Chương 3

               Ngày đầu xuân đó, khi kết thúc bữa ăn, thầy làm lễ khai bút tại nhà của chúng tôi. Bố tôi lấy ra một cuộn giấy đỏ rất dài còn tôi lễ phép dùng hai bàn tay đưa cho y chiếc bút lông của mình. Thầy viết cho chúng tôi bốn chữ lại vừa xinh làm sao lại là bốn từ tôi đã được học. Tôi hoan hỉ đọc to những chữ Hán như rồng bay phượng múa ấy trước mặt bố mẹ. Thầy Huệ gật đầu tỏ ý hài lòng còn mẹ tôi len lén lau đi những giọt nước mắt vì hãnh diện. Bốn chữ thầy viết cho gia đình tôi trong tiết trời se se lạnh ấy như mang trên mình một uy lực lạ thường. Chị tôi lấy chồng vào cuối năm ấy, là một đám tốt khiến bố mẹ tôi nở mày nở mặt với họ hàng. Từ đó trở về sau, bốn từ 'cung hỷ phát tài' y tặng gia đình tôi vào mùa xuân năm ấy vẫn giữ một vị trí nghiêm trang bên cạnh bàn thờ tổ tiên.


             Tôi vẫn nhớ ngày tết năm đó, sau khi mọi thứ xong xuôi, trên con đường lầy lội bùn đất, hai chiếc bóng hòa làm một, mờ mờ ảo ảo dưới một đêm xuân mù trăng. Từng bước, từng bước tên mặt quỷ cõng trên lưng thiếu niên khuôn mặt thanh tú tựa như hoa như ngọc, chầm chậm trong cái u tối của thôn quê hẻo lánh, cứ vậy dựa vào ánh đèn lồng hiu hắt, dò từng bước trên con đường đất trở về trang viên sắc đỏ rực rỡ nối dài những hành lang. Tôi không thấy nét khó chịu hay nhăn nhó trên khuôn mặt gã, phải chăng thầy tôi rất nhẹ. Thật ra sau này tôi mới biết, vẻ mãn nguyện của gã năm ấy tất thảy bởi người gã mang trên lưng là thầy Huệ chứ chẳng phải một ai khác.

                 Chúng tôi lại trở trường học ngay khi tuyết tan, thầy Huệ rất hào phóng phát cho chúng tôi những phong bao lì xì rạo rực sắc đỏ, bên trong ngoài tiền còn có vài viên kẹo. Số tiền không lớn nhưng đủ để chúng tôi hứng khởi suốt ngày hôm đó. Vậy là lớp học dưới cái lán của lũ trẻ lại bắt đầu quay về đúng chu kỳ của nó, đến lớp, nghe giảng, viết bài, Túc Na trở về để báo hiệu rằng đã sắp đến giờ tan học. Thầy của chúng tôi vẫn vậy, nghiêm khắc và chỉnh chu, từng cử chỉ nhã nhặn của y luôn khiến những đứa trẻ chúng tôi tủi hổ khi nhìn lại bản thân mình.

                  Trong tiết xuân đó, có một thầy tướng số năm nào cũng ghé qua thôn của chúng tôi. Năm nay cũng chẳng phải một ngoại lệ, lão ta có bộ râu trắng bạc phơ, trên tay cầm một cây gậy gỗ mà ở đó treo một quả hồ lô khô. Trong túi có một chiếc la bàn phong thuỷ cùng một cây kiếm gỗ. Năm nào cũng vậy mỗi khi lão ghé qua làng, người dân trong thôn cũng ùa ra xin quẻ. Đáng sợ rằng, mười năm qua, lão chưa từng nói sai.

                   Tiếng ồn ào từ ngoài đường dồn dập lên lỗ nhĩ chúng tôi. Đứa nào đứa ấy đứng ngồi không yên, cái mông cứ thấp thỏm trên những chiếc ghế gỗ. Thầy Huệ thấy chúng tôi nhốn nháo, uy nghiêm gõ cây thước xuống bàn, khiến lũ học sinh sợ một phen mất mật. Nghiêm chỉnh được một lúc, đám trẻ con lại xì xào bàn tán về tiếng ồn ngoài ngõ. Cuối cùng tất cả bọn chúng đều hướng đôi mắt sáng ngời về cửa cổng chính khi Túc Na bước chân qua ngưỡng cửa, chúng biết giờ tan học đã điểm.

                  Bọn trẻ ùa ra đường lớn, có đứa vì mải ham vui mà quên mất đống sách bút trên bàn, khiến thầy tôi phải gọi với lại những đôi chân nhỏ thoăn thoắt ấy. Nhưng chúng chạy nhanh quá còn giọng thầy thì nhỏ, vậy là thầy ôm cả đống đồ dùng ấy, đứng đợi trước bậc cửa vì biết rằng thể nào nó cũng chạy lại lấy, chỉ là không biết bao lâu.

                    Thầy bói đã đi qua từng nhà, đám đông theo bước ông ngày một đông, người ta tò mò không biết ông sẽ phán gì cho gia chủ nhà ấy. Nhà chúng tôi may mắn nhận quẻ báo Hỉ, những bà thím phía sau không ngừng chúc mừng bố mẹ chúng tôi. Có người còn trêu rằng bố mẹ tôi hãy mua thêm vài con lợn giống. Bố tôi hoan hỉ ra lộc cho lão một xâu tiền xu, không quên đặt vào cái bát mấy món bánh ngon. Lão già râu tóc bạc phơ cúi người cảm tạ bố tôi, rồi để lại những lời chúc ông vạn điều may mắn. Đám đông đã đi đến những ngôi nhà cuối cùng của thôn và cái bát trên tay lão đã đầy ắp những thứ đồ quà bánh từ dân làng.  Bố tôi cũng gia nhập đoàn người ấy và trong phút chốc ông thấy thầy tôi ngồi trước bậc cửa, bên cạnh là chiếc nghiên mực của ai đó. Bóng thầy cô độc đổ dài trên mắt đất còn đôi mắt dài của y cứ trân trân nhìn vào đôi giày thêu của mình.

                   Túc Na từ trong nhà trở ra, trên tay cầm một chiếc khăn lông thỏ, cúi người, thuận tiện choàng lên cổ người nọ. Thầy Huệ vẫn bất động như một pho tượng gỗ, mặc cho tiếng ồn từ đám đông bắt đầu sát lại bên tai. Lão thầy bói dừng trước cửa nhà họ Đường, nghiêm nghị nhìn vào dung nhan của gã, Túc Na vẫn chưa hiểu chuyện gì đang diễn ra còn đám dân làng chúng tôi háo hức nghe một câu phán đoán từ bản thân lão thầy bói.

"Dung mạo xuất chúng, sau này ắt làm lên đại nghiệp của cả Trung Hoa"

                    Chúng tôi chẳng tin vào tai mình còn gã chỉ nhàn nhạt diễu lên môi nụ cười. Đám đàn bà bắt đầu thì thào to nhỏ còn cánh đàn ông nghiêm chỉnh nhìn gã một lượt. Túc Na như muốn bỏ ngoài tai những câu từ gã cho là sáo rỗng ấy, gã lấy ra trong túi vài xu, coi như cảm tạ cho lời hay ý đẹp gã vừa được ban tặng vào ngày đầu năm mới. Những đồng xu leng xeng đặt trong chiếc bát của lão, xong xuôi tất thảy, gã đỡ lấy cánh tay người nọ, vị công tử vẫn cúi mặt nhìn vào đôi giày thêu của mình, mặc cho đám đông vây kín xung quanh.

                Trong khoảnh khắc ấy, tất cả chúng tôi đều bị biểu cảm của lão thầy cúng doạ đến mất mật. Lão hét lên một tiếng kinh hãi, dáng đứng thẳng tắp ngay tắp lự quỳ rạp xuống mặt đất, đầu gối không phân biệt bùn lầy cứ vậy mà khuỵ xuống. Giống như chỉ cần chậm trễ thêm một giây, tai hoạ sẽ giáng xuống đầu lão và tất cả chúng tôi. Lão lẩm nhẩm gì đó trong miệng, những câu từ lộn xộn không tròn vành rõ nghĩa khiến chúng tôi khó lòng tin được lão là người thầy tướng số toàn năng mà chúng tôi vẫn thường biết.

"Điệ-n hạ, tiểu nhân có mắt như mù, không thấy núi thái sơn"

                 Người ấy vừa dứt lời, tôi thấy thầy tôi đứng sững lại trên bậc cửa, khuôn mặt toát lên vẻ bối rối và vẩn vương vài giọt tức giận. Nhưng Túc Na là người bức xúc hơn cả, gã mở phanh cửa chính, lấy từ trong nhà thêm vài túi lương khô, đặt bên cạnh người đàn ông đang run rẩy từng hồi, ngày hôm đó là lần đầu tiên chúng tôi thấy gã nổi điên.

"Này của ông đây, xin đừng lảm nhảm những điều vô nghĩa ở đây nữa. Nhận được đồ rồi thì mau biến đi. Cả mấy người nữa, ở đây không có gì để xem cả"

               
             Sau đó, tiếng đóng cửa mạnh như sấm rền, tách biệt đám đông lẫn tiếng ồn ào khỏi trang viên nhà họ Đường. Hai người cứ thế rút vào nhà trong bỏ lại những người nông dân hiền lành ôm theo một bụng trăn trở, đắn đo.

               Tất cả chúng tôi đều bị gã doạ sợ, thêm biểu hiện của lão thầy cúng càng khiến chúng tôi kinh hãi hơn nữa. Trưởng làng tiến lại gần ông già đang run rẩy, đỡ lão dậy và phủi đi đất bùn bám trên quần áo. Dân làng đều mong một lời giải thích xứng đáng và đợi người trưởng thôn gợi một câu hỏi đến lão già mà chúng tôn vẫn hằng thán phục ấy.

"Điều gì khiến ông sợ hãi vậy, thầy Huệ làm gì ông sao?"

"Tôi đắc tội rồi, tôi đắc tội rồi, tôi đắc tội rồi"

"Tội gì?"

"Tôi nhìn thẳng vào mắt con của thiên tử"

"Hả?"

                  Lão thầy bói lúc này giống như một người điên, lảm nhảm câu chữ trong miệng mà chúng tôi không thể hiểu. Cúi người cảm ơn chúng tôi rồi đặt ngay ngắn những đồng tiền của Túc Na cùng lương khô gã vừa trao, nem nép bên cánh cửa gỗ đồ sộ. Lão lội qua con sông, trước khi rời đi vẫn còn thều thào vài câu mà chúng tôi chẳng nghe rõ. Khuôn mặt già nua thêm vẻ u sầu lo sợ khiến lão càng thêm khắc khổ. Dáng hình nhỏ thó ấy cô độc lội qua sông, nét quỷ dị bắt đầu trùm lên chúng tôi sau sự việc ấy. Nhiều năm sau đó, chúng tôi không thấy lão qua lại làng này, có người nói mắt lão đã mù, có người bảo lão cố tình không đi qua thôn này. Vẻ kinh sợ năm ấy vẫn in hằn lên tâm trí những người dân làng. Chúng tôi không thể buộc tội cho thầy Huệ về sự biến mất của lão thầy bói bởi ai cũng nhìn thấy, y chẳng làm gì ngoài đứng lên, phủi sạch quần áo rồi thong thả bước vào nhà. Vậy là những người dân lương thiện ấy tự thuyết phục bản thân rằng, lão thầy bói sau nhiều năm phiêu bạt đã dẫn đến thần trí bất ổn.

Mặt trời chiếu những vệt nắng cuối cùng đổ dài lên những mái ngói thắm đỏ. Đám đông vãn dần, vãn dần rồi sau cùng trả lại yên tĩnh cho khu đất ven sông, người ta trở về nhà, thắp lên những ngon đèn dầu, câu chuyện xem quẻ hôm nay như một món ăn phụ trong bữa cơm của mỗi gia đình. Người ta bàn tán nó, người ta thêm thắt nó để rồi mãi mãi về sau khi tất cả mọi việc sáng tỏ, lòng dân như vỡ lẽ. Nhớ lại chuyện năm xưa chỉ vô tình thốt lên một tiếng 'à' như thấu ra tất cả. Đèn lồng trong trang viên nhà họ Đường lại thắp lên sắc đỏ đến là ám ảnh, chú Trình, một người hàng xóm sát vách của Túc Na có nói với mấy bà cô đầu thôn rằng. Tối đó tiếng khóc u u văng vẳng từ căn nhà ấy vọng qua những bức tường mục nát, gõ lên cánh cửa nhà chú khiến lông tóc chú dựng lên khiếp hãi, May mắn sao, tiếng khóc không dài, chỉ vang lên tầm nửa canh giờ rối cuối cùng nuốt chửng bởi màn đêm thăm thẳm.


                  Họ nói rằng đó là những bóng ma vẫn quẩn quanh trang viên nhà họ Đường, kể cả khi có người dọn đến ở, chúng cũng nhất quyết không rời đi. Nhưng cá nhân tôi hiểu rằng, chẳng có con ma nào cả. Tất cả chỉ là nỗi niềm chất chứa đau khổ của thầy tôi đúc thành những giọt nước mắt và tiếng than khóc đến là bi ai.

***********************

Thời gian trôi như thoi đưa, lúa cũng đã cao đến bắp chân tôi. Chẳng mấy chốc đã là tiết thanh minh, những ngôi mộ sửa sang đẹp đẽ, nghi ngút khói trên những lư hương. Bố mẹ tôi đã xong xuôi tất thảy, cả nhà chúng tôi chuẩn bị bánh thanh đoàn tử cho bữa tối ngày hôm nay. Sáng hôm nay tôi không đến trường, thầy đã cho chúng tôi nghỉ hai ngày nay để phụ việc cha mẹ. Tôi tự hỏi thầy sẽ làm gì để chóng trôi qua ngày bởi người dân trong thôn tấp nập đi tảo mộ. Còn y chỉ là một người vừa dọn đến. Có lẽ phần mộ tổ tiên của thầy quá xa nơi này nên cơ thể yếu ớt đã không cho y làm tròn chữ "Hiếu".

Bố thắp lên ngọn đèn dầu, một mùi hăng hắc toả ra quanh phòng. Mẹ từ trong bếp bưng ra một đĩa bánh xanh, cả nhà chúng tôi lại quây quần bên cái bàn nhỏ. Bình dị thưởng thức bữa tối quá đỗi bình thường này.

Nhưng bầu không khí yên bình chưa được bao lâu khi ngoài đường lớn vọng lên tiếng nói sang sảng của Hạo Nhiên, sau đó kèm theo tiếng vó ngựa dũng mãnh mà gấp gáp. Bố vội chạy ra xem và tôi cũng không nén nổi tò mò. Hắn đứng trên con đường đất, nhìn theo bóng lưng ngựa mỗi lúc một mờ dần, khói bụi giăng kín từng bước chân loài động vật biểu trưng cho tốc độ ấy. Con ngựa ô với chiếc bờm bóng mượt của hắn giờ đây được cưỡi trên lưng bởi một người lạ. Là lạ với nó chứ đã rất đỗi thân quen với chúng tôi - Túc Na.

"Bảo trọng nhé người anh em"

Từ xa xa, tôi nhìn thấy gã giơ lên bàn tay thay cho lời chào từ biệt. Bố tôi thấy gã rời đi hoảng hốt quay lại nhìn Hạo Nhiên, người vẫn đang thả hồn vào lớp khói bụi do con chiến mã của mình để lại. Chúng tôi chưa bao giờ thấy gã cưỡi ngựa nhưng đến giờ phút này khi nhìn thấy tất cả hành động vít lấy dây cương hay dáng ngồi lẫy lừng trên yên ngựa. Bố tôi càng thực sự tin Túc Na đích thị là một nam tử hán.

Túc Na mượn hắn con ngựa ô cho chuyến đi vài ngày của mình, vốn dĩ gã định bụng sẽ đi bộ nhưng phiên chợ sẽ không chờ đợi tốc độ từ hai cẳng chân của gã nên người đàn ông quyết định đánh liều mượn Hạo Nhiên con ngựa duy nhất của hắn. Hạo Nhiên trong thôn tôi là người đầu tiên biết cưỡi ngựa và cũng là người đầu tiên sở hữu một con ngựa. Tưởng rằng lời khẩn cầu sẽ mau chóng nhận lại câu chối từ nhưng hắn là người biết trước biết sau, Túc Na đã giúp hắn cùng đám cưới của Từ. Hắn mang ơn suốt đời còn chưa hết, nói gì đến chuyện dám không cho mượn một con ngựa. Vậy là hắn vui vẻ dắt chiến mã từ chiếc chuồng dựng lên từ những thanh tre thanh nứa đến là chắc chắn, đặt vào tay gã chiếc dây cương. Còn tự hào khoe rằng bảo bối nhà hắn chạy nhanh cỡ nào.

"Không sợ mất sao?"

"Chà, nhà hắn còn ở đây, thầy Huệ còn chốn này, tôi biết tính hắn. Hắn chẳng làm thế đâu"

"Thế hắn có nói với cậu hắn đi đâu không?"

"Hắn đến Bắc Kinh mấy ngày, ở đó có một phiên chợ bán thứ hắn cần"

Bố tôi nghe đến hai từ Bắc Kinh, thoáng một tia sửng sốt. Đô thành cách quê chúng tôi rất xa, nếu cưỡi ngựa phải mất ít nhất hai ngày. Vậy là cả đi cả về cũng ngót nghét bốn ngày. Mà gã có việc gì cần đến kinh đô hoa lệ ấy. Tò mò lại càng thêm tò mò. Thú thật thì, chúng tôi chưa bao giờ được nghe quá khứ của gã và thầy. Tựa như chỉ cần nhắc về hai từ quá khứ, nét mặt y đã sầm lại còn gã mau chóng chuyển sang một chủ đề khác. Giống như một từ cấm, một lãnh địa mà chúng tôi tốt nhất không nên bước vào. Túc Na tinh thông võ nghệ, Túc Na cưỡi ngựa điêu luyện, Túc Na là một bề tôi trung thành của thầy Huệ. Đó là tất cả những gì chúng tôi biết và kể cả muốn tìm hiểu thêm chúng tôi cũng chẳng biết bắt đầu từ đâu bởi thầy Huệ ngoài những bài giảng trên lớp, ít khi nhắc đến đời tư. Còn gã khéo léo che đậy những chuyện trước đây bằng tài ăn nói của mình.

Đường đến Bắc Kinh không chỉ xa mà còn rất gian nan, chưa kể thổ phỉ dọc những đoạn đường vắn. Nếu là người khác trong thôn, ắt hẳn không bao giờ dám đi một mình mà thay vào đó kéo theo một đoàn diễu hành từ mười đến hai mươi người. Ít ra cũng có thể lấy số lượng át chất lượng. Hạo Nhiên nói rằng Túc Na có một thanh kiếm bọc trong một lớp vải đen, chắc hẳn để phòng thân, hắn chưa từng thấy qua một thanh kiếm thật suốt quãng đời gần ba mươi năm của mình. Trong lúc giúp gã lên ngựa, phần vải bọc đã bong ra một phần, chuôi khiếm trạm trổ loé ra trước mắt hắn. Đó là đầu của một con rồng bằng đồng, toả ra thứ ánh sáng đến là chói mắt. Hắn nói rằng bản thân đã không thể rời mắt khỏi thứ đồ tinh xảo ấy cho đến khi Túc Nan nhận ra ánh nhìn đầy tò mò của hắn, bằng một động tác mang vài phần mờ ám, gã che lại đầu rồng bằng mảnh vải vừa trượt ra. Cả ba chúng tôi chẳng biết biểu tượng ấy nằm chuôi kiếm mang ý nghĩa gì nhưng tôi đoán rằng trong làng cũng chẳng ai biết bởi làng tôi thuần nông, quanh năm chỉ trồng cây lương thực và cây ăn quả. Nào biết đến binh pháp hay vũ khí. Vậy nên khi gã chuyển đến thông này và sau vài ngày lên rừng đã săn được một con hổ đã khiến chúng tôi thán phục không thôi.

Túc Na đã đi được bốn ngày, thầy tôi đứng ở cửa ngóng trông mỗi khi cho chúng tôi tan học. Thi thoảng tôi đi ngang qua hòng tiến về dòng sông lấy nước, vài câu than phiền khẽ bật ra khỏi đôi môi nhợt nhạt của y. Đại khái là mắng Túc Na là một tên đại ngốc, chỉ vì một câu nói mà dám mượn ngựa băng qua cả trăm dặm. Đường đi đến kinh thành gian nan ra sao chắc thầy tôi cũng biết rõ. Hôm sau tôi đi chơi tối cùng đám trẻ con, thầy đã rời khỏi cái bậc cửa, đôi giày thêu dẵm lên đoạn đất khô, cứ như vậy đi đi lại lại, trên cổ còn khoác một tấm khăn lông thỏ trắng ngần. Y nhìn về phía đầu làng, mong ngóng và chờ đợi, lúc này đây, chỉ tiếng vó ngựa từ xa vọng lại mới có thể khiến thầy tôi bớt bất an.

Gã chưa về thầy tôi cũng chẳng tha thiết dạy học. Lũ học sinh tinh quái được đà thầy tôi xao nhãng, liền nài nỉ xin về sớm để được chơi đánh cờ tại bãi đất trống bên cạnh bờ sông. Tôi không rõ thầy có nghe được những âm thanh ranh mãnh ấy không nhưng tâm trí thầy không để trong cái lán nhỏ này như mọi ngày mà đang phiêu lãng nơi đầu thôn. Y vô cảm gật đầu, đôi mắt vẫn chăm chăm nhìn vào con nghê đá đang ngẩng đầu trên nghiên mực. Đó là ngày thứ bảy nhưng Túc Na vẫn chưa trở về. Chính tôi và bố cũng cảm thấy lo lắng phần nào.

Thầy lại đứng ở bãi đất khô ráo ấy, đi đi lại lại chắp tay sau lưng. Đôi giày thêu chưa từng lấm bụi của y lúc này đây đã vương lên vài vết bẩn. Cả ống quần trắng tinh cũng vậy. Áo bào khoác ngoài tối màu nhưng những đường chỉ vàng trên ngực áo vẫn nổi bật trong bóng tối không trăng này. Thầy Huệ mang theo bên mình một chiếc lồng đèn đỏ, đôi mắt yếu ớt của y cứ hướng về đỉnh đầu con đường đất xa thăm thẳm. Y đứng bất động như vậy nhiều giờ đồng hồ. Tôi thấy thương thầy siết bao bởi hẳn lúc này chân thầy đã mỏi rã rời.

"Thầy ơi, hôm nay chắc hắn chưa về hay là thầy vào nhà đi, sương xuống rồi"

Sương xuống người ta dễ nhiễm lạnh, nhất là với người sở hữu lá phốt yếu ớt cùng căn bệnh có sẵn trong người như thầy tôi. Nhưng có vẻ như y chẳng muốn rời đi, bóng tối đầu thôn như có ma lực lạ thường cứ vậy níu chân y đứng lại khoảng đất ấy. Bỗng đôi mắt thầy tôi bay biến u sầu, y nheo mắt nhìn kỹ hơn về phía xa xăm. Chúng tôi cũng dỏng tai nghe ngóng, mặt đất rung lên từng hồi và tiếng vó ngựa dồn dập nơi đây. Túc Na đã trở về.

Gã toàn thân đen nhẻm dính bụi, đeo ngang lưng một thanh bảo kiếm, trước ngực còn mang thêm một tay nải. Tôi thấy da gã sạm đi vì sương gió, khuôn mặt nhễ nhại mồ hôi còn mái tóc bông xù giờ đây bết lại thành những sợi dài. Thầy tôi mắt lấp loáng nước nhìn gã, tôi thấy trong đôi đồng tử xanh lục ấy chỉ một chút nữa thôi tuôn ra những dòng lệ nóng hổi nhưng rất may mắn bởi sự có mặt của chúng tôi vây quanh y và gã đã giúp thầy tôi kìm lại cảm xúc trong mình. Túc Na bước xuống ngựa nhưng gã chật vật tiến vào trong nhà. Ngay khi tôi kịp nhận ra có một vết băng lớn dính máu đỏ thắm trên bắp tay gã thì thầy tôi đã lao tới, mặc cho cơ thể vượt đường xa trăm dặm có thể vấy bẩn trang phục của thầy. Thầy tôi dùng hết sức bình sinh dìu gã trên vãi, tiến vào trong trang viên đang thắp lên những ánh đèn lồng đỏ rực.

"Tiểu Á, mau đi gọi mẹ, gọi bố đến giúp thầy một tay. Tổ tiên tên chết dẫm nhà ngươi, làm gì để ra nông nỗi này"

"Chỉ là một vết thương nhỏ thôi, ta dạy đám thổ phỉ một bài học trên đường trở về nhà. Thế nào thấy ta giỏi không"

"Giỏi cái tông môn nhà ngươi. Đúng là đồ đầu heo"

Tôi nghe thấy tiếng gã bật cười phía sau lưng tôi, thầy vẫn còn chửi thêm một tràng. Nhưng lỗ nhĩ đã không để tôi nghe hết, đôi chân thúc giục tôi chạy thật nhanh về nhà, tìm bố, tìm mẹ, tìm thầy lang già bởi tôi lo sợ rằng gã sẽ chết vì vết thương nơi bắp tay ấy. Vậy là cả bốn người nhà chúng tôi, thêm bố mẹ của Tiểu Hân, ông nội của Bảo Bảo, bác của Linh, Hạo Nhiên cùng anh Từ, lũ lượt kéo về trang viên giăng đầy đèn lồng đỏ ấy. Họ nghe nói Túc Na đã trở về nhưng đôi chân họ bước càng nhanh hơn khi nghe tin gã bị thương. Trong nhà, thầy Huệ bưng lên một chậu nước nóng nhưng y lại lóng ngóng trong quá trình xử lý vết thương. Khi y cứ thấm khăn loanh quanh một chỗ và nhẹ tay khi bắt gặp cái nhíu mày từ Túc Na thì mẹ tôi cảm thấy nóng mắt, bà lấy tấm khăn của thầy tôi, bảo người đi lấy cho mình vài lá thuốc cầm máu. Bố tôi lau mặt cho gã, không ngừng vỗ vỗ hai bên má, luôn miệng nói gã không được ngủ lúc này.

"Ta sẽ giết chết ngươi nếu ngươi chết trước ta"

Trong lúc nguy cấp, đột nhiên thầy tôi bật ra một mắng chửi nghe đến là vô lý, Túc Na như nghe thấy thanh âm quen thuộc, gã nhanh chóng lấy lại tiềm thức. Nhìn thẳng về phía thầy tôi - người đang hốt hoảng trong góc phòng để rồi bật lên một tràng cười lớn. Với sự giúp sức của mẹ tôi cùng vài người hàng xóm khác, máu đã ngưng tuôn ra xối xả còn thân thể bò mộng của gã cũng theo đó mà vực dậy trong tích tắc. Chúng tôi đã suýt mất gã trong khoảnh khắc ngàn cân treo sợi tóc ấy. Ai cũng vuốt những giọt mồ hôi trên trán và trút một tiếng thở phào. Thầy Huệ đã không còn nhìn gã bằng ánh mắt lo lắng xót thương, ngay sau khi gã ngồi dậy, tựa được lưng vào tường để rồi nhìn thầy tôi đầy trìu mến, đôi đồng tử của thầy ngay tức khắc chuyển sang cáu giận. Chúng tôi thấy y chồm lên người gã, nắm lấy cổ áo để rồi lắc mạnh, cổ họng yếu ớt hét lên những tiếng khàn khàn.

"Tên khốn, ngươi muốn ta phải chết lần nữa vì lo lắng mới vừa lòng phải không?"

Trái với vẻ điên cuồng của thầy tôi, gã chỉ nghiêng đầu rồi nở một nụ cười mỉm. Bố tôi nhanh chóng kéo thầy ra khỏi người gã, người đàn ông chân thành này tỏ ý muốn hoà giải và tất cả chúng tôi cũng hốt hoảng không kém khi thấy thầy thực sự mất kiểm soát.

"Thầy Huệ sao thế, thầy lo lắng cho ta sao?"

"T...ta..."

"Ra là thầy lo cho ta nên mới phản ứng thái quá đến vậy. Quà của thầy tôi mua ở Bắc Kinh đựng trong tay nải. Mọi người ở lại thưởng thức món bánh khiến ta suýt mất mạng này đi. Một năm mới được ăn một lần đấy"

Thầy tôi hậm hực gỡ tung tảy nải của gã, tất cả chúng tôi đều sửng sốt trước tạo vật ấy. Những miếng bánh vàng óng một màu hệt như những thỏi vàng đang xếp hàng ngăn nắp với nhau. Túc Na nói rằng nếu tên thổ phỉ chặn đường gã biết rằng trong tay nải này chỉ có bánh thì sớm đã cho gã đi nhưng gã không muốn cứ thế mà hèn nhát bỏ đi, thay vào đó hai bên đã quyết chiến một trận. Gã mất vài chiếc khăn thấm đi những giọt máu chảy ra từ cánh tay còn tên thổ phỉ mất vài trăm quan tiền để mua quan tài.

Y nhìn vào những miếng bánh trong chiếc tay nải ấy, một lần nữa cáu giận dồn về phía gã. Tôi không biết điều gì đã diễn ra trong quá khứ của thầy liên quan đến những miếng bánh vàng óng. Nhưng tôi nghĩ hẳn lúc này thầy trân quý những thỏi vàng này hơn cả. Thầy đặt nó gọn gàng trên đĩa, mời mọi người mỗi người một cái. Về phần mình, thận trọng đặt nó lên lòng bàn tay, nhâm nhi từng miếng nhỏ. Đôi lúc quên đi sự cao ngạo của mình, thầy đung đưa chân tỏ vẻ mãn nguyện. Chắc hẳn y thích nó lắm. Bố mẹ tôi cũng gật gù khen ngon và những người trong thôn cùng dành cho nó lời khen tấm tắc. Oản đậu hoàng là tên món ăn khiến Túc Na phải đi vài trăm dặm và khiến bố mẹ tôi tất tả trong đêm khuya thanh vắng vì một người bệnh.

Nhưng sau cùng tất cả nỗ lực của gã coi như phần nào đền đáp bởi bảy ngày vượt trăm dặm xa xôi cũng đổi lại nét lo lắng cùng vẻ mãn nguyện trên khuôn mặt lúc nào cũng mang một vẻ sầu bi, bi thảm cùng chán nản. Đêm hôm ấy, cho đến khi tôi trở về, tinh thần của gã quả thật quá tốt so với vị trí một người bị thương và nụ cười chưa từng tắt trên khuôn mặt mang đôi đồng tử đỏ rực.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top