Sương đỏ 121-141
★ Chương 121
Cung Đoan Nguyên nằm ẩn trong vườn trúc xanh mướt, từ cửa sổ nhìn ra bên ngoài có thể thấy được tòa ngự lâu vươn mình đón gió. Như là một thói quen ăn sâu trong tiềm thức, ngày nào Nguyên Thục cũng tựa cửa sổ, đứng nhìn tòa ngự lâu, trông ngóng, đôi bàn tay bấm vào nhau với hy vọng sẽ trông thấy tà áo lục phơ phất trước lầu rồng.
Từ khi được Trịnh Khải đích thân ra tận hoang đảo xa xôi đón về, Nguyên Thục mừng lắm, nó lại còn sung sướng hơn khi nghe A Đào kể lại phản ứng của Trịnh Khải lúc hay tin nó bị Thanh Loan bắt đi. Anh có phản ứng như thế, có thể nói vị trí của nó rất quan trọng trong lòng anh, vậy nên, dù cô gái tên Thanh Loan kia đã qua đời có khiến Trịnh Khải đau lòng, nhưng nó tin rằng thời gian qua đi, vết thương trong lòng anh sẽ khép, cái tên Thanh Loan chỉ còn là một kỷ niệm, rồi nó và anh sẽ cùng vun đắp hạnh phúc cho nhau. Cho dù vật đổi sao dời, nó vẫn sẽ luôn ở bên cạnh anh, cho anh một gia đình hạnh phúc, sinh ra những đứa con thật đáng yêu như lời anh nói khi cả hai ở bên nhau.
Ý nghĩ về một tương lai hạnh phúc tươi sáng luôn hiển hiện trong đầu Nguyên Thục, nhưng bây giờ nó lại chẳng thể suy nghĩ gì khác khi Thánh mẫu đã quyết, hôm nay sẽ là lễ tấn phong Vương phi cho Ngọc Xuân. Quyết định ấy khiến Nguyên Thục bị đả kích nặng nề. Nhìn tòa Lượng phủ chuẩn bị rộn ràng cho buỗi lễ diễn ra trong vài phút tới, đèn hoa giăng kết, khắp nơi tưng bừng tiếng sên ca, Nguyên Thục tủi thân trào nước mắt. Hơn ai hết, nó không bao giờ muốn chuyện này xảy ra, nó không muốn Ngọc Xuân trở thành Vương phi của Trịnh Khải, trên danh nghĩa cũng không, nhưng cay đắng thay nó không thể làm gì khác bởi đã thua trong cuộc tranh cử ngôi vị mà chính nó đề nghị với số phiếu ít ỏi. Với thất bại đó, nó không còn lý do gì để lên tiếng, không còn lý do gì để ngăn cản buổi lễ diễn ra, giờ đây, nó chỉ còn biết ngồi trong phòng, đóng chặt cửa, không muốn nhìn thấy ai, không muốn tiếp xúc với ai. Ngoài kia, Thánh mẫu đang hân hoan, Dương thái phi đang vui vẻ, Ngọc Xuân đang e lệ, ai ai cũng hạnh phúc, chỉ có nó là đau buồn, tuyệt vọng trong căn phòng lẻ loi này mà thôi.
Nguyên Thục thẫn thờ nhìn bóng mây trôi trên cao, mắt ướt đẫm lệ. Nó muốn được gặp Trịnh Khải, muốn được anh vỗ về, an ủi, nhưng nó biết điều đó là không thể bởi bây giờ anh đang phải đến bái yết tổ tiên. Một mình vò võ trong cung, Nguyên Thục cứ suy nghĩ nhiều chuyện. Mỗi lần nghĩ đến giây phút Ngọc Xuân được phong làm Vương phi, cùng sánh vai anh với nụ cười mãn nguyện, trái tim Nguyên Thục lại thốn lên, run rẩy, đau như xát muối. Nguyên Thục cắn chặt môi lại, cố ngăn tiếng nấc. Chuyện Thanh Loan đã qua, những tưởng từ nay sẽ được sống yên ổn bên cạnh người nó yêu, thế nhưng lần này, mọi ước mơ ấp ủ bao lâu của nó đều tan biến. Nó không muốn ai trở thành vợ của Trịnh Khải hết, không muốn ai sinh con cho anh hết, không muốn ai ở bên cạnh anh hết, ngoại trừ một mình nó, Hồ Nguyên Thục mà thôi.
- Tiệp dư, giờ tấn phong Vương phi đã đến, người hãy để chúng em thay xiêm y, nếu đến trễ Thánh mẫu sẽ không hài lòng đâu.
Thấy Nguyên Thục vẫn chưa chịu thay đồ, trang điểm, mà chỉ ngồi nhìn ra ngoài cửa sổ thẫn thờ, A Đào lo lắng lên tiếng. Gạt đi giọt lệ lăn dài trên má, Nguyên Thục nói mà không quay đầu lại, giọng cố ra vẻ tự nhiên.
- Em không đi đâu, hai chị cứ đi đi!
- Nhưng mà…
- Không sao đâu, chẳng phải Thánh mẫu đã nói nơi nào có mặt bà thì em không được phép xuất hiện à, như vậy em không đi là đúng, bà ấy chẳng có gì để bắt lỗi em được. Còn hai chị thì khác, nếu không tham dự buổi lễ này, Thánh mẫu sẽ quy tội hai chị bất kính với tân Vương phi, như thế không hay đâu.
- Tiệp dư…
- Hai người cứ đi đi, đừng lo cho em!
Thấy vì lo cho mình mà A Vân và A Đào vận chưa chịu đi, Nguyên Thục quay người lại, nó mỉm cười, nhưng đôi mắt lại đỏ hoe. Thấy Nguyên Thục mắt lệ rưng rưng, A Đào và A Vân thở dài, cả hai nhìn nhau, sâu trong ánh mắt là sự thương cảm cho chủ nhân mình. Tiệp dư rõ ràng đã cố gắng đến thế, vì hạnh phúc của mình mà đấu tranh như thế, nhưng kết quả vẫn chẳng được gì, đó chẳng phải quá bất công hay sao.
- Tiệp dư, vậy chúng em đi nhé, chúng em sẽ quay về sớm với người!
- Ừ, các chị đi vui vẻ!
Biết mình đã làm hai nàng cung nữ lo lắng, Nguyên Thục cố tỏ ra vui vẻ. Còn lại một mình trong phòng, Nguyên Thục nhìn ra chiếc bàn đá, nơi nó và Trịnh Khải ngồi khắc gỗ với nhau, trong phút chốc, bao buồn tủi lại dồn về, những giọt lệ nóng hổi lại trào ra, cảnh vật trở nên nhạt nhòa, cung Đoan Nguyên chìm trong yên ắng. Thời gian chậm chạp trôi qua, Nguyên Thục cứ ngồi bất động như thế, cho đến khi A Đào và A Vân trở về, cho đến khi màn đêm mênh mông buông xuống, vắng lạnh và quạnh hiu.
oOo
Sau lễ tấn phong Vương phi, Tòa lượng phủ nhanh chóng dọn dẹp, quét tước, để chuẩn bị lễ chính kỵ (*) của Thịnh vương Trịnh Sâm. Chưa được nghỉ ngơi sau buỗi lễ tấn phong Vương phi, chiều hôm qua Trịnh Khải đã phải tất bật cho lễ tiên thường (*), để lễ chính kỵ sẽ diễn ra sáng hôm nay ở Cung miếu. Chính vì công việc ngập đầu, Trịnh Khải không có thời gian đến gặp Nguyên Thục. Qua việc tấn phong Vương phi, anh biết Nguyên Thục rất buồn tủi và đau lòng, anh muốn đến gặp nó, giải thích rõ ràng chuyện anh không hề động phòng với Ngọc Xuân như bao người đã lầm tưởng, nhưng với công việc bộn bề trước mặt, anh hy vọng Nguyên Thục có thể nhẫn nại được, có thể chờ anh hoàn tất những nghi thức trong ngày lễ chính kỵ của phụ thân, để anh giải quyết việc công trước hết, rồi sau đó mới đến chuyện riêng của bản thân mình.
Với ý nguyện ngôi chúa sẽ có người kế vị, Thánh mẫu và Dương thái phi buộc Trịnh Khải phải động phòng với Ngọc Xuân, nhưng anh đành làm hai người thất vọng khi phải từ chối ý nguyện đó. Đêm hôm ấy, anh đã để Ngọc Xuân ở lại tân phòng, còn bản thân lại ra ngự hoa viên, nơi lúc bé anh thường hay lui tới. Đứng giữa khu vườn rộng lớn, cỏ xanh mọc lấn lối đi xưa, bao kỷ niệm tuổi thơ bỗng nhiên ùa về trong tâm trí anh. Thường ngày, những ký ức này sẽ không đưa Trịnh Khải đi quá xa, thế nhưng hôm nay, đối diện với trách nhiệm gia tộc, anh cho phép nó đưa bản thân anh trôi về miền quá khứ, nơi anh không bao giờ muốn quay trở lại, nơi chỉ khiến ưu phiền trong anh càng dày thêm.
Ngẩng nhìn bầu trời sao mênh mông, Trịnh Khải tự hỏi khi đứng giữa căn phòng ấy, nhìn thấy mẫu thân chứ không phải phi tần mà phụ thân anh đã cho gọi, ông đã có suy nghĩ gì? Nếu như ngày ấy, không vì chút thương xót đối với nàng phi tần bẽ bàng kia, nàng phi tần may mắn hay bất hạnh ấy sẽ không mang thai, và anh, đứa bé không được phụ thân yêu, sẽ không được sinh ra trên đời để rồi phải mang nỗi khát khao yêu thương đến cả cuộc đời này. Anh không muốn giống phụ thân, không muốn hành động như ông đã từng hành động. Là một đứa bé bị bỏ rơi, anh hiểu rất rõ cảm giác ấy, cảm giác bị cha phủ nhận, chẳng mảy may ngó ngàng đến. Thà rằng bây giờ anh làm tổn thương Ngọc Xuân còn hơn vì trách nhiệm của gia tộc mà tiếp tục đi vào vết xe đổ của tiền nhân, sinh ra một đứa bé không mong đợi, nhìn thấy thêm một người phụ nữ chôn vùi thanh xuân trong nước mắt buồn tủi. Anh là một đứa bé không được cha yêu, và anh không muốn phải có thêm bất kỳ đứa trẻ nào bị phụ thân mình phủ nhận nữa, hoàn toàn không.
Đêm hôm ấy, Trịnh Khải đã không đến với Ngọc Xuân, cũng không đến cung Đoan Nguyên của Nguyên Thục, anh muốn được một mình. Tiếng gió nhè nhẹ lùa qua, đưa anh trở về năm tháng xa xưa đã phủ rêu phong. Những giọt nước mắt long lanh của mẹ, ánh mắt hy vọng của thánh mẫu, nụ cười dịu dàng của Thanh Loan, gương mặt bầu bĩnh của Nguyên Thục, cái nhìn e ấp của Ngọc Xuân. Tất cả họ, anh không muốn làm tổn thương bất cứ ai, nhưng bằng cách này hay cách khác, anh đã vô tình đã làm tổn thương tới họ, rất nhiều.
Trịnh Khải yên lặng, đôi mắt đang nhắm của anh nhẹ mở ra khi Nguyễn Khản lên tiếng nhắc nhở vì đã quá giờ rước linh vị. Bước ra ngoài sân rồng, ánh mắt anh hướng về hương cung Đoan Nguyên một lúc lâu rồi quay người đi. Hôm nay, khi đã hoàn tất lễ chính kỵ của phụ thân một cách chu đáo, anh sẽ đến cung Đoan Nguyên, giải thích mọi việc rõ ràng với người anh yêu.
oOo
- Tiệp dư, người có sao không? Có cần gọi ngự y đến không?
Nguyên Thục nằm dài trên giường, đầu trùm kín chăn, mặc cho A Đào và A Vân lo lắng lay gọi. Chưa bao giờ Nguyên Thục cảm thấy mệt mọi như lúc này. Ba ngày qua nó cảm thấy không được khỏe, đầu lúc nào cũng váng vất, miệng nhạt thếch, ăn gì cũng không thấy ngon, nguyên nhân của tình trạng ấy là do Nguyên Thục đã ngồi ngoài ngự hoa viên suốt đêm hôm tấn phong Vương phi. Nó ngồi trong vườn chờ Trịnh Khải đến. Nó đã hy vọng anh đến, nhưng chờ hoài chờ mãi, chờ cho đến sáng vẫn không thấy bóng dáng anh đâu, Nguyên Thục vô cùng thất vọng. Nó buồn bã, lủi thủi quay trở về phòng, và hậu quả của một đêm thức trắng dưới sương là nó đã ngã bệnh, không bệnh nặng một trận mà lại âm ỉ, dai dẳng, khó chịu như chính trái tim của nó bây giờ.
- Em chỉ bị cảm thông thường, không cần ngự y đến làm gì đâu, uống chén trà gừng là khỏi thôi.
- Nhưng lát nữa lễ chính kỵ của tiên vương sẽ diễn ra, người như thế này làm sao tham dự.
- Em đi được, không sao đâu, chị đừng lo.
Trấn an lo lắng của hai nàng cung nữ, Nguyên Thục tính tiếp tục nằm dài trên giường, nhưng nghĩ sao nó lại nhoài người ngồi dậy. Lễ chính kỵ của tiên vương Trịnh Sâm, Trịnh Khải chắc chắn là người chủ trì, mấy ngày nay trông ngóng anh đến nhưng không thấy, muốn đi gặp anh nhưng không thể vì nó biết anh bây giờ đang rất bận rộn, nếu vậy, nhận dịp lễ chính kỵ này, nó sẽ có cơ hội để gặp anh, được nhìn thấy anh, dù trong phút chốc thế cũng đủ lắm rồi.
Nguyên Thục suy nghĩ như thế, nhưng chỉ trong phút chốc nó lại nằm xuống, mặt quay vào tường. Gặp anh rồi thì sao chứ, bây giờ anh đã có Vương phi rồi, phải sóng đôi với nàng ta đến vấn an Thánh mẫu, đến bái tế tiên vương, sao có thể đến bên cạnh một Tiệp dư bình thường không địa vị gì như nó. Nó có thể chịu được sự kỳ thị của Thánh mẫu, ánh mắt không thiện cảm của Dương thái phi, nhưng nhìn thấy anh ở bên cạnh người con gái khác thì nó không thể chịu được. Dẫu biết mình ích kỷ, dẫu biết mình vô lý khi hiểu anh chắc chắn đang rất ưu phiền về cái chết của Thanh Loan, rồi đến chuyện tấn phong Vương phi, chuyện giỗ cúng, bấy nhiêu đó đủ làm anh bận rộn và mệt mỏi, nhưng Nguyên Thục lại chẳng thể ngăn cho lòng mình thôi không giận dỗi. Đêm hôm ấy, anh có động phòng với Ngọc Xuân không, nếu không thì tại sao lại không đến chỗ nó, giải thích cho nó hay. Cứ mỗi lần nghĩ đến chuyện ấy, Nguyên Thục lại thấy tủi thân. Đêm hôm đó, chắc chắn anh biết nó đang chờ đợi anh, trông ngóng anh, nhưng tại sao anh lại không đến, để nó sống trong hoài nghi, tuyệt vọng và xót xa như thế, tại sao.
- A Đào, A Vân, hai cô có trong đó không?
Nhìn gương mặt buồn bã ủ ê của Nguyên Thục, A Đào và A Vân đều hiểu nó đang buồn vì chuyện gì nhưng lại không biết an ủi bằng cách nào, đang làm mấy món điểm tâm để Nguyên Thục phấn chấn trở lại, cả hai ngừng tay khi nghe tiếng của tổng quản Hồng Phương bên ngoài vang lên. Đưa mắt nhìn nhau, A Đào vội ra mở cửa, sau đó cô quay trở lại, thì thầm vào tai A Vân mấy câu, cả hai nhanh chóng hoàn tất món điểm tâm rồi để trên bàn, sau đó nói nhẹ nhàng.
- Tiệp dư, trong phủ hiện đang rất nhiều việc, chúng em theo lệnh của Thái phi đến Tả xuyên đường để giúp việc. Trên bàn có sẵn điểm tâm chúng em làm, nếu thấy đói, Tiệp Dư hãy ăn nhé!
- Được, các chị đi đi, em không sao đâu!!
Giọng nói của Nguyên Thục vọng lên từ dưới chăn, nghe nghèn nghẹn. A Đào và A Vân đưa mắt nhìn nhau, nét mặt cả hai lộ vẻ lo lắng khi thấy tình trạng ảm đạm của Nguyên Thục, nhưng không còn cách nào khác hơn phải theo chân Hồng Phương đến Tả xuyên đường để bưng bánh trái phục vụ cho bá quan văn võ ngồi chờ trước khi vào dự lễ. Thở nhẹ một tiếng, cả hai lặng lẽ bước ra ngoài. Dù không nói ra, nhưng hai cô đều rất yêu quý Nguyên Thục, nó đã đối xử với các cô rất tốt, hệt như chị em trong nhà, nay thấy Nguyên Thục buồn bã u sầu như thế, các cô cũng không thấy vui trong lòng.
Cánh cửa nhẹ nhàng khép lại, tiếng bước chân xa dần, căn phòng lại chìm trong im lặng, thời gian nhỏ giọt trôi qua. Bỗng, tấm chăn đột ngột tung lên, Nguyên Thục choàng người ngồi dậy. Suốt từ tối hôm qua Nguyên Thục không hề động đến cơm nước, bây giờ bụng nó réo lên ùng ục. Nhìn những món điểm tâm ngon lành trên bàn, mắt Nguyên Thục sáng lên, nó thầm cám ơn A Vân, A Đào rồi bắt đầu ăn lấy ăn để, loáng cái đã sạch veo.
Sau khi đã no nê, Nguyên Thục thong thả đứng dậy, nó vươn vai cho các khớp xương trong người thư giãn, rồi rót cho mình một chén trà để uống cho đỡ khát. Chuyện gì đã xảy ra với Nguyên Thục, chẳng lẽ nó đau buồn quá nên thần trí rối loạn rồi hay sao. Không, nó không hề mất trí, ngược lại còn thấy mình chưa bao giờ tỉnh táo như lúc này. Suốt từ nãy đến giờ, Nguyên Thục đã suy nghĩ rất nhiều, rất nhiều, để rồi trong phút chốc, nó chợt nhận ra không ai làm đau lòng nó, mà là chính nó tự làm đau lòng mình bằng những suy nghĩ bi quan, để rồi buông thả bàn thân mình như thế này.
Nguyên Thục ngồi thẳng lưng, nó uống một hơi hết hai ba tách trà, và cảm thấy tinh thần vô cùng sảng khoái. Tiến đến bàn trang điểm, Nguyên Thục ngồi xuống, tay cầm lấy lược rồi bắt đầu chải tóc cho thẳng mượt. Hôm nay là lễ chính kỵ tiên vương, nó phải ăn bận thật chỉnh tề để dự lễ, để gặp Trịnh Khải đặng hỏi anh cho sáng tỏ những gút mắt trong lòng.
Phải, nó đã suy nghĩ kỹ rồi, nó không thể nằm dài trên giường, chán chường, mệt mỏi và tự hành hạ bản thân mình với những câu hỏi như thế. Nếu như nó cứ nằm đây, hờn trách Trịnh Khải, giận dỗi anh, trong khi chưa nghe anh giải thích gì, há chẳng phải bất công cho anh sao. Chuyện động phòng với Ngọc Xuân, nó tin chắc rằng không có chuyện đó xảy ra, còn tại sao anh không đến gặp nó, thì hôm nay khi gặp được anh, khi công việc lễ giỗ xong xuôi nó sẽ được nghe anh giải thích. Càng nghĩ, Nguyên Thục càng thấy mình thật là tệ. Hơn ai hết, nó phải là người hiểu rõ Trịnh Khải đang mệt mỏi trong giai đoạn này, cái chết của Thanh Loan chưa nguôi ngoai trong lòng, nay anh lại phải theo lời Thánh mẫu tấn phong Vương phi, rồi lại đến ngày giỗ của tiên vương, bao chuyện xảy ra dồn dập, anh chắc chắn đang rất mệt mỏi. Nó vốn là người thân cận anh, là người anh yêu và yêu anh thì nó phải hiễu rõ chuyện này hơn ai hết, phải thông cảm và quan tâm tới anh, chứ sao lại chỉ biết nằm đây giận dỗi, tủi thân như thế này.
Nhớ đến nét ưu phiền trên gương mặt thanh tú của Trịnh Khải, nhớ đến ánh mắt sâu thẳm chơi vơi khi hay tin Thanh Loan đã qua đời, Nguyên Thục lại thấy thương anh hơn bao giờ hết. Nước mắt của nó lại trào ra, không phải vì giận dỗi, mà là vì yêu thương, lo lắng. Nó ích kỷ, vô cùng ích kỷ vì không nghĩ đến anh mà chỉ biết đến bản thân mình mà thôi. Hôm nay là ngày giỗ đầu của Thịnh vương, chắc chắn Thánh mẫu và Dương thái phi cũng có mặt, nó không thể đến Cung miếu, nên chỉ có thể đợi lễ xong mới được vào thắp nén nhang cho người quá cố. Trang phục chỉnh tề, mái tóc chải mượt gọn gàng, Nguyên Thục nhìn mình trong gương, hai má đào ửng hồng khi nghĩ đến chốc nữa đây thôi nó sẽ được gặp Trịnh Khải, sẽ được nghe anh giải thích tất cả gút mắc, và được ở trong vòng tay ấm áp của anh. Nguyên Thục nhắm mắt, hai tay nó chắp lại, đặt lên trái tim rồi thì thầm.
Thánh thần ơi, mong các người hãy phù hộ cho anh ấy được khỏe mạnh và bình yên.
Nguyên Thục đang cầu nguyện, bất chợt nó mở bừng mắt ra khi nghe thấy tiếng bước chân bên ngoài vang lên. Nó vội đứng lên, chưa kịp bước ra ngoài xem xét tình hình thì đã thấy cánh cửa mở tung ra, một bóng người ập vào, tóc tai rối bời, áo quần xộc xệch, khiến Nguyên Thục vội vàng lùi lại vài bước vì sự cố đột ngột này…
★ Chương 122
Bóng người vừa ập vào phòng Nguyên Thục là một thiếu phụ dung nhan xinh đẹp, mái tóc mây xõa dài trên tấm lưng thon. Lẽ ra người trong Huỳnh cung giờ này phải tất bật để lo liệu đại lễ, thế mà người thiếu phụ này, đầu tóc có phần xơ rối, nét mặt lại vô cùng hốt hoảng, từ đâu chạy xộc vào phòng Nguyên Thục, khiến nó ngạc nhiên vô cùng.
Tương tự như Nguyên Thục, có vẻ như không nghĩ ngày chính kỵ của Thịnh vương mà còn có người ở trong phòng, người thiếu phụ có hơi sửng sốt, tới khi nhìn rõ đó chỉ là một cô gái nhỏ bé đang ngồi trước gương chải tóc, bất giác, bà ta trở nên điềm tĩnh, tay vuốt lại mớ tóc rối cho thật gọn gàng. Hành động đó của thiếu phụ khiến Nguyên Thục lấy làm lạ. Thông thường nếu một ai đó đột nhập hay vào nhầm phòng mà gặp mặt người khác trong đó, thì họ sẽ bối rối, sẽ xin lỗi rồi nhanh chóng quay trở ra ngoài, chứ không bình tĩnh đến mức ung dung như người phụ nữ này.
- Xin lỗi, bà là ai, sao lại vào phòng tôi?
Không thể im lặng thêm giây phút nào nữa, Nguyên Thục đành lên tiếng. Đáp lại câu hỏi của nó là ánh nhìn dò xét của người thiếu phụ, bà ta hỏi, giọng cao vút, chất giọng thường thấy ở những cung phi quyền quý ngày xưa.
- Còn ngươi, ngươi là ai? Hôm nay là ngày chính kỵ của tiên vương, lẽ ra mọi người phải có mặt ở Cung Miếu mới đúng, tại sao ngươi còn ở đây?
Nguyên Thục nhíu mày, nó mới hỏi một câu, thiếu phụ này không thèm trả lời, lại còn hỏi ngược hai ba câu, thêm vào đó, thái độ kiêu ngạo, nhìn người khác bằng nửa con mắt của bà ta làm nó không thích chút nào. Thong thả ngồi xuống ghế, tiếp tục công việc chải tóc, Nguyên Thục hờ hững đáp lời.
- Tôi là ai không quan trọng, bà là ai cũng chẳng quan trọng, muốn uống trà, ăn bánh thì có sẵn ở trên bàn, cứ tự nhiên.
Không nghĩ Nguyên Thục lại thản nhiên đến thế khi thấy người lạ, đôi mày lá liễu của thiếu phụ nhướng lên, một nét cười vẽ trên vành môi kiêu kỳ đỏ thắm. Khoan thai ngồi xuống bàn, bà ta cầm bình trà, nhẹ nhàng rót vào tách, phong thái ung dung đẹp như tranh vẽ. Khi rót đầy tách trà sóng sánh, người thiếu phụ không vội uống mà lại đưa lên mũi ngửi, gương mặt phù dung chợt trở nên mông lung. Trong phút chốc, bầu không khí yên lặng liền tan ra khi người thiếu phụ ngâm nga một bài thơ, giọng ngâm trong trẻo, ngọt ngào.
Cửa gác đóng im lìm
Lầu cao nằm trống trải
Đợi chàng hoài chẳng về
Bưng chén trà chờ mãi(*)
Nguyên Thục ngừng chải tóc, nó đưa mắt nhìn thiếu phụ, thẫn thờ khi bài thơ bà ta vừa ngâm quả thật chẳng khác nào tâm trạng của nó bây giờ. “Cửa gác đóng im lìm, lầu cao nằm trống trải, đợi chàng hoài chẳng về, bưng chén trà chờ mãi”. Những ngày qua, trong căn lầu quạnh vắng, Nguyên Thục bưng chén trà, muốn uống nhưng lại không uống, mà cứ cầm mãi, cầm mãi để chờ Trịnh Khải ghé qua. Thấy nét mặt đầy tâm trạng của Nguyên Thục, người phụ nữ mỉm cười, bà ta nói, giọng dịu dàng.
- Ngươi thường hay uống trà, thế có biết loại trà mà ngươi đang uống là trà gì không?
Khi nghe bài thơ người thiếu phụ ngâm, những cảm giác khó chịu về người thiếu phụ trong tâm trí Nguyên Thục dần tan biến. Khi bà ta ngâm thơ, Nguyên Thục tinh ý nhận ra chất giọng vừa buồn bã vừa luyến tiếc, chắc hẳn trong lòng thiếu phụ cũng ôm ấp những nỗi niềm riêng mà không thể chia sẻ với ai, y như nó lúc này. Nhìn tách trà bốc khói mỏng manh, Nguyên Thục thật thà trả lời.
- Tôi không rành mấy chuyện trà nước cho lắm, có người pha thì chỉ biết uống thôi!
Nghe Nguyên Thục đáp, người thiếu phụ xoay chén trà trong tay, đôi mắt hạnh lấp lánh khi nói về sở thích từ xưa của mình.
- Ta cũng không lạ, đám phi tần như các ngươi chỉ biết sống nhàn nhã trong cung, trà gì với trà gì cũng không biết, sao có thể biết cách thưởng thức một tách trà ngon được chứ.
Bị người thiếu phụ liệt kê vào dạng phi tần sống nhàn nhã trong cung, Nguyên Thục chẳng phản ứng gì, đơn giản vì bà ta nói đúng. Đối với nó, trà nào cũng như trà nào, uống chẳng có gì khác biệt, lại thêm nó thích uống nước lọc hơn nước trà, mà đã là người không yêu trà, việc gì phải bõ công ra thưởng thức vị trà kia thơm ngon ra sao.
- Những người sành trà như bà thì chỉ cần ngửi qua đã phân biệt được trà nào với trà nào, còn tôi, tôi không yêu trà, nên không có duyên với nó, vậy thôi.
Nghe Nguyên Thục trả lời, giọng bình thản, người thiếu phụ mỉm cười, bà ta gõ nhẽ ngón tay vào tách trà, tai nghiêng ngóng như để lắng nghe thứ âm thanh nào đấy, rồi nói, giọng hòa nhã.
- Ngươi nói đúng, ta yêu trà, không, phải nói là ta không muốn yêu cũng khó, bởi vì ngày xưa, ta khổ công vượt ngàn dặm xa, trèo đèo lội suối chỉ để tìm thấy nó, hệt như cô gái đi tìm người yêu. Thứ trà mà ngươi đang uống chính là loại trà dễ nhận biết nhất, trà sen Tây hồ, bởi hương vị thanh ngọt, pha lẫn mùi thơm thanh thoát của sen rất riêng của nó. Ngươi biết không, loại sen được dùng ướp trà phải là loại có bông hoa lớn, màu hồng tươi. Sen phải được hái từ lúc sáng sớm, khi ánh dương còn chưa lên để hương sen không bị tản đi, sau đó đem tách từng cánh sen ra để lấy nhị hoa, khi lấy nhị thì phải cho ngay vào hộp và đậy nắp lại để hương thơm không bị bay đi mất…
Người thiếu phụ nói về trà một cách say sưa, đôi bàn tay ngọc nâng niu chén trà trong tay hệt như bảo vật, khiến Nguyên Thục cảm thấy kỳ lạ. Quần áo xộc xệch, tóc mây hơi rối, nhưng phong thái tự tin, gương mặt xinh đẹp, từng cử chỉ đều toát lên vẻ quyền quý, chứng tỏ trước đây bà ta hẳn có địa vị rất cao trong Lượng phủ, lại thêm cái khoản kiến thức phong phú về trà khiến nó cảm thấy nghi hoặc. Khoan đã, địa vị cao, sành trà, có thể nào bà ta chính là…
- Bà là Đặng tuyên phi!
Nguyên Thục bất giác thốt lên, dường như chuyện bị người khác phát hiện ra thân phận không phải là chuyện lạ lẫm, người thiếu phụ chẳng tỏ thái độ gì, mà chỉ nhếch môi cười. Đặt tách trà đã cạn xuống bàn, người thiếu phụ nhìn Nguyên Thục, ánh mắt sắc sảo, như bề trên nhìn xuống bề dưới, khiến Nguyên Thục càng đoan chắc rằng người thiếu phụ đó chính là Đặng tuyên phi.
- Không sai, ta là Đặng tuyên phi!
Người phụ nữ nói, giọng không giấu vẻ tự hào. Phải, cho dù bây giờ bà đã sa cơ, không còn là đệ nhất phi tần xưa kia nữa, nhưng người khác vẫn nhớ về bà, nhắc đến một Đặng tuyên phi quyền uy bằng sự kính trọng và pha lẫn ghen tị. Cho dù bây giờ người đàn bà kia đã thắng thế, đã leo đến chức vị Thái phi, nhưng những gì người ta nhớ đến ả chỉ là một phi tần nhầm lẫn của Thịnh vương, chỉ có thế, không hơn, khác hẳn bà, một Tuyên phi gây sóng gió, nghiêng ngả cả tòa Lượng phủ một thời…
Khi người thiếu phụ thừa nhận mình là Tuyên phi Đặng Thị Huệ, Nguyên Thục “à” lên một tiếng, rồi thôi, nó không biết gì nhiều về người phụ nữ này, Trịnh Khải cũng chưa bao giờ nhắc đến bà ta trước mặt nó. Nguyên Thục không rành lịch sử, chỉ biết một ít về Đặng Thị Huệ qua việc học “Thượng kinh ký sự” của Hải Thượng lãn ông, vì thế, ân oán giữa bà ta và Dương thái phi thế nào nó không rành rẽ, thế nhưng Trịnh Khải không nhắc đến bà ta thì có lẽ người phụ nữ này cũng không tốt đẹp gì.
Nghĩ đến đó, nét mặt đang tươi cười của Nguyên Thục liền nghiêm lại, nó tiếp tục hoàn thành công việc búi tóc, rồi bắt đầu đến phần trang điểm. Hôm nay là lễ chính kỵ, nó không muốn trang điểm lòe loẹt, mà chỉ muốn phớt nhẹ một ít son phấn, che bớt vẻ xanh xao do bị ốm vặt suốt mấy ngày qua. Mấy hôm nay, Trịnh Khải đã mệt mỏi rất nhiều, nó không muốn vì mình mà anh phải lo lắng, bận lòng thêm làm gì.
- Ngươi đã biết ta là Đặng tuyên phi, còn ngươi là ai? Tại sao lại không dự lễ chính kỵ của tiên vương mà còn ngồi đây?
Nguyên Thục không muốn nói chuyện với Đặng Thị Huệ, nhưng bà thì trái lại. Việc một cô gái còn ung dung ngồi trang điểm trong phòng trong khi ngoài kia mọi người đều đang tất bật cho ngày lễ, khiến bà cảm thấy ngạc nhiên, xen lẫn thú vị. Vẫn tiếp tục tô son cho môi thêm hồng, Nguyên Thục hờ hững đáp lời
- Tôi là Hồ tiệp dư, phi tần của của Đoan nam vương. Bà chỉ cần biết thế, còn lại là chuyện riêng của tôi.
- Hồ tiệp dư? Hóa ra ngươi là người đã công khai cạnh tranh ngôi vị Vương phi với tân Vương phi đó sao?
Nghe Nguyên Thục bảo mình là Hồ tiệp dư, Đặng Thị Huệ thốt lên thích thú. Câu chuyện một nàng Tiệp dư thân phận bất minh, địa vị thấp kém, dám yêu cầu Thánh mẫu cho cạnh tranh ngôi vị Vương phi mà đám cung nữ, lính phủ bàn luận xôn xao suốt mấy tháng qua, tất nhiên Đặng Thị Huệ không thể chưa nghe. Khi biết được câu chuyện ấy, bà đã vô cùng thích thú. Sự thích thú còn pha lẫn ngạc nhiên khi hay tin một cô gái dám đứng ra đấu tranh vì quyền lợi và hạnh phúc của riêng minh. Trong khoảnh khắc ấy, bà bỗng nghĩ, cô gái ấy ắt hẳn ít nhiều giống mình, ở chỗ không cam chịu số phận bị sắp xếp, mà phải vươn lên, đoạt lấy hạnh phúc mà lẽ ra mình phải có. Cứ ngỡ rằng cô gái ấy sắc sảo lắm, quyết liệt lắm, khi cả gan đứng ra làm trái quy luật chốn hậu cung như thế, nào ngờ trước mặt bà chỉ là một cô gái nhỏ bé, nhan sắc bình thường đến thế, thật trái hẳn với trí tượng tượng phong phú của bà.
- Ngươi là phi tần của Trịnh Khải à. Hà, cũng khá đấy!
Nghe Đặng Thị Huệ nhắc đến Trịnh Khải, một tia sáng lóe lên trong đầu Nguyên Thục. Phải rồi, bà Tuyên phi này chắc ít nhiều gì cũng biết đến quá khứ của Trịnh Khải, cơ hội chỉ có một lần, sao nó không nhân dịp này mà hỏi chuyện về Trịnh Khải, biết đâu lại có thêm thông tin gì đó về anh, giúp nó tiến gần anh thêm một bước thì sao?
- Tuyên phi, nói thế, chắc chuyện trước kia của anh ấy, bà ít nhiều gì cũng biết một hai chuyện, đúng không?
Thấy nét mặt Nguyên Thục lộ vẻ nôn nóng, muốn biết Trịnh Khải ngày xưa ra sao, Đặng Thị Huệ im lặng nhìn nó từ đầu đến cuối. Không hiểu tại sao, nhìn cô gái này, bà lại có cảm giác như đang nhìn chính mình nhiều năm về trước. Ngày ấy, bà cũng như cô gái này, vô tư, hồn nhiên, ước mơ một cuộc sống bình thường bên cạnh người mình yêu. Vật đổi sao dời, con người ta cũng thay đổi, bà từ một cô gái hái chè thôn quê ước ao có một cuộc sống ấm cúng nay lại muốn có những thứ cao hơn, xa vời hơn ước mốn giản dị ban đầu của mình.
Liệu cô gái này có như thế chăng…?
- Ngươi hỏi thế để làm gì?
- Tôi… Chẳng qua tôi chỉ muốn biết nhiều thêm về anh ấy mà thôi.
Đặng Thị Huệ nhướng mày, một tia sáng kỳ lạ lóe lên trong ánh mắt rồi biến mất, bà nhìn đăm đăm vào mặt Nguyên Thục, bờ môi đỏ tươi chợt vẽ thành một nụ cười ngọt ngào.
- Ta nghe nói trong tiệc sinh thần của Thánh mẫu, ngươi đã bị một cô gái áo đỏ ám sát, ngươi có biết cô ta là ai không?
- Tôi biết. Cô gái đó chính là Hoàng Thanh Loan, cung chủ Huyết ly cung. Nhưng chuyện này thì sao?
- Ngươi có biết cô gái ấy là gì của Trịnh Khải không? Có biết trước kia mối quan hệ của hai người là thế nào không?
Đến đây, Nguyên Thục không trả lời. Đặng tuyên phi đã vô tình gợi lại cho nó mối lo lắng âm ỉ mà nó đã cố chôn sâu trong lòng, cố không nghĩ đến suốt thời gian qua. Thanh Loan qua đời, Nguyên Thục đọc được một nỗi đau không nói thành lời sâu trong đáy mắt của Trịnh Khải, chưa bao giờ nó thấy anh ưu phiền đến thế, như vậy đủ biết Thanh Loan giữ vị trí quan trọng với Trịnh Khải đến nhường nào. Đã mấy lần nó muốn hỏi thẳng anh mối quan hệ ấy, rằng thật ra giữa anh và Thanh Loan đã xảy ra chuyện gì, nhưng một mặt nó lại không muốn hỏi. Nó sợ rằng sẽ lại gợi thêm những kỷ niệm không vui của Trịnh Khải, và còn sợ hơn nếu phải nghe anh thừa nhận rằng Thanh Loan vô cùng quan trọng, rằng không ai có thể thay thế được Thanh Loan, kể cả nó. Nó sợ, rất sợ Trịnh Khải sẽ nói điều ấy ra, khiến nó sẽ càng thêm đau lòng.
Thấy Nguyên Thục không trả lời, nét mặt buồn hẳn, trong ánh mắt là sự chơi vơi, lạc lõng, Đặng Thị Huệ mỉm cười. Ve vuốt ấm trà để trên bàn, cảm nhận hơi ấm qua từng ngón tay lạnh giá, Đặng Thị Huệ chậm rãi nói từng câu.
- Ngươi đã hỏi ta về chuyện của Trịnh Khải thì ta cũng không hẹp hòi gì mà sẽ nói cho ngươi biết. Khi xưa, Thanh Loan và Trịnh Khải vốn là một đôi thanh mai trúc mã. Quận Huy, anh trai của Thanh Loan, còn bàn với ta rằng muốn nó sau này sẽ lấy Trịnh Khải để yên bề gia thất, bản thân ta cũng thấy hai người họ thật sự đẹp đôi nên đã tán thành hôn sự này. Nhưng chuyện đời khó đoán, cuộc hôn nhân ấy không thành khiến ta cũng cảm thấy có lỗi đối với cô ta, bây giờ cô ta thế nào rồi?
Đặng Thị Huệ càng nói, Nguyên Thục càng cảm thấy khó thở, nó trả lời bà mà tưởng chừng như không phải bằng giọng của mình.
- Cô ấy đã chết rồi.
- Sao? Chết rồi? Tại sao chết?
- Tôi không rõ, chỉ biết cô ấy đã tự sát, thế thôi!
Nguyên Thục vừa nói dứt, đôi mắt Đặng Thị Huệ mở to, bờ môi đào mấp máy, rồi không kềm chế được mà bật cười thành tiếng. Tự sát rồi, cuối cùng cô ta cũng đã chết rồi, lại còn chết sớm hơn cả ta. Thanh Loan ơi Thanh Loan, ta nói có sai đâu, cô quá trông chờ vào tình yêu ảo mộng của mình, tự huyễn hoặc mình rằng Trịnh Khải yêu cô, hiểu nhầm giữa cả hai sẽ được xóa bỏ, rồi hắn sẽ cưới cô, thật là nằm mơ. Cô đã làm tất cả vì hắn ta, nhưng đổi lại cô đã được gì? Chẳng được gì cả, chỉ là cái chết trong nỗi oán hận, giày vò, đơn độc và một trái tim tan nát mà thôi. Chết hay lắm, thật sự rất hay.
- Hồ tiệp dư, ngươi biết không, Thanh Loan thật đáng thương, vô cùng đáng thương. Vì ta cùng quận Huy và Trịnh Khải ở hai chiến tuyến, con bé ấy đã bị Trịnh Khải hiểu lầm khi tưởng rằng nó là gián điệp do quận Huy phái tới để do thám hắn trong khi nó chỉ một lòng muốn cứu hắn ta. Trịnh Khải bị phế truất, bị giam ở tam nhàn đường, nó vì oán giận ta, vì muốn trả lại cho Trịnh Khải tất cả những gì thuộc về hắn ta nên đã bỏ đi đến Huyết ly cung. Sau khi trở về, nó đã thực hiện được những gì mình muốn. Ta bị Thanh Loan vu oan, triệt hết vây cánh, con trai ta bị phế truất, còn Trịnh Khải được nó trả lại quyền lực, danh phận và những gì lẽ ra hắn ta phải có. Một mình Thanh Loan đã làm tất cả những việc đó. Nếu không vì sự trở về bất ngờ và âm thầm chuẩn bị của nó thì ta không dễ dàng gì bị lật đổ, Trịnh Khải cũng không phải là chúa Trịnh như bây giờ. Thanh Loan đã vì hắn mà không ngại hy sinh bản thân, nó đã vì hắn mà không ngần ngại đánh đổi tất cả. Nó làm tất cả vì hắn nhưng kết quả cuối cùng lại là gì? Tự sát. Là tự sát. Hồ tiệp dư, ngươi nói xem, Thanh Loan có đáng bị như vậy không, hả?
Đặng Thị Huệ vừa nói vừa cười, nét mặt vô cùng đắc thắng, còn Nguyên Thục thì lại chẳng thể nào thốt nên lời bởi những gì vừa nghe thấy. Thì ra, chuyện xảy ra giữa Trịnh Khải và Thanh Loan là như thế, Thanh Loan vì bị Trịnh Khải hiểu lầm là gián điệp nên đã bỏ đi, mối quan hệ tốt đẹp của hai người từ đó mới bị rạn nứt. Kỳ thực, Thanh Loan chẳng có lỗi gì cả, cô hoàn toàn vô tội, lại còn là người có công rất lớn trong chuyện đưa Trịnh Khải trở lại ngôi vị lẽ ra phải thuộc về anh, giúp anh tiêu trừ tất cả thế lực cản đường. Trịnh Khải liệu có biết sự thật này không? Nếu biết được chuyện này, anh sẽ như thế nào? Nếu biết mình trách lầm Thanh Loan, nếu biết tất cả những gì người bạn thanh mai trúc mã, đối tượng hôn nhân kia đã làm cho mình, đã hy sinh vì mình, anh sẽ làm gì? Thanh Loan đã chết, còn nó sẽ ra sao, anh sẽ đối xử thế nào với nó đây? Nó liệu còn có chỗ đứng trong tim anh không?
Nguyên Thục càng tự hỏi, càng thấy sợ, càng thấy lo lắng và không muốn biết câu trả lời. Thanh Loan, cô ta đã vì Trịnh Khải làm tất cả, vì Trịnh Khải mà hy sinh tất cả, chỉ một mình cô ta thôi đã có thể trao trả cho Trịnh Khải địa vì và quyền lực, đưa anh lên ngôi chúa, còn Ngọc Xuân, Ngọc Xuân xuất thân danh môn, có địa vị, sẽ là một hậu thuẫn tốt cho anh. Cả hai người con gái ấy đều yêu anh, hết lòng với anh và vì anh mà không màng đến hy sinh bản thân mình, còn nó, nó có gì? Không địa vị, không quyền lực, chẳng có gì cả. So với Ngọc Xuân là một sự thua thiệt, và so với Thanh Loan lại càng là khoảng cách một trời một vực. Nó vô dụng quá, bất lục quá, thử hỏi làm sao nó có thể bảo vệ anh, có thể là chỗ dựa vững chắc cho anh đây.
Nguyên Thục càng nghĩ càng rôi bời, bao nhiêu chuyện ập đến khiến nó bần thần, rệu rã cả người. Đối với Ngọc Xuân nó đã lo một, thì với Thanh Loan nó lo đến mười. Trịnh Khải có lẽ chưa biết được sự thật về Thanh Loan, rằng anh đã nghĩ oan cho cô ấy, rằng lẽ ra anh phải cảm kích những gì cô ấy đã làm, cô ấy ra đi mà vẫn ôm nỗi oan không thể giải vào người, lại còn chúc cho anh được hạnh phúc. Nó có nên nói chuyện này cho anh biết không? Có nên không hay giấu kín? Nếu biết, anh sẽ như thế nào với nó, có còn yêu nó không? Nó có còn quan trọng trong trái tim anh không, hay anh sẽ ân hận, nuối tiếc về Thanh Loan, tâm trí hướng về cô, tưởng nhớ về cô, mà không còn chỗ nào cho nó nữa? Người ta nói rằng người chết là người thắng tuyệt đối, Thanh Loan vô tội đã ra đi, nỗi đau của Trịnh Khải rất lớn, nếu giờ đây phát hiện thêm sự thật được giấu kín, chắc chắn vết thương lòng đó sẽ còn lớn hơn nữa. Rồi anh lúc nào cũng sẽ nhớ về cô ấy, nghĩ đến cô ấy, thấy có lỗi với cô ấy, ân hận vì hiểu nhầm cô ấy, còn nó đã thua cuộc, hoàn toàn thua cuộc mất rồi.
Nguyên Thục cắn môi, mắt rơm rớm. Phải cố lắm nó mới không để những giọt nước mắt long lanh chực rơi trước mặt Đặng Thị Huệ, bởi nó không muốn khóc trước người đàn bà kiêu ngạo nay. Ngay giây phút ấy, chợt trước cửa phòng Nguyên Thục có tiếng bước chân dồn về, giọng Hồng Phương ở bên ngoài vọng vào, khiến Nguyên Thục giật mình.
- Hồ tiệp dư, Thánh mẫu và Dương thái phi cho mời Tiệp dư đến sảnh đường.
★ Chương 123
Nhận ra đó là giọng của Hồng Phương, Nguyên Thục giật mình, nó hết nhìn Đặng Thị Huệ rồi lại nhìn ra cánh cửa, lòng vô cùng phân vân. Tuy không biết ân oán giữa Đặng Thị Huệ và Dương thái phi như thế nào, nhưng sống trong phủ, nó cũng biết phong phanh bà và Dương thái phi vốn là kình địch của nhau. Thế sự thay đổi, nay Đặng Thị Huệ thất thế, bị phế thành cung nhân và giam lỏng ở Hộ Tăng đường, nếu chuyện Đặng Thị Huệ ở trong phòng Nguyên Thục để lộ ra ngoài, thì trước mặt Thánh mẫu và Dương thái phi, nó cũng không thể thanh minh được, ngược lại còn có nguy cơ bị tống giam vì tội chứa chấp bà ta cũng không biết chừng.
Nhận ra Nguyên Thục đang do dự, Đặng Thị Huệ không nói gì, bà se sẽ gật đầu khi chạm phải ánh mắt lo lắng của nó. Thân là cung nhân bị giam giữ trong Hộ Tăng đường, vì muốn dự lễ chính kỵ của Thịnh vương nên thừa lúc binh lính sơ hở, bà đã nhân cơ hội lẻn ra ngoài, trốn đại vào căn phòng nào đó rồi tìm cách sau, do đinh ninh giờ này tất cả mọi người đều tập trung ngoài cung miếu, chứ đâu ngờ lại còn có một nàng phi tần còn ở trong phòng. Nếu bị phát hiện, bà sẽ bị bắt lại và đưa đến trước mặt Thánh Mẫu và Dương thái phi trị tội. Một khi chưa dự được lễ chính kỵ, bị bắt lại, bà không cam tâm, thế nên lúc này đây tốt nhất im lặng, tránh đánh động đến bên ngoài.
- Hồ tiệp dư, người có ở trong đó không ạ?
- Có, chị chờ chút, tôi ra ngay!
Nhìn nét mặt hòa hoãn của Đặng Thị Huệ, Nguyên Thục thừa biết bà ta không muốn bị người khác bắt gặp nên sẽ không làm gì gây bất lợi cho nó. Nghe tiếng Hồng Phương thúc giục lần thứ hai, Nguyên Thục vội vàng đáp lại, nó sửa sang lại xiêm y cho chỉnh tề rồi khoan thai mở cửa, đủ để Hồng Phương không thể nhìn vào trong, nét mặt thản nhiên như không có chuyện gì xảy ra.
- Thánh mẫu và Dương thái phi cho gọi tôi đến có chuyện gì không chị?
- Thuộc hạ không biết, thuộc hạ chỉ được lệnh cho gọi Tiệp dư đến mà thôi! Tiệp dư, mời người đi lối này.
Nguyên Thục nhíu mày, không lẽ Thánh mẫu và Dương thái phi đã biết chuyện Tuyên phi đang có mặt trong phòng nó. Vô lý, nếu thế, binh lính trong phủ đã ập đến cung Đoan Nguyên để bắt giữ bà ta, có đâu cho mời nó đến cung miếu như thế này. Kín đáo liếc mắt vào trong, Nguyên Thục có hơi yên tâm khi Đặng Thị Huệ đã ẩn sau tấm mành, nó mỉm cười với Hồng Phương, tay khép lại cánh cửa sau lưng và nói nhẹ nhàng.
- Thôi được, phiền chị dẫn đường cho tôi nhé!
- Thưa vâng ạ!
Nói rồi, Hồng Phương quay bước. Trên đường đi, cả hai im lặng, không nói với nhau câu nào, phần Nguyên Thục không có chuyện gì để nói, phần nghĩ tới việc đến cung miếu sẽ có thể gặp được Trịnh Khải, lòng nó tràn ngập hình ảnh của anh mà quên đi chuyện tại sao Thánh mẫu và Dương thái phi lại cho mời nó đến. Băng qua tả xuyên đường, nơi các bá quan văn võ đang tụ họp, Nguyên Thục tựa như chẳng nhìn thấy ai, nó phóng mắt vào cung miếu, mắt tìm kiếm tà áo lục trong làn khói thơm lảng bảng mơ hồ. Sau khi tìm mỏi mắt, Nguyên Thục ngập tràn thất vọng khi không nhìn thấy Trịnh Khải đâu. Sao lại thế, lễ chính kỵ chưa xong, lẽ ra giờ này anh đang thắp hương cho tổ tiên trong cung miếu chứ. Trịnh Khải không thấy, cả Ngọc Xuân cũng không thấy đâu, hay là hai người họ đã đi cùng nhau rồi.
- Hồ tiệp dư, ta cho người gọi đã lâu, tại sao bây giờ ngươi mới đến?
Người muốn gặp thì không thấy, người không muốn thấy lại cứ gặp. Từ phía xa, Dương thái phi dang dìu Thánh mẫu đi tới, trông thấy Nguyên Thục nhìn quanh quất, Thánh mẫu hiểu ngay nó đang tìm Trịnh Khải. Đôi mày bạc cau lại, Thánh mẫu cất tiếng, giọng không mấy hài lòng. Dù đang vô cùng hụt hẫng, Nguyên Thục vẫn bình tĩnh đáp lời, không cần biết nó và bà đã từng có mâu thuẫn gì, nhưng hôm nay là lễ chính kỵ, ở cung miếu tôn nghiêm, có lẽ bà cũng không gây khó dễ nó làm gì.
- Thưa Thánh mẫu, mấy hôm nay thần không được khỏe nên đi đứng có phần chậm chạp, xin người thứ lỗi cho thần.
- Không được khỏe? – Nghe Nguyên Thục giải thích, Thánh mẫu nhướng mày lên, những nếp nhăn trên mặt bà xếp lại, kéo thành một nụ cười – Ngươi không được khỏe tại sao không gọi ngự y?
- Sức khỏe của thần hiện đang bình phục trở lại, mấy chuyện cỏn con này thì không cần tới ngự y đâu ạ, cám ơn Thánh mẫu đã quan tâm!
Thánh mẫu cười nhạt, tuy không hề có thiện cảm với nàng phi tử này nhưng bà vẫn phải công nhận con bé ăn nói rất khéo, không thể bắt bẻ vào đâu được. Theo tục lệ, ngày chính kỵ của tiên vương, những phi tần trong phủ phải thắp một nén nhang để tưởng nhớ đến công lao của người, nên dù muốn hay không, Thánh mẫu cũng đưa cho Nguyên Thục một nén nhang để thắp trước linh vị của Thịnh vương Trịnh Sâm. Nhận nén nhang đó, Nguyên Thục không nói gì, nó biết rằng trong Huỳnh cung không ai hoan nghênh nó, còn người nó trông ngóng lại không có mặt ở đây, Nguyên Thục đành lẳng lặng thắp nén nhang rồi nhanh chóng trở về cung, rời xa nơi lạnh lẽo này.
Đứng trước linh vị của Thịnh vương, Nguyên Thục thầm nghĩ đến Trịnh Khải, không biết khi anh đứng ở đây, thắp nhang, thì anh cảm thấy như thế nào, trong lòng suy nghĩ những gì. Nguyên Thục cẩn thận cắm nén nhang của mình vào trong lư hương, rồi quỳ xuống, lạy mấy lạy để hoàn tất phần lễ nghi. Khi Nguyên Thục đứng lên, nó nhận thấy sợi dây chuyền trên cổ mình đã tuột ra, rơi xuống dưới đất, Nguyên Thục chưa kịp cúi xuống nhặt thì đã có một bàn tay nhặt sợi dây chuyền của nó lên. Trong khoảnh khắc ấy, mùi trầm hương thoang thoảng khiến trái tim Nguyên Thục bỗng chốc đập rộn ràng, nó ngẩng phắt đầu lên, đôi mắt long lanh nhìn bóng người áo lục đang đứng trước mặt nó, người mà nó mong mỏi suốt mấy ngày qua, Trịnh Khải.
Nhìn nét mặt vui mừng của Nguyên Thục, Trịnh Khải mỉm cười. Như mọi khi, anh sẽ choàng tay ôm Nguyên Thục vào lòng, thế nhưng cả hai đang ở trong cung miếu, lại trước mặt mọi người nên anh không thể tùy tiện hành động, chỉ có thể vuốt nhẹ đôi má hây hây của người anh yêu. Gương mặt bầu bĩnh này, bờ môi đỏ mọng này, mấy ngày không gặp, anh đã nhớ biết bao.
Những tưởng Trịnh Khải đã cùng Ngọc Xuân vào hữu miếu(*) thắp nhang, nay thấy anh xuất hiện trước mặt, bàn tay ấm áp chạm nhẹ vào đôi má của nó, Nguyên Thục mừng mừng tủi tủi, mắt nó long lanh, môi mấp máy, muốn nói với anh rất nhiều điều nhưng lại chẳng thể thốt nên lời. Trong phút chốc, tâm trạng của Nguyên Thục vô cùng phúc tạp, nó vừa mừng, vừa tủi nhưng cũng xen lẫn lo âu. Mừng vì gặp được Trịnh Khải, tủi vì người sóng đôi bên cạnh anh không phải nó và lo là lo lắng cho hạnh phúc của bản thân nếu Trịnh Khải biết được sự thật về Thanh Loan. Nó có nên nói cho anh biết sự thật không, hay ích kỷ chôn chặt vào lòng, để giữ anh bên cạnh nó mãi mãi mà thôi.
- Thánh mẫu, lễ chính kỵ đã xong, hài nhi có thể dần Thục nhi ra ngoài một lúc không?
Trịnh Khải hỏi Thánh mẫu, nhưng bà thừa biết đó là điều anh đang muốn vào lúc này. Dù trong bụng rất muốn từ chối lời đề nghị đó, nhưng với ánh mắt sâu thẳm kia, bà khó lòng từ chối bất cứ yêu cầu nào của cháu mình. Nhận được cái gật đầu miễn cưỡng của Thánh mẫu, Trịnh Khải mỉm cười, anh quay sang Nguyên Thục, nắm lấy tay nó, nói nhẹ nhàng.
- Nguyên Thục, nàng ra đây với ta!
Nhìn nét mặt thay đổi của Nguyên Thục, Trịnh Khải nhận ra tâm tư nó đang xáo trộn, nhưng nếu Nguyên Thục không nói thì anh cũng sẽ không hỏi. Bây giờ anh đã hoàn tất xong lễ chính kỵ, chỉ còn cho cung nữ dọn bàn tiệc để triệu bá quan vào nghị sự đường dự yến, nên đã có thời gian rảnh rỗi dành cho Nguyên Thục. Chọn một căn phòng yên tĩnh, kín đáo, Trịnh Khải dẫn Nguyên Thục bước vào, anh nhẹ nhàng đeo lại sợi dây chuyền lên cổ nó. Đứng yên để Trịnh Khải đeo dây chuyền, trái tim Nguyên Thục lại đập rộn ràng khi mùi trầm hương dịu dàng từ ống tay áo anh thoang thoảng quanh nó. Đột ngột, Trịnh Khải choàng tay ôm lấy Nguyên Thục từ phía sau lưng, hành động đó khiến Nguyên Thục vừa bất ngờ, vừa sung sướng. Như chờ đợi giây phút này đã lâu, nó xoay người lại, tay vươn ra, ôm lấy Trịnh Khải, vùi mặt vào lòng anh để tận hưởng khoảnh khắc chỉ có hai người.
Ôm Nguyên Thục trong vòng tay, Trịnh Khải nhận ra nó đã ốm đi nhiều. Khi nhìn thấy Nguyên Thục bước vào cung miếu, ánh mắt ngơ ngác, lạc lõng khi tìm kiếm anh của Nguyên Thục khiến anh mềm lòng. Vì muốn ở bên cạnh nó, che chở nó khỏi ánh mắt kỳ thị của Thánh mẫu và mọi người, anh đã từ chối ra ngoài dạo với Ngọc Xuân mà quay trở lại cung miếu. Mấy ngày không gặp, anh biết Nguyên Thục trông chờ anh, và anh cũng nhớ nó, nỗi nhớ ngày một nhiều thêm khi thiếu vắng tiếng cười trong trẻo, chỉ có mình anh trong tòa Ngự lâu, rộng thênh thang và yên ắng lạ lùng.
- Trịnh Khải, hôm tấn phong Vương phi, anh có…
Dù đắm chìm trong hạnh phúc, nhưng Nguyên Thục vẫn không quên mối lo canh cánh trong lòng mình. Nguyên Thục ngập ngừng hỏi, nó muốn nói đến hai chữ “động phòng”, nhưng rồi nghẹn lại, nên chỉ nói đến đó. Xiết chặt Nguyên Thục vào lòng, Trịnh Khải mỉm cười.
- Ta vẫn đang đợi nàng!
Trịnh Khải không thanh minh hay giải thích, anh chỉ nói như thế, nhưng lại đủ khiến trái tim Nguyên Thục nghẹt thở vì sung sướng, gương mặt nó đỏ bừng lên, hai má nóng ran như hơ lửa. Quả nhiên, đêm hôm ấy, Trịnh Khải và Ngọc Xuân không hề xảy ra chuyện gì. Chỉ cần không xảy ra chuyện gì, chỉ cần một lời anh nói thôi, bao nghi hoặc, âu lo trong Nguyên Thục đều tan biến, còn chuyện tại sao đêm đó anh không đến với nó, thì chắc chắn anh có lý do riêng. Nếu Trịnh Khải không nói, thì nó sẽ không hỏi nữa, mà lại mơ đến tương lai hạnh phúc của mình sau này.
- Anh nói đợi em, nhưng em có bắt anh đợi đâu.
Nguyên Thục ngẩng mặt lên hỏi, đôi má ửng hồng khi nhìn thấy bóng hình của mình trong đôi mắt ấm áp ấy. Vuốt nhẹ bờ môi của Nguyên Thục, Trịnh Khải mỉm cười không nói, anh cúi xuống, thật gần, rồi đặt lên bờ môi hé mở của Nguyên Thục một chiếc hôn ngọt ngào. Mấy ngày qua, nằm vùi trong cung Đoan Nguyên, nó nhớ mùi trầm hương này biết bao, bây giờ, nằm trong vòng tay anh, trao cho anh những chiếc hôn thật dài cho vơi nhung nhớ, Nguyên Thục cảm giác như mình đang tan chảy trong hạnh phúc. Những nụ hôn dịu dàng của Trịnh Khải khiến Nguyên Thục như quên hết tất cả, nó vòng tay qua cổ anh, xiết chặt, bờ mi khép lại, run rẩy khi anh hôn lên chiếc cổ trắng ngần của nó, rồi trượt xuống bờ vai mềm mịn màng.
- Chúa công, yến tiệc ở nghị sự đường đã bày xong, người có thể triệu bá quan vào rồi ạ!
Đang chìm trong những nụ hôn ngọt ngào bất tận, Nguyên Thục vô cùng hụt hẫng khi Trịnh Khải ngừng lại bởi giọng nói êm ái của Ngọc Xuân từ bên ngoài nhẹ nhàng cất lên. Vội níu lấy áo anh khi Trịnh Khải đứng dậy, đôi mắt Nguyên Thục long lanh như muốn nói anh đừng đi. Ánh mắt ấy khiến anh mềm lòng. Ngồi xuống bên cạnh Nguyên Thục, Trịnh Khải nhẹ nhàng kéo xống áo Nguyên Thục lên cho ngay ngắn, tay vuốt ve suối tóc dài đen mượt, đồng thời nói nhẹ nhàng.
- Bây giờ không phải lúc, ta phải đến nghị sự đường.
Dù Trịnh Khải đã nói như thế, dù thâm tâm Nguyên Thục biết rằng anh còn phải đến nghị sự đường để ban yến tiệc, nhưng tính nhõng nhẽo, ích kỷ trong Nguyên Thục lại trỗi dậy. Nó không muốn anh đi đâu hết mà chỉ muốn ở bên cạnh mình, nên cứ nắm lấy áo anh mãi không chịu buông. Thấy Nguyên Thục nhõng nhẽo đột xuất, Trịnh Khải phì cười. Nguyên Thục nào biết ôm nó trong vòng tay, anh cũng muốn nó là của anh, mãi mãi thuộc về anh, nhưng anh biết anh cần phải kềm chế ý muốn đó lại, bởi công việc vẫn còn đang ở trước mặt, và vẫn còn nhiều thứ phải sắp xếp nếu muốn cả hai đến với nhau. Việc Thanh Loan qua đời đã để lại trong lòng anh một sự tiếc nuối rất lớn. Trước sự ra đi của cô, anh vô cùng đau lòng, nhưng cũng nhờ đó mà Trịnh Khải mới nhận thức ra rằng đối với anh, Nguyên Thục quan trọng biết bao. Anh không thể để mất nó, anh phải trân trọng nó, yêu thương nó và che chở nó suốt đời.
Không thể để mọi người ở nghị sự đường đợi lâu hơn được nữa, Trịnh Khải hôn lên vầng trán bướng bỉnh của Nguyên Thục, sau đó nói nhỏ mấy câu qua vành tai nhỏ nhắn. Không biết anh nói những gì mà Nguyên Thục đỏ bừng mặt xen lẫn hoan hỉ. Ngước nhìn đôi mắt sâu thẳm dịu dàng, Nguyên Thục hỏi, dường như vẫn chưa tin những gì mình vừa mới nghe.
- Thật không?
- Đương nhiên là thật!
Nghe Trịnh Khải xác nhận, Nguyên Thục mới hoàn toàn yên tâm, những ngón tay của nó thả lỏng ra, ngập ngừng như vẫn còn lưu luyến lắm. Giúp Nguyên Thục đứng dậy, Trịnh Khải vuốt lại mái tóc của nó cho ngay ngắn, rồi nắm tay Nguyên Thục bước ra ngoài. Dường như đứng bên ngoài chờ đợi đã lâu, Ngọc Xuân tươi nét mặt khi Trịnh Khải mở cửa bước ra ngoài, nhưng rất nhanh sau đó, nụ cười trên gương mặt cô chợt tắt khi nhìn thấy trên cổ Nguyên Thục là một dấu hôn. Thấy Ngọc Xuân đăm đăm nhìn vào cổ mình, Nguyên Thục hiểu ra ngay, nó vội vàng kéo cổ áo để che lại dấu hôn đó, gương mặt đỏ bừng nhưng lại tràn đầy hạnh phúc. Chứng kiến Đoan Nam vương và Nguyên Thục quấn quýt bên nhau, trái tim Ngọc Xuân như bị ai bóp nghẹt, cô cảm thấy ghen tỵ, vô cùng ghen tỵ. Đêm tấn phong Vương phi cô đã ở một mình trong phòng tân hôn, thẫn thờ chờ bước chân ai vang lên trên hành lang, nhưng không, vây quanh cô chỉ là sự im lặng đến đáng sợ. Ngài ấy không đến. Dù cô đã đợi mỏi mòn, ngài ấy vẫn không đến, vậy đủ chứng tỏ cô không hề có vị trí gì trong trái tim ngài ấy.Đêm tân hôn là khoảnh khắc quan trọng nhất trong đời người con gái, vậy mà cô phải một mình cô đơn, chịu dựng nỗi bẽ bàng này vì tâm trí và trái tim của Đoan Nam vương đã hướng về người khác, tình yêu của ngài ấy đã giành cho cô gái khác mất rồi.
Theo thông lệ, yến tiệc ở nghị sự đường chỉ có bá quan được tham dự, thế nên Nguyên Thục phải quay trở về cung Đoan Nguyên, nhưng giờ nó không còn phải tiếp tục những chuỗi ngày buồn bã do phải trông ngóng nữa, vì Trịnh Khải hứa tối nay sẽ đến phòng nó. Cứ nghĩ đến chuyện đó, Nguyên Thục lại nôn nóng. Nó phải nhanh chóng về cung để chuẩn bị bánh trái, những món ăn Trịnh Khải thích, và tranh thủ tắm rửa, dọn dẹp phòng ốc để chờ đón anh.
- Hồ tiệp dư, ngươi khoan đi đã!
Càng nghĩ, Nguyên Thục lại càng vui như tết. Nó còn chưa kịp nghĩ xem mình sẽ bận chiếc áo nào cho đẹp mắt, thì giọng nói gay gắt của Thánh mẫu bất chợt vang lên, khiến nó giật mình. Thánh mẫu đang đứng trước mặt nó, bên cạnh là Dương thái phi và Ngọc Xuân, ánh mắt của ba người trông rất kỳ lạ khiến Nguyên Thục vô cùng ngạc nhiên. Đang nôn nóng muốn được về cung để trang trí đèn hoa đăng đón Trịnh Khải, thế nhưng nửa chừng lại bị ba người này cản đường, thật không muốn giận cũng không xong mà.
- Thánh mẫu cho gọi con ạ?
Cố nén sự khó chịu ở trong lòng, giữ cho giọng trung dung, Nguyên Thục nhỏ nhẹ lên tiếng. Trước sự lễ phép của nó, Dương thái phi hừ nhạt, ánh mắt bà xoáy thẳng vào mặt Nguyên Thục, khiến nó chột dạ, nhưng không vì thế mà né tránh. Vừa lúc đó, có tiếng bước chân rầm rập vang lên, từ đằng xa, lính tam phủ xuất hiện, áp giải một người thiếu phụ theo sau. Vừa nhìn thấy người thiếu phụ đó, đôi mày lá liễu của Nguyên Thục nhíu lại, phong thái ung dung dù bị giải đi đó không khó khăn mấy để nhận ra đó là Đặng Thị Huệ. Bà ta đã bị bắt, tại sao lại bị bắt, bà ta bị bắt trên đường trốn khỏi phòng nó, hay bị bắt ngay trong phòng nó, hàng loạt câu hỏi dồn dập trong đầu Nguyên Thục, khiến nó lo lắng. Thật là, khi gặp Trịnh Khải là nó không còn biết chuyện gì nữa, nên quên phắt mối lo ngại Tuyên phi đang trốn trong phòng mình. Tình thế này, có muốn thanh minh hay giải thích cũng chưa chắc Thánh mẫu và Dương thái phi đã chịu nghe. Trịnh Khải không có ở đây, hai người này chắc chắn sẽ vịn vào Đặng Thị Huệ mà gây bất lợi cho nó, chi bằng cứ lựa tình hình mà ứng xử thôi.
Nguyên Thục nghĩ thầm, nó cố giữ cho nét mặt được bình thản. Ngược lại với nó, Dương thái phi tỏ vẻ rất kích động khi nhìn thấy Đặng Thị Huệ. Nhìn xoáy vào mắt Nguyên Thục, Thánh mẫu nhếch mép, bà cất giọng hỏi, nét mặt không chút biểu cảm nào.
- Hồ tiệp dư, phạm nhân kia được lính tam phủ bắt được khi ả từ trong phòng ngươi lén lút ra ngoài, ngươi giải thích ra sao về chuyện này?!
★ Chương 124 [Part 1]
Bị lính tam phủ giải đến trước mặt Thánh mẫu và Dương thái phi, Đặng Thị Huệ vẫn đứng thẳng lưng không chịu quỳ cho đến khi bị hai người lính ghì chặt và giúi xuống đất, nhưng ánh mắt bà vẫn toát lên vẻ kiêu ngạo không khuất phục khi nhìn thẳng vào gương mặt đang tái lại của Dương thái phi. Đã nhiều năm trôi qua, nhưng người thiếu phụ này vẫn như ngày nào, vẫn cái vẻ quyền uy sang cả đó, vẫn ánh mắt sắc sảo đó, khiến cho Dương thái phi cảm thấy mọi chuyện dường như chỉ mới hôm qua. Bà ghét người phụ nữ này, ghét đến thấu tim gan, mỗi lần nhớ đến ả, bà không sao quên được chuyện xưa cố chôn kín trong lòng. Ngày hôm nay, ả bị lính tam phủ đưa đến trước mặt bà, nhắc cho bà nhớ rằng ả vẫn còn sống, vẫn chưa chết và vẫn nhìn bà bằng ánh mắt của kẻ thắng ngó xuống người bại, kể cả khi bà mới là người đứng đầu hậu cung hiện nay.
Vốn nghĩ Đặng tuyên phi sau cùng cũng sẽ bị phát hiện ra, nhưng Nguyên Thục không ngờ Thánh mẫu lại phát hiện sớm đến thế. Hiện giờ, tình thế của nó vô cùng nan giải. Bà ta là bị bắt khi chạy ra từ phòng nó, nếu nó nhận có biết việc bà ta trốn trong đó, chắc chắn sẽ bị bắt tội, nhược bằng nếu nó chối thì biết đâu Đặng tuyên phi sẽ nói ngược lại, đã tội lại càng thêm tội nặng hơn, nó có trăm cái miệng cũng không thể tự thanh minh cho mình được, thế nên đứng trước câu hỏi của Thánh mẫu, Nguyên Thục do dự, chưa biết phải trả lời như thế nào.
Trong khi Nguyên Thục còn đang phân vân thì Thánh mẫu xem chừng như đã rất sốt ruột, thấy nó cứ ngần ngừ chưa trả lời, bà đột ngột gắt lên.
- Hồ tiệp dư, ban nãy ta hỏi sao ngươi không trả lời, có phải ngươi đã lén thả ả cung nhân này ra khỏi Tăng Hộ đường và giấu ả ở trong phòng mình, đúng không?
- Thưa Thánh mẫu, thần và bà ấy vốn không quen biết gì nhau, sao có thể lén thả bà ấy ra, còn chuyện bà ấy từ trong phòng thần chạy ra, Thánh mẫu, từ nãy đến giờ thần ở cung miếu làm lễ, sau đó thì theo chúa công đi dạo, căn bản là không hề có mặt ở Đoan Nguyên cung khi bà ta bị bắt. Có thể bà ta trốn vào đó khi thần không có mặt, rồi ra ngoài và bị bắt, như vậy làm sao liên quan đến thần được, làm sao là thần che giấu cho bà ta được.
Bị Thánh mẫu thúc giục, lại quan sát thấy thần sắc khó coi của Dương thái phi, Nguyên Thục bất đắc dĩ đành phải phủ nhận tất cả. Ban đầu Nguyên Thục tính gọi Đặng Thị Huệ là Đặng tuyên phi, nhưng không cần ai nói cũng có thể nhận ra Dương thái phi và bà ta trước kia có xích mích với nhau, nay bà ta đã bị truất phế làm cung nhân, nếu lại nhắc đến chức danh tuyên phi kia, không khéo lại khơi dậy mối hiềm khích cũ giữa hai người, và người thiệt thòi trong chuyện này là bản thân nó. Sau phút suy tính, Nguyên Thục quyết định gọi Đặng Thị Huệ là “bà ấy”, bởi gọi thẳng tên người lớn tuổi hơn mình cũng không được lịch sự gì. Chuyện đã đến nước này, dù có nói quen biết Đặng Thị Huệ hay không nó cũng đều bị dị nghị, chi bằng cứ chối phắt để tránh khỏi phiền phức lôi thôi.
Nguyên Thục trả lời, rất từ tốn, lại còn có phần hợp lý, khiến Thánh mẫu nhíu mày nhưng cũng không thể bắt tội nó được. Lính tam phủ bắt được Đặng Thị Huệ khi ả từ trong phòng Nguyên Thục chạy ra, nhưng suốt từ nãy đến giờ đúng là Nguyên Thục đều ở trong cung miếu thắp nhang khói, thế nên chuyện của ả cung nhân này có lẽ không liên quan gì đến cái cô Hồ tiệp dư này thật. Những suy nghĩ ấy khiến Thánh mẫu do dự, trong khi bà chưa biết phải xử trí như thế nào thì Ngọc Xuân đứng bên cạnh Dương thái phi trước sau vẫn im lặng, đột ngột lại lên tiếng.
- Ô, thì ra thiếu phụ này là cung nhân bị giam giữ nhưng đào thoát bị bắt đây sao. Ban nãy khi đi ngang qua phòng Hồ tiệp dư, tiểu nữ nhìn thấy bà ấy chạy vào trong mãi mà không quay trở ra, tiểu nữ cứ tưởng Hồ tiệp dư vì bận tiếp vị bằng hữu này mà đến cung miếu trễ như thế đó chứ.
Trước những lời nói tưởng chừng như vô tình của Ngọc Xuân, Thánh mẫu và Dương thái phi nhíu mày lại. Ban nãy, Dương thái phi có cử Ngọc Xuân đến hồ Băng Tâm để hái những bông sen mới nở dâng lên tiên vương, lúc đó, lễ chính kỵ chỉ mới bắt đầu, có nghĩa là Nguyên Thục vẫn còn đang ở trong phòng. Hay thật, Thánh mẫu cười nhạt, nếu không có Ngọc Xuân kịp thời lên tiếng, chắc bà đã bị những lời nói dối khôn khéo của con bé tiệp dư này làm cho mụ mị đầu óc rồi.
- Hồ tiệp dư, ngươi trả lời sao đây? Chuyện lần này là do chính mắt Ngọc Xuân trông thấy, tang chứng vật chứng đàng hoàng, chứ không phải ta giá tội cho ngươi nhé!
Liếc nhìn Nguyên Thục đứng ngây ra, Thánh mẫu lên tiếng hỏi, giọng đanh lại như thể đang hỏi cung tội đồ. Những tưởng mọi chuyện đã có vẻ êm xuôi, nay Ngọc Xuân lại lên tiếng, mọi chuyện có chiều hướng xấu đi, làm Nguyên Thục nửa tức giận, nửa lo lắng. Là Ngọc Xuân cố tình làm khó dễ nó, hay trong lúc vô tình nên cô mới thốt ra những lời như thế.
- Thánh mẫu, tại sao bà ấy thoát ra được khỏi Hộ Tăng đường, thần thật sự không biết. Thần cũng không hề lén giấu bà ấy trong phòng, chỉ là bà ấy đột nhiên xuất hiện trong phòng của thần, thế thôi.
Trước những lời phân trần của Nguyên Thục, Thánh mẫu chỉ nhếch mép, bà hừ nhạt.
- Nếu như biết ả ta là tội nhân, tại sao ngươi không hô hoán hay thông báo cho ta biết khi ả ta xuất hiện trong phòng ngươi mà lại im lặng đến tận giờ này? Ban nãy ngươi còn dám nói dối rằng ả ta vào ra lúc nào không liên quan đến ngươi, nay lại bảo ả ta đột ngột xuất hiện chứ ngươi không cố tình che giấu. Ngươi nghĩ những lời nói dối như thế lại có thể lừa ta một lần nữa hay sao? Rõ là cố tình che giấu mà còn muốn quanh co chối tội à?
- Thánh mẫu, thần vốn không biết thân phận của bà ta, lại càng không biết bà ta đang là tội nhân, bị giam giữ nhưng đào thoát. Hơn nữa, nếu như là ngày thường, thần nhất định sẽ hô hoán lên cho mọi người biết, nhưng hôm nay là lễ chính kỵ của tiên vương, chuyện này mà làm ầm ĩ lên, trăm người nhìn vào sẽ cho rằng Lượng phủ ta canh giữ không nghiêm ngặt mới có sự chộn rộn ấy. Còn chuyện im lặng đến tận bây giờ, là do thần muốn đợi Đoan Nam vương cử hành lễ tế, thết đãi xong xuôi rồi mới nói chuyện này, âu cũng là để mọi người ra về hết hẵn xử lý chuyện trong nhà sau mà thôi. Nếu như điều đó khiến Thánh mẫu và Dương thái phi không được vui, thần xin nhận lỗi, nhưng chuyện lén lút thả người hay cố tình che giấu bà ấy, thần tuyệt đối không làm. Chuyện này không có lợi gì cho thần, ngược lại nếu bị phát hiện ra sẽ bị trách tội nên chẳng có lý do gì khiến thần hành động như thế cả, Thánh mẫu minh xét cho.
Nếu như trước đó, Nguyên Thục nói những lời này, có lẽ Ngọc Xuân sẽ không thể lên tiếng được, nhưng bây giờ nó càng nói, Thánh mẫu càng cho rằng những lời của nó là ngụy biện, khiến bà càng chán ghét nàng Hồ tiệp dư này hơn bao giờ hết. Bất kể chuyện gì bà cũng có thể xét lại, nhưng một lần bất tín, vạn lần bất tin, chuyện lừa dối, bà không bao giờ tha thứ, không bao giờ.
- Việc đã đến nước này, ngươi muốn nói gì mà chẳng được. Chuyện che giấu tội nhân ta không nói tới, nhưng ngươi biết chuyện lại cố tình nói dối ta và Dương thái phi, nếu như Ngọc Xuân không lên tiếng kịp thời, chắc ngươi rất đắc ý khi đã lừa gạt được ta chứ gì. Hồ tiệp dư, ngươi giỏi lắm, người đâu, mau đưa Hồ tiệp dư đến lãnh cung cho ta!
- Thánh mẫu, thần thật sự không có ý đó!!!
Bị hai người lính tam phủ giữ lại, Nguyên Thục tái mặt, nó cố sức vùng vẫy nhưng không thể thoát ra khỏi hai gọng kềm đang xiết chặt đó. Trước sự lạnh lùng của Thánh mẫu, Nguyên Thục cố gắng năn nỉ, đôi mắt nó long lanh, sắp khóc khi bị hai người lính tam phủ đưa đến lãnh cung. Nó không muốn lừa dối Thánh mẫu nhưng lại không thể biện minh cho mình, lại càng không tìm ra cách nào để tự bào chữa hay thoát khỏi tình huống nan giải này. Cay đắng, uất ức, phẫn hận và lo sợ, bao nhiêu cảm xúc trong lòng Nguyên Thục cuộn lại, và rồi trào ra khóe mắt nó bằng những giọt lệ long lanh. Không muốn bị giải đến lãnh cung, Nguyên Thục ra sức chống cự, tối nay nó muốn được ở bên cạnh Trịnh Khải chứ không phải cái lãnh cung lạnh lẽo vô tình đó. Sự chống cự quyết liệt của nó khiến hai người lính vô cùng khó khăn khi giải Nguyên Thục đi. Trước diễn biến đó, Thánh mẫu vô cùng tức giận vì sự cứng đầu của Nguyên Thục, bà tức tốc gọi thêm hai người lính đến, rồi cả bốn như nhấc bổng Nguyên Thục lên để giải về lãnh cung, khiến nó như muốn khóc vì tình thế khó khăn này.
Đứng nép sau lưng Dương thái phi, nhìn Nguyên Thục trào nước mắt khi bị bốn người lính tam phủ giải đến lãnh cung, trong lòng Ngọc Xuân cảm thấy xót thương, tội lỗi, nhưng chừng đó không thể che giấu được chút hả hê ngự trị trong lòng. Ban nãy, nhìn chúa công âu yếm Nguyên Thục với sự dịu dàng từ trước tới nay Ngọc Xuân chưa bao giờ nhìn thấy, cô đã rất đau lòng và tủi thân. Chỉ trách cô là người đến sau, chỉ trách cô đã không gặp được ngài ấy trước Nguyên Thục. Trong giây phút, ước muốn nếu không có Nguyên Thục trên đời lướt qua trong tâm trí cô. Nếu không có nàng ta, chắc chắn người được âu yếm như thế là cô, người ở trong vòng tay ngài ấy là cô và người cùng ngài ấy động phòng đêm đó là cô. Phòng tân hôn rực rỡ nhưng lòng người lạnh lẽo, tâm hoài mong khắc khoải, ôm mối tương tư buồn tủi không phải là thứ cô mong muốn. Chỉ cần không có nàng ta…. Chính vì sự ghen tị thoáng qua đó, khi chứng kiến Nguyên Thục bị Thánh mẫu vấn tội, Ngọc Xuân đã buột miệng nói ra chuyện đã nhìn thấy Đặng Tuyên phi chạy vào trong phòng Nguyên Thục khi nó còn trong đó, khiến kết quả giờ đây là nàng ta phải gánh tội và bị giải đến lãnh cung. Ngọc Xuân cắn môi do dự, nửa muốn nói giúp Nguyên Thục, nửa lại muốn nàng ta nhận lãnh hình phạt của mình. Dù sao thì, cô không nói dối, cô đã nói những gì chính mắt mình nhìn thấy, Nguyên Thục mới là người nói dối, là tự nàng ta chuốc lấy rắc rối, không thể trách cô.
Trước khi bị bốn người lính tam phủ giải đi, Nguyên Thụ cố gắng quay đầu lại lần nữa, mong rằng Thánh mẫu sẽ đổi ý, hay Dương thái phi sẽ nghĩ lại mà xin tội cho mình. Dù biết đó chỉ là hy vọng hão huyền, nhưng khi nhìn thấy sự lạnh lùng của Thánh mẫu và cái nhìn căm ghét của Dương thái phi, Nguyên Thục không khỏi đau lòng. Trước khi quay đầu đi, Nguyên Thục vô tình chạm phải ánh mắt của Ngọc Xuân, ánh mắt vừa vừa tội lỗi, lo lắng nhưng lại có chút hả hê, thỏa mãn ấy khiến Nguyên Thục ngỡ ngàng. Tại sao lại như thế, nó trước nay chưa từng đụng chạm hay làm gì có lỗi với cô, thậm chí còn muốn làm hòa với cô, muốn đến phòng cô chơi và nhờ cô chỉ đánh cờ, tại sao Ngọc Xuân lại muốn hãm hại nó. Phải rồi, nó muốn làm bạn với người ta, nhưng người ta có muốn làm bạn với nó không, hay chỉ muốn đẩy nó vào chỗ chết. Nếu như nó có thế lực, nếu như nó có vây cánh, nếu như nó có hậu thuẫn, thì đâu phải sợ hãi và bị hiếp đáp như thế này.
Bị bốn người lính áp giải đến hậu cung, nhưng Nguyên Thục cứ nhìn về phía sau, hình ảnh Ngọc Xuân, Dương thái phi và Thánh mẫu nhạt nhòa trước mắt, khiến dạ dày nó cuộn lại như bị ai xát muối. Trong lúc đau buồn và uất ức, Nguyên Thục tưởng như đã tuyệt vọng, nhưng ngay lúc ấy, bốn người lính đột ngột dừng bước khiến nó vội vàng quay đầu lại. Trước mặt Nguyên Thục là tà áo lục phơ phất, mùi trầm hương dịu dàng thoang thoảng trong không khí khiến Nguyên Thục thốt lên một tiếng mừng rỡ, rồi hất tay bốn người lính đang xiết chặt tay mình và nhào về phía tà áo lục kia.
Sau khi đãi xong tiệc ở nghị sự đường, Trịnh Khải đã tính về ngự lâu thay áo, nhưng khi đi ngang qua cung miếu, không hiểu sao lòng anh lại trỗi lên một cảm giác lấn cấn, không yên nên quyết định thay đổi lộ trình. Khi đến nơi, nhìn thấy Nguyên Thục vô cớ bị lính tam phủ giải đi, trong khi Thánh mẫu và Dương thái phi đứng phía sau điềm nhiên như không có gì xảy ra khiến đôi mày kiếm khẽ cau lại. Đang cố sức áp giải Nguyên Thục đến lãnh cung, nhìn thấy Trịnh Khải đột ngột xuất hiện, bốn người lính lúng túng, sau đó vội vàng rụt tay lại khi chạm phải ánh mắt thẫm lại ấy. Như chỉ chờ có thế, Nguyên Thục như chim sổ lồng, nó lao về phía Trịnh Khải, òa khóc khi anh đón lấy nó vào lòng.
- Chuyện gì đang xảy ra ở đây?
Vỗ về bờ vai mềm mại đang run rẩy của Nguyên Thục, Trịnh Khải rảo mắt nhìn bốn người lính và nhẹ nhàng hỏi. Trước câu hỏi ấy, bốn người lính ấp úng vì không biết phải trả lời như thế nào
- Bẩm…chúa công…bẩm… chúa công….
- Là ta đã lệnh chúng giải Hồ tiệp dư đến lãnh cung đó!
Bốn người lính còn chưa đáp dứt lời, Thánh mẫu ở phía sau đã lên tiếng. Bà chậm rãi tiến đến trước mặt Trịnh Khải, ánh mắt đanh lại khi liếc nhìn Nguyên Thục, rồi tiếp lời
- Hồ tiệp dư đã phạm tội chứa chấp tội nhân. Lính tam phủ đã nhìn thấy ả cung nữ kia từ trong phòng Hồ tiệp dư chạy ra, chính mắt Ngọc Xuân cũng đã trông thấy ả chạy vào phòng tiệp dư hàn huyên tâm sự khi đi ngang qua cung Đoan Nguyên, chuyện gì ta cũng có thể xem xét, nhưng riêng chuyện lừa dối là ta không thể chấp nhận được. Chúa công, ngài xem, lần này ta không vu tội cho cô ta nữa chứ?
- Không… Em không có ý lừa dối Thánh mẫu…cũng không có chứa chấp bà ấy, không có!
Nghe Thánh mẫu giải thích lý do, Trịnh Khải nhìn xuống Nguyên Thục, nó vội vàng thanh minh để cho anh biết rằng nó không hề muốn lừa dối ai, càng không muốn chứa chấp Đặng Thị Huệ – người mà anh không bao giờ muốn nhắc tới. Trước những lời giải thích của Nguyên Thục, Trịnh Khải không nói gì, anh ngẩng lên nhìn Thánh mẫu và Dương thái phi một lượt, rồi nhẹ nhàng đáp lời.
- Thục nhi đã nói không cố ý lừa dối Thánh mẫu, tức là không có. Hơn nữa, Đặng Thị Huệ không phải là tội nhân, mà là cung nữ có nhiệm vụ trông nom chăm sóc lăng miếu của tiên vương, đã không phải tội nhân thì tội chứa chấp của Thục nhi không thành. Vả lại…
Nói đến đây, Trịnh Khải lướt mắt sang gương mặt kiêu ngạo của Đặng Thị Huệ, và nhẹ mỉm cười.
- Vả lại đây là ngày giỗ chính kỵ của tiên vương, bà ta muốn ra ngoài, chắc hẳn chỉ muốn được nhang khói cho tiên phụ. Đặng tuyên phi, sự việc thế nào, ta mong bà hãy nói một lời công bằng ở đây.
Trịnh Khải vừa dứt lời, tức thì mọi ánh mắt đều dồn vào Đặng Thị Huệ, để xem bà sẽ trả lời chuyện này như thế nào. Trước yêu cầu của Trịnh Khải, Đặng Thị Huệ im lặng, bà ta lướt nhìn Nguyên Thục đang ở trong vòng tay Trịnh Khải, đôi mắt đen láy, ươn ướt đang nhìn bà, mong đợi sự giúp đỡ, mong một câu trả lời thỏa đáng, rồi lại nhìn đôi mắt sâu thăm thẳm của Trịnh Khải, đôi mắt dịu dàng của tiên vương, nhưng lại sâu thẳm khó dò hơn cả phụ thân của nó. Đứng trước ánh mắt ấy, bà có cảm tưởng rằng người đó đã nhìn thấu nội tâm bà, nhưng một mặt lại giả như không biết, giữ cho bà tự tôn với lòng kiêu hãnh của riêng mình.
Đã có lúc bà ước mong rằng khi Trịnh Cán, hài tử của bà lớn lên sẽ như hắn…
Sẽ giống như hắn…
- Là tự ta trốn ra, không liên quan gì đến con bé ấy!
Sau giây phút kéo dài trong im lặng, Đặng Thị Huệ chậm rãi lên tiếng. Trước câu trả lời ấy, Nguyên Thục thở phào một tiếng nhẹ nhõm, còn Thánh mẫu và Dương thái phi thì mím môi mà không nói lời nào. Như Trịnh Khải đã nói, Đặng Thị Huệ không phải tội nhân, vả lại bà ta đã phủ nhận chuyện liên quan đến Nguyên Thục, thì hai người không còn lý do gì để bắt Nguyên Thục giam vào lãnh cung nữa. Thánh mẫu thở nặng nhọc, bà quay sang Đặng Thị Huệ, hất đầu ra hiệu cho lính tam phủ tiếp tục giải bà ta về Hộ Tăng đường, nhưng Trịnh Khải đã ngăn lại, rồi nói nhẹ nhàng.
- Thánh mẫu, hôm nay là lễ chính kỵ của tiên vương, cứ để bà ấy vào thắp cho tiên vương một nén nhang. Hơn nữa, kể từ ngày hôm nay, bà ấy sẽ được tự do rời khỏi phủ chúa, người không nên giam giữ bà ta ở Hộ Tăng đường nữa!
Trước những lời Trịnh Khải nói, Thánh mẫu trợn mắt lên, Dương thái phi mặt tái nhợt, trông có vẻ rất kích động, còn bản thân của Đặng Thị Huệ vẫn chưa tin vào những gì Trịnh Khải đã nói. Lướt đôi mắt sắc sảo lên gương mặt thanh tú của Trịnh Khải, như để xem anh có thật lòng không, Đặng Thị Huệ thăm dò.
- Ngươi vừa nói gì, ta nghe không nhầm đấy chứ? Ta sẽ được tự do rời khỏi phủ chúa sao?
- Bà vốn dĩ đã được tự do từ lúc tiên vương băng hà – Không né tránh ánh mắt nghi hoặc của Đặng Thị Huệ, Trịnh Khải nhẹ mỉm cười.
- Ta vốn được tự do từ lúc tiên vương băng hà? Nực cười, chính các ngươi đã giam ta vào Hộ Tăng đường, không cho ta ra ngoài, không cho ta tiếp xúc với một ai, thế mà ngươi bảo ta được tự do sao?
Đặng Thị Huệ càng nói, giọng càng cao, đến câu cuối cùng lại là những tiếng rít khẽ trong miệng. Trước phản ứng của bà, đôi mắt Trịnh Khải êm đềm như mặt hồ tĩnh lặng, anh nói, giọng nhẹ tênh.
- Đặng tuyên phi, ta không giam giữ bà ở Hộ Tăng đường, chỉ là để cho bà sống ở đó. Bà muốn rời khỏi, không ai ngăn cản bà, chỉ là nếu như bà ở ngoài phủ chúa, chắc chắn không bao giờ có cơ hội thắp cho tiên vương một nén nhang trước vong linh của ông ấy trong lễ chính kị hôm nay. Có lẽ cho đến bây giờ bà vẫn không biết, đó là Hộ Tăng đường không hề khóa cửa, chỉ có bà tự huyễn hoặc mình đã bị giam cầm, tù túng, nhưng thực chất, bà có thể ra ngoài bất cứ lúc nào.
Những lời Trịnh Khải vừa nói, không chỉ khiến Đặng Thị Huệ kinh ngạc, mà còn khiến cho Thánh Mẫu và Dương thái phi cũng bất ngờ không kém. Sau khi Trịnh Khải lên ngôi, anh đã thuận theo ý Dương thái phi mà truất Đặng Thị Huệ thành cung nhân, sau đó giam bà ta ở Hộ Tăng đường. Thấy Đặng Thị Huệ từ Tuyên Phi quyền uy thành cung nhân tầm thường, từ người chủ hậu cung nay bị giam trong căn phòng nhỏ bé, lạnh lẽo, không kẻ hầu người hạ, dù những vết thương trong lòng chưa nguôi ngoai, nhưng Dương thái phi cũng lấy đó làm vui. Chỉ cần không nhắc đến cái tên Đặng Thị Huệ trước mặt bà, chỉ cần bà ta không xuất hiện, thì những vết thương lòng năm xưa sẽ được chôn sâu vào tiềm thức, không bao giờ muốn khơi gợi lên. Nhưng bà đã lầm, Trịnh Khải phế truất bà ta không phải để trừng phạt, mà là cho bà ta trở thành người chăm sóc lăng tẩm tiên vương, anh để bà ta ở Hộ Tăng đường, không phải là để giam giữ mà có dụng ý cho bà ta cơ hội được bái tế tiên vương trong lễ chính kị. Trịnh Khải đã biết bà bị tổn thương như thế nào, biết bà đau khổ ra sao trước những gì người đàn bà đó đã gây ra, thế nhưng tại sao con trai bà lại rộng lượng với Đặng Thị Huệ như thế, lại tha thứ cho bà ta dễ dàng như thế, tại sao?
- Ngươi… Ngươi đã không khóa cửa Hộ Tăng đường, vậy tại sao còn cắt đặt người canh gác?
Suốt một năm qua, tuy sống trong Hộ Tăng đường, tuy cho rằng bản thân mình bị giam cầm, nhưng cách đối đãi của Trịnh Khải quả thật rất tốt. Cơm ăn ngày ba bữa, quần áo mỗi ngày đều thay đổi, phòng ốc đều có người đến quét dọn gọn gàng, ngăn nắp, mang tiếng giam cầm, nhưng bản thân bà sống rất thoải mái. Giờ đây chính tai nghe Trịnh Khải nói, Đặng Thị Huệ cảm thấy trước mặt mình như có làn sương mù, mà không, có lẽ một năm qua, chính bà đã sống trong làn sương mù này mà không hề hay biết, cho đến khi sương mù tan đi, nhìn thấy rõ cảnh vật, bà lại không quen vì nó quá lạ lẫm đối với mình.
- Bà sống trong Hộ Tăng đường, một bước cũng không ra ngoài, nếu không có người canh gác, sao có thể biết bà sống trong ấy như thế nào…?
Trịnh Khải chỉ nói đến đó, rồi ngưng, anh nhìn sang Dương thái phi, ánh mắt sâu thăm thẳm khiến bà bối rối. Dù anh không nói ra, nhưng bà đã hiểu, anh cắt đặt lính gác canh giữ trước Hộ Tăng đường, cốt chỉ để trấn an bà, để bà thấy an tâm, để xoa dịu đi những uất ức, tổn thương mà bà phải chịu, để bà tin rằng Đặng Thị Huệ đã phải chịu hình phạt như thế nào. Đã một năm trôi qua, con người ta có những chuyện cần phải quên, thế nhưng anh biết bà vẫn chưa thể quên được những ngày tháng đó nên đã có những liệu pháp tâm lý để an ủi bà, nhưng dường như, kết quả không khả quan bao nhiêu.
Trịnh Khải nhẹ thở dài, tiếng thở dài của anh làm Nguyên Thục lo lắng. Đứng đây nghe được những chuyện lúc xưa, Nguyên Thục sợ những chuyện ấy sẽ tác động đến Trịnh Khải, khiến đôi mày kiếm kia lại hằn sâu thêm những chuyện ưu phiền. Nhẹ nắm lấy tay Trịnh Khải, xiết chặt, Nguyên Thục nhìn anh mắt long lanh như muốn nói rằng dù có chuyện gì xảy ra, nó sẽ luôn ở bên cạnh anh. Trước cử chỉ ấy, Trịnh Khải nhẹ mỉm cười, anh xiết chặt lấy tay nó, rồi lướt mắt nhìn lên gương mặt đang thẫn thờ của Đặng Thị Huệ, nói nhẹ nhàng.
- Dù sao hôm nay bà cũng đã biết sự thật, bà có thể chuyển ra ngoài sống, ta sẽ cho người cấp cho bà một ít vàng, bạc, để bà có thể sống ở bên ngoài mà không lo lắng gì.
- Không được!!!
★ Chương 124 [Part 2]
Đằng xa có một tòa núi
Trên núi có một gốc cây
Dưới gốc cây có một ngôi nhà tranh…
Ngay khi Trịnh Khải vừa dứt lời, cùng lúc, hai giọng nói cất lên, gay gắt khiến mọi người chú mục về phía Dương thái phi và Đặng Thị Huệ. Dương thái phi không đồng ý thì mọi người còn hiểu, nhưng đến Đặng Thị Huệ cũng không đồng ý là tại làm sao?
- Đặng Thị Huệ, ngươi đáng lẽ ra phải mang tội chết, nhưng còn giữ được tính mạng tới bây giờ là chúng ta đã khoan hồng lắm rồi, nay ngươi được tự do há chẳng hay hơn hơn bị giam cầm hay sao? Phải chăng sống trong Hộ Tăng đường thoải mái, sung sướng quá nên ngươi phản đối, không muốn rời đi?
Thánh mẫu rảo mắt nhìn từ đầu đến chân Đặng Thị Huệ, rồi chốt lại ở gương mặt phù dung của bà, đôi mày thưa nhướng lên, từng câu nói đều chậm rãi, mang đầy mỉa mai, châm biếm. Trước sự chế giễu của Thánh mẫu, Đặng Thị Huệ chỉ cười nhạt, bà ta rảo mắt một vòng, chẳng biết vô tình hay cố ý mà dừng ánh mắt lại nơi Dương thái phi đang đứng, rồi nói thản nhiên.
- Thánh mẫu, cho dù hiện nay tôi có là cung nữ, có thân phận thấp kém đi chăng nữa, thì tôi vẫn là thê tử của tiên vương, là sủng thiếp của tiên vương. Nếu như rời khỏi đây, tôi làm sao còn có thể chăm sóc bài vị của tiên vương nữa.
Đặng Thị Huệ nói vừa đủ để nghe, nhưng đối với Dương thái phi lại chẳng khác nào tiếng sấm trong đêm tối. “Tôi là thê tử của tiên vương, là sủng thiếp của tiên vương”, những lời của Đặng Thị Huệ chẳng khác nào một đòn mạnh giáng xuống đầu Dương thái phi, khiến bà lảo đảo. Chuyện xưa đã qua, nhưng những vết cắt mà nó để lại trong trái tim bà không bao giờ lành được, Đặng Thị Huệ đã bị truất làm cung nhân, nhưng như thế thì sao, sự thật vẫn không thay đổi, ả ta vẫn là sủng thiếp của tiên vương, có được tình yêu của tiên vương, còn bà, bà có gì? Mang tiếng là người thắng cuộc, là người làm chủ hậu cung, thế nhưng hậu cung ấy đã không còn hình bóng người bà yêu nhất, thì bà mãi mãi là kẻ thua cuộc trong bất hạnh mà thôi.
- Ngươi muốn ở trong phủ chúa, nhưng ta là người đứng đầu hậu cung, ta không cho phép ngươi ở lại, xem ngươi có ở được không?
Dương thái phi càng nghĩ càng uất ức, bà nắm chặt tay lại, mặt hoa đỏ bừng, đôi mắt long lên vì tức giận. Ban đầu, khi nghe Trịnh Khải nói sẽ trả tự do cho Đặng Thị Huệ, bà đã lên tiếng phản đối, vì muốn ả cung nhân đó mãi mãi bị giam trong Hộ Tăng đường, không được nhìn thấy ánh mặt trời, nhưng đến khi nghe Đặng Thị Huệ đòi ở lại, bà càng giận sôi hơn và chỉ muốn mau mau tống ả ta đi cho khuất mắt. Ả ta muốn được tự do, bà muốn giam cầm, ả ta muốn bị giam cầm thì bà sẽ muốn ả ta được tự do bên ngoài cho hả lòng hả dạ mới thôi. Bà tuyệt đối không để ả đạt được mục đích.
Trước sự ra uy của Dương thái phi, Đặng Thị Huệ chẳng mảy may sợ sệt, bà bật cười khanh khách trước gương mặt đang tím lại của Dương thái phi.
- Quả nhiên, quả nhiên, Ngọc Hoan ơi là Ngọc Hoan, cho đến bây giờ ngươi vẫn không quên được ta, cho đến bây giờ ngươi vẫn là kẻ thua cuộc. Ngươi là chủ hậu cung, nhưng ngươi không cai quản được ta, cái chức danh đó chẳng qua chỉ là một cái ghế, ngoài nó ra ngươi chẳng có gì cả. Còn ta, ta là sủng phi của tiên vương, có được tình yêu của người, người đời khi nhắc đến ta, sẽ nhớ mãi một Đặng tuyên phi, còn ngươi, khi nhắc đến Thái phi, liệu có ai biết hay họ chỉ nhớ đó là một phi tần nhầm lẫn, được tiên vương thương hại mà thôi!
Những lời Đặng Thị Huệ nói, quả thật đã khiến sự phẫn nộ của Dương thái phi lên tới đỉnh điểm, ngay cả lúc biết được Trịnh Cán sẽ được phong làm thái tử cũng chưa khiến bà tức giận như thế này. Những hình ảnh của quá khứ dồn dập ùa về, choáng ngợp lấy tâm trí bà, những đêm thao thức không ngủ, những giọt nước mắt lặng lẽ không lời, tất cả những ký ức ấy trở thành cơn lốc hình ảnh nhấn chìm bà vào giữa, khiến bà ôm ngực, lảo đảo và thở dốc từng hồi.
- Thái phi!
- Mẫu thân!
Chứng kiến Dương thái phi bị những lời nói của Đặng Thị Huệ kích động đến xây xẩm mặt mày, Trịnh Khải nhíu mày, anh liền bước tới đỡ lấy thân hình mảnh mai đang loạng choạng của Dương thái phi, đỡ bà ngồi xuống chiếc bàn đá gần đó.
- Mẫu thân, người không sao chứ?
- Mau… mau.. mau bắt lấy ả ta!! Lính đâu, mau bắt lấy ả ta!! Giải ả ta đến pháp đình xử tội vì đã phạm thượng với Thái phi!
Với tất cả sức lực của mình, Dương thái phi hét lớn, khiến bốn người lính tam phủ đang đứng ngơ ngác phía sau vội vàng tiến về phía Đặng Thị Huệ để thi hành lệnh Dương thái phi mới ban ra. Mắt thấy lính tam phủ muốn bắt lấy mình, Đặng Thị Huệ liếc mắt nhìn cả bốn một lượt. Có lẽ uy quyền của một Tuyên phi ngày nào vẫn còn đó, thế nên khi nhìn thấy ánh mắt sắc sảo của bà, bọn chúng đâm ngập ngừng, chưa biết xử trí thế nào thì Đặng Thị Huệ đã cất lời.
- Các ngươi không được động vào ta, ta tự biết phải đi như thế nào. Chỉ có điều trước khi ra đi, ta có vài lời muốn nói với chúa công các ngươi!
Trước ý muốn của Đặng Thị Huệ, Trịnh Khải lướt mắt đến bốn tên linh tam phủ, ra hiệu cứ để cho bà được làm những gì mình muốn, sau đó anh hướng về phía Đặng Thị Huệ, tiếp lời.
- Chuyện giữa bà mẫu thân, ta không muốn can thiệp vào, thế nhưng nếu bà đã nghiệm ra được chủ hậu cung chỉ là một cái ghế, người này đứng lên thì kẻ khác ngồi xuống, thì cớ sao năm xưa bà không nghĩ thông được như thế, để dẫn đến kết cuộc ngày hôm nay. Tuyên phi, bà nói đúng, hậu thế sau này sẽ nhớ đến một Đặng tuyên phi, song bà muốn người ta nhớ đến bà là một người phụ nữ được chồng yêu, con quý, hay là một người phụ nữ đã góp phần làm Trịnh triều sụp đổ với những lời chê trách?
Ban nãy, khi nghe Đặng Thị Huệ lớn tiếng khiến Dương thái phi nổi giận, Trịnh Khải vốn tính không can thiệp vào vì đó là ân oán sâu sắc giữa hai người phụ nữ với nhau, song Dương thái phi vẫn là mẹ anh, điều đó không thay đổi được. Mắt nhìn thấy mẫu thân mình bị người khác đả kích, anh không thể không lên tiếng. Nghe những lời Trịnh Khải nói, Đặng Thị huệ nhướng mày, giọng vút cao.
- Ta thì nghĩ thông, nhưng có người nghĩ không thông. Trịnh Khải, ngươi cho rằng tại sao mẫu thân ngươi lại hận ta, lại muốn tranh đấu với ta, ngươi cho rằng năm xưa nếu như ta không vươn lên làm chủ hậu cung, không ngồi lên cái ghế ấy thì bà ta có thể buông tha ta, có thể cùng ta trở thành tỉ muội tốt của nhau, cùng chung sống hòa bình, yêu quý nhau sao? Ngươi cho rằng, với một kẻ xuất thân hèn kém như ta, thân cô, thế cô, không có quyền lực, không có địa vị, an phận mà sống thì có thể tồn tại đến ngày hôm nay chăng? Ngươi hỏi bà ta xem, có thể không? Không, chắc chắn là không bao giờ, vậy ta có lỗi gì khi tự vươn giành lấy quyền lực để có thể bảo vệ con ta, bảo vệ bản thân ta? Trong chốn thâm cung hiểm sâu ấy, nếu an phận không làm gì, khác nào là bó tay chịu chết, ai có thể bảo vệ ta nếu như ta không tự đứng lên đấu tranh cho chính mình. Hậu thế ư, ai quan tâm đến hậu thế nhận xét thế nào chứ, ta không sống đến đó để nghe và cũng không có kẻ nào đủ tư cách để phán xét ta. Cho đến giờ, ta chưa bao giờ hối hận về những gì ta đã làm, mãi mãi không bao giờ hối hận. Vì ta không sai. Yêu và được yêu, đấu tranh và tự vệ là sai hay sao, mưu cầu hạnh phúc cho bản thân và người thân là sai sao?
Trước câu trả lời của Đặng Thị Huệ, Trịnh Khải thở dài không đáp vì những gì bà nói không sai. Mẫu thân anh hận Đặng Thị Huệ, chỉ vì một lý do duy nhất, đó chính là bà ta được tiên vương yêu quý. Nếu như ngày xưa, Đặng Thị Huệ như không làm gì cả, thì mẫu thân anh có ghét bà không? Có, chắc chắn là có. Đặng Thi Huệ không sai, cái sai duy nhất của bà là bà đã yêu và được yêu. Ngày đó, nếu như bà ta không tự vươn lên, không tự bảo vệ mình, thì trong chốn thâm cung ấy chẳng ai có thể bảo vệ bà, cũng khó trách. Chính vì vẫn còn đeo mang một mối thống hận không nguôi, chính vì bản thân luôn sống trong nỗi dằn vặt ấy, mẫu thân anh mới không thắng nổi Đặng Thị Huệ, sự thất bại ấy là bởi chính bà tự tạo ra, tự gánh lấy, hỏi còn có thể trách ai đây.
Trong khi Trịnh Khải đang suy nghĩ, Đặng Thị Huệ từng bước tiến về phía anh, bao nhiêu hình ảnh quá khứ lũ lượt tràn về trong tâm trí bà. Ngày đầu tiên bước chân vào phủ chúa, cô thôn nữ hái chè ngây thơ đã bị chóang ngợp trước vẻ vàng son lộng lẫy xa hoa của tòa Lượng phủ. Những năm tháng êm đềm, vui vẻ trong vòng tay Thịnh vương, niềm hạnh phúc dâng lên tột cùng khi trở thành chủ hậu cung và sinh được hài tử đáng yêu Trịnh Cán, nàng thiếu nữ ngây thơ năm nào giờ trở thành người phụ nữ sắc sảo quyền uy. Khi uy quyền lên tới tột đỉnh, cơn giông kéo tới, giấc mộng phù phiếm đã tan, cô thôn nữ hái chè ngày ấy bây giờ trở thành người thiếu phụ trắng tay, trắng quyền lực và mất chồng, mất con.
Tuyên phi, tại sao bà còn sống?
Đặng Thị Huệ mỉm cười, những sợi tóc lòa xòa đen nhánh bay trong gió. Ngày ấy, Trịnh Khải đã hỏi bà một câu như thế, câu hỏi đã đánh thức bà, khiến bà nhận ra, thật ra bà đang lưu luyến điều gì.
Tại sao, tại sao ư?
Đặng Thị Huệ nhìn sâu vào mắt Trịnh Khải, đôi mắt sắc sảo ánh lên cái nhìn kiêu hãnh tột cùng. Bởi vì bà không thể không là Tuyên phi Đặng Thị Huệ. Đến hôm nay thì bà đã hiểu dụng ý của Trịnh Khải, nhưng bà không thể sống một cuộc sống bình thường dân dã đến hết đời, bà không thể từ bỏ bản thân để trở thành người khác. Bà sẽ mãi mãi là Tuyên phi. Nếu có đi trở lại, bà lại đi đường này, bởi bà không làm gì sai, bởi bà không hối hận, bởi bà đã yêu và được yêu, được sống và cháy hết mình, thành thật với bản thân mình cho đến giây phút cuối cùng.
Trên trời có đám mây
Từ từ tan thành sương
Cơn gió khẽ đuổi nhau trên mặt đất…
Dừng lại trước mặt Trịnh Khải, đôi mắt sắc sảo của Đặng Thị Huệ bỗng trở nên dịu lại, ấm áp và hiền từ. Rồi trước sự kinh ngạc của mọi người, Đặng Thị Huệ khẽ giơ tay lên, chạm nhẹ vào đôi mắt đó, đôi mắt sâu thăm thẳm ấy đúng là của tiên vương, người duy nhất mà bà yêu thương. Giây phút này, sâu trong đáy lòng bà, bà biết, mình chưa bao giờ ghét được con người này, chưa bao giờ.
- Ta đã từng mong, Cán nhi lớn lên sẽ giống như ngươi.
Đặng Thị Huệ nói, giọng bà rất ấm áp, lại hàm chứa yêu thương, trái ngược hẳn với phong thái kiêu hãnh ban nãy, khiến Trịnh Khải vô cùng ngạc nhiên. Đây là lần đầu tiên bà mềm mỏng với anh như thế, đây là lần đầu tiên bà không tỏ thái độ thù địch, mà trái lại, vô cùng gần gũi và dịu dàng, giống như một người mẹ đang nói chuyện với con trai của mình. Nhìn đôi mắt sâu thẳm lấp lánh sự ngạc nhiên, Đặng Thị Huệ nhẹ mỉm cười, bà lướt mắt đến Nguyên Thục lấp ló phía sau, rồi bình thản cất lời.
- Tiệp dư, ta có chuyện muốn nói với ngươi!
Đang ngồi bó gối bên cạnh Dương thái phi, mắt quan sát thần sắc của Trịnh Khải, lo lắng Đặng Thị Huệ lại nói gì đó không hay, Nguyên Thục vô cùng ngạc nhiên khi Đặng Thị Huệ bảo có chuyện muốn nói với nó. Sao thế nhỉ? Bà và nó không quen biết nhau, chỉ tình cờ gặp trong cung Đoan Nguyên, thế thì bà muốn nói gì với nó? Nguyên Thục cắn môi suy nghĩ, nhưng nó vẫn đứng lên, tiến đến chỗ Đặng Thị Huệ trước cái nhìn soi mói của Thánh mẫu. Khi Nguyên Thục đứng ngay ngắn trước mặt Đặng Thị Huệ, bà nhìn nó từ đầu đến chân, rồi lại nhìn sang Trịnh Khải, khe khẽ gật đầu như hài lòng một điều gì đó, rồi khẽ mấp máy môi.
- Tiệp dư, ta muốn….
Đặng Thị Huệ cố tình nói rất nhỏ, khiến Nguyên Thục phải ghé thật sát vào để nghe những gì bà muốn nói. Đột nhiên, một tiếng gió rít nhẹ, Nguyên Thục còn chưa kịp thấm nhuần câu nói của Đặng Thị Huệ thì đã thấy bà ngã xuống, trên ngực là cây trâm cài đầu rung rinh. Mọi chuyện diễn ra quá nhanh, nên không ai kịp ngăn cản, lợi dụng lúc Nguyên Thục chăm chú nghe mình nói, Đặng Thị Huệ đã rút cây trâm cài trên tóc nó và đâm thẳng vào ngực mình.
Cảnh vật chợt trở nên mờ ảo, lung linh, nghe đâu đây có tiếng cười giòn dã của con trẻ luồn qua những tán cây. Dải lụa trắng tung bay, thân hình mảnh mai ngã xuống, gương mặt của Đặng Thị Huệ xanh xao, cây trâm vàng rung rinh trước ngực, máu đào tuôn ra, loang đỏ cả vạt áo trắng trước đôi mắt kinh ngạc của biết bao người.
Mắt thấy Đặng Thị Huệ tự sát, Trịnh Khải nhanh chóng đỡ lấy thân hình mềm rũ đang ngã xuống của bà. Nhìn máu tuôn ướt áo và mạch đập yếu ớt của bà, Trịnh Khải biết anh không thể cứu vãn được mọi chuyện. Nằm thoi thóp trong vòng tay Trịnh Khải, Đặng Thị Huệ cố mở đôi mắt trĩu nặng của mình lên, nhìn cho rõ gương mặt thanh tú đang nhuốm lo lắng ấy.
Ngày đó, khi về cung mà không nhìn thấy hài tử Trịnh Cán, bà đã vô cùng lo lắng nên đã huy động cả hậu cung để tìm con. Đêm đã khuya nhưng vẫn không có tin tức gì, bà quyết định báo cho Thịnh vương thì Trịnh Khải đột ngột bước vào. Ngoài trời mưa tầm tã, cả người Trịnh Khải đều ướt, trên tay đang bế Trịnh Cán ngủ ngon lành, trên người Trịnh Cán còn được phủ chiếc áo bào màu lục của mình để che chắn cho cậu bé khỏi ướt. Trao lại Trịnh Cán cho Đặng Thị Huệ, Trịnh Khải không nói lời nào đã quay đi. Nếu như…. Nếu như hắn không phải là con trai của Dương thái phi, không phải con trai của người phụ nữ đó, thì bà sẽ rất yêu thương hắn, như yêu thương Cán nhi. Ngày đó, ngay trong giây phút nhận lại con mình, Đặng Thị Huệ đã muốn gọi Trịnh Khải một tiếng, nhưng không sao gọi được khi nhìn vào đôi mắt thăm thẳm đó. Một tiếng thôi, chỉ một tiếng thôi mà đã chôn vùi suốt bao nhiêu năm, cho đến bay giờ mới thốt nên lời.
- Hài tử…Câu hỏi ngươi từng hỏi ta… Bởi vì ta là Đặng tuyên phi… Ta…ta không thể không là Tuyên phi.
Đằng xa có một tòa núi
Trên núi có một gốc cây…
Những lời cuối của Đặng Thị Huệ nói rất yếu ớt, thế nhưng lại khiến đôi mắt Trịnh Khải thẫm lại, anh những tưởng rằng trong những giờ phút cuối cùng, tri giác của bà đã mất nên đã nhìn lầm anh với Cán nhi, thế nhưng khi nhìn vào đôi mắt hiền từ ấy, anh nhận ra rằng hai chữ “hài tử” mà bà gọi ấy là dành cho mình. “ Tuyên phi, tại sao bà còn sống?”, anh đã từng hỏi bà như vậy, nhưng điều anh muốn nào có phải là đẩy bà đến chỗ chết. Anh chỉ muốn bà bỏ qua cuộc đời của một Tuyên phi, một cuộc đời tranh đoạt đầy đau đớn và mất mát, có thể bỏ lại tất cả, rời xa toàn Lượng phủ, an nhàn mà sống, thanh thản mà sống. Nhưng tại sao chứ? Tại sao tất cả lại thành ra thế này?
Trước đôi mày kiếm nhíu hẳn lại, nửa lo lắng, nửa ngạc nhiên, bờ môi đào nhợt nhạt của Đặng Thị Huệ nở một nụ cười dịu dàng. Lẽ ra bà nên nói cho Trịnh Khải biết mọi chuyện về Thanh Loan, thế nhưng, mắt thấy Nguyên Thục và Trịnh Khải quấn quýt nhau như thế, giống hệt bà và Thịnh vương ngày xưa, bà lại thôi. Hình ảnh Nguyên Thục bây giờ chẳng khác chi bà khi ấy, cũng thân cô, thế cô, không có quyền lực, không có chỗ dựa, bị chèn ép đủ điều. Điều bà có thể làm để trả cho nó cái ơn đã che giấu bà là giữ kín chuyện của Thanh Loan, là trao cho Nguyên Thục một bí mật, để nó có thể được ở bên cạnh Trịnh Khải, hạnh phúc và vui vẻ, giống như bà với tiên vương ngày xưa.
Tiên vương…
Cán nhi…
Thần thiếp đến đây…
- Tuyên phi?
Nhìn thấy đôi mắt Đặng Thị Huệ khép lại, Trịnh Khải khẽ gọi, đến khi bà nằm yên, không nhúc nhích, anh biết rằng Đặng Tuyên phi đã ra đi. “Hài tử, hài tử”, giọng nói dịu dàng của Đặng Thị Huệ như vẫn còn ở bên tai, anh lặng người đi, vòng tay trở nên trĩu nặng, đôi mắt sâu thẳm chơi vơi.
Đang ngồi bấu chặt tay vào bàn đá, Dương thái phi hơi chồm người về phía trước khi không gian bỗng nhiên yên lặng. Nhìn Đặng Thị Huệ nhắm mắt, trên môi là nụ cười thanh thản, Dương thái phi mở to mắt, bàn tay run run. Người phụ nữ ấy đã chết, cuối cùng, ả ta đã chết, nhưng tại sao trông ả lại hạnh phúc đến thế, trông ả lại mãn nguyện đến thế, tại sao? Dương thái phi thẫn thờ, bà tự hỏi, nhưng câu trả lời ra sao mãi không thể nào biết được. Đặng Thị Huệ đã chết, đáng lẽ Dương thái phi phải rất vui, rất thỏa mãn vì từ này ả ta sẽ không xuất hiện trước mặt bà nữa, nhưng tại sao bà lại thấy lòng trống không, thơ thẩn như thế.
Cuối cùng thì ả cũng đã chết, nhưng đến chết, ả ta vẫn là người chiến thắng, còn bà, chỉ mãi mãi là kẻ thua cuộc mà thôi.
Có một gia đình trong ngôi nhà tranh ấy
Sống bên nhau…rất là hạnh phúc!(*)
------------------
Chú thích:
(*) Toàn bộ in nghiêng trong chap là bài hát “ Nơi xa có ngọn núi”
★ Chương 125
Trong cung Đoan Nguyên, Nguyên Thục xông xáo xới tung cả căn phòng, mắt nó nhìn quanh, tay không ngừng lục lọi, tìm kiếm, mong tìm thấy vật quan trọng mà Đặng Thị Huệ đã nói nhỏ vào tai nó trước lúc lâm chung.
“Muốn bảo vệ hắn, ngươi phải tìm thấy vật đó trong phòng mình”
Khi nghe được những lời thì thầm ấy, Nguyên Thục vô cùng bất ngờ, nó vốn định hỏi cho rõ thì Đặng Thị Huệ đã bất ngờ tự sát, trong khi nó còn đang ngỡ ngàng vì không hiểu chuyện gì vừa xảy ra. “Muốn bảo vệ hắn, ngươi phải tìm thấy vật đó trong phòng”, vật đó là vật gì? Tại sao lại cất trong phòng nó, nếu có thì tại sao nó mất cả buổi mà vẫn không thấy gì?
Nguyên Thục vừa tìm kiếm vừa tự hỏi như thế, muốn giải đáp thắc mắc ấy, tất nhiên phải tìm cho ra “vật đó”, nhưng nó đã lục tung khắp mọi ngóc ngách, kể cả khom người dòm xuống gầm tủ, nhấc bình hoa lên, vẫn không thấy tung tích “vật đó” ở đâu? Để bảo đảm những gì đang làm là bí mật, Nguyên Thục đã nhờ A Vân và A Đào xuống ngự trù hầm món canh gà cho nó. Vốn ăn món này nhiều lần, Nguyên Thục biết món canh gà phải hầm rất lâu, thường mất đến ba, bốn tiếng. Thực ra, nó biết A Đào và A Vân rất kín kẽ, không bao giờ phản lại mình, nhưng cẩn tắc vô ưu, hai nàng ấy không biết chuyện là hơn, tránh sau này xảy ra sự cố gì thì hai nàng ấy cũng vô can.
Lúc Trịnh Khải mang thi thể Đặng Thị Huệ đi mai táng, theo đúng nghi thức của một phi tần, Thánh mẫu đã giữ nó lại, xét hỏi Đặng Thị Huệ đã nói gì với nó trước khi lâm chung. Trước sự dò xét của Thánh mẫu, Nguyên Thục chỉ trả lời Đặng Thị Huệ lừa nó lại gần để lấy cây trâm, chứ chẳng nói gì cả. Nghe nó nói, Thánh mẫu im lặng, nhưng thông qua đôi mắt đang nhướng lên của bà, nó biết tỏng bà không tin, nhưng cũng đành để nó đi vì không có chứng cứ. Chuyện liên quan đến Trịnh Khải, hơn nữa lại chưa biết là chuyện có lợi hay có hại thì nó phải giữ bí mật, không được cho ai hay, chỉ có hai người, là nó và Đặng Thị Huệ biết được chuyện này mà thôi.
“Muốn bảo vệ hắn”, Đặng Thị Huệ đã nói như thế, tất nhiên “vật đó” có ảnh hưởng không nhỏ đến anh, nếu vậy, Nguyên Thục nhất định phải tìm ra. Đặng Thị Huệ đã cất giữ trong phòng nó, thì chắc chắn “vật đó” chẳng chạy đi đâu được, điều quan trọng là tự kiểm lại xem nó còn bỏ sót ngóc ngách nào thôi.
Bình tĩnh, không được nôn nóng, càng nôn nóng thì càng hỏng việc!!!
Nhận ra đầu óc mình rối tung, không thể tập trung suy nghĩ được gì, Nguyên Thục điều hòa lại hơi thở! Cứ từ từ, không việc gì phải vội, hôm nay tìm không thấy, thì ngày mai sẽ thấy, vật ấy ở trong phòng của mình, chứ có chạy đi đâu được.
Nguyên Thục bặm môi suy nghĩ, nó hết đi qua, rồi đi lại, tay vắt trán, cố hình dung lại cảnh Đặng Thị Huệ ngồi trong phòng mình, nếu mình là bà ta, mình sẽ giấu nó ở đâu. Nếu mình là bà ta…
“Cửa gác đóng im lìm
Lầu cao nằm trống trải
Đợi chàng hoài chẳng về
Bưng chén trà nhớ mãi…”
Đột nhiên, trong tâm trí Nguyên Thục chợt ngân nga bài thơ Đặng Thị Huệ đã ngâm khi bà trốn trong phòng nó. Đúng rồi, không lý nào bà đột nhiên ngâm thơ như thế, lại thêm khi thì thầm vào tai nó những lời ấy, hai tay bà khum lại, hệt như động tác bưng chén trà, khiến Nguyên Thục như người nhìn thấy ánh sáng khi ra khỏi đường hầm. Nó nhanh chóng bước đến bàn trà, nơi Đặng Thị Huệ đã ngồi, lòng nôn nóng tìm thấy vật ấy trước khi A Đào và A Vân trở về.
Cầm từng ấm, tách lên săm soi, Nguyên Thục thoáng thất vọng khi không tìm thấy dấu vết khả nghi, nó cố xem xét lại hai, ba lần nhưng vẫn không có dấu hiệu khả quan nào. Vì Trịnh Khải, Nguyên Thục không nản chí, hết xem xét ấm, chén, Nguyên Thục lại bưng khay trà lên, dòm trước, ngó sau, và rồi, trái tim nó như muốn nhảy ra ngoài khi nhìn thấy một khe hở trên khay trà…
Cố giữ cho trái tim thôi đánh loto trong lồng ngực, Nguyên Thục liếm môi, dùng tay rà thật kỹ khe hở ấy, sau đó, nó nhẹ nhàng dùng ngón tay út nạy khay trà lên, đôi mắt sáng lên khi nhìn thấy một cuộn giấy được gấp vuông vức làm bốn nằm ở giữa. Thì ra khay trà này có đến hai lớp gỗ, ở giữa là khoảng trống, Đặng Thị Huệ đã lợi dụng điểm này để nhét cuộn giấy vào, nếu không được sự mách bảo của bà, chắc chắn nó không thể tìm ra được, và cũng chẳng ai ngờ bên trong khay gỗ lại chứa đứng một bí mật đã che giấu suốt mấy năm qua. Nguyên Thục nhủ thầm, nó cẩn thận lấy cuộn giấy ra và đóng khay trà lại, để rồi sau khi đọc được những dòng chữ trong cuộc giấy ấy, đôi mắt Nguyên Thục mở to vì quá sững sờ…
——————————-
Khi những ánh đèn trong tòa ngự lâu được thắp sáng, Trịnh Khải mới có thể đến cung Đoan Nguyên của Nguyên Thục như đã hứa, vì đã dành nguyên một buổi lo hậu sự cho Đặng Thị Huệ theo nghi lễ của một phi tần. Lúc lệnh ban ra, Dương thái phi ngẩn ngơ, nhưng không thấy bà phản đối hay lên tiếng, điều đó khiến Trịnh Khải nhíu mày vì biết rằng tinh thần của bà đang sa sút, trống rỗng, trong khi Thánh mẫu bất bình chuyện một ả cung nữ bé mọn mà được mai táng long trọng như một cung phi.
Dù trong lòng còn bận tâm rất nhiều điều, nhưng bao giờ cũng thế, mỗi lần nhìn thấy chiếc đèn lồng đỏ treo trên cành trúc của cung Đoan Nguyên, tâm trạng Trịnh Khải dịu lại, và những muộn phiền trong lòng cũng vơi đi phần nào. Cánh cửa màu gụ của cung Đoan Nguyên hiện ra trước mắt, A Đào và A Vân đang đứng ngoài cửa vội vàng hành lễ khi anh tiến tới. Đẩy nhẹ cửa bước vào, Trịnh Khải chưa kịp xin lỗi Nguyên Thục về chuyện anh tới trễ, để nó phải đợi lâu, thì Nguyên Thục đã sà vào lòng anh, dụi mặt vào áo như một chú mèo con, khiến anh vô cùng ngạc nhiên vì đây là lần đầu tiên nó chào đón anh bằng cử chỉ âu yếm như thế này.
- Thục nhi, nàng sao thế?
Vỗ về bờ vai mềm mại của Nguyên Thục, Trịnh Khải hỏi, giọng phảng phất lo lắng, anh sờ lên trán nó thì thấy trán mát lạnh, nhưng lòng bàn tay lại ướt đẫm mồ hôi, nhịp tim lại đập nhanh hơn thường ngày. Biết trong phút xúc động đã phải khiến Trịnh Khải lo lắng, Nguyên Thục cố trấn áp cơn giông tố đang bành trướng trong lòng mình, rồi nắm tay anh ngồi xuống ghế, miệng mỉm cười.
- Hôm nay em có nhờ A Vân, A Đào hầm món canh gà cho anh uống, còn rất nóng, anh mau uống kẻo nguội!
Cẩn thận múc từng muỗng canh sóng sánh vàng vào chén, Nguyên Thục đặt chén canh vào tay Trịnh Khải, cố ra vẻ tự nhiên khi ánh mắt sâu thẳm của anh đang nhìn vào mắt nó. Cầm lấy chén canh nhưng không uống vội, Trịnh Khải cài những sợi tóc mai phơ phất qua vành tai nhỏ nhắn của Nguyên Thục, anh hỏi, vô cùng dịu dàng.
- Nàng có gì muốn nói với ta không?
Nguyên Thục im lặng, quả nhiên dù nó có che đậy cách mấy cũng không thể nào qua mắt anh. Nếu nó không nói, tất nhiên Trịnh Khải cũng sẽ không hỏi. Nó vốn cũng không muốn giấu anh bất cứ chuyện gì, nhưng… nhưng nó sao có thể nói cho anh biết bí mật về cuộn giấy kia, rằng Đặng Thị Huệ đã che đậy một sự thật, một sự thật có sức ảnh hướng rất lớn, đe dọa đến ngôi chúa của anh.
- Anh này…- Nguyên Thục liếm môi, nó ngập ngừng – Ngoài Trịnh Cán, và những người khác, anh còn có họ hàng chú bác nào nữa không?
Từ lúc mới quen nhau, Nguyên Thục không bao giờ đề cập đến thân bằng quyến thuộc của anh, nay đột nhiên nghe nó hỏi đến, Trịnh Khải không khỏi ngạc nhiên.
- Sao nàng lại hỏi thế?
- Bởi vì… lúc nghe Tuyên phi nói chuyện với anh, có nhắc đến Trịnh Cán, em chỉ biết đó là em trai anh, ngoài ra em chẳng biết ai cả, trong khi gia đình em, bạn bè em có bao nhiêu, em đều nói cho anh biết hết rồi!
Nguyên Thục nói, giọng ngùi ngùi, dù đó là điều nó muốn làm sáng tỏ những gì được viết trong cuộn giấy, nhưng mặt khác nó cũng muốn biết họ hàng quyến thuộc của Trịnh Khải, cho dù không gặp được những người đó bao giờ. Nhìn bờ môi đào đang mím lại của Nguyên Thục, Trịnh Khải mỉm cười, anh dìu nó ngồi xuống ghế, rồi đáp lời.
- Phụ thân ta có rất nhiều huynh đệ, phi tử, nên họ hàng, quyến thuộc của ta rất nhiều, ta không thể liệt kê hết cho nàng biết được. Nhưng trong số anh em, thúc bá, ta có một người bác họ mà ta rất quý bởi tính cách khoan hòa, bao dung với kẻ ăn người ở trong nhà.
Nghe Trịnh Khải nhắc đến người bác họ, một tia chớp kỳ lạ lóe lên trong mắt Nguyên Thục rồi biến mất. Liếm nhẹ đôi môi khô ran của mình, Nguyên Thục hỏi dò.
- Thế ông ấy tên gì? Có còn sống không anh?
- Là Trịnh Bồng! Sáng nay ông ấy đã đến Cung miếu thắp hương, nhưng nửa chừng có chuyện nên về sớm, chừng nào ngơi việc, ta sẽ dẫn nàng đến phủ ông ấy chơi.
Hai chữ Trịnh Bồng chẳng khác nào tiếng sét giáng trong đêm tối, khiến sắc mặt Nguyên Thục thay đổi, nhưng vì đang khuấy canh cho nguội bớt nên Trịnh Khải không để ý đến. Ngồi nhìn anh uống canh, tuy ngoài Nguyên Thục làm mặt tỉnh, nhưng trong lòng lại như có sóng gầm. Trịnh Bồng, đúng là Trịnh Bồng, ông ta vẫn còn sống, khỏe mạnh, và là người có thể đe dọa đến ngôi chúa của anh bất cứ lúc nào.
“ …Ta truyền chỉ, Trịnh Bồng sẽ là người kế nghiệp chúa, sau khi ta băng hà…”
Cuộn giấy Đặng Thị Huệ đã bí mật nhét vào giữa khay đựng trà đó, chính là chiếu chỉ truyền ngôi chúa lúc lâm chung của Tĩnh vương.
“Nếu muốn bảo vệ hắn ta…”
Những lời sau cuối của Đặng Thị Huệ vang lên trong đầu Nguyên Thục, hai bàn tay nó không ngừng vò nát mép áo, vì phát hiện ra sự thật đã che giấu bao nhiêu năm nay. Thì ra ngày đó, trước khi băng hà, Tĩnh vương đã ra chiếu chỉ truyền ngôi lại cho đệ đệ của mình là Trịnh Bồng, chứ không phải Trịnh Khải, càng không phải Trịnh Cán. Ngày đó, có lẽ do Đặng Thị Huệ không cam chịu sự sắp xếp này, nên đã lén giấu đi chiếu chỉ và thay bằng chiếu chỉ khác, để cho Trịnh Cán lên ngôi chúa. Nếu đúng như thế, vậy thì nó không tài nào hiểu nổi, tại sao Tĩnh vương không truyền ngôi cho con trai mà lại truyền ngôi cho em mình. Không truyền ngôi cho Trịnh Khải thì còn miễn cưỡng hiểu được, nhưng tại sao cũng không phải là Trịnh Cán, đứa con với người phụ nữ mà ông ta hết mực yêu thương. Còn Đặng Thị Huệ, tại sao bà ta không hủy đi chiếu chỉ này khi đưa Trịnh Cán lên ngôi, hay không công khai khi Trịnh Khải lên ngôi mà lại bí mật giữ nó cho đến tận bây giờ. Mà tại sao chẳng phải ai lại là nó, tại sao lại hé lộ cho nó biết bí mật động trời này…
Trong khi Nguyên Thục đang nhíu mày suy nghĩ, thì Trịnh Khải ngồi bên cạnh trầm tư. Cho đến bây giờ, những hình ảnh cùng lời trăn trối trước khi chết của Đặng Thị Huệ vẫn còn hiện diện trong tâm trí anh. “Hài tử”, anh thật không hiểu được tại sao bà lại gọi anh như thế? Rốt cuộc, với anh, bà có oán hận không? Nếu có, tại sao lại gọi anh là hài tử với giọng trìu mến, yêu thương, còn nếu không, tại sao bao năm nay bà đối xử với anh như kẻ thù địch của mình?
Câu hỏi của ngươi…Ta không thể không là Tuyên phi
Trong phút chốc, đôi mắt Trịnh Khải như có làn sương bạc kéo qua. Là tại anh, chính vì anh nói với Tuyên phi câu nói đó mới khiến bà tìm đến cái chết ngày hôm nay. Nhìn đăm đăm vào ngọn đèn dầu leo lét trong phòng, nét mặt kiên định cùng mãn nguyện của Đặng Thị Huệ lúc rời xa khiến anh đau lòng. Có lẽ, bà đã hiểu sai ý anh, câu hỏi “Tuyên phi, tại sao bà còn sống”, ý anh là muốn bà hãy rũ bỏ quá khứ, hãy quên đi cuộc sống của một Tuyên phi đầy uy quyền nhưng cũng thấm đẫm gian truân, hãy học cách chấp nhận hiện thực để có thể sống một cuộc sống thanh thản, không vướng bận, không hận thù và không tiếc nuối. Anh chỉ muốn bà có thể làm lại từ đầu, có thể an nhàn và thoải mái, anh không hề muốn bà phải tìm đến cái chết như thế này. Khi nghe Đặng Thị Huệ thốt ra những lời ấy, anh đã toan giải thích, nhưng không kịp vì bà đã đi rồi.
- Anh, anh sao vậy? Anh không khỏe chỗ nào sao? Có cần gọi ngự y hay uống thuốc không?
Khi đã thoát khỏi dòng suy nghĩ của mình, Nguyên Thục ngẩng nhìn Trịnh Khải. Thấy anh ngồi yên lặng không nói, tay bóp nhẹ trán, đôi mày kiếm chau lại, hằn sâu như một vết cắt, Nguyên Thục vô cùng lo lắng, nó vội vàng lên tiếng, tay níu lấy áo Trịnh Khải sờ lên trán anh để xem đau bệnh thế nào. Thấy Nguyên Thục hớt hải như thế, Trịnh Khải cười nhẹ, anh nắm lấy đôi bàn tay của nó, xiết chặt và nhìn sâu vào đôi mắt long lanh ấy. Người con gái này, anh có thể nói hết những gì chất chứa trong lòng anh được hay không?
- Thục nhi, ta không sao, chỉ là có chút phiền lòng!
- Chuyện của Tuyên phi đâu ai muốn thành ra như thế, mà chuyện cũng qua rồi, anh đừng để trong lòng nữa.
- Không, tất cả là tại ta. Tuyên phi chết như thế, là do ta đã nói điều không nên nói với bà ấy. Nếu như ta không nói câu đó, thì có lẽ bà ấy đã không ra đi!
Đối với cái chết của Đặng Thị Huệ, Nguyên Thục hiểu chuyện đó đã tác động không nhỏ đến Trịnh Khải, thế nên nó tránh nhắc đến vì không muốn làm anh mất vui, nhưng nay anh đã đề cập đến chuyện đó, lại bảo rằng chính anh đã đẩy Tuyên phi đến chỗ chết, điều đó làm Nguyên Thục vô cùng ngạc nhiên.
- Anh đã nói gì?
- Ta… – Sau chữ “ ta…” Trịnh Khải im lặng một lúc lâu, rồi nhẹ nhàng đáp lời – Ta đã từng hỏi bà ấy “Tuyên phi, tại sao bà còn sống?”. Khi nói câu ấy, vốn dĩ là ta muốn bà ấy bỏ qua cuộc đời của một Tuyên phi, đầy tranh đoạt, mất mát và đau đớn, để có thể thanh thản, an nhàn mà sống tiếp, không phải nuối tiếc hay dằn vặt bản thân trong đau khổ nữa. Cán nhi trên trời có linh thiêng, chắc chắn nó không muốn nhìn thấy mẫu thân mình ôm mãi mối hận mà sống như thế. Nhưng có lẽ Tuyên phi đã hiểu sai ý ta, rằng ta đả kích bà ấy, chạm vào nỗi đau thất bại và niềm kiêu hãnh của bà ấy, muốn đẩy bà ấy đến đường cùng nên bà ấy mới chọn cái chết. Đó là lỗi của ta, nhưng ta không hề muốn như thế. Ta, thật sự rất buồn.
Ngồi yên lặng bên cạnh Trịnh Khải, nhìn đôi mắt sâu hun hút ấy, nỗi buồn của anh đã truyền sang Nguyên Thục, khiến nó cảm thấy lòng trĩu nặng và ưu phiền theo anh. Đây là lần đầu tiên anh bộc bạch với nó, lẽ ra nó phải vui, nhưng nỗi niềm của anh có bao giờ là chuyện vui, mà chỉ toàn tiếc nuối. Nguyên Thục cắn môi xót xa, nó vươn hai tay, ôm lấy Trịnh Khải vào lòng, tay vuốt ve bờ vai rộng, cất lời dịu dàng.
- Anh biết không, em nghĩ là bà ấy hoàn toàn hiểu được dụng ý của anh, chỉ là bà ấy không thể từ bỏ bản ngã con người mình mà thôi. Không phải lỗi tại anh đâu, Tuyên phi muốn ra đi là quyết định của chính bà ấy. Như bà ấy đã nói, bà ấy không thể không là Tuyên phi, quyền lực, danh vọng, tranh đoạt, mất mát, thắng lợi, thất bại và kể cả đau đớn cũng là một phần trong cuộc sống của bà, là con đường mà bà lựa chọn và cũng là một phần của con người bà, nếu không có nó, bà ấy sẽ không còn là chính mình, không còn mục đích sống. Và một khi đã mất đi mục đích sống, người ta ra đi cũng là lẽ tự nhiên.
Anh đã thấy bà ấy rồi đó, đến phút cuối cùng, bà ấy cũng không hề tỏ ra ân hận hay hối tiếc bất cứ điều gì. Bà kiêu hãnh, sống như mình thich, làm điều mình muốn. Nhìn sự bình thản của bà khi đối diện với tất cả, em tin rằng, đến phút cuối đời, bà vẫn là tự quyết định số phận của mình, chứ không phải vì lời nói của anh mới chọn cách giải quyết đó.
Bản thân em cho rằng có khi ra đi, bà ấy lại hạnh phúc hơn hết. Bà ấy là sống vì người mình yêu thương, tranh đoạt là để bảo vệ con mình, nay, họ đều đã không còn thì bà sống chẳng còn có ý nghĩa gì. Tĩnh vương và Cán nhi, hai người ấy chắc chắn đang đợi bà phía bên kia thế giới. Đi gặp hai người đó, đối với bà ấy mà nói, kết cuộc đó không còn gì viên mãn hơn. Thế nên, đó không phải lỗi tại anh đâu.
Nguyên Thục ôm chặt lấy Trịnh Khải, nó muốn dùng hơi ấm, cùng những lời an ủi, động viên để giúp anh phấn chấn lên. Thế nhưng hơn ai hết, Nguyên Thục biết rằng bấy nhiêu đó không thể xoa dịu vết thương trong lòng Trịnh Khải. Anh vẫn yên lặng, không nói, mà chỉ xiết chặt lấy nó, điều ấy khiến Nguyên Thục vô cùng đau lòng. Chỉ riêng Tuyên phi thôi mà anh đã phiền muộn đến thế, nếu biết được tất cả sự thật về Thanh Loan, rồi tới chiếu chỉ của Tĩnh vương, nếu tất cả đến dồn dập thì anh sẽ còn phải nhận lãnh thêm bao nhiêu vết thương mới, phiền muộn mới, suy tư mới nữa. Và nếu cứ như thế thì trong lòng anh biết bao giờ mới có được bình yên đây…?
Sau bữa cơm ấm cúng, Trịnh Khải rà tay lên chén trà thơm Nguyên Thục vừa mới rót, anh cầm nhưng không uống vội, mà quan sát Nguyên Thục đang cẩn thận dùng dây lạt cắt bánh chưng để xếp ra đĩa. Nhìn hai vầng thái dương lấm tấm mồ hôi, lại nhớ đến sự ngậm ngùi và lời an ủi khi nãy của Nguyên Thục, Trịnh Khải cảm thấy ấm lòng. Đối với anh, nó không hề giấu diếm bất cứ chuyện gì, từ gia đình, bạn bè, cho đến sở thích, kỷ niệm, trong khi anh chưa bao giờ hé lộ cho Nguyên Thục bất cứ điều gì về quá khứ của mình, một phần vì anh lo nó sẽ bận lòng, một phần vì đó là những điều anh chỉ muốn quên đi. Nhưng bây giờ thì khác, sau cái chết của Thanh Loan, của Tuyên phi, anh đã bắt đầu nhận thức rằng lối sống khép kín lòng mình bao lâu nay của anh chỉ khiến người xung quanh lo lắng cho anh nhiều hơn. Anh đã để những người quan trọng với mình lần lượt ra đi, bây giờ chỉ còn lại mẫu thân và Nguyên Thục bên cạnh. Mẫu thân anh xưa nay luôn thế, nhưng còn Nguyên Thục, thật bất công và thiệt thòi cho nó, khi chẳng biết chút gì về anh, không biết đến chuyện ngày xưa của anh như thế nào nhưng lại phải luôn lo lắng vì anh. Có lẽ, anh đã suy nghĩ quá nhiều, có lẽ, Nguyên Thục của anh đủ bản lĩnh, đủ trưởng thành và đủ sâu sắc để cùng anh sẽ chia mọi nỗi niềm.
Bây giờ, cũng đã đến lúc cần cho Nguyên Thục biết rồi…
- Thục nhi, khi Tuyên phi nhắc tới Trịnh Cán, nàng có biết Cán nhi là ai không?
Đang bày biện bánh trên đĩa sao cho đẹp mắt, Nguyên Thục ngẩng đầu lên khi Trịnh Khải hỏi, đôi mắt nó long lanh vì đây là lần đầu tiên anh chủ động nói với nó, chứ không phải cảnh nó hỏi anh đáp như thường ngày, điều đó chứng tỏ anh đã bắt đầu mở lòng mình ra, sẻ chia cho nó những cảm nhận của mình. Đó chính là điều nó mong đợi bấy lâu nay. Thật là tốt biết bao!
- Em chỉ biết Cán nhi là em trai của anh, còn lại thì không ạ!
- Nàng không biết cũng phải. Cán nhi vốn là ái tử của Tuyên phi, sau khi ta lên ngôi, không ai muốn nhắc đến chuyện đó vì sợ mẫu thân ta. Tuy là hài tử của Tuyên phi, người mà mẫu thân ta xem như thù địch, nhưng đối với Cán nhi, ta vẫn luôn quan tâm và yêu quý nó, bởi vì nó là một đứa trẻ ngoan ngoãn, đáng yêu. Từ nhỏ, Cán nhi luôn đau bệnh, ngự y khuyên nó không nên chạy nhảy hay ra ngoài trời quá lâu sẽ không tốt cho sức khỏe, nhưng đứa bé ấy không bao giờ chịu nghe lời. Nó hay đến phủ ta, muốn ta dẫn nó ra ngoài chơi, muốn ta đẽo thú gỗ cho nó, rồi tít tít đủ thứ chuyện. Mỗi lần ta đi đâu, nó đều lẽo đẽo theo sau, luôn miệng gọi “Khải ca, Khải ca, đợi đệ!”
Khi ta bị phụ thân quản thúc ở Tam Nhàn đường, ngày nào nó cũng đến chỗ ta nhưng bị lính tam phủ cản lại, không cho vào. Nó đứng ở ngoài, kiễng chân nhìn vào cửa sổ, luôn miêng giục ta ra chơi với nó. Khi ấy, để tránh nó không bị Tuyên phi phạt đòn khi dính dáng đến ta, ta đã không ra ngoài. Chiều xuống, trời mưa rất to, nó vẫn kiên trì quanh quẩn ngoài cửa sổ, ta không thể để nó dầm mưa nên đã ra ngoài đưa nó về phủ Tuyên phi. Khi ta bế nó lên, nó nhìn ta, vừa khóc vừa hỏi rằng có phải nó đã làm chuyện gì sai, nên ta mới không chơi với nó nữa không…
Ngày hôm sau, ta không thấy Cán nhi đến, rồi một tuần sau cũng không thấy Cán nhi đến, qua lời của đám cung nữ, ta biết nó đang bị bệnh, và Tuyên phi đã cấm không cho nó bén mảng đến Tam Nhàn đường. Rồi khi thế thời thay đổi, ta lên ngôi chúa, ta đến phủ Lượng quốc thăm nó, lúc ấy nó đang nguy kịch. Khi ta bước vào, nó đang nằm trên giường, người xanh xao, gầy gò, hơi thở nặng nhọc, nhưng vẫn cố mỉm cười với ta, nói rằng nó luôn đợi, vì nó biết ta sẽ đến thăm nó, vậy rồi, nó ra đi…
Trịnh Khải chỉ kể đến đó, rồi thôi, đôi mắt sâu thẳm của anh lấp lánh như có ánh nắng soi vào. Cho đến bây giờ, anh vẫn còn nhớ rất rõ hình ảnh của Cán nhi khi ấy, nó đang nằm thoi thóp trên giường, nhưng khi thấy anh vào lại cố gắng mỉm cười. Cán nhi đã chờ anh đến, chờ được gặp mặt “Khải ca” của mình lần cuối cùng rồi mới nhắm mắt ra đi. Khi Cán nhi mất, đêm hôm ấy Ngự lâu thắp đèn đến sáng, mưa rơi thì thầm trên mái ngói, còn anh đứng bên song cửa, lặng yên nhìn từng giọt mưa nhỏ xuống hiên nhà, đôi mắt sâu mênh mông như có làn sương mỏng giăng ngang
Khải ca, Cán nhi biết huynh sẽ tới…
Luôn tin rằng huynh sẽ tới…
Vì huynh là ca ca của Cán nhi…
Ngồi bên cạnh Trịnh Khải, yên lặng nghe anh kể, Nguyên Thục xót xa khi ánh mắt của Trịnh Khải trở nên u hoài. Quả nhiên, với anh, mỗi một chuyện trong quá khứ đều là những chuyện không vui, là những viết thương âm ỉ chưa liền miệng. Tĩnh vương, Cán nhi, Thanh Loan và Tuyên phi Đặng Thị Huệ, tất cả họ, theo cách nào đó, đều rất quan trọng với anh, có sức ảnh hưởng tới anh, nhưng cũng đều đã ra đi, bỏ lại mình với những nỗi đau còn đó. Khi nghe anh bộc bạch, nó mới cảm thấy rằng mình thật may mắn biết bao. Nó sinh ra trong một gia đình hạnh phúc, cha yêu, mẹ chiều, em gái thương chị, sống vô ưu vô lo mà không bận tâm hay phiền não điều gì, còn anh, sao mà nhiều ưu tư quá, nhiều nỗi lo quá. Nó có thể dựa dẫm vào anh, gặp nguy hiểm có anh bảo vệ, gặp buồn phiền thì được anh an ủi, gặp chuyện không vui, hờn dỗi đều được anh vỗ về. Còn anh, khi muộn phiền có ai an ủi? Khi gặp khó khăn có ai ra tay giúp? Khi gặp nguy hiểm có ai có thể bảo vệ? khi gặp chuyện không vui ai có thể giải khuây? Không! Không ai cả, chỉ có mình anh, là tự bản thân anh gánh vác, tự bản thân anh chịu đựng, tự bản thân anh giải quyết mà thôi…
Đang hồi tưởng lại những ngày tháng xưa kia, nhận thấy bầu không khí tĩnh lặng, Trịnh Khải nhìn sang Nguyên Thục, để rồi vô cùng ngạc nhiên khi thấy những giọt lệ lóng lánh trào ra từ khóe mắt nó, lăn dài xuống mà, nhạt nhòa
-Thục nhi, nàng sao thế? Sao lại khóc?
Lau khô những giọt nước mắt chực rơi của Nguyên Thục, Trịnh Khải lo lắng hỏi. Nhìn gương mặt thanh tú đong đầy quan tâm, Nguyên Thục lại càng thêm đau lòng, nó ngã vào lòng anh, òa khóc, càng khiến Trịnh Khải thêm lo lắng vì không hiểu tại sao.
Trịnh Khải buồn như thế, tất cả là lỗi tại nó, tại nó vòi anh kể chuyện của anh cho nó nghe, tại nó không chịu hiểu mỗi một chuyện quá khứ của anh đều là một vết thương âm ỉ trong lòng, nếu anh kể cho nó nghe, thì lại một lần nữa đào vào những vết thương ấy, càng khiến cho nó thêm rộng và sâu, trong khi bản thân anh đang muốn quên đi, muốn chôn vùi tất cả. Nó đã không biết điều đó, lại còn hờn dỗi, cho rằng nó không quan trọng với anh, không đáng tin tưởng để anh sẻ chia tâm tư mình, khiến anh phải buồn lòng. Trong khi anh còn có nhiều chuyện phải lo hơn là những chuyện giận hờn mưa nắng vô cớ ấy, vậy mà anh vẫn chiều lòng nó, vẫn kể cho nó nghe về chuyện trước kia, cho dù phải chịu đựng những vết thương ấy thêm một lần nữa. Lỗi tại nó, là lỗi do nó gây ra!
- Thục nhi, ngoan nào, đừng khóc!
Dù không biết tại sao Nguyên Thục lại đột ngột khóc òa lên, nhưng Trịnh Khải vẫn ôm nó vào lòng, vuốt nhẹ lên mái tóc đen mượt thoang thưởng hương bưởi nhẹ nhàng. Được Trịnh Khải vỗ về, lại tự vấn lương tâm, hứa với bản thân mình rằng sẽ không đòi hỏi muốn biết chuyện ngày xưa của anh nữa, chỉ quan tâm tới hiện tại của anh mà thôi, Nguyên Thục đã ngừng rơi lệ. Những giọt nước mắt khô nhanh trên đôi má bầu bĩnh, nó rúc vào lòng anh, tận hưởng sự êm đềm và mùi trầm hương dịu dàng vây lấy mình.
Bất chợt, Nguyên Thục nhớ đến lời thì thầm mà Tuyên phi đã nói với nó lúc lâm chung. “Bảo vệ Trịnh Khải”, phải, hơn lúc nào hết, giờ đây nó khao khát muốn bảo vệ Trịnh Khải, muốn được trở thành chỗ dựa vững chắc cho anh. Nó không muốn anh phải đơn độc đón nhận mọi thứ nữa, từ nay, nó sẽ an ủi anh mỗi khi anh muộn phiền, giúp đỡ anh khi anh gặp khó khăn, bảo vệ anh khi anh gặp nguy hiểm. Muốn như thế, nó phải trở nên thật mạnh mẽ, thật quyết đoán, như Tuyên phi vậy.
Tuyên phi…
Rốt cục thì bà có ý gì?
Nhưng dù bà có ý gì đi nữa thì cũng xin đa tạ.
Nguyên Thục nhắm mắt lại, để rồi khi mở ra, đôi mắt nó ánh lên sự kiên quyết sắt đá. Con đường phía trước, nó đã lựa chọn và tuyệt đối sẽ không hối hận. Vì Trịnh Khải, vì bảo vệ anh, nó sẽ mang bí mật trong di chiếu chôn vùi, bằng mọi giá, nó sẽ bảo vệ ngôi chúa cho anh. Nó phải thiêu hủy tờ chiếu chỉ này… và cả những ai đã từng biết nội dung trong chiếu chỉ nữa. Vì anh, nó chấp nhận trả bất cứ giá nào. Những gì Thanh Loan làm được, nó cũng làm được, theo cách riêng của mình.
Đây sẽ mãi mãi là bí mật, và bí mật này mãi mãi phải bị chôn vùi.
Thiêu hủy chiếu chỉ…
Để không một ai có thể tìm ra, không một ai còn đe dọa anh được nữa.
Người biết bí mật ấy sẽ chỉ có nó, một mình nó mà thôi…
Hôm nay đã có rất nhiều chuyện xảy ra, đối với Nguyên Thục mà nói, đó là một bước ngoặt lớn trong cuộc đời nó. Trịnh Khải rất quan trọng với nó, vậy nên kể từ giờ phút này, nó phải ra sức bảo vệ anh, sẽ không để anh phải dày thêm ưu phiền nữa. Bắt đầu với di chiếu bí mật này, để bảo vệ Trịnh Khải, bằng chính sức của mình, nó sẽ vĩnh viễn chôn vùi sự thật ấy. Từ giờ trở đi, nó sẽ không nhắc đến quá khứ của anh nữa, nó sẽ yêu anh nhiều hơn, quan tâm anh hơn, chăm sóc anh hơn, và sẽ luôn ở bên cạnh anh, không bao giờ đổi thay…
Còn chuyện của Thanh Loan, có lẽ nó sẽ nói cho anh biết, nhưng không phải bây giờ. Một lúc nào đó, nó sẽ nói, một lúc nào đó thích hợp…
★ Chương 126
Dù đã lưu lại tại Phú Quốc rất nhiều lần, thế nhưng lần nào cũng vậy, mỗi khi đặt chân đến hòn đảo ấy, Nguyễn Ánh luôn có những cảm giác khác nhau. Biển chiều ở Phú Quốc bao giờ cũng lạnh hơn, êm ả hơn và hoàng hôn hoang tàn hơn những nơi khác. Đứng ờ bờ biển, đủ để những đợt sóng chạm đến mũi giày, Nguyễn Ánh nhìn cánh chim chao lượn cuối chân trời xa, không biết nghĩ gì mà đôi mắt nâu trong suốt chợt trở nên mơ hồ.
Đứng bên cạnh Nguyễn Ánh, Lê Văn Duyệt trước sau vẫn im lặng, không lên tiếng, ông nhìn con thuyền dập dềnh mỗi khi sóng tràn vào trên bãi cát, mà không biết chúa công ông có ý định gì. Thoát được sự truy đuổi của Tây Sơn, quân Nguyễn đã tổn thất nặng nề, trên hòn đảo trơ vơ Phú Quốc này, nếu không có con thuyền chở gạo của một người đàn bà Hà Tiên ngày xưa đã chịu ơn chúa công cung cấp lương thực, thật chẳng biết tùy tướng cùng quân sĩ còn có thể chịu đựng được bao lâu.
Có tiếng lạo xạo trên bờ cát, Lê Văn Duyệt bừng tỉnh khỏi hồi tưởng, đôi mắt ông hiện lên dấu hỏi to tướng khi thấy Nguyễn Ánh đẩy thuyền ra khơi. Vội giữ thăng bằng cho chiếc thuyền khỏi tròng trành khi Nguyễn Ánh bước lên, Lê Văn Duyệt không nén nổi thắc mắc, liền hỏi ngay.
- Chúa công, người tính làm gì?
Đưa mắt theo chiếc buồm lộng gió trên cao, Nguyễn Ánh nói nhưng không nhìn Lê Văn Duyệt, mà lại hướng về phía chiếc lều nhỏ đơn sơ, nơi gia đình mình đang quay quần bên nồi cháo nóng, đôi mắt nâu trong suốt như phủ làn sương.
- Các ngươi ở lại hải đảo, ta sẽ vào cửa Maly xem xét tình hình thế nào.
Dẫu biết chúa công ông vốn suy nghĩ khó đoán, hành sự khó lường, nhưng Lê Văn Duyệt không nghĩ chúa công ông lại ra quyết định táo bạo đến như thế. Cửa Maly quá xa đảo Phú Quốc và lại quá gần nơi đóng đô của Tây Sơn. Không bắt được chúa công, Tây Sơn chắc chắn rất tức giận, chúng sẽ còn cho quân đi lùng sục, mai phục khắp nơi, nếu chẳng may bị chúng phát hiện, chúa công ông dù có cơ trí cũng khó thoát khỏi vòng vây trùng điệp của Tây Sơn.
- Chúa công, chuyện này rất nguy hiểm, nếu muốn do thám, người chỉ cần sai thuộc hạ đi là được rồi!
Trước vẻ mặt căng thẳng của Lê Văn Duyệt, Nguyễn Ánh chỉ mỉm cười.
- Nguy hiểm thế nào ta tự khắc biết, chuyện này phải đích thân ta làm, nếu không, mọi suy tính của ta sẽ thất bại.
- Chúa công…
Đáp lại sự khẩn thiết của Lê Văn Duyệt là một ánh mắt sắc lạnh, giây phút đó, Lê Văn Duyệt biết mình có nói gì cũng là vô nghĩa, ông thở dài một tiếng, rồi lặng lẽ đẩy con thuyền ra khơi. Đứng trên bờ biển lộng gió, nhìn cánh buồm trắng khuất dần sau từng con sóng bạc, lòng Lê Văn Duyệt dậy lên bao cảm xúc lẫn độn. Sau những cuộc truy đuổi của Tây Sơn, chúa công ông còn suy tính gì, chẳng lẽ chuyến do thám này là một trong những tính toán của chúa công, và nó rất quan trọng, đến độ chúa công ông phải dấn thân vào nguy hiểm hay sao?
“Ngươi biết không Duyệt, càng nguy hiểm ta mới càng thấy mình đang sống. Càng gần kề với cái chết, ta mới thấy dòng máu nóng trong ta đang sục sôi”
Chúa công đã từng nới với ông như thế, duy nhất một lần, và bây giờ, lời nói ấy lại càng vang vọng trong đầu ông hơn bao giờ hết. Chúa công của ông là thế, chẳng thể đoán được người đang nghĩ gì, thế nhưng suy nghĩ của người khác lại như nằm trong lòng bàn tay của chúa công, chẳng thế mà ngày đó, ông mới theo chân chúa công cho đến tận bây giờ hay sao…
*
* *
Cửa Maly là nơi quân Tây Sơn vẫn thường hay lai vãng, nhất là đang trong cuộc vây bắt, thì các cửa biển vẫn luôn là nơi Tây Sơn bố trí lực lượng nhiều nhất, để phòng trường hợp quân Nguyễn men theo cửa biển để vào do thám tình hình. Đúng như những gì Nguyễn Ánh suy đoán, thuyền anh vừa vào đến cửa Maly thì đã thấy hàng chục chiến thuyền Tây Sơn đang tuần tra ở đó. Thoáng nhìn thấy bóng tà áo vàng trên con thuyền nhỏ ở phía trước, cùng với nụ cười ngạo nghễ không lẫn vào đâu được, quân Tây Sơn bừng bừng khí thế, họ vội giương buồm đuổi theo, quyết bắt cho kỳ được viên chúa trẻ đã khiến họ mất ăn mất ngủ suốt mấy ngày qua.
Hai mươi con thuyền đồng loạt lao nhanh về phía trước, quyết vây lấy con thuyền nhỏ vào giữa. Đã có tính toán từ trước, Nguyễn Ánh tiến vào cửa vịnh Maly đủ để quân Tây Sơn nhận rõ là ai, rồi sau đó rút lui ngay khi Tây Sơn rục rịch tấn công. Một cuộc truy đuổi lại bắt đầu, Tây Sơn dù đã cố thúc giục thuyền đuổi cho mau, nhưng con thuyền nhỏ ấy vẫn cứ ngày một xa vời, đến cuối cùng, đọng lại trong mắt họ chỉ là chiếc buồm trắng căng phồng, tà áo vàng bay lất phất như trêu đùa, có tiếng cười ngạo nghễ vọng lại, rồi tất cả tan biến vào hư không khiến quân tây sơn vô cùng tức giận nhưng chẳng thể làm được gì.
*
* *
“Nguyễn Ánh xuất hiện tại cửa Maly, nhưng không bắt được. Hắn đã giương buồm thẳng ra biển đông. Biển khơi vốn mênh mông, không có nước ngọt, hắn ta sớm muộn gì sẽ chết khát mà thôi”
Trong căn phòng đơn sơ, ấm cúng, Nguyễn Huệ đang ngồi trên một chiếc giường tre, mắt dõi theo những dòng chữ đen thẫm được viết trong thư thông báo tình hình mà ngày nào Phan Văn Lân cũng gửi đến. Đôi mắt u tối của anh thẫm lại khi một lần nữa Nguyễn Ánh lại thoát được, hai mươi chiến thuyền đuổi theo nhưng đành bất lực khi hắn ta dong thuyền ra biển đông. Trong thư, Lân cho rằng giữa biển khơi mênh mông, không có nước ngọt, Nguyễn Ánh sớm muộn gì cũng sẽ chết khát, thế nhưng bọn họ quên rằng, Nguyễn Ánh đã sống ở đó đủ lâu để có thể hiểu được đặc tính vùng đất này và có thể tính toán riêng cho mình.
Ở Maly, chạy ra biển đông, vào mùa này hoàn toàn có thể gặp được dòng nước ngọt do sông Cửu Long đổ ra biển, vì khối lượng quá lớn nên không thể hòa lẫn với nước mặn được. Chạy ra biển đông, chính là Nguyễn Ánh đã đánh cược với số phận. Trước mắt, hắn ta đã có thể chạy thoát khỏi truy kích, nhưng có đến kịp lúc không, và liệu khi đã tới kịp, có tìm gặp được dòng nước ngọt của sông Cửu Long hay không, đều là một ván cờ đặt cược rất lớn? Trong thư báo có nói, Nguyễn Ánh một mình một thuyền đến cửa Maly, một nơi quá gần với Tây Sơn để do thám, không hề có thân tướng hay bất cứ thuộc hạ nào hỗ trợ.
Táo bạo?
Can đảm?
Hay liều lĩnh?
Không, không chỉ đơn giản là vậy. Hắn ta rõ ràng đã tính toán kĩ lưỡng hết mọi trường hợp, mang cả bản thân ra đánh cược thì chắc chắn mục đích hắn ta nhắm đến không nhỏ. Trước mắt có thể thấy, Nguyễn quân vừa trải qua một trận chiến thiệt hại nặng nề, cần phải lấy lại thanh thế và huy động số lượng. Nếu hắn đã thoát ngay trước mũi Tây Sơn quân mà còn sống sót bằng kì tích “nước ngọt trên biển”, chắc chắn sẽ khiến khối kẻ đổ xô theo hắn với niềm tin “thiên mệnh”. Dùng đến cách này để an định lòng người, hắn cũng rất khôn ngoan. Nhưng ngoài ra, hắn còn muốn nhắm đến điều gì nữa…?
Nguyễn Huệ nhếch môi, tựa cười nhưng lại không. Anh nhét mật thư vào trong một chiếc bình nhỏ, rồi đứng dậy, bước ra ngoài vườn. Múc một thùng nước nhỏ, Nguyễn Huệ tiến đến những khóm hoa cạnh hàng rào, chiếc gáo trong tay anh nghiêng xuống, từng dòng nước mát lạnh, róc rách tuôn tràn trên những cánh hoa sớm mai.
Cầm chiếc gáo nhỏ trong tay, Nguyễn Huệ cuối xuống, tiếp tục múc nước, thế nhưng bàn tay anh vô tình xiết chặt, đôi mắt u tối như vực sâu thẫm lại, khi nhìn thấy một bóng hình nghiêng nghiêng trong mặt nước. Anh nhìn đăm đăm vào chiếc bóng ấy, chiếc bóng ấy nhìn anh, cả hai nhìn nhau, yên lặng, rồi bàn tay anh vươn ra, chạm vào chiếc bóng. Mặt nước xôn xao, đôi mắt u tối tan ra, chiếc bóng lay động, rồi biến mất, chỉ còn những áng mây trắng nhẹ nhàng trôi lãng đãng trên cao…
Tin anh đã để Nguyễn Ánh thoát được trong cơn bão ở đảo Cổ Long như giọt nước tràn li, khiến Nguyễn Nhạc vô cùng tức giận, ngay lập tức điều động anh trở về Quy Nhơn, thu hết binh quyền và khiển trách nặng nề. Khi Tây Sơn vương khiển trách, Phan Văn Lân đã rất bất bình, muốn đứng ra giải trình sự việc, nhưng anh đã ngăn lại. Hơn ai hết, anh hiểu rõ, cơn giận của Nguyễn Nhạc không đến từ thất bại trong đợt truy bắt Nguyễn Ánh mà đến từ việc anh ngang nhiên chống đối mệnh lệnh của ông. Dẫu sao, trong chuyến điều binh lần này, không cần biết đã cố hết sức hay chưa, có những tác động nào, hoặc sự cố gì xảy ra, thất bại vẫn là thất bại. Anh không hối tiếc vì việc mình đã làm nên anh sẽ chịu mọi trách nhiệm về nó. Chính vì thế, anh yên lặng, không nói một lời nào trước sự chỉ trích của Tây Sơn vương và thẳng thắn chấp nhận hình phạt được đưa ra.
Binh quyền đã bị tước, Nguyễn Huệ bây giờ chỉ là một người bình thường. không còn là tướng quân, anh rời khỏi Tây Sơn, tìm đến nhà thầy giáo Hiến và lưu lại đó. Thầy giáo Hiến, người thầy đã dạy dỗ anh thưở thiếu thời, giờ đây, đứng trước mái nhà tranh đơn sơ vắng bóng người, trái tim anh đập nhè nhẹ, xen lẫn những cảm xúc không nói thành lời.
Ở lại chỗ thầy, Nguyễn Huệ lần lượt dọn dẹp và lau chùi lại tất cả đồ đạc trong nhà, anh đặc biệt hay chăm sóc, tưới nước cho những khóm hoa nhỏ trong vườn. Không còn cuộc sống của nhà binh, thay vào đó là những thứ rất đỗi bình thường như bao người. Sáng thức dậy lên rừng đốn củi, trưa về nấu cơm, chiều tưới hoa, đến tối luyện tập võ, rồi lại xem sách, cập nhật tin tức do Lân đưa đến. Đối với các thuộc tướng, anh không muốn họ đến đây, đơn giản vì anh muốn cách ly với Tây Sơn, một mình và chỉ một mình trong ngôi nhà tranh đơn sơ này, làm những gì mình thích, sống như những gì mình muốn, không ai lui tới, không ai quấy rầy và không ai khuấy động bóng tối yên tĩnh của riêng anh.
Ấy thế mà vẫn có một người đã phạm vào tất cả những điều cấm kỵ ấy, đó chính là Linh Lan.
*
* *
Từ khi trở về Tây Sơn, Linh Lan vô cùng chăm chỉ luyện tập, những bài tập Nguyễn Huệ giao lúc trước, khi về Quy Nhơn nó vẫn tiếp tục áp dụng, cho đến nay cũng đạt được một số thành tựu nhỏ, đã không còn thua kém quá xa với Phan Văn Lân mỗi khi nó nhờ anh chỉ bảo thêm cho mình. Có thể nói, chuyến đi Gia Định lần này tuy nhiều sóng gió, nhưng những trải nghiệm và kinh nghiệm mà nó đúc kết được cũng rất quý giá. Việc lần đầu tiên lấy đi mạng người, tuy vẫn còn đó những lấn cấn, không tan, nhưng ít ra trong lòng Linh lan đã dẹp bớt ích kỉ, tập trung tự bảo vệ mình, bảo vệ người, để không phải hối hận như bài học “Bùi Định” đã xảy ra.
Nhắc đến “bài học Bùi Định” mới nhớ, từ lúc trở về đến nay Linh Lan không còn nhìn thấy Nguyễn Huệ trong Tây Sơn. Nó cứ đinh ninh rằng anh bận chuyện quân sự nào đó, nên không thể lui tới doanh trại thường xuyên, thế nhưng đã một thời gian trôi qua, bóng dáng anh vẫn biệt tăm khiến Linh Lan vô cùng thắc mắc, thật không giống với tác phong của anh. Hỏi Lân thì nó mới hay rằng Nguyễn Huệ đã bị Tây Sơn vương tước binh quyền, trở thành người bình thường và trở về An Thái, lưu lại nhà người thầy cũ.
Nghe xong chuyện, Linh Lan gật đầu, ra vẻ đã hiểu. Thấy nét mặt bí hiểm của nó, Phan Văn Lân đã vội cảnh báo rằng tướng quân không thích ai đến làm phiền cuộc sống hiện giờ. Trước lời cảnh báo của anh, Linh Lan chỉ cười, rồi tiếp tục luyện tập. Tưởng như đã quên chuyện này rồi, nào ngờ mấy hôm sau, Linh Lan đã có mặt ở An Thái, phần vì Văn Bình, phần vì tò mò muốn biết Nguyễn Huệ khi không còn cầm binh thì đang làm gì ở cái chốn xa xôi này.
Khăn gói đi từ sáng sớm, cho đến tận trưa Linh Lan mới tìm được nhà thầy giáo Hiến, sau khi hỏi han dân sống quanh vùng. Đứng trước căn nhà tranh đơn sơ, cửa khép kín, Linh Lan kiễng chân nhìn qua song cửa, thì thấy nội thất trong nhà rất đơn giản, ngay ngắn, bát hương trầm tỏa khói lạnh, còn Nguyễn Huệ thì không thấy đâu. Có lẽ anh ta đã ra ngoài rồi, Linh Lan thầm nghĩ, nó liền xốc tay nải lên vai, dạo quanh một vòng, trong khi chờ Nguyễn Huệ quay trở về.
Có lẽ khi ở lại nhà thầy, Nguyễn Huệ đã chăm sóc cho khu vườn này rất cẩn thận, nên khu vườn nhỏ mới tươi tốt đến thế. Cỏ dại đã được nhổ, muôn hoa đua sắc, trên cao còn có tiếng chim hót líu lo. Trời xanh bao la, gió thổi hiền hòa, tán cây đung đưa xào xạc, quả thật nơi đây rất yên bình, mát mẻ, khác hẳn không khí nóng bức, ngột ngạt ở Quy Nhơn. Càng say sưa với khung cảnh nơi này, tận hưởng cảm giác thanh bình, yên ả, Linh Lan càng tò mò không hình dung nổi người như Nguyễn Huệ sống thế nào ở đây. Thầy giáo Hiến, trước đây Văn Bình chưa nhắc đến người này bao giờ nên Linh Lan chỉ biết đó là người thầy đã dạy dỗ anh từ nhỏ. Gắn bó với anh suốt thời thơ ấu, chắc hẳn ông ấy có ít nhiều ảnh hưởng đến anh, và cả Nguyễn Huệ chăng
Linh Lan vừa ngắm một bông hoa tươi thắm trong nắng, vừa suy nghĩ, đến khi nghe thấy có tiếng động trước nhà, nó liền từ trong khu vườn bước ra vì nghĩ rằng Nguyễn Huệ đã trở về. Quả đúng như nó nghĩ, trước cửa nhà, Nguyễn Huệ đang đặt chồng củi vừa mới đốn được trên rừng, anh mặc chiếc áo màu đen, tay áo xắn lên một nửa, vầng trán lấm tấm mồ hôi. Vẫn gương mặt đăm đăm đó, vẫn đôi mắt sâu không thấy đáy đó, nhưng anh bây giờ quả thật khác hẳn một Nguyễn Huệ uy quyền trong bộ giáp tướng thường ngày.
Đang xếp những bó củi nằm ngay ngắn trước hiên nhà, trông thấy Linh Lan từ khu vườn bước ra, và nhìn anh với sự ngạc nhiên, đôi mày kiếm của Nguyễn Huệ chau lại, nhưng chỉ một nửa rồi lại giãn ra. Tuy không nói gì, nhưng trông thái độ của anh, Linh Lan thừa biết anh không hoan nghênh nó, nhưng mặc kệ, nhìn thấy anh khỏe mạnh thế này, không tổn hại gì đến thể xác của Văn Bình, thì nó cũng an tâm phần nào.
- Nguyễn Huệ, đã lâu không gặp, dạo này anh khỏe chứ?
Nhẹ nhàng tiến đến cạnh Nguyễn Huệ, Linh Lan cười thật tươi, còn Nguyễn Huệ lại không để mắt gì đến nó, anh chỉ nhếch môi, chả rõ ý gì, rồi quay người bước vào nhà trong, mặt lạnh tanh, không đáp lại lời nào. Quá quen cảnh lạnh nhạt của Nguyễn Huệ, anh mà chào đón nó nồng nhiệt thì mới đáng lo, Linh Lan tính theo anh bước vào nhà trong, nhưng anh đã đóng sập cửa lại ngay trước mũi nó, không cho nó vào. Chưng hửng vì hành động ấy, Linh Lan hừ nhạt một tiếng, nó co chân lên, tính đạp cửa xông vào thì Nguyễn Huệ đột ngột mở cửa ra, khiến Linh Lan mất đà và ngã sóng xoài trên sàn nhà.
Nhìn Linh Lan nằm dài trên mặt đất, Nguyễn Huệ nhướng mắt lên, ánh mắt nửa chế giễu, nửa mỉa mai, nửa lại không xem nó vào mắt ấy khiến Linh Lan nóng bừng mặt. Hừ. Khách đến nhà không trà cũng bánh, còn anh ta chào đón nó như thế này đây. Linh Lan mím môi, nó chống tay đứng dậy, phủi bụi trên quần áo rồi thản nhiên quăng hành lý xuống chiếc bàn tre. Nó đã đến đây, tức là mọi đối xử của anh nó đều tiếp nhận hết. Nếu Nguyễn Huệ đối xử bình thường với nó, thì sau khi quan sát tình hình, kiểm tra thân xác Văn Bình xem có khỏe mạnh, an toàn hay không, nó sẽ quay trở về Quy Nhơn ngay, đằng này anh đối xử với nó như thế, thì nó sẽ đổ lì. Anh không ưa nó thì nó cũng chẳng ưa anh, nhưng nó sẽ ở luôn tại đây cho biết, xem anh cao tay hay là nó cứng đầu hơn.
Với những suy nghĩ đó trong đầu, thế nên trước cách đối xử không mấy ngọt ngào của Nguyễn Huệ, Linh Lan chỉ mỉm cười, tuy nó cười, nhưng đôi mắt lại nhướng lên, như thách thức anh có chiêu gì cứ đưa ra, nó sẽ đối phó hết. Trước sự khiêu khích ấy, Nguyễn Huệ chỉ cười nhạt, anh không nói gì mà từ từ tiến lại gần nó, đôi mắt u tối lấp lánh, khiến Linh Lan tuy đứng yên, không lùi lại, tay đưa lên thủ thế, tâm lí đã chuẩn bị nhưng trống ngực vẫn bắt đầu đập nhanh.
- Ê, anh tính làm gì đó! Tôi không dễ bị bắt nạt đâu nhá!
Trước phản ứng của Linh Lan, Nguyễn Huệ chỉ cười nhạt, anh vẫn từng bước tiến sát lại nó, khoảng cách cả hai ngày một thu ngắn, rồi rất gần, gần đến nỗi Linh Lan có thể cảm nhận được hơi thở nhè nhẹ của anh. Rất nhanh sau đó, bàn tay anh vươn ra, vòng qua thắt lưng Linh Lan, rồi… lấy rổ rau đặt sau lưng nó và quay người đi sau khi buông nụ cười giễu cợt. Còn lại một mình, Linh Lan dựa lưng vào cạnh bàn, trái tim nó vẫn đập thình thịch, bờ môi đào mím lại khi cảnh tượng mặt kề mặt ban nãy tái diễn lại trong đầu. Không được, cứ như thế này, nó sẽ để Nguyễn Huệ chiếm thế thượng phong, sẽ để anh ta làm nó tức chết trước khi nó có thể phản công được anh ta.
Đang tìm cách lấy lại thế chủ động, Linh Lan chợt ngửi thấy một mùi thức ăn hấp dẫn từ dưới bếp đưa lên. Từ sáng đến giờ chưa ăn gì, nay ngửi thấy mùi thơm quyến rũ đó, bụng Linh Lan như nấu nước sôi. Mấy phút sau, Nguyễn Huệ từ dưới bếp đi lên, trên tay là một khay cơm nhỏ, đặt khay cơm trên bàn, anh ngồi xuống ghế, thản nhiên xới cơm, mà chẳng cần để ý đến nét mặt của Linh Lan như thế nào.
- Nè, khách đến nhà không trà cũng bánh. Tôi đang là khách mà anh nỡ ngồi ăn một mình sao?
- Ta vốn không coi cô là khách, sao phải mời?
Trước câu trả lời thản nhiên của Nguyễn Huệ, Linh Lan giận cành hông, nhưng nhớ tới quyết định chiến đến cùng khi nãy, Linh Lan cố nuốt cơn giận xuống. Nó liếc mắt nhìn anh, cười nhạt.
- Được, người nay có câu “tự nhiên như ở nhà”, vậy tôi không khách sáo. Anh không mời, tôi tự nấu ăn. Một “đại nhân” như anh chắc không tính toán, hẹp hòi, không cho tôi mượn bếp chứ hả?
Nói dứt lời, Linh Lan trở người xuống bếp luôn. Nhưng đến khi nhìn chiếc nồi đất cùng những vật dụng đánh lửa thời xưa, Linh Lan đâm nản. Trước nay nó chỉ quen xài bếp ga, cơm điện, nay đối mặt với cảnh bếp núc thô sơ, trước mặt không có quân địch mà sao Linh Lan lại thấy toát mồ hôi hột. Tính rút lui trong êm thắm, nhưng nhớ tới lời tuyên bố hùng hồn ban nãy, Linh Lan lại ngần ngừ. Nếu thấy nó ngay cả nấu ăn cũng không biết, chắc chắn Nguyễn Huệ không chế giễu cũng mỉa mai nó. Không được, anh ta là nam nhi mà còn biết nấu ăn, chẳng lẽ nữ nhi như nó lại chịu thua sao.
Ngồi trên nhà trước vừa dùng cơm, vừa suy nghĩ đến mục đích của Nguyễn Ánh khi mạo hiểm vào cửa Maly do thám, đôi mày kiếm của Nguyễn Huệ chau lại khi ngửi thấy mùi khói khét lẹt từ nhà bếp bay lên. Vốn muốn để mặc cô gái kia gánh lấy hậu quả do mình gây ra, nhưng đây là nhà của thầy giáo Hiến, không phải nhà của anh, nếu để cô ta vụng về tự tung tự tác, chẳng may xảy ra hỏa hoạn, thì không được. Nguyễn Huệ cau mày, anh vội vàng buông đũa đứng lên, vạch đám khói mịt mù để xuống nhà bếp. Vừa tới nơi, đập vào mắt anh là hình ảnh Linh Lan nhem nhuốc khói, tóc tai rối bời, bên cạnh là đóng bùi nhùi đang bốc cháy, khói tỏa mịt mù. Nhanh tay lấy ngay thùng nước đặt dưới đất lên, anh tạt mạnh vào đám lửa và cả nó để ngăn hỏa hoạn xảy ra.
Vốn đang lúi húi nhóm lửa, nấu cơm, Linh Lan lay hoay giữ ngọn lửa cho khỏi tắt khi gió tràn vào. Nó cứ nhóm, rồi lại thổi, thổi, rồi lại nhóm, cho đến khi ngẩng đầu lên thì phát hoảng do khói lửa bay mịt mù. Đúng lúc đang rối trí vì sợ hỏa hoạn sẽ xảy ra, Nguyễn Huệ đã kịp thời xuất hiện, anh nhanh chóng tạt nước rồi đẩy Linh Lan qua một bên. Phần vì lóng ngóng, phần lực đẩy của Nguyễn Huệ không nhẹ, Linh Lan mất thăng bằng, sàn và người nó lại ướt nên nó trượt chân té ngã ngửa ra phía sau. Thầm than vì sắp phải u đầu, ngay giây phút ấy, Nguyễn Huệ đã kịp thời vòng tay qua thắt lưng Linh Lan, đỡ lấy nó. Trong khoảnh khắc hai ánh nhìn giao nhau, đôi mắt u tối của Nguyễn Huệ chợt lay động, rồi rất nhanh, bàn tay anh lỏng ra, để Linh Lan rơi phịch xuống sàn, đau đến ê ẩm cả người.
- Đi lên nhà trên ngay!
Chứng kiến thảm cảnh Linh Lan gây ra cho cái bếp, Nguyễn Huệ lạnh giọng. Trước tình cảnh ấy, Linh Lan không nói tiếng nào, nó gượng ngồi dậy, phần vì xấu hổ, phần vì đau do té ngã, đôi mắt Linh Lan long lanh. Nó lủi thủi ra khỏi nhà bếp, quần áo ướt nhẹp, tóc tai rối bời, trông còn thảm hơn khi ra chiến trường.
Ngồi co ro trên ghế vì lạnh, bụng Linh Lan lại càng réo ùng ục vì đói. Lúc còn ở hiện tại, Linh lan chưa bao giờ phải vào bếp, cùng lắm là nấu nước sôi lên ăn mì gói. Giờ phải lâm vào cảnh túng bấn này, Linh Lan thở dài, nó vớ lấy hành lý trên bàn, soạn đồ ra thay, chứ với tình trạng ướt nhẹp thế này, để bị cảm lạnh thì nguy to.
Khi Linh Lan thay đồ xong, thì Nguyễn Huệ đang tưới hoa trong vườn. Nhìn anh cẩn thận chăm sóc các luống hoa, trái ngược với hình ảnh đẫm máu trên chiến trường, Linh Lan cảm thấy lạ. Cho đến bây giờ, nó vẫn không hiểu được Nguyễn Huệ là người như thế nào, và đang suy nghĩ những gì. Anh vốn không làm tổn hại đến những gì thuộc về Văn Bình như anh đã từng nói, mà ngược lại, hầu như còn làm tốt hơn thế nhiều. Bây giờ, không còn là tướng, không còn khoác lên người bộ giáp sắt nặng nề, Nguyễn Huệ trở thành một người dân bình thường, có cuộc sống riêng và niềm vui giản dị. Nhớ tới ước vọng “thiên hạ trở thành người một nhà” của Văn Bình, Linh Lan cảm thấy nao nao. Trong tình cảnh bây giờ, nhìn Nguyễn Huệ thong thả như thế, sống một cuộc sống êm đềm như thế, đó có phải là những gì Văn Bình mong muốn hay không?
Đang suy nghĩ nửa chừng, cơn đói bụng lại kéo đến khiến Linh Lan xịu mặt. Nhìn Nguyễn Huệ nhổ cỏ trong vườn, Linh Lan liếm môi, nó liền quay xuống nhà bếp, đánh liều tiếp tục công việc bếp núc nếu không muốn bị chết đói. Khi nãy nó không cẩn thận, nhìn trước ngó sau nên mới xảy ra chuyện, rút kinh nghiệm, lần này cẩn thận hơn chắc không sao. Vừa suy nghĩ đến đó, đôi mắt Linh Lan đã mở to, đầy ngạc nhiên khi vừa bước xuống bếp đã thấy trên chiếc bàn tre, một khay cơm nhỏ đã để đó từ bao giờ. Nguyễn Huệ đã dùng bữa xong, vậy khay cơm này là giành cho ai, nếu không phải nó.
Linh lan mừng rỡ, nó vội sà ngay xuống bàn, xới cơm và ăn lấy ăn để. Thật đáng ngạc nhiên là Nguyễn Huệ nấu ăn ngon hơn nó tưởng. Cơm lành, canh ngọt, với tay nghề này của anh, sau này có không làm tướng nữa, ra mở quán ăn vẫn sống tốt như thường. Linh Lan vừa ăn vừa nhìn Nguyễn Huệ đang làm cỏ qua song cửa. Anh nấu bữa ăn này cho nó, có lẽ vì không muốn nó lại phá hoại cái bếp một lần nữa. Thế cũng tốt, quyết định lưu lại đây để tìm hiểu mối liên hệ giữa Văn Bình và Nguyễn Huệ, có lẽ cũng không phải là bất khả thi. Nếu nó thành công, Văn Bình sẽ quay trở lại, mọi nút thắt giữa anh và Nguyễn Huệ sẽ được tháo gỡ, và nó, ít nhất nó cũng sẽ biết chính xác Nguyễn Huệ là người như thế nào.
Nghĩ đến đó, Linh Lan nhẹ mỉm cười.
★ Chương 127
Sau khi dùng xong bữa cơm trưa, Linh Lan tự tay dọn dẹp chén bát và rửa. Dù đã suýt gây ra hỏa hoạn khi nấu cơm, nhưng rửa mấy cái chén con con thì không thành vấn đề với nó. Rửa xong chén bát và xếp vào tủ tre gọn gẽ, Linh Lan bước lên nhà trên, đúng lúc Nguyễn Huệ cũng vừa đi vào. Vừa nhìn thấy anh, nó liền nhoẻn miệng cười thật tươi, đồng thời cất giọng dịu dàng.
- Cám ơn anh vì bữa cơm nha!
Trước lời cám ơn của Linh Lan, Nguyễn Huệ nhếch môi, anh nói, giọng mỉa mai.
- Không cần! Ta chỉ là không muốn ngôi nhà nhỏ này bị đốt trụi.
Vốn biết Nguyễn Huệ không phải vì mình nên mới nấu ăn, nhưng nghe chính miệng anh nói ra, với sự chế giễu, Linh Lan vẫn cảm thấy tưng tức. Nó không vừa, liền đáp lại ngay.
- Vậy từ nay phải phiền anh rồi. Tôi vốn đến đây là để tiếp tục theo anh học thành tài, không thành thì không đi. Tôi theo anh học thì dĩ nhiên cũng phải lưu lại đây, mà như anh nói đó, nếu như anh không mời cơm tôi, tôi bắt buộc phải tự xuống bếp như ban sáng thôi, vậy nên, cám ơn anh trước nha.
Trước đôi mắt tối lại của Nguyễn Huệ, Linh Lan lại nhoẻn cười, một nụ cười ngọt ngào. Không để cho anh kịp từ chối, nó bồi luôn câu chót.
- Ấy ấy, khoan từ chối đã. Có còn nhớ khi anh nhận lời huấn luyện cho tôi đã nói gì không? Rằng “xem cô chịu được bao lâu”. Đến giờ tôi vẫn còn đứng đây, không phải anh lại muốn nói với tôi rằng anh bỏ cuộc đấy chứ? Nam tử hán đại trượng phu, nói lời phải giữ lấy lời, chẳng lẽ anh còn thua cả một cô gái như tôi hay sao?
Không cho Nguyễn Huệ có một cơ hội hay lí do nào để từ chối, Linh Lan nói một hơi rồi nhìn thằng vào đôi mắt sẫm màu của anh chờ đợi. Anh muốn đọ độ lì với nó sao, riêng điểm này nó tuyệt đối không sợ đâu.
- Là tự cô chuốc lấy.
Nguyễn Huệ chỉ đáp có thế, rồi ngồi xuống rót cho mình một tách trà nóng hổi, trong khi Linh Lan đắc ý bước ra ngoài đi dạo, tận hưởng không khí thoáng đãng trong lành.
Trời chiều An Thái mát mẻ hơn ở Quy Nhơn, thế nên đêm về, cố nhiên khí hậu sẽ lạnh hơn gấp bội. Đứng trong ngôi nhà tranh đơn sơ của thầy giáo Hiến, Linh Lan nhìn quanh, rồi không giấu vẻ thất vọng khi trong nhà chỉ có một chiếc giường tre độc nhất đặt cuối góc phòng.
Hết nhìn Nguyễn Huệ đang ngồi lau trường kiếm, Linh Lan lại nhìn lên chiếc giường. Nó là thân nữ nhi, chắc Nguyễn Huệ không vô tình đến nỗi để nó nằm ngủ dưới đất trong đêm lạnh như thế chứ? Linh Lan nghĩ thầm, nó tiến lại phía Nguyễn Huệ ngồi, nhìn thanh kiếm sáng lấp lánh dưới ánh đèn tù mù, và nói nhanh.
- Nè, tôi phải ở lại đây, thế nhưng trong nhà chỉ có một chiếc giường, anh tính phân xử thế nào đây?
Trước câu hỏi của Linh Lan, ánh kiếm bạc lung linh phản chiếu cái nhếch môi của Nguyễn Huệ. Nhẹ đặt thanh kiếm xuống bàn, Nguyễn Huệ lướt mắt nhìn nó, ánh mắt u tối, không phản chiếu bất cứ bóng hình nào của anh khiến Linh Lan hơi e ngại, nó còn chưa kịp nói gì thì Nguyễn Huệ đã đột ngột cất lời.
- Mạnh được yếu thua. Đừng trách ta đã không cho cô cơ hội, nếu như cô phải ngủ ở dưới đất thì chỉ nên trách mình yếu kém.
Trước sự thản nhiên của Nguyễn Huệ, Linh Lan nhướng mày lên, nó chống nạnh, hất hàm.
- Cái gì? Anh có phải là đàn ông không vậy, thân là nam nhi, mà lại đi tranh giành chiếc giường với nữ nhi à? Sao không có chút ga lăng nào vậy?
Chẳng cần để ý đến sự bất bình trên gương mặt Linh Lan, cũng chẳng quan tâm đến những lời khích tướng của nó, Nguyễn Huệ khoanh tay lại với nhau, cười nhạt.
- Trong mắt ta, cô hay cái kiến, con sâu cũng như nhau cả.
Trước những lời ngạo mạn của Nguyễn Huệ, một người giàu lòng tự trọng như Linh Lan vô cùng tức giận khi anh đã chạm vào sự tự ái của nó. Trừng mắt nhìn Nguyễn Huệ, Linh Lan tính tìm một câu nào đó thật chanh chua để đáp trả, nhưng đến phút cuối nó cố kềm lại, khi nhớ tới mục đích chính của mình. Bình tĩnh, bình tĩnh, mình có mặt ở đây không phải để ăn thua với anh ta, mà là để tìm hiểu giữa anh ta và Văn Bình đã xảy ra chuyện gì, muốn thế thì phải từ từ,mềm nắn rắn buông, trong tình hình này thì phải tính kế sách thôi. Linh Lan nhủ thầm, nó vuốt ngực, cố trấn áp cơn hỏa diệm sơn đang bành trướng trong lòng, rồi từ tốn mỉm cười.
- Được, theo như anh nói, mạnh được yếu thua, cứ thử xem sao. Ai chạm tay vào được chiếc giường đầu tiên, thì sẽ được!
Chữ “ được” còn đang ở trong miệng Linh Lan, thì nó vọt mình phóng đến chiếc giường tre luôn. Nguyễn Huệ mạnh hơn nó, lại nhanh hơn nó, vậy đâu được gọi là công bằng, tự biết sức mình thì cứ tiên hạ thủ vi cường, không thể trách nó ăn gian, chỉ là biết chộp thời cơ thôi. Trước sự mau lẹ của Linh Lan, Nguyễn Huệ không nói gì, anh chỉ nhếch môi, ngay khi bờ môi thanh tú vừa nhếch lên, thì một tay anh đã chạm vào thành giường, tay còn lại hất bàn tay nhỏ nhắn đang với tới của Linh Lan ra một bên, khiến Linh Lan kinh ngạc vì không thể ngờ được thân thủ anh lại nhanh đến thế này.
Mắt thấy chỉ còn với tay ra là đã có thể chạm vào được thành giường, sắp thắng tới nơi lại còn để thua cuộc, Linh Lan không cam tâm. Nó tính chụp lấy bàn tay của Nguyễn Huệ, nhưng anh lại nhích người sang một bên, tay còn lại chạm vào bờ vai của nó và vỗ nhẹ. Tức thì Linh Lan cảm thấy bờ vai mình đau nhói, trong phút sơ sẩy lại ngã đánh oạch trên nền nhà.
Nhìn Linh Lan vồ ếch, nước mắt chảy ra vì đau, đôi mắt vực thẳm của Nguyễn Huệ như có những tia sáng lấp lánh, gương mặt thanh tú điểm một nụ cười giễu cợt, tàn nhẫn, chẳng mảy may thương xót khiến Linh Lan vô cùng oán giận. Nhanh chóng ngồi dậy, đôi mày liễu của Linh Lan nhíu lại, khi thấy lòng bàn tay nó đã rướm máu, tê buốt. Nhìn hai lòng bàn tay trầy xước, Linh Lan lại ngước nhìn Nguyễn Huệ, đôi mắt đen láy của nó mở to, nhìn thẳng vào mắt anh, không nể sợ. Hay lắm, anh càng trêu tôi, tôi lại càng quyết tâm bám lì ở đây cho biết mặt. Để coi ai hơn ai.
Trước ánh mắt thách thức của Linh Lan, Nguyễn Huệ cũng nhìn sâu vào mắt nó, không chớp. Cứ như thế, trong căn phòng tối dần, hai người cứ đứng đọ mắt với nhau, không ai chịu thua ai. Ban đầu, Linh Lan chỉ tính trừng mắt nhìn anh thôi, chẳng ngờ anh cũng nhìn lại nó, ánh mắt vừa giẫu cợt, vừa thử thách ấy khiến máu ăn thua trong người Linh Lan lại trỗi lên, nó quyết theo tới bến. Dự tính ban đầu của nó vốn chỉ là quyết đấu bằng mắt với anh, nhưng càng nhìn thật lâu, thật sâu vào đôi mắt ấy, nó có một cảm giác rất kỳ lạ. Trong đôi mắt u tối, thăm thẳm không nhìn thấy đáy ấy, có một ánh lửa nhỏ, rất nhỏ, chập chờn, khi ẩn, khi hiện, khi thấp thoáng, khi dần tan, như ẩn chứa một điều gì đó, khiến Linh Lan nhíu mày, chú mục vào ánh lửa ấy. Dần dần, ánh lửa nhỏ ấy trở nên lung linh, bừng sáng, rồi đột ngột cháy phụt lên, trở thành một rừng lửa to, sáng rực, choáng ngợp và nóng bỏng, như bao trùm, đốt cháy Linh Lan, khiến nó thốt lên một tiếng và lùi lại ngay mấy bước liền.
Lắng nghe tiếng trái tim đập ngỡ ngàng trong lồng ngực, Linh Lan mở to mắt, nhìn Nguyễn Huệ. Có vẻ như anh không biết vì sao Linh Lan lại hốt hoảng đến thế, nên đôi mày kiếm nhíu lại, chỉ một nửa, rồi nhanh chóng giãn ra. Không nói câu nào, Nguyễn Huệ đứng xoay lưng vào tường, anh yên lặng nhìn chiếc bóng của mình chập chờn trên vách tre, cao lớn như một gã khổng lồ, rồi leo lên giường nằm yên, nhắm mắt, tựa như không quan tâm đến điều gì.
Đứng chôn chân trên sàn nhà, Linh Lan nhìn Nguyễn Huệ đăm đăm. Nhớ đến rừng lửa cháy rực như muốn đốt cháy tất cả mọi thứ trong đôi mắt khi nãy, trái tim Linh Lan vẫn chưa hết đập thình thịch. Trong giây phút ấy, chuyện gì đã xảy ra, tại sao trong mắt anh lại có rừng lửa đỏ ấy, rốt cuộc dưới đáy vực sâu ấy ẩn chứa điều gì. Linh Lan đứng thần người, nghĩ ngợi, rồi gõ nhẹ vào đầu vì nghĩ mãi vẫn chưa thông được chuyện nào.
Đêm đã khuya, trời trở lạnh, đứng suy nghĩ hoài một chỗ Linh Lan cũng đã bắt đầu thấm mệt, mí mắt nó trĩu nặng, chỉ muốn được ngả lưng xuống đánh một giấc ngon lành. Ngó Nguyễn Huệ ngủ yên trên giường, lại nhìn xuống mặt đất gồ ghề, lạnh lẽo, Linh Lan liếm môi, nó đánh bạo leo lên giường, lấy hành lí chắn ngang rồi khe khẽ nằm xuống. Tại sao lại phải ngại khi mà trong mắt Nguyễn Huệ, nó chẳng khác nào con sâu, cái kiến, vậy thì trong mắt nó, anh cũng chăng hơn cái kiến, con sâu là bao. Mặt đất lạnh thế kia, lồi lõm thế kia, bảo nó ngủ, thôi thà thức suốt đêm còn hơn. Lại thêm Nguyễn Huệ đã ngủ, chiếc giường cũng không chật hẹp gì, anh nằm một chỗ, nó nằm một chỗ, có đụng chạm gì đâu mà phải sợ chứ. Nghĩ trong đầu như thế, nên Linh Lan an tâm nằm xuống, suy nghĩ mông lung rồi sau đó ngủ ngon lành.
Trong giấc mơ, Linh Lan mơ thấy mình nằm trên một chiếc giường, chăn ấm, nệm êm, đột ngột, chiếc giường như có bàn tay ai đó rung, lắc, kêu từng tiếng kẽo kẹt, rồi hất tung nó xuống đất. Giật mình bừng tỉnh, Linh Lan ngẩn ngơ khi thấy mình đang nằm dưới nền đất, còn Nguyễn Huệ đang nằm sát phía trong, quay mặt vào vách tường, dường như ngủ rất say, lồm cồm bò dậy, Linh Lan so vai lại khi gió lạnh lùa vào. Tính leo lại lên giường nhưng nhìn thấy túi hành lí đặt ở giữa để ngăn đôi bên đã bị xê dịch quá nửa, có nghĩa là nó đã nằm lấn sang phần của Huệ, chả trách anh nằm sát về phía tường, nhưng cũng may là vẫn ngủ say. Sực nhớ tới bản thân mình mắc bệnh khi ngủ hay ôm gối, nay thấy nó nằm lấn sang phần Huệ nhiều như thế, chẳng biết là lúc ngủ say đã có… ôm hay chưa. Nghĩ đến đó thôi, đôi má Linh Lan nóng ran dù trong đêm đông lạnh. Nhìn đi nhìn lại, nó thở phào may mắn khi Huệ vẫn đang ngủ say, không có động tĩnh gì. Thôi thì đành an phận ngủ dưới đất vậy, chứ nếu như để anh ta tỉnh dậy, nhìn thấy bộ dạng khó coi của nó thì chẳng biết ánh mắt kia còn khinh bạc, giễu cợt đến nhường nào nữa. Lúc đó, nó có đào hố cũng chẳng biết phải chui đi đâu, trận chiến này, nó đành chịu thiệt vậy.
Chính vì phải ngủ trên mặt đất, vừa lạnh, vừa lồi lõm, thế nên sáng hôm sau, khi tỉnh dậy, cả người Linh Lan ê ẩm, nhức mỏi, mũi nó lại bắt đầu sụt sịt, dự báo một cơn cảm mạo sẽ đến ngay sau đó. Nguyễn Huệ đã dậy từ rất sớm, bằng chứng là giường chiếu đã lạnh lẽo, gọn gàng từ lâu. Vệ sinh cá nhân buổi sáng đâu vào đó, Linh Lan bước ra ngoài hiên, nó vươn vai, tập thể dục để bắt đầu một ngày mới. Khi nó tập xong, cũng vừa lúc Nguyễn Huệ từ ngoài vườn bước vào nhà, tay xách chiếc thùng không, trên áo lấm tấm vài giọt nước, có lẽ vừa mới tưới hoa xong. Tựa như chẳng biết sự có mặt của nó, Nguyễn Huệ thản nhiên đi xuống nhà bếp. Quá quen với cảnh coi người khác như không khí của anh, Linh Lan cũng chả bận tâm, nó ngồi xuống bàn uống một tách trà cho ấm bụng, rồi vội vàng đứng dậy, bám theo sau Nguyễn Huệ khi nhác thấy anh vác rìu rời khỏi nhà.
- Nè, Huệ, anh thông minh thế, vậy tôi đố anh vài câu, xem anh có giải được không nhé!
Trên đường lên rừng, không chịu được cảnh kẻ trước người sau lạnh lùng, Linh Lan vượt lên trước. Nó lên tiếng, phá tan bầu không khí yên lặng hiện có giữa hai người. Thấy mình đã mở miệng, nhưng Nguyễn Huệ vẫn không lên tiếng, chỉ chăm chú nhìn về phía trước, Linh Lan lại tiếp lời.
- Không nói gì là đồng ý, vậy tôi đố anh nha. Có một người lính, anh ta đi từ Quy Nhơn vào Gia định, hỏi tới nơi, anh ta thấy gì?
Linh Lan vừa đố vừa cười khi nhớ tới gương mặt thộn ra của Anh Tú khi biết câu trả lời. Nghe câu đố của Linh Lan, Nguyễn Huệ nhíu mày, anh không trả lời, cũng không liếc mắt nhìn nó, mà tiếp tục sải bước trên con đường mòn dẫn vào rừng. Dù ngoài mặt thản nhiên như thế, nhưng câu đố của Linh Lan cứ lởn vởn trong đầu anh, không cách nào xua đi được. Là người xưa nay thẳng thắn, không biết gì thì hỏi ngay, nay anh đã thắc mắc, suy nghĩ câu trả lời, nhưng vẫn không thể biết đáp án nghĩa là gì nên trong lòng có chút bứt rứt. Một người lính đi từ Quy Nhơn tới Gia Định, tới nơi, anh ta thấy gì? Thấy cái thành, hay là thấy con đường, bầu trời, sông suối. Nghĩ cũng thật kỳ lạ, Nguyễn Huệ một mặt muốn biết câu trả lời, một mặt lại không lên tiếng, một mặt giả vờ lơ đãng, nhưng lại đang tập trung vào câu đố mẹo kia, thành ra gương mặt anh bây giờ rất ngộ nghĩnh, đôi mày kiếm chau lại, rõ ràng như đang tập trung ghê lắm, nhưng mắt lại nhìn thẳng về phía trước tựa như không quan tâm bất cứ điều gì.
- Đoán ra chưa? Nhìn mặt thế chắc là không đoán ra rồi ha, thôi thấy anh muốn biết như thế, tôi trả lời luôn. Một người lính đi từ Quy Nhơn vào Gia Định, tới nơi anh ta thấy…mệt.
Khi Linh Lan vừa nói dứt, ngay lập tức Nguyễn Huệ đưa mắt nhìn nó, trên mặt anh hiện ra hai chữ “khó hiểu”, khiến Linh Lan cảm thấy thú vị. Với một Nguyễn Huệ lạnh tính, hay chế giễu nó thường ngày, thật hiếm khi thấy biểu hiện lạ như vậy trên mặt anh. Mắt thì nhướng lên, mày thì chau tít, mặt thì nửa ngẩn ngơ, nửa đăm lại, chứng tỏ là đang hoài nghi và ngạc nhiên khi nghe câu trả lời tưởng như đùa của nó. Lần đầu tiên trông thấy biểu hiện ấy của Nguyễn Huệ, Linh Lan cảm thấy ngạc nhiên, rồi từ ngạc nhiên chuyển sang thích thú. Con người này, là đơn thuần, hay là khó dò đây.
- Đáp án vậy có gì không đúng. Anh thử nghĩ coi, một người lính đi từ Quy Nhơn tới Gia Định, bao nhiêu cây số, phải mất ròng rã một tháng trời. Tới nơi anh ta không thấy mệt thì thấy gì?
Trước câu trả lời ngang phè của Linh Lan, Nguyễn Huệ nhíu mày lại, anh lướt mắt về phía trước, chân bước mỗi lúc một nhanh hơn, có vẻ như muốn thoát khỏi Linh Lan càng xa càng tốt. Thấy anh đột ngột tăng tốc, Linh Lan ngạc nhiên, nó vội vã bám theo sau để không bị bỏ lại. Chính vì cố bắt kịp Nguyễn Huệ, Linh Lan cắm cúi đi, không để ý gì đến dưới chân, kết quả là nó đã vấp phải rễ cây và ngã nhào ra đất, đến khi ngẩng đầu nhìn lên thì bóng dáng Nguyễn Huệ đã mất hút từ bao giờ.
- Nè, Huệ, đừng bỏ tôi ở lại đây chứ, chờ tôi với!
Linh lan vội vàng ngồi dậy, bất chấp cái chân đau, chạy thật nhanh về phía trước. Vừa chạy, nó vừa gọi to, nhưng đáp lại chỉ là rừng cây xao xác, tiếng gọi của nó mất hút giữa khoảng không, chỉ còn lại tiếng gió thổi vi vu. Bóng dáng Nguyễn Huệ vẫn không thấy đâu, khiến Linh Lan bắt đầu hoảng trong lòng.
Không được, bình tĩnh, phải bình tĩnh tìm cách, không được hoang mang, phải bình tĩnh.
Cố trấn áp trái tim đang đập thình thịch trong lồng ngực, Linh Lan hít thở một hơi thật sâu để lấy lại bình tĩnh. Bây giờ, nó có thể phán đoán được chuyện gì đang xảy ra, Nguyễn Huệ cố ý đi nhanh để bỏ rơi nó, và hiện tại thì nó đã mất phương hướng, khi nhìn đâu cũng chỉ thấy cây là cây. Bất giác, trán Linh Lan rịn mồ hôi, lòng bàn tay nó lạnh ngắt khi biết mình đã bị lạc trong rừng. Từ xưa đến nay nó chưa bao giờ đi rừng, chưa bao giờ lạc lối nên chẳng có chút kinh nghiệm nào. Biết làm sao đây, khi nãy chỉ mãi bám theo sau Nguyễn Huệ, không nhìn xung quanh, nên giờ chẳng biết ất giáp gì cả. Nếu không sớm tìm ra lối về, để trời sập tối thì nó sẽ bị lạc hoàn toàn trong rừng, bị bỏ đói, tệ hại hơn là gặp thú dữ, nhưng đằng nào kết quả cuối cùng vẫn chỉ là nó bỏ mạng lại đây mà thôi.
★ Chương 128
Bị Nguyễn Huệ bỏ lại trong rừng, biết có đứng đây than trời thì mọi chuyện cũng đã rồi, Linh Lan đi quanh quẩn tìm lối ra, nhưng sau một hồi loanh quoanh lại quay trở về vị trí cũ, nơi mình đã đánh dấu cẩn thận trước khi lên đường khiến nó vô cùng lo lắng. Trong phút chốc, bao ý nghĩ không hay lũ lượt dồn về trong tâm trí nó, nào là chết đói, chết khác, nào là bị thú dữ ăn thịt, nào là bị sơn tặc tấn công, khiến Linh Lan rối trí lên và không biết phải xử lý thế nào trong trường hợp này.
Chính vào giây phút đó, nụ cười mỉa mai và ánh mắt giễu cợt của Nguyễn Huệ bất chợt hiện lên trong tâm trí Linh Lan, khiến nó bừng bừng lửa giận. “Là tự cô chuốc lấy”, hóa ra ý anh ta là thế này đây. Cắt đuôi được nó, hẳn Nguyễn Huệ đang rất vui vẻ, giờ này chắc anh ta đang bận chăm sóc, tưới hoa, nhổ cỏ, chớ chả có thời gian bận tâm hay suy nghĩ về con bé đã bị anh bỏ lại trong rừng. Không nghĩ thì thôi, càng nghĩ Linh Lan càng thấy tức, nhớ lại quyết tâm thách thức Nguyễn Huệ coi ai hơn ai, Linh Lan mím môi. Nó ngồi phịch xuống đất, hai chân xếp bằng, mắt nhắm lại, hít thở nhẹ nhàng, lấy cơn giận chuyển thành sức mạnh, giữ vững tinh thần và trấn áp nhưng nỗi sợ vu vơ hiện hữu trong lòng.
Chính nhờ phương pháp đó, Linh Lan đã dần bình tĩnh trở lại, nó mở mắt ra, tâm hồn nhẹ nhõm, và trái tim cũng trở lại nhịp đập như bình thường. Linh Lan đưa mắt nhìn quanh, tuy nó chưa bao giờ đi rừng, không có chút kinh nghiệm nào, nhưng ông anh vừa điêu vừa kiêu của nó thì khác. Tham gia vào chiến dịch mùa hè xanh, ông anh nó đã từng lên rừng xuống biển, thế nên dù ít hay nhiều cũng có kinh nghiệm của bậc anh chị lão làng đi trước truyền lại, trong đó có bí quyết “sinh tồn trong rừng hoang”. Những mẹo đó ông anh nó đã truyền đạt lại rất kỹ, để đề phòng chẳng may có chuyện bất trắc xảy ra nếu đi chơi xa, và lần này, chính sự “nhiều chuyện” của ông anh, như cái cách Linh Lan, thường hay nói lại cần thiết đến thế này.
Anh hai ngốc, ngốc.
Trong khoảnh khắc ấy, đôi mắt Linh Lan chợt long lanh, nó ngẩng nhìn bầu trời, cố bình ổn lại cảm xúc đang dậy trong lòng, rồi trở về hiện tại, cố nhớ lại những gì ông anh của nó đã nói để tìm cách thoát ra khỏi khu rừng.
“Hãy cố tìm ra một con suối hay một con sông, và đi xuôi theo hướng nước chảy về phía hạ lưu”
Muốn tìm thấy một con suối hay một con sông, cách tốt nhất là trèo lên nơi nào cao nhất để quan sát. Linh Lan hà hơi vào lòng bàn tay, nó chọn một cái cây to nhất, cao nhất, rồi tháo dải lụa ở thắt lưng ra, vòng qua thân cây, quấn vào hai bàn tay, sau đó từ từ leo lên cho đến khi đặt chân lên một cành cây chắc chắn để làm điểm tựa. Cứ như thế, Linh Lan đã leo đến tận ngọn. Trên cây cao, nó phóng tầm mắt ra phía xa, hy vọng sinh tồn được thắp lên khi nhìn thấy hàng cây xanh chạy dài, theo những gì nó biết, nơi đó nhất định có suối hay sông. Linh Lan nghĩ thầm, nó cố quan sát, định hướng cẩn thận đâu đó rồi mới leo xuống, nhằm thẳng hướng mình đã định mà tìm đến nơi.
Sau vài lần lạc lối, lại leo lên cây để định hướng, cuối cùng, Linh Lan cũng tìm được một con suối nhỏ ở cuối con dốc, uống vài ngụm nước, rửa mặt để lấy tỉnh táo, Linh Lan đi men theo suối bởi tất cả mọi con suối đều đổ ra sông, mà hai bên sông thường có những khu dân cư hay làng chài sinh sống, gặp được họ, thì cơ hội thoát ra khỏi rừng của nó sẽ lớn hơn rất nhiều.
Cư như thế, Linh Lan vừa đi, vừa nghỉ, cho đến khi nhìn thấy một con đường mòn. Nhìn thấy con đường mòn ấy, gương mặt Linh Lan sáng bừng lên, bởi lối mòn này có lẽ là do con người tạo nên khi vào rừng đốn củi. Quan sát nhánh rẽ hình V nghịch của con đường, linh lan càng thêm nhiều hy vọng sống sót. Thường nếu đi vào rừng, nhánh rẽ sẽ có hình V thuận, nếu hướng ra khu dân cư, nhánh rẽ sẽ có hình V nghịch. Không quản mệt nhọc, không quản đôi chân đã rã rời vì đi bộ suốt cả chặng đường dài, Linh Lan tăng tốc. Nó nhắm theo con đường mòn tìm ra khỏi khu rừng, trong lòng lẫn lộn biết bao cảm xúc, cho đến khi nhìn thấy một nông phu đang vác gánh củi giữa đường, trái tim Linh Lan mới vỡ òa ra sung sướng vì phán đoán của nó đã không sai lầm.
*
* *
Một ngày mới qua đi, hoàng hôn lại về, màn đêm buông xuống, tiếng dế kêu rỉ rả trong những bụi cỏ, tựa đang tấu nhạc cho buổi dạ yến của côn trùng. Trong căn phòng tối lạnh, Nguyễn Huệ ngả lưng vào thành ghế, ánh mắt anh lơ lửng đâu đó trong bóng tối, những ngón tay dài gõ nhẹ nhàng theo tiếng trái tim đập nhè nhẹ trong lồng ngực, từng nhịp tim khi nhanh, khi chậm, khi bồn chồn, khi nóng hổi, khi nguội lạnh, tựa như bao thăng trầm đã qua của một đời người.
Tại sao?
Đến bây giờ vẫn không chịu xuất hiện?
Những suy nghĩ vừa nhóm lên trong đầu Nguyễn Huệ liền vụt tắt khi có tiếng bước chân thình thịch vang lên ngoài hiên nhà. Đôi mày kiếm chau lại, Nguyễn Huệ ngồi thẳng dậy, khêu đĩa đèn dầu đặt trên bàn. Bóng tối dần tan ra khiến anh nheo mắt lại, ánh lửa tù mù từ đĩa đèn dầu tuy không sáng rực, nhưng cũng đủ soi rõ một bóng người đang bước vào nhà. Nhìn thấy bóng người ấy, Nguyễn Huệ yên lặng, bóng tối trong đôi mắt anh như cuộn lại thành từng con sóng đêm tràn vào bờ, khi không nghĩ rằng cô gái đó có thể tìm ra đường trở về nhà nhanh đến thế này.
“Cô gái đó” mà anh nghĩ đến không ai khác chính là Linh Lan, nó đang đứng trước ngưỡng cửa, mặt mày lem luốc, tóc tai rối bời vì quá mệt. Nhìn Nguyễn Huệ đang ngồi trên ghế, đôi mắt đen láy của Linh Lan nhướng lên, nửa oán giận, nửa lại ánh lên sự kiêu hãnh vì cuối cùng cũng đã tìm được đường về nhà. Quẳng chiếc gậy đang nắm trong tay qua một bên, Linh Lan từng bước một tiến tới gần Nguyễn Huệ, một tay đặt lên bàn, một tay chống nạnh, miệng mỉm cười ngọt ngào.
- Chào anh, sao hả, ngạc nhiên lắm khi thấy tôi trở về à? Mà, tôi tưởng anh đã đi ngủ rồi, hóa ra còn ngồi đây chờ tôi cơ đấy, thật là vinh hạnh. Cám ơn anh nhiều nhé.
Nói rồi, trước đôi mày kiếm đang nhíu lại của Nguyễn Huệ, Linh Lan trở gót, quay vào trong để nghỉ ngơi. Suốt cả ngày lần mò trong rừng, hết leo rồi lại trèo, Linh Lan đã quá mệt mỏi, chân tay nặng trích không nhấc lên nổi, nó không còn bụng dạ nào để ăn uống, chỉ muốn được nằm xuống, đánh một giấc đến tận sáng hôm sau mà thôi.
Vừa vén tấm mành cửa để bước vào nhà trong, Linh Lan chợt dừng lại, nó quay đầu về phía Nguyễn Huệ, nói ngọt ngào.
- Mà tôi cũng nên nói với anh chuyện này, tính tôi khá là kỳ quái, nếu người ta muốn tôi chết, thì tôi lại càng phải sống. Nếu người ta muốn hủy hoại tôi, muốn thấy tôi tuyệt vọng, chán nản, thì tôi lại càng phải vùng lên, sống thật lâu, thật hạnh phúc cho người ta tức chơi vậy đó! Thôi chào anh, tôi đi ngủ!
Khi Linh Lan nói, Nguyễn Huệ không quay đầu lại, nó cũng chẳng buồn để tâm đến điều đó, nói xong, nó liền quay trở người đi thẳng. Lần này nó đã biết thân, phận, nên lẳng lặng nằm xuống dưới đất, mắt nhắm lại, sau đó chìm vào giấc ngủ sau vì đã trải qua một ngày dài gian lao.
Chỉ còn lại một mình trong phòng, Nguyễn Huệ vẫn ngồi yên, không động đậy, bát hương trầm đặt trên bàn tỏa hương, làn khói trắng mỏng manh vờn quanh người anh như sương khói. Đột ngôt, Nguyễn Huệ với tay, quạt tắt đĩa đèn dầu, Ngọc lửa nhỏ phụt tắt, để lại căn phòng chìm trong khói lạnh, hương trầm và bóng tối mênh mông.
Đêm đó, Linh Lan trở sốt.
Trong cơn mộng mị, Linh Lan thấy mình đứng giữa biển người mênh mông, nhưng nó chẳng quen biết một ai. Mọi người vội vã lao về phía trước, nói cười lao xao, chỉ có nó đi ngược hướng, vừa đi vừa tìm kiếm một ai đó quen thuộc với sự hoang mang tột độ. Đột ngột, tất cả mọi người chợt dừng lại, xoay nhìn về phía nó, ánh mắt u ám, nụ cười nở rộng trên môi một cách kỳ quái khiến nó cảm thấy sợ hãi. Rồi từng chút một, từng người, từng người tiến về phía nó, vây nó lại vào giữa, vòng tròn hẹp dần, hẹp dần cho đến khi nó cảm thấy như ngạt thở, rồi thân thể nó đột ngột rã ra từng phần, thành tro bụi, rồi theo gió bay đi…
Linh Lan mở bừng mắt.
Từng giọt mồ hôi lạnh lấm tấm trên trán nó, vai nó đau nhức, cổ họng khô, đắng, toàn thân không thể động đậy, từng khớp xương như rã ra trong giấc mơ. Kết quả của một ngày lạc lối trong rừng đã rút cạn sức lực của nó, khiến nó không thể nhấc tấm thân nặng nề trở dậy khi ngày mới đã lên.
Với cái đầu nhức như búa bổ, Linh Lan cố mở mí mắt nặng trĩu của mình ra. Ánh sáng lấp lánh ngoài song cửa, nhưng lại không thể vươn đến chỗ nó nằm. Nơi nó nằm? Linh Lan nhíu mày, rất nhanh sau đó, nó nhận ra rằng mình đang nằm trên giường từ bao giờ. Sao thế nhỉ, rõ ràng nó đã nằm dưới đất ngủ, sao sáng ra lại thế, chẳng lẽ ngoài bệnh hay ôm gối, nó lại còn sinh thêm bệnh mộng du, nửa đêm mê sảng leo lên giường ngủ ư.
Còn đang suy nghĩ, chợt, Linh Lan ngửi thấy một mùi thơm phảng phất trong không khí, mùi thơm khiến nó cảm thấy đói cồn cào bởi nguyên ngày hôm qua không ăn gì. Mùi cháo hành, Linh Lan thầm nghĩ. Nó lấy hết sức ngẩng đầu dậy, nhìn quanh quất, và rồi phát hiện ra mùi cháo hành ấy không đâu xa, mà nằm trên bàn ngay trước đầu giường.
Cháo hành!!!
Sáng sớm thức dậy, có một bát cháo hành ngay trước mặt, khiến Linh Lan reo lên phấn chấn. Với tất cả sức lực trong người, Linh Lan chống tay ngồi dậy, nó với lấy bát cháo thơm, tính ăn, nhưng cuối cùng khựng lại. Bát cháo này là để cho ai, có phải cho nó không? Nguyễn Huệ lại không có trong phòng, nếu như bát cháo hành này giành cho anh, không phải cho nó, thì nếu cháo đã bị nó ăn, chẳng biết Nguyễn Huệ sẽ xử lý như thế nào.
Linh Lan cắn môi nghĩ ngợi, nhớ đến chuyện nó bị anh bỏ lại trong rừng, tơi tả lắm mới quay trở về nhà được, thì cơn giận lại bùng lên, nhưng dù có giận cách mấy nó cũng không thể tùy tiện ăn cháo của người khác khi chưa có sự cho phép. Đang còn phân vân, Linh Lan chợt đưa mắt nhìn qua song cửa, vẫn là hình ảnh Nguyễn Huệ đang tưới hoa. Có vẻ như nhận ra có người đang nhìn mình, Nguyễn Huệ quay người lại, rất nhanh, rồi lại nhìn sang nơi khác, tiếp tục tưới hoa như thường ngày, nhưng chỉ khoảnh khắc nhỏ đó thôi cũng khiến Linh Lan khẳng định được một vấn đề.
Bát cháo này là giành cho nó!
Nếu không phải thế, thì tại sao khi nhìn thấy nó bưng tô cháo mà anh chẳng tỏ vẻ gì. Linh Lan hớn hở, quên bẵn cơn giận đang âm ỉ trong lòng, nó bưng tô cháo lên, ngồi dựa lưng vào tường và ăn ngon lành, càng ăn, mồ hôi Linh Lan càng túa ra nhiều, cho đến khi bát cháo cạn queo, thì tinh thần Linh Lan đã phấn chấn, cơn bệnh trong người dường như đã đẩy lùi. Đặt tô cháo lên bàn, đôi mắt Linh Lan mở to, đầy ngạc nhiên khi nhìn thấy một chén trà gừng hãy còn ấm đặt sát góc bàn, mà khi nãy Linh Lan chỉ dồn tâm trí cho tô cháo mà quên mất sự hiện diện lặng lẽ của chén trà gừng này.
Trà gừng và cháo hành dùng để giải cảm rất tốt!
Linh Lan ủ chén trà gừng ấm nóng trong tay, lòng chợt mông lung. Đã biết bao nhiêu lần, nó tự hỏi Nguyễn Huệ là người như thế nào, và lần này cũng thế. Hôm qua còn tàn nhẫn, bỏ rơi nó trong rừng, mặc cho nó sống chết, thế nhưng hôm nay khi tỉnh dậy nó lại nằm trên giường, rồi lại còn có cháo hành, trà gừng để nó giải cảm, vậy thật ra anh muốn gì? Nếu muốn hành hạ, đày đọa nó thì cứ để nó sống chết mặc bay, sao lại cất công làm những chuyện này. Từ chuyện Văn Bình, cho tới chuyện của nó, càng ngày Huệ càng khiến nó cảm giác anh như một ảo ảnh, không cách nào nắm bắt được. Là anh tàn nhẫn hay quan tâm, là anh hữu tình hay vô tình?
Linh Lan im lặng nghĩ ngợi, nó nhẹ hàng cầm chén trà gừng lên, và uống liền một hơi. Đắng, cay, nóng, tất cả những vị đó hòa quyện vào nhau, khiến cổ họng Linh Lan như tê liệt. Đặt chén trà gừng xuống bàn, Linh Lan thở phào một hơi nhẹ nhõm, mồ hơi nó bắt đầu túa ra, dấu hiệu cho cơn cảm mạo đã bị đánh tan…
Đắng
Cay
Nóng…
Hương vị của trà gừng vẫn còn đọng lại nơi đầu lưỡi của Linh Lan, chưa tan. Trà gừng rất khó uống, không phải dễ uống, khi cần thiết mới uống, không phải là thức uống để giải khát hằng ngày. Tuy khó uống, nhưng lại có công dụng giải bệnh, tuy khó uống, nhưng lại mang đến cho người cảm giác ấm áp trong đêm đông.
Nguyễn Huệ?
Liệu anh có giống cốc trà gừng đó hay không
*
* *
Nhờ có bát cháo hành và trà gừng giải cảm, ngủ một giấc, cơn sốt trong người Linh Lan đã không còn, nó cảm thấy tinh thần khỏe hẳn, liền xuống giường, ra ngoài vườn hít thở không khí trong lành. Lướt mắt qua khóm hoa dọc lối đi, Linh Lan ngạc nhiên nhìn các bông hoa có vẻ kém tươi hơn thường ngày. Dường như sáng nay Nguyễn Huệ không tưới hoa, sao lại thế nhỉ, sáng nào anh cũng múc nước tưới hoa, chăm sóc cây cỏ, chẳng lẽ hôm nay anh lại quên sao?
Linh Lan cắn môi suy nghĩ, gương mặt nó tươi lên khi một ý định vừa nhóm lên trong đầu. Nó bị cảm, Nguyễn Huệ đã nấu cháo và trà gừng cho nó, vậy thì nếu anh quên tưới hoa, nó sẽ tưới giùm anh vậy. Với quyết định đó, Linh Lan mỉm cười thầm khen mình giỏi, nó bước vào nhà trong, lát sau đã xách ra một thùng nước đầy. Nhẹ nhàng múc từng gáo nước tưới các khóm hoa, Linh Lan vừa làm vừa suy nghĩ đến nhiều chuyện. Ngày hôm qua thất lạc trong rừng, may mắn là Linh Lan kịp thời nhớ đến những kiến thức mà Anh Tú truyền đạt lại nên mới sống sót được, chứ nếu không giờ này chẳng còn ung dung tưới hoa ở đây, mà bỏ mạng đâu đó ở trong rừng rồi.
Nghĩ đến Anh Tú, Linh Lan lại thấy ngậm ngùi, xen vào đó là những lo lắng không yên. Từ dạo thất lạc đến nay cũng hơn một năm trôi qua, nó đã liều thân đến Gia Định tìm Anh Tú, Văn Bình cũng đã giúp nó cho người tìm kiếm tung tích anh trai nó khi biết chuyện, thế nhưng kết quả vẫn là con số không, chẳng thu được chút manh mối nào.
- Cô đang làm gì đó?
Mãi suy nghĩ đến Anh Tú, Linh Lan giật bắn mình khi một giọng nói lạnh lẽo bất thần vang lên. Nguyễn Huệ đang đứng trước thềm nhà, trên vai là một bó củi nặng. Vừa nhìn thấy anh, Linh Lan chưa kịp chào hỏi tiếng nào thì anh đã xăm xăm đi tới, giật lấy chiếc gáo trên tay nó, đẩy nó ra sau, đôi mày kiếm cau lại khi thấy các khóm hoa úng nước vì bị tưới quá nhiều.
Định bụng sẽ tưới hoa để hoa được tươi, không bị héo, nào ngờ trong phút suy nghĩ, Linh Lan đã lỡ tay tưới quá đà, khiến các khóm hoa bây giờ héo rũ xuống vì bị úng. Mắt thấy hậu quả làm việc trong phút lơ đãng do mình đã gây ra, Linh Lan lấm lét nhìn sang Nguyễn Huệ, nó cứ đinh ninh rằng phen này không bị chế giễu, cũng sẽ bị mắng một trận tơi bời vì tội làm úng hoa, thế nhưng trước đôi mắt ngạc nhiên của nó, Nguyễn Huệ không nói câu nào mà chỉ ném mạnh cái gáo vào xô nước vơi rồi lập tức quay đi.
Nhìn bóng dáng anh khuất sau rặng liễu xanh mướt, Linh Lan ngẩn ngơ. Ban nãy, khi thấy hiện trường mà nó đã gây ra, đôi mắt u tối của Nguyễn Huệ thẫm lại, nét mặt hiện rõ sự buồn bã khi các bông hoa anh yêu quý đã bị Linh Lan hại ra thế này. Biết mình có lỗi, thế nên chẳng thà anh chế giễu hay mắng mỏ nó, nó còn thấy dễ chịu hơn, đằng này anh không nói không rằng, cũng chẳng phản ứng gì, chỉ có đôi mắt u tối thẫm lại, thương xót, khiến Linh Lan vô cùng bứt rứt và khó chịu. Vốn là muốn giúp đỡ để trả ơn người, nào ngờ lại gây ra thảm họa, bây giờ biết làm thế nào để chuộc lại lỗi đây.
Linh Lan đứng chôn chân tại chỗ, nó hết nhìn khóm hoa, rồi lại nhìn ra ngoài cổng nơi Nguyễn Huệ đã khuất dạng và tự trách mình đã gây ra chuyện. Tự biết cứ đứng đây than vãn mãi cũng chẳng khiến các khóm hoa tươi lên được, Linh Lan quay trở vào nhà trong, tìm kiếm cách chuộc lỗi, chứ để Nguyễn Huệ giận nó vì chuyện này, không nói chuyện với nó, hay ngẫu hứng đuổi nó về Tây Sơn, thì làm sao có thể khai thác được những uẩn khúc giữa anh và Văn Bình. Như thế sẽ phiền to.
Hết đứng rồi lại ngồi, tổng hợp các cách mình có thể làm được, Linh Lan thấy chỉ có cách nấu ăn là khả thi nhất. Không kể đến màn suýt gây hỏa hoạn, nếu Nguyễn Huệ về, trông thấy các món ăn nó nấu nóng hổi ở trên bàn cùng với sự thành tâm, chắc cơn giận trong lòng anh ta cũng nguôi đi phần nào.
Tâm đắc với kế hoạch chuộc lỗi của mình, Linh Lan xắn tay áo, đi xuống bếp. Từ trước tới nay tuy chỉ nấu độc nhất mỗi món mì gói, nhưng nó không tệ đến nỗi chiên một trái trứng, hay luộc thịt cũng không biết. Chính vì thế, nên sau khi nhìn qua các nguyên liệu có sẵn trong nhà bếp, Linh Lan quyết định làm món trứng chiên, canh rau ngót và thịt luộc chấm nước mắm. Các món ấy nấu không khó, chỉ khó ở chỗ nấu cơm làm sao để không bị cháy với cái lò bếp đơn sơ này thôi.
Với quyết tâm chuộc lại tội lỗi mình đã gây ra, suốt từ xế đến chiều, nó vật lộn ở dưới bếp, kết quả cũng khá khả quan. Trứng chiên tuy nát, không còn nguyên ven nhưng được cái vàng rộm, thịt luộc thì dễ, tuy nhiên canh thì có hơi lạt, và thành công nhât của nó là nồi cơm khá ổn, có cháy chút đỉnh ở phía dưới nhưng không đến nổi phải bỏ nguyên cả nồi.
- Ôi! Thế là xong!!!
Linh Lan reo lên môt tiếng khi nếm sơ qua thành quả mình đã khổ công bỏ ra nửa ngày để thực hiện. Nó háo hức xếp thức ăn vào đĩa, bày ra mâm và dọn lên bàn, tất cả mọi thứ đều đã được chuẩn bị sẵn, chỉ còn chờ Nguyễn Huệ về mà thôi. Không biết nhìn thấy những món này, Nguyễn Huệ sẽ nghĩ thế nào nhỉ? Chắc chắn là không phải câu “xảy ra hỏa hoạn” như đã chế giễu nó rồi. Linh Lan vui vẻ nghĩ thầm, nó ngồi xuống ghế, mắt nhìn ra hiên, trông chờ Nguyễn Huệ trở về, thế nhưng ngồi một lát, nó lại rảo mắt ra ngoài vườn, đôi mày liễu nhíu lại rồi sau đó bước ra ngoài…
——————————
Đứng trên một mỏm đá, nhìn dòng sông Côn cuồn cuộn chảy, bọt tung trắng xóa, hai bên là phù sa bồi đắp cho các thưở ruộng xanh tốt, không biết Nguyễn Huệ đang nghĩ gì mà đôi mắt thẫm màu trở nên lấp lánh. Sông Côn bình thường hiền hòa, êm đềm là thế, nhưng đến mùa lũ nước lại dâng cao, cuồn cuộn chảy xiết, ngay cả chiếc lá rơi xuống cũng không thể nổi lên, và như một quy luật tất yếu, tất cả mọi con sông đều đổ ra biển, hòa làm một với đại dương mênh mông.
Trường giang cuồn cuộn chảy về đông
Bạc đầu ngọn sóng cuốn anh hùng…(*)
Nguyễn Huệ cứ đứng lặng yên nhìn dòng sông Côn êm đềm trôi, dõi theo hoàng hôn, rồi lại bình minh ngụp lặn phía chân trời. Anh đã ở đó rất lâu, tận hưởng cảm giác tĩnh lặng quen thuộc mà mấy hôm nay đã bị quấy rầy. Hòa vào thiên nhiên, để mặc cho đất trời thổi bay những khó chịu trong lòng, anh chỉ trở về khi màu nắng lại dát vàng con sông quê hương, lan tỏa ra sức sống của một ngày mới. Theo đường cũ quay trở về nhà, vừa đặt chân đến cổng, đôi mày kiếm của anh đã nhíu lại khi thấy cổng mở toang, không khép lại, trong nhà im ắng, chẳng có một tiếng động nào. Chẳng lẽ cô gái bướng bỉnh đó đã trở về Tây Sơn rồi sao?
Thế cũng tốt, không có cô ta ở đây, anh càng thoải mái dễ chịu hơn, chỉ có điều kế hoạch của anh có vẻ sẽ không thành công rồi. Cô ta đi rồi, không gian yên tĩnh sẽ được trả về như vốn phải vậy. Cuối cùng thì cô ta cũng chỉ đến thế thôi, mới mấy hôm trước còn mạnh miệng tuyên bố sẽ chiến đấu tới cùng, khiến người khác tức chơi, vậy mà hôm nay đã sớm đầu hàng. Nguyễn Huệ lắc đầu, khóe môi nhếch lên tạo thành một nụ cười vừa thoải mái, vừa chế giễu. Lúc đi ngang qua khóm hoa bị úng, đôi mắt u tối của anh thẫm lại, để rồi đến khi bước vào trong nhà, bóng đêm trong đôi mắt ấy dần tan biến, thay vào đó là sự ngạc nhiên khi thấy trên bàn là một mâm cơm nhỏ, còn Linh Lan thì ngủ gật kế bên.
Thức ăn trên bàn không còn mới, nhưng vẫn còn nguyên, chẳng lẽ cô ta hôm qua đã nấu nướng chờ anh sao? Nguyên ngày hôm qua anh đi không về, nhưng nhà cửa vẫn gọn gàng, nhà bếp ngăn nắp, vườn tược tưới nước đầy đủ, cỏ dại cũng sạch trơn, mấy khóm hoa úng đều đã được bứng lên trồng lại, điều đó chứng tỏ một tay cô ta đã làm tất cả, kể cả bữa ăn này.
Nhìn Linh Lan chống tay ngủ gật, bờ môi đào hé cười như đang mơ thấy một điều tốt đẹp nào đó, Nguyễn Huệ yên lặng. Anh tính quay người đi thì Linh Lan đã mở mắt, vừa trông thấy anh, nó ngồi bật dậy, vuốt mái tóc lòa xòa lại cho thẳng thớm, rồi mỉm cười.
- Anh về rồi đấy à?
Linh Lan hỏi, nhưng Nguyễn Huệ không trả lời, anh tiếp tục thẳng bước ra ngoài cửa. Thấy thế, Linh Lan vội đứng lên, đuổi theo, chặn anh lại trước ngưỡng cửa, rồi nhìn sâu vào mắt anh, nói từng lời.
- Về chuyện làm úng hoa, tôi xin lỗi, tôi không cố ý, chỉ là tôi muốn cám ơn anh về bát cháo hành và chén trà gừng thôi, không ngờ lại làm mọi thứ tệ đi. Để chuộc lại lỗi, anh xem, tôi đã trồng lại những khóm hoa đó rồi, cũng đã nhổ cỏ, tưới nước rất nghiêm túc. Tôi còn tự tay chuẩn bị mâm thức ăn này chờ anh.
Vừa nói, Linh Lan vừa nhanh nhẹn bưng thức ăn lên khoe, lúc này nó mới phát hiện, thức ăn để từ chiều hôm qua đều đã hỏng, gương mặt nó thoáng thất vọng, nhưng rồi nhanh chóng lấy lại tinh thần. Nó nói tiếp.
- Nhưng cả đêm qua anh không về nên đồ ăn đã bị hỏng cả rồi. Không sao, anh về là tốt rồi, tôi sẽ làm lại món khác để chuộc lỗi, nhanh thôi, anh ngồi đây, đợi tôi nhé.
Linh Lan nói xong, liền im lặng chờ đợi. Ban đầu tính từ chối, nhưng khi thấy vẻ mặt thành khẩn cùng sự chờ đợi của nó, Nguyễn Huệ lại không nói gì. Biết anh yên lặng là đã đồng ý, Linh Lan nhoẻn miệng cười, nó quày quả dọn mâm cơm đã bị hỏng xuống nhà bếp, và sửa soạn làm một mâm thức ăn mới bù lại ngày hôm qua.
Còn lại một mình trên nhà, Nguyễn Huệ ngồi vào bàn, mắt nhìn làn khói trắng từ sau bếp nhẹ nhàng thoát lên. Tiếp xúc với Linh Lan hằng ngày, có thể nói Nguyễn Huệ đã nhìn thấy rất nhiều mặt của nó, ương bướng có, quyết tâm có, ngang ngạnh có, nhưng đây là lần đầu tiên anh nhìn thấy nó dịu dàng, thành tâm đến như thế này. Đối với cô gái ngang bướng ấy, nhận lỗi đã là một chuyện khó, xin lỗi lại càng khó hơn, ấy thế mà nay lại cất công làm ra mâm thức ăn để chuộc lỗi, chờ đợi anh về, chăm sóc nhà cửa vườn tược gọn gàng ngăn nắp, lại còn mở miệng xin lỗi với sự chân thành. Đến nước này thì anh cũng công nhận cô ta ít ra cũng còn biết lí lẽ, chứ không đến nỗi nào.
Trong khi anh đang suy nghĩ, thì Linh Lan cũng đã làm cơm xong, nó vui vẻ bưng mâm cơm lên đặt trên bàn. Thấy Nguyễn Huệ chỉ nhìn mà không nói gì, Linh Lan nghĩ anh vẫn còn chưa hết giận, thế nên nó liền giở chiếc lồng đậy mâm cơm ra, rồi bắt đầu xới cơm vào chén cho anh một cách thành thục. Đẩy chén cơm đến trước mặt Nguyễn Huệ, Linh Lan mỉm cười.
- Anh ăn đi, xem tôi nấu có được không?
Nhận chén cơm từ tay Linh Lan, Nguyễn Huệ không cầm đũa vội. Thấy sự ngần ngừ của anh, Linh Lan liền cầm đũa, bẻ một miếng trứng vào trong chén anh, cho thấy sự thành ý của nó rồi sau đó xới cơm vào chén mình, ăn ngon lành.
- Về chuyện bát cháo và trà gừng, ta nghĩ cô đã hiểu lầm.
- Sao cơ?
Đang cắm cúi ăn vì nhịn đói từ chiều qua đến giờ, Linh Lan ngẩng đầu lên khi Nguyễn Huệ lên tiếng. Trước sự ngạc nhiên của nó, Nguyễn Huệ nhếch môi, giọng lạnh như băng.
- Ta vốn nghĩ cô sẽ không tìm được đường ra mà chết đói ở trong rừng, nhưng không ngờ cô lại có thể quay trở về nhanh như vậy. Chẳng thà cô chết trong rừng, không liên quan đến ta, nhưng cô bị bệnh, chẳng may chết trong nhà ta, thì không được, thế nên ta nấu cháo và trà gừng để cô khỏi bệnh, tránh tai tiếng cho ta, thế thôi.
Với lời giải thích của Nguyễn Huệ, theo lẽ thường Linh Lan phải nổi giận, thế nhưng nó lại chỉ mỉm cười.
- Vậy là anh đã hết giận tôi rồi!
- …?
- Nếu anh còn giận tôi thì anh sẽ không nói chuyện, không để tâm đến tôi, không nhìn tôi vào mắt cơ, nhưng anh đã nói chuyện, thì là hết giận tôi rồi, đúng không? Nào nào, ăn thêm đi, đừng ăn ít vậy chứ, bỏ phí đồ ăn uổng lắm.
Những tưởng Linh Lan sẽ không chịu lép vế, mà tìm một câu nào đó thật cay độc để phản pháo lại, chứng tỏ mình không thua kém đối phương, thế nên khi Linh Lan vừa đáp vừa nhoẻn miệng cười, anh khá ngạc nhiên, tính nói rõ ràng mọi chuyện, nhưng lại thôi. Vốn đã không cho Linh Lan vào mắt, anh không hề giận chuyện nó làm úng hoa, mà chỉ buồn bởi những bông hoa đã bị úng và bức bối khó chịu vì sự yên tĩnh trong cuộc sống của mình bị khuấy động theo cách anh không làm chủ được. Thế nhưng thôi, chuyện đã qua thì anh cũng không nhắc đến làm gì, chỉ cần lần sau không có chuyện tương tự như thế xảy ra là được …
★ Chương 129
Từ khi chuyển đến sống tại nhà thầy giáo Hiến, ngoài sự kiện trọng đại là đi lạc trong rừng và nấu bữa cơm tạ lỗi, mối quan hệ giữa Linh Lan và Nguyễn Huệ cũng chẳng cải thiện được phần nào. Sau chuyện nó nấu thức ăn để xin lỗi anh về chuyện làm úng hoa, Huệ đã mặc nhiên để nó tự làm cơm lấy mà không cần phải nấu thêm một phần cho nó nữa. Cả hai tuy ở chung với nhau nhưng lại rất kiệm lời, mỗi khi anh ra vườn chăm sóc cây cỏ, Linh Lan lại lon ton theo phụ nhổ cỏ, vừa làm nó vừa hỏi này, hỏi nọ, nhưng mười câu hết chín câu là Nguyễn Huệ im lặng, câu còn lại là nụ cười chế giễu, mỉa mai mà chẳng hé môi lấy một lời. Sự im lặng và xa cách của anh khiến Linh Lan đành phải tính kế sách khác, vì kế hoạch thân cận này xem như đã thất bại rồi.
Tuy mối quan hệ giữa nó và Huệ không thay đổi, nhưng vẫn có một điểm sáng, đó là nó đã có thể êm ấm ngủ trên giường, còn Huệ thì nằm ngủ dưới đất lạnh. Trước nghĩa cử đó, ban đầu Linh Lan rất ngạc nhiên, nhưng khi nhớ đến những gì Huệ nói với nó vài hôm trước, sự ngạc nhiên ấy nhanh chóng qua đi. Huệ nhường giường cho nó, nguyên do là vì không muốn nó nằm dưới đất, cảm lạnh rồi lại phiền đến anh ta phải chăm sóc vì lỡ nó chết trong nhà thì anh phiền phức to, chứ nào có nghĩ tới nó gì cho cam.
Đêm qua đi, một ngày mới lại bắt đầu ở An Thái, ngay khi ánh mặt trời còn chưa chiếu xuống mái tranh vàng, thì Huệ đã trở dậy, vai vác rìu, lên rừng đốn củi. Không bỏ lỡ cơ hội, Linh Lan vội vàng xỏ giày bám theo anh. Tiếp cận mọi nơi mọi lúc và trong mọi hoàn cảnh, đó là phương châm mới của nó. Dẫu biết rằng hy vọng Huệ sẽ bộc bạch uẩn khúc giữa anh và Văn Bình cho nó là vô cùng mong manh, song nó vẫn muốn thử, bởi nó không tin rằng trên đời lại có người không bao giờ cần giải tỏa tâm sự của mình. Tuy tự tin là vậy, nhưng quen biết ít lâu, Linh Lan cũng cảm nhận được Huệ là người không phù hợp với hầu hết các quy chuẩn thông thường, cánh cửa tâm hồn anh ta, dường như đã then cài, cửa đóng cẩn thận, bao bọc anh trong một bức tường thép kiên cố, được dựng lên để ngăn cách với thế giới bên ngoài. Muốn phá được bức tường đó rất khó, nhưng sâu trong thâm tâm nó vẫn mơ hồ tin rằng một ngày nào đó, nó sẽ được biết những gì nó muốn biết, mọi bí mật sẽ được giải tỏa hay ít nhất nó cũng sẽ khám phá được đằng sau bức tường kiên cố ấy, Huệ là một người như thế nào.
Một ngày nào đó…
Chính xác là bao giờ mới đến?
Linh Lan tự hỏi, rồi lại tự thở dài, nhưng dù có bận rộn suy nghĩ đến đâu, nó cũng không quên ký hiệu trên những thân cây, nơi mà nó đi qua để chuyện bị thất lạc trong rừng không còn tái diễn. Lần này, nếu anh ta còn bỏ rơi nó, thì nó sẽ không chật vật như ban đầu nữa, mà có thể dễ dàng tìm thấy đường về nhờ những ký hiệu trên các thân cây này.
Đường mòn dài quanh co, khúy khủy, lại thêm phải cố bắt kịp tốc độ của Nguyễn Huệ, Linh Lan đi một hồi đã bắt đầu thấm mệt. Trong bụng nó còn đang tự hỏi không biết khi nào mới đến nơi, thì anh đã đột ngột dừng lại. Nhìn cánh rừng có những gốc cây bị chặt trước mặt, Linh Lan hiểu đó là nơi đốn củi quen thuộc của anh. Nhìn cũng hay, trong cánh rừng rậm rạp này lại có một nơi quang đãng như thế, gió hát, thông reo, khiến Linh Lan như quên đi bao mệt nhọc trong người.
Không quan tâm đến sự có mặt của Linh Lan, như trước nay vẫn vậy, Nguyễn Huệ bắt đầu công việc của mình. Cứ cách hai, ba ngày anh lại lên rừng một lần để lấy đủ số củi cần dùng và mang đổi lương thực cần thiết. Trong phút chốc, khu rừng im ắng xào xạc, tiếng rìu trầm, đục vang lên, thân cây rung rinh rồi nặng nề ngã xuống. Ngồi trên một gốc cây, nhìn Nguyễn Huệ đốn củi, từng giọt mồ hôi lăn trên trán, trong đầu Linh Lan thoáng qua một ý nghĩ, đó là lần sau lên rừng sẽ mang theo nước mát cho anh. Thế nhưng ý nghĩ đó vừa thoáng qua, Linh Lan đã dập tắt ngay, nó có lòng tốt mang theo nước cho Huệ, nhưng chắc gì anh đã uống chứ. Lòng tốt mà bị người ta phủ nhận lại còn quê hơn.
- Nè, anh còn nhớ câu đố lần trước tôi đố anh không. Bây giờ tôi đố anh câu khác dễ hơn nhé!
Ngồi ngọ nguậy trên gốc cây, hết nhìn Huệ đốn củi, rồi lại nhìn mây trắng trên cao, Linh Lan đâm chán. Nó lân la bắt chuyện với anh, cố đánh tan bầu không khí yên lặng này, dù rằng chỉ có nó là hỏi, còn anh thì chẳng bao giờ trả lời. Sao mà trên đời lại có người suốt ngày có thể không nói không rằng, tịch mịch, lặng lẽ, buồn tẻ mà sống như anh ta cơ chứ.
- Anh không trả lời tôi mặc nhiên là anh đồng ý nhé, vậy thì tôi đố đây. Trong làng nọ có một họa sĩ vẽ tranh rất giỏi, một ngày nọ, một lão trọc phú đến nhờ họa sĩ vẽ một bức tranh sư tử, treo lên cửa tiệm ăn mới khai trương của mình. Khi nói giá cả, người họa sĩ bảo nếu vẽ sư tử đứng bên cạnh cây thông thì năm mươi đồng một bức, nếu vẽ thêm sợi dây thì là một trăm đồng một bức. Thấy chỉ vẽ thêm sợi dây mà bức tranh mắc gấp đôi, tên trọc phú keo kiệt bảo họa sĩ chỉ vẽ sư tử đứng bên cạnh cái cây thôi. Đến hẹn, tên trọc phú đến lấy tranh, thấy bức tranh sống động như thật, tên trọc phú vô cùng vui mừng. Nhưng chỉ ngày hôm sau, tên trọc phú quay lại chỗ họa sĩ, ông ta chìa bức tranh ra, mắng rằng tại sao chỉ qua một đêm, con sư tử lại biến mất, lúc đó, họa sĩ vừa cười vừa trả lời. Vậy anh có biết họa sĩ trả lời thế nào không?
- Vì con sư tử không buộc dây, nên nó biến mất là lẽ dĩ nhiên!
Không đợi Linh Lan nói xong, Nguyễn Huệ đã trả lời luôn, điều đó khiến Linh Lan bất ngờ vì nó đố chỉ cốt yếu cho vui, chứ không nghĩ Huệ sẽ lên tiếng trả lời.
- Đáp đúng rồi, anh giỏi quá ta!!
Linh Lan vừa khen, vừa vỗ tay tán thưởng, hệt như người lớn khen trẻ nhỏ. Thấy Linh Lan hồ hởi như thế, Nguyễn Huệ không nói năng gì ngoài cái nhếch môi, mỉm cười.
- Ta đã trả lời xong thì cô cũng hãy im lặng, đừng quấy rầy ta. Nước sông không phạm nước giếng, ta đã không phiền cô thì cô cũng đừng phiền đến ta.
Nguyễn Huệ nói, nhưng tay vẫn tiếp tục đốn thân cây ra từng thanh củi, chứ không thèm lướt mắt nhìn Linh Lan dù chỉ một lần. Có thể nói từ trước tới nay, anh đã quen thao túng mọi việc, quen cách sắp xếp và bảo đảm tất cả mọi thứ đều vận hành trong tầm kiểm soát, quen sống một mình, quen với bóng tối yên tĩnh, thế rồi không một lời báo trước, Linh Lan đột nhiên xuất hiện, chen chân và can thiệp vào cuộc sống đó. Sự xuất hiện của cô ta không khiến anh khó chịu, cái làm anh khó chịu là anh không kiểm soát được cách suy nghĩ và những việc cô ta sẽ làm để khiến không gian riêng của anh bị xáo trộn. Anh đi đâu cô ta cũng bám theo, một tấc không rời, chẳng những thế mà còn ríu rít đủ thứ chuyện, khiến anh cảm thấy bực bội vì cô gái nhỏ này vô cùng phiền phức. Sao trên đời này lại có người như cô ta chứ, nói liên hồi, nói không biết mệt, không thể im lặng lấy một phút, cứ như thể không nói gì, không quấy rầy người khác thì cô ta sẽ buồn chán mà chết vậy.
Ban đầu, anh muốn sử dụng Linh Lan vì mục đích riêng của mình, nhưng cái cảm giác có một người chạm tay vào bức tường kiên cố anh đã xây nên, có những phát hiện và lời nói khiến anh để tâm, làm anh vô cùng khó chịu. Sự khó chịu đó cứ đeo bám anh dai dẳng, và mặc dù anh đã tỏ rõ thái độ, cô gái này vẫn không biết sợ là gì, vẫn bám theo anh, líu lo đủ chuyện, khuấy động sự tập trung của anh, chẳng hạn như lúc này. Nếu anh không trả lời, thờ ơ, chắc chắn cô gái ấy sẽ còn làm phiền anh suốt, chi bằng anh cứ trả lời, rồi mạnh ai nấy làm là xong. Anh có thể không để mắt, anh có thể xem cô ta là con sâu cái kiến, có thể mặc cô ta muốn làm gì thì làm, nhưng giác quan của anh thì không thế, tai anh vẫn nghe tiếng cô ta nói liên tục, mắt anh vẫn nhìn thấy cô ta bày trò. Đối với những người có lý lẽ, anh có thể dễ dàng kiểm soát, nhưng với những người ương bướng, ngang ngược và gan lì như cô gái này, anh lại chịu thua. Trước sự nhũng nhiễu của cô gái ấy, anh phải chịu đựng, nhưng sự chịu đựng của anh chỉ có giới hạn, chứ không thể vô hạn như bản thân anh đã từng dự liệu. Rốt cuộc thì anh còn có thể và còn phải chịu đựng tới bao giờ, còn hắn ta, lúc nào mới chịu xuất hiện đây.
Những suy nghĩ đó của anh, chẳng biết Linh Lan có phát hiện ra không, mà chỉ biết trước yêu cầu đó, đôi mắt đen láy của nó hấp háy. Linh Lan nói, giọng trở nên tinh ranh.
- Được được, nếu tôi đã làm phiền anh đến thế, thì tôi xin lỗi. Nhưng tôi còn một câu đố cuối cùng thôi, nếu anh trả lời được, từ đây trở về sau, tôi sẽ không bao giờ làm phiền tới anh nữa, hứa danh dự với anh luôn!
- ….?
- Anh không nói gì tức là đồng ý. Được, vậy tôi đố anh, trên thế gian này, cái gì gầy nhất và cái gì béo nhất?
Ngay khi Linh Lan đố xong, Nguyễn Huệ đã biết câu đố này anh không trả lời được, bởi vì câu đố quá rộng, có đưa ra bao nhiêu đáp án Linh Lan vẫn sẽ bác bỏ, mà anh thì lại không muốn dây dưa nhiều với cô gái này. Nếu thế thì cô ta sẽ tiếp tục làm phiền anh, quấy rầy anh, không chịu thôi cho đến khi anh có được câu trả lời…
Nghĩ đến đó, gương mặt sương gió của Nguyễn Huệ trở nên lạnh băng, anh lặng thinh, tiếp tục đốn củi, và rồi chất lại thành bó, vác lên vai trở về nhà. Thấy Nguyễn Huệ hoàn thành xong công việc, Linh Lan mỉm cười, nó ung dung đứng lên và theo anh về nhà. Trên đường đi, Linh Lan không ngừng cười thầm, trông nét mặt của Huệ, nó biết chắc rằng anh sẽ không tìm ra được đáp án vì câu hỏi quá rộng, còn nếu tìm ra được thì cũng không phải lúc này. Trong thời gian đó nó phải nhanh chóng nghĩ ra cách để tìm hiểu sự thật giữa anh và Văn Bình đã xảy ra chuyện gì, chứ nếu Huệ mà nổi giận lên, đuổi nó đi thì cũng coi như xong.
Trong khi Linh Lan đang mải suy nghĩ, thì Nguyễn Huệ đang rảo bước bất chợt dừng lại đột ngột, khiến nó suýt nữa đâm sầm vào lưng anh. Đương lúc Linh Lan ngơ ngác, không hiểu tại sao anh bất chợt dừng lại, thì bó củi trên vai đã bị vất xuống đất, còn bản thân anh tung người lên cao, hứng lấy thứ gì đó đang rơi, và đáp xuống mặt đất một cách an toàn. Nâng niu một cách dịu dàng, trong đôi tay anh là một chú chim xấu xí. Bước tới để nhìn cho rõ, Linh Lan nhíu mày khi nhận ra đó là một chú chim non nhỏ xíu, yếu ớt, có vẻ như vừa mới chui ra khỏi vỏ thôi. Đảo mắt lên cây cao, Linh Lan trông thấy một tổ chim lớn, dường như anh chàng này rơi từ tổ xuống dưới đất, phước lớn mạng lớn còn sống sót. Nó tự hỏi chẳng hiểu chú chim này làm gì để từ trên cao rớt xuống như thế, nếu không có Huệ, chắc chắn chú ta tiêu đời rồi.
Xem xét chú chim thoi thóp thở trong lòng bàn tay, Nguyễn Huệ nhìn lên tổ chim, trong phút chốc, đôi mắt u tối của anh thẫm lại, một mảnh sao băng rơi nhòa trong mắt, anh yên lặng, bàn tay nắm hờ. Thấy Nguyễn Huệ nhặt được chú chim con lên, Linh Lan những tưởng anh sẽ leo lên cây đặt chú ta lại vào tổ, nào ngờ Nguyễn Huệ lại ve vuốt chú chim nhỏ, cho nó vào ngực áo, ủ ấm, rồi tiếp tục rảo bước xuống con đường mòn dẫn về nhà chứ không hề có ý định trả nó về tổ cũ, hành động của anh khiến Linh Lan vô cùng khó hiểu và ngạc nhiên. Gì đây, đừng nói là anh ta thích chú chim ấy, nên đem về nhà chơi, không đến nỗi bá đạo mà muốn chia lìa tổ ấm của chú chim ấy chứ.
- Nè, sao anh không trả con chim ấy về chỗ cũ, nó còn nhỏ mà.
- …
- Tôi nói anh có nghe không, dù anh thích nó cỡ nào, thì cũng không thể chia cắt nó với gia đình. Không ai có thể chăm sóc nó tốt bằng mẹ nó được. Tôi thấy anh nên đưa con chim ấy về tổ đi!
Cho dù Linh Lan đã hết lời khuyên răn, ngăn cản, cũng như thuyết phục Huệ đem trả chú chim về tổ, nhưng anh vẫn điềm nhiên rảo bước, tựa như không nghe thấy gì. Chim mẹ mất con, chắc chắn sẽ rất lo lắng, sẽ quýnh lên và đi tìm khắp nơi, nhưng bây giờ nó không thể làm gì hơn được vì luận về sức vóc, võ nghệ nó còn lâu mới đương lại nổi Huệ. Đáng ghét, Linh Lan hậm hực, nó không nói thêm câu nào nữa, bụng nảy ra một quyết định táo bạo, nếu như anh không làm, thì đích thân nó sẽ “thế thiên hành đạo” vậy.
Nguyên cả ngày hôm đó, Linh Lan luôn để mắt đến chú chim nhỏ, nó thấy Huệ chăm sóc cho chú chim rất cẩn thận, từ lót ổ rơm cho đến bón thức ăn, những điều ấy khiến Linh Lan thấy lạ. Khi anh chăm nom cho chú chim, anh rất cẩn thận, nét mặt rất dịu dàng, đôi mày kiếm luôn chau lại nay giãn ra, nhẹ nhõm, khiến Linh Lan cảm thấy đối với chú chim, dường như Huệ có sự đồng cảm vô hình nào đó. Lần đầu tiên thấy biểu hiện ấy của Huệ, Linh Lan rất ngạc nhiên. Ở bên cạnh anh tuy không nhiều, nhưng cũng đủ để nó chứng kiến các mặt của anh, từ một vị tướng hiên ngang trên chiến trường, cho đến một người dân thôn dã bình thường, từ bàn tay cầm thanh kiếm nhuốm máu lính Nguyễn nay lại cẩn thận chăm bón thức ăn cho chú chim nhỏ, hai hình ảnh đối lập nhau hoàn toàn ấy khiến Linh Lan không khỏi suy nghĩ. Nhưng, nói gì thì nói, tách chú chim ấy khỏi gia đình của nó là không được, với cái cách anh chăm sóc cho chú chim, ắt hẳn anh rất thích nó, mà đã yêu quý thì những chuyện đó anh phải hiểu hơn ai hết chứ.
Tuy nhìn thấy giữa Huệ và chú chim ấy như có sự quyến luyến, vì chú chim ấy tựa như có linh tính, biết ai là người chăm sóc nó, nên mỗi khi Huệ tới gần, nó đều cạ đầu vào tay anh, nhưng gia đình vẫn là trên hết. Nó là người đang xa nhà nên hiểu rất rõ nỗi cô đơn đó. Không muốn Huệ tách rời chú chim với gia đình, Linh Lan quyết định sáng mai sẽ lén Huệ đem trả chú chim đó về tổ cũ. Sỡ dĩ nó quyết định sáng mai, bởi vì lúc ấy, Huệ sẽ đem số củi vừa chẻ được ra chợ làng để đổi lấy thực phẩm, rau củ. Nhân cơ hội anh ta không có nhà, nó sẽ đem chú chim ấy lên rừng, trả về tổ cũ, và nếu Huệ có biết thì chuyện cũng đã rồi.
Với quyết định ấy, Linh Lan tự mỉm cười hài lòng, cả ngày hôm ấy nó hành động như bình thường, để anh không nghi ngờ. Sáng hôm sau, ngay khi Huệ ôm bó củi rời khỏi nhà, Linh Lan cố chờ thêm một lúc nữa phòng anh đột ngột quay trở về. Cho đến khi chắc chắn Huệ đã đi khỏi, Linh Lan mới ôm lấy cả tổ rơm mà Huệ đã lót cho chú chim nằm, nhanh chóng men theo con đường cũ để lên rừng.
Do không thông thuộc đường lối, vừa đi vừa lần mò các ký hiệu để lại, nên quá trưa Linh Lan mới tới được đúng cái cây nơi chú chim đã rơi xuống. Ngước nhìn thân cây cao chót vót, Linh Lan nheo mắt khi thấy tổ chim ngự ở trên cao. Cúi nhìn chú chim con đang nằm trong ổ rơm, Linh Lan mỉm cười.
- Thế là mày sắp về với mẹ rồi đấy, vui không bé con.
Tháo sợi dây thắt lưng của mình ra, Linh Lan cẩn thận quấn tổ rơm ngang hông, rồi nhẹ nhàng leo lên cây, tránh làm kinh động đến chú chim. Vì tổ chim khá cao, Linh Lan tốn khá nhiều thời gian và vất vả lắm mới leo lên đến nơi. Tổ chim lúc này chỉ có một chú chin non khác đang đợi mẹ săn mồi trở về. Có lẽ đây là anh em sinh đôi của chú chim nhỏ, thế nhưng vì được mẹ chăm sóc nên trông nó cứng cáp, to lớn và khỏe mạnh hơn rất nhiều. Đã bảo không ai có thể chăm sóc tốt chim non như mẹ nó mà anh ta không nghe. Vừa mắng thầm Nguyễn Huệ, Linh Lan từ tốn bế chú chim non, đặt vào trong tổ với sự nhẹ nhàng rồi mỉm cười vì việc tốt mà mình vừa làm được.
Những tưởng khi tìm lại được chim con bị thất lạc, chim mẹ trở về phải rất vui mừng, nào ngờ, còn chưa kịp chứng kiến cảnh đoàn tụ cảm động đó thì đột ngột, chú chim trong tổ đã ra sức tấn công chú chim nhỏ, ép nó ra tận vành tổ và hất tung chú chim nhỏ xuống đất, một lần nữa.
Trông thấy sự việc quái lạ đó, Linh Lan kêu lên, tính chụp chú chim con lại nhưng không kịp nữa rồi. Những tưởng chú chim sẽ bỏ mạng khi rơi từ trên cao xuống, đôi mắt bất lực của Linh Lan mở to, khi trông thấy một bóng người vọt lên, hứng lấy chú chim nhỏ rồi hạ cánh an toàn. Dù ở trên cây cao, nhưng với tà áo đen như biển đêm ở phía dưới, Linh Lan thở phào nhẹ nhõm khi biết đó chính là Nguyễn Huệ. Đưa mắt nhìn con chim non đang thản nhiên chim chíp chờ mẹ về cho ăn, chẳng mảy may đoái hoài đến đứa em bất hạnh mình đã hất xuống, Linh Lan phừng phừng lửa giận. Gia đình kiểu gì thế này, sao lại có thể hất em mình khỏi tổ một cách nhẫn tâm như vậy chứ. Linh Lan rủa thầm, nó mím môi mím lợi trèo xuống, lòng không ngừng mắng mỏ con chim ác độc, ham ăn kia.
Khó khăn mới leo xuống được dưới đất, Linh Lan ngồi phệt xuống đất, thở dốc, vừa thở, nó vừa nhìn Nguyễn Huệ. Với việc vừa xảy ra, nó những tưởng Huệ sẽ mỉa mai, hay mắng nó vì tội tự ý hành động mà chưa được sự cho phép của anh, nhưng không, Huệ vẫn không nói câu nào, cũng chẳng nhếch môi chế giễu. Đôi mắt u tối của anh chợt trở nên u uất, quyến luyến và xót thương, những cảm xúc ấy chuyển động trong đôi mắt anh, dồn dập như sóng vỡ bờ. Bao nhiêu cảm xúc câm lặng trào dâng nhưng không thốt thành lời, khiến Linh Lan cảm thấy mình có lỗi, nhưng lại không hiểu rốt cuộc mình đã làm sai điều gì.
- Tôi.. Tôi không hiểu. Đây là loại chim gì vậy, tôi chỉ là muốn trả chú chim non về với gia đình của nó, nhưng không ngờ con chim kia lại hất em mình xuống đất. Tại sao lại thế? Có phải lần trước cũng là nó làm chuyện đó không?
Linh Lan ngơ ngác hỏi, cho đến bây giờ nó vẫn còn chưa hết bàng hoàng về những gì vừa mới xảy ra. Câu hỏi ấy, Huệ không trả lời, những nét lãnh cảm trên gương mặt anh dần mềm lại khi nhìn chú chim con đang run rẩy trong lòng bàn tay mình.
- Sinh mạng này, lẽ ra không nên tồn tại!
Lâu thật lâu, Huệ mới nhẹ giọng trả lời, giọng nói của anh rất lạ, như chất chứa sự bi ai. Đó không phải là câu trả lời dành cho nó, Linh Lan biết như thế, và nó cũng cảm thấy rằng Huệ không nói về chú chim, mà dường như là đang nói về bản thân mình. Nói về bản thân, không buồn, không vui, không rạch ròi, vô tình như cái cách hành xử của mình, mà lại chất chứa bi ai.
Sinh mạng này lẽ ra không nên tồn tại?
Nếu nói về bản thân mình, chẳng lẽ Huệ tự nhận rằng mình không nên có mặt trên thế gian này hay sao? Kì lạ, hết sức kì lạ, chẳng phải anh ta giam giữ Văn Bình là vì muốn thân xác này, muốn được tồn tại hay sao, vậy tại sao lại thốt lên câu nói này?
Sau khi thốt ra câu ấy, Huệ không nói thêm gì nữa, cũng chẳng lớn tiếng trách mắng gì về việc Linh Lan đã tự tiện đem trả chú chim về chỗ cũ, khiến chú chim suýt mất mạng nếu không có anh. Trên đường trở về nhà, Linh Lan đi bên cạnh Nguyễn Huệ nhưng cả hai không nói với nhau câu nào mà chỉ yên lặng rảo bước, cho đến khi trở về nhà.
Sáng hôm sau, Linh Lan khăn gói trở về Quy Nhơn.
★ Chương 130
Mặt trời vừa mới hé dạng qua đám mây mù trên đỉnh núi xa, trong khi đội nữ binh còn đang say ngủ thì Bùi Thị Xuân đã nhanh chóng thức dậy, tay với lấy thanh kiếm đặt gần đầu giường để ra bãi sau luyện tập. Từ dạo Long Nhương tướng quân bị Tây Sơn vương thu lại binh quyền, binh lính đều phải tích cực luyện tập, vì tiết chế Nguyễn Lữ ráo riết theo dõi tình hình trong trướng, chấn chỉnh quân đội, cũng như đảm nhiệm lại tất cả công việc trước kia của tướng quân.
Đường vào bãi luyện tập vẫn còn chưa sáng hẳn, từng con gió lạnh sớm mai se sắt khiến Xuân hơi rùn mình. Bước chân đến cánh cổng của bãi tập, Bùi Thị Xuân nhẹ nhàng mở cửa ra, để rồi sau đó đôi mắt cô nhướng lên khi nhìn thấy bóng dáng một người đứng lặng yên trong đó từ bao giờ.
Tuy người đó đứng quay lưng về phía cô, nhưng với mái tóc buộc cao, dải lụa hồng bay phơ phất trong gió, Xuân biết ngay đó không ai khác chính là Linh Lan. Có vẻ như không biết Xuân đang nhè nhẹ bước về phía mình, Linh Lan vẫn đứng lặng yên nhìn những tán đa cổ thụ xòe rợp bóng mát, đôi mắt đen láy đăm chiêu như đang nghĩ ngợi gì đó, cho đến khi nghe thấy tiếng cười khẽ ở phía sau, Linh Lan mới giật mình quay lại. Nét mặt khẩn trương của nó liền dịu xuống khi nhận ra đó là Bùi Thị Xuân.
- Cô Nhạn, cháu tưởng giờ này cô còn ở An Thái chứ? Sao lại quay về Tây Sơn sớm thế? Tướng quân đâu?
Nhẹ đưa tay cài lọn tóc bị gió làm rối qua vành tai, Linh Lan mỉm cười khi nghe Xuân hỏi, đồng thời nó vẫn bối rối mỗi khi Xuân gọi mình là “cô”. Nó đã nói với Xuân về việc này rất nhiều lần, rằng nó nhỏ tuổi hơn cô, đừng gọi cô xưng cháu nghe rất kỳ. Nó nói, Xuân cười, rốt cuộc cô vẫn không bỏ được thói quen xưng hô ấy. Riết Linh Lan cũng không nhắc đến nữa làm gì.
- Vâng, lẽ ra giờ này em vẫn còn đang ở An Thái, nhưng mà… Có một chuyện bấy lâu nay em vẫn thắc mắc, để hoài trong lòng không được nên bây giờ muốn hỏi chị một lần cho xong.
- Chuyện gì thế?
Thấy nét mặt Linh Lan bỗng trở nên nghiêm trang, Bùi Thị Xuân biết nó sẽ hỏi chuyện quan trọng, nên cô thôi không cười nữa. Đan hai tay vào nhau, Linh Lan ngập ngừng, không biết phải mở lời với Xuân như thế nào. Hôm trước ở An Thái, sau khi nghe Nguyễn Huệ nói câu ấy trông vô cùng bi ai, Linh Lan đã suy nghĩ rất nhiều. Biết có hỏi trực tiếp Nguyễn Huệ cũng chỉ là viên sỏi ném xuống mặt hồ, nhưng không thể để những thắc mắc ấy cứ lởn vởn trong đầu, không cách nào xua tan, Linh Lan quyết định rời khỏi An Thái, trở về Tây Sơn để tìm người hỏi cho ra nhẽ. Nó đã từng hỏi Lân chuyện này, nhưng anh gia nhập Tây Sơn không đủ lâu để biết hết mọi thứ, thế nên quanh đi quẩn lại, nó thấy khả thi nhất là hỏi Bùi Thị Xuân trong đội nữ binh. Dù sao, Xuân cũng là con cháu Bùi gia, mà Bùi gia không chỉ tham gia khởi nghĩa ngay từ đầu mà còn có quan hệ thông gia với Văn Bình, những chuyện xảy ra từ trước tới nay của anh, có thể Xuân không thông hết nhưng chắc cũng biết được đôi phần. Nếu tìm hiểu mọi chuyện từ Xuân, cộng thêm những hiểu biết của nó, xâu tất cả các chuỗi sự kiện lại, thì những thắc mắc của nó sẽ dần sáng tỏ, chứ không còn mù mờ như ban đầu.
- Ừm. Em chỉ muốn hỏi về chuyện của tướng quân thôi.
- Chuyện của tướng quân?
- Vâng! Là chuyện của tướng quân. Ở bên cạnh anh ấy lâu rồi mà em không biết gì nhiều về anh ấy cả. Chị cũng biết rồi đó, ảnh vốn kín tiếng, có hỏi cũng không nói, thế nên em muốn hỏi xem chị có biết được chuyện ngày xưa của anh ấy không đó mà. Với lại, em để ý, hình như trong quân chỉ có một mình em gọi anh ấy là Văn Bình, chị có biết cái tên này có ý nghĩa thế nào với anh ấy không?
Linh Lan vừa nói xong, Bùi Thị Xuân liền à một tiếng. Cô nhìn Linh Lan, tủm tỉm cười khiến nó đỏ mặt. Thật ra, Linh Lan và Văn Bình cũng không có gì ngoài tình cảm anh em bình thường, nhưng người ngoài cuộc thì lại không nghĩ thế, điển hình như Xuân. Thấy Linh Lan và tướng quân đi đâu cũng có nhau, và ngoài các thuộc tướng thân cận như Lân ra, chỉ có duy nhất Linh Lan là ra vào thư phòng của tướng quân dễ dàng như thế, rồi nó còn được đích thân tướng quân rèn luyện, chuyện chưa từng có trước đây bao giờ. Nhìn thấy tình cảm của hai người tốt đẹp như vậy, Bùi gia cũng hy vọng Linh Lan và tướng quân sẽ là một đôi, vì dù sao Liên cũng đã qua đời, Linh Lan sẽ thay Liên chăm sóc tướng quân, đôi bên sẽ tiếp tục mối quan hệ thông gia tốt đẹp. Vốn chuyện tình cảm này không thể ép buộc, nhưng nay, nếu Linh Lan đã có ý muốn tiến tới, thì chuyện nó tìm hiểu tướng quân cũng là lẽ dĩ nhiên thôi.
- Cháu còn tưởng cô hỏi gì, thì ra là chuyện của tướng quân. Được rồi, nhân lúc bãi luyện tập chưa có người, trời hãy còn sớm, cháu sẽ kể cho cô nghe những gì cháu biết về tướng quân!
Nghe Xuân hứa hẹn, Linh Lan mừng rỡ, nó vội nắm tay cô ngồi xuống tảng đá gần đó. Trước sự nôn nóng của Linh Lan, Bùi Thị Xuân mỉm cười, cô bắt đầu hồi tưởng lại những chuyện đã qua, rồi chậm rãi kể, giọng như vọng về từ chốn xa xôi.
- Chuyện về tướng quân, cháu cũng không biết rõ lắm, do không tiếp xúc với tướng quân nhiều được. Dẫu Bùi gia và gia đình tướng quân có qua lại, nhưng nghe nói, tướng quân từ bé đã không ở đây mà theo học ở An Thái, ngài ấy chỉ trở về đây khi Tây Sơn dựng cờ khởi nghĩa. Ngoài tiết chế Nguyễn Lữ, Tây Sơn vương và những chị em khác ra, tướng quân còn có một người anh song sinh, đó là Văn Bình, chính là cái tên mà cô thắc mắc đó. Họ là anh em sinh đôi, cùng nhau xa nhà theo học ở An Thái trong suốt một thời gian rất dài. Cháu nghe nói, họ trông vô cùng giống nhau, quan hệ giữa họ cũng rất tốt, hai anh em tướng quân rất quan tâm, gắn bó và chăm sóc lẫn nhau.
Nghe Xuân kể đến đây, trái tim Linh Lan đã bắt đầu đập thình thịch. Trong đầu nó có rất nhiều câu hỏi, nhưng trước mắt phải tập trung vào những gì xuân tiết lộ trước đã.
- Do Bùi gia và gia đình tướng quân có quan hệ tốt, Bùi gia còn là người ủng hộ và chu cấp lương thực cho Tây Sơn trong thời điểm khó khăn ban đầu, nên Tây Sơn vương và Bùi công đã quyết định tăng thêm mối giao tình gắn kết bằng cách kết thông gia qua việc hứa hôn cho cô Liên trở thành vợ của Văn Bình. Nhưng vào thời điểm đó, vợ trước của anh Văn Bình, mẹ của Quang Thùy vừa mới mất, nhà đang có tang nên chuyện hôn sự đành gác qua một bên, đợi tang sự hoàn tất rồi mới tính đến.
Thế nhưng mọi chuyện không ai có thể đoán trướng được. Trận đánh Gia Định năm ấy, do tướng quân và anh trai mình cầm quân nhưng kết quả thu được không như mong đợi, đã để Nguyễn Ánh chạy thoát. Và cũng từ đó, mối quan hệ của hai anh em tướng quân trở nên rất căng thẳng. Chuyện sau đó cụ thể thế nào thì cháu cũng không được biết rõ lắm, chỉ biết rằng anh trai của tướng quân đã qua đời trong một tai nạn thương tâm xảy ra giữa hai anh em họ. Hôn sự vì thế đã được chuyển sang cho tướng quân, vì cả tướng quân và cô Liên đều không phản đối. Tai nạn đó, không một ai muốn nhắc đến, thế nên nó dần dần trở thành điều cấm kị và bị lãng quên, không ai nhớ rõ đã xảy ra chuyện gì, và trong quân cũng không còn ai nhắc đến cái tên Văn Bình này trước mặt tướng quân nữa. Dần dần, mọi thứ về Văn Bình đều bị lãng quên, không còn ai nhớ đến nữa, cũng không ai hỏi thăm, trừ cô ra.
Bùi Thị Xuân vừa hỏi xong, liền nhìn sang Linh Lan, ánh mắt tỏ vẻ ngạc nhiên khi thấy nó ngồi bất động, gương mặt trơ ra, không có cảm xúc nào. Thấy bộ dạng Linh Lan như thế, Xuân vô cùng lo lắng. Cô vội nắm lấy tay Linh Lan, bóp nhẹ, khiến nó choàng tỉnh. Thấy Xuân lo lắng cho mình, Linh Lan cười gượng, nó muốn nói câu gì đó trấn an Xuân, nhưng nhất thời vẫn chưa mở miệng được vì có biết bao cảm xúc lẫn lộn trong lòng.
- Cô nhạn, cô không sao chứ? Nhìn sắc mặt cô khó coi lắm!
- À… em… không sao, chị đừng lo. Thôi, nhân lúc trời còn sớm, em phải đi đây.
- Cô đi đâu?
- Về An Thái.
- Sao? Cô vừa từ đó trở về mà.
Nghe Linh Lan đột xuất muốn trở về An Thái, Xuân thốt lên một tiếng kinh ngạc. Nhìn hành lý trên vai Linh Lan, cùng mái tóc đẫm sương, đủ biết nó vừa từ An Thái về đã đến tìm cô ngay. Đường xa mệt nhọc, về đến nơi còn chưa kịp nghỉ ngơi, chẳng hiểu vì lý do gì lại muốn quay trở lại An Thái, chẳng lẽ tướng quân đã xảy ra chuyện gì không hay sao.
Trước sự ngạc nhiên của Xuân, Linh Lan lên tiếng trấn an.
- Em về An Thái là có việc riêng thôi, không sao đâu chị. Chị đừng nói với ai là em đã đến tìm chị nhé.
Khi Linh Lan nói câu ấy, mặt nó lộ vẻ khẩn thiết, Xuân thấy thế cũng chỉ gật đầu mà không hỏi thêm gì. Ngồi nán lại hỏi tình hình trong đội nữ binh dăm câu, Linh Lan đứng lên xốc hành lý lên vai và cáo từ Xuân để quay về An Thái. Trước lời bảo trọng sức khỏe của Xuân, Linh Lan vô cùng cảm động. Ngay từ lần gặp mặt đầu tiên, giữa một nơi xa lạ, Xuân đã cho nó cảm giác ấm áp của một người chị cả. Nắm chặt tay Xuân, Linh Lan gởi lời hỏi thăm sức khỏe đến Bùi công và mọi người trong Bùi gia, rồi quay đi, để lại sau lưng ánh mắt lo lắng của Xuân dõi theo cho đến khi nó khuất dạng sau lũy tre xanh rì rào.
Tiếng vó ngựa phi lộp cộp trên mặt đường, dải lụa hồng bay trong gió, Linh Lan nắm chặt dây cương trong tay, giục con tuấn mã lướt như bay về phía trước. Câu chuyện Xuân kể không ngừng vang lên trong đầu nó, khiến nó ngỡ như mình đang đi trong sương mù, không cách nào thoát ra được. Cứ ngỡ rằng nghe Xuân kể, ít gì mọi chuyện cũng sẽ có cơ may được sáng tỏ, thế nhưng càng nghe, đầu óc nó càng quay cuồng, càng cảm thấy hoang mang vì những gì vừa khám phá ra.
Văn Bình và Nguyễn Huệ
Người có hôn sự với Liên là Văn Bình, Văn Bình đã qua đời nên mới đổi lại cho Huệ.
Nhưng người còn sống rõ ràng là Văn Bình, Nguyễn Huệ mới là người đã chết, vậy thì tại sao Văn Bình lại phải lấy tên là Nguyễn Huệ, sống cuộc đời của người khác mà không phải của mình, chấp nhận bị lãng quên, bị phủ nhận?
Anh trai của tướng quân đã qua đời sau một tai nạn thương tâm của hai anh em…
Ráp lại mọi chuyện đã xảy ra thì người qua đời trong tai nạn đó là Nguyễn Huệ chứ không phải Văn Bình. Vậy thì tai nạn đó là gì? Có liên quan đến Văn Bình hay không? Nếu không, tại sao anh phải từ bỏ danh tính và thân phận, chấp nhận trở thành người khác, sống một cuộc đời khác? Còn Nguyễn Huệ, tại sao anh ta lại phải chết? Mà nếu đã chết, chẳng lẽ vẫn còn có niềm oán hận hay tâm nguyện gì lớn đến nỗi anh ta không thể siêu thoát, mà quay trở lại, trú ẩn trong thân xác Văn Bình? Rốt cuộc thì, anh ta muốn làm gì? Đang chờ đợi điều gì?
Tại sao?
“Sinh mạng này, lẽ ra không nên tồn tại”
Trong phút chốc, Linh Lan tưởng chừng như nghe được giọng nói bi ai của Nguyễn Huệ thì thầm bên tai. Ánh mắt đau buồn, thương xót đó, khiến Linh Lan không thể nào quên. Nếu anh muốn trừng phạt Văn Bình vì đã gián tiếp hay trực tiếp gây ra cái chết của anh, thì anh đã có vô vàn cơ hội để làm điều đó. Nhưng không, từ đầu cho đến bây giờ, Linh Lan đã nhận ra ẩn sau sự việc này dường như đang có điều gì đó rất bất thường xảy ra. Đằng sau bóng tối có gì? Đằng sau sự lạnh lùng, gương mặt hoang tàn, ánh mắt giễu cợt ấy đang che giấu những gì?
“Sinh mạng này, lẽ ra không nên tồn tại”
Nếu đã ý thức như thế, tại sao Huệ lại còn quay trở lại? Anh đã biết mình không nên tồn tại, cớ sao vẫn tồn tại, như đang nhẫn nhịn, như đang gánh chịu một điều gì đó, rất to lớn, nên bất chấp bản thân mình không nên tồn tại mà vẫn xuất hiện trở lại như thế?
Ngẫm lại, Nguyễn Huệ luôn xuất hiện vào những lúc Văn Bình yếu đuối nhất, luôn khiến Văn Bình phải gồng mình chiến đấu để kiềm chế anh ta, luôn nói rằng sẽ hủy hoại mọi thứ mà Văn Bình quan tâm hay xây đựng. Nhưng mọi hành động của anh ta dường như không hoàn toàn như vậy. Khoan đã, có thật là anh ta lợi dụng những khi Văn Bình yếu đối nhất để tấn công và chiếm đoạt thân xác đó, hay là…. Hay là anh ta xuất hiện vào những lúc Văn Bình yếu đuối nhất, dễ bị tổn thương nhất… chính là để bảo vệ Văn Bình, thay Văn Bình làm những việc anh không làm được vào lúc đó?
Nghĩ đến đây, đôi mắt Linh Lan mở to, bàn tay nắm chặt dây cương của nó run run. Nếu như, nếu như nó không suy nghĩ theo lối thông thường, không suy nghĩ như những gì đã thấy, mà suy nghĩ theo một cách khác, một lối khác không bình thường thì sao?
Vì một tai nạn nào đó mà Nguyễn Huệ đã chết, và Văn Bình chính là người đã gây ra cái chết của huệ, dù là gián tiếp hay trực tiếp. Anh em sinh đôi, chỉ có lí do kinh khủng này mới khiến Văn Bình đau đớn đến mức phải từ bỏ bản thân mình, quên đi mình là Văn Bình để sống dưới danh phận của Nguyễn Huệ, sống như một người đã chết…
Thay vì nghĩ Huệ oán hận Bình…
Tại sao lại không nghĩ Huệ rất yêu thương Bình…
Yêu thương đến nỗi vì anh trai, mà bất chấp việc bản thân không nên tồn tại mà xuất hiện, để bảo vệ Văn Bình vào những lúc anh yếu đuối nhất, thay anh hoàn thành những gì anh chưa làm được….
Họ là anh em sinh đôi…
Hai anh em tướng quân…
…rất yêu thương, quan tâm, chăm sóc lẫn nhau…
Khoác lên thân phận của Nguyễn Huệ, khi nghe người khác gọi tên Huệ, nhìn nhận mình là Huệ, để bản thân mãi mãi bị chôn vùi trong quá khứ và lãng quên, Văn Bình đã nghĩ như thế nào?
Sống trong thân xác Văn Bình, nghe người khác gọi tên mình, nhìn nhận mình, nhưng mãi mãi không còn cơ hội sống cho bản thân mình, là chính mình, Huệ có cảm giác ra sao?
Sinh mạng này…
Lẽ ra không nên tồn tại.
Tiếng ngựa hí vang lồng lộng khi sợi dây cương bất thần giựt mạnh, con tuấn mã tăng tốc, lướt nhanh về phía trước như một tia chớp. Rạp mình trên lưng ngựa, Linh Lan mím môi. Không biết có phải do bụi hay không mà đôi mắt Linh Lan đỏ hoe.
Tiếng gió thổi thốc bên tai
Làn tóc rối lòa xòa trong gió…
Tiếng vó ngựa thúc giục trên mặt đất, kéo thành vệt bụi dài, hướng về phía An Thái xa xa…
★ Chương 131
“Tại sao là sinh đôi, nhưng em lại phải làm em mà không được làm anh?”
“Bởi vì em toàn làm chuyện khiến anh phải lo lắng mà thôi”
Vầng thái dương trên An Thái chầm chậm nhô ra khỏi sườn núi. Đứng từ chân đồi nhìn về phía chân trời bao la, đôi mắt u tối của Nguyễn Huệ như sáng lên, khi thu vào mắt tia nắng lấp lánh đầu tiên của mặt trời.
Mây trắng trên đầu lãng đãng trôi, gió thổi thì thầm qua tà áo. Nguyễn Huệ cứ đứng yên ở đó, bất động như một pho tượng, cứ để thời gian trầm mặc trôi. Bỗng từ chân đồi, có tiếng cười giòn dã cất lên, thấp thoáng sau lũy tre, hai đứa bé trai kháu khỉnh đang cùng nhau chơi đuổi bắt. Đứa bé mặc áo nâu chạy vụt lên chân đồi, vừa chạy vừa ngoái lại le lưỡi trêu chọc đứa bé áo xám phía sau, thế nên trong phút bất cẩn, đã tông sầm vào Huệ, ngã lăn ra bãi cỏ như một con quay.
Đang cố đuổi theo đứa bé áo nâu, đứa bé áo xám tái mặt khi thấy một người đàn ông cao lớn, vạm vỡ, gương mặt phong trần đang nhìn đứa bé áo nâu trừng trừng. Vội đỡ lấy đứa bé áo nâu, đứng che trước mặt nó rồi nói.
- Xin lỗi ông.
Thấy Huệ tuyệt nhiên không nói gì, vẫn nhìn trừng trừng vào cả hai, đứa bé áo xám thu hết can đảm, đứng giang hai tay, chắn trước mặt Huệ, rồi run rẩy nói từng lời…
- Ông… ông không được la mắng em tôi! Có gì thì mắng tôi đây này!!
Chớp mắt nhìn đứa bé áo xám trước mặt, đôi mắt u tối của Huệ khẽ lấp lánh, anh nhướng mày, cất giọng chế giễu.
- Ngươi có biết ta là ai không? Ngươi không sợ ta sẽ róc thịt, lột da, bẻ xương hay sao?
Nghe những bạo hình kinh khủng giành cho mình, mặt đứa bé không còn hột máu, đôi tay gầy gò run lên bần bật.
- Tôi….tôi không…sợ đâu. Ông muốn…làm gì tôi….cũng được, chỉ cần….tha cho em…tôi! Tôi…sẽ chết thay….cho nó!
Đang nấp sau lưng đứa bé áo xám, khi nghe anh mình sẽ bị róc da, xẻ thịt, đứa bé áo nâu sợ quýnh lên, vội níu lấy tay anh mình, khóc òa.
- Không…. em sẽ chết thay cho anh. Anh không được chết!!!
- Đồ ngốc, khóc gì, em là em trai anh, anh phải bảo vệ em!
- Vậy thì em sẽ làm anh của anh, em sẽ chết thay anh! Anh mà chết, em sẽ rất buồn, em sẽ khóc. Thế nên để em chết thay cho anh!!
Cứ thế, hai đứa bé tranh nhau chết, mặt mũi mếu máo, giàn giụa nước mắt. Mở to mắt nhìn hai đứa bé trước mặt, đôi mắt u tối xôn xao, Nguyễn Huệ đột ngột ngửa mặt lên trời, cười to. Tiếng cười của anh lồng lộng, vang vào bốn vách núi, rồi vọng lại, tạo thành những chuỗi cười không dứt khiến hai đứa bé sợ sệt ôm lấy nhau vì không hiểu chuyện gì xảy ra. Không nói câu nào, Huệ quay người, rảo xuống phía chân đồi. Mặt trời đã lên cao, kéo chiếc bóng anh thành vệt dài đổ xuống mặt đất, gầy gò, tăm tối và mong manh.
Đợi đến khi người đàn ông cao lớn đi khuất, đứa bé áo nâu vội kéo anh đứng dậy, gương mặt non nớt đong đầy quan tâm.
- Anh có sao không? Ghét quá, người đàn ông kia đáng sợ thật.
- Không đâu!
- Không cái gì?
- Ông ta không đáng sợ mà rất đáng thương! Mẹ hay nói rằng khi đau khổ, người không thể khóc được thì lại càng bất hạnh hơn. Ban nãy khi ông ta cười, mắt ông ta lấp lánh, nhưng lại không thể rơi nước mắt. Không thể rơi nước mắt được nên ông ta mới cười thương tâm như thế. Thật đáng thương!
Nghe đứa bé áo xám nói, đứa bé áo nâu nhìn theo ánh mắt anh hướng về nơi người đàn ông ấy khuất dạng, gương mặt non nớt lộ vẻ ngẩn ngơ. Mặt trời đã lên cao, tia nắng chói chang gay gắt, đồng cỏ xanh nghiêng ngả, lắt lay dưới ánh mặt trời
oOo
Trời về chiều, từ chân đồi, men theo con đường mòn đầy cỏ dại là về đến nhà thầy giáo Hiến, mỗi lần về đến, áo của Huệ luôn găm đầy hoa cỏ may. Bây giờ cũng thế, anh vừa đi vừa gỡ những bông hoa li ti ra khỏi áo, cho đến khi nhìn thấy một con bạch mã đang nhởn nhơ gặm cỏ trong vườn. Bạch mã, đó chính là con ngựa quen thuộc của Linh Lan, nhưng hôm qua cô ta đã không nói không rằng, đột ngột bỏ về Quy Nhơn khiến anh như trút gánh nặng, vì sự yên tĩnh từ nay sẽ không còn bị ai quấy rầy. Tại sao mới chỉ một ngày cô ta lại quay trở lại? Chuyện gì đã xảy ra?
Vừa suy nghĩ, Huệ vừa bước vào nhà, quả y như rằng, anh đã thấy ngay Linh Lan đang ngồi trên giường, tay chống lên trán, bờ môi đào mím lại như đang suy nghĩ chuyện gì đó. Dường như tâm tưởng đang trôi tận đâu, thế nên khi nghe thấy tiếng bước chân anh vang lên, Linh Lan vội vàng quay lại, đứng bật dậy, gương mặt cố kiềm cảm xúc, nhưng đôi mắt lại chất chứa thương xót, ngỡ ngàng, pha lẫn hoài nghi, khiến huệ nhíu mày, tự hỏi trong đầu cô ta thật ra đang nghĩ gì.
Vốn định trở về sẽ chăm sóc cây cỏ thêm tươi tốt, nhưng khi bước vào nhà, nhìn thấy Linh Lan, bao nhiêu dự định trong đầu đều tiêu tan cả. Dù không biết lý do Linh Lan quay trở lại, nhưng việc nó hiện diện ở đây đồng nghĩa với cuộc sống tĩnh lặng của anh sẽ lại bị xáo trộn và khuấy động dài dài. Nghĩ đến đó, Nguyễn Huệ không vui, anh ngồi xuống bàn, tay rót một chén trà nguội như không biết đến sự có mặt của Linh Lan. Cô gái này tại sao không đi cho khuất mắt anh mà còn quay trở lại nơi này?
- Tôi biết cả rồi!
Đang mông lung nhìn ra khóm hoa cải trổ bông ngoài vườn, giọng nói nhẹ thênh của Linh Lan chợt cất lên. Một tia sáng lướt nhanh qua trong đôi mắt u tối. Huệ cầm chén trà nhưng chưa uống vội, anh không quay đầu lại mà cất tiếng, giọng bình thản, có chút mỉa mai như thường ngày.
- Biết gì?
- Biết chuyện xảy ra giữa anh và Văn Bình.
Chén trà trên tay Huệ chợt khựng lại giữa không trung, trà sóng sánh chao nghiêng. Nhưng rất nhanh, anh hớp lấy một ngụm rồi mới chẫm rãi quay lại nhìn Linh Lan. Bóng chiều thấp thoáng bên song cửa, tạo thành những vùng sáng tôi đổ dài trên gương mặt sương gió của anh.
- Vậy sao?! Nói xem, cô biết được những gì?
Nhìn vào đôi mắt đen như vực thẳm đó, Linh Lan chợt cảm thấy nghẹt thở. Chiều tà, căn nhà không thắp đèn, nhấn chìm cả hai trong bóng tối trập trùng. Nhờ Huệ ngồi gần cửa sổ, nên Linh Lan mới lờ mờ thấy bóng anh. Dù không thấy rõ gương mặt, nhưng nó vẫn có thể cảm nhận được tia nhìn của anh vẫn chú mục lên nó, trên môi là nụ cười mỉa mai, có phần đáng sợ dường như vẫn chiếu thẳng vào mình.
- Tôi… đã nghe nói về tai nạn xảy ra giữa anh và Văn Bình. Tôi không biết rốt cục đã xảy ra chuyện gì, nhưng người đã chết thật sự là anh chứ không phải anh ấy.
Vì chìm hẳn trong bóng tối nên Linh Lan không thấy được cảm xúc nào trên gương mặt của anh ngoài nghe có tiếng thở nhẹ. Huệ im lặng một lúc rồi chậm rãi đứng dậy, từ từ tiến về phía nó. Trong bóng tối mịt mù, Huệ đột ngột hiện ra, gương mặt sương gió hoang tàn điểm một nụ cười chết chóc, khiến Linh Lan vội lùi lại vài bước, cho đến khi lưng chạm vào tường.
Khi đã đến gần Linh Lan, Nguyễn Huệ cuối xuống, gương mặt càng lúc càng gần, khiến Linh Lan như bị hút chặt vào dòng xoáy mênh mông và tối đen trong đôi mắt anh. Nó nhanh chóng nghiêng mặt đi, trước khi Huệ cất tiếng thì thầm vào tai mình.
- Một tai nạn sao?… Để ta nói cho cô biết, là hắn đã một đao giết chết ta. Rất đau đớn.
Nguyễn Huệ vừa dứt lời, Linh Lan quay ngoắt lại, mở to mắt nhìn trừng trừng vào anh, nhìn vào đôi mắt không có chút ánh sáng nào. Nó mấp máy môi, giọng run run.
- Vậy là… Vậy là tôi đã đoán đúng. Thảo nào trong quân ai cũng gọi anh ấy là Nguyễn Huệ – tên anh. Chỉ có thể là một tai nạn kinh khủng như thế mới khiến anh ấy từ bỏ con người mình, khoác lên tên anh, sống thay cho cuộc đời anh mà thôi!
Dồn Linh Lan ép sát chân tường, Huệ chống cả hai tay lên tường, một tia chớp lướt nhanh qua đôi mắt anh nhưng nhanh chóng biến mất, trả lại cái nhìn âm u, lạnh lẽo và hoang lạnh, hệt như lúc cả hai gặp mặt nhau lần đầu tiên. Trước sự sợ hãi của Linh Lan, Huệ nhẹ nhàng mỉm cười, lại chậm rãi cuối xuống, thì thầm từng chữ.
- Ta chết rồi. Là bị hắn giết chết. Vậy mà chỉ cần lấy tên ta thì hắn có thể ung dung sống tiếp hay sao? Cô nói xem, ta có nên hận hắn không, có nên trả thù hắn không, có nên hủy hoại những thứ hắn yêu quý không? Lúc này, cô nói xem, ta nên làm gì với cô đây?
Giọng nói giễu cợt, nhẹ như gió thoảng bên tai của Huệ khiến Linh Lan mím môi. Nó ngẩng đầu lên, nhìn sâu vào mắt anh, rồi nhấn mạnh từng lời.
- Anh nói dối!
Đôi mắt u tối thẫm lại.
- Anh nói dối. Nói dối siêu hạng. Miệng thì bảo hận Văn Bình, muốn trả thù Văn Bình, muốn hủy hoại những thứ anh ấy yêu quý nhưng hành động thì mâu thuẫn vô cùng. Điển hình như chuyện của Tây Sơn gần đây, ngày ấy, nếu không bị cơn bão trên biển cản trở, Nguyễn Ánh chắc chắn sẽ không thoát được, Tây Sơn đã có thể ca khúc khải hoàn, mục tiêu chuyến đi của Văn Bình sẽ hoàn thành. Chẳng phải chuyện đó anh đã làm rất tốt sao?
Trước phản ứng của Linh Lan, Nguyễn Huệ cười nhạt. Anh đáp lời, giọng lạnh băng.
- Đó là vì Nguyễn Ánh cũng là kẻ thù của ta, ta mượn tay Văn Bình, mượn tay Tây Sơn tiêu diệt hắn, là thuận đường mà làm thôi. Chuyện đó thành công thì nhổ được một cái gai, còn không thành công cũng đủ khiến Văn Bình bị tước hết binh quyền, thu lại ấn lệnh, phải làm một người dân bình thường hay sao. Hắn bị như thế, ta vô cùng thoải mái và thích thú.
- Anh lại nói dối nữa rồi, Huệ! Được, cứ cho Nguyễn Ánh cũng là kẻ thù của anh đi, anh mượn tay Văn Bình và Tây Sơn để tiêu diệt anh ta, thế phản ứng và hành động của anh khi để anh ta thoát là gì? Anh nói tuy không bắt được anh ta, nhưng cũng khiến Văn Bình chịu tội thì anh phải hả hê lắm chứ, cớ sao lại thống khổ, sao lại tức giận, sao lại uất ức đấm vào cột buồm đến bật máu?
Vốn không cho cô gái này vào mắt, nên dù cô ta có làm gì anh cũng không quan tâm, thế nhưng những gì cô ta vừa nói tựa như chiếc lông ngỗng rơi xuống mặt hồ, khiến lòng anh tan ra như những con sóng. Bức tường trong lòng anh đã bắt đầu lung lay, từng lời, từng chữ, từng câu của cô gái này như những nhát búa không ngừng đập vào bức tường ấy, ngày một nhiều.
- Tôi từng nghĩ anh oán ghét Văn Bình nên mới chọn lúc anh ấy mệt mỏi nhất để xuất hiện và tranh đoạt, nhưng những việc anh làm hoàn toàn không phải là tranh đoạt hay hãm hại anh ấy, vậy phải chăng anh xuất hiện để bào vệ anh ấy vào những lúc anh ấy yếu đuối nhất, mệt mỏi nhất???
Đừng quan tâm lời cô ta nói
Đừng quan tâm!
Lâu thật lâu không thấy Nguyễn Huệ trả lời, trái tim Linh Lan phập phồng, nó liếm môi, rồi tiếp tục hỏi tới. Trên đường từ Quy Nhơn về An Thái, câu hỏi đó nó đã suy nghĩ rất nhiều, lại thêm những sự kiện từ trước tới nay xâu chuỗi lại, thì khả năng đó có thể lắm chứ. Nó có thể lý giải được cho những việc Huệ làm, hoàn toàn không cảm thấy mâu thuẫn hay khiên cưỡng. Nhưng những gì nó nghĩ chỉ là nó nghĩ, còn mọi chuyện có phải thế không, thì nó phải thăm dò phản ứng của Huệ như thế nào. Nếu mọi chuyện quả thật như nó đã nghĩ, nếu Huệ thật sự không căm hận Văn Bình mà ngược lại rất yêu quý, sẵn sàng bảo vệ, đến nỗi bất chấp cả sinh mạng này không nên tồn tại, nếu như đó là sự thật, thì cả hai người họ sẽ như thế nào đây?
Đứng đối diện Linh Lan, gương mặt Huệ đông cứng, nụ cười tắt ngấm từ lúc nào. Trong đôi mắt tưởng chừng hun hút đó, Linh Lan tinh ý nhận thấy sự thay đổi. Đôi mắt u tối kia đang thẫm dần và trở nên lạnh buốt như nước biển đêm.
Nếu như nó nói không đúng, tại sao sắc mặt và ánh mắt của Nguyễn Huệ bỗng biến đổi? Nếu như nó nói sai, tại sao anh không buông lời chế giễu, hay cười nhạt vì những điều tầm phào mà nó vừa thốt ra chứ?
- Có đúng thế không? Còn nữa, ở Gia Định anh từng dạy tôi một bài học, bài học để “có ý niệm bảo vệ một ai đó, vì ai đó mà giết người”, “cho đi cái gì đó”, “sống có trách nhiệm với bản thân mình và mọi người xung quanh”, “giữ sự trong sạch và lòng nhân từ cho người khác”. Phải chăng, đó là tất cả những gì anh đã làm cho Văn Bình?
- Vọng tưởng. Cô thì biết gì? Đừng ở đây ăn nói hồ đồ. Ta bảo vệ hắn ư, tuyệt đối không bao giờ có chuyện đó!
Khi Linh Lan vừa dứt lời, Huệ đã đáp lại ngay, giọng anh như quát lên, ánh mắt anh nhìn xoáy vào nó, rực lửa, thế nhưng chính những biểu hiện đó lại càng khiến cho Linh Lan thêm tin vào những gì mình suy nghĩ và phỏng đoán. Huệ lùi lại phía sau, còn Linh Lan lại tiến thêm một bước để nhìn đôi mắt đen che giấu bí mật cuộc đời cho thật rõ, và nói nhanh.
- Vậy sao? Anh bảo tôi hồ đồ, không có chuyện đó ư? Được, vậy anh trả lời tôi tại sao anh nói sẽ trả thù Văn Bình, khiến tất cả những gì anh ấy gầy công xây dựng sẽ tiêu tan và anh có vô vàn cơ hội để làm việc này, thế nhưng cho đến bây giờ vẫn không thấy gì, ngược lại còn tốt hơn trước đó. Là anh muốn hủy hoại Văn Bình hay anh bảo vệ anh ấy? Là anh thù ghét Văn Bình hay anh yêu quý anh ấy?
Bức tường bắt đầu rạn nứt.
Từng vệt
Từng vệt một…
…. Kéo dài!
Nguyễn Huệ nhìn Linh Lan trừng trừng, màn đêm trong đôi mắt anh xoáy lại, tạo thành một vực sâu không đáy, sẵn sàng nuốt chửng người nào bất cẩn sẩy chân rơi xuống. Tại sao cô gái này luôn làm anh phiền nhiễu, tại sao cô gái này lại ngang ngạnh đến như thế. Tại sao cô gái này luôn thốt ra những lời nói khiến anh khó chịu, và tại sao cô ta luôn quấy rầy anh, bước vào cuộc sống riêng tư của anh, khiến bóng tối trong anh chao đảo, ngả nghiêng.
Đừng quan tâm lời cô ta nói
Đừng quan tâm!
- Tôi đã nghe chuyện xảy ra giữa anh và Văn Bình, nhưng tôi tin chắc là việc đó hoàn toàn không phải chủ ý hay cố ý của Văn Bình. Nếu không thì sự ra đi của anh sẽ không trở thành nỗi ám ảnh và đả kích lớn như vậy đối với Văn Bình. Vì sao anh ấy từ bỏ thân phận của mình, mang một cái tên khác, sống một thân phận và một cuộc đời khác, đó chẳng phải là anh ấy cảm thấy có trách nhiệm khi gây ra cái chết của anh hay sao? Đó chẳng phải là vì anh hay sao?
Linh Lan nói ào ào như vũ bão, Huệ trơ ra, bất động. Từ trong vực sâu u tối chập chờn ánh lửa đỏ. Bàn tay anh xiết chặt, khiến mu bàn tay nổi gân. Đừng cho những lời cô gái này vào tai, cô ta nói gì mặc kệ, đừng dao động. Kiềm nén, hãy kiềm nén như cái cách bao lâu nay anh vẫn kiềm nén, hãy thản nhiên như anh đã thể hiện, đừng vì một phút dao động mà khiến bức tường kiên cố anh xây nên phải sụp đổ. Những lời cô ta nói chỉ là hồ đồ, dối trá, mê muội, anh không việc gì phải quan tâm.
- Còn anh, anh nói đi, trước đây hai anh em anh rất quan tâm chăm sóc nhau sao, thế thì khi Liên chết đi, khi Văn Bình đang rất đau buồn, lại phải nhận lệnh đánh Gia Định, chẳng phải anh xuất hiện để bảo vệ anh ấy thì là gì? Anh là sinh mạng lẽ ra không nên tồn tại, nhưng anh vẫn quay trở về, chẳng phải vì anh rất yêu thương anh ấy hay sao?
Im đi!!
Ánh lửa chập chờn trong đôi mắt u tối bùng cháy, cháy lên những năm tháng chôn vùi quá khứ. Từng câu từng chữ của Linh Lan xoáy vào tai anh, luồn vào những ngõ ngách trong tâm hồn anh, bẽ gãy chiếc chìa khóa giam giữ căn phòng bí mật, phá tan bức tường kiên cố anh đã gầy công xây dựng suốt bao nhiêu năm qua. Tiếng trái tim anh đập nhè nhẹ, nghe như tiếng nứt lanh canh đâu đó đang dần rạn ra như lớp băng trên mặt hồ…
Tiếng cười trẻ thơ trên cánh đồng xanh vọng lại
- Anh nói đi chứ. Có phải tôi nói đúng rồi không? Rõ ràng anh rất quan tâm anh ấy, lo lắng và bảo vệ cho anh ấy, sao còn phải làm như mình hận Văn Bình, ghét Văn Bình và muốn phá hoại anh ấy?
Tiếng cười ấy, giờ như vết dao cắt vào lòng anh
Im đi!!!!!!
- Bây giờ thì tôi đã hiểu tại sao Văn Bình không xuất hiện trở lại rồi. Không phải là anh giam cầm anh ấy, mà là anh ấy không trở lại, sẽ không trở lại nữa. Chắc chắn là anh ấy biết cả rồi, biết hết nguyên nhân rồi, vậy nên mới không trở lại nữa. Tất cả là tại anh, chính vì anh nên anh ấy mới không thể xuất hiện, chính vì anh ấy muốn đền bù cho việc đã lỡ tay tước đi sinh mạng của anh, chính là anh ấy thấy mình không thể chịu đựng được việc phải sống dưới cái tên của anh cả đời. Anh ấy đã chọn trả lại cho anh mọi thứ. Anh hài lòng chưa. Tất cả là do anh, do sự xuất hiện trở lại của anh. “Sinh mạng này lẽ ra không nên tồn tại”, vậy tại sao anh trở lại. Giết anh ấy một lần, rồi lại một lần nữa, anh hài lòng chưa….
BỐP!!!
Ngay khi Linh Lan vừa nói dứt, một tiếng bốp nặng nề vang lên. Linh Lan lảo đảo ngã xuống sàn, gương mặt nó bỏng rát.
Má phải Linh Lan bầm đỏ.
Nguyễn Huệ vừa ra tay đánh nó.
Một cái tát, thật mạnh. Mạnh đến nỗi khóe môi nó bật máu. Đau đến nỗi nước mắt nó ứa ra….
Linh Lan ngồi đó, giương mắt nhìn Nguyễn Huệ, đầu óc nó trống rỗng, đôi mắt đen láy long lanh mở to, trân trối nhìn Huệ như vẫn chưa tin được những gì xảy ra với mình.
- Cút! Cút khỏi đây ngay. Mau cút cho khuất mắt ta!!!!
Nguyễn Huệ quát lớn. Đôi mắt anh rực cháy, tay thu lại thành nắm đấm, nện mạnh vào chiếc bàn tre khiến nó vỡ tan, găm vào tay anh chảy máu. Tiếng quát phẫn nộ của anh khiến Linh Lan giật mình và hoảng sợ. Huệ rất đáng sợ, nhưng thật sự chưa bao giờ nó thấy anh đáng sợ đến mức có thể giết người như thế này. Vừa bị đánh đau, lại vừa uất ức, sợ hãi, Linh Lan mím môi, nó vội vã chạy ra khỏi nhà, lên ngựa và phóng nhanh ra cổng, trong phút chốc chỉ còn lại làn bụi đỏ phía sau vó ngựa mịt mù.
Tiếng vó ngựa xa dần, màn đêm buông hẳn xuống mái nhà tranh đang chìm trong yên lặng. Đứng trong căn phòng tịch mịch, Nguyễn Huệ nhìn đăm đăm về khoảng không phía trước, ánh mắt anh trống rỗng, vô định, bàn tay tiếp tục chảy máu nhưng anh hầu như không cảm thấy đau, cũng không để ý đến. Chiếc chìa khóa giam giữ những bí mật trong căn phòng tâm hồn anh đã bị phá vỡ, cửa sổ mở toang, gió lùa vào, thổi thốc, còn anh đang đối diện với căn phòng trống không. Tất cả mọi bí mật đều chôn chặt trong trái tim đã chết, trong bóng tối vô biên. Giờ đây, căn phòng tan hoang, bóng tối lùi lại. Trước vầng dương thiêu đốt, bỏng rát, trái tim ấy đập yếu ớt, như dần tan ra dưới ánh nằng mặt trời
Cái cảm giác bị phơi bày đó…
…đau thốn tim gan.
Trái tim anh quặn thắt
Anh muốn gào lên
Nhưng tất cả chỉ là sự uất nghẹn, không sao thốt thành lời.
Màu cỏ đã tàn úa
Bóng thời gian nhạt nhòa…
Ta chết đi!
Ta biến mất!
Khi ta quay trở lại…
…. bao nỗi thống khổ không nói nên lời…
“Tướng quân!”
Không phải ta!
“Tướng công!”
Không phải ta!!!
“Chú tám”
Người mà các ngươi đang gọi không phải ta. Đó là Văn Bình. Hãy mở mắt nhìn cho thật kỹ, đó là Văn Bình!
Đó là Văn Bình…
…là người anh trai… duy nhất ta…
…. Yêu thương!
Trong làn sương mờ ảo, bóng dáng cao lớn của ai đó đang đứng quay lưng về phía anh. Người ấy đang đứng trầm mặc, như đang hồi tưởng về năm tháng xưa, nơi tuổi thơ đã trôi qua. Tiếng bước chân nhè nhẹ vang lên, người ấy quay lại, đôi mắt sao sáng lấp lánh xót thương, buồn rầu pha lẫn những nuối tiếc khi anh bước đến. Cứ thế, hai anh em lặng yên, nhìn nhau, để mặc những chuỗi hình ảnh quá khứ trôi vùn vụt trên đầu
Văn Bình!
Nghe tiếng anh gọi, người đó mỉm cười, nụ cười hiền hòa, lại chất chứa bi thương. Rồi rất nhanh, người đó quay lưng, bước vào làn sương mù mờ ảo, bóng dáng dần tan biến cùng làn sương, chỉ còn lại mình anh đứng trơ ra giữa khoảng trắng triền miên.
Văn Bình!!!
Nguyễn Huệ thốt nhiên cất tiếng gọi thản thốt, cánh tay anh giơ ra, bất động, chân bước đến, mắt nhìn quanh khắp căn nhà.
Anh đi như thế…
Đó không phải là điều ta muốn
Ta không cam tâm!!!
Là tại ta sao….?
Nguyễn Huệ nhìn quanh, ngôi nhà như điên đảo, xoay tròn xung quanh anh. Đột ngột, anh chạy nhanh ra ngoài vườn, bước chân xiêu vẹo tiến đến lu nước đầy. Quăng chiếc nắp gỗ đậy chặt qua một bên, anh cuối nhìn bóng hình mình trong đó. Đôi bàn tay đang nắm chặt, máu nhỏ giọt rồi tan ra trong lu nước trong veo. Vầng trán anh cuộn sóng, bờ vai rộng thõng xuống như có thêm gánh nặng.
- Ra đây!!! Mau ra đây!!!
Nguyễn Huệ gào lớn, chiếc bóng trong nước dao động, nhưng dù anh đã gào thét, thúc giục, chiếc bóng ấy vẫn câm lặng, nhìn anh mỉm cười.
- Mau ra đây!! Anh mau ra đây!! Ra đây!!!
Nguyễn Huệ gào lớn, anh vung tay đấm vào mặt nước, một cái, hai cái, và rồi liên tục. Anh điên cuồng đấm vào chiếc bóng mình trong nước. Nước chuyển động ầm ầm. Cuộn trào. Sục sôi. Bắn tung tóe lên mái tóc anh, lên áo anh, lên gương mặt anh. Ướt đầm.
“Tại sao là sinh đôi, nhưng em lại phải làm em, mà không được làm anh?”
“Bởi vì em toàn làm chuyện khiến anh phải lo lắng mà thôi”
Một giọt nước rơi vào chiếc bóng…
Hai giọt, rồi ba giọt
Trời….
…đổ mưa
Sấm chớp chuyển động trên bầu trời, mây đen cuộn lại, trút mưa. Từng hạt mưa lạnh rơi xuống mặt anh, vỡ tan, bỏng rát. Mây gió vần vũ, bụi tre cúi rạp mình xuống, đất trời kêu gào, vạn vật tang thương.
Anh muốn khóc, nhưng lại không thể khóc.
Anh muốn gào thật to, nhưng lại cắn chặt môi đến bật máu.
“Tại sao là sinh đôi, nhưng em lại phải làm em, mà không được làm anh?”
“Bởi vì em toàn làm chuyện khiến anh lo lắng mà thôi”
Là tại ta sao….?
Sinh mạng này, lẽ ra không nên tồn tại.
Là tại ta sao…?
Nguyễn huệ ngửa mặt lên trời, cười lớn, tiếng cười anh vang vọng, luồn qua các tán cây, bay xa, chôn vùi trong mưa gió kêu gào. Từng hạt mưa rơi vào mắt anh, rồi từ khóe mắt chảy từng vệt dài trên gương mặt trũng sâu…
Nguyễn Huệ chậm rãi quay vào nhà, bước chân anh hằn sâu trên mặt đất, tạo thành một dấu vết cho nước mưa đổ vào. Chạm tay vào tấm liếp, anh đổ gục xuống nền đất lạnh, tựa vào chiếc giường tre lạnh lẽo một cách mệt mỏi. Tay anh vắt hờ qua đôi mắt đang nhắm lại, tay còn lại buông thõng xuống, bất động, chênh vênh
Ngoài song, mưa gió vần vũ, kêu gào, mái nhà tranh ngả nghiêng trong gió.
Bên trong ngôi nhà tối tăm, đèn không thắp, Huệ đang ở đâu đó trong bóng tối dày đặc, đơn độc và mênh mông…
★ Chương 132
Linh Lan thúc ngựa chạy như bay lên chân đồi.
Dường như biết chủ nhân của mình có tâm trạng không tốt, con bạch mã liền thong thả tiến đến một gốc cây, rồi dừng lại, cả người và ngựa cùng ngắm bầu trời sao lấp lánh trên cao. Gió đêm thổi thốc, mát lạnh, cuốn mái tóc mềm mại của Linh Lan quyện vào dải lụa hồng bay phất phơ trong gió. Dù đã ngước nhìn lên trời cao, nhưng những giọt nước mắt của Linh Lan vẫn không ngừng tuôn ra. Gió thổi tạt qua, những giọt nước mắt rơi xuống tay, lạnh ngắt, buốt giá như nước mùa đông.
Má trái của Linh Lan giờ sưng lên, nhức nhối.
Trái tim của nó bây giờ còn nhức nhối hơn cái má đang sưng ấy
Linh lan không muốn hồi tưởng lại những gì đã xảy ra, thế nhưng những hình ảnh không lời cứ đổ về cuồn cuộn như thác lũ trong tâm trí nó. Nó đã phát hiện ra bí mật chôn vùi của Nguyễn Huệ, đã khai phóng bí mật ấy, thế nên nó đã bị anh tát một cái, đau đến choáng cả người.
Từ thưở chào đời, Linh Lan chưa bao giờ bị đánh chứ đừng nói là bị tát một cái tát trời giáng như thế. Ba rất cưng nó, Anh Tú cũng rất yêu chiều nó, tuy thiếu thốn tình thương của mẹ, nhưng với tình yêu của ba và anh, Linh Lan rất hạnh phúc với cuộc sống của mình. Bây giờ, bỗng dưng bị Huệ tát cho một cái, Linh Lan choáng váng. Nó đã sợ hãi khi nhìn thấy bộ dạng hung dữ của Huệ khi đó. Phần vì đau, phần vì sợ hãi, phần không hiểu tại sao, Linh Lan vội vã chạy ra khỏi nhà, lên ngựa, quất roi, cố rời xa khỏi nơi ấy càng nhanh càng tốt. Giờ đây hồi tưởng lại, bao nhiêu uất ức trong lòng Linh Lan tràn ra, những câu hỏi tại sao không ngừng vang lên trong đầu, khiến nó nắm chặt lấy dây cương, tay run rẩy, môi mím lại, dòng lệ lạnh lại mấp mé bờ mi.
Trời càng về đêm, càng mênh mang và lộng gió. Linh Lan quệt tay lên đôi mắt, thấm những giọt lệ hờn tủi vào tay áo. Trời sao chi chít, những dải sao lấp lánh tụ lại với nhau, quét thành một vệt chổi dài, hệt như dòng sông Ngân, sáng lấp lánh trên bầu trời và trong đôi mắt lóng lánh của Linh Lan.
“Người ta nói mỗi một ngôi sao, là một niềm hy vọng của con người
Ngôi sao ấy có khi mờ, khi tỏ, nhưng chẳng bao giờ tắt, cũng giống như niềm hy vọng có khi nhạt nhòa, khi mãnh liệt, nhưng vẫn luôn tồn tại trong lòng mỗi chúng ta”
Ngắm dải sao lung linh, Linh Lan chợt nhớ đến những lời Anh Tú nói. Giữa bầu trời sao này, đâu là ngôi sao hy vọng của nó, và nó đang hy vọng điều gì, chờ đợi điều gì, bản thân nó cũng không rõ. Chưa bao giờ nó lại cần Anh Tú đến như thế này. Chỉ cần nhìn thấy ông anh nó nheo mắt thôi, là bao lo lắng, bất an của nó sẽ tan biến. Chỉ cần có anh nó, chỉ cần có những lời khuyên hữu ích, thiết thực, giúp nó xua tan hoang mang, lầm lỡ, như cơn bão đi qua bầu trời.
Linh Lan cất tiếng thở dài, nó nắm hờ dây cương, thúc ngựa quay trở về đường cũ, mắt nhìn hướng ngôi nhà nhỏ ở An Thái xa xa. Linh Lan mím môi, con tuấn mã cất vó, đưa chủ nhân quay trở về Quy Nhơn
oOo
Khi Linh Lan quay trở về, Xuân không hỏi thăm nó tại sao lại đột ngột trở về Quy Nhơn như thế. Là một người tinh ý, cô nhận thấy thần sắc Linh Lan có chút khác lạ, nên đoán rằng giữa nó và tướng quân nhất định đã có chuyện xảy ra. Chuyện ấy chắc chắn không hay gì, nên cô không hỏi, chỉ mỉm cười khi thấy nó ló đầu vào trong trướng khi cô tập hợp đội nữ binh.
Kể ra, Xuân cũng không hỏi thăm tình hình của tướng quân trên ấy được, do trong quân hiện nay có rất nhiều việc. Đội nữ binh mới gia nhập thêm một số người, Xuân có trách nhiệm hướng dẫn, chỉ bảo cho số người mới thích nghi với công việc hậu cần, cũng như luyện tập võ nghệ, binh bị để có thể ra chiến trường. Nhờ sự tinh ý của Xuân, cũng như công việc bận rộn của cô, Linh Lan thầm cám ơn khi Xuân đã không hỏi chuyện tại sao nó lại đột ngột đến rồi lại đi như thế này. Nếu cô hỏi, quả thật nó không biết phải nói thế nào vì mỗi khi nhớ lại, dư âm của cái tát đau điếng đó vẫn còn ám ảnh trong đầu. Huệ khi ấy như muốn ăn tươi nuốt sống nó vậy, nếu nó còn ở đó, chẳng biết chuyện gì sẽ xảy ra, tốt nhất cứ bảo vệ lấy mình. Vả lại, biết được chuyện Huệ không làm hại Văn Bình mà đang bảo vệ anh, nó đã yên tâm, cũng không còn lý do gì tiếp tục ở lại đó nữa. Chẳng phải không có nó, Huệ rất vui mừng vì không bị ai quấy rầy hay sao.
Với suy nghĩ đó, Linh Lan ở trong đội nữ binh, tiếp tục rèn luyện võ nghệ cho bản thân, nhưng không hiểu tại sao đầu óc nó không tập trung được, nhớ cái này thì quên cái kia. Mỗi khi chiều về, nhìn cánh chim sải cánh bay về phương xa, Linh Lan ngẩn ngơ, nó thừ người ra, mắt xa xăm nhìn cánh chim ấy cho đến khi nó khuất dạng, nhưng vẫn đứng yên, không biết đang nghĩ gì.
Sự thiếu tập trung của Linh Lan đã khiến Xuân để ý, cô định bụng lên tiếng nhắc nhở thì Phan Văn Lân đã làm thay cô. Theo lệnh của tiết chế Nguyễn Lữ, Phan Văn Lân đến đội, gặp Xuân để hỏi tình hình của những nữ binh mới vào và số lương thảo tích trữ, anh đã bắt gặp Linh Lan đang cầm kiếm trên tay, nhưng lại đứng thừ người ra, mặt đăm chiêu nhưng không động đậy gì, khiến anh ngạc nhiên vô cùng.
- Linh Lan, cô sao thế?
Đang để tâm trí trôi miên man tận đâu, thế nên khi Lân lên tiếng gọi lần thứ ba nó mới bừng tỉnh trở về hiện tại. Thấy Lân đang đăm đăm nhìn mình với đôi mắt khó hiểu, Linh Lan vội mỉm cười.
- Gì vậy?
- Tôi là người hỏi cô câu đó mới đúng. Cô sao thế. trông chẳng bình thường chút nào!
- Đâu có, tôi bình thường mà!
Linh Lan vuốt nhẹ dải nơ hồng vắt vẻo trên bờ vai mình, nói với vẻ lơ đãng. Sự lơ đễnh ấy không thoát khỏi mắt Lân. Ba nãy anh phải gọi ba lần Linh Lan mới lên tiếng trả lời, chứng tỏ điều đó không bình thường như nó nói chút nào
- Bình thường, vậy sao tôi gọi mấy lượt cô mới quay lại. Tuy tôi không biết cô đang có chuyện gì, nhưng mà đây là trong quân trại, cô không thể thiếu tập trung như thế được, sẽ ảnh hưởng tới rất nhiều người và cả bản thân cô. Nếu như cô Xuân phổ biến lệnh trên xuống dưới, cô thiếu tập trung như thế sao nghe rõ, và nếu như ban nãy người gọi cô không phải tôi mà là tiết chế, thì cô sẽ bị xử theo quân pháp vì tội coi thường cấp trên rồi!
Biết Phan Văn Lân có ý tốt nên mới nhắc nhở, Linh Lan im lặng không nói gì. Nó cũng biết mấy ngày qua nó đã không tập trung, điều này không có lợi cho nó khi ở trong quân, nhưng dù đã cố gắng, đầu óc của Linh Lan cứ để tận đâu, mắt nó nhìn về phía trước, nhưng tựa như chẳng thấy ai, mà đang nhìn đâu đó về một nơi xa xôi trong trạng thái vô thức, nhiều khi thừ người ra mà chẳng biết mình đang nghĩ gì. Nếu tình trạng này cứ tiếp tục kéo dài, quả thật nó sẽ khiến nhiều người bị vạ lây, và cũng chẳng có kết quả tốt đẹp gì cho mình.
Để thoát khỏi tình trạng lơ lừng kéo dài đó, Linh Lan phải tìm ra nguyên nhân của nó để khắc phục, nhưng dù đã tìm, tìm mãi, suy nghĩ mãi, rốt cuộc nó vẫn không biết nguyên nhân gì khiến nó trở nên thế này.
Rốt cục là nguyên nhân gì…?
- Linh Lan, cô từ An Thái về, vậy tướng quân sống trên đó như thế nào?
Xuân không hỏi, nhưng Lân lại hỏi, anh đang có chuyện quan trọng cần báo. Thường cứ cách ba ngày, anh lại gởi bồ câu đưa thư, báo lại tất cả tình hình trong quân cũng như tin tức của quân Nguyễn cho tướng quân biết, và luôn nhận được thư phúc đáp căn dặn của người vào hôm sau. Như thường lệ, ba hôm trước anh đã gởi tin tức đi, nhưng cho đến tận hôm nay vẫn không thấy tướng quân có động tĩnh gì, điều đó khiến anh không yên tâm. Vốn là tai mắt cũng như thuộc tướng thân cận của tướng quân, anh cùng những đô đốc khác bị Tây Sơn vương để mắt đến, cũng như bị tiết chế Nguyễn Lữ quản lý gắt gao hơn trước nhiều. Anh không thể tự ý rời khỏi Tây Sơn, cũng không thể tự ý lên An Thái vì tướng quân đã căn dặn không được ai lui tới nhà thầy giáo Hiến, kể cả anh.
Tình hình trong doanh trại và bên Nguyễn quân đã có chuyển biến. Theo gián điệp báo lại, Nguyễn Ánh đã lệnh cho cai cơ Nguyễn Văn Chính về Long Xuyên chiêu tập binh mã, chém chết một viên tướng Tây Sơn. Bắt được tin tức của quân Nguyễn, quân Tây Sơn đã mai phục ở cửa sông, định bụng một mẻ lưới bắt trọn, thế nhưng trời xui đất khiến thế nào, viên phó chiến tên Dạng trong đội phục binh đã bị Nguyễn quân bắt được, và quân Nguyễn một lần nữa lại thoát được, khiến tiết chế và Tây Sơn vương vô cùng giận dữ.
Quân Nguyễn thoát nạn, tướng sĩ của Nguyễn Ánh lại vùng lên hành động. Hồ Văn Lân tiến đánh Tân Châu, gã Tôn Thất Hội thì chiếm giồng sao, đắp lũy, còn Lê Văn Quân lại giữ sông Tân Hòa. Với tình thế giặc giã nổi lên tứ phía, Long Nhương tướng quân lại bị tước binh quyền, Tây Sơn vương đã cử người khác cầm quân ra trận, kết quả thu được vô cùng mỹ mãn. Giồng Sao bị tiến đánh, đồn Tân Hòa bị phá tan, tàn quân Nguyễn tháo chạy như đê vỡ bờ, tuy vậy, vẫn là không thể bắt được Nguyễn Ánh.
Tình hình trong nước đã tạm yên ổn, thế nhưng tình hình ngoài nước lại không yên ổn chút nào. Nặc Ấn bị Chiêu Thùy Biện lật đổ, chỉ mới mấy ngày thôi mà đã diễn biến phức tạp thế, tướng quân là người thông minh, chinh chiến lâu năm, dày dạn kinh nghiệm, chắc chắn sẽ có cách nhìn ra và giải quyết vấn đề nên Lân đã nhanh chóng báo tin cho tướng quân, ấy vậy mà đến nay vẫn chưa có hồi âm khiến anh vô cùng sốt ruột. Vốn ai cũng không được đến nơi tướng quân ở, duy chỉ có cô gái này là đi đi, về về, tình hình tướng quân thế nào chỉ có Linh Lan biết rõ nhất, không hỏi nó thì biết hỏi ai.
Nghe Lân hỏi, Linh Lan mấp máy môi tính đáp, nhưng không hiểu sao lại ngừng lại. Mấy hôm nay đã cố gắng không nghĩ đến, vậy mà bây giờ Lân lại hỏi nó về Nguyển Huệ, trong lòng Linh Lan bỗng lấn cấn. Vết thương nơi má trái đã trở nên bình thường từ lâu, nhưng vết thương trong lòng nó vẫn chưa thể bình thường trở lại được. “Tướng quân sống trên đó như thế nào?”, nó không ở đó, làm sao mà biết được.
Tướng quân sống trên đó như thế nào?
Như thế nào nhỉ…
Linh Lan im lặng, câu hỏi ấy ban đầu rât mơ hồ, nay dần trở nên rõ rệt trong tâm trí nó. Ba ngày qua nó không ở An Thái nên tất nhiên chẳng thể biết Nguyễn Huệ giờ ra sao. Mà phải rồi, sau khi bí mật chôn vùi bao năm bị phanh khui, Huệ sẽ đối mặt như thế nào, sẽ giải quyết ra sao khi anh rõ ràng không muốn cho Văn Bình hay ai khác biết chuyện đó.
Chính vì thế, nên anh mới tát nó một cái hay sao…?
Từ sau cái đêm bị đánh, tâm trạng Linh Lan bây giờ đã khá hơn nhiều. Cố không nghĩ về những chuyện đã qua, về Huệ, về Văn Bình, bây giờ Lân đột xuất hỏi đến, bao nhiêu hình ảnh quá khứ dồn về trong tâm trí nó. Má trái bỗng nhiên đau rát, một chút hờn dỗi, một chút bướng bỉnh và một chút lấn cấn không yên cùng nhau trỗi dậy trong tâm trí nó.
Hờn dỗi vì vô cớ bị đánh.
Bướng bỉnh vì cho rằng mình không làm gì sai.
Nhưng còn một chút lấn cấn không yên, đó là gì?
Văn Bình chẳng phải đang rất an toàn, vì Huệ bảo vệ anh chứ không làm hại hay sao…
- Linh Lan, cô có nghe tôi hỏi không? Tướng quân trên ấy sống thế nào?
Thấy Linh Lan không trả lời mà đứng thừ người ra, mặt đăm chiêu nghĩ ngợi, Phan Văn Lân sốt ruột hỏi lại, kèm theo cái vỗ nhẹ vào vai nó. Bị đánh thức, Linh Lan giật mình. Thấy gương mặt nôn nóng xen lẫn ngạc nhiên, buồn bực của Lân khi cứ phải hỏi đi hỏi lại, Linh Lan gượng cười.
- Tôi không biết!
- Hử? Sao lại không biết, trong doanh trại chỉ có cô thường xuyên lui tới nhà tướng quân, cô không biết thì ai biết?
Cô không biết thì ai biết…?
Bấc giác, Linh Lan lẩm bẩm từng câu từng chữ của Lân trong vô thức. Lân ngạc nhiên cũng phải, trong Tây Sơn, phần vì lệnh của Tây Sơn vương, phần vì ý muốn của tướng quân, chả ai bén mảng đến chỗ Huệ đang ở cả, chỉ có nó là điếc không sợ súng nên mới lò dò tìm đến như thế. Ở bên cạnh Huệ, tình hình của anh nó không biết, thì ai còn có thể biết đây.
- Anh hỏi thế chắc có việc gấp cần tìm tướng quân hả?
- Phải! Tôi có việc cần báo lại với tướng quân. Thường khi tôi đưa tin, chỉ một ngày sau đó là nhận được thư hồi âm, nhưng đằng này đã ba ngày trôi qua mà vẫn không có hồi âm gì, trái hẳn với tính cách của tướng quân thường ngày. Cô lại từ trên đó về, nên tôi mới hỏi rằng tướng quân thế nào rồi?
Linh Lan chăm chú nghe Phan Văn Lân nói, anh càng nói, đôi mày lá liễu của nó càng chau lại. Quả thật nó cảm thấy có điều gì khác lạ đang xảy ra, Văn Bình thì không nói, nhưng ở bên cạnh Huệ cũng không ít, tính cách anh thế nào nó cũng khá hiểu rõ. Tin tức mà Lân báo chỉ có thể là chuyện quan trọng, nom mặt anh nôn nóng thế, cũng biết rằng việc anh muốn báo cấp bách đến thế nào. Phàm là chuyện công, Huệ luôn nhanh chóng giải quyết triệt để, chưa từng để chậm trễ bao giờ. Vậy tại sao anh lại không hồi âm cho Lân, không thể là chậm trễ. Đã ba ngày thì không thể chỉ là chậm trễ.
Linh Lan cắn môi suy nghĩ, trong giây phút ấy, tâm trí nó bỗng nhiên hiện ra hình ảnh của Huệ khi bị nó khám phá ra sự thật. Ánh mắt của anh hiện rõ sự bất lực, và cái cách hành xử của anh không giống như thường ngày chút nào. Không còn ánh mắt mỉa mai, nụ cười chề giễu, Huệ khi ấy rất đáng sợ, sự đáng sợ của một người vừa bị vạch trần sự thật, nhưng lại muốn che giấu sự thật ấy, phủ nhận nó. Gương mặt anh là gương mặt đằng sau lớp mặt nạ vỡ nát, bị đốt cháy tận cùng trong ánh sáng sự thật. Anh nổi giận với nó, nổi giận là vì nó đã phát hiện sự thật, hay là nổi giận vì bản thân mình đã không bảo vệ bí mật ấy cho đến cùng…
Trước đây, nó từng nhìn thấy Huệ mệt mỏi, cũng từng nhìn thấy anh bất lực, nuối tiếc, nhưng chuyện gì anh cũng bình tĩnh mà giải quyết, chưa bao giờ nó thấy Huệ nổi giận, nổi giận thật sự, giận đến mất kiểm soát bản thân như thế. Lúc đó, khi đối diện với anh, nó thật sự đã nghĩ, mình có thể bị giết…
Sau khi nó đi rồi, anh và Văn Bình đối mặt nhau ra sao?
Chuyện này có liên quan gì đến việc anh hồi âm trễ nãi cho Phan Văn Lân hay không?
Khi cánh cửa gỗ khép lại, con người vững vàng ấy sẽ như thế nào…
Con người phía sau lớp mặt nạ… sẽ như thế nào…?
Linh Lan chớp mắt, cảm giác lấn cấn không yên ấy ngày càng lớn dần. Nó đan xiết hai tay vào nhau, hết đi qua rồi đi lại khiến Lân chóng mặt. Liệu có nên không? Có nên quay trở lại đó xem tình hình thế nào không? Việc quân quan trọng, nếu chậm trễ thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến Tây Sơn, nhưng liệu có nên quay trở lại không? Có nên không khi mà nó đã bị Huệ tát cho một cái. Tuy má trái đã lành từ lâu nhưng cái đau đến sững sờ khi ấy vẫn còn đọng lại trong tâm trí nó không nguôi.
Có nên hay không?
Linh Lan bứt rứt, đôi bàn tay nó vặn vẹo, nội tâm nó bây giờ đang đấu tranh dữ dội. Nó, nửa muốn biết rốt cục Huệ đã xảy ra chuyện gì, nhưng dư âm của cái đau ấy khiến nó chần chừ. Sự bứt rứt này, cảm giác không yên này, sự thiếu tập trung này nguyên nhân là vì đâu.
Nên hay không nên?
Cô không biết thì còn ai biết.?
Nó không biết, thì chẳng còn ai biết nữa đâu!
Linh Lan hít vào một hơi thật sâu, trái tim đập nhanh trong lồng ngực nó dần bình tâm trở lại. Nhìn đôi bàn tay ướt đẫm mồ hôi, ửng đỏ vì xiết vào nhau của mình, Linh Lan lặng người đi. Nó ngước mắt nhìn Phan Văn Lân, chậm rãi buông từng lời.
- Tôi sẽ lên An Thái xem thế nào, rồi sẽ báo lại với anh sau!
- Cô đi bây giờ à?
- Phải!
- Đã báo với cô Xuân chưa?
Chữ “chưa” của Phan Văn Lân còn chưa thoát khỏi miệng, Linh Lan đã đến mã điếm. Tháo sợi dây buộc con bạch mã quen thuộc của mình, Linh Lan nhẹ nhàng vuốt ve đầu con tuấn mã rồi nhảy phóc lên yên. Được ăn no, tắm mát, con tuấn mã đang chồn chân. Linh Lan vừa tung mình lên ngựa, con tuấn mã liền phóng đi ngay, thoáng chốc chỉ còn lại bóng ảnh xa xa trước cái lắc đầu của Phan Văn Lân.
Dù đã đi lại trên con đường đến nhà thầy giáo Hiến nhiều lần, nhưng hôm nay Linh Lan bỗng cảm thấy đường dài ra hơn so với mọi ngày. Tiếng vó ngựa khô khốc nện trên mặt đường. Ánh mặt trời bỏng rát soi xuống tấm lưng thon của nó, khiến lưng áo ướt đẫm mồ hôi. Bờ môi hồng mím lại, gương mặt trái xoan ửng đỏ, chẳng biết do cái nắng râm ran trưa hè ấy, hay là vì những chuyển biến nội tâm ở trong lòng.
Trên đường đến nhà thầy giáo Hiến, Linh Lan muốn nhanh chóng tới nơi, thế nhưng càng tới gần, Linh Lan bỗng cảm thấy do dự, e dè và ngập ngừng. Lát nữa đây khi gặp Huệ, nó sẽ đối diện với anh thế nào, nói những gì, thái độ ra sao, nó vẫn chưa nghĩ đến. Còn Huệ, sau vụ ấy, Huệ sẽ đối xử với nó ra sao, biểu hiện thế nào, có còn mỉa mai, chế giễu hay lạnh lùng? Còn Văn Bình nữa, sau khi biết bí mật ấy, anh có cảm giác ra sao, có tiếc nuối hay chua xót gì không? Càng nghĩ, Linh Lan càng thấy rối rắm, nhất thời cũng không biết quyết định đến nhà thầy giáo Hiến xem tình hình Huệ ra sao là đúng hay sai. Ôi, nếu có Anh Tú ở đây, chắc chắn nó sẽ không lâm vào tình cảnh hoang mang, ngay cả bản thân mình cũng không hiểu gì như thế này.
Nhà thầy giáo Hiến kia rồi!
Nhìn thấy bụi tre vàng trong sân nhà thầy giáo Hiến, trái tim Linh Lan đập thình thịch, miệng nó khô khốc, nỗi sợ hãi ban nãy lại trỗi dậy, khiến nó chùn tay. Khi nó đang trù trừ chưa quyết thế nào, thì bạch mã dường như quá quen thuộc với đường lối, nên đã thong dong sải bước đến trước cánh cổng nhà thầy giáo Hiến từ bao giờ.
Đang tinh thần rối rắm, đôi mắt Linh Lan bỗng nhướng lên khi nhìn thấy cánh cổng mở toang, hệt như ngày nó lên ngựa trở về Quy Nhơn. Hình ảnh ấy khiến trái tim Linh Lan trồi sụt thất thường, nó liếm môi, nhảy xuống ngựa, buột dây vào bụi tre, rồi nhè nhẹ bước vào vườn như chú mèo rón rén trên mái nhà.
Càng vào trong, đôi mày liễu của Linh Lan càng cau lại khi nhìn thấy quang cảnh khác thường xung quanh. Vườn tược cỏ dại mọc um tùm, mấy bông hoa nở vàng rộ mà Huệ cất công chăm sóc đã bị héo úa, lá khô rụng đầy sân, ang nước trong sân mở toang hoang soi bóng mây trời. Những chi tiết ấy khiến Linh Lan vô cùng khó hiểu. Bình thường Huệ là người rất cẩn thận, hay quét tước và chăm sóc vườn tược, mới có mấy hôm mà cảnh vật trở nên hoang tàn như vậy, rõ ràng là do không có bàn tay người đụng đến. Chẳng lẽ… Chẳng lẽ Huệ không còn ở đây hay sao?
Linh Lan hoang mang tự hỏi. Nó vội vã bước lên thềm nhà, tay mở toang cánh cửa ra.
Và hình ảnh đầu tiên mà nó nhìn thấy, chính là bóng tối.
Bóng tối quá dày đặc, thế nên dù đang giữa trưa, ánh sáng từ nơi Linh Lan đang đứng chỉ rọi vào một nửa, soi đúng chiếc bóng đang dang tay của nó, chấm hết, ngoài ra chẳng còn thấy gì. Cửa nẻo đều đóng hết, ngay cả những tia sáng nhỏ nhất cũng không lọt qua nổi. Trong bóng tối dày đặc này, Huệ đang giấu mình ở đâu?
Trong phút chốc, trái tim Linh Lan lại trồi lên rồi thụt xuống, môi nó hé mở, muốn cất tiếng gọi, nhưng cuối cùng lại nuốt tiếng gọi ấy vào lòng. Nó gọi, chắc gì Huệ đã lên tiếng, nếu anh không còn ở đây, thì nó gọi phỏng có ích gì.
Linh Lan mím môi, nó nhẹ nhàng bước vào bên trong, chân suýt vấp phải chiếc ghế nằm chỏng chơ trên nền đất lạnh. Cửa sổ, cửa sổ ở đâu? Linh Lan thầm hỏi, nó cố gắng định vị cửa sổ theo trí nhớ, rồi lần mò từng bước tiến tới gần cuối góc nhà. Chạm tay vào khung gỗ mát lạnh, Linh Lan mừng rỡ, nó liền lần mò chốt cửa, mở toang. Bóng tối tan biến, ánh sáng ùa vào nhà như sóng tràn bờ.
Khi bóng tối tan đi, ánh sáng tìm về, Linh Lan đã nhìn thấy Huệ.
Anh ngồi trên sàn, lưng tựa vào chân giường, đầu ngửa ra.
Hình ảnh đó khiến Linh Lan thở phào nhẹ nhõm. Anh vẫn ở đây, không đi. Thế nhưng sau khi nhẹ nhõm, Linh Lan lại nhíu mày nghi hoặc khi cảm nhận có gì đó bất thường đang diễn ra.
Huệ đang ngồi đó, tay anh vắt lên trán, tay còn lại buông thõng, vết thương vẫn còn dính máu đã khô, mắt nhìn lên trần nhà, toàn thân bất động, yên lặng. Hoàn toàn yên lặng, tựa như đã chết rồi!
Ý nghĩ đó khiến trái tim Linh Lan thốn lên, nó vội vã tiến đến bên cạnh Huệ. Những tưởng khi gặp mình, Huệ sẽ phản ứng, đại loại như “tại sao cô ở đây?” hay gì đó, thế nhưng trái với suy nghĩ của nó, Huệ không những không có phản ứng gì, mà thậm chí anh tựa như cũng chẳng biết đến sự có mặt của nó trong nhà, dù mắt anh vẫn mở và nhìn trừng trừng lên trần nhà.
Vực sâu u tối, lạnh lẽo trong đôi mắt ấy đã biến mất.
Cả ngọn lửa hừng hực cháy cũng biến mất.
Tất cả còn lại, chỉ là sự trống không!
- Nè, anh sao thế?
Sự trống rỗng, vô hồn trong đôi mắt và sự vô cảm trên gương mặt Huệ khiến Linh Lan lo lắng. Nó chạm nhẹ vào tay anh, thì thấy tay anh lạnh ngắt như người đã chết. Rảo bước xem xét một vòng quanh căn nhà, Linh Lan nhận ra tất cả mọi thứ đều không thay đổi kể từ khi nó rời khỏi. Chén trà anh uống dở vẫn còn đó, bó củi anh đặt sau bếp vẫn y nguyên, bếp núc tro tàn, lạnh ngắt, chứng tỏ không ai nhóm lửa nấu cơm đã lâu rồi.
Linh Lan thẫn người ra, bối rối, bàn tay xiết lại, đôi mắt ráo hoảnh, bờ môi mím chặt. Ba ngày, nó về Quy Nhơn đã ba ngày. Ba ngày qua Huệ đã làm gì? Tại sao tất cả mọi thứ đều không thay đổi, đều vẫn y nguyên như lúc nó ra đi? Tại sao lại như thế? Lẽ nào anh muốn tuyệt thực, lẽ nào anh muốn nhịn đói, lẽ nào anh muốn chết, lẽ nào anh không còn muốn sống nữa hay sao?
Linh Lan vội vã quay lên nhà trên. Nó nôn nóng lay vai Huệ, miệng gọi không ngừng, nhưng đáp lại nó chỉ là sự bất động. Mắt anh vẫn nhìn đăm đăm trên trần nhà, nhưng ánh lửa sự sống đã tắt trong đôi mắt ấy. Anh ngồi đó, mặc kệ bên ngoài nắng mưa thay đổi, mặc kệ ngày nối nhau qua. Anh chôn mình tại đây, nằm trong bóng tối, đôi mắt lang thang vô định. Nơi đây, ánh sáng không tràn vào được, không cách gì chạm vào anh được. Đã biết rõ mọi chuyện, sự thật đã bị phơi bày, tại sao lại không xuất hiện. Là tại anh sao, là muốn nhường sự sống lại cho anh ư? Anh đi đến bước đường này là vì cái gì? Vì cái gì người đó biết rõ hơn ai hết, vậy mà muốn nhường thân xác này, sự sống này lại cho anh sao? Anh không cần.
Được!
Nếu đã không cần…
Nếu đã muốn chết, cả hai sẽ cùng chết!
- Huệ! Anh có nghe tôi gọi không? Mau tỉnh lại đi, tỉnh lại? Mấy ngày qua anh có biết Tây Sơn xảy ra chuyện gì không?
Một sự im lặng tuyệt đối.
- Anh có còn là tướng quân không vậy? Phan Văn Lân đang nóng lòng nhận hồi âm của anh, anh ấy có chuyện quan trọng và mật thiết, liên quan đến sự tồn vong của Tây Sơn để báo lại cho anh đó!!
Không có câu trả lời.
- Huệ, anh có nghe tôi nói không? Huệ!
Linh Lan quát lớn, nó đã cố sức vực anh dậy, nhưng có một sức mạnh vô hình nào đó níu anh lại, khiến nó gần như đổ vật lên người anh mà không thể vực Huệ ngồi dậy được. Nó la, nó hét, nó cố sức lay, thậm chí đánh vào anh, nhưng dù có dùng bao nhiêu biện pháp đổi lại rốt cuộc vẫn là sự im lặng, là sự trống rỗng đến đáng sợ. Mọi nỗ lực của Linh Lan chỉ là con số không. Huệ vẫn ngồi yên đó, đôi mắt vô cảm, tựa tất cả ngoài kia đã không còn quan trọng với anh nữa rồi.
Một Nguyễn Huệ bình tĩnh, luôn giải quyết ổn thỏa mọi chuyện là đây sao?
- Huệ! Ngồi dậy đi nào! Có nhớ những gì anh đã dạy tôi không? Nguyễn Huệ mà tôi biết không phải là người vô trách nhiệm với sự sống chết của Tây Sơn như thế.
Chẳng lẽ bí mật mà nó nói ra đã tác động đến anh lớn đến thế sao?
- Anh có nghe tôi nói không? Chẳng lẽ anh muốn chết sao?
Ngay khi thốt ra lời nói đó, Linh Lan đã khựng lại. Anh bây giờ vốn đâu phải là người sống. Anh đã chết, chết từ lâu lắm rồi.
Một người sẵn sàng hy sinh mạng sống của mình, sẵn sàng làm người xấu, quay lưng với cả thế giới, chấp nhận bị lãng quên như thế, chỉ vì anh trai của mình.
Yêu thương đến mức quên cả bản thân mình như thế. Nay lại muốn từ bỏ tất cả hay sao…
Một giọt nước mắt bỗng nhiên rơi xuống, giọt lệ ấy từ khóe mắt Linh Lan. Giọt lệ long lanh, âm ấm, lặng lẽ chảy dài trên má, đọng lại trên cằm và rơi tí tách trên gương mặt vô cảm của Huệ.
Nó đang đau lòng, rất đau lòng.
Nhưng tại sao lại đau lòng?
Từ trước đến nay nó đâu có thích gì Huệ, thậm chí là ghét anh, vô cùng ghét. Vậy tại sao lại rơi nước mắt, tại sao cổ họng lại nghèn nghẹn, tại sao trái tim cứ thốn lên, nhấp nhô, và những giọt nước mắt lặng lẽ nối đuôi nhau trào ra. Linh Lan không biết, thật sự nó chẳng thể hiểu nổi bản thân mình nữa rồi!
- Nhìn tôi này. Nghe tôi nói đây!
Bờ môi đào mím lại, Linh Lan quỳ phía trước mắt anh, vươn hai tay ra, chạm vào gương mặt lạnh ngắt của Huệ, xoay đôi mắt anh nhìn thẳng vào đôi mắt nó, rồi nói chậm rãi từng lời.
- Khi khám phá ra bí mật của anh, tôi đã bảo Văn Bình không xuất hiện, tất cả là tại anh. Nhưng sự thật không phải thế, tôi sai rồi. Anh có biết không, Văn Bình không xuất hiện, là vì anh ấy yêu thương anh, thật sự rất yêu thương anh, nhiều như anh yêu thương anh ấy vậy. Cho nên đừng thế này, anh ấy sẽ rất đau lòng, có biết không. Còn sống là còn cơ hội, anh không muốn gặp lại anh ấy sao?
Đôi mắt vô cảm dần động đậy.
Sâu trong đáy mắt, có làn sương mù đang chuyển động, mơ hồ
Huệ nhìn nó. Bất động. Trong đôi mắt mơ hồ ấy là một nhân ảnh xa xa đang mỉm cười với anh. Rồi miệng người ấy mấp máy, vỏn vẹn mấy câu thôi, không thể nghe rõ, nhưng lại khiến đôi mắt anh nhắm lại.
Trái tim vốn đã nghe thấy câu nói ấy là gì rồi.
Huệ, ngủ đi…
★ Chương 133
Hôm nay Trịnh Khải bận việc triều chính nguyên ngày, thế nên anh không có nhiều thời gian dành cho Nguyên Thục. Trịnh Khải là chúa, xung quanh anh là bộn bề công việc, Nguyên Thục là người biết rõ hơn ai hết, nên cho dù buồn, nó vẫn chấp nhận vì không thể ích kỷ giữ anh khư khư bên mình được. Ngồi trong cung Đoan Nguyên thêu thùa hoài cũng chán, Nguyên Thục quyết định mang theo bánh trái sang hoàng cung thăm Nguyên Thiên, vì cũng đã lâu rồi hai chị em chưa gặp nhau.
Ngồi trong kiệu, Nguyên Thục ôm bọc bánh trái, gồm những thứ mà Nguyên Thiên thích nhất, lòng thầm nghĩ em gái mình có lẽ bây giờ đang rất hạnh phúc. Từ một cô gái ngây thơ, còn chưa hiểu hết chuyện đời, ấy vậy mà bây giờ đứa em gái bé bỏng của nó đã biết yêu, biết nhớ, biết thương và biết chăm lo một người nào đó. Nhìn Nguyên Thiên rạng ngời khi ở bên cạnh chàng trai ấy, Nguyên Thục nửa mừng, nửa lo và nửa do dự. Mừng là Nguyên Thiên đã tìm được người mình yêu, lo là vì không chắc chàng trai ấy sẽ đem lại hạnh phúc cho em gái nó, còn do dự là vì nó cảm nhận rằng chàng trai ấy không đơn giản như gương mặt trẻ con đáng yêu ấy chút nào.
Suy nghĩ miên man, kiệu đã dừng trước cửa Hoàng cung từ lúc nào, được lệnh bài Trịnh Khải cấp, Nguyên Thục dễ dàng vào cửa mà không ai gặng hỏi. Bước chân tới Nội điện, Nguyên Thục tính cất tiếng gọi Nguyên Thiên, nhưng nghĩ sao đó nó lại ra hiệu cho hai người lính gác cửa chớ lên tiếng hay gây tiếng động, mà rón rén từng bước một, áp sát tới cửa, rồi nghiêng đầu ngó vào xem Nguyên Thiên đang làm gì.
Vừa mới hé mắt nhìn vào Nội điện, Nguyên Thục tròn xoe mắt khi nhìn thấy Nguyên Thiên đang quét dọn phòng ốc. Thật là lạ chưa, khi còn ở hiện tại, Nguyên Thiên chẳng bao giờ mó tay vào việc nhà, đi học, tập võ xong là về lăn ra ngủ, phó thác tất tần tật việc nhà cho Nguyên Thục, khiến nó ngày nào cũng rầy la em mình vì tội lười biếng. Những lúc ấy, Nguyên Thiên còn phồng má lên bướng bỉnh, khi Nguyên Thục bảo với cái tính lười biếng như nó, sau này lấy chồng rồi thì sẽ như thế nào.
Sau này lấy chồng rồi thì sẽ như thế nào?
Nhớ đến lời rầy la của mình, Nguyên Thục bụm miệng cười, chẳng phải bây giờ nó đã thấy em gái mình đang chăm chỉ làm việc nhà hay sao. Đúng là tình yêu khiến người ta thay đổi rất nhiều. Từ một cô gái không mó tay vào việc nhà, bây giờ lăn xả vào dọn dẹp. Từ một cô gái ngang bướng, cộc lốc, tính tình như con trai, nay bỗng trở nên dịu dàng, e ấp khi đứng trước mặt người ấy. Ôi, Nguyên Thiên, đứa em gái ngây thơ của nó đây sao.
Trong tà áo hồng nhạt tươi tắn, Nguyên Thiên thoăn thoắt dọn dẹp, hết phủi bụi bám trên giá sách, lại lau ly tách cho sạch những cặn trà bám vào. Em gái nó nhanh nhẹn, linh động, gương mặt bầu bĩnh ửng hổng, chốc chốc lại dừng tay, không biết nghĩ gì mà bật cười khúc khích một mình, khiến Nguyên Thục đứng bên ngoài cũng phải nheo mắt, cất tiếng bông đùa.
- Em có chuyện gì mà cười vui vẻ thế?!
Nguyên Thục vừa lên tiếng, Nguyên Thiên giật nảy mình, sự bối rối hiện rõ trên gương mặt bầu bĩnh, nhưng cũng không giấu sự vui mừng khi thấy Nguyên Thục đến thăm.
- Chị! Chị đến từ bao giờ? Mau vào đây!
- Chị đến từ lúc em đang chăm chỉ quét dọn nhà cửa kia. Nhớ ngày xưa, khi rầy la em, chị còn bảo cứ thế này, chả biết khi lấy chồng em sẽ ra sao. Nay em gái lười biếng của chị trở thành bà nội trợ đảm đang thế kia, thật không ngờ!
- Chị này…
Bị Nguyên Thục trêu chọc, Nguyên Thiên chỉ thốt lên hai tiếng “chị này…” đầy ngượng ngùng rồi im bặt. Vốn không phải là người giỏi ăn nói, nên Nguyên Thiên chẳng biết nói thế nào khi bị chị trêu chọc. Biết Nguyên Thiên xấu hổ khi mình lôi chuyện xưa tích cũ ra nói, Nguyên Thục mỉm cười, bóp nhẹ tay em gái nó, rồi ngồi xuống ghế, trải bọc bánh lên bàn.
- Hôm nay chị sang thăm em, có mang mấy món mà em thích nhất đây.
Thấy trong bọc toàn những thứ hoa quả, bánh trái ngon lành, còn nóng hôi hổi, Nguyên Thiên mừng lắm, lát nữa, Duy Khiêm hội họp trở về, có bánh để anh ăn cho lót dạ, trước khi cơm trưa dọn lên. Nhìn Nguyên Thiên ôm bọc bánh trái vào lòng, mắt lấp lánh, khỏi nói cũng biết trong lòng Nguyên Thiên đang nghĩ đến ai, Nguyên Thục im lặng giây lát, rồi cất lời.
- Nguyên Thiên này…
- Sao ạ?
- Em thật sự yêu người này sao?
Đang lay hoay đổ nước sôi ra chén cho nguội để Nguyên Thục uống, vì chị mình không thích uống nước trà, Nguyên Thiên đỏ mặt khi nghe Nguyên Thục hỏi tới chuyện tình cảm của mình. Vốn là người thẳng thắn, nghĩ gì nói đó, ruột để ngoài da, bao nhiêu suy nghĩ đều hiện cả lên mặt, huống hồ đây lại là chị gái mình, Nguyên Thiên gật đầu, đôi má ửng hồng như trái đào tơ.
Nguyên Thiên gật đầu, tức là thừa nhận, nhưng Nguyên Thục không chịu buông tha, mà hỏi tới.
- Yêu nhiều không?
- Nhiều!
- Nhiều là nhiều bao nhiêu?
- Nhiều… như chị đối với Đoan Nam vương đó!
Nghe Nguyên Thiên trả lời, Nguyên Thục im lặng, nhìn đăm đăm em gái mình. “Nhiều như chị đối với Đoan Nam vương”, quả nhiên không có câu trả lời nào hơn thế này được. Hơn ai hết, nó là người biết rõ nhất mình yêu Trịnh Khải nhiều như thế nào, bất chấp mọi thứ để bảo vệ anh ra sao, vậy thì Nguyên Thiên cũng yêu Duy Khiêm nhiều như thế, cũng bất chấp mọi thứ để bảo vệ anh ta hay sao.
Ý nghĩ đó vừa thoáng qua trong đầu Nguyên Thục, nó đã cảm thấy bứt rứt không yên. Duy Khiêm chắc chắn không phải là người có thể mang đến hạnh phúc cho em gái nó. Lúc trước, em gái nó làm cận vệ cho Duy Khiêm, chẳng biết vì nguyên nhân gì mà lại bị đuổi ra khỏi Nội điện, rồi sau đó càng không biết lý do gì lại đón em gái nó về.
Trước sự khuyên giải của Nguyên Thục, rằng hãy suy nghĩ thật kỹ trước khi nhận lời, nhưng dường như Nguyên Thiên đã chờ đợi điều này rất lâu, thế nên em gái nó đã dọn từ phủ của Duy Cận sang Nội điện của Duy Khiêm ngay, mà không cần phải suy nghĩ đến lần thứ hai, bất chấp sự khuyên răn của nó. Kết quả là một thời gian sau, nó lại thấy Nguyên Thiên ôm đồ đạc đến cung Đoan Nguyên vào nửa đêm khuya khoắt, nước mắt ngắn dài, nét mặt vô cùng đau khổ vì bị bỏ rơi, khiến Nguyên Thục vô cùng đau lòng. Nguyên Thiên trước nay là người rất kiên cường, chích ngừa, nhổ răng, bị gãy xương, hay mất quyền thi đấu khi bị đối thủ chơi xấu vẫn ngẩng cao đầu, không rơi một giọt nước mắt nào, thế mà hôm ấy, trời mưa tầm tã, Nguyên Thiên co ro đứng trước cung Đoan Nguyên, nước mưa nước mắt hòa làm một, nhưng hỏi mãi cũng không chịu nói nguyên do vì sao, thế là hai chị em cùng ôm nhau khóc dưới trời mưa.
Tuy Nguyên Thiên không chịu nói ra, nhưng Nguyên Thục thừa biết nguyên do làm em gái nó đau lòng đến thế, chỉ có thể là chàng trai đó. Đã khuyên Nguyên Thiên nghĩ thật kỹ trước khi quay trở về nơi ấy, vì Nguyên Thục sớm đoán ra rằng nhất định Nguyên Thiên sẽ chịu ấm ức, giờ thì kết quả đã chứng minh suy nghĩ của nó là không sai. Nhìn Nguyên Thiên khóc sưng húp cả mắt, Nguyên Thục vô cùng thương tâm. Một lần nữa nó lại khuyên em mình hãy suy nghĩ thật kỹ trước khi quyết định, tránh làm mình bị tổn thương nhưng Nguyên Thiên chỉ im lặng, không trả lời.
Ngày hôm trước còn khóc vùi trong vòng tay nó như thế, Nguyên Thục những tưởng em gái nó sẽ nằm liệt giường, chẳng buồn động đậy, thế nhưng sang ngày hôm sau, Nguyên Thiên đi đứng bình thường, nhưng có trêu gì, chọc gì cũng chỉ cười gượng gạo, gương mặt buồn thiu, thường ngóng ra ngoài cửa sổ, thả hồn tận nơi nào đó. Lúc ấy, Nguyên Thục dù rất lo lắng cho Nguyên Thiên, nhưng nó vẫn thở phào nhẹ nhõm. Thế cũng tốt, cắt đứt sớm trước khi có tình cảm sâu đậm thì sẽ tốt hơn cho em gái nó. Qua sự việc này, Nguyên Thục đã bắt đầu nghiêm túc để ý đến Duy Khiêm. Thật ra anh ta là người như thế nào, và làm sao nó có thể yên tâm giao em gái nó cho kẻ đã làm trái tim em mình tan vỡ như thế chứ. Trái với Duy Khiêm, dù chỉ mới tiếp xúc vài lần, nhưng thông qua buổi yến tiệc nhỏ của Duy Cận mà Trịnh Khải đưa nó đi tham dự, Nguyên Thục dã nhận thấy Duy Cận rất quan tâm, chăm sóc em gái mình. Với một người tử tế, quan tâm đến Nguyên Thiên, lại rộng lượng tha thứ cho những sai phạm của em gái nó, thì Nguyên Thục rất yên tâm khi Duy Cận và Nguyên Thiên trở thành một đôi.
Hài lòng với sự phối hợp đó, Nguyên Thục ra sức vun đắp cho em gái mình và Duy Cận. Thế nhưng mọi nỗ lực của nó đều công cốc khi trái tim Nguyên Thiên chỉ hướng về Duy Khiêm mà thôi. Chẳng lẽ một người tử tế, tốt bụng lại chìu em gái nó như thế, lại thua một người tàn nhẫn, chỉ toàn làm em gái nó đau lòng thôi sao.
Với suy nghĩ như thế, lại nghĩ đến tương lai của em mình, Nguyên Thục không chịu thua. Là chị em sinh đôi, Nguyên Thục hiểu rõ Nguyên Thiên hơn ai hết, đã không yêu thì thôi, nhưng nếu yêu sâu sắc một người nào đó, Nguyên Thiên nhất định sẽ vì người đó mà vào sinh ra tử, không nề hà, mà nó thì chẳng muốn em mình phải “tử”, nên tìm cách để cho em mình “sinh”. Chính vì thế, Nguyên Thục không cam lòng chịu thua, nó phải suy nghĩ, nó phải tìm mọi cách để đưa Duy Cận và Nguyên Thiên đến với nhau. Nhưng nó chưa kịp thực hiện, thì mọi chuyện lại thay đổi đến bất ngờ.
Duy Khiêm đích thân đến đón Nguyên Thiên trở về.
Ngay khi biết được điều đó do lính gác báo lại, Nguyên Thục đã dặn dò A Đào và A Vân cẩn thận, không được cho Nguyên Thiên biết, rồi thân chinh ra trước cửa Tuyên Vũ để gặp Duy Khiêm, khuyên anh ta quay trở về vì nó sẽ không giao Nguyên Thiên cho người đã làm em mình đau lòng được. Khi nghe Nguyên Thục nói, Duy Khiêm yên lặng không nói gì, anh chỉ mỉm cười, nụ cười đó làm Nguyên Thục lấn cấn, lòng nó trỗi dậy một linh cảm không hay. Còn chưa kịp phản ứng thì chẳng hiểu tại sao Nguyên Thiên lại biết Duy Khiêm đến phủ chúa đón mình về, nên chạy ra cửa Tuyên Vũ, những giọt lệ long lanh mấp mé bờ mi.
- Nguyên Thiên, không được. Chị không cho phép em ở bên cạnh người này đâu!
Vội nắm lấy tay Nguyên Thiên, kéo về phía mình, Nguyên Thục cau mày, nói từng chữ. Quay nhìn chị mình, Nguyên Thiêm mím môi, những giọt nước mắt trào ra. Mấy ngày qua không hề khóc, chỉ khi nhìn thấy Duy Khiêm, bao nhiêu thương nhớ trong lòng lại vỡ òa.
- Chị, muộn quá rồi. Em không thể!
Muộn quá rồi, nghe ba chữ ấy thốt từ đôi môi run rẩy của Nguyên Thiên, Nguyên Thục sững người lại. Nó luôn tự nhủ rằng tình cảm của Nguyên Thiên đối với Duy Khiêm chưa sâu đậm, có thể vãn hồi, nhưng bây giờ chính Nguyên Thiên thừa nhận, rằng không thể quay trở lại, Nguyên Thục biết rằng em gái nó đã nếm trái cấm của ái tình rồi.
- Nếu như em không nghe lời chị, sau này có chuyện gì, chị sẽ không quan tâm nữa đâu!
Nguyên Thục xiết chặt tay Nguyên Thiên, mắt nó nhìn thẳng vào em gái mình, giọng cương quyết, nhưng lại run run. Đưa mắt về phía Duy Khiêm đang chờ đợi, rồi lại nhìn chị mình, Nguyên Thiên hiểu một khi chị mình đã nói không quan tâm, thì sau này có đau lòng, hay bị bỏ rơi thêm một lần nữa, Nguyên Thục cũng sẽ không quan tâm. Nhưng, thật sự đã không thể quay trở lại rồi…
- Vâng!
Nét mặt kiên quyết, không hối hận của Nguyên Thiên, đến bây giờ Nguyên Thục vẫn còn nhớ như in. Ở bên cạnh Duy Khiêm, Nguyên Thiên chỉ càng thêm đau khổ. Nghiêm túc nhìn nhận lại, Nguyên Thục rất không có thiện cảm với Duy Khiêm. Lúc đến mừng sinh thần Thánh mẫu cũng thế, trước đó, Thánh mẫu đã cố ý dìm chết Duy Khiêm, thế mà anh ta vẫn đến, chúc mừng sinh thần Thánh mẫu với vẻ mặt bình thản, cứ như chưa từng có chuyện gì xảy ra, chỉ riêng chuyện này thôi, Nguyên Thục cảm thấy người đó không hề đơn giản. Duy Khiêm sau này sẽ kế thừa ngôi vua, với một người không đơn giản như anh, liệu có chịu ngồi yên với cái ngôi vua, nhưng quyền lực lại tập trung ở phủ chúa hay không…
Nguyên Thục càng suy nghĩ, càng lo lắng. Duy Khiêm rất được lòng người, hiện tại trong hoàng cung và trong triều đình số lượng ủng hộ Duy Khiêm là không ít, nếu Duy Khiêm hành động, ngôi chúa của Trịnh Khải chắc chắn bị đe dọa. Để bảo vệ người nó yêu, nó sẽ bất chấp tất cả. Nếu Duy Khiêm có hành động gì gây bất lợi cho Trịnh Khải, nó sẽ không bỏ qua cho anh ta, chỉ ngặt một điều em gái nó lại yêu thương Duy Khiêm, cũng như nó, bất chấp tính mạng mà bảo vệ cho người ấy. Nguyên Thiên là đứa em gái ruột thịt duy nhất của nó ở nơi này, nếu như hai chị em ở hai đầu chuyến tuyến, thì nó có nỡ xuống tay với em gái nó không…
Có….
Hay không?
Nguyên Thục im lặng, nó bóp trán, thôi không suy nghĩ đến những chuyện đó nữa. Dù miệng nói không quan tâm Nguyên Thiên, thế nhưng cuối cùng, nó vẫn không kềm lòng được mà qua thăm em gái mình. Nó sợ, sợ Nguyên Thiên ở bên đó sẽ không hạnh phúc, lo Nguyên Thiên ở bên đó chỉ toàn chịu đắng cay, thế nhưng xem ra nó đã lầm. Nguyên Thiên trông rất hạnh phúc, gương mặt em gái nó luôn rạng rỡ, ửng hồng, đôi mắt long lanh, nói huyên thuyên chuyện tình cảm của cả hai chị em, không để ý đến sự khác lạ của nó. Nếu sau này mọi chuyện sẽ thay đổi, em gái nó sẽ như thế nào?
- A…
Đang hào hứng hỏi chuyện về Trịnh Khải, Nguyên Thiên khẽ kêu a lên một tiếng, mắt long lanh, trước đôi mày lá liễu nhíu lại của Nguyên Thục. Nguyên Thiên vội đứng lên, chạy ra cửa, miệng cười tươi như hoa nở để mừng anh chàng hoàng tôn mặt lạnh đi hội họp về. Từ trong nhà ngó ra, chả biết Nguyên Thiên ríu rít những gì, mà chỉ thấy Nguyên Thiên đỏ ửng mặt, sung sướng, khi Duy Khiêm hôn lên vầng trán mịn màng của mình. Tương tự như ngày hôm ấy, khi Nguyên Thiên lao vào vòng tay mở rộng của Duy Khiêm, Nguyên Thục có thể cảm nhận được niềm hạnh phúc của em mình khi nhận được cái ôm xiết chặt từ người mình yêu thương. Tâm tư của Nguyên Thiên bây giờ, Nguyên Thục hiểu rõ hơn ai hết, bởi vì nó cũng có tình yêu khắc cốt ghi tâm hệt như em gái mình.
Nắm tay Nguyên Thiên bước vào nhà, đôi mắt Duy Khiêm nheo lại khi thấy Nguyên Thục. Đưa sách vở cho Nguyên Thiên đi cất, anh mỉm cười đáp lễ lại Nguyên Thục khi nó gật đầu chào. Vẫn gương mặt trẻ con đáng yêu ấy, nhưng trái tim của Nguyên Thục đã lợn cợn khi nhớ đến nụ cười khó hiểu của Duy Khiêm khi anh đến đón Nguyên Thiên trở về.
Chàng trai này, anh ta thật sự đơn giản như vẻ bề ngoài của mình, hay phức tạp như chính nụ cười khó hiểu ấy, Nguyên Thục phải tìm ra câu trả lời.
★ Chương 134
Với suy nghĩ như thế, lẽ ra Nguyên Thục phải tạm biệt Nguyên Thiên ra về theo lẽ thường, nhưng nó muốn tìm hiểu ẩn đằng sau gương mặt trẻ con luôn mỉm cười ấy là những gì, nên nán lại, quyết tâm tìm hiểu những gì mình cần biết. Nhân lúc Nguyên Thiên xuống nhà dưới sắp xếp bánh trái vào đĩa để mang lên, Nguyên Thục hỏi nhẹ nhàng.
- Hoàng thái tôn, đã lâu không gặp, anh vẫn khỏe chứ?
Đang nhấp một ngụm trà thơm do Nguyên Thiên rót, Duy Khiêm ngừng lại, mỉm cười khi Nguyên Thục hỏi. Anh nhẹ gật đầu.
- Đa tạ Tiệp dư đã quan tâm, ta vẫn khỏe!
- Anh khỏe, tôi rất mừng. Thế hôm nay anh biết tôi đến đây, ngoài chuyện thăm Nguyên Thiên ra, thì có chuyện gì không?
Nguyên Thục hỏi, nhưng Duy Khiêm không trả lời, anh chỉ nhìn nó, mỉm cười.
- Tôi đến đây là vì chuyện của em gái tôi. Tuy tôi không biết anh có thật lòng với nó không, nhưng đó là sự lựa chọn của nó, tôi chỉ mong là, ít nhất anh sẽ không làm nó đau lòng, tuyệt vọng như ngày hôm ấy nữa.
Nguyên Thục vừa nói, vừa quan sát sắc mặt của Duy Khiêm, nhưng anh chẳng có biểu hiện gì khác lạ. Đôi mắt nâu mật vẫn lim dim, nụ cười mỉm vẫn ngự trị trên gương mặt đáng yêu ấy. Người này có thể giữ được nụ cười trên môi trong bất kỳ tình huống nào, quả không phải bình thường.
- Tiệp dư quá lo lắng rồi, như người thấy đấy, ta và Thiên nhi vẫn đang hạnh phúc đấy thôi.
- Em gái tôi thật sự đang rất hạnh phúc – Nghe Duy Khiêm đáp lời, Nguyên Thục cười nhẹ – Nhưng nó là em tôi nên tôi biết, còn anh là người ngoài thì làm sao biết?
- Chính thế, vì ta là người ngoài, không phải người thân của Tiệp dư, vậy nên ta hạnh phúc thế nào ta biết. Còn Tiệp dư, làm sao người biết?
- Chính vì không biết, nên tôi mới lo lắng!
- Tiệp dư lo lắng vì không biết, không lo lắng cũng không biết. Chi bằng Tiệp dư không nên lo lắng nữa!
Nguyên Thục nhíu mày. Câu trả lời nghe như nửa đùa nửa thật của Duy Khiêm đã ngăn nó truy vấn về chuyện anh có thật lòng với em gái mình hay không. Anh đã khéo léo chặn trước, thì nó không thể nào tiếp tục vấn đề thật lòng hay không thật lòng này nữa. Sau một phút ngẫm nghĩ, Nguyên Thục đáp lời.
- Thôi được, anh đã nói thế, tôi cũng không hỏi nữa, nhưng tôi cũng không mong lại có ngày Nguyên Thiên nước mắt lưng tròng đến cung Đoan Nguyên tìm tôi vì bị bỏ rơi!
Trước sự nghi ngại của Nguyên Thục, Duy Khiêm chẳng tỏ thái độ nào, anh lại mỉm cười, tiếp tục uống chén trà thơm dở dang trước đó. Ngoái đầu ra nhà sau, nhìn Nguyên Thiên loay hoay sắp xếp bánh trái sao cho đẹp mắt, Nguyên Thục cảm thấy thương. Trông em gái nó kìa, rõ là rất vụng về. Do không biết cách sắp xếp nên chồng bánh vừa cao lên là bị đổ xuống, cứ xếp, rồi lại đổ, đổ rồi lại xếp, thêm Nguyên Thiên lại sợ Duy Khiêm và chị mình ở trên chờ lâu nên cứ luýnh quýnh, thành ra lay hoay mãi mà đĩa bánh vẫn không thành hình.
- Tiệp dư, xin thứ lỗi!
Bên tai Nguyên Thục nghe vọng lại tiếng của Duy Khiêm, nó chưa kịp hiểu ra chuyện gì thì anh đã vén tấm rèm, bước xuống nhà dưới. Nguyên Thục nhìn theo thì thấy anh đến bên cạnh Nguyên Thiên, giúp em gái nó xếp bánh lên đĩa. Có lẽ anh vừa giúp, vừa trêu chọc, vừa rầy la, nên em gái nó ngượng ngùng, đứng mân mê vạt áo, thói quen mỗi khi xấu hổ. Nét mặt bối rối đó, cử chỉ e ấp, lúng túng, tay chân thừa thãi khi đứng trước mặt một người đó, tất cả khiến Nguyên Thục cảm nhận rất rõ ràng niềm hạnh phúc của em gái nó. Nhưng liệu em gái nó có dám chắc Duy Khiêm thật lòng không, hay chỉ là đùa giỡn, khi mà chỉ cần một ánh mắt trìu mến ấy thôi, trái tim em gái nó đã bị người ta chiếm mất rồi.
Nguyên Thục cau mày, càng nghĩ, nó lại càng thấy phát sinh nhiều vấn đề. Chỉ mới vài câu trò chuyện ban nãy thôi, nó đã khẳng định rằng trực giác của mình là đúng, nhưng để chắc ăn thêm, tránh nghi oan cho người khác, tốt nhất là nó tiếp tục thăm dò, sao cho khéo léo nhất, để giải đáp khúc mắc trong lòng mình.
- Chị, chị chờ có lâu không? Em mang bánh đến rồi đây, chị ăn đi!
Nguyên Thục vừa nghĩ đến đó thì Nguyên Thiên cũng vừa mang bánh lên, đặt xuống bàn, hớn hở. Dưới sự trợ giúp của Duy Khiêm, quả nhiên đĩa bánh trông ngon lành hơn hẳn. Nhón lấy một miếng bánh, Nguyên Thục chầm chậm ăn, nó hỏi han Nguyên Thiên vài chuyện, chờ cho Duy Khiêm ăn hết chiếc bánh thứ hai, rồi mới chuyển hướng sang anh bằng một câu hỏi bình thường.
- Hoàng thái tôn, bánh ăn có được không? Nếu không hợp khẩu vị, lần sau tôi sẽ mang món khác đến.
- Không có đâu chị. Ban nãy ở dưới nhà, em có hỏi, ảnh nói bánh chị mang qua ngon lắm!
Duy Khiêm chưa trả lời thì Nguyên Thiên đã vọt miệng nói trước, mặt rạng rỡ, khiến Nguyên Thục ngoài miệng tươi cười nhưng trong lòng lại kêu trời. Nó hỏi câu ấy vì muốn Duy Khiêm trả lời, cốt để thăm dò, ai hay em gái nó lại láu táu trả lời thay, thế thì nó phải chuyển sang đề tài khác thôi.
- Tiệp dư, bánh rất ngon. Nhưng trong nội điện bánh trái cũng nhiều, cứ để người mang bánh sang, e không hay cho lắm.
Có lẽ vì phép lịch sự, Duy Khiêm lên tiếng trả lời câu hỏi của nó, điều đó làm Nguyên Thục phấn chấn thầm. Nó vui vẻ tiếp lời.
- Không sao! Dù sao tôi cũng hay qua đây thăm Nguyên Thiên, lại ngồi trong kiệu, mang theo đâu khó nhọc gì. Vả lại, những thứ này là bánh trái em gái tôi rất thích, ở nội điện không có, nó muốn ăn thì làm sao?
Nguyên Thục vừa nói, vừa mỉm cười, nhưng Nguyên Thiên lại không thể cười được. Sợ Duy Khiêm hiểu lầm, Nguyên Thiên vội thanh minh.
- Không, không phải đâu chị! Những thứ bánh trái em thích đúng là trong Nội điện không có, nhưng cũng có những cái em thích ở bên chỗ chị đâu có!
Vốn muốn giải thích rõ sự việc, nhưng do cái tính thẳng thắn, có sao nói vậy, lại thêm không giỏi trong lời ăn tiếng nói nên rốt cuộc, Nguyên Thiên nhận ra mình càng nói càng tồi tệ hơn. Đang còn bối rối, không biết phải làm sao giữa chị mình và Duy Khiêm thì Nguyên Thục hỏi nhẹ nhàng.
- Vậy em thử nói xem, những cái em thích là gì, mà bên chỗ chị không có nào!
- Cái đó…
Nói đến đây, Nguyên Thiên ấp úng, cứ nhắc mãi hai từ “cái đó…” mà chẳng nói thêm được gì. Phủ chúa tuy gọi là phủ, nhưng so độ bề thế và rộng lớn không kém gì hoàng cung, lại có phần hơn khi trong phủ có món này, nhưng chưa chắc hoàng cung đã có.
“Lính nghìn cửa vác đồng nghiêm ngặt, cả trời nam sang nhất là đây”, Hải Thượng Lãn ông khi lên kinh chữa bệnh cho Trịnh Cán đã viết như thế. Cái câu “cả trời nam sang nhất là đây”, đủ để nói lên sự bề thế và xa hoa của tòa Lượng phủ. Hoàng cung bây giờ chỉ là danh từ để gọi chứ không có thực quyền, thế nên Nguyên Thục hỏi bên Nội điện có gì mà phủ chúa không có, thật không nói phóng lên chút nào.
- Tiệp dư nói không sai, Nội điện bé nhỏ, sao có thể so với phủ chúa rộng lớn. Bánh trong phủ rất ngon, Thiên nhi thích là điều tất nhiên, nhưng để người lúc nào cũng mang bánh trái qua thì thật thất lễ, chi bằng cứ để cho Thiên nhi qua bên đó. Nàng ấy tính tình hiếu động, thích chạy nhảy, ngày nào cũng qua phủ chúa để cho thư giãn gân cốt cũng là điều hay.
Thấy Nguyên Thiên ấp úng, Duy Khiêm nhẹ nhàng lên tiếng. Trước những lời ấy, Nguyên Thục khe khẽ cười.
- Em gái tôi tính tình quả có hiếu động, nhưng nhỡ nó đi đứng thế nào mà vấp té, trầy vi tróc vảy, tôi không yên tâm!
- Tiệp dư ngồi kiệu qua Nội điện, thì Thiên nhi cũng sẽ đi kiệu qua phủ chúa, có gì nguy hiểm đâu mà khiến người không yên tâm. Hơn nữa, Nội điện này cô ấy đã tham quan hết, ngõ ngách thế nào cô ấy đều biết rõ, chỉ có phủ chúa rộng lớn là vẫn còn nhiều điều thú vị cho cô ấy khám phá. Thêm Tiệp dư là ái thiếp của Đoan Nam vương, trong phủ ngoại trừ Thánh mẫu và Thái phi ra, thì không còn ai dám động đến người. Có người ở bên cạnh cô ấy, dẫn cô ấy đi tham quan, lại được ăn những món mà cô ấy thích, ta rất yên tâm!
Mặc dù trên môi Nguyên Thục vẫn giữ nguyên nụ cười nhã nhặn, nhưng trong bụng nó đã biết rằng lại một lần nữa, với lý do để Nguyên Thiên qua phủ chúa tham quan, anh sẽ không gặp Nguyên Thục, không bị nó chất vấn, không bị nó hỏi han về chuyện tình cảm của cả hai. Duy Khiêm đã phong tỏa hết các lối đi của nó, không cho nó một sơ hở nào vì anh trả lời rất kín kẽ. Được, Nguyên Thục nhủ thầm, nếu anh đã ngăn nó qua nội điện thì nó cũng không cần, thay vào đó, nó sẽ thông qua Nguyên Thiên để hỏi về Duy Khiêm một cách khôn khéo nhất. Em gái nó vốn ngây thơ, nó hỏi gì, chắc chắn em gái nó sẽ nói hết. Là người ở bên cạnh Duy Khiêm như hình với bóng, Nguyên Thiên chắn chắn không biết nhiều cũng biết ít về con người thâm trầm này. Biết trước để ngăn chặn trước, còn hơn là sau này mới biết thì trở tay không kịp vì quá muộn rồi.
- Nếu Nguyên Thiên qua phủ chúa thì tốt quá rồi. Tôi ở một mình trong phủ rất buồn chán, có Nguyên Thiên qua thì tôi không còn buồn nữa rồi. Hoàng thái tôn, anh không phiền chứ?
- Tỉ muội tình thâm, hàn huyên tâm sự là chuyện nên làm, có gì đâu mà ta phải phiền. Huống chi, chỉ cần Thiên nhi vui là được!
Nghe câu “ chỉ cần Thiên nhi vui là được”, gương mặt bầu bĩnh của Nguyên Thiên đỏ bừng lên, ánh mắt nhìn Duy Khiêm nồng thắm, môi cười tươi như hoa nở. Về phần Nguyên Thục, dù nó trả lời khéo để Duy Khiêm không nghi ngờ, nhưng trong lời nói của nó vẫn có một phần sự thật. Trong phủ chúa, niềm vui duy nhất của nó chỉ có những giây phút ở bên cạnh Trịnh Khải, nhưng anh phải lo việc chính sự, rất bận rộn. Nguyên Thục biết thế, nên dù buồn, nhưng nó cũng không đòi hỏi anh phải quan tâm tới mình hơn, mà luôn chăm sóc anh bằng việc làm cơm, nấu canh, nấu thuốc bổ, làm những túi hương an thần giúp anh ngủ ngon, vuốt lại tà áo của anh cho thật thẳng khi anh thiết triều.
Ngoài chuyện chăm sóc cho Trịnh Khài và bản thân mình ra, thời gian còn lại, Nguyên Thục học thêu thùa may vá, viết chữ. Đôi khi nó cũng dọn dẹp cung Đoan Nguyên, quét tước hoa viên, nhưng trước những lời khuyên can của A Đào, A Vân vì sợ mình bị khiển trách, rất nhiều lần nó tự nhủ phải chi có em gái nó ở đây, có hai chị em, tất nhiên sẽ vui hơn rất nhiều. Nguyên Thục nghĩ thế, nhưng nó biết không thể nào được. Quy củ hoàng cung rất nghiêm ngặt, không cho phép người trong tử cấm thành ra ngoài. Nguyên Thiên chỉ là một cô cận vệ nhỏ bé, nếu không được ai cho phép, cấp lệnh bài, tất nhiên nó không thể qua phủ chúa được, còn nó cũng không thể ngày ngày đến hoàng cung. Nay Duy Khiêm mở lối, Nguyên Thiên có thể qua phủ chúa chơi, rồi hai chị em sẽ tíu tít tâm sự với nhau, và nó cũng sẽ chẳng còn buồn nhiều vì không có Trịnh Khải ở bên.
Biết được những nỗi buồn của chị, mắt Nguyên Thiên long lanh. Nó nắm lấy tay chị mình, xiết chặt, ủi an.
- Chị! Chị đừng buồn, từ nay em sẽ năng qua chỗ chị chơi hơn mà.
Nhẹ nhàng xiết lấy tay Nguyên Thiên, Nguyên Thục nhìn Duy Khiêm, khẽ cám ơn. Trước lời cám ơn của nó, Duy Khiêm chỉ mỉm cười. Anh cười, nó cười, và Nguyên Thiên cũng cười, nhưng ba nụ cười ấy không hề giống nhau, mà mang những suy nghĩ và sắc thái khác nhau.
Ngoài trời, gió bắt đầu thổi. Ban đầu còn dìu dịu, về sau càng thổi thốc, mạnh mẽ, khiến những tấm màn tre va vào nhau cóc cách, tạo nên những âm thanh trầm đục, mơ hồ…
★ Chương 135
Khi Nguyên Thục trở về cung Đoan Nguyên, trời cũng đã xế trưa. Ban nãy Nguyên Thiên có mời nó ở lại cùng ăn cơm, nhưng Nguyên Thục đành từ chối em nó vì ba nguyên do.
Thứ nhất, nó không tiện phá hoại không khí ấm áp, thân mật giữa Duy Khiêm và Nguyên Thiên, thứ hai, nó không muốn dùng bữa chung với em mình mà trong lòng không được thoải mái, và thứ ba, mỗi lúc nhìn em gái nó và Duy Khiêm vui vẻ với nhau, lòng nó nhớ đến Trịnh Khải, chỉ mong sao giờ này có anh ở bên cạnh. Thế nên trước sự thất vọng của Nguyên Thiên, Nguyên Thục đứng dậy cáo từ ra về lấy lí do là phải về cung chuẩn bị cơm trưa.
Nắm tay Nguyên Thiên, xiết chặt, tỏ ý sẽ có lần sau, Nguyên Thục lên kiệu ra về. Trên đường về, lòng nó suy nghĩ miên man mọi chuyện, chuyện của bản thân nó, chuyện của em gái nó và sau cùng, là đến chuyện của Duy Khiêm.
Ban nãy khi nó cáo từ ra về, Duy Khiêm tiễn nó bằng một nụ cười. Lúc Nguyên Thục chuẩn bị bước lên kiệu, nó quay đầu nhìn lại, thì thấy Nguyên Thiên đang sửa lại cổ áo Duy Khiêm cho ngay ngắn. Mọi hành động, ánh mắt, nụ cười của Nguyên Thiên chỉ hướng về mỗi Duy Khiêm. Em gái nó đang đắm chìm trong mật ngọt của ái tình, nó có khuyên can cũng như nước đổ lá môn mà thôi.
Nguyên Thục thở dài một hơi, nó ngả lưng dựa vào thành kiệu, co chân, tay vòng lấy đầu gối. Nếu để người khác trông thấy, hình ảnh Tiệp dư của nó chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng, nhưng đây là trong kiệu, có tấm rèm che ngăn lại, nó có thể thả lỏng tay chân thoải mái mà không sợ ai bình phẩm hay dòm ngó, huống chi nó đang có nhiều suy nghĩ vướng mắc trong lòng chưa được giải đáp. Làm sao đây, Nguyên Thục lại thở dài, tại sao nụ cười bí ẩn của Duy Khiêm luôn hiển hiện trong đầu nó, mang đến cho nó cảm giác bất an. Nguyên Thiên là em gái nó, nó không thể bỏ mặc, khuyên răn chưa chắc em gái nó chịu nghe, nên chỉ còn cách đứng từ xa, âm thầm quan sát.
Tổng kết những gì thu thập đến nay, Nguyên Thục đã có thể kết luận rằng Duy Khiêm chắc chắn không phải là một người tầm thường. Qua những gì em gái nó kể, nội tâm của Duy Khiêm tưởng chừng đơn giản nhưng lại khó dò. Có thể mỉm cười với kẻ thù, có thể trả lời từ tốn trước sự công kích của đối phương, có thể khiến mọi người yêu mến không điều kiện, ngay cả một người nghĩ trước ngó sau, hay cẩn thận như nó cũng khó lòng làm được. Bây giờ phải để mắt đến nhất cử nhất động của Duy Khiêm, nếu anh ta có hành động nào khả nghi thì cần phải ngăn chặn ngay tức khắc. Sau này Duy Khiêm sẽ là vua, và anh ta có thể đe dọa đến phủ chúa nghiêm trọng khi muốn nắm thực quyền trong tay. Thông minh, điềm tĩnh lại giỏi che giấu người khác, muốn ngăn chặn Duy Khiêm, việc này đối với nó quả thật rất khó khăn.
Nguyên Thục càng nghĩ, càng thấy bất an. Với một người thông minh như Duy Khiêm, tiền đồ lại sáng lạn, chắc chắn sẽ có nhiều cô gái đủ điều kiện đáp ứng được ngôi vị thái tử phi tương lai, tại sao Duy Khiêm không chọn ai đó trong số các cô gái ấy để có thêm vây cánh vững chắc, mà lại đi chọn đứa em gái hậu đậu, vụng về của nó. Vì Nguyên Thiên thông minh? Không, em gái nó chỉ lanh lợi trong việc võ bị, còn những chuyện khác khá ngây thơ, lại vội vàng, hấp tấp. Vì xinh đẹp? Lại càng không, Nguyên Thiên là em sinh đôi của nó, tức là nhan sắc cũng chỉ ở mức dễ nhìn. Vì giỏi giang? Không hề, nội sắp đĩa bánh thôi cũng đã đổ lên đổ xuống, nói chi thêu thùa may vá. Vậy tại sao giữa hàng trăm cô gái xinh đẹp, giỏi giang, thiên kim tiểu thư của các vị quan lại trong triều, Duy Khiêm không chọn ại khác mà lại là em gái nó?
Nghĩ đến đây, Nguyên Thục bất giác thẳng lưng lên, người nó hơi ngả về phía trước, như đang nhìn xuyên qua tấm rèm đỏ. Chẳng lẽ… chẳng lẽ do Nguyên Thiên là em gái nó hay sao?
Nguyên Thiên là em gái nó, mà hiện tại nó là ai, là Tiệp dư trong phủ chúa, là thiếp yêu của Đoan Nam vương. Người bên trong thì không nói, nhưng người ngoài nhìn vào sẽ cho rằng nó có chỗ dựa, có thực quyền. Nó là người thân cận nhất với Trịnh Khải, nếu Duy Khiêm chọn Nguyên Thiên, thì nó sẽ trở thành chị vợ của anh, anh và Trịnh Khải sẽ trở thành anh em cột chèo, mối quan hệ này sẽ tiến thêm một bước đó là tình thâm trong gia đình. Trịnh Khải rất coi trọng Duy Khiêm, lại càng coi trọng tình cảm gia đình. Nếu Duy Khiêm lợi dụng mối quan hệ gia đình đó để xây dựng lòng tin nơi Trịnh Khải, rồi từ đó kết giao quan lại, tạo thêm nhiều vây cánh, tăng thêm lực lượng ủng hộ sẵn có trong hoàng cung, nội cung ngoại ứng, thế thì việc tiếm quyền chỉ là vấn đề thời gian và ngôi chúa của Trịnh Khải sẽ bị lung lay bất cứ lúc nào mất thôi.
Nguyên Thục nhíu mày lại. Vậy là đã rõ, Duy Khiêm chắc chắn chẳng có tình cảm gì với em gái nó, mà chỉ đang lợi dụng thôi. Làm sao anh ta có thể chân thành với Nguyên Thiên, khi hết lần này đến lần khác bỏ rơi em gái nó, hết lần này đến lần khác đã làm tổn thương em gái nó. Nguyên Thiên ơi là Nguyên Thiên, sao em khờ dại vậy chứ, sao lại bất chấp những thương tổn trước đó mà ở lại bên cạnh con người vô tình ấy. Mới hôm trước bị người ta bỏ rơi, khóc đến sưng húp cả mắt, đau lòng tưởng như đứt ruột gan, ấy thế mà hôm sau chỉ cần thấy người đó thôi, đã mừng phát khóc và bất chấp lời khuyên ngăn của chị để lao vào vòng tay của người ấy. Nên nói em gái nó là ngốc nghếch, khờ khạo hay là can đảm đây!
Nguyên Thục vò nát mép áo, lòng rối rắm vô cùng. Duy Khiêm chắc chắn sẽ gây bất lợi cho Trịnh Khải. Muốn bảo vệ anh, bằng mọi giá nó phải ngăn chặn Duy Khiêm, nhưng liệu nó có thể hy sinh Nguyên Thiên được không khi chắc chắn em gái nó sẽ bảo vệ Duy Khiêm, hệt như nó bảo vệ người mình yêu vậy. Nó và Duy Khiêm, chắc chắn nó sẽ không ngần ngại triệt tiêu anh và những ai ủng hộ anh, ngán đường nó, nhưng còn Nguyên Thiên, nó có thể nhẫn tâm triệt tiêu luôn cả em gái mình không…?
Nguyên Thục thẫn thờ.
Tâm trạng thẫn thờ ấy như quả bóng xì hơi trong lòng Nguyên Thục, khiến trái tim nó trĩu nặng. Dẫm lên những viên đá cuội to tròn, bước chân Nguyên Thục lạo xạo, trái tim Nguyên Thục lao xao, khi nỗi lo mang tên Duy Khiêm cứ quanh quẩn trong lòng nó, như đám mây mù che khuất mặt trời, mãi chẳng chịu bay đi.
- Thục nhi, nàng sao thế?
Đang bứt rứt không yên, Nguyên Thục vội ngẩng đầu lên khi giọng nói ấm áp quen thuộc cất lên, cùng mùi trầm hương dịu dàng phảng phất trong không khí nhè nhẹ bao bọc lấy nó. Trong phút chốc, những lo lắng không yên tích tụ nơi Nguyên Thục như làn sương mỏng tan đi khi nhìn thấy tà áo xanh lục lấp lánh trong đôi mắt nó. Trịnh Khải đang đứng cạnh bụi trúc nhỏ, đôi mày kiếm nhíu lại khi nhận ra gương mặt chất chứa tâm sự của nó. Bao giờ cũng thế, cứ mỗi lần lo lắng, nếu Trịnh Khải xuất hiện, y như rằng Nguyên Thục quên mất nỗi lo trước đó là gì, mà cõi lòng chợt trở nên bình yên lạ thường. Nó yêu cái sự bình yên ấy, yêu cái cảm giác an lành, vô ưu, vô lo mà chỉ ở bên anh nó mới cảm nhận được. Từng bước, từng bước một, Nguyên Thục như chú chim non sà vào lòng Trịnh Khải, vòng tay ôm lấy anh, mắt nhắm lại, để cho nỗi nhớ nhung theo cái ôm xiết chặt, lẩn khuất hương trầm dịu dàng.
Hôm nay buổi thiết triều xong sớm, Trịnh Khải thay áo xong liền đến cung Đoan Nguyên định dùng bữa chung với Nguyên Thục, khi đến nới mới hay Nguyên Thục đã vào hoàng cung thăm Nguyên Thiên từ sáng sớm, thế nên anh quyết định ngồi trong phòng chờ Nguyên Thục trở về. Đọc đã hết một cuốn sách, bóng dáng Nguyên Thục vẫn không thấy đâu, Trịnh Khải đã bắt đầu sốt ruột, anh mang theo con dao nhỏ cùng vài khúc gỗ ra ngoài hoa viên ngồi để đón Nguyên Thục, trong thời gian chờ đợi thì tiện tay khắc luôn vài con thú gỗ để làm quà tặng cho nó. Thời gian lặng lẽ trôi qua, Trịnh Khải khắc đến con thứ ba thì Nguyên Thục trở về, nhìn thấy gương mặt đong đầy ưu tư của nó, Trịnh Khải rất lo lắng. Anh cất tiếng hỏi, và ôm lấy Nguyên Thục khi nó sà vào lòng mình.
Những ngày gần đây, việc triều chính rất bận rộn, Nghệ An lại gặp thiên tai, nạn đói xảy ra, quan lại địa phương ăn bớt lương thực tiếp tế khiến người dân phải lâm vào cảnh chết đói, mùa màng thất bát, thiệt hại không biết bao nhiêu mà kể. Ngồi nghe quan lại trong triều báo cáo tình hình, đôi mày kiếm của Trịnh Khải vốn đã ưu tư, nay lại càng nhiều ưu tư hơn. Lợi dụng lúc nạn đói hoành hành, giá gạo lên cao gây ra cảnh thiếu ăn. Các vùng thôn quê bị đói tụ tập thành đoàn đi cướp, gây ra nổi loạn, khiến quân lính phải ra tay trấn áp những cuộc bạo loạn này.
Để ngăn chặn việc bạo loạn cùng nạn đói, những biện pháp khẩn cấp được đề ra, các kho lương trữ lúa cho việc cứu tế được thiết lập, thêm vào đó, người nghèo có thể mua gạo giá rẻ hơn bình thường, đồng thời thiết lập những kho trữ lúa ở các tỉnh và phủ, huyện, khi xảy ra đói kém thì mở ra để phát chẩn cho dân nghèo. Còn đối với nạn tham nhũng, triều đình ban hành các biện pháp cùng hình phạt để nghiêm trị, ai tố cáo quan tham nhũng thì được thưởng công, còn những kẻ bị tố cáo sẽ bị trừng phạt đích đáng. Chính vì câu hỏi khó đó đã tạm thời được giải quyết, hôm nay Trịnh Khải mới có thời gian dành cho Nguyên Thục. Thời gian qua vì việc triều chính, anh biết Nguyên Thục đã rất buồn khi thời gian cả hai ở bên nhau không nhiều, thế nên, khi nó sà vào lòng anh, Trịnh Khải yên lặng vuốt nhè nhẹ suối tóc đen mượt ấy. Nguyên Thục đang phiền muộn, nhưng là vì chuyện gì?
Rúc vào lòng Trịnh Khải, Nguyên Thục rất bình yên và hạnh phúc. Mấy ngày qua do anh không có thời gian, và nó cũng biết anh bận việc triều chính, nên không đòi hỏi gì cả, chỉ lặng lẽ chăm sóc cho anh mà thôi. Nay anh đến cung Đoan Nguyên tìm nó, chờ nó, Nguyên Thục rất rất vui, nó trân trọng những giây phút riêng tư hiếm hoi này, nên bản tính nhõng nhẽo lại trỗi dậy, chỉ muốn ở trong vòng tay ấm áp của anh mãi như thế này thôi.
- Nàng xem những con vật này thế nào, ta làm tặng nàng đấy!
Dẫn Nguyên Thục đến chiếc bàn đá, Trịnh Khải để Nguyên Thục ngồi lên chân mình, vòng tay choàng qua người nó, rồi hôn lên má của nó khiến gương mặt Nguyên Thục đỏ bừng vì sung sướng. Mân mê những con thú gỗ do Trịnh Khải khắc trên tay, đôi mắt Nguyên Thục lấp lánh nắng. Nó đã mong chờ giây phút êm ấm này từ lâu rồi, bây giờ ở bên cạnh anh, được ở trong vòng tay anh, cảm nhận tình yêu cùng sự che chở của anh, Nguyên Thục chỉ mong sao thời khắc này kéo dài mãi mãi thôi.
- Nàng có gì muốn nói với ta không?
Thì thầm qua vành tai nhỏ nhắn của Nguyên Thục, Trịnh Khải hỏi, giọng nhẹ nhàng. Câu hỏi của anh khiến Nguyên Thục ngập ngừng. Trịnh Khải quan tâm đến nó, tất nhiên nó rất vui, nhưng nó có nên nói cho anh biết những suy nghĩ của nó không? Nếu anh biết, anh có phiền muộn không, có ưu tư không? Nếu thế thì nó chẳng muốn nói chút nào.
- Em…
- Sao?
Nguyên Thục đắn đo, nó không muốn giấu Trịnh Khải bất cứ gì cả, nếu nó mong muốn anh sẻ chia những ưu phiền của mình cho nó, thì nó cũng phải nói ra mối lo lắng của nó với anh, hơn nữa, nó cũng muốn biết anh đôi với Duy Khiêm ra sao. Quyết định như thế, Nguyên Thục hít vào một hơi thật lâu, rồi đáp lời.
- Hôm nay em đến thăm Nguyên Thiên. Anh đã biết chuyện chưa, em gái em và Duy Khiêm quen nhau rồi đấy!
Trước thông tin mà Nguyên Thục tiết lộ, Trịnh Khải chỉ mỉm cười không nói gì. Biểu hiện ấy khiến Nguyên Thục lo lắng, nó lại nói tiếp.
- Nhưng mà em cảm thấy lo lắm, em có cảm giác rằng Duy Khiêm không thật lòng với Nguyên Thiên, lại lợi dụng tình cảm của em gái em!
- Tại sao?
- Vì…vì… em gái em không xinh đẹp, cũng không có hậu thuẫn, hơn nữa lại còn ngô nghê, ngây thơ, Duy Khiêm sao có thể yêu em gái em được.
Nguyên Thục vừa nói xong, Trịnh Khải liền bật cười.
- Thục nhi, chẳng lẽ ta không thật lòng với nàng sao?
- Không! Không phải thế! Không phải!
Nguyên Thục cuống quýt khi Trịnh Khải hỏi, nó quay người lại, đúng lúc anh ngước lên nhìn Nguyên Thục nên môi nó chạm vào sóng mũi thanh tú của anh. Sự vô tình đó khiến Nguyên Thục đỏ ửng mặt. Không để ý đến biểu hiện ấy của nó, Trịnh Khải lướt mắt¬ về chân trời xanh bao la, nơi ấy, một rặng núi mờ bị áng mây che phủ, dẫu trời đang trong xanh.
- Nàng chớ nên suy nghĩ nhiều quá, ta nghĩ, có thể Duy Khiêm thât lòng với em gái nàng chứ không phải lợi dụng!
- Sao anh lại nghĩ thế?
- Như nàng nói, Nguyên Thiên không xinh đẹp, không hậu thuẫn, lại ngây ngô, vậy Duy Khiêm được lợi lộc gì khi lợi dụng em gái nàng?
Trước câu trả lời của Trịnh Khải, Nguyên Thục cắn môi, do dự, nó có nên nói nguyên nhân khiến nó cho là Duy Khiêm lợi dụng Nguyên Thiên không?
- Hơn nữa, ta và Duy Khiêm quen biết cũng lâu, không thể nói ta hiểu hết cậu ta, nhưng ta biết cậu ta không phải là người đùa giỡn với tình cảm của người khác như thế.
- Nhưng Duy Khiêm không phải là một người tầm thường, anh ta che giấu nội tâm rất giỏi. Ngày trước anh ta đã hết lần này đến lần khác bỏ rơi Nguyên Thiên, làm em gái em bị tổn thương, một người tàn nhẫn, lạnh lùng như thế sao em có thể tin anh ta nổi chứ.
Trịnh Khải mỉm cười.
Trước đây anh đã từng nghĩ như thế này.
- Thục nhi, nàng đã biết phụ thân của Duy Khiêm mất khi cậu ta còn nhỏ tuổi, với mẫu thân thì cậu ta xa cách đã lâu nên không thân thiện. Là một người khiếm khuyết tình cảm, cậu ta sẽ không bao giờ đem tình cảm của mình ra để đùa cợt, bởi hơn ai hết, cậu ta hiểu thứ tình cảm ấy đáng sợ như thế nào. Một người đã quen với bóng tối, chắc chắn sẽ bị mù mắt khi đột ngột ra ánh sáng, nhưng nếu ánh sáng ấy không ập đến đột ngột, mà lại đến từ từ, từng khắc một, soi đến cậu ta, sưởi ấm cho cậu ta, cậu ta sẽ thích nghi với ánh sáng. Cậu ta có thể trở lại với bóng tối, nhưng đồng thời cũng đối diện được với ánh sáng. Em gái nàng có thể ngây thơ, có thể ngốc nghếch, có thể không xinh đẹp, có thể không hậu thuẫn, nhưng lại có thể tha thứ cho lỗi lầm của Duy Khiêm hết lần này đến lần khác thì rất đáng được trân trọng và yêu thương. Đau khổ, tổn thương của cô ấy rồi sẽ được bù đắp. Con diều của Duy Khiêm chỉ có thể bay bổng trên bầu trời xanh, và em gái nàng chính là bầu trời xanh rộng lớn đó, để cậu ta tha hồ bay bổng mà không sợ lạc mất.
- Nhưng…
Những lời giải thích nhẹ nhàng của Trịnh Khải khiến bao lo lắng, ưu phiền khi cho rằng Duy Khiêm lợi dụng, không thật lòng với Nguyên Thiên trong Nguyên Thục dần tan biến. Nó không tin Duy Khiêm, nhưng nó tin Trịnh Khải, nếu anh cho rằng Duy Khiêm thật lòng, nó sẽ tin anh. Như vậy, tạm thời nó có thể an lòng về một vấn đề, đó chính là Duy Khiêm thật lòng với em gái nó, nhưng còn chuyện Duy Khiêm có thể gây bất lợi cho phủ chúa vẫn chưa nguôi trong tâm trí nó. Nó nhất định phải để ý mọi hành động của chàng trai có gương mặt trẻ con này, cẩn tắc bao giờ cũng vô ưu.
Thấy gương mặt Nguyên Thục dần giãn ra, Trịnh Khải mỉm cười, chí ít Nguyên Thục cũng đã an tâm phần nào. Về phần Trịnh Khải, những gì Nguyên Thục nói vẫn còn lẩn khuất trong tâm trí anh, tuy nó không nói nguyên nhân khiến nó cho là Duy Khiêm lợi dụng Nguyên Thiên, nhưng anh vẫn biết. Nếu chuyện đó có thật, thì nguyên nhân duy nhất đó là vì Nguyên Thiên là em gái của Nguyên Thục. Lấy Nguyên Thiên làm vợ, tất nhiên anh sẽ trở thành người nhà của Duy Khiêm, lúc đó Duy Khiêm sẽ chính thức đặt mối quan hệ gia đình với phủ chúa, như thế, cơ hội lật đổ ngôi chúa, khôi phục lại thực quyền cho Lê triều là rất lớn. Nếu Duy Khiêm thật sự có tài, anh sẵn lòng trao trả lại quyền hành cho triều đình. Quyền hành cũng chỉ là mây khói, ai nắm quyền cũng không sao, chỉ cần có thể cho dân chúng sống một cuộc sống tốt hơn là được. Lập Duy Khiêm lên làm thái tử, anh chỉ có mong muốn ấy, nhưng nếu Duy Khiêm không phát triển đất nước, mà ngược lại hủy diệt mọi thứ có trong tay, thì sẽ như thế nào?
Trong thoáng chốc, đôi mắt Trịnh Khải trở nên sâu thẳm. Bóng tối đã chiếm hữu đứa bé ấy, liệu tình yêu và lòng chân thành của Nguyên Thiên có đủ mang cậu ta quay trở lại ánh sáng hay không, hay thậm chí, bản thân cậu ta có còn muốn quay trở lại với ánh sáng hay không? Đưa đứa bé ấy lên ngôi thái tử, mong rằng nếu nắm giữ trong tay một mầm sống quan trọng, thì cậu ta sẽ sẽ biết gìn giữ, nâng niu vật đó trong tay mình, nhưng nếu đứa bé ấy không trân trọng, gìn giữ mà còn bóp nát mầm sống ấy, thì tất cả mọi trách nhiệm anh phải gánh lấy, vì người tạo cơ hội cho đứa bé nắm giữ mầm sống ấy, chính là anh.
Đây là một quyết định liều lĩnh.
Nếu Duy Khiêm phát triển mầm sống thành một cây đại thụ vững chắc, anh cố nhiên sẽ rất hài lòng.
Nhưng nếu Duy Khiêm bóp nát mầm sống ấy…
Anh phải đối đầu với Duy Khiêm. Và cũng sẽ không tha thứ cho bản thân mình.
Ngảy xửa ngày xưa, có một ông già mù…
★ Chương 136
Vì ngày hôm qua Nguyên Thục đã có những giây phút ngọt ngào bên cạnh Trịnh Khải, thế nên bây giờ tâm trạng của nó rất vui, nó đang ở trong Ngự trù làm cơm sáng mang đến Ngự lâu. Nghe tiếng chim hót ríu rít ngoài cửa sổ, tâm hồn Nguyên Thục càng phơi phới. Nhớ đến nụ hôn ngọt ngào tối qua, Nguyên Thục khe khẽ cười, rồi hát ngêu ngao, mặc cho những cung nữ trong Ngự trù chớp mắt nhìn mình.
Hộp cơm trang trí đã hoàn tất, Nguyên Thục hài lòng ngắm nhìn thành quả của mình. Trong nhóm bạn, ngoại trừ tay nghề nấu ăn, làm bánh siêu hạng của Bách Nhật ra thì đứng thứ hai là nó. Do Trịnh Khải phải thường xuyên thức khuya xem xét tấu chương, nên nó phải tìm tòi những món ăn giàu dinh dưỡng, cung cấp nhiều vitamin cần thiết để bồi bổ cho anh. Đập nắp hộp cơm lại, Nguyên Thục khéo léo thắt một chiếc nơ xinh xắn quanh chiếc giỏ mây, rồi cầm lên và nhằm hướng ngự lâu thẳng tiến.
Khi Nguyên Thục mang cơm đến Ngự lâu, nó nhìn thấy hai nàng cung nữ đang hầu ở bên ngoài, then cài cửa đóng, dấu hiệu đó cho thấy Trịnh Khải đang bàn việc quan trọng với ai đó trong Ngự lâu, nên nó không tiện bước vào, đành ra hoa viên ngồi, đợi cho Trịnh Khải bàn xong việc thì nó mới vào sau.
Ngồi xé chiếc lá khô ra từng mảnh nhỏ, Nguyên Thục tự hỏi không biết Trịnh Khải đã giải quyết hết việc triều chính chưa, có rắc rối nào không, vì chuyện triều chính nó cũng không rành, nên không thể giúp anh chia sẻ nỗi lo này được. Trước khi đi ngủ, Nguyên Thục luôn hướng mắt về phía Ngự lâu, nhờ đó mà nó biết, mấy hôm nay ngày nào anh cũng thức khuya. Do nó và anh ở hai nơi, thế nên Nguyên Thục muốn ở bên cạnh anh chăm sóc lắm, nhưng cũng không thể làm được gì, đành đi ngủ, nhưng lại trằn trọc, lo lắng vì ánh đèn Ngự lâu vẫn thắp sáng cho đến tận hôm sau.
Nguyên Thục đang còn suy nghĩ thì cánh cửa Ngự lâu bật mở, một bóng người nhanh chóng bước ra ngoài, thần sắc trang nghiêm. Nguyên Thục nhận ra đó là quốc sư Nguyễn Khản. Sáng sớm tinh mơ Nguyễn Khản đã vào Ngự lâu chầu, khi bước ra ngoài thì mày chau, hai tay chắp sau lưng, bước chân vội vàng, đầu hơi cuối xuống chứng tỏ đang suy nghĩ chuyện hệ trọng gì đó. Nguyên Thục nhíu mày, nó không muốn động đến chính sự, nhưng nếu chuyện quan trọng đó ảnh hưởng đến sức khỏe và an nguy của Trịnh Khải, nó không thể an tâm.
- Quốc sư, chào ông!
Đang đắm chìm trong suy nghĩ hỗn độn, Nguyễn Khản giật mình khi giọng nói trong trẻo của Nguyên Thục cất lên. Nhận ra đó là Hồ tiệp dư, thiếp yêu của chúa công, Nguyễn Khản mỉm cười đáp lễ.
- Không dám! Mới sáng sớm Hồ tiệp dư đã đến Ngự lâu của chúa công, chắc là có chuyện quan trọng phải không?
“Câu này tôi hỏi ông mới phải”
Nguyên Thục nghĩ thầm trong bụng, nhưng nó không để lộ điều đó ra, mà chỉ cười.
- Cũng không có gì quan trọng, chỉ là đến đem cơm cho chúa công mà thôi. Tôi trông gương mặt ông đăm chiêu thế, chắc vừa bẩm tấu chuyện gì quan trọng với chúa công à?
Giật mình vì sự tinh ý của Nguyên Thục, Nguyễn Khản không đáp câu hỏi ấy, mà chuyển hướng sang một đề tài khác. Ban đầu, ông định bụng trả lời qua quýt, rồi đi, thế nhưng đây là Hồ tiệp dư, thiếp yêu của chúa công, em gái ông tuy làm Vương phi nhưng không được sủng ái, vừa qua lại có sự kiện Hồ tiệp dư suýt chút nữa phải vào lãnh cung do em gái ông đã lỡ lời. Vốn nghĩ Hồ tiệp dư không phải người để bụng chuyện cũ, nhưng thận trọng bao giờ cũng chắc hơn, ai biết được Hồ tiệp dư có ghi nhớ và để trong lòng chuyện của em gái ông hay không.
Giật mình vì sự tinh ý của Nguyên Thục, Nguyễn Khản không đáp câu hỏi ấy, mà chuyển hướng sang một đề tài khác. Ban đầu, ông định bụng trả lời qua quýt, rồi đi, thế nhưng đây là Hồ tiệp dư, thiếp yêu của chúa công, em gái ông tuy làm Vương phi nhưng không được sủng ái, vừa qua lại có sự kiện Hồ tiệp dư suýt chút nữa phải vào lãnh cung do em gái ông đã lỡ lời. Vốn nghĩ Hồ tiệp dư không phải người để bụng chuyện cũ, nhưng thận trọng bao giờ cũng chắc hơn, ai biết được Hồ tiệp dư có ghi nhớ và để trong lòng chuyện của em gái ông hay không.
- Tiệp dư, không có chuyện gì quan trọng đâu. Sức khỏe tiệp dư dạo này thế nào? Em gái Ngọc Xuân của thần không làm chuyện gì phiền lòng tiệp dư chứ?
Thấy Nguyễn Khản không trả lời câu hỏi, mà chuyển hướng sang đề tài Ngọc Xuân, Nguyên Thục thừa biết ông muốn hỏi dò nó về việc Ngọc Xuân khiến nó suýt chút nữa đã bị giam vào lãnh cung, xem nó có để bụng chuyện cũ không. Cũng phải, Ngọc Xuân là em gái của quốc sư, ông ta không lo thì ai lo.
- Vương phi trên dưới đều được lòng người khác thì có chuyện gì mà phiền lòng đến tôi. Trách nhiệm của tôi là chăm sóc chúa công, ngoài chuyện đó ra, những chuyện khác tôi đều không để ý đến, ông an tâm!
Nghe Nguyên Thục trả lời, mối lo lắng trong lòng Nguyễn Khản đã tạm yên phần nào. Nhìn nét mặt đang dần giãn ra của ông, Nguyên Thục lại tiếp lời.
- Trong Lượng phủ, không chỉ riêng gì tôi mà tất cả mọi người đều có nhiệm vụ bảo vệ sự bình an cho chúa công và phụng sự chúa công hết lòng. Quốc sư, ông cũng là thần tử, tôi mong rằng ông sẽ dốc lòng vì chúa công, cũng như cơ nghiệp của tổ tiên đã gầy dựng mấy trăm năm nay.
Được Nguyên Thục xua tan đám mây âu lo về Ngọc Xuân trong lòng, Nguyễn Khản vô cùng vui vẻ, ông hào hứng đáp lời.
- Xin tiệp dư yên tâm, thần ăn lương bổng của triều đình, lại được chúa công xem trọng, thần nhất định sẽ dốc lòng dốc sức phụng sự cho người.
Trước câu trả lời của Nguyễn Khản, Nguyên Thục mỉm cười. Nó rê tay lên chiếc giỏ cơm nóng hổi, miệng hỏi dò, nhưng lại ra vẻ vô tình nhắc đến.
- Quốc sư theo hầu chúa công được bao lâu rồi?
- Bẩm tiệp dư, cũng đã khá lâu rồi. Trước đó thần theo hầu tiên vương, rồi sau đó tiếp tục theo hầu chúa công!
Hai chữ “tiên vương” vừa thoát khỏi đầu lưỡi Nguyễn Khản, đôi mắt Nguyên Thục nhướng lên vì những gì ông mới nói chẳng khác nào tiếng chuông rền đánh bên tai nó. Tờ chiếu chỉ mà Thịnh vương Trịnh Sâm để lại, tuy đã hủy đi nhưng Nguyên Thục mãi mãi không quên. Ông ấy đã nhường ngôi cho Trịnh Bồng, em mình chứ không phải cho Trịnh Khải hay Trịnh Cán. Tuy Trịnh Cán đã không còn, nhưng Trịnh Bồng vẫn còn sống. Nếu chuyện này lộ ra ngoài, ngôi chúa của Trịnh Khải chắc chắn bị lung lay. Những thế lực phản đối triều đình sẽ không bỏ qua cơ hội này để nổi loạn, thêm lũ kiêu binh kia chắc chắn không chịu ngồi yên mà sẽ tham gia soán ngôi, bằng mọi giá nó không thể để chuyện này xảy ra. Di chiếu chỉ có Đặng Thị Huệ và nó biết, nay Đặng Thị Huệ đã mất. Chỉ còn nó, nhưng liệu có dám chắc rằng không ai khác ngoài nó biết chuyện nay hay không?
Nguyên Thục nghĩ thầm, Nguyễn Khản theo hầu tiên vương, chuyện di chiếu lẽ nào ông ta lại không biết, nhưng chuyện này cũng phải tra xét lại kỹ càng. Nó không rành chuyện triều đình, lại thêm mối quan hệ của vua chúa với các quan lại thế nào nó không tường tận, nếu như Nguyễn Khản chỉ là người ngoài cuộc, không dính liếu hay biết gì tới chuyện chiếu chỉ thì chẳng lẽ nó lại nghi oan cho người vô tội sao. Để thêm chắc ăn, thôi thì cứ khéo léo hỏi trước rồi tính sau.
- Nghe chúa công khen quốc sư là người hào sảng, thích hát xướng, thạo âm luật, quốc sư theo hầu tiên vương, vậy chắc tiên vương yêu quý ông lắm!
Nghe Nguyên Thục nói, lại trúng vào chỗ tự hào của mình, thế nên Nguyễn Khản rất mát ruột, ông vuốt râu, mắt lim dim.
- Chẳng dám nói hạ thần được tiên vương yêu quý, chỉ là ở trong cung, thần được tiên vương tin tưởng giao cho xắp sếp bày biện núi non bộ cùng các chậu hoa, cây cảnh mà thôi. Những lúc rảnh rỗi, thần và tiên vương cũng có khi làm thơ xướng họa với nhau. Có một hôm thần mệt trong người, không vào chầu được, vì thế cũng không theo tiên vương đi câu được, tiên vương bèn sai người gởi cho thần một bức thư, trong bức thư có bài thơ sau.
Đã phạt năm đồng bỏ buổi chầu,
Lại phạt năm đồng bỏ buổi câu.
Nhắn bảo ông bay về nghĩ đấy,
Hãy còn phạt nữa chửa tha đâu!
Nhưng trong thâm tâm, thần biết tiên vương chỉ trách cứ thế thôi chứ không nỡ phạn thần, thế nên thần viết thư phúc đáp lại tiên vương rằng.
Váng vất cho nên phải cáo chầu.
Phiên chầu còn cáo nữa phiên câu.
Trông ơn phạt đến là thương đến,
Ấy của nhà vua chớ của đâu!
Nghe Nguyễn Khản ngâm thơ, Nguyên Thục chỉ mỉm cười. Đợi ông nói dứt, nó lại tiếp tục hỏi dò.
- Nghe quốc sư kể, quả thật tiên vương và quốc sư rất có giao tình. Vậy quốc sư theo hầu chúa công từ khi nào?
- Khi đỗ tiến sĩ năm Canh Thìn, thần làm tả tư, giảng dạy cho chúa công khi người còn làm thái tử!
- Ồ, vậy khi chúa công lên ngôi, quốc sư hẳn rất vui mừng vì công dạy dỗ của ông trong đó quả thật không nhỏ!
- Tiệp dư nói không sai, suýt chút nữa tiên vương đã phạm sai lầm, cũng may đã không có gì xảy ra, chúa công hiện giờ đã kế nghiệp tổ tiên rất tốt!…. Tiệp dư, trời cũng không còn sớm, thần phải về phủ chuẩn bị cho phiên chầu!
Trong phút cao hứng, Nguyễn Khản buột miệng nói ra những chuyện lẽ ra không nên nói, đến khi ông nhận ra thì đã quá muộn. Khi nhận ra mình đã lỡ lời, Nguyễn Khản vội vã viện lý do, cáo từ ra về. Khi nghe những gì Nguyễn Khản tiết lộ, dù trong lòng chấn động, nhưng Nguyên Thục vẫn thản nhiên như chưa có chuyện gì xảy ra. Nó mỉm cười đáp lễ Nguyễn Khản khi ông khấu chào, rồi khoan thai trở lại chiếc bàn đá ngồi, tránh hấp tấp để cho Nguyễn Khải thấy nó chẳng hay biết bí mật mà trong phút lỡ lời ông đã nói ra.
Nhìn theo bóng Nguyễn Khản khuất dần sau rặng trúc nhỏ, Nguyên Thục mới chau mày lại vì những thắc mắc trong lòng nó đã được sáng tỏ. Vậy là đã rõ, không còn nghi ngờ gì nữa, Nguyễn Khản biết chuyện về di chiếu của tiên vương, biết ai mới là người danh chính ngôn thuận kế ngôi chúa. Nguyễn Khản là quốc sư, hiện là anh vợ của Trịnh Khải dù chỉ trên danh nghĩa, tức là có mối quan hệ gia đình. Ban nãy ông cũng đã thề thốt rằng sẽ tận trung báo quốc, hết lòng phò tá chúa công trong sự việc trị vì đất nước, nhưng, lời thề cũng chỉ dầu môi chót lưỡi, họa hổ họa bì nan hổ cốt, liệu có thể tin được Nguyễn Khản hay không!?
Nguyên Thục cắn môi, ánh mắt nó lấp lánh khi nhớ tới Ngọc Xuân. Ngọc Xuân là em gái của Nguyễn Khản, tuy cô là Vương phi nhưng lại không được sủng ái, trong khi bản thân cô cũng có tình cảm với Trịnh Khải. Phụ nữ vốn đố kị, ghen tuông, Ngọc Xuân đã một lần cố tình lỡ lời suýt đẩy nó vào lãnh cung, điều gì đảm bảo sẽ không có lần sau. Nó thì không sao, nhưng nếu như một ngày nào đó, Ngọc Xuân không cam chịu làm một Vương phi hữu danh vô thực, mà kể hết những uất ức bấy lâu nay phải chịu cho Nguyễn Khản biết thì sao? Thân là quốc sư quyền cao chức trọng, nay em gái mình lại bị một con bé từ đâu về chèn ép đủ điều, khiến chúa công không đoái hoài gì tới, danh dự còn biết để đâu. Có thân với Trịnh Khải thế nào đi nữa thì Ngọc Xuân cũng là em gái ông, là ruột thịt của ông, liệu ông ta có tức nước vỡ bờ, có giận thay cho em gái, thấy bất công cho em gái và đòi lại công bằng bằng cách trừng phạt Trịnh Khải, tiết lộ bí mật di chiếu cho mọi người biết, gây nên sóng gió cho tòa Lượng phủ, làm nguy hại đến Trịnh Khải hay không?
Nguyên Thục càng nghĩ, càng thấy lo lắng. Bất giác, những giọt mồ hôi lạnh rịn trên trán của nó. Không được, không thể để cho quốc sư Nguyễn Khản ung dung tự tại được. Ông ta biết di chiếu, trong khi bí mật nó lẽ ra chỉ thuộc về hai người, nó và Đặng Thị Huệ mà thôi. Di chiếu nó đã tiêu hủy, Đặng Thị Huệ đã chết, còn Nguyễn Khản, nó nên làm sao đây. Để bảo vệ Trịnh khải nó bằng lòng trả bất cứ giá nào. Hiện nay, đối với Nguyễn Khản, nó chỉ có một cách, đó là hạ bệ ông ta cùng em gái Ngọc Xuân của ông ta. Thà nhầm còn hơn bỏ sót, cẩn tắc vô ưu, nó không thể làm ngơ khi mối đe dọa đến từ họ cứ lởn vởn xung quanh nó và Trịnh Khải.
Muốn bảo vệ Trịnh Khải…
Bằng mọi giá, nó phải làm!
★ Chương 137
Hôm nay là một ngày vô cùng, vô cùng đặc biệt của Nguyên Thục
.
Đó là ngày 24 -12, ngày Giáng Sinh an lành, ngày mà mọi người quây quần bên nhau, cùng ăn bánh, cùng tặng quà và cùng chờ đón một năm mới an khang tốt lành.
Tất nhiên 24 -12 là ngày lễ của Tây phương, là dương lịch, còn ở quá khứ thì chưa có, thế nên Nguyên Thục nghiễm nhiên lấy luôn ngày 24-12 âm lịch là ngày lễ giáng sinh như ở hiện đại, để cùng Trịnh Khải đón giáng sinh, cùng ở bên nhau và cùng chia sẻ những khoảnh khắc ngọt ngào cho năm mới sẽ sang.
Thật ra, Nguyên Thục không biết hôm nay là ngày 24 -12 đâu, sở dĩ nó biết là do tối qua đã hỏi A Đào. Sống ở quá khứ, chẳng có lịch blog, chẳng có lịch để bàn, thành thử nó sống ngày này qua tháng nọ mà chả biết hôm nay là thứ ba hay thứ tư, là ngày bao nhiêu, năm nào, tháng nào cả. Thế nên khi nghe A Đào nói ngày mai là ngày 24 -12, Nguyên Thục sững người lại một lúc, rồi đôi mắt long lanh khi nhớ đến những đêm Giáng Sinh an lành, cả nhả quây quần bên nhau, nói cười vui vẻ của gia đình lúc còn ở hiện tại. Bây giờ ở quá khứ, gia đình của nó là Trịnh Khải, còn có Nguyên Thiên, và nó chia lịch ra làm hai ngày. Ngày 24, tức hôm nay nó sẽ đón Giáng Sinh cùng Trịnh Khải, và ngày 25 nó sẽ đón Giáng Sinh cùng Nguyên Thiên, chỉ có hai chị em với nhau mà thôi.
Chính vì sẽ đón Giáng Sinh cùng Trịnh Khải, nên hôm nay Nguyên Thục bước vào ngự trù với tâm trạng háo hức, nó nhẹ nhàng với lấy nguyên liệu trong các khay thực phẩm để làm một chiếc bánh bông lan nhân mứt dứa cho ngày Giáng Sinh thật ngon lành. Nào là trứng, nào là bột mì, nào là đường, nào là muối, ôi, tối nay nó sẽ tất bật lắm đây!
Nguyên thục nghĩ thầm, đôi mắt nó lấp lánh như những tia nắng khi hình dung đến gương mặt ngạc nhiên của Trịnh Khải, khi nhìn thấy chiếc bánh Giáng Sinh này. Hôm qua nó đã hẹn anh cùng nhau ăn tối ở Ngự lâu, thay vì là cung Đoan Nguyên, sự thay đổi đó khiến Trịnh Khải ngạc nhiên, nhưng anh không hỏi tại sao mà chỉ mỉm cười. Nhớ đến nụ cười ấm áp như ánh nắng trong mùa đông, Nguyên Thục vui lắm, bàn tay nhỏ nhắn của nó không ngừng đánh nhẹ lòng đỏ trứng cùng với hỗn hợp sữa bò tươi và đường, bột. Ở thời đại này nguyên liệu thiếu thốn rất nhiều, không có lò nướng, tất cả đều phải làm bằng tay, rất cực nhọc, nhưng vì muốn được đón Giáng Sinh cùng Trịnh Khải, nên những cực nhọc đó có thấm tháp vào đâu so với khoảnh khắc ngọt ngào mà nó sẽ có được sau đó.
Sau một hồi vật lộn trong bếp, kết quả của Nguyên Thục cũng khá khả quan, hỗn hợp trứng, đường, bột đã đặc lại, vàng sóng sánh như mật ong trông vô cùng bắt mắt. Do vừa khuấy hỗn hợp bột, vừa lấy tay quệt những giọt mồ hôi rịn trên trán, gương mặt Nguyên Thục lấm tấm bột, trông như cô bé lọ lem. Bột đã đánh xong, độ ngọt ở mức vừa vì Trịnh Khải không thích bánh quá ngọt, Nguyên Thục lay hoay tự làm một lò nướng bánh tự chế, với cái cách mà nó đã đọc từ trên báo “Tiếp thị và gia đình”.
Đầu tiên, Nguyên Thục chọn một cái nồi dày có nắp đậy, Sau đó, Nguyên Thục xếp than vào một cái lò,thổi lửa, đun cho đủ nhiệt. Trong khi đợi than đủ nhiệt, Nguyên Thục đổ bột bánh bông lan vào trong chiếc nồi dày, rồi đặt nồi lên than đã chuẩn bị, kế đó đậy nắp lại và phủ kín than lên nắp nồi. Thế là xong, chiếc lò nướng bánh tự chế đã có, nó chỉ việc ngồi đợi cho bánh chín rồi nhấc ra mà thôi.
Trong thời gian đợi bánh chín, Nguyên Thục xoay sang làm mứt dứa. Theo kinh nghiệm khi đi chợ của mình, Nguyên Thục chọn một trái dứa có màu vàng sẫm, tươi sáng, rồi đưa lên mũi ngửi. Một mùi thơm nhẹ nhàng từ trái dứa tỏa ra, dấu hiệu nhận biết đâu là dứa ngon và ngọt, khiến Nguyên Thục mỉm cười hài lòng khi đã chọn được trái dứa ngon nhất cho Trịnh Khải và mình.
Không muốn chần chừ thêm nữa, Nguyên Thục xắn tay áo lên bắt đầu công việc, nó cẩn thận gọt vỏ, cắt bỏ mắt, bỏ cùi, rồi cắt nhuyễn thơm ra từng mảnh nhỏ. Sau môt tiếng đồng hồ tỉ mẩn, cuối cùng, món mứt dứa vàng ươm, thơm ngon, sóng sánh cũng đã được hoàn thành. Do trên đặt than, dưới cũng lót than, nóng đều hai mặt nên bánh bông lan mau chín. Nguyên Thục liếm môi, cẩn thận mở nắp nồi ra, gương mặt lấm bột của nó rạng rỡ khi thấy lớp bánh đã vàng ươm hai mặt. Không chờ đợi lâu, Nguyên Thục nhanh chóng lấy bánh ra, trải một lớp khăn ẩm lên bàn, trút bánh lên phết đều mứt dứa lên bánh
Nhìn thành quả lao động của mình, Nguyên Thục vô cùng hài lòng khi chiếc bánh bông lan cuộn mứt dứa vừa thơm, vừa có màu vàng bắt mắt, khiến Nguyên Thục nóng lòng muốn giờ phút ấy mau đến, để cùng Trịnh Khải ăn bánh, đón Giáng Sinh và tận hưởng những khoảnh khắc bên nhau ngọt ngào.
Phải rồi, Giáng Sinh thì phải có quà, chà, biết tặng cho anh ấy gì đây. Nguyên Thục thầm nghĩ, Trịnh Khải thích cái gì, nó có thể tặng gì cho anh? Nó muốn anh phải thật ngạc nhiên khi nhìn thấy quà của nó cơ, để anh ngạc nhiên, thì món quà ấy vừa đặc biệt, lại còn thú vị và độc nhất vô nhị, ôi chao, sao nó nghĩ hoài mà vẫn không ra món quà nào đáp ứng đủ các điều kiện ấy thế này.
Do phải nát óc suy nghĩ xem nên tặng món quà nào, buổi cơm tối lót dạ của Nguyên Thục trôi qua nhanh chóng. Theo lời A Vân báo lại, tối nay phải rất muộn Trịnh Khải mới đến ăn tối với nó, do đang bàn bạc công việc cùng bá quan. Tuy Trịnh Khải không thể đến sớm hơn, nhưng Nguyên Thục vẫn rất vui và hạnh phúc, bởi vì sáng nay, không biết từ khi nào, bên cạnh giường của nó bỗng nhiên xuất hiện một chú voi được khắc bằng gỗ. Nhìn thấy chú voi xinh xắn ấy, Nguyên Thục biết ngay đó là con voi quận Đông. Mân mê chú voi trên tay, Nguyên Thục vừa mừng vừa ngạc nhiên, là của Trịnh Khải, anh đến phòng nó từ khi nào, tối qua nó thao thức không ngủ được do nghĩ đến cách làm bánh bông lan, chỉ đến tờ mờ sáng mới ngủ thiếp đi, chẳng lẽ Trịnh Khải đến cung Đoan Nguyên vào khi ấy sao.
Nguyên Thục suy nghĩ, và gặng hỏi A Vân, ban đầu cô còn tỏ ra mập mờ, đến khi nó vờ giận dỗi, thì A Vân mới chịu tiết lộ, đó là sáng nay, chúa công đã đến cung Đoan Nguyên. Người ngăn không cho A Vân lên tiếng đánh thức tiệp dư dậy, mà chỉ yên lặng nhìn ngắm tiệp dư đang ngủ một lúc, sau đó nhẹ nhàng đặt chú voi gỗ đáng yêu này bên cạnh giường, rồi trở ra ngoài.
Nhớ lại lời A Vân nói, Nguyên Thục lại ửng hồng hai má, nó ôm lấy đôi má đang đỏ hồng lên như quả táo chín, khi mường tượng ra cảnh Trịnh Khải ngắm nhìn nó lúc đang ngủ say. Chao ôi, Nguyên Thiên vẫn thường bảo lúc ngủ mặt nó rất ngô nghê, khi ấy chắc nó xấu lắm, khi người ta ngủ say thì làm sao biết mặt mũi mình như thế nào chứ.
Nguyên Thục vỗ nhẹ vào má, Trịnh Khải đã làm nó hạnh phúc, rất hạnh phúc, còn nó, nó tặng anh món quà gì để anh hạnh phúc bây giờ.
Hôm nay là 24 -12, ngày giáng sinh tất nhiên phải có cây thông Noel…
Trong phút chốc, đôi mắt Nguyên Thục bừng sáng, miệng cười tươi như đóa hàm tiếu khi nghĩ ra một món quà đặc biệt mà nó sẽ tặng cho Trịnh Khải.
Buổi tối an lành ơi, hãy đến nhanh lên!
oOo
Tòa Ngự lâu mọi hôm buổi tối vẫn sáng đèn, thế nhưng hôm nay lại tối om, không chút ánh sáng, nguyên nhân là vì Nguyên Thục đã mong muốn rằng cho đến khi nó đến, Trịnh Khải hãy tắt hết đèn trong Ngự lâu.
Ngồi trên sập, trên tay là chén trà thơm bốc khói, Trịnh Khải không uống, mà xoay xoay chén trà khi nghĩ đến mong muốn của Nguyên Thục. Với mong muốn lạ lùng ấy, Trịnh Khải vô cùng ngạc nhiên, nhưng anh vẫn thực hiện vì biết rằng Nguyên Thục sẽ thực hiện một chuyện gì đó rất quan trọng, là chuyện gì thì anh sẽ biết ngay thôi.
“We wish you a Merry Christmas
We wish you a Merry Chirstmas
We wish you a Merry Christmas
And the Happy New Year”
Cánh cửa Ngự lâu nhè nhẹ bật mở, một tiếng hát trong trẻo khe khẽ cất lên. Bóng tối bị đẩy lùi, ánh sáng lung linh dần đổ vào căn phòng. Hiện ra trong ánh sáng là nụ cười rực rỡ của Nguyên Thục, trên tay nó là một chiếc bánh trang trí đẹp mắt, cùng mười cây nến lung linh như mười ngôi sao lấp lánh, khiến gương mặt bầu bĩnh của Nguyên Thục như sáng rực lên trong ánh trăng.
Nhìn thấy hình ảnh dịu dàng ấy, Trịnh Khải lặng yên, Nguyên Thục như một ngôi sao nhỏ nhẹ nhàng xuất hiện trong Ngự lâu. Ánh sáng bao quanh nó, những bước chân nhỏ bé đi đến đâu, bóng tối đều lùi lại, nhường đường.
Tiến đến gần Trịnh Khải, Nguyên Thục nhoẻn miệng cười tươi, nó đặt chiếc bánh bông lan xuống bàn, rồi nhẹ nhàng lấy từng cây nến đỏ trong chiếc túi mà mình mang theo. Trước đôi mắt ngạc nhiên của Trịnh Khải, Nguyên Thục khéo léo xếp cắm những cây nến lên bàn thành hình trái tim, rồi nhẹ nhàng thắp lửa cho từng cây. Khi thắp xong, Nguyên Thục vỗ nhẹ tay, hớn hở reo vui.
- Chúc mừng Giáng Sinh!!!
- Giáng Sinh?
Nghe hai từ lạ lẫm thốt ra từ đôi môi nhỏ xinh của Nguyên Thục, Trịnh Khải nhướng mày lên, hỏi lại. Hào hứng kéo tay anh ngồi chung với mình, Nguyên Thục tươi cười.
- Vâng, hôm nay là ngày 24 -12, là ngày Giáng Sinh ở chỗ em. Ngày này mọi người quây quần bên nhau, cùng ăn bánh, cùng tặng quà, và cùng nhau đón một năm mới an lành!
- Vậy sao?
Trịnh Khải mỉm cười, rõ ràng anh rất ngạc nhiên và lấy làm thú vị khi nghe buổi lễ Giáng Sinh mà Nguyên Thục kể. Dù không nói ra, nhưng chỉ nhìn đôi mắt mơ màng của Nguyên Thục, anh biết nó lại đang nhớ về gia đình. Ngày xưa vào những dịp này, chắc Nguyên Thục rất hạnh phúc khi có ba, có mẹ cùng vây quanh với nhiều niềm vui và tiếng cười. Còn anh, anh không biết ngày này là gì, nhưng nếu có biết, thì viễn cảnh cả gia đình cùng quây quần bên nhau là điều không thể. Mãi mãi không.
Nhận thấy một khỏang không gian mênh mông trong đôi mắt thăm thẳm của Trịnh Khải, Nguyên Thục vội vàng chuyển sang đề tài khác, trong ngày Giáng Sinh này, nó chỉ muốn Trịnh Khải có thật nhiều niềm vui thôi.
- Anh, anh có biết đây là hình gì không?
Nhìn xuống những cây nến lung linh mà Nguyên Thục chỉ, Trịnh Khải nhíu mày, suy nghĩ, một lúc lâu rồi lắc đầu.
- Không!
- Là hình trái tim đó!
- Hình trái tim?
- Phải, ở chỗ của em, đó là hình trái tim!
- Của ai?
Trịnh Khải hỏi, giọng anh nửa đùa, nửa thật khiến đôi má của Nguyên Thục ửng hồng. Như sực nhớ ra một điều gì đó, Nguyên Thục vội vàng đứng dậy, nói nhanh.
- Anh, anh chờ em chút nhé!
Nói rồi, không đợi Trịnh Khải nói gì, Nguyên Thục đã vội chạy ra bên ngoài, lát sau nó đã quay trở lại, trên tay là một chậu cây nhỏ treo đủ những con thú gỗ rực rỡ cùng những mẩu giấy nhỏ xinh xắn mà Nguyên Thục đã cặm cụi tô vẽ. Hớn hở đặt chậu cây nhỏ xinh xuống bàn, Nguyên Thục sà xuống bên cạnh Trịnh Khải, hào hứng.
- Đây là quà Giáng Sinh em tặng anh đó, dễ thương không?
Nhận ra những con thú gỗ treo trên cây là những con thú mà mình đã khắc cho Nguyên Thục, Trịnh Khải mỉm cười. Anh nhìn nó, ánh mắt trìu mến, dịu dàng.
- Dễ thương lắm, ta rất thích!
Trịnh Khải nói thích, Nguyên Thục mừng lắm. Thay vì là cây thông treo lủng lẳng các trái châu và những chiếc bít tất, thì Nguyên Thục thay thế bằng một chậu cây cảnh nho nhỏ treo những con thú gỗ và những tấm thiệp xinh xắn với những lời chúc yêu thương mà nó đã viết lên.
Tự hỏi không biết bên trong tấm thiệp Nguyên Thục viết gì, Trịnh Khải với tay, tính lấy một tấm thì Nguyên Thục vội vàng giấu cả chậu cây cảnh ra phía sau lưng, nháy mắt.
- Theo trình tự vào lễ Giáng Sinh, trước hết chúng ta phải ăn bánh, sau đó mới được mở quà!
Trước sự bí mật của Nguyên Thục, Trịnh Khải bật cười.
- Được rồi, lễ Giáng Sinh này ta không biết gì, nên theo ý nàng.
Chỉ chờ có thế, Nguyên Thục liền nhoẻn miệng cười tươi, nó lấy dao cắt bánh thành những miếng nhỏ, rồi đưa cho Trịnh Khải một miếng. Nhìn anh ăn bánh, Nguyên Thục mở to mắt, nó rất hồi hộp, bởi đây là lần đầu tiên làm bánh bông lan mứt dứa, chẳng biết ngon hay dở thế nào. Cầu trời cho chiếc bánh đầu tiên nó làm thật ngon lành. Đón lễ Giáng Sinh cùng Trịnh Khải, nó muốn mọi thứ phải thật hoàn hảo, phải thật ngon lành, để đây là lễ Giáng Sinh đáng nhớ nhất của hai người.
- Bánh này là do nàng làm sao?
- Vâng!
- Ngon lắm, ta thích!
Đây là lần thứ hai Trịnh Khải nói “ta thích”, và tất nhiên điều đó làm Nguyên Thục rất vui. Nó thở phào nhẹ nhõm, lòng rộn rã khi những gì nó làm đều không uổng công. Cùng ngồi ăn bánh với Trịnh Khải, kể chuyện ông già Noel đi phát quà cho những đứa trẻ ngoan vào đêm Giáng Sinh, nhìn thấy anh cười, thấy anh vui vẻ, chẳng biết do chiếc bánh bông lan mứt dứa ngọt ngào, hay do ánh mắt dịu dàng, sâu thẳm của anh, mà cõi lòng Nguyên Thục dịu êm, ngọt ngào và thơm như mật ong sánh vàng.
Giáng sinh này, rất là hạnh phúc.
- Đã ăn xong bánh, giờ nàng có thể cho ta xem quà được chưa?
Khi chiếc bánh bông lan ngon lành đã hết, trong đĩa chỉ còn những mẩu bánh vụn, Trịnh Khải nhẹ nhàng lên tiếng. Trước câu hỏi ấy, Nguyên Thục bẽn lẽn gật đầu, nó bê chậu cây cảnh trước mặt Trịnh Khải, rồi vân vê tà áo, bẽn lẽn khi anh bắt đầu mở những tấm thiệp nhỏ ra, chăm chú đọc xem trong đó Nguyên Thục viết gì.
Tấm thứ nhất
“Mong cho anh luôn được vui vẻ”
Tấm thứ hai
“Mong cho anh khỏe mạnh, bình an”
Tấm thứ ba
“Mong cho anh không còn phải thức khuya làm việc”
Tấm thứ tư
“Mong cho anh có thật nhiều hạnh phúc và tiếng cười”
Rồi tấm thứ năm, thứ sáu, thứ bảy, tất cả là đều cầu mong cho anh, với những âu yếm, dịu dàng, khiến đôi mắt Trịnh Khải lấp lánh như ánh nến lung linh. Treo trên cây có đến hàng chục tấm thiệp, tấm nào cũng có những hình vẽ ngộ nghĩnh, xinh xắn, cùng những lời chúc tràn ngập yêu thương, để làm được bữa tiệc Giáng Sinh này, chắc chắn Nguyên Thục đã rất vất vả. Từ bánh bông lan, những cây nến xếp thành hình trái tim, rồi đến những tấm thiệp nhỏ xinh ngọt ngào này, tất cả đều thể hiện tấm chân tình sâu sắc của Nguyên Thục, khiến Trịnh Khải vui và cảm thấy hạnh phúc. Từ lúc còn nhỏ cho đến khi trưởng thành, anh chưa bao giờ cảm nhận được niềm vui của đoàn viên và sự ấm áp của gia đình, rồi Nguyên Thục như một cơn gió mùa hạ, thổi vào tâm hồn anh, với tất cả tấm lòng dành cho anh, mọi nỗ lực và cố gắng đều vì anh, khiến anh cảm thấy vui vẻ, ấm áp và bình yên khi ở bên cạnh người con gái này.
Nhìn ngắm Nguyên Thục ngồi trước mặt, ánh nến lung linh soi trên bờ môi đỏ mọng của Nguyên Thục khiến Trịnh Khải bồi hồi. Nguyên Thục ở trước mặt anh, dịu dàng, bé nhỏ, và bẽn lẽn khi anh đọc hết những tấm thiệp chúc mà nó cất công làm. Vào lúc này đây, mỗi giây mỗi phút anh đều trân trọng. Nguyên Thục đã trở thành một phần quan trọng của anh, không thể thiếu, khiến anh cảm nhận thật sự thế nào là yêu thương, sự chân thành và ấm áp của một người yêu và được yêu.
Nguyên Thục là gia đình của anh
Anh không thể để mất Nguyên Thục, mất đi gia đình của mình…
Ngồi yên lặng trên ghế, Nguyên Thục cúi đầu, mân mê vạt áo trong khi Trịnh Khải đang đọc những lời chúc trong tấm thiệp của nó. Lâu thật lâu mà vẫn không thấy anh có động tĩnh gì, Nguyên Thục lo lắng, ngước lên. In trong đôi mắt nó là ánh mắt rất lạ của Trịnh Khải. Ánh mắt ấy có sự trìu mến, có sự dịu dàng, có sự thiết tha, và những rung cảm sâu kín khiến Nguyên Thục bồi hồi.
- Ta cám ơn nàng!
Vòng tay ôm Nguyên Thục vào lòng, Trịnh Khải thì thầm qua vành tai nhỏ nhắn của Nguyên Thục, tiếng thì thầm dịu dàng, trầm ấm ấy khiến trái tim Nguyên Thục run lên, nó quàng tay qua cổ anh, rồi khe khẽ hôn lên vầng trán cao ấy. Trịnh Khải cám ơn nó, nó vui, vui lắm, nhưng nó sẽ còn vui và hạnh phúc hơn, nếu như anh không bắt nó phải chờ đợi. Nó muốn mình có một gia đình thật sự, muốn có một đứa con xinh xắn, muốn cả nhà ba người cùng quây quần bên nhau đón Giáng Sinh. Ước mơ đó đã xuất hiện rất nhiều trong giấc mơ của nó, trong giấc mơ ấy, nó và Trịnh Khải sống bên nhau vô cùng hạnh phúc, và còn tuyệt vời hơn nữa, khi trên tay nó là một bé trai kháu khỉnh, xinh xắn, kết tinh tình yêu giữa nó và Trịnh Khải. Đó là niềm mơ ước lớn nhất của nó trong đời.
Nhận nụ hôn đầy yêu thương của Nguyên Thục, đôi mắt Trịnh Khải trở nên sâu thẳm, những ngón tay mảnh khảnh của anh vuốt nhẹ bờ môi nó, ánh mắt thăm thẳm, lấp lánh như vì sao trên bầu trời ấy khiến nó rạo rực. Nó khẽ khép mắt lại, cánh môi đào hé mở, đón nhận nụ hôn nồng nàn với sự khát khao.
Từng nụ hôn ngọt ngào quấn quýt trên bờ môi, trên vầng trán bướng bỉnh, trên đôi má đỏ bừng và trượt nhẹ xuống chiếc cổ trắng ngần của Nguyên Thục. Cơ thể nó nóng bừng lên, rạo rực, rồi đột ngột, Trịnh Khải cúi xuống, bế Nguyên Thục lên, nhẹ nhàng tiến về phía chiếc giường êm ái.
Nguyên Thục mở to đôi mắt long lanh nhìn Trịnh Khải, bàn tay nó vươn lên, quàng qua cổ anh, bờ môi đào hé mở, trái tim nó đập rộn rã, khát khao khi biết rằng mơ ước ấy, sẽ không còn xa vời…
Nguyên Thục là gia đình của anh.
Anh sẽ xây dựng gia đình bé nhỏ này thật hạnh phúc và nhiều tiếng cười.
Giáng sinh này, rất là hạnh phúc.
Trò chuyện cuối tuần
PHỎNG VẤN ĐOAN NAM VƯƠNG TRỊNH KHẢI
Tèn tén ten, sau bao ngày tất bật chuẩn bị, nay chuyên mục “ Trò chuyện cuối tuần” trong chương trình “ Mỗi ngày một niềm vui” của đài truyền hình Thủy thành xin ra mắt mọi người.
Đây là lần đầu tiên Yoh làm MC dẫn chương trình, kinh nghiệm chưa nhiều, mong quý vị độc giả thứ lỗi. Trên hết, chuyên mục “ Trò chuyện cuối tuần” vẫn còn trong giai đoạn thử nghiệm, tất nhiên không thể tránh khỏi thiếu sót, đài truyền hình TTV( Thủy thành Televison) chúng tôi hứa rằng sẽ hết sức cố gắng, để những chuyện mục về sau sẽ hay hơn, bắt mắt hơn, phong phú hơn và thú vị hơn cho mọi người theo dõi.
Khách mời đầu tiên trong chuyên mục “ Trò chuyện cuối tuần” này là một nhân vật trong Sương đỏ, tước hiệu của anh ấy là Đoan Nam Vương, họ anh ấy là Trịnh và tên có một chữ duy nhất là Khải. Vâng, vâng, quý vị độc giả cũng biết đó là ai rồi phải không ạ? Vâng, xin mời Đoan Nam vương Trịnh Khải!!!!( gào lớn)
Đoan nam vương Trịnh Khải (TK): ( Từ sau rèm bước ra )* Mỉm cười*
Yoh: Chào anh, đây là lần đầu tiên anh đến với chuyên mục “ Trò chuyện cuối tuần”, anh có cảm nghĩ gì muốn nói với quý vị độc giả không ạ?
TK: À, đây là lần đầu tiên tôi tham dự chương trình của TTV, nếu nói không có cảm giác thì cũng không phải, chỉ là, hơi bối rối một chút!
Yoh( tròn mắt): Ô, tại sao lại bối rối?
TK: Vì ở đây có rất nhiều người!
Yoh: Chẳng phải ngày nào anh cũng lên lầu thiết triều(*) với bá quan văn võ phía dưới hay sao? ‘_’
(*) Lên lầu thiết triều: Trong một bức tranh tư liệu vẽ về cảnh chúa Trịnh thiết triều của người nước ngoài, chúa Trịnh thiết triều trên lầu cao, ngồi trên một chiếc võng, phía dưới sân là bá quan văn võ xếp hàng chầu.
TK: Khác chứ, bá quan văn võ là nam nhi, còn ở TTV chỉ toàn là… nữ nhi thôi
Yoh: hí hí, tôi cũng là nữ nhi đấy ạ, tôi cũng thích anh lắm đấy ạ. Tôi và mọi người ở đây- những ai yêu thích anh- cũng mong sao có được người yêu hay tấm chồng như anh đấy ạ. Anh có biết là…
*Từ sau tấm rèm có tiếng nhắc khẽ* “Yêu cầu MC không liếc mắt đưa tình”
Yoh: ‘_” Hơ… sao nghe giống như tiếng của Nguyên Thục quá!
TK: * Mỉm cười* Cô không nghe nhầm đâu, đó là tiếng của cô ấy. Cô ấy đi cùng tôi, đang sau hậu trường chờ tôi về!
Yoh: *Lau mồ hôi, lẩm bẩm*” Chắc sợ bị người khác cướp mất đây mà” Thôi tôi không nói lan man nữa, chúng ta bắt đầu vào cuộc phỏng vấn nhé. Đoan nam vương, anh và Nguyên Thục quen nhau trong một trường hợp rất tế nhị, nhưng nếu người ở trong nhà bếp không phải là Nguyên Thục, thì khi gặp cô ấy ở một trường hợp khác, anh có để ý đến cô ấy không?
TK: À, câu này Thục nhi đã từng hỏi tôi một lần!
Yoh: * sáng mắt* Anh trả lời thế nào?
TK: Chỉ cần cô ấy là Nguyên Thục, thì gặp ở đâu cũng như nhau thôi!
Yoh: Anh có thể nói rõ hơn được không? Nếu như tôi không nhầm thì Nguyên Thục không xinh đẹp. có câu “tốt gỗ hơn tốt nước sơn”, nhưng đồng thời cũng có câu” áo quần bắt mắt khi chạm mặt, tâm hồn lưu luyến lúc chia tay”, nếu Nguyên Thục chỉ là một cô gái bình thường giữa những thiếu nữ xinh đẹp khác, thì anh có để ý đến cô ấy không
TK: * mỉm cười* Cổ nhân có câu “hữu duyên thiên lý năng tương ngộ, vô duyên đối diện bất tương phùng”. Nếu cô và người đó có duyên, là một nửa của của nhau, thì chỉ cần một ánh mắt, một nụ cười, hay một hành động nào đó cũng có thể khiến trái tim cô lạc nhịp, nhược bằng nếu không có duyên, thì dù có xinh đẹp, có ân cần đến bao nhiêu, cô vẫn không thể nào rung động được.
Yoh: Vậy có nghĩa là anh và Nguyên Thục có duyên!
TK: * Mỉm cười*
Yoh: Vâng, tôi đã hiểu rồi. Nếu hai người thật sự có duyên, thật sự là một nửa của nhau, thì không gặp trong trường hợp này cũng sẽ gặp trong trường hợp khác, không yêu nhau ở đặc điểm này cũng sẽ yêu nhau ở đặc điểm khác. Vậy xin hỏi anh, anh yêu Nguyên Thục ở điểm nào ạ?
TK: Không nói được!
Yoh: Tại sao?
TK: Đơn giản vì không nói được
Yoh: Nhưng tôi thấy khi người ta yêu nhau đều có lý do cả, thí dụ như thích vì người này thông minh, vì họ hợp gu mình, vì họ hát hay, học giỏi v…v
TK: Tôi nghĩ chuyện tình cảm là chuyện khó có thể nói cho minh bạch. Như cô nói, có người thích vì lý do này, nhưng cũng có người thích là thích, không vì một lý do nào cả. Sau này khi quen nhau rồi, họ mới khám phá ra những điểm khác biệt của đối phương, và cố gắng dung hòa cả hai.
Yoh: Vậy anh có khám phá ra những điểm khác của Nguyên Thục không?
TK: Có, rất nhiều. Chẳng hạn như cô ấy hay cắn móng tay mỗi khi bối rối, hay vò mép áo mỗi khi giận dỗi, hay phịu môi mỗi khi nhõng nhẽo chẳng hạn
Yoh: * nghĩ thầm* (toàn tật xấu – -). * Hỏi tiếp* Cô ấy hay nhõng nhẽo anh lắm à?
TK: * cười* Vì những khi đó, là tôi không quan tâm đến cô ấy nhiều!
Yoh: Anh bận việc triều chính thế, thời gian rảnh rỗi tất nhiên ít, cô ấy phải biết điều này chứ, sao lại còn nhõng nhẽo nữa ^^!!!
TK: Cũng khó trách, cô ấy hiện phải xa gia đình, bạn bè. Em gái lại ở trong nội điện, không được phép tự ý ra ngoài. Suốt ngày vò võ trong cung Đoan Nguyên, làm bếp, cắm hoa và những chuyện lặt vặt suốt ngày này qua ngày khác tất nhiên sẽ buồn. Tôi không có thời gian nhiều cho Thục nhi nên mỗi lúc ở bên nhau, để cô ấy nhõng nhẽo, vòi vĩnh một chút cũng không sao cả!
Yoh( chớp mắt): Thế cô ấy vòng vĩnh, nhõng nhẽo, làm nũng anh cái gì?
TK: * mỉm cười* Cô ấy muốn tôi dẫn cô ấy ra ngoài chơi, muốn tôi ở bên cạnh cô ấy, muốn tôi vỗ về, an ủi nhiều hơn thôi.
Yoh: Không được rồi, nếu thế thì anh chiều hư cô ấy mất -“-
TK: Chỉ lúc trước thôi, bây giờ cô ấy đã không vòi vĩnh như thế nữa, cô yên tâm!
Yoh: Ồ, tại sao thế? Hay anh đã nói gì với cô ấy!
TK: Tôi không nói! Tự cô ấy nhận ra tôi còn nhiều việc khác, nên không làm nũng nữa. Chính vì thế, tôi phải cố gắng sắp xếp công việc để giành thời gian cho cô ấy nhiều hơn.
Yoh: Vâng, thế thì thật tốt quá. Ban nãy tôi có nghe anh nhắc đến việc cô ấy làm bếp, cắm hoa, vậy cô ấy có nấu ăn ngon không, có cắm hoa đẹp không?
TK: Về nấu ăn, cô ấy nất rất ngon, lại nấu những món tôi thích. Còn vế cắm hoa thì cô ấy không được khéo tay, nên chỉ biết cắm mỗi hoa sen thôi!
Yoh: Những món anh thích là món nào?
TK: Nhiều lắm, nhưng trong đó tôi thích canh chua cá lóc và thịt sườn xào chua ngọt!
Yoh: Canh chua cá lóc! Sườn sào chua ngọt! Ôi, tôi cũng thích những món ấy lắm. Chúng ta có duyên quá đi!
*Tiếng e hèm sau tấm rèm lại vang lên*
Yoh: E hèm, vậy anh thích loài hoa nào?
TK: Lúc trước thì Hoa nào cũng được, nhưng bây giờ có lẽ là hoa sen!
Yoh: Trong ngự lâu, anh thích chỗ nào nhất?
TK: Cửa sổ!
Yoh: Sao thế ạ?
TK: Vì bên ngoài cửa sổ là bầu trời, bên dưới là hồ sen. Hương sen theo gió bay đến khiến tôi rất dễ chịu. Đứng bên cửa sổ, thu vào tầm mắt dãy núi xa, bầu trời xanh, thật sự rất thú vị!
Yoh: Vâng, tôi cũng thích đứng bên cửa sổ phóng mắt nhìn ra ngoài bầu trời bao la như anh vậy đó. Sở thích thì rõ rồi, thế còn “ sở ghét” thì sao ạ?
TK: Tôi thích yên tĩnh, nên không thích bị người khác quấy rầy khi đang suy nghĩ, còn lại thì không ghét gì cả!
Yoh: Quay lại chuyện Nguyên Thục, anh và cô ấy quen nhau lâu thế, có kỷ niệm nào đáng nhớ giữa hai người không?
TK: Rất nhiều, nhưng trong đó, có một kỷ niệm mà mỗi lần nhớ đến, tôi vẫn còn thấy ngộ nghĩnh. Đó là một lần trời mưa to, sau cơn mưa, ao hồ trong phủ chúa có rất nhiều ếch, thế là Thục nhi bèn xắn tay áo bắt để nấu món cháo ếch thật thơm ngon cho tôi. Ngặt nỗi cô ấy bắt ếch rất dở, lụp chụp một hồi, người cô ấy lấm lem bùn sình, trông rất tội nghiệp. Không bắt được con ếch nào, nhưng lòng lại muốn nấu cháo cho tôi ăn, cô ấy ngồi đó, mắt rơm rớm, tôi phải bế cô ấy vào nhà và nói chẳng phải cô ấy đã vồ ếch mấy lần, và tôi cũng đã ăn món cháo ếch cô ấy làm rồi hay sao? Sau đó, tôi ra ngoài ao bắt ếch, may mắn bắt được vài con, đem nấu cháo cho cả tôi và cô ấy. Bây giờ nhớ lại, vẫn còn rât thú vị!
Yoh: Wao, anh không ngại bùn sình à?
TK: Cô ấy cố gắng vì tôi, sao tôi không thể cố gắng vì cô ấy?
Yoh: ngoài tài khắc tượng gỗ ra, tôi không ngờ anh lại có tài bắt ếch đấy!
TK* cười lớn* Cô đừng tưởng lầm, tôi không giỏi bắt ếch đâu, cứ thấy con ếch nào thì bắt đại thôi, và thật ra khi ấy, tôi chỉ bắt được có hai con!
Yoh: Hai con cũng đủ khiến cô ấy vui chêt rồi. Kỷ niệm vui thì có, vậy còn kỷ niệm buồn có không?
TK: Kỷ niệm buồn? hình như không có. Tôi vì ít thời gian giành cho cô ấy,nên mỗi khi ở bên nhau, tôi cố gắng làm cho cô ấy vui, nên giữa chúng tôi không có kỷ niệm buồn nào cả.
Yoh: Vậy còn giận hờn? Trách móc? Có không?
TK: Giận hờn vụn vặt thì có, trách móc cũng có, nhưng đó là vì cô ấy buồn do tôi không có nhiều thời gian ở bên cạnh cô ấy thôi
Yoh: Anh đúng là rất hiểu cô ấy nhỉ?
TK: Nếu nói hiểu, thì cô ấy hiểu tôi nhiều hơn cô ấy!
Yoh: Trong suốt từ đầu đến giờ, tôi chưa từng thấy anh ghen hay nổi giận bao giờ đấy!
TK: Ghen? Tất nhiên là có, còn nổi giận thì tôi nghĩ nên kiềm chế, bởi vì khi giận, con người ta thường mất sáng suốt, bản thân tôi lại không muốn mất sáng suốt mà đánh giá sai về người khác, hay nói những lời làm những người mình yêu quý bị tổn thương, nên tôi hạn chế nổi nóng, chứ không phải là không có!
Yoh( chớp chớp mắt): Bất ngờ nha, anh đã từng ghen à? Ghen với ai? Trong trường hợp nào thế?
TK: Chuyện này không nói đến, được không?
Yoh: Ứ ừ, nói đi mà, tôi chắc rằng mọi người và cả Nguyên Thục cũng muốn nghe nữa. Chẳng phải đôi khi cô ấy vẫn thường hay tự hỏi anh có yêu cô ấy không, có nhớ cô ấy không còn gì. Người ta nói rằng ghen cũng là gia vị của tình yêu, có yêu thì mới có ghen, anh nói cho chúng tôi biết với nào!
TK* suy nghĩ*
Yoh: Nói đi mà, nói đi* làm mặt cún con*
TK: Thôi được, đó là với Sùng nhượng công!
Yoh( tròn mắt): Ô, Sùng nhượng công Duy Cận à, sao lại thế?
TK: Nguyên Thục thường hay lui tới phủ của Sùng nhượng công, lại còn mời cậu ấyvề cung Đoan Nguyên chơi. Dù rằng khi ấy cũng có Nguyên Thiên bên cạnh, nhưng mỗi lần đến cung Đoan Nguyên, nhìn thấy cô ấy nói cười vui vẻ với Sùng nhượng công, tôi thật sự rất khó chịu!
Yoh( thích thú): Anh khó chịu ra mặt? Hay trong lòng?
Tk: Chỉ trong lòng thôi, vì Thục nhi nói chuyện vui vẻ với ai là quyền của cô ấy. Hơn nữa, Sùng nhượng công dù sao cũng vẫn là chỗ quen biết, để lộ ra mặt thì không hay!
Yoh: Thế còn Nguyên Thục thì sao, cô ấy có biết anh ghen không?
TK: Khi cô ấy đem canh đến ngự lâu của tôi, thấy thái độ tôi khác lạ, cô ấy đã gặn hỏi, và tôi đã trả lời!
Yoh: Nghe xong, chắc cô ấy vui lắm!
TK: Đúng như cô nói, nghe tôi trả lời, cô ấy rất vui! Tôi không hiểu, sao nữ nhi lại vui đến thế khi thấy người yêu họ ghen tuông vậy?
Yoh( nháy mắt): Đó là bí mật của chị em chúng tôi, tôi không tiện bật mí đâu. Mà nhân tiện nói đến chuyện tượng gỗ, cho hỏi anh biết khắc tượng gỗ trong trường hợp nào?
TK* trầm ngâm* Tôi bắt đầu khắc tượng gỗ khi có Cán nhi. Cán nhi là một đứa bé rất ngoan, nó hay bám theo tôi đi chơi, mỗi lần muốn dỗ nó về cung, tôi đều phải có một món quà cho nó. Cán nhi bảo rằng nếu có món quà nào do chính tay tôi làm, thì nó sẽ rất vui khi nghe lời tôi, thế nên tôi mới khắc tượng gỗ tặng nó, riết thành quen cho đến bây giờ!
Yoh: Vậy anh khắc tượng gỗ chắc đẹp lắm ha!
TK: * đưa ra vài mẫu tượng gỗ* Đây là những thứ tôi vừa mới khắc cho Thục nhi!
Yoh( tròn xoe mắt, ngưỡng mộ): Wao, đẹp quá, anh giỏi thật đấy!
Tk: * mỉm cười* Chỉ cần khắc nhiều, ai cũng sẽ khắc đẹp như tôi thôi. Nhớ lần đầu tiên tôi khắc gỗ, vừa bị xước tay, lại nham nhở, không ra hình thù gì, lâu dần quen tay, đó chỉ là sự cố gắng, tôi không giỏi đâu!
Trịnh Khải vừa trả lời xong, tiếng chuông đồng hồ liễn gõ boong môt tiếng. Hic, thời gian cho buổi chuyện trò đã hết, anh ấy lại tiếp tục trở về phủ chúa để giải quyết những việc còn dang dở. Dù muốn hỏi anh ấy thêm vài câu nữa, nhưng Yoh đành phải kết thúc cuộc phỏng vấn ở đây, chào tạm biệt và chúc anh ấy may mắn, chúng ta đành hẹn gặp anh ấy ở những kỳ sau vậy.
Thời gian giành cho chương trình đã hết, đài truyền hình TTV rất cám ơn quý vị độc giả đã theo dõi chuyên mục “ trò chuyện cuối tuần”. Chương trình kỳ sau khách mời là ai? Với những tiết mục đặc sắc nào? Câu trả lời xin được bí mật, hẹn kỳ sau sẽ rõ nhé. Đài truyền hình TTV thân chúc mọi người một ngày cuối tuần thật vui vẻ, thật nhiều niềm vui và may mắn nào. Xin chào tạm biệt!!!!!!
★ Chương 138
Sau đêm Giáng Sinh vô cùng hạnh phúc ngày hôm qua, bây giờ Nguyên Thục cứ như người lơ lửng trên mây. Sáng nay khi tỉnh dậy, hình ảnh đầu tiên in trong đôi mắt mơ màng của Nguyên Thục là gương mặt thanh tú của Trịnh Khải. Anh đang ngủ, đôi mày kiếm giãn ra, nhẹ nhõm, không còn suy tư và trầm ngâm như thường ngày. Nhẹ nhàng vuốt ve vầng trán cao và đôi mắt sâu ấy, bờ môi Nguyên Thục hé cười, khoảnh khoắc ngọt ngào đêm qua vẫn còn vương vấn trong tâm trí nó. Mùi trầm hương dịu dàng, vòng tay ấm áp, những nụ hôn nồng nàn, những phút ái ân mặn nồng, nó đã ngủ thiếp trên bờ vai rộng ấy, đó là một giấc ngủ say nhất, ngon nhất và yên bình nhất từ trước tới nay.
Vậy là nó đã chính thức thuộc về anh, chính thức trở thành vợ anh. Ý nghĩ ấy làm đôi má Nguyên Thục ửng hồng, làm trái tim nó đập rộn rã, làm nụ cười trên môi nó càng thêm rạng ngời. Sáng nay, nó đã chính tay chuẩn bị bữa sáng cho Trịnh Khải, chuẩn bị áo cho anh, vuốt nhẹ cho tà áo phẳng phiu, rồi anh hôn lên trán nó, và nó vẫy tay chào anh, chúc anh một buổi sáng tốt lành khi anh thiết triều. Tất cả những khoảnh khắc đó còn tuyệt vời hơn hẳn những gì mà Nguyên Thục đã tưởng tượng ra khi có gia đình, và cái gia đình của nó sẽ còn trọn vẹn hơn khi nó sinh cho anh một đứa con.
Nguyên Thục tủm tỉm cười khi mường tượng đến đứa con xinh xắn của nó và Trịnh Khải. Thấy Nguyên Thục đang làm điểm tâm mà vui vẻ khác thường như thế, khỏi phải nói ra, A Đào và A Vân cũng đoán được đêm qua tiệp dư đã được chúa công ân sủng, nên tâm trạng vui vẻ, phấn khởi của Nguyên Thục cũng làm hai cô vui lên phần nào.
- Tiệp dư, người vò quá, coi chừng bánh đậu xanh bị nát đó!
Nghe A Vân nhắc nhở, Nguyên Thục vội vàng nhìn xuống chiếc bánh đậu trong tay, mũi nó nhăn lại khi chiếc bánh tròn ban đầu đã trở nên méo mó. Nếu Nguyên Thiên có tật vừa đi vừa nhảy chân sáo, thì nó lại có một cái tật xấu khác, đó là khi vui thì chẳng để ý gì đến chuyện mình đang làm. Không được, Nguyên Thục mím môi, những chiếc bánh đậu này phải thật ngon lành, đẹp mắt để mang cho Trịnh Khải dùng điểm tâm, nó phải tập trung hoàn thành, tránh suy nghĩ thôi.
- Tiệp dư, mấy hôm nay trong hoàng cung đang rộn ràng, người có hay tin gì chưa?
Đang chăm chú vo những chiếc bánh đậu xanh méo mó lại thành hình tròn, Nguyên Thục ngừng tay lại khi nghe đến hai chữ “hoàng cung”. Nguyên Thục ngẩng đầu lên, mày liễu nhíu lại vì linh cảm chuyện mà A Đào sắp nói sẽ chẳng tốt lành gì.
- Chuyện gì vậy chị?
- Tiệp dư chưa biết gì sao, hoàng thái tôn sắp lập hoàng phi. Để mừng hoàng thái tôn đã tìm được hoàng phi thích hợp, hoàng thượng sẽ thết tiệc quần thần, trong đó, tòa lượng phủ của chúng ta là thành phần quan trọng không thể thiếu, từ đây tới đó chỉ còn hai ngày, lẽ nào tiệp dư không biết chuyện này?
A Đào nói xong, Nguyên Thục giật mình, nó vội hỏi hỏi lại.
- Lập hoàng phi? Chị nói hoàng thái tôn lập hoàng phi? Nàng ta tên gì?
- Nghe đâu mỹ danh của vị phi tử ấy là Kim thì phải! Là em gái của trọng thần Nguyễn Quốc Đống.
- Kim?
Nghe A Đào thốt ra cái tên lạ hoắc, Nguyên Thục há hốc miệng. Nó tưởng mình nghe nhầm nên hỏi lại hai ba lần, kết quả vẫn chỉ như một, khiến Nguyên Thục cau mày. Duy Khiêm sắp lập hoàng phi, nàng ấy tên là Kim, chứ không phải là Nguyên Thiên – em gái nó. Thiệt tình, cả hoàng cung rầm rộ thế chắc chắn em gái nó đã biết, vậy mà chẳng chịu hé môi lấy câu nào, nếu A Đào không nói, nó lại chẳng biết chuyện gì xảy ra rồi.
Nguyên Thục mím môi, nó càng nghĩ càng buồn bực. Duy Khiêm lập phi, Nguyên Thiên chắc chắn sẽ bị tổn thương. Qua ánh mắt, cử chỉ và hành động của Nguyên Thiên, nó biết em gái nó rất yêu Duy Khiêm, đã yêu, tất nhiên chỉ muốn người đó thuộc về riêng mình, chứ không chia sẻ cho ai cả. Nguyên Thiên không phải là người giỏi che giấu nội tâm, em gái nó bộc trực, thẳng thắn, có gì đều nói ra chứ không giữ lại trong lòng, Duy Khiêm lập hoàng phi chắc chắn là một đòn đả kích nặng nề đối với Nguyên Thiên. Có lẽ do trước đây nó đã nói nếu có xảy ra chuyện gì, nó cũng sẽ không quan tâm nên Nguyên Thiên mới giấu, không nói, nhưng dẫu thế, Nguyên Thiên vẫn là em gái duy nhất của nó, nó vẫn rất lo lắng và quan tâm tới Nguyên Thiên. Chẳng lẽ nói bỏ mặc là bỏ mặc đươc sao!
Nguyên Thục xiết chặt hai tay vào nhau. Nguyên Thiên chưa bao giờ giấu nó bất cứ chuyện gì, nay trước chuyện lớn thế này lại im lặng, làm nó giận vô cùng. Càng nghĩ nó càng tức, lại thêm bản thân muốn giải quyết chuyện gì là phải làm ngay, Nguyên Thục dẹp hết tất cả bánh trái sang một bên, rồi thân chinh đến Nội điện một phen, trước cái nhìn ngơ ngác của A Vân và A Đào.
Trên đường đến Nội điện, ngồi trong kiệu Nguyên Thục lòng nóng như lửa đốt. Chỉ e Nguyên Thiên hiện đang vò võ trong Nội điện một mình, âm thầm khóc, còn Duy Khiêm thì đang tất bật chuẩn bị nghi lễ tấn phong nàng hoàng phi tên Kim. Nghĩ đến đó, Nguyên Thục càng nôn nóng hơn bao giờ hết, kiệu vừa hạ, chẳng đợi lính mở rèm nó đã bước xuống, rồi tất tả đến Nội điện, chứ không chơi trò úp mở với Nguyên Thiên như thường ngày.
- Chị, sao chị lại qua đây?
Trái với suy nghĩ của Nguyên Thục, ra đón nó là gương mặt tươi tắn, cùng đôi mắt to tròn vì ngạc nhiên của Nguyên Thiên. Thấy Nguyên Thiên vẫn rất tươi tỉnh, Nguyên Thục sinh nghi. Tại sao biết tin Duy Khiêm lập phi mà Nguyên Thiên vẫn còn nói cười được như thế, chẳng lẽ A Đào báo tin sai ư, hay Nguyên Thiên vẫn không biết gì?
- Xem ra em đang rất vui vẻ thì phải?
Nguyên Thục hỏi dò. Nhìn thẳng vào mắt Nguyên Thục, Nguyên Thiên nhoẻn cười, tay bưng chén trà mời.
- Em thì có gì buồn đâu! Chẳng phải em đã nói sao, em đang rất hạnh phúc mà!
Thấy Nguyên Thiên nói cười vui vẻ, Nguyên Thục nhíu mày, nó cầm lấy chén trà mà Nguyên Thiên vừa đưa, nhưng không uống, mà lại nhìn thẳng vào mắt em mình. Quả nhiên, trong đôi mắt nâu màu mật ong to tròn, ngây thơ ấy lẩn khuất những nét phiền muộn. Nguyên Thiên hiện đang cố tỏ ra bình thường, vui vẻ như không có gì xảy ra cốt để Nguyên Thục yên lòng, nhưng người ta nói đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, nó lại là chị, làm sao không biết ánh mắt và nụ cười của Nguyên Thiên phảng phất nỗi buồn sâu sắc không nói thành lời.
- Em hạnh phúc à? Rất hạnh phúc sao? Kể cả khi người ta lập một cô gái khác làm hoàng phi, vui vầy, êm ấm. Em vẫn hạnh phúc sao?
Nguyên Thiên sững người lại, chớp mắt nhìn Nguyên Thục, hai chị em yên lặng nhìn nhau thật lâu, rồi Nguyên Thiên cúi mặt, tay vẽ lòng vòng trên bàn mà không nói câu nào. Biết ngay mà, ở bên cạnh Duy Khiêm, em gái nó chỉ có đau khổ mà thôi.
- Em đã thấy chưa, em đã thấy anh ta là người thế nào chưa. Ngày trước khi anh ta đến tìm em, chị đã hết lời khuyên ngăn, bảo rằng anh ta không phải người có thể cho em hạnh phúc. Ở bên cạnh anh ta em chỉ chuốc thêm nhiều đau khổ thôi. Cái gì mà “chỉ cần Thiên nhi vui là được!”, thế thì việc lập phi này em có vui không hả?
- Chị…
- Từ lúc ở bên cạnh anh ta, em đau khổ nhiều hay là hạnh phúc nhiều? Tại sao không phải ai khác, mà cứ nhất thiết là anh ta? Duy Cận rất yêu em, chiều em và luôn quan tâm tới em, anh ấy tốt hơn hẳn Duy Khiêm, giao em cho Duy Cận, chị rất yên tâm, nhưng tại sao em lại đi yêu một người luôn làm em tổn thương và đau lòng vậy?
- Tình cảm… có thể chọn sao?!
- Chị hỏi thật, em có nghĩ Duy Khiêm yêu em không? Anh ta có bao giờ nói yêu em không? Hay tất cả chỉ do em ngộ nhận, ảo tưởng rồi tự huyễn hoặc bản thân mình rằng anh ta yêu em? Trong khi anh ta chỉ coi em như một trò chơi?
- Anh ấy không phải người như thế! Chị chẳng hiểu gì về anh ấy cả!!
Những câu đầu của Nguyên Thục, Nguyên Thiên chỉ phản ứng yếu ớt, đến câu thứ ba thì Nguyên Thiên phản đối, ánh mắt mở to, không đồng ý những gì Nguyên Thục vừa nói. Thái độ ấy khiến Nguyên Thục tức giận, nó cười lạt.
- Thế anh ta là người thế nào? Là người thế nào mà cứ làm em đau khổ hết lần này đến lần khác, làm em tổn thương hết lần này đến lần khác? Lần trước thì bỏ rơi em, lần này là chuyện lập phi, hay em còn những lần khác mà chị không biết?
- Không phải!
- Duy Khiêm không thật lòng yêu em đâu, anh ta chỉ xem em như một món đồ chơi, khi buồn thì tìm đến, khi chán thì bỏ mà thôi.
Dù bất bình về những lời Nguyên Thục nói, nhưng Nguyên Thiên không giỏi lý luận, lại thêm những chứng cứ Nguyên Thục đưa ra Nguyên Thiên chẳng thể bác bỏ được, nên cứ lặp đi lặp lại câu “anh ấy không phải thế”, mắt rơm rớm, tưởng chừng như sắp khóc đến nơi. Biết em mình đang rất xúc động, Nguyên Thục bất nhẫn, nó không tiếp tục truy vấn và làm khổ Nguyên Thiên thêm nữa, mà nắm lấy đôi bàn tay đang run rẩy của em mình, xiết chặt, từng chữ nghẹn lại trong cổ họng, khó khăn lắm mới thốt thành lời.
- Nguyên Thiên, nghe chị. Đừng tiếp tục làm khổ mình thêm nữa. Bỏ Duy Khiêm đi, đừng yêu anh ta nữa. Em hãy về với chị, rồi chị em mình sẽ bảo bọc cho nhau. Nhìn em thế, chị đau lòng lắm.
Đôi mắt rơm rớm của Nguyên TThiên vụt ráo hoảnh khi nghe Nguyên Thục nói. Gương mặt bầu bĩnh đang xúc động vụt trở nên kiên nghị, điềm tĩnh lạ lùng. Nắm chặt lấy tay chị mình, vuốt nhẹ, Nguyên Thiên lắc đầu.
- Chị, em không thể, hay nói chính xác hơn là em không muốn. Em muốn được ở bên cạnh anh ấy, lúc nào cũng ở bên cạnh anh ấy, đau khổ em chịu được, tổn thương em cam lòng. Bất luận có chuyện gì xảy ra đi chăng nữa, em vẫn nguyện ở bên cạnh anh ấy, yêu anh ấy, không thay lòng. Chị nói đúng, anh ấy chưa từng nói yêu em, nhưng em không ảo tưởng, không tự huyễn hoặc, em biết anh ấy không xem em như trò chơi, em biết anh ấy yêu em thật lòng. Anh ấy đã từng nói rằng anh ấy là con diều lạc lõng, em muốn mình là bầu trời rộng lớn để cho anh ấy thỏa chí bay bổng. Không có bầu trời, con diều của anh ấy không thể bay lên đâu, chị à!
Đây là em gái bé bỏng của nó sao?
Một Nguyên Thiên ngây thơ, thẳng thắn, bướng bỉnh và ngổ ngáo sao?
Nguyên Thục nhìn đăm đăm Nguyên Thiên, từng ngón tay nó lỏng ra, rồi tuột khỏi bàn tay đang xiết chặt của Nguyên Thiên. Mới đây em gái nó còn nghẹn lời, không biết trả lời thế nào trước sự truy vấn của nó, ấy thế mà khi bảo rời xa Duy Khiêm, thì lại trở thành một cô gái can đảm, độc lập và kiên quyết như thế. Tình yêu đã làm cho em gái nó thay đổi, thật sự thay đổi, Nguyên Thiên giờ như đá tảng, chẳng ai có thể lung lay hay thay đổi được, rốt cuộc là ở Duy Khiêm có điểm gì tốt để Nguyên Thiên yêu, rốt cuộc anh ta đã dùng bùa mê gì khiến cho em gái mình lú lẫn như thế chứ?
Anh ấy đã từng nói rằng anh ấy là con diều lạc lõng, em muốn mình là bầu trời rộng lớn để cho anh ấy thỏa chí bay bổng. Không có bầu trời, con diều của anh ấy không thể bay lên đâu, chị à!
Cánh diều và bầu trời…
Là Nguyên Thiên nghĩ ra, hay là do Duy Khiêm gieo vào đầu óc con bé những suy nghĩ đó.
Không có bầu trời, con diều không thể bay lên…
Vậy đó không phải là một mối ràng buộc, không thể chia cắt hay sao?
Nguyên Thục cảm thấy lo lắng.
Duy Khiêm đã lập phi, còn kiên quyết giữ Nguyên Thiên lại bên cạnh. Mà Nguyên Thiên là em gái nó, như thế chẳng phải anh ta muốn dùng Nguyên Thiên để uy hiếp nó, gây ảnh hưởng đến Trịnh Khải sao. Hiện nay nó đã chính thức là vợ của Trịnh Khải, không những thế, người ngoài nhìn vào thấy nó đang là thiếp yêu, là người có ảnh hưởng đến chúa công nhất. Nguyên Thiên là em gái ruột thịt duy nhất, nếu sau này Duy Khiêm muốn nó thực hiện gì đó mà mang Nguyên Thiên ra uy hiếp thì liệu nó có làm không? Ở quá khứ này, Trịnh Khải và Nguyên Thiên là hai người quan trọng nhất đời nó, Duy Khiêm lại đang giữ một trong hai người quan trọng ấy và có khả năng đe dọa người còn lại. Nếu một ngày nào đó buộc phải chọn giữa Trịnh Khải và Nguyên Thiên, một bên là chồng, một bên là em, nó sẽ chọn ai, bỏ ai bây giờ?
- Chị, chị sao thế? Bị đau ốm gì sao? Có mệt không?
Nguyên Thục càng nghĩ, càng lo lắng, mồ hôi lạnh trên trán bất giác rịn ra lúc nào không hay. Thấy Nguyên Thục ngồi im như tượng gỗ, Nguyên Thiên lo lắng, lay vai chị, khiến Nguyên Thục bừng tỉnh. Ngẩng nhìn đứa em gái thân yêu của mình, Nguyên Thục mím môi lại, hai chị em nó rất thương yêu nhau, nếu ngày đó thật xảy ra, nó có thể bỏ rơi em gái nó không?
- Thiên nhi, ta về rồi đây!
Bao suy nghĩ trong đầu Nguyên Thục cuộn lại như chỉ rối, bất chợt, một giong nói trầm ấm nhẹ cất lên, khiến cuộn chỉ rối ấy như bị một nhát kéo cắt đứt. Nó quay phắt người lại, bóng tối kéo qua đôi mắt khi nhìn thấy Nguyên Thiên đang ôm lấy chồng sách mà Duy Khiêm vừa đưa, gương mặt bầu bĩnh rạng ngời. Mới ban nãy còn rơm rớm nước mắt tưởng như sắp khóc, vậy mà khi Duy Khiêm về đến, lại mừng rỡ, quên hết những chuyện vừa xảy ra, em gái nó ngốc, nhưng nó thì không ngốc đâu!
Hôm nay, nó nhất quyết phải hỏi tới cùng chuyện Duy Khiêm lập hoàng phi!
★ Chương 139
Khi Nguyên Thiên từ trong Nội điện chạy ra mừng đón, Nguyên Thục tinh ý nhìn thấy Duy Khiêm rút từ trong áo ra một vài chiếc kẹo nhỏ và thả vào tay em gái nó. Kẹo mạch nha, món kẹo mà Nguyên Thiên thích nhất, lại còn thích hơn khi Duy Khiêm mang từ đâu về cho, chả thế mà đôi mắt Nguyên Thiên long lanh như có giọt nắng rơi vào. Em gái nó thiệt tình, anh ta mới cho vài chiếc kẹo thôi mà cảm động đến như thế rồi.
- Hoàng thái tôn, hôm nay tôi sang Nội điện thăm Nguyên Thiên, ngài không phiền chứ?
Đợi cho Duy Khiêm bước vào Nội điện, Nguyên Thục mới lên tiếng. Dường như biết rằng Nguyên Thục sớm muộn gì cũng sẽ đến, Duy Khiêm mỉm cười.
- Không phiền, tiệp dư đến thăm Thiên nhi, ta rất vui!
- Vậy sao? Ngài không cần phải nói, tôi cũng biết ngài đang rất vui!
- Khi vui thì mọi phiền hà đều không đáng bận tâm đến, tiệp dư đã biết ta vui, hà tất phải hỏi ta phiền hay không!
Từ xưa đến nay, Nguyên Thục không bao giờ chưa tự nhận mình là người giỏi lý lẽ, nhưng ít nhất cũng chưa ai bắt bẻ lại nó, vậy mà với Duy Khiêm thì lại khác. Nó nói một câu, anh đáp lại một câu, nói hai câu, đáp hai câu, câu nào câu nấy đều sắc bén, chặn hết mọi đường tiến thoái của nó, khiến nó thận trọng khi đối đáp với anh, để cho mình không lâm vào thế bí hay bị anh dồn vào chân tường.
Dù Nguyên Thiên ngây thơ đến đâu thì cũng biết rằng chị mình không thích Duy Khiêm và có thành kiến về anh. Không muốn hai người quan trọng nhất của mình lại bất hòa với nhau, Nguyên Thiên liền níu lấy áo Nguyên Thục, mắt long lanh, ngụ ý bảo rằng chị mình đừng nên có thành kiến về anh nữa, mà hãy cư xử với Duy Khiêm nhẹ nhàng hơn, rồi sau đó lại níu lấy áo Duy Khiêm, lắc đầu, ngụ ý mong anh hãy nhường nhịn Nguyên Thục, đừng khiến chị mình giận làm gì.
Vì giữa mình và Duy Khiêm không có quan hệ tốt đẹp, nên Nguyên Thiên đứng giữa rất khó xử, Nguyên Thục lại đang muốn làm rõ ràng chuyện phi tử, nó không thể không hỏi, ngặt nỗi Nguyên Thiên lại đang có mặt ở đây, dù khéo léo đến đâu cũng không tránh khỏi làm em gái nó đau lòng. Muốn hỏi Duy Khiêm về mọi chuyện, lại không làm Nguyên Thiên buồn, cách tốt nhất là dụ em gái nó ra khỏi nội điện làm gì đó, đến khi Nguyên Thiên quay lại thì nó và Duy Khiêm cũng đã nói chuyện xong đâu đấy cả rồi.
- Nguyên Thiên, em biết hôm nay là ngày gì không?
- Là ngày Giáng Sinh, nếu theo lịch dương!
Nghe Nguyên Thục hỏi, Nguyên Thiên trả lời ngay. Nguyên Thục mỉm cười khi em gái nó cũng như mình, cũng biết được hôm nay là ngày 25 -12, là ngày Giáng Sinh nếu tính theo dương lịch.
- Vậy có muốn đón Giáng Sinh cùng chị không?
- Tất nhiên là muốn rồi! – Nguyên Thiên đáp, giọng phấn khởi.
- Thế thì em xuống bếp, làm vài món đi, nghe hoàng thái tôn nói tay nghề của em đã tiến bộ rất nhiều, điều đó khiến chị rất ngạc nhiên. Từ trước tới nay chị chưa từng nếm món nào của em cả, sẵn dịp Giáng Sinh, em xuống bếp àm vài món cho bữa tiệc giáng sinh của chị em mình nào. Hoàng thái tôn, ngài muốn ăn gì, Nguyên Thiên sẽ nấu cho!
Hôm nay Nguyên Thục đến Nội điện, chắc chắn là về việc lập hoàng phi, nên khi thấy Nguyên Thục muốn dụ Nguyên Thiên xuống bếp, Duy Khiêm mỉm cười.
- Món mà ta thích ăn là trứng chiên, còn tiệp dư?
- Tôi thích ăn canh chua cá lóc, Nguyên Thiên, em nấu canh chua cá lóc được không?
Thấy Nguyên Thục nói cười vui vẻ với Duy Khiêm, bầu không khí ngột ngạt biến mất, Nguyên Thiên tưởng chị đã thuận theo mong ước của mình nên mừng lắm, liền hớn hở.
- Được, chị thích món gì em cũng làm được, tuy nấu không được ngon nhưng em sẽ cố gắng. Vậy chỉ có hai món trứng chiên và canh chua cá lóc thôi à, còn món gì nữa không?
- Ngoài trứng chiên, canh chua cá lóc ra, chị muốn thêm một món gà chiên nước mắm và đậu đũa luộc. Hoàng thái tôn, ý ngài thế nào?
- Được, những món đó Thiên nhi thường hay làm cho ta ăn nên cô ấy sẽ nấu ngon thôi, cứ quyết vậy đi!
Trước sự nhanh nhảu của Nguyên Thục, Duy Khiêm gật đầu. Đối với Nguyên Thiên mà nói, hai người quan trọng nhất đời mình vui vẻ, hòa khí với nhau như thế, đó là một chuyện đáng mừng, cho nên dù phải nấu nhiều món, Nguyên Thiên cũng không ngại khổ. Bảng thực đơn vừa liệt kê xong, Nguyên Thiên “vâng” một tiếng rõ to khi Duy Khiêm chốt lại câu cuối cùng. Nó quày quả xuống bếp, cố gắng nấu thật nhanh, thật ngon các món ấy, để cả ba người cùng đón ngày Giáng Sinh thật ấm cúng với nhau.
Nguyên Thiên vừa đi khuất, bầu không khí trong Nội điện liền trầm xuống. Đợi cho Nguyên Thiên đi hẳn, không quay trở lại, Nguyên Thục mới đưa mắt nhìn Duy Khiêm. Anh đang ung dung nhấp từng ngụm trà, mắt nhìn lơ đãng qua cửa sổ, tựa như nó không có mặt trong phòng. Không lãng phí thêm một giây phút nào nữa, Nguyên Thục hắng giọng một tiếng, rồi nói nhanh.
- Hoàng thái tôn, ngài thông minh thế, chắc chắn biết vì sao tôi đột ngột đến Nội điện mà không thông báo trước phải không?
- Chẳng phải tiệp dư đến đây để thăm Thiên nhi sao?
Thấy Duy Khiêm dường như đang cố tình không biết chuyện gì xảy ra để thử thách lòng kiên nhẫn của mình, Nguyên Thục bực lắm. Biết mình mà nóng giận thì sẽ đánh mất tự chủ, càng dễ bị Duy Khiêm dắt mũi, Nguyên Thục bình tĩnh nhìn thẳng vào mặt Duy Khiêm, mỉm cười.
- Một phần là thế, một phần là vì hoàng thái tôn, à không, nói chính xác hơn là vì nàng Kim nào đó!
- Nàng Kim? Kim nào thế nhỉ?
“Anh ta rõ ràng đang muốn chọc giận mình đây mà”
Nguyên Thục cau mày, nghĩ thầm, nó công nhận Duy Khiêm rất là biết cách làm cho người khác mất bình tĩnh. Biết hết mọi chuyện, nhưng giả như không biết gì, còn vờ hỏi lại với gương mặt trẻ con đáng yêu chân thật, chẳng chút dối trá nào. Thế mới nói Duy Khiêm thật là lợi hại và nguy hiểm, mỗi một lời nói đều có dụng ý riêng, chỉ có đứa em gái ngốc nghếch của nó mới đi tin anh ta thật lòng mà thôi.
- Nàng Kim. Nguyễn Thị Kim, là người mà hoàng thái tôn sẽ lập làm hoàng phi đó!
Nguyên Thục nói nhỏ nhẹ, nhưng lại cố ý kéo dài hai chữ hoàng phi ra, cốt để quan sát xem biểu hiện của Duy Khiêm thế nào. Nào ngờ, Duy Khiêm nghe xong chỉ “à” một tiếng, rồi im lặng, chẳng nói gì nữa khiến Nguyên Thục mím môi. Bình tĩnh, bình tĩnh, chớ trúng kế của anh ta.
- Vậy ngài đã biết rồi chứ, tôi qua đây là vì chuyện lập hoàng phi của ngài. Ngài tính lập nàng ấy làm hòang phi thật sao, thế còn em gái tôi ngài tính thế nào đây?
- Ta không còn cách nào khác, đành phải thế thôi!
Duy Khiêm nói, giọng thản nhiên như chuyện phải thế, làm Nguyên Thục tức giận. Nó hỏi lại ngay.
- Không còn cách nào khác là thế nào? Ngài là hoàng thái tôn, lẽ nào chuyện hôn nhân không tự quyết được?
Ung dung gạt hơi nước từ tách trà thoát lên, Duy Khiêm nhìn Nguyên Thục qua làn khói mờ ảo đó. Hình như anh đang mỉm cười, nhưng tựa như không cười, đang nhìn mà tựa như không nhìn, anh nói, giọng chậm rãi.
- Vậy, tiệp dư, Đoan Nam vương có thể tự quyết chuyện hôn nhân của ngài ấy không? Ta cũng là thân bất do kỷ, mọi chuyện không thể như ý ta quyết. Phàm là nam nhi, những đạo lí trung, hiếu, lễ, nghĩa, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ đều phải nằm lòng. Trong đó, trung là trung với vua với nước, sau trung là hiếu, là hiếu với phụ mẫu, có phụ mẫu mới có mình. Mẫu thân ta muốn lập nàng ấy làm phi, hoàng gia gia muốn ta lập nàng ấy làm phi, luận về đạo trung hiếu ta đều không thể chối từ, chẳng lẽ tiệp dư muốn Thiên nhi đi yêu một người bất trung, bất hiếu như ta sao?
Duy Khiêm nói, chậm rãi mà mạch lạc, từng câu từng chữ đều rất hợp lẽ, khiến Nguyên Thục chỉ biết trơ mắt ra nhìn mà không thể phản bác câu nào. Nhưng nói gì thì nói, chuyện Duy Khiêm lập ai làm hoàng phi nó không cần biết, chuyện nó muốn biết là anh sẽ đối xử với Nguyên Thiên như thế nào thôi.
- Vậy còn em gái tôi thì sao?
- Câu hỏi đó ta tưởng tiệp dư đã sớm có câu trả lời rồi chứ!
Duy Khiêm không trả lời trực tiếp câu hỏi của nó mà nói một cách mập mờ với nụ cười mỉm, khiến Nguyên Thục cau mày.
- Sao?
- Dám hỏi hiện giờ tiệp dư và Đoan Nam vương có hạnh phúc không?
- Dĩ nhiên có! Anh hỏi thế để làm gì?
- Tiệp dư và Đoan Nam vương rất hạnh phúc, vậy tại sao ta và Thiên nhi không thể hạnh phúc?
- Tôi không thích úp mở, anh nói rõ ràng đi!
Trước phản ứng của Nguyên Thục, Duy Khiêm đan hai tay vào nhau, anh thong thả nói.
- Tiệp dư, người đâu phải là vương phi. Người cũng biết Đoan Nam vương đã lập một vương phi, nhưng người và Đoan nam vương vẫn rất hạnh phúc đấy thôi. Ai làm chính phi, thứ phi không quan trọng, quan trọng là Đoan Nam vương yêu người, cũng như ta yêu Thiên nhi vậy, có gì khác nhau!
- Anh ấy yêu tôi, tôi biết, còn anh có thật lòng yêu Nguyên Thiên không thì làm sao tôi biết. Theo như anh nói, ai là thứ phi, chính phi không quan trọng, quan trọng là anh yêu Nguyên Thiên, thế chẳng lẽ sau này anh lập thêm hai, ba hay bốn nàng thứ phi khác đều không quan trọng, miễn là anh yêu em gái tôi hay sao?
- Tiệp dư, Đoan Nam vương yêu người hay không người biết, còn ta có thật lòng yêu Thiên nhi hay không, dĩ nhiên là người không biết rồi, người đâu phải Thiên nhi, chuyện đó chỉ có thể là ta và Thiên nhi biết, người ngoài há có thể phán xét sao. Như ta đã nói, đạo trung, hiếu ta không thể không theo. Việc kết nạp phi tử xưa nay đều là phục vụ cho mục đích chính trị, để liên minh quyền lực, ổn định các phe cánh, lèo lái đất nước, huống chi, ta lại là một hoàng thái tôn, cho nên lập thêm hai, hay ba nàng thứ phi khác không quan trọng. Quan trọng nhất vẫn là ta yêu ai, thế thôi!
Duy Khiêm càng nói, Nguyên Thục càng thêm giận, nó nhướng mày lên, nhấn mạnh từng lời.
- Anh nói hay lắm, cái gì mà trung với hiếu, cái gì mà mục đích chính trị. Anh nói lập hai ba người không quan trọng, quan trọng là anh yêu ai. Vậy cứ cho rằng bây giờ anh yêu em gái tôi, nhưng có cái gì đảm bảo sau này anh sẽ không yêu người khác, sẽ bỏ rơi em gái tôi không?
- Tiệp dư, người nói thế, tức là đã quá đề cao bản thân và không tin tưởng Thiên nhi rồi. Người cho là mình thông minh, có thể chọn và yêu đúng người, nên còn muốn kiểm soát và quyết định cả chuyện Thiên nhi phải chọn ai, yêu ai hay sao? Người có thể đúng, lẽ nào Thiên nhi lại không thể? Người không phải Thiên nhi, làm sao biết cô ấy yêu sai hay đúng, người cũng không phải ta, làm sao biết ta đúng hay sai. Hơn nữa, chuyện tình cảm cũng có thể phân biệt đúng hay sai sao, là ai sẽ thẩm định chuyện đó, nếu không phải là người trong cuộc? Trung và hiếu là hai phẩm chất đứng đầu của nam nhi, ta phải làm tròn đạo trung, hiếu đó. Còn nếu cả hai phẩm chất đó cũng không đảm bảo được thì đừng nói gì đến thủy chung son sắc làm gì. Chắc hẳn người không muốn Thiên nhi yêu một kẻ bất trung, bất hiếu, hay thay đổi sớm chiều phải không?
Đến đây thì Nguyên Thục không thể nào bắt bẻ Duy Khiêm được nữa. Lý luận của anh rất sắc bén, gọn gàng, không thừa cũng không thiếu, dù Nguyên Thục có giỏi ứng biến đến đâu cũng chẳng phản bác được lại lời nào. Lời Duy Khiêm nói rõ ràng làm Nguyên Thục rất tức giận, rất bất bình, nhưng nó chỉ biết im lặng trước những lý lẽ ấy. Dẫu vậy, cứ nghĩ đến viễn cảnh Nguyên Thiên bị bỏ rơi hay bị lãng quên trong cái cung cấm toàn phi tử vì “mục đích chính trị” của Duy khiêm là nó lại giận sôi cả người.
Nếu tiếp tục truy vấn Duy Khiêm thêm nữa, Nguyên Thục e nó sẽ khó kiểm soát được hành động và sự nóng giận của mình, mà nó thì lại không muốn thế, nên nó thôi không hỏi Duy Khiêm nữa, mà quay người nhìn ra cửa sổ, cùng với những suy nghĩ riêng trong đầu mình.
Có thể nói qua cuộc truy vấn này, mối ác cảm trong lòng nó về Duy Khiêm lại càng tăng thêm bội phần. Cái cách anh ta trả lời về đạo trung, hiếu, nghe rất có lý, nhưng lại không làm nó cảm động chút nào, cứ như là lời biện hộ cho việc anh ta yêu Nguyên Thiên, nhưng lập bao nhiêu phi tử là chuyện riêng của anh ta vậy. Khi nói với nó như thế, liệu anh ta có nghĩ đến Nguyên Thiên không, có cảm thông cho Nguyên Thiên không, khi giải thích với Nguyên Thiên có nói rõ ràng như thế hay không, hay cái đạo trung, hiếu đó chỉ đưa ra khi trả lời nó. Đã lập hoàng phi, không cho Nguyên Thiên chút danh phận nào, lại còn muốn giữ Nguyên Thiên ở bên cạnh, không rời, như thế chẳng phải đã khẳng định Duy Khiêm muốn lợi dụng Nguyên Thiên để uy hiếp nó hay sao? Càng nghĩ Nguyên Thục càng thấy lo lắng và tức giận. Sao em gái nó lại ngây thơ, dễ tin người đến thế, tại sao lại bỏ mặc mọi lời can ngăn khuyên bảo của nó, cứ đâm đầu vào tình yêu ấy, cứ khăng khăng muốn ở bên cạnh người này trong khi anh ta chỉ đang muốn lợi dụng em gái nó thôi.
Việc kết nạp phi tử xưa nay đều là phục vụ cho mục đích chính trị, để liên minh quyền lực, ổn định các phe cánh, lèo lái đất nước
Mục đích chính trị?
Liên minh quyền lực?
Ổn định các phe cánh?
Đó chẳng phải dấu hiệu cho thấy anh ta đang củng cố quyền lực, tìm kiếm liên minh và thành lập vây cánh cho mình để lật đổ phủ chúa, thu lại thực quyền hay sao.
Trong phút chốc, như có ánh lửa bùng cháy trong mắt Nguyên Thục. Duy Khiêm đang có mưu toan, nó đã biết và chắc chắn không thể bỏ qua, không thể để Duy Khiêm muốn làm gì thì làm…
Nó phải bảo vệ Trịnh Khải
Bằng mọi giá nó phải bảo vệ tổ ấm của riêng mình!
★ Chương 140
Mặt trời lặn
Nhưng hòang hôn chưa về
Người ta nói “đêm tháng năm chưa nằm đã sáng, ngày tháng mười chưa cười đã tối”, cho nên mỗi buổi chiều vàng của tháng năm, hai đứa trẻ ấy lại được phép chơi lâu hơn một chút trước khi thầy gọi về.
Trên triền đồi lộng gió, có hai bóng người đang ngồi trong yên lặng, cả hai cùng dõi mắt về hướng hai cậu bé sinh đôi đang chơi thả diều. Tuy gương mặt của họ giống nhau, nhưng tính cách và biểu hiện thì lại khác nhau hoàn toàn. Một người ngồi lặng thinh, gương mặt lạnh như đá tảng, đôi mắt tăm tối như vực sâu, người còn lại thì lại phảng phất nụ cười trên môi, gương mặt hiền hòa, tạo cho người khác cảm giác thân thiện và dễ gần.
Ngồi trên triền đồi, nhìn hai đứa trẻ sinh đôi đang lay hoay viết tâm nguyện lên cánh diều, đôi mắt tối tăm của Nguyễn Huệ như phủ một lớp sương bạc. Cơn gió to thổi đến, cánh diều rời khỏi tay hai đứa trẻ, miên man bay vút lên cao, cho đến khi chỉ là một chấm xám bạc giữa khoảng xanh của bầu trời.
Ngồi bên cạnh anh là một người rất đỗi thân thuộc, Văn Bình, là người anh hết lòng bảo vệ, là người anh mong muốn gặp nhất kể cả trong giấc ngủ, nhưng tại sao khi cả hai ngồi cạnh nhau, rất gần như thế này, anh không ngoảnh đầu nhìn, không nói gì, cũng không để lộ cảm xúc gì, ngoài đôi mắt tăm tối như vực sâu.
Anh chỉ nhìn đăm đăm về phía trước, nơi hai đứa trẻ thả diều trên cánh đồng.
Văn Bình và Nguyễn Huệ, cả hai cứ lặng yên mà ngồi như thế. Mây chu sa cuồn cuộn trôi về phía chân trời, mặt trời lạnh, hoàng hôn lạnh, gió chiều lạnh thổi se sắt trên ngọn cỏ chao nghiêng. Cánh diều bay bổng, tít tắp, hai đứa trẻ khoác vai nhau, thả bộ xuống chân đồi.
Mây đỏ vẫn hối hả trôi
Thời gian trôi qua mái đầu…
Nguyễn Huệ nhẹ nhàng mở mắt.
Nắng ban mai đã lên, bên tai anh là tiếng chim hót, mọi cánh cửa sổ đều mở toang, ánh sáng tràn ngập căn phòng, mùi thơm thoang thoảng của bó hoa tươi được cắm trên bàn khiến đôi mày kiếm anh nhíu lại. Ánh sáng này là sao? Đó là câu hỏi đầu tiên bật lên trong đầu Nguyễn Huệ. Đây là nhà thầy giáo Hiến? Lạ lẫm, rất lạ lẫm đó là cảm giác đầu tiên của anh khi tỉnh lại. Tất cả đồ vật trong nhà đều được sắp xếp gọn gàng ngăn nắp, trên bàn lại còn có bình hoa tươi. Nguyễn Huệ ngồi dậy, anh rảo mắt nhìn một vòng quanh nhà, rồi lại lướt mắt nhìn ra cửa sổ, rảo mắt tới đâu sự ngạc nhiên liền hiện tới đó. Ngoài vườn cây cỏ được chăm sóc cẩn thận, tưới nước đầy đủ, trước thềm nhà, chậu hoa hiếm muộn đã hé nở những cánh hoa tươi thắm đầu tiên.
Nhìn chú bướm trắng rập rờn trên cánh hoa, Huệ dõi theo cánh bướm, đôi mắt sâu trở nên mơ hồ tựa như nhìn thấy con diều chở gió bay lồng lộng trên bầu trời bao la. Diều, giấc mơ đêm qua anh cũng nhìn thấy diều, con diều từ những ngày xa xưa, khi thời gian chưa phai màu. Rất lâu rồi, anh đã không còn biết mơ là gì, vậy mà đêm hôm qua anh lại mơ thấy cánh diều chênh vênh ấy. Đồng xanh bao la, hoàng hôn nhạt nhòa, ngồi bên cạnh anh là người anh trai thân yêu nhất. Giây phút đó, anh muốn nhìn thật lâu, thật kỹ Văn Bình, nhưng đôi mắt lại cứ dõi vào khỏang không gian mênh mông phía trước. Anh muốn cất lời, nhưng bờ môi cứ mím lại, lặng thinh không nói. Anh muốn chạm vào Văn Bình, nhưng bàn tay lại cứ bất động, nặng nề. Anh chỉ ngồi đó và ngồi đó, cho đến khi Văn Bình dần tan vào khoảng không…
Cho đến giây phút ấy, Huệ mới ngoảnh nhìn lại thấy bên cạnh mình là khoảng trống. Anh đăm đăm nhìn khoảng trống ấy, gió chiều xôn xao, hoàng hôn phủ trong đôi mắt, mặt trời lạnh khuất sau lưng anh, hoang tàn và quạnh hiu.
“Anh vẫn ở đây”
Trước khi tan biến, Văn Bình đã nói như thế.
Anh vẫn ở đây
Nguyễn Huệ đứng dậy, anh tới song cửa, phóng tầm mắt nhìn ra ngoài, nơi xa là ngọn núi, quanh năm mây trắng, đứng ở đây có thể nhìn thấy ngọn núi xanh ấy, nhưng đứng trên ngọn núi ấy, thì lại chẳng thể thấy mái nhà tranh này.
- Anh dậy rồi à, tôi có nấu cháo đây, anh ăn đi cho nóng!
Đang còn nhìn ngọn núi xa, một mùi thơm từ dưới bếp nhè nhẹ bay lên, rồi mùi thơm ấy càng ngày càng gần, giữa bầu không khí trong lành của sớm mai. Một giọng nói trong trẻo cất lên, mà không quay đầu lại, anh cũng biết đó là ai.
Bưng khay cháo tiến lại gần, Linh Lan nhẹ đặt tô cháo xuống bàn, nói vui vẻ. Ban nãy qua song cửa, nhìn thấy Nguyễn Huệ đã tỉnh, Linh Lan liền xuống bếp, nấu cho anh một nồi cháo hành thơm. Trước đó đã không ăn gì, ba ngày nay ngủ miệt mài không hề thức giấc, bây giờ tỉnh lại, có lẽ tinh thần anh sẽ rất mệt mỏi. Cháo là món dễ ăn nhất, lại nhẹ bụng, ăn một chút để lấy lại sức bao giờ cũng là điều nên làm.
Linh Lan đặt tô cháo xuống bàn, nhưng thấy Huệ không quay người lại, nó liền tò mò tiến lại gần anh, phóng mắt ra ngoài cửa sổ xem anh đang nhìn gì. Thấy bên ngoài chỉ có một ngọn núi trơ trọi nơi xa, Linh Lan tự hỏi chẳng biết ngọn núi ấy có gì mà Huệ cứ nhìn mãi thế. Ngọn núi ấy quả thật rất cao, đỉnh núi chìm trong mây, giữa bầu trời xanh lừng lững một trái núi, trông trơ trọi và như thách thức đất trời.
- Đứng ở đây thì nhìn thấy ngọn núi, chứ đứng trên ngọn núi thì sao thấy nơi này!
Trong phút ngắm nhìn ngọn núi, Linh Lan buột miệng nói, lúc này Huệ mới quay đầu lại. Có lẽ không để ý Linh Lan đang đứng phía sau mình, nên khi anh quay lại, thì chạm ngay gương mặt nó. Trong khoảnh khắc hai gương mặt gần nhau ấy, dường như Linh Lan cảm nhận được sự ngạc nhiên khó hiểu trong mắt Huệ, còn đôi mày kiếm của anh thì nhíu lại, có vẻ như sự va chạm này ngoài ý muốn của anh.
Không nói với Linh Lan câu nào, Huệ lách ra, ngồi xuống bàn, nơi đang đặt tô cháo bốc khói. Anh cầm lấy chiếc muỗng, rồi bắt đầu ăn. Thấy Huệ đã ăn cháo mình nấu, chẳng hiểu sao Linh Lan cảm thấy rất vui vẻ. Nó ngồi xuống bàn, tay chống cằm nhìn Huệ ăn, bờ môi đào điểm một nụ cười hài lòng. Không để ý đến Linh Lan, Nguyễn Huệ ăn một mạch hết tô cháo. Buông chiếc muỗng xuống khi tô cháo đã cạn queo, anh mới ngẩng đầu lên nhìn Linh Lan, cất giọng. Giọng nói trầm như một người đã lâu không nói chuyện với ai.
- Cám ơn!
Nói xong, không đợi Linh Lan trả lời, Huệ đã đứng dậy, mang tô cháo xuống nhà bếp để rửa, chỉ còn lại Linh Lan ngồi một mình, hơi bất ngờ. Nhìn theo dáng Huệ, trong lòng Linh Lan dậy bao tâm tư. Khi quay trở lại nhà thầy giáo Hiến, nhìn thấy Huệ ngồi trong bóng tối, mắt vẫn mở nhưng không còn sinh khí, chỉ chờ chết, trái tim Linh Lan thắt lại trong vô thức. Nó đã cố gắng lay tỉnh anh dậy, nhưng tất cả mọi biện pháp đều là công cốc, chỉ đến khi nhắc đến Văn Bình, Huệ mới có phản ứng.
Trong đời này, có lẽ người quan trọng nhất với Nguyễn Huệ chỉ có Văn Bình. Cả Tây Sơn, cả trách nhiệm, thậm chí cả tính mạng anh cũng không cần đến, ấy vậy mà chỉ cần nghe đến hai từ “Văn Bình” thôi, Huệ như người đặt chân xuống âm phủ mà còn quay trở lại. Bao nhiêu đó cũng đủ để chứng minh rằng, Văn Bình luôn là người quan trọng nhất của Huệ, và sẽ mãi mãi là như thế. Huệ yêu thương Văn Bình, bảo vệ Văn Bình đến hy sinh mạng sống mình, tình yêu ấy vừa đẹp, nhưng cũng rất khờ dại. Được người khác yêu thương đến hy sinh mạng sống, tất nhiên là rất hạnh phúc, nhưng bên cạnh đó cũng sẽ rất đau lòng, rất rất đau lòng khi người đó vì mình mà hy sinh.
Linh Lan bỗng nhiên buông một tiếng thở dài.
Trong việc quân, Huệ là người vô cùng thông minh, nhưng trong chuyện thể hiện tình cảm, Huệ lại rất khờ khạo, rất khờ khạo khi cái cách mà anh bày tỏ sự yêu thương của mình, là cái cách làm tổn thương nhất, day dứt nhất và đau đớn nhất cho cả Văn Bình và anh.
Nếu nó được một người như thế yêu thương, thì sao nhỉ?
Trong khi Linh Lan đang suy nghĩ, thì Nguyễn Huệ từ nhà dưới bước lên. Thấy anh, Linh Lan sực nhớ ra một chuyện quan trọng mà ban nãy nó quên không nói, liền gọi anh.
- Mấy ngày qua khi anh đang ngủ, Phan Văn Lân đã cho chim bồ câu đưa thư rất nhiều. Lân gấp gáp thế, chắc có chuyện quan trọng cần báo tin. Mấy ống thư ấy tôi cất trong chiếc hộp để trên bàn ấy, anh mau xem đi!
Định sau khi rửa tô cháo vừa ăn xong, Huệ sẽ hỏi Linh Lan xem mấy ngày qua Phan Văn Lân có gởi tin báo gì cho anh không, thì Linh Lan đã tự động nói trước. Không để Linh Lan nhắc lần thứ hai, Huệ liền tiến lại chiếc bàn kê gần cửa sổ, tay mở chiếc hộp ra, đôi mày kiếm nhíu lại khi nhìn thấy sáu lá thư nằm lăn lóc bên trong.
Trong ba ngày mà có tận sáu lá thư gởi đến, chứng tỏ Tây Sơn hiện đang có rất nhiều chuyện xảy ra. Nhanh chóng mở từng lá thư Lân gởi ra đọc, mắt rà tới đâu, đôi mày kiếm của anh chau lại đến đó. Mới có mấy ngày không cập nhật tin tức mà tình hình đã chuyển biến đến như thế này rồi sao?
- Hiện ta cần được yên tĩnh, cô có thể nhường lại không gian này để ta làm việc không?
Lướt mắt về phía Linh Lan, Huệ hỏi. Nhìn biểu hiện của anh khi đọc đi đọc lại và trải những bức thư Phan Văn Lân gởi đến ra bàn, Linh Lan hiểu ngay đó là chuyện rất quan trọng từ Tây Sơn. Huệ cần không gian yên tĩnh để làm việc, nó tất nhiên không thể quấy rầy anh, thôi thì nhân lúc anh suy nghĩ, thì nó sẽ đi chợ, làm vài món ăn để mừng anh khỏe lại vậy.
- Được, tôi không làm phiền nữa, anh cứ thong thả suy nghĩ!
Linh Lan mỉm cười, nó đứng dậy, tay với lấy cái giỏ mây rồi bước ra ngoài. Đợi cho Linh Lan đi khuất, Nguyễn Huệ mới đóng tất cả cánh cửa lại, ánh sáng lại bị đẩy ra ngoài, bóng tối tràn về chiếm hữu. Nhẹ nhàng ngồi xuống ghế, Huệ nhìn đăm đăm vào khoảng không gian tù mù trước mặt, từng con chữ của Phan Văn Lân lần lượt đi qua tâm trí anh, mang theo những tin tức không mấy tốt đẹp gì.
★ Chương 141
Bầu trời xanh rì rào lộng gió, hai đứa trẻ băng qua cánh đồng, tiếng cười giòn dã không ngớt, con diều bay cao vút như tan vào mây ngàn…
Huệ mở mắt.
Trong ngôi nhà tranh không một ánh đèn, bóng tối cô đặc bao trùm không gian, Huệ đang ngồi trên ghế, hai tay đan lại với nhau, mắt nhìn về hướng cửa sổ đã đóng chặt. Ngoài kia, có lẽ vạt nắng cuối chiều đang nghiêng dài trên nền đất lạnh, báo hiệu hoàng hôn đang về.
Có phải ban nãy Huệ vừa mới ngủ? Không, anh chỉ nhắm mắt lại, rất nhanh, rồi mở mắt ra. Chỉ một khắc thôi, nhưng hình ảnh ấy lại vương vào tâm thức anh, sống động, như mọi chuyện chỉ vừa xảy ra vào hôm qua.
Huệ chớp mắt, dư âm của những hình ảnh ấy biến mất, anh nhìn xấp thư báo tình hình của Lân được trải trên bàn, rồi thong thả vuốt nó thẳng lại. Mấy ngày qua không cập nhật tình hình, thật không ngờ cục diện hiện tại đã rơi vào tình thế rối ren đến vậy, do mối quan hệ giữa Tây Sơn, Chân Lạp và Xiêm La đã có bước chuyển biến phức tạp.
Tình hình ở Chân Lạp hiện đang rất rối ren, Nặc Ấn đã bị Chiêu Thùy Biện nổi dậy, đánh đuổi để phải trốn qua Xiêm, sự kiện đó vô tình thổi bùng lên ngọn lửa tranh chấp khi vua anh và Xiêm đều muốn bảo hộ vùng này. Trước đây, hai bên ở thế kềm nhau, vậy nên, vua anh và Xiêm đã thỏa hiệp là để yên cho Nặc Ấn quản lí Chân Lạp vì nếu là Nặc Ấn thì hai bên có cơ hội gây ảnh hưởng như nhau. Nhưng không ngờ Chân Lạp giờ đây lại xảy ra đảo chính. Nặc Ấn từng được Xiêm vương đưa lên ngôi, chạy về đó cầu viện cũng là lẽ tất nhiên, nhưng điều đó không có nghĩa là Tây Sơn không còn cơ hội. Nếu dựa trên danh nghĩa giúp Nặc Ấn khôi phục lại quyền lực, Xiêm hay Tây Sơn ra tay trước đều sẽ giành được lòng biết ơn của Nặc Ấn, rồi từ sẽ áp đặt được ảnh hưởng và quyền bảo hộ lên Chân Lạp. Quan trọng chính là, ai sẽ ra tay trước mà thôi.
Nhưng vấn đề là, tại sao lại đúng lúc như vậy, nổ ra sự kiện đảo chính soán ngôi, thổi bùng lên cuộc tranh chấp quyền lợi giữa Tây Sơn và Xiêm trong khi trước giờ hai bên đều tránh đối đầu bằng cách không xâm phạm vào việc riêng của nhau?
Cách đây không lâu, có tin báo Châu Văn Tiếp sang Xiêm cầu viện, vua anh liền cấp tốc cử sứ giả sang Xiêm, mục đích là yêu cầu Phật vương không tham gia vào chiến tranh giữa Nguyễn và Tây Sơn. Phật vương từ đó cũng không có động thái nào rõ ràng để gây hiềm khích với Tây Sơn cả. Sự việc lần này xảy ra thật đúng lúc, khiến mối quan hệ vốn mỏng manh giữa Tây Sơn và Xiêm bị nghiêng lệch bởi việc tranh chấp quyền lợi.
Chưa dừng lại ở đó, theo tin mới nhất mà Lân vừa đưa, vua anh đã cử Trương Văn Đa cất quân sang Chân Lạp tiến đánh Xiêm, do nghe điệp viên báo rằng Xiêm sẽ tiến đánh Quy Nhơn theo đường Ai Lao. Quân của Trương Văn Đa đã giáp mặt quân Xiêm, chiến tranh đã nổ ra, và tình hình sau đó sẽ còn chuyển biến phức tạp hơn rất nhiều. Đúng là đổ thêm dầu vào lửa, chiến tranh đã nổ ra thì có muốn dập cũng không thể dập ngay.
Và quan trọng là, sự gẫy đổ trong quan hệ của Xiêm và Tây Sơn sẽ mang lại lợi thế rất lớn cho Nguyễn Ánh. Cán cân lựa chọn của Xiêm lúc này đã nghiêng hẳn về phía hắn.
Tất cả đều là ngẫu nhiên sao? Anh không cho là vậy.
Nguyễn Huệ chống tay lên cằm, mắt nhìn đăm đăm về phía trước. Trong bóng tối, một khối ánh sáng lờ mờ xuất hiện, khối ánh sáng đó dần tụ lại thành một bàn cờ tướng. Đối thủ của anh cũng xuất hiện ở phía đối diện, đôi mắt nâu trong suốt, nụ cười kiêu ngạo trên bờ môi. Chậm rãi, cánh tay của hắn vươn ra, đẩy một quân cờ lên, tạo thành thế đầu tiên cho ván cờ trước mặt.
Nguyễn Huệ nhếch môi, ngón tay trỏ gõ nhẹ lên thành ghế, bóng tối dày đặc bao trùm cả hai người, duy chỉ có bàn cờ là lung linh tỏa sáng. Đây là thế cờ đầu tiên của Nguyễn Ánh, và Tây Sơn đã ở thế hạ phong. Nguyễn Ánh là người đi câu, con mồi là Chân Lạp, và quả nhiên, con cá Tây Sơn đã dính bẫy chỉ vì tham lam, quyết không để miếng mồi ngon bị kẻ khác đoạt mất. Trong chuyện này, hơn ai hết, Huệ biết chính sự đối đầu giữa Tây Sơn và Xiêm La là nguyên nhân trực tiếp kéo theo hệ quả là tạo điều kiện cho Nguyễn Ánh trục lợi, đẩy sự lựa chọn của Xiêm La nghiêng về Nguyễn quân. Thế cờ này, Nguyễn Nhạc đã đi sai liên tiếp. Chính sự vượt quyền, gây hấn của Trương Văn Đa đã khiến cục diện đối đầu là không thể tránh khỏi, và điều đó đồng nghĩa với việc Tây Sơn mất đi một đồng minh và có thêm một kẻ thù.
Tại sao Chiêu Thùy Biện lại đột ngột nổi dậy, đảo chính Nặc Ấn?
Tin tức gián điệp báo Xiêm La sẽ tấn công Quy Nhơn bằng đường Ai Lao mà Trương Văn Đa nghe được là do đâu, tính xác thực thế nào?
Hiện tại, quan hệ của Xiêm và Miến Điện không hề tốt, nếu động binh với Tây Sơn, Xiêm sẽ ở thế bất lợi vô cùng. Thứ mà Phật vương cần là Chân Lạp phải ổn định, phía Đông phải ổn định, vậy thì tại sao Xiêm lại muốn đánh Quy Nhơn?
Thông tin này rõ ràng là thông tin giả, là mồi lửa thổi bùng lên xung đột. Nguyễn Nhạc đã không đủ sáng suốt khi để sự ấm ức vì vuột mất cơ hội ở Chân Lạp che mắt mà không kiểm tra tin tức kỹ càng, nóng lòng cho Trương Văn Đa khai chiến. Ông đã liên tục đi sai nước cờ, để mặc người ta lợi dụng.
Tất cả những vụ việc này, chắc chắn có sự nhúng tay của Nguyễn Ánh.
Nghêu sò đánh nhau, ngư ông đắc lợi…
Nụ cười kiêu ngạo trên môi người đối diện từ từ nhạt nhòa rồi tan biến, bàn cờ cũng dần biến mất, trả lại không gian bóng tối tĩnh mịch như lúc ban đầu. Vẫn ngồi yên trên ghế, đăm đăm nhìn vào khoảng không – nơi bàn cờ đã biến mất, đôi mắt vực thẳm của Nguyễn Huệ lấp lánh, như có đốm lửa dưới đáy vực sâu. Nguyễn Nhạc quá nóng vội, Nguyễn Lữ thiếu sáng suốt, rốt cuộc đã đưa Tây Sơn vào cuộc chiến không đáng có và làm cho tình hình ngày càng có chiều hướng xấu đi.
Nguyễn Huệ nhắm mắt lại, bóng tối trôi qua vạn dặm, những ngón tay anh gõ nhịp đều đặn trên thành ghế, dưới chân anh là bọc hành lý nhỏ, lồng chim con, và một thanh kiếm sắc, lạnh nằm gọn gàng.
Bàn tay anh gõ nhịp nhẹ nhàng.
Một nhịp, hai nhịp, ba nhịp.
Đã đến lúc rồi!
Cánh cửa bật mở, ánh sáng lùa vào căn phòng, Phan Văn Lân đứng trước ngưỡng cửa, những giọt mồ hôi đọng lại trên trán do phải gấp rút phóng ngựa cả một quãng đường dài. Vội vàng tiến vào nhà,vòng tay khấu chào, Phan Văn Lân nói sốt sắng.
- Bẩm tướng quân, Thái Đức hoàng đế có lệnh khẩn cấp triệu người về Quy Nhơn!
Ngón tay dừng lại, thôi gõ, Nguyễn Huệ mở mắt, trong mắt anh là một mảng xám. Anh thong thả đứng dậy, vác bọc hành lý lên vai, tay xách lồng chim và thanh kiếm, từng bước rời khỏi ngôi nhà tranh. Sẽ rất lâu mới có thể quay trở lại nơi này, nhưng anh đi, đầu không ngoảnh lại, chỉ có đôi mắt hoang tàn nhìn thẳng về phía trước, nơi con đường đang đợi.
Ván cờ đã chính thức bắt đầu!
oOo
- Chúa công, Tây Sơn và Xiêm đã xảy ra xung đột đúng như người dự đoán.
Trên một hòn đảo bơ vơ, lộng gió, có ánh lửa nhỏ bập bùng cháy, soi tỏ ba bóng người đang ngồi sưởi ấm trong tiết trời lạnh giá. Một người to béo, gương mặt tròn trịa bận áo linh mục – là Bá Đa Lộc, một người đứng phía sau là Nguyễn Văn Thành, người còn lại được xưng chúa công không ai khác là Nguyễn Ánh.
Ngồi bên cạnh ánh lửa đỏ hồng, tà áo vàng của Nguyễn Ánh như sáng lên, hòa một màu với ngọn lửa đang rực cháy. Bá Đa Lộc đã báo tin xong, nhưng Nguyễn Ánh vẫn chưa đáp lời. Anh đang nhìn những con thiêu thân lao vào ánh lửa, biến thành tro tàn, rơi lả tả xuống những thanh củi đỏ hồng, đôi mắt nâu trong suốt lấp lánh, không biết vì ngọn lửa đỏ, hay là vì xác của những con thiêu thân đã biết sẽ chết, nhưng cứ lao đầu vào.
- Tây Sơn và Xiêm La xảy ra chiến tranh, nguyên nhân là vì sự tham lam của chúng, tham lam sinh ra bất hòa, và đầu mối của sự bất hòa đó cũng chỉ vì quyền lợi của mình mà thôi.
- Chúa công, theo như người nói, Nặc Ấn chạy sang Xiêm, theo lẽ thông thường Xiêm La đã có thể danh chính ngôn thuận giúp Nặc Ấn lật đổ Chiêu Thùy Biện, chính thức đặt quyền bảo hộ, vậy tại sao Chất Tri lại công nhận Chiêu Thùy Biện, giúp hắn đánh Tây Sơn?
Bá Đa Lộc ngẫm nghĩ những gì Nguyễn Ánh vừa nói, rồi hỏi. Đọc được sự ngạc nhiên trong đôi mắt xanh dương của Bá Đa Lộc, Nguyễn Ánh trầm ngâm. Sự việc đó, đến cả anh cũng có chút bất ngờ. Miếng mồi ngon ngay trước mắt, ấy vậy mà Chất Tri vẫn có thể bình tĩnh phân tích và phản ứng rất nhanh để khiến hắn có thể thu lợi nhiều nhất. Vốn dĩ định châm lửa ở Chân Lạp để thổi lên sự mâu thuẫn do tranh chấp quyền lợi giữa Tây Sơn và Xiêm, giúp mình có được thời gian và điều kiện xây dựng lại lực lượng, nhưng xem ra anh đã đánh giá quá thấp Chất Tri. Vẫn nhìn đăm đăm vào ngọn lửa đang cháy, Nguyễn Ánh chậm rãi trả lời.
- Tại sao Chất Tri lại công nhận Chiêu Thùy Biện à? Đơn giản lắm, Xiêm cũng như Tây Sơn, đều biết Nặc Ấn là người trong hoàng gia Chân Lạp, là kẻ thừa kế hợp pháp, nếu để một người hoàng gia Chân Lạp tiếp quản Chân Lạp thì cơ hội của Xiêm và Tây Sơn ngang nhau, nhưng điều đó cũng có nghĩa là, không có gì đảm bảo Nặc Ấn sẽ trung thành với Xiêm mà không ngả sang Tây Sơn. Biến cố xảy ra, Tây Sơn là kẻ phản ứng trước, nhưng chính vì thế mà Xiêm phải tìm cách biến nó thành lợi thế cho mình. Xiêm công nhận Chiêu Thùy Biện mục đích để hợp lí hóa quyền của Chiêu Thùy Biện ở Chân Lạp, biến cuộc điều binh của Tây Sơn từ giúp đỡ trở thành xâm lược. Từ đó, Xiêm có lí do dẫn quân đến tiếp quản Chân Lạp trên danh nghĩa phụ đánh đuổi Tây Sơn. Hơn nữa Chiêu Thùy Biện là người ngoài, nếu hắn không được lòng dân Chân Lạp, Xiêm có thể nhân danh trả lại tự do cho Chân Lạp mà xử lý hắn rồi tiếp quản Chân Lạp thay mặt Nặc Ấn. Danh chính ngôn thuận và ít thiệt hại nhất, đó là lí do tại sao Chất Tri công nhận Chiêu Thùy Biện.
- Theo như người nói, Chất Tri có thể xử lý Chiêu Thùy Biện và thay Nặc Ấn tiếp quản Chân Lạp, nhưng Nặc Ấn vẫn còn đó, hắn sẽ chịu sao? Chẳng lẽ…
Bá Đa Lộc chỉ nói đến đó, rồi không nói nữa. Nhìn xác những con thiêu thân rơi xuống đám lửa bùng cháy, đôi mắt trong suốt của Nguyễn Ánh lay động, lấp lánh như hai vì sao sa.
- Ông đã đoán ra vấn đề rồi đấy. Nếu ở Xiêm, Nặc Ấn lâm trọng bệnh, Chất Tri cho người hết lòng cứu chữa nhưng không được, chẳng ai trách ông ta, ngược lại ông ta còn được tiếng nhân hậu, có thể danh chính ngôn thuận đặt quản lí lên Chân Lạp. Vậy là tranh chấp sẽ được giải quyết đến triệt để, và ít hao tổn nhất, nhưng được lợi nhiều nhất.
Nghe viên chúa công trẻ tuổi nói, Bá Đa Lộc im lặng, không gian chỉ còn tiếng lửa cháy lách tách, lèo xèo. Ngẫm nghĩ một lúc, Bá Đa Lộc lại lên tiếng hỏi.
- Điều này chỉ có thể xảy ra nếu Tây Sơn chịu để yên, và quả thật chúng thì làm sao lại có thể ngồi yên như thế. Xung đột quả thật đã bùng nổ rồi.
- Chúng không để yên, vì chúng ta không để chúng có cơ hội làm vậy.
Nghe lời nhận xét của Bá Đa Lộc, Nguyễn Ánh liền đáp lại, nhưng chỉ nói có thế. Qua ánh lửa lung linh, bờ môi thanh tú của Nguyễn Ánh như đang cười, nhưng nhìn kỹ thì lại không. Hơn ai hết, Nguyễn Ánh biết rõ Tây Sơn và Xiêm La tại sao lại động binh.
Xiêm La vốn là thế lực đứng ngoài trong cuộc tranh chấp của Tây Sơn và Nguyễn quân, chiếu theo sự trù trừ của Chất Tri khi Châu Văn Tiếp sang cầu viện cũng đủ thấy hắn cẩn trọng và cân nhắc như thế nào trong việc lựa chọn đứng về phía nào trong cán cân Nguyễn và Tây Sơn. Nguyễn quân không có lợi thế, vậy thì anh sẽ tạo ra lợi thế đó.
Dựa vào sự ham quyền của Chiêu Thùy Biện, khích thích hắn đem quân làm phản, đó là bước thứ nhất. Chiêu Thùy Biện người đông thế mạnh nên lật đổ được Nặc Ấn, Chân Lạp bị chiếm là thời cơ thích hợp để Xiêm và Tây Sơn cùng vào cuộc để tranh giành quyền bảo hộ. Quan hệ giữa bọn chúng dựa trên việc không xâm phạm quyền lợi của nhau, nay ranh giới ấy đã bị phá bỏ, hiềm khích dẫn đến chiến tranh sẽ là điều tất yếu.
Nhưng Nguyễn Ánh không ngờ Chất Tri lại quyết định công nhận Chiêu Thùy Biện và lấy đó làm lí do đẩy lùi Tây Sơn, biến viễn cảnh bất lợi trước mắt thoắt cái có thể nhanh chóng dẹp tan vì Tây Sơn cũng không thể vô lí mang binh đi xâm lược. Không để yên cho điều đó xảy ra, Nguyễn Ánh lập tức hành động bước thứ hai, đó là lợi dụng khi Tây Sơn còn đang rất ấm ức về quyền lợi của mình bị ảnh hưởng, tung ra một loạt thông tin giả để khiến Tây Sơn cảm thấy bị đe dọa từ hành động của Chất Tri, khiến bọn chúng chủ động gây ra xung đột. Một khi đã không thể bình tĩnh ngồi lại cùng nhau suy xét kĩ càng mọi vấn đề, hành động gây hấn dù nhỏ nhất cũng không thể cứu chữa. Và một khi Xiêm và Tây Sơn đã đánh nhau, chúng sẽ không sớm dừng lại, mục đích của anh sẽ đạt được. Phá vỡ sự cân bằng giữa Tây Sơn và Xiêm La, châm ngòi chiến tranh khiến cán cân của Xiêm La nghiêng về phía quân Nguyễn và Tây Sơn phải bận rộn ở một chiến trường khác, anh đã đạt được điều mình muốn.
Chỉ là…
Ánh mắt Nguyễn Ánh chợt tối lại khi nghĩ đến hành động giúp Chiêu Thùy Biện của Chất Tri. Rõ ràng, Xiêm vương không phải là một kẻ đơn giản như anh đã nghĩ. Hắn chắc chắn sẽ lại có động tĩnh, nhưng hiện tại, anh cũng không đoán được hắn sẽ làm gì.
Nếu đã không đoán được Chất Tri làm gì…
- Bá Đa Lộc, từ bây giờ ông hãy chuẩn bị đi, khi nào sang Phú Lăng Sa hãy đưa Cảnh nhi theo, đừng quên những gì tôi và ông đã bàn bạc với nhau!
Nguyễn Ánh cất tiếng, giọng anh trầm xuống, đôi mắt nâu trong suốt lấp lánh khi nhìn Bá Đa Lộc. Ánh mắt ấy nhắc cho Bá Đa Lộc nhớ những gì cả hai đã bàn với nhau trước đó, bèn lẳng lặng gật đầu. Nhận được sự xác định của Bá Đa Lộc, Nguyễn Ánh mỉm cười, một nụ cười nhẹ nhàng
Bá Đa Lộc đưa Cảnh nhi sang Phú Lăng Sa, hơn ai hết ông ta sẽ là người đảm bảo sự an toàn cho Cảnh nhi, tiếp đó, anh sẽ đưa gia quyến của anh đến Phú Quốc, hòn đảo quanh năm lộng gió ấy luôn là nơi ẩn trú lý tưởng nhất, và quan trọng nhất, không ai có thể tìm ra họ, ngoại trừ anh!
Nếu đã không đoán trước được tiếp theo Chất Tri sẽ làm gì, thì anh phải hành động trước. Gia quyến an toàn, thì không ai, kể cả ông trời có thể đe dọa được anh!
Ván cờ đã chính thức bắt đầu!
oOo
Trong căn phòng sáng lấp lánh ánh nến, một người đàn ông cao lớn đang đứng rà tay lên tấm bản đồ được căng ra trên bàn, ánh mắt chăm chú, đăm chiêu. Thi thoảng, y lại dõi mắt về phía cánh cửa lớn đang đóng im ỉm, như chờ đợi tin tức quan trọng gì đó. Người đàn ông đó chính là Chất Tri – Phật vương của Xiêm La.
- Bẩm quốc vương, người có tin báo từ chiến tuyến ạ!
Đúng như y chờ đợi, nhanh chóng, cánh cửa sơn son bật mở, một người lính vội vã tiến vào căn phòng vàng ánh nến, trên tay là bức thư còn chưa ráo mực, cung cấp thông tin quan trọng từ chiến trường. Như chờ đợi tin này đã lâu, Chất Tri liền vươn tay, đón lấy lá thư, bóc sáp ra rồi lướt mắt lên những dòng chữ trong tờ giấy ngả vàng.
Tây Sơn và Xiêm La đã chính thức xảy ra xung đột.
Ngồi xuống ghế, tay cầm lá thư buông thõng, tay còn lại xoa xoa vết hằn giữa hai mắt, Chất Tri nhắm mắt và bắt đầu sắp xếp lại những chuyện vừa xảy ra thời gian gần đây. Nhanh quá, ra tay rất nhanh. Với tình hình hiện nay, Tây Sơn và Xiêm La đối đầu, người được lợi nhất khẳng định chính là vị chúa Nguyễn ở Nam hà, Nguyễn Ánh.
Trước đây, khi Châu Văn Tiếp sang cầu viện, y đã chần chừ, do dự vì không thấy mình được lợi ích gì khi phải phá đi mối quan hệ bình ổn với Tây Sơn để giúp đỡ cho vị chúa Nguyễn đang ở chỗ thất thế, lưu vong, không có thế lực kia. Tây Sơn và Xiêm La quan hệ tuy không thể nói là tốt, nhưng không động chạm hay can thiệp vào chuyện của nhau, vậy mà thoắt cái, mồi lửa về cuộc xung đột quyền lợi ở Chân Lạp lại được thổi bùng lên, thay đổi tất cả tính toán và suy nghĩ của y.
Chuyện đó là ngẫu nhiên sao?
Không, tuyệt đối đó không phải là ngẫu nhiên. Chuyện ngẫu nhiên, không thể trùng hợp đến như vậy.
Như trong tin báo nhận được từ tiền tuyến, trong một lần đụng độ giữa hai cánh quân, tù binh mà quân lính bắt được đã khai rằng, phía Tây Sơn cất quân là do có tin báo Xiêm La sẽ tấn công Quy Nhơn bằng đường Ai Lao. Xiêm muốn tấn công Quy Nhơn ư? Từ đâu lại có thông tin này, mà lại trùng hợp vào thời điểm này, khi quan hệ hai bên đang trên đà xấu đi. Đó là còn chưa kể trong thời gian gần đây, y liên tục nhận được tin Tây Sơn đã bắt giữ vài người lính bên Xiêm La mà không chịu thả, gây lên hiềm khích và bất mãn trong các đạo quân. Chất Tri nhíu mày lại, ánh mắt nhìn chăm chăm vào ngọn đèn trên tường? Ngẫu nhiên ư? Không thể nào. Kết hợp hai chuyện này lại, tưởng chừng như chúng không hề liên quan, nhưng lại trở nên rất khớp nhau, hiềm khích này chẳng phải là mồi lửa khởi đầu, đốt cháy mối giao hảo lâu nay của Tây Sơn và Xiêm La hay sao?
Xiêm La vốn đang có rắc rối với Miến Điện, tiến đánh Quy Nhơn vào lúc này chỉ càng thêm chuyện chứ chẳng được ích lợi gì, vậy cái tin gián điệp của Trương Văn Đa thu được là từ đâu mà có? Còn Tây Sơn, chỉ bắt vài người lính Xiêm La thì có thể làm được gì, tại sao bọn chúng phải làm vậy? Trừ phi, tất cả đều là thông tin giả được tung ra nhằm một mục đích khác, mục đích đẩy Xiêm La và Tây Sơn vào thế đối đầu để trục lợi. Vậy những thông tin này chỉ có thể đến từ một người mà thôi.
Khá lắm, ra tay nhanh nhẹn và gọn gàng lắm. Những ngón tay của Chất Tri bắt đầu gõ nhịp trên thành ghế, môi thoáng một nụ cười. Viên chúa công trẻ tuổi đó quả thật biết cách lợi dụng người khác để đạt được mục đích của riêng mình. Muốn lợi dụng Xiêm La để đối phó Tây Sơn ư, Chất Tri khẽ mỉm cười, trong ánh mắt le lói những tia sáng kỳ lạ.
Nếu hắn muốn lợi dụng Xiêm La, thì Xiêm La cũng có thể lợi dụng lại hắn.
Muốn thổi bùng lên sự xung đột giữa Xiêm La và Tây Sơn, mục đích của vị chúa ấy không ngoài việc kéo sự chú ý của Tây Sơn rời xa Gia Định, từ đó hắn có thể tranh thủ thời gian mà gầy tạo lực lượng của mình. Lợi dụng Xiêm La, cái giá phải trả sẽ không rẻ như thế. Qua vụ việc của Chân Lạp, Xiêm La có thể xoay đổi cục diện, biến bất lợi thành cơ hội. Công nhận Chiêu Thùy Biện làm phụ chính là một cái cớ tốt để có thể đẩy lùi bọn Tây Sơn, tranh thủ đặt ảnh hưởng lên Chân Lạp một cách danh chính ngôn thuận. Xung đột nhỏ cũng là chiến tranh, chi bằng thừa cơ hội giành lấy phần lợi cho mình. Chiếm được Chân Lạp, con đường để mở ra Vạn Tượng, Nam Vang,Luông Prabăng sẽ dễ dàng hơn rất nhiều.
Chiến tranh với Tây Sơn đã là điều không tránh khỏi, vậy thì bắt tay với Nguyễn quân cũng chẳng tổn hại gì. Viên chúa trẻ muốn lợi dụng Xiêm La, giờ đây Xiêm La sẽ lợi dụng lại hắn. Giúp đỡ vị chúa lưu vong, còn lí do nào tốt hơn để có thể đưa quân vào Nam hà đây.
Chất Tri mỉm cười, những ngón tay rà lên tấm bản đồ đang căng ra trước mặt.
Thế lực của Xiêm La chính là cần bành trướng và củng cố ở Đông Dương. Phải, toàn Đông Dương mới là mục tiêu của y.
Vậy nên, việc cần phải làm lúc này chính là cho người “đón” vị chúa công trẻ tuổi kia vào Vọng Các.
Nghĩ đến đó, Chất Tri lại mỉm cười.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top