. Cuối cùng là ăn tối và luyện tập võ nghệ đến khuya rồi đi ngủ trong căn phòng tập thể dành cho mình. Nghĩ đến những quy định khe khắt và giờ giấc gắt gao trong quân đội - áp dụng cho cả nữ binh - Linh Lan toát cả mồ hôi hột vì một đứa mê ngủ như nó thật khó có thể tuân thủ theo đúng những luật lệ này. Chậc! Thôi thì cứ dựa theo tình hình mà tiến vậy, nghĩ thầm trong đầu như thế, Linh Lan ung dung theo chân Xuân ra khỏi Hoàng Đế thành. Mong muốn duy nhất của nó bây giờ là được lết về nhà đánh một giấc cho đến sáng, vì tấm thân cả ngày vận động nay đã mệt mỏi và từng khớp xương như muốn tháo rời.
- Cô Nhạn, hôm nay cô thấy thế nào? Có đồng ý gia nhập vào đội nữ binh của cháu không?
Đang bẻ các khớp tay kêu răng rắc theo thói quen khi cần thư giãn, Linh Lan khựng lại nhìn Xuân khi nghe cô hỏi. Nó chỉ biết cười trừ vì nghĩ đến cảnh mỗi sáng phải thức dậy lúc mặt trời còn chưa lên cao, là bao nhiêu nhuệ khí trong người đã tiêu tan như bọt xà phòng.
- Ơ… a… ừm! Chắc… để em coi lại…
Phì cười trước gương mặt đầy biểu cảm của Linh Lan, Bùi Thị Xuân bóp nhẹ vai nó ngầm động viên từ nay phải cố gắng thật nhiều. Tuy quen nhau không lâu, nhưng Xuân đối với nó như chị em thân thiết trong nhà làm Linh Lan thật sự cảm động. Mấy lần tính quay sang nhờ Xuân chỉ dẫn đường về, nhưng rốt cuộc nó lại thôi vì thấy cô đang vui vẻ trò chuyện với đội nữ binh. Chậc! Đường đi trong miệng, không biết thì hỏi. Linh Lan tự trấn an như thế và mơ màng nghĩ đến chiếc giường ấm áp sau một ngày mệt đừ người. Theo trí nhớ mang máng của nó lúc đi cùng người đàn ông đánh xe, Linh Lan băng qua khu chợ giờ đã tan, chỉ còn những chiếc sọt tre xếp chồng lại nơi góc tường, và tiếng người lao xao cười đùa xem hôm nay mình đã thu thập được bao nhiêu. Vội lấy tay che mặt khỏi từng cơn gió đỏ bụi đường, Linh Lan giẫm lên xác lá khô rơi rụng và nhanh chân tìm đường về nhà, nếu không muốn phải ngủ qua đêm tại một ngối miêu hoang nào.
Bâng quơ liếc mắt lại về phía Hoàng Đế thành, Linh Lan chợt ngưng mục khi thấy gần cánh cổng to lớn là một thiếu phụ mặc áo tím với làn da bánh mật duyên dáng, dáng người nặng nề - do bào thai trong bụng đã lớn - đang ngồi trên một chiếc ghế đá và âu yếm sửa lại cổ áo cho cậu nhóc hung hăng khi nãy đã cùng nó đánh nhau. Văn Bình thì đứng bên cạnh và đang trò chuyện gì đó với thiếu phụ. Tay anh nhẹ vén những sợi tóc mai của người thiếu phụ, khi một cơn gió hất tung mái tóc đen nhánh của cô với một cử chỉ vô cùng dịu dàng. Cử chỉ dịu dàng hiếm thấy đó làm cho trái tim của Linh Lan bất giác đập hụt một nhịp mà, bản thân nó lại không thể lý giải vì sao.
Dường như biết có người đang quan sát mình, Văn Bình bất giác lướt mắt về phía khu chợ chiều. Để rồi khi nhìn thấy Linh Lan đang đứng đó, từ trong đôi mắt đen láy ánh lên một sự ngạc nhiên pha lẫn hiếu kỳ, thì bàn tay đang vén tóc mai của người thiếu phụ bỗng trở nên nặng nề và bất động. Khẽ nhúc nhích từng ngón tay mình như để xác minh nó vẫn còn cảm giác, Văn Bình chậm rãi thả tay xuống, nét mặt anh trầm lại, đôi mắt sáng xuyên qua làn sương mù vô hình để nhìn về phía Linh Lan, vì bóng dáng của nó bây giờ sao lung lay chập chờn như một ảo ảnh. Trong giây phút bốn mắt nhìn nhau ấy, Văn Bình nở một nụ cười nhẹ, và nụ cười của anh rơi vào hư không khi Linh Lan vội quay lưng đi. Mái tóc đen nhánh nhẹ bay trong gió như những sợi tơ giăng ngang trời, làm rối tâm tư tĩnh lặng bấy lâu không xáo trộn của một viên tướng vốn quen mùi thuốc súng nơi chiến trường.
- Huệ! Anh sao thế?
Đối với Văn Bình, một người xưa nay luôn tìm ra lý do và muốn có được câu trả lời xác đáng, thế nhưng không hiểu tại sao lúc này, khi bóng dáng của Linh Lan dần xa rồi trở thành chấm nhỏ như hạt đậu, anh vẫn dõi theo hình dáng bé nhỏ ấy biến mất như sương như khói trong tầm mắt mình, mà không giải thích được nguyên nhân cho sự dõi theo ấy là gì. Trong giây phút ngay cả bản thân còn không hiểu nổi mình đó, giọng nói thanh tao của thiếu phụ áo tím nhẹ nhàng cất lên, giúp Văn Bình thoát khỏi những dòng suy tư lạ lẫm ấy, và mỉm cười khi gương mặt của thiếu phụ lộ vẻ lo âu.
- Ta không sao. Em và Quang Thùy nên quay về phủ. Trời về chiều đang lạnh dần lên, nếu để tổn hại đến đứa con… trong bụng thì không hay.
Ngước mắt lên nhìn Văn Bình bằng tình yêu sâu thẳm, e ấp của mình, thiếu phụ áo tím - tức Phạm Thị Liên - liền nhẹ vịn vào tay anh và chậm chạp đứng lên. Dìu Liên băng qua lớp tường thành xám xịt để trở về phủ Long Nhương, những ngón tay của Văn Bình trở nên lạnh toát. Cảm giác lạnh lẽo ấy bắt đầu xâm nhập vào trái tim nóng hổi đang đập rất nhẹ trong lồng ngực và đóng băng từng mạch máu của anh. Rốt cuộc anh đang chờ đợi điều gì? Chờ đợi một tia sáng nhỏ bé? Chờ đợi cảm giác ấm áp tuy mong manh dễ vỡ? Chờ đợi cái tên mình được thốt ra từ bờ môi đó hay sao? Anh là Nguyễn Huệ, là Long Nhương tướng quân, cầm quân ra trận chưa bao giờ nếm mùi thất bại. Binh sĩ kính trọng, anh em đồng lòng, có một người vợ hiền thục, nết na, có một đứa con ngoan ngoãn và chuẩn bị chào đón thêm một thành viên mới trong gia đình. Phải! Anh đã có đầy đủ, phải nói là quá đầy đủ, anh đã có tất cả những gì người khác mơ ước, vậy tại sao anh còn đang chờ đợi một điều gì khác? Anh đang cố chờ đợi một điều gì?
*
* *
Trong lúc Văn Bình đưa Liên và Quang Thùy về Long Nhương phủ, thì Linh Lan đang lững thững trên con đường cái quan. Nó không biết rằng mình đã đi được bao lâu và bao xa, chỉ thấy thân thể mình ngày càng chậm chạp và mệt nhoài, tưởng chừng như bao sức lực trong người đều đã tiêu tan. Nhìn về phía trước, Linh Lan lắc đầu ngán ngẩm khi thấy con đường ngày càng dài ra. Theo lời người dân chỉ dẫn thì phải rẽ trái sáu lần, rẽ phải bảy lần và đi thẳng chừng mấy dặm nữa mới tới nhà ông Lương, trong khi nó trước giờ chỉ quen đi xe bus và chạy chaly, còn cái môn đi bộ này nó phải chào thua. Những tưởng một lần rẽ ấy chắc cũng không dài bao xa, thế mà giờ đây nó không ngừng kêu ca than vãn, vì không lường trước được quãng đường cho một lần rẽ ấy lại xa tít mù khơi thế này. Đến khi chịu hết xiết, Linh Lan ngồi phịch xuống một tảng đá bên đường, hai tay nó không ngừng xoa bóp đôi chân đã phồng rộp lên vì đất đá, và phớt lờ mọi ánh mắt hiếu kỳ của người đi đường.
- Ớt nhỏ! Cô đã đi hết nổi rồi sao?
Đang bận đấm nhẹ vào bắp chân mình cho đỡ nhức mỏi, Linh Lan ngẩng phắt đầu lên khi một giọng nói trầm ấm quen thuộc vọng vào tai. Văn Bình đương ở trước mặt nó cùng với con ngựa ô quen thuộc lúc sáng. Ánh mắt ôn nhu khi anh nhìn nó, khiến Linh Lan nhớ đến cử chỉ dịu dàng của anh đối với thiếu phụ áo tím khi nãy, và vội vàng đứng phắt dậy mà không màng đến đôi chân đang đau nhức của mình.
- Ai nói tôi đi hết nổi! Anh đừng có coi thường tôi.
Với một vẻ mặt lạnh lùng như lon nước ngọt ướp đá, sắc giọng của Linh Lan có pha chút giận dỗi, nó nhanh chóng quay người đi một mạch. Nói đi một mạch nhưng những bước chân của nó tựa hồ không nhấc lên nổi. Phải cố sức lắm Linh Lan mới bắt được đôi chân ấy tuân theo mệnh lệnh của mình dù nó đang muốn đình công, hòng cho Văn Bình thấy nó không phải là một đứa yếu ớt, vô dụng, mới đi bộ một chút đã lê hết nổi trước nụ cười của anh. Văn Bình thừa biết cô nàng ớt nhỏ này tuy đã hết sức, nhưng lại tỏ ra thản nhiên như chẳng có chuyện gì bởi đang muốn chứng tỏ bản thân mình
- Đi bộ như cô biết bao giờ mới về được đến nhà. Lên đây, tôi đưa cô về.
Mở miệng tính nói “cám ơn” theo thói quen để từ chối sự giúp đỡ của Văn Bình, Linh Lan chợt cảm thấy thân mình nhẹ bỗng, để rồi khi định thần được chuyện gì đang xảy ra thì nó đã yên vị ngồi trên lưng ngựa từ hồi nào không biết. Vòng tay của Văn Bình đang choàng qua người nó như một gọng kiềm xiết chặt, làm nó hết đường cựa quậy nên chỉ còn biết giương đôi mắt tức tối lên nhìn anh vì sự “tiên hạ thủ vi cường”.
- Nè! Tôi còn đi bộ được, thả tôi xuống mau lên.
- Cưỡi ngựa bao giờ cũng nhanh hơn đi bộ nhiều, vả lại tôi không muốn mang tiếng bắt nạt con gái của nhạc phụ đâu.
Văn Bình vừa dứt lời, anh liền thúc ngựa chạy như bay về phía trước mà không để Linh Lan kịp phân trần câu nào. Biết một khi Văn Bình đã muốn thì không ai có thể cản được, Linh Lan đành nén lòng lại và lặng thinh nhìn về phía trước. Con đường ngày một dài ra, hàng cây phai lá dần lùi lại sau lưng khi bốn vó của con tuấn mã lướt như bay trên những dặm đường. Đếm được cái ngã rẽ thứ sáu, thay vì rẽ sang trái như mọi người đã chỉ thì Văn Bình lại cho ngựa rẽ sang phải, sự thay đổi đó làm Linh Lan vô cùng ngạc nhiên vì không hiểu thật ra anh muốn làm gì
- Anh đưa tôi đi đâu vậy? Đây đâu phải đường về nhà.
- Đến nơi rồi cô sẽ biết.
Mỉm cười bí mật trước câu hỏi của Linh lan, Văn Bình cho ngựa băng qua rừng cây bạt ngàn, lội qua những con suối trong vắt và luớt trên những lớp cỏ mềm xanh non. Càng lên cao, bầu không khí càng mát lạnh, để rồi một cánh đồng hoa vàng rợn sóng dần hiện ra trước sự bỡ ngỡ của Linh Lan, khi khung cảnh đẹp như tranh vẽ đang thu vào trong tầm mắt mình.
Đây là nơi Văn Bình muốn dẫn nó đến ư?
Đến một gốc cây cổ thụ cành lá xum xuê như muốn che kín cả bầu trời, Văn Bình bế Linh Lan xuống ngựa. Anh vuốt nhẹ chiếc bờm trắng tinh của con tuấn mã, để cho nó nhởn nhơ gặm cỏ rồi nắm tay Linh Lan băng qua cánh đồng. Cả hai cùng đi giữa rừng hoa bạt ngàn. Từng bông hoa li ti vàng mượt, nhỏ bé, ngoan ngoãn lung lay theo chiều gió, tựa như sóng biển đang nhấp nhô vỗ vào bờ và hôn nhẹ lên từng bước chân của hai người.
Cùng sóng vai với Văn Bình đứng trên đồi cao, Linh Lan khẽ vươn vai một cái để mùi thơm dịu dàng của đồng hoa tràn vào phổi. Dù rất muốn hỏi Văn Bình xem thiếu phụ áo tím là ai, thế nhưng trong khung cảnh thơ mộng này thì Linh Lan tạm thời không nhắc đến mấy chuyện đó làm gì. Trên đầu là trời xanh ngả sắc, dưới chân đằm thắm hoa vàng, xa xa là bóng dáng Hoàng Đế thành sừng sững trong gió, trước mặt là vùng quê trù phú, xanh tươi, điểm thêm khói chiều từ thôn xóm, lũy tre xanh rì và dòng sông mát ngọt chảy quanh hiền hòa. Khung cảnh muôn trùng non nước mà nó đang thu vào tầm mắt ấy thật sự rất đẹp, đẹp như những bức tranh vẽ mà nó đã nhìn thấy ở bào tàng mỹ thuật việt nam.
- Lúc còn nhỏ, tôi vẫn thường hay đến đây chơi. Cảm giác đứng trên đồi cao trông xuống dưới thế này, thật sự rất bình yên.
Trước đôi mắt ngạc nhiên của Linh Lan, Văn Bình chỉ mỉm cười, và đa phần các nụ cười của anh đều khó hiểu như chính bản thân anh vậy. Lặng lẽ ngồi xuống cạnh Văn Bình, Linh Lan miên man nhìn ngắm con sông như một dải lụa trắng dưới chân làng, rồi bỗng nhiên lên tiếng hỏi. Nó muốn biết thêm về con người của Văn Bình - một Long Nhương tướng quân và cũng là Nguyễn Huệ trong sách sử, vì có mấy ai được dịp tiếp xúc gần gũi với anh như thế này.
- Văn Bình, tôi hỏi… anh cái này nhé…
- Chuyện gì?
- Ừm! Anh có nghĩ sau này mình sẽ… thống nhất đất nước không?
Thoáng chút ngạc nhiên khi Linh Lan bất chợt hỏi những chuyện của tương lai, nhưng Văn Bình vẫn trả lời nó bằng một đôi mắt xa xăm khi nhớ đến mong muốn thưở thiếu thời của mình.
- Bây giờ đất nước đang hình thành rất nhiều thế lực. Một là của Tây Sơn vương, hai là của Nguyễn Ánh, ba là của chúa Trịnh và vua Lê, một đất nước mà chia năm sẻ bảy, lại thêm dân và quân xem nhau như thù địch như thế, cô nghĩ có thống nhất được không?
- Được chứ! Cho dù thế nào thì đất nước cũng sẽ thống nhất, lịch sử đã ghi chép lại và thực tế chứng minh đúng như vậy mà.
- Ớt nhỏ, cô luôn miệng nói đến lịch sử, vậy lịch sử là sao và nó ghi chép những gì về thời này?
Mấp máy môi toan nói cho Văn Bình biết, nhưng trong phút chốc Linh Lan kịp thời ngậm miệng lại và tự trách mình sao lại nói về lịch sử, những điều sẽ xảy ra trong tương lai cho người… trong quá khứ nghe. Tất cả những gì lịch sử đã ghi chép phải được giữ bí mật, vì chỉ cần một sự thay đổi nhỏ thôi là chuyến xe lửa của tương lai sẽ bị trật đường ray, kèm theo đó là hậu quả không thể lường trước được một khi quá khứ bị đổi thay. Tự căn dặn bản thân sau này tuỵêt đối không nhắc gì đến lịch sử, Linh Lan không biết phải trả lời cho Văn Bình thế nào cho phải đạo, nó đành nhoẻn miệng cười lỏn lẻn với ý nghĩa tôi chỉ thuận miệng nói chơi thôi, anh chớ để ý làm gì.
Nhìn nụ cười đó của Linh Lan, Văn Bình cũng không hỏi sâu thêm nữa khi gương mặt lúng túng của nó đã tố cáo tất cả. Thuận tay bứt lấy một cọng cỏ non dưới chân mình, Văn Bình đưa mắt nhìn những mái nhà tranh lẩn trong sương chiều, lòng tự hỏi rằng tất cả có thật sự yên bình và hiền hòa như mắt anh đã thấy, hay đang che giấu một điều gì khác khi chiến tranh xảy ra liên miên, dân tình xiêu tán tứ phương rồi trôi giạt về đây dựng một mái nhà tranh sống cho qua ngày. Thống nhất đất nước. Liệu có thể thống nhất đất nước không khi đất Quy Nhơn, nơi nuôi dưỡng Tây Sơn lớn lên còn rất nhiều thiếu thốn và khó khăn trăm bề.
- Ớt nhỏ, cô có biết ước muốn của tôi là gì không?
- Là gì?
- Đó là thiên hạ trở thành người một nhà.
Trong khoảnh khắc ấy, Linh Lan nhận ra đôi mắt của Văn Bình sáng lấp lánh như hai vì sao khi nói đến ước mơ của mình. Thiên hạ trở thành người một nhà. Linh Lan tủm tỉm cười. Nó không biết nên gọi ước mơ ấy là gì, bởi thực tế trong lịch sử, Quang Trung đã đuổi Xiêm đánh Thanh, lên ngôi thống nhất giang sơn và lập ra triều Tây Sơn, tuy chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn ngủi, nhưng cũng đủ để cho hậu thế nhắc tới với những lời khen chê khác nhau của mình. Có người bảo Tây Sơn vô học, có người bảo Tây Sơn tàn bạo và cũng có người bảo Tây Sơn không được lòng dân, tất cả những điều đó liệu Văn Bình có biết hay không? Nếu biết, thì cái ước mơ muốn thiên hạ trở thành người một nhà đó anh có còn thực hiện không, Văn Bình?
- Nếu phải đi trở lại, anh lại đi đường này chứ?
Đưa mắt nhìn Linh Lan khi nó đột nhiên hỏi một câu không ăn nhập gì tới vấn đề, Văn Bình lại nở một nụ cười. Nghĩ đến những gì mình đã làm, đang làm và sẽ làm, Văn Bình buông nhẹ một câu nói, và câu nói ấy khiến Linh Lan tươi mặt lên. Nó biết rằng dù cho lịch sử hay mọi người có quan điểm, thành kiến tốt, xấu như thế nào, thì một Văn Bình hôm nay mà nó nhìn thấy chắc chắn làm gì đều có lý do riêng của mình.
- Nếu phải đi trở lại, tôi lại đi đường này.
Khi nghe những lời Văn Bình khẳng định, Linh Lan bất giác thở phào nhẹ nhõm. Tuy nó không hiểu vì sao anh lại đưa nó đến cánh đồng hoa, thế nhưng cảm giác được hít thở bầu không khí ngọt dịu và đắm mình trong không gian lộng gió thật sự rất tuỵêt vời. Nằm xoài ra giữa cánh đồng, hai tay giang rộng ra như muốn ôm trọn cả bầu trời cao vời vợi, Linh Lan mở to mắt khi Văn Bình ngả lưng xuống, để rồi trong khoảnh khắc hai đôi mắt bắt gặp ánh nhìn của nhau. Linh Lan chợt cảm thấy lòng mình vô cùng bình yên, và đó là cảm giác an toàn đầu tiên nó nhận được từ khi lạc chân vào quá khứ cách đây hai trăm năm này.
- Lúc còn nhỏ, tôi có coi một bộ phim Đài Loan, tựa là “Người tình của Tần Thủy Hoàng” kể về mối tình của ông ta và một cô gái tên A Phòng. Trong đó, tôi rất thích bài hát mở đầu cho phim, tôi còn nhớ man mán lời dịch của nó như thế này.
Gió cuốn đi tháng năm dài đằng đẵng
Tình vẫn còn mà người chẳng thấy đâu
Hận trời xanh vô tình nhắm mắt
Chẳng chịu nghe, chịu hỏi, chịu trông.
.....
Nếu suốt đời bôn ba lặn lội
Mà vẫn không giữ được người tri kỷ hồng nhan
Thì dù cho nắm được cả giang san
Vẫn cảm thấy xót xa ân hận
Ngưng một chút như để hồi tưởng lại năm tháng bé thơ của mình, Linh Lan lại tiếp lời.
- Đoạn cuối của bộ phim đó, Tần Thủy Hoàng vì muốn đánh chiếm các nước để thống nhất Trung Nguyên, A Phòng không ngăn cản được nên đã tự sát. Văn Bình, nếu anh là ông ta, thì anh sẽ chọn giang sơn, hay quyết tâm giữ lấy người tri kỷ hồng nhan ấy?
Linh Lan dò mắt nhìn Văn Bình đang nằm bên cạnh, nó muốn xem anh sẽ trả lời cho câu hỏi ấy như thế nào. Nhưng đáp lại nó chỉ là sự im lặng, Văn Bình không trả lời dù không hiểu từ “phim” kia có nghĩa là gì. Đôi mắt anh trở nên mông lung, và nụ cười của anh thật mênh mang khi bắt gặp ánh mắt tò mò của nó đang nhìn mình. Không tiện hỏi thêm một câu nào nữa, Linh Lan đành chấp nhận sự im lặng của anh là một câu trả lời… không thỏa đáng, dù cho trong bụng rất muốn biết sự lựa chọn của anh là gì.
Hoàng hôn dần buông xuống chân đồi. Bầu trời nhuộm sắc hồng như vệt màu loan của ai vừa mới nhỏ vào ly nước. Văn Bình thong thả đứng dậy, anh nắm lấy tay Linh Lan cho khỏi ngã khi nó loạng choạng đứng lên, và bước về phía con tuấn mã đang nhởn nhơ gặm cỏ để quay trở về nhà. Ngồi trên lưng ngựa, Linh Lan phóng tầm mắt ra chân trời xa, nơi bóng mặt trời đỏ ửng như giọt máu đào dần khuất sau rặng núi. Nhớ đến ước muốn khi nãy, Linh Lan ngẩng đầu lên nhìn gương mặt phong sương của Văn Bình, đoạn khẽ khàng.
- Ước muốn thiên hạ trở thành người một nhà, anh chắc chắn sẽ làm được.
- Sao cô chắc thế?
- Vì anh là Văn Bình.
Trước đôi mắt đang ngưng lại của Văn Bình, Linh Lan nhoẻn miệng cười rồi quay đầu nhìn về phía trước, thế nên nó không thể đọc được những gì đang biến đổi trong đôi mắt anh. Chẳng hiểu vì sao mỗi khi nghe Linh Lan gọi tên mình, Văn Bình cảm thấy rất dễ chịu. Cái cảm giác vô cùng dễ chịu nhưng pha trộn cả sự lo âu trong đó làm anh cảm thấy lạ lẫm, hệt như lần đầu tiên khoác lên người bộ chiến bào rong ruổi trên sa trường. Nắm chặt sợi dây cương đỏ tía trong tay, Văn Bình thúc ngựa phóng như bay xuống chân đồi, bỏ lại sau lưng đồng hoa rợp vàng, bỏ lại sau lưng những lớp mây sa đỏ thắm lãng đãng nối đuôi nhau về phía chân trời.
Điều khó nhất trên đời là làm một trang nam tử
Ý chí vững vàng mà tình cảm mênh mang (*)
--- --- ---
Chú thích :
(*) Lời bài hát chủ đề trong phim Người tình của Tần Thủy Hoàng.
★ Chương 40: Khảo nghiệm
Lang cố thiếp hề Hàm Dương
Thiếp cố lang hề Tiêu Tương
Tiêu Tương yên trở Hàm Dương thụ
Hàm Tương thụ cách Tiêu Tương giang
Tương cố bất tương kiến
Thanh thanh mạch thượng tang…(*)
Đang chăm chú ngồi giã những bó cỏ thuốc trong tô sành, Bách Nhật ngước đầu lên khi chất giọng như chuông chùa của Hải Thượng Lãn Ông lọt vào tai. Một tay đảo những bó cỏ khô được tán vụn trên nia, tay còn lại lật từng trang sách, Hải Thượng Lãn Ông không ngừng ngâm nga những câu thơ trong Chinh Phụ Ngâm, mà Bách Nhật không hiểu rõ nghĩa với một gương mặt vô cùng biểu cảm. Phồng miệng thổi bay những hạt cỏ bám trên mặt nia, ông nheo mắt nhìn Bách Nhật đầy ẩn ý, rồi lại trông về cánh cổng khép kín, đoạn bâng quơ.
- Giờ này mà Phong nhi vẫn chưa về, báo hại con dâu ta hết trông rồi lại ngóng, thật là đáng tội, đáng tội.
Tủm tỉm cười khi Hải Thượng Lãn Ông lộ vẻ sốt ruột, nhưng Bách Nhật không tiện phân trần vì nhớ đến lời giao hẹn giữa nó và Ưu Phong. Hồi tưởng lại ngày đầu tiên khi đặt chân lên đất Hương Sơn, một cảm giác vô cùng mới mẻ, lạ lùng thắp lên trong lòng Bách Nhật, khi khuôn mặt phúc hậu của Hải Thương Lãn Ông thấp thoáng sau giàn thiên lý mới trổ hoa. Nhìn thấy Ưu phong - đứa học trò thông minh của mình - đi cùng với một cô gái, đôi mắt tinh anh của Lãn Ông lộ vẻ ngạc nhiên. Rồi sau đó, ông nồng hậu tiếp đón cả hai người với một nụ cười đầy ẩn ý sau chòm râu bạc phơ, mà sau này Bách Nhật mới biết đó là vì ông tưởng nhầm mình là…vợ của Ưu Phong.
Không nỡ làm cho người thầy mình kính trọng mừng hụt, Ưu Phong đã căn dặn với Bách Nhật rằng tạm thời cứ để cho ông nghĩ như thế, và anh sẵn lòng nhường cho nó chiếc giường duy nhất khi hai người ở chung phòng dưới bàn tay sắp xếp của Lãn Ông. Đến Hương Sơn đã được ba ngày, trong thời gian đó, Bách Nhật đã theo Hải Thượng Lãn Ông học chữ và cách bốc thuốc. Thế nhưng không hiểu sao, với những nét gạch lên xuống,ngang dọc của chữ Hán, Bách Nhật phải chật vật lắm mới nhớ được một số từ đơn giản và thông dụng, còn công dụng của những vị thuốc và cách bào chế, Bách Nhật lại nhớ rất nhanh chóng và thành thạo đến mức ngay cả Lãn Ông cũng phải ngạc nhiên vì sự tiến bộ mau chóng của cô “con dâu” này.
Nhìn Bách Nhật chăm chú ngồi giã thuốc, chốc chốc lại đưa tay quệt những giọt mồ hôi lăn tròn trên trán, Hải Thượng Lãn Ông nhớ đến lời hứa của Ưu Phong, rằng khi nào anh không còn muốn phiêu bạt nữa, thì nhất định sẽ dẫn người con gái đã trói chân anh lại đến ra mắt ông. Những tưởng cuộc đời của gió không thể có chốn dừng chân, thế nhưng vào một buổi chiều nắng đẹp, cơn gió ấy bất thần gõ cửa. Không những thế lại còn mang theo một cô gái đi cùng, điều ấy làm cho trái tim già nua của Hải Thượng như có cơn mưa lành thấm sâu vào từng khe nứt cằn cỗi, vì cuối cùng thì ông cũng đã thỏa tâm nguyện riêng của mình. Tuy cô gái mà Ưu Phong đã chọn không đẹp rạng rỡ, thế nhưng cô gái ấy lại rất dịu dàng, kín đáo, và cái kín đáo, chừng mực ấy tạo cho cô gái một sự tôn nghiêm, bí mật khiến đám trai làng ngày thường vốn quen suồng sã nay lại không thể đùa giỡn hay sỗ sàng. Không những thế, cô con dâu ngoan này lại rất chăm chỉ học hỏi, tiếp thu nhanh chóng sự chỉ dạy của ông, tay nghề nấu ăn lại không chê vào đâu được, Ưu Phong cưới được một cô gái như thế về làm vợ, quả thật phúc đức ba đời.
Đang vui mừng thay cho học trò mình, mạch suy nghĩ của Hải Thượng Lãn Ông đột nhiên bị cắt đứt khi có tiếng cười đùa ngoài ngõ vang lên. Phóng tầm mắt ra hàng rào tre điểm xuyết vài bông râm bụt, hàng lông mày bạc của ông dựng thành một đường thẳng khi trông thấy Ưu Phong đang cười với các cô gái trong làng. Lại còn ngay trước mặt con dâu mà kẻ mím môi, người hờn dỗi, thật khiến cho ông xốn xang cả mắt vì cảnh tượng không lấy gì làm hay ho này.
- Con về rồi đây!
Đợi các cô gái trong làng về hết, Ưu Phong mới quay trở vô nhà và chạm ngay khuôn mặt lạnh như tiền của Hải Thượng Lãn Ông. Biết ông đã trông thấy cảnh “người ơi, người ở đừng về”, Ưu Phong đành cười trừ vì không biết phải nói sao cho hợp ý thầy mình. Tiến lại chỗ Bách Nhật đang ngồi, Ưu Phong xắn tay áo lên, anh cầm lấy cái chày trong tay của Bách Nhật để giúp nó giã thuốc, rồi mỉm cười trước sự ngạc nhiên của nó vì không hiểu sao Ưu Phong trở nên “ga lăng” bất ngờ.
- Thầy tôi ở nhà có nói gì không?
Đợi Hải Thượng Lãn Ông ra vườn mang đám thảo dược đang phơi ngoài nắng vào nhà, Ưu Phong mới hỏi nhỏ Bách Nhật khi nó cặm cụi rải số thuốc vừa giã được ra chiếc nia. Biết anh đang dò hỏi “tình hình chiến trường” lúc mình đi vắng, Bách Nhật mỉm cười kín đáo, đoạn gạt những sợi tóc mai lòa xòa trước trán và trả lời theo kiểu nửa thật nửa đùa.
- Thầy anh nói nhiều lắm. Cụ thể thế nào tôi không nhớ, nhưng đại khái là nói anh đào hoa quá, đi đâu cũng có mỹ nhân bên cạnh, tốt nhất tôi nên chia tay với anh sớm nếu không muốn trở thành … người thừa.
Đang chăm chú giã thuốc, Ưu Phong liền ngừng tay lại khi nghe những lời Bách Nhật vừa thoát ra khỏi đầu môi. Khi anh nhìn nó, từ trong đôi mắt trong vắt đó lấp lánh những tia sáng tinh quái, làm Bách Nhật phải đánh mắt sang chỗ khác, vì không muốn anh nhìn thấy được những gì đang ẩn chứa đằng sau vỏ bọc con người mình. Đối với Ưu Phong, bao giờ Bách Nhật cũng giữ một khoảng cách nhất định, ngay cả trước mặt Hải Thượng Lãn Ông cũng thế. Chung quy nó không muốn có quan hệ mật thiết hay dính líu gì tới Ưu Phong, bởi lẽ anh là người đào hoa, xung quanh không thiếu gì những cô gái đẹp, phần quan trọng nhất, anh là người của quá khứ hơn hai trăm năm trong khi nó lại là người ở hiện tại, dù không chắc chắn nhưng rồi sẽ có một ngày, nó tìm ra cách trở về nhà. Hai người ở hai khoảng thời gian khác nhau không thể nào hòa hợp, nên nó không cho phép mình vướng bận tình cảm hay bất cứ gì ở chốn hoang liêu này.
- Để thầy tôi nghĩ cô là…con dâu của mình, cô không thấy phiền chứ?
- Chỉ là giả thôi, có phải thật đâu mà phiền.
- Cô không thấy phiền là được rồi, dù sao tôi cũng nợ cô chuyện đó, mai mốt tôi sẽ tìm cách trả lại cô cả vốn lẫn lời.
- Không cần! Coi như đó là chuyện tôi phải làm để trả ơn anh đã chuộc chúng tôi ra khỏi lầu xanh. Vả lại, ở đây rất thoải mái, tôi lại còn được thỏa niềm đam mê về thảo dược của mình, là tôi nên cám ơn anh mới phải.
Mỉm cười khi Bách Nhật nói dứt lời, Ưu Phong không phủ nhận rằng Bách Nhật là một cô gái phân biệt rạch ròi giữa ơn và nghĩa, vô hình chung sự giải thích của nó đã làm anh thấy nhẹ nhõm khi không phải mắc nợ ân tình của ai và cũng chẳng ai mắc nợ ân tình của mình. Hôm nay anh đã đi gặp Tiểu Cúc, nhờ cô đưa những gói thuốc của Lãn Ông đến Gia Định cho Nguyễn Ánh - vì chứng bệnh cũ của thân mẫu Nguyễn Ánh lại tái phát. Lúc trở về, tình cờ anh gặp những cô gái trong làng cùng chung đường, nên mới thuận miệng đối đáp vài câu cho vui vẻ. Chẳng ngờ hành động đó lại bị thầy anh nhìn thấy rồi hiểu lầm, đến nỗi lúc nghỉ tay bốc thuốc để ăn cơm trưa mà cũng chẳng thấy ông đả động hay nói tiếng nào. Điều đó khiến Ưu Phong vô cùng khó xử, khi không biết phải làm vừa lòng thầy bằng cách nào để ông thôi hết giận mình.
- Ưu Phong, nghe anh nói thầy rất thích món thịt xào, còn không mau gắp cho thầy một miếng đi.
Nửa muốn lên tiếng làm hòa, nửa lại ngại ngần khi thấy gương mặt lạnh tanh của ông như quét một làn sương, Ưu Phong thoát khỏi tình trạng dùng dằng không dứt, khi Bách Nhật kịp thời lên tiếng giải nguy trong lúc cả ba người cùng dùng cơm trưa. Nhanh tay gắp những miếng thịt vàng mật, thơm phức vào chén của Hải Thượng Lãn Ông, và thuận tay gắp luôn cho Bách Nhật trái trứng cút luộc, Ưu Phong thở phào nhẹ nhõm khi làn sương trên mặt thầy mình đã biến mất, thay vào đó là thái độ quan tâm tới…cô con dâu như thường ngày.
- Phong Nhi! Ta trông Bách Nhật có vẻ bé nhỏ và xanh xao quá, con phải chăm sóc vợ con thật chu đáo, để mai này ta còn có cháu bồng nghe chưa.
Đang hớp một ngụm canh trong miệng, Bách Nhật xém ho sặc sụa khi Hải Thượng Lãn Ông đột ngột đề cập đến chuyện con cháu, trong khi Ưu Phong bên cạnh chỉ biết cười trừ vì không thể thốt ra một lời nào. Không để ý đến nét mặt của cả hai người, Hải Thượng Lãn Ông tiếp tục vẽ ra một khung cảnh gia đình đầm ấm, trong đó tràn đầy tiếng cười hạnh phúc, tiếng tập nói bi bô của con trẻ, những vòng tay âu yếm, quan tâm, trước sự im lặng của Ưu Phong. Anh đang ngồi đó, bất động, đôi đũa đang nắm chặt trong tay khẽ cựa quậy một cách khó khăn. Anh là gió, là gió nhưng lại là Ưu Phong. Nỗi ưu phiền ngày một dày thêm và những nỗi ưu phiền đó cùng anh đi khắp thế gian. Một gia đình tràn đầy tiếng cười! Một vòng tay âu yếm, quan tâm! Tiếng tập nói bi bô đáng yêu của con trẻ khi gọi cha, gọi mẹ. Thật là một viễn cảnh vô cùng hạnh phúc. Thế nhưng một đứa bé chưa từng trải qua những điều cơ bản ấy, thì làm sao có thể tạo ra những điều cơ bản đó, thưa thầy?
- Phong! Con đã nghe ta nói rồi chứ? Cái tính đào hoa ấy từ nay nên bỏ đi, phải hết lòng chăm sóc cho vợ con, có nhớ chưa?
- Vâng, con nhớ rồi.
Trong giây phút ấy, Bách Nhật có cảm giác rằng giọng nói của Ưu Phong chợt trở nên nhẹ bẫng, và nụ cười của anh khi trả lời Hải Thượng Lãn Ông, hệt như nụ cười mà nó đã nhìn thấy lúc anh luyện kiếm trong phủ chúa. Điều đó làm cho Bách Nhật có hơi lấn cấn khi không thể hiểu được những chuyển biến trong nội tâm của anh. Phải rồi! Cách đây không lâu, chàng trai áo lục trong quán ăn đã nói Ưu Phong là đứa trẻ bị bỏ rơi, trong khi Lãn Ông bây giờ vô tình nhắc đến gia đình. Gia đình là hai từ mà bản thân đứa trẻ bị bỏ rơi như anh không thể có, như thế cảm giác Ưu Phong bây giờ chắc hẳn không được thoải mái, nhưng cũng không biết phải tránh né thế nào khi Lãn Ông vô tư nói đến chuyện gia đình trước mặt mình.
Màn đêm nhanh chóng bao trùm vạn vật, phủ lên giàn hoa thiên lý một vẻ đẹp huyền bí, mơ hồ. Trong căn phòng khách ấm áp, Bách Nhật đang ngồi học viết, Hải Thượng Lãn Ông bận giao những gói thuốc được gói ghém cẩn thận cho tên thư đồng, để giao tận tay cho danh sách bệnh nhân mà ông đã liệt kê. Ưu Phong đang ngồi uống trà, từng ngón tay mảnh khảnh của anh nhịp nhẹ trên mặt bàn, đôi mắt trong vắt nhìn ra chiếc lồng đèn sáng lung linh treo ngoài hiên và nghĩ ngợi mông lung. Chợt nghe tiếng chó sủa từ xa, Ưu Phong liền ngưng mục lại khi trông thấy một chàng thanh niên cao to, lực lưỡng- trên tay ôm bọc bánh trái- đang lay hoay mở cổng bước vào. Sự xuất hiện của chàng thanh niên làm Ưu Phong hơi ngạc nhiên, vì không hiểu đã khuya như thế này rồi mà cậu thanh niên ấy còn đến đây làm gì.
- Bẩm thầy! Con đã hoàn thành đúng lời thầy dặn, giờ mão sáng mai là cuộc thi chính thức bắt đầu ạ.
- Phiền cho cậu quá. Đêm hôm thế này mà còn phải tới nhà tôi.
- Thưa không dám, ơn thầy đã cứu mạng cả nhà con, chuyện thầy nhờ con đâu dám nề hà.
Hải Thượng Lãn Ông mỉm cười hiền hòa, vì chàng trai thật thà này trước nay chưa bao giờ từ chối chuyện gì mỗi khi ông nhờ vả. Mời cậu ta ngồi xuống chiếc phản, Hải Thượng Lãn Ông ngưng mục nhìn Bách Nhật và Ưu Phong rồi ho khẽ một tiếng. Đến khi Bách Nhật ngừng cây viết lông trong tay, và Ưu Phong thôi nhấp những ngụm trà thơm nữa, Hải Thượng Lãn Ông mới thong thả nói khi thấy cả hai người đều đã tập trung sự chú ý vào mình.
- Các con đã nghe cậu Trương nói rồi chứ, đúng giờ mão sáng mai, thôn ta có tổ chức cuộc thi dành cho những đôi vợ chồng ý hợp tâm đầu. Ta đã nhờ cậu Trương ghi danh và hy vọng các con giành được giải thưởng ấy, mang vẻ vang về cho nhà ta.
Nghe Hải Thượng Lãn Ông vừa truyền đạt xong ý tưởng, suýt chút nữa Bách Nhật đã đánh rơi cả cây bút trong tay vì quá bất ngờ, còn Ưu Phong thì không thể tiếp tục uống trà nổi trước quyết định đột xuất của thầy mình. Thấy không ai phát biểu ý kiến, Hải Thượng Lãn Ông gật gù tỏ vẻ hài lòng rồi quay sang anh chàng họ Trương bên cạnh, đoạn sốt sắng tiếp lời.
- Cậu Trương, cậu có biết cuộc thi gồm những phần nào không?!
- Bẩm thầy không ạ. Nhưng con nghĩ cuộc thi ấy nhằm tìm ra đôi vợ chồng nào tâm đầu ý hợp nhất, thì nội dung chắc không ngoài việc vợ đoán xem chồng thích, hay có thói quen gì và ngược lại không thôi.
Gương mặt hồng hào của Hải Thượng Lãn Ông chợt tươi lên khi nghe anh chàng họTrương góp ý. Đánh mắt về phía Bách Nhật, đang giả lơ tập viết, ra chiều mọi chuyện không liên quan gì tới mình, và Ưu Phong- đang ngó bâng quơ ra ngoài vườn, Hải Thượng Lãn Ông e hèm một tiếng, buộc cả hai phải dừng “công việc” lại để dồn mục svề phía mình, rồi nhẹ lời.
- Con và Bách Nhật đã nghe rồi chứ, đây là cuộc thi vợ chồng ý hợp tâm đầu nên ta sẽ đặt câu hỏi trước, sau đó các con sẽ viết câu trả lời vào giấy để ngày mai hai đứa bước vào cuộc thi được thuận lợi hơn.
- Hả?
Không hề có cuộc hẹn trước, thế nhưng cả Ưu Phong và Bách Nhật đều bất giác “hả” một tiếng, vì không nghĩ rằng Hải Thượng Lãn Ông lại… nhiệt tình đến như thế này. Đưa mắt nhìn Ưu Phong để hội ý, Bách Nhật nhẹ nhàng gật đầu sau khi đã nghĩ ngợi đôi phút vì không muốn làm Lãn Ông cụt hứng, trong khi đôi mày kiếm của Ưu Phong chau hẳn lại, khi thấy mọi chuyện từ một lời nói dối đã ngày càng trở nên xa rời dự tính ban đầu của mình.
- Thế là tốt. Hai đứa chúng nó đều đã đồng ý cả, cậu Trương, cậu có nào hay ho thì hỏi chúng đi.
Mỉm cười lúng túng khi Hải Thượng Lãn Ông tỏ ra tin cẩn mình, anh chàng họ Trương rà mắt nhìn Ưu Phong và Bách Nhật một cách chăm chú, rồi thuận tay xoa nhẹ chiếc cằm lún phún râu đoạn buông lời.
- Ấn tượng đầu tiên về nhau của hai người như thế nào?
Trong khoảnh khắc đó, Bách Nhật có hơi ngớ người ra sau khi nghe câu hỏi của anh chàng Trương. Nó xoay xoay cây bút trong tay, trong đầu tái hiện lại hình ảnh lần đầu tiên mà nó đã gặp Ưu Phong tại… lầu xanh. Một khuôn mặt thanh tú, một nụ cười phong nhã, xung quanh là những mỹ nhân nghiêng nước nghiêng thành và… một cái tát thấu trời xanh. Chậc! Có thể khẳng định một điều là ấn tượng của Ưu Phong trong lòng Bách Nhật chẳng hề “lung linh” gì.
- Hai đứa đã có câu trả lời thì giơ lên ta xem nào.
Nhìn Bách Nhật và Ưu Phong hí hoáy viết câu trả lời vào giấy, Hải Thượng Lãn Ông sốt ruột lên tiếng, để rồi đôi lông mày bạc của ông phải nhướng lên khi thấy câu trả lời… kỳ quặc của cả hai người. Hiện chình ình trên giấy của Bách Nhật là một…con ong mập ú lông lá xồm xoàm, trông vô cùng xấu xí dù tay nghề vẽ động vật của nó không tệ. Con ong đó khiến cho anh chàng họ Trương phải há miệng ra sửng sốt, vì nhìn sao Ưu Phong cũng ăn đứt…con ong …xấu không còn gì để nói này. Về phần Ưu Phong, nhìn thấy con ong lai căng do Bách Nhật vẽ, anh chẳng tỏ vẻ ngạc nhiên vì vốn biết rõ ấn tượng của mình trong lòng Bách Nhật không hề tốt đẹp. Cả hai đã gặp nhau ở lầu xanh, anh là khách phong lưu còn nó là người bị nạn, chứ không phải tài tử giai nhân hội ngộ trong một buổi chiều thơ mộng hay dạo chơi trên phố phường hoa đăng. Trước ánh mắt chờ đợi của Lãn Ông, Ưu Phong thong thả đưa ra tờ giấy có câu trả lời của mình, để rồi ai nấy đều vô cùng ngạc nhiên khi thấy nó chỉ là một tờ giấy trắng, không có bất kỳ chữ nào hay hình vẽ gì. Tất cả chỉ là một sự … trống không.
- Ấn tượng đầu tiên của con về Bách Nhật là... chẳng có gì sao?
Trước thắc mắc của Hải Thượng Lãn Ông, Ưu Phong chỉ mỉm cười không nói, điều đó làm cho Bách Nhật ngạc nhiên vô kể do không hiểu câu trả lời của anh như thế nào. Đối với nó, vẽ con ong là muốn ám chỉ cái tính đào hoa của Ưu Phong, vì đi đâu anh cũng có mỹ nhân quấn quýt bên cạnh, cứ như một chú ong đa tình đi hút mật của những bông hoa xinh đẹp khoe sắc trong khu vườn. Còn anh, ấn tượng đầu tiên về nó trong lòng anh chỉ là một tờ giấy trắng, cho dù Lãn Ông đã gặng hỏi nhưng Ưu Phong trước sau chỉ im lặng và không biểu lộ chút cảm xúc nào. Cứ như thế, thời gian trong gian phòng khách trôi qua nhanh chóng, Hãi Thượng Lãn Ông cùng Trương đã đặt rất nhiều câu hỏi cho hai người, và từ đầu đến cuối chỉ có một người trả lời duy nhất đó là Bách Nhật. Chẳng hạn như hãy nêu năm điểm tốt kèm năm điểm xấu của đối phuơng, sở thích và thói quen thường nhật của đối phương là gì… tất cả những chuyện đó Bách Nhật đều không hề hay biết, nó chỉ trả lời dựa theo đánh giá và cảm tính chứ không chắc mình đúng được bao nhiêu phần trăm.
Trong khi đó, trái ngược lại với nó, tất cả các câu trả lời của Ưu Phong trước sau đều chỉ là…giấy trắng, không giải thích, không rõ nghĩa, mịt mờ và trống không. Từ trước tới nay, Bách Nhật rất giỏi trong việc đoán được suy nghĩ của người khác dựa trên tính cách và thói quen của họ, thế nhưng đối với Ưu Phong, chẳng hiểu sao nó không bao giờ biết được anh đang nghĩ gì, cảm nhận gì đằng sau khuôn mặt lúc nào cũng tươi cười ấy. Đối với nó, Ưu Phong có lẽ đang giấu mình sau một bức màn bí mật nào đó mà nó không thể vén lên. Có đôi lúc, nó đã nghĩ rằng con người của Ưu Phong vô cùng dễ hiểu bởi cái tính đào hoa bay bướm ấy, thế nhưng bây giờ nó mới nhận ra rằng nó chẳng hiểu gì về Ưu Phong, hoàn toàn không hiểu gì, ngay cả một chút cũng không…
- Phong nhi! Con chắc chắn ngày mai sẽ vượt qua cuộc thi ý hợp tâm đầu, khi tất cả đều là… giấy trắng chứ?
Thấy lúc này trời cũng đã khuya và mọi người cũng đã tỏ ra mệt mỏi, Hải Thượng Lãn Ông bèn kết thúc cuộc huấn luyện bất đắc dĩ, và lên tiếng hỏi Ưu Phong khi anh thong thả đứng lên. Rảo mắt lên gương mặt lo lắng của Hải Thượng, Ưu Phong ung dung đáp lời với một chất giọng vô cùng quả quyết, làm ai nấy cũng phải tò mò vì không hiểu anh lấy đâu ra sự tự tin này.
- Thầy cứ yên tâm, tụi con không giải nhất cũng giải hai, không giả hai cũng giải ba, không giải ba cũng giải nhất thôi.
Nhẹ lắc đầu vì chỉ còn biết bó tay trước sự quả quyết đó, Hải Thượng Lãn Ông nhìn theo bóng dáng cao lớn của Ưu Phong khi đưa Bách Nhật trở về phòng, lòng thầm buông tiếng thở dài cảm khái khi thời gian hơn mười năm đã nhanh chóng trôi qua. Từ một cậu thiếu niên năm nào, thoắt cái Ưu Phong đã trở thành một chàng trai khôi ngô, tuấn tú, đồng thời là cung chủ của Tử Phụng Cung và có một người vợ hiền thục, đảm đang. Điều quan trọng hơn, Ưu phong giờ đây đã hoàn toàn thay đổi, không giống như lúc ông tình cờ gặp được một cậu thiếu niên có đôi mắt buồn mênh mông, toàn thân đầy thương tích đang ngẩng đầu nhìn lên bầu trời ở bờ suối Hương Sơn.
- Cậu Trương, chuỵên này nói ra tuy không tiện lắm, nhưng cậu có thể thay tôi… ngó xem chúng đang làm gì trong phòng không? Tôi sợ chúng ngoài mặt đằm thắm với nhau như thế để tôi vui lòng, chứ sau lưng thì lại mạnh ai nấy lo thì… hỏng bét.
Trố mắt ra khi Hải Thượng Lãn Ông đột ngột nhờ mình rình mò người khác, nhưng anh chàng họ Trương chỉ ngớ người ra trong chốc lát, rồi lại vui vẻ nhận lời khi nhìn thấy vẻ lo lắng và nét ưu tư trên gương mặt phúc hậu của Lãn Ông. Tuy Ưu Phong không lên tiếng đính chính việc Bách Nhật là vợ, và Bách Nhật cũng không phàn nàn hay giải thích gì khi ông gọi mình là con dâu, thế nhưng Lãn Ông vẫn lờ mờ nhận ra rằng cả hai đang che giấu chuyện gì đó, khi chúng chưa bao giờ có những cử chỉ thân mật, âu yếm mà lẽ ra những đôi vợ chồng khác phải có lúc ở trước mặt ông. Mục đích khi nhờ Trương đăng ký cho Ưu Phong và Bách Nhật tham gia cuộc thi mà thôn tổ chức, là để thắt chặt tình cảm vợ chồng của cả hai ngày càng gắn bó keo sơn. Nhờ vả Trương đi thám thính, nói cho khó nghe hơn là rình mò, Hải Thượng Lãn Ông muốn xem Ưu Phong và Bách Nhật có thật sự là vợ chồng không, hay cả hai chỉ vờ đóng kịch để không khiến ông phải thất vọng, và thôi lo lắng chuyện gia đình của đứa học trò yêu quý mà mình đã nhận làm con.
Những suy tính cũng như trăn trở của Hải Thượng Lãn Ông, Ưu Phong tuy không nói ra nhưng đều biết hết tất cả, thế nên sau khi đưa Bách Nhật trở về phòng nghỉ ngơi, anh liền khép ngay cửa lại và suỵt một tiếng nhỏ, khi ánh mắt của Bách Nhật hiện lên dấu chấm hỏi to tướng vì không hiểu sao anh lại tỏ ra thần bí khác thường.
- Chậc! Anh chàng họ Trương đang đứng ngoài cửa để theo dõi tôi và cô, có lẽ là do thầy tôi nhờ anh ta thám thính tình hình rồi.
- Vậy…giờ tính sao?
Khẽ đánh mắt về phía cửa chính, Bách Nhật thoáng chút lo lắng vì Hải Thượng Lãn Ông đã bắt đầu nghi ngờ vở kịch của cả hai. Vuốt nhẹ chiếc chiếu uyên ương trải trên giường, Ưu Phong mở toang cửa sổ để cho những cơn gió phong tình lướt nhẹ vào phòng, rồi đưa mắt nhìn Bách Nhật đang vân vê tà áo - do không thể bắt Ưu Phong nằm dưới đất như thường ngày khi đang có người rình rập ngoài kia. Dù không hề ngẩng đầu lên, Bách Nhật vẫn có cảm giác rằng đôi mắt trong vắt của Ưu Phong đang nhìn nó. Tuy đã tự nhủ rằng không có gì phải ngượng ngập hay bối rối, thế nhưng khi những ngón tay mảnh khảnh của Ưu Phong chợt vuốt nhẹ mái tóc đen mượt xõa xuống bờ vai của mình, không hiểu sao Bách Nhật chợt cảm thấy lo sợ. Một nỗi sợ vô cớ ùa đến mà nó không sao lý giải được nổi sợ mơ hồ ấy xuất phát từ đâu.
- Bách Nhật! Xin lỗi cô.
Trong giây phút đó, Bách Nhật có hơi ngớ người ra vì không hiểu sao Ưu Phong lại xin lỗi. Để rồi khi những ngón tay mảnh khảnh của anh chợt xiết lại, và đột ngột kéo nó ngã hẳn vào lòng mình, thì Bách Nhật vô cùng sửng sốt do hành động bất ngờ ấy của Ưu Phong, trái hẳn với tính cách giữ lễ, không động đến một ngón tay của nó thường ngày.
- Bách Nhật! Đợi anh chàng họ Trương ấy đi khuất, tôi sẽ thả cô ra, phiền cô chịu khó một chút vậy.
Tính vùng ra khỏi vòng tay đang ôm lấy người mình đó, Bách Nhật kịp thời ngừng lại khi những lời thì thầm của anh lọt vào tai. Nhớ đến nét mặt mừng rỡ của Lãn Ông khi nhìn thấy nó vì tưởng rằng mình là con dâu, Bách Nhật đành lặng yên không cựa quậy, và để cho Ưu Phòng dìu mình nằm xuống giường hệt như một đôi vợ chồng ân ái mặn nồng. Trong đêm khuya tĩnh lặng, bầu trời tuy không trăng nhưng vẫn sáng, soi rõ khuôn mặt đỏ ửng lên như say rượu của Bách Nhật khi ngoan ngoãn nằm yên trong vòng tay của Ưu Phong. Dù trong bụng hơi lấn cấn khi nghĩ đến vòng tay này đã ôm lấy biết bao người con gái, thế nhưng Bách Nhật không phủ nhận rằng, cảm giác được nằm trong vòng tay ấy rất dễ chịu. Hơi ấm pha lẫn một mùi hương nhẹ nhàng từ người anh tỏa ra vây quanh người nó, nhẹ đưa nó vào giấc ngủ một cách bình yên. Trong vô thức, bàn tay búp măng của Bách Nhật níu lấy áo Ưu Phong, như một chú chim non nhỏ bé bay trong mùa mưa gió, mong muốn tìm thấy một hốc cây nào đó đủ để nương thân chờ ngày nắng lên. Vốn định chờ cho anh chàng họ Trương sau khi đã…mãn nhãn để về báo cáo lại thầy, Ưu Phong sẽ thả Bách Nhật ra và lại xuống đất nằm như thường lệ. Thế nhưng nhìn Bách Nhật đang say ngủ, khuôn mặt nghiêm nghị thường ngày hơi hé mở nụ cười, mùi hương trên tóc dịu dàng phủ lên áo, Ưu Phong bất chợt buông tiếng thở nhẹ. Anh cẩn thận gỡ tay của Bách Nhật ra để không làm nó thức giấc, rồi ngồi dậy và kéo chăn lên đắp ngang người nó. Nhẹ nhàng mở cửa để không phát ra tiếng động, Ưu Phong bước ra ngoài vườn. Tà áo trắng nhẹ bay lất phất như một ảo ảnh, đôi mắt trong vắt của anh đếm tìm những vì tinh tú, và nghe lòng mình dâng lên một nỗi mơ hồ mênh mang khi có tiếng ai đó ngâm nga giữa trời …
Tiêu Tương yên trở Hàm Dương thụ
Hàm Dương thụ cách Tiêu Tương giang
Tương cố bất tương kiến
Thanh thanh mạch thượng tang…
------
Chú thích :
(*) trích “Chinh phụ ngâm khúc” bản gốc của Đặng Trần Côn,
Bản diễn Nôm của Đoàn Thị Điểm :
Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại.
Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang.
Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương.
Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu.
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai…
★ Chương 41: Ý hợp tâm đầu
Tiếng gà gáy xao xác cất lên giữa buổi sớm tinh mơ, báo hiệu một ngày mới vui tươi đầy năng lượng đã tới. Hôm nay, mọi người dân ở xã Bầu Thượng tạm thời gác bỏ những công việc thường ngày để đổ xô đến cây đa đầu thôn, nơi tổ chức cuộc thi “phu thê ý hợp tâm đầu” dành cho các đôi lứa mới cưới nhau trong năm qua. Dưới gốc đa cổ thụ rậm rạp, đã đặt sẵn hai chiếc bàn phủ khăn nhiễu điều, bên trên chứa đầy bánh trái, nước trà, đĩa trầu têm - trước đôi mắt thèm thuồng của con trẻ - dành cho ban chủ khảo, gồm các vị hương chức và các cụ già đã cao tuổi ở trong thôn.
Đứng chen chúc trong khoảng sân rộng của ngôi đình là các cặp vợ chồng trẻ vừa mới cưới, với khuôn mặt e ấp, thẹn thùng của các nương tử, và sự vui vẻ, háo hức của các đức lang quân. Không được vui mừng và náo nức như thế, Ưu Phong yên lặng ngồi bắt chân chữ ngũ trên một chiếc ghế mây gần đó, trong khi Bách Nhật đang đấm lưng cho Hải Thượng Lãn Ông để ông đỡ nhức mỏi, khi đã ngồi chờ ở đây quá lâu rồi mà vẫn chưa thấy mặt mũi ban chủ khảo đâu.
Đến lúc mọi người ai nấy đều lộ vẻ sốt ruột, chút kiên nhẫn còn sót lại trong người cũng theo khói bay hơi, thì cánh cửa ngôi đình bỗng xịch mở. Nối tiếp sau đó là ba người đàn ông đã đứng tuổi lần lượt bước ra, đi cuối cùng một cụ già râu tóc bạc phơ, đạo mạo trong chiếc áo thụng màu lam sẫm, hoa văn chữ phúc trước ngực khoan thai tiến về phía bàn chủ khảo trong sự chờ đợi của tất cả mọi người. Đợi cho bốn vị chủ khảo yên tọa, chàng thanh niên mặc áo dài màu xanh lá chuối hắng giọng một tiếng để lấy hơi, rồi cất tiếng nói sang sảng như loa phát thanh của mình.
- Thưa tất cả các quý ông và quý bà, cụôc thi “phu thê tâm đầu ý hợp” mỗi năm tổ chức một lần tại thôn Tĩnh Diện, nhằm tìm ra đôi vợ chồng nào đồng sức đồng lòng nhất gồm hai phần. Phần thứ nhất là “đồng vợ đồng chồng”, phần thứ hai, cũng là phần thi cuối cùng, quan trọng nhất là “thần giao cách cảm”. Bây giờ, Lê Lôi tôi tuyên bố cuộc thi chính thức bắt đầu.
Chàng trai vừa dứt lời, tức thì hàng loạt tiếng vỗ tay như sấm dậy của mọi người ở dưới đồng loạt vang lên, còn Bách Nhật lại chỉ cười tủm tỉm vì sự long trọng quá mức của anh chàng này. Đưa mắt nhìn bốn người đàn ông lực lưỡng khiêng ra một cái bàn, Bách Nhật không khỏi thắc mắc khi chẳng hiểu họ bày cái bàn giữa sân này vào việc gì. Trước khuôn mặt ngơ ngác của mọi người, bốn người đàn ông khệ nệ đặt cái bàn xuống. Liền ngay sau đó có sáu cô gái xuất hiện, tay mang một chiếc giỏ mây chứa đầy các tấm thẻ vuông, độ bằng ba ngón tay chụm lại, rồi phân phát cho những đôi vợ chồng tham dự cuộc thi bằng cách đọc tên từng người. Đến lượt Ưu Phong lên nhận thẻ bài, khuôn mặt trái xoan của cô gái áo xanh bất chợt đỏ ửng lên khi bắt gặp nụ cười của anh. Kín đáo liếc mắt sang Bách Nhật, trong đáy mắt cô không giấu vẻ ngạc nhiên vì không nghĩ cô gái trông vô cùng bình thường, không hấp dẫn cũng chẳng xinh đẹp ấy lại là thê tử của chàng trai phong nhã này.
Dường như đã quá quen đối với những thái độ lạ lẫm ấy, Bách Nhật không màng đến những cái nhìn hiếu kỳ của các cô gái trẻ, mà ung dung sải bước về phía Hải Thượng Lãn Ông. Lúc này ông đã được anh chàng Trương mang cho một cái ghế, ngồi cạnh bóng cây râm mát, đứng cạnh là Ưu Phong, đang rà tay trên tấm thẻ bài với những suy nghĩ không định hình ở trong đầu. Nhận thấy ai nấy đều đã có được thẻ báo danh, chàng trai áo xanh - tức Lê Lôi - liền đằng hắng một tiếng để dập tắt những tiếng xôn xao, rì rầm của mọi người trong thôn, rồi sau đó mới tiếp lời khi ai nấy đều đang dồn mắt về phía mình.
- Phần thi thứ nhất “đồng vợ đồng chồng” diễn ra như sau. Các vị hiền thê cùng với những cô gái khác sẽ nấu một chén canh đậu hũ và lựa chọn một bức tranh. Nếu vị phu quân nào có thể biết được đâu là bức tranh, chén canh của vợ mình nấu, mà không được nếm hay cầm lên thì có thể đường hoàng bước qua phần thi thứ hai. Bây giờ, xin mời các vị hiền thê vào bên trong đình, còn các đức lang quân xin đứng ngoài này đợi cho.
Lê Lôi vừa dứt lời, tiếng vỗ tay bên dưới lại một lần nữa vang lên, kèm theo tiếng huýt sáo và động viên của những người nhà khi con gái của mình lần lượt theo chân Lê Lôi vào ngôi đình. Tần ngần nhìn Ưu Phong và Hải Thượng Lãn Ông trong giây lát, Bách Nhật cũng quay gót trở vào trong, khi thoáng thấy cánh cửa nhỏ hẹp chuẩn bị khép vào để cho các cô gái trổ tài nấu ăn. Đứng bên ngoài chờ đợi, ngoại trừ Ưu Phong ra, còn lại thì tất cả mọi người đều ngóng mắt vào ngôi đình tỏ ra sốt ruột, do không biết bên trong đã diễn tiến đến giai đoạn nào. Trong khi đó, trái với vẻ hấp tấp lo lắng của các đức lang quân, các vị chủ khảo chốc chốc lại hớp một ngụm trà thơm thấm giọng, và thong thả mời nhau miếng trầu têm. Đợi chừng một nén nhang đã tàn, và ai nấy bên ngoài đã bắt đầu thấy nôn nóng khi quá lâu mà vẫn chưa thấy bên trong có động tĩnh gì, cánh cửa ọp ẹp của ngôi đình mới bật mở. Từng cô gái xinh đẹp, thắt lưng hoa thiên lý yểu điệu lần lượt tiến ra, trên tay bưng một khay gỗ đặt những chén canh còn bốc khói nghi ngút trên đó, và đặt xuống bàn trước ánh mắt háo hức của tất cả mọi người. Đi theo sau họ là những cô gái - chủ nhân của các bát canh ấy - với nét mặt đăm chiêu vì lo lắng chồng mình sẽ không nhận ra được chén nào là do mình nấu, trong số hàng chục chén canh được bày biện ngay ngắn trên mặt bàn. Kín đáo liếc mắt về Ưu Phong, Bách Nhật không biết anh đang nghĩ ngợi những gì mà chỉ thấy anh vô cùng bình thản, tựa như đã biết được đâu là chén canh của nó trong khi Hải Thượng Lãn Ông bên cạnh lại sốt ruột, cứ như thể ông mới là người đi thi chứ không phải là Ưu Phong, khiến Bách Nhật phải bấm bụng lắm mới không i phì cười trong tình huống “dầu sôi lửa bỏng” này
- Thưa các đức lang quân, những chén canh trên đây đều là do thê tử của các vị bỏ công, bỏ sức làm ra. Sau khi đã chọn xong chén canh, các vị còn phải chọn một bức tranh kèm theo để đối chứng với bức tranh mà thê tử mình đang cầm trên tay. Nếu như chén canh đó đúng là của vợ mình nấu, và bức tranh của hai người trùng khớp với nhau, thì xem như các vị đã qua được vòng một và tiến vào vòng hai. Bây giờ, xin mời các vị tiến lên.
Không đợi cho Lê Lôi nói hết, những chàng trai trong thôn vội nhanh chân bước đến và bu kín lấy chiếc bàn. Khuôn mặt họ lộ vẻ căng thẳng, còn đôi mắt thì không ngừng láo liên để tìm xem đâu là chén canh của vợ mình. Thật sự mà nói đây là phần thi tương đối khó, bởi thông thường các đức ông chồng khi ăn canh, bao giờ cũng chỉ húp cạn tàu ráo máng cho xong bữa chứ chẳng chịu nhìn ngó xem bát canh hôm nay có gì, thêm gì. Hơn nữa bây giờ không chỉ có một, mà lại có tới hàng chục chén, chén nào chén nấy na ná như nhau, thật sự nếu không tinh ý và chịu khó quan sát những chén canh trong bữa ăn thường ngày, thì khó có thể nhận ra đâu là chén vợ mình nấu. Đó là còn chưa kể đến chuyện còn phải chọn ra một bức tranh- trong hàng tá bức trên tay Lê Lôi- để tìm ra bức trùng với bức mà vợ mình đang cầm. Đây quả thật là một vấn đề nan giải vô cùng.
Đứng trước một bàn… canh, trong khi các chàng trai đang nhăn mày, nhíu trán, vận hết ba mươi hai thành công lực để soi từng chén canh, thì Ưu Phong đi vòng quanh chiếc bàn một cách chậm rãi. Đôi mắt trong vắt không gợn bóng mây của anh soi hết một lượt tất cả các chén, rồi dừng lại nơi chén canh nằm cuối góc bàn. Nhìn đăm đăm vào chén canh ấy, khóe miệng của Ưu Phong vẽ thành nét cười. Anh thong thả cầm lấy chén canh đó lên trước sự sửng sốt của mọi người - vì không nghĩ rằng anh lại chọn nhanh đến thế, và tiến lại chỗ Lê Lôi đang ngồi để tìm ra bức tranh trùng với chủ đề mà Bách Nhật đang giữ trong tay. Trước hàng loạt bức tranh đang bày ra trước bàn chủ khảo, Ưu Phong thuận tay rút lấy một bức nằm gần đĩa trái cây, mà không cần phải xét nét trước đôi mắt đang trố ra của Lê Lôi, rồi sau đó lại ung dung trở về chỗ ngồi như chẳng có chuyện gì xảy ra.
Thời gian một nén nhang cũng đã tàn, các thí sinh ai nấy cũng đều bưng một chén canh và một bức tranh trong tay, rồi căng thẳng chờ nghe kết quả từ các vị chủ khảo để xem mình có vượt vũ môn hay không. Thấy ai nấy đều đang hồi hộp chờ đợi kết quả, Lê Lôi từ từ đứng lên, cậu ta thong thả tiến bước đến chỗ các chàng trai đang ngồi nhấp nhổm với một nét mặt tinh quái, đoạn cất giọng âm vang.
- Thưa bà con cô bác, sau một… nén nhang vất vả, căng thẳng, cuối cùng các đức lang quân cũng đã chọn được cho mình một chén canh và một bức tranh. Bây giờ xin mời các vị hãy uống cạn hết chén canh, rồi sau đó chúng ta sẽ xem những ai được bước qua phần thi tiếp theo.
Dù không hiểu uống cạn chén canh để làm gì, thế nhưng Ưu Phong và những người tham dự cuộc thi vẫn uống cạn chén canh trên tay mình theo lời Lê Lôi, để rồi khi nghe nhiều tiếng xôn xao vọng lên từ bên dưới, Ưu Phong liền hiểu ngay ra vấn đề. Anh nhanh chóng xoay chiếc chén lại và nhìn thấy một dòng chữ ngay ngắn được viết dưới đáy chén hiện ra trong mắt mình. Thì ra bên trong ngôi đình, Lê Lôi đã bí mật phát cho mỗi cô gái một cái chén có viết tên mình dưới đáy. Canh ai nấu xong thì người ấy múc vào chén đó, để khi các đấng ông chồng chọn canh thì căn cứ vào đấy mà xác định đúng sai.
Trong khi những chàng trai khác mặt mày méo xệch, lòng ngậm ngùi rời khỏi cuộc thi vì đã bị loại do chọn trúng chén canh của người khác, thì số còn lại tạ ơn trời phật khi đã chọn… chén gởi vàng. Nhưng chưa hết, ngay sau đó họ lại tiếp tục lo lắng, vì không biết bức tranh trên tay có trùng với bức tranh mà vợ mình đã chọn trước đó hay không. Chẳng tỏ vẻ gì gọi là nôn nóng, Ưu Phong nhịp nhịp những ngón tay mình trên thành ghế trông vô cùng thoải mái, làm cho Hải Thượng Lãn Ông không khỏi ngạc nhiên, trong khi đôi mắt xám tro của Bách Nhật chợt trở nên mông lung vì dường như mọi ý nghĩ và hành động của nó đều bị Ưu Phong nắm hết trong đầu.
- Từ ba mươi đôi vợ chồng dự thi ban đầu, bây giờ chỉ còn lại mười lăm, và sẽ tiếp tục loại nữa khi bức tranh trong tay cả hai không giống nhau. Nào, xin mời các đức lang quân.
Trước hàng trăm cặp mắt căng thẳng, chờ đợi của mọi người, Ưu Phong và những chàng trai còn bám trụ lại liền đưa bức tranh mà mình đã lựa chọn ra. Bức tranh mà Ưu Phong đã chọn là một rừng hoa vàng rực, bé nhỏ như hàng trăm đóa mặt trời đang chấp chới trong nắng gió. Kết quả đó hiện ra trước đôi mắt ngạc nhiên khôn kể của Bách Nhật, vì bức tranh mà nó đang giữ trong tay cũng là một rừng hoa mặt trời hêt như Ưu Phong. Ý hợp tâm đầu! Trên đời này thật sự có cái được gọi là như thế, và đây chính là chủ đích của cuộc thi ư?
- Xin chúc mừng những đôi vợ chồng nào đã có bức tranh giống hệt nhau. Còn tất cả những ai đã chọn lựa sai, xin mời bước xuống dưới để những vị còn lại bước vào phần thi thứ hai, cũng là phần thi cuối cùng để đoạt lấy giải phu thê ý hợp tâm đầu. Nhưng trước khi phần thi cuối cùng diễn ra, xin cho phép Lê Lôi tôi hỏi ba vị phu quân còn lại, đó là làm sao ba vị có thể chọn đúng chén canh và bức tranh của nương tử mình. Đầu tiên xin mời anh Nguyễn Hàn.
Chàng thư sinh mặc chiếc áo dài the màu thiên thanh hơi lúng túng khi Lê Lôi chỉ đích danh mình. Nhẹ liếm lấy bờ môi khô rang, Nguyễn Hàn húng hắng ho vài tiếng để lấy giọng, rồi nhanh miệng nói một hơi không ngừng nghỉ làm dân làng đứng nghểnh cổ trông lên, cũng phải phì cười vì sự liến láu đó của anh chàng.
- Mỗi lần ăn canh vợ tôi nấu, bao giờ nước canh cũng có màu vàng rất đặc trưng do cô ấy xào thịt bằng mỡ gà. Trong hàng chục chén canh bày trên bàn, chỉ cần nhìn chén canh nào có màu vàng thì đó là của vợ tôi. Còn bức tranh, vợ tôi thích nhất là mùa thu, mà mùa thu thì có lá vàng. Trong các bức tranh mà cậu Lê Lôi kia cầm có một bức vẽ một tán cây lá vàng nên tôi cứ thế mà chọn lấy. Chậc! Để ý đến từng ly từng tí của vợ mình, tôi quả là một người chồng trên cả tuyệt vời.
- Vâng! Anh quả là một người chồng trên cả tuyệt vời - Lê Lôi phải nín cười khi nghe có tiếng ai đó nói nhỏ “trên cả tuyêt vời là tuyệt vọng” từ phía dưới vọng lên, vì thân là người đại diện cho ban chủ khảo thì phải ra dáng đường hoàng. Rồi sau đó anh tiếp tục đánh mắt sang người đàn ông bận chiếc áo nâu đã sờn bạc, nước da đen đúa, đoạn tiếp lời - Còn anh Đinh, vợ anh nấu canh cũng bằng mỡ gà hay cũng yêu thích một trong bốn mùa?
- Không… vợ tôi không yêu thích bốn mùa, cũng không nấu canh bằng mỡ gà - Người đàn ông họ Đinh thoáng bối rối khi Lê Lôi hỏi đến, ông ta vuốt lại mái tóc rối của mình cho thẳng thớm và thật thà trả lời - Mỗi lần đi làm đồng về, vợ tôi luôn chuẩn bị thức ăn cho chồng, con, và tôi hay ngửi mùi thức ăn của vợ tôi nấu, riết rồi thành thói quen. Trước những chén canh đậu hũ đang bốc khói nghi ngút, chỉ cần nhắm mắt ngửi thôi thì tôi cũng biết đâu là chén canh vợ mình. Còn bức tranh, trong số những bức đã bày trên bàn có một bức vẽ cây cầu bắc ngang qua sông. Ngày mà chúng tôi quen nhau lần đầu tiên cũng trên một cây cầu, nên tôi chỉ thuận tay mà lấy chứ không thể biết được cô ấy chọn bức tranh nào.
Người đàn ông kín đáo liếc mắt về phía người phụ nữ mặc chiếc áo màu cánh sen sau khi nói hết, rồi cả hai chỉ tủm tỉm cười vì không hẹn mà cùng chọn bức tranh vẽ chiếc cầu - kỷ niệm cho ngày đầu tiên quen nhau. Gật gù vì tình cảm sâu sắc của cả hai vợ chồng, Lê Lôi lại rà mắt đến Ưu Phong đang nhìn đâu đâu trước mặt, đoạn tươi cười.
- Vậy còn anh, Ưu Phong? Chẳng hay anh tìm ra chén canh và bức tranh ấy như thế nào?
Đang nhìn những tàn cây rợp nắng trên cao nghiêng mình theo gió, Ưu Phong đành phải hạ mắt xuống khuôn mặt tươi cười của Lê Lôi khi nghe câu hỏi không nằm trong phần thi của mình. Vốn dĩ không định trả lời do thấy không cần thiết, thế nhưng khi thấy nét mặt khẩn trương của Hải Thượng Lãn Ông, và bờ môi đang mím lại của Bách Nhật khi muốn biết câu trả lời, Ưu Phong yên lặng đôi phút rồi trầm giọng.
- Để tìm ra chén canh của Bách Nhật chẳng qua là nhờ may mắn. Lúc trước, cô ấy đã từng nấu cho tôi một chén canh đậu hũ. Khi nấu xong canh cô ấy mới bỏ hẹ vào nên hẹ còn tươi và không bị ướt. Thêm nữa, mỗi khi xắt đậu hũ và hẹ, từng miếng đậu của cô ấy luôn tròn bốn góc, còn độ dài của hẹ thì chỉ bằng một lóng tay trỏ, nên bây giờ chỉ cần nhìn chén canh nào có những đặc điểm đó là tôi nhận ra ngay. Còn bức tranh, cũng như chén canh trên, tôi không suy nghĩ xâu sa gì nhiều, chọn bức tranh đồng hoa vàng ấy đơn giản chỉ vì tên cô ấy là Bách Nhật, nghĩa là trăm đóa mặt trời.
Thông qua những lời Ưu Phong vừa giải thích, Bách Nhật vô cùng ngạc nhiên vì nó không nghĩ rằng anh lại nhớ đến chén canh của mình lâu đến thế. Hôm ấy, khi nấu canh, đơn giản nó chỉ làm từng bước theo thói quen thường trực của mình. Đậu hũ cắt tròn bốn góc là để nhìn như những bông hoa, theo lời mẹ nó chỉ, cho đẹp, còn hẹ xắt chỉ dài bằng một lóng tay đơn giản là vì nó không thích ăn cọng hẹ quá dài. Tất cả những điều ấy được nó thực hiện trong vô thức mà không suy nghĩ gì, và nó cũng tưởng rằng người uống canh cũng chỉ tự nhiên mà uống, chứ không bao giờ để tâm và ghi nhớ tới từng chi tiết nhỏ nhặt ấy như Ưu Phong. Còn bức tranh đồng hoa vàng, nó chọn, đơn giản là vì nó yêu hoa trong hàng chục những bức tranh núi, phong, hoa, tuyết, nguyệt, sơn, thủy. Và một phần vì Bách Nhật cũng là một loài hoa cúc, có tác dụng chữa bệnh vô cùng hiệu quả, chứ đâu nghĩ đến ý nghĩa của cái tên nó là trăm đóa mặt trời như lời Ưu Phong. Đưa mắt nhìn bức tranh mình nắm gọn trong tay, Bách Nhật như nhìn thấy hàng trăm đóa mặt trời đang tươi cười trong gió. Là gió đang quấn quýt theo hàng trăm đóa mặt trời, hay là hàng trăm đóa mặt trời đang vươn mình theo ngọn gió kia…
Trải qua hai cuộc thử thách: chén canh và bức tranh, số người tham gia ban đầu bây giờ chỉ còn lại….ba cặp, trong đó Ưu Phong là một, anh chàng Nguyễn Hàn là hai và người đàn ông họ Đinh là ba. Khẽ lùi lại một bước để nhường đường cho những thanh niên vạm vỡ mang tất cả số ghế đi khuất, rồi sau đó lại nhìn theo bóng dáng của Bách Nhật cùng hai cô gái còn lại đi vào bên trong đình, Ưu Phong mỉm cười trấn an Hải Thượng Lãn ông khi thấy ông tỏ vẻ không yên, vì e ngại phần thi cuối cùng này sẽ vô cùng khó khăn để chọn ra cặp vợ chồng để giành chiến thắng, mang bảng vàng vinh dự về cho cả nhà.
Đợi chừng dăm phút, bầu không khí đang yên lặng để chờ đợi phần thi cuối cùng sẽ diễn ra như thế nào, trong phút chốc chợt lao xao cả lên khi cánh cửa của ngôi đình rộng mở, nhường lối cho mười hai chiếc kiệu che chắn kín mít, trung bình bốn người đàn ông khiêng một chiếc lần lượt tiến ra. Trước những ánh mắt ngạc nhiên của mọi người, Lê Lôi tươi cười chỉ tay vào những chiếc kiệu, đoạn ngân nga từng chữ để cho mọi người ý thức được tầm quan trọng của phần thi cuối cùng này.
- Phần thi đồng vợ đồng chồng thật sự rất khó khăn, vì nếu những đấng lang quân nào không trân trọng những gì vợ mình làm ra và quan tâm tới những sở thích của vợ, thì chắc chắn không thể nào lọt qua vòng thi vừa rồi. Thế nhưng phần thi cuối cùng, quan trọng hơn, đó là phần thần giao cách cảm. Giữa hai vợ chồng phải có sự gắn kết thiêng liêng, đồng tâm cộng khổ mới có thể cùng nhau vượt qua những thăng trầm trong đời bể dâu. Nếu như ba vị phu quân đây có thể nhận ra được chiếc kiệu nào có vợ mình trong số mười hai chiếc kiệu sớm nhất, thì đó sẽ là người chiến thắng.
Lê Lôi vừa dứt lời, những tiếng xôn xao khi nãy lại đồng loạt vang lên một lần nữa vì không lường trước được mức độ khó khăn của phần thi cuối cùng. Phải nhận biết vợ mình ngồi trong chiếc kiệu nào, trong khi mười hai chiếc kiệu đều giống nhau về màu sắc, kiểu dáng và kích thước, lại còn che chắn kín mít, làm cho vầng trán của Nguyễn Hàn và người đàn ông họ Đinh rịn những giọt mồ hôi to tướng, khi đi tới đi lui đến mòn cả gót để săm soi từng chiếc kiệu trong sự căng thẳng, hoang mang. Một khi chọn kiệu sai, bức rèm được vén lên mà người ngồi trong đó không phải vợ mình, có nghĩa là phần thưởng một con heo quay, một bao gạo lớn và một đôi trâu bò để làm ăn sẽ tan tành như bọt xà phòng. Mỉm cười thêm một lần nữa để trấn an sự sốt ruột của Hải Thượng Lãn Ông, Ưu Phong chậm rãi đi một dọc các kiệu. Mỗi lần dừng ở kiệu nào, bàn tay của anh lại vẫy nhẹ, hình thành một luồng khí công tạo thành một cơn gió đủ để làm lay động tấm rèm rồi lại tiếp tục tiến tới các kiệu khác, mặc cho những lời xì xầm bàn tán của mọi người vì không hiểu anh đang làm gì.
Ngưng lại đôi chút ở chiếc kiệu hàng thứ bảy, sau đó lại bước đến chiếc kiệu ở hàng thứ tám với nụ cười mỉm trên môi, Ưu Phong khẽ vỗ vai người đàn ông hai cái để động viên, trước gương mặt sửng sốt của ông ta vì sự nhạy bén đến khó tin của chàng trai - trong khi mình còn đang nín thở, bận lượn tới lượn lui để tìm xem vợ mình ở trong chiếc kiệu nào. Đứng lặng yên ở chiếc kiệu thứ tám, đôi mắt Ưu Phong chợt trở nên mông lung, chiếc rèm hồng kết hoa khẽ lay động khi có cơn gió nhẹ trêu đùa. Nhắm mắt lại như để suy nghĩ một điều gì đó, Ưu Phong từ từ mở mắt ra, bàn tay anh ngập ngừng đưa lên và nhẹ nhàng vén chiếc rèm hồng kết hoa qua một bên, để rồi nhìn thấy cô dâu đang ngồi lặng yên bên trong kiệu với một ánh mắt mênh mông và dịu dàng…
★ Chương 42: Cứu giúp
Vừa nhìn thấy khuôn mặt “cô dâu “đang ngồi trong kiệu, Ưu Phong liền đưa tay mời cô bước ra ngoài với một cử chỉ vô cùng lịch thiệp, và gương mặt thanh tú không biểu lộ chút cảm xúc nào ngoài nụ cười thường trực hay nở trên môi. Nóng lòng muốn biết Ưu Phong có lựa chọn đúng thê tử của mình hay không, khi trong ba thí sinh anh là người “vén màn” sớm nhất, Hải Thượng Lãn Ông liền đứng hẳn dậy đặng nhìn cho rõ. Để rồi đôi lông mày của ông dựng thành một hàng thẳng đứng, do nhìn thấy cô dâu ngồi trong kiệu là… một cô gái lạ hoắc nào đó, mặt hoa ửng hồng thẹn thùng khi Ưu Phong nắm lấy tay mình dẫn ra trong sự sửng sốt của tất cả mọi người…
- Tiểu mỹ nhân! Thiệt thòi cho cô quá, lẽ ra người vén kiệu hoa phải là ý trung nhân của cô mới phải.
Đôi má của cô gái áo lục thoáng đỏ lên như trái đào tơ vừa chín tới, khi nghe những lời như rót mật của Ưu Phong vừa mới thì thầm vào tai. Thể theo quy định của cuộc thi, một khi thí sinh tham dự đã vén kiệu hoa lên mà người ngồi trong đó không phải thê tử, đồng nghĩa với việc thí sinh đó sẽ bị loại ra khỏi cuộc chơi, để nhường phần thưởng cho một trong hai người còn lại sẽ tìm ra nhân vật chủ chốt trong chiếc kiệu hoa. Chặc lưỡi một cái ra chiều tiếc rẻ, Ưu Phong vỗ vào vai người đàn ông họ Đinh đang đứng gần mình hai cái, đoạn tươi cười trước ánh mắt ngạc nhiên của ông ta vì không hiểu tại sao anh lại vỗ vai mình.
- Chậc! Thế là bảng vàng vinh danh tôi không có cơ hội để mang về rồi. Ông bạn, chúc ông may mắn.
Nhanh chóng bước xuống dưới sau khi đã để lại lời chúc phúc, Ưu Phong chỉ biết cười cầu tài khi bắt gặp khuôn mặt thất vọng của Hải Thượng Lãn Ông, vì những tưởng phen này phần thắng đã nắm chắc trong tay mà cuối cùng lại để vuột mất, do tin chắc rằng Ưu Phong và Bách Nhật thật sự ý hợp tâm đầu. Biết thầy mình không được vui, Ưu Phong đành yên lặng theo dõi cuộc thi đang diễn ra, vì nhất thời không tìm được lời lẽ nào thích hợp để nói trong lúc này. Trên kia, cuộc thi vẫn đang diễn ra trong sự chờ đợi hồi hộp của tất cả mọi người. Nén nhang chỉ còn nửa lóng tay là tàn hết, nhưng chung quy vẫn chưa ai có dấu hiệu nhận biết được vợ mình ngồi trong chiếc nào trong mười một chiếc kiệu rèm che kín mít, do một chiếc đã bị loại vì sự nhầm lẫn của Ưu Phong.
Tiết trời hôm nay vô cùng mát mẻ, nhưng vầng trán gồ ghề của người đàn ông họ Đinh và anh chàng Nguyễn Hàn lại lấm tấm những giọt mồ hôi cay nồng vì căng thẳng. Hết đi tới đi lui quanh các kiệu, người đàn ông họ Đinh lại vò đầu bứt tóc trông vô cùng khổ sở, vì nguy cơ phần thưởng có thể giúp gia đình bớt cơ cực một chút có lẽ sẽ tan thành khói mây. Đột nhiên, như nhớ ra một chuyện gì đó, người đàn ông đứng khựng lại, rồi liếc mắt về phía Ưu Phong. Nhận được nụ cười khuyến khích của anh, người đàn ông nhẹ liếm đôi môi nứt nẻ như ruộng khô của mình, rồi với những bước chân sải dài dứt khoát, ông ta tiến về chiếc kiệu thứ hai. Ngập ngừng trong một phút như để quyết định điều gì đó, nguời đàn ông họ Đinh hít sâu vào môt hơi như để lấy dũng khí rồi mở phắt rèm ra…
Dưới sự “ồ” lên ngạc nhiên của dân tình và khuôn mặt lộ nét sung sướng của người đàn ông, từ trong kiệu, một người phụ nữ mặc áo màu cánh sen chậm chạp bước ra, trong những tiếng vỗ tay rầm trời và sự thán phục của Nguyễn Hàn. Như chờ đợi mỗi giây phút đó, Lê Lôi nhanh nhẹn tiến lại người đàn ông họ Đinh, đoạn vui vẻ cầm lấy tay ông ta giơ cao trước mặt dân làng, vì trải qua hai phần thi với những giờ phút căng thẳng và hồi hộp, cuối cùng thì họ cũng đã tìm ra được một người xứng đáng nhận lấy bảng vàng vinh danh.
Nhẹ nhàng vén kiệu bước ra, Bách Nhật tiến lại chỗ Hải Thượng Lãn Ông và Ưu Phong đang đứng bên dưới mà không nói một lời nào. Lúc nãy, khi ngồi trong kiệu, trái tim của Bách Nhật thật sự đập rất mạnh. Nó không hiểu vì sao trái tim của nó lại đập mạnh như thế, khi mơ hồ hy vọng rằng Ưu Phong sẽ tìm thấy nó trong những chiếc kiệu bít bùng. Bách Nhật đã đợi, đợi rất lâu. Lần đầu tiên nó nếm trải cảm giác đếm từng giây từng phút là như thế nào, và cũng lần đầu tiên nó nếm trải cảm giác khỏi hụt hẫng ra sao, khi Ưu Phong đã không tìm ra nó ở đâu trong mười hai chiếc kiệu hồng. Để rồi sau đó, kết quả là phần thắng thuộc về người đàn ông họ Đinh trong những tiếng hoan hô nức trời, còn cả ba thì lặng lẽ rời khỏi cuộc thi và trở về nhà với những tâm trạng khác nhau trong lòng.
- Phong nhi! Trong số những chiếc kiệu ấy, con thực sự không biết vợ mình ở đâu sao?
Không thể nén nổi thắc mắc, Hải Thượng Lãn Ông cuối cùng phải lên tiếng sau khi đã cân nhắc kỹ càng, vì phần thi thứ nhất thật sự Ưu Phong đã vượt qua một cách ngon lành, đã vô tình tạo cho ông một tia hy vọng ở trong lòng. Đưa mắt nhìn lên những lùm cây tràn nắng, giọng nói của Ưu Phong trong khoảnh khắc bỗng trở nên nhẹ bỗng khi một cánh chim lạc loài chợt vụt qua.
- Phần thi thứ nhất con vuợt qua được chẳng qua là vì ăn may thôi. Thật sự là trong mười hai chiếc kiệu rèm buông trướng phủ đó, con không biết Bách Nhật đang ngồi trong cái nào. Nếu biết thì phần thắng kia đâu thuộc về người ta.
Chạm phải khuôn mặt thất vọng của Hải Thượng Lãn Ông khi phát hiện ra sự thật phũ phàng, Ưu Phong nhún nhẹ vai một cái, và tiếp tục sải bước trên con đường đất đỏ như chưa từng có chuyện gì xảy ra với một nét mặt bình thản, không buồn phiền hay vương vấn điều gì. Như chợt nhớ ra một điều gì đó, những bước chân đang gấp gáp của Hải Thượng Lãn Ông liền chậm lại. Đột ngột ông dừng lại, vỗ vào trán mình mấy cái, đoạn tiếp lời trước ánh mắt ngạc nhiên của Bách Nhật và Ưu Phong.
- Thôi chết! Ta quên mất còn phải qua nhà cậu Trương để lấy số thuốc đã ký gởi. Hai con cứ về trước đi, ta sẽ về sau.
- Được không thầy? Hay để con…
- Không! Nhà cậu Trương chỉ cách mươi bước chân là tới, con và Bách Nhật cứ về trước đi.
Gạt phắt lời đề nghị của Ưu Phong, Hải Thượng Lãn Ông xua tay mấy cái rồi quay người đi luôn mà không để cho anh kịp nói thêm lời nào. Nhìn theo bóng dáng nhỏ thó của ông khuất dần sau lũy tre rì rào, Ưu Phong thở nhẹ ra một hơi rồi tiếp tục sóng bước cùng Bách Nhật trên con đường mòn. Ánh mặt trời ngày càng lên cao, bầu không khí giữa Ưu Phong và Bách Nhật hoàn toàn yên lặng, cho dù xung quanh là tiếng chim hót ríu rít, tiếng người bàn tán rôm rả sau khi đã chứng kiến cuộc thi phu thê ý hợp tâm đầu diễn ra. Về phần Bách Nhật, trong thâm tâm nó không hiểu rằng Ưu Phong thật sự không biết nó ngồi trong kiệu nào, hay biết mà cố ý thua để nhuờng phần thằng lại cho người đàn ông kia? Bách Nhật càng nghĩ càng khó hiểu, để rồi cuối cùng nó quyết định gạt bỏ mớ bòng bong ấy ra khỏi đầu, vì không muốn nhúng quá sâu vào bất cứ chuyện gì ở quá khứ mạng mùng ko có, đèn điện cũng không này.
Lặng thinh nhìn những chiếc lá vàng chao nghiêng trong gió, Ưu Phong để yên cho Bách Nhật đắm chìm trong suy nghĩ khi nhận ra đôi mắt xám tro của nó trở nên mông lung. Và có lẽ cả hai sẽ cứ thế mà im lặng trong suốt quãng đường về đến nhà, nếu không nghe thấy có tiếng binh khí chạm nhau vọng lại từ cánh đồng hoang. Vốn là một người không xen vào những chuyện khác nếu nó không liên quan tới mình, Bách Nhật cứ thế đi thẳng. Còn Ưu Phong thì dừng chân lại để nghe ngóng vì nhận ra rằng tiếng quát tháo, đôi co của một người nào đó trong đám đánh nhau có vẻ rất quen thuộc, nhưng lại không nhớ là mình đã nghe thấy ở đâu.
Trong khi Ưu Phong còn đang chau mày rà soát lại trí nhớ, thì Bách Nhật đã đi được một quãng ngắn. Nó không cần phải đứng lại nghe ngóng làm gì vì biết thân mình chẳng thể nào can thiệp nổi mấy chuyện thanh toán giang hồ, thế nên tốt nhất là đường ai nấy đi. Nghĩ như thế nhưng trời lại không chiều thế. Chẳng biết Bách Nhật có làm gì để ông trời ghim hận hay không, mà chỉ biết có một bóng người đột ngột xuất hiện trước mặt nó, rồi sau đó kéo theo hàng chục bóng người khác - tay mang gươm sáng ngời - ẩu đả một trận kịch liệt ngay trước lối đi, làm Bách Nhật điếng hồn và vội vàng thụt lùi lại phía sau cả thước, vì không muốn bị u đầu chảy máu truớc cảnh tượng đao kiếm vô tình.
Trông thấy Bách Nhật vướng phải đám đánh nhau dù trong lòng không hề mong muốn, chỉ một cái điểm chân nhẹ, Ưu Phong đã đường hoàng đứng trước mặt Bách Nhật, che chắn cho nó khỏi bị những mũi kiếm lạnh lẽo kia chạm vào người. Rồi nhanh nhẹn, anh dùng tay kẹp lấy một mũi đao gạt sang bên kèm theo nụ cười hiền hòa, trước đôi mắt đang trợn tròn lên của chủ nhân thanh đao ấy, khi bỗng đâu xuất hiện một chàng trai áo trắng lạ hoắc như thế này.
- Đao kiếm vô tình. Cô mau rời khỏi chỗ này nhanh.
Một tay đẩy Bách Nhật lùi về phía sau, còn đôi mắt không gợn bóng mây thì nheo lại, khi đã nhìn thấy rõ gương mặt đẫm mồ hôi của anh chàng đang bị mười mấy người vây đánh không kịp ngơi tay. Có vẻ như lúc nãy do mải đối phó với đám người hung bạo ấy, thế nên chàng trai không rảnh mắt để nhìn ngó xem xung quanh mình có ai. Đến khi nghe thấy giọng nói trầm ấm của Ưu Phong nhẹ cất lên chẳng khác nào sấm động bên tai, chàng trai áo nâu vội vàng gạt hết những đường kiếm đang chĩa về phía mình, và tung người nhảy về phía sau một khoảng an toàn, đồng thời khuôn miệng vẽ thành hình chữ “O” khi nhận ra gương mặt thanh tú kia đang tươi cười.
- Đạo hoa vương! Đúng là xa tận chân trời, gần ngay trước mắt. Không cần tìm kiếm ngươi cũng tự động dẫn thân đến, chờ khi nào ta tính sổ xong hết bọn người này thì sẽ đến lượt ngươi.
- Ồ! Ta còn tưởng là ai mà thảm thế, hóa ra là Ngô Văn Sở đại huynh. Huynh cứ tự nhiên mà xử lý rắc rối do mình tạo ra, nhưng ta e khi tính sổ hết bọn chúng thì thân huynh cũng chẳng còn mảnh giáp nào. Nhưng mà không sao, ta sẽ ngồi đây chờ, nếu muốn được giúp đỡ thì cứ nói một tiếng, Ưu Phong này sẵn sàng giúp một tay.
Ưu Phong vừa nói vừa cười, anh còn không quên xiên bên này xỏ bên kia khiến khuôn mặt đỏ ửng lên vì trưa nắng của Ngô Văn Sở chuyển sang màu xanh xám. Hét lên một tiếng như để trút hết bao tức giận, Ngô Văn Sở xông vào tả xung hữu đột với đám người đang vây kín, trước sự sửng sốt của Bách Nhật vì anh chàng này cứ như một con báo đang độ say mồi. Ưu Phong gọi anh ta là Ngô Văn Sở. Căn cứ vào giọng nói và thái độ của anh ta, thì có vẻ như Ưu Phong đã gây thù chuốc oán gì đó đến nỗi Ngô Văn Sở phải ghim sâu vào lòng. Rốt cuộc Ưu Phong đã đắc tội gì? Hay đắc tội với nhiều người quá nên giờ có gặp “nạn nhân” cũng không nhớ vì sao?!
- Ưu Phong! Anh và người này có thâm thù đại hận gì với nhau à?
Dù không muốn lên tiếng hỏi, thế nhưng cuối cùng Bách Nhật cũng phải mấp máy môi vì dù sao nó cũng muốn biết chút ít gì về Ưu Phong. Xét cho cùng anh cũng là ân nhân cứu mạng nó ra khỏi chốn lầu xanh, nếu cứ mù mờ chẳng biết tí gì về con người đào hoa đang ở trước mặt mình thì cũng không hay. Ngồi trên một tảng đá ven đường, Ưu Phong chăm chú theo dõi cuộc tỉ thí đang đến hồi gay cấn, và trả lời câu hỏi của Bách Nhật với một thái độ vô cùng mập mờ.
- Chung quy cũng chỉ vì một chữ “Tình” mà thôi.
Không trả lời thì thôi, mà Ưu Phong càng trả lời thì Bách Nhật lại càng thắc mắc, thế nhưng nó không lên tiếng hỏi thêm vì cũng không muốn quan tâm quá làm gì. Vốn định đi vòng đường khác để trở về nhà, nhưng Bách Nhật nghĩ sao lại đứng yên tại chỗ, để xem Ngô Văn Sở xử lý hết đám người này xong sẽ giải quyết tới Ưu Phong như thế nào. Lúc này, Ngô Văn Sở đã đả thương được sáu trong số mười lăm người áo đen đang bủa vây lấy mình. Vốn đến Hương Sơn để tham dự đám cưới của em gái, thế nhưng trong bữa tiệc anh đã vô tình làm mích lòng một nhóm người trong chốn giang hồ - bạn của chú rể - do cá tính ăn ngay nói thẳng của mình. Kết quả là trên đường ra đến bến thuyền để trở về Quy Nhơn, đám người lỗ mãng nàykhi nãy vốn đã bốc hỏa từ trước, nay lại có thêm men rượu cổ động nên đã bao vây lấy anh và tẩn nhau một trận cho đến bây giờ cũng thắng bại bất phân.
Lẽ ra Ngô Văn Sở đã có thể kết thúc cuộc ẩu đả bất đắc dĩ này, thế nhưng phần nể mặt tân lang, phần lo em gái mình sau này sẽ gặp rắc rối từ đám người ấy nên mới nương tay một chút. Nay lại thêm Ưu Phong - kẻ cựu thù của mình - đang ung dung ngồi cạnh đó, trong lòng sợ Ưu Phong bất thần bỏ đi thì sau này không biết đường nào mà lần, nên đánh được đôi chút Sở lại liếc nhìn về phía Ưu Phong để canh chừng. Chính vì những tác động ấy, chẳng mấy chốc Ngô Văn Sở đã lâm vào tình thế nguy hiểm. Cước bộ của anh đã có phần lúng túng, để rồi kết quả cuối cùng là bờ vai phải của anh, cộng thêm cánh tay trái và tấm lưng to rộng đã bị trúng mấy nhát kiếm. Các vết thương chí mạng ấy làm Bách Nhật tái mặt lại khi thấy máu tuôn ra xối xả, vì độ chém vừa ngọt vừa sâu của những thanh kiếm này.
Dường như những vét thương ấy không làm cho Ngô Văn Sở chùn bước, anh ta vẫn nắm chặt thanh đao trong tay và từng bước hóa giải hết những đòn tấn công hiểm hóc của đối phương. Thế nhưng được một lúc, đôi mắt của Ngô Văn Sở như muốn nhòa đi khi những cảnh tượng trước mặt không được rõ nét. Trong mắt anh lại còn xuất hiện những hình xếp ngang dọc đầy màu sắc như con thoi. Vội lắc mạnh đầu để xóa đi cảm giác ấy, Ngô Văn Sở vẫn tiếp tục chống trả lại đám đông đang dần khép kín, nhưng động tác của anh đã có phần chậm lại, bước chân thì xiêu vẹo, rối loạn như người say rượu tới nơi. Như có một tia chớp lóe qua trong đầu, nhìn thấy những nụ cười nham hiểm ẩn đằng sau miếng vải che màu đen mỏng, Ngô Văn Sở hiểu ngay rằng thanh kiếm trên tay bọn chúng đều tẩm độc. Chính vì đã bị trúng độc từ những thanh kiếm ấy, chẳng mấy chốc toàn thân của Ngô Văn Sở giờ đây đầy rẫy những vết thương ngang dọc, máu từ những vết thương thì không ngừng tuôn ra, nhuộm đỏ cả tấm áo nâu, thế nhưng anh vẫn gắng chút lực tàn còn lại để chống trả làm cho Bách Nhật cảm thấy bất nhẫn vô cùng.
Do mất máu quá nhiều, Ngô Văn Sở cảm thấy cánh tay mình nặng như đeo chì, ngay cả một cử động nhỏ cũng làm vết thương bị động và ứa máu nên thân pháp trở nên chậm chạp. Nhận ra những sự thay đổi đó, tên hán tử áo đen bên trái vung kiếm lên và thuận tay chém tiếp vào vai phải của Ngô Văn Sở. Nhưng không hiểu sao thanh kiếm đang vung lên nửa chừng của hắn ta bỗng nhiên rơi xuống đất, còn cổ tay thì tê buốt như muốn tháo rời khiến hắn vội vàng nhảy lùi về phía sau vài bước vì không hiểu chuyện gì đang xảy ra. Đang chắc mẩm phen này mình sẽ bị lãnh thêm vài vết thương nữa, Ngô Văn Sở vô cùng ngạc nhiên khi thấy tên hán tử áo đen đánh rơi thanh kiếm. Đến khi thấy một bóng dáng áo trắng đang đứng trước mặt mình với một đôi mắt tinh quái, thì khuôn mặt đang ngạc nhiên của Ngô Văn Sở liền sa sầm lại vì bóng người áo trắng đó không ai khác là kả thù của mình – Ưu Phong
- Chậc! Phen này Ngọc Thúy phải cám ơn tôi vì đã ra tay cứu giúp đại ca của mình rồi.
Phớt lờ ánh mắt như muốn ăn tươi nuốt sống của Sở, Ưu Phong nghiêng người né tránh một thanh kiếm lướt ngang người, đồng thời dùng chân hất thanh kiếm mà hán tử áo đen đã đánh rơi lên tay mình, đoạn quay sang Bách Nhật đang đứng cạnh Ngô Văn Sở, tươi cười.
- Bách Nhật, xem xét vết thương của gã nóng tính ấy giùm tôi. Tôi không muốn em gái hắn lại khóc lóc khi thấy anh mình tàn tạ như thế đâu.
Dù không biết cô gái tên Ngọc Thúy mà Ưu Phong nhắc đến là ai, nhưng Bách nhật vẫn gật đầu, rồi đưa tay dìu Ngô Văn Sở ra tảng đá khi nãy Ưu Phong đã ngồi, nhưng Ngô Văn Sở đã vội hất tay nó ra, hằn học.
- Ta không cần đồng bọn của gã đạo hoa ấy giúp đỡ. Thà chết còn hơn!
Khựng người lại trước sự bướng bỉnh của anh chàng này, đôi mày thanh tú của Bách Nhật thoáng nhíu lại rồi ngay sau đó lại giãn ra như không có chuỵên gì. Nó ung dung đứng lên và hất đầu về phía Ưu Phong đang “vờn” đám thảo khấu đó, đoạn mỉm cười hiền hòa
- Dù muốn dù không thì Ưu Phong cũng đã cứu anh một mạng, anh có không muốn mang ân huệ cũng không được. Còn nếu không muốn nhận thì sẵn có thanh đao trong tay, anh cứ một nhát kết liễu mạng mình đi, sao còn nói những điều thừa thãi quá vậy?
Trố mắt ra nhìn Bách Nhật, vì không nghĩ một cô gái trông dịu dàng, chừng mực thế này mà lại có những lời nói vô cùng… trái ngược, Ngô Văn Sở nhất thời ngây người ra mà không biết phải phản ứng thế nào. Không thèm tranh cãi lôi thôi, Bách Nhật vạch áo của Sở ra để xem vết thương nông sâu thế nào, chỉ chạm vào phần mềm hay còn tổn thương đến gân cốt, làm khuôn mặt dù đang xanh tái do mất nhiều máu của Sở cũng vụt đỏ ửng như bị say nắng giữa ban ngày.
- Trời đất ơi! Nam nữ thụ thụ bất thân. Cô là nữ nhi mà vạch áo nam nhân ra giữa bàn quan thiên hạ thế này hay sao?
- Chết đến nơi còn ở đó mà lo nam nữ thụ thụ - Phì cười vì sự lúng túng của Sở, đôi mắt xám tro sắc lạnh của Bách Nhật nhìn thẳng vào mặt Ngô Văn Sở và nói chậm rãi từng lời - Rất may vết thương của anh không chạm đến xương cốt, nhưng bởi vì nó có độc nên tôi cũng không thể nói trước được gì, chỉ còn cách mau chóng tìm đến thầy tôi để chữa trị cho anh. Anh còn đi được không?
- Tôi không bị liệt hai chân, nên còn đi được.
- Tốt! Vì nam nữ thụ thụ bất thân, thế nên phiền anh tự đi dùm cho, tôi không dám dìu hay đỡ đâu.
Hừ nhạt một cái khi cô gái trước mặt mình hay dùng từ ngữ để bắt bẻ người khác, Ngô Văn Sở dù không muốn nhận bất cứ ân huệ nào từ Ưu Phong, thế nhưng anh cũng tự hiểu rằng lúc này mình không còn cách làm nào khác hơn nếu muốn nhanh chóng trở về Quy Nhơn. Đưa mắt nhìn Ưu Phong, lúc này đang dần đám người áo đen một trận tơi bời hoa lá - trước cái khụt khịt mũi của Ngô Văn Sở vì biết rằng nếu muốn đánh bại anh thì quả thật còn rất lâu - Bách Nhật dõi theo tà áo trắng của Ưu Phong đang phất phơ trong gió, hệt như khung cảnh dưới hoa mà nó tình cờ thấy được trong phủ chúa. Bất giác, nó mỉm cười khi anh kết thúc trận đánh ấy bằng cách khoét mỗi người một miếng vải trước ngực, khiến cho ai nấy mặt xanh môi tái, rồi thả cho cả bọn chạy đi vì không muốn máu rãi xuống đất Hương Sơn.
- Thế nào? Cậu vẫn còn đi được chứ?
- Khỏi lo! Ta không bị liệt hai chân. Đừng tưởng ngươi vừa cứu mạng ta nên ta có thể bỏ qua được lỗi lầm ấy thì ngươi đã lầm to.
Trước sự hằn học của Ngô Văn Sở khi nhắc đến chuyện xưa tích cũ, Ưu Phong chỉ nhún nhẹ vai một cái, tỏ ý sao cũng được, mà không đính chính hay biện minh lại một điều gì. Thảy lại thanh kiếm cho Sở, Ưu Phong thong thả tiến về phía trước, để Bách Nhật dìu Ngô Văn Sở khập khễnh đi từng bước ở phía sau - dù nó đã nói không dám dìu hay đỡ vừa rồi. Đưa mắt nhìn Ưu Phong đi trước mặt, chiếc bóng dài đổ nghiêng nghiêng xuống đất, tạo thành bóng râm cho bàn chân nó mải miết đi về phía trước, hốt nhiên trong lòng Bách Nhật chợt vu vơ nhớ đến câu nói mập mờ của anh vừa rồi.
Chung quy cũng chỉ bởi một chữ ”Tình” mà thôi…
★ Chương 43: Biến mất
Mấy hôm nay tuy đẹp trời, nhưng chẳng biết vì lý do gì mà Hải Thượng Lãn Ông hết đi ra đi vào, rồi lại thở dài thậm thượt ra chiều buồn bực, làm gia đình ông và Bách Nhật cũng cảm thấy lo lắng do mỗi bữa cơm thấy ông ăn ít hẳn đi. Nhìn khuôn mặt đăm chiêu của thầy mình - cho dù lúc đó không kê đơn thuốc - Ưu Phong thừa biết ông đang nghĩ đến viễn cảnh của anh và Bách Nhật. Chung quy thì cũng vì cái sự linh cảm không đâu của người già, thế nhưng anh lại không dám đả động hay lên tiếng hỏi han gì, do sợ Lãn Ông lại hỏi đến những chuyện anh không muốn nhắc hay đề cập đến dù chỉ một lời. Chứng kiến tình cảnh chẳng đặng đừng đó, Bách Nhật không tiện mở miệng hỏi. Nhiệm vụ của nó là chỉ làm đúng phận sự của một “người vợ” đảm đang hiền thục cho tròn vai, chứ đối với những chuyện nhân tình thế thái thì nó cũng không có hứng thú, hay nói chính xác hơn là không biết phải hòa giải hai thầy trò bằng cách nào, trong khi dạo gần đây nó cũng ít gặp Ưu Phong hẳn đi.
Suốt mấy ngày liền, Ưu Phong hầu như hiếm khi có mặt ở nhà. Chẳng biết anh bận việc gì mà đi suốt, chỉ đến tối mịt - lúc Bách Nhật đã say giấc nồng - mới trở về, rồi đến sáng hôm sau lại biến mất mà không để lại tin nhắn hay lời hỏi han nào. Ưu Phong đi đâu, làm gì, Bách Nhật mặc kệ và không cần biết. Thế nhưng ngặt nỗi những lúc dùng bữa cơm gia đình, Hải Thượng Lãn Ông vì lo tình cảm vợ chồng sứt mẻ, cứ hỏi lanh quanh chuỵên mấy hôm nay Ưu Phong làm gì mà tối khuya mới về, khiến Bách Nhật phải tìm cớ nói quanh để biện minh cho anh và nó, rằng cả hai luôn hòa thuận êm ấm, không xảy ra tranh chấp hay cãi vả gì. Phải thuyết phục một lúc lâu nó mới được Lãn Ông miễn cưỡng chấp nhận cho cái lý do : Ưu Phong ra ngoài để bàn bạc công việc, với một vẻ mặt nghi ngờ, vì không biết công việc mà anh bận đến nỗi để vợ bơ vơ ở nhà một mình như thế là công việc gì?
Đối với chuỵên của Ưu Phong đã thế rồi, nay lại gặp thêm Ngô Văn Sở, thật tình Bách Nhật muốn hụt hơi vì khi không lại mang rắc rối vào cho mình. Từ ngày đưa Ngô Văn Sở về trị thương, không ngày nào là Bách Nhật không nghe Sở ca cẩm, từ vì sao thế gian này lại có một cô gái vô tình, cho đến cái gã Đạo Hoa vương kia có lẽ vì mất mặt quá nên đã trốn mất biệt. Ôi thôi đủ thứ chuyện trên đời khiến Bách Nhật ngán ngẩm, vì khi không bên cạnh mình lại có cái radio phát sóng miễn phí bất kể mưa gió mà không biết mệt như thế này. Nhưng ngán gì thì ngán, chính vì những câu ca cẩm, tả oán của Ngô Văn Sở đó, Bách Nhật mới lờ mờ hiểu ra nguyên nhân xâu sa dẫn đến mối thù không đội trời chung của Ngô Văn Sở ấy là gì.
Đúng như Ưu Phong đã nói trước đó, tất cả chung quy chỉ bởi một chữ tình. Và cái chữ tình đó lại rơi vào trường hợp của em gái Ngô Văn Sở, một chuyện mà chẳng ai mong muốn nó xảy ra. Vốn vô cùng yêu thương cô em út trong nhà, Ngô Văn Sở đã làm mai cô gái ấy cho một chàng trai hiền lành, nổi tiếng siêng năng chăm chỉ nhất trong làng. Nhưng tiếc thay cô em gái ấy không đáp trả lại tấm chân tình của anh chàng đó, mà lại đem tất cả si mê của mình gửi vào Ưu Phong, một con người nổi tiếng đào hoa với mỹ danh ai ai cũng biết, đó là Đạo Hoa Vương. Cuối cùng, khi Đạo Hoa Vương kia vì xung quanh có quá nhiều mĩ nhân, kết quả tất yếu là trong mắt tuyệt nhiên không nhìn thấy bóng dáng của người con gái ấy, để rồi cuối cùng trong cơn tuyệt vọng, cô gái ấy đã gieo mình xuống sông tự vẫn trước sự bàng hoàng của Sở, do không thể ngăn cản nổi hành động dại dột ấy. Tất cả cũng là vì sự hờ hững đến vô tình của người mà cô vô cùng si mê.
Khi Ngô Văn Sở đang nói, Bách Nhật có thể đọc được sự đau khổ tột cùng trong đáy mắt anh, và lẩn khuất trong đó còn là sự căm hờn dành cho cái kẻ đã gián tiếp tước đoạt đi mạng sống của em gái mình. Cho dù có như thế thật, nhưng Bách Nhật cũng biết rằng cái chết của cô gái yểu mệnh ấy hoàn toàn không phải do lỗi của Ưu Phong, thế nhưng đứng trên cương vị của một người anh, thì sự căm hận đó âu cũng là điều thường tình trong mỗi con người. Im lặng thay băng cho Sở, trông thấy những vết thương của anh đã bắt đầu lành lại và kéo da non, Bách Nhật thở phào nhẹ nhõm vì công sức chăm bón thuốc thang của nó cuối cũng đã được đền bù xứng đáng. Ngồi lặng yên để Bách Nhật bôi thuốc, dù không nói ra, nhưng Sở vẫn biết được những nỗi vất vả của Bách Nhật khi chăm sóc cho anh. Cùng Hải Thượng Lãn Ông leo núi hái thuốc đem về điều trị, Bách Nhật đã vô ý trượt chân, để rồi khi bưng thuốc lên cho Sở uống, dù đã cố tình đi đứng bình thường nhưng Sở vẫn nhìn thấy bàn chân trầy xướt của Bách Nhật. Không chỉ thế, những móng tay của nó đã bị gãy do bám vào bụi dây leo trên sườn núi, để khỏi phải rơi thẳng xuống vực sâu nếu chẳng may sơ xuất bất kỳ. Hàng đêm, khi mọi người đã yên giấc nồng, Sở vẫn nghe thấy tiếng giã chày đều đặn của Bách Nhật khi nó thức đêm cặm cụi giã thuốc. Nhìn những giọt mồ hôi lăn tròn trên đôi má hồng do bếp lửa hắt vào, thứ ánh sáng lung linh huyền diệu nhất mà anh chưa bao giờ thấy, Sở không hiểu tại sao một người không quen biết, cũng không có quan hệ máu mủ gì với anh, lại có thể tận tâm chăm sóc anh từng ly từng tí không nề hà như thế, mặc cho trước đây anh đã có thái độ hằn học với nó khi biết nó quen Ưu Phong - do thành kiến về Đạo Hoa Vương đã ăn sâu trong đầu.
- Này!
- Sao?
Đang cẩn thận bôi chất thuốc sền sệt màu xanh ngọc bích, tổng hợp từ các loại thảo dược trên cánh tay Sở, Bách Nhật ngừng tay lại khi giọng nói của Sở đượm vẻ dịu dàng. Một thái độ hiếm thấy kể từ khi nó và Ưu Phong đưa anh về nhà để trị thương cho đến giờ
- Tôi và cô không quen biết ruột rà gì, chỉ là nguời qua đường, sao cô đối xử với tôi tốt như thế?
Ngước đầu lên nhìn khuôn mặt chữ điền rắn rỏi của Sở, Bách Nhật nở một nụ cười. Nụ cười làm cả khuôn mặt bừng sáng khiến Sở ngạc nhiên vô kể, vì nụ cười của cô gái này trông rạng rỡ như một đóa hoa mặt trời.
- Tôi không phải đối xử tốt gì với anh, chỉ là chuỵên phải làm, thế thôi.
- Nhưng lỡ tôi là người xấu, là lục lâm thảo khấu chém giết người vô số, cô không sợ sẽ đến lượt cô à?
- Cho dù anh ghê gớm thế nào, nhưng bây giờ anh cũng chỉ là một người bình thường đang nằm ngắc ngoải trên giường bệnh, trói gà còn không chặt lấy sức đâu mà cầm đến đao, thương. Hơn nữa, tôi không phạm đến anh, cũng không gây thù chuốc oán, làm gì mà phải tới lượt tôi. À mà không, tôi là “đồng bọn” của Ưu Phong, chắc anh phải giết tôi để cho cái gã Đạo Hoa Vương ấy phải nếm mùi đau khổ như anh đã từng nếm trước kia. Bây giờ nghe anh nói, tôi có tý sợ đấy.
Bách Nhật miệng bảo sợ, thế nhưng lại tươi cười như thể mình đang nói đến chuyện khôi hài nào đó, làm Sở vô cùng ngạc nhiên, vì cô gái này dường như đối với tình huống nào cũng bình tĩnh đến lạ thường. Nhớ lại lần đầu tiên gặp mặt Nhật, tuy đám đánh nhau đang dàn trước mặt có thể liên lụy tới mình bất cứ lúc nào, thế nhưng khuôn mặt rạng rỡ đó chỉ đổi sắc trong thoáng chốc, rồi ngay sau đó lại trở nên bình thản, cứ như không chuyện gì có thể làm cô gái ấy lúng túng và bối rối, ngay cả trong tình huống cấp kỳ liên quan tới sinh mạng mình.
- Xong rồi! Vết thương của anh đã hoàn toàn lành lặn và đang kéo da non. Anh bình yên thế này là phải cám ơn thầy của tôi đó. Giờ tôi sẽ xuống bếp mang cháo lên cho anh, đợi tôi một chút.
Mang chén thuốc Ngô Văn Sở đã uống cạn xuống nhà dưới, Bách Nhật nhanh nhẹn bắc nồi cháo đang sôi ùng ục trên bếp lò xuống, rồi lấy quạt thổi tắt lửa, chỉ còn lại những đốm than hồng li ti trong bếp lò. Múc cháo ra chiếc tô sành để trên mặt bàn, Bách Nhật rải những miếng hành, ngò xanh mướt, điểm xuyết lên mặt cháo, rồi đặt vào khay gỗ để mang lên cho Sở trong lúc tô cháo còn đang bốc khói. Vô tình liếc qua tấm liếp đang chống hờ, Bách Nhật nhìn thấy Ưu Phong đang đứng nói chuyện với Tiểu Cúc trước giàn hoa râm bụt. Chẳng biết cả hai đang nói với nhau những gì mà chỉ thấy nét mặt anh đăm chiêu, như đang nghĩ ngợi mông lung điều gì đó. Nhìn bâng quơ một vòng ngôi nhà, ánh mắt Ưu Phong dừng lại nơi Bách Nhật đang đứng. Hai người nhìn nhau qua ô cửa hình chữ nhật do tấm liếp tạo thành trong một lúc rồi Ưu Phong quay người bước ra khỏi cánh cổng râm bụt, theo sau là Tiểu Cúc với dáng bộ lo âu.
Nhìn theo bóng dáng của Ưu Phong dần khuất sau hàng hoa, Bách Nhật tự hỏi không biết anh đã gặp chuyện gì, mà trông Tiểu Cúc có vẻ lo lắng và căng thẳng. Thế nhưng cái suy nghĩ ấy cũng trôi qua trong đầu Bách Nhật, vì Ưu Phong giỏi như thế thì trên đời này ai có thể bắt nạt được anh. Chính vì suy nghĩ ấy, nên tối hôm nay Bách Nhật không thắc mắc gì nhiều khi thấy Ưu Phong đường hoàng dùng bữa chung với cả nhà, có lẽ là để bù đắp cho những bữa cơm vắng mặt cùa mình trước sự vui mừng của Hải Thượng Lãn Ông, vì những tưởng anh và nó đã làm lành với nhau.
Bưng khay cơm xuống bếp khi đã dùng xong bữa để rửa, Bách Nhật đang lúi húi chà xát bông sơ mướp đã thấm chanh vào những chiếc chén, bên tai nó chợt nghe thấy tiếng bước chân nhẹ nhàng của Ưu Phong tiến về phía mình. Không ngẩng đầu, cũng không lên tiếng hỏi, Bách Nhật vẫn im lặng rửa từng chiếc chén một, lòng tự hỏi không biết Ưu Phong xuống đây là có mục đích gì.
- Bách Nhật, thầy tôi không hỏi gì về sự vắng mặt của tôi trong mấy ngày qua chứ?
Múc một gáo nước trong lu vào chậu rửa chén cho Bách Nhật, Ưu Phong hỏi nhỏ điều lo lắng của mình trong suốt những ngày qua, rồi sau đó thở phào khi Bách Nhật nhẹ lắc đầu. Sau câu hỏi đó, bầu không khí trong căn bếp lại rơi vào im lặng, vì mạnh ai nấy lo công việc riêng của mình. Bách Nhật rửa chén, Ưu Phong phụ nó lau chén. Sau khi xếp những chiếc chén nằm ngay ngắn trong chạn đâu đó xong xuôi, Ưu Phong quay sang Bách Nhật, đang lau tay vào chiếc khăn vắt trên tủ, đoạn mỉm cười. Nụ cười đầu tiên sau bao ngày biến mất của mình.
- Bách Nhật, tối nay đầu thôn có tổ chức lễ hội hoa đăng, cầu cho mùa màng tươi tốt, cô đi với tôi nhé.
Khi Ưu Phong vừa nói hết, Bách Nhật vô cùng ngạc nhiên, nó nhìn Ưu Phong vì xưa nay anh không bao giờ đánh tiếng mời nó mua sắm, hay dạo chơi phố phường kể từ lúc nó đặt chân đến Hương Sơn. Đưa mắt nhìn lửng lơ qua tấm mành trúc, nơi Ngô Văn Sở đang say ngủ, Bách Nhật không nói gì mà chỉ gật đầu, vì từ khi trở về quá khứ, Bách Nhật chưa bao giờ tham dự hay chứng kiến một lễ hội nào do suốt ngày chỉ quanh quẩn trong nhà, hay theo Hải Thượng Lãn Ông lên núi hái thuốc. Những lúc ấy, Hải Thượng Lãn Ông đã kể rất nhiều về Ưu Phong, dù muốn dù không thì Bách Nhật cũng đã biết được đôi chút về anh. Thế nhưng nó biết chỉ để biết đó, chứ không bận tâm suy nghĩ hay lo lắng gì vì nó và anh ngoài cái ơn cứu mạng ra, thì cả hai đối xử với nhau chỉ ở mức độ tương kính như tân.
Trời đã về khuya, cả bầu trời và mặt đất dường như đều sáng bừng lên bởi những chiếc lồng đèn lung linh treo trên cao. Trên đường người chật như nêm, tiếng cười đùa rộn ràng không ngớt vang lên trên từng góc phố, lại toàn trai thanh gái lịch với những bộ quần áo đẹp nhất để tham dự lễ hội làng. Bách Nhật đang len lỏi trong đám đông ấy, nó hết nhìn những gian hàng bán mặt nạ sặc sỡ ven đường, rồi lại say sưa ngó những anh chàng võ biền mặc áo vàng, đang leo thoăn thoắt trên cây cột bôi đầy mỡ hành để tranh lấy xâu tiền treo lủng lẳng trên cao. Mải mê nhìn ngắm khung cảnh tươi vui náo nhiệt ấy, Bách Nhật không biết Ưu Phong đứng bên cạnh mình bao giờ, trên tay anh là một con tò he đầy màu sắc được nặn bằng bột, đoạn chìa về phía Bách Nhật trước ánh mắt ngạc nhiên của nó, và nói nhẹ nhàng.
- Cho cô.
Cầm lấy món quà trên tay Ưu Phong, Bách Nhật ngắm nghía con tò he hình con công vàng rực xinh xắn được làm bằng thứ bột thơm phức với một vẻ mặt vô cùng thích thú. Ngước mắt lên nhìn Ưu Phong, nó đung đưa con tò he trước mặt anh, đoạn mỉm cười.
- Con tò he này anh mua ở đâu?
- Tôi tự làm, cần gì phải mua.
Trước đôi mắt ngạc nhiên của Bách Nhật, Ưu Phong vừa cười vừa trả lời, vì có vẻ như nó không tin anh lại có thể làm ra những thứ đồ chơi xinh xắn này. Nhìn con công đang xòe chiếc đuôi nhỏ nhắn đầy màu sắc của mình, Bách Nhật tự nhiên mỉm cười vu vơ vì phát hiện ra Đạo Hoa Vương lại biết làm tò he. Không những làm được mà lại còn vô cùng dễ thương và sống động, cứ như thể nó đang cầm trên tay một con công được thu nhỏ nhờ cây đèn pin thần kỳ của Doaremon.
- Con tò he này làm thế nào?
- Rất đơn giản. Muốn làm tò he trước hết phải có nguyên liệu là bột gạo, trộn thêm ít bột nếp theo tỉ lệ mười phần bột gạo một phần bột nếp. Sau đó trộn đều, nhào với nước cho đến khi nhuyễn, quyện dính vào nhau rồi vê thành cục và cho vào nồi nước đang sôi luộc chín. Đến khi bột nổi, chìm, rồi lại nổi thì có thể vớt ra nhào nhanh tay. Tiếp đó nắm bột lại và nhuộm màu riêng từng vắt. Màu vàng thì được làm từ hoa hòe hoặc củ nghệ, màu đỏ từ quả gấc hoặc dành dành, màu đen thì đốt rơm rạ hay dùng cây nhọ nồi, màu xanh thì lấy từ lá chàm hoặc lá riềng, rồi cứ thế mà làm.
- Con tò he này anh làm khi nào mà tôi không biết?
Nheo mắt nhìn Ưu Phong, Bách Nhật thắc mắc không biết anh đã làm con tò he này từ lúc nào, trong khi suốt mấy ngày qua anh đi biền biệt chả thấy mặt mũi đâu. Vuốt nhẹ chiếc kèn ống tinh xảo được gắn dưới con công, Ưu Phong mỉm cười bâng quơ.
- Khi cô đang ngủ rất say.
Nghe câu trả lời của Ưu Phong, gò má của Bách Nhật chợt ửng hồng, khi không biết lúc anh quay trở về phòng có nhìn thấy dáng bộ khi ngủ của nó hay không. Nhìn những chiếc đèn hoa đăng trôi nhẹ nhàng trên dòng sông lấp lánh ánh vàng, Ưu Phong nắm lấy tay Bách Nhật, sau đó vẹt đám đông trước mặt hòng tiến vào khu thả đèn hoa đăng, mà không để ý đến sự bối rối của Bách Nhật khi bàn tay nó nằm gọn trong tay anh. Đưa một chiếc đèn lung linh ánh nến vào tay nó, Ưu Phong nhìn ra dòng sông sao trước mặt, đôi mắt anh như sáng bừng lên bởi những ánh nến lung linh in vào, và thong thả nói từng lời một trong mơ hồ.
- Tôi nghe nói nếu thả một chiếc đèn hoa đăng xuống sông, và thầm ước một điều, thì điều đó chắc chắn sẽ trở thành hiện thực. Cô hãy thử ước một lần xem sao.
- Thế anh đã ước lần nào chưa? - Xoay xoay chiếc đèn bằng giấy lấp lánh trong tay, Bách Nhật hơi ngạc nhiên vì không nghĩ một người thiết thực như Ưu Phong, lại có thể tin vào những câu chuỵên đượm vẻ thần kỳ này.
- Đã từng.
- Vậy nó có trở thành sự thật không?
Trả lời câu hỏi của Bách Nhật chỉ là một nụ cười mông lung của Ưu Phong, thế nên Bách Nhật cũng không tiện hỏi thêm một câu nào. Nhẹ thả chiếc đèn hoa đăng đỏ rực như ánh lửa trong đêm xuống nước, Bách Nhật nhẹ nhắm mắt và chắp tay cầu nguyện như bao cô gái khác. Nó ước rằng mình sẽ tìm thấy đường quay trở về nhà an tòan, trong cái thời chiến tranh lọan lạc triền miên như thế này. Sau khi đã thầm nguyện xong ước muốn, Bách Nhật từ từ đứng dậy, nó nhìn dòng sông lung linh phản chiếu ánh đèn huyền ảo bập bềnh một lúc lâu, rồi quay người về phía Ưu Phong mỉm cười…
Đáp lại nụ cười của nó, chỉ là một cơn gió lành lạnh lướt ngang qua mặt làm những sợi tóc mai của Bách Nhật bay lòa xòa trong gió. Ưu Phong đã biến mất, chỉ có dòng người đông đúc đang nhanh chân tiến về khu vực thả đèn hoa đăng, cùng tiếng nói cười rộn rã của các cô gái khi đã khấn xong điều ước của mình. Ưu Phong đã đi từ bao giờ, và trong sâu thẳm Bách Nhật biết rằng, nó sẽ chẳng bao giờ gặp lại anh nữa. Anh bất chợt như một cơn gió, nhẹ nhàng đến rồi cũng nhẹ nhàng đi. Trong khoảnh khắc đó, Bách Nhật bỗng cảm thấy lòng mình chợt đau đau. Nó nhanh chóng gạt phắt sự khó chịu đó trong lòng rồi rời khỏi bờ hồ, sau đó lại tiếp tục thả bộ trên từng con phố, nhìn ngắm những chiếc đèn lấp lánh reo vui trong gió, hệt như một giấc mộng chốn thiên đường đầy màu sắc lung linh. Nhìn bóng dáng nhỏ bé của mình nghiêng nghiêng trên mặt đất, Bách Nhật để mặc cho những cơn gió mơn man trên đôi má đang tê lạnh của mình. Con phố càng dài, đèn hoa càng thênh thang và trái tim của Bách Nhật như chìm vào nỗi cô đơn sâu thẳm, khi một mình lang thang đếm từng nhịp bước chân rơi trên con phố đêm đông đúc bóng người…
Trong thế giới người qua kẻ lại
Em biết rằng
Anh sẽ chẳng bao giờ nhìn thấy em đâu…
★ Chương 44: Ngoài cung
- Nhóc con! Đừng chạy lăng quăng thế, nếu bị lạc thì tôi sẽ không dẫn cô về đâu.
Mặc cho giọng nói trầm ấm của Duy Khiêm vọng lại từ phía sau, Nguyên Thiên vẫn chạy qua hàng này rồi lại nhảy đến quán kia một cách hớn hở, do đây là lần đầu tiên nó được ra ngoài sau bao tuần giam chân trong chốn hoàng thành chán ngắt, hết ngủ rồi lại ăn. Thích thú chạm tay vào những chiếc trâm bằng đồi mồi chạm khắc tinh xảo trong cửa tiệm bán trang sức, Nguyên Thiên lại sà qua những chiếc sọt đựng đầy trái cây của gian hàng kế bên. Dường như thế giới xung quanh đối với nó trông thật mới mẻ và lạ lẫm, cứ như thể đứa bé con lần đầu tiên nhận biết mọi vật, sau khi đã mở mắt chào đời.
Để mặc cho Nguyên Thiên say sưa khám phá tất cả những ngõ ngách trong kinh thành, Duy Khiêm thong thả dạo bước phía sau. Anh nhìn một lượt hai gian hàng ven đường, và nhận thấy rằng nó không khác gì so với lần cuối cùng anh ra khỏi cung với hoàng thúc Duy Anh. Mấy hôm nay, không khí trong cung rất náo nhiệt, bởi từ cung nữ đến quan lại, ai nấy đều tất bật chuẩn bị mọi thứ cho bữa tiệc sinh nhật của hoàng thúc Duy Cận, diễn ra trong vài ngày tới, một cách chu đáo nhất. Với lý do tự tay chọn quà cho hoàng thúc, Duy Khiêm đã đường hoàng ra khỏi cung, và chỉ mang theo một cận vệ để bảo vệ mình khỏi bất trắc mặc cho sự nghi hoặc của Lê Hiển Tông, vì không tin rằng một cô gái nhỏ bé như Nguyên Thiên lại có thể ăn đứt hai tên lính cấm vệ cao to, khỏe mạnh do mình cử ra.
Vốn ra ngoài để thay đổi không khí, khi quanh năm suốt tháng giam chân trong cái nội điện chán ngắt ấy, Duy Khiêm chỉ định thả bộ lòng vòng trong các con phố quen thuộc, chứ anh không nghĩ mình lại đi xa như thế. Chung quy là do con bé cận vệ hiếu động ấy. Hết chạy đến quán này lại tung tăng đến quán khác nhìn ngó không biết chán, làm Duy Khiêm phải đi theo canh chừng để đề phòng cô gái này gây ra đại họa, vì cái dáng bộ lóc chóc kia không biết được sẽ gây ra những chuỵên gì. Anh cứ đi mãi, đến khi nhìn lại thì đã thấy mình đi quá xa những con phố quen thuộc, thay vào đó là những con đường rộng thênh thang với hàng liễu trồng hai bên, trông vô cùng mơ mộng và thoáng đãng. Một con phố mà trước đây anh chưa từng đặt chân đến bao giờ.
Với một khuôn mặt vô cùng rạng rỡ, cứ như thể từ trước đến nay chưa bao giờ trông thấy khung cảnh náo nhiệt đó, nụ cười của Nguyên Thiên chợt tươi lên khi bắt gặp một đám sơn đông mãi võ đang biểu diễn bên kia đường. Cố chen chân vào đám đông hoan nghênh cổ vũ, Nguyên Thiên không khó khăn mấy khi chen lên được hàng đầu do lợi thế nhỏ con, rồi say sưa ngắm những màn biểu diễn như trong rạp xiếc bằng đôi mắt say mê. Do mãi chú ý những màn biểu diễn như dùng tay không đập đá, thổi lửa bằng miệng, tay cầm sào đi trên dây, nên đến lúc Duy Khiêm đứng cạnh nó hồi nào nó cũng không hay.
- Nhóc con! ta đi thôi.
- Không! Tôi muốn xem cho hết. Mấy khi ra ngoài cung chơi thế này, anh muốn đi trước thì cứ đi đi.
Thấy Nguyên Thiên đổ bướng khi đã nhắc hai ba lần mà nó cứ đứng lì tại chỗ,cứ như thể xem lời nói của mình là gió thoảng qua tai, Duy khiêm chỉ cười nhạt môt tiếng. Anh khoanh hai tay trước ngực, và nheo mắt nhìn cô gái áo đỏ trong đoàn mãi võ đang múa kiếm trên những chiếc cột dựng sẵn từ bao giờ. Sau khi múa xong bài kiếm thuật đẹp mắt, cô gái áo đỏ yểu điệu tung người lên cao như một cánh bướm, rồi uốn người lộn mèo mấy vòng trước khi hạ xuống đất, trong những tiếng vỗ tay tán thưởng của Nguyên Thiên và mọi người. Ngay lúc đó, một nụ cười tinh quái chợt xuất hiện trên gương mặt trẻ con của Duy Khiêm. Anh điềm nhiên nói vọng lên ngay lúc bàn chân của cô gái duỗi thẳng ra để đáp xuống đất, trước sự sửng sốt của chàng trai diễn chung đoàn.
- Cẩn thận! Dưới chân có đinh.
Đang lúc chỉ cách mặt đất chừng bảy thước, cô gái áo đỏ chợt biến sắc khi nghe thấy tiếng hô của Duy Khiêm. Vội vàng nhoài người sang một bên để tránh dẫm phải cây đinh – mà mình không thấy - ấy, cô gái áo đỏ nhẹ nhàng tiếp đất nhưng vô phước thay khớp chân lại bị trặc, do tiếp đất không được thuận và ngã ngồi ra đất dưới những tiếng xôn xao của mọi người. Trông thấy sự cố hy hữu đó, chàng trai để ngực trần, phơi những bắp thịt vạm vỡ, liền chạy ra đỡ lấy cô gái rồi dìu vào bên trong. Chính vì sự cố bất thần ập đến nên đoàn kỹ nghệ không thể biểu diễn cho mọi người xem nữa, họ chỉ cúi đầu xin lỗi và nhận lấy những đồng bạc mà dân chúng thảy vào chiếc nón rơm của mình. Chứng kiến cảnh tượng xui xẻo ấy, Nguyên Thiên là người đứng gần khán đài nhất nên hiểu rõ tất cả. Nó quay sang Duy Khiêm đang cười tươi hơn hớn và chống nạnh nhìn anh, hất hàm.
- Ê! Trên khán đài làm gì có cây đinh nào. Anh cố ý phải không?
- Dựa vào đâu mà cô nói tôi có ý. Hôm qua thức khuya đọc sách nên bây giờ mắt hơi hoa, nhìn nhầm một chút không được à? Ai mà biết cô ta lại bị trật chân như thế. Nếu đã xem xong thì mau đi thôi.
Trợn tròn hai mắt trước giọng điệu tuy ngang phè nhưng lại không thể bắt bẻ vào đâu được của Duy Khiêm, Nguyên Thiên đành chuyển thân đi theo anh mà trong lòng vô cùng bực tức. Kể từ ngày vào cung đến nay, không ngày nào Duy Khiêm để cho nó yên. Nếu không trêu chọc câu này cũng bình phẩm câu khác làm nó giận đến nóng ran mặt mày. Chẳng hạn như hôm qua, trước đó nó và anh đã thỏa thuận rõ ràng, nếu anh chỉ dẫn cho nó học đọc và học viết, thì ngược lại mỗi ngày nó sẽ kể cho anh nghe những chuyện xảy ra trong thế giới của mình. Từ chuyện chạy xe máy, cho đến cái chuyện hai người không gặp mặt nhau cũng có thể nghe được giọng nói qua điện thoại di động, nó đều kể hết trước sự thích thú của anh. Ấy thế mà sau khi nó đã kể xong, Duy Khiêm chẳng buồn đả động gì tới thỏa thuận của đôi bên, làm Nguyên Thiên phải càu nhàu mãi anh mới miễn cưỡng dạy cho nó vài chữ. Đã thế, lâu lâu lại còn chọt vô bình phẩm vài câu khi thấy những con chữ “lên bờ xuống ruộng” của nó. Đại loại như : xấu quá! Người viết đây ư? Khiến nó muốn bốc hỏa từng cơn. Nhưng cho dù cáu giận đến đâu, nó lại chẳng thể làm gì anh khi đáp lại làn khói đang bốc phừng phực trên đầu nó là nụ cười ngây thơ… vô số tội của Duy Khiêm.
Càng nghĩ càng tức, Nguyên Thiên lầm bầm rủa xả Duy Khiêm hết lời với đủ thứ ngôn từ hoa mỹ mà nó nghĩ ra được. Chẳng biết Duy Khiêm có thể đọc được suy nghĩ của người khác hay không, mà chỉ thấy anh quay đầu lại - làm Nguyên Thiên lật đật nở một nụ cười tươi rói - và từ từ tiến về phía nó với một vẻ mặt tinh quái, khiến nó chột dạ trong lòng.
- Mà ở chung với cô lâu như thế, tôi mới biết khi ngủ cô có một cái tật rất lạ kỳ.
- Tật…tật gì? - Trong phút chốc, khuôn mặt bầu bĩnh của Nguyên Thiên vụt ửng đỏ do Duy Khiêm đang kề sát mặt nó. Rất gần, gần đến nỗi chỉ cách bằng độ dài một bàn tay, và nó có thể nhìn thấy bóng một con nhóc tóc ngắn phản chiếu lung linh trong đôi mắt nâu mật ấy, đang bối rối vô cùng.
- À! Cái tật của cô khi ngủ ấy là rất hay nói mớ, chẳng biết trong mơ cô thấy những gì mà lại nói to đến nỗi tôi không tài nào ngủ được.
- Vớ vẩn! Tôi nói mớ hồi nào, có anh hay đặt điều thì có.
- Tôi đặt điều? Khi ngủ thì cô còn biết trời trăng mây nước gì nữa? Thường những người say rượu đâu chịu nhận mình say, duy chỉ có những người bị cô làm ầm ĩ như tôi mới không ngủ được thôi.
Há họng ra vì bị Duy Khiêm vặn lại cho hết đường cãi, Nguyên Thiên bặm môi tức tối khi thấy nụ cười chế giễu thường trực trên khuôn mặt baby của anh. Vội ngoảnh mặt đi chỗ khác, Nguyên Thiên dẫm mạnh bước chân lên viên gạch lát dưới đường như muốn nghiền nát chúng ra thành trăm mảnh. Dù đã tự nhủ không được hỏi han gì, vì rất có thể Duy Khiêm lại vịn vào đó mà mỉa mai nó, thế nhưng Nguyên Thiên vẫn ngập ngừng lên tiếng. Hai tay nó bấm lại với nhau - thói quen thường trực mỗi khi không thể nén nổi tò mò.
- Thế… thế… trong mơ tôi… đã nói gì?
Vuốt nhẹ những nếp áo trên người, Duy Khiêm từ tốn rà mắt lên khuôn mặt bầu bĩnh của Nguyên Thiên rồi cười khẽ một tiếng. Cũng là khuôn mặt trẻ con đó, cũng là nụ cười đáng yêu đó, nhưng sao hôm nay Nguyên Thiên lại thấy chúng rất lạ. So với trong cung thì có cái gì đó khang khác nhưng nhất thời Nguyên Thiên lại chẳng nhận ra nó lạ ở chỗ nào.
- Chậc! Đến nói mớ mà cô cũng không bình thường. Cô nói những từ rất lạ, như là cái gì… da ua, a lo ha, fanta, hăm hăm… gì đó tôi không rõ.
Dù đang vô cùng lúng túng, thế nhưng Nguyên Thiên vẫn phì cười khi nghe Duy Khiêm thuật lại những từ mà nó đã nói trong mơ. Trời ạ! Thì ra nó đã nói đến yaourt, đến bánh mì ngọt Aloha, nước ngọt Fanta và Hamburger trong vô thức. Ở hiện tại, ngày nào nó cũng cùng Nguyên Thục nhâm nhi những thức ăn vặt ấy riết thành thói quen, còn ở quá khứ thì mấy món đó “biết tìm đâu” nên mới bức bối quá mà sinh nói mớ. Nếu Duy Khiêm mà biết đến những từ đó thì quả thật anh không đặt điều như nó tưởng rồi.
- Chưa hết! Sau khi nói xong những từ đó, tôi còn nghe được…
Thấy Nguyên Thiên cười tủm tỉm, Duy Khiêm bất chợt hạ giọng. Thái độ của anh tỏ vẻ bí hiểm trước khuôn mặt ngơ ngác của nó, do không biết ngoài kêu tên đồ ăn thức uống vì quá thèm ra, nó còn nói đến những chuỵên gì.
- Nghe thấy gì?
- Nghe thấy cô gọi tên tôi…
Nụ cười đang nở trên môi Nguyên Thiên tắt cái phụt, chẳng khác nào gáo nước lạnh dội vào lò lửa đang cháy, khi nghe Duy Khiêm nói hết câu. Khuôn mặt đang tươi tắn của nó chợt chuyển sang màu gạch cua vì cái chuyện mà anh đã nói ra ấy chẳng biết thật giả thế nào. Nó đã gọi tên Duy Khiêm trong mơ? Đừng đùa! Sự thật nó vô cùng ghét anh và suốt ngày nguyền rủa không hết lời. Nếu trong mơ nó mà gọi tên anh thì họa chăng mặt trăng biến thành mặt trời.
- Anh đừng có bịa chuyện nha, tôi việc gì phải gọi tên anh chứ. Mà nếu có đi chăng nữa, thì lúc ấy chắc chắn đang nguyền rủa, trù cho anh thê thảm thập phần đó.
- Cô có việc hay không tôi làm sao biết. Hơn nữa, khi cô gọi tên tôi, vẻ mặt của cô đầy tình thương mến thương. Nếu nguyền rủa hay trù dập mà tình cảm tràn đầy như thế thì dù bị thế tôi cũng cam lòng, nhỉ?
Trước khuôn mặt đang đỏ ửng lên như màu mận chín vì tức giận pha lẫn xấu hổ của Nguyên Thiên, Duy Khiêm bật cười, và thế là cảnh kẻ đi trước hậm hực, người đi sau nhàn nhã là điều không thể tránh khỏi. Chẳng biết sáng nay bước ra cửa bằng chân nào, mà bây giờ Nguyên Thiên bị Duy Khiêm chơi cho mấy vố tối tăm mặt mày. Không thèm để ý đến anh thế nào, Nguyên Thiên cắm cúi bước thẳng một mạch mà chẳng trò chuỵên nay nói thêm một lời vì cơn giận âm ỉ trong đầu. Sau tất cả những chuyện đã trải qua, bây giờ Nguyên Thiên đã có thể khẳng định một điều, đó chính là nó ghét anh, nó ghét phu quân, ghét đến âm vô cực và chẳng có chút tí thiện cảm nào mỗi khi thấy anh cười.
Nguyên Thiên vừa đi vừa rủa xả thầm trong bụng, đến khi ngẩng đầu lên thì nó bất giác đứng ngơ ra do không biết đây là nơi nào. Những con phố nhộn nhịp đã biến mất, dòng người đông đúc cũng không còn, chỉ còn lại những góc hẻm tối tăm, những mái nhà tranh xiêu vẹo, dột nát, những bức tường loang lổ vệt rêu tạo thành khuôn mặt người đau khổ, với những vũng nước đục ngầu, tanh hôi đầy bùn đất do trận mưa rào đêm qua. Đứng trước khung cảnh xám xịt ấy, Nguyên Thiên bất giác rùng mình khi có cơn gió thổi qua, mang theo vài chiếc lá xơ xác ảo não buông xuống lòng đường. Vội vàng đưa mắt nhìn quanh, Nguyên Thiên thầm hối hận khi nó chỉ biết cắm cúi đi mà không để mắt gì đến sự việc xung quanh mình. Đến khi định thần lại thì một bóng người cũng không thấy và Phu Quân cũng biến mất tiêu.
Vội vàng quay người lại và đi theo hướng mà trước đó nó đã tới, Nguyên Thiên băng qua một con hẻm nhỏ, gai ốc nó chợt nổi lên đầy mình khi nhìn thấy những nhóm người ngồi rải rác tại khắp con hẻm. Đầu tóc họ rối bù và áo quần rách bươm, duy chỉ có con mắt không ngừng đảo qua lại trên gương mặt hốc hác, sần sùi, như sẵn sàng nhảy xổ tới bất cứ ai chẳng may động chạm tới họ trong một ngày xấu trời. Trong giây phút đó, Nguyên Thiên hiểu ra rằng, khung cảnh mà nó đang thấy trước mặt là một phần của Bắc Hà đói kém, trái ngược hẳn với khung cảnh rộn ràng, náo nhiệt đầy sắc màu mà khi nãy nó đã đi qua. Đối với thời đại nào cũng thế, xã hội bao giờ cũng có hai bộ mặt. Có người ăn chơi trác táng, rượu thịt ê hề thì cũng có người không một mái nhà để nương thân, lang thang vất vưởng qua ngày để tìm cho mình tấm cơm manh áo. Có người nhà cao cửa rộng thì cũng có người co quắp lại dưới chiếc chiếu cũ mục, ướt mèm vì lạnh mỗi khi trời trở mưa.
Nhắm mắt lắc mạnh đầu, Nguyên Thiên vội vã đi nhanh qua những ngõ hẻm tối mờ ấy. Nó thầm hỏi không biết Phu Quân giờ đang ở chốn nào, và phải làm sao để tìm lại trong khi nó cũng không biết mình đang ở đâu. Trong lòng rối bời như thế, Nguyên Thiên định nhảy qua một vũng bùn sình nhão nhớt, nhưng nó kịp thời dừng chân lại khi nghe thấy tiếng đấm đá huỳnh huỵch, tiếng người rên rỉ, van xin vọng ra từ một con hẻm gần đó. Vốn bản tính hiếu động và hay tò mò, Nguyên Thiên ngập ngừng đôi chút như để cân nhắc xem mình có nên lại đó hay không, rồi sau cùng nó cũng men theo bức tường loang lổ, ngó vào trong để xem rốt cuộc đang có chuyện gì xảy ra…
★ Chương 45: Rắc rối
Quán trà Vân Hương bây giờ đang độ đông khách đến nỗi ngay cả một chiếc ghế trống cũng không còn. Mùi thơm của những tách trà đượm nồng kèm theo các món điểm tâm siêu ngon tại quán, làm cho bất kỳ ai nếu đã ghé chân qua một lần thì nhất định phải quay trở lại lần thứ hai. Ngồi tại chiếc bàn kê sát cửa sổ để có thể trông xuống cảnh phố phường, Nguyên Thục nhâm nhi chiếc bánh tẩm mứt. Nó gật gù khi phát hiện ra rằng những chiếc bánh này mùi vị không thua kém bánh ngọt Bakerry, chí ít cũng có thể làm nó thôi tiếc nuối những món ăn yêu thích ở quê nhà, khi trong chốn quá khứ này vẫn có những món ngon vật lạ mà trước nay nó chưa hề nếm qua.
Bâng quơ rảo mắt xuống dòng người đông đúc, Nguyên Thục có hơi sốt ruột khi Trịnh Khải đã lâu mà vẫn chưa đến, trong khi nó và anh hẹn nhau tại quán trà Vân Hương, gần con sông Tô Lịch, để giới thiệu cho Trịnh Khải những món ngon mà nó đã tìm thấy lúc được anh cho ra ngoài cung dạo chơi. Lẽ ra, Trịnh Khải và Nguyên Thục sẽ đi cùng với nhau, nhưng ai ngờ đến phút chót, thánh mẫu - tức bà nội anh - lại cho gọi Trịnh Khải vào phòng để bàn chuyện gì đó. Thế nên Nguyên Thục mới đi trước để dành chỗ - do hôm qua đã nhìn thấy khách khứa ra vào đông nghẹt, đến nỗi một con kiến cũng không lọt - vào lúc cao điểm của cái quán Vân Hương này.
Ngồi đón những cơn gió trong trẻo, Nguyên Thục vẩn vơ nghĩ đến những ngày qua. Ba ngày thử nghiệm của nó dành cho Trịnh Khải - đối với chuỵên nó có quyết định làm phi tử “hờ” của anh hay không - thật sự đã làm cho Nguyên Thục suy nghĩ rất nhiều. Tuy không biết Trịnh Khải có mục đích gì, nhưng nếu nhận lời làm phi tử của anh, Nguyên Thục sẽ phải đối đầu với rất nhiều thứ, trong đó rắc rối ở hậu cung là thứ nó ngán nhất. Dù rằng những trò đó nó quá quen thuộc, nhưng chốt lại nó cũng không muốn dính vào những chuyện tranh chấp nhạt nhẽo, vô vị ấy làm gì. Vốn dĩ “đao thương dễ tránh,ám tiễn khó phòng”, mà hậu cung lại là nơi nhiều “ám tiễn” nhất, lạng quạng đường về chưa thấy mà nó chết hồi nào cũng không hay.
Với ý nghĩ không được tươi sáng ấy trong đầu, Nguyên Thục đã tính từ chối lời “cầu hôn” đó của Trịnh Khải, nhưng nghĩ sao nó lại thôi và gật đầu đồng ý, khi nhớ đến những ngày thử nghiệm - không chỉ ba như nó giao hẹn mà đến bảy ngày - với những thú vị và trải nghiệm rất riêng của mình. Chẳng hạn như chuyện nó tình cờ biết Trịnh Khải có thể trang điểm là một, chuyện cả hai đến dự buổi tiệc ở phủ quốc sư, đồng thời nó vẫn còn nhớ cái bóng dáng cao, gầy của anh đã che chắn nó khỏi những cái nhìn soi mói của các bà trong phủ thế nào là hai. Chuyện anh và nó đi dạo ao Long Trì ở bắc cung, có những nhạc công ngồi trên các chồng đá bằng phẳng đàn ca hát xướng là ba. Chuyện cả hai đi dọc bờ ao chăm sóc những cây hoa phù dung, và nhìn ngắm những chiếc lồng đèn sáng lung linh treo trên cao những khi anh rảnh là bốn. Và còn, còn tất cả những chuỵên mà nó không thể kể ra hết được… thế nên bây giờ nó chỉ biết cười tủm tỉm một mình khi nhớ lại những chuyện ấy mà thôi.
Hết nhìn ra cửa trông ngóng vì mãi đến giờ vẫn không thấy bóng dáng Trịnh Khải đâu, Nguyên Thục lại hờ hững lướt mắt xuống con phố nhộn nhịp bên ngoài để giết thời gian. Gạt phắt ý nghĩ Trịnh Khải cho nó leo cây trong đầu, Nguyên Thục tin chắc rằng cho dù có chuyện gì xảy ra đi nữa, một khi Trịnh Khải bảo đến thì anh sẽ đến, nên nó cố chờ thêm chút nữa, nhất định sẽ thấy anh xuất hiện với một nụ cười dịu dàng trên môi. Tự nhủ thầm như thế, Nguyên Thục lại rảo mắt xuống cảnh người mua kẻ bán tấp nập bên dưới, để rồi đôi mắt nó trong phút chốc chợt mở to ra khi nhìn thấy dáng một cô gái nhỏ bé tóc ngắn, áo hồng, đang nhảy chân sáo hết hàng này đến hàng kia. Điều quan trọng nhất là trông cô ta giống hệt như Nguyên Thiên - đứa em gái sinh đôi của mình.
Không có thời gian ngồi xét lại để xem đó có đích thật là Nguyên Thiên hay không, Nguyên Thục vội vàng bật dậy và phóng xuống lầu nhahn như tên bắn, vì nếu mất dấu cô gái đó thì nó sẽ dằn vặt cả đời. Nhanh chân chạy đến cửa tiệm bán trang sức, Nguyên Thục mừng rỡ khi thấy bóng dáng cô gái áo hồng đang thấp thoáng phía trước mặt. Nó liền hấp tấp đuổi theo với một hy vọng mong manh mơ hồ, rằng đó chính là Nguyên Thiên - dù biết không thể nào. Đường phố đông đúc, lại thêm những đứa bé tóc trái đào thỉnh thoảng sà vào quấn chân Nguyên Thục làm nó phải tránh sang chỗ khác, để rồi khi ngẩng đầu lên, thì bóng dáng của cô gái áo hồng đã biến mất hệt như chưa từng tồn tại trên cõi đời, làm Nguyên Thục đứng ngơ ra tại chỗ vì không biết phải đi hướng nào.
Thẫn thờ thả bộ về quán trà Vân Hương, hai tay Nguyên Thục không ngừng vò nát mép áo khi nghĩ đến cô gái áo hồng có mái tóc và hình dáng giống hệt em mình. Từ ấm ức chuyển sang bực bội, lúc này nó giận bản thân mình hơn bao giờ hết. Lẽ ra nó đã có thể làm những nghi ngờ ban nãy được giải tỏa, thế mà nay lại vô dụng để mất dấu, để giờ đây phải chán ghét bản thân mình như thế này. Đưa mắt nhìn lên bầu trời xanh trong, Nguyên Thục cảm thấy xao xuyến trong lòng khi nhớ đến hiện tại mà nó đã sống, nơi có gia đình, bè bạn, người thân. Những hình ảnh đó khiến nó chợt chạnh lòng, vì chẳng biết làm thế nào để gặp lại những khuôn mặt thân yêu ấy, khi bản thân nó còn không biết phải làm cách nào mới có thể quay trở về nhà.
Đang thả hồn mênh mang, Nguyên Thục chợt giật mình khi một tiếng quát lanh lảnh từ phía trước vọng đến. Nó đưa mắt nhìn xem chuyện gì đang xảy ra, thì thấy phía trước mặt là đám đông đang bu đen đỏ tạo thành một vòng tròn. Ở giữa vòng tròng là một tốp lính bận áo vàng viền đỏ, khuôn mặt ai nấy đều hớn hở khi cho tất cả những đồ trang sức xinh xinh bằng đá trên bàn vào túi, mặc cho người đàn ông bán đồ trang sức hết lời năn nỉ, van xin. Muốn biết tất cả đầu đuôi câu chuyện, Nguyên Thục nhẹ lại gần đám đông, và hỏi một người phụ nữ đầu chít khăn mỏ quạ đang đứng gần đấy bằng chất giọng thì thầm
- Cô ơi, cho con hỏi ở đây đang xảy ra chuyện gì vậy?
Đưa mắt ái ngại nhìn nó, người phụ nữ liếm bờ môi trên nứt nẻ của mình rồi cũng hạ giọng thì thầm theo, cho phù hợp với bầu không khí đang diễn ra.
- Ông chủ bán đồ trang sức quả là số khổ. Chỉ vì không đáp ứng được yêu cầu của bọn lính tráng ấy nên mới bị tịch thu hết sản nghiệp như thế. Nhà con đông lại còn cha mẹ già yếu, sau này thật không biết ông ta lấy gì làm kế sinh nhai.
- Ủa? Bọn chúng yêu cầu gì hả cô?
- Vì ông chủ cửa hàng trang sức có thể tạo ra những đồ trang sức bằng đá rất tinh xảo, thế nên bọn lính tráng ấy đưa đến cho ông ta một tảng đá, bảo ông ta mài thành một viên ngọc và cây trâm, với yêu cầu làm sao cây trâm và viên ngọc ầy không tròn, không vuông cũng không dẹt. Chẳng những thế còn không dài, không nhọn và không có góc cạnh. Nếu làm được thì chúng sẽ trả tiền, nhược bằng không làm được thì tất cả những đồ trang sức trên bàn của ông ta sẽ bị tịch thu.
- Trên đời này lại có hạng người đó sao? Sao ông ấy không thưa lên quan để phân giải trắng đen chuyện này - Sau khi nghe người phụ nữ nói nhỏ, Nguyên Thục trợn mắt lên tức tối vì nó không ngờ giữa ban ngày ban mặt, lính tráng lại có thể lộng hành, bắt bớ người vô tội mà không cần biết đến luật pháp là gì. Đúng là “con ơi nhớ lấy câu này, cướp đêm là giặc cướp ngày lính canh” mà.
- Thưa lên quan? Đó là chuyện “bắc thang lên hỏi ông trời”. Ở kẻ chợ này ai mà không biết bọn lính ấy là kiêu binh. Do cậy công mình phò tá chúa lên ngôi mà ngang tàng, càn rỡ không coi mọi người ra củ khoai nào. Ai có kiện cáo trong vùng chúng đóng, chúng đều tự tay tra xét lấy. Bất kể có vụ kiện tụng lớn nhỏ nào đều có chúng nhúng tay vào. Vương hầu, công tử gì thấy chúng cũng phải đi đường khác. Ngay cả những người có quyền chức mà còn phải thế, nói chi đến đám dân đen chúng tôi.
Không giấu được vẻ mỉa mai, chua cay trong lời nói, Nguyên Thục bất giác chạnh lòng vì người phụ nữ ấy nói đúng không sai. Ở trong phủ chúa, ít nhiều gì nó cũng đã biết đến bọn kiêu binh này qua vụ thích khách, và nó cũng hiểu rằng vướng mắc trong lòng Trịnh Khải chính là đám lính kiêu căng này. Biết một khi dây vào bọn này, Nguyên Thục khó có thể yên lành với chúng, nhưng đứng trước tình thế ấy thì nó không thể quay người đi, nhất là khi bắt gặp ánh mắt năn nỉ đến tuyệt vọng trên khuôn mặt khắc khổ của người đàn ông. Cân nhắc, đắn đo kỹ càng, Nguyên Thục vạch đám đông bước ra. Nó đã chuẩn bị sẵn nụ cười thật tươi tắn trên môi, khi quyết định can thiệp vào chuyện này sao cho vẹn cả đôi đường.
- Xin lỗi, cho tiểu nữ hỏi, người đàn ông này đã phạm gì đến các quan lớn, mà các quan lớn đây phải tịch thu hết gia sản của ông ta như thế?
Biết rõ đám lính kiêu căng này thích được tâng bốc, Nguyên Thục chẳng tiếc lời mà phong luôn cho bọn chúng lên chức quan lớn. Quả nhiên không nằm ngoài suy nghĩ của nó, những tên kiêu binh đang trút tất cả đồ trang sức trên bàn cho vào bao liền dừng tay lại, rồi nhìn nó bằng đôi mắt ngạc nhiên vì không hiểu cô gái này từ đâu xuất hiện mà dám cả gan can dự vào chuyện mình. Đến khi nghe nó khiêm tốn xưng mình là tiểu nữ và gọi chúng là quan lớn, nét mặt ai nấy đều vênh lên, ra chiều hống hách. Một tên có hàm răng vẩu đưa mắt nhìn Nguyên Thục từ đầu đến chân, rồi cất giọng the thé hệt mấy lão công công trong phim, làm nó bất chợt rùng mình.
- Tên chủ quầy trang sức hách dịch này không chịu làm cho chúng ta viên ngọc và cây trâm bằng đá như yêu cầu, nên ta mới tịch thu hết những thứ mà hắn đang bán để hắn ta khỏi lừa bịp thiên hạ.
- Vâng! Thế chẳng hay hai thứ ấy quan lớn yêu cầu ra sao mà ông ta không làm được?
- Trước khi lên tiếng hỏi, hắn ta đã nói bất kỳ cái gì từ đá hắn ta cũng làm được. Thế là ta mang tảng đá này đến và yêu cầu hắn ta làm một viên ngọc đá và một cây trâm đá không tròn, không vuông, không dẹt, không dài, không nhọn cũng và không có góc cạnh hoặc đường cong. Nếu làm được thì ta sẽ trả tiền, còn không làm được thì tất cả những đồ trang sức trên bàn của hắn sẽ bị ta bị tịch thu. Nào ngờ khi nghe xong, mặt hắn ta biến sắc và lắc đầu nguầy nguậy, bảo không làm được. Như thế hắn ta đã nói ngoa rồi còn gì. Với những hạng buôn bán gian dối đó, ta phải tịch thu hết vật dụng của hắn để từ nay hắn khỏi lòe thiên hạ.
Nguyên Thục cười nhạt trong bụng. Bọn lính này đã ăn cướp thì thôi chớ, lại còn la làng trắng trợn giữa ban ngày ban mặt mà không ai có thể làm gì, vì một khi động đến một trong số bọn chúng chắc chắn mình sẽ bị vạ lây
- Vâng! Vừa hay cho tiểu nữ, tiểu nữ cũng có thể làm được các đồ trang sức bằng đá. Nếu tiểu nữ đáp ứng được yêu cầu của quan lớn, chẳng hay các quan lớn đây mở lượng hải hà mà tha cho người bán hàng này, có được không?
- Cô có thể làm được những thứ ấy sao?
Thấy Nguyên Thục nói bằng vẻ mặt tự tin, tên kiêu binh có nốt ruồi thâm, bự đùng dưới cằm tò mò hỏi lại với sự nghi hoặc. Mỉm cười khi nhìn gương mặt giảo hoạt của hắn, Nguyên Thục thong thả tiếp lời.
- Vâng! Chắc chắn, tiểu nữ không phải hạng dối trá như người đàn ông này. Tiểu nữ sẽ làm cho vị quan lớn đây một viên ngọc và một cây trâm đẹp nhất trên thế gian này.
- Được! Thế bao giờ cô làm xong - Tên răng vẩu nheo mắt nhìn Nguyên Thục, chất giọng không giấu vẻ mỉa mai vì cho rằng, trên đời này không ai có thể làm ra hai món đồ trang sức không tưởng ấy. Và cô gái này chắc chắn sẽ hết đời.
- Để làm được cây trâm và viên ngọc đá đó thật tinh xảo, thật đẹp và thế gian hiếm có, không phải năm này cũng chẳng phải năm sau, không phải tháng này và chẳng phải tháng sau, không phải hôm nay cũng chẳng phải ngày mai, không phải buổi sáng, chẳng phải buổi chiều và cũng chẳng phải buổi tối. Đến lúc đó, tiểu nữ sẽ làm xong.
Nở một nụ cười ngọt ngào khi tên răng vẩu đứng ngây người ra, còn những tên lính khác mặt đều biến sắc, Nguyên Thục đưa mắt nhìn người đàn ông tội nghiệp nọ, rồi lại tiếp tục nhìn từng gương mặt nham hiểm của đám kiêu binh, đoạn chớp mắt ra vẻ ngây thơ.
- Tiểu nữ tuy mới lên kinh thành, thế nhưng đã nghe được đôi chút danh tiếng của các vị quan lớn đây. Đi đâu cũng nghe mọi người nói các vị quan lớn chuyên hành hiệp trượng nghĩa, trừng phạt kẻ gian tham, vô lại để bảo vệ công lý và trật tự cho mọi người. Nay, người đàn ông này hênh hoang khoác lác rằng ta đây cái gì cũng biết làm, thế mà yêu cầu của các vị quan lớn thì không làm được, bị tịch thu gia sản là đáng tội.
Dừng lại một chút để lời nói của mình kịp thấm nhuần đầu óc và để vuốt ve cái kiêu hãnh trong người bọn lính, Nguyên Thục tiếp tục bài ngợi ca của mình sao cho khôn khéo nhất, để đôi bên đều không bị thiệt hại gì.
- Người đàn ông này là một kẻ lừa bịp, thế nên tất cả những gì ông ta làm ra chắc chắn cũng chỉ là những thứ tương tự với con người của ông ta. Các vị quan lớn chạm vào chỉ thêm bẩn tay mình, chi bằng cứ quăng trả lại cho ông ta, để cho ông ta ngày ngày nhìn những món đồ ấy mà tự vấn lương tâm mình. Những lời tiểu nữ nói có đúng không, mọi người
Quay mặt lại về phía dân chúng, Nguyên Thục kín đáo nháy mắt trước những khuôn mặt ngơ ngác của mọi người. Như mới vỡ lẽ ra điều gì đó, người phụ nữ chít khăn mỏ quạ vội vàng hưởng ứng.
- Hạ dân thấy cô gái này nói rất đúng. Chạm vào những đồ nhơ bẩn ấy chỉ tổ làm bẩn tay các vị quan lớn đây. Hạ dân xin các vị quan lớn hãy ném trả vào mặt ông ta, cho ông ta nhìn rõ những thứ mình làm ra là thứ gì.
- Đúng đó! Xin các vị quan lớn hãy ném vào mặt ông ta đi.
Cứ thế, từng người, từng người một, hết tung hê đám kiêu binh ấy lên trời, rồi lại hò reo đòi quăng trả những đồ trang sức mà chúng vơ vét được vào mặt người đàn ông kia. Thấy dân chúng ca tụng mình là “hành hiệp trượng nghĩa”, tên nào tên nấy mặt vênh lên ra chiều khoái trá, rồi ngay sau đó quay lại người đàn ông đang tỏ vẻ sợ hãi, nói gằn từng tiếng một để thị uy.
- Thứ đồ trang sức của ngươi, động vào chỉ tổ bẩn tay bọn ta. Nay thể theo lời cô gái kia và dân chúng, ta trả lại những thứ rác rưởi này cho ngươi. Từ nay về sau nhớ làm ăn đường hoàng, nếu còn ngựa quen đường cũ thì đừng trách chúng ta không nương tay.
Ôm lấy những món hàng những tưởng mất đi nay có thể lấy lại được, người đàn ông mừng rỡ khôn xiết. Ông ta tạ ơn lia lịa đám lính, rồi nhanh chân ôm đồ đạc chuồn đi sau khi đưa mắt nhìn Nguyên Thục đầy vẻ biết ơn. Sau khi mọi việc đã xong xuôi đâu vào đó, mọi người nhanh chóng tản ra, còn Nguyên Thục cũng vội rời gót vì không muốn dây dưa với đám kiêu binh ấy. Nhưng mới đi được dăm bước, Nguyên Thục đã rủa thầm trong bụng khi một tên kiêu binh gọi giật nó lại. Miễn cưỡng lắm mới nặn được một nụ cười ngây thơ, Nguyên Thục chớp mắt nhìn bọn chúng, và cố lấy giọng ngọt ngào.
- Các quan lớn còn có chuyện gì muốn nói với tiểu nữ sao?
Liếm bờ môi mỏng dính như cánh chuồn của mình, tên kiêu binh có đôi mắt xếch nhìn nó bằng một khuôn mặt gian xảo và mở miệng cười hềch hệch, làm Nguyên Thục bỗng toát cả mồ hôi hột vì linh cảm có chuỵên chẳng lành.
- Cô gái, cô đã nói lần đầu lên kinh thành, thế có cần các quan lớn đây dẫn đi xem một vòng không?
Rùng mình vì lời lẽ cợt nhả của tên mắt xếch cùng với những tràng cười hô hố của đám đồng bọn, Nguyên Thục thấy khó chịu trong lòng. Nó nhất định phải tìm cách thóat khỏi bọn kiêu binh càn quấy để trở về quán trà Vân Hương, vì sợ rằng nếu Trịnh Khải đến đó mà không thấy nó đâu thì sẽ bỏ về.
- Không cần đâu, thưa quan lớn. Nếu để cho thê tử các quan lớn nhìn thấy tiểu nữ đi chung mà hiểu lầm, thì oan uổng cho các ngài lắm.
- Ôi dào! Con mụ ấy có hiểu lầm gì thì mặc kệ, chúng ta không làm gì trái lương tâm sao phải sợ.
Dù đã biết rằng một khi đã dây vào bọn này thì khó mà thoát ra được, hệt như con mồi đang quẫy chết khi rơi vào động bàn tơ, nhưng bây giờ Nguyên Thục cảm thấy vô cùng bực bội vì sự dai dẳng và những bộ mặt khả ố của đám kiêu binh. Vội vàng lùi lại mấy bước khi tên mắt xếch nham nhở tiến về phía nó, Nguyên Thục lo lắng nhìn quanh để xem có lối thoát nào hay không, để rồi khuôn mặt nó không giấu được vẻ thất vọng khi bọn chúng đã vây quanh, không chừa cho nó một kẽ hở nào.
- Cô gái! Mau lại đây. Các quan lớn nghĩa hiệp sẽ đưa cô đi dạo khắp kinh thành để nhìn ngắm khung cảnh đông vui tấp nập ở nơi này.
Cố tỏ ra bình tĩnh khi tên mắt xếch ngày càng tiến lại gần nó, nhưng trái tim Nguyên Thục lại đập mạnh như trống trận, vì biết rằng giờ đây khó dùng lời lẽ gì để thuyết phục chúng buông tha mình. Tỏ ra thích thú khi thấy sự điềm tĩnh đến lạ trên gương mặt nó, tên mắt xếch bất ngờ đưa tay chạm vào má Nguyên Thục, khi nhìn thấy lún đồng tiền xinh xinh ngự trị ngay cả khi nó mím môi. Ngay lúc những đầu ngón tay của tên mắt xếch chạm nhẹ vào má, các mạch máu trong người Nguyên Thục như muốn căng lên. Nó có thể cảm thấy được dòng máu nóng đang chạy rần rật trong huyết quản mình. Mím chặt bờ môi mềm, Nguyên Thục giơ tay tát thẳng vào khuôn mặt nung núc thịt của tên mắt xếch, trước những cái miệng đang há ra khi thấy bàn tay năm ngón đỏ như máu hằn lên má phải của hắn ta.
Biết tặng cho tên mắt xếch một bạt tai nảy lửa giữa chốn đông người - lại là địa bàn quen thuộc của chúng - thì nó đã gây thù chuốc oán với đám kiêu binh ngang tàng, hống hách, và từ nay về sau sẽ khó bề được yên thân. Nhưng cho dù phải thế, Nguyên Thục cũng không cho phép loại người đê hèn này chạm vào người mình. Một cái tát thế là đã quá nhẹ. Nếu nó biết võ như Nguyên Thiên thì chắc chắn sẽ dần tên này một trận nhừ tử cho ra ngô ra khoai từ lâu, chứ không phải đứng đây chịu uất ức như thế này.
- Ranh con! Ngươi dám tát ta, phen này ngươi tới số rồi.
- Ai tới số?
Sau khi dây thần kinh hoạt động tạm thời bị đơ do quá sốc, tên mắt xếch nay đã điều khiển được cái miệng của mình. Hắn ta quát lên hung tợn, đôi mắt đã xếch nay lại càng xếch hơn tạo thành dấu sắc ngọt bén. Đường đường là lính tam phủ, oai danh lẫy lừng, nay lại bị một đứa con gái thẳng tay tát trước mặt anh em và dân chúng, thử hỏi nhục này còn biết để đâu? Đang hung hăng tính dạy cho con bé trước mặt mình một bài học, tên kiêu binh vội vàng ngoảnh mặt lại khi một giọng nói trầm ấm vang lên. Định quát tháo cái kẻ đã can thiệp vào chuyện riêng của người khác theo thói quen, thế nhưng cái miệng đang há rộng của hắn phút chốc liền ngắc ngứ như bị ai điểm huyệt, khi nhìn thấy người đứng trước mặt mình là một chàng trai thanh tú mặc áo xanh, dáng vẻ ung dung tự tại và đôi mắt sâu thẳm đang nhìn về phía mình.
Chắc mẩm phen này khó lòng thoát khỏi tay bọn lính, bờ môi mím lại của Nguyên Thục khẽ hé mở khi giọng nói trầm ấm quen thuộc của ai đó vang lên nhẹ nhàng. Quay đầu nhìn về phía phát ra giọng nói ấy, khuôn mặt Nguyên Thục chợt trở nên rạng rỡ, khi trông thấy vị cứu tinh ấy không ai khác ngoài Trịnh Khải. Vội vàng chạy về phía anh, Nguyên Thục đứng nép sau lưng anh khi nhìn thấy những ánh mắt soi mói, tọc mạch của đám kiêu binh đang chiếu tia la-de về phía mình. Từ tốn rảo mắt khắp một lượt đám lính tam phủ, Trịnh Khải ung dung mỉm cười khi chúng cố né tránh ánh mắt anh, đoạn buông lời nhẹ nhàng.
- Không phải các ngươi đi tuần tra kinh thành hay sao, tại sao lại đứng túm tụm ở đây như thế?
- Bẩm chúa công, chúng thần chỉ dừng chân nghỉ một chút rồi đi ngay ạ. Còn cô gái kia là…
- Là phi tử của ta. Nếu các ngươi đã nghỉ ngơi đủ thì có thể tuần tra được rồi, phải không?
Thoáng biến sắc khi nghe Trịnh Khải nói cô gái đã tát mặt mình khi nãy là phi tử, tên mắt xếch chỉ biết cười giả lả, còn đám đang đứng phía sau thì lại trố mắt ra vì không nghĩ phi tử của chúa công lại trông…bình thường đến như thế. Vội hành lễ với Trịnh Khải, cả đám lẳng lặng kéo nhau đi chứ không dám dương dương tự đắc như lúc bước ra đường. Dù không dám có hành động vô lễ gì đối với Nguyên Thục trước mặt Trịnh Khải, thế nhưng tên mắt xếch không bao giờ nguôi được cái tát thẳng tay của nó khi nãy, hắn đành nén lòng bỏ đi mà trong bụng lửa hận vẫn âm ỉ khôn nguôi. Nhìn theo bóng dáng của đám kiêu binh đi khuất, Trịnh Khải đưa mắt nhìn Nguyên Thục rồi nhíu mày lại khi thấy má phải của nó đỏ ửng. Anh chạm nhẹ vào má nó và hỏi bằng giọng quan tâm pha lẫn ngạc nhiên.
- Mặt cô sao thế?
- À.. không, tôi chỉ bị kiến cắn thôi. Chuyện nhỏ, không sao…
Khi đứng nép sau lưng Trịnh Khải, Nguyên Thục đã cố hết sức chùi mạnh lên má phải - nơi mà những ngón tay nhơ nhớp của tên kiêu binh chạm vào - làm cho nó vô cùng khó chịu và ghê sợ. Nhưng dường như những gì Nguyên Thục làm đã quá thừa thãi. Cảm giác ghê sợ đó của nó đã biến mất, khi những ngón tay mảnh khảnh của Trịnh Khải chạm vào vết nhơ “vô hình” ấy. Ngẩng đầu lên nhìn anh tính nói điều gì đó, nhưng đến khi chạm phải ánh mắt sâu thẳm của anh đang nhìn mình, Nguyên Thục vội vàng cúi đầu xuống và nghe đôi má nóng ran như bị ai hơ lửa. Nó bẽn lẽn vân vê mép áo trong tay và theo sau anh như một đứa bé con ngoan ngoãn, để trở về quán trà Vân Hương mà không biết rằng cuộc chạm trán đám kiêu binh vừa rồi, đã ảnh hưởng rất lớn đến số phận của nó về sau này…
★ Chương 46: Tin mừng
Dù biết cô cận vệ của mình vốn hay hiếu động và chạy nhảy lung tung, thế nhưng Duy Khiêm cũng không nghĩ rằng đám người đang lồm cồm bò dậy trước mặt lại là “kiệt tác” của Nguyên Thiên, khi anh tìm được nó ở trong ngõ hẻm vừa tối tăm vừa nhơ nhớp. Nhác thấy khuôn mặt biểu cảm của Duy Khiêm, không cần nói Nguyên Thiên cũng thừa biết anh đang nghĩ gì trong đầu. Nó điềm nhiên lên tiếng khi Duy Khiêm chạm tay vào mũi bốn người thanh niên, để xem tình trạng họ bây giờ sống chết như thế nào.
- Anh khỏi phải coi! Bốn người đó còn sống hết, chỉ là bị thương do một đám người bu vào hội đồng thôi.
- Một đám người “hội đồng”?
Đôi mày kiếm của Duy Khiêm nhíu lại do nghe hai từ “hội đồng” lạ lẫm thốt ra từ miệng của Nguyên Thiên, còn nó thì được dịp vênh mặt lên, khi giải thích cho anh những từ ngữ mà giới trẻ hiện đại ngày nay vẫn hay dùng.
- “Một đám người hội đồng”, có nghĩa là bốn người này bị một đám đông bu lại đánh. Ban nãy, tôi tình cờ đi ngang qua khu này thì nhìn thấy cảnh tượng đó. Lúc đầu tính chỉ ngăn cản họ thôi, ai dè họ tưởng tôi là đồng bọn của bốn anh chàng này nên hè nhau đánh luôn cả tôi. Cực chẳng đã tôi mới ra tay thôi.
Đôi mắt nâu tinh quái của Duy Khiêm chợt nheo lại, anh nhìn quanh hiện trường một lần nữa rồi chăm chú nhìn Nguyên Thiên. Vốn biết bản lĩnh của cô gái này không phải tầm thường, nhưng anh cũng không tin Nguyên Thiên có thể đánh đuổi được đám đông đang hùng hổ bu lại. Hơn nữa người xưa thường có câu “mãnh hổ nan địch quần hồ”, huống chi nó chỉ là một cô gái nhỏ bé thế này.
- Cô đã đánh thắng được đám đông ấy à?
- Sao không? Anh tưởng tôi yếu như sên giống anh chắc. Tôi chỉ thấy lạ một điều, đó là đám đông ấy khi đánh nhau với tôi, đang đánh nửa chừng thì bỗng nhiên đứng ngây người ra như tượng gỗ, nên tôi chỉ bụp một phát là nằm ngay đơ cán cuốc mà không cần phải tốn chút công sức nào.
Im lặng sau khi nghe Nguyên Thiên trình bày hết đầu đuôi sự việc, Duy Khiêm lướt mắt nhìn bốn người thanh niên đang nằm bất tỉnh dưới đất. Trong khoảnh khắc ấy, đôi mày kiếm của Duy Khiêm chợt nhíu lại khi phát hiện bốn người thanh niên này trông rất quen mặt, cứ như thể anh đã nhìn thấy ở đâu đó rồi. Vì những sự kiện lưu lại trong trí óc của Duy Khiêm không nhiều, nên anh không cần phải tốn nhiều thời gian mới nhớ lại được đường nét của bốn gương mặt này. Phải rồi, vào ngày ấy, khi đám lính tam phủ đưa Đoan Nam Vương ra khỏi ngục, thì cũng là ngày anh được giải thoát khỏi chốn lao tù đã giam giữ mình trong suốt mười một năm qua. Chính bốn người này đã phá tan cửa ngục Đề Lãnh, trong khi những tên lính khác lại hì hục khiêng kiệu đặt trước mặt anh, để thỉnh ra khỏi ngục trong sự reo hò náo nhiệt của mọi người.
Nếu bốn người nãy đã là lính tam phủ, Duy Khiêm không khó khăn mấy để hiểu ra lý do chúng lại bị đánh trọng thương đến như thế. Vốn sau khi phò tá chúa Trịnh và đưa mình ra ngoài, đám lính tam phủ ngày càng một hống hách, chẳng coi kỷ cương phép nước ra gì. Đi đâu chúng cũng tác oai tác quái, nhũng nhiễu dân lành làm mọi người ai cũng căm ghét nhưng chỉ biết cắn răng chịu đựng mà không dám hó hé gì. Chính vì bị dân chúng oán hờn, dân và quân coi nhau như thù địch, nên đám kiêu binh đi đâu cũng thành từng đoàn. Tấm gương của những kẻ đi lẻ tẻ đều bị dân bắt giết vẫn còn đó, khiến chúng biết khôn, không dám đi riêng lẻ một mình. Còn về bốn tên lính xui xẻo này, căn cứ vào mùi rượu nồng nặc còn vương lại trên bộ quần áo nhàu nhĩ, và phả ra trong từng hơi thở nặng nhọc, Duy Khiêm có thể hiểu được bọn kiêu binh lại tiếp tục vào các tửu lâu hay khách điếm, để rượu chè cờ bạc và mua lấy những thú vui trong chốn lầu xanh theo thói quen thường ngày. Do quá say, đến độ đất trời hòa làm một và không nhận biết đâu là đường về, bốn tên lính này đã lạc bầy, để rồi bị những người dân bần cùng - sống trong những con hẻm - mà lúc trước chuyên bị chúng bắt bớ, chèn ép, đổ ra đánh đến u đầu mẻ trán. Mặc cho sự năn nỉ, van xin đến tội nghiệp của chúng khi họa ập lên đầu.
Đang cân nhắc xem nên làm gì với bốn tên lính vô phúc, do ngày trước chúng đã đưa anh ra khỏi chốn lao tù, Duy Khiêm quay đầu lại khi nghe thấy tiếng bước chân chạy huỳnh huỵch vang lên phía sau mình. Trông thây một nhóm lính hối hả kéo tới, Duy Khiêm biết rằng đồng bọn của bốn tên này đã tìm đến. Như thế vừa hay, chỉ cần giao chúng cho đồng bọn mà không cần phải động tay động chân làm gì. Kéo Nguyên Thiên đứng dậy, Duy Khiêm mỉm cười khi bắt gặp những cái miệng đang há hốc ra vì ngạc nhiên, một phần do “hiện trường” trước mặt và một phần là không nghĩ sẽ gặp anh tại cái chốn nghèo hèn, dơ bẩn này.
- Hoàng… hoàng tôn, sao người lại ở đây? Còn chuyện này là…?
- Hôm nay ta ra ngoài để chọn quà cho Thái tử. Còn bốn người bạn của các ngươi đã bị người ta đánh đến nỗi phải mang thương tích đầy mình, nếu không có cận vệ của ta ra tay thì chắc chắn họ đã mất mạng rồi.
Lần đầu tiên trong đời, à không, phải nói chính xác là lần đầu tiên kể từ khi quen nhau, Duy Khiêm mới mở miệng nói tốt cho Nguyên Thiên được một câu, trái ngược với những câu châm chích, mỉa mai thường ngày, làm nó vô cùng ngạc nhiên. Đánh mắt về phía Nguyên Thiên, mấy tên kiêu binh vòng tay xá một cái, làm Nguyên Thiên vô cùng bối rối và cũng xá lại theo phép lịch sự khi nhớ tới mấy bộ phim kiếm hiệp thường hay xem.
- Các ngươi mau xem xét họ bị thương có nặng không rồi mang đến đại phu chữa trị đi, thời gian không còn sớm, ta có chuyện phải đi trước.
- Vâng ạ! Chúng thần xin đa tạ hoàng tôn đã ra tay tương trợ.
- Ta không ra tay! Là cận vệ của ta ra tay, các ngươi chớ nên cám ơn ta làm gì.
Nhắc lại rạch ròi một lần nữa khi bọn kiêu binh tưởng mình là người đã ra tay giúp đỡ, đối với những việc Duy Khiêm không làm thì anh chẳng bao giờ muốn bị hiểu nhầm hay tưởng lầm dù chỉ trong ý nghĩ. Ánh mặt trời đã đứng bóng, Duy Khiêm nhanh chóng rời gót khỏi con hẻm để trở về nội điện, theo sau là Nguyên Thiên với cái đầu chốc chốc lại ngoảnh về phía sau, để xem những tên kiêu binh còn lại chăm sóc vết thương cho đồng bọn mình thế nào. Vầng thái dương ngày càng lên cao, cái nóng ban trưa râm ran, oi ả làm Nguyên Thiên cảm thấy vô cùng bức bối. Nó bây giờ đang muốn tìm chỗ nào đó để dừng chân hòng lấy lại sức, khi hệ quả cho cái việc chạy nhảy suốt cả buổi sáng là cổ họng khát cháy, còn hai bắp chân đau nhức, sưng vù cả lên. Âu cũng là do cá tính hiếu động của mình.
Chẳng biết Duy Khiêm đi đứng thế nào mà ban nãy anh hãy còn đi trước nó, thế mà bây giờ đã tụt lại phía sau cả chục mét, làm Nguyên Thiên phải ngồi trước thềm một quán trà để chờ đợi, đồng thời nghe bụng sôi lên ùng ục khi mùi thơm bánh mứt từ trong tỏa ra quyến rũ đến chết người. Ngồi ngó vẩn vơ những đứa trẻ đang chơi đùa cạnh gốc đa trong khi chờ Duy Khiêm đến, Nguyên Thiên liền quay ngoắt người lại khi vạt áo của ai đó từ phía sau chạm khẽ vào mình. Hiện rõ dưới tia nắng mặt trời là một chàng trai thanh tú, chiếc áo màu xanh trên người anh dường như làm dịu hẳn cái nắng oi nồng của buổi ban trưa. Khi thấy nó đang trố mắt nhìn, chàng trai mỉm cười nhẹ nhàng, và nụ cười đó làm Nguyên Thiên ngạc nhiên vì không nghĩ rằng trên đời này lại có một nụ cười ung dung, bình thản đến nhường này.
- Cô không sao chứ?
- Không! Tôi không sao, cám ơn anh.
Trước nụ cười tươi tắn của Nguyên Thiên, chàng trai chỉ gật nhẹ đầu, sau đó anh bước xuống bậc tam cấp của quán trà và hòa vào dòng người tấp nập trên phố. Trông theo bóng dáng chàng trai thấp thoáng sau những rặng liễu, Nguyên Thiên tự hỏi trên đời này sao lại có người lịch sự, nhã nhặn như thế, thật chẳng bù cho sự đáng ghét của Phu Quân. Chẳng biết Nguyên Thiên đang ngầm so sánh mình và chàng trai áo xanh đó, Duy Khiêm vẫn thong dong thả bộ trên từng con phố. Đôi mắt nâu mật của anh đang quan sát khung cảnh rộn ràng trước mặt, bỗng nheo lại khi trông thấy một chàng trai áo xanh từ xa đi ngược chiều với mình. Ngày hôm nay quả thật kỳ lạ khi anh liên tiếp gặp lại cố nhân.
- Duy Khiêm! Hôm nay cậu cũng ra ngoài sao?
Có vẻ như chàng trai áo xanh cũng đã nhìn thấy Duy Khiêm, thế nên khi hai người đến gần nhau, chàng trai áo xanh cất giọng hỏi thăm trầm ấm với nụ cười nhẹ nhàng trên môi. Gật đầu đáp lễ lại nụ cười ấy, khoảng cách của Duy Khiêm đối với chàng trai áo xanh bây giờ là hai bước chân, và anh đã giữ cố định khoảng cách hai bước chân ấy vì không muốn đến gần con người đang đứng trước mặt mình.
- Vâng! Hôm nay tôi ra ngoài để chọn quà cho Thái tử. Còn ngài, Đoan Nam Vương? Ngài ra ngoài cũng để chọn quà giống tôi sao?
- Không! Món quà tặng cho Thái tử ta đã chọn được từ hôm qua. Cậu ra ngoài mà không có ai hộ vệ à?
- Nói ra thật ngại! Cận vệ của tôi đang ngồi nhìn mây trời trước thềm của quán trà đằng kia kìa.
Nhìn theo hướng ngón tay của Duy Khiêm, trong đôi mắt chàng trai thoáng qua vẻ ngạc nhiên, rồi ngay sau đó lại trở nên tĩnh lặng như lúc ban đầu. Lẽ ra chàng trai áo xanh có thể nán lại trò chuyện dăm ba câu với Duy Khiêm, thế nhưng vì đang có việc nên đành nói lời từ biệt rồi tiếp tục rảo bước, để lại sau lưng ánh mắt vô định của Duy Khiêm bởi không biết đối với con người này, mình nên mang oán hay là hàm ơn. Ngày đó, chính nhờ Đoan Nam Vương, Duy Khiêm mới có thể thoát khỏi cái nơi tù ngục tối tăm ấy, và cũng chính “nhờ” Đoan Nam Vương mà anh cảm thấy mọi thứ xung quanh sao vô cùng xa lạ. Ngẩng đầu nhìn ánh mặt trời lấp lánh trên cao, vầng thái dương kia vô cùng ấm áp, nhưng sao những tia nắng của nó đối với anh quá bỏng rát. Tất cả mọi thứ đều làm cho Duy Khiêm thấy lạc lõng, cứ như mình chưa bao giờ thuộc về cái thế giới này. Chẳng thà cứ mãi ở luôn trong chốn tối tăm đó, chẳng thà ẩn nấp an toàn trong bóng tối đó, còn hơn phải bỏng rát vì ánh sáng này, còn hơn phải nhìn thấy những thứ mình không muốn thấy khi được tự do…
Ngày xửa ngày xưa
Có một ông già mù…
Nguyên Thục đứng băn khoăn trong phòng. Nó hết lục tung những bộ đồ thướt tha trong tủ rồi lại mân mê những sợi dây thắt lưng đủ màu xinh xắn, để lát nữa đây sẽ sang Ngự lâu của Trịnh Khải, trước tiếng cười rúc rích của các nàng cung nữ hầu cận mình. Sau khi đã trải qua gia đoạn bảy ngày tìm hiểu, nó đã gật đầu đồng ý làm phi tử của Trịnh Khải, sau đó được anh phong cho chức Tiệp Dư, trước cái nhìn ganh tị của những các cô gái trong phủ và đường hoàng chuyển vào sống trong hậu cung. Vì ban sáng, lúc còn đang ở quán trà Vân Hương, Trịnh Khải đã nói trước rằng tối nay anh sẽ vời nó sang phòng để nói chút chuyện, chính vì thế Nguyên Thục mới cất công chuẩn bị sao cho thật tươm tất khi xuất hiện trước mặt anh.
Đồng hồ nhỏ giọt đã điểm, Nguyên thục đã chuẩn bị xong xuôi đâu vào đó. Nghe tiếng bước chân của viên công công thắp lồng đèn đỏ - dấu hiệu khi chúa chọn cung tần vào hầu - vang lên ngoài hành lang, Nguyên Thục chợt cảm thấy hồi hộp vu vơ. Hai tay nó không ngừng cuộn tròn vạt áo, còn đôi mắt thì nhìn đăm vào cánh cửa màu gụ chạm hoa văn. Thời gian chậm chạp trôi qua, Nguyên Thục ngạc nhiên thầm do không hiểu vì sao viên công công chuyên lo chuyện hậu cung cho vua, chúa lại lâu đến như thế. Khi nó định lại gần hé cửa xem ông ta đang làm gì, thì cánh cửa phòng bỗng bật mở hệt như trong phim kinh dị làm Nguyên Thục giật bắn cả mình. Xuất hiện trước mặt nó là một viên thái giám tuổi còn khá trẻ, đôi mắt sụp xuống như muốn ngủ tới nơi và có hàm răng hô hết cả ra ngoài. Đưa mắt nhìn tấm chăn trong tay viên thái giám, trong khi Nguyên Thục còn đang thắc mắc khi không hiểu công dụng của tấm chăn này dùng để làm gì, thì viên thái giám liền mở miệng nói rò rè.
- Giờ lành đã đến, hai ngươi hãy chuẩn bị cho Tiệp Dư đến hầu hạ chúa công.
Trong khi Nguyên Thục đang ngơ ngác vì bản thân nó đã chuẩn bị rất kỹ càng, sao lại còn nhờ đến A Đào và A Vân - tên của hai nàng cung nữ - làm gì, thì A Đào đã nghiêng người thi lễ rồi tiến đến nhận lấy tấm chăn trên tay tiểu thái giám. Đồng thời, A Vân bí mật kéo Nguyên Thục vào trong bức màn trướng với một nụ cười tủm tỉm, khi nhìn thấy đôi mắt đang mở to của nó do không hiểu chuyện gì đang xảy ra.
- Tiệp Dư! Người đã nghe rồi đó, đêm nay người sẽ đến hầu hạ chúa công, cẩn xin người để chúng nô tỳ cởi đồ ra và quấn tấm chăn này lên người ạ.
- Cái gìiiiiii?
Hệt như lúc bước chân vào ngôi nhà ma, sau khi nghe thủng những gì A Đào nói kèm theo nụ cười hớn hở của A Vân, Nguyên Thục la lên thảng thốt, do không nghĩ rằng trong phủ lại có màn tự….thoát y để đến hầu hạ chúa như vầy. Vén mạnh chiếc rèm trắng, Nguyên Thục xăm xăm bước ra ngoài, khuôn mặt đỏ như gấc chín của nó hất về phía viên thái giám đang đứng ngẩn ra, và quăng trả tấm chăn vào mặt y trong sự tức giận cùng cực. Trông thấy hành động đó, nụ cười của A Vân, A Đào liền tắt ngấm và mặt thì tái lại, vì không ngờ Nguyên Thục lại phản ứng mạnh mẽ như thế này.
- Mang tấm chăn về ngay. Đến Ngự lâu của chúa thì có gì mà phải thoát y, bộ anh khùng hả?
Trố mắt ra vì không hiểu sao Nguyên Thục lại đùng đùng nổi giận, viên thái giám chưa kịp nói gì thì hai nàng cung nữ đã nhanh chóng chạy ra và níu tay Nguyên Thục. Với một vẻ mặt năn nỉ, van xin, A Đào nói nhanh một hơi không kịp thở, còn A Vân cố đưa Nguyên Thục quay trở lại bên trong tấm rèm khi nó đang vẫy vùng.
- Tiệp Dư! Có lẽ người mới vào cung nên không biết, quy định trong phủ chúa khi cung tần vào hầu hạ là phải cởi hết đồ trên người ra và lấy tấm chăn quấn vào thân mình, để cho công công bế lên vai và mang đến Ngự lâu của chúa. Nay Tiệp Dư có vinh dự hầu hạ chúa công đêm nay thì phải tuân theo quy định ấy. Chúng nô tỳ năn nỉ người, nếu người không chịu làm theo thì chúng nô tỳ bị giáng tội mất thôi …
Há hốc miệng ra vì cái quy định ngớ ngẩn và kỳ quặc nhất trong tất cả các quy định mà nó từng biết, Nguyên Thục lâm vào tình thế dở khóc dở cười, khi nó bắt buộc phải … thoát y và quấn mình vào tấm chăn đó để đến gặp Trịnh Khải theo lời A Đào năn nỉ, van xin. Lúc trước khi xem phim, Nguyên Thục nhớ mấy cảnh cung tần được vua chúa vời vào, ai nấy đều trang điểm và ăn mặc sao cho lộng lẫy nhất, chứ có đâu trên người không mặc gì và lại để cho tiểu thái giám vác trên vai hệt như bao gạo bao giờ. Nguyên Thục hừ nhạt một tiếng, nó hậm hực quay ngoắt người vào bên trong tấm rèm. Một phần dù có tức giận và xấu hổ đến mức nào, thì nó cũng không nỡ để A Đào cùng A Vân bị giáng tội vì những chuỵên mà nó gây ra, một phần do nó đã hứa tối nay sẽ đến phòng Trịnh Khải và không nghĩ rằng sẽ đến với bộ dạng xấu hổ như vầy.
Cắn răng để A Đào cởi áo mình ra, còn A Vân nhẹ nhàng quấn tấm chăn quanh người nó, Nguyên Thục nhắm chặt mắt khi viên thái giám bế nó lên vai, do quá xấu hổ và ngượng chín người khi lần đầu tiên gặp phải tình cảnh trớ trêu. Băng qua những dãy hành làng rực rỡ ánh nến, viên thái giám nhẹ đặt Nguyên Thục xuống trước tòa Ngự lâu của Trịnh Khải. Y không dám mở cửa bước vào bởi sợ bản thân mình chẳng may sẽ bị trúng độc nên cứ lừng khừng không quyết. Đang khổ sở do không biết làm phải thế nào, viên thái giám giật bắn mình khi cánh cửa bất chợt mở ra. Y lúng túng khi thấy Trịnh Khải ung dung đứng đó, rồi vội vàng lên tiếng khỏa lấp cho hành động chần chừ.
- Bẩm chúa…chúa công, nô tài đã đưa Tiệp Dư đến cho chúa công…
- Được rồi! Ngươi có thể lui.
- Nhưng mà nô tài còn phải...
- Ta bảo lui.
Lúng túng ra mặt khi chúa công bảo mình lui, bởi phận sự của y là còn phải ngồi bên ngoài nghe ngóng tình hình đặng ghi vào sổ ngày, giờ, tháng để đối chiếu, nếu nàng Tiệp Dư này có thai. Rồi sau đó lại phải đưa nàng Tiệp Dư này trở về phòng sau khi chúa đã tan cuộc mây mưa. Vốn dĩ là thế, nhưng nhìn ánh mắt nghiêm lại của Trịnh Khải, viên thái giám không còn cách nào khác đành lủi thủi quay đi sau khi trao Nguyên Thục vào tay anh. Trong bụng y không tránh khỏi thấp thỏm lo âu, bởi sợ thánh mẫu và thái phi sẽ khiển trách do không làm tròn phận sự của mình.
Nhìn Nguyên Thục run rẩy ngắm nghiền hai mắt, Trịnh Khải nhẹ mỉm cười, từng ngón tay mảnh khảnh khẽ vuốt lên mái tóc đen nhánh đang xõa dài của nó. Cử chị dịu dàng ấy khiến Nguyên Thục bất chợt mở bừng mắt. Nhận ra Trịnh Khải đang bế mình trên tay, Nguyên Thục nghe mặt mình nóng ran lên do giờ đây nó chỉ đang quấn độc nhất một tấm chăn trên người. Vội vùng ra khỏi vòng tay Trịnh Khải khi anh đặt nó xuống dưới đất, Nguyên Thục thậm chí còn không dám ngước mặt lên nhìn anh. Nó đảo mắt nhìn quanh để tìm chỗ trốn, rồi chợt dừng lại nơi những tấm mành trướng đang phất phơ trong gió và chạy nhanh về phía đó như tìm thấy một vị cứu tinh.
- Nguyên Thục! Sáng nay tôi tình cờ gặp được một cô gái rất giống cô.
Đang dợm quay người đi, Nguyên Thục vội vàng quay phắt lại khi nghe giọng nói trầm ấm của Trịnh Khải vang lên, phá tan bầu không khí ngượng ngùng đang hiện hữu ở trong phòng. Thấy Nguyên Thục mở to mắt kinh ngạc, Trịnh Khải thong thả rót cho mình chén trà còn ấm nóng, rồi nhấp từng ngụm trà đắng đắng, ngọt ngọt nơi đầu lưỡi. Trong đầu anh đang hình dung tới cô gái áo hồng, tóc ngắn giống Nguyên Thục như hai giọt nước - đồng thời lại là cận vệ của Duy Khiêm – mà anh đã gặp sáng nay.
- Cô gái đó thật sự rất giống cô, giống đến tôi còn tưởng mắt mình bị hoa.
- Cô gái đó có phải mặc áo hồng, tóc ngắn, dáng bộ rất hiếu động và lóc chóc, đúng không?
- Cô cũng đã gặp cô gái ấy rồi sao?
Hấp tấp níu lấy tay Trịnh Khải, Nguyên Thục nghe tim mình đập nhanh trong lồng ngực khi nhớ tới cô gái áo hồng mà nó đã để mất dấu sáng nay. Nghe Trịnh Khải hỏi lại, đôi mắt của nó vụt trở nên long lanh, trái tim của nó như sắp vỡ òa khi linh tính đó chính là Nguyên Thiên - đứa em gái thân yêu của mình. Nếu Nguyên Thiên cũng có mặt ở thế giới này như nó thì chắc chắn sẽ rất nguy hiểm, bởi trong thời chiến tranh loạn lạc, đi đâu cũng xảy ra nạn binh đao thì Nguyên Thiên tất khó giữ được tính mạng do cái tính hồn nhiên, tinh nghịch mà nó là người biết rõ hơn ai. Dù thầm mong Nguyên Thiên không bị lạc về quá khứ, nhưng tận sâu trong đáy lòng của Nguyên Thục, nó rất mong được gặp lại Nguyên Thiên. Nó mong, mong lắm, mong đến độ đêm nào cũng nằm mơ, mơ thấy mình được trở về nhà trong sự vui sướng tột cùng, thấy mình cùng với Nguyên Thiên, Bách Nhật, Linh Lan và Anh Tú đèo nhau khắp phố phường Sài Gòn, cùng ăn những món nó yêu thích và lùng mua những đĩa nhạc vàng mà nó cất công truy tìm bấy lâu.
Trong khoảnh khắc đó, những kỷ niệm thân thương cứ lần lượt ùa về, làm Nguyên Thục không thể kềm chế được cảm xúc đang dâng tràn như thủy triều của mình. Chính vì thế, bàn tay run run đang níu lấy tấm chăn của Nguyên Thục bất chợt lỏng ra. Tấm chăn đang bị giữ chặt, nay đột ngột nơi lỏng liền nhanh chóng xổ tung và buông mình rơi xuống đất. Tấm thân không còn gì che chắn của nó hiện rõ mồn mồn trước mặt Trịnh Khải, khiến nó đứng sững như trời trời trồng do không lường trước được sẽ xảy ra tình cảnh choáng váng, bẽ bàng như thế này.
Nhanh chóng khoác lên người Nguyên Thục chiếc áo bào đang mặc bên ngoài, Trịnh Khải bây giờ cũng không thể nói được gì để khỏa lấp sự bẽ bàng hiện rõ trong đôi mắt nó, do gặp phải sự cố bất ngờ không ai lường trước này. Thu người lại dưới tấm áo bào còn vương hơi ấm mà Trịnh Khải đã khoác lên, Nguyên Thục cúi gầm đầu xuống. Những mạch gân xanh hằn rõ trên mu bàn tay run rẩy - dấu hiệu mỗi khi nó bị kích động - đang xiết chặt lấy tấm áo bào. Lần trước do sơ suất ngoài ý muốn, nhưng Nguyên Thục dù sao cũng không quá thất lễ trước mặt Trịnh Khải, khi nó vẫn còn có đồ mặc trên người. Nhưng lần này thì không còn gì để nói, cả tấm thân trong trắng của nó đã bị phơi bày trước mặt anh chỉ vì sự đểnh đoảng không đáng có ấy của mình. Càng nghĩ, Nguyên Thục lại càng thấy giận bản thân hơn bao giờ hết. Cái gì cũng hậu đậu, cái gì cũng bộp chộp, để bây giờ lại xảy ra tình cảnh tế nhị chẳng ai muốn có. Trong giây phút cảm thấy mình sao quá vô dụng, những giọt nước mắt nóng hổi của Nguyên Thục mấp mé bờ mi, rồi chầm chậm trào ra, lăn tròn trên má và đọng lại ở vành môi mềm đang run run mím lại với nhau.
Trông thấy những gịot nước mắt nghẹn ngào của Nguyên Thục, trong đôi mắt đen thẳm của Trịnh Khải thoáng hiện nét bối rối. Sau mẹ mình, Nguyên Thục là người thứ hai đã rơi nước mắt trước mặt anh. Nhìn bờ vai nhỏ không ngừng run lên dưới tấm áo khoác, Trịnh Khải chợt thở nhẹ. Bàn tay anh ngập ngừng vuốt những sợi tóc đen mượt, đang xõa xuống che khuất cả gương mặt nhòe nhoẹt nước, rồi chầm chậm kéo Nguyên Thục ngã vào lòng mình, đoạn vỗ về ân cần.
- Lẽ ra tôi phải nói cho cô biết nội quy của cung tần khi vào phòng chúa. Để cô rơi vào tình cảnh chẳng đặng đừng này là do lỗi của tôi. Nguyên Thục, nín đi, đừng khóc, thấy cô khóc tôi thật không dễ chịu chút nào.
Vẫn còn chưa hết ngỡ ngàng khi Trịnh Khải nhẹ ôm nó vào lòng, nước mắt của Nguyên Thục vẫn rơi trên áo anh, thấm sâu vào từng sợi vải, nhanh đến nỗi hệt như chưa từng có giọt nước mắt nào trước đó đã từng rơi. Bàn tay ấm áp của Trịnh Khải không ngừng xoa nhẹ bờ vai đang run lên của nó, để an ủi, vỗ về. Tuy hai má của Nguyên Thục đỏ hồng lên như ánh lửa đêm đông, thế nhưng sâu trong lòng nó là một cảm giác rất ấm áp, dễ chịu. Bao nhiêu phiền muộn, dự tính hay lo âu của nó đã tan theo những ngón tay dịu dàng đang vuốt nhẹ trên mái tóc mềm. Thời gian chầm chậm trôi qua, Nguyên Thục thôi không còn khóc nữa, những giọt nước mắt nghẹn ngào đã ngừng rơi. Nép vào vòng tay ấm áp của Trịnh Khải, Nguyên Thục thoáng ngửi thấy mùi trầm hương nhẹ nhàng đang vây lấy người nó, làm nó vô cùng dễ chịu và những bẽ bàng, sững sờ ban nãy nay đã tan biến như chưa từng có chuyện gì xảy ra.
- Trịnh Khải, anh… có biết cô gái áo hồng ấy là người ở đâu không?!
- Cô gái áo hồng? - Nghe Nguyên Thục hỏi nhỏ nhẹ, Trịnh Khải nhíu mày lại, anh nhớ đến cuộc gặp mặt ban sáng với Duy Khiêm, đoạn từ tốn trả lời - Hoàng tôn Duy Khiêm nói với tôi rằng cô gái áo hồng ấy là cận vệ của cậu ta, xem ra cô rất quan tâm tới cô gái đó thì phải?
Ngước đầu lên nhìn Trịnh Khải, đôi mắt Nguyên Thục trở nên lóng lánh dưới ánh nến do những giọt lệ vẫn còn vương. Nó mỉm cười thì thầm khi câu hỏi của anh đượm vẻ ngạc nhiên, vì sự quan tâm khác lạ của mình đối với cô gái áo hồng.
- Phải! Tôi quan tâm tới cô ấy lắm. Nếu tôi có thể gặp được cô gái áo hồng đó thì những thắc mắc trong lòng tôi đều được giải tỏa. Liệu anh có thể giúp tôi gặp cô ấy được không, Trịnh Khải?
Vuốt nhẹ đôi rèm mi dài còn vương nước mắt của Nguyên Thục, cử chỉ ấy khiến khuôn mặt nó lại đỏ bừng lên, Trịnh Khải chỉ mỉm cười mông lung khi nghĩ đến bữa tiệc sinh nhật của Duy Cận - người mà bà nội anh hết mực yêu quý, đến độ phải bàn riêng với anh chuỵên giúp cho Duy Cận nắm vững ngôi thái tử, trước sự trở về của Duy Khiêm.
- Chuyện ấy không khó. Vài ngày nữa, hoàng cung sẽ tổ chức đại tiệc mừng sinh nhật thái tử, tôi có thể dẫn cô vào cung để gặp cận vệ của Duy Khiêm.
- Vâng! Được thế thì tốt quá, cám ơn anh.
Nghe Trịnh Khải hứa như thế, Nguyên Thục rạng ngay nét mặt. Nó vội vàng ngồi thẳng lưng lên vì bối rối, khi phát hiện nãy đến giờ vẫn còn ở trong lòng anh. Không để ý đến sự lúng túng ấy, Trịnh Khải tiến lại gần chiếc tràng kỷ có đặt một bình trà thơm, rồi rót cho mình một chén trà ấm nóng khi cảm thấy bầu không khí trong tòa ngự lâu lạnh dần lên.
- Sáng nay bọn kiêu binh không gây khó dễ cho cô chứ?
- À… ừm, không sao. May mà có anh đến kịp, chứ không thì tôi cũng xong đời.
Nhận lấy chén trà từ tay Trịnh Khải, Nguyên Thục chun mũi ngửi mùi thơm thanh thoát, nhẹ nhàng từ làn khói trắng mỏng như sương sớm tỏa ra. Một mùi hương thật dễ chịu, làm nó tỉnh hẳn cả người.
- Nhưng mà anh yên tâm đi, từ nay về sau tôi sẽ hạn chế chạm mặt chúng. Tránh voi chẳng xấu mặt nào mà. Vấn đề kiêu binh ấy, tôi tin anh chắc chắn sẽ dẹp được chúng. Gì chứ không thiếu người ủng hộ anh đâu.
Nghe Nguyên Thục nói chắc như đinh đóng cột, bờ môi thanh tú của Trịnh Khải chỉ nhẹ mỉm cười. Nguyên Thục đã để ý rất nhiều lần, đa phần những nụ cười của Trịnh Khải đều phảng phất sự mông lung và trầm lắng, giống hệt tính cách tĩnh lặng như mặt nước hồ thu của anh. Tuy bề mặt của nước vô cùng phẳng lặng, những tưởng ta có thể soi thấy cả viên đá cuội trắng đục dưới đáy hồ, nhưng sâu dưới mặt nước yên bình đó có cuồn cuộn những con sóng ngầm hay không thì Nguyên Thục đành chịu. Nó hứa hẹn với lòng rằng từ nay sẽ cố tìm hiểu anh nhiều hơn, để có thể hiểu hết ý nghĩa của nụ cười trầm buồn, ẩn đằng sau đôi mắt sâu thẳm như muốn nhấn chìm người khác trong sự mênh mông vô tận này.
Đêm nay, Nguyên Thục ngủ lại trong tòa Ngự lâu do không muốn tên thái giám kia lại sang… vác mình về. Tiết trời về đêm ngày càng trở lạnh, Nguyên Thục tưởng như có thể nhìn thấy những làn sương mỏng từ dưới đất thoát lên. Đêm nay nó và Trịnh Khải cùng ngủ chung một giường, thế nhưng điều đó không làm nó cảm thấy lo lắng và e sợ, bởi Nguyên Thục hoàn toàn tin Trịnh Khải. Nó tin anh là người quân tử, nó tin anh sẽ không làm gì quá giới hạn của mình, nó tin anh, tin rất nhiều. Với một niềm tin tuyệt đối như thế, Nguyên Thục dần chìm vào giấc ngủ. Trong giấc mơ, nó thấy Nguyên Thiên đang tung tăng phía trước cùng với Bách Nhật, Anh Tú và Linh Lan, còn nó thì đang chạy về phía các bạn mình với sự vui mừng, vì sau bao ngày xa cách, cuối cùng đã tìm thấy bóng dáng những người thân yêu.
Nhìn lúm đồng tiền trên gương mặt Nguyên Thục khi nó nhoẻn cười trong giấc mơ, đôi mắt Trịnh Khải chợt trở nên mông lung khi nghĩ đến cuộc gặp gỡ sáng nay với Duy Khiêm. Không phủ nhận, anh và Duy Khiêm có rất nhiều điểm giống nhau, cả hai đều đã nếm trải mùi vị của giam cầm, cả hai đều đã ẩn mình trong bóng tối, cả hai đều có những khoảng trống mà thời gian không thể lấp đầy trong lòng. Chuyện của bản thân, Trịnh Khải không hề muốn nhắc đến, thế nhưng riêng với Duy Khiêm, Trịnh Khải mơ hồ nhận ra cậu nhóc ấy không đơn giản như bề ngoài con người cậu ta. Duy Khiêm suy nghĩ những gì anh không thể biết. Cậu ta có oán, có hận, hay gạc bỏ tất cả và làm lại từ đầu như anh đã nghĩ, khi truyền cho lính tam phủ giải thoát cậu hay không? Anh không biết, không thể biết. Anh chỉ biết cậu ta đang sống, đang là một cậu bé ngoan. Thế nhưng khi nghe Duy Khiêm nhắc đến câu chuyện về một người mù, cái kết cuộc trong câu chuyện ấy vô hình chung đã làm Trịnh Khải nhận ra một điều rằng : đối với Duy Khiêm, thả ra chưa chắc đã tốt và bóng tối chưa chắc đã là điều bất an…
Ngày xửa ngày xưa
Có một ông già mù
★ Chương 47: Song hỷ
Hôm nay, trong Hoàng cung tổ chức tiệc mừng sinh nhật cho Thái tử Cận. Chính vì thế mà ngay từ sáng tinh mơ, khi gà còn chưa gáy, Anh Tú đã phải vác thân đi làm việc sớm hơn thường ngày do bị lão Lý công công hối thúc từ hôm qua.
Chán nản nhìn mớ công việc phải hoàn thành vào cuối giờ Mão, Anh Tú vươn vai, ngáp một cái rõ dài rồi uể oải xách thùng nước ra ngự hoa viên tưới cây. Bình thường vào lúc này, ngự hoa viên sẽ chẳng có lấy một móng người qua lại, thế nhưng do hôm nay là đại yến tiệc nên ngự hoa viên rộn rã tiếng nói cười. Chỗ này có tốp thái giám đang treo những chiếc lồng đèn rực rỡ, chỗ kia có tốp cung nữ tỉ mẩn chọn những bông hoa đẹp nhất để trang trí. Chính vì ngự hoa viên náo nhiệt khác thường ấy, thế nên kế hoạch tìm góc khuất nào đó đánh một giấc cho đã mắt của Anh Tú đã bị phá sản hoàn toàn. Nó lầm bầm rủa thầm trong bụng, rồi uể oải múc những gáo nước trong lành tưới lên những bông hoa còn đọng sương sớm đang khoe sắc màu.
Từ ngày phải vào cung đến nay, Anh Tú luôn phải sống trong tâm trạng lo lắng, hồi hộp, khi ngủ… chung phòng với đám thái giám thứ thiệt. Chẳng biết họ có khám phá ra chuyện nó chưa bị mất “đời trai” hay không, mà chỉ thấy lúc nào gáy nó cũng nhột nhột, do hàng chục cặp mắt tò mò, soi mói, không bỏ qua nhất cử nhất động nào của nó. Nếu chỉ như thế, Anh Tú miễn cưỡng lắm cũng tạm chấp nhận được, đằng này những tên thái giám ẻo lả ấy lâu lâu lại sàng qua vuốt má, cầm tay, cá biệt hơn còn có những tên còn nhiệt tình đòi chà lưng cho nó lúc trong phòng tắm, làm Anh Tú muốn rởn cả da gà. Điều đáng sợ hơn hết, có đêm Anh Tú giật mình thức dậy, nó một phen chết điếng khi nhìn thấy hàng chục tên thái giám bu quanh giường nó, ngắm nghía nó với một đôi mắt đầy tình thương mến, làm cho nó sợ cứng cả lưỡi, tỉnh cả ngủ. Những lúc như thế, Anh Tú phải cố gắng giữ cho mình thức và chỉ dám ngủ khi đôi mắt hè nhau đòi nhập làm một mà thôi. Chính vì sống chung với đám thái giám bệnh hoạn, lạ kỳ ấy mà đầu óc của Anh Tú lúc nào cũng trong tình trạng căng như dây đàn. Sự mệt mỏi thường trực cộng với tâm trạng bất an làm nó cảm thấy ngạt thở, đôi lúc còn muốn lấy chỉ thắt cổ quách, nếu không nghĩ tới Linh Lan hiện còn chưa biết lưu lạc ở phương trời nào.
Sống trong Hoàng cung một thời gian, Anh Tú mới thấm thía một điều rằng chớ tin những gì chiếu trên phim ảnh, bởi coi trên phim, cuộc sống hoàng cung nhiều màu sắc bao nhiêu thì hiện thực nó lại đáng thất vọng bấy nhiêu. Gì đâu mà đến mỗi bữa cơm đều có khẩu phần, đói thì chịu mà no cũng phải ráng ăn, còn công việc thì cứ như rôbốt được lên lịch trình. Sáng thức dậy, đánh răng rửa mặt, sau đó tưới cây rồi đi quét dọn hết phòng này đến phòng khác cho đến cuối ngày. Nhưng công bằng mà nói, chẳng thà Anh Tú làm những việc đó còn có thể vận động xương cốt, chứ cứ đứng ỳ một chỗ trong phòng mấy bà công chúa, hoàng phi để chờ lệnh thì quả thật còn hơn bị tra tấn. Đối với cuộc sống chán như con gián ấy, Anh Tú còn có thể chịu đựng, chứ hôm nào gặp phải bà chằn Ngọc Vũ thì hôm đó có sơn hào hải vị gì nó cũng chẳng buồn ăn. Cứ như là kiếp trước nó đã vay tiền của cô nàng này đến chết cũng chưa trả hết, nên kiếp này cô ta mới bắt nó trả nợ cả vốn lẫn lời. Điển hình như chuỵên quét phòng, dù nó đã quét đi quét lại cả chục lần thì Ngọc Vũ vẫn chưa hài lòng. Cô ta hết bảo chỗ này chưa sạch, chỗ kia còn mạng nhện rồi lại chỗ nọ còn đất cát khiến nó phải liên tục chạy tới chạy lui. Nhiều lúc thiếu điều nó chỉ muốn quát lại rằng “nếu muốn vừa ý cô thì tự đi mà làm” nhưng đã kịp thời kiềm chế lại, khi thấy Diệu Đức - anh chàng cận vệ kiêm canh cửa của cô ta - đang lừ mắt nhìn mình.
- Tiểu Anh tử! Ngươi đang tưới hoa hay đang làm hoa úng vậy hả?
Vì nãy giờ chỉ lo làu bàu trong bụng, Anh Tú cứ thế múc nước dội rào rào lên trên mấy khóm hoa mà không thèm ngó ngàng gì, đến khi nhìn lại thì đã thấy bông nào bông nấy ướt sũng nước, chứ không phải “đọng từng giọt sương” theo tiêu chí của Lý công công. Than thầm trong bụng khi gặp hạn liên miên, Anh Tú cười giả lả mà không hó hé gì bởi biết cãi lại lão này chỉ tổ thiệt thân. Chẳng biết có phải hôm nay là sinh nhật thái tử nên Lý công công kiêng kỵ trách phạt hay không, mà chỉ thấy lão giương đôi mắt ốc bưu lên nhìn nó, rồi nhấn nhá từng lời.
- Tưới xong rồi thì mau tới Ngự Trù mang canh qua Nội Điện cho Hoàng tôn, ngay cả chuyện cỏn con ấy mà cũng làm không xong thì đừng trách ta.
Dù chán ngán trong bụng khi phải làm chân sai vặt, nhưng Anh Tú cũng phải “vâng, dạ” rồi lỉnh đi cho lẹ, nhằm tránh phải nghe những lời cằn nhằn thốt ra từ bờ môi mỏng tênh cánh chuồn của lão công công. Băng qua dãy hành lang phảng phất hương thơm, Anh Tú mới từ xa đã nghe thấy tiếng chặt thịt bôm bốp và tiếng xào nấu luôn tay vọng ra từ Ngự Trù. Bước qua ngạch cửa sơn son, khung cảnh tấp nập người qua kẻ lại, kèm theo những làn khói mỏng manh và mùi thơm hấp dẫn chết người tỏa ra từ những chảo thức ăn nóng hổi, làm Anh Tú bất giác đánh ực một cái vì trống bụng lại giống lên ầm ầm. Rảo mắt một vòng, Anh Tú dừng lại nơi khay canh đang bốc khói nghi ngút nằm trên bàn, rồi bưng lên mang đến cho vị Hoàng tôn nào đấy, sau khi đã hỏi rõ những người làm trong Ngự Trù.
Không cần phải có người chỉ đường, do trước đây đã có lần đi ngang qua tòa nhà cao lớn, mái ngói lưu ly, mà mãi bây giờ nó mới biết được đó là Nội Điện, Anh Tú cẩn thận luồn lách khỏi hàng người đang tất bật di chuyển trên hành lang rồi rẽ sang hướng Tây, dẫm lên những viên đá xanh lót đường óng ánh dẫn đến Nội Điện. Từ đằng xa, tòa Nội Điện sừng sững trước mặt nó, với hàng cây xanh mướt trồng trước hiên đã làm cho Anh Tú hơi ngạc nhiên. Vốn trong cung đang có yến tiệc nên nơi nào cũng thấy giăng đèn kết hoa, duy chỉ có cái Nội Điện này lại chẳng thấy đèn đóm gì khiến nó trở nên vô cùng cô lập với xung quanh. Điều này làm Anh Tú rất thắc mắc và tự hỏi không biết vị Hoàng tôn ấy là người như thế nào. Lò dò bước lên những bậc tam cấp, Anh Tú gõ nhẹ vào cánh cửa chạm trổ những đường mây lượn sóng. Nó tự hỏi không biết những người hầu trong Nội Điện đang làm gì, mà phải mất một lúc lâu mới có tiếng bước chân người nhẹ nhàng vang lên. Lùi lại một bước để cánh cửa khỏi đụng vào mình, những lời nói đã được sắp sẵn trong đầu Anh Tú - sao cho phải phép với quy định trong cung - nay bỗng bay biến đâu mất, khi nhìn thấy người ra mở cửa một cô gái tóc ngắn, áo hồng.
Một phút
Hai phút
Ba phút…
Đã ba phút trôi qua mà Anh Tú vẫn chưa thể cử động cơ miệng do sự kinh ngạc đang xâm chiếm lấy toàn bộ tâm trí nó. Mắt nó giật giật, tay nó run run và cái miệng thì há to ra hết cỡ, khi nhận ra cô gái đang đứng trước mặt nó không ai khác là Nguyên Thiên. Về phần Nguyên Thiên, do mọi hôm Duy Khiêm luôn chê nó là con gái mà ngủ nướng, mặt trời lên cao còn chưa chịu dậy, thế nên hôm nay nó quyết tâm thức dậy sớm, mặc cho cái nhìn chế giễu của anh vì muốn xem mắt nó mở được bao nhiêu giây. Sau khi cả hai dùng bữa sáng, Nguyên Thiên ngồi trên chiếc ghế mây nhìn Duy Khiêm xem sách. Gió thổi hiu hiu, ghế lại êm êm do có nệm lót, Nguyên Thiên ngồi mơ màng một chút rồi ngủ luôn hồi nào không hay. Đến khi nghe tiếng Duy Khiêm vang lên chẳng khác nào sấm động bên tai, Nguyên Thiên vội vã bật dậy. Chạm phải ánh mắt mỉa mai không che giấu của anh, đôi má nó đỏ bừng lên như trái đào vừa chín tới và nhanh chóng ra mở cửa, khi Duy Khiêm hất đầu tỏ ý có người đang đứng bên ngoài.
Cánh cửa nặng nề chậm chạp hé mở, mở luôn trái tim đang đập tưng bừng trong lồng ngực của Nguyên Thiên, khi nhìn thấy viên thái giám đang bưng khay canh trước mặt nó giống y… Anh Tú. Thật chẳng khác nào như hai giọt nước nằm cạnh nhau, làm Nguyên Thiên bất giác đứng ngây người ra. Tình cảnh của Nguyên Thiên bây giờ hệt như những pho tượng được tạc trong lăng mộ Tần Thủy Hoàng. Miệng nó há ra quên cả ngậm lại do kinh ngạc quá đỗi, cánh tay đang đưa lên mở cửa thì cứng đờ, không sao hạ xuống được vì bao xúc cảm như thủy triều dâng ào ạt trong lòng.
- Nguyên…Nguyên Thiên, phải bà đó không? Tôi, Anh Tú đây.
Nhanh chóng đặt khay canh xuống dưới bậc thềm vì sợ làm đổ, Anh Tú nhẹ liếm môi mình, từng tế bào thần kinh trong người nó đều đang rung rinh. Anh Tú cơ hồ nín thở vì sợ một khi thở mạnh, cô gái áo hồng đứng trước mặt nó sẽ biến mất như chưa từng tồn tại trên thế gian này.
- Anh Tú, là ông thiệt hả? Ông là Anh Tú thiệt hả?
Sau khi nhéo má mình một cái thật mạnh để chứng minh rằng đây không phải giấc mơ, khuôn miệng đang đơ ra của Nguyên Thiên dần nhúc nhích được và bật ra tiếng kêu thảng thốt, vui mừng. Nguyên Thiên nhào về phía bạn mình, hai tay nắm chặt lấy cánh tay Anh Tú mà lắc lên lắc xuống trong sự vui mừng tột cùng, vì không ngờ rằng lại có thể gặp được những người thân của mình tại chốn Hoàng cung này. Nếu ngày thường, Nguyên Thiên mà làm thế, Anh Tú chắc chắn sẽ nhắc nhở nó vì tội sắp làm cho cánh tay của mình gãy rời. Nhưng hôm nay khi Nguyên Thiên lắc lấy lắc để cánh tay mình, Anh Tú chẳng buồn lên tiếng phản đối - vì như thế đó mới chính là Nguyên Thiên, chứ không phải một người con gái nào đó có ngoại hình giống hệt cô nàng - rồi nói nhanh trong niềm vui còn chưa tắt.
- Trời ơi! Sao bà lại ở đây? Tôi tưởng chỉ có mình tôi và bé Lan trở về quá khứ thôi chứ?
- Sao cơ? Linh Lan, còn có Linh Lan nữa hả?
Cười ha hả khi Nguyên Thiên tròn xoe mắt kinh ngạc, do không ngờ Linh Lan cũng có mặt ở quá khứ, Anh Tú vỗ vỗ vai nó ra chiều thông cảm. Thật sự khi nghe tin những người bạn thân yêu của mình ở đây, ai cũng phải kinh ngạc chứ không riêng gì nó, bởi không tin rằng trên đời lại có nhiều sự trùng hợp đến như thế này.
- Phải, phải! Lạc về quá khứ này không chỉ mình bà đâu, mà còn có tôi và bé Lan nữa. Nhưng khổ nỗi tôi đã lạc mất nó nên bây giờ nó ở đâu tôi cũng không biết nữa.
Trong phút chốc, khi nhắc đến đứa em gái thân yêu không biết đang lưu lạc ở phương nào, giọng Anh Tú đang vui liền chùng hẳn xuống. Biết bạn mình đang lo lắng, Nguyên Thiên chớp mắt thông cảm, rồi xiết nhẹ tay Anh Tú để động viên sẽ có ngày nó tìm thấy được Linh Lan.
- Thôi! Đứng đây mỏi chân đó, ông vào trong đi.
Hớn hở bưng lấy khay canh từ dưới đất lên, Nguyên Thiên quay người bước vào trong Nội Điện cùng với Anh Tú. Nhìn Duy Khiêm vẫn chăm chú đọc sách như không để ý đến mọi chuyện xung quanh, Nguyên Thiên e hèm một tiếng để anh chú ý, rồi chỉ tay về phía Anh Tú, miêng nó nở nụ cười tươi như hoa khi giới thiệu cho Duy Khiêm bạn bè của mình.
- Giới thiệu với anh, đây là Anh Tú, một trong ba người bạn thân nhất của tôi.
Trố mắt ra nhìn Duy Khiêm, Anh Tú chưa bao giờ nghĩ trên đời này lại có một chàng trai đáng yêu như thế, ăn đứt mấy anh chàng diễn viên thần tượng Đài Loan, Hàn Quốc bây giờ. Căn cứ vào dáng vẻ, cốt cách và cách ăn mặc của chàng trai này, Anh Tú có thể đoán ra rằng cái người mà lão Lý công công gọi là Hoàng tôn có lẽ là đây, còn Nguyên Thiên chắc có lẽ là phục dịch hay hầu cận nên mới ở trong Nội Điện cũng nên. Đưa đôi mắt lãnh đạm nhìn Anh Tú, sau đó Duy Khiêm lại tiếp tục xem sách như thường lệ, làm nụ cười đang thủ sẵn trên môi nó vội tắt ngóm trước sự hờ hững của vị Hoàng tôn này. Mặc kệ thái độ thờ ơ của Duy Khiêm, Nguyên Thiên nhanh nhẹn múc canh ra ba chiếc chén đã sắp sẵn, chẳng biết vô tình hay cố ý, mà chén của Duy Khiêm lại nhiều thịt nhất - trước ánh mắt tinh quái của Anh Tú - rồi để đó, còn bản thân nó thì ngồi ăn ngon lành.
- Này! Sao Hoàng tôn chưa ăn mà bà đã ăn thế, không sợ bị giáng tội à?
- Ôi! Lo gì, trước nay anh ta luôn ăn sau tui mà, khi ấy đồ ăn ngội ngắt hết, mất cả ngon.
- Ê! Có khi nào…- Nhíu mày lại khi nghe Nguyên Thiên tỉnh bơ phán, Anh Tú đắn đo một chút như đang suy nghĩ gì trong đầu, sau đó nói ngập ngừng - Có khi nào vì sợ trong thức ăn có độc nên Hoàng tôn đợi bà ăn xong đâu đó, thấy không vấn đề gì rồi mới ăn không?
Anh Tú vừa nói dứt lời, tức thì hai mắt Nguyên Thiên trợn tròn lên do miếng thịt mắc lại ngay cổ. Vội chụp lấy khay trà trên bàn và uống liền hai, ba chén để miếng thịt quỷ quái trôi xuống cổ họng, Nguyên Thiên dù muốn dù không cũng phải suy nghĩ đến câu nói “độc địa” của ông bạn mình. Phải ha! Bây giờ nghe Anh Tú nói nó mới ngẫm nghĩ lại. Từ trước tới nay, mỗi khi bên Ngự Trù mang thức ăn gì đó sang Nội Điện, Nguyên Thiên luôn là người ăn trước nhất, còn Duy Khiêm luôn đợi nó ăn xong - cũng là lúc đồ ăn đã nguội ngắt - mới động đũa vào. Cha mẹ ơi! Nếu quả thật đúng như lời Anh Tú, nói thì hóa ra nó là người thử độc cho anh ta hay sao. Càng nghĩ Nguyên Thiên càng thấy tức, nó hùng hổ tiến lại phía Duy Khiêm đang ngồi với một thái độ như muốn ăn tươi nuốt sống kẻ thù, rồi vung tay đập bàn cái rầm khiến Duy Khiêm bất giác chau mày
- Phu Quân! Có phải những lời Anh Tú nói khi nãy là thật không?
- Nói gì?
Mắt vẫn không rời khỏi những trang sách, Duy Khiêm hỏi lại nó với sự thờ ơ. Điều đó càng làm cho Nguyên Thiên giận điên người.
- Anh còn giả vờ nữa hả? Có phải anh luôn để tôi ăn trước là vì sợ trong thức ăn có độc không? Nếu thế thì anh quá đáng lắm, bắt tôi làm vật thử nghiệm cho anh vậy hả?
- Phiền phức quá! Cô vẫn sống sờ sờ ở đây chứ đã chết đâu. Khi nào thấy trong người khác lạ thì hẵn nói với tôi.
- Anh…
Chứng kiến sự vô tình đến tuyệt tình của Duy Khiêm khi nói chuyện liên quan đến tính mạng, Nguyên Thiên trợn tròn hai mắt lên và chỉ thốt ra từ “anh” rồi sau đó tắc nghẹn, do không biết phải dùng từ gì phù hợp để diễn tả tâm trạng ngỡ ngàng của nó vào lúc này. Trông thấy tình hình có vẻ căng thẳng, Anh Tú húng hắng ho vài tiếng rồi kéo tay Nguyên Thiên ngồi xuống ghế, rót ly trà cho bạn mình hạ hỏa. Anh Tú dùng vạt áo quạt phạch phạch trưóc mặt Nguyên Thiên khi chứng kiến sắc mặt của nó giờ như con tôm luộc, đoạn cười xuề xòa.
- Thôi mà! Nóng giận quá có hại cho sức khỏe đó! Dù sao người ta cũng là Hoàng tôn, đề phòng cũng không có gì là quá đáng.
- Hoàng tôn thì Hoàng tôn chứ, nhưng lấy sinh mạng người khác ra để thí nghiệm thì có còn lương tâm không?
Đang trong cơn nóng giận, Nguyên Thiên không kềm được sự bất mãn của mình mà quát lớn. Chạm phải ánh mắt lạnh như băng của Duy Khiêm khi những lời Nguyên Thiên vừa lọt vào tai, Anh Tú hoảng hồn đập cái bốp vào tay nó, để cảnh cáo cái thói có gì đều lộ ra mặt hết của cô bạn mình.
- Trời đất ơi! Bà nói nhỏ thôi, trước mặt người ta mà nói lớn tiếng thế chỉ tổ thiệt thân thôi. Nên nhớ, đây là Hoàng cung, là chế độ phong kiến chứ không phải thời tự do ngôn luận như ở hiện tại. Bà nói năng bậy bạ thế nào rủi anh ta nổi giận lên, lôi đầu cả lũ ra trừng trị thì hỏng bét. Tôi còn chưa muốn chết đâu.
Vì kinh nghiệm sống trong cung của Anh Tú quá thừa để hiểu những trường hợp phải ngậm đắng nuốt cay, có oan ức cũng không dám nói lớn tiếng nếu không muốn bị chém bay đầu, thế nên khi nghe Nguyên Thiên ăn to nói lớn không biết dè chừng ai là gì, Anh Tú cảm thấy rất lo cho Nguyên Thiên. Cá tính ăn ngay nói thẳng, chẳng biết kiêng nể ai của cô nàng thật khó mà tồn tại được trong chốn Hoàng cung đầy rẫy cạm bẫy này. Sống trong chốn cung đình, nếu muốn yên ổn tìm cách quay trở về nhà, thì nhất định phải học được hai chữ “nhẫn nhịn”. Tránh voi thì chẳng xấu mặt nào, miễn không phải cúi mình đánh mất tự tôn, thì chuyện gì tránh được cứ tránh, không thì chỉ có rước họa vào thân. Có vẻ như sự lo lắng của Anh Tú phần nào cũng đã truyền qua cho Nguyên Thiên, nên sau phút nổi loạn, nó cũng đã trấn áp được cơn nóng giận đang chực tuôn trào. Nhưng dù thế nào thì những dư âm của cơn giận vẫn còn âm ỉ trong lòng, làm nó đâm ra khó chịu và bứt rứt cả người.
- Thì có ai muốn chết đâu, nhưng Phu Quân, anh ta quá đáng lắm! Cực kỳ quá đáng.
- Gượm đã! Bà mới gọi Hoàng tôn là gì?
Trước đôi mắt đang nheo lại của Anh Tú, Nguyên Thiên ngơ ngác.
- Thì gọi là Phu Quân. Tên anh ta là Lê Phu Quân mà.
- Lê Phu Quân? - Anh Tú thộn mặt ra do không ngờ Nguyên Thiên còn ngây thơ hơn cả sự tưởng tượng của mình - Giờ bà gọi năm lần “phu quân ơi” cho tôi nghe coi.
- Phu Quân ơi! Phu Quân ơi! Phu Quân ơi! Phu… Quân…Á!!!
Đang hồn nhiên tụng ba chữ “Phu Quân ơi” tới lần thứ ba, đến chữ “Phu Quân” thứ tư thì đã kèm theo một tiếng “Á” vang lên, làm Anh Tú nhăn mặt vì tần số âm thanh của tiếng “Á” này như muốn bể nhà. Hiểu ra được ý nghĩa của từ “Phu quân”, Nguyên Thiên ngồi chết trân trên ghế. Thì ra ngay từ lần đầu găp gỡ, anh ta đã cố ý nói tên mình là Phu Quân để trêu chọc nó, thế mà nó vẫn ngây thơ không biết gì, cứ tưởng tên anh ta là Lê Phu Quân thật và gọi luôn miệng suốt ngày. Chắc chắn khi nghe nó gọi như thế, trong bụng anh ta đang cười thầm vì nó như một con ngốc chính hiệu, khi anh ta nói gì cũng tin. Càng nghĩ, Nguyên Thiên càng thấy uất ức. Những chuyện từ trước tới nay lần lượt hiện lên trong đầu nó, làm cho nó vô cùng xấu hổ và tự mắng mình là một đứa con gái ngây thơ nhất trên cõi đời này.
Trong khi Nguyên Thiên trong Nội Điện đang giận tím tái mặt mày, thì tại dãy hành lang trồng hai hàng liễu soi bóng xuống mặt hồ, những nàng cung nữ đương tất bật chuẩn bị cho buổi tiệc sinh nhật của Thái tử, đều nghiêng người thi lễ khi nhìn thấy Đoan Nam Vương Trịnh Khải, đi cùng một cô gái, tay ôm một hộp quà bọc giấy điều đỏ thắm tiến vào. Càng đặt chân đến gần tòa Nội Điện trước mặt, Nguyên Thục càng hồi hộp hơn bao giờ hết. Trái tim nó đập thình thịch trong lồng ngực, bụng dạ nó bây giờ nôn nao khó tả, khi sợ rằng mình sẽ thất vọng nếu cô gái áo hồng đó không phải là Nguyên Thiên. Nhón chân lên bậc tam cấp, vành môi đang mím chặt lại của Nguyên Thục bất giác hé mở và run nhẹ, khi nghe có tiếng nói từ trong tòa Nội Điện vọng ra. Điều quan trọng hơn hết, tiếng nói ấy rất đỗi quen thuộc, đúng là tiếng nói đã bao lần nó nghe thấy trong giấc mơ. Nguyên Thiên! Nguyên Thục nghe lòng mình nhói lên một cái. Giọng nói đó có thật sự là Nguyên Thiên - đứa em gái thân yêu của nó hay không?
Không để ý đến nét mặt căng thẳng của Nguyên Thục, Trịnh Khải chạm tay vào cánh cửa sơn son như để cân nhắc một điều gì đó, sau một lúc lâu rồi cũng nhẹ đẩy cửa vào. Nhanh chóng kéo Nguyên Thục né qua một bên khi một chiếc gối thô bạo từ trong bay vèo ra. Trịnh Khải một tay quàng lấy vai Nguyên Thục, tay còn lại chụp cái gối. Anh đưa mắt nhìn vào trong thì thấy ba khuôn mặt đang ngó mình bằng ba sắc thái khác nhau, đoạn mỉm cười.
- Hình như ở đây có chiến tranh thì phải?
Sau câu hỏi không lời đáp của Trịnh Khải, tòa Nội Điện chợt im phăng phắc khi hai cô gái giống hệt nhau đang ngây người ra, và nhìn đối phương không chớp mắt. Trong giây phút đó, trái tim của Nguyên Thục như muốn vỡ òa vì những cảm xúc không đầu đuôi ào ạt dâng lên ngập lòng. Nó đứng lặng đó, đôi mắt rưng rưng nhòa lệ. Hai bàn tay đan xiết vào nhau vì kích động, trong khi bờ môi mềm mấp máy, nghẹn ngào không thốt nên lời. Tương tự với cảm giác đó của Nguyên Thục, khi nhìn thấy cô gái áo trắng đang đứng phía sau chàng trai mình đã trông thấy tại quán trà, Nguyên Thiên cũng ngây người ra vì những tưởng đó là một giấc mơ. Nó vội vàng dụi hai mắt đến đỏ ké mà hình bóng thân thương của Nguyên Thục vẫn không biến mất. Trong khoảnh khắc ấy, không một ngôn từ nào có thể diễn tả được những xúc cảm của nó. Như một cơn lốc cuốn phăng những chiếc lá vàng lên không trung, Nguyên Thiên như bừng tỉnh cơn mê. Nó vội vàng chạy ào về phía Nguyên Thục và ôm chặt lấy chị mình. Những vui sướng, hạnh phúc trong tim không ngừng dâng lên, dâng lên và rồi vỡ òa ra thành những giọt nước mắt nóng hổi tuôn trào trên má Nguyên Thiên.
Kể từ ngày đặt chân vào Hoàng cung đến nay, Nguyên Thiên không bao giờ khóc. Cho dù nhớ nhà và nhớ gia đình, bạn bè đến mức nhói cả lòng, thì nó cũng không bao giờ khóc. Thế nhưng hôm nay, nhìn thấy khuôn mặt thân yêu của chị mình, ôm lấy chị mình bằng xương bằng thịt đứng đó chứ không phải trong giấc mơ, Nguyên Thiên đã không kềm chế được tình cảm của mình. Nó ôm chặt Nguyên Thục trong tay và òa khóc như một đứa trẻ, trước sự ngạc nhiên của Duy Khiêm và Trịnh Khải. Giây phút đó Anh Tú đứng kế bên cũng lặng người đi không nói, vì không ngờ trên thế gian này lại có nhiều chuyện trùng hợp nhau đến lạ kỳ.
- Nín đi! Em gái ngốc! Tại sao phải khóc! Chẳng phải chị em mình được đoàn tụ với nhau rồi hay sao?
Dù bảo Nguyên Thiên nín, thế nhưng bản thân Nguyên Thục cũng đang khóc. Trong đôi mắt nó long lanh những giọt lệ, những giọt lệ mừng vui ấy chầm chậm tuôn ra và đọng lại nơi bờ môi hé cười của nó. Ôm lấy em mình và vỗ về, đôi bàn tay Nguyên Thục không ngừng vỗ nhẹ vào lưng Nguyên Thiên đầy dịu dàng và yêu thương. Những tưởng nó sẽ không bao giờ được gặp lại em mình, nay có thể hội ngộ thì đó quả thật là điều hạnh phúc nhất thế gian này.
Trong phút chốc, bầu không khí trong tòa nội điện chợt lắng đọng để nhường lại những giây phút thiêng liêng cho hai chị em sinh đôi. Trịnh Khải đưa mắt nhìn Duy Khiêm, sau đó cả hai cùng sóng bước ra hàng cây rợp mát bên cạnh tòa nội điện, nhường lại không gian bên trong cho Nguyên Thục và Nguyên Thiên, để hai chị em có muốn tâm tình gì cũng không thấy ngượng ngập trước mặt hai người đàn ông như thế này.
Đứng cạnh một gốc cây cổ thụ, trong khi Duy Khiêm ngồi đọc sách trên ghế đá, Trịnh Khải nhìn một vòng khu vườn. Đôi mày của anh thoáng nhíu lại khi nhận ra những chậu hoa trong vườn đa phần đều đã héo, chỉ còn lại một vài bông đang nở và những mầm xanh đang nhú lên dưới khóm hoa đang vun trồng. Trong khi những nơi khác, đâu đâu cũng đèn hoa giăng kết, vậy mà ở đây vẫn lặng lẽ như thường ngày, như không biết hôm nay sẽ diễn ra sinh nhật hay đại tiệc gì. Yên lặng một lúc lâu, Trịnh Khải chợt lên tiếng nhẹ nhàng.
- Cậu đã chuẩn bị quà cho Thái tử rồi chứ?
Đang chăm chú đọc những dòng chữ ngay ngắn trong trach sách, Duy Khiêm ngẩng đầu lên nhìn Trịnh Khải - đang xem xét những luống hoa đã tàn - và mỉm cười.
- Vâng! Đã chuẩn bị xong. Có điều Hoàng thúc có thích hay không lại là chuyện khác.
- Nếu đã là quà cậu tặng, Thái tử ít nhiều gì cũng sẽ vừa ý thôi.
Sau câu nói đó của Trịnh Khải, bầu không khí lại rơi vào im lặng. Duy Khiêm tiếp tục đọc sách còn Trịnh Khải đi xem xét một vòng quanh vườn. Dù không quan sát kỹ, thế nhưng không khó khăn mấy để nhận ra các cung nữ ở đây có vẻ ít chăm bón cho cây cối. Bằng chứng là cỏ dại mọc tràn lối đi, phần lớn hoa đều bị úa tàn, những cánh hoa rụng lả tả dưới sân mà không có ai quét tước hay chăm sóc. Trong Hoàng cung, nơi nào cũng có tiếng chim hót với những tán cây xanh mướt rợp lối đi, còn chốn Nội Điện này lại im lìm đến cô tịch, ngay cả bóng dáng một cánh chim cũng không có. Trên cây đầy những tán là vàng buồn hiu hắt, chỉ cần một cơn gió mạnh thổi qua thì chúng sẽ buông mình xuống mảnh sân sỏi đá mà không luyến tiếc một điều gì. Để khu vườn hoang phế thế này, chẳng biết do các nàng cung nữ đã quên mất, hay bản thân Duy Khiêm muốn để nó tĩnh lặng như thế vì không quen được những gì nhộn nhịp, tươi vui.
- Đoan Nam Vương!
- Sao?
Đang mông lung nhìn lên bầu trời xanh trong, Trịnh Khải quay sang nhìn Duy Khiêm với nét ngạc nhiên, vì từ trước tới nay ít khi Duy Khiêm bắt chuyện trước với anh bao giờ.
- Khi còn ở trong Tam nhàn đường(*), nhìn thấy tầng lầu của nhà Trạch các(**), lúc ấy ngài đã nghĩ gì?
Đưa mắt nhìn khuôn mặt trẻ con của Duy Khiêm, câu chuyện về ông già mù ngày càng rõ dần trong đầu Trịnh Khải. Anh chỉ mỉm cười, rồi lại lặng yên nhìn cơn gió nhẹ thổi tung những hạt bụi, lòng mênh mang nhớ về một ký ức xa xăm nào đấy, tưởng chừng đã có thể quên đi, nhưng nó vẫn nằm sâu trong đáy tim, chờ đợi ngày được mang ra dưới ánh sáng mặt trời.
Câu hỏi ấy, Trịnh Khải đã không trả lời…
---------
Chú thích
(*)Tam nhàn đường : Nơi Trịnh Khải bị giam khi xảy ra vụ án năm Canh Tý 1780
(**) Trạch các : Nơi làm việc của Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm.
★ Chương 48 : Ngỡ ngàng
Nguyên cả ngày hôm đó, Nguyên Thiên cứ như người đang lơ lửng trên chín tầng mây, vì biết bao nhiêu chuyện vui cùng xảy ra một lúc khiến nó cứ tưởng mình đương nằm mơ. Đầu tiên, nó đã được gặp lại Nguyên Thục và Anh Tú, sau đó lại còn tròn xoe mắt khi Nguyên Thục cho biết Bách Nhật cũng đang có mặt tại nơi này. Vậy là không hẹn mà năm đứa tụi nó đều bị trở về quá khứ, và lòng Nguyên Thiên vô cùng nôn nao khi nghĩ về ngày cả nhóm tụi nó sẽ được đoàn tụ với nhau, cùng tìm ra đường quay về nhà mà không ai bị trầy vi tróc vảy do gặp loạn lạc, binh đao gì.
Khỏi phải nói Nguyên Thiên vui mừng thế nào khi gặp khi gặp lại chị mình và Anh Tú. Trong suốt bữa tiệc, mặc kệ cho khung cảnh náo nhiệt và rộn ràng trước mặt, nó, Anh Tú và Nguyên Thục cứ ngồi tụm lại một chỗ, hết hàn huyên chuyện này rồi lại thủ thỉ đến chuyện kia không biết chán. Mãi cho đến khi tiệc tan rồi mà tụi nó vẫn không hay biết gì, làm Trịnh Khải phải ho nhẹ một tiếng, Nguyên Thục mới tiếc rẻ đứng lên để trở về phủ chúa. Đoán biết tâm ý của Nguyên Thục, Trịnh Khải nhẹ nhàng lên tiếng khi nó lưu luyến nắm lấy tay Nguyên Thiên, do không muốn rời xa em mình.
- Nếu muốn hai chị em ngày nào cũng gặp mặt nhau, cô chỉ việc đưa em cô vào phủ chúa, thế thôi.
- Thật sao? Tôi có thể đưa Nguyên Thiên vào phủ sao? Nếu thế tôi đưa cả Anh Tú vào luôn có được không?
Quay ngoắt người lại nhìn Trịnh Khải, đôi mắt Nguyên Thục vụt trở nên long lanh như sợ rằng anh đang nói đùa. Đáp lại câu hỏi của nó là nụ cười của Trịnh Khải, nụ cười ấy làm Nguyên Thục mừng rỡ hơn bao giờ hết, vì nó biết rằng đó là thay cho cái gật đầu. Vội vàng quay sang Nguyên Thiên, Nguyên Thục xiết chặt lấy tay em mình. Khuôn mặt nó giờ tươi như hoa xuân vì từ nay hai chị em đã có thể sống cùng với nhau, chứ không còn cảnh kẻ ở nơi này người ở chỗ kia. Chứng kiến tình cảnh hai chị em Nguyên Thục được đoàn tụ trong niềm vui sướng, Anh Tú cũng thấy vui lây cho bạn mình, đồng thời nó cũng không nén được tiếng thở dài khi nghĩ đến Linh Lan. Được Nguyên Thục “bảo lãnh” ra khỏi chốn Hoàng cung tẻ nhạt, nhất là thoát khỏi cái cảnh ngày nào cũng bị con bé Ngọc Vũ sai này bảo nọ, Anh Tú có vui đôi chút nhưng nỗi buồn về chuyện em gái nó vẫn chiếm phần nhiều hơn. Thấy nét mặt của Anh Tú như bánh bao chiều, khỏi phải nói Nguyên Thục cũng thừa hiểu được bạn mình đang nghĩ gì trong đầu. Cũng may Anh Tú chỉ là thái giám giả, chứ nếu là thật thì Linh Lan không há hốc miệng ra chắc cũng xỉu đùng ra đất vì cái tin động trời này. Vỗ nhẹ vào vai Anh Tú để động viên rằng có ngày hai anh em sẽ tìm thấy nhau, Nguyên Thục mơ màng nghĩ đến cảnh Bách Nhật từ Hương Sơn trở về. Như thế năm đứa tụi nó sẽ đoàn kết lại thành một khối và quyết tâm tìm ra cách để cả bọn quay trở về.
- Trời cũng đã tối, Nguyên Thiên, em mau về Nội Điện thu dọn đồ đạc. Còn ông nữa, Anh Tú, ông cũng mau lấy hành lý ra khỏi nơi này trước khi thân phận thật sự của ông bị bại lộ đi.
Trước sự thúc giục của chị mình, Nguyên Thiên dù rất vui khi từ nay hai chị em có thể sống chung một nhà, nhưng không hiểu sao sâu thẳm trong đáy lòng nó, Nguyên Thiên cảm thấy mình như thiếu thiếu một điều gì đó, khi nhớ đến cái Nội Điện lạnh lẽo, có một chàng trai lúc nào cũng mỉa mai và chế giễu nó hết lời. Thấy nét mặt em mình bỗng chùng hẳn xuống, Nguyên Thục chỉ ngạc nhiên trong thoáng chốc rồi chợt hiểu ra mọi sự. Nắm nhẹ tay em mình, Nguyên Thục mỉm cười thì thầm.
- Thôi, bây giờ em mau trở về Nội Điện. Ngày mai chị sẽ qua Hoàng cung đón em về, còn tối nay thì nói lời từ biệt với anh chàng “phu quân” của em sao cho khéo đi.
Khuôn mặt bầu bĩnh của Nguyên Thiên vụt đỏ ửng, khi Nguyên Thục cố ý kéo dài bốn chữ “phu quân của em” một cách tinh quái, do đã nghe Anh Tú kể lại sự ngây thơ đến thấy thương của em mình. Lầm bầm rủa Duy Khiêm trong miệng khi nhớ tới cú lừa ngọt xớt ấy, Nguyên Thiên nhè nhẹ gật đầu. Sau đó nó nhìn sang Trịnh Khải, rồi kéo tay anh qua một bên trước sự ngạc nhiên của Nguyên Thục và Anh Tú, do không hiểu Nguyên Thiên muốn làm gì.
- Này! Anh và chị tôi quen nhau trong trường hợp nào mà khi nãy nhắc đến, chị tôi trở nên lúng túng vậy?
Khoảnh khắc đó, trong đầu Trịnh Khải chợt lướt qua hình ảnh một nàng cung nữ đang xơi đùi gà tỉnh bơ cho dù bị gươm kề ngay cổ, rồi anh bất chợt mỉm cười khi Nguyên Thiên gợi lại ký ức đã qua đó của mình.
- Trong một căn nhà bếp. Còn thế nào thì tôi không tiện nói.
- Chậc! Hai người sao mà giống nhau nhỉ - Tặc lưỡi một cái khi Trịnh Khải trả lời lấp lửng, Nguyên Thiên tiếp tục hỏi tới vì muốn biết anh chàng này có phải là người xứng đáng để giao Nguyên Thục lại hay không - Mà thôi! Nếu đã bí mật thế thì tôi cũng không tiện hỏi, nhưng cái quan trọng nhất đó là anh sẽ đối xử tốt với chị tôi chứ.
- Được!
- Đối xử tốt còn chưa đủ, tôi không cần biết anh là Đoan Nam Vương hay là chúa Trịnh, chỉ cần biết anh là nam nhi, đã là nam nhi thì quyết không để cho người con gái mình yêu phải rơi lệ, anh hiểu chứ?
Nheo mắt nhìn Nguyên Thiên khi nó nói đến năm chữ “người con gái mình yêu” một cách thản nhiên, mặc cho trước đó Nguyên Thục đã đính chính rằng nó và Trịnh Khải trên quan hệ chỉ là bè bạn, chứ không hề có tình cảm riêng tư nào khác. Trịnh Khải không lên tiếng thanh minh hay giải thích, anh chỉ mỉm cười, rồi sau đó gật nhẹ đầu trước sự chờ đợi của Nguyên Thiên khi muốn nghe câu trả lời.
- Vậy là được! Nếu anh ăn hiếp chị tôi hay phải làm cho chị ấy khóc, tôi nhất quyết không tha cho anh đâu.
Sau khi buông lời “hăm dọa” Trịnh Khải, Nguyên Thiên cười toe tóet. Tuy nói là lên tiếng cảnh cáo, nhưng trong thâm tâm, nó tin rằng chàng trai này sẽ là chỗ dựa vững chắc nhất cho chị nó vì sự dịu dàng ẩn chứa trong đôi mắt sâu thăm thẳm này. Về phần Nguyên Thục, dù đứng từ xa trò chuyện với Anh Tú, thế nhưng thi thoảng nó vẫn liếc về phía Nguyên Thiên, để xem em mình thì thầm những gì mà trông có vẻ rất khả nghi. Chẳng biết Nguyên Thiên nói với Trịnh Khải những gì mà chỉ thấy anh cười, một nụ cười vô cùng nhẹ nhàng. Nhớ lại sáng nay lúc thức dậy, Nguyên Thục đã vô cùng bối rối khi thấy mình đang nằm gối đầu lên cánh tay của Trịnh Khải. Anh vẫn đang ngủ. Hơi thở nhè nhẹ vương vấn mùi trầm hương, khuôn mặt thanh tú không còn phảng phất những nét trầm buồn, mà trở nên yên bình hơn, có lẽ là vì đôi mày kiếm thôi không chau lại để suy nghĩ, ưu tư một điều gì. Hình ảnh dịu dàng ấy khắc sâu vào tâm trí Nguyên Thục, trở thành một tia sáng lung linh không bụi mờ nào có thể che khuất được, và đôi khi nó tự hỏi rằng liệu có thể trông thấy hình ảnh hiếm hoi đó thêm một lần nào nữa hay không.
- Chị, tối nay chị về trước đi nhé, mai em và Anh Tú sẽ sang sau.
Đưa tay vẫy vẫy Nguyên Thục khi chị mình lưu luyến quay đầu nhìn lại, Nguyên Thiên cười tươi như hoa để Nguyên Thục an tâm, rồi ngóng mắt nhìn theo cho đến khi bóng dáng của Nguyên Thục tan dần vào trong màn đêm nhạt nhòa. Còn lại Anh Tú và nó, cả hai đứa đưa mắt nhìn nhau, rồi vội vàng đi về hai hướng sau khi đã ước định mai mấy giờ có mặt ở Nội Điện. Dù sao thì trước khi ra khỏi chốn Hoàng cung nhìn đâu cũng thấy luật, Anh Tú vẫn là một tiểu thái giám thấp cổ bé họng, dễ có nguy cơ bị trách phạt nếu đã đêm hôm khuya khoắt mà vẫn còn chàng ràng ở bên ngoài.
Vội bước nhanh trên con đường lát sỏi dẫn về hướng Nội Điện, Nguyên Thiên tự hỏi không biết bây giờ Duy Khiêm đã ngủ chưa, bởi anh đã xin phép Hoàng thượng cho về sớm vì thấy người không được khỏe do thức khuya đọc sách tối qua. Tòa Nội Điện dần hiện ra trước mặt, bên trong đèn đóm tối om và hoàn toàn yên lặng làm Nguyên Thiên lo lo trong bụng. Vừa mới bước lên bậc tam cấp, Nguyên Thiên đã trông thấy hành lý của mình được thu dọn đâu vào đó, để trước hiên nhà. Điều đó làm bụng nó tưng tức, vì cho rằng Duy Khiêm hẳn đang vui mừng khi có thể tống cổ nó ra khỏi nội điện cũng không biết chừng.
- Phu…Duy Khiêm, mở cửa ra mau, tôi có chuyện muốn nói với anh.
Vì Hoàng cung bây giờ đang im lặng như tờ, một tiếng động nhỏ cũng gây ra xáo trộn nên Nguyên Thiên không tiện kêu lớn. Nó đấm nhẹ vào cánh cửa đóng im ỉm và gọi khẽ. Biết tên thật của Phu Quân là Duy Khiêm thông qua Trịnh Khải, Nguyên Thiên có đôi chút ngập ngừng, và gọi không được thuận miệng do lúc trước đã quen gọi là Phu Quân. Thấy mình chờ đã lâu mà bên trong vẫn không có động tĩnh, Nguyên Thiên đã bắt đầu thấy sốt ruột, từ sốt ruột chuyển sang lo lắng khi nhớ đến lý do mà Duy Khiêm đã đưa ra trong buổi tiệc. Có khi nào anh ta đang nằm sóng xoài trong đó, mặt xanh như tàu lá và chân tay không còn nhúc nhích nổi, nên mới không ra mở cửa cho mình chăng?
- Duy Khiêm! Anh mà không ra mở cửa là tôi xông vào đó, mở ra mau lên.
Cất cao giọng để xem Duy Khiêm bên trong có phản ứng gì không, đến khi nán lòng chờ một lúc lâu vẫn không nghe tiếng bước chân nào vang lên, Nguyên Thiên liềm nhẹ môi mình và từ từ lùi lại. Mắt nó đăm đăm nhìn về phía trước để ước lượng khoảng cách, và lấy đà chạy tới để tông cửa vào. Đến khi chỉ còn cách một cánh tay, cánh cửa đang đóng im ỉm đột ngột mở tung ra. Duy Khiêm đứng sừng sững ở đó với một nét mặt lạnh băng khiến Nguyên Thiên hoảng hốt, nhưng không thể nào kiềm hãm lại đà chạy của mình nữa. Sự cố bất ngờ đó làm Duy Khiêm không kịp phản ứng, đến khi định thần được chuyện gì đang xảy ra thì đã thấy Nguyên Thiên ngã nhào lên người mình. Mặt kề mặt, môi kề môi, gần đến nỗi người này có thể cảm nhận được hơi thở nhè nhẹ của người kia. Trong khoảnh khắc bất ngờ đó, hai đôi mắt trân trân nhìn nhau, và rồi Duy Khiêm nhanh chóng đẩy Nguyên Thiên sang một bên và ngồi dậy, trước khuôn mặt nhăn nhó của nó vì lực đẩy của anh không hề nhẹ nhàng.
- Cô còn muốn làm gì nữa, chẳng phải đồ đạc của cô đều ở bên ngoài hết rồi sao.
Do Duy Khiêm đang đứng quay lưng về phía cửa sổ, nên Nguyên Thiên không thể thấy khuôn mặt của anh có biểu cảm gì, mà chỉ nghe giọng nói lạnh lùng như sương từ tốn cất lên. Lồm cồm đứng dậy và phủi hai tay vào nhau, Nguyên Thiên đưa mắt nhìn quanh tòa nội điện, trong phút chốc nó nhận ra rằng nơi này rộng hơn nó nghĩ nhiều.
- Hành lý của tôi tự tôi sẽ thu xếp lấy, ai cần anh sắp xếp giùm tôi. Hay là tôi sớm đi được ngày nào thì anh vui mừng ngày đó.
- Phải! Tôi vui lắm, rất vui vì cuối cùng cũng đã thoát khỏi cô.
Từ từ quay mặt lại đối diện với Nguyên Thiên, Duy Khiêm nhẹ mỉm cười. Cũng là nụ cười đó, cũng là khuôn mặt đó, thế nhưng sao hôm nay Nguyên Thiên cảm thấy chúng vô cùng xa lạ. Sự xa lạ đó làm nó đột ngột lùi lại một bước, khi cảm thấy con người đang đứng trước mặt mình không phải là Phu Quân mà nó quen biết, mà chỉ là một người nào đó có khuôn mặt và vóc dáng giống như anh.
- Nguyên Thiên! Cô có biết rằng cô thật sự rất ngây thơ. Ngây thơ đến độ khiến tôi phát chán, trong khi tôi lại chúa ghét những người ngây thơ không biết gì như cô. Thế nên chị cô đến đón cô về, thật chẳng khác nào giải thoát cho tôi.
Dù trong bụng biết rằng mình luôn làm Duy Khiêm không hài lòng, thế nhưng khi nghe chính miệng anh nói ra, Nguyên Thiên vẫn cảm thấy trái tim mình thốn lên, đau nhói mà không hiểu vì sao. Ngơ ngác nhìn Duy Khiêm cứ như nhìn người ngoài trái đất, vì không hiểu nó đã làm gì mà khiến anh phải nặng lời như thế, nhưng đáp lại cái nhìn đó của nó chỉ là một nụ cười chế giễu như thường nhật, vì sự ngây thơ đến không tưởng của cô gái này.
- Đồ đạc của cô đều ở ngoài kia cả! Cô mau chóng đi cho khuất mắt tôi. Không có cô tôi thấy thật thoải mái. Tốt nhất là đừng bao giờ xuất hiện trước mặt tôi thêm một lần nào nữa.
Sau khi buông xong câu nói lạnh nhạt trước đôi mắt đang mở to của Nguyên Thiên, Duy Khiêm quay người bỏ vào phòng trong, để mặc Nguyên Thiên đang đứng đó cùng với sự sững sờ, vì không nghĩ Duy Khiêm lại nặng lời với nó như thế này. Đứng chôn chân nhìn theo bức rèm trúc lay động khi Duy Khiêm vừa đi khuất, trái tim Nguyên Thiên ứ nghẹn. Nó cắn chặt bờ môi của mình và đôi mắt đã bắt đầu long lanh ngấn lệ, vì những lời nói của Duy Khiêm chẳng khác nào bảo nó là vô dụng, là phiền phức và chuyên mang rắc rối đến cho anh. Trong giây phút đó, Nguyên Thiên cảm thấy trái tim nó như đang ép lại, nhoi nhói, khó thở và nôn nao. Từng lời nói của Duy Khiêm không ngừng xoáy vào đầu nó, để rồi những giọt nước mắt uất nghẹn chầm chậm lăn trên khuôn mặt bầu bĩnh còn chưa hết nét bàng hoàng. Nếu như những lời anh nói là sự thật, thì trước tới giờ đối với anh, nó chỉ là một sự phiền phức không đáng có, ở chung với nó chẳng khác nào cực hình hay sao.
Chùi nhanh những giọt nước mắt đang mấp mé bờ mi, nếu như bình thường, Nguyên Thiên sẽ quăng trả vào Duy Khiêm những lời lẽ cay độc hơn, ác nghiệt hơn để trả đũa anh vì nó không cho phép bất cứ ai sỉ nhục mình. Thế nhưng bây giờ, không hiểu sao nó lại chẳng thể thốt ra nổi một lời nào. Bờ môi mềm mấp máy mãi không thành câu và trong đầu nó giờ trống rỗng, chẳng thể suy nghĩ một điều gì khác, chỉ biết rằng phải nhanh chóng rời khỏi đây, đi thật xa khỏi nơi này và không bao giờ quay lại. Vội vã bước nhanh ra khỏi nội điện, Nguyên Thiên ôm lấy hành lý của mình vào lòng và chạy như bay ra khỏi con đường lát sỏi, để trái tim thôi không đau nhói khi những lời nói kia cứ vang vọng mãi trong đầu.
Đặt chân lên dãy hành lang sáng mờ do những chiếc đèn hoa đăng chưa tàn, Nguyên Thiên nhìn dãy hành lang sâu hun hút mà không tránh khỏi cảm giác rùng mình. Khi nãy vì quá rối loạn, nên nhất thời Nguyên Thiên không thể nghĩ đến điều gì khác ngoài việc mau chóng rời khỏi đây. Đến khi bình tâm suy nghĩ lại, nó mới thấy quyết định của mình là bất khả thi vì bao rắc rối chưa đề cập đến. Đầu tiên, nếu muốn qua phủ chúa cùng ở với chị mình thì nó phải biết đường đi, nhưng rõ ràng về khoản này thì nó mù tịt. Hơn nữa trong cung luôn có cấm vệ quân đi tuần, nó lại không có thẻ bài hay bất cứ vật gì để có thể rời khỏi hoàng cung. Cho dù nó có là cận vệ của ai đi nữa thì cũng sẽ bị bắt lại vì đang đêm mà còn dạo chơi lung tung bên ngoài. Chưa kể đến, Anh Tú thì lại đang ngủ trong phòng tập thể của thái giám, nó mò đến đó là chuyện không thể vì bản thân không rành rẽ đường đi nước bước trong Hoàng cung. Bản thân nó chỉ biết được đường đến điện Vạn Thọ và Ngự hoa viên, do hầu như ngày nào cũng cùng Duy Khiêm đi ngang qua hai nơi này. Đi không được, ở cũng không xong, trong giây phút đó Nguyên Thiên mới biêt rằng mình quyết định quá nóng vội, để giờ đây tự chuốc lấy phiền phức cho mình, đúng y như lời Duy Khiêm đã nói vừa rồi.
Nhẹ quay trở lại tòa Nội Điện, Nguyên Thiên đứng nhìn tòa nhà tĩnh lặng trong đêm tối, rồi vội vã quay đi khi nghe tim mình lại nhói lên. Chậm chạp vòng ra sau tòa Nội Điện để vào khu vườn, Nguyên Thiên quẳng bọc hành lý của mình lên chiếc bàn đá bám đầy lá. Nó ngồi phịch xuống ghế và chưa bao giờ có cảm giác mệt mỏi như lúc này. Ngước mắt lên nhìn bầu trời đêm miên man, từng vì sao nhỏ li ti trên cao như những giọt nước mằt lấp lánh, Nguyên Thiên nghe lòng mình dâng lên một nỗi buồn vời vợi. Trong phút chốc, nó cảm thấy nhớ gia đình và bạn bè của mình biết bao. Từ nỗi nhớ chuyển sang trách móc, Nguyên Thiên lại giận bản thân mình do khi nãy đã không chịu về cùng với chị, mà còn nán lại đây để nhận lấy sự thật phũ phàng rằng trong mắt Duy Khiêm nó thật sự chẳng là gì.
Cho đến bây giờ, Nguyên Thiên vẫn không hiểu con người khi nãy đứng trước mặt nó có phải là Phu Quân mà nó đã từng quen biết hay không. Một Duy Khiêm có nụ cười đáng yêu và lúc nào cũng chế giễu nó là bản tính thật, hay Duy Khiêm đã buông những lời nói làm người khác tổn thương và đau lòng đó mới chính là anh. Nguyên Thiên không biết, thật sự không biết. Giống như việc Duy Khiêm cười thì nó cho rằng anh đang vui, đôi mày kiếm của anh nhíu lại thì nó nghĩ anh đang không hài lòng một chuyện nào đó, chứ chưa bao giờ nó nghĩ đến, ẩn đằng sau nụ cười ấy đang chất chứa những tâm sự gì.
Không thể nhìn thấy tâm hồn lạc lõng của anh.
Không thể đoán được màu con ngươi trong đôi mắt anh.
Một trận cuồng phong, một giấc mộng dài
Đâu thể biết tình yêu trong đời, sẽ có lúc đậm, lúc phai.
Lòng anh thật sự nhẫn tâm như thế sao… (*)
Trời càng về khuya, sương trắng rơi càng nhiều. Nguyên Thiên cảm thấy từng mạch máu trên đầu ngón tay nó bị đông cứng và tê dại đi. Không ngừng hà hơi vào hai lòng bàn tay để lấy hơi ấm, Nguyên Thiên chợt nhìn bàn tay đang đỏ ửng lên vì gió lạnh của mình. Những lúc trước, do không ngủ được, Duy Khiêm đã nắm lấy bàn tay của nó để dỗ nó vào giấc ngủ. Không hiểu sao vào giờ phút này, nó lại thấy lưu luyến hơi ấm tỏa rộng trong đêm đông đó, rồi lại cốc vào đầu mình mấy cái khi đã tự nhủ phải gạt phắt con người bạc tình bạc nghĩa kia ra khỏi đầu. Đang lay hoay cố dỗ mình vào giấc ngủ, để quên đi cái lạnh và nghĩ đến viễn cảnh ngày mai sẽ được đoàn tụ với chị mình, Nguyên Thiên bất chợt dỏng tai nghe ngóng, khi có tiếng bước chân gấp gáp từ hướng Nội Điện chợt vang lên. Ngóng mắt về phía trước, Nguyên Thiên vội núp vào một chỗ khi nhìn thấy một viên thái giám áo xanh, dáng người đẫy đà đang hối hả từng bước về phía Nội Điện. Nhìn thấy khuôn mặt không lấy làm ưa đó, nhất là hai con mắt giảo hoạt không ngừng đảo qua lại, Nguyên Thiên trong bụng sinh nghi. Nó liền men theo bức tường và ẩn trong một lùm cây gần đó, để xem viên thái giám ấy tới Nội Điện giữa đêm hôm khuya khoắt này có mục đích gì.
Dừng trên thềm nội điện, viên thái giám e hèm một tiếng sau khi sửa lại quần áo cho ngay ngắn, và cất cái giọng nhừa nhựa của mình lên khiến Nguyên Thiên bất giác nổi cả da gà. Đợi viên thái giám gọi chừng ba, bốn tiếng, cánh cửa từ từ hé mở, Duy Khiêm xuất hiện với một nét mặt ngái ngủ. Dáng bộ anh lúc này làm Nguyên Thiên nửa tức giận vì sau khi đuổi nó đi, anh lại có thể an lành ngủ như thế mà không cần biết hiện thời nó đang lang thang nơi nào, nửa buồn buồn vì quả thật không có nó, trông anh dễ chịu vô cùng.
- Đang đêm thế này, chẳng hay công công đến đây có chuyện gì?
- Bẩm Hoàng tôn, nô tài là Liêm Tăng, phụng mệnh Thánh mẫu đến đây để vời người vào cung chầu. Xin Hoàng tôn nhanh chóng lên đường, đừng để Thánh mẫu phải đợi lâu ạ.
Đưa mắt nhìn khuôn mặt nhăn nheo, chảy xệ của viên hoạn quan già trước mặt, Duy Khiêm chỉ mỉm cười. Anh quay vào trong Nội Điện khoác thêm một chiếc áo bên ngoài. Bất chợt, anh đưa mắt nhìn ra bụi cây rung rinh gần đó, rồi thong thả dời bước theo Liêm Tăng một cách ung dung, mà không lên tiếng hỏi han hay thắc mắc Thánh mẫu đêm hôm phải vời anh vào cung để làm gì. Đợi cho hai người đi trước một quãng để bám theo mà không lộ tung tích, Nguyên Thiên lật đật chạy theo sau và qua mắt được đám lính cấm vệ canh cửa, khi bảo rằng nó là cận vệ có nhiệm vụ theo sau hộ giá Hoàng tôn. Vì sự tích sứ giả của thần Kim Quy gởi đến một cô gái tóc ngắn để làm cận vệ cho Hoàng tôn vang vọng khắp Hoàng cung, nên khi nhìn thấy bộ dạng gấp rút cùng vài lời hăm dọa của Nguyên Thiên - rằng Hoàng tôn mà có mệnh hệ gì thì các ngươi cũng chết chùm theo - những tên lính cấm vệ đưa mắt nhìn nhau, rồi cũng để Nguyên Thiên ra ngoài sau vài phút ngần ngừ.
Không bỏ lỡ thời cơ, Nguyên Thiên vội tăng hết tốc lực của mình để đuổi theo chiếc kiệu - ăn gì mà đi nhanh khiếp - dần mất hút sau những rặng liễu đong đưa. Nín thở băng mình trên con phố ban ngày náo nhiệt là thế, nhưng đêm xuống lại chìm trong sự thanh u đến rợn người, lâu lâu lại giật mình khi tiếng chó sủa văng vẳng trong các ngõ hẻm, nhưng mắt Nguyên Thiên chung quy vẫn không rời khỏi bóng dáng chiếc kiệu đang đi truớc mặt mình
Tòa Lượng phủ dần hiện ra trước mặt, tên Liêm Tăng sau khi nói đôi ba câu với hai tên lính gác cửa Tuyên Vũ, liền vẫy tay cho bốn tên lính khiêng kiệu nhanh chóng tiến vào. Dù trong bụng đang nôn nóng muốn đuổi theo, thế nhưng Nguyên Thiên cũng đủ tỉnh táo để biết được đây không phải chốn Hoàng cung. Nó không thể dựa vào cái chức cận vệ của Hoàng tôn mà bắt những tên lính mở cửa cho nó. Thứ nhất, nó không muốn phải lộ mình trước Duy Khiêm. Thứ hai, tên hoạn quan đêm hôm khuya khoắt vâng lệnh bà Thánh mẫu nào đó đến vời Duy Khiêm vào cung, chưa chắc sẽ cho nó đi theo cùng mà có thể bắt nó đứng đợi ở ngoài này.
Với sự hiếu động, tò mò, trực giác của Nguyên Thiên mách bảo rằng có chuyện gì đó khuất tất đằng sau lời mời đó, thế nhưng nó lại không nghĩ ra được chuyện mờ ám đó là chuyện gì. Càng nghĩ Nguyên Thiên càng nôn nóng, khi chiếc kiệu dần khuất và cánh cửa tam quan đồ sộ dần đóng lại. Nguyên Thiên vội rảo mắt nhìn quanh, nó đi dọc theo bức tường thành, rồi ngước nhìn lên bức tường nhẵn thín đồng thời một suy nghĩ táo bạo chợt hiện lên trong đầu. Hà hơi vào hai lòng bàn tay để lấy hơi ấm, Nguyên Thiên một tay áp lên tường, còn chân kia đang lấy đà để trèo lên, thì hốt nhiên một tiếng quát sấm sét vang lên, làm cho nó giật bắn cả mình.
- Dừng lại! Ngươi đang làm gì đó?
Từ trong bóng tối, Nguyên Thiên tái cả mặt khi trông thấy một đoàn lính tuần tra kinh thành xuất hiện, chiếc lồng đèn đỏ cầm trên tay soi tỏ nét mặt cương nghị đang ngạc nhiên của người lính dẫn đầu. Nhíu mắt lại, giơ cao chiếc lồng đèn lên, người lính vô cùng kinh ngạc khi trông thấy rõ gương mặt của kẻ đang lén la lén lút, vì không nghĩ rằng thiếp yêu của chúa Trịnh lại có thể trèo tường giữa đêm hôm khuya khoắt như thế này.
- Hồ…Hồ tiệp dư!
---------
Chú thích :
(*) Lời bài hát Họa tâm, OST của phim Họa bì.
★ Chương 49: Loạn
Giờ tuy đã là nửa đêm, thế nhưng đèn trong cung Huỳnh vẫn còn sáng. Từng giọt sáp đỏ chảy dài xuống chiếc chân đế bằng đồng, soi rõ khuôn mặt, tuy đã in hằn vết tích của thời gian, nhưng vẫn còn sắc sảo với bờ môi mỏng, đỏ tươi - của Thánh mẫu. Bà đang đứng xoay lưng về phía tên hoạn quan mặt trắng như bông, lặng thinh. Đồng hồ nhỏ giọt không ngừng rơi tí tách. Những ngón tay dài ngoằng, mềm oặt của Thánh mẫu Hoa Dung lần theo chuỗi hạt xanh ngọc bích trên tay mình một cách sốt ruột, như đang chờ đợi một điều gì đó sắp xảy ra.
- Bẩm Thánh mẫu! Nô tài đã đưa Hoàng tôn đến rồi ạ.
Mái tóc điểm bạc, chải mượt, xức dầu thơm của Thánh mẫu Hoa Dung khẽ lay động, khi bà ta đưa mắt ra hiệu cho viên hoạn quan phía sau mình ra mở cửa. Khoan thai ngồi xuống chiếc tràng kỷ, trên có đặt một hộp trầu cánh phượng đã têm sẵn, đôi lông mày được tô vẽ cẩn thận của bà nhướng lên thành dấu ngã, khi nhìn thấy Duy Khiêm thong thả tiến vào và chắp tay hành lễ cùng nụ cười thường trực trên môi. Đưa đôi mắt sắc sảo nhìn Duy Khiêm qua tấm rèm trúc mỏng manh, bờ môi đỏ của Thánh mẫu vẽ thành một nụ cười mỏng tênh, rồi cất giọng nói ngọt ngào của mình lên như nhịp phách gõ từng hồi.
- Hoàng tôn! Đêm hôm thế này ta còn vời người sang đây để nói chuyện, người không lấy làm bận tâm chứ?
Nhìn xuyên qua bức rèm trúc mỏng manh để trông thấy khuôn mặt Thánh mẫu đang ẩn hiện sau làn khói mỏng - tỏa ra từ chiếc đỉnh đồng đặt bên cạnh - Duy Khiêm điềm đạm trả lời.
- Thánh mẫu đã không bận tâm, thì tôi cũng đâu dám bận lòng.
- Ta cũng mong thế - Thánh mẫu bật ra một nụ cười khẽ khi Duy Khiêm từ tốn đáp lời - Đêm hôm khuya khoắt vời người đến đây, chung quy chỉ là ta bỗng nhiên muốn biết quan hệ giữa người và Thái tử như thế nào thôi.
- Quan hệ giữa tôi và Thái tử rất tốt, Thánh mẫu cứ yên tâm.
Lại một tiếng cười khẽ từ Hoa Dung Thánh mẫu, nhưng âm điệu của tiếng cười ấy bây giờ trở nên vút cao. Nhẹ nhàng chuyển mình đứng dậy, làm tấm rèm trúc lay động để lộ một thân hình mập mạp, sang trọng trong bộ áo nhung dát bạc lấp lánh, Hoa Dung Thánh mẫu nhướng mắt lên nhìn Duy Khiêm. Bà nhận ra anh chẳng mảy may sợ hãi uy quyền, trái lại khóe miệng còn nhếch lên hình thành một nụ cười lơ lửng và kín đáo. Trong giây phút ấy, đôi mắt Thánh mẫu thoáng lay động khi nghĩ quyết định mình dành cho thằng nhóc này, nó thật sự không dư thừa chút nào.
- Yên tâm? Người nghĩ ta yên tâm thế nào đây, Hoàng tôn?
Nhìn thẳng vào mắt của Hoa Dung Thánh mẫu, Duy Khiêm chẳng hề né tránh đôi con ngươi lấp lánh đó. Anh chỉ mỉm cười khi cuối cùng người đàn bà này cũng đã bộc lộ tâm ý của mình. Đối với Duy Cận, người mà Thánh mẫu luôn ra sức ủng hộ và bảo vệ ngôi vị Thái tử, thì một điều hiển nhiên, anh chính là một mối đe dọa ngầm. Có thể nói, muốn đảm bảo cho ngôi vị Thái tử của Duy Cận không bị lung lay, chỉ có một cách đó chính là nhổ bỏ cái gai - là anh - đi càng nhanh càng tốt. Và ngày hôm nay chính là lúc để cái gai ấy không còn có thể làm vướng bận mắt mình.
- Thánh mẫu, người muốn gì thì cứ nói thẳng ra, đừng quanh co như thế, tôi không theo nổi đâu.
Trong khoảnh khắc, đôi con ngươi của Thánh mẫu bất giác nở to ra, do không nghĩ đứa bé đứng trước mặt mình lại có thể ăn nói táo tợn như thế này. Ngày thường, bà vẫn nghe nội gián của mình - tức người cung nhân già trong Nội Điện - báo lại rằng, thằng bé này luôn cư xử có chừng mực, học hành tiến bộ và luôn nở nụ cười đáng yêu với mọi người. Thông qua những lời báo cáo ấy, trong đầu Thánh mẫu đã hình dung ra một thằng bé ngoan ngoãn, dễ bảo, lúc nào cũng khép nép vì còn bỡ ngỡ với thế giới bên ngoài sau mười mấy năm bị cầm tù. Thế nhưng hôm nay, khi đối diện với thằng nhóc ấy, bao suy nghĩ từ trước tới nay về nó của bà bỗng nhiên bị sai lệch hoàn toàn, khi đứng trước mặt bà là một đôi mắt tinh anh lạ thường, đồng thời từng câu từng chữ của nó đều rành mạch và sâu trong ấy là một ý nghĩa sâu xa, khó lường.
- Nếu ngươi đã nói thế, ta cũng không ngại gì mà nói thẳng cho người biết rằng…
- Rằng sự trở về của ngươi chính là mối đe dọa cho ngôi vị Thái tử của Duy Cận, thế nên hôm nay ta buộc lòng phải trừ khử ngươi. Có đúng vậy không, Thánh mẫu?
Duy Khiêm dứt lời liền mỉm cười. Nụ cười điềm nhiên ấy làm Hoa Dung Thánh mẫu trợn tròn mắt lên vì anh đã nói hết tuốt tuột những suy nghĩ trong đầu bà. Vịn tay vào mép bàn phủ khăn nhiễu điều, khuôn mặt tái nhợt của Thánh mẫu nhanh chóng lấy lại được vẻ điềm tĩnh như thường ngày, và rít khẽ qua hai hàm răng đang nghiến chặt lại của mình.
- Giỏi lắm! Ngươi quả thật rất thông minh. Ngươi còn thông minh hơn khi bao lâu nay có thể ngụy trang con người thật của mình bằng dáng vẻ ngoan ngoãn, hiền lành trước mặt bao nhiêu người.
- Thánh mẫu quá khen, lẽ ra tôi còn có thể tiếp tục đóng tròn vai kịch đối với người, nhưng Thánh mẫu diễn quá dở thì tôi có giỏi mấy cũng chẳng thể vớt vát được gì.
Nghe thấy những lời Duy Khiêm vừa thoát khỏi bờ môi, tức thì cơn giận trong lòng Thánh mẫu Hoa Dung như núi lửa bùng phát, vì đây là lần đầu tiên có người dám tỏ thái độ hỗn xược với mình trước mặt bao nhiêu người. Dù trong lòng đang phừng phực lửa giận, khuôn mặt hằn những vết chân chim của bà ta đỏ ửng lên như gấc chín, nhưng với cương vị Thánh mẫu vốn có, biết phát hỏa sẽ làm mất đi phong thái trang nhã của mình, Thánh mẫu Hoa Dung chỉ hừ nhạt một tiếng. Bà ta đưa tay cho tên hoạn quan Liêm Tăng dìu mình ngồi xuống ghế, rồi sau đó mỉm cười. Một nụ cười ngọt ngào như nọc độc bọc trong viên đường.
- Hay! Hay lắm! Rất hay, nếu đã biết hôm nay là ngày ngươi sẽ chết, vậy tại sao ngươi còn đến đây làm gì?
Đưa mắt nhìn ra hai bức màn đang lay động. Thấp thoáng sau đó là những tên lính lực lưỡng, chỉ đợi Thánh mẫu ra lệnh là chúng sẽ xông lên và bắt lấy anh. Khóe miệng của Duy Khiêm vẽ thành một nụ cười. Biết rằng sớm muộn chuyện này cũng sẽ tới, vì ngày nào còn có anh, thì ngày đó anh sẽ là trở ngại lớn nhất cho việc Duy Cận giữ vững ngôi vị thái tử, thế nên Duy Khiêm chẳng cần đóng kịch hay tỏ vẻ ngoan ngoãn trước mặt bà lão đầy mưu mô và toan tính này làm gì. Nếu thoát được lần này, thì lần sau chắc chắn bà ta cũng sẽ bày ra quỷ kế khác để ép anh vào đường cùng. Đường cùng có nghĩa là chết? Dù gì thì anh cũng đâu còn sống, nên cái từ “chết” kia có nghĩa lý gì đối với anh?
- Tôi đến đây để cho bà biết bản chất tôi là thế nào. Chí ít thì trước khi chết, tôi cũng không nỡ để bà hiểu sai sự thật về tôi : một thằng bé ngoan ngoãn và dễ bảo.
Bật cười trước đôi mắt mở to của Thánh mẫu, Duy Khiêm lướt mắt qua khuôn mặt đang nghệch ra của Liêm Tăng và tiếp tục mỉm cười. Nụ cười ấy khiến trái tim của Thánh mẫu chợt hẫng một nhịp. Bờ môi mỏng giật giật kích động do cảm thấy ẩn đằng sau đôi mắt nâu mật và nụ cười đáng yêu kia, là bao oán hận đang đè nén, muốn nhấn chìm người khác trong biển lửa của chính mình. Không được! Không! Ta phải giết nó, ta nhất định phải giết thằng bé đó để tránh hiểm họa về sau.
- Quân đâu! Mau mang thằng nhóc này dìm xuống sông Nhĩ Hà(*) cho ta.
Rít lên từng tiếng trong cuống họng, bàn tay run run của Thánh mẫu chỉ về phía Duy Khiêm đầy tức giận, như muốn tống khứ kẻ đang đứng trước mặt mình càng nhanh càng tốt. Sau mệnh lệnh đó, bọn tay chân của Thánh mẫu từ sau tấm màn trúc nhất loạt xông ra và nhào về phía Duy Khiêm, định tóm gọn anh và trói vào cáng đem dìm xuống sông. Thế nhưng khi thấy ánh mắt lạnh như sương của Duy Khiêm nhìn thẳng vào mắt mình, tất cả bọn chúng vội vàng khựng lại. Cái nhìn vừa quyền uy, vừa nộ khí lại thấp thoáng ánh lửa bạc trong ấy khiến chúng trở nên e dè, ngập ngừng và lúng túng khi không dám chạm vào người anh. Vẫn đứng yên bất động ở đó, Duy Khiêm hướng mắt về phía Thánh mẫu - đang kinh ngạc vì không hiểu chuyện gì đang xảy ra - và khuôn mặt trắng bệch bệnh hoạn của Liêm Tăng. Duy Khiêm chỉ mỉm cười chế giễu, rồi ung dung tiến lại chiếc cáng đang đặt sẵn dưới đất từ bao giờ. Nhác thấy Duy Khiêm tiến đến, tên phu cáng vội lùi lại, để cho Duy Khiêm ung dung nằm lên cáng, hai tay anh vòng qua đầu trông một tư thế vô cùng thoải mái, rồi ngân nga nhẹ nhàng.
Thì ái ái kì tương bãi hề, kết u lan nhi duyên trữ
Thế hỗn trọc nhi bất phân hề, hảo tế mĩ nhi tật đố (**)
Những chiếc móng tay dài ngoằng, trắng nhợt của Thánh mẫu bấm sâu vào mặt ghế, khuôn mặt điềm tĩnh khi nãy giờ trở nên méo mó, khó coi, khi nghe Duy Khiêm đọc hai câu trong bài thơ Ly tao của Khuất Nguyên (***). Khuất Nguyên vì hôn quân vô đạo, vì gian thần gièm pha mà phải nhảy xuống sông Mịch La tự vẫn. Còn thằng nhóc này ngầm ví sông Nhĩ Hà như Mịch La, rõ ràng ý nói Thánh mẫu ta chính là kẻ gian thần đã hãm hại nó, còn bản thân nó chính là Khuất Nguyên. Càng nghĩ, Thánh mẫu Hoa Dung càng giận đến độ mặt hoa trắng bệch. Bà ta rít lên trong cổ họng khi nhìn thấy thuộc hạ của mình và hai tên phu cáng còn chần chừ, chưa chịu khiêng đi.
- Các ngươi còn đứng trơ ra đó làm gì, mau khiêng đi!
Nguyên Thiên chạy băng qua dãy hành lang treo những chiếc lồng đèn đung đưa trong gió. Trong đời nó chưa bao giờ chạy nhanh đến thế, do lo sợ Duy Khiêm sẽ gặp nguy hiểm vì cuộc gặp mặt trong đêm. Bay nãy, Nguyên Thiên đã vô cùng hoảng hốt khi bị lính đi tuần cửa đông bắt gặp, vì đêm hôm thanh vắng lại có hành động vô cùng khả nghi, mà dù có ba cái miệng Nguyên Thiên cũng không thể nào biện hộ được cho mình. Chẳng biết trời thương kẻ hiền lành, hay vì Nguyên Thiên thật sự may mắn, đám quân cấm vệ đã nhầm tưởng nó là vị Hồ Tiệp dư nào đấy và dẫn nó đến gặp Trịnh Khải, trước sự ngạc nhiên của anh, do không nghĩ Nguyên Thiên sẽ viếng thăm đột xuất như thế này.
Gặp được Trịnh Khải, Nguyên Thiên mừng còn hơn bắt được vàng. Nó vội vàng kể hết những gì mình đã thấy được cho Trịnh Khải biết, rồi sau đó tất tả cùng anh đến cung Huỳnh để giải cứu Duy Khiêm. Trịnh Khải yên lặng đi phía trước. Những bước chân của anh như lướt trên mặt đất, do e rằng nếu đến chậm một bước tất sẽ có chuyện không hay xảy ra. Thông qua những gì Nguyên Thiên đã nói, Trịnh Khải nhanh chóng đoán viết được ý định của bà nội anh là gì, nhưng anh cũng không ngờ rằng nó lại diễn ra quá nhanh như thế này. Nghĩ đến viễn cảnh Duy Khiêm bị chính Thánh mẫu giết hại, đôi mày thanh tú của Trịnh Khải cau lại. Trước đây anh cũng đã nghĩ đến chuyện đó, và định bụng sẽ lựa lời khuyên nhủ bà nội mình, nhưng vì công việc triều chính bận rộn, kèm theo mối ưu tư về nạn kiêu binh truớc mặt vẫn còn đó, thế nên Trịnh Khải chưa kịp thực hiện ý định ấy thì Hoa Dung Thánh mẫu đã đi trước một bước. Nếu như tối nay Nguyên Thiên không kịp thời đến báo, thì có lẽ anh cũng không hay biết phủ chúa đang xảy ra chuyện gì.
Cung Huỳnh dần hiện ra trước mặt, Trịnh Khải khoát tay ra hiệu cho những tên thái giám đang canh gác ở đó im lặng, vì không muốn đả động đến khu hậu cung đang chìm trong cảnh thanh u. Cánh cửa bật mở, Trịnh Khải nhanh chóng lách người vào. Đôi mắt sâu thẳm của anh chợt tối lại khi bắt gặp cái nhìn nửa ngạc nhiên nửa lo lắng của Hoa Dung Thánh mẫu, do không nghĩ rằng anh lại xuất hiện ở đây đúng lúc thế này.
- Khải nhi! Khuya thế này rồi…
- Hoàng tôn đâu?
Chạy theo Trịnh Khải vào trong cung Huỳnh, Nguyên Thiên dấn lên một bước khi trông thấy tên hoạn quan Liêm Tăng đang đứng lấp ló sau bức rèm trúc. Nó tính la lên thì Trịnh Khải đã đưa tay ngăn lại. Nó đành nén lại, nhẫn nhịn mà trong lòng nóng như lửa đốt, do lão hoạn quan này ở đây còn chiếc kiệu kia thì đã biến mất tăm. Quét mắt nhìn khắp gian phòng sáng rực ánh nến, Trịnh Khải nhẹ nhàng hỏi trước để ngăn Thánh mẫu cố ý hàn huyên nhằm kéo dài thời gian. Né tránh ánh mắt của anh, Hoa Dung thánh mẫu chậm chạp ngồi xuống chiếc trường kỷ lót nệm, đoạn trả lời.
- Về rồi! Sau khi đã trò chuyện với ta xong, ta đã cho phép nó về.
- Thánh mẫu! Con hỏi lại một lần nữa, người hãy nhìn vào mắt con và trả lời, Hoàng tôn đâu?
Trịnh Khải thong thả tiến đến trước mặt Thánh mẫu và ngồi xuống đối diện bà, trong tình cảnh đó, Thánh mẫu Hoa Dung không còn cách nào khác đành phải nhìn vào mắt Trịnh Khải. Nhìn vào đôi mắt sâu thẳm ấy, trái tim của bà như mềm lại, khi chất chứa trong đó là một nỗi ưu tư thăm thẳm, mênh mông và một ma lực vô hình nào đó khiến người khác không thể cưỡng lại. Nở một nụ cười nhẹ nhàng, Trịnh Khải nhìn vào đôi mắt cằn cỗi vết chân chim của Thánh mẫu. Cái nhìn như soi thấu những ước muốn, những khát khao, những dục vọng và nỗi niềm sâu kín của bà góa phụ, quyền cao bậc nhất trong chốn hậu cung.
- Thánh mẫu! Bây giờ người hãy nói cho con biết, Hoàng tôn đang ở đâu?
Nhẹ nhàng nhắc lại câu hỏi của mình ban nãy, Trịnh Khải kiên nhẫn đợi Hoa Dung Thánh mẫu trả lời, vì anh biết rằng đối với bà, chỉ có mềm mỏng mới uốn cong được bản tính kiêu ngạo thường trực trong dòng máu trâm anh thế gia đó. Thở dài ra một hơi, vì dường như những ngóc ngách suy nghĩ của mình đều bị đứa cháu trai này nhìn thấu, đôi bàn tay gầy guộc của thánh mẫu xiết chặt lại, rồi lặng lẽ nói sau vài khắc ngần ngừ.
- Ta đã sai thuộc hạ mang nó dìm xuống sông Nhĩ Hà.
Ngay sau khi lời Thành mẫu Hoa Dung vừa thốt ra, đôi mắt Trịnh Khải chợt tối lại, trong khi Nguyên Thiên lại vô cùng tức giận vì không ngờ một bà lão trông đoan trang, phúc hậu thế này mà lại có những hành động ác độc đến không ngờ.
- Bà thật là độc ác. Người ta đã làm gì hại đến bà mà bà phải dìm chết người ta như vậy chứ? Bà…
- Nguyên Thiên, mau đi theo Liêm Tăng. Hắn ta sẽ dẫn cô đến sông Nhĩ Hà. Nhanh lên, nếu chậm trễ e tính mạng của Duy Khiêm sẽ không còn…
Há miệng toan chửi thêm vài câu cho hả cơn giận vì lòng dạ thâm sâu độc ác của bà lão này, Nguyên Thiên vội vàng ngưng bặt khi Trịnh Khải đưa mắt nhìn nó và hất đầu về phía Liêm Tăng. Biết chậm trễ thêm một giây một phút nào nữa thì Duy Khiêm sẽ nguy hiểm tới tính mạng, thế nên dù muốn mắng bà lão kia một trận cho hả- mặc cho mình có bị khép vào tội phạm thượng ra sao, nhưng Nguyên Thiên cũng đành nuốt cục tức vào lòng và chạy theo sau Liêm Tăng để đuổi theo đám thuộc hạ kia. Lòng nó xôn xao, thầm khấn vái mình sẽ đếp kịp lúc, trước khi chúng kịp dìm Duy Khiêm xuống sông Nhĩ Hà.
Đưa mắt nhìn theo bóng dáng bé nhỏ của Nguyên Thiên và Liêm Tăng mất hút trong màn đêm, Trịnh Khải thong thả đứng lên. Những ngón tay mảnh khảnh của anh chạm vào cánh hoa đào trắng mượt trong bức tranh vẽ mùa xuân, mà không nói một lời nào trước sự ngập ngừng của Hoa Dung Thánh mẫu, khi nhác thấy đôi mày thanh tú đang chau lại của cháu mình.
- Khải nhi! Về việc ép Hoàng tôn…
- Đó là chuyện bất đắc dĩ. Nhưng chuyện bất đắc dĩ đó chung quy cũng vì liên quan đến ngôi vị Thái tử, phải không Thánh mẫu?
Từ từ quay lưng lại, đứng đối diện với Thánh mẫu làm bà phải ngước lên nhìn, Trịnh Khải ung dung tiếp lời, mà trong giọng nói không hàm chứa bất kỳ sắc thái nào.
- Thánh mẫu, lúc trước người bàn nói với con về ngôi vị Thái tử, và con cũng đã nói với người rằng ngôi vị thái tử là của Duy Cận. Không cần đến sự có mặt của Duy Khiêm hay sự ủng hộ của người thì cũng không ai có thể lay chuyển nó. Con còn nhớ mình đã nói thế.
Im lặng trước những lời nhẹ nhàng nhưng quả quyết của Trịnh Khải, đôi mắt của Hoa Dung Thánh mẫu khẽ lay động, khi không muốn nhìn nhận trong chuyện này mình thật sự đã sai lầm.
- Hôm nay người đã làm gì, Thánh mẫu? Người đã đem Hoàng tôn dìm xuống sông Nhĩ Hà. Nếu chuỵên đó thành công, ngôi vị của thái tử của Duy Cận sẽ được bảo toàn vì từ nay sẽ không còn ai có thể tranh giành với cậu ta. Thế nhưng nếu chuyện này không thành công và lộ ra thì kết quả cuối cùng sẽ là gì? Người có gài thuộc hạ trong cung, nên chắc chắn biết rõ Hoàng tôn được lòng mọi người và ba quân thế nào. Người có nghĩ rằng một khi chuyện ấy bị phát hiện thì sẽ gây nên làn sóng bất mãn trong binh lính. Họ sẽ nổi dậy phản kháng, quyết đòi lại công bằng cho Hoàng tôn, đến lúc đó cái ngôi vị thái tử của Duy Cận có còn vững nổi hay không?
- Nhưng thằng bé Duy Khiêm ấy quả thật không tốt. Ta đã thấy ánh mắt của nó lấp lánh ý muốn trả thù. Nó là quỷ dữ, nó không phải con người!
- Thánh mẫu! Vậy không phải những kẻ đã biến nó thành quỷ dữ là con người hay sao?
Những giọt mồ hôi túa ra trên khuôn mặt trắng bệch của Hoa Dung Thánh mẫu, vì chuyện bà gài nội gián trong cung là hoàn toàn bí mật, thế mà Trịnh Khải lại biết được điều đó. Anh biết mà lại không đả động tới chỉ vì anh không muốn can thiệp vào những chuyện bà đang làm. Bầu không khí trong Huỳnh cung chợt trở nên ngột ngạt, chỉ có tiếng sáp nến rỏ khẽ và hơi thở chậm chạp của Thánh mẫu Hoa Dung. Những điều Trịnh Khải vừa nói không phải bà không nghĩ đến, nhưng cái hậu quả để lại thì quả thật không sao lường trước được. Nạn kiêu binh chưa được dẹp, nay vì chuyện của bà gây ra mà tòa Lượng phủ này lại một phen sóng gió thì quả thật không biết phải ăn nói thế nào với hương hồn của tiên vương dưới suối vàng.
Trong khi Trịnh Khải ở lại cung Huỳnh tiếp chuyện Thánh mẫu, thì Nguyên Thiên đang chạy như bay trên những viên gạch đỏ lát trong phủ chúa. Vất vả bám theo sau nó là Liêm Tăng, nhưng không được khá khẩm mấy khi y đang thở hồng hộc, khuôn mặt đỏ ửng lên như quả cà chua chín do chạy từ nãy đến giờ chưa được dừng chân. Phải nói chưa bao giờ trong đời, Nguyên Thiên lại chạy hết ga như thế này. Cái ý nghĩ Duy Khiêm sẽ bị dìm xuống sông, chết đuối đang ám ảnh tâm trí nó, làm trái tim của nó đập gấp gáp liên hồi. Thầm khấn vái trời phật che chở cho Duy Khiêm trước khi nó tìm thấy anh, đôi mắt của Nguyên Thiên chợt mở to, bởi nhìn thấy một đoàn người khiêng một chiếc cáng, có rèm buông kín mít, đi trước mặt. Trong giây phút ấy, Nguyên Thiên mừng hơn bao giờ hết, nó vội vàng quát to trong khi Liêm Tăng muốn lăn ra đất vì sắp xỉu tới nơi.
- Đứng lại mau! Chúa công ra lệnh cho các ngươi mau quay trở lại.
Đoàn người khiêng cáng đang đi băng qua hồ sen giật thót mình và vội vàng quay lại, mặt ai nấy tái nhợt khi trông thấy Nguyên Thiên chạy nhanh về phía mình. Biết có người phát hiện tức mọi chuyện đã bị bại lộ, nhưng vì đây là lệnh của Thánh mẫu, nếu làm không xong nhiệm vụ thì cả bọn sẽ bị rơi đầu, thế nên đám người khiêng cáng vội đi nhanh hơn mặc cho Nguyên Thiên la hét ầm ĩ ở phía sau.
Có vẻ như bị tiếng la chói lói của Nguyên Thiên đánh động, từ phía tả của hồ sen, hai người lính tuần tra lù lù xuất hiện với một khuôn mặt bực dọc vì trong đêm khuya tĩnh lặng, tiếng gào thét của Nguyên Thiên chẳng khác nào loa phát thanh xa cảng giữa trưa hè. Trái ngược với vẻ mặt cau có của cả hai, lần đầu tiên Nguyên Thiên tỏ ra vui mừng khi trông thấy lính tráng đến như thế. Nó vội vàng chỉ tay về phía đoàn người khiêng cáng và bắc tay làm loa, la lên liên hồi.
- Hay quá, mấy anh lính ơi! Mấy anh mau ngăn bọn người này lại đi, họ đang khiêng Hoàng tôn của các anh ra dìm ở sông Nhĩ Hà đó. Mau lên! Mau ngăn họ lại đi!
Dù chẳng biết Nguyên Thiên nói đúng hay sai, thế nhưng việc một đoàn người mặt mũi lấm la lấm lét, đang khiêng một chiếc cáng rèm che kín mít đi nhẹ nhàng trong đêm hôm thế này quả thật rất khả nghi. Đưa mắt nhìn nhau để hội ý, hai tên lính nhanh chóng đứng cản trước mặt đám tay chân của Thánh mẫu Hoa Dung, rồi dò xét từng khuôn mặt trắng bệch vì sợ, khi nhận ra hai người lính này trong đám kiêu binh, đoạn hất hàm.
- Mau mở rèm cáng ra.
Nhận thấy tình hình vô cùng căng thẳng, đi không được và ở cũng chẳng xong, nếu kế hoạch này mà thất bại chắc chắn bọn chúng sẽ bị Thánh mẫu trừng phạt. Nhưng chẳng thà bị Thánh mẫu trừng phạt vẫn còn hơn bị kiêu binh quậy cho nhà không còn mảnh ngói như tấm gương của quận Huy. Sau phút ngần ngừ, bọn chúng từ từ thả cáng xuống. May nhờ có hai người lính tuần ngăn cản, Nguyên Thiên đã có thể đuổi kịp đám tay chân của Kim Hoa bà bà - theo cái cách mà nó gọi Thánh mẫu Hoa Dung. Cúi gập người xuống thở lấy thở để, khuôn mặt bầu bĩnh của Nguyên Thiên bây giờ đỏ bừng như say rượu và ướt sũng mồ hôi. Đang còn hít thở không khí để điều chỉnh nhịp tim bình ổn trở lại, Nguyên Thiên thoáng giật mình khi tên lính đứng bên cạnh vọt miệng reo lên, ngay sau khi đã thấy rõ khuôn mặt của cô gái này.
- Ra là cô! Thảo nào tôi nghe giọng quen quen.
Nhíu mày nhìn lại người lính canh, đôi mắt đương nheo lại của Nguyên Thiên chợt mở to, khi nhận ra đây chính là một trong ba người lính mà hôm rồi nó đã cứu ở con hẻm tối tăm. Không bỏ lỡ cơ hội, Nguyên Thiên vội vàng níu áo người lính và chỉ vào đám tay chân của bà Thánh mẫu đang đứng khép nép ở đó, đoạn nhấn mạnh từng lời.
- May quá, gặp lại anh ở đây! Đó, anh coi, bọn người này tính đem Hoàng tôn của tôi ra bờ sông Nhĩ Hà để dìm đó. Anh coi chúng có còn nhân tính không?
Thấy Nguyên Thiên giận ra mặt, người lính canh liền liếc mắt về phía đám người đó một cái sắc lẻm để cảnh cáo, rồi ra hiệu cho người lính đứng kế bên mở chiếc rèm ra. Về phần Duy Khiêm, từ khi ra khỏi cung Huỳnh, anh vẫn nằm thong dong trên cáng. Chiếc cáng theo nhịp chân người lắc lư cứ thế tiến gần đến sông Nhĩ Hà, để chấm dứt mạng sống của anh nhằm bảo vệ ngôi vị Thái tử của Duy cận khỏi lung lay. Nằm trong cáng, đôi mắt Duy Khiêm nhìn lơ lửng trên khoảng không nhất định. Từng mảng ký ức trong đầu anh đang trôi qua như một thước phim quay chậm. Nhạt nhòa. Nhạt nhòa với những khoảng trắng mơ hồ. Anh còn nhớ mình đã từng có gia đình, vỏn vẹn trong sáu năm. Thế rồi những ngày tháng còn lại, anh chẳng nhớ được gì nữa. Mùi vị hạnh phúc thế nào anh không nhớ, chỉ nhớ được bóng tối đã bầu bạn với tâm hồn anh trong suốt mười một năm trời. Trong suốt mười một năm trời...
Trong suốt mười một năm trời...
Duy Khiêm bất giác chớp mắt. Dường như có cái gì đó đang ngọ nguậy trong lòng anh, khiến anh bất giác đưa tay lên chạm vào ngực, nơi trái tim mình đang đập nhè nhẹ. Phải! Anh đã từng có gia đình, rất vui, rất hạnh phúc, cho dù bây giờ anh không định nghĩa được vui là gì, hạnh phúc là gì, thế nhưng ít ra anh cũng đã từng có được cái cảm giác mà mình đã quên. Lẽ ra, gia đình anh sẽ mãi mãi như thế nếu một ngày nọ, tai họa không ập xuống. Chính vì lòng ghen tuôn, đố kỵ trong mỗi con người nên cha anh đã không quay trở về, còn ba anh em anh, mỗi người bị giam riêng một nơi, ngay cả mẹ cũng không được gặp. Trong thời gian đó, anh đã sống như thế nào? Anh đã làm sao để có thể vượt qua bóng tối đó? Anh cũng không nhớ nữa. Nhưng rồi một ngày, anh chợt nhận ra rằng bóng tối là an toàn nhất cho mình, và ánh sáng quả là thứ xa xỉ nhất trong cuộc đời anh. Mười một năm trời, từ một đứa bé chỉ mới sáu tuổi nay đã trở thành một chàng thanh niên. Vậy tuổi thiếu niên của đứa bé ấy đã trôi qua như thế nào? Sức sống của đứa bé ấy đã dần hao mòn ra sao? Ai đã tước đoạt của anh tuổi xuân ấy? Ai có quyền để mười một năm của anh trôi qua một cách phí hoài? Ai có quyền tước đoạt thời gian của anh? Ai đã tước đoạt tuổi thơ của anh? Ai đã tước đoạt tự do của anh? Ai đã tước đoạt hạnh phúc, lòng tin, nhiệt huyết và cả khao khát của anh? Ai? Là ai? Là ai?
“Con phải sống”
.... Sống để trả thù cho phụ thân.
Trái tim của Duy Khiêm bất giác đập nhanh một nhịp khi nhớ ra lời hứa năm nào với bản thân mình để tồn tại trong chốn ngục tù ấy. Anh đã nhớ, anh đã nhớ ra rồi. Ký ức ngủ quên bao nhiêu lâu nay của anh đã được thức tỉnh. Anh sống vì lý do gì? Anh có thể tồn tại được trong mười một năm trời không biết đến ánh trăng là gì, là vì lý do nào? Anh đã biết! Phải! Nhờ ơn Thánh mẫu, bây giờ anh đã biết…
Phụ thân!
Con xin lỗi!
Hãy để con phản bội người, một lần duy nhất này thôi…
Chiếc rèm trắng được vén lên, Nguyên Thiên và tên lính canh nhìn vào. Cả hai bất giác đờ nguời ra khi nhìn thấy những giọt nước mắt lấp lánh trên khuôn mặt trẻ con của Duy Khiêm. Anh đang khóc. Hàng huyết lệ tuôn trào trên khóe mắt, lăn dài trên má và đọng lại bờ môi. Trông thấy những giọt lệ đỏ thắm vì nhuộm máu đang lăn dài trên mặt Duy Khiêm ấy, Nguyên Thiên hoảng hồn la lên. Nó hấp tấp xé toạt váy áo của mình ra và chấm lên mặt anh. Nhìn lòng bàn tay mình thấm đầy lệ máu, khuôn mặt Nguyên Thiên tái nhợt lại. Trong giây phút ấy, nó nghe lòng mình thốn lên, đau nhói, bất lực, nhức nhối và yếu mềm hơn bao giờ hết. Cẩn thận lau những giọt lệ máu còn vương trên mặt Duy Khiêm vì sợ sẽ làm anh đau, nhưng chẳng hiểu nó lau thế nào mà càng lau máu lại càng nhiều, để rồi khi Duy Khiêm ngẩng mặt lên nhìn nó, do thấy tay mình ấm ấm, thì đã thấy gương mặt nó nhạt nhòa nước mắt vì lo âu.
Trông thấy Duy Khiêm rơi lệ máu, còn Nguyên Thiên ngồi kế bên cũng nước mắt chan hòa, hai người lính canh đều cảm thấy xót xa. Từng mạch máu trong người họ như run lên bần bật vì ức chế, đồng thời phẫn nộ giùm cho Hoàng tôn và ân nhân cứu mạng của mình. Thế nhưng đến khi họ ngẩng đầu lên tra xét, thì đã thấy đám tay chân không biết của ai đã bỏ chạy tán loạn từ bao giờ. Biết có đứng đây chửi cũng chẳng được ích gì, hai người lính dìu Duy Khiêm nằm lại xuống cáng, sau đó một người vội vã chạy đi thông báo cho những kiêu binh còn lại về chuyện xảy ra đêm nay, quyết tìm ra kẻ chủ mưu giấu mặt nhằm đòi lại công bằng cho Hoàng tôn. Chính vì lẽ này nên Nguyên Thiên lãnh phần cáng còn lại. Lặng lẽ cùng người lính áo xanh khiêng cán lên, đưa Duy Khiêm trở về phủ chúa để chữa trị đôi mắt kịp thời, nếu không muốn bị mù lòa, Nguyên Thiên chùi nhanh những giọt nước mắt chưa kịp rơi của mình. Nó vừa đi vừa ngó chừng Duy Khiêm để xem anh có triệu chứng đau đớn gì không, đến khi bắt gặp ánh mắt sâu thẳm của Duy Khiêm đang nhìn mình, Nguyên Thiên vô cùng bối rối vì chưa lần nào anh nhìn nó như thế. Rồi sau đó, nó bỗng nhiên ngẩn ngơ khi nghe anh thì thầm...
- Đồ ngốc!
---------
Chú thích :
(*) Sông Nhĩ hà: sông Hồng
(**) Trích hai câu thứ 14 và 15 trong bài thơ Ly tao của Khuất Nguyên. Dịch thơ :
14. Người mỏi mệt, ngày đà sẩm tối,
Đứng bơ phờ tay với bông lan!
15. Cõi đời nhơ đục muôn vàn,
Ghen tài ghét đẹp thói càn đã quen!
(***) Khuất Nguyên là nhà thơ được nhân dân Trung Quốc kính trọng nhất và yêu thích nhất trong hàng nghìn năm nay. Ông sống vào thời kỳ Chiến Quốc (từ năm 475 đến năm 221 trước công nguyên ). Ông rất trung thành và yêu nước, hết lòng phụng sự vua Sở, thành tâm muốn góp sức cho quê hương nhưng bị người khác vu cáo hãm hại, Khuất Nguyên bị nhà vua nước Sở xa lánh. Năm 278 trước công nguyên, quân đội nước Tần đánh phá Dĩnh Đô, thủ đô nước Sở. Nước tan nhà tan, Khuất Nguyên không chịu nổi nỗi căm phẫn, nhảy xuống sông tự tử.
★ Chương 50: Đối mặt
Nguyên Thục choàng tỉnh giấc.
Ánh đèn lù mù trong phòng tỏa ra những tia sáng dìu dịu, hắt vào khuôn mặt ngơ ngác của nó khi nghe thấy tiếng bước chân chạy rầm rập phía bên ngoài. Vội vàng bước xuống giường, tay với lấy chiếc áo, khoác vào người cho đỡ lạnh, Nguyên Thục cầm chiếc đèn cầy để trên bàn và nhè nhẹ lần ra ngoài, nhằm tránh gây tiếng động có thể đánh thức hai nàng cung nữ đang say ngủ của mình. Hé mắt nhìn ra cửa, Nguyên Thục ngạc nhiên thầm khi trông thấy phủ chúa đầy những binh lính từ khắp các nơi túa vào. Những ánh đuốc sáng rợp cả một vùng, những tiếng la hét, quát tháo gì đó âm vang ầm ĩ. Nguyên Thục tuy không nghe rõ, nhưng căn cứ qua hành động và khuôn mặt, nguyên Thục có thể thấy được họ đang rất giận dữ và kích động, nhưng cụ thể là vì chuyện gì đó thì nó không tài nào đoán ra.
Quét mắt nhìn ra dãy hành lang sáng mờ, Nguyên Thục cắn nhẹ môi khi thấy phòng nào phòng nấy cửa đóng im ỉm, chẳng có ai lảng vảng quanh đây như nó vì sợ sẽ chuốc lấy rắc rối không cần thiết vào người. Thoáng lo lắng cho Trịnh Khải khi kiêu binh túa vào ngày càng đông, Nguyên Thục lần theo hướng kiêu binh tập trung tới, vì nghĩ rằng Trịnh Khải chắc chắn đang ở đó để dẹp yên khung cảnh nhốn nháo này. Quả đúng như nó dự đoán, khi tới gần Trạch các, Nguyên Thục trông thấy Trịnh Khải đang đứng yên trên lầu. Bóng dáng anh nghiêng dài xuống đất, đôi mắt sâu hun hút đang hướng về phía trước, nơi đám kiêu binh đang dồn về đông như kiến khi nghe được tin động trời.
- Trịnh Khải! Anh không sao chứ?
Mặc cho đám kiêu binh đang xô đẩy, Nguyên Thục vội vàng bước lên bậc thang bằng gỗ mun, nó níu lấy tay Trịnh Khải và hỏi nhỏ. Thoáng chau mày khi Nguyên Thục đến ngay vào lúc dầu sôi lửa bỏng, Trịnh Khải nhẹ đẩy nó ra sau lưng mình, khi thấy ánh mắt kiêu binh đổ dồn về phía Nguyên Thục, đoạn chậm rãi đáp lời.
- Đêm hôm khuya khoắt thế này, cô ra đây làm gì? Mau quay trở về hậu cung đi.
- Không! Tôi muốn biết chuyện gì đang xảy ra, thế nên tôi sẽ không quay trở về hậu cung nếu chuyện này còn chưa chấm dứt. Hơn nữa, vì…tôi lo cho anh
Những lời nói cuối cùng, Nguyên Thục nói rất nhỏ, nhỏ đến độ Trịnh Khải phải nghiêng người lắng nghe mới có thể hiểu rõ nó đang nói những gì. Thở nhẹ ra một tiếng, Trịnh Khải hướng mắt về phía cánh cửa lầu Trạch các đang đóng chặt, rồi xiết nhẹ lấy tay Nguyên Thục do nhận ra bàn tay nó đang lạnh ngắt vì sương đêm, đoạn thì thầm.
- Mau vào trong Trạch các. Nguyên Thiên đang ở trong đó, cô ấy sẽ thay tôi giải thích cho cô tất cả mọi chuỵên. Ở ngoài này không tốt cho cô đâu.
- Nhưng…
- Nghe lời tôi! Đi đi!
Dù trong bụng ngạc nhiên vô kể khi Nguyên Thiên cũng đang có mặt trong Trạch các, Nguyên Thục vẫn không tránh khỏi lo lắng khi Trịnh Khải yêu cầu nó quay trở vào trong. Phía dưới là đông đảo ba quân đang nhốn nháo, nổi loạn, phía sau là lầu Trạch các cửa đóng im ỉm, còn Trịnh Khải, anh đang đứng ở giữa, yên lặng, vững vàng như có thể giang tay đón nhận bất cứ cơn thủy triều nào. Nhìn thấy khung cảnh ấy, Nguyên Thục như cảm thấy lòng mình dâng lên một cơn sóng ngầm. Nó níu chặt lấy tay Trịnh Khải, ánh mắt ươn ướt nhìn anh như một chú thỏ con vì lo lắng, sau đó chậm chạp quay người trở vào trong, khi đọc được sự kiên quyết trong đáy mắt dịu dàng của anh. Ngay giây phút ấy, Nguyên Thục cảm thấy mình bất lực hơn bao giờ hết. Chứng kiến khó khăn và những gì Trịnh Khải phải đối mặt, nó chỉ có thể đứng trơ mắt nhìn mà chẳng giúp sức cho anh được chuyện gì. Ý nghĩ mình vô dụng ấy làm cho Nguyên Thục cảm thấy vô cùng khó chịu. Đôi bàn tay nó không ngừng cuốn tròn vạt áo khi nghĩ đến việc phải làm sao mới có thể giúp đỡ anh, mà chỉ dựa vào chính sức lực nhỏ nhoi, không quyền, không thế, của mình.
- Chị! Khuya thế này rồi, sao chị vẫn còn ở đây?
Đang rối bời vì không biết phải làm sao để giúp Trịnh Khải, Nguyên Thục giật mình ngước lên khi giọng nói lảnh lót của em mình vang vọng bên tai. Nguyên Thiên đang ngồi trên ghế, khuôn mặt bầu bĩnh lấm lem của nó phảng phất nét lo âu. Bàn tay nhỏ nhắn không ngừng chấm chiếc khăn bông đã thấm nước lên mặt Duy Khiêm - mắt bịt một dải băng, đang nằm trên giường- một cách cẩn thận, để lau những giọt thuốc từ dải băng chầm chậm tuôn ra. Lặng lẽ ngồi xuống cạnh Nguyên Thiên, Nguyên Thục bóp chặt tay em mình một cái do nhận thấy đôi mắt nó đang long lanh ngấn nước. Nỗi sợ Duy Khiêm sẽ lâm vào cảnh mù lòa vẫn đè nặng trong lòng nó, mặc cho vết thương ấy đã được Trịnh Khải châm cứu và bôi thuốc trị thương.
- Chuyện này là sao đây? Em kể cho chị biết đi!
Ngước mắt lên nhìn Nguyên Thục, Nguyên Thiên hơi ngần ngừ trong giây lát, nhưng sau đó nó cũng chậm rãi kể hết cho Nguyên Thục chi tiết đầu đuôi câu chuyện. Im lặng nghe Nguyên Thiên kể, cho đến khi nó đã kể xong mà Nguyên Thục vẫn ngồi trầm ngâm, bởi nghĩ đến những gì Trịnh Khải đang phải giải quyết ngoài kia. Quét mắt một vòng Trạch các, ban nãy Nguyên Thục còn đang rối bời và chỉ chú ý tới mỗi Nguyên Thiên, thế nên nó cứ đi thẳng tới chỗ em mình ngồi mà không để ý trong lầu còn có ai. Đến khi quan sát lại, thì mới phát hiện ngoài Nguyên Thiên ra còn có Thái tử Duy Cận. Anh đang ngồi chống tay lên trán, nét mặt đăm chiêu suy nghĩ. Từ trong đôi mắt thấp thoáng những nét phiền muộn khi biết Thánh mẫu định đem Duy Khiêm dìm xuống sông Nhĩ Hà, âu cũng là để bảo vệ cho ngôi vị Thái tử của mình khỏi bị lung lay.
Lúc nghe tin ba quân náo loạn, ầm ĩ vì chuyện Hoàng tôn bị bức hại, Duy Cận đã lờ mờ đoán ra rằng người đứng sau quyết định tai hại ấy là ai, thế nên mặc cho đêm hôm khuya khoắt, anh đã lên kiệu sang phủ chúa để làm sáng tỏ những những nghi vấn trong lòng. Kiệu vừa dừng ở phủ, Duy Cận đã trông thấy cảnh tượng nhốn nháo của ba quân đang đổ dồn về. Biết hậu quả của quyết định này sẽ mang đến những rắc rối không nhỏ cho Thánh mẫu, Duy Cận tính đến cung Huỳnh để hỏi rõ đầu đuôi mọi chuyện nhưng Trịnh Khải đã kịp thời ngăn lại, vì không muốn Thánh mẫu phải đối mặt với sai lầm của mình lần thứ hai trong cùng một ngày. Quá hiểu bản tính cao ngạo, luôn tự hào ngầm mình là dòng dõi trâm anh nắm quyền lực cao nhất, Trịnh Khải e khi Duy Cận nhắc lại những sai lầm bà phạm phải thì căn bệnh cũ của Thánh mẫu lại tái phát, và tổn hao đến sức khỏe đang có chiều hướng ngày một yếu đi của bà.
Để tránh khỏi nạn kiêu binh, Duy Cận bất đắc dĩ phải ở trong Trạch các, và anh vô cùng khó chịu khi nhìn thấy Duy Khiêm bị thương cũng đang nằm đó. Tuy đã được Trịnh Khải cứu chữa kịp thời nên sẽ không có gì nguy hiểm, nhưng sâu trong lòng anh vẫn có cảm giác bứt rứt, khi nghĩ rằng Duy Khiêm xảy ra chuyện như thế là do mình. Quả thật càng nhìn, Duy Khiêm càng giống Hoàng huynh Duy Vĩ như tạc. Chính vì thế nên anh mới tránh nhìn khuôn mặt này chừng nào hay chừng nấy, vì sợ hình bóng của người đã khuất khi xưa lại quay về ám ảnh mình. Trong số các anh em, ai cũng biết Hoàng huynh Duy Vĩ là người phụ hoàng yêu thương nhất. Chính vì yêu thương nhất nên trong mắt của ông không biết đến sự tồn tại của một đứa trẻ tên Duy Cận, dù cho anh đã cố gắng học hành, lễ nghĩa, và làm tất cả những gì có thể để vừa lòng phụ hoàng mình. Hoàng muội Ngọc Trâm đã từng nói “yêu thương vốn không có tội”, vậy chẳng lẽ những đứa trẻ không được yêu thương là có tội sao, phụ hoàng?
- Thái tử! Người không sao chứ?
Bầu không khí đang cô đọng trong Trạch các, do mỗi người bận chìm trong suy nghĩ riêng của mình đột ngột bị phá vỡ, khi một giọng nói trầm ấm nhẹ nhàng cất lên. Trông thấy Trịnh Khải mở cửa bước vào, bỏ lại sau lưng tiếng ồn ào, huyên náo, Nguyên Thục vội vàng chạy về phía anh, đôi mắt lo âu của nó xem xét khắp người Trịnh Khải, như để xem bọn kiêu binh thô lỗ, hung bạo ấy có làm gì động đến anh hay không. Nhẹ vén những sợi tóc mai lòa xòa trên trán Nguyên Thục để trấn an nó rằng mình không sao, Trịnh Khải đánh mắt sang Duy Cận, anh đọc được ngọn lửa đang bùng cháy mãnh liệt trong đôi mắt ấy. Ngọn lửa khao khát muốn được chứng minh với mọi người rằng - Duy Cận đang tồn tại trên cõi đời này.
- Đoan Nam Vương! Cảm tạ thịnh tình của ngài. Nhưng tôi nghĩ tất cả những chuyện này đều do tôi mà ra, thế nên hãy cứ để tôi giải quyết nó, thế là xong.
- Ngài muốn giải quyết thế nào, Thái tử? - Nhận thấy giọng nói Duy Cận đã có phần đanh lại, Trịnh Khải nhìn thẳng vào ánh mắt có lửa kia và từ tốn hỏi lại - Ra trước kiêu binh, nói rằng Hoàng tôn bị dìm xuống sông Nhĩ Hà là do ngài, và sau đó để chúng muốn làm gì thì làm sao?
- Có cái chết nhẹ tựa lông hồng, có cái chết nặng tựa Thái sơn. Bây giờ tôi ra đó, quyết liều một trận với chúng rồi chết cũng cam lòng. Nếu tôi chết đi mà nạn của Thánh mẫu qua khỏi, âu cũng là đã làm được một việc có ích trong cuộc đời.
Trong thoáng chốc, Nguyên Thục có hơi bất nhẫn cho con người này, khi nó lờ mờ cảm thấy trong giọng nói của Duy Cận đượm chút chua cay. Thông qua lời kể của Nguyên Thiên, rõ ràng kẻ chủ mưu bức hại Duy Khiêm là do bà Thánh mẫu độc ác kia lên kế hoạch, chứ chẳng hề dính dáng gì tới Duy Cận mà anh phải ra đứng mũi chịu sào. Người có tội thì lại sống sờ sờ ra đấy, người không có tội thì phải chết oan uổng. Trên thế gian này còn gì có thể bất công hơn không.
Xiết chặt đôi bàn tay lại với nhau, đến nỗi những mạch gân xanh hằn rõ trên mu bàn tay, chứng tỏ Duy Cận đang phải trải qua một cơn bão lòng. Từ lúc mở mắt chào đời đến nay đã trải qua hai mươi mấy năm, Duy Cận tự hỏi mình đã làm được gì trong khoảng thời gian dài đằng đẵng đó. Mang trong người thi thư lễ nghĩa, văn võ song toàn, kèm theo cái ngôi vị Thái tử, tưởng chừng như đó đã là tất cả so với một người bình thường, thế nhưng sâu trong tiềm thức của Duy Cận, cái anh cần đã hai mươi mấy năm trôi qua vẫn không bao giờ có. Anh là ai? Anh không phải Thái tử, anh chỉ là một đứa bé con. Một đứa bé con sống không có tình yêu của cha, một đứa bé con chỉ là một cái bóng mờ bên cạnh anh nó, một đứa bé con luôn muốn chứng tỏ bản thân mình. Khi nó ngã, nó không khóc. Khi nó đau, nó không rên. Khi nó cô đơn, tuyệt vọng, nó chỉ cắn răng chịu đựng chứ tuyệt không hé lấy một lời. Nó làm thế, những tưởng rằng phụ hoàng sẽ thấy được sự cố gắng trong nó, những tưởng phụ hoàng sẽ khen nó là một đứa bé can đảm, những tưởng phụ hoàng sẽ yêu thương, yêu thương nó chỉ cần bằng một nửa tình yêu đã dành cho Hoàng huynh thôi. Ấy thế cũng đã đủ lắm rồi.
Nhưng đã hai mươi mấy năm trôi qua, anh chờ mãi, chờ mãi, nhưng dường như phụ hoàng đã quên. Người có quá nhiều con nên quên, hay vì chỉ yêu một đứa con nên không biết đến sự tồn tại của những đứa khác. Khi Hoàng huynh yêu thương của phụ hoàng đã mất, đau buồn vì mình bất lực, đau buồn vì mình không bảo vệ được con, ông chỉ chôn vùi mình trong hình ảnh của người con trai đã mất, mặc nhiên để Tĩnh Đô Vương lập anh làm Thái tử mà không có một biểu hiện nào. Ông càng làm thế, anh lại càng muốn chứng minh bản thân của mình để buộc ông phải nhìn lại, để buộc ông phải hối hận vì bao lâu nay đã bỏ rơi anh trong sự cô đơn. Thế nhưng ngay cả khi Hoàng huynh đã mất, anh vẫn không thể thoát khỏi cái bóng ấy. Bất luận anh làm gì, nói gì, ứng xử gì, Hoàng huynh vẫn luôn ẩn hiện trong từng câu nói của phụ hoàng anh. “Nếu là Duy Vĩ thì…”
Nếu là Duy Vĩ thì sao? Phụ hoàng?
- Thái tử! Nếu ý ngài đã quyết, tôi cũng không muốn can thiệp vào làm gì. Nhưng trước khi quyết định, tôi có vài câu muốn hỏi ngài.
Chậm chạp ngẩng mặt lên, Duy Cận nhìn Trịnh Khải đang ngồi đối diện bằng đôi mắt mệt mỏi, hai vai anh xuôi xuống giống như có một sức nặng vô hình đè lên vai mình. Trong khoảnh khắc ấy, Duy Cận bỗng cảm thấy thật mệt mỏi! Tất cả những gì anh đã cố gắng từ trước tới nay, chỉ để đổi lại hai từ “mệt mỏi” thôi sao?
- Chuyện gì?
- Từ trước tới nay, nếu tôi đoán không lầm thì ngài luôn muốn được chứng tỏ bản thân đối với hoàng thượng, phải thế không?
Ngỡ ngàng nhìn nụ cười nhẹ nhàng của Trịnh Khải, trong ánh mắt Duy Cận bây giờ thoáng xao động, khi những gì sâu kín trong lòng của anh đều bị phơi bày trước con người đang ngồi đối diện mình. Nhẹ nuốt nước bọt, Duy Cận dù không muốn thừa nhận, thế nhưng dưới đôi mắt sâu hun hút kia thì anh quả thật không thể che giấu nổi nội tâm của mình.
- Phải!
- Ngài đã từng nói rằng, ngài muốn vượt qua được cái bóng của Thái tử Duy Vĩ, phải không?
- Phải!
- Và bây giờ ngài chọn cho mình cái chết, để vượt qua cái bóng ấy, phải không?
Đến câu hỏi này thì Duy Cận im lặng không trả lời. Do Nguyên Thục ngồi bên cạnh Nguyên Thiên nên nó tinh ý nhìn thấy bàn tay anh dần nới lỏng ra, do mọi dự tính và suy nghĩ đang xáo trộn trong đầu.
- Ngài cũng biết, Thánh mẫu làm thế với Hoàng tôn chung quy cũng chỉ vì lo sợ ngôi vị Thái tử của ngài bị lung lay. Nếu như ngôi vị Thái tử đó thật sự quan trọng với ngài thì tôi sẽ không nói đến điều này, nhưng nếu ngôi vị đó chỉ là để chứng minh khả năng của ngài, thì ai làm Thái tử cũng thế.
- Đoan Nam Vương, chẳng lẽ ý ngài muốn để Duy Khiêm trở thành Thái tử sao?
Mỉm cười nhìn sâu vào ánh mắt thảng thốt của Duy Cận, Trịnh Khải thong thả đứng dậy, anh rảo mắt nhìn xuống đám kiêu binh đang ồn ào ở bên dưới, rồi tiếp lời.
- Như tôi đã nói, ngôi vị Thái tử đối với ngài không quan trọng, tài cao nhưng không được mang ra sử dụng, đó quả thật mới là mối hận không nguôi, không nhất thiết cứ phải là Thái tử thì mới có thể chứng tỏ bản thân mình. Theo ý tôi, Duy Khiêm lên làm Thái tử, còn ngài sẽ ở bên cạnh cậu ta chỉ bảo, dạy dỗ và uốn nắn cậu ta trở thành một vị vua tốt. Hoàng thượng rất yêu quý Hoàng tôn, nhìn thấy cậu ta trở thành một đấng minh quân, chắc chắn người sẽ vô cùng hài lòng vì ngài đã góp một phần công lao trong đó. Thái tử, những gì tôi muốn nói đã nói hết, ngài quyết định thế nào là tùy ý ở ngài.
Trịnh Khải nói xong liền yên lặng, nhường khoảng thời gian còn lại cho Duy Cận suy nghĩ. Quả thật, những điều Trịnh Khải vừa nói đã tác động không nhỏ đến Duy Cận. Đối với ngôi vị Thái tử, anh chẳng ham muốn gì vì đó chỉ là mục đích để anh thể hiện bản thân mình đối với vua cha. Nếu Duy Khiêm lên làm Thái tử, anh có thể là người ở bên cạnh, đem hết tài năng ra chỉ dạy cháu mình trở thành một đấng minh quân. Như thế, trước đây thay vì phụ hoàng luôn tâm niệm “Nếu là Duy Vĩ…” sẽ trở thành “Nếu không có Duy Cận, thì…”. Suy cho cùng, bao năm qua, những gì anh làm đều nhằm mục đích cố thoát khỏi cái bóng của Hoàng huynh Duy Vĩ, và bây giờ, điều đó có thể chăng?
Chậm chạp ngẩng đầu lên nhìn Trịnh Khải, Duy Cận đã có một quyết định riêng cho mình, dù rằng quyết định ấy sau này sẽ có những biến chuyển không ngờ, nhưng tạm thời bây giờ chí ít nó giải quyết được vấn đề quan trọng trước mắt. Không làm Thái tử, Thánh mẫu sẽ không có cớ để bức hại Duy Khiêm. Không làm Thái tử, kiêu binh sẽ thôi gây khó cho phủ chúa. Không làm Thái tử, anh sẽ là một người bên cạnh Duy Khiêm, chỉ bảo nó, giám sát nó, nhược bằng không thì anh sẽ chính tay giết nó, nếu như nó không trở thành một vị minh quân đúng như phụ hoàng và Hoàng huynh mong ước. Hoàng huynh Duy Vĩ! Duy Cận bất giác cười khan. Quả thật cả đời đệ không thể thoát khỏi cái bóng của huynh.
------------------------------
- Đoan Nam Vương! Mọi chuyện tùy ngài định liệu, dẫu sao cái ngôi vị ấy đối với tôi cũng chỉ là cái ghế mà thôi.
Nhìn sâu vào mắt Duy Cận, Trịnh Khải mỉm cười khi đọc được nét kiên nghị và sự dứt khoát trong ấy. Anh đưa mắt sang Nguyên Thiên đang ngồi chăm sóc cho Duy Khiêm, đoạn nhẹ lời.
- Nguyên Thiên! Sau giá sách có một lối đi bí mật thông ra Diệu Công môn ở phía Tây. Triêm Vũ hầu đang túc trực ở đó để chờ đưa Thái tử trở về cung, cô hãy đưa Thái tử theo địa đạo đến Diệu Công môn thay tôi.
Ngần ngừ đôi chút bởi Duy Khiêm còn đang nằm trên giường, Nguyên Thiên chầm chậm đứng lên, khi Nguyên Thục ra hiệu mình sẽ thay nó chăm sóc cho Duy Khiêm trong lúc nó đưa Duy Cận về cung. Nhẹ đẩy giá sách về phía tay trái, Nguyên Thiên tròn mắt do chỉ trông thấy một bức tường nhẵn thính, nhưng nó còn chưa kịp thắc mắc gì thì Trịnh Khải đứng sau lưng nó đã vỗ luôn vào tường ba cái. Như đã say ngủ từ rất lâu, bức tường rùng mình vài cái và dần chuyển động, để lộ ra những bậc cầu thang bằng đá mát lạnh dẫn xuống khoảng trống tối om phía dưới. Cầm lấy chiếc lồng đèn đỏ treo trong phòng do Trịnh Khải vừa mới đưa, Nguyên Thiên liếc nhanh Duy Khiêm một cái rồi cẩn thận bước xuống bậc thang bằng đá trơn tru. Tính cùng Nguyên Thiên bước vào trong, Duy Cận chợt ngừng lại khi nghe tiếng Trịnh Khải nhẹ nhàng vang lên sau lưng mình.
- Ngài muốn đặt tước hiệu cho mình là gì, Thái tử?
Từ trong đôi mắt của Duy Cận thoáng lóe lên một tia sáng nhỏ, anh đứng thẳng người lên và ngẩng cao đầu khi một cái tên hiện rõ trong trí óc, rồi nói nhẹ từng lời.
- Sùng Nhượng công! Ngài hãy đặt tước hiệu của tôi là Sùng Nhượng công.
- Đi bình an, Thái tử!
Khẽ gật đầu khi nhận lời chúc của Trịnh Khải, Duy Cận quay người bước vào trong địa đạo. Nhìn theo bóng dáng cả hai người chìm trong bóng tối, chỉ có vệt sáng lờ mờ từ chiếc đèn lồng tỏa ra hắt trên các vách đá lồi lõm, Trịnh Khải thở nhẹ một tiếng, anh đẩy giá sách trở về vị trí cũ, và chạm phải ánh mắt ngập ngừng của Nguyên Thục khi quay người lại. Biết nó đang lo lắng vì kiêu binh bên ngoài đương đòi truy tìm kẻ chủ mưu dưới sân, Trịnh Khải thong thả tiến đến trước mặt Nguyên Thục, anh ngồi xuống và ân cần nắm lấy bàn tay lạnh ngắt của nó, rồi trấn an.
- Nguyên Thục! Cô ở trong này chăm sóc Duy Khiêm, để tôi ra ngoài đó tiếp chuyện với kiêu binh.
- Vâng!
Vì Nguyên Thục đang cúi đầu xuống, mái tóc đen nhánh, xõa dài, che khuất gương mặt bầu bĩnh, nên Trịnh Khải không thể nhìn thấy cảm xúc của nó thế nào ngoài giọng nói run run. Tính đưa tay vuốt lấy suối tóc đen mượt đó, thế nhưng không hiểu sao bàn tay đang đưa ra nửa chừng của Trịnh Khải trở nên ngập ngừng. Những ngón tay mảnh khảnh nắm nhẹ không khí và buông xuống. Thong thả đứng lên, Trịnh Khải dừng mắt lại chỗ Duy Khiêm đang nằm. Đôi mày kiếm của anh chau lại như đang suy nghĩ đến một điều gì đó, rồi nhẹ nhàng mở tung cánh cửa Trạch các ra và bước ra ngoài.
Trời đêm miên man lộng gió. Trên nền trời đen thẫm như nhung, những ngôi sao mờ nhấp nháy như mặt hồ xao động, phía dưới là hàng trăm ánh đuốc rợp sáng cả một vùng. Đám kiêu binh đang ồn ào, náo loạn, kẻ chạy đông, người chạy tây, hết hô hoán rồi lại quát tháo để truy lùng kẻ chủ mưu vụ việc đem Hoàng tôn dìm xuống sông. Thấy Trịnh Khải từ trên lầu cao tiến ra và trông xuống, làn sóng âm thanh từ từ lắng dần, rồi sau đó hoàn toàn yên lặng. Sau cùng, chỉ còn nghe những tiếng khụt khịt mũi của hàng ngàn kiêu binh đang đứng chen kín cả mảnh sân rồng. Đám kiêu binh này ngày thường vốn quen thói cậy công phò tá chúa, đã khiến vương tử, quan hầu phải nhịn hơi nuốt tiếng nên càng tác oai tác quái, chẳng coi ai ra gì. Thế nhưng không hiểu sao khi đứng trước vị chúa này, không cần ông ta la hét, nạt nộ, không cần ông ta trừng mắt hay biểu lộ quyền oai, thế nhưng chúng vẫn cảm thấy ở ông ta một sức mặt vô hình nào đó, khiến chúng không thể nhìn thẳng vào mắt ông ta hoặc có bất kỳ hành động sỗ sàng nào. Trái lại, chúng còn luôn có thái độ cung kính, khiêm nhường, mỗi khi nhìn thấy phong thái ung dung, bình thản tựa như không có biến động nào có thể làm sắc mặt ấy đổi thay.
- Đêm hôm khuya khoắt, các ngươi tới đây làm gì?
Phóng tầm mắt ra ngoài phủ, từng ngón tay của Trịnh Khải gõ nhẹ lên thanh vịn lan can, do trông thấy chiếc kiệu mà Duy Cận dùng để tới phủ chúa đã bị bọn kiêu binh phá nát. Chậc! Như thế cũng tốt, của đi thay người. Cứ để cho chúng trút giận vào chiếc kiệu ấy thì những tức giận tích tụ khi nãy cũng giải tỏa, như thế Duy Cận đỡ phải đối phó với sự quấy phá của đám kiêu binh này.
- Bẩm chúa công! Chúng thần ở đây vì nghe anh em báo lại có người âm mưu đem Hoàng tôn dìm xuống sông Nhĩ Hà. Rất có thể người đã âm mưu chuyện ấy là Thái tử vì lo sợ Hoàng tôn sẽ tranh mất ngôi vị của mình. Nay tấu xin chúa công hãy đứng ra phán xử Thái tử nhằm lấy lại công bằng cho chúng thần và Hoàng tôn.
Một tên kiêu binh từ trong hàng ngàn kiêu binh bên dưới cất tiếng dõng dạc. Trịnh Khải bất chợt nheo mắt lại khi nhận ra kẻ vừa lên tiếng ấy không ai khác là Nhuyễn Thọ, tên kiêu binh có miệng lưỡi lươn lẹo, và uy tín nhất trong đám kiêu binh. Lướt mắt nhìn một lượt những khuôn mặt đang háo hức chờ đợi, Trịnh Khải nhẹ nhàng đáp lời.
- Về chuyện của Hoàng tôn, ta sẽ phán xử chuyện này để đảm bảo công bằng cho đôi bên. Bây giờ trời cũng sắp sáng, tất cả các người ai nấy hãy về chỗ của mình, đứng ở đây nhiễu loạn phủ chúa thật không hay.
Há miệng toan nói điều gì đó, nhưng khi chạm phải ánh mắt của Trịnh Khải từ trên lầu cao, Nhuyễn thọ hơi ngần ngừ rồi ngậm miệng lại. Hắn ta chỉ khụt khịt mũi vài cái rồi quay người đi. Trông thấy Nhuyễn Thọ tiến ra khỏi phủ chúa, đám kiêu binh ngơ ngác nhìn nhau, rồi sau đó lũ lượt giải tán trong trật tự, khác hẳn với khung cảnh rầm rập lúc kéo đến do được một lời hứa của chúa công. Từ trên lầu cao, Trịnh Khải yên lặng nhìn những đốm lửa nhập nhòe trong đêm rồi dần tản ra mỗi hướng. Nội tâm anh bây giờ đang xao động khi nghĩ đến những quyết định của mình trong đêm nay, giao Duy Khiêm ngôi vị Thái tử, đó là quyết định sai lầm hay là sáng suốt đây. Anh và Duy Khiêm, cả hai đều có những nét tương đồng. Chính vì hiểu được con người của Duy Khiêm thế nào, nên anh mới quyết định đặt vào tay Duy Khiêm ngôi vị thái tử ấy như một mầm sống. Nếu như có một mục đích, một cái gì đó để nâng niu, để bảo vệ và có trách nhiệm với những gì đang ở trong tay mình, thì ít ra Duy Khiêm sẽ thật sự sống, chứ không phải trong bóng tối mãi như bây giờ. Nhưng chuyện gì sẽ xảy ra nếu những gì anh nghĩ là sai lầm. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu Duy Khiêm mãi mãi không bước ra khỏi bóng tối đó, khi mà ánh sáng giờ đã trở nên quá xa lạ. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu thay vì bảo vệ cậu ta lại hủy diệt mọi thứ mình có trong tay. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu anh lại giao vận mệnh đất nước cho nhầm người? Một khi tất cả những chuyện đó xảy ra, người sẽ phải chịu trách nhiệm cho hành động đó, chẳng phải là anh sao?
- Trịnh Khải! Anh không sao chứ?
Đang chìm vào những dòng suy tưởng cuồn cuộn như thác lũ, đôi mắt Trịnh Khải thoáng lay động khi giọng nói nhẹ nhàng của Nguyên Thục cất lên. Đứng tựa tay vào lan can, Nguyên Thục phóng mắt ngắm nhìn toàn bộ dinh thự trong phủ chúa. Nó cảm thấy lòng dâng lên một nỗi mơ hồ, xao xuyến, khi nghĩ đến hai trăm năm sau thì vết tích của tòa Lựơng phủ lung linh này sẽ chẳng còn lại gì, ngoại trừ những cái tên.
- Nguyên Thiên đã đưa Thái tử Duy Cận đến Diệu Công môn gặp Triêm Vũ hầu rồi. Bây giờ nó đang ở bên trong chăm sóc cho Duy Khiêm. Còn anh, sao không vào bên trong cho ấm, ngoài này lạnh lắm.
Yên lặng khi trong giọng nói của Nguyên Thục đong đầy vẻ quan tâm, Trịnh Khải chỉ nhịp tay trên lan can, tạo ra những âm thanh ngộ nghĩnh đến vui tai. Trông thấy cử chỉ ấy, Nguyên Thục hiểu ngay anh đang bận lòng điều gì đó, vì chẳng biết từ khi nào, mọi thói quen của Trịnh Khải, Nguyên Thục đều nhớ như in trong đầu.
- Chính vì bên ngoài này lạnh, nên tốt nhất cô hãy vào bên trong thì hơn. Tôi đang suy nghĩ một số chuyện, lát nữa sẽ vào ngay.
- Anh…đang nghĩ gì vậy, có thể nói cho tôi biết được không?
Đưa mắt nhìn Nguyên Thục khi nó ngập ngừng lên tiếng, vì đây là lần đầu tiên nó hỏi đến chuyện riêng tư của anh, Trịnh Khải lại yên lặng. Sự yên lặng đó làm Nguyên Thục thoáng buồn vì thật ra giữa anh và nó ngoài quan hệ phi tử - chúa công dựa trên nghĩa vụ, thì nó đối với anh cũng như những người con gái bình thường khác, sao có thể trong lúc phiền não mà giãi bày tâm tư mình. Trong phút chốc, Nguyên Thục cảm thấy ngượng ngùng vì đã đường đột như thế, hai bàn tay nó trở nên thừa thãi, chốc chốc lại mân mê vạt áo của mình khi không biết làm gì để phá vỡ sự yên lặng này. Quay trở vào bên trong Trạch các ư, nó không muốn thế chút nào.
- Cũng không có gì nhiều, chỉ là không biết quyết định để Duy Khiêm lên làm Thái tử là đúng đắn hay sai lầm, thế thôi.
- Sao thế? - Nguyên Thục thoáng vui mừng khi im lặng một lúc lâu, Trịnh Khải cũng đã nói với nó về những vướng bận trong lòng. Không bỏ lỡ cơ hội, nó nhanh chóng hỏi lại vì muốn hiểu thêm về con người anh nhiều chừng nào hay chừng đó, do không thích bất cứ chuyện gì liên quan đến Trịnh Khải nó cũng không biết tí ti nào.
- Vì tôi không biết chắc được Duy Khiêm đang nghĩ gì.
Trịnh Khải chỉ nói đến đó rồi thôi. Đôi mắt của anh bây giờ sâu hun hút khi nhìn màn đêm thăm thẳm, mênh mông trước mặt mình. Biết đó là dấu hiệu không nên hỏi thêm gì nữa, Nguyên Thục cũng im lặng. Nó ngước nhìn lên trời sao lấp lánh, đâu đó là giải ngân hà chìm trong màn mây mờ dày đặc, liệu nó có thể vén màn mây mờ dày đặc ấy để có thể nhìn thấy dải ngân hà lấp lánh hay không?
Trong khi Trịnh Khải và Nguyên Thục đứng lặng yên ngắm sao ở bên ngoài, thì bên trong Nguyên Thiên đang lấy khăn thấm vào những giọt mồ hôi tỏa ra từ vầng thái dương của Duy Khiêm. Đồng hồ nhỏ giọt rơi lặng lẽ rơi, Nguyên Thiên ngồi dựa lưng vào tường, đôi mắt nó trĩu nặng vì nguyên ngày hôm nay đã thấm mệt, nên đôi lúc phải cốc vào đầu mình mấy cái do lâu lâu lại ngủ gật gù. Nhúng khăn vào thau nước ấm đặt trên chiếc bàn bên cạnh, Nguyên Thiên tính vắt khăn cho ráo nước rồi đắp lên trán Duy Khiêm, nhưng nó vội vã vứt khăn vào chậu khi thấy anh đang chống tay ngồi dậy. Vội vàng đẩy Duy Khiêm nằm xuống giường, Nguyên Thiên cau mày buông lời trách móc do anh thân đã bị thương rồi mà còn không chịu nằm yên nghỉ ngơi.
- Anh đang bị thương nên tốt nhất đừng cử động lung tung.
- Đỡ tôi ngồi dậy!
- Không được! Anh đang bị thương mà.
- Nếu không muốn tôi trở nặng thêm, thì đỡ tôi ngồi dậy.
Trước giọng nói lạnh tanh, không cảm xúc của Duy Khiêm, Nguyên Thiên vừa xót xa vừa giận dỗi. Nó mím môi giúp Duy Khiêm dựa lưng vào tường khi anh ngồi dậy, rồi với lấy cái khăn nằm trong chậu nước do lúc vội vàng đã đánh rơi. Yên lặng nhìn lên trần nhà, đôi mắt của Duy Khiêm đang bịt dải băng ngâm thuốc nước lỏng xanh màu ngọc bích, nên Nguyên Thiên không hiểu được trong đầu anh nghĩ gì. Mà kể cũng lạ, chính anh ta là người thẳng tay đuổi nó ra khỏi Nội Điện không thương tiếc, thì bây giờ anh ta đâu còn liên quan gì tới nó mà nó phải lo lắng, xót xa như thế.
- Bây giờ là đêm hay ngày?
- Trời vẫn còn chưa sáng, nên có thể gọi là đêm.
Nguyên Thiên trả lời một cách nhát gừng, vì thật sự khi nghĩ đến những lời lẽ của Duy Khiêm khi đuổi nó ra khỏi Nội Điện, thì dù có lo lắng đến đâu nó vẫn cảm thấy bức bối và khó chịu trong lòng. Tính đứng dậy để mang lên một chậu nước khác, Nguyên Thiên liền ngừng lại khi trông thấy Duy Khiêm đưa tay tháo giải băng trên mắt mình. Vội vàng chụp lấy hai tay anh, mắt nó trợn tròn lên và nói nhấn từng tiếng một trong cổ họng, vì bây giờ trời còn chưa hửng, cả hai lại đang ở trên lầu Trạch các, nếu la thét ầm ĩ dĩ nhiên không hay chút nào.
- Anh làm cái quái gì vậy! Mắt anh còn chưa lành, bộ anh muốn bị mù luôn hay sao hả?
- Mau tháo giải băng này ra cho tôi. Mang cái này rất khó chịu. Dẫu sao từ trước tới nay tôi cũng đâu nhìn thấy gì!
Vẫn chất giọng đều đều không cảm xúc, Duy Khiêm thật sự đã làm cho Nguyên Thiên thấy lạ vì anh sao quá khác với thường ngày, nhưng trong hoàn cảnh này nó cũng không nghĩ ra sự thay đổi ấy là ở chỗ nào.
- Anh điên hả? Cho dù anh có muốn thế nào thì công sức tôi chăm sóc anh nãy giờ cũng không thể phí hoài được. Khi mắt anh khỏi thì anh muốn làm gì, tôi cũng không cần quan tâm, rõ chưa?
- Đã như thế, cô còn cứu tôi làm gì?
Đang dùng hết sức để ngăn Duy Khiêm tháo dải băng trên mắt mình, Nguyên Thiên có hơi khựng người lại khi nghe Duy Khiêm hỏi lại bằng chất giọng nửa lạnh lẻo nửa mỉa mai. Nhìn đăm đăm vào khuôn mặt đáng yêu ấy, Nguyên Thiên không biết phải trả lời như thế nào. Nó chỉ lắp bắp mỗi chữ “tôi” rồi im bặt, vì không biết phải dùng lời lẽ gì, diễn tả ra sao. Còn chưa hết ngập ngừng, Nguyên Thiên bỗng giật mình khi Duy Khiêm bất giác ngả đầu vào vai mình. Mái tóc mềm của anh phủ trên vai nó, một mùi hương nhè nhẹ tỏa ra khiến Nguyên Thiên vô cùng bối rối vì nó chưa bao giờ gần gũi với anh như thế này. Vụng về chạm vào bờ vai của Duy Khiêm để vỗ về, vì nghĩ rằng hẳn anh đang rất mệt mỏi và đôi chút sợ hãi, do khi không lại bị cuốn vào những chuyện tranh chấp vô vị này, Nguyên Thiên chợt cau mày, khi cảm thấy người anh bây giờ sao lạnh toát dù trong Trạch các vô cùng ấm áp. Đang còn ngơ ngác vì không hiểu sao lại như thế, giọng nói lạnh lẽo của Duy Khiêm nhẹ cất lên như hơi thở, càng làm cho Nguyên Thiên cảm thấy hoang mang vì càng ngày nó càng không hiểu Duy Khiêm thật ra là người như thế nào.
- Cuối cùng, tôi cũng đã chết rồi!
★ Chương 51: Xui cùa xui
Thành Gia Định
Có nằm mơ, Linh Lan cũng không nghĩ vào một ngày…trời mưa tầm tã, mây đen vần vũ trên bầu trời, nó lại đường hoàng đặt chân đến nơi này mà không hẹn trước. Cái thông tin một chàng trai kỳ lạ xuất hiện tại Gia Định của đám khách buôn, đã làm cho Linh Lan ăn không ngon, ngủ không yên trong suốt cả tuần liền khi nghĩ tới Anh Tú. Không chấp nhận cảnh ngồi yên một chỗ đoán mò, cuối cùng Linh Lan quyết định chơi liều một cú là từ trấn Quy Nhơn xa xôi, mò đến thành Gia Định để xác nhận xem chàng trai trong câu chuyện râm ran kia thật ra là nhân vật nào.
Thông tin một chàng trai kỳ lạ xuất hiện tại Gia Định mà Linh Lan tình cờ biết, cũng là do cái tật hay ăn quà vặt của nó. Quyết định gia nhập vào đội nữ binh của Tây Sơn, không có nghĩa là Linh Lan phải từ bỏ thói quen hay ăn vặt đó. Cứ chiều nào cũng vậy, sau khi đã tập luyện xong, Linh Lan lại cùng Huỳnh Thị Cúc - người bạn gái mà nó thân nhất - đến những quán ăn quen thuộc, bất kể là hàng quán vỉa hè hay lầu cao. Chính vì thói quen thường trực không thay đổi ấy, nên Linh Lan đã tình cờ nghe thấy những người khách buôn nói chuyện với nhau khi đang hớp vội chén trà xanh nhằm lấy sức vận chuyển những chuyến hàng tiếp theo. Thoạt đầu, Linh Lan không để ý lắm đến những câu chuyện lo lắng lời, lỗ của đám thương nhân, thế nhưng với cái nguồn tin có một chàng trai kỳ lạ xuất hiện, ăn bận không giống ai ở Gia Định đã làm cho nó như bị sét đánh giữa ban ngày. Trước ánh mắt ngạc nhiên của Cúc, Linh Lan vội vàng bước lại gần chỗ đám thương nhân ngồi, và hỏi cặn kẽ lại chuyện chàng trai xuất hiện ở Gia Định ấy là ai. Thế nhưng truớc sự sốt sắng của nó, đám thương nhân ai nấy đều lắc đầu không rõ tung tích, xuất thân của chàng trai này, duy chỉ một điều họ biết, đó là anh ta đang ở thành Gia Định. Thông tin này khiến Linh Lan thất vọng cùng cực của khi chẳng điều tra được gì.
Mang tâm trạng thất vọng trở về đội nữ binh, nhưng cái thông tin kỳ lạ ấy vẫn bám riết lấy tâm trí Linh Lan, làm cho nó chẳng thể tập trung vào bất cứ việc gì. Thấy tâm trạng nó bất ổn, Bùi Thị Xuân đã lo lắng hỏi thăm nó, còn Văn Bình thì liên tục lên tiếng nhắc nhở do thần trí nó đang để ở nơi nào rất xa xăm, lâu lâu lại còn gây ra những chuyện vô cùng ngớ ngẩn như luyện tập kiếm pháp thì chẳng biết kiếm để ở đâu. Trước đôi mắt nghi ngờ của Văn Bình khi nghĩ nó đang giấu chuyện gì, Linh Lan vội vàng khỏa lấp những thắc mắc của anh, bằng cách bảo mấy ngày nay do đang mệt trong người nên thần trí không được minh mẫn. Chính vì lấp liếm như thế nên dù vẫn còn những nghi ngờ do nó trả lời không thỏa đáng, thì Văn Bình cũng không tiện hỏi thêm điều gì.
Việc chàng trai kỳ lạ có mặt ở Gia Định chưa chắc là Anh Tú, thế nhưng nếu không làm sáng tỏ chuyện này thì Linh Lan mãi mãi sẽ chẳng bao giờ tập trung nổi vào bất cứ chuyện nào. Nghĩ đến việc tìm lại Anh Tú, cái máu liều trong người Linh Lan lại nổi lên. Dù biết rõ từ Quy Nhơn đến Gia Định chắc chắn sẽ có rất nhiều khó khăn, thế nhưng nó vẫn quyết định khăn gói đến đó để giải tỏa nghi vấn trong lòng, vì Linh Lan không muốn mình chôn chân tại chỗ phỏng đoán rồi nghĩ ngợi lung tung. Dành dụm được một số bạc lẻ để chi trả việc ăn uống và ở trọ trên đường đến Gia Định, nhờ mối giao thiệp rộng rãi của ông Lương, mà chuyện Linh Lan là con gái của ông ai ai cũng biết, thế nên tìm được một chiếc thuyền đến Gia Định với chi phí rẻ bất ngờ đối với nó là chuyện vô cùng dễ dàng.
Giấu bén mọi người ý định sẽ đến Gia Định, vì một khi nói ra, chắc chắn từ Văn Bình, Xuân, hay bất cứ ai đều sẽ không đồng ý, do tội trốn ngũ một khi bị phát hiện sẽ bị phạt rất nặng, dù cho nó có là người thân trong gia đình. Thêm nữa, điều quan trọng hơn hết, Linh Lan lờ mờ biết được qua những lần ngồi nói chuyện với đội nữ binh, đó là Gia Định hiện giờ đã rơi vào tay Nguyễn Ánh - người đã bao lần thoát khỏi sự bủa vây của Tây Sơn - nay lại một lần nữa làm chủ Gia Định, lo xây dựng lực lượng riêng cho mình. Nếu quân Nguyễn biết được nó là người trong Tây Sơn, chắc chắn chỉ có ba con đường. Một là giết, hai là đem giam cho rục xương ba là tra tấn dã man. Chính vì những kết quả thảm hại đó mà Linh Lan đã suy nghĩ rất lâu, nó đem tội trốn khỏi quân ngũ, sự đe dọa từ quân Nguyễn lên bàn cân cùng với Anh Tú. Kết quả sau cùng là cán cân của Anh Tú rơi xuống một cái phịch, nghĩa là ông anh đã kiêu lại còn điêu của nó quan trọng hơn bất cứ điều gì. Dù là hình phạt nặng nề khi trốn khỏi quân ngũ hay ngũ mã phanh thây bên quân Nguyễn, thì Linh Lan vẫn cứ bất chấp tất cả bởi vì một giọt máu đào của anh em nó, còn quý giá hơn bất cứ thứ gì trên đời.
Với tất cả những suy nghĩ đó, hiện thời Linh Lan đang có mặt tại thành Gia Định đã được.. ba ngày, và ba ngày qua nó vẫn giậm chân tại chỗ, không sao vào trong thành do bất cứ ai muốn vào đều phải có giấy thông hành. Ban đầu, khi bị lính canh ngăn lại vì không có giấy, Linh Lan tính dùng mánh cũ, đó là…lừa đảo một ai đó để kiếm lấy tờ giấy cấp kỳ vào trong. Nhưng sau khi suy đi tính lại, nó đành phải gạt phắt cái suy nghĩ đó khỏi đầu vì đã trót hứa với Văn Bình sẽ rửa tay gác kiếm. Hơn nữa, rủi như cái người đã bị nó lừa lấy giấy thông hành đó có quan hệ gì với Văn Bình, Phan Văn Lân hay bất cứ ai trong Tây Sơn, thì mai này nếu toàn mạng trở về được cũng bị tội chồng thêm tội. Qua vụ Phan Văn Lân nó đã ớn lắm rồi, đề phòng trước thì vẫn hơn.
Bước một, lừa đảo lấy giấy thông hành đã bị phá sản, nay Linh Lan đành phải thực hiện bước hai, đó là mai phục bên ngoài chờ đợi thời cơ. Mấy ngày nay ăn dầm nằm dề trong quán trọ, trong đầu Linh Lan đã hình thành một kế hoạch vô cùng táo bạo, ấy là lợi dụng lúc đêm tối trèo vào bên trong thành. Những ngày qua mai phục trong quán trọ gần đó, Linh Lan đã phần nào quan sát được sinh hoạt thường ngày của bọn lính. Buổi sáng có hai lính canh ngoài cửa, đến buổi trưa đã được thay bằng hai tên lính khác, và buổi tối lại có thêm hai tên lính đến thay phiên cho hai tên buổi trưa. Chính vì có sự luân phiên canh gác ấy, nên cái kế hoạch táo bạo của Linh Lan, đó là lợi dụng bọn lính gác thay đổi phiên trực mà nhanh chóng leo tường vào đã được hình thành. Để chuẩn bị cho phi vụ đó, Linh Lan đã bỏ công quan sát môt vòng thành vô cùng kỹ càng. Để rồi nó phát hiện một thân cây to bự, cành lá xum xuê, điều lý tưởng hơn nữa là có một cành cây to, khỏe chìa vào bên trong. Nếu bám theo cành cây ấy mà nhảy vào thành thì là một điều vô cùng dễ dàng.
Biết rằng ý tưởng của mình bây giờ rất liều lĩnh, một phần do sợ độ cao, một phần khi trèo vào bên trong, chẳng may bị lính gác đang tuần tra bắt gặp thì nó sẽ có nguy cơ nhận lấy cái chết mười mươi. Thế nhưng vì Anh Tú, bây giờ Linh Lan chẳng thể tìm ra cách nào khả thi hơn cách này. Chỉ cần vào được bên trong thành thì mọi chuyện ra sao hẵng tính tiếp, cùng lắm là chết, hay nhẹ hơn nữa thì bị giam vào đại lao hành hạ. Phóng lao đành phải nhắm mắt chạy theo lao, hơn nữa đã đến đây chẳng lẽ tay không quay về. Nếu làm thế thì dù tính mạng có bảo đảm an toàn nó cũng không cam lòng, vì Linh Lan một liều thì bất chấp cả tính mạng cũng liều.
Đêm nay, vầng trăng nhòe nhoẹt trên trời đã bị che khuất bởi đám mây mù, vài vì sao mờ li ti chẳng thể soi sáng cho cả bầu trời. Linh Lan nhè nhẹ mở cửa phòng, nó đeo kiếm trên lưng để đề phòng gặp sự cố, và bước nhẹ nhàng, không gây ra tiếng ồn để tránh động mọi người đang say giấc nồng. Rón rén bước ra khỏi dãy hành lang âm u, lờ mờ, Linh Lan vội vàng thẳng hướng địa điểm mà nó đã chọn, chờ thời cơ. Trời càng về khuya càng trở lạnh, phần đang tiết cuối năm, phần chiều nay mới có trận mưa rào, Linh Lan phải thổi vào lòng bàn tay mình vài cái để truyền hơi ấm vào tấm thân đang run cầm cập của mình. Nấp sau một thân cây để quan sát động tĩnh đám lính, đôi mắt Linh Lan khẽ nheo lại khi thời khắc giao ca đã điểm. Cánh cửa thành nặng nề bật mở, hai tên lính canh từ bên trong bước ra để nhận nhiệm vụ. Lợi dụng lúc cả bốn tên đang nói chuyện với nhau mà không chú ý gì tới khung cảnh xung quanh, Linh Lan bật dậy và chạy nhanh như cắt về phía cây cổ thụ. Trấn áp trái tim đang đập gấp gáp trong lồng ngực vì chứng sợ độ cao lại bùng phát - do từ nhỏ đã có lần té từ trên cao xuống - Linh Lan nín thở và leo tuốt lên cây một mạch, cố ngăn không cho mình suy nghĩ gì nhiều. Sau khi yên vị chắc chắn trên cây và đảm bảo an toàn vì đã có chỗ ẩn thân khá tốt, Linh Lan liếm nhẹ môi và bắt đầu phóng mắt nhìn vào bên trong thành.
Thành Gia Định bây giờ đang yên giấc. Gió đêm thổi miên man, lồng lộng trên những bụi tre lòa xòa. Điểm xuyết trong đêm là những đốm lửa bé xíu, run rẩy của các nhóm lính đang đi tuần tra. Đang tự hỏi không biết chàng trai kỳ lạ mà đám khách buôn đã nói đang ở đâu trong những mái nhà tranh phủ bóng tối, Linh Lan vội hụp đầu xuống khi nhác thấy một tốp lính gươm giáo sáng ngời đi ngang qua. Tim đập thình thịch trong lồng ngực do nghĩ đến viễn cảnh những thanh gươm sắc bén đó chém vào, Linh Lan bất giác đưa tay xoa xoa người mình. Từ từ ló đầu lên và thở phào nhẹ nhõm khi bọn lính ấy đã đi khuất từ bao giờ, Linh Lan thôi không nghĩ ngợi nhiều. Nó đưa mắt ngó xuống để ước lượng khoảng cách với mặt đất thì bỗng thấy đầu óc váng vất, chóng mặt và hoa mắt khi chứng sợ độ cao lại âm ỉ trong người. Nghĩ tới Anh Tú, nghĩ tới những gì vui vẻ và hạnh phúc nhất, Linh Lan nhắm mắt lại để khỏi thấy độ cao mình phải nhảy xuống. Nó cắn chặt môi và buông mình khỏi cành cây theo tư thế của Yến Phi quyền, với hy vọng nếu có bị thương hay va chạm gì thì không đến nỗi phải gãy tay hay lọi giò…
Một giây
Hai giây
Ba giây
Không nghe tiếng “rầm”, “phịch”, “oạch” hay bất cứ tiếng động nào tương tự, mà chỉ thấy hình như cả người mình đang lơ lửng trên không trung chứ chưa chạm mặt đất. Đã thế, nó lại còn ngửi một mùi hương nhẹ nhàng thoang thoảng đâu đây làm Linh Lan vội vàng mở bừng mắt ra và…chết điếng cả người.
Hiện rõ trong ánh mắt đang mở to, sửng sốt của nó là một khuôn mặt thanh tú, với đôi mắt nâu trong suốt vô cùng bình thản, bờ môi vẽ thành một nụ cười. Một nụ cười vô cùng kiêu ngạo. Nụ cười ấy khiến nó cảm thấy ngờ ngợ vì không rõ mình đã gặp qua chàng trai này ở đâu. Còn chưa hết sửng sốt, trong phút chốc, hai vành tai Linh Lan dần đỏ lên khi nhận ra chàng trai này đang bế mình trên tay. Nhưng dù có lúng túng đến đâu, Linh Lan cũng không quên rằng nó hiện thời là kẻ đột nhập, trong khi chàng trai này lại đang ở trong thành. Nếu như anh ta la lên cho quan quân kéo tới gô cổ nó lại, thì hy vọng tìm Anh Tú sẽ mau chóng tan thành bong bóng xà phòng. Không cần nghĩ ngợi chi nhiều, Linh Lan rút phắt thanh kiếm đeo trên lưng mình ra và chìa vào cổ chàng trai, cố lấy giọng lạnh lùng.
- Im lặng! Nếu như anh có bất kỳ hành động nào, thì tôi sẽ giết anh.
Trái ngựơc lại với suy nghĩ của nó, rằng nếu thấy gươm kề vào cổ thì chí ít ra người ta cũng phải hoảng hốt, hay giật mình, nhưng chàng trai này xem ra lại không nằm trong hai dạng ấy, mà loại thuộc dạng người thứ ba, tức là dù cái chết đến bên mình thì vẫn bình chân như vại. Anh ta chỉ mỉm cười, nụ cười đó làm Linh Lan thấy chột dạ, và rồi từ tốn đáp lại lời đe dọa của nó bằng chất giọng nhẹ nhàng.
- Thế sao?
Trước đôi mắt kinh ngạc của Linh Lan vì gươm kề ngay cổ mà còn tỉnh bơ, thì chàng trai nheo mắt lại và…thả tay ra một cách đột ngột. Kết quả hiển nhiên là Linh Lan mau chóng rơi cái phịch xuống đất như mít rụng, lại còn trúng ngay vũng nước to, bự - dư âm của cơn mưa chiều còn đọng lại - thế nên bộ dạng nó lúc này vừa lem nhem bùn sình, vừa ướt sũng nước trông vô cùng đáng thương. Dù trong bụng vô cùng tức giận vì hành động thả tay đột ngột của chàng trai làm nó đau ê ẩm cả người, nhưng Linh Lan vẫn nhanh chóng chộp lấy thanh kiếm nằm dưới đất do lúc bất ngờ đã đánh rơi. Dường như mọi hành động của nó đều chậm một bước, Linh Lan chưa kịp chạm tay vào thanh kiếm, thì chàng trai đã dùng mũi giày hất thanh kiếm lên nằm gọn trong tay mình. Vội vàng đứng dậy vắt quần áo cho ráo nước, thân thể nó run lập cập mỗi khi gió thổi đến, nhưng Linh Lan vẫn nhìn thẳng vào mắt chàng trai không hề kiêng nể, đoạn hất hàm.
- Mau trả thanh kiếm lại cho tôi.
- Sao tôi phải trả kiếm lại cho cô?
Rà tay theo lưỡi kiếm thép sắc lạnh, chàng trai vừa trả lời vừa mỉm cười mai mỉa, khi trông thấy cái bộ dạng lôi thôi lếch thếch của cô gái đứng trước mặt mình. Trong đời Linh Lan, nó rất muốn đi đến Tháp Bà ở Nha Trang để tắm bùn theo lời quảng cáo của bà chị họ hàng xóm, vì công dụng cũng như các liệu pháp tuỵêt vời mà dịch vụ tắm bùn đã mang đến. Tắm bùn ở đây theo ý nó là tắm trong bồn, có người mát-xa, có đồ thay và có nước nóng đàng hoàng, chứ không phải tắm bùn kiểu tự do như thế này. Phần vì ngượng ngập do bộ dạng lem luốc, phần lại tức giận vì chàng trai này không chịu nhường nó một bước, Linh Lan sẵn giọng. Nó nói cứng, mặc cho hai hàm răng không ngừng va vào nhau lộp cộp vì quá lạnh, bởi nó muốn giải quyết nhanh chuyện này do không muốn bị lính tuần tra phát hiện có kẻ lạ mặt đã đột nhập vào.
- Mau trả lại đây. Thanh kiếm đó là của tôi.
- Nhóc con! Bây giờ cô đang ở trong trường hợp nào? Nửa đêm nửa hôm trèo tường vào tất có hành động mờ ám, ấy thế mà còn lên giọng với người khác như thế sao?
- Tôi hành động mờ ám còn anh thì sao? Nửa đêm gà chưa gáy, mọi người còn đang ngủ, anh ra ngoài này đứng làm gì? Nếu không là phường đạo tặc thì cũng là hạng lưu manh thôi.
Biết chàng trai này sửa lưng mình vụ nó sẵn giọng với anh ta, thế nhưng cho dù nó hành động mờ ám đi chăng nữa, thì chuyện anh chàng này nửa đêm đứng ngoài đây trong khi mọi người dân trong thành đều đã say giấc nồng, thì quả thật đáng ngờ không kém. Nghĩ thế nên Linh Lan nói cứng miệng, phần vì từ trước tới nay chỉ có nó bắt nạt người khác, chứ người khác chưa ai bắt nạt lại nó bao giờ. Chẳng biết có phải để chứng minh cái quy luật ấy có ngoại lệ hay không, mà chỉ thấy đôi mắt trong suốt của chàng trai chợt sa sầm. Chĩa thanh kiếm về phía nó, chàng trai từ tốn hỏi lại. Trong chất giọng thoáng lành lạnh, lạnh còn hơn cái lạnh của mùa đông khiến Linh Lan bất giác rùng mình.
- Cô nhắc lại cái câu “Nếu không là phường đạo tặc thì cũng là hạng lưu manh” tôi nghe!
Nhìn thanh kiếm đang chĩa vào cổ mình, Linh Lan khẽ nuốt nước bọt. Nó biết rằng nếu nói hớ hay có bất kỳ hành động nào, thì thanh kiếm này chắc chắn sẽ để lại một đường máu vừa sâu vừa ngọt trên cổ nó, còn hy vọng xác nhận xem chàng trai kỳ lạ ở Gia Định có phải là Anh Tú cũng không thành. Vốn trước nay không quen mềm mỏng hay xuống nước với bất cứ ai, nhưng đứng trước tình cảnh ngàn cân treo sợi tóc này, Linh Lan không còn cách nào khác là phải ngộ biến tùng quyền, nếu không muốn say goodbye cái mạng yêu quý của mình.
- À …ơ! Đâu có! Tôi đâu nói gì, chắc anh nghe nhầm rồi đó.
- Tôi nói cô nhắc lại câu ấy tôi nghe.
Phớt lờ ánh mắt…thỏ non của Linh Lan, chàng trai thản nhiên lập lại câu nói của mình. Khóe miệng anh ta nhếch lên tạo thành một nụ cười kiêu ngạo, đồng thời lưỡi kiếm đang từ cổ, lại chuyển dần xuống chiếc cúc đang cài trên cổ áo nó, khiến Linh Lan toát mồ hôi hột vì không biết anh chàng này muốn làm gì.
- Tôi đã bảo là anh nghe nhầm rồi mà, tôi có nói gì đâu.
Không đáp trả lại sự bào chữa của Linh Lan, ánh mắt của chàng trai áo vàng đột ngột nheo lại một cách tinh quái. Thanh kiếm trong tay anh ta run lên, và rồi một chiếc cúc nhanh xuống rơi xuống mặt đất ẩm ướt. Tiếp theo sau đó là cúc thứ hai, cúc thứ ba, làm Linh Lan quýnh cả lên vì một khi chiếc cúc cuối cùng rơi xuống, thì cũng có nghĩa là chiếc áo của nó sẽ xổ tung ra và lâm vào tình thế vô cùng bẽ bàng, trước ánh mắt trong suốt bình thản của chàng trai áo vàng.
- Thôi thôi! Dừng lại ngay đi! Được rồi, anh muốn nghe cái câu “nửa đêm gà chưa gáy mọi người còn đang ngủ, anh ra ngoài này đứng làm gì? Nếu không là phường đạo tặc thì cũng là hạng lưu manh thôi” chứ gì. Rồi! tôi đã nói đó, thế đã được chưa?
- Quá muộn rồi!
Nhìn thẳng vào đôi mắt đen mượt của Linh Lan đang xoe tròn, chàng trai chỉ mỉm cười, sau đó tay kiếm khẽ run một cái, chiếc cúc cuối cùng liền bật tung ra, xoay tít trên trời và đánh bật xuống mặt đất. Trong giây phút ngắn ngủi ấy, Linh Lan vội vàng giữ chặt lấy chiếc áo của mình, nó nhanh chóng ngiêng người về phía bên phải, chân trái lướt nhanh về phía trước và chụp lấy cổ tay của chàng trai nhằm đoạt lại cây kiếm của mình. Chẳng biết do bất ngờ hay vì cố ý để nó nắm được, mà chỉ thấy đôi mắt nâu trong suốt, bình thản của chàng trai khẽ nhướng lên. Điểm một nụ cười nơi khóe miệng, bàn tay phải đang bị Linh Lan nắm lấy khẽ xoay một vòng, hóa giải được thế chụp của nó và nhanh chóng vòng qua thắt lưng Linh Lan xiết chặt, làm cho nó hết đường cục cựa. Một tay bận giữ lấy áo, còn tay kia đã bị chàng trai khóa lại từ bao giờ, tình thế của nó lúc này đúng là ngàn cân treo sợi tóc, đường nào cũng lưỡng bại…câu thương.
- Khá lắm! Ra cô nhờ có tí võ nên mới ngang nhiên leo tường vào.
- Thả tôi ra mau! Thả ra!
Cho dù trong bụng đang vô cùng tức giận vì bị chàng trai áo vàng khống chế, thế nhưng Linh Lan vẫn còn đủ tỉnh táo kếm chế lại cơn giận khi nói dằn từng tiếng một, chứ không dám quát to vì sợ sẽ động đến lính đi tuần. Có lẽ xui xẻo luôn làm bạn đồng hành với bất lợi, nên dù nó đã cố gắng hạn chế cơn giận của mình hết mức có thể thì tiếng bước chân rầm rập từ phía sau vẫn lũ lượt vang lên. Tái mặt lại khi nhìn thấy trước mắt mình sáng rợp ánh lửa, do tốp lính tuần đã phát hiện ra có kẻ đột nhập vào bên trong, Linh Lan biết phen này sẽ tiêu đời khi lính tráng phát hiện và than thầm trong bụng, do nghĩ đến ba trường hợp, một chết, hai giam cầm và ba là tra tấn dã man. Đứng dàn thành hình chữ nhất khi thấy Linh Lan và chàng trai áo vàng quay lưng về phía mình, đám lính đưa mắt nhìn nhau và đồng loạt rút kiếm ra thủ thế. Một tên có khuôn mặt khá vuông vức thận trọng tiến lên và quát lớn, chẳng khác nào sấm sét vang lên giữa đêm tối trời.
- Đêm hôm khuya khoắt các ngươi mò ra đây làm gì? Các ngươi là ai?
Trái ngược với sự lo lắng của Linh Lan, trông nét mặt của chàng trai vẫn thản nhiên như chẳng có chuyện gì xảy ra. Vẫn giữ Linh Lan trong tay, cho dù nó đã vùng vẫy kịch liệt nhưng vẫn không sao thoát ra khỏi cánh tay cứng như thép nguội đó, chàng trai từ từ quay người lại. Từ trong đôi mắt nâu trong suốt phản chiếu ánh lửa lấp lánh, khiến những người lính đang lăm le đao kiếm trong tay chợt sững người lại, rồi tất thảy vội vàng lùi về phía sau mấy bước đồng thời cúi người thi lễ. Cảnh tượng diễn ra trước mắt khiến Linh Lan vô cùng ngỡ ngàng.
- Chúa công! Xin…xin người tha tội cho sự vô lễ của chúng thuộc hạ.
Hết nhìn đám lính tuần cúi đầu kính cẩn, đến liếc mắt lên khuôn mặt thanh tú cao ngạo của chàng trai, trong đầu Linh Lan bắt đầu ngờ ngợ ra những đường nét quen thuộc này. Bận áo vàng, cười ngạo mạn, phải rồi, chính là chàng trai kỳ quái đã ngồi câu cá ở trấn Quy Nhơn mà nó đã từng vô tình trông thấy. Vóc người cao lớn, phong thái ung dung pha những nét kiêu ngạo, cộng thêm đám lính cúi đầu thi lễ lắp bắp “chúa công”. Đây là thành Gia Định, mà thành Gia Định đang là nơi quân Nguyễn chiếm đóng… Có lẽ nào, có lẽ nào…
Thôi chết rồi!
★ Chương 52: Không lối thoát
Dù có trí tưởng tượng phong phú đến đâu, thì Linh Lan cũng chẳng thể tưởng tượng ra được có một ngày mình sẽ ngồi tù, vì can tội cả gan trèo tường vào thành giữa đêm hôm khuya khoắt, lại còn dùng kiếm uy hiếp… Gia Long hoàng đế, người sáng lập ra vương triều nhà Nguyễn sau này.
Đúng là có nằm mơ Linh Lan cũng không nghĩ rằng chàng trai áo vàng kiêu ngạo ấy lại là Nguyễn Ánh - vị chúa cuối cùng và cũng là vị vua đầu tiên của nhà Nguyễn. Thảo nào binh lính khi trông thấy anh ta liền kính cẩn ra mặt, còn nó lại ngơ ngơ ngáo ngáo do chẳng hiểu chuyện gì đang xảy ra. Chậc! Nếu như biết anh ta là Nguyễn Ánh thì Linh Lan đã có biện pháp khôn ngoan hơn là lấy kiếm kề vào cổ, bởi làm thế sẽ cầm chắc cái chết mười mươi hoặc bị tống vào ngục chịu tra tấn cực hình. Thoạt đầu, khi biết mình bị tống vào nhà giam vì…vô số tội, hình ảnh đầu tiên hiện lên trong đầu Linh Lan là cái nhà tù ấy sẽ vô cùng nhớp nháp, bẩn thỉu, tranh tối tranh sáng và tha hồ luyện “đập ruồi thần chưởng”. Thế nhưng trái với những gì nó đã vẽ ra, căn phòng giam lại rất sạch sẽ, thoáng mát và chẳng có ruồi bay vo ve hay bất cứ hình thức tra tấn dã man nào. Khi sự ngạc nhiên đã qua đi, Linh Lan ngồi phịch xuống sàn nhà lót rơm khô ráo và bắt đầu thấy đời không còn gì chán hơn. Từ Quy Nhơn đến Gia Định xa xôi âu để tìm hiểu chàng trai kỳ lạ kia là ai, nhưng nào ngờ, người thì không thấy, bản thân nó lại xui xẻo lại dính vào tù đày không biết bao giờ mới có thể thoát ra. Chính vì tình cảnh bi đát đó nên có là người hay động viên bản thân mình đi chăng nữa, thì trong nhất thời Linh Lan cũng không tránh khỏi bi quan, chán nản và than thân cho cái số “xui gì dữ vậy trời” của mình.
Ngồi tả oán trời xanh đã một hồi, Linh Lan chép miệng một cái khi biết rằng nếu cứ ngồi đây than thở thì cũng chẳng có ông bụt nào hiện ra, ân cần hỏi “vì sao con khóc”, chi bằng tự thân vận động, tìm ra cách thoát khỏi nơi này trước khi tai họa kịp ập xuống đầu mình thì thiết thực hơn. Quan sát một vòng phòng giam, Linh Lan lò dò tiến lại song cửa và ra sức nắm, lắc, với hy vọng những thanh gỗ này sẽ bung ra đột ngột vì đã mục nát quá lâu. Sau khi nắm, lay đến toát cả mồ hôi mà thanh gỗ vẫn trơ lỳ như đá tảng, Linh Lan thở hắt ra một hơi rồi quay sang thổi phù phù vào hai lòng bàn tay cho đỡ đau nhức, khi nó bắt đầu sưng phồng và đỏ ửng lên.
Quyết không chịu bỏ cuộc, Linh Lan đi lòng vòng trong nhà giam - thói quen mỗi khi tập trung suy nghĩ chuyện gì đó của nó - để tìm ra cách nào khả thi hơn. Chợt dừng lại khi nghe thấy có tiếng bước chân ngoài nhà giam vọng tới, Linh Lan “hừ” nhạt một tiếng bởi cho rằng chủ nhân của những tiếng chân ấy có lẽ anh chàng áo vàng - tức Nguyễn Ánh - đến để thẩm tra việc nó có mục đích gì, ai đã sai nó đến đây, vân vân và mây mây. Với suy nghĩ đó, Linh Lan đã chuẩn bị sẵn trong đầu các câu trả lời sao cho vẹn toàn nhất, nhưng đến khi cánh cửa nhà giam bật mở, đôi mắt đang hình viên đạn của Linh Lan chợt nhướng lên. Người bước vào không phải là Nguyễn Ánh mà là một cô gái áo vàng xinh đẹp, tay vung vẩy sợi roi, thong dong tiến vào nhà ngục, theo sau cô ta là tên lính gác, khuôn mặt hắn lộ rõ nét lo âu vì sợ cấp trên sẽ trách tội mình khi để người khác vào chốn lao tù.
- Mở cửa ra.
- Thưa công nương…!
- Ta nói mở cửa ra.
Có vẻ như thân thế của cô gái áo vàng cũng thuộc hàng cao cấp, bằng chứng là tên lính canh dù lộ nét khó xử trên mặt nhưng vẫn tra chìa khóa vào then, rồi chậm chạp mở cửa cho cô gái lách vào, sau đó đi ra ngoài để tiếp tục nhiệm vụ canh gác theo chỉ thị của cô gái xinh đẹp kia. Đêm hôm khuya khoắt, tiếng gà gáy báo sáng vẫn còn chưa cất, cô gái này một thân một mình đến nơi giam giữ nó, tay vung vẩy sợi roi đồng thời mắt lấp lánh hung quang khiến Linh Lan phải đề phòng. Nhướng đôi mày ngài của mình lên quan sát từ đầu đến chân Linh Lan, cô gái cất giọng thánh thót nhưng lại không giấu vẻ mỉa mai trong đó làm Linh Lan thoáng bực mình.
- Ta nghe nói chính ngươi đêm hôm đã lén lút trèo tường vào, lại còn cả gan dùng kiếm uy hiếp hoàng huynh ta, đúng không?
Dù vô cùng khó chịu vì cái điệu bộ trịch thượng, không coi mình ra cái đinh gì của cô gái, Linh Lan vẫn đủ minh mẫn khi nghe cách thức cô gái gọi Nguyễn Ánh. Gọi Nguyễn Ánh là hoàng huynh, như vậy có nghĩa cô gái này là em gái của anh ta. Hừ! Hai anh em, anh thì kiêu ngạo, em thì trịch thượng, thật đúng là người cùng một nhà với nhau.
- Đúng! Thì sao?
Ngay trong khoảnh khắc ấy, Linh Lan mới thấm thía rằng nói gì cũng phải suy nghĩ trước sau xem đang mình ở trong trường hợp nào, bởi khi nghe xong câu trả lời với điệu bộ cũng trịch thượng không kém của nó, sợi roi da trong tay cô gái chợt run lên và nhắm vào bả vai phải của Linh Lan mà quất xuống. Phần không đề phòng, phần cô gái ra tay quá nhanh, trong khi Linh Lan còn chưa kịp hiểu chuyện gì vừa xảy ra thì đã thấy bờ vai đau rát và nhức buốt. Vội vàng ôm lấy cánh tay khi dòng máu đào ứa ra từ vết thương đã bị đánh rách, đôi mắt đen mượt của Linh Lan lấp lánh những tia nhìn căm phẫn hướng về khuôn mặt của cô gái. Còn cô ta thì nghênh mặt ra vẻ tự đắc khi đã ra tay trừng phạt sự vô lễ của kẻ đứng trước mặt mình.
- Ngọc Uyển ta không cho phép ngươi nói năng trống không như thế. Dám dùng kiếm uy hiếp hoàng huynh, ngươi thật sự chán sống rồi.
Ngay khi câu nói ấy vừa dứt, sợi roi trong tay cô gái lại vung lên như một con linh xà. Chỉ nghe hai tiếng “chát, chát” xé gió, cánh tay trái của Linh Lan đã lãnh trọn hai nhát roi mãnh liệt đó. Mím môi lại khi dòng máu ấm nóng rỉ qua kẽ tay, đôi mắt Linh Lan tối lại khi nhìn Ngọc Uyển - tức cô gái áo vàng - vì không nghĩ trên đời lại có cô gái chanh chua, đanh đá và không biết phép tắc như thế này. Cố dằn nén cơn giận bùng phát như hồ Trị An chực vỡ, Linh Lan thừa biết nếu bây giờ làm căng với Ngọc Uyển thì chắc chắn sẽ có hai điều bất lợi. Thứ nhất, trong tay cô ta là sợi roi vừa linh động vừa mềm dẻo, còn nó không có lấy môt tấc sắt, thứ hai, Ngọc Uyển là công nương, tức là em gái của Nguyễn Ánh. Nó đã bị bắt vào đây vì tội hành động mờ ám và uy hiếp chúa công của họ, nay lại thêm tội ám sát công nương hay buông lời phỉ báng thì chỉ có nước đem ra lăng trì hay chém đầu. Liếc nhanh mắt về cánh cửa nhà giam đang rộng mở, rồi lại nhìn nàng công nương kiêu kỳ - vẻ mặt đắc thắng đang đứng vung vẩy sợi roi trước mặt - trong đầu Linh Lan chợt lóe lên một tia sáng. Tuy không chắc rằng cách này có thể giúp nó thoát khỏi nhà giam được không, nhưng dù sao cũng phải thử vì không thể bỏ qua bất cứ cơ hội dù nhỏ nhoi nào…
- Vâng! Thưa công nương, luận về võ học thì có lẽ tôi không bằng người, những nếu luận về những mặt khác thì công nương có lẽ không giỏi bằng tôi. Nay trong tay tôi không có binh khí gì mà người lại có, tôi thua tất sẽ không phục, nhưng nếu người có thể thực hiện được yêu cầu của tôi, có lẽ tôi sẽ tâm phục khẩu phục hơn.
- Yêu cầu gì? Ngươi đừng có giở trò với ta đấy!
- Công nương thông minh thế, tôi giở trò được ích gì – Linh Lan cố gắng lấy giọng sao cho mềm mỏng, ôn hòa nhất. Đối với những cô công nương kiêu kỳ, chỉ thấy mình ta trên đời này thì phải tranh thủ tán tụng và tung hê sao cho khéo léo nhất, chứ rủi làm cho Ngọc Uyển nổi giận, ra tay tàn bạo hơn thì số nó sẽ tiêu tán ngay - Yêu cầu của tôi vô cùng nhỏ nhoi, đó là nếu công nương có thể nói nhanh được năm lần câu “chị lặt rau rồi luộc, em luộc rau rồi lặt” mà không vấp váp hay lộn bất cứ chữ nào, thì Linh Lan tôi xin tâm phục khẩu phục và khấu đầu chịu tội trước mặt công nương.
Nhướng mắt lên nhìn nụ cười ngọt ngào của Linh Lan, Ngọc Uyển bụng thầm thắc mắc khi ban nãy đôi mắt cô gái này như có ánh lửa, thế mà bây giờ ánh lửa đó vụt biến mất, thay vào đó là sự dịu dàng và ngoan ngoãn đến không ngờ. Đưa mắt quan sát Linh Lan thêm một lần nữa, Ngọc Uyển bĩu môi khi nhìn thấy bộ dạng lấm lem, áo quần lếch thếch của nó do những vết bùn đã khô bám lại, nay lại thêm hai cánh tay bị thương máu chảy ròng ròng trông hết sức thảm thương. Đoan chắc cô gái này đã chịu khuất phục, hơn nữa còn có sợi roi trong tay mình thì cô ta chắc chắn không thể giở trò, vả lại điều kiện của cô ta đưa ra chỉ là nói năm lần cái câu “chị lặt rau rồi luộc, em luộc rau rồi lặt” dễ dàng kia thì một công nương thông minh, lanh lợi như cô chắc chắn sẽ làm được dễ dàng.
- Tưởng sao! Được! Ta sẽ làm cho ngươi tâm phục khẩu phục.
- Vâng! Công nương khi nói câu ấy phải thật nhanh, càng nhanh càng tốt mà lại không vấp váp chữ nào mới làm tôi tâm phục đấy.
- Được! Ngươi nghe đây. Chị lặt rau rồi luộc, em luộc rau rồi lặt. Chị lặt rau rồi luộc, em luộc rau rồi lặt…
- Ấy! Không được! Công nương nói còn chậm quá, người hãy nghe tôi nói đây. Chị lặt rau rồi luộc, em luộc rau rồi lặt. Chị lặt rau rồi luộc, em luộc rau rồi lặt…
Trước đôi mắt tròn xoe của Ngọc Uyển, Linh Lan xé toạt chiếc áo khoác bên ngoài để buộc chặt vào cánh tay cho máu khỏi chảy. Nó vừa đi vòng quanh nhà giam vừa đọc một hơi năm lần lưu loát mà không bị vấp váp hay trái chữ chỗ nào, do trước đây đã luyện tập nhiều lần trước khi mang ra thách Anh Tú. Rồi sau đó, Linh Lan khéo léo dừng lại gần cánh cửa nhà giam đang rộng mở, đoạn cười thầm trước gương mặt hoa đang đanh lại của Ngọc Uyển - vì nghĩ rằng mình là công nương, sao có thể đi thua con bé lem luốc bình thường này.
- Đó! Nếu công nương nói nhanh hơn tôi mà rõ chữ, không vấp váp, thì tôi mới tâm phục khẩu phục.
- Được! Ta mà nói chậm hơn ngươi ư, nghe cho kỹ đây. Chị lặt rau rồi luộc, em luộc rau rồi lặt. Chị lặt rau rồi luộc, em luộc rau rồi lặt. Chị lặt rau rồi luộc, em luộc rau rồi lặt. Chị lặt rau rồi luộc, em luộc rau rồi lặt. Chị…. Á
Vì máu ăn thua trong người nổi lên kèm theo tính tự ái, Ngọc Uyển quyết không cho phép mình thua con bé bình thường, xấu xí ấy nên nói một hơi mà không kịp thở. Kết quả là vì nói quá nhanh lại phải tròn chữ, nên trong lúc sơ ý Ngọc Uyển đã cắn mạnh vào lưỡi mình. Vội vàng bụm lấy miệng khi dòng máu đào rỉ ra từ khóe môi, khuôn mặt hoa của Ngọc Uyển tái lại vì không ngờ xảy ra sự cố này. Có lẽ đối với Ngọc Uyển là không ngờ, nhưng đối với Linh Lan thì nó đã dự liệu trước vì biết kết quả nói nhanh sẽ dẫn đến vụ cắn lưỡi, do trước đây Anh Tú đã bị một lần. Canh đúng lúc Ngọc Uyển bụm lấy miệng, Linh Lan vọt chân phóng nhanh ra ngoài. Vừa mới thò đầu ra thì nó đã bắt gặp tên lính gác khi nãy. Không để cho tên lính kịp hạch hỏi mình, Linh Lan liền chỉ tay vào bên trong với điệu bộ hốt hoảng, đoạn nói nhanh để chặn họng tên lính trước đôi mắt đang trố ra của anh chàng.
- Thôi nguy rồi! Nguy rồi! Công nương trong lúc sơ ý đã cắn phải lưỡi mình nên máu đang tuôn trào lênh láng trong đó. Anh mau vào xem thế nào, còn tôi đi gọi bác sĩ…à lộn, đại phu ngay.
Nhìn theo ngón tay Linh Lan đã chỉ, tên lính gác há hốc miệng ra khi nhìn thấy Ngọc Uyển đang bụm miệng ra chiều đau đớn. Thần trí quýnh quáng nên không thể suy nghĩ được điều gì, tên lính vội vàng chạy tọt vào trong để xem xét Ngọc Uyển thương tích thế nào. Lúc tên lính chạy vào lo lắng vào thì Linh Lan cũng chạy vụt đi. Linh Lan cứ vừa đi vừa dòm dáo dác, tim đập thình thịch khi lo sợ sẽ có người phát hiện ra nó thì tội lại càng dày thêm, hệt như tên ăn trộm lẻn vào vơ vét của mà sợ động đến giấc ngủ của chủ nhà. Vội núp sau giàn binh khí dựng sát góc tường khi có một tốp lính tuần đi ngang qua, Linh Lan tinh mắt nhìn thấy một thanh trủy thủ nằm lẫn trong hàng chục thanh kiếm. Nó nhanh nhẹn quơ lấy thanh trủy thủ đó và giắt vào thắt lưng, đề phòng sau này có chuyện thì còn có cái mà dùng.
Mò mẫm đến dãy hành lang sáng trưng ánh nến, Linh Lan tự nhủ không biết tuổi thọ nó giảm mất mấy lần, khi từ nãy đến giờ luôn sống trong tâm trạng lo âu, hồi hộp, hai lòng bàn tay ướt đẫm mồ hôi vì sợ sẽ bị bắt quay trở lại nhà giam. Đang rón rén đi khẽ và nhìn quanh để xem có bóng dáng lính tuần tra không, Linh Lan chợt tái mặt khi nghe tiếng bước chân từ phía truớc mặt và sau lưng cùng lúc vang lên. Vội vàng ngó quanh để xem có chỗ nào thích hợp để trốn, Linh Lan thất vọng cùng cực khi ở dãy hành lang hẹp, ngoại trừ những ngọn nến sáng rực đặt trên giá đồng ra thì chẳng có lấy một chỗ nào đủ an toàn để trốn, trong khi tiếng bước chân ngày càng đến gần. Đang chắc mẩm phen này sẽ bị bắt quả tang tại trận, đôi mắt lo lắng của Linh Lan chợt sáng lên khi phát hiện một căn phòng trước mặt mình không quá năm bước chân. Vội vàng chạy về căn phòng ấy, Linh Lan nhanh chóng đẩy cửa bước vào và khép lại, đọan thở phào nhẹ nhõm khi trong phòng không có ai ngoài cô gái đang thập thò là mình. Nghiêng người nghe ngóng những tiếng bước chân đi ngang qua căn phòng, trống ngực Linh Lan nhảy điệu tango vì sợ chúng sẽ mở cửa bước vào phòng thì toi đời.
Lắng nghe tiếng chân xa dần, Linh Lan thở phào nhẹ nhõm vì chí ít nó cũng đã tạm thời an toàn. He hé cánh cửa để xem ngoài hành lang có động tĩnh gì không, Linh Lan hết dòm tới lại dòm lui. Sau khi đã chắc chắn bên ngoài hiện thời vắng tanh như chùa bà đanh, Linh Lan hít một hơi dài, và…
- Chúa công! Ngài nghĩ rằng những người đó đáng tin cậy sao?
Từ đằng xa, một người đàn ông ngoại quốc cao lớn, béo phục trong bộ quần áo màu xám bạc, đi cùng với chàng trai mà Linh Lan đã dùng kiếm uy hiếp - tức Nguyễn Ánh – đang đến gần. Người đàn ông đang đề cập đến chuyện nào đó, trong khi Nguyễn Ánh trước sau vẫn yên lặng, không tỏ thái độ gì. Trông thấy hai người đang ngày một tiến gần về phía căn phòng, Linh Lan than trời trong bụng, nó vội vàng khép cửa lại và nhìn quanh quất để tìm chỗ ẩn náu. Nhác thấy chiếc bàn kê sát góc phòng, trên phủ một chiếc khăn đỏ trải dài chấm đất, Linh Lan vội vàng chui tọt xuống gầm bàn rồi ngồi thu lu trong đó, lòng thầm khấn vái ông trời rủ lòng thương cho Nguyễn Ánh không phát hiện ra nó đang trốn ở dưới này.
Linh Lan vừa núp xong đâu đó, thì cũng là lúc Nguyễn Ánh đẩy cửa bước vào, theo sau là người đàn ông ngoại quốc to, béo - tức Bá Đa Lộc. Cởi chiếc áo khoác màu vàng nhạt của mình ra và để trên giá sách, Nguyễn Ánh thong thả tiến lại chiếc bàn - nơi có nữ “tội phạm” đang trốn - và ngồi xuống khiến Linh Lan tim đập lôtô vì lo sợ sẽ bị anh phát hiện ra. Dường như chẳng biết có người đang ngồi trốn dưới gầm bàn, Nguyễn Ánh thong thả rót cho mình một chén trà thơm, đoạn đẩy một chén sang Bá Đa Lộc, khi tay ông đang vân vê một chỗi hạt màu xanh ngọc bích nơi tay mình.
- Chúa công! Chuyện khi nãy…
- Sao - Nhấp từng ngụm trà thanh thanh trong miệng, Nguyễn Ánh không đưa mắt nhìn Bá Đa Lộc mà lại nhìn mông lung lên bức tranh vẽ thủy mặc treo trên tường – Nói tiếp đi.
- Chúa công! Cùng sát cánh với ngài đã lâu, tôi thấy đám người Hòa Nghĩa Đoàn mà ngài đã thu nạp, tuy bằng mặt nhưng chưa chắc đã bằng lòng. Ngài để đám người đó dưới trướng mình như thế không e ngại một ngày nào đó chúng sẽ làm phản, gây bất lợi cho chúng ta sao?
- Thì sao?
Thoáng bối rối khi Nguyễn Ánh nhìn vào mắt mình, trong giây lát đó, Bá Đa Lộc có cảm giác rằng những suy nghĩ trong đầu ông bị phơi bày dưới đôi mắt nâu trong suốt ấy. Nhìn những làn khói mỏng uốn éo những hình thù vô định từ tách trà bốc lên, Bá Đa Lộc im lặng đôi chút rồi tiếp lời.
- Tôi không tin tưởng lắm đám người thô lỗ, gặp ai cũng muốn sinh sự ấy. Ngài tuy đã thu phục được nhưng không chắc có thể đồng hóa họ, bởi tôi nghĩ rằng trong tâm trí của chúng, người mà chúng coi là chủ chỉ có Trần Đình chứ không phải chúa công. Trần Đình nắm trong tay nhiều binh quyền, tâm địa lại không hoàn toàn khuất phục chúa công, chắc chắn khi có thời cơ sẽ mưu đồ làm phản. Tôi chỉ e ngại lại có thêm một Đỗ Thanh Nhơn thứ hai thôi.
- Tôi biết.
- Chúa công không lo lắng gì sao? Tấm gương đội quân Đông Sơn của Đỗ Thanh Nhơn làm phản vẫn còn trước mắt. Thiệt hại mà chúng gây ra cho ta trong một thời gian dài là không nhỏ. Đáng dẹp bọn chúng, Tổng binh Tống Văn Phước đã tử trận. Chẳng lẽ ngài không lo lắng sẽ đi vào vết xe đổ đó, sẽ lại hao binh tổn tướng sao? Huống chi đây lại còn là đám hàng tướng của quân Tây Sơn, đã làm phản một lần, điều gì sẽ đảm bảo chúng không làm phản lần nữa.
Đáp lại sự lo lắng của Bá Đa Lộc chỉ là một ánh mắt bình thản không hơn không kém của Nguyễn Ánh. Sự bình thản đó làm Bá Đa Lộc thoáng chút ngạc nhiên vì không nghĩ rằng vị chúa này lại có thể điềm tĩnh đến như thế. Miết nhẹ tay vào tách trà bằng sứ, Nguyễn Ánh chợt mỉm cười khi nhớ tới khuôn mặt vuông vức, có điểm vài vết sẹo trên trán của Trần Đình rồi buông lời.
- Thông qua tên tướng Trần Đình hay người chủ cũ của nó là Lý Tài, ta có thể thấy được đội quân này có lòng kiêu hãnh rất lớn vì trước đó chúng cũng đã từng ở trong Tây Sơn, đã từng đảo chính và chiếm giữ Gia Định. Bá Đa Lộc, ông muốn đồng hóa chúng, nhưng ông có biết rằng lòng kiêu hãnh và sự tự tin bên trong con người chính là cái đức tin vững vàng nhất không gì có thể đánh đổ được. Chắc chắn chúng sẽ không dễ dàng bị thuần hóa trong khi lực lượng của chúng ta không nhiều và chưa đủ mạnh. Chi bằng cứ để chúng tự do trong khuôn khổ, sau này có làm phản…
Nguyễn Ánh chỉ nói đến đó rồi ngưng, tiếp theo sau đó là một nụ cười lấp lửng. Nụ cười đó làm Bá Đa Lộc không hiểu nổi thật ra vị chúa công này đang suy nghĩ gì trong đầu. Tiếp tục mân mê chuỗi ngọc bính màu xanh trên tay mình, Bá Đa Lộc lại lên tiếng phá tan bầu không khí yên lặng ở trong phòng.
- Chúa công đã nói thế, tôi không còn gì để nói, nhưng còn chuyện, còn chuyện…
- Chuyện đó khi khác hãy nói đến, còn bây giờ tôi cần nghỉ ngơi!
Nhìn thẳng vào đôi mắt nâu trong suốt của Nguyễn Ánh, Bá Đa Lộc như cảm thấy ở con người này có một chút gì đó bí ẩn, ngạo mạn và mang sự tự tin tuyệt đối, vì mọi suy nghĩ của ông dường như đã bị vị chúa công còn trẻ tuổi nhưng lại khôn ngoan này nắm rõ trong lòng bàn tay. Biết không thể nóng vội đề cập đến chuyện hoàng tử Cảnh, Bá Đa Lộc không tiện nói thêm gì nữa, ông chậm chạp đứng lên sau khi đã cúi chào Nguyễn Ánh rồi xoay người bước ra khỏi phòng, bỏ lại sau lưng ánh mắt trong suốt, lấp lánh của Nguyễn Ánh đang nhìn theo bóng dáng cao lớn của mình.
Ngồi dưới gầm bàn, Linh Lan than thầm trong bụng vì không biết chừng nào Nguyễn Ánh mới ra khỏi phòng hay lên giường đi ngủ, để cho nó chui ra khỏi cái xó xỉnh này. Dù tay chân đã tê cứng, mỏi nhừ và mất dần cảm giác, thế nhưng những thông tin quý giá mà Linh Lan đã tình cờ nghe được khi nãy thật sự có tác động rất lớn đến nó. Quân Nguyễn có đám quân của Nghĩa Hòa Đoàn, nhưng đám quân này xem ra lại khó đồng hóa và mầm mống phản loạn cũng đang ở lưng chừng. Nếu khôn khéo, biết kích động đám quân Hòa Nghĩa Đoàn này phản lại Nguyễn Ánh, thì Tây Sơn nội công ngoại kích âu cũng sẽ khỏi tốn quá nhiều công sức khi muốn kéo vào Gia Định. Nói thì dễ, cái khó ở đây là làm thế nào mới châm ngòi được quân Hòa Nghĩa Đoàn làm phản, bởi cái câu “nếu sau này làm phản...” của Nguyễn Ánh còn lơ lửng trên trời. Sau câu nói đó, Nguyễn Ánh muốn nói gì. Rốt cuộc anh ta đang suy nghĩ, đang tiến hành phòng thủ Gia Định thế nào để đề phòng Tây Sơn kéo đến. Đang đắm chìm trong suy nghĩ miên man, Linh Lan chợt giật bắn mình khi giọng nói trầm ấm của Nguyễn Ánh cất lên, chẳng khác nào sét giáng ngang đầu.
- Còn định trốn dưới đó tới khi nào?
★ Chương 53: Con người cổ quái
Biết không thể chơi trò trốn tìm với người có ánh mắt xuyên suốt tâm can kẻ khác như Nguyễn Ánh, trái tim Linh Lan run khẽ trong lồng ngực. Nó nấn ná thêm một chút để cân nhắc những gì sẽ nói khi đối diện với anh, sao cho cẩn thận và khôn khéo nhất bởi kinh nghiệm từ vụ cúc áo trước đó, rồi mới chậm chạp bò ra. Đứng thẳng người lên, Linh Lan chống nạnh nhìn Nguyễn Ánh. Đáp lại cái nhìn khiêu khích ấy chỉ là đôi mắt nheo lại của anh, khi trông thấy máu từ vết thương của nó đã thấm đỏ cả miếng vải áo đang buộc chặt trên tay.
- Tác phẩm đó của Ngọc Uyển phải không?
Nhíu mày vì không hiểu Nguyễn Ánh muốn nói đến điều gì, phải mất một phút sau Linh Lan mới hiểu anh đang ám chỉ vết thương thấm máu trên cánh tay nó. Hừ nhạt một tiếng, Linh Lan vung vẩy tay trước mặt Nguyễn Ánh ra chiều ta đây còn khỏe mạnh chán, dù cho bụng đang than khổ khi cánh tay cử động vô cùng khó khăn và đau thốn từng hồi.
- Không cô ta thì là ai? Dù bị thương thế này thì tôi vẫn còn khỏe mạnh lắm, đừng tưởng tôi nhỏ con mà lầm.
Với cá tính hay bắt nạt người khác, ban đầu Linh Lan tính nói gì đó thật mỉa mai, thật cay độc, đại loại như “anh nào em nấy”, hay “anh cũng đâu kém gì”. Đến khi nhớ lại chuyện cúc áo, Linh Lan tự nhủ rằng không thể nói năng bừa bãi vô tội vạ. Cộng thêm tội trạng vượt ngục của nó hiện giờ, xui rủi chọc cho Nguyễn Ánh nổi đóa lên thì sẽ không còn cảnh tống vào nhà giam nữa mà là chém bay đầu nó ngay lập tức. Thế là tin tức về chàng trai kỳ lạ kia nó sẽ không bao giờ được biết, Anh Tú thì tìm không thấy và nó sẽ ngậm hờn nơi suối vàng.
Chẳng biết Nguyễn Ánh có hiểu được những lắt léo trong suy nghĩ của nó hay không, mà chỉ thấy anh nhếch môi cười, một nụ cười lửng lơ làm Linh Lan bắt đầu…chột dạ. Đậy nắp trà lại để ngăn làn khói mỏng manh thoát lên, Nguyễn Ánh thong thả đứng dậy. Anh từ từ tiến về phía nó, còn Linh Lan bất giác lùi lại, tay vung lên thủ thế do cảm nhận thấy mùi nguy hiểm đang tỏa ra từ con người này.
- Anh… muốn làm gì?
- Bị giam trong ngục như thế mà vẫn chạy ra được tới đây, cô cũng nhanh nhẹn lắm.
- Đó là vì nhà lao của anh dỏm thôi! Không nơi nào có thể giam giữ tôi hết.
Quên bén mất ý định phải “lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”, bản tính háo thắng của Linh Lan lại trỗi lên khi giọng nói của Nguyễn Ánh đượm vẻ mỉa mai rõ rệt. Quắc mắt lên nhìn anh, Linh Lan mím môi tự chủ để thôi không nói thêm một lời nào nữa. Nó lom lom canh me Nguyễn Ánh đặng khi anh động đậy gì thì còn biết đường mà né, nếu không lại chẳng biết sau vụ cúc áo ấy sẽ là cái gì.
- Bé con, khẩu khí của cô cũng lớn lắm, để tôi xem…
Sau cái câu “để tôi xem” là ba chấm mơ hồ của Nguyễn Ánh, làm Linh Lan hơi ngớ người ra trong chốc lát. Nhưng ngay sau đó nó đã hiểu ra được ba chấm ấy là gì, bởi trong tích tắc, Nguyễn Ánh đột ngột lướt tới bên cạnh nó. Đôi mắt nâu trong suốt nhìn xuyên qua ánh mắt Linh Lan làm nó giật mình. Đang còn kinh ngạc vì không ngờ thân thủ của Nguyễn Ánh nhanh đến thế, Linh Lan đã thấy cổ tay mình nằm gọn trong bàn tay cứng như thép nguội của anh, khi mà nó còn chưa kịp giở một ngón võ nào. Quyết không để cho Nguyễn Ánh có thể trêu đùa mình thêm lần nữa, Linh Lan vội vàng móc thanh trủy thủ giắt ở thắt lưng ra, rồi bất chấp cơn đau của vết thương đang hành hạ mà vung dao đâm thẳng vào người anh.
Dường như không bất ngờ với việc Linh Lan có được thanh trủy thủ, Nguyễn Ánh lách người sang bên phải để tránh đường dao của nó. Rồi sau đó, anh chụp nốt cổ tay còn lại và xiết chặt, khiến năm ngón tay của Linh Lan duỗi ra bất lực và đánh rơi thanh trủy thủ xuống sàn nhà. Tuy bị khóa chặt hai tay, cho dù có vùng vẫy cách nào cũng không thoát ra đuợc, nhưng bản thân Linh Lan lại không muốn chịu thua một cách dễ dàng như thế. Nó liền vung chân lên và đá thẳng vào ống quyển của Nguyễn Ánh, hòng khiến anh phải buông tay mình ra. Điểm một nét cười trên bờ môi thanh tú, Nguyễn Ánh co mũi giày lên và chặn lại bàn chân đang vung tới của Linh Lan, đồng thời vung tay điểm nhanh lên bờ vai phải của nó. Chỉ thấy bờ vai mình nhói lên một cái, Linh Lan đánh mất bình tĩnh, do không biết Nguyễn Ánh đã dùng tà thuật gì mà cả người nó giờ đây cứng đơ như khúc gỗ, không sao cử động được dù chỉ một ngón tay. Phớt lờ cái nhìn căm hờn của Linh Lan, Nguyễn Ánh rà mắt theo dòng máu ấm từ vết thương nó chảy qua kẽ tay anh, đọan buông lời.
- Vết thương trên cánh tay cô có độc, nếu không kịp thời chữa trị, chắc chắn cô sẽ bị phế cả hai tay.
Mở to mắt ra nhìn Nguyễn Ánh, Linh Lan không biết anh đang nói đùa hay nói thật. Thế nhưng căn cứ vào hai cánh tay đang tím bầm, sưng phồng lên và nhức nhối khác thường, Linh Lan cũng ngờ ngợ ra nó có vấn đề, bởi thông thường roi da không khi nào khiến vết thương trở nên như thế. Nếu những điều Nguyễn Ánh nói là thật thì sợi roi của cô nàng Ngọc Uyển đanh đá kia hẳn có tẩm độc. Nhưng cô em đã thủ đoạn như thế chưa chắc ông anh đã hiền lành. Nó đã can tội uy hiếp Nguyễn Ánh, nay lại thêm tội vượt ngục, anh ta muốn nó chết còn chưa đủ nói chi đến chạy chữa cho hai cánh tay tội nghiệp này.
- Tôi bị phế cả hai tay cũng không liên quan gì tới anh. Tôi nay như cá nằm trong lưới, muốn chém muốn giết thì tùy, đừng tỏ ra quân tử ở đây.
Chính vì biết mình khó tránh khỏi cái án tử, Linh Lan chẳng thèm uốn lưỡi bảy lần nữa mà nói huỵch toẹt ra những gì đang nghĩ trong đầu. Đối với nó, từ khi trở về quá khứ thì tương lai trước mắt đã trở nên mù mịt còn đường về nhà thì xa tít mù khơi. Giữa thời đao binh loạn lạc, chết hay không chỉ là vấn đề thời gian, nhất là việc mất đi hai cánh tay thì cái chết xem ra còn dễ chịu hơn. Chỉ tiếc duy nhất một điều rằng trước khi chết, nó vẫn chưa tìm thấy được Anh Tú và xác định thực hư của lời đồn đại kia. Mở to đôi mắt bình thản nhìn thẳng vào Nguyễn Ánh, Linh Lan giờ đây đã dọn sẵn cho mình một cái chết, nên nó ung dung đứng đối diện với anh mà không cần biết đó là vị chúa Nguyễn cuối cùng, hay Gia Long hoàng đế - người sẽ khai sáng ra vương triều nhà Nguyễn sau này.
- Tôi không phải tiểu nhân, nhưng làm quân tử cũng chẳng được lợi lộc gì. Đối với tôi, chuyện nào có lợi mới đáng để nhúng tay vào. Cô đã ở trong tay tôi thì quyền chết cũng không được yêu cầu.
- Anh… muốn làm gì tôi?
- Cô nghĩ xem.
Trố mắt nhìn chàng trai trước mặt, Linh Lan không ngờ rằng trông anh ta thế này nhưng lại độc còn hơn cả cô em Ngọc Uyển của mình. Phớt lờ sự oán hờn hiện rõ trên khuôn mặt Linh Lan, Nguyễn Ánh choàng tay qua thắt lưng nó và đột ngột…bế thốc lên, trước sự kinh ngạc quá đỗi của nó vì không biết Nguyễn Ánh muốn làm gì.
- Anh làm gì vậy hả? Thả tôi ra! Thả tôi ra mau!
Mặc cho Linh Lan la hét phản đối, nhưng lại không thể chống cự gì do cả người cứng đơ như khúc gỗ, Nguyễn Ánh vẫn thản nhiên bế nó trên tay, đi về phía chiếc giường nằm sát góc tường rồi đột ngột thả phịch xuống, làm Linh Lan ê ẩm cả người do mặt giường chẳng hề êm ái chút nào. Để mặc cho Linh Lan nhăn nhó trên giường, Nguyễn Ánh bước tới chiếc kệ treo trên tường rồi lấy một lọ thuốc nhỏ màu trắng, nằm sát góc, xong quay trở lại và ngồi đối diện với nó. Trước khuôn mặt căng thẳng của Linh Lan vì sợ anh lại giở trò, Nguyễn Ánh lạnh lùng duỗi thẳng tay Linh Lan ra, nghiêng lọ thuốc và đổ chất bột màu trắng lên vết thương đang làm độc của nó. Như một cục vôi sống thả xuống nuớc, chất bột màu trắng vừa chạm vào vết thương của Linh Lan liền sủi bọt trắng li ti, đau đến nỗi làm Linh Lan muốn khóc vì có cảm giác như từng cây kim châm vào da thịt mình.
Trong đời Linh Lan, kể từ khi phải khâu mười mấy mũi ở chân do ngã từ trên cây xuống, nó chưa bao giờ trải qua cơn đau tột cùng như thế này. Sự đau đớn từ từ thấm sâu vào da thịt, rồi bắt đầu lan ra toàn thân từng chút một, như thể đang ăn mòn từng mảng da thịt nó trước khi chuyển sang chỗ khác. Sự đau đớn, bỏng rát, khó chịu ấy đã làm cho Linh Lan hoàn toàn kiệt quệ. Mắt nó nhòa đi. Hai hàm răng nghiến chặt chịu đựng. Từng giọt mồ hôi mằn mặn lăn tròn trên má rồi đọng lại ở bờ môi. Những hình ảnh trong đầu nó liên tiếp dồn về, nhạt nhòa và lộn xộn như cuốn băng ghi hình bị lỗi. Tai nó ù đặc và cảnh vật trước mắt quay cuồng như một cơn lốc. Đến khi đã không còn chịu đựng được nữa, Linh Lan ngất đi…
Không biết thời gian đã qua bao lâu, từng ngón tay của Linh Lan dần lấy lại cảm giác và khẽ nhúc nhích. Đôi mắt nhắm nghiền run nhẹ, vành mi chậm chạp mở ra. Nhìn thấy chiếc lồng đèn treo trên trần nhà, từng mảnh vụn hình ảnh trôi lềnh bềnh qua đầu nó, để rồi Linh Lan chợt ngồi phắt dậy khi nhớ ra tại sao mình có mặt ở nơi này. Vội ôm lấy đầu khi cơn choáng váng từ đâu ập đến, Linh Lan phải định thần lại một lúc mới thấy rõ cảnh vật trước mắt mình. Bên ngoài trời đã lờ mờ sáng, từng tia sáng từ cửa sổ hắt vào, vẽ thành những vệt cong không rõ hình thù, lảng bảng như sương khói trên nền nhà. Nhìn thấy một bóng người đang đứng quay lưng về phía mình, tà áo nhẹ phơ phất khi cành liễu trước hiên khẽ run rinh, Linh Lan không khó khăn mấy khi nhận ra bóng dáng cao lớn ấy là Nguyễn Ánh. Nó bèn đưa tay vỗ lên đầu mấy cái khi cơn chóng mặt bắt đầu tái phát, rồi lại nhìn xuống tay mình xem sau khi Nguyễn Ánh đổ thứ bột quái quỷ lên, thì bây giờ nó như thế nào.
Có vẻ như lọ thuốc của Nguyễn Ánh tuy hành hạ sức chịu đựng của nguời khác là thế, nhưng hiệu quả của nó cũng đáng để cho Linh Lan phải ngạc nhiên. Từ một vết thương sưng tấy, tím bầm như ban nãy, bây giờ đã bắt đầu xẹp xuống và hồng hào như cũ, đồng thời sự đau đớn ban nãy cũng đã không còn, hệt như trải qua một giấc mơ. Đang thầm thán phục công dụng của lọ thuốc còn tốt hơn bất cứ ông bác sĩ nào ở hiện đại, thì giọng nói trầm ấm của Nguyễn Ánh đột ngột cất lên, làm loãng không gian yên lặng và khiến Linh lan giật mình.
- Cô tỉnh nhanh thật!
Ngước nhìn Nguyễn Ánh bằng đôi mắt nghi hoặc, có ngây thơ đến mấy thì Linh Lan cũng không thể nào tin Nguyễn Ánh lại tốt bụng như thế. Dù mặt trời có quay quanh trái đất nó cũng không tin rằng anh sẽ dễ dàng tha cho nó, mà chưa tra khảo được một chút thông tin gì về xuất xứ cũng như mục đích của nó khi đến đây.
- Tôi có muốn nằm mãi cũng không được. Tự nhiên chữa trị vết thương của tôi thế chắc chắn anh phải có mục đích. Bây giờ anh muốn hỏi tôi cái gì? Tôi là ai? Từ đâu đến? Có mục đích gì và ai đã sai tôi đến đây? Đúng không?
Nhìn thẳng vào đáy mắt của Nguyễn Ánh mà không tỏ vẻ e dè, Linh Lan cất cao giọng và tin chắc rằng những gì anh muốn nói với nó đều không nằm ngoài những câu trên. Nửa đêm lén lút trèo tường vào, chắc chắn phải có hành động mờ ám. Trong khi Tây Sơn đang là kẻ thù của quân Nguyễn, thì lẽ đương nhiên ai trong trường hợp này cũng sẽ nghĩ nó là gián điệp do quân Tây Sơn phái đến cũng không biết chừng.
Đáp lại ánh mắt tự tin của Linh Lan chỉ là một nụ cười mơ hồ của Nguyễn Ánh. Nhẹ nhàng tiến lại cạnh giuờng và đột ngột ngồi xuống đối diện với nó, Nguyễn Ánh miết tay lên thanh kiếm mà anh đã đoạt từ tay Linh Lan trước đó một cách ung dung, làm Linh Lan phải ngồi thụt vào trong để đề phòng anh lại uy hiếp mình.
- Tôi chỉ hỏi thanh kiếm này là cô lấy từ đâu. Còn những câu hỏi cô liệt kê ra không cần tôi phải hỏi, cô cũng sẽ tự trả lời thôi.
- Cái gì? Dựa vào đâu mà anh tự tin thế?
- Ở đây tôi là mới là người hỏi, còn cô thì không. Trả lời câu hỏi của tôi, đừng để tôi nhắc lại lần thứ hai.
Tính há miệng buông hai chữ “còn lâu” theo thói quen để phản ứng lại sự độc đoán của Nguyễn Ánh, Linh Lan kịp thời tốp lại khi nhớ ra tình cảnh hiện giờ. Nó đang còn ở trong hang hùm, đối diện lại là…chúa sơn lâm, trong khi nó chỉ là một chú thỏ con đáng thương tội nghiệp, có nguy cơ bị chúa sơn lâm xơi tái bất cứ lúc nào. Nhẹ liếm vành môi khô khốc, dù tức đến cành hông vì lần đầu tiên bị người khác bắt nạt như thế, nhưng Linh Lan vẫn cố giữ cho đầu óc mình tỉnh táo. Nó nhanh chóng ngẫm nghĩ xem mình nên trả lời sao cho phải đạo, để không chọc Nguyễn Ánh nổi giận. Mặc cho cái ý niệm chết là xong khi nãy, trải qua cơn thập tử nhất sinh vừa rồi, chưa bao giờ Linh Lan lại muốn sống như lúc này.
- Từ từ tôi nói, làm gì dữ vậy! Thanh kiếm đó là do tôi mua được ở cửa hàng thôi, chứ có ăn trộm ăn cắp của ai đâu.
- Thật sao?
Vừa ngắm nghía thanh kiếm, Nguyễn Ánh vừa đáp lời Linh Lan bằng chất giọng châm biếm. Hành động của Nguyễn Ánh làm nó toát mồ hôi hột khi thấy anh chẳng phản ứng gì, ngoại trừ việc rà tay theo những đường vân uốn lượn trên bao kiếm. Nếu Nguyễn Ánh đã quan tâm đến cây kiếm này, chắc chắn giữa anh ta và thanh kiếm ấy có mối dây liên hệ nào đó. Nhưng điều ấy làm sao có thể xảy ra bởi nó đã tìm thấy thanh kiếm sâu dưới đáy rương, nơi chẳng ai thèm mò tới? Với biết bao thắc mắc trong đầu, Linh Lan dù có hơi do dự nhưng vẫn quyết định nói bừa, vì nó không thể để lộ ra chuỵên mình là người trong nghĩa quân Tây Sơn hay có quan hệ nào với Văn Bình. Một khi biết được điều đó, rất có thể quân Nguyễn sẽ lấy nó để uy hiếp Văn Bình, buộc anh phải thuận theo ý họ cũng không biết chừng. Với ai thì nó không biết, nhưng với người nửa chính nửa tà như Nguyễn Ánh thì khó mà nói trước được điều gì.
- Thật! Anh không tin thì thôi.
Nhìn sâu vào đôi mắt đen láy của Linh Lan, Nguyễn Ánh không nói gì. Anh nhẹ nhàng tuốt vỏ kiếm ra và lần tay theo lưỡi kiếm lạnh lẽo, phản chiếu một đôi mắt nâu trong suốt như soi thấu lòng người. Trước sự hồi hộp của Linh Lan khi dõi theo nhất cử nhất động của Nguyễn Ánh, anh đột ngột vung kiếm lên và chém ngang người nó. Phần quá bất ngờ do cự ly của cả hai rất gần, cộng thêm vết thương trên tay chưa hồi phục, Linh Lan không kịp tránh né. Nó chỉ còn biết giơ tay che chắn theo phản xạ và nghe tiếng gió rít ngang người. Đến khi nhận thấy cả thân người mình đều ổn, ngoại trừ lòng bàn tay nhoi nhói, Linh Lan vội vàng xem xét thì thấy một vết cắt ngọt và dài. Tuy không đủ sâu để gây nguy hiểm, nhưng vết cắt cũng đủ để một tia máu đỏ ứa ra, chảy ngược xuống cánh tay và làm loang lổ chiếc chiếu nó đang ngồi.
- Thanh kiếm này chém sắt như bùn, thường gặp những bảo kiếm như thế, có chết người sở hữu nó cũng không muốn bán. Điều quan trọng hơn hết, người sở hữu thanh kiếm có hình dáng tương tự như thế này là kẻ thù của tôi. Từ Quy Nhơn xa xôi đến đây, chắc cô vất vả lắm.
Những lời Nguyễn Ánh tuy nhẹ nhàng, nhưng đối với Linh Lan thì lại như sét giáng trên đầu, bởi anh hẳn đã nhận ra nó chính là cô gái ngồi trên xe ngựa ở Quy Nhơn mà mình đã thấy hôm nào. Biết nó đến từ Quy Nhơn, lại còn có quan hệ với chủ nhân của thanh kiếm này, thế mà nãy giờ cứ chơi trò mèo vờn chuột, làm cho nó lãnh thẹo xong hỏi thăm sức khỏe. Thật nếu không phải đang ở trong hang hùm thì Linh Lan đã quyết ăn thua đủ cho bằng được, vì không chịu nổi cảnh bị người khác quay như dế, trong khi mình chẳng sơ múi được gì.
Vẫn nở một nụ cười kiêu ngạo thường trực, nhưng nay pha thêm một chút tàn nhẫn trong đó, Nguyễn Ánh từ từ rà kiếm lên cổ Linh Lan. Ngụ ý của anh rất rõ rằng, nếu còn lấp liếm thêm một lần nữa thì cái cổ của nó sẽ là nơi tiếp theo có một vết cắt thật xinh đẹp, mà không cần bàn cãi lôi thôi. Cảm nhận được lưỡi thép lạnh lẽo lâu lâu cạ vào cổ, Linh Lan bất chợt rùng mình. Những giọt mồ hôi đã bắt đầu lấm tấm hai vầng thái dương - dấu hiệu cho thấy nó đang căng thẳng tột độ. Phải nói rằng từ trước tới nay, nó đã gặp rất nhiều người nhưng chưa thấy ai cổ quái như Nguyễn Ánh, khi thì tàn nhẫn, lúc thì dịu dàng. Như cái lúc anh ta rịt thuốc lên vết thương của nó ban nãy, thái độ rõ ràng rất là hòa hoãn, nhưng đến khi nó tỉnh lại thì đằng sau nụ cười kiêu ngạo ấy lại phảng phất sự tàn nhẫn. Nói cũng chết, không nói cũng chết. Linh Lan bây giờ đang lâm vào tình thế tiến thoái lưỡng nan vì không biết phải làm sao cho thích hợp, trong khi thân vẫn còn đang mang thương tích chưa lành. Hít sâu vào một hơi để lấy lại tự chủ, Linh Lan bình tĩnh nhìn vào mắt Nguyễn Ánh. Nó quyết định nói dối thêm một lần nữa, vì đối với người như Nguyễn Ánh, thật khó đoán được tiếp theo anh ta sẽ làm gì.
- Cô ở trong Tây Sơn thế nào?
Đảo mắt nhìn quanh, Linh Lan tính nhắm mắt nói dối thêm lần nữa để che giấu thân thế của mình, nhưng phút cuối nó kịp thời ngưng lại khi nghe tới câu hỏi “tu từ” thứ hai của anh. Lúc này, ngoài trời đã sáng. Từng dải nắng nhạt luồn qua cửa sổ, nghiêng nghiêng, phủ lên trên khuôn mặt không biểu lộ chút cảm xúc nào của Nguyễn Ánh. Cái nhìn và câu hỏi của anh làm Linh Lan chột dạ vì không hiểu anh đang suy nghĩ gì. Biết nó ở trong Tây Sơn, nửa đêm trèo thành vào, dù muốn dù không thì hành động này mười mươi sẽ bị quy vào tội gián điệp. Với tội danh này, chắc chắn nó sẽ bị tù tội và Nguyễn Ánh sẽ tra tấn để lấy lời khai, dò thám xem tình hình Tây Sơn thế nào mới phải. Nhưng đằng này anh lại tỏ vẻ như không có gì, lại còn thăm hỏi tình hình sức khỏe của nó với một thái độ hòa hoãn, khác với hoàn toàn với sự tàn nhẫn khi nãy. Sự thay đổi xoành xoạch của Nguyễn Ánh làm Linh Lan như đang đi trong làn sương mù, khi không biết bước tiếp theo phải đối phó ra sao với con người này.
- Anh… anh đã biết tôi ở trong Tây Sơn, thế sao còn…
- Chẳng phải cô vừa nói cho tôi biết đó sao.
Trố mắt ra nhìn Nguyễn Ánh vì đã sập bẫy của anh một cách êm thắm, đúng là anh không tra khảo thì nó cũng tự động nói ra. Điều đó làm Linh Lan vô cùng tức giận vì mình đã bị ăn quả lừa. Đã tự khai mình ở trong Tây Sơn, trước sau gì nó cũng không thoát khỏi cái chết đang treo lơ lửng trước mặt, thế nên Linh Lan lúc này không còn kiềm chế, lựa lời nữa. Nó chẳng ngại ngần gì mà nói huỵch toẹt ra tất cả, bởi nó hiểu cho dù có nói hay không cũng sẽ có duy nhất con đường đó là án tử hình.
- Đúng! Tôi là người trong Tây Sơn thì đã sao nào. Anh đừng hòng tìm hiểu bất cứ thông tin nào bởi tôi chỉ là một nữ binh bình thường trong ấy, chả có chức trách cũng như nhiệm vụ nào, nên không biết được mấy chuyện quân sự cơ mật đâu.
- Không cần hỏi cũng biết bọn lông đỏ ấy lần này sẽ không thắng được tôi.
- Họ không phải là bọn lông đỏ. Họ là nghĩa quân Tây Sơn. Anh dựa vào đâu mà khẳng định chắc chắn như thế chứ?
Quắc mắt lên nhìn Nguyễn Ánh khi anh nói Tây Sơn là bọn lông đỏ, Linh Lan quên phắt người đang ở trước mặt mình là ai. Nó xù lông nhím lên để bảo vệ cho đội quân Tây Sơn - đã làm nên chiến thắng Đống Đa trong lịch sử - mà Nguyễn Ánh đã gọi là bọn lông đỏ một cách mỉa mai. Nói người ta như thế trong khi mình thì sao. Chẳng phải trong lịch sử, quân nhà Nguyễn bị Tây Sơn truy đuổi ráo riết, phải chạy từ đông sang tây hay sao. Thản nhiên phán rằng “Tây Sơn lần này này sẽ không thắng được tôi”, dựa vào đâu vậy? Có tự tin thì cũng tự tin vừa thôi, để cho người khác tự tin với chứ.
- Không phải khẳng định mà là lẽ đương nhiên.
- Còn lâu á! Từ trước đến nay quân nhà Nguyễn các anh có thắng được Tây Sơn trận nào đâu. Lần này nhất định cũng thế thôi.
- Cô nói gì?
Trong tích tắc, đôi mắt nâu trong suốt của Nguyễn Ánh chợt tối lại, khi Linh Lan hùng hồn tuyên bố rằng quân nhà Nguyễn chưa thắng được Tây Sơn trận nào. Đối với một người luôn tự tin vào bản thân mình, luôn nắm được điểm yếu của đối phương và biết người biết ta như thế, những lời nói của Linh Lan quả thật đã động đến cái sự tự tin luôn thường trực trong anh. Nhìn thấy khuôn mặt sa sầm của Nguyễn Ánh, Linh Lan mới biết rằng khi nãy nó đã lỡ miệng nói quá, có hối cũng không còn kịp. Vả lại, bảo quân Tây Sơn là bọn lông đỏ quả thật đã khiến nó vô cùng tức giận. Cơn giận bộc phát làm Linh Lan không thèm nhẫn nhịn hay ngăn cản bản thân mình lại, mà lại tiếp tục nói lớn hơn.
- Tôi bảo quân Tây Sơn nhất định sẽ thắng anh. Bây giờ cũng thế và sau này cũng thế. Tuyệt đối sẽ thắng.
Nhìn xoáy vào đáy mắt Linh Lan, khóe miệng Nguyễn Ánh bất giác nhếch lên. Anh bất thình lình đứng dậy làm, cho nó giật mình và vội lùi về phía sau khi nhận thấy sự thay đổi trên gương mặt anh. Vươn tay ra nắm lấy tay nó nhanh như cắt, Linh Lan còn chưa kịp phản ứng lại thì Nguyễn Ánh đã bế thốc nó lên và bước ra khỏi phòng, mặc cho nó la hét, quẫy đạp, vì với cái tính khí cổ quái của Nguyễn Ánh, thì thật không biết số phận của nó tiếp theo sẽ như thế nào.
- Nguyễn Ánh! Anh làm gì vậy? Thả tôi xuống mau.
★ Chương 54: Giao kèo
Mặc cho lời yêu cầu thả xuống của Linh Lan, Nguyễn Ánh vẫn điềm nhiên đẩy cửa bước ra ngoài, trước những đôi mắt trố lên của lính gác khi nhìn thấy chúa công bế một cô gái lạ mặt, đang quẫy đạp kịch liệt trên tay. Cố gắng thoát khỏi sự kềm cặp của Nguyễn Ánh, Linh Lan đã bắt đầu nổi đóa khi hai tay nó bị anh khóa lại, và không thể sử dụng Yến Phi quyền hay bất cứ ngón võ nào mà Nguyên Thiên đã chỉ dẫn cho. Lần đầu tiên trong đời, ngoại trừ bố nó, có người bắt Linh Lan phải làm theo ý mình, chứ không dựa trên quy tắc tự nguyện mà nó đặt ra, nên tính tự ái trong người Linh Lan lại trỗi dậy. Mím chặt môi khi tay chân đã hết đường cục cựa, Linh Lan chỉ còn cách chơi ngón đòn…xực phàm, với hy vọng Nguyễn Ánh đau quá phải thả mình ra.
Nghĩ là làm, Linh Lan há miệng và cắn thật mạnh vào bờ vai của Nguyễn Ánh không chút do dự. Phần vì tức giận, phần nôn nóng thoát khỏi tay anh nên lực cắn của nó không hề nhẹ. Chả biết Nguyễn Ánh đau hay không, mà chỉ thấy nét mặt Linh Lan thoáng biến đổi khi một dòng máu đỏ tươi chảy ra từ…miệng nó. Vội vàng ngẩng phắt đầu lên, Linh Lan không nghĩ rằng mình lại cắn mạnh đến nỗi…làm Nguyễn Ánh chảy máu như thế. Ấy vậy mà anh lại không tỏ vẻ bất ngờ hay đau đớn gì, và tiếp tục cất bước một cách thản nhiên khiến nó… rùng mình, vì cho rằng dây thần kinh cảm giác của con nguời này hẳn đã bị đứt từ lâu.
- Thế nào, bé con! Máu của tôi có vị gì?
Nheo mắt nhìn đôi đồng tử đang thay đổi của Linh Lan, Nguyễn Ánh hỏi lại bằng giọng nửa đùa nửa thật, làm Linh Lan có chút khó chịu nhưng vẫn tỉnh bơ đáp lời.
- Không tệ. Mằn mặn, ngòn ngọt. Chỉ tiếc tôi không phải vampire, bằng không tôi nhất định sẽ hút sạch máu anh.
- Thế thật tiếc quá! Bằng không tôi cũng muốn xem cô có bản lĩnh gì để có thể hút sạch máu tôi.
Vừa đáp lại lời Linh Lan, Nguyễn Ánh vừa tăng tốc bước nhanh về phía trước mà không thèm dừng lại để băng bó hay rịt thuốc, mặc cho vết thương máu chảy thành dòng, thấm qua lớp áo trước đôi mắt lo lắng của Linh Lan. Chậc! Tuy từ trước tới nay nó chưa hề nghe chuyện ai bị ngoạm một miếng đến nỗi mất máu mà… chết, thế nhưng với vết thương cũng gọi là sâu hoắm thế này, thì điều đó có thể xảy ra lắm chứ. Mà lạ! Sao nó phải lo lắng cho Nguyễn Ánh nhỉ? Anh ta chết đi cũng tốt, không còn ai bắt nạt, đe dọa hay uy hiếp nó, cũng không còn kẻ thù số một của quân Tây Sơn. Nghĩ đến đó, Linh Lan mừng thầm trong bụng. Thế nhưng khi nhớ tới chuyện con người cổ quái “gian tà” này sẽ là hoàng đế Gia Long, lên ngôi thống nhất đất nước, thì nó lại đâm chần chừ. Nếu anh ta chết đi, tất nhiên sẽ chẳng lấy đâu ra Gia Long và vương triều nhà Nguyễn, đồng thời rất có thể sẽ thay đổi đến vận mệnh của tương lai đất nước sau này.
Đang đăm chiêu suy nghĩ vết thương… mà nó cho là cỏn con có làm Nguyễn Ánh mất máu nhiều không, Linh Lan chợt thấy người mình hẫng lên một cái. Khi định thần lại thì nó thấy mình đã ngồi trên lưng ngựa, còn Nguyễn Ánh đường hoàng ngồi sau lưng nó từ bao giờ. Một tay nắm lấy dây cương, tay còn lại choàng qua người nó, đề phòng cô gái bướng bỉnh này ngọ nguậy lung tung, Nguyễn Ánh cho ngựa lướt nhanh về phía trước, để lại sau lưng tiếng thì thầm to nhỏ của đám lính giữ ngựa. Trời đang có gió, cộng thêm tốc độ của con tuấn mã làm Linh Lan phải nhắm tịt mắt lại vì những luồng gió rát không ngừng quất vào mặt mình. Đường sá gập ghềnh, lại còn đầy những vũng nước bùn sình do trận mưa đêm qua để lại, làm Linh Lan tưởng sẽ rơi khỏi yên ngựa, nếu không nhờ vòng tay vững chắc của Nguyễn Ánh giữ lại như một vòng đai an toàn. Ban nãy, vì đã mạnh miệng khi nói rằng quân Tây Sơn nhất định sẽ thắng, Linh Lan bây giờ bụng hơi chợn, do không biết Nguyễn Ánh muốn đưa nó đi đâu vào lúc sáng sớm như vầy.
- Anh đưa tôi đi đâu vậy?
- Cô đoán xem!
Đáp lại câu hỏi của Linh Lan chỉ là câu trả lời lấp lửng của Nguyễn Ánh, dạng như “đến nơi rồi cô sẽ biết” làm cho nó phập phồng lo âu khi nghĩ đến những gì đang đợi mình ở phía trước. Đối với người như Nguyễn Ánh, dù muốn dù không, Linh Lan cũng khó có thể nghĩ rằng anh là người tốt, bởi cái câu “không phải là quân tử, cũng chẳng phải tiểu nhân” kia thật không biết đâu mà lường. Đang lo lắng nghĩ đến số phận mịt mờ của mình, Linh Lan bỗng nhiên bật ngả về phía sau do Nguyễn Ánh đột ngột ghìm cương ngựa lại. Con tuấn mã đang phi nước đại chồm hai vó lên không trung, hí lên một tràng dài, rồi ngoan ngoãn đứng yên dưới bàn tay điều khiển của anh. Sau khi trấn tĩnh lại trái tim đập thình thịch trong lồng ngực, Linh Lan tính nhanh chóng nhảy xuống đất rồi sau đó co giò bỏ chạy, trước khi Nguyễn Ánh kịp ngăn cản nó, để thoát khỏi nơi này. Bụng suy tính là thế, nhưng khi nó vừa mới nhoài người ra thì bàn tay cứng như thép của Nguyễn Ánh đã giữ nó lại, rồi bế thốc nó nhảy xuống ngựa trước sự chưng hửng của Linh Lan, do không nghĩ rằng anh lại có thể đi guốc trong bụng nó đến mòn cả vài đôi.
- Thả tôi ra! Tôi tự đi một mình được.
- Cún con! Đừng cho rằng cô nghĩ gì tôi không biết. Trừ khi tôi cho phép, còn không đừng mong sẽ thoát khỏi tay tôi.
Đưa mắt giễu cợt nhìn gương mặt đang sa sầm của Linh Lan, Nguyễn Ánh sải bước về phía trước, còn tay thì quàng qua vai nó. Lâu lâu anh lại nắm chặt bờ vai của Linh Lan khi nó cựa quậy, làm nó vô cùng khó chịu vì nếu cứ thế, thì nó sẽ chẳng bao giờ thoát khỏi tay con người cổ quái này.
- Tôi tên là Linh Lan, không phải là cún con. Yêu cầu anh gọi tên tôi cho đúng.
- Chỉ có cún con, chưa được dạy dỗ nên mới cắn người khác vô tội vạ như thế! Tôi gọi thế có gì không đúng?
Trừng mắt nhìn Nguyễn Ánh, Linh Lan dù tức tối vô cùng nhưng cũng đành ngậm bồ hòn làm ngọt, vì dẫu sao đây không phải là địa bàn của mình. Hơn nữa, cổ nhân có câu, đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy, đối với người nửa chính nửa tà như Nguyễn Ánh, tốt nhất nên mặc cả hai. Nghĩa là ngoài mặt giả vờ ngoan ngoãn, còn bên trong thì liệu bề tính toán, như thế đỡ thiệt thân hơn là trong ngoài đều phản ứng kịch liệt. Phản ứng quá, chỉ sợ đường trốn chưa tìm thấy thì nó đã bỏ mạng tại đây từ lúc nào không hay. Tự nhủ như thế, Linh Lan mím chặt môi. Nó liếc nhìn dòng máu đang khô lại trên áo Nguyễn Ánh, rồi thôi không kháng cự nữa mà ngoan ngoãn đi bên cạnh anh như một chú mèo con. Thấy Linh Lan ban nãy còn phản đối kịch liệt và tìm đường chạy trốn, nay bỗng nhiên thu vuốt lại và hiền lành như một chú nai, Nguyễn Ánh nhẹ mỉm cười. Những bước chân sải dài của anh từ từ chậm lại, để cho bước chân của ai đó không bị tuột lại ở phía sau.
Một tay quàng vai Linh Lan, tay còn lại dắt theo con tuấn mã, Nguyễn Ánh cứ thế thẳng bước về hướng hàng rào tre, đan thành những mắt cáo cao vút. Dưới hàng rào còn có hai người lính gươm giáo chỉnh tề đứng canh phòng cẩn mật, làm Linh Lan vô cùng ngạc nhiên vì không biết anh ta đưa mình tới đây để làm gì. Trông thấy Nguyễn Ánh từ đằng xa tiến tới, hai người lính gác vội vàng cúi đầu thi lễ. Một tên cầm lấy sợi dây cương từ tay Nguyễn Ánh, trong khi tên còn lại vội vàng mở cánh cửa đang đóng ra khi nhận thấy ánh mắt của anh. Phớt lờ cái nhìn soi mói của hai tên lính gác vì thấy sự “thân mật” giữa chúa công và nó, Linh Lan cứ thế đường hoàng bước qua cánh cửa, để rồi sau đó phải ngẩn người ra khi khung cảnh bên trong đang phơi bày rõ nét trước mặt mình.
Dưới ánh mặt trời dìu dịu, một loạt chiến thuyền lớn, nhỏ đủ kích cỡ đang nằm san sát nhau, bập bềnh trên mặt nước làm Linh Lan choáng ngợp. Nó thích thú dán mắt vào những viên lính tất bật xếp hàng lên thuyền, những vị tướng mặc giáp bào đang bày trận cho binh sĩ luyện tập. Tiếng mái chèo khuấy nước, tiếng gõ nhịp lốc cốc khiến Linh Lan như hòa vào khung cảnh rộn ràng ấy mà quên cả Nguyễn Ánh đang đứng bên cạnh. Đây là lần đầu tiên nó trông thấy cảnh luyện tập thủy quân ở quá khứ cận cảnh rõ ràng như thế này.
- Cún con! Đi thôi!
Đang say sưa xem cảnh luyện tập của thủy quân, Linh Lan chưng hửng khi Nguyễn Ánh đột ngột lên tiếng. Tính nán lại thêm một chút để coi cho đã mắt, nhưng Linh Lan sực nhớ tới chuyện đi với Nguyễn Ánh phải “mặc áo giấy lẫn cà sa”, thế nên nó đành phải đi theo anh, vì không muốn lại bị bế bổng một lần nữa giữa chốn đông người. Đứng trước một con thuyền chiến cỡ nhỏ, Nguyễn Ánh nắm lấy tay Linh Lan dẫn lên thuyền, khi thấy nó đứng tần ngần ở bên dưới, rồi sau đó ra hiệu cho những quân nhân trên thuyền chèo đi. Đứng vịn tay vào mạn thuyền, Nguyễn Ánh phóng tầm mắt về phía chân trời, nơi những cánh chim lạc loài chao lượn trong bóng mây. Đôi mày kiếm thỉnh thoảng chau lại khi đang suy nghĩ đến một điều gì đó, mà Linh Lan không quan tâm lắm vì nó còn đang bận quan sát một vòng quanh thuyền.
Tuy ở trong đội nữ binh của Tây Sơn, thế nhưng Linh Lan chưa bao giờ trông thấy thuyền chiến, cũng như bất kỳ hải cảng hay xưởng đóng thuyền nào của Tây Sơn vì chưa có dịp. Thế nên lần đầu tiên trong thấy thuyền của quân đội nhà Nguyễn, Linh Lan vô cùng ngạc nhiên vì không nghĩ rằng nó lại có nhiều loại như thế. Điển hình mà chiếc thuyền nó và Nguyễn Ánh đang đi, đầu thuyền là một vị tướng đang đứng bẩm báo gì đó với Nguyễn Ánh, cuối thuyền là tay lái và ở giữa là hàng chục quân nhân mặc áo xanh, tay cầm mái chèo thoăn thoắt, nhịp nhàng đưa con thuyền lao vun vút trên sông. Bám tay vào mạn thuyền mỗi khi con thuyền khẽ lắc lư, Linh Lan gạt những sợi tóc cài qua khóe môi, lòng thầm hỏi không biết Nguyễn Ánh đưa nó đi đâu. Điểm đến thì không thấy đâu mà chỉ thấy những ánh mắt trên thuyền nhìn nó tò mò và soi mói khiến nó khó chịu. Cảm giác cứ như thể người ta trông thấy người ngoài hành tinh đáp xuống lắm không bằng.
Chừng như không muốn để Linh Lan phải thắc mắc lâu, từ đằng xa, một đài vọng lâu sừng sững xuất hiện trong đôi mắt xoe tròn của nó. Khi thuyền dần đến gần, Linh Lan không khó khăn mấy khi nhận ra đây chính là đồn thủy quân của nhà Nguyễn. Dưới sông là những chiếc thuyền chiến hai tầng lắc lư theo nhịp con nước, trên bờ là một cái đồn thủy quân to lớn, được canh gác hết sức nghiêm ngặt. Cảnh tượng trước mắt làm Linh Lan ngạc nhiên vô kể vì không nghĩ rằng Nguyễn Ánh sẽ đưa nó đến những nơi cơ mật như thế này.
- Cún con! Bây giờ cô còn mạnh miệng quân lông đỏ sẽ thắng nữa không?
Trước khuôn mặt kinh ngạc của Linh Lan do lần đầu tiên trông thấy một đồn thủy quân to lớn như thế ở quá khứ, Nguyễn Ánh từ từ cho thuyền lại gần đồn, và hỏi lại Linh Lan bằng chất giọng mỉa mai. Khoát tay ra hiệu cho những người lính gác đồn cứ tiếp tục công việc, khi họ tính mở cửa để anh tiến vào, Nguyễn Ánh cho thuyền dừng lại phía bên ngoài một lát để Linh Lan ngắm nhìn cho mãn nhãn. Rồi sau đó anh lại quay thuyền trở về làm nó tiếc hùi hụi, vì những hình ảnh mới hiện qua trong mắt, còn chưa ghi nhận vào trong bộ não của mình, để mai này trốn thoát được sẽ báo tin về cho Tây Sơn.
Báo tin về cho quân Tây Sơn…
Trong phút chốc, Linh Lan cảm thấy mình như ở trong bóng tối, đang dần bước ra vùng ánh sáng chan hòa, khi ý nghĩ báo tin về cho quân Tây Sơn vụt qua trong đầu. Đã bị Nguyễn Ánh giam giữ, chắc chắn nó không thể thoát khỏi tay anh chỉ trong một sớm một chiều, và như thế thì thông tin về chàng trai bí ẩn kia cũng như cánh nhạn biệt tăm. Thay vì ngồi than thân trách phận, oán hờn số mình sao xui xẻo đến nỗi phải rơi vào tay Nguyễn Ánh, thì chi bằng nhìn thẳng vào hiện thực. Nó đang ở trên đất Gia Định, đang ở trong đầu não quân đội của chúa Nguyễn, và Tây Sơn thì rất cần những thông tin về sự bày bố cũng như phòng thủ ở đây để có thể xuất quân vào. Hiện thời, người cung cấp thông tin ấy không ai có thể thuận lợi hơn nó được. Ở bên Nguyễn Ánh, nó sẽ làm gián điệp, thu thập hết mọi tình hình ở Gia Định, cũng như những phòng tuyến quan trọng, kế sách của Nguyễn Ánh trong việc chống lại quân Tây Sơn. Đó quả là một kế hoạch liều lĩnh và táo bạo khi muốn giúp Tây Sơn chiến thắng trước đối thủ truyền kiếp của mình.
Ngẩng đầu nhìn Nguyễn Ánh đang nói gì đó với viên tướng túc trực bên cạnh, Linh Lan cảm thấy trái tim mình đập nhanh hơn bao giờ hết, khi quyết định nó sẽ ở trong quân Nguyễn để làm gián điệp, mật báo tin về cho Tây Sơn. Tuy chưa biết sẽ mật báo ra sao, nhưng trước hết cứ tìm cách thu thập tin tức về quân sự, cũng như đường đi nước bước của Nguyễn Ánh rồi hẵng tính sau. Bước đầu tiên là thế, nhưng cái chính ở đây là làm sao để có thể ở theo bên cạnh Nguyễn Ánh, bám sát anh trong mọi bước chân, xâm nhập vào cái đồn ban nãy anh đã dẫn nó đến, để xem xét cách bày bố bên trong như thế nào, vì căn cứ vào thái độ và lời nói của anh khi nãy, thì cái đồn này rất có thể là trung tâm của kế hoạch phòng thủ. Có như thế nó mới có thể cấp báo những thông tin chính xác nhất về cho quân Tây Sơn. Nhược bằng không, nếu Nguyễn Ánh giam chân nó lại một chỗ và cho người canh gác thì kế hoạch làm gián điệp của nó coi như đi tong.
- Nguyễn Ánh! Tôi có chuyện muốn nói với anh.
Nhẹ nhàng tiến về đầu mũi thuyền, nơi Nguyễn Ánh đứng phóng tầm mắt ra chân trời xa, Linh Lan ngần ngừ vài phút để cân nhắc kỹ lưỡng quyết định mới xuất hiện trong đầu, rồi cất tiếng gọi Nguyễn Ánh - lòng thầm mong kế hoạch sẽ thành công. Đưa mắt nhìn Linh Lan, Nguyễn Ánh nhếch môi khi nhìn thấy bờ môi đang mím lại của nó, vì anh không nghĩ rằng cô gái bé nhỏ này lại có thể gọi thẳng tên mình mà không e dè. Vẫn nhìn thẳng vào mắt Nguyễn Ánh, Linh Lan từ tốn lên tiếng, để Nguyễn Ánh có thể suy tính đường nào có lợi cho mình, nếu như nó muốn kế hoạch làm gián điệp dò thám được thành công.
- Có phải anh đưa tôi đến cái đồn đó, ý muốn khẳng định với tôi rằng sự phòng bị của anh nghiêm ngặt và quy mô thế, quân Tây Sơn chắc chắn không thể tấn công vào được chứ gì?
Không trả lời câu hỏi của Linh Lan, Nguyễn Ánh chỉ mỉm cười, một nụ cười kiêu ngạo để thay câu trả lời. Khẽ liếm nhẹ bờ môi, Linh Lan khoanh hai tay vào với nhau, làm viên tướng đứng bên cạnh Nguyễn Ánh phải trợn tròn mắt lên vì sự táo gan của nó, rồi chậm rãi nói từng lời.
- Tôi đã nói quân Tây Sơn sẽ thắng, thì họ nhất định sẽ thắng. Cho dù anh có phòng thủ kiên cố đến mức nào đi chăng nữa, thì kết quả cũng trước sau như một thôi.
Vừa nói dứt lời, Linh Lan nhận thấy ánh mắt của Nguyễn Ánh sa sầm lại dù chỉ trong thoáng chốc, nhưng điều đó cũng có thể khẳng định rằng những lời nó vừa mới nói, ít nhiều gì cũng tác động đến anh.
- Dựa vào đâu cô nói thế?
- Chẳng dựa vào đâu cả. Tôi chỉ dựa vào con mắt của mình thôi. Thứ nhất, tôi đã mạnh miệng rằng quân Tây Sơn sẽ thắng, chắc chắn phải có nguyên nhân. Thứ hai, tôi là người trong quân Tây Sơn, cách bài trí, phòng thủ và bày binh, dù ít hay nhiều tôi cũng nắm được phần nào …
Khẽ ngưng lại giây lát để quan sát thái độ của Nguyễn Ánh, Linh Lan không khỏi lo lắng khi anh chẳng biểu lộ chút cảm xúc nào, ngoại trừ nụ cười lơ lửng vẫn đang nở trên bờ môi. Đang còn sợ rằng kế hoạch của mình sẽ không thành khi Nguyễn Ánh chẳng tỏ thái độ gì, Linh Lan vò hai mép áo lại với nhau - cử chỉ mỗi khi nó gặp vướng mắc chuyện gì đó. Linh Lan vội ngẩng đầu lên khi Nguyễn Ánh nhẹ nhàng lên tiếng sau phút trầm ngâm.
- Rồi sao?
Đã biết thừa ý của nó là gì, thế nhưng Nguyễn Ánh vẫn hỏi lại nó. Điều đó làm Linh Lan không được thoải mái vì anh muốn chính miệng nó phải nói ra ý định của mình. Với một người thâm trầm, nghĩ gì không ai biết, nhưng lại có thể thấu hiểu hết được suy nghĩ của đối phương như Nguyễn Ánh, Linh Lan phải thận trọng và dè chừng, bởi nó cũng không thể biết được sau khi nghe những gì nó nói xong, Nguyễn Ánh sẽ xử trí nó như thế nào.
- Giống như anh đã nói, cái nào có lợi cho mình thì làm. Tôi đang nằm trong tay anh, chắc chắn trước sau gì cũng phải chết, trong khi tôi chưa muốn chết vì còn phải tìm lại người anh trai thất lạc của mình. Bản thân tôi đang nắm trong tay những bí mật của quân đội Tây Sơn, anh muốn biết, tôi sẵn lòng trao đổi chỉ với một điều kiện, đó là tôi muốn đi theo anh.
Trong thoáng chốc, đôi mắt nâu trong suốt của Nguyễn Ánh lấp lánh những tia sáng kỳ lạ khi nghe những lời Linh Lan vừa nói. Nhướng mày nhìn nó từ đầu đến chân, rồi sau đó chốt lại ở khuôn mặt tỏ ra nghiêm túc của Linh Lan khi nói đến chuyện quan trọng, Nguyễn Ánh gõ tay lên mạn thuyền, rồi nói lập lờ.
- Không phải cô khẳng định bọn lông đỏ sẽ thắng sao? Đi theo tôi làm gì?
- Bởi tôi biết anh nhất định sẽ xây dựng được cơ đồ riêng cho mình, đi theo phò anh, tuy hại thế nào tôi chưa biết, nhưng sau này tôi chắc chắn sẽ có lợi. Theo Tây Sơn thì cũng có lợi, nhưng quan trọng là ai lợi hơn thì theo, thế thôi.
Không né tránh ánh mắt của Nguyễn Ánh, Linh Lan bình tĩnh nhìn thẳng vào mắt anh. Nó cố không cho mình để lộ bất cứ sơ hở hay cảm xúc gì, để không bị anh nắm bắt được vì sự nhạy bén của Nguyễn Ánh là không thể xem thường. Vẫn một khuôn mặt bình thản, vẫn phong thái ung dung kiêu ngạo, chẳng có vẻ gì gọi là nôn nóng muốn biết bí mật Linh Lan gợi mở như thế nào, Nguyễn Ánh rà tay theo những đường vân gỗ trên mạn thuyền, đoạn mỉm cười.
- Cún con! Cô không sợ một ngày nào đó, tôi sẽ giết cô vì cô sẽ phản tôi, cũng như phản lại Tây Sơn sao?
- Nguyễn Ánh! Biệt tài của anh là có thể hiểu rõ suy nghĩ của người khác như lòng bàn tay mình. Anh đã nói rằng tôi nghĩ gì anh đều biết, vậy hà cớ gì phải sợ tôi phản anh? Hơn nữa, ai có lợi thì tôi theo, đó là châm ngôn sống của tôi. Nếu sau này tôi chết vì châm ngôn đó thì cũng là tự tay tôi giết chết mình. Mà đã tự tay giết chết mình thì chẳng có gì gọi là oán hận hay nuối tiếc cả. Tự làm tự chịu. Mà thôi đi! Dù sao thì anh cũng đâu có tin tưởng một kẻ nửa đêm gà gáy xâm nhập vào thành, dùng kiếm uy hiếp anh rồi lại còn trốn khỏi nhà lao. Tôi thì chưa muốn chết, nhưng theo lời anh nói thì chết hay không tôi cũng không có quyền, đúng không?!
Linh Lan mỉm cười ngọt ngào. Nó chỉ nói đến thế, rồi quay đầu nhìn ra những tia nắng lấp lánh nhảy múa trên sông trông có vẻ bình thản, nhưng trong lòng thì lại nín thở, hồi hộp chờ xem Nguyễn Ánh sẽ quyết định như thế nào. Quả thật, với lý do nó đưa ra, Linh Lan không chắc Nguyễn Ánh sẽ chấp nhận một cách dễ dàng như thế. Thứ nhất, từ tối qua đến giờ nó chống cự rất quyết liệt, một mực khăng khăng Tây Sơn nhất định sẽ chiến thắng, lại còn nổi giận khi Nguyễn Ánh gọi Tây Sơn là lông đỏ, ấy thế mà hôm nay, đùng một cái nó hứa hẹn sẽ đem những bí mật mình biết được trong Tây Sơn cho Nguyễn Ánh, chỉ đổi lấy một yêu cầu nhỏ nhoi là đi theo anh ta. Thử hỏi làm sao Nguyễn Ánh có thể chấp nhận được yêu cầu sơ hở đủ điều của nó đây?
Linh Lan càng nghĩ bụng càng lo lắng. Nó đang chờ đợi sự quyết định của Nguyễn Ánh, hệt như xem điểm thi tốt nghiệp, vì không muốn bị giam chân ở Gia Định này mà chẳng làm được gì cho Tây Sơn. Không biết vì trời thương nó, hay do nó ăn ở tu nhân tích đức mà sau một hồi lâu, giọng nói trầm ấm của Nguyễn Ánh cất lên, làm Linh Lan quay phắt người lại vì cuối cùng mọi chuyện cũng đầu xuôi đuôi lọt đến tuyệt vời.
- Cún con! Yêu cầu của cô được phê chuẩn. Xem như đó là giao kèo giữa tôi và cô.
★ Chương 55: Mỗi người một giâc mơ
Chưa bao giờ trong đời, Bách Nhật lại cảm thấy vui hơn lúc này. Vốn những tưởng chỉ có mình và Nguyên Thục xui xẻo bị cuốn về quá khứ, nhưng không phải vậy, hóa ra nguyên cả nhóm bạn của nó đều quay về. Tuy mỗi người một nơi nhưng bây giờ cũng đã tụ họp lại, chỉ thiếu vắng mỗi Linh Lan do thất lạc Anh Tú lúc còn ở Phú Yên. Dù trong bụng lo lắng khi sợ bạn mình sẽ gặp nguy hiểm, nhưng dạ nó cũng yên tâm phần nào do cá tính cứng cỏi, ứng biến mau lẹ của cô nàng thì không ai có thể ăn hiếp hay bắt nạt. Riêng về chuyện Ưu Phong, Bách Nhật không muốn đề cập đến, ngặt nỗi khi nhìn thấy Bách Nhật trở về phủ chúa một mình, thì Nguyên Thục không giấu nổi tò mò. Nó bèn hỏi Bách Nhật sau khi liếc mắt nhìn xem có bóng dáng của ai đó phía sau không?
- Ủa!! Ưu Phong đâu? Tui nhớ bà đi chung với anh ta mà.
- Đi chung, nhưng đâu có nghĩa là sẽ về chung. Bỏ đi! Dù sao tui cũng về đến đây an toàn rồi.
- Thật không?
Nguyên Thục nhìn lom lom vào mặt Bách Nhật, để xem bạn mình có nói dối hay không. Sự quan tâm của Nguyên Thục làm Bách Nhật cảm động. Ở chốn quá khứ không gia đình, không họ hàng, Bách Nhật chỉ có đám bạn là những người thân duy nhất, thế nên tụi nó nghiễm nhiên xem nhau như người trong gia đình, cùng chia sẻ bao buồn vui trước chuyện đời gian nan.
- Có gì mà không thật?
- Nhưng từ lúc bà về đến nay, trông bà có vẻ buồn buồn thế nào ấy.
Phì cười vì Nguyên Thục đã lo lắng quá mức, chỉ là trong mấy ngày qua, Bách Nhật đang cố gắng ôn lại những gì mình đã học với Hải Thượng Lãn Ông trong trí nhớ, nên đôi mày của nó thỉnh thoảng chau lại, vì đột xuất quên mất tên gọi của một cây thuốc chuyên dụng thường ngày. Có thế thôi mà Nguyên Thục đã đoán già đoán non, rồi lại còn sợ nó ốm tương tư nên làm mọi cách để mặt nó tươi lên đôi chút, dù trông nét mặt Nguyên Thục chẳng có vẻ gì là mùa xuân đến gần.
- Bà nói hay lắm! Bà coi lại hai chị em bà đi. Từ lúc tui về đến nay, ngoại trừ Anh Tú ra, cả bà và Nguyên Thiên, mặt người nào người nấy buồn hiu, ở đó mà lo lắng cho người khác.
- Làm gì có! - Giật mình khi Bách Nhật đá giò lái, Nguyên Thục chối phắt - Tui chẳng buồn gì hết. Bạn bè đoàn tụ, tui mừng còn không hết nữa là!
- Thật không? Bà không buồn thật chứ? Thật sự chẳng có gì buồn chứ?
- Thật sự chẳng có gì buồn hết, bà đừng có đoán mò.
Trước đôi mắt xám tro dịu dàng của Bách Nhật, Nguyên Thục nói cứng để qua mặt bạn mình, nhưng nếu tinh ý sẽ nhận ra giọng nói của nó yếu ớt, do không thể phủ nhận được điều mà Bách Nhật đã gạn hỏi. Quả thật liên tiếp mấy ngày nay, tâm trạng của Nguyên Thục không lấy gì làm sáng sủa cho lắm. Đã một tuần trôi qua, thế mà nó tuyệt nhiên vẫn chưa nhìn thấy Trịnh Khải - dù chỉ là bóng dáng thoáng quá qua của anh một lần nào.
Dù biết trong phủ, Trịnh Khải chắn chắn bận trăm công ngàn việc. Chỉ riêng vấn đề về kiêu binh cũng đã ngốn không ít thời gian của anh, nhưng Nguyên Thục vẫn không tránh khỏi thắc mắc, khi không biết anh làm gì mà cả tuần nay không thấy mặt. Nó đâm ra bồn chồn, khó chịu, đôi lúc còn thấy lơ đãng, làm gì cũng không thể tập trung. Sự kỳ lạ của nó khiến Anh Tú lo ngại, do có lần thấy nó đểnh đoảng đột xuất khi bỏ trà vào mà quên không chế nước. Bồn chồn? Tại sao nó lại thấy bồn chồn? Nguyên Thục không biết. Nó chỉ biết rằng mình đang nhớ một ánh mắt trìu mến, một nụ cười dịu dàng, một bàn tay nhẹ nhàng vuốt mái tóc và một mùi hương ấm áp lẩn khuất đâu đây. Không biết từ lúc nào, những cái nhỏ nhặt đó đã trở nên quen thuộc, trở thành một phần không thể tách rời của nó, để giờ đây, khi không được nhìn thấy những hình ảnh quen thuộc đó, Nguyên Thục đâm bứt rứt, khó chịu và ra ngẩn vào ngơ…
Lúc này, ngoài trời đã tối. Khu hậu cung đã bắt đầu thắp sáng đèn. Anh Tú, Nguyên Thục, Nguyên Thiên và Bách Nhật ngồi vào bàn ăn. Lẽ dĩ nhiên, thân là nam nhi, Anh Tú không thể bén mảng tới khu hậu cung, nơi ở của các phi tần vì luật cấm nghiêm ngặt trong phủ chúa cũng như trong cung. Thế nhưng với cái thân phận thái giám ngày nào chưa bị bóc trần, thì ngày đó Anh Tú còn có thể lê la khắp hậu cung mà không sợ ai hạnh họe hay tọc mạch, một phần cũng vì Anh Tú đang là hầu cẩn thân tín nhất của Hồ tiệp dư. Với cái chức danh đó, lại bên cạnh Nguyên Thục - phi tần sủng ái nhất của chúa Trịnh - dù chỉ có tiếng mà không có miếng, cũng đủ để Anh Tú sống nhàn nhã trong phủ chúa, mà không phải bị ai sai vặt, hay gặp phải con bé đanh đá trong cung suốt ngày chỉ trích mình hết lời. Được ở trong phủ chúa, công việc nhàn hạ, lại được ăn ngon, mặc đẹp, có ở hiện tại cũng không sướng hơn như thế, nên Anh Tú không cần đòi hỏi chi nhiều. Nó chỉ có duy nhất một nỗi phiền muộn, đó chính là vẫn chưa tìm được Linh Lan. Ngày nào không tìm được em gái thì ngày đó nó sẽ ăn không ngon ngủ không yên.
Trong khi Anh Tú phỡn đời như thế, thì Nguyên Thục và Nguyên Thiên dường như trái ngược hẳn. Không hẹn mà mặt người nào người nấy đều yểu như bánh đa nhúng nước. Lý do tại sao thì chỉ có người trong cuộc mới hiểu. Chậm chạp gắp miếng thịt xào vàng ươm trong đĩa, Nguyên Thiên nhai trệu trạo mà chẳng ra mùi vị gì, do đầu óc nó đang để tận đẩu tận đâu. Từ khi đoàn tụ với Nguyên Thục, Anh Tú và Bách Nhật, lại còn biết Linh Lan cũng đang ở nơi này, chỉ là chưa tìm thấy nhau, Nguyên Thiên thật sự rất vui mừng và hạnh phúc. Cuối cùng nó cũng đã gặp lại những người thân yêu ở hiện tại, dù vẫn còn chạnh lòng khi nhớ tới gia đình. Tuy là thế, nhưng sâu trong tiềm thức của Nguyên Thiên, nó có cảm giác rằng niềm vui của mình chưa trọn vẹn, hoặc như thiếu thiếu một cái gì đó mà nó không sao giải thích được, dù bây giờ cuộc sống đối với nó quá đầy đủ và không còn gì có thể mong hơn.
Từ lúc đưa Duy Cận trở về Hoàng Cung, Nguyên Thiên đã suy nghĩ rất nhiều về những gì mà Duy Cận đã nói với nó khi cả hai đang ở trong đường hầm. Những lời của Duy Cận, có lẽ chỉ là trong phút vô tình thốt ra, thế nhưng lại có tác động không nhỏ đến nó, làm cho một cô gái vốn vô ưu, vô lo như nó, bây giờ bỗng nhiên trăn trở và suy nghĩ nhiều vì lời nói vẩn vơ của một người. Thú thật, chưa bao giờ trong đời, Nguyên Thiên lại ngỡ ngàng như lúc nó nhìn thấy dòng huyết lệ trên mặt Duy Khiêm. Khi anh đột ngột gục đầu lên vai nó, tựa như mất hết sinh khí, Nguyên Thiên thật sự thấy bối rối. Nó nửa muốn vỗ về anh như cái cách bố nó vẫn hay làm khi nó vòi vĩnh, nửa do dự vì biết chắc Duy Khiêm có lẽ không thích điều này. Từ sau vụ ấy, Duy Khiêm đã quay trở về hoàng cung. Khi anh đi, Nguyên Thiên còn chưa kịp thức dậy. Đến khi nó chạy sang thì đã nghe thông báo lại rằng anh đã đi từ sáng sớm, làm cho nó ngẩng ngơ nhìn căn phòng trống rỗng, lạnh lẽo một lúc lâu, rồi mới bần thần quay trở về phòng.
Kể từ dạo đó, Nguyên Thiên không gặp Duy Khiêm nữa. Nó cũng không có cớ gì để đến Nội Điện gặp anh, bởi trước đó anh đã đuổi nó, thì cái chức danh cận vệ cho Hoàng tôn cũng theo đó mà bay hơi. Không biết từ lúc nào, Nguyên Thiên có thói quen trông ra cửa phủ chúa, bởi nó hy vọng sẽ nhìn thấy bóng dáng ai thấp thoáng ở phía sau, cùng với nụ cười giễu cợt trên môi. Thế nhưng càng hy vọng bao nhiêu, Nguyên Thiên lại càng thất vọng bấy nhiêu. Nó cứ đợi, đợi hoài mà chẳng thấy bóng dáng ai đến. Nó đoán rằng có lẽ Duy Khiêm sẽ không qua phủ chúa, bởi công việc chuẩn bị lên ngôi thái tử thay Duy Cận đã khiến anh không còn thời gian.
Nghĩ đến việc Duy Khiêm đang tất bật với lễ tấn phong thái tử, đến chuyện anh quên mất nó đang ở nơi này, là Nguyên Thiên cảm thấy buồn buồn. Một nỗi buồn không định hình, cứ len lỏi vào lòng, làm cho nó bồn chồn và bứt rứt mà không hiểu tại sao. Đối với Duy Khiêm, chẳng lẽ nó quả thật là một tảng đá cản đường, là một đứa con gái ngây thơ, không biết gì, đến nỗi anh phải đuổi nó khỏi Nội Điện mà không một lý do chính đáng nào? Đã không nghĩ thì thôi, nhưng cứ nghĩ đến việc anh đang bận rộn, nghĩ đến việc không có nó anh vô cùng thoải mái, nghĩ đến việc một ngày nào đó anh sẽ lãng quên nó, quên mất sự hiện diện của nó trên cõi đời này, thì Nguyên Thiên lại cảm thấy xót xa. Sự xót xa tuy nhẹ nhưng cứ trôi lềnh bềnh trong tâm trí, và lúc nào cũng tự hỏi không biết bây giờ anh đang làm gì? Vết thương trên mắt đã lành chưa? Có bị di chứng hay hậu quả nào không?
Nghĩ đến đó, Nguyên Thiên vội lấy tay cốc vào đầu mình. Tại sao nó phải lo lắng cho Duy Khiêm? Tại sao nó phải quan tâm tới anh khi chính anh là người đã làm nó bị tổn thương? Nguyên Thiên tự trách bản thân mình lẩn thẩn, và thôi không nghĩ ngợi gì nhiều nữa, bởi nó không muốn Nguyên Thục và bạn bè phải lo lắng cho mình vì những chuyện không đâu.
Bữa cơm tối đã xong, những khay thức ăn còn thừa được dọn xuống trong sự nuối tiếc của Nguyên Thiên, khi nó chợt nhớ tới những con người khốn khổ đang nằm quắt queo trong các ngõ hẻm chật hẹp, nhơ nhớp và tối tăm. Ngồi tán gẫu một hồi, Nguyên Thiên đã thấy mắt mình riếp cả lại. Từ lúc trở về quá khứ đến giờ, Nguyên Thiên có thói quen ngủ rất sớm, trong lúc Duy Khiêm còn đang chong đèn đọc sách, vì nếu ngủ trễ thì lại nghĩ đến những hồn ma bóng quê lảng vảng, bảo đảm sẽ mất ngủ nguyên đêm. Nói đến chong đèn đọc sách, Nguyên Thiên lại nhớ đến lúc nó ngủ, khi ấy, nó cứ một hai đòi Duy Khiêm phải chong đèn cạnh nó, để cho nó biết là bên cạnh mình vẫn còn có người. Chứ nếu Duy Khiêm chong đèn trên bàn, thì nó chẳng thể nào trông thấy bóng dáng của anh vì bức bình phong đã che mất, để rồi lại nghĩ ngợi lung tung đến mấy chuyện ám ảnh kia. Biết sự sợ hãi trong lòng nó, Duy Khiêm tuy không nói ra nhưng lại nhìn nó bằng đôi mắt chế giễu thường thấy. Nhưng cũng chính vì thế mà những lúc giật mình tỉnh giấc, khuôn mặt đăm chiêu của Duy Khiêm vẫn luôn chập chờn trước mặt nó. Không biết vì những trang sách hay nguyên nhân nào khác, thế nhưng chỉ cần có thế Nguyên Thiên đã có thể an tâm, tiếp tục vùi đầu vào giấc ngủ cho đến sáng hôm sau.
Biết Nguyên Thiên đi ngủ, nhất định phải có người nắm tay vì đó đã thành thói quen, Nguyên Thục cũng tạm biệt Anh Tú và Bách Nhật để vào ngủ cùng với em. Đưa mắt nhìn theo bóng dáng của hai chị em khuất sau rèm, Bách Nhật và Anh Tú nhìn nhau trong giây lát, rồi quyết định ra đứng ngoài hành lang hóng mát, để cho hai cô thị nữ trong phòng cũng yên giấc nghỉ ngơi.
Bầu trời đêm nay trong và mát. Những cành liễu rũ mình trong gió, hệt như bóng một cô gái chải suối tóc vào đêm thanh, càng tăng thêm vẻ kiều mị cho khu vườn. Ngồi hẳn lên lan can bằng đá mát lạnh, Anh Tú ngắm nghía một vòng quanh hậu cung, rồi buột miệng ngâm một bài thơ trong lúc buồn.
Cành liễu đìu hiu đứng chịu tan.
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng.
Đây mùa đông tới, mùa đông tới.
Với áo mơ phai dệt lá vàng.(*)
Biết Anh Tú sửa lại chữ “thu” bằng chữ “mùa đông”, Bách Nhật chỉ tủm tỉm cười. Nó thu người lại, cố tìm kiếm hơi ấm trong lớp áo, mỗi khi gió mùa đông nhẹ vờn quanh mái tóc thề.
- Bà có thấy dạo này chị em Nguyên Thục rất lạ không?
Sau khi đã ngâm thơ phú để dạo một vòng trước khi vào đề, Anh Tú đánh mắt vào căn phòng sáng mờ lung linh, rồi nói với giọng không được tự tin vì chưa chắc với phán đoán của mình.
- Ừm! Rất lạ. Nhưng có lạ cũng dễ hiểu thôi, mấy hôm nay Thục nó đâu có gặp được ai kia…
- Ai kia là ai kia…. À há!!
Xoay xoay tay mình trong không khí, Anh Tú cười toe toét vì không phải chỉ có nó mới nhận ra điều đó, mà ngay cả Bách Nhật cũng thế. Bách Nhật vốn là một người tinh tế, xưa nay luôn phán đoán chính xác chứ không bao giờ nói bừa, thế nên nếu đã bảo Nguyên Thục ốm tương tư thì nhất định là ốm tương tư, chứ chẳng có bệnh tình nào hơn. Kể cũng phải, tuy mới chỉ gặp chúa Trịnh trong vài ngày gần đây, thế nhưng căn cứ vào hành động vị chúa ấy đã đưa mình ra khỏi cung, rồi lại còn sắp xếp mình làm cận thần cho Nguyên Thục, thì cũng đủ biết anh ta là một người tốt bụng và tử tế đến mức nào. Nếu xét về ngoại hình, thì vị chúa ấy đủ cho điểm mười, nhưng điều Anh Tú chấm nhất ở vị chúa này là ở đôi mắt. Một đôi mắt dịu dàng như mặt nước hồ thu, khiến người khác không thể không vâng lời. Có phải đó là lý do để một cô gái bướng bỉnh như Nguyên Thục, phải ngoan ngoãn nghe lời như thế hay không?
- Chậc! Bà Thục ốm tương tư cũng phải. Người vừa đẹp trai lại vừa tốt bụng như thế, ngoại trừ tôi ra thì trên thế gian này khó tìm.
Bật cười khúc khích vì Anh Tú lại “tự sướng”, khi nói một câu lại tranh thủ khen một câu, Bách Nhật gật gật đầu khi Anh Tú trừng mắt nhìn, vì nó đã cười vào sự thật không thể chối bỏ “ta vừa đẹp trai lại tốt bụng” của mình.
- Không những bà Thục, bà Thiên cũng tương tự tình trạng ra ngẩn vào ngơ. Bà Thục tôi còn hiểu được, chứ bà Thiên thì tôi bó tay. Cái anh chàng Hoàng tôn gì gì đó, theo lời bả tả oán thì vừa xấu bụng lại còn hay chế giễu bả đủ lời, thế thì có chỗ nào tốt để bả ngơ ngẩn như thế nhỉ?
- Mỗi người một cảm giác, một giấc mơ. Đã là giấc mơ thì chẳng ai giống ai cả - Thấy Anh Tú có vẻ thiếu thiện cảm đối với Duy Khiêm, Bách Nhật chỉ mỉm cười.
- Kể cả bà?
- Ừ! Kể cả tui.
Biết Anh Tú nhắc khéo đến chuyện khi đi hai mà lúc về chỉ có một, Bách Nhật vội lảng tránh ánh mắt dò hỏi của bạn, rồi nhìn về phía bức tường treo một cái lồng đèn nhỏ ở phía đông. Nếu xuyên qua bức tuờng ấy thì chính là khu vườn, nơi Ưu Phong đã luyện kiếm. Nơi nó đứng lặng nhìn anh, khi trông thấy đôi mày thanh tú khẽ chau lại buồn phiền dưới những cánh hoa rơi.
- Còn chuỵên của Linh Lan? Ông tính sao?
Hơi ngập ngừng một chút khi Bách Nhật nhắc đến Linh Lan, mối lo lắng không lúc nào nguôi của mình, Anh Tú đưa mắt nhìn Bách Nhật. Trong ánh mắt toát ra một sự kiên quyết và điềm tĩnh đến lạ thường.
- Bà không hỏi tôi cũng định nói. Ba ngày nữa tôi sẽ lên đường đến Phú Yên để tìm bé Lan.
- Hở! Sao đột ngột vậy?
Nhướng mày lên trước quyết định bất ngờ của Anh Tú, Bách Nhật tuy biết bạn mình nôn nóng đi tìm tông tích của Linh Lan, nhưng lại không nghĩ Anh Tú lại quyết định quá đột ngột như thế này.
- Không đột ngột chút nào cả. Thật ra lúc ở trong cung tôi đã có dự tính đó, chỉ là không biết làm sao để trốn ra ngoài thôi. Nay ở trong phủ chúa khá thoải mái và tự do, nên ba ngày nữa tôi sẽ lên đường tìm Linh Lan, sau khi thu xếp đủ lộ phí. Đường xá thế nào đại khái tôi cũng nắm sơ qua, do quen được một tên thái giám có quê quán ở Phú Yên. Ngày nào không tìm ra bé Lan, ngày đó tôi ăn ngủ không yên.
- Phú Yên đất rộng người đông thế, ông làm sao tìm ra, đó là chưa kể Linh Lan đã đến nơi khác rồi - Nghe ý định của Anh Tú, Bách Nhật nhẹ cười vì Anh Tú yêu thuơng Linh Lan - đứa em gái cùng cha khác mẹ của mình - đến như thế. Nhưng nó cũng không khỏi lo lắng, khi quyết định đó rất táo bạo và có thể bế tắc, bởi chiến tranh loạn lạc thế này, ai biết giữa đường Anh Tú có gặp bất trắc nào hay không.
- Tôi biết đó là quyết định không sáng suốt và rất nguy hiểm. Nhưng mà, cho dù chỉ có 0,01% cơ hội tôi cũng phải nắm lấy. Nếu không tìm được bé Lan, hoặc giả nó có xảy ra chuyện gì, tôi sẽ ân hận suốt đời.
Trong phút chốc, giọng nói của Anh Tú sắc lại, tỏ rõ một quyết tâm không thể nào lay chuyển. Biết mình có nói thêm gì cũng bằng thừa, Bách Nhật im lặng trong giây lát, rồi dịu lời.
- Vậy tôi sẽ đi cùng ông.
- Hả?
Quay phắt người lại vì quyết định của Bách Nhật còn đột ngột không kém gì mình, Anh Tú trợn mắt lên rồi sờ lên trán bạn, xem có phải đứng ở ngoài này lâu quá nên bị cảm lạnh, thần trí không được minh mẫn rồi hay chăng.
- Đừng làm thế. Ông quên Linh Lan là bạn thân của tôi sao. Hơn nữa, để ông đi một mình tôi không an tâm, lỡ có chuyện gì thì hai cái đầu bao giờ cũng hơn một. Với lại, tôi nay theo học thầy Hải Thượng, trở về rồi mà không có ai để thực hành, tay nghề và bao nhiêu kiến thức tôi học được chắc bay hơi hết. Trên đường đến Phú Yên, chúng ta có thể kiếm tiền hay nương nhờ nhà người dân bằng cách chữa bệnh và bốc thuốc. Ở quá khứ tấm lòng người ta rộng mở lắm, chứ không bị khói bụi phủ lên như hiện tại đâu ông.
Yên lặng một lúc lâu khi Bách Nhật đã nói hết, Anh Tú nhìn ra một ngọn cây đang vươn mình trong gió, để cân nhắc lại quyết định của bạn mình. Chơi với nhau đã nhiều năm, không khó khăn gì để nhận ra đằng sau vẻ bề ngoài dịu dàng, nhỏ nhắn của Bách Nhật là một quyết tâm không ai có thể lay chuyển nổi. Cộng thêm sự kiên trì và bền bỉ khi theo đuổi một mục tiêu, Anh Tú hiểu rằng cho dù nó từ chối, cho dù nó có nó gì đi chăng nữa, nhưng một lời Bách Nhật đã nói ra thì vật đổi sao dời cũng phải giữ. Trong giấy phút ấy, một niềm xúc động và nhẹ nhõm len lỏi qua từng mạch máu của Anh Tú. Nó rất vui khi ở quá khứ lại may mắn có được những người bạn tâm giao như thế này. Trong nhất thời, Anh Tú không biết phải nói gì để tỏ hiện sự biết ơn ấy, lại thêm cái tính không quen biểu lộ tình cảm của mình trước mặt người khác, nên nó chỉ biết khụt khịt mũi, lâu thật lâu mới thốt nên lời.
- Cám.. ơn bà!
- Đừng cám ơn tôi, tôi chỉ làm những gì nên làm thôi. Hơn nữa…
Bách Nhật chỉ nói đến đó, rồi đưa mắt nhìn lên bầu trời. Bầu trời ở Thăng Long còn mây mù nhiều quá, nên những ngôi sao nhỏ, li ti, không rực rỡ và soi sáng cả mặt đất như ở Hương Sơn. Tuy trong bụng thắc mắc vì không biết vế sau Bách Nhật muốn nói gì, nhưng Anh Tú cũng im lặng vì không can thiệp vào những chuyện riêng tư của người khác, nhất là một cô gái kín kẽ như Bách Nhật thì lại càng không nên.
Trong lúc Anh Tú và Bách Nhật đang đứng nói chuyện ở ngoài hàng hiên, thì bên trong, Nguyên Thiên không sao ngủ được do tâm trí còn lang thang mãi ở tận đâu. Hết lăn qua rồi lăn lại, Nguyên Thiên vẫn trằn trọc thao thức, mặc dù giờ này ở Nội Điện là nó đã say giấc nồng. Có lẽ vì cũng trong tâm trạng của Nguyên Thiên, thế nên Nguyên Thục khẽ xiết tay em mình một cái. Cái xiết tay khiến Nguyên Thiên giật mình, rồi đưa mắt nhìn Nguyên Thục do thấy chị mình nãy giờ nhắm mắt, hơi thở đều đặn, Nguyên Thiên cứ tưởng chị mình đã ngủ lâu.
- Em làm chị thức giấc hả?
- Không! Là chị không ngủ được - Thấy trong chất giọng của Nguyên Thiên đượm vẻ hối lỗi, Nguyên Thục bèn trấn an.
- Chị cũng không ngủ được à? Sao vậy?
- Chị không biết! Còn em? Sao lại không ngủ được?
Mở to mắt chờ đợi câu trả lời của Nguyên Thục, đến khi nghe nó hỏi lại, hai gò má của Nguyên Thiên dần hồng lên cứ như đang thẹn thùng, làm Nguyên Thục hết sức ngạc nhiên vì trước nay chưa thấy biểu hiện đó của em mình bao giờ.
- Em… cũng không biết! Mỗi lần đi ngủ, chị luôn nắm tay em, riết thành thói quen từ lúc nào không biết. Khi còn ở trong Nội Điện, do không có chị nắm tay nên em không ngủ được, thế là anh ta đã nắm lấy tay em…
- Lần nào cũng thế á? - Tròn mắt vì không nghĩ Nguyên Thiên lại có thể nói ra những chuyện tế nhị thế, Nguyên Thục nửa phấn khích, nửa tò mò. Bây giờ Nguyên Thiên bắt đầu ra dáng nữ tính, trái ngược hẳn với một Nguyên Thiên hiếu động, ngổ ngáo, động tay động chân như con trai, đã từng làm cho đám nam sinh quậy nhất trong lớp phải dè chừng.
- Vâng! Lần nào cũng thế, anh ta luôn nắm lấy tay em mỗi khi ngủ. Lúc đó, em chợt nhận ra rằng tay anh ta rất to, lại rất ấm…
Những lời sau của Nguyên Thiên cứ nhỏ dần, nhỏ dần, rồi lí nhí trong miệng, làm Nguyên Thục phải kề sát tai vào mới nghe em mình nói những gì. Sau khi đã thú nhận xong, Nguyên Thiên nghe mặt mình nóng ran và đỏ nhừ như quả cà chua chín, do không nghĩ rằng mình sẽ nói những chuyện này cho chị nghe. Quả thật, những khi ngủ, mỗi lần nó chìa tay ra thì Duy Khiêm không bao giờ nắm lấy ngay, nhưng Nguyên Thiên không bao giờ bận tâm về điều ấy. Nó biết rằng sáng hôm sau, bao giờ bàn tay của nó cũng nằm trong tay anh, an toàn và êm ấm như trong giấc mộng nó đã mơ thấy tối qua. Bây giờ, nó đã trở về với Nguyên Thục, và Nguyên Thục cũng đã nắm lấy tay nó theo thói quen hệt như lúc trước, thế mà không hiểu sao Nguyên Thiên vẫn không ngủ được. Nó có cảm giác bàn tay mình đang lạnh dù Nguyên Thục đã nắm rất chặt, lại còn ủ trong chiếc chăn ấm thơm ngọt ngào. Lén nhìn bàn tay mình trong bóng tối, Nguyên Thiên chợt ngơ ngẩn khi thấy nó quá nhỏ bé, cần một bàn tay ấm hơn, rộng hơn để ấp ủ, chở che …
Không cần phải nói thêm nhiều, Nguyên Thục cũng đã biết được những gì đang thay đổi trong trái tim của Nguyên Thiên. Em gái nó bây giờ đã bắt đầu trưởng thành, đã biết suy nghĩ và đã biết vẩn vơ về một bóng hình của ai đó. Còn nó? Nguyên Thục im lặng. Những ngón tay nó vẽ ngoằn nghèo lên chiếc mền bông mấy hình tròn vô nghĩa, bởi vì con tim của nó cũng đang rối bời. Những gì đang diễn ra với Nguyên Thiên, có lẽ cũng là những gì đang diễn ra trong lòng nó. Không khó khăn mấy để nhận ra Nguyên Thiên có tình cảm đối với anh chàng Hoàng tôn kia, dù bản thân em gái nó vẫn chưa nhận ra đó là gì.
Còn nó, nó có tình cảm gì đối với Trịnh Khải hay không? Nguyên Thục không biết. Nó không biết tình cảm của mình đối với anh như thế nào, nhưng nó biết rằng nó đang nhớ anh, nhớ anh rất nhiều. Đã mười mấy ngày trôi qua, kể từ cái đêm trên lầu Trạch Các ấy, nó không được gặp mặt anh nữa, dù cả hai đều ở trong phủ chúa. Điều ấy làm cho Nguyên Thục thấy buồn. Đã bao lần Nguyên Thục tự hỏi, không biết Trịnh Khải có nhớ tới nó hay không? Không biết anh đối với nó như thế nào? Không biết tình cảm chính xác của anh là gì? Trong cái thời phong kiến này, bản thân Nguyên Thục hiểu rất rõ chuyện vua chúa thì phải có tam cung lục viện, tức là không thể nào có chuyện yêu và lấy một người duy nhất. Thế nên Nguyên Thục cũng đã tự dặn mình rằng không được vướng vào cái vòng tỉnh cảm lẩn quẩn ấy, nếu không sẽ tự chuốc lấy những phiền phức không muốn có vào người.
Tự dặn lòng là thế, tự suy nghĩ là thế, nhưng mỗi khi trông thấy Trịnh Khải, Nguyên Thục không sao ngăn được trái tim đang đập thình thịch trong lòng trở lại bình thường. Không sao ngăn ánh mắt dõi theo bóng dáng anh cho đến khi mất hút, và không sao ngăn niềm vui đang reo nhỏ trong lòng mình khi Trịnh Khải nhìn nó và mỉm cười dịu dàng. Sự dịu dàng ấy đã trở nên quen thuộc với nó. Mùi trầm hương nhẹ nhàng luôn phảng phất quanh người nó, riết đã trở thành một một phần không thể thiếu trong đời. Thế mà bây giờ, Nguyên Thục không còn nhìn thấy anh nữa. Dù đã cố không cho mình suy nghĩ lung tung, bằng cách dạo chơi trong vườn và làm những việc lặt vặt của một cung phi cần làm, thế nhưng không hiểu sao Nguyên Thục vẫn cứ suy nghĩ linh tinh, rồi lại cảm thấy trái tim mình thốn lên một cái, khi nghĩ đến Trịnh Khải để quên mất nó trong chốn hậu cung nhìn đâu cũng thấy người đẹp như thế này.
- Chị! Chị có biết lúc ra ngoài dạo chơi, em đã thấy gì không?
Đang thả hồn vào suy nghĩ miên man, Nguyên Thục chợt giật mình khi giọng nói trong veo của Nguyên Thiên rót vào tai. Nó đưa mắt nhìn em mình để che giấu sự bối rối trên gương mặt, đoạn mỉm cười.
- Thấy gì?
- Lúc ra ngoài dạo chơi, tình cờ đi qua mấy con hẻm, em nhìn thấy vô số những con người đói rách, nghèo khổ, gầy gò thu mình trong tấm áo rách nát. Lúc đó, em vừa sợ vừa thấy tội khi họ ngước lên nhìn em bằng đôi mắt ao ước và đờ đẫn, vì em ăn bận khác xa họ. Có lẽ đó là mặt trái của kinh thành Thăng Long xa hoa, lộng lẫy mà từ trước tới nay em chưa nhìn thấy bao giờ.
- Thật à?
Có hơi nhướng mày lên, vì Nguyên Thục cũng đi ra ngoài chơi, đa số nó chỉ dạo chơi trên khu phố xá đông người nhộn nhịp cùng với Trịnh Khải, chứ chưa đi quá khỏi những con phố ấy bao giờ. Trong phút chốc, trong đầu nó chợt hiện lên cảnh một đám người nhơ nhớp, vẩn thỉu, chui rúc trong mái nhà tranh xiêu vẹo, rách nát, cùng với đám con chưa biết viên kẹo chanh thơm như thế nào. Một thoáng bùi ngùi trong lòng nó chợt trỗi lên, Nguyên Thục lại nhớ đến ảnh kiêu binh tràn vào phủ chúa đêm ấy. Trong mắt nó, Trịnh Khải như đang đơn độc, một mình lèo lái cho con thuyền vượt qua bão tố, sấm chớp đang rền vang trên đầu mà không có ai bên cạnh sẻ chia. Lúc ấy, Nguyên Thục cảm thấy mình bất lực hơn bao giờ hết khi nó không thể san sẻ gánh nặng ấy cùng anh, không thể làm gì giúp đỡ anh ngoài cách lẳng lặng lui vào trong Trạch Các, và ngồi yên chờ đợi khi anh ra ngoài dẹp kiêu binh.
Trong phút chốc, một tia sáng chợt lóe lên trong đầu Nguyên Thục, khi nó nhớ đến phủ quốc sư Nguyễn Khản, lúc cùng Trịnh Khải đến nhà ông ta dự tiệc. Nguyên Thục còn nhớ khi ấy, nó đã mắt tròn mắt dẹt do nội thất của phủ quốc sư lộng lẫy, xa hoa không kém gì phủ chúa. Từ rường nhà cho đến cái chậu cây cảnh, tất cả đều toát lên vẻ cao sang, quý tộc, và những thứ chắc chăn người dân quen bán mặt cho đất kia chưa nhìn thấy bao giờ. Đâu chỉ có phủ quốc sư là sang trọng, ngoài ra phủ quốc cữu, tham tụng và các đám quan lại có máu mặt trong triều đều thế cả. Nếu đám người ấy chịu đứng ra quyên góp tiền bạc, thì chắc chắn chuyện lấy danh nghĩa phủ chúa cứu tế lương thực cho những nguời dân nghèo khổ, chuyên sống trong cảnh bần cùng, túng quẫn là điều không khó khăn gì. Làm như thế, Nguyên Thục hy vọng những người dân ấy sẽ đứng lên, ủng hộ phủ chúa. Có được lòng dân hợp sức, có được lòng người ủng hộ, trong ngoài kết hợp, chắc chắn nạn kiêu binh sẽ sớm được tiễu trừ, trả lại bình yên cho thành Thăng Long, và đôi mày của Trịnh Khải sẽ không còn chau lại nữa. À mà không, có chau thì cũng ít ít thôi… vì những gì Nguyên Thục có thể làm cho Trịnh Khải, chỉ nhỏ bé như thế, chứ nó không có thanh thế, quyền lực hay địa vị gì để giúp đỡ cho anh cả. Nó chẳng có gì cả, ngoại trừ tấm lòng này thôi.
- Có thật là mấy ông đó sẽ chịu đứng ra quyên góp không chị? Ai chứ người giàu thường keo lắm! Có keo mới giàu mà.
Sau khi nghe ý định của Nguyên Thục, Nguyên Thiên tròn mắt lên. Nó do dự vì không nghĩ mấy ông quan tai to măt lớn ấy có thể đứng ra quyên góp tiền bạc cứu tế dân nghèo. Gì chứ mấy nạn tham ô và ăn hối lộ nó đã nghe báo chí nhắc ra rả. Về thời này thì chắc cũng chẳng có gì khá hơn.
- Không sao! Em yên tâm. Chị đã có cách làm mấy ông quan ấy phải tình nguyện quyên góp. Bây giờ thì đi ngủ thôi.
Nguyên Thục chỉ hé mở thế, rồi không nói gì thêm, mặc cho khuôn mặt ngơ ngác của Nguyên Thiên vì không biết chị mình đang có kế hoạch gì trong đầu. Nó kéo mền lên đắp ngang ngực, cố dỗ mình vào giấc ngủ nếu không muốn hôm sau, hai mắt có quầng thâm như gấu trúc vì cả đêm đã nghĩ ngợi lung tung.
Đêm qua đi. Ngày mai trời lại sáng…
★ Chương 56: "Bệnh"
Để thực hiện kế hoạch vận động bá quan văn võ quyên tiền cứu tế, Nguyên Thục phải tìm cách gặp Trịnh Khải bàn bạc, nếu như muốn đảm bảo cho kế hoạch thành công. Nghĩ là thế, nhưng Nguyên Thục lại không muốn đi gặp Trịnh Khải, phần vì phủ chúa quá rộng lớn, có muốn đi tìm cũng khó - cũng như có những chỗ cung tần không được phép vào. Phần còn lại, quan trọng hơn, đó chính là Nguyên Thục muốn Trịnh Khải đích thân đến gặp nó. Cái tôi của một người con gái không cho phép nó đi tìm anh, và cũng bởi vì nó giận hờn Trịnh Khải dường như đã bỏ quên nó trong chốn hậu cung lạnh lẽo, tịch u.
Trông thấy Nguyên Thục bồn chồn, hai bàn tay không ngừng vò nát mép áo, Bách Nhật đưa mắt nhìn Nguyên Thiên, và nhận lại cái nhún vai của cô nàng do không hiểu chị mình đang bị gì. Sáng nay, lúc vừa dùng xong điểm tâm sáng, Nguyên Thục đã vô cùng hồ hởi khi bàn với tụi nó về việc vận động quan chức trong triều cứu tế người nghèo khổ. Ấy thế mà không đầy một tiếng đồng hồ sau, vẻ hồ hởi đó biến mất, thay vào đó là khuôn mặt đăm chiêu bứt rứt như thường ngày, làm cả ba đứa tụi nó không biết phải nói gì. Cứ thế, bao nhiêu phút đã trôi qua mà Nguyên Thục cứ mãi ngồi im, chỉ làm duy nhất một chuyện là vò nát mép áo mà không chịu thổ lộ hay chia sẻ chút thông tin nào.
- Ê! Thục, rốt cuộc bà còn đợi gì nữa? Có tính nói chuyện này với Đoan Nam Vương không?
Dường như không thể chịu đựng sự im lặng kéo dài trong phòng quá lâu, Anh Tú sốt ruột lên tiếng. Biết mình không thể làm ngơ hơn được nữa, Nguyên Thục ngẩng đầu lên nhìn những khuôn mặt chờ đợi, rồi khẽ liếm môi.
- Tui cũng không biết! Nếu muốn nói thì phải gặp Trịnh Khải mới nói được, đằng này anh ta có tới chỗ tui đâu mà nói.
- Ủa? Sao Đoan Nam Vương phải đến chỗ bà, có bà đến chỗ người ta mới đúng. Đâu ra cái luật chúa phải đến phòng cung tần như thế?
- Kệ tui! Một là anh ta qua, hai là không có chuyện cứu tế gì hết.
- Bà không đến gặp Trịnh Khải thật sao?
- Không là không?
Nghe Nguyên Thục tỉnh bơ đòi Đoan Nam Vương đến, lại còn phồng má lên nhất quyết không chịu đến gặp Trịnh Khải, Anh Tú trố mắt ra vì không nghĩ cô nàng này lại lậm phim ảnh như thế. Thông thường, khi xem phim cổ trang, bao giờ vua, chúa cũng đến phòng cung tần mình để “hú hí”, thế nhưng sự thật thì lại khác. Với cái chuyện vua, chúa cưỡi trên một chiếc xe lừa, dạo quanh khu hậu cung của mình để chọn người đưa vào chính thất, hệt như dạo chơi ba sáu phố phường, cộng thêm người cung phi được chọn vào hầu luôn có thái giám đưa đến, thì chuyện Đoan Nam Vương đích thân đến phòng Nguyên Thục là không tưởng. Huống chi Nguyên Thục cũng không phải là thiếp yêu của Đoan Nam Vương, tất cả chỉ dựa trên danh nghĩa, giao kèo, chứ không phải tình cảm sâu đậm gì.
Phớt lờ ánh mắt ngạc nhiên của Anh Tú, Nguyên Thục nhón lấy một miếng mứt trong đĩa, rồi chậm chạp nhai trong chờ đợi. Thấy căn phòng một lần nữa rơi vào im lặng, Bách Nhật trước đó ngồi theo dõi cuộc đối đáp giữa Anh Tú và Nguyên Thục, đồng thời quan sát sắc thái của bạn mình, thì nó đã lờ mờ hiểu ra vấn đề cốt yếu là gì. Rất có thể Nguyên Thục đột nhiên sĩ diện như thế là do lòng tự trọng của nó đang bị tổn thương. Một mặt muốn gặp Trịnh Khải, mặt khác lại không muốn là người chủ động, nên Nguyên Thục có rơi vào tình thế dùng dằng không dứt cũng là điều tất nhiên. Sau khi đã quan sát và phân tích cặn kẽ vấn đề, Bách Nhật mới hắng gịong một cái, để ba đôi mắt tập trung về phía mình, rồi chậm rãi tiếp lời.
- Bà muốn Đoan Nam Vương đến gặp cũng dễ lắm, giả bệnh đi, mà bệnh thật nặng nữa là đằng khác.
- Hả?
Không hẹn mà cả ba cái miệng cùng “hả” một tiếng rõ to, khi một người xưa nay vốn nghiêm túc như Bách Nhật lại có thể đề nghị một sáng kiến…trên cả tuyệt vời. Trong phút chốc, khuôn mặt đăm chiêu của Nguyên Thục chợt giãn ra, tươi lên như hoa nở đầu mùa. Phải ha. Chỉ đơn giản thế thôi mà nó cũng không nghĩ ra. Nếu như nó bệnh nặng, không lẽ Trịnh Khải vô tình đến độ nghe tin nó bệnh đi không nổi như thế, mà không qua hỏi thăm một tiếng nào.
Và thế là, kế hoạch giả bệnh của Bách Nhật đựoc triển khai triệt để. Nguyên Thục vào vai bệnh nhân tài đến nỗi A Đào và A Vân đều tưởng nó bị bệnh thật. Hai nàng cung nữ cuống quýt lên và mời ngự y đến chữa trị, bởi thấy Hồ tiệp dư trán thì nóng như hơ lửa, hơi thở mỏng manh và nằm li bì suốt mấy ngày liền. Nhờ những quy định trong cung cấm, ngự y khi khám cho phi tần phải cách một bức màn trướng, và chỉ được bắt mạch khi cổ tay đã phủ một tấm lụa the, thế nên Nguyên Thục cứ an tâm nằm “ngắc ngoải” trên giường, để mặc cho mấy ông ngự y mặt mày nhăn nhíu, rồi sau đó kê thuốc tịnh dưỡng, an thần, vân vân và mây mây. Đứng bên cạnh, Nguyên Thiên và Anh Tú cũng vờ tỏ ra sốt sắng, lo lắng lúc ngự y dặn dò tẩm bổ, để rồi sau đó lại bấm tay nhau cười ẩn ý khi các vị ngự y vừa quay lưng.
Tin tức Hồ tiệp dư - thiếp yêu của chúa Trịnh - bệnh nặng... sắp chết chẳng mấy chốc đã được lan truyền khắp hậu cung. Người thì tỏ ra nghi ngờ, không biết đối thủ của mình bị bệnh gì, thật hay giả, hoặc thắp hương cầu đảo cho nó bệnh tới chết. Số còn lại tin tưởng bệnh tình của Nguyên Thục trở nên nguy kịch, chỉ còn thoi thóp sống được mấy tháng. Nhờ lời thêm mắm dặm muối của Anh Tú, người có công truyền thổi tin đồn cho nó bay thật cao, thật xa để đến tai của nhân vật chính, các cô nàng trong cung được một phen hí hửng, mừng thầm vì tai nạn đã giáng xuống đầu kẻ đã cướp đi chúa công của họ. Cứ tin là thế, họ ra sức trang điểm, vấn tóc, tân trang nhan sắc của mình để mong chờ một ngày chúa công sẽ ngự thăm.
Cứ như thế, Nguyên Thục đã giả bệnh được năm ngày. Và năm ngày qua, bóng dáng của Trịnh Khải vẫn như bóng nhạn biệt tăm. Đến thăm nó chỉ toàn là những vị khách không mời với những lời lẽ bóng gió cùng quà cáp không cần thiết, đã làm Nguyên Thục cáu điên lên và suýt phá tan kế hoạch giả bệnh của mình, nếu Bách Nhật không nhắc nhở nó kịp thời.
Ngồi dựa vào thành giường, nhấm nháp viên kẹo chanh, tận hưởng cái vị chua chua, ngọt ngọt, thơm thơm của thứ kẹo yêu thích nhất do Nguyên Thiên giấm dúi, Nguyên Thục cảm thấy khoan khoái. Cũng may là có bạn bè bên cạnh, chứ không thì Nguyên Thục sẽ chán chết vì A Đào và A Vân đã thực thi triệt để lời căn dặn của ngự y, rằng ngoài những thức ăn tẩm bổ, thì các thứ quà vặt nóng, hàn đều không được để ở trong phòng. Chưa kịp bóc lớp giấy vàng ươm của viên kẹo thứ ba, thì tiếng bước chân gấp gáp của Anh Tú bỗng vang lên, làm Nguyên Thục vội vàng giấu phắt những viên kẹo còn lại dưới gối rồi nhanh chóng nằm xuống. Ngôi bên cạnh, Bách Nhật nhanh chóng kéo mền trùm kín người nó, để Nguyên Thục tiếp tục đóng vai bệnh nhân bất đắc dĩ trong mệt mỏi, do niềm hy vọng Trịnh Khải sẽ đến thăm đã dần gặm mòn bản tính kiên trì của mình.
- Cấp báo! Cấp báo!
Còn chưa đặt chân vào ngạch cửa thì cái giọng hớt hải của Anh Tú đã vang lên, kèm theo bộ mặt khẩn cấp, làm Bách Nhật và Nguyên Thiên vội vàng chui ra khỏi màn, hỏi dồn.
- Sao, sao? Phe địch lại đến nữa hả?
- Không, không! Bây giờ, bà Thục sắp thoát khỏi kiếp bệnh nhân, bởi nhân vật chính của chúng ta đến rồi.
Những lời của Anh Tú vừa thoát khỏi đầu môi, ngay lập tức khuôn mặt phụng phịu của Nguyên Thục - vì không biết lần này lại là cường địch nào - bỗng chốc trở nên rạng rỡ. Sau bao ngày cố gắng ăn nhỏ nhẹ, nói thều thào, để đóng vai bệnh nhân cho tròn, cuối cùng công sức của nó cũng đã được đền bù khi nghe tin Trịnh Khải đến thăm. Nhanh chóng sửa lại mái tóc rối cho thẳng thớm, Nguyên Thục quấn chặt tấm chăn vào người rồi vội vàng quay mặt vào trong vách tường, để cố trấn áp trái tim đang đập lô tô trong lồng ngực. Vừa lúc Nguyên Thục quay mặt vào thì có tiếng bước chân từ phía sau vang lên. Trịnh Khải đã xuất hiện ngay ngưỡng cửa. Vẫn phong thái bình thản như mặt nước, anh mỉm cười khi A Đào, A Vân nghiêng người thi lễ, rồi đưa mắt nhìn về phía Nguyên Thục đang nằm giả bệnh với ánh mắt thăm dò.
Dường như muốn để Nguyên Thục và Trịnh Khải nói chuyện thoải mái, Bách Nhật sau khi gật đầu chào Trịnh Khải, đã cùng Anh Tú và Nguyên Thiên ra ngoài, viện cớ giúp hai nàng cung nữ chăm sóc cây cảnh. Vắng người, căn phòng yên lặng như tờ, đến nỗi có thể nghe rõ hơi thở gấp gáp của Nguyên Thục, khi nghe thấy tiếng bước chân nhẹ nhàng của Trịnh Khải tiến về phía mình.
- Bệnh tình của cô thế nào rồi?
Thịch!
Cắn khẽ ngón tay khi trái tim của nó chợt rơi một nhịp, Nguyên Thục có cảm giác rằng đã lâu lắm rồi, mình không được nghe giọng nói trầm ấm này. Trong giây phút đó, Nguyên Thục dù rất muốn nhìn thấy khuôn mặt thanh tú ấy, thế nhưng không hiểu vì sao có một mãnh lực vô hình nào đó ngăn nó lại. Kết quả là nó chỉ nằm yên lặng, quay mặt vào bên trong, xiết chặt lấy chiếc mền bông và nghe sống mũi mình cay cay.
Thấy mình đã tới ngồi bên giường, ân cần thăm hỏi, thế nhưng Nguyên Thục vẫn không động tĩnh gì, hơn nữa lại quay mặt vào bên trong nên Trịnh Khải không thể biết được cảm xúc của nó bây giờ thế nào. Thoáng yên lặng trong giây lát, Trịnh Khải lại lên tiếng. Những ngón tay gầy của anh chạm khẽ vào bờ vai đang yên lặng của nó, để rồi khi Nguyên Thục chợt quay mặt ra, đôi mắt nâu long lanh mở to, ươn ướt, làm Trịnh Khải vô cùng ngạc nhiên vì không hiểu chuyện gì đã xảy ra.
- Nguyên Thục! Cô sao thế?
- Chả sao hết! Tôi vẫn khỏe. Chưa chết đâu.
Gạt những ngón tay Trịnh Khải khỏi bờ vai nhẹ run, Nguyên Thục lại tiếp tục nằm quay mặt vào vách, hệt như một đứa bé đang dỗi hờn mẹ không mua đồ chơi cho mình. Trước đó, Nguyên Thục đã rất nôn nóng, mong Trịnh Khải đến càng nhanh càng tốt, thế nhưng không hiểu sao khi anh đã đến, những suy nghĩ, giận hờn của nó bao lâu nay lại ùa về, làm cho nó tự ái và nhất quyết không chịu trả lời, dù anh đã lên tiếng hỏi han nó hai, ba lần. Muốn Trịnh Khải tới hậu cung chỉ để bàn với anh chuyện quyên tiền cứu đói, thế nhưng mãi đến lúc này, lòng tự trọng của một cô gái đang hiện hữu trong người nó, ngăn những dự tính trong đầu lại và làm nó nhất quyết không chịu mở lời.
- Sao lại chết? Quay mặt lại đây tôi xem nào.
Đang bướng bỉnh nằm quay mặt vào vách, Nguyên Thục bất giác giật mình khi Trịnh Khải chợt áp bàn tay vừa to vừa ấm vào má, rồi bắt nó quay mặt ra ngoài. Không nghĩ rằng Trịnh Khải sẽ hành động như thế, Nguyên Thục có hơi bất ngờ, để rồi khi chạm phải đôi mắt sâu thẳm của anh, trái tim nó đập thình thịch, hai gò má nóng bừng lên, rối bời. Một tay vẫn áp vào má, tay còn lại chạm lên trán Nguyên Thục, Trịnh Khải mỉm cười khi trán nó mát rượi, chẳng có dấu hiệu bệnh “liệt giường” như lời Anh Tú tấu trình, và những lời đồn đại thổi phồng trong mấy ngày qua.
- Nhóc con! Còn muốn đóng kịch cho tới khi nào? Cô bày kế này chắc chắn có chuyện muốn nói với tôi, đúng không?
Mở to mắt khi Trịnh Khải biết tỏng màn kịch của nó, Nguyên Thục vô cùng xấu hổ khi đối diện với ánh mắt sâu thẳm ấy. Nó ngượng ngùng kéo mền lên trùm kín đầu do không muốn Trịnh Khải nhìn thấy gương mặt đỏ nhừ, khi đã bị anh phát hiện ra kế hoạch giả bệnh này.
- Sao… anh biết tôi giả bệnh?
- Có người nào bệnh trầm trọng mà còn ăn kẹo chanh nhiều như thế không?
Ngẩn người ra vì những lời anh vừa nói, Nguyên Thục vội tốc mền ra. Mặt nó ửng đỏ khi nhìn thấy những mảnh giấy gói kẹo chưa kịp phi tang nằm rải rác dưới đất. Thì ra khi ngồi xuống giường, Trịnh Khải đã nhìn thấy chứng cứ xác đáng ấy, nên cái màn kịch mà nó dày công đóng giả trong phút chốc đã bị phơi bày.
- Ừ đấy, tôi giả bệnh đấy! Thế có sao không? Ai cấm nào?
Thấy Nguyên Thục ngượng quá nói bừa, Trịnh Khải phì cười. Anh gõ nhẹ vầng trán bướng bỉnh của nó, rồi trầm giọng.
- Cô muốn nói với tôi chuyện gì?
Biết mình không thể dây dưa lâu thêm được nữa, Nguyên Thục ngồi dậy và dựa lưng vào thành tường, sau đó lôi những viên kẹo chanh khi nãy giấu dưới gối ra, nhấm nháp từng chút một. Sau đó nó bắt đầu nói với Trịnh Khải ý định vận động bá quan văn võ quyên tiền cứu đói, với chất giọng dùng dằng vì vẫn còn giận anh đã để nó phải chờ đợi trong mấy ngày qua. Nguyên Thục kể đến đâu, đôi mày của Trịnh Khải chau đến đó. Cho đến khi nó kể xong hết, Trịnh Khải vẫn yên lặng không nói. Khuôn mặt anh đăm chiêu như đang cân nhắc kế sách của Nguyên Thục xem có khả thi hay không.
Thời gian trong phòng chậm chạp trôi qua. Nguyên Thục vừa ngậm kẹo, vừa quan sát từng đường nét trên gương mặt Trịnh Khải. Nó nhận ra đôi mắt của anh ngày càng mênh mang, đôi mày kiếm luôn có một vết hằn sâu, bờ vai dài, rộng có khi nào mệt mỏi do phải thức thâu đêm? Những ngón tay gầy lại có thêm những nốt chai nhỏ, có lẽ do cầm bút phê duyệt tấu chương khá nhiều. Càng quan sát, Nguyên Thục càng thấy xót xa. Nó không hiểu Trịnh Khải đang suy nghĩ gì về trách nhiệm của mình, về cơ đồ đã mục nát do cha ông để lại, nhưng nó hiểu rằng anh đang phải đấu tranh với rất nhiều thứ, đang cố gắng giữ vững con tàu, lèo lái nó vượt lên phong ba trong thời loạn nhiễu nhương. Trong giây phút xót xa ấy, Nguyên Thục đã mong rằng, nếu nó là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho Trịnh Khải thì hay biết bao…
- Cô muốn khi nào tiến hành kế hoạch đó?
- Sau ba ngày nữa. Khi tôi đã…hết bệnh.
Đang nhìn ngắm từng đường nét quen thuộc trên gương mặt Trịnh Khải, Nguyên Thục giật mình khi anh ngước đầu lên. Nó vội vàng nhìn lảng sang chỗ khác để che giấu sự bối rối, rồi trả lời. Hai chữ “hết bệnh” cuối cùng của Nguyên Thục nhỏ như kiến, và nó không dám nhìn nụ cười tủm tỉm của Trịnh Khải khi nhắc tới chuỵên bệnh vờ. Sau khi đã hỏi sâu về kế hoạch, Trịnh Khải ngồi yên. Anh nhìn những ngón tay đan xen ngập ngừng của Nguyên Thục vào nhau, rồi chậm rãi đứng lên trước đôi mắt ngỡ ngàng của nó, vì chỉ mới gặp nhau một lúc mà anh đã vội đi.
- Mấy ngày qua nằm hoài một chỗ, có phải rất chán không?
- Hơ…
Đang còn ngơ ngác vì chưa hiểu lời anh nói thì Trịnh Khải đã đột ngột cúi xuống, vòng tay qua người Nguyên Thục và bế bổng nó lên. Khi gương mặt thanh tú của Trịnh Khải kề sát mặt nó, sâu trong đáy mắt là biển trời dịu dàng, Nguyên Thục bất giác choàng tay qua cổ anh. Bờ môi mềm mím lại, bẽn lẽn và thẹn thùng.
- Nằm hoài một chỗ, không có bệnh cũng thành bệnh mất. Có muốn cùng tôi đi dạo không?
- Vâng!
Khe khẽ gật đầu, trông Nguyên Thục lúc này ngoan ngoãn như một chú mèo con. Nó không thể nói gì khác hơn ngoài trái tim đang đập thình thịch, cùng với nụ cười rạng ngời trên môi. Chẳng biết từ bao giờ, bên ngoài vườn đã đặt sẵn một chiếc ghế đệm, cùng với chiếc gối dựa êm ái, bên cạnh còn có đĩa hoa quả, kèm theo bình trà thơm trên chiếc bàn con con. Trịnh Khải nhẹ nhàng đặt Nguyên Thục lên ghế. Những ngón tay của nó bịn rịn níu lấy áo anh, một lúc lâu rồi cũng bỏ ra. Vươn vai hít thở không khí trong lành sau bao ngày nằm vật vã trên “gường bệnh”, Nguyên Thục cảm thấy vô cùng thoải mái. Nó có cảm tưởng từng mạch máu trong người nó đang lưu thông, tinh thần nó sảng khoái hơn bao giờ hết. Mặt trời soi nắng qua kẽ lá, tạo nên những dải sáng li ti in bóng xuống hồ. Mặt nước rì rào. Gió khe khẽ thổi, làm những sọi tóc mảnh mai của nó nhẹ tung bay.
Trịnh Khải ngồi bên cạnh nó. Anh hướng nhìn về phía trước. Đôi mắt sâu thẳm in bóng mặt hồ lấp lánh. Cả hai cứ như thế yên lặng, không ai nói với nhau lời nào. Dựa người vào thành ghế, những giận hờn bao ngày qua trong Nguyên Thục phút chốc đều tan biến. Nó quên mất mình đã giận anh thế nào, nó quên mất đã trách anh ra sao khi cho rằng anh đã quên mất mình. Giờ đây, anh đang ở bên cạnh nó. Yên lặng. Chỉ thế thôi nhưng Nguyên Thục cũng đã cảm thấy vô cùng dễ chịu và êm ấm, tựa như đang lơ lửng trên chín tầng mây. Khẽ đưa mắt nhìn bờ vai rộng của Trịnh Khải, hơn bao giờ hết, Nguyên Thục bỗng muốn ngả đầu vào bờ vai ấm áp đó, được ngửi thấy mùi trầm hương dịu dàng đó, và được mùi hương ấy bao bọc lấy mình. Không biết những suy nghĩ của Nguyên Thục, Trịnh Khải có hiểu hay không, chỉ biết rằng anh đột nhiên quay đầu nhìn nó, để rồi khi bắt gặp ánh mắt lấp lánh của Nguyên Thục, Trịnh Khải đột ngột choàng tay qua vai nó, và kéo nhẹ đầu nó ngả lên vai mình.
Lắng nghe tiếng trái tim đang reo vui trong lồng ngực, Nguyên Thục sung sướng ngả đầu lên bờ vai rộng ấy. Nó dựa hẳn vào người Trịnh Khải, và rồi rúc vào lòng anh tìm hơi ấm. Mắt nó nhắm lại, bình yên, khi mùi hương trầm nhẹ nhàng lẩn khuất, và bàn tay ấm áp của anh vuốt nhẹ mái tóc đen mượt của mình. Trong giây phút mơ màng ấy, Nguyên Thục như cảm thấy vạn vật trong đất trời này đều tươi đẹp, một cảm giác mà cho đến tận sau này, Nguyên Thục mãi mãi không tìm thấy ở ai khác. Và khoảnh khắc ngọt ngào ngày hôm nay, Nguyên Thục sẽ không bao giờ quên, khi mà nó không cần nói ra, Trịnh Khải cũng đã hiểu hết những gì sâu kín nó muốn nói trong lòng.
Ước gì!
Thời gian ngừng trôi…
★ Chương 57: Ý định
Hồ tiệp dư sau một tuần nằm ngắc ngoải trên giường nay đã khỏi bệnh. Thông tin này nhanh chóng lan nhanh, làm cho những địch thủ trong cung không khỏi ngẩn ngơ, tiếc nuối, trong khi các ngự y rạng rỡ nét mặt khi cho rằng tiệp dư khỏi bệnh là do thuốc mình. Mỗi người một tâm trạng, một ý nghĩ, nhưng nói gì thì nói, trên hết, Hồ tiệp dư khỏi bệnh đó là môt chuỵên vui, mà đã là chuyện vui thì phải ăn mừng, mà ăn mừng thì phải tụ họp bá quan. Đó là lý do tại sao Nguyên Thục muốn thực hiện kế hoạch của mình vào ba ngày tới.
Mặc dù nạn kiêu binh đang lộng hành, mặc dù còn những vấn đề trước mắt chưa được giải quyết, thế nhưng chúa công đã ban yến tiệc, thì bận cách mấy các quan cũng phải kiếm một suất để tỏ rõ lòng trung thành, hay muốn cầu xin việc gì cũng dễ dàng hơn. Chính vì Hồ tiệp dư trước đó đã bệnh nặng, tuy đã khỏi nhưng vẫn còn độc tố trong người, cho nên quà cáp bá quan văn võ mang tặng đa số là sâm nhung, thuốc bổ hảo hạng. Rải rác bên cạnh là những xấp lụa thơm hay vòng vàng xuyến ngọc. Ôi thôi, đủ mọi thứ trên đời khiến Nguyên Thục ngẩn ngơ, do từ trước tới nay chưa bao giờ trông thấy số lượng quà cáp nhiều như thế, lại toàn cực phẩm nhân gian quý giá.
Kể từ ngày Trịnh Khải lên ngôi chúa, tòa Lượng phủ chưa bao giờ đông vui như thế. Trong phủ, đâu đâu cũng thấy ánh đèn rực rỡ, đâu đâu cũng nghe tiếng nhạc sên ca dập dìu. Điểm xuyết phông nền cho bức tranh âm thanh đó là tiếng người cười nói rộn rả, mùi thức ăn ngào ngạt hòa quyện với rượu thơm, đèn khói lung linh, hệt như chốn thiên đường. Chính vì khung cảnh thần tiên ấy, mà bá quan văn võ đã gạt hết những e dè ngày thường, ai nấy đều luôn miệng uống hết chén này đến chén khác do những nàng cung nữ xinh đẹp hầu bên. Kết quả là vẻ đạo mạo ban đầu biến mất, mọi người đều bá vai nhau hát suốt đêm không còn biết trời trăng mây nước, cho đến tận tờ mờ sáng mới chịu mò về.
Nguyên Thục chỉ chờ có thế.
Mục đích giả bệnh của nó lần này, là cốt để Trịnh Khải có lý do chính đáng để mời tất cả bá quan văn võ lớn bé trong triều đến dự, âu cũng là vì kế hoạch nó đã lên lịch sẵn trong đầu. Sau khi tiệc tàn, trên bàn còn lại vô số thức ăn thừa vương vãi, Bách Nhật, Nguyên Thục, Nguyên Thiên và Anh Tú tập hợp đám cung nữ lại, thu nhặt tỉ mẩn những đĩa thức ăn còn thừa, phân loại sang một bên, sau đó khéo léo chế biến thành những khẩu phần thức ăn thơm phức, nóng hổi. Riêng về khoản quà cáp quan lại đã biếu, Nguyên Thục chỉ lấy một ít để thưởng cho đám cung nữ đã giúp mình chuẩn bị thức ăn, ngoài ra, tất cả số quà cáp còn lại nó đều mang đổi thành tiền, để đem cứu giúp cho những người đang gặp khó khăn.
Kế hoạch của Nguyên Thục vẫn chưa dừng lại đó…
Phủ quốc sư.
Nghe tiếng chim hót râm ran ngoài cửa sổ, báo hiệu một ngày mới đã đến, quốc sư Nguyễn Khản vội vàng trở dậy. Ông nheo mắt lại khi ánh mặt trời rực rỡ soi thẳng vào phòng, đoạn đưa tay vỗ vào vầng trán nhưng nhức do dư âm của bữa tiệc rượu tối qua. Xỏ đôi hài ngay dưới giường vào chân, Nguyễn Khản phải ngồi im một lúc để mặt đất thôi chao đảo, rồi ông chậm chạp rửa mặt bằng nước ấm - do tên thư đồng nhỏ tuổi mang lên - để kịp tỉnh táo đầu óc nếu muốn vào chầu hôm nay.
Tối hôm qua, chẳng mấy khi được dự tiệc linh đình trong phủ chúa, nên quốc sư Nguyễn Khản đã rượu chè bí tỉ, say khướt đến nỗi không thể tự về được, mà phải cho gọi người trong phủ ông đến rước về. Dùng bữa sáng xong xuôi, quốc sư Nguyễn Khản hớp một ngụm trà thơm súc miệng, và bắt đầu thay áo để lên đường sang phủ chúa. Khi mũ áo đâu đó gọn gàng, chỉ còn gọi hai tên lính khiêng võng điều đến, bỗng đâu một tên gia nhân vội vã chạy vào báo, rằng có hai người lính trong đội Nội kiệu đang chờ ở ngoài phủ từ bao giờ. Vốn từ trước tới nay chưa có gì bất kính, cũng chẳng ăn ở hai lòng mà hết tâm phò chúa, quốc sư Nguyễn Khản vô cùng ngạc nhiên khi trông thấy hai người lính, vì không hiểu tại sao họ lại đến đây. Trong khoảnh khoắc, Nguyễn Khản chợt nhớ tới bữa tiệc tối qua, ông bắt đầu thấy lo lắng và bất giác đưa tay sửa cổ áo, khi nó thít vào cổ ông quá chặt. Ông lo sợ rằng hôm qua do quá say nên có thể ông đã không kiểm soát được hành động của mình. Và lỡ như trong lúc hồ đồ đó, có điều gì thất thố trước mặt chúa công thì đáng ngại vô cùng.
- Quốc sư! Mới sáng sớm đã đến quấy rầy ngài, chúng thần thật lấy làm áy náy.
- Không sao! Giờ cũng đã đến lúc ta vào phủ chầu, các ngươi đến đây có chuyện gì?
- Vâng! Chúng thần tới đây là vì những gì quốc sư đã hứa tối qua ạ.
Khi nghe xong những lời người lính vừa nói, Nguyễn Khản đã không thể giữ được bình tĩnh. Những giọt mồ hôi đã bắt đầu lấm tấm trên vầng thái dương tái nhợt, do sợ mình hôm qua say khướt, nói năng lung tung và mạo phạm đến chúa công, nên hôm nay người mới sai hai tên lính này tới đây bắt tội mình. Thế nhưng, suy nghĩ kỹ lại, Nguyễn Khản ngờ rằng dù tối qua ông có say đến thế nào, thì đối với chúa công ông luôn một lòng yêu kính và phục tùng, tuyệt đối không hề có chuyện hai lòng. Hơn nữa, nếu quả thật tối qua ông đã bất kính với chúa công, thì chắc chắn thần sắc của hai tên lính này không được hòa hoãn thế. Cộng thêm, nếu thực thi lệnh bắt thì chắc chắn phủ quốc sư bây giờ đã bị quân cấm vệ bao vây, chứ chẳng phải chỉ có hai người lính đơn thân độc mã tới đây làm gì. Tự trấn áp bản thân mình, Nguyễn Khản thôi không e ngại nữa, ông nhìn thẳng vào ánh mắt của hai người lính, đoạn điềm đạm trả lời.
- Những gì ta đã hứa tối qua ta vẫn còn nhớ rất rõ, hai ngươi hãy nhắc lại xem có đúng đó là lời ta hứa không. Nếu đúng, ta chắc chắn giữ lời.
Nín thở nhìn hai tên lính trước mặt, quốc sư Nguyễn Khản hy vọng rằng tối qua ông không hồ đồ, mất thần trí, hay mạo phạm tới chúa công, nếu không thì…
- Quốc sư! Tối qua người đã hứa với chúa công rằng sẽ xuất hai mươi lạng vàng cứu tế dân nghèo đang đói khổ. Hôm nay theo lệnh chúa công, chúng thần đến để nhận số vàng đó, xin quốc sư chu toàn cho.
Đang hồi hộp, căng thẳng đến tột cùng, quốc sư Nguyễn Khản đã thở phào nhẹ nhõm khi nghe tên lính bên hữu nhắc nhở lời hứa tối qua của mình là gì. So với tội mạo phạm chúa công, thì chuyện xuất tặng hai mươi lạng vàng cứu tế dân nghèo chỉ là muối bỏ bể. Trong phút chốc, nét mặt căng thẳng của Nguyễn Khản tan biến, thay vào đó là sự vui vẻ, hòa nhã thường ngày. Ông nhanh chóng ra lệnh cho người thủ kho xuất hai mươi lượng vàng, đưa cho hai người lính ngay lập tức, đồng thời trong khi chờ đợi cũng không quên thăm hỏi gia đình họ, để tõ rõ ta là một quốc sư biết quan tâm tới thân phận bề tôi.
Tương tự như ở phủ quốc sư, quốc cựu Dương Khuông, tham tụng Bùi Huy Bích và những quan lại có mặt trong buổi tiệc đêm đó, mặt ai nấy đều ngơ ngác, lo sợ khi thấy lính Nội kiệu đến nhà. Sau khi nghe được những gì mình hứa hôm qua, giống như Nguyễn Khản, ai nấy đều mững rỡ và nhanh chóng góp tiền cứu tế. Hai mươi lượng vàng kia thì chẳng thấm vào đâu so với chuyện chè chén quá trớn mà không giữ miệng mồm. Khi nhận đầy đủ số tiền không thiếu một phân, thậm chí có người còn hào phóng góp hơn làm bốn đứa tụi nó vô cùng vui mừng. Số tiền này không những đủ để phân phát cho tất cả mọi người, mà còn có thể mua thêm thuốc men, quần áo, vải vóc và tất cả những gì cần thiết, cùng với số thức ăn được chế biến lại tối qua để đem ra cứu tế dân nghèo.
Thật ra, tất cả mọi người có mặt trong buổi tiệc tối qua, cho dù có chè chén say sưa đến mức nào đi chăng nữa, thì họ cũng không biểu lộ bất cứ hành động bất chính, cũng như lời lẽ khiếm nhã nào. Nhưng đối với những kẻ uống rượu say trong một đêm quên hết, thì tối hôm qua có làm gì, nói gì cũng chả thể nhớ. Vậy cho nên, khi thấy lính tráng đến nhà, ai ai cũng mừng húm và chịu bỏ tiền ra một cách vui vẻ mà không khất lần hay hứa hẹn lời nào, khi nghe “lời hứa” hào hiệp hôm qua của mình.
Chính vì nhờ kế hoạch đó, mà mọi người dân ở kinh thành Thăng Long được một phen rộn ràng như mở hội. Khuôn mặt ai nấy ngời sáng, khi nghe tin phủ chúa đã cho người tiếp tế tiền bạc, thuốc men và lương thực. Những con hẻm tối tăm bỗng nhiên bừng sáng, đầy tiếng cười nói rộn ràng. Đứng trước mỗi con hẻm là những nàng cung nữ xinh xắn đang thoăn thoắt trao các túi lương thực, thuốc men và tiền bạc cho những người dân đen đủi, gầy ốm, sống lay lắt trong các con hẻm tối tăm. Chính nhờ những gì phủ chúa tiếp tế, họ giờ đây đã có thể mơ đến những hạt gạo trắng ngần và tấm áo lành lặn. Mọi người không ai bảo ai, ai nấy đều ôm chặt những gì mình được phát, như sợ nửa chừng bị ai đó lấy mất hoặc sơ ý đánh rơi.
- Mọi người từ từ! Ai ai cũng đều có phần hết. Trật tự xếp hàng nào, đừng chen lấn như thế.
Nguyên Thiên vội vàng đưa tay vẫy vẫy, ra hiệu cho dòng người đông đúc đang xếp hàng lộn xộn phía dưới vào khuôn phép. Gạt nhanh những giọt mồ hôi trên trán, Nguyên Thiên nhanh chóng trao túi lương thực vào tay một cậu bé tóc còn để chỏm, rồi nó mỉm cười xoa đầu thằng bé thân thiện, khi từ đọc thấy trong đáy mắt của thằng bé lấp lánh niềm vui. Chính vì số lượng người đến nhận sự tiếp tế quá nhiều mà nhân lực tụi nó chẳng bao nhiêu, nên Nguyên Thiên bèn đánh liều, nghe theo lời Nguyên Thục, đi nhờ những người lính trong đội kiêu binh mà nó đã cứu lúc trước để giúp đỡ môt tay.
Thoạt tiên, khi nghe Nguyên Thiên nhờ vả, những tên kiêu binh ấy đã vô cùng ngạc nhiên. Sau mấy phút đắn đo cân nhắc, họ cũng đã gật đầu đồng ý và rủ thêm đồng đội tới giúp, do nhớ tới ơn cứu mạng của cô gái tóc ngắn này. Ban đầu, Nguyên Thiên không biết Nguyên Thục có chủ đích gì khi nhờ đến những người lính trong đội kiêu binh - mà dân Bắc hà phải e dè, sợ sệt - đi tiếp tế, thế nhưng bây giờ Nguyên Thiên cũng lờ mờ hiểu ra ý đồ của chị mình. Ban đầu, khi nhìn thấy kiêu binh có mặt trong đội ngũ phân phát lương thực, phản ứng của những người dân là e dè, sợ sệt. Thậm chí họ còn lo sợ bị tước đoạt hết những gì mình vừa mới nhận về, nên ánh mắt ai nấy đều lộ vẻ khinh bỉ. Những gì kiêu binh gây ra từ trước đến nay vẫn luôn ám ảnh tâm trí họ, làm họ oán hận và căm ghét đến tận cùng.
Ấn tượng ban đầu là như thế, nhưng đến khi nhìn thấy đám kiêu binh ấy chẳng tỏ vẻ gì là muốn phá phách, ngược lại còn cẩn thận trao cho họ những túi lương thực tràn đầy trong sự lúng túng và vụng về, những thành kiến ban đầu của dân chúng vẫn còn đó, thế nhưng họ cũng đã dạn dĩ hơn. Dần dần ác cảm vơi bớt đi, và sau cùng dân chúng đã cám ơn những người kiêu binh từng một thời quấy phá ấy, khi họ đặt vào tay mình túi lương thực cùng xâu tiền, thuốc men. Cảm nhận của người dân là thế, riêng về phần những người kiêu binh, không hiểu sao nhìn thấy nam phụ lão ấu xếp hàng trước mặt, rồi lại còn sốt sắng cảm ơn khi nhận lương thực, nhìn những đôi mắt lấp lánh niềm vui và nụ cười sâu sắc, khác hẳn với sự lẩn tránh và ánh mắt căm ghét như thường ngày, thì trong lòng ai nấy bỗng nhiên rất dễ chịu, cứ như người đang đi giữa trưa hè bất chợt có một cơn gió mát thổi qua. Trong phút chốc, giữa người dân và kiêu binh dường như không còn những ngăn cách. Những mối ác cảm thường ngày nay trở thành người vỗ vai thân thiện, kẻ cười cám ơn. Bầu không khí u ám trong các ngõ hẻm dần đuợc xua đi, và người ta có quyền mơ đến một tương lai tươi sáng hơn, nếu phủ chúa biết lo lắng đến cuộc sống nhân dân, nếu kiêu binh biết an ủi, động viên mà không cậy thế hiếp đáp dân lành.
Nhìn thấy mọi chuyện đang diễn ra theo chiều hướng tốt đẹp, Nguyên Thiên cảm thấy công sức của chị nó ít ra cũng đã được đền bù xứng đáng. Đang mỉm cuời khi bỗng nhiên cảm thấy thế gian này thật tươi đẹp, bất chợt Anh Tú huých nhẹ vào vai nó không báo trước, làm Nguyên Thiên suýt đánh rơi túi thuốc trên tay. Lừ mắt lên tính xử cậu chàng can tội dám làm nó giật mình, thì Nguyên Thiên đã kịp thời dừng lại khi nghe Anh Tú bào chữa cho hành động đột xuất của mình.
- Đừng vội uýnh tôi, Thái tử Duy Cận có chuyện muốn gặp bà kìa.
Tròn mắt ngạc nhiên, Nguyên Thiên đưa mắt nhìn theo hướng Anh Tú chỉ vào quán trà đơn sơ gần đó. Nó nhìn thấy Duy Cận đang ngồi uống chén chè tươi. Tấm áo lục thêu những đường chỉ lam lượn sóng quen thuộc không còn nữa, thay vào đó là chiếc áo xanh nõn chuối, bên ngoài là chiếc áo khoác cùng màu đơn giản. Trông anh hệt như một thư sinh nho nhã ngồi tìm kiếm những vần thơ để đời.
Đưa mắt nhìn Bách Nhật, đang kiểm kê lại số lượng hàng hóa còn bao nhiêu, có đủ cho hàng người đứng rồng rắn phía sau không - để hội ý, do Nguyên Thục bận cùng A Đào và A Vân lo phân phối lương thực ở một tụ điểm khác. Nhận được cái gật đầu của bạn, Nguyên Thiên liền trao túi thuốc cho Bách Nhật, rồi nhanh chân băng qua dòng người chen chúc đển nơi Duy Cận đang ngồi, lòng thầm thắc mắc không biết anh muốn gặp nó có chuyện gì.
Dường như không biết Nguyên Thiên đang tiến đến, Duy Cận nhìn mông lung ra hàn liễu xào xạc trước mặt, đến khi nghe thấy tiếng chân Nguyên Thiên vang lên, Duy Cận mới quay người lại. Trước mặt anh lúc này là một cô gái nhỏ nhắn trong bộ võ phục màu thiên thanh, tay áo xắn lên khỏe khoắn. Mái tóc ngắn reo vui trong gió, khuôn mặt bầu bĩnh ửng hồng do phơi mình quá lâu dưới ánh mặt trời, đã làm Duy Cận thoáng ngạc nhiên vì trông Nguyên Thiên quá khác so với thường ngày. Một tay kéo ghế, một tay quệt những giọt mồ hôi lấm tấm trên trán, Nguyên Thiên vẫy tay chào khi thấy anh nhìn mình, rồi đón lấy chén chè tươi trên tay bà lão rót cho khách, đoạn tươi cười.
- Coi bộ lâu lắm tôi mới gặp lại anh đấy, dạo này vẫn khỏe chứ hả?
Yên lặng nhìn Nguyên Thiên trong giây lát, Duy Cận xoay tròn chiếc chén trong tay. Anh không trả lời câu hỏi của Nguyên Thiên mà nói bâng quơ, như để một mình mình nghe.
- Ta cứ tưởng cô thần sắc đang ngày một héo hon, hóa ra vẫn còn rất yêu đời và tràn đầy sức sống hơn bao giờ hết.
- Sao? Như thế có gì có không tốt? - Hớp một ngụm chè tươi, Nguyên Thiên nhắm mắt, hít nhè nhẹ hương thơm mỏng manh thoát ra từ trong chén, làm nó tỉnh hẳn người, sau đó hỏi lại Duy Cận với giọng ngạc nhiên vì không hiểu anh muốn ám chỉ gì.
- Không! Quá tốt nữa là đằng khác. Ít ra cũng nằm ngoài những gì ta phán đoán.
- Là sao? Thật ra anh đến tìm tôi có chuyện gì vậy?
Đặt chén chè đã uống cạn xuống chiếc bàn tre, Nguyên Thiên nhón lấy miếng kẹo lạc và cho vào miệng nhau rau ráu. Nó vừa nhai vừa quan sát thần sắc của Duy Cận. Kể từ ngày tiễn anh tra khỏi phủ chúa đến nay, không gặp Duy Cận một thời gian quả thật thấy anh có nhiều thay đổi. Khuôn mặt thanh tú thôi không còn nét kiêu ngạo, thay vào đó là sự trầm ngâm, điềm tĩnh khác thường. Sự thay đổi ấy làm Nguyên Thiên lại nhớ đến Duy Khiêm. Cũng đã lâu rồi nó không gặp anh, không biết anh vẫn còn như ngày trước hay đã thay đổi ít nhiều. Không biết ai là nạn nhân để anh mỉa mai, chế giễu thay cho nó. Và không biết thói quen thức khuya đọc sách dưới ánh đèn lù mù có hại cho mắt ấy, có được cải thiện hay không, dù lúc trước nó đã lên tiếng nhắc nhở anh nhiều về chuỵên này. Đang mải mê suy nghĩ, Nguyên Thiên nhất thời không để ý đến những gì xung quanh. Đến khi Duy Cận đột ngột gọi to tên nó, Nguyên Thiên mới giật mình ngơ ngác, để rồi bắt gặp ánh mắt khó hiểu của Duy Cận đăm đăm nhìn, nó thấy bối rối vì nãy giờ không biết anh đã nói những gì.
- Cô có nghe ta nói gì không?
- Xin…xin lỗi! Nãy giờ… anh nói gì?
Gãi đầu cười hì hì trước ánh mắt đanh lại của Duy Cận, vì rõ rãng những gì anh nói khi nãy, cô nàng này chẳng hề lọt tai một câu nào.
- Ta hỏi cô có suy nghĩ gì về lời đề nghị lúc ở trong địa đạo chưa?
- Ơ! Đề nghị gì kia?
Duy Cận càng nói, Nguyên Thiên càng cảm thấy mình như ở trong đám mây mù vì không hiểu anh muốn đề cập đến lời đề nghị nào. Đăm đăm nhìn Nguyên Thiên để chắc chắn sự ngây thơ trên gương mặt bầu bĩnh đó không phải giả tạo, Duy Cận thở hắt ra một hơi vì không ngờ cô gái này dễ quên đến thế. Đoạn, anh nhấn mạnh từng lời.
- Lời đề nghị cô làm cận vệ của ta, cô đã suy nghĩ thế nào?
Phải mất mấy giây Nguyên Thiên mới nhớ tới lời đề nghị của Duy Cận lúc còn trong địa đạo. Trước sự chờ đợi của Duy Cận để nghe câu trả lời của nó, Nguyên Thiên không hiểu Duy Cận muốn nó làm cận vệ là có mục đích gì. Chẳng thà người không có võ công, hay thư sinh yếu ớt như Duy Khiêm thì cần vệ sĩ còn có lý, đằng này người võ công đầy mình như Duy Cận mà cần có cận vệ thì nó quả thật không hiểu nổi. Chính vì thế nên Nguyên Thiên mới bận tâm suy nghĩ chỉ được hai hôm đầu, còn những hôm sau thì nó quên bén, chẳng còn chút ấn tượng nào cho tới hôm nay, khi Duy Cận lôi ra hỏi cầm chừng.
Làm cận vệ cho Duy Cận? Nên hay không?
★ Chương 58: Vệt tối
Trong đêm khuya tịch mịch, tiếng mõ lốc cốc vang lên lảnh lót, báo hiệu giờ đã chuyển sang canh hai, phủ Long Nhương chìm trong màn đêm hoang vắng. Những giọt sương giá rơi xuống cành liễu mềm mại, đung đưa trên mặt hồ. Bầu trời đêm cô đặc, mịt mù thưa thớt ánh sao khuya. Trong màn đêm đó, một vệt sáng nhạt nhòa lung linh nơi góc điện phía tây, đó là dấu hiệu mỗi khi Văn Bình vẫn còn ở thư phòng làm việc. Chiếc bóng của anh đổ dài lên song cửa, nghiêng nghiêng, mỗi khi gió lùa vào bóng đèn leo lét đêm khuya.
Trước chiếc bàn dài chứa đủ loại giấy tờ, Văn Bình miết tay lên tấm bản đồ thô ráp. Đôi mày kiếm của anh chau lại khi chạm phải thắc mắc nào đó. Với lấy cây bút lông treo trên giá, chấm vào nghiêng mực sóng sánh bên cạnh, anh khoanh một vòng tròn nhỏ ngay một địa danh nào đó trên bản đồ. Kể từ cuộc tấn công tháng ba năm Nhâm Dần, Tây Sơn đã một lần nữa mất kiểm soát ở Gia Định, khi quân của Nguyễn Ánh vùng lên đánh đuổi Bộ hộ Bá và Đỗ Nhàn Trập, tái chiếm vùng đất này. Do số quân trấn giữ quá ít, lại còn rải ra để phòng thủ, nên không thể chống lại đội quân vũ bão của Châu Văn Tiếp. Kết quả là cả bọn phải tất tả mang quân chạy về Quy Nhơn trong đêm. Đúng như Phan Văn Lân đã bẩm báo, Gia Định bây giờ được canh gác rất nghiêm ngặt. Mọi kế hoạch phòng thủ của Nguyễn Ánh đều kín như bưng, ngay cả một con ruồi cũng không bay lọt, đến bây giờ vẫn chưa thể biết đằng sau cánh cổng rào tre chắc chắn ấy đang diễn ra những gì. Không cần Lân phải trình tấu lại, căn cứ vào những trận chiến trước, Văn Bình cũng thừa hiểu rằng công cuộc tái thiết của Nguyễn Ánh lần này sẽ chắc chắn và cẩn thận hơn lần trước, vì dường như hắn ta không có khái niệm thua cuộc là gì.
Rà tay lên vòng tròn mới khoanh bằng mực đen hãy còn ướt, Văn Bình yên lặng khi hình ảnh của Linh Lan chợt đến trong tâm trí. Tính ra từ ngày “ớt nhỏ” bỏ đi cho đến nay cũng đã hơn một tháng. Trong thời gian đó, dù Xuân và mọi người trong nhà ông Lương đã tung hết lực lượng ra tìm kiếm, cũng như hỏi thăm bè bạn gần xa, thế nhưng tung tích của “ớt nhỏ” vẫn như bóng nhạn biệt tăm, không có chút tin tức cũng như dấu hiệu nào, hệt như chưa từng tồn tại trên cõi đời này. Không hiểu vì sao, Văn Bình cảm thấy lo lắng cho cô gái nhỏ đó. Dù với tính cách tinh lanh, mềm nắn rắn buông, thêm chút ngang ngạnh không chịu thua ai, “ớt nhỏ” khó có thể bị ai bắt nạt. Thế nhưng trong thời loạn lạc chiến tranh, nhất là ở Gia Định vẫn còn đang khói lửa, thì ít nhiều gì “ớt nhỏ” cũng sẽ gặp những tình huống không lường truớc được, và điều tất yếu sẽ chuốc lấy nguy hiểm cho bản thân mình.
Khẽ gấp tấm bản đồ lại, Văn Bình nhìn ra hàng hiên ẩm ướt sương đêm. Từng ngọn cỏ thơm ngả nghiêng dưới bước chân trần của gió, và lung lay trong đôi mắt lấp lánh của anh. Chợt nghiêng người lắng nghe khi thoáng đâu đây là tiếng cười giòn tan, trong trẻo, Văn Bình lại đưa mắt nhìn xuống tấm bản đồ nằm hờ hững trên bàn, bởi đó chỉ là tiếng gió ru bụi trúc xào xạc, vi vu. Khi nghe tin tung tích của Linh Lan của vẫn chưa tìm thấy, trong mắt Văn Bình không giấu vẻ thất vọng. Mái tóc đen ngoan ngoãn nằm sau sợi dây lụa cột chặt nhẹ bay trong gió, khuôn mặt phụng phịu khi những việc làm sai phạm bị anh phát hiện, nụ cười láu lỉnh, đôi mắt đen láy, to tròn, biết nói luôn làm anh bối rối. Tất cả những điều nhỏ nhặt từ cô gái ấy, không hiểu sao luôn làm Văn Bình nhớ tới, để rồi chợt cảm thấy mông lung khi một nỗi buồn vô hạn nhè nhẹ chạm vào tâm trí, làm anh khó lòng tập trung vào mớ công việc ngổn ngang truớc mắt mình.
Suốt một tháng qua, kể từ khi Linh Lan biến mất, Văn Bình có cảm giác rằng anh làm gì cũng khó khăn. Ngay cả hơi thở cũng thấy khó khăn. Hàng ngày điểm mắt qua đội nữ binh như một thói quen, Văn Bình chợt nhận ra đôi mắt của anh không ngừng tìm kiếm hình bóng nhỏ nhắn của một người con gái, dù biết rằng không thể tìm thấy cô ấy ở đây. Mỗi ngày, lịch trình sinh hoạt của anh vẫn không thay đổi. Huấn luyện binh lính mới gia nhập, đôn đốc thợ rèn vũ khí, đi quan sát xưởng đóng thuyền cùng đội thủy quân, thế nhưng những công việc như thác lũ ấy chỉ chứng minh một điều rằng, anh muốn nhìn thấy người con gái ấy, muốn nghe cái tên của mình được thốt ra từ đôi môi ấy. Văn Bình. Trên thế gian này, chỉ có duy nhất người con gái ấy gọi anh là Văn Bình. Chỉ một mình cô ấy. Người con gái ấy không ở đây thì cũng không ai gọi anh là Văn Bình, chẳng ai có thể gọi anh là Văn Bình…
“Ngươi…”
“…không thể yêu…”
Văn Bình ngẩng phắt đầu dậy. Đôi mắt anh nhìn đăm đăm vào chiếc gương đồng treo trên tuờng. Thấp thoáng trong gương là bóng hình anh. Nó đang đứng yên, bất động. Những ngón tay chai sạn vì đao kiếm vịn chặt vào mép bàn. Từ trước tới nay, Văn Bình chưa bao giờ nhìn chính mình trong gương, ấy vậy mà hôm nay, vì tâm trí lang thang đâu đó, hoặc mải do bận tâm đến những lo lắng ngổn ngang trong lòng, Văn Bình đã đứng trước gương lúc nào không hay. Nhìn đăm đăm vào hình ảnh của mình phản chiếu trong gương, anh chợt cảm thấy trái tim đang đập nhè nhẹ trong lồng ngực. Một khuôn mặt phong sương, rắn rỏi. Mái tóc phủ trước trán tạo nên một mảng tối phủ xuống sóng mũi cao. Bất chợt, trái tim đang đập nhè nhẹ bỗng chuyển sang nhanh dần, nhanh dần, khi nhìn thấy trong đôi mắt tinh anh khẽ lướt qua một vệt tối. Nhạt nhòa. Nhạt nhòa…
Đột nhiên, vệt tối trong đôi mắt Văn Bình như một làn sương mỏng, từ từ che khuất sự tinh anh đó, tạo thành một vùng bóng tối thăm thẳm, hun hút, khiến người đối diện như rơi trong đôi mắt ấy mà không cách nào dừng lại được. Rồi một cách từ từ, bờ môi kiên nghị dần nhếch lên, vẽ thành một nụ cười nửa miệng mỉa mai và khiêu khích trong gương.
“Ngươi…”
“…không thể yêu…”
Văn Bình nhắm chặt mắt lại rồi đột ngột mở bừng ra. Vệt tối trong đôi mắt đã biến mất, chỉ còn gương mặt đang ngỡ ngàng, choáng váng vì những gì vừa mới diễn ra. Thôi không nhìn vào gương, hay nói đúng hơn là tránh nhìn hình ảnh của mình, Văn Bình ngửa lòng bàn tay ra. Anh nhìn thấy một vết hằn như cứa sâu vào lòng bàn tay, đỏ ửng, do đã vịn quá chặt vào mép bàn. Đăm đăm nhìn vết cứa đỏ ửng ấy, Văn Bình chợt giật mình khi nghe thấy tiếng động vang lên từ ngạch cửa. Một bóng người cao to vạm vỡ không biết từ khi nào đã đứng đó, trên tay là hai vò rượu đung đưa. Nhận ra bóng người đó là ai, Văn Bình chợt thở nhẹ. Anh quệt bàn tay vào lớp áo bạc, rồi kéo một chiếc ghế ra trong khi người ấy tiến vào phòng.
- Đã khuya rồi mà anh vẫn chưa đi ngủ sao?
- Cả ngày nay ta bận rộn bên xưởng thuyền nên bây giờ mỏi nhừ cả người, không ngủ được. Thấy bên phủ chú vẫn còn sáng đèn nên qua đây rủ chú làm vài chén chơi.
Bóng người vừa mới đến ấy không ai xa lạ, chính là Tiết chế Nguyễn Lữ, ông đặt hai vò rượu xuống bàn rồi ngả người lên ghế ra chiều mệt mỏi. Bẻ những khớp tay kêu rôm rốp, Nguyễn Lữ đưa mắt quan sát một vòng thư phòng của Văn Bình - trong khi anh đi lấy chén uống rượu. Tất cả mọi vật trong phòng đều sắp xếp rất gọn gàng, đơn giản, cho dù không có bàn tay của phụ nữ. Với lấy tấm bản đồ cuộn tròn, Nguyễn Lữ trải dài lên bàn, ông nhíu mày nhìn những vòng khoanh, rồi ngẩng lên hỏi Văn Bình khi anh đặt chén xuống bàn.
- Phía Gia Định vẫn chưa có tin tức gì sao?
- Vâng! Có lẽ Nguyễn Ánh rút kinh nghiệm từ những trận chiến trước nên lần này hắn ta đã suy tính kỹ càng và bí mật. Đã hơn mấy tháng rồi mà tin tức từ Gia Định đưa về vẫn chỉ thế, không nhiều hơn.
Một mùi thơm nhẹ nhàng lan tỏa trong không khí, khi Văn Bình mở nắp vò rượu. Anh ngừng lại một chút để ngửi cái mùi nồng nồng, say say ấy, rồi mới nghiêng vò rót vào hai chiếc chén. Từng vòi rượu tuôn ra ào ạt, sóng sánh là thế, nhưng tuyệt nhiên không tràn ra bàn một giọt nào trước đôi mắt hài lòng của Nguyễn Lữ. Đối với ông, một giọt rượu còn quý hơn vàng.
- Dạo này thím thế nào? Vẫn khỏe đấy chứ? Ta trông cái thai càng ngày càng lớn, có lẽ tháng sau là sinh được quý tử rồi.
- Vâng!
Đưa cho Nguyễn Lữ chén rượu đầy, Văn Bình đáp gọn rồi kề chén lên miệng uống. Tay cầm hờ chén rượu không uống vội, Nguyễn Lữ chậm rãi quan sát Văn Bình một lúc lâu rồi trầm giọng, ngay khi Văn Bình vừa đặt chiếc chén đã cạn xuống bàn.
- Dạo này ta thấy thần sắc chú rất khác thường. Chú có chuyện gì bận tâm sao?
Bóng dáng một người con gái thoáng qua trong tâm trí, Văn Bình ngẩng đầu lên nhìn Nguyễn Lữ. Anh một tay rót rượu, còn tay kia đặt hờ trên đầu gối, tuy mắt không nhìn nhưng tay vẫn ngưng lại khi chén rượu tràn đầy, lơi lả, rồi mỉm cười.
- Không! Chỉ vì em đang mải nghĩ tới Gia Định thôi. Đã mấy tháng trôi qua mà gián điệp của ta vẫn không thể thu thập thêm chút thông tin nào. Cứ thế này thì có lẽ chúng ta phải chủ động trước thôi.
- Chủ động trước? Chúng ta phải nắm vững tình hình cũng như số quân và cách phòng thủ bên Nguyễn Ánh, thì mới có thể bàn cách phòng bố và xuất quân được. Đằng này một tí thông tin cũng không có, chủ động là chủ động như thế nào?
Nhướng mắt lên khi nghe em mình đột ngột chuyển hướng, muốn chủ động chứ không phải đợi mọi việc chắc chắn rôi mới quyết, Nguyễn Lữ vô cùng ngạc nhiên. Biểu hiện cho cái ngạc nhiên đó, là giọt rượu trong chén ông rơi ra, bắn xuống sàn nhà. Rót cho mình thêm một chén rượu đầy, Văn Bình đưa lên môi nhưng không uống vội, anh trầm giọng khi đọc được sự ngạc nhiên trong mắt anh mình.
- Lần trước chúng ta đã đánh thủy quân, lần này cũng sẽ đánh bằng đường thủy thôi. Gia Định vốn là vùng sông nước, kênh rạch chằng chịt, Nguyễn Ánh lần này chắc chắn cũng sẽ xây đồn phòng thủ dọc bờ sông và sử dụng thủy quân. Chỉ có điều chúng ta vẫn chưa biết được hắn ta tập trung xây dựng phòng thủ ở khúc sông nào, nếu như có thể biết được…
Văn Bình chỉ nói đến đó rồi ngưng lại, trước sự chăm chú của Nguyễn Lữ. Biết em mình một khi lấp lửng chuỵên gì, thì tất nó đều đang tính toán trong đầu, Nguyễn Lữ không hỏi thêm gì nữa. Kề chén vào miệng vò để Văn Bình rót rượu, Nguyễn Lữ tuy trong bụng thắc mắc biểu hiện của Văn Bình suốt tháng qua rất lạ, thế nhưng ông cũng không tiện hỏi vì không muốn chen vào suy nghĩ của em mình. Nói đến thủy quân, dù không muốn thừa nhận, thế nhưng Nguyễn Lữ cũng biết thủy quân vốn không phải thế mạnh của Tây Sơn, trong khi đó thủy quân của quân Nguyễn lại không yếu, bên cạnh đó còn có sự giúp đỡ của các giáo sĩ phương tây. Đúng như Văn Bình nói, Gia Định là nơi kênh rạch chằng chịt, rất thuận tiện cho thủy quân của Nguyễn Ánh. Lần xuất quân vào Gia Định trước, chỉ với một chiếc thuyền tây dương bọc đồng của tên ngoại quốc nào đó, mà đã khiến quân Tây Sơn tổn hao lực lượng không ít. Lần này Nguyễn Ánh lại kín như bưng, nên không thể đoán chắc rằng thủy quân của hắn còn có chiếc thuyền nào như thế không. Hay nếu không chỉ một mà lại đến hai, ba chiếc thì e rằng Tây Sơn sẽ gặp khó khăn v à tổn thất nặng nề.
Nghĩ đến đó, Nguyễn Lữ ngửa cổ lên. Ông uống một hơi cạn sạch ruợu, rồi đưa ống tay áo quẹt những giọt rượu vương trên mặt, đoạn đưa mắt nhìn Văn Bình đang ngó mông lung ra trước hiên nhà.
- Nếu lần này ta lại sử dụng thủy quân, thì bây giờ chúng ta càng phải tăng cường huấn luyện cho binh sĩ, chú nghĩ sao nếu ta mời…
- Bằng lĩnh hầu?
Không cần Nguyễn Lữ phải nói hết câu, Văn Bình đã điềm nhiên tiếp lời. Vì vẻ mặt của anh không mang sắc thái nào, nên Nguyễn Lữ không thể biết được anh đang suy nghĩ gì. Mặc dù vậy, ông cũng dễ dàng nhận ra rằng em mình không hề có thiện cảm với Bằng lĩnh hầu Nguyễn Hữu Chỉnh. Có lẽ là do miệng mồm trơn như bôi mỡ, và cái tính khí lúc nào cũng tỏ ra học thức hơn người của hắn ta. Nếu gạt qua những tiểu tiết đó, không thể phủ nhận Nguyễn Hữu Chỉnh là người có tài. Khi hắn từ Bắc hà đem gia quyến lặn lội vào Nam đầu quân cho vua anh, lúc đó, vua anh đã vô cùng niềm nở và đối xử với hắn rất trọng hậu, âu cũng là biệt đãi nhân tài. Thêm nữa, không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Hữu Chỉnh có biệt danh con cắt nước. Nếu hắn huấn luyện đội thủy quân Tây Sơn có hiệu quả, thì có lẽ thủy quân của Nguyễn Ánh không phải là vấn đề phức tạp. Ai có lợi thì sử dụng, còn những chuyện liên quan đến tình cảm cá nhân thì gác sang một bên.
- Ta thấy Nguyễn Hữu Chỉnh vô cùng tự hào về thủy quân, trên hết, hắn ta cũng đã nhiều lần ngỏ ý với vua anh rằng muốn phát huy cái biệt tài ấy. Việc có lợi cho Tây Sơn, dù muốn hay không thì chúng ta cũng phải sử dụng hắn thôi.
Sau khi Nguyễn Lữ đã nói dứt lời, Văn Bình chỉ tiếp tục rót rượu cho ông mà không nói gì. Căn phòng chỉ còn nghe thấy tiếng rượu chảy ào ạt, và tiếng đặt chén côm cốp. Ánh sáng trong phòng leo lét, vàng vọt do ngọn nến sắp tàn. Khi đã say mềm, Nguyễn Lữ không còn đi nổi nữa, Văn Bình phải dìu ông vào trong phòng mình nằm nghỉ. Nhìn gương mặt chữ điền đỏ quạch như tôm luộc vì rượu, hơi thở ông đều đều khi chìm vào giấc ngủ say, Văn Bình nhẹ nhàng khép cửa lại rồi tiếp tục ngồi xuống, cạn chén một mình. Ánh trăng treo đầu ngọn trúc lung linh. Làn gió đêm ùa vào mát lạnh, thổi những sợi tóc của Văn Bình nhẹ bay. Văn Bình yên lặng ngồi đó, anh vẫn không ngừng rót rượu cho mình. Trong bóng tối, đôi mắt của anh sáng lấp lánh khi những mảnh ký ức xa xưa đột ngột ùa về.
Một dòng sông uốn quanh hiền hòa. Một bóng cây cao vút, nghiêng ngả. Hai bóng người đứng trên đồi cao nhìn xuống những cánh đồng xanh trải dài tít tắp, điểm xuyết những mái nhà tranh vàng óng sau lũy tre đầu làng.
“Nếu phải đi trở lại, anh em ta sẽ đi lại đường này chứ?”
“Dĩ nhiên! Anh sẽ là người mở đầu và em sẽ là người kết thúc”
Một vệt tối, đen thẫm lướt qua trong mắt Văn Bình
Mở đầu và kết thúc, hai chữ trái ngược đó luôn song hành với nhau…
★ Chương 59: Kế hoạch
“Tôi muốn đi theo anh”
Linh Lan hết đi đi lại lại trong phòng đến mòn cả sàn nhà, rồi nó lại ra ngoài cửa sổ đứng ngóng, trong bụng thầm trách mình hết lời do đã đề xuất một yêu cầu không còn gì có thể ngốc hơn. Lúc ở hiện tại, Linh Lan có học đôi chút về vị chúa Nguyễn cuối cùng này. Khi đó là thầy cô giảng dạy thì cứ một, hai kẻ bán nước thế này thế nọ, nhưng họ lại không hề dạy cho nó biết rằng vị chúa này lại là một người đáng sợ, kiêu ngạo nhất thế gian và vô cùng giỏi trong việc bắt bẻ lời nói của người khác. Số là hôm ấy, nó đã nói rằng “Tôi muốn đi theo anh”, và đinh ninh rằng Nguyễn Ánh sẽ giữ đúng lời hứa, cho nó đi theo sau khi nó đã cung cấp thông tin về Tây Sơn cho anh ta. Thế mà sau khi khai thác thông tin nơi nó đã đời, dù thông tin đó nó hoàn toàn bịa ra, chẳng có chút xác thực nào, Nguyễn Ánh đồng ý cho nó đi theo... bằng cách để nó ở chung phòng mình. Chỉ có thế và thế, không hơn gì trước sự giận dữ của Linh Lan.
Oán là thế, giận là thế, nhưng ác thay Linh Lan lại không thể bắt bẻ Nguyễn Ánh. Lại càng không thể nói anh là đồ sở khanh, lừa đảo, lật lọng, vì đối diện với gương mặt tím tái của nó, Nguyễn Ánh chỉ bình thản trả lời rằng “Cô nói muốn đi theo tôi, chứ không nói muốn ở bên cạnh tôi mọi lúc mọi nơi” làm nó chỉ còn biết tức uất lên mà không thể phản bác hay oán trách điều gì. Kết quả là giờ đây, Nguyễn Ánh thì đi hội họp tin tức quan trọng gì đó ở bên ngoài, còn nó thì thơ thẩn trong phòng đợi anh ta về, cùng với hai tên lính gác tướng tá cô hồn ngoài cửa, sướng chưa.
Bị Nguyễn Ánh hại đến mức nó muốn lên tăng-xông, thế nhưng điều duy nhất an ủi Linh Lan chính là những thông tin mà nó đã cung cấp cho anh, tất cả đều là bịa đặt, chả có chút xác thực nào. Điển hình như vụ gió mùa. Khi Nguyễn Ánh hỏi tại sao Tây Sơn luôn đánh vào Gia Định tầm tháng hai, tháng ba, đánh rất nhanh và rút cũng rất nhanh, Linh Lan đã đáp bừa rằng họ lợi dụng gió bấc để thuyền đi nhanh hơn, và sau đó rút nhanh khi nổi gió nam. Nó cứ nhắm mắt nói đại và thậm chí còn không biết gió nam gió bấc là gì. Chẳng biết những lời nó nói có đáng tin cậy không mà chỉ thấy Nguyễn Ánh nhíu mày lại trong phút chốc, rồi giãn ra. Hành động của Nguyễn Ánh khiến Linh Lan cũng không thể biết được hiện thời anh đang nghĩ gì trong đầu.
Chuyện Nguyễn Ánh thay đổi thế cờ, trong khi phần thắng đang nghiêng về nó, đã làm cho Linh Lan tức một, thế nhưng chuyện nó phải ở chung phòng với anh đã làm cho nó tức đến mười. Vốn tuởng rằng nếu mình có giá trị với Nguyễn Ánh thì chí ít anh cũng cho nó ở riêng một phòng, đằng này, Nguyễn Ánh lại bảo nó qua ở chung phòng với mình. Việc phải chung một phòng với anh khiến nó muốn tính toán hay suy nghĩ gì cũng không thể được, do ngày đêm phải vắt óc ra tìm cách đối phó mỗi khi anh nổi hứng ôm ẩu. Đến cả ngủ nó cũng phải dè chừng vì cả cái phòng chỉ có bàn ghế, kệ sách và một chiếc giường. Nơi chúa ở gì mà đơn giản đến không ngờ.
Trong khi Linh Lan đang vò đầu bứt tóc nghĩ kế cải thiện tình hình do đã nhiều ngày trôi qua mà nó chẳng sơ múi được tí thông tin nào, thì trong căn phòng phía tây, Nguyễn Ánh cùng với những thuộc tướng thân cận đang bàn việc quân sự. Trong căn phòng ấm áp, hàng chục người đang đứng quây quần quanh một chiếc bàn. Trên bàn là tấm bản đồ trải dài vẽ chi tiết những phòng bố quân sự mà Nguyễn quân đã chuẩn bị. Nguyễn Ánh đang đứng ở giữa. Trên tay anh là một chiếc que nhỏ, dài. Đôi mắt nâu trong suốt thi thoảng nheo lại khi nghe các thuộc tướng báo cáo công cuộc phòng thủ, tập luyện trong quân đội hằng ngày. Rà chiếc que nhỏ dọc bản đồ, Nguyễn Ánh nhớ lại những gì Linh Lan đã cung cấp. Hơn ai hết, anh thừa biết rằng những thông tin của cô gái này chưa chắc đã xác đáng, và anh cần phải cho người đi kiểm chứng ngay những thông tin này.
Nghe kết quả của binh sĩ báo lại, họ đã cho gọi một nhà thông thạo địa lý, phong thủy có kinh nghiệm nhất ở Gia Định, và đúng như lời cô gái ấy nói, cứ tầm tháng hai, tháng ba, là vào mùa gió bấc thổi rất mạnh. Quân Tây Sơn cứ thuận theo dòng, lợi dụng sức gió mà cho thuyền tiến lên, lướt như bay, tấn công thần tốc. Rồi đến khi gió mùa trong nam thổi ra, dòng nước thay đổi ngược chiều vô cùng bất lợi, nên quân Tây Sơn phải đánh nhanh thắng nhanh theo đà gió thổi để kịp trở về. Đó chính là quy luật gió mùa mà Linh Lan đã cung cấp cho anh. Biết được quy luật này, Nguyễn Ánh cảm thấy sức mạnh của Tây Sơn đã dần hé mở và không khó dự đoán lắm. Cún con, xem ra cô không phải vô dụng đối với tôi.
- Tình hình các đồn lũy thế nào?
Rà chiếc que nhỏ theo đuờng zích zắc, Nguyễn Ánh trầm giọng hỏi. Do không biết anh đang muốn hỏi ai nên các thuộc tướng đưa mắt nhìn nhau bối rối, vì sợ người này lên tiếng thì người kia cũng nói đồng thời, như thế sẽ phá tan không khí trật tự trong phòng. Cuối cùng, một người râu tóc xồm xoàm - tức Châu Văn Tiếp - nhanh chóng bẩm báo, vì bắt gặp nửa ánh mắt của Nguyễn Ánh đang nhìn lên.
- Bẩm chúa công, đồn Thảo Câu bên bờ nam và đồn Giác Ngư ở bờ bắc đã được xây dựng xong. Thủy quân huấn luyện lâu nay đã được phân công đồn cứ. Cầu tre nối hai đồn cũng sắp hoàn thành.
- Tình hình ở xưởng đóng tàu thì sao?
- Tiến triển rất thuận lợi. Các thợ thuyền làm việc ngày đêm để đóng mới và sửa chữa các chiến thuyền. Những thuyền vừa đóng xong đều được hạ thủy để thủy quân tập luyện. Chỉ có điều … lượng gỗ chúng ta mua lần trước không đủ sử dụng.
Vẫn nụ cười kiêu ngạo thường trực, nhưng nay pha thêm chút khó hiểu, Nguyễn Ánh chuyển sang câu khác, trong đầu bắt đầu nhẩm nhanh bài toán khó về số lượng gỗ. Cần phải mua bao nhiêu để vừa đủ, không thiếu cũng không dư, đỡ phát sinh những chuyện rầy rà sau này.
- Còn tuyển binh?
- Vẫn đang tuyển lựa, phân vào các đạo khác nhau vào đào tạo nghiêm ngặt. Ngoài ra, theo lời chúa công dặn dò, thần cũng đã tuyển lựa những quân sĩ khỏe mạnh để làm quen với súng ở trường bắn, sử dụng pháo.
Với chất giọng đều đều, Châu Văn Tiếp bẩm báo lại những gì đã diễn ra trong quân đội. Vừa bẩm ông vừa quan sát sắc mặt của Nguyễn Ánh, nhưng lại chịu thua khi chẳng dò ra được vị chúa này đang nghĩ gì. Sau khi đã nghe Châu Văn Tiếp bẩm báo hoàn tất, Nguyễn Ánh mới ngẩng đầu lên, đôi mắt nâu trong suốt lấp lánh những tia sáng khác thường. Chiếc que tre trên tay di chuyển dọc theo những đường ngoằn uốn éo trên bản đồ, đoạn trầm giọng.
- Được rồi, các ngươi nghe đây. Lưu thủ Thăng, tiên phong Túy, hai ngươi sẽ giữ đồn tiền trạm ở đầu cửa biển Cần Giờ. Nên nhớ, khi quân Tây Sơn tiến vào, phải vừa đánh vừa lui, bảo toàn lực lượng và dụ chúng tiến sâu, nhanh vào trận địa phía sau. Dương tướng quân, ngươi đem quân đồn cứ ở đồn Thảo Câu, còn Mân, cậu giữ đồn Giác Ngư. Châu tướng quân, ngươi mang một trăm chiến thuyền trang bị đầy đủ pháo để tiếp ứng cho hai đồn. Giám quân Tô, bè nứa ta căn dặn chuẩn bị thế nào?
Nghe Nguyễn Ánh hỏi, giám quân Tô vội vàng vòng tay thưa.
- Bẩm chúa công, vẫn đang chuẩn bị. Chỉ chờ chuyến gỗ tiếp theo về là sẽ hoàn tất đủ số lượng người đã yêu cầu.
- Tốt! Ngươi lập tức mang quân bố trí những bè nứa này dày đặc ở hai bên sông. Đồng thời cho đóng cọc xuống lòng sông phía trước hai đồn Thảo Câu và Giác Ngư. Đợi bọn lông đỏ vào bẫy, ta sẽ dùng một mồi lửa thiêu trụi chúng.
Vừa nói, Nguyễn Ánh vừa nở nụ cười bí ẩn trước ánh mắt khó hiểu của các thuộc tướng. Gấp tấm bản đồ lại, Nguyễn Ánh bước sang chiếc bàn dài, có để sẵn một mô hình gồm các thuyền chiến nhỏ, bên trong có hẳn núi non và các mạch nước chẳn chịt, tượng trưng cho sông ngòi. Bày những chiến thuyền mô hình thành hai bên, một bên tượng trưng cho quân Nguyễn, bên còn lại cho Tây Sơn, Nguyễn Ánh với tay lấy đĩa đèn dầu trên bàn. Anh ghé ngọn lửa vào những mô hình bè nứa, xong di chuyển tới cuối phần mô hình, dùng cuốn sách cũ kỹ quạt một cái. Như bị tác động bởi một sức mạnh vô hình, các bè nứa bén lửa, lao vùn vụt về phía chiến thuyền Tây Sơn và bốc cháy ngùn ngụt, trước những đôi mắt tròn xoe của mọi người, vì không ngờ chỉ với một ngọn gió và chiếc bè nứa đã có thể thiêu rụi phe địch ra tro.
- Chúng ta sẽ dùng hỏa công. Trong đó, đồn tiền trạm sẽ là mồi nhử. Khi chúng tiến đánh, các ngươi đừng lơi lỏng cũng đừng chống cự mãnh liệt. Đợi thời gian thích hợp cho gió bấc thổi lên, khi ấy các ngươi hãy tháo chạy. Vốn quen mùi chiến thắng, bọn lông đỏ sẽ đuổi theo vào trận địa mà không nghi ngờ gì. Quân ta dùng thuyền nhỏ, nhẹ, vừa đánh vừa lui, trong khi thuyền địch to, nặng. Đóng cọc ở lòng sông sẽ khiến chúng gặp khó khăn trong di chuyển. Một chiếc mắc cạn sẽ khiến cho cả đội thuyền bị ứ đặc lại trên sông. Chính lúc này, ta sẽ sử dụng bè nứa hỏa công từ hai bên bờ và trước mặt bao vây lấy chúng, thiêu trụi. Kết hợp thủy quân trang bị kỹ càng, dàn sẵn ở hai đồn Thảo Câu, Giác Ngư cùng đội quân của Châu tướng quân bọc hậu phía sau. Ta xem lần này bọn lông đỏ sẽ làm thế nào.
Trước những khuôn mặt tươi rạng của thuộc tướng vì kế sách chu toàn của chúa công, Nguyễn Ánh chỉ mỉm cười. Anh dập tắt những chiến thuỳên mô hình cháy rừng rực, rồi lại trải dài tấm bản đồ ra một lần nữa, phổ biến lại kế hoạch cũng như phân công việc cho đám thuộc hạ, để kế hoạch của anh được thuận buồm xuôi gió. Thuận buồm xuôi gió, có lẽ câu đó đã quá thừa đối với Nguyễn Ánh bởi bất cứ làm việc gì, anh cũng đã chuẩn bị cho mình mọi con đường có thể. Nếu thắng thì theo đà mà tiến, còn nếu không thành công thì cứ rút lui, đợi thời cơ tiếp theo, chẳng việc gì phải hấp tấp vội vàng. Hơn ai hết, Nguyễn Ánh biết rằng, đến cuối cùng người làm chủ cả ván cờ này vẫn sẽ là anh.
Cuộc họp đã kết thúc, mọi người vòng tay khấu chào Nguyễn Ánh rồi lần lượt ra khỏi phòng, guơng mặt ai nấy đều ngời ngời sắc xuân vì tin tưởng vào kế hoạch của chúa công mình. Đợi mọi người đã ra hết, Nguyễn Ánh quét mắt nhìn đám tro tàn của chiến thuyền mô hình một lần nữa, rồi mới quay sang Lê Văn Duyệt, vẫn đứng bên cạnh chờ lệnh. Anh cất tiếng khi ngồi xuống chiếc ghế tựa phía sau bàn chất đầy giấy tờ, chân gác thành chữ ngũ và hai bàn tay đan lồng vào nhau.
- Chuyện ta giao cho ngươi, đã chuẩn bị tới đâu rồi?
- Bẩm chúa công, thần đã vạch sẵn kế hoạch và bố trí, chỉ chờ người duyệt qua thì sẽ cho thi hành ngay.
Lê Văn Duyệt vừa nói vừa kính cẩn lôi ra một tấm sơ đồ nhỏ viết trên da thuộc đặt lên bàn. Cầm lấy mảnh sơ đồ, đôi mắt nâu trong suốt của Nguyễn Ánh in bóng những con chữ, những đường vẽ ngoằn nghèo, rồi tất cả chợt biến mất khi anh nhắm mắt, và mỉm cười mơ hồ.
- Được! Ngươi lui đi. Ta sẽ xem xét và cho gọi sau.
- Vâng.
Mấp máy miệng tính nói thêm điều gì đó với Nguyễn Ánh, nhưng đến phút cuối Lê Văn Duyệt lại thôi. Anh ngập ngừng giây lát rồi lặng lẽ bước ra khỏi phòng. Đợi Duyệt ra khỏi phòng và khép cửa lại, Nguyễn Ánh với tay lấy mảnh sơ đồ trên bàn và bắt đầu xem lại kế hoạch triển khai của mình. Thoáng nhớ đến gương mặt tự tin của Linh Lan khi khẳng định rằng quân Tây Sơn sẽ thắng, một nụ cười kiêu ngạo lại lướt qua bờ môi của Nguyễn Ánh. Nếu mọi chuyện không có gì thay đổi, thì ván cờ này anh sẽ đi bước đầu tiên và chiếm thế thượng phong. Lợi dụng sức gió như Tây Sơn đã làm để chống lại bọn chúng, đó gọi là kế “gậy ông đập lưng ông”.
Trời bắt đầu đứng bóng. Những cơn gió xuân dịu dàng thổi qua làm tan đi cái nóng ban trưa. Biết giờ này con cún nhỏ đó chắc chắn đang lay hoay trong phòng, Nguyễn Ánh thong thả đứng lên, ra khỏi phòng họp và khép cửa lại. Vừa mới bước xuống bậc tam cấp, Nguyễn Ánh bắt gặp Bá Đa Lộc đang đứng cạnh một tàn cây râm mát. Khuôn mặt tròn căng lộ rõ vẻ nôn nóng, chốc chốc lại lần theo những hột ngọc xanh biếc trên chuỗi tràng hạt, rồi ngẩng phắt đầu lên khi nghe tiếng bước chân nhẹ nhàng của Nguyễn Ánh tiến lại gần.
- Chúa công, mọi chuyện thuận lợi cả chứ?
Nhìn khuôn mặt nôn nóng của viên giáo sĩ phương Tây, Nguyễn Ánh mỉm cười bình thản.
- Rất thuận lợi.
- Chúa công, người cho gọi tôi có việc gì?
Như chỉ chờ có thế, Bá Đa Lộc vội vàng cất tiếng hỏi. Nội việc không được tham dự vào cuộc họp mà chỉ đứng ngoài này chờ đợi cũng đã khiến ông vô cùng nôn nóng. Nhớ lại lần đầu tiên đặt chân đến xứ sở nghèo nàn, nóng bức này, trong đầu ông chỉ có ý niệm truyền bá đạo giáo khắp nơi. Thế nên, ông quyết định theo giúp đỡ quân Nguyễn, để đổi lại, ông sẽ được tự do truyền giáo mà không gặp bất cứ sự ngăn cản hay cấm đoán nào. Nhưng kể từ khi theo chân vị chúa trẻ, tham dự vào các trận đánh, đôi khi là người cố vấn chính trị, dần dần Bá Đa Lộc đã dấn sâu vào và quên mất mục đích chính của mình khi đến đây. Thế nên việc Bá Đa Lộc phải đứng ngoài cuộc họp đầy đủ thuộc tướng cấp cao của Nguyễn Ánh, đã làm ông cảm thấy vị chúa này như ngầm vạch ra một giới hạn riêng cho ông. Điều đó chứng tỏ ý định thân cận với vị chúa ấy để khuyến khích ông ta nhờ Phú - lăng - sa giúp đỡ đã gặp trở ngại. Vậy nên, hơn lúc nào hế,t Bá Đa Lộc thấy mình cần phải làm nhiều thứ hơn để chiếm lấy lòng tin của vị quân vương này.
Không biết Nguyễn Ánh có hiểu được suy nghĩ của Bá Đa Lộc hay không, mà chỉ thấy khuôn mặt anh không mang chút sắc thái biểu cảm nào. Không quá thân cận cũng không quá xa vời, Nguyễn Ánh cứ lửng lơ như thế khiến Bá Đa Lộc đôi khi cũng rối trí. Chẳng hạn như bây giờ, không để Bá Đa Lộc tham dự vào cuộc họp nhưng lại có chuyện quan trọng giao phó, sự khó hiểu đó khiến Bá Đa Lộc cũng không biết rốt cuộc trong lòng vị chúa tể này, ông thật sự đã có được lòng tin của người hay chưa.
- Tôi muốn ông về Hà Tiên, chuẩn bị tàu bè và lượng thực sẵn sàng để khi cần thiết, chúng ta sẽ ra hải đảo ở vịnh Xiêm La.
Nghe chuyện quan trọng mà chúa Nguyễn cần gia phó, Bá Đa Lộc ngạc nhiên nhìn Nguyễn Ánh. Thế nhưng, đáp lại ông vẫn chỉ là một nụ cười mơ hồ hiển hiện trên gương mặt không mang sắc thái rõ ràng nào, làm Bá Đa Lộc cũng có cảm giác rằng mình như đang đi giữa sương mù.
- Nhưng chúa công, người đã bảo là mọi chuyện thuận lợi kia mà. Vả lại, tại sao phải ra hải đảo ở vịnh Xiêm La trong khi chúng ta có thể sang Chân Lạp. Đường đi gần hơn và dễ dàng hơn.
- Thuận lợi không có nghĩa là chắc chắc. Dự đoán trước mọi khả năng có thể xảy ra sẽ giúp tôi chủ động trong hành động kế tiếp của mình. Còn Chân Lạp, ông cũng biết xứ sở đó đã bị chiến tranh và đói kém tàn phá, không thích hợp để đồn trú và gây dựng lại quân đội. Chúng ta cần một chỗ xa hơn, chắc chắn hơn và an toàn hơn.
Mấp máy môi tính nói gì đó, thế nhưng khi chạm phải ánh mắt của Nguyễn Ánh, Bá Đa Lộc đành im lặng.
- Tôi biết rồi chúa công, khi nào tôi sẽ lên đường?
- Đầu tháng ba, ông hãy chuẩn bị đi.
- Tôi hiểu.
Tiếp tục bước đi trên hành lang dài, bên cạnh là Bá Đa Lộc, Nguyễn Ánh yên lặng nhìn ra hành lang rợp bóng nắng. Đến một ngã rẽ, anh tính rẽ về phía hành lang tay phải để về phòng thì Bá Đa Lộc bất chợt lên tiếng, với vẻ mặt vô cùng bí hiểm, làm Nguyễn Ánh nhướng mắt lên vì đoán ra ngay vị giáo sĩ này chắc chắn lại có một món đồ thú vị nào đó, ngoài chiếc ống nhòm mà ông ta đã tặng cho anh năm rồi.
- À, chúa công, tôi vừa tìm mua được một thứ rất hay từ các lái buông phương
tây. Tôi sẽ thử cho ngài xem.
Trong khi Bá Đa Lộc đưa Nguyễn Ánh đến xem thứ ông ta vừa mới mua được, thì y như rằng, Linh Lan đang ở trong phòng Nguyễn Ánh vô cùng chồn chân. Nó hết đi ra rồi đi vào, đi đến chán chê rồi lại nằm khòeo ra giường, mắt nhìn lên tấm rèm trắng lay động, lòng như lửa đốt vì không biết Nguyễn Ánh hội họp với các tướng đã bàn những gì, kế hoạch cụ thể ra sao, phương án thực hiện thế nào. Dừng mắt lại giá sách dựng sát vách tường, Linh Lan bỗng nhiên ngồi bật dậy. Nó ngó đăm đăm cái kệ sách vì phát hiện ra một cái hộp gỗ, chạm trổ cầu kỳ với hoa văn tinh xảo vô cùng bắt mắt, nằm lọt thỏm giữa những chống sách nặng và dày.
Quên phắt sự cảnh cáo của Nguyễn Ánh, rằng không được xáo trộn bất cứ vật gì trong phòng, mà có nhớ nó cũng gạt phắt qua một bên, Linh Lan tò mò lại gần kệ sách. Nó chạm tay vào cái hộp tinh xảo, mân mê những thớ vân gỗ mát lạnh, rồi kiễng chân lấy chiếc hộp xuống ngắm nghía sau khi thổi một lớp bụi bám phía trên.
Thấy chiếc hộp không khóa, Linh lan không ngạc nhiên chút nào vì sự bất cẩn đó, bởi phòng của Nguyễn Ánh tuyệt không ai dám bén mảng ngoại trừ kẻ đang bị giam giữ là nó. Nhớ lại lời cảnh báo của Nguyễn Ánh, Linh Lan hừ nhạt một tiếng. Nếu anh ta nghĩ nó sẽ ngoan ngoãn nghe lời thì hẳn đã lầm to. Nhẹ nhàng mở nắp hộp, đôi mắt đen láy của Linh Lan xoe tròn, khi nằm chễm chệ trong chiếc hộp là một cái ống nhòm cổ xưa, được bọc lại cẩn thận bằng tấm lụa nhung đỏ. Thật không ngờ về đến thời quá khứ Linh Lan lại được chạm tay vào một cái ống nhòm, trong khi ở hiện đại nó còn chưa bao giờ đụng vào, ngoại trừ kính lúp hay kính hiển vi. Với nét mặt thích thú, Linh Lan mân mê chiếc ống nhòm trên tay và ghé mắt vào nhìn, tay không ngừng chỉnh sửa để có thể trông rõ những gì đang ở xa.
Mang chiếc ống nhòm ra đứng cạnh cửa sổ, Linh Lan hớn hở quan sát khắp nơi. Cái ống nhòm này có thể nhìn ra mọi hướng ở những nơi cao nhất và xa nhất. Giờ đây, trong căn phòng chật hẹp, nó đã có thể nhìn thấy chú chim đang đậu trên một tàn cây xanh mát, nhìn thấy một chiếc lá vàng đang rung rinh chuyển động theo ngọn gió vờn quanh, nhìn thấy những viên sỏi lăn tròn trong sân. Đang thích thú với trò chơi mới, Linh Lan chợt ngừng lại khi vòng tròn di động của chiếc ống nhòm thu được hai bóng dáng đang thấp thoáng trong vườn hoa. Một người là Bá Đa Lộc, viên giáo sĩ nó đã gặp đôi ba lần, và người còn lại tất nhiên là kẻ đáng ghét nhất trần đời, Nguyễn Ánh. Biết ở khoảng cách xa như thế, Nguyễn Ánh chắc chắn không thấy mình, Linh Lan an tâm theo dõi vì cho rằng, Bá Đa Lộc đưa anh đến nơi khuất người thế này chắc chắn có điều gì không được bình thường.
Tự nhủ với mình như thế, Linh Lan dõi ống nhòm theo nhất cử nhất động của Nguyễn Ánh và Bá Đa Lộc. Nó thấy Bá Đa Lộc hăng say thuyết giáo điều gì đó, rồi lôi từ trong tấm áo thụng màu xanh rêu của ông ta ra một vật nho nhỏ, tròn tròn. Trước đôi mắt ngạc nhiên của Linh Lan, Bá Đa Lộc quăng cái vật nho nhỏ, tròn tròn ấy xuống đất, rồi sau đó một cụm khói trắng đục, từ từ lan toả, dày đặc và che khuất bóng dáng hai người. Cảnh tượng đó làm Linh Lan há hốc miệng ra, vì không ngờ cái ông Bá Đa Lộc ngày thường mặt luôn vênh váo đó, lại có những món đồ chơi thần kỳ, hữu hiệu đến như thế. Nếu nó mà chôm đươc hai hay ba trái bom khói - Linh Lan tự đặt tên cho cái vật tròn tròn ấy - dùng để quăng vào Nguyễn Ánh lúc nó chạy trốn, thì có chúa giúp anh ta cũng không tìm thấy nó ở đâu trong đám khói vừa đục, vừa dày không thấy đường đi như thế kia.
Càng nghĩ Linh Lan càng thích thú, nó tiếp tục quan sát xem sau cái món bom khói ấy, Bá Đa Lộc còn có những trò chơi gì khác không. Lúc này, khói đã tan hết, nhưng vẫn còn những sợi khói trắng lờn vờn trong vườn hoa, hệt như sương mù ở lưng chừng núi Lang biang. Nguyễn Ánh vẫn đứng yên đó, khuôn mặt thanh tú điểm một nụ cười kiêu ngạo mà Linh Lan ghét nhất trần đời. Nó đang nôn nóng nhìn xem Bá Đa Lộc có còn móc từ trong áo ra món gì nữa hay không, thì bất chợt, Nguyễn Ánh đột nhiên ngẩng đầu lên, nhìn thẳng về hướng Linh Lan. Đôi mắt nâu trong suốt lấp lánh kỳ lạ, giống như anh đã phát hiện ra việc có một con chim se sẻ đang rình mò cả hai người từ nãy đến giờ, làm Linh Lan giật bắn mình và vội vàng hạ ống nhòm xuống. Kết quả là luýnh quýnh thế nào, chiếc ống nhòm quý giá nhoài người qua những ngón tay của nó và rơi tuột xuống sàn nhà, vỡ tan.
Xanh mặt vì không ngờ mọi chuyện lại xảy ra như thế, Linh Lan vội vàng ngồi xuống. Nó nhanh tay gom góp những mảnh kiếng bị vỡ, cho vào chiếc túi nhỏ luôn đeo bên cạnh, còn “xác” của cái ống nhòm xấu số thì gói vào chiếc khăn như cũ, đoạn bỏ vào hộp, lòng thầm khấn sao cho Nguyễn Ánh không để ý đến, vì chiếc hộp tuy đẹp nhưng đã phủ một lớp bụi dày. Có lẽ đã lâu rồi anh không động đến nó. Vừa mới trả chiếc hộp về đúng vị trí cũ, Linh Lan giật bắn mình khi nghe tiếng bước chân mỗi lúc một gần vang lên. Nó vội vàng chạy lại bên cạnh giường và ngồi xuống, cố làm ra vẻ thản nhiên như chẳng có chuyện gì xảy ra, dù trong lòng hồi hộp vô cùng. Nguyễn Ánh là một người khó dò. Anh đã cảnh cáo nó không được động đến đồ đạc trong phòng, thế mà đùng một cái, nó lại làm hư vật quý giá nhất của anh như một lời thách thức. Sau vụ khều nút áo và tặng cho nó mấy vết thẹo xinh trên người, thật sự nếu phát hiện ra chiếc ống nhòm đã bị vỡ, Linh Lan không thể biết được anh sẽ trừng phạt mình như thế nào. Càng nghĩ, Linh Lan càng thấy rối trí. Lỡ như Nguyễn Ánh trong một phút nổi giận mà đem chém đầu nó, thì kế hoạch làm gián điệp cho quân Tây Sơn coi như tiêu tùng, còn nó thì đi đời nhà ma khi tuổi còn xuân xanh.
- Một con cún con hoạt động tích cực như cô mà chịu ngồi yên một chỗ, quả thật rất khác thường.
Không biết Linh Lan đã để lộ sự lo lắng ra mặt, hay Nguyễn Ánh đi guốc trong bụng nó, mà anh bất chợt lên tiếng ngay khi trông thấy Linh Lan ngồi ngoan ngoãn trên giường, chứ không chạy lăn quăn trong phòng như mọi ngày. Cố làm ra vẻ tự nhiên nhất, Linh Lan ngăn mắt mình không liếc về chiếc hộp tội nghiệp, nó nhìn thẳng vào mắt Nguyễn Ánh như thường ngày, và nhấn mạnh từng lời.
- Hoạt động nhiều nên đương nhiên mệt thôi. Đợi khi nào tôi hết mệt, tôi sẽ hoạt động tiếp, anh yên tâm.
- Vậy sao? Nhìn ngắm chán chê nên mới mệt phải không?
Những lời của Nguyễn Ánh tuy nhẹ nhưng đối với Linh Lan chẳng khác nào như búa nặng ngàn cân. Nó trố mắt lên nhìn Nguyễn Ánh đi về phía kệ sách mà tim đập lô tô trong lồng ngực. Tại sao? Rõ ràng khi ấy Nguyễn Ánh đang ở rất xa, xa đến nỗi nó phải lấy ống nhòm mới có thể nhìn thấy rõ cơ mà. Lúc Nguyễn Ánh đột ngột nhìn về phía nó, Linh Lan chỉ cho đó là phút vô tình anh ngẩng đầu lên nhìn gì đó, chứ không hề nghĩ anh sẽ biết tỏng hết mọi hành động của nó, ngay cả khi ở một khoảng cách rất xa như thế. Nhìn Nguyễn Ánh rà mắt lên những cuốn sách nằm ngay ngắn trên kệ, Linh Lan liếm môi một cái. Nó mong sao Nguyễn Ánh không dừng mắt lại nơi chiếc hộp, không thấy điều gì khác lạ và không mang nó xuống xem chừng. Nhưng có vẻ như Chúa đã không nghe thấy lời khẩn cầu của Linh Lan do đang bận ghé mắt sang nơi khác, thế nên Nguyễn Ánh đứng quan sát chiếc kệ sách một hồi, rồi từ tốn lấy chiếc hộp trên kệ xuống, trong sự lo lắng, dè chừng của Linh Lan.
“Đừng mở ra! Đừng mở ra! Đừng mở ra mà”
Mặc cho lời năn nỉ thầm của nó, đôi mắt nâu trong suốt của Nguyễn Ánh nheo lại. Những ngón tay của anh rà lên nắp hộp. Ngay sau đó chiếc hộp bật mở, phơi bày chiếc ống nhòm vỡ tan hoang trước đôi mắt tối sầm lại của anh. Đặt chiếc hộp xuống bàn, Nguyễn Ánh nhìn về Linh Lan đang ngồi khép nép trên giường như kẻ có tội. Lần đầu tiên trong đời, một đứa quen thói bắt nạt người khác, chẳng sợ gì như Linh Lan lại cảm thấy lo sợ đến thế. Chẳng thà Nguyễn Ánh làm mặt giận, chẳng thà anh la hét, quát tháo, nạt nộ, nó còn thấy dễ đối phó hơn. Nhưng đằng này anh chẳng nói chẳng rằng, nét mặt cũng chẳng biểu lộ cảm xúc, đôi mắt nâu trong suốt nhìn nó, miệng điểm một nụ cười bình thản cố hữu, những ngón tay dài gõ gõ lên chiếc hộp. Chỉ có thế thôi, không gì khác mà Linh Lan lại cảm thấy ngộp thở vô cùng
Nó sợ. Phải. Nó đang rất sợ.
- Tôi… tôi xin lỗi…
Đối với Linh Lan, ba từ “tôi xin lỗi” được thốt ra quả thật rất khó khăn với nó, ấy thế mà Nguyễn Ánh dường như không động lòng trước vẻ mặt khổ sở của nó. Anh chỉ nhìn nó mỉm cười, cứ như đó là chuyện đương nhiên.
- Thì… là lỗi của tôi… Tôi sẽ đền bù cho anh mà…
- Lại đây.
Đang ngập ngừng khi không biết phải đền cho Nguyễn Ánh cái gì có thể thay thế cho chiếc ống nhòm đó, Linh Lan cắn môi khi Nguyễn Ánh lên tiếng. Giọng anh nhẹ như gió thoảng, nhưng sao Linh Lan có cảm giác rằng nó đang nghe thấy tiếng gọi của tử thần. Ngần ngừ khi không biết có nên lại gần Nguyễn Ánh hay không, do không biết anh sẽ làm gì với nó, Linh Lan cứ ngồi lì ở giường mà không chịu đứng lên, cho dù biết làm thế chỉ đổ thêm dầu vào lửa trong tình hình ngàn cân treo sợi tóc thế này. Thấy nó đổ bướng, không chịu đứng lên, Nguyễn Ánh bình thản gấp nắp hộp lại rồi tiến về phía nó, trong khi Linh Lan vội vàng lùi sát vào mép giường.
“Chúa ơi! Xin người phù hộ con”
★ Chương 60: Đền bù [Part 1]
- Chúa công! Bá Đa Lộc có việc xin cầu kiến.
Đang ngồi co cụm sát đầu giường, bụng lo lắng phập phồng không biết lần này Nguyễn Ánh sẽ dùng phương pháp “tàn bạo” nào để xử tội mình, Linh Lan mừng như bắt được vàng khi một tên lính canh gõ cửa bẩm báo. Không đợi Nguyễn Ánh phản ứng, Linh Lan vội vàng bật dậy, chạy ra mở toang cửa đón Bá Đa Lộc. Bắt gặp khuôn mặt hớn hở của nó, Bá Đa Lộc vô cùng ngạc nhiên. Ông đưa mắt nhìn Nguyễn Ánh đang ngồi trên giường, rồi mới nhè nhẹ bước vào khi nhận được cái gật đầu của anh.
Tò mò không biết Bá Đa Lộc vào đây có chuyện gì, sau khi đã khoe Nguyễn Ánh trái bom khói, Linh Lan ngồi xuống ghế, cách xa Nguyễn Ánh cả thước, do lo sợ bị anh tóm cổ lại thì tiêu đời. Liếc nhìn Linh Lan, Bá Đa Lộc phân vân không biết có nên nói ra những gì ông muốn nói hay không. Đến khi nhận được cái khoát tay ra hiệu của Nguyễn Ánh - nhưng mắt thì nheo lại nhìn Linh Lan làm nó chột dạ - Bá Đa Lộc ho khục khặc vài tiếng rồi mới cất lời.
- Chúa công! Khi nãy còn một chuyện tôi quên nói với ngài. Chẳng là sáng nay, lúc đứng trên vọng lâu, tôi đã dùng chiếc ống nhòm của mình để quan sát thủy quân luyện tập. Tôi không biết lực lượng thủy quân Tây Sơn thế nào, nhưng căn cứ vào tình hình của thủy quân nhà Nguyễn, tôi thấy vẫn còn rất nhiều bất tiện. Chẳng hạn như lần trước, Tây Sơn tiến quân vào, chiến thuyền của họ chất rất nhiều đại pháo, có thể đánh chìm cả một hạm đội. Lực lượng thủy quân tinh nhụê thôi vẫn chưa đủ, cái không kém phần quan trọng đó là thuyền chiến. Ngài hãy nhớ lại năm trước, chỉ một chiến thuyền Tây dương của Mãn Noài cũng đã khiến quân Tây Sơn thương vong rất nhiều. Nay nếu thủy quân của ngài có thể sở hữu những chiến thuyền tương tự như của Mãn Noài, lại thêm Gia Định là vùng sông nước, thì quân Tây Sơn tất không còn là mối đe dọa cho chúng ta.
Bá Đa Lộc nói xong, để lại căn phòng lắng đọng trong im lặng, chỉ còn nghe thấy hơi thở nhè nhẹ của ông khi chờ Nguyễn Ánh lên tiếng. Vịn tay vào mép bàn, Linh Lan hơi chồm người về phía trước. Những gì Bá Đa Lộc vừa mới bẩm báo có thể đối với Nguyễn Ánh không là gì, nhưng đối với nó thì thông tin này cực kỳ quan trọng. Không cần biết ông Mãn Noài mãng cầu gì đó là cha căng chú kiết nào, nhưng cái thuyền của ông ta mà làm cho đội quân tinh nhuệ của Tây Sơn hao tổn vô số thì quả thật rất đáng lo. Nếu Nguyễn Ánh có được những chiến thuyền như thế, chắc chắn quân Tây Sơn ít nhiều gì sẽ gặp khó khăn. Âm thầm ghi nhớ thông tin Bá Đa Lộc vừa cung cấp, để mai mốt trở về sẽ nói lại cho Văn Bình, Linh Lan chợt chống tay lên cằm, tư lự, tự hỏi không biết giờ này anh đang làm gì. Chắc cũng đang bận túi bụi, huấn luyện binh lính tập trận? Khảo sát các xưởng đóng tàu? Chuẩn bị vô số những chuyện khác cho công cuộc tiến quân vào Gia Định chăng?
- Những gì ông vừa nói, tôi sẽ suy nghĩ. Có điều không phải bây giờ. Ông chỉ cần làm tốt việc tôi giao cho ông là được
Sau khi đã làm phép tính nhanh trong đầu, Nguyễn Ánh từ tốn đáp lại lời Bá Đa Lộc. Anh đọc được trong ánh mắt xanh xám của ông là sự thất vọng nhỏ bé, nhưng lại làm như không để ý đến điều đó. Biết mình không còn phận sự gì ở đây, Bá Đa Lộc chậm chạp đứng lên. Nhìn theo bóng dáng to béo của người đàn ông ngoại quốc, đôi mắt Nguyễn Ánh lấp lánh, tựa như vừa khám phá một bí mật nho nhỏ nào đó mà không muốn công khai. Vu vơ ngó những bước chân nặng nề của vị giáo sĩ, Linh Lan chợt nhớ tới những gì Bá Đa Lộc vừa nói. Ông ta bảo “coi đội thủy quân luyện tập trên vọng lâu bằng ống nhòm”, thế nghĩa là ngoài chiếc ống nhòm đã vỡ của Nguyễn Ánh ra, Bá Đa Lộc còn có một cái. Ơrêka! Linh lan reo thầm trong bụng. Mặt nó tươi hơn hớn và bật người lên như một tên lửa. Dù không chắc với cái vật quý giá đó, Bá Đa Lộc có chịu nhường cho nó hay không, nhưng không thử làm sao biết. Vả lại nó sợ Nguyễn Ánh trị tội lắm rồi.
- Bá Đa Lộc, Bá Đa Lộc.
Linh Lan rối rít gọi tên Bá Đa Lộc lúc ông dợm chân bước ra khỏi ngạch cửa. Bá Đa Lộc quay lại, khuôn mặt tròn lộ vẻ ngạc nhiên vì không hiểu Linh Lan gọi ông để làm gì. Nở nụ cười tươi tắn, Linh Lan không vòng vo tam quốc mà nói ngay vào đề.
- Ban nãy ông nói có cái ống nhòm phải không? Ông có thể nhượng lại cho tôi được không?
Trố mắt lên nhìn Linh Lan, Bá Đa Lộc săm soi từ đầu đến chân nó, bụng thắc mắc không hiểu cô gái này có vai trò gì trong quân Nguyễn, mà lại được chúa công ưu ái cho ở chung một phòng. Hơn nữa, lại còn ngang nhiên yêu cầu ông nhượng lại chiếc ống nhòm quý giá cho mình. Đó là một điều không thể tưởng. Chiếc ống nhòm đó trước đây ông có hai cái, một cho mình và một tặng cho chúa Nguyễn. Cô gái này quyền hành không có, địa vị cũng không, vậy cớ sao ông phải nhượng lại cô ta chiếc ống nhòm?
- Nhượng lại cho cô thì ta được lợi lộc gì?
- Lợi lộc gì thì tôi chưa biết. Nhưng nếu ông nhượng lại cho tôi chiếc ống nhòm đó, tôi sẽ chứng minh cho ông ba phát hiện rất là “vĩ đại” trong lịch sử loài người, mà có thể ông chưa từng biết bao giờ.
- Cái gì?
Đôi lông mày thưa thớt của Bá Đa Lộc dính hẳn vào nhau khi nghe những ngôn từ lạ lẫm từ miệng Linh Lan thốt ra. Ngồi yên trên giường, Nguyễn Ánh đăm đăm theo dõi cuộc đối thoại của Linh Lan và Bá Đa Lộc. Bờ môi anh hơi nhếch lên khi biết tỏng Linh Lan muốn đền bù cho anh một chiếc ống nhòm khác, đặng anh bỏ qua chuyện nó táy máy làm vỡ đồ. Nhưng Bá Đa Lộc vốn là một người keo kiệt, sòng phẳng, những gì của ông ta thì không ai có thể lấy được, trừ khi đem lại một món hời nào đó ngang bằng giá trị để trao đổi. Điển hình như vụ ông ta theo giúp Nguyễn quân, làm cố vấn chính trị, thông thương buôn bán và đôi khi mang đến cho anh những món đồ lạ, nhưng đổi lại tất cả những thứ trên, Bá Đa Lộc yêu cầu ông ta được tự do truyền đạo mà không bị ai cấm đoán, bắt bớ hay gây khó dễ. Quýt đi cam lại. Đối với Bá Đa Lộc, đó là luật bất thành văn.
- Còn cái gì con gì nữa. Tôi bảo đảm với ông là ba chứng minh của tôi rất độc đáo, chưa chắc gì ông đã biết được. Một người thông minh và ham hiểu biết như ông thật sự không muốn biết đó là gì sao? Suy nghĩ kỹ đi, ba chứng minh “quan trọng, vĩ đại” chỉ để đổi lấy một chiếc ống nhòm. Cái ống nhòm cũ rích đó ông về nước thì muốn mấy cái, có mấy cái, còn ba phát hiện của tôi thì độc quyền, chỉ tôi mới biết thôi, không tìm ra người thứ hai đâu.
Linh Lan nói một cách chậm rãi để Bá Đa Lộc thận trọng suy tính. Nó thấy nét mặt của ông thể hiện rõ sự ngần ngừ. Ngần ngừ chứng tỏ ông ta đã bị nó lung lay, và bây giờ nó chỉ còn việc chờ.
- Ba phát hiện đó là gì?
“Chà, ông này khôn dữ, muốn mình show hàng ra à”. Linh Lan cười thầm trong bụng. Ngoài mặt nó điềm nhiên chẳng tỏ vẻ gì, nhưng bên trong lại mừng như mở cờ do biết kế hoạch khích tướng đã thành công. Ngẩng cao đầu đầy tự tin, Linh Lan tập trung nhãn quang nhìn thẳng vào Bá Đa Lộc.Trong kinh doanh, khi muốn giao dịch với khách hàng, ánh mắt chính là yếu tố quyết định đầu tiên.
- Được! Giờ tôi hỏi ông nhé, cào cào có tai không?
- Không.
- Thế giấy tờ có biết nói không? Lửa đốt mà không bị cháy không?
- Dĩ nhiên là không.
- Thế hình nhân bằng giấy, không ai điều khiển vẫn có thể nhảy múa được không?
- Vớ vẩn, sao có thể thế đuợc.
Thấy Linh Lan càng ngày càng hỏi những câu vô lý, Bá Đa Lộc đáp lại nó với giọng khó chịu. Phớt lờ sự khó chịu phơi bày trên nét mặt đó, Linh Lan chốt lại những câu hỏi vô lý của mình bằng một nụ cười ranh mãnh.
- Thế nếu tôi chứng minh những cái ông nói không thể thành có thể, thì chiếc ống nhòm ông nhượng cho tôi nhé.
Tần ngần đôi lúc để cân nhắc thiệt hơn trong một cuộc mua bán, Bá Đa Lộc thật sự cảm thấy rất khó hiểu đối với ba chứng minh của cô gái này. Với một người hay thắc mắc và ham tìm hiểu, nghiên cứu như Bá Đa Lộc, quả thật những gì Linh Lan vừa mới nói đã gợi cho ông sự hứng thú và tò mò. Vốn là một người nếu không tìm hiểu ngọn ngành, cặn kẽ đầu đuôi sự việc, tất Bá Đa Lộc sẽ tâm thần bất ổn, bứt rứt, khó chịu trong người không yên. Đúng như lời Linh Lan nói, ống nhòm thì chỉ cần về nước là có, nhưng đối với ba chứng minh này, chưa chắc gì ở nước ông đã có câu trả lời. Hơn nữa, Bá Đa Lộc chỉ về nước khi cuộc giao dịch với Nguyễn Ánh thành công, trong thời gian đó, thật sự nếu không tìm ra đáp án cho ba chứng minh Linh Lan đã nói, thì ông sẽ khó mà tập trung vào bất cứ việc gì. Xem ra, cuộc giao dịch này chưa chắc đã thiệt thòi.
- Được. Nếu cô có thể chứng minh được ba phát hiện đó, ta sẽ nhường chiếc ống nhòm lại cho cô.
- Được. Là ông đã nói đấy. Nguyễn Ánh, anh làm chứng cho giao kết của chúng tôi nhé.
Nhoẻn miệng cười rạng rỡ, Linh Lan quay về phía Nguyễn Ánh, kênh mặt lên vì cuối cùng cũng có thể trả nợ cho anh. Phớt lờ đôi mắt nheo lại của Nguyễn Ánh, Linh Lan xăm xăm tiến ra ngoài. Không chậm trễ, Bá Đa Lộc vội vàng theo sau để xem nó làm cách nào để chứng minh những phát hiện đó. Tiếp theo sau là Nguyễn Ánh với bộ dạng ung dung, bình thản, nhưng bản thân anh cũng muốn xem cô gái này sẽ làm thế nào. Muốn chứng minh cào cào có tai, điều đầu tiên là cần phải có cào cào, mà cào cào ngoài vườn lại nhiều vô số kể. Thế nên, không cần phải đợi lâu, Linh Lan đã tóm được một chú cào cào vô phúc đang phởn phơ đậu trên ngọn cỏ gần đó. Giữ chặt con vật trong tay khi nó cố vùng vẫy, Linh Lan giơ con cào cào về phía Bá Đa Lộc, cười tươi.
- Đây! Tôi sẽ chứng minh cho ông thấy, cào cào có tai, và tai của nó ở dưới chân.
Không để cho Bá Đa Lộc kịp vặn vẹo, Linh Lan thò tay vặt luôn chân con cào tội nghiệp, sau đó nhanh chóng đặt chú cào cào xuống dưới đất, hồ hởi ra lệnh.
- Nhảy đi. Nhảy.
Do đã bị vặt hết chân, con cào cào đáng thương kia chỉ ngọ nguậy một cách bất lực, chứ không thể nào nhảy được trước gương mặt đỏ ửng của Bá Đa Lộc, do cái sự thật trước mắt là cào cào không có chân thì làm sao có thể nhảy. Chỉ có thế mà cô ta dám lừa bảo rằng cào cào có tai và tai nằm ở chân, thật là phi lý vô cùng mà.
- Đó! Ông thấy chưa! Cào cào có tai và tai nó ở dưới chân. Thế cho nên khi ngắt chân rồi tôi bắt nó nhảy, nó đâu nghe được nên đâu chịu nhảy.
- Vô lý! Cô ngắt chân nó rồi thì làm sao nó nhảy? Nếu tôi nói tai nó nằm ở đầu, ngắt đầu đi thì nó cũng không nghe được và không nhảy được thôi - Phản ứng lại trước giọng điệu thản nhiên phi lý của Linh Lan, Bá Đa Lộc tức muốn xịt khói khi nghĩ đến lời nó đã phát biểu trước đó. Gì mà “đây là phát hiện vĩ đãi nhất trong lịch sử loại người” chứ.
- Ông này lạ! Bởi vậy mới nói cào cào có tai ở chân. Ông bảo tai ở đầu thì ông mổ ra chỉ cho tôi xem nào, chứ ngắt đầu thì nó chết ngủm rồi còn đâu mà nhảy. Giờ tôi chứng minh tai ông ở trên đầu bằng cách “ngắt” đầu ông đi xem coi ông có sống được không, chứ đừng nói là nghe hay không nghe!
Trước giọng điệu ngang phè của nó, Bá Đa Lộc chỉ biết há hốc miệng ra mà không sao phản bác lại lời nào. Biết đã mắc mưu Linh Lan, Bá Đa Lộc đành ngậm bồ hòn làm ngọt, bụng tức anh ách, do mình đã sống trên đời này bao nhiêu năm mà còn để một đứa con gái non choẹt lừa vào bẫy dễ dàng. Thật thể diện này không biết để đâu. Tự nhủ chẳng biết hai cái chứng minh còn lại vớ vẩn thế nào, nhưng ông đã trót hứa trước mặt chúa công thì cũng cố mà giữ lấy lời, nếu không uy tín một đi thì khó quay trở lại.
Nhìn gương mặt đỏ au như quả cà chua của Bá Đa Lộc vì cay cú, Nguyễn Ánh tủm tỉm cười, bởi anh quá hiểu những mẹo vặt của con cún con này. Thân là một người có lòng tự kiêu rất lớn, tuy không nói ra, nhưng Bá Đa Lộc luôn tự hào mình đến từ một đất nước tiên tiến, ăn đứt cái xứ sở nghèo nàn, ngay đến cái thúng nhỏ tủn mủn cũng có thể gọi là thuyền. Chính vì hoàn cảnh xuất thân đó, Bá Đa Lộc chỉ chú tâm tìm tòi, nghiên cứu vào những gì to lớn, vĩ đại, chứ còn những mẹo vặt vãnh, câu đố như của cô gái này thì ông ta lại không hề để tâm đến. Kết quả là giờ đây đã bị cô gái ấy lừa một cú ngọt xớt. Nhưng dù ông ta tức tối đến đâu thì cũng không thể bắt bẻ được những gì Linh Lan đã nói, vì những lập luận cô ta đưa ra tuy vô lý nhưng lại hoàn toàn đúng. Đây quả là một vố cay cú cho viên giáo sĩ phương tây.
- Phát hiện một tôi đã chứng minh cho ông rồi nhé, còn phát hiện thứ hai, thì ngay bây giờ tôi sẽ chứng minh cho ông coi. Ông về phòng đợi đi, tôi sẽ quay lại ngay khi đã lấy đủ vật liệu cần thiết.
- Ta đi theo không được à?
- Nghĩ sao vậy! Cái này là bí mật gia truyền, đã bí mật rồi thì không bật mí. Lỡ ông thấy rồi làm lộ ra, thì bản quyền đâu còn là của tôi nữa.
Nhìn Linh Lan chằm chằm với vẻ khó chịu, Bá Đa Lộc rõ ràng không hài lòng. Linh Lan nói như thế, chẳng khác nào bảo ông táy máy, tọc mạch, chôm những bí quyết của nó về làm của riêng cho mình. Lưỡng lự nhìn Nguyễn Ánh để dò hỏi, Bá Đa Lộc do dự trong giây lát, rồi cũng đành quay trở về phòng cùng với anh, trong khi chờ Linh Lan đi lấy dụng cụ biểu diễn chứng minh của mình.
Biết mình bây giờ như con chịm bị nhốt trong lồng, đi đâu cũng không thể thoát khỏi con mắt quan sát của Nguyễn Ánh, nên Linh Lan không thắc mắc hay phản ứng gì khi kè kè bên cạnh nó là hai tên lính canh gác to con. Được chúng dẫn đến khu nhà bếp, Linh Lan bước vào, nhìn quanh quất rồi múc một ít nước vào chén, cắt một nửa trái chanh tươi, nhón tay lấy một thanh sắt tròn thẳng nằm trên bếp lò. Trước con mắt nghi ngờ của hai tên lính, Linh Lan giơ nửa trái chanh mới cắt ra hươ truớc mặt chúng, đoạn mỉm cười.
- Đừng để ý, chỉ là tôi thèm ăn chanh tươi thôi, thói quen khó bỏ ấy mà.
Có lẽ cơ miệng bị đơ nên hai tính lên không thèm ừ hử hay nói năng gì, chúng chỉ bám sát theo sau Linh Lan, quan sát nhất cử nhất động của nó, đề phòng nó giở võ “bảy chọ”. Ung dung đi phía trước, Linh Lan vừa đi vừa rảo mắt quan sát những nơi mà nó đi qua, đặng vẽ lại những gì nó nhớ vào tấm bản đồ đang cất giấu trong người. Kể từ khi đặt chân lên đất Gia Định, bị Nguyễn Ánh bắt được và cho xem vài thứ hay ho, Linh Lan đã âm thầm ghi nhớ lại. Nó bắt đầu óc lúc nào cũng phải hoạt động, để khi Nguyễn Ánh có việc ra ngoài mà không cho nó theo cùng, Linh Lan lại lụi hụi giở tấm áo cũ nó mặc lúc đến Gia Định ra dùng làm vải, vẽ lại bản đồ chi tiết những nơi nó đã ghé qua. Vẽ là một chuỵên, giữ tấm bản đồ ấy sao cho Nguyễn Ánh không phát hiện được mới là chuyện khó. Suy tính hết mấy ngày đêm, rốt cuộc Linh Lan đành quấn nó vào trong ngực, thay chiếc áo yếm, hệt như cô nàng Tôn Thượng Hương trong phim Xích Bích đã làm. Chỉ có cất ở nơi như thế, Nguyễn Ánh mới không phát hiện ra được. Dù đôi lúc thấy anh đột ngột nhìn mình, Linh Lan cũng thấy chột dạ, nhưng nó cũng cố làm mặt tỉnh vì nếu để lộ chút lúng túng nào, Nguyễn Ánh sẽ nghi ngờ liền.
Chạm tay vào cánh cửa phòng, Linh Lan kín đáo vắt trái chanh tươi vào chén nước cạn, rồi sau đó thủ tiêu vỏ chanh bằng cách nhét nó vào thắt lưng. Những trò Linh Lan sắp làm đây đều học được từ ông anh vừa kiêu vừa điêu của mình. Nhớ mỗi lần hai anh em giận hờn nhau, Anh Tú luôn là người phải lên tiếng làm hòa trước bằng cách biểu diễn ảo thụât cho nó coi. Vốn là học sinh giỏi hóa, các cấu tạo, cách giải thích và những thí nghiệm lạ mắt, Anh Tú là người hiểu rõ hơn ai hết. Chính vì thế Anh Tú đã làm cho Linh Lan tròn xoe mắt khi chứng kiến những gì mình biểu diễn, sau đó phải môt mực nài nỉ ông anh hé lộ độc chiêu cho mình. Ngày hôm nay, mang một trong những bí quyết ảo thuật của Anh Tú ra sử dụng, Linh Lan thấy lòng nao nao. Nó rất nhớ Anh Tú, nhớ ông anh vừa điêu vừa kiêu của nó. Không biết hiện thời ông anh nó như thế nào, mong rằng vẫn an toàn, bình yên, lành lặn, cho đến khi hai anh em gặp lại nhau.
- Tới rồi đây, tới rồi đây.
Vừa đẩy cửa bước vào, Linh Lan liền cười tươi với Bá Đa Lộc khi thấy ông này đang đứng ngóng ra cửa sổ, để xem chừng nào nó mới về. Liếc về phía Nguyễn Ánh một chút, Linh Lan thấy anh đang ngồi bắt chân chữ ngũ trên ghế với tư thế vô cùng tự tin và thoải mái. Biết anh đang có ý xem nó sẽ biểu diễn những trò gì, Linh Lan chun mũi. Nó quày quả đặt chén nước [ nước ít chanh nhiều ] xuống bàn trước đôi mắt nghi ngờ của Bá Đa Lộc, đọan mỉm cười.
- Đây! Ông chống mắt lên mà coi nhé…
★ Chương 60: Đền bù [Part2]
Căng mắt theo dõi từng động tác của Linh Lan, Bá Đa Lộc bất giác tỳ tay lên bàn lúc nào không biết. Tủm tỉm cười trước sự nôn nóng của viên giáo sĩ, Linh Lan với tay lấy một tờ giấy đặt trên kệ, một cây bút lông treo trên giá giao cho Bá Đa Lộc, rồi chỉ tay vào tờ giấy, nói êm ả.
- Đây là một tờ giấy thần kỳ. Bây giờ, ông hãy nhúng bút lông vào nước, viết lên trên đó bất kỳ con số hay câu chữ nào, rồi tôi sẽ phù phép cho nó hiện ra đúng chữ ấy.
Có vẻ như lời quảng cáo của Linh Lan không đủ tin cậy, thế nên Bá Đa Lộc cứ ngần ngừ, không cầm lấy cây bút lông trên tay Linh Lan mà cứ nhìn lom lom tờ giấy, như thể trên đó dát vàng hay kim cương gì. Chép miệng một cái, Linh Lan dúi cây bút lông vào tay Bá Đa Lộc. Nó búng tay lên tờ giấy nghe cái tách, hất hàm.
- Sao đây? Giờ có viết hay không?
Lừ mắt nhìn Linh Lan, Bá Đa Lộc nắm chặt lấy cây bút lông, ông chấm đầu bút mềm mại vào chén nước rồi vẽ ngoằn nghèo trên tờ giấy. Đợi Bá Đa Lộc vẽ xong, Linh Lan cầm lấy tờ giấy và trải dài lên mặt bàn, đợi gió đến làm khô đi. Thấy nó rề rà, Bá Đa Lộc đâm sốt ruột, ông thúc giục.
- Sao lâu thế?
- Từ từ! Dục tốc bất đạt. Ông chưa nghe câu này bao giờ à.
Linh Lan vén tóc nhìn Bá Đa Lộc, nói du dương. Mắt nó nhấp nháy khi những vệt nước ngoằn ngoèo, lướt thướt dần khô đi, trả lại tờ giấy với hiện trạng ban đầu. Mấy trò này Linh Lan đã làm đi làm lại đến thuần thục ở nhà, hy vọng với những dụng cụ thô sơ này, thì trời phật cũng phù hộ nó không bị bể show. Đưa tờ giấy ngang tầm mắt Bá Đa Lộc và Nguyễn Ánh, Linh Lan chậm rãi nói từng tiếng một, trong giọng nó không giấu vẻ hào hứng và tinh quái.
- Đây! Ông hãy coi cho rõ nhé. Tờ giấy hiện trắng tinh, nhưng những gì ông viết bằng nước trên đây sẽ lần lượt hiện ra khi tôi đọc thần chú.
Bá Đa Lộc bất giác chồm người về phía trước để nhìn cho rõ những gì nó sắp biểu diễn. Cười thầm khi đối với mấy chuỵên này, Bá Đa Lộc hơi thiếu kiên nhẫn, Linh Lan từ tốn hơ tờ giấy thần kỳ trên ngọn nến, với một khoảng cách an toàn để tờ giấy không bị bắt lửa. Truớc đôi mắt kinh ngạc của Bá Đa Lộc, trên bề mặt tờ giấy bỗng xuất hiện những vệt nâu xám ngoằn nghèo, chạy uốn éo, rồi dần hình thành chữ “Pigneau De Behaine”(*), đúng cái chữ khi nãy ông đã viết trong sự tự hào của Linh Lan. Giựt phắt tờ giấy trên tay nó, Bá Đa Lộc hết lật mặt trước, mặt sau, rồi sờ tay lên những vệt nâu xám hệt như ông bác sĩ khi chụp hình X-quang cho bệnh nhân. Viên giáo sĩ liếc nhìn Nguyễn Ánh, nhưng anh không đáp lại ông, bởi còn đang đăm đăm đọc dòng chữ trên tờ giấy mà Linh Lan đã phù phép trên tay.
Trong khi Nguyễn Ánh và Bá Đa Lộc đang kiểm tra thì Linh Lan đứng bắt chéo chân, tay gõ lên bàn theo nhịp bài hát cầu sông Wai vô cùng thoải mái. Thật ra trò đó không hề khó. Bí quyết ăn thua nằm ở cái chén nước mà Linh Lan đưa cho Bá Đa Lộc làm mực viết lên giấy. Ngay từ đầu, nó đã luôn khẳng định và nhắc đi nhắc lại là chỉ có nước, nhưng thật ra nước chỉ là cái cớ đánh lừa khả năng phán đoán của Bá Đa Lộc và mọi người. Múc một chén nước trước mặt hai tên lính gác, thế nhưng trên đường về phòng Linh Lan đã ngầm đổ hầu hết nước đó và thay bằng nước chanh. Trong chanh có axit hữu cơ yếu. Dùng nước chanh làm mực không khác gì dùng nước vì sẽ không để lại dấu tích gì khi khô. Nhưng chỉ cần hơ trên lửa, nhiệt sẽ khiến axit hữu cơ phân hủy và cho ra cacbon, tức là than. Đó chính là những vệt màu nâu thẫm trên tờ giấy trắng uốn lượn theo hình con chữ, mà cây cọ thấm nước chanh của bá Đa Lộc đã vẽ nên.
Bá Đa Lộc có kinh ngạc thế nào thì Linh Lan cũng không thèm, nhưng đối với sự ngạc nhiên lướt qua trong đáy mắt của Nguyễn Ánh, dù chỉ trong chốc lát cũng đủ làm nó thích chí. Phen này để xem Nguyễn Ánh có còn coi thường nó nữa không.
- Thế nào, hay không? Chưa hết. Còn hai ảo thuật ở phía sau nữa kìa.
Linh Lan cười thích thú. Nó với tay lấy thêm một tờ giấy khác trên kệ và đem hơ lửa. Vừa lướt qua ngọn lửa đỏm, tờ giấy nhanh chóng bừng cháy như một ngọn đuốc. Từng đốm lửa li ti rơi rớt xuống bàn, trong phút chốc chỉ còn là những mảnh than vụn đen thui. Sau khi biểu diễn cho Bá Đa Lộc thấy môt tờ giấy bình thường sẽ bén lửa, và ra tro như thế nào nếu hơ trên đèn cầy, Linh Lan lại rút thêm một tờ giấy khác, nó cẩn thận quấn tờ giấy vào thanh sắt tròn mang từ trong nhà bếp ra, với sự tập trung cao độ. Nhìn Linh Lan tỉ mẩn quấn tờ giấy, gương mặt lộ rõ chăm chú, bờ môi hờn dỗi mím lại, Nguyễn Ánh chợt cười nhẹ. Đa phần những nụ cười của anh đều mang một ý nghĩa rất riêng, và ý nghĩa của nụ cười này thế nào, không ai có thể biết được. Chỉ có duy nhất người trong cuộc mới hiểu mà thôi.
- Đây! Ông xem sự khác biệt giữa tờ giấy này với tờ giấy trước như thế nào nhé.
Thở phào một hơi nhẹ nhõm, khi vòng xoắn ốc bằng giấy của nó vừa khít thanh sắt, Linh Lan rạng rỡ ngẩng đầu lên. Nó hươ hươ thanh sắt quấn giấy trước đôi mắt thò lõ của Bá Đa Lộc, rồi nhẹ nhàng hơ mặt giấy đặc biệt trên lửa. Đúng như các thí nghiệm trước đây nó vẫn hay làm, theo như nguyên lí truyền nhiệt, nhiệt độ từ lửa đã bị thanh sắt thu lấy nên tờ giấy vẫn còn nguyên vẹn, không bị bốc cháy dù đã hơ qua lại trên lửa nhiều lần. Đặt dụng cụ xuống bàn, Linh Lan ngênh mặt lên nhìn Bá Đa Lộc săm soi tờ giấy nguyên vẹn như các nhà khoa học nghiên cứu vi trùng. Ông muốn soi cỡ nào thì cứ việc soi, để coi ông có phát hiện ra chân lý nằm ở đâu không, Linh Lan tự nhủ thế và cười thầm.
- Tờ giấy bị cháy khi nãy là do nó không quấn thanh sắt. Tờ này có thì không bị cháy. Gì chứ trò bá vơ này ai làm mà chẳng được.
- Được! Ông nói hay lắm, vậy ông thử làm tôi xem. Nếu tờ giấy bị cháy thì khỏi cần làm hình nhân nhảy múa mà không cần dây điều khiển, tôi sẽ được luôn cái ống nhòm nhé.
Nghe Linh Lan nói giọng chắc nịch, Bá Đa Lộc khi nãy tự tin là thế mà bây giờ đâm dè chừng. Quan sát cách thức cô gái này làm, quả thật ông thấy nó dễ vô cùng. Chỉ việc quấn tờ giấy vào thanh sắt, rồi đem hơ lên lửa, thế là tờ giấy sẽ không bị bốc cháy, thế thôi, chứ ngoài ra chẳng có chút bí mật nào. Chẳng lẽ con nhóc quê mùa này làm đuợc, còn một người tân tiến như ông lại không làm được. Bá Đa Lộc nghĩ nhanh trong đầu, ông cười lạt một tiếng rồi đưa mắt nhìn Linh Lan nói chắc nịch.
- Được! Ta đã quan sất rất kỹ cách cô làm với tờ giấy ấy. Trò này có khó gì. Ta sẽ biểu diễn lại cho cô xem. Nếu ta làm mà nó không cháy, cô tính sao?
- Ông muốn tôi làm gì, tôi sẽ làm cái đó. Còn nếu ông không làm được thì phải đưa cho tôi chiếc ống nhòm.
- Quân tử nhất ngôn.
- Sai! Ông không phải quân tử mà là nhà truyền giáo. Phải nói lại là nhà truyền giáo nhất ngôn. Nếu ông thất hứa thì Chúa sẽ trừng phạt ông.
Linh Lan ngẩng cao đầu. Đôi mắt đen tròn ngời sáng, lấp lánh, khiến Bá Đa Lộc chột dạ đồng thời bực bội, khi nó dám đưa tín ngưỡng của ông ra để cá cược mấy trò trẻ con. Uốn bờ môi mỏng như cánh chuồn thành một nụ cười nửa vời, Bá Đa Lộc lục lấy một tờ giấy khác trên kệ, rồi bắt đầu quấn vào thanh sắt, hệt như cách Linh Lan vừa làm. Sau khi đã quấn xong, Bá Đa Lộc hồi hộp hơ tờ giấy lên ngọn đèn cầy. Thấy nó không bị suy suyển, gương mặt hồi hộp của Bá Đa Lộc chuyển sang rạng rỡ. Ông nhướng mày nhìn Linh Lan như một kẻ ban ơn, để rồi khi nhận được nụ cười mỉa mai của nó, Bá Đa Lộc mới vội nhìn xuống tờ giấy. Ông phát hoảng khi nó… từ từ bắt lửa và cháy rụi một mảng, làm ông vàng quăng thanh sắt xuống sàn, nếu không muốn bàn tay mình bị phỏng do một trò đùa.
- A ha ha! Thấy chưa! Chúa trừng phạt ông đó.
Vỗ tay nồng nhiệt để tán thưởng cho trò vui mà Bá Đa Lộc vừa biểu diễn, Linh Lan cười khanh khách, còn Bá Đa Lộc thì ngượng chín cả người. Rõ ràng khi nãy ông đã quan sát rất kỹ, cũng làm như Linh Lan, cũng quấn tờ giấy thành hình xoắn ốc vào thanh sắt, vậy tại sao nó lại bốc cháy? Bá Đa Lộc bối rối tự hỏi. Ông nhìn tờ giấy cháy quăn queo dưới chân mình nhưng lại không sao tìm ra câu trả lời. Phớt lờ bộ mặt đỏ ké như tôm luộc của Bá Đa Lộc, Linh Lan cúi xuống nhặt lấy thanh sắt. Nó từ tốn thực hiện lại các thao tác cũ, và chậm rãi đưa lên ngọn đèn cầy, hơ qua hơ lại trước khuôn mặt đang thuỗn ra của viên giáo sĩ, khi tờ giấy vẫn còn nguyên vẹn và không bị suy suyển gì.
Thật ra, bí mật ở trò ảo thuật này chính là cách thức quấn tờ giấy quanh thanh sắt đúng như Bá Đa Lộc đã quan sát. Nhưng ông ta không hề biết rằng, ngoài việc quấn thành vòng xoắn ốc còn phải quấn sao cho nó thật khít, ôm chặt lấy thanh sắt mà không để hở, hay dư mảnh giấy nào. Cũng không dồn cục, chồng nhiều lớp dày mỏng không đều, vì nếu như thế, thanh sắt sẽ không nhận được nhiệt truyền từ ngọn lửa, và tờ giấy ấy cũng sẽ bị đốt cháy như bao tờ giấy bình thường khác. Bá Đa Lộc chỉ nhìn thấy ở bề ngoài, mà không hiểu được sự lắt léo bên trong. Thế nên khi thấy ông quấn tờ giấy vào thanh sắt trông tạp nham, hở, kín, dày, mỏng lung tung, thì Linh Lan đã biết tờ giấy này chưa đầy một giây sẽ tiêu tùng trước ngọn lửa hung hãn kia. Đúng như suy nghĩ của nó, Bá Đa Lộc đã không thể thực hiện thành công cái trò tưởng dễ như trở bàn tay, thế nên mọi kiêu ngạo và tự tin của ông ta đều biến mất sạch, chỉ còn lại sự khó hiểu, nghi hoặc và lúng túng trước đôi mắt ranh mãnh của Linh Lan. Ván cờ này ông đã thua rồi.
- Sao đây nhà truyền giáo! Cái ống nhòm đó thuộc về ai?
Linh Lan nghiêng đầu và giơ tay hình chữ “V”, dấu hiệu của chiến thắng. Tuy rất khó chịu và quê độ về việc ông thất bại trước cái trò chơi tưởng chừng như đơn giản ấy, Bá Đa Lộc cũng không còn cách nào khác hơn là phải gật đầu, để giữ trọn lời hứa của mình truớc mặt Nguyễn Ánh. Viên giáo sĩ quày quả bước đi sau khi buông hai chữ “theo ta” gọn lỏn, và Linh Lan hí hửng chạy theo sau vì cuối cùng cũng đã có thể lấy được cái ống nhòm, mà không cần dùng đến trò ảo thuật thứ ba. Với hai tên lính canh khi nãy đã theo “hộ tống” nó, Linh Lan nhảy chân sáo đến phòng Bá Đa Lộc. Mắt nó tròn xoe khi trong phòng ông toàn là sách, trên bàn là những tờ giấy viết ngoằn nghèo, dưới đất là những cuộn tranh cuộn tròn để trong ống. Những chiếc áo bạc xám vắt vẻo trong tủ và một cây thánh giá bằng đồng treo trịnh trọng trong phòng.
Chợt, Linh Lan để ý đến một chiếc hộp khá vuông vức, bọc bằng lụa đỏ, bên trong chính là những trái bom khói nhỏ nhắn, thứ đồ chơi mà Linh Lan đã biết công dụng qua chiếc ống nhòm bị vỡ kia. Một tia sáng lóe qua trong đầu Linh Lan. Nhân lúc Bá Đa Lộc đang lui cui bới tủ quần áo lên để lấy chiếc ống nhòm, nó rón rén, thận trọng tiến từng bước một về phía chiếc hộp, rồi tranh thủ nhón lấy ba trái, bỏ tọt vào trong cái túi nhỏ bé luôn mang theo bên mình. May sao, lúc nó vừa thó xong thì Bá Đa Lộc cũng quay đầu lại, trên tay là chiếc ống nhòm mới toanh. Ông đưa cho Linh Lan với vẻ tiếc nuối, còn nó thì tỏ ra vui mừng khôn xiết khi cuộc giao dịch này đã thành công, cùng với những trái bom khói nằm ngoan ngoãn trong túi - như một chiến lợi phẩm tặng thưởng cho riêng mình.
Hớn hở trở về phòng, Linh Lan vừa mới đẩy cửa bước vào thì đã thấy Nguyễn Ánh đứng đó từ khi nào. Đôi mắt nâu trong suốt rất lạ nhìn gương mặt đang rạng ngời của nó, tà áo vàng nhẹ bay khi có cơn gió lạnh thừa dịp tràn vào. Giật mình do không ngờ anh lại đứng ngay cửa, cộng thêm sợ anh biết được chuyện nó xu đồ trong phòng Bá Đa Lộc, Linh Lan vấp chân vào ngạch cửa khá cao và ngã nhào về phía trước không điểm tựa. Trong giây phút ngàn cân treo sợi tóc đó, vòng tay ấm áp của Nguyễn Ánh nhẹ đưa ra, đỡ lấy tấm thân bé nhỏ, vòng qua thắt lưng của nó và ôm choàng nó vào lòng. Đớ người ra vì quá bất ngờ, Linh Lan định thần lại thì đã thấy mình đang ở trong vòng tay của Nguyễn Ánh. Nó vô cùng lo sợ nếu anh phát hiện ra trái bom giấu trong túi nó, và tấm bản đồ vẽ lại Gia Định mà nó đang cất giấu trong người. Vội vàng co chân lên tính đá, Linh Lan hốt hoảng khi Nguyễn Ánh bất thần bế thốc nó lên. Bờ môi thanh tú của anh lướt trên mái tóc đen nhánh, thoang thoảng hương chanh dịu dàng, rồi dừng lại, nhẹ lời.
- Chẳng phải cô muốn đi theo tôi sao?
- Nhưng không phải thế này. Thả tôi xuống mau lên.
Đã không nói thì thôi, Linh Lan càng nói, Nguyễn Ánh càng bế nó đưa lên cao. Nheo mắt nhìn khuôn mặt tức giận của Linh Lan vì anh chẳng coi lời nói của nó ra ký lô gì, Nguyễn Ánh mỉm cười. Nụ cười pha lẫn sự chế giễu và kiêu ngạo thường ngày, không thay đổi.
- Khi nào tôi muốn thả thì sẽ thả. Còn bây giờ tôi sẽ đưa cô đến xem vài thứ, để thuởng công vụ việc quy luật gió mùa mà cô đã nói với tôi.
- Sao?
Trố mắt vì nghe những gì Nguyễn Ánh vừa mới nói, Linh Lan cảm thấy có điều gì đó không ổn. Anh dẫn nó đi coi vài thứ, để thưởng công việc nó đã đem vụ gió mùa báo lại với anh. Nguyễn Ánh là một người khó nắm bắt, làm gì cũng tính toán trước sau. Khi nghe nói chuyện gió mùa, chắc chắn anh đã cho người kiểm tra lại lời khai báo của nó xem có đáng tin cậy hay không. Nếu nó nói dối, tất sẽ bị trừng trị. Nhưng gương mặt của Nguyễn Ánh hiện giờ rất điềm đạm, không có vẻ gì gọi là nổi giận, hơn nữa anh lại còn dẫn nó đi xem vài thứ. Tuy không biết đó là thứ nào, nhưng nếu Nguyễn Ánh đã dẫn nó đi coi tất thứ đó sẽ rất hay ho. Không có trừng trị, chỉ có thưởng công. Lạy chúa! Lẽ nào những lới nó nói đều có căn cứ, lẽ nào nó nói tùm lum mà trúng tà la hay sao? Linh Lan la hoảng trong bụng. Nếu những thông tin “sai lệch” mà nó cung cấp cho Nguyễn Ánh ngẫu nhiên chính xác, nếu điều đó gây bất lợi cho Tây Sơn thì nó sẽ ân hận suốt đời.
Bụng lo ngay ngáy như thế, nên Linh Lan chẳng còn tâm trạng nào mà để ý đến ánh mắt tò mò của quân Nguyễn, khi nhìn thấy chúa công bế một cô gái trên tay. Linh Lan mặt chau mày ủ, lo lắng khuôn nguôi. Bàn tay nó trong vô thức níu lấy áo Nguyễn Ánh, cho đến khi nhìn thấy một trường bắn, với hàng chục viên đội trưởng đang huấn luyện binh lính, thì Linh Lan mới tạm gác hết những lo lắng sang một bên, để tập trung vào những gì đang hiện ra trước mắt mình. Mỉm cười khi đôi mắt Linh Lan ngời sáng, Nguyễn Ánh chưa bao giờ nghĩ lại có một cô gái mang niềm hứng thú với quân sự đến thế. Khuôn mặt lộ rõ say mê, ánh mắt thích thú khi tiếp xúc với những thứ chỉ có trong chiến tranh và riêng đấng nam nhi mới quan tâm, để ý đến. Nới lòng vòng tay, thả Linh Lan xuống khi nhận thấy nó đang ngọ nguậy, Nguyễn Ánh xiết lấy tay Linh Lan, không cho nó chạy lung tung, tránh làm xao lãng các binh lính đang luyện tập. Phụng phịu khi bị Nguyễn Ánh kềm chế, cộng thêm cố rút tay lại mà không được, Linh Lan không còn cách nào khác đành để anh dẫn đi tham quan. Đầu óc bắt đầu hoạt động, Linh Lan cố ghi nhớ càng nhiều càng tốt, nhằm bù đắp lại phần nào cái quy luật gió mùa chết tiệt kia.
Tuy không rộng lớn, nhưng trường bắn của quân Nguyễn thật sự rất quy củ và nghiêm ngặt. Đã được tuyển chọn và đào tạo, thế nên số binh lính này trông vô cùng thành thạo và tinh nhuệ. Họ sử dụng những ngón tay trong thao tác nhồi đạn vô cùng phức tạp, khéo léo, đến nỗi Linh Lan tự hỏi họ sao có thể nhớ hết ngần ấy động tác trong khi nó chẳng hề nhớ gì. Trước sự háo hức của Linh Lan, những người lính xếp thành hình chữ tam. Nhận được hiệu lệnh của viên chỉ huy, từng hàng một đồng loạt đưa súng lên, mắt nheo lại và nhằm đúng những tấm bia rơm ở phía trước mà bắn. Chỉ nghe đoàng một tiếng khô khốc, sắc lạnh. Đầu ống súng bốc khói, còn tấm bia thì đen lổ chổ hệt như tổ ong. Hàng này bắn xong liền lùi lại, để cho hàng khác tiến lên bắn trong khi họ nhồi tiếp đạn. Cứ như thế, cuộc tập bắn diễn ra trong trật tự và nghiêm ngặt. Khắp trường bắn chỉ có tiếng khẩu lệnh dứt khoát và tiếng nổ liên tục của những cây súng hỏa mai. Nhíu mày lại khi thấy những người lính sau khi bắn, lại lui về phía sau thực hiện thao tác nhồi đạn phức tạp, Linh Lan níu áo Nguyễn Ánh. Nó chỉ vào những người lính, thắc mắc.
- Việc nhồi thuốc súng mất nhiều thời gian thế, lỡ như quân địch tràn lên, đánh xáp lá cà thì biết làm thế nào? Sao không sử dụng lưỡi lê?
- Lưỡi lê?
Nghe hai từ lạ lẫm thốt ra từ miệng Linh Lan, đôi mày thanh tú của Nguyễn Ánh nhướng lên. Biết đây là thời quá khứ, trong khi loại súng có lưỡi lê chỉ xuất hiện sau này, Linh Lan mượn tạm cây súng của một người lính, sau khi được Nguyễn Ánh cho phép. Nó ôm cây súng nặng trịch trong lòng, ngồi phệt xuống, tay vẽ lên mặt đất, diễn giải cho Nguyễn Ánh hiểu rõ hơn về loại súng có lưỡi lê này.
- Thế này nhé, tôi đã quan sát binh lính tập bắn, và thấy loại súng này chỉ bắn được một phát, xong sau đó lại phải nhồi thuốc để bắn tiếp. Bình thường thì có thể thực hiện được, nhưng lỡ lúc gặp nguy hiểm, bất trắc hay thời tiết ẩm ướt, trở mưa đột ngột, thì e những thao tác nhồi súng này rất mất thời gian. Thậm chí còn có người nhồi chưa xong đã bị quân địch xông tới “làm thịt’. Để cải thiện cho loại súng này không khó, rất đơn giản, bằng cách gắn thêm một cái lưỡi lê bên trên. Lưỡi lê giống như một loại lưỡi dao. Lúc bình thường thì gập nó ngược chiều nòng súng, đến khi tấn công thì bật ra, dùng để đánh, đâm như đao kiếm bình thường. Loại súng có lưỡi lê này dùng trong chiến thuật xáp lá cà rất hữu hiệu. Anh hiểu chưa?
Linh Lan vừa nói, vừa vẽ lại cây súng có thêm lưỡi lê một cách đại khái, theo những hình ảnh mà Anh Tú đã cho nó coi về cây súng đặc biệt, chỉ một phát bắn như thế này. Vốn là dân có năng khiếu về vẽ, và Nguyễn Ánh lại là vô cùng thông minh, thế nên khi nhìn thấy những hình vẽ dưới đất, cộng thêm lời diễn giải của Linh Lan, đôi mắt nâu trong suốt của Nguyễn Ánh lấp lánh. Anh nhận ra chỉ cần thêm con dao phía dưới, thì loại súng này quả thật là một thứ vũ khí linh hoạt, chiến đấu rất hữu hiệu. Cô gái này quả thật rất có ích. Anh đã không lầm.
Cầm cây súng trên tay Linh Lan để nó đứng dậy, phủi hết cát bụi bám trên tay và tiếp tục quan sát trường bắn, trong đầu Nguyễn Ánh hiện nhanh ra bản phác của cây súng, cũng như cách thức chiến đấu của nó trên chiến trường. Thấy binh lính bắn ầm ầm, Linh Lan cũng nổi hứng muốn thử một lần cho biết. Khi còn ở hiện tại, nó đã nhiều lần trông thấy mấy ông tây bắn súng lúc đi tham quan địa đạo Củ Chi cùng Anh Tú. Nhưng vì bắn chơi một lần rất mắc nên Linh Lan tiếc tiền, ngần ngừ một lúc rồi quay đi, bỏ lại sau lưng tiếng súng nổ đùng đoàng vui tai. Bây giờ ở quá khứ, có cơ hội bắn thử miễn phí, cớ sao lại không làm. Linh Lan thích thú nghĩ đến cảnh được cầm súng trong tay. Nó thừa hiểu mấy ông chỉ huy không bao giờ chịu cho nó bắn thử nên bèn quay sang Nguyễn Ánh, níu lấy áo anh, hớn hở.
- Anh cho tôi bắn thử một phát nha.
Nhướng mày nhìn gương mặt rạng rỡ của Linh Lan, Nguyễn ánh đặt vào tay nó cây súng trên tay mình, sau khi đã định hình xong loại súng có lưỡi lê, rồi hỏi lửng lơ.
- Có biết nhồi thuốc súng không?
- Hơ. Không! Anh nhồi cho tôi đi.
Linh Lan gãi đầu trả lời, và nó vội lùi lại một bước khi Nguyễn Ánh lừ mắt, bởi nó đã thản nhiên bảo anh nhồi thuốc súng cho mình. Không còn cách nào khác, Linh Lan đành phải tự làm lấy bằng cách ngó những binh lính luyện tập bên cạnh, nếu muốn được bắn thử. Vì nó là tay mơ, trong khi quân Nguyễn lại rất thành thạo công việc ấy, thế nên nó vừa mới nhìn được thao tác này, cúi xuống hì hụi làm theo thì họ lại chuyển sang thao tác khác. Đến khi nó ngẩng đầu lên xem tiếp thì đã thấy họ giương súng bắn mất rồi. Linh Lan méo mặt, đành chờ cho họ bắn xong, lui xuống thao tác lại thì nó mới hì hụi nhồi tiếp. Nhìn nó cặm cụi nhồi thuốc súng, chậm chạp và lóng ngóng, Nguyễn Ánh lắc đầu. Anh ngồi xuống, nắm lấy bàn tay vụng về của nó, hướng dẫn từng động tác với sự dịu dàng đáng ngạc nhiên.
- Đồ ngốc! Trước tiên cô phải nắm kíp súng bằng tay phải ở ngay dưới cò. Ngón trỏ chạm vào phần sau của cò, ngón cái ở giữa báng súng và nòng. Chĩa súng lên, kíp súng giữ yên…
Nhờ sự hướng dẫn của Nguyễn Ánh, Linh Lan thở phào nhẹ nhõm khi nó đã nhồi xong thuốc súng. Hí hửng vác cây súng lên, Linh Lan loạng choạng vì cây súng khá nặng, nhưng rồi nó nhanh chóng ổn định lại khi bàn tay vững chãi của Nguyễn Ánh đỡ lấy bờ vai. Nhè nhẹ liếm môi, Linh Lan ôm khư khư cây súng vào lòng, mắt nheo nheo nhìn hồng tâm ở phía xa và nuốt nước bọt đánh ực, vì không biết tài bắn ná thun của nó có lụt nghề không. Lúc này, các binh sĩ ngừng luỵên tập, để mang cho Linh Lan tấm bi bằng rơm mới theo hiệu lệnh của Nguyễn Ánh. Họ nhìn cô gái bé nhỏ tay ôm cây súng, mắt ngắm hồng tâm mà bấm bụng cười, vì cho rằng cô gái lơ mơ này đến cầm súng cũng còn không vững, nói chi đến việc bắn trúng mục tiêu ở phía xa. Phớt lờ sự ánh mắt chế giễu của họ, Linh Lan mím môi, tì báng súng vào vai, nâng cây súng ngang tầm mắt, rồi nín thở bóp cò. Chỉ nghe đoàng một tiếng. Nòng súng bốc khói, tấm bia thủng ngay một chỗ đúng hồng tâm, làm ai nấy đều há miệng ra vì cô gái này bắn chính xác đến không ngờ. Hạ cây súng xuống, Linh Lan cười rạng rỡ. Nó ngênh mặt nhìn Nguyễn Ánh, cười hớn hở như hoa nở buổi sớm, miệng không ngừng khoe tài.
- Đó! Anh thấy chưa! Tôi bắn trúng hồng tâm rồi nhá.
Bờ môi thanh tú điểm một nụ cười kiêu ngạo, Nguyễn Ánh nheo mắt nhìn tấm bia trước mặt, rồi cầm lấy cây súng đã được nhồi của viên lính đứng bên cạnh mình. Nâng cây súng lên, Nguyễn Ánh không nheo mắt, anh cứ thế mà bóp cò. Và rồi đoàng một tiếng, viên chỉ huy kinh ngạc khi nhìn thấy vết đạn của Nguyễn Ánh bắn nằm chồng lên vết đạn đã bắn của Linh Lan. Thấy Nguyễn Ánh không cần nheo mắt ngắm bắn, mà lại còn bắn trùng với vết đạn mình đã bắn trước đó, Linh Lan há hốc miệng. Nó hết nhìn Nguyễn Ánh rồi lại nhìn tấm bia, mãi cho đến khi anh dẫn nó đi khỏi trường bắn, mà nó vẫn còn chưa tin vào mắt mình. Ôi trời! Anh ta mà về hiện tại thì đi bắn súng hay ném phi tiêu trong các khu hội chợ, chắc chắn sẽ khiến các gian hàng đó sạt nghiệp vì tài bắn súng của mình.
- Tôi còn muốn coi nữa! Nán lại chút xíu đi.
- Không! Coi bấy nhiêu đủ rồi.
- Chưa đủ, tôi còn muốn coi nữa mà.
Linh Lan vừa đi vừa kỳ kèo, nó cố năn nỉ hết lời nhưng Nguyễn Ánh lại phớt lờ. Biết một khi Nguyễn Ánh đã nói thì không bao giờ thay đổi, Linh Lan phịu mặt xuống, bụng tiếc hùi hụi vì vẫn còn chưa quan sát đầy đủ, kỹ càng. Thấy Linh Lan hết ngọ nguậy, tuy khuôn mặt vẫn còn phụng phịu, vành môi cong cong trễ xuống, dỗi hờn, Nguyễn Ánh biết nó đã chịu vào khuôn phép. Anh xiết lấy bàn tay nhỏ bé của nó, dẫn nó đi trên con đường rợp bóng cây xanh. Nhận ra đây không phải đường về phủ, Linh Lan vô cùng ngạc nhiên. Nó ngước mắt nhìn anh, đôi mắt đen láy xoe tròn, tựa bao điều muốn hỏi trong đó. Cúi xuống nhìn Linh Lan, bàn tay ấm áp của Nguyễn Ánh chợt đưa lên, vén những sợi tóc mảnh mai cài trên môi nó. Những ngón tay thon mảnh của anh lướt ngang qua bờ môi, làm Linh Lan vội ngoảnh sang nơi khác, lòng thắc mắc không biết Nguyễn Ánh muốn đưa nó đi đâu.
Con đường dài hun hút trước mặt, lại thêm khung cảnh vắng vẻ, chỉ có tiếng chim hót ríu rít và tiếng vòm lá cọ vào nhau xào xạc làm Linh Lan thấm mệt khi đi cả quãng đường dài. Gạt nhanh giọt mồ hôi chưa kịp rơi xuống mắt, những bước chân của nó bây giờ đã chậm lại, run rẩy, líu ríu vào nhau, khi cố bắt kịp những bước chân sải dài của Nguyễn Ánh. Đang tình mở miệng bảo anh nghỉ chân một chút, đột ngột, một vòng tay luồn qua thắt lưng Linh Lan, rồi bế bổng nó lên, nâng khuôn mặt thấm mệt, đỏ ửng vì nắng của nó ngang khuôn mặt thanh tú, kiêu ngạo của Nguyễn Ánh. Anh mỉm cười, khi in trong đáy mắt anh là gương mặt trái xoan của Linh Lan đang ngạc nhiên, và nói gọn hơ.
- Đừng làm mất thời gian của tôi.
Nếu mọi ngày, Nguyễn Ánh mà làm thế thì Linh Lan không cãi lại, giục anh thả xuống thì cũng động tay động chân kịch liệt. Nhưng lần này Linh Lan lại im lặng. Nó đang mệt. Cổ họng khô rốc, chân mỏi rã rời, chỉ muốn được nằm lăn ra giường nghỉ ngơi. Lần đầu tiên, con cún con hung dữ thường ngày lại trở nên ngoan ngoãn, hiền lành như một chú mèo con, Nguyễn Ánh mỉm cười. Vòng tay của anh xiết chặt lại, bước chân thong thả tiến về phía trước, đưa Linh Lan đến địa điểm cần thiết tiếp theo của mình …
Chú thích:
(*) Tên tiếng Pháp của Bá Đa Lộc.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top