Phần 7
CUỘC SỐNG TRONG ĐẾ CHẾ THỨ BA: 1933-1937
CHÍNH vào lúc này, cuối mùahè 1934, tôi đến sống và làm việc trong Đế chế Thứ Ba. Có rất nhiều thứ đãkhiến cho một quan sát viên nước ngoài vừa có ấn tượng, vừa cảm thấy khó hiểuvà khó chịu đối với nước Đức mới. Đại đa số người Đức dường như không cảm thấyphiền hà khi bị tước mất quyền tự do, khi nhiều nét văn hoá bị huỷ hoại và bịmột chế độ tàn bạo thay thế. Thậm chí là khi cuộc đời và công việc của họ bịuốn nắn vào nề nếp đến mức chặt chẽ chưa từng thấy, ngay cả đối với một dân tộcqua nhiều thế hệ đã quen sống dưới sự kỷ cương như Đức
Mặt tối của cuộc sống ấy luôn lởn vởn sự khủng bố của Mật vụ và nỗi sợ hãi trại tập trung. Đó là đối với người vi phạm kỷ luật, người thân Cộng sản hoặc Xã hội, người có tư tưởng quá tự do hay quá chủ hoà, hoặc là người Do Thái. Vụ thanh trừng đẫm máu ngày 30 tháng 6 năm 1934 là một lời cảnh cáo cho thấy nhà cầm quyền mới tàn bạo như thế nào. Tuy thế, sự khủng bố của Quốc xã trong những năm đầu chỉ ảnh hưởng đến một số ít đối tượng. Người nước ngoài mới đến có phần ngạc nhiên khi thấy người dân của đất nước này dường như không cảm thấy họ đang bị thị uy và đàn áp bằng chế độ độc tài vô nguyên tắc và tàn bạo. Ngược lại, họ còn ủng hộ chế độ này với lòng sốt sắng chân thực. Bằng cách nào đấy, chế độ đó đã đem lại cho họ niềm hy vọng mới, sự tự tin mới và lòng tin vào tương lai của đất nước họ .
Hitler đã xoá tan một quá khứ với bao chán chường và thất vọng. Từng bước, rồi nhanh chóng (như ta sẽ thấy chi tiết sau này), ông giải phóng Đức khỏi xiềng xích của Hoà ước Versailles, làm rối loạn phe Đồng minh chiến thắng và giúp cho quân sự Đức hùng mạnh trở lại. Đây là những gì mà đại đa số người Đức mong mỏi. Rồi họ sẵn lòng hy sinh cho những gì mà Lãnh tụ đòi hỏi: tự do cá nhân, ăn uống đạm bạc (theo khẩu hiệu "súng đạn đi trước bơ sữa") và lao động cực nhọc. Đến mùa thu 1936, nạn thất nghiệp về cơ bản đã được giải quyết, hầu như mọi người đều có công ăn việc làm. Từ tháng 1 năm 1933 đến mùa xuân 1937, số người thất nghiệp được đăng ký giảm từ 6 triệu xuống không đến 1 triệu. Người ta có thể nghe công nhân – hiện đã mất quyền nghiệp đoàn – nói đùa trong bữa ăn là ít nhất sống dưới chế độ của Hitler thì chẳng còn có tự do chết đói. "Lợi ích chung đi trước quyền lợi riêng" là khẩu hiệu Quốc xã thông dụng vào thời điểm ấy. Dù cho có nhiều nhà lãnh đạo Đức – nhất là Goering – lo tích lũy của cải cho cá nhân, thì rõ ràng là quần chúng đã bị mê hoặc với chế độ "quốc gia xã hội chủ nghĩa" qua lời kêu gọi đặt lợi ích của cộng đồng trên lợi ích cá nhân .
Đối với một quan sát viên nước ngoài, các luật chủng tộc nhằm gạt người Do Thái ra khỏi cộng đồng Đức dường như là bước gây sốc lùi về thuở sơ khai. Riêng người Đức lại không phản đối vì họ vốn tự cho mình là chủng người ưu việt. Duy chỉ có một số người Đức – nguyên thuộc phe Xã hội hoặc tự do hoặc giáo dân Cơ Đốc từ những tầng lớp bảo thủ ngày xưa – là thấy kinh tởm với việc đàn áp người Do Thái. Họ có thể tìm cách giúp vài cá nhân, nhưng về tổng thể thì họ chẳng có khả năng làm gì để ngăn chặn làn sóng bài Do Thái ấy cả. Có thể làm gì được cơ chứ? Họ có thể hỏi bạn như vậy đấy và đó là câu hỏi chẳng dễ gì mà trả lời được .
Qua báo chí và truyền thanh bị kiểm duyệt, người Đức nghe loáng thoáng về nỗi kinh sợ ở nước ngoài, nhưng họ thấy người nước ngoài vẫn đổ xô đến Đức và có vẻ như vui thích tính mến khách của nước này. So với Liên Xô, Đức vẫn còn mở rộng cho cả thế giới nhìn vào. Cũng trái ngược với Liên Xô, Đức Quốc xã cho phép công dân của họ (chỉ trừ vài nghìn người có tên trong sổ đen của Mật vụ) được đi ra nước ngoài, tuy còn hạn chế do thiếu ngoại tệ. Tuy nhiên, những giới hạn về ngoại tệ này cũng không nghiêm ngặt hơn so với nước Anh sau năm 1945. Điểm cần ghi nhận là các nhà lãnh đạo Quốc xã có vẻ như không lo lắng rằng những người Đức thuộc tầng lớp trung lưu sẽ bị tiêm nhiễm tư tưởng chống Quốc xã khi đi đến các nước dân chủ khác .
Ngành du lịch phát triển mạnh, mang về một khối lượng lớn ngoại tệ mà Đức rất cần. Hiển nhiên là các nhà lãnh đạo Quốc xã chẳng thấy có gì phải giấu giếm. Người nước ngoài, cho dù có tư tưởng chống chủ nghĩa Quốc xã đến đâu, đều có thể đến Đức quan sát và nghiên cứu bất cứ điều gì tuỳ thích – ngoại trừ trại tập trung và, giống như mọi nước khác, Cơ sở quân sự. Quả thật là có rất nhiều người đã tìm đến. Phần đông những người sau khi trở về nếu không thay đổi chính kiến, thì ít nhất cũng trở nên khoan dung hơn về "nước Đức mới", đồng thời tin rằng những gì họ trông thấy là "thành tựu tích cực". Thậm chí một người sáng suốt như Lloyd George– người đã đưa Anh quốc đến chiến thắng Đức năm 1918 rồi vào năm ấy vận động tranh cử với khẩu hiệu "Hãy treo cổ Hoàng đế Đức" – có thể đến thăm Hitler ở Obersalzberg và khi ra về, ông công khai ca ngợi Hitler như là "nhân vật vĩ đại" có tầm nhìn và ý chí để giải quyết những vấn nạn xã hội cho đất nước .
Thế vận hội Olympic được tổ chức ở Berlin năm 1936 cho Quốc xã một cơ hội bằng vàng để tạo ấn tượng cho thế giới về những thành tựu của Đế chế Thứ Ba. Các biển đề "Juden unerwuenscht" (Cấm người Do Thái) ở cửa hiệu, khách sạn, nhà hàng và cơ sở giải trí công cộng được âm thầm dẹp bỏ. Việc ngược đãi người Do Thái và hai Giáo hội Cơ Đốc tạm thời ngừng lại và Nước Đức đã tạo ra một phong thái tốt nhất có thể. Chưa từng có Thế vận hội nào trước đó được tổ chức ngoạn mục với các chương trình giải trí phong phú như thế. Goering, Ribbentrop và Goebbels tổ chức nhiều buổi tiếp tân hoành tráng đón khách nước ngoài. Du khách – nhất là người Anh và người Mỹ – có ấn tượng mạnh đối với những gì họ nhìn thấy: hiển nhiên là một dân tộc hạnh phúc, khoẻ mạnh, thân thiện, đoàn kết dưới quyền của Hitler. Họ cho biết đó là cả sự khác biệt so với những gì họ đọc trong những bài báo gửi đi từ Berlin .
Tuy vậy, dưới vẻ bề ngoài được che giấu khỏi cặp mắt của du khách trong những ngày Thế vận hội hoành tráng, dường như cuộc sống Đức lại chuyển biến theo hướng đi xuống. Phần lớn người Đức không nhận ra điều này, hoặc thụ động mà chấp nhận .
Dĩ nhiên là chẳng có gì phải giấu giếm những luật bài Do Thái mà Hitler ban hành và sự ngược đãi chủng tộc này thậm chí còn được chính quyền khuyến khích. Luật Nuremberg ban hành ngày 15 tháng 9 năm 1935 không cấp quốc tịch Đức cho người Do Thái, cấm hôn nhân và quan hệ ngoài hôn nhân giữa hai chủng tộc Do Thái và Aryan, cấm người Do Thái thuê người làm Aryan dưới 35 tuổi. Trong vài năm kế tiếp, đã có khoảng 13 Nghị định bổ sung cho Luật Nuremberg đặt người Do Thái hoàn toàn ngoài vòng pháp luật. Nhưng vào mùa hè 1936, do luật hoặc do khủng bố, người Do Thái bị cấm làm việc trong cả 2 lĩnh vực công và tư, đến nỗi ít nhất phân nửa trong số họ không có phương tiện sinh nhai. Trong năm đầu của Đế chế Thứ Ba, 1933, họ bị gạt ra ngoài hành chính công, báo chí, truyền thanh, nông nghiệp, giáo dục, kịch nghệ, phim ảnh. Đến năm 1934, thì họ bị đá ra khỏi thị trường chứng khoán và vào năm 1938, người Do Thái bị chính chức loại ra khỏi các lĩnh vực về luật pháp, y khoa và thương mại .
Người Do Thái cũng bị tước đoạt những điều kiện sống thiết yếu. Tại nhiều thị trấn, người Do Thái khó mà mua được thực phẩm nếu không muốn nói là bị cấm cản hẳn. Các cửa hàng thực phẩm treo biển "Cấm người Do Thái". Trong nhiều cộng đồng, người Do Thái không thể mua sữa, cho dù là để nuôi con nhỏ. Hiệu thuốc không bán cho người Do Thái. Khách sạn không chấp nhận người Do Thái. Và khắp nơi đều có những tấm bảng viết các câu chữ khiêu khích như "Thị trấn này nghiêm cấm Do Thái" hoặc "Do Thái chịu rủi ro nếu vào đây". Tác giả đã bị báo chí và đài truyền thanh của Đức công kích dữ dội, đồng thời bị đe doạ trục xuất, vì đã viết một bài báo gửi ra ngoài nước Đức nói rằng một số bảng hiệu bài Do Thái như thế được gỡ bỏ trong thời gian diễn ra Thế vận hội .
Đó là hoàn cảnh khó khăn của người Do Thái trong thời gian diễn ra Thế vận hội ở Đức và đó chỉ là bước đầu tiên trên con đường chẳng bao lâu nữa sẽ dẫn đến thảm sát trên diện rộng .
SỰ NGƯỢC ĐÃI CÁC GIÁO HỘI CƠ ĐỐC Quốc xã tiến hành cuộc chiến chống các Giáo hội Cơ Đốc một cách ôn hoà hơn. Hitler, trên danh nghĩa là người Công giáo, tuy trong quyển Mein Kampf công kích các Giáo hội Cơ Đốc vì không nhận ra những vấn nạn xã hội, nhưng cũng cảnh cáo rằng "một Đảng chính trị không bao giờ... được quên rằng trong mọi kinh nghiệm của lịch sử, một Đảng thuần túy chính trị sẽ không bao giờ thành công trong việc cải tổ tôn giáo". Điểm 24 của cương lĩnh Đảng đòi hỏi "tự do cho mọi tôn giáo miễn là họ không gây hại... cho ý thức đạo đức của chủng tộc Đức..." Trong diễn văn đọc ngày 23 tháng 3 năm 1933 trước Nghị viện sau khi được cơ quan lập pháp này trao quyền, Hitler hứa tôn trọng quyền của các đức tin Cơ Đốc và tuyên bố muốn cải thiện mối quan hệ hữu nghị với Toà thánh Vatican .
Chưa đầy 4 tháng sau, vào ngày 20 tháng 7, chính quyền Quốc xã đạt đến giao ước với Vatican, trong đó đảm bảo quyền tự do của Công giáo và quyền của Giáo hội trong việc "điều hành những sự vụ của mình". Giáo ước này được ký kết bởi Papen thay mặt cho Đức và Hồng y Pacelli, sau này là Giáo hoàng Pius XII. Trong giai đoạn xảy ra những hành động quá trớn đầu tiên của chính quyền Đức khiến cho cả thế giới kinh tởm, bản giáo ước này đã mang lại rất nhiều uy tín cho Chính phủ Hitler, dù cho đã bị vi phạm ngay khi vừa ráo mực .
Ngày 25 tháng 7, 5 ngày sau khi phê chuẩn giao ước, Chính phủ Đức ban hành luật có hiệu lực đặc biệt chống lại Công giáo. Trong vài năm kế tiếp, hàng nghìn linh mục, nữ tu và cấp lãnh đạo thế tục bị bắt giữ, nhiều người bị vu cáo tội "kém đạo đức" hoặc "buôn lậu ngoại tệ". Nhiều sách báo Công giáo bị cấm đoán. Vào mùa xuân 1937, giống như bên Tin Lành, hàng giáo phẩm Công giáo ở Đức cố hợp tác với chế độ mới, nhưng đây chỉ là ảo tưởng. Ngày 14 tháng 3 năm 1937, Giáo hoàng Pius XI tố cáo Chính phủ Quốc xã "trốn tránh" và "vi phạm" giao ước, gieo rắc "nghi kỵ, bất hoà, thù hận, vu khống và thù địch ngấm ngầm, đồng thời công khai đối với Chúa và Giáo hội" .
Chính Mục sư Martin Niemoeller đã hoan nghênh Quốc xã lên nắm quyền năm 1933. Quyển tự truyện của ông được xuất bản năm ấy trở thành sách bán chạy nhất. Báo chí của Quốc xã ca ngợi cuộc đời của ông từ lúc là hạm trưởng một tàu ngầm trong Thế chiến I đến khi trở thành một mục sư có tiếng tăm. Đối với Mục sư Niemoeller, cũng như nhiều giáo sĩ Tin Lành khác, 14 năm sống dưới chế độ Cộng hoà là "những năm đen tối" và ở cuối quyển tự truyện của mình, ông đã ca ngợi Cách mạng Quốc xã .
Chẳng bao lâu sau, ông đã phải thất vọng não nề .
Giống như ở Mỹ, Giáo hội Tin Lành ở Đức được chia thành nhiều nhánh. Khi phong trào Quốc xã nổi lên, giáo dân Tin Lành lại càng bị chia rẽ thêm. Trong số họ, vào năm 1932, có một người Quốc xã cuồng tín nhất đã lập nên nhánh Cơ Đốc Đức. Người lãnh đạo hung hăng nhất của nhánh này là Ludwig Mueller, tuyên giáo của Quân khu Đông Phổ, cũng là người tận tâm phục vụ Hitler. Nhánh "Cơ Đốc Đức" nhiệt tình ủng hộ chủ thuyết của Quốc xã về chủng tộc và nguyên tắc lãnh đạo, đồng thời muốn áp dụng chủ thuyết này vào "Giáo hội Đế chế" nhằm hợp nhất mọi giáo dân Tin Lành vào một tổ chức. Đến năm 1933, nhánh "Cơ Đốc Đức" có khoảng 3.000 trong tổng số 17.000 mục sư, tuy giáo dân có lẽ chiếm tỷ lệ cao hơn trong tổng số người Tin Lành .
Khó mà hiểu được hành động của đa số người Tin Lành Đức trong những năm đầu của Quốc xã nếu ta không biết qua hai điều: lịch sử của họ và ảnh hưởng của Martin Luther. Nhà sáng lập đạo Tin Lành vừa có tư tưởng bài Do Thái vừa tin vào sự tuân phục chế độ chính trị một cách tuyệt đối. Ông muốn Đức quét sạch người Do Thái và tịch thu tài sản của họ. Đó là lời khuyên mà bốn thế kỷ sau, Hitler, Goering và Himmler áp dụng triệt để .
Trong cuộc nổi loạn của nông dân năm 1525, Luther khuyên các quân vương nên có biện pháp quyết liệt nhất để đàn áp. Trong việc này, cũng như trong những lời phát biểu về người Do Thái, Luther sử dụng ngôn từ thô lỗ và bạo lực chưa hề có trong lịch sử trước thời Quốc xã. Ảnh hưởng của ông lưu truyền qua nhiều thế hệ của Đức, đặc biệt là trong số giáo dân Tin Lành. Một trong những hậu quả là giáo lý Tin Lành Đức trở thành cốt lõi cho tính cách chuyên chế của các quân vương từ thế kỷ XVI cho đến khi vương triều chấm dứt năm 1918. Quân vương trở thành giám mục tối cao của Giáo hội Tin Lành trong vương quốc của mình. Vì thế ở Phổ, vua của hoàng tộc Hohenzollern đứng đầu Giáo hội. Không có nước nào, ngoại trừ Nga của Sa hoàng, mà giới tăng lữ hoàn toàn bị khuất phục dưới uy quyền chính trị của Nhà nước như thế. Chỉ trừ vài ngoại lệ, giáo dân đều đứng phía sau quân vương như người Junker và quân đội. Trong thế kỷ XIX họ cứ theo nhiệm vụ được sai khiến mà chống lại các phong trào tự do và dân chủ. Ngay cả Cộng hoà Đức cũng bị người Tin Lành ghét bỏ vì đã hạ bệ vương triều và lôi kéo sự hậu thuẫn của Công giáo. Trong các kỳ bầu cử, người ta đều để ý thấy giới giáo sĩ Tin Lành tỏ ý công khai ủng hộ Quốc xã. Phần lớn các mục sư ủng hộ Hitler lên nắm chức thủ tướng năm 1933 .
Nhưng chẳng bao lâu sau, họ đã phải nếm mùi khủng bố theo cách thức mà đã đưa Hitler lên đỉnh quyền lực. Tháng 7 năm 1933, đại biểu của các Giáo hội Tin Lành soạn thảo một hiến chương cho một "Giáo hội Đế chế" mới, được Nghị viện chính thức công nhận ngày 14 tháng 7. Sau đó ngay lập tức nổ ra cuộc đấu tranh gay gắt do việc bầu Giám mục Đế chế đầu tiên. Hitler đòi người bạn của mình, Mục sư Mueller, trước đó được cử làm cố vấn về các sự vụ Tin Lành, ngồi vào chức vụ này. Các nhà lãnh đạo tôn giáo đề nghị một người khác. Nhưng họ đã quá ngây thơ. Chính phủ Quốc xã can thiệp, giải tán một số tổ chức tôn giáo cấp tỉnh, ngừng chức vài nhà lãnh đạo hàng đầu của các Giáo hội Tin Lành, thả lỏng các lực lượng S.A. và Mật vụ đàn áp các giáo sĩ còn cứng cỏi – thật ra là khủng bố phe đối nghịch. Một ngày trước khi diễn ra cuộc bầu cử đại biểu vào Hội đồng để Hội đồng này bầu Giám mục Đế chế, đích thân Hitler đã lên đài truyền thanh để "kêu gọi" bầu cho các "giáo dân Cơ đốc Đức" thuộc phe của Mueller. Sự doạ nạt này hẳn nhiên là có kết quả: Mueller được bầu làm Giám mục Đế chế .
Nhưng con người thiếu mềm mỏng Mueller không thể thành lập một Giáo hội thống nhất và cũng không thể Quốc xã hoá các giáo khu Tin Lành. Ngày 13 tháng 11 năm 1933, một ngày sau cuộc trưng cầu dân ý về việc Đức rút khỏi Hội nghị Giải trừ Quân bị và Hội Quốc liên, phe "giáo dân Cơ Đốc Đức" tổ chức một cuộc mít tinh rộng lớn ở Berlin. Tiến sĩ Reinhardt Krause, lãnh đạo nhóm này ở Berlin, đề xuất bác bỏ Cựu ước và chỉnh sửa Tân ước "hoàn toàn tương ứng với đòi hỏi của Quốc gia Xã hội Chủ nghĩa". Họ soạn thảo Nghị quyết "Một Dân tộc, Một Đế chế, Một Đức tin", đòi hỏi tất cả giáo sĩ cất lời tuyên thệ trung thành với Hitler, mọi Giáo hội phải trục xuất giáo dân Do Thái... Ngay cả người Tin Lành hiền hoà nhất cũng phải lên tiếng chống đối và Giám mục Mueller buộc phải cách chức Tiến sĩ Krause .
Trên thực tế, tính chất của cuộc đấu tranh giữa Chính phủ Quốc xã và các Giáo hội đã tồn tại từ ngàn xưa, theo nội dung giống như cuộc tranh cãi những gì thuộc về Caesar và những gì thuộc về quyền Thượng Đế. Hitler kiên quyết cho biết nếu phe "giáo dân Cơ Đốc Đức" thân Quốc xã không thể sáp nhập các Giáo hội dưới quyền Giám mục Đế chế Mueller thì đích thân Chính phủ sẽ nắm lấy quyền điều hành các Giáo hội. Ông luôn khinh rẻ người Tin Lành, tuy chỉ là thiểu số rất nhỏ ở nước Áo sinh quán của mình, nhưng chiếm ⅔ dân số Đức. Có lần ông nói với thuộc hạ: "Các bạn có thể làm bất kỳ điều gì mà mình muốn với họ. Họ sẽ chịu khuất phục... họ là đám dân nhỏ không quan trọng, dễ chịu khuất phục như chó, đổ mồ hôi và bối rối khi các bạn nói chuyện với họ" .
Ông biết rõ rằng sự chống đối Quốc xã hoá của các Giáo hội Tin Lành là do một thiểu số giáo sĩ và thiểu số này còn nhỏ hơn cả số lượng các giáo dân .
Đầu năm 1934, Mục sư Niemoeller – lúc này đã vỡ mộng – đã đứng lên cầm đầu một nhóm thiểu số trong giáo dân. Vì thế tình hình lúc đó có 2 nhóm chính dưới sự dẫn dắt của Mueller và Niemoeller, đều cùng tuyên bố họ là Giáo hội chính thức .
Điều rõ ràng là dù có vị thế thuận lợi thân cận với Hitler, nhưng Mueller vẫn không thể hợp nhất các Giáo hội Tin Lành. Vào cuối năm 1935, khi Mật vụ bắt giam 700 giáo sĩ thuộc nhóm chống đối, Mueller xin từ chức và đi vào quên lãng. Tháng 7 năm 1935, Hitler bổ nhiệm Tiến sĩ Hans Kerrl làm Bộ trưởng Giáo vụ, với chỉ thị rằng hãy cố gắng lần nữa để điều phối giáo dân Tin Lành. Là một trong những Đảng viên Quốc Xã ôn hoà và có phần thận trọng, lúc đầu Kerrl đạt thành công đáng kể. Ông thành lập một Uỷ ban Giáo hội đứng đầu bởi Tiến sĩ Zoellner, được mọi phe nhóm kính trọng, nhằm đạt đến được một thoả thuận chung. Tuy nhóm của Niemoeller hợp tác với uỷ ban, nhưng họ vẫn cho rằng họ là Giáo hội hợp pháp. Tháng 5 năm 1936, họ gửi một văn bản lịch sự nhưng cương quyết cho Hitler, phản đối xu hướng phản Chúa của chế độ, cáo giác tư tưởng bài Do Thái và đòi Nhà nước ngừng can thiệp vào Giáo hội. Bộ trưởng Nội vụ Frick đã đáp lại bằng một hành động không khoan nhượng. Hàng trăm giáo sĩ của nhóm này bị bắt. Tiến sĩ Weissler, một trong những người ký vào công văn gửi Hitler, bị sát hại trong trại tập trung, còn tài khoản của nhóm bị tịch thu và nhóm bị cấm thu tiền đóng góp của giáo dân .
Ngày 12 tháng 2 năm 1937, Tiến sĩ Zoellner từ chức khỏi Uỷ ban Giáo hội, than phiền rằng Bộ trưởng Giáo vụ đã phá hoại công lao của mình. Tiến sĩ Kerrl phản ứng bằng cách tố cáo Zoellner đã không đánh giá cao chủ thuyết của Quốc xã và vị bộ trưởng rõ ràng tỏ thái độ thù địch đối với cả các Giáo hội Tin Lành lẫn Công giáo. Kerrl nói: "Đảng dựa trên Đạo Cơ đốc Tích cực và Cơ đốc Tích cực chính là Đảng Quốc gia Xã hội. ... Tiến sĩ Zoellner và Bá tước Galen [Giám mục Công giáo ở Muenster] cố nói rõ với tôi rằng Đạo Cơ đốc bao gồm đức tin nơi Jesus như là Con của Đức Chúa trời. Điều này khiến cho tôi bật cười. Không, Đạo Cơ đốc không tuỳ thuộc vào Đức tin của Tông đồ... Đạo Cơ đốc đích thực tuỳ thuộc vào Đảng và bây giờ Đảng, đặc biệt là Lãnh tụ, đã kêu gọi dân tộc Đức đến với Đạo Cơ đốc đích thực. Lãnh tụ là người đưa tin về một khải huyền mới" .
Ngày 1 tháng 7 năm 1937, Niemoeller bị bắt giam rồi ngày 2 tháng 3 năm 1938 bị đưa ra trước "Toà án Đặc biệt" do Quốc xã thiết lập nhằm xét xử tội chống lại Nhà nước. Ông bị phạt 2.000 mác Đức và 7 tháng tù vì tội "lạm dụng bục giảng" và giữ tiền giáo dân đóng góp trong nhà thờ của mình. Vì đã bị giam hơn 7 tháng, toà án truyền trả tự do cho ông, nhưng Mật vụ đã bắt giữ ông ngay khi ông bước ra khỏi toà án. Ông được "canh giữ bảo vệ" trong thời gian 7 năm cho đến khi được quân Đồng minh tiến vào giải thoát .
Hàng nghìn giáo sĩ và nhà lãnh đạo thế tục của nhóm chống đối bị bắt giam trong vài năm liên tiếp, khiến cho nhóm này rốt cuộc phải chịu khuất phục. Cuối năm 1937, Tiến sĩ Kerrl thuyết phục Giám mục Marahrens của Giáo khu Hanover công khai tuyên bố chấp nhận chủ thuyết của Quốc xã. Đến mùa xuân 1938, Giám mục Marahrens ra lệnh tất cả giáo sĩ trong giáo khu của mình phải cất lời tuyên thệ trung thành với Lãnh tụ Hitler. Trong một thời gian ngắn, đại đa số giáo sĩ tuân hành tuyên thệ, qua đó bị ràng buộc về pháp lý và tinh thần phải phục tùng mệnh lệnh của nhà độc tài .
Sẽ là sai lạc nếu cho rằng việc Quốc xã đàn áp những người Công giáo và Tin Lành khiến cho dân Đức bị phân hoá. Điều đó là không đúng. Một dân tộc vốn đã từ bỏ một cách dễ dàng các quyền tự do về chính trị, văn hoá và kinh tế thì sẽ không muốn chết – ngay cả vào tù – để tranh đấu cho quyền tự do tín ngưỡng. Những gì thật sự khuấy động người Đức trong những năm 1930 là thành tựu sáng chói của Hitler trong việc tạo công ăn việc làm, mang đến nền kinh tế phồn thịnh, tái lập sức mạnh quân sự Đức và đạt hết thắng lợi này qua thắng lợi khác trong chính sách ngoại giao. Cũng chẳng có nhiều người Đức bị mất ngủ vào thời điểm hàng nghìn giáo sĩ phải vào tù sau khi các nhóm Tin Lành cãi cọ với nhau .
Những gì mà Chính phủ Hitler trù định cho nước Đức được ghi rõ ràng trong cương lĩnh của "Giáo hội Đế chế Quốc gia" gồm 30 điểm, với vài điểm chính như sau: Duy nhất Giáo hội Đế chế Quốc gia của Đức có quyền hạn và chức năng kiểm soát tất cả giáo phái trong ranh giới Đế chế .
Giáo hội Quốc gia quyết tâm không ngừng tiêu diệt ... những đức tin Công giáo kỳ lạ và được du nhập vào Đức trong năm 800 kinh hoàng .
Giáo hội Quốc gia không có học giả, giáo sĩ, mục sư hay linh mục, các nhà diễn giảng Giáo hội Quốc gia sẽ phát biểu thay cho họ .
Giáo hội Quốc gia đòi hỏi ngừng lập tức việc in ấn và phát hành Kinh Thánh trên nước Đức... Giáo hội Quốc gia tuyên cáo... rằng Mein Kampf của Lãnh tụ là tài liệu vĩ đại nhất trong tất cả các tài liệu... Giáo hội Quốc gia sẽ dẹp bỏ khỏi bàn thờ mọi thánh giá, Kinh Thánh và hành ảnh của các Thánh .
Trên bàn thờ không có gì khác ngoại trừ Mein Kampf (có tính chất linh thiêng nhất đối với dân tộc Đức và do đó đối với Thượng Đế) và bên trái của bàn thờ là một thanh gươm .
Thánh giá Cơ Đốc phải được dỡ bỏ khỏi tất cả nhà thờ, thánh đường và nhà nguyện... thay vào đó là biểu tượng duy nhất chẳng gì chế ngự được: chữ thập ngoặc .
QUỐC XÃ HOÁ NỀN VĂN HOÁ Vào buổi tối 10 tháng 5 năm 1933, khoảng 4, 5 tháng sau khi Hitler trở thành Thủ tướng, một cảnh tượng chưa từng thấy ở thế giới phương Tây kể từ thời Trung cổ đã xảy ra ở Berlin. Khoảng giữa đêm, cuộc diễu hành rước đuốc của hàng nghìn sinh viên đã kết thúc trên Quảng trường Unter den Linden đối diện Đại học Berlin. Một đống sách khổng lồ được châm lửa, ngọn lửa cứ bùng lên mỗi khi có thêm sách được ném vào, cuối cùng khoảng 20.000 cuốn sách cháy thành tro. Cảnh tượng tương tự diễn ra ở vài thành phố khác. Chiến dịch đốt sách đã bắt đầu .
Nhiều cuốn sách do đám sinh viên ném vào đống lửa đêm ấy, dưới đôi mắt hài lòng của Tiến sĩ Goebbels, là các tác phẩm của những tác giả đã nổi tiếng trên thế giới. Trong đó, tác giả Đức gồm có Thomas và Heinrich Mann, Lion Feuchtwanger, Jakob Wassermann, Arnold và Stefan Zweig, Erich Maria Remarque, Walther Rathenau, Albert Einstein, Alfred Kerr và Hugo Preuss – người cuối cùng đã đóng góp vào việc soạn thảo bản Hiến pháp Weimar. Nhưng không chỉ các tác phẩm của hàng chục tác giả Đức bị đốt, mà còn có một số tác giả nước ngoài như: Jack London, Upton Sinclair, Helen Keller, Margaret Sancher, H. G. Wells, Havelock Ellis, Arthur Schnitzler, Freud, Gide, Zola, Proust, Maxim Gorki, Ernest Hemingway, Karl Marx .
Sau khi các cuốn sách hoá thành tro, Bộ trưởng Thông tin và Tuyên truyền Goebbels phát biểu với sinh viên: "Tâm hồn của dân tộc Đức có thể cất lên tiếng nói trở lại. Ngọn lửa này chẳng những rọi chiếu hồi kết của một kỷ nguyên cũ, mà còn soi sáng cho kỷ nguyên mới" .
Kỷ nguyên Quốc xã mới của nền văn hoá Đức được soi sáng không chỉ bởi những đống lửa đốt sách, mà còn qua những quy định theo tầm mức chưa một quốc gia phương Tây hiện đại nào từng thấy. Có những biện pháp âm thầm, không thể hiện biểu tượng như đống sách cháy nhưng vẫn mang lại kết quả, ví dụ như việc quy định số ấn bản lưu hành hoặc lưu trữ trong thư viện và đề tài của sách mới. Ngay từ thời gian đầu, ngày 22 tháng 9 năm 1933, Ban Văn hoá Đế chế đã thành lập và được giao cho Goebbels quản lý. Chức năng của Ban này được luật quy định như sau: "Nhằm theo đuổi một chính sách của văn hoá Đức, cần thiết phải tập hợp lại những nghệ sĩ có sáng kiến trong mọi lĩnh vực vào một tổ chức dưới quyền lãnh đạo của Quốc xã. Đế chế không những sẽ quy định đường hướng tiến triển về tinh thần và tâm linh, mà còn sẽ chỉ đạo và tổ chức các ngành nghề" .
Nhiều phòng được đặt ra dưới Ban Văn hoá Đế chế để hướng dẫn và kiểm soát đời sống văn hoá: các phòng Đế chế về Mỹ thuật, Âm nhạc, Sân khấu, Văn học, Báo chí, Truyền thanh và Phim ảnh. Mọi người hoạt động trong những lĩnh vực này đều bị buộc phải gia nhập một phòng tương ứng, trong đó các quyết định và chỉ đạo có hiệu lực theo luật định. Trong số các chức năng khác, các phòng có thể trục xuất hoặc từ chối đơn xin gia nhập của những người "thiếu tin cậy về chính trị". Có nghĩa là những đối tượng không sốt sắng lắm với Quốc xã thường bị cấm hành nghề và thế là mất kế sinh nhai .
Ai từng sống ở Đức trong những năm 1930 đều không thể quên được sự xuống dốc của những chuẩn mực văn hoá của một dân tộc vốn đã đạt đến tầm cao trong thời gian dài. Điều này là chẳng tránh khỏi khi các nhà lãnh đạo Quốc xã quyết định là Mỹ thuật, Văn học, Truyền thanh và Phim ảnh phải tập trung phục vụ những mục đích tuyên truyền của chế độ mới và của luồng tư tưởng kỳ dị. Không một tác phẩm nào của các tác giả đương thời nổi tiếng – Ernst Juenger và Ernst Wiechert là hai ngoại lệ – được xuất bản dưới chế độ Đức Quốc xã. Hầu hết các tác giả nổi tiếng ấy đều di cư ra nước ngoài, một số ít ở lại là do tự nguyện hoặc bị bắt buộc phải im tiếng. Mọi bản thảo đều phải qua Bộ Thông tin và Tuyên truyền duyệt trước khi xuất bản hoặc trình diễn .
Riêng Âm nhạc thì dễ thở hơn, chỉ vì nó có ít tính chính trị nhất trong số các lĩnh vực văn hoá và vì người Đức đã có trong tay một kho tàng âm nhạc phong phú từ Bach qua Beethoven đến Mozart rồi Brahms. Nhưng nhạc của Mendelssohn bị cấm vì ông này là người Do Thái (tác phẩm của tất cả các nhà soạn nhạc người Do Thái đều bị cấm), cũng như nhạc của nhà soạn nhạc hàng đầu đương thời, Paul Hindemith. Người Do Thái bị cấm tham gia vào dàn nhạc và sân khấu nhạc kịch. Không như nhà văn, phần lớn những khuôn mặt lớn của giới nghệ sĩ âm nhạc Đức đều ở lại để phục vụ chế độ Quốc xã. Vì các nhạc sĩ không di cư ra nước ngoài và do kho tàng âm nhạc phong phú của Đức, nên trong thời kỳ của Đế chế Thứ Ba người ta vẫn có thể thưởng thức những bản nhạc giao hưởng và nhạc kịch tuyệt vời. Dàn nhạc Giao hưởng Berlin và Nhà hát Quốc gia Berlin là hai nơi nổi trội. Nền âm nhạc xuất chúng đã đóng góp rất nhiều vào việc giúp con người ta quên đi sự xuống cấp của những ngành nghệ thuật khác và của nhiều khía cạnh trong đời sống dưới chế độ Quốc xã .
Phải nhìn nhận rằng sân khấu vẫn còn giữ lại nhiều vẻ đặc sắc nếu họ chú tâm đến những vở kịch kinh điển. Những vở nhạc kịch mới của Quốc xã tệ hại một cách lố bịch đến nỗi bị công chúng tẩy chay, nên không thể công diễn được lâu. Nhưng ngay cả khi chế độ quyết định phải đưa lên sân khâu vở nào, ai là diễn viên và ai là đạo diễn, thì họ cũng không thể ngăn các sân khấu công diễn những vở đáng khen và thường gây nhiều xúc cảm của Goethe, Schiller và Shakespeare .
Điều lạ lùng là vài vở kịch của Shaw được phép trình diễn ở Đức – có lẽ vì ông chế giễu người Anh, đả kích dân chủ hoặc cũng có thể vì tư tưởng dí dỏm và thiên tả của ông đã thoát khỏi sự để ý của Quốc xã .
Trường hợp lạ lùng nhất là về Gerthart Hauptmann, kịch tác gia nổi tiếng của Đức. Vì ông thiên Xã hội chủ nghĩa một cách cuồng nhiệt, kịch của ông bị cấm dưới triều Hoàng đế Wilhelm II. Đến thời Cộng hoà Đức, ông là kịch tác gia được ưa chuộng nhất và tiếp tục giữ vị thế này dưới chế độ Quốc xã. Những vở kịch của ông luôn tiếp tục được công diễn. Tôi không bao giờ quên cảnh tượng kết thúc đêm công diễn đầu tiên vở kịch cuối cùng của ông, The daughter of the cathedral (Người con gái của thánh đường), khi Hauptmann, một tượng đài được tôn sùng với mái tóc bạc phất phơ trên chiếc áo choàng đen, tay trong tay với Tiến sĩ Goebbels và Johst bước ra sân khấu. Giống như nhiều người Đức nổi tiếng khác, Hauptmann tỏ ra hoà hoãn với Hitler. Goebbels vốn là con người tinh ranh nên khai thác điểm này cho mục đích tuyên truyền, luôn nhắc nhở một cách không mệt mỏi người Đức và thế giới rằng kịch tác gia vĩ đại nhất của Đức, người từng theo phe Xã hội và là dân thường, chẳng những đang lưu lại Đức mà còn tiếp tục sáng tác và đưa lên sân khấu những tác phẩm của ông .
Có thể xem xét những sự kiện sau chiến tranh để nhận định liệu kịch tác gia tài danh này là người thực lòng hay là kẻ cơ hội hay chỉ có xu hướng dễ thay đổi chính kiến. Nhà cầm quyền Mỹ tin rằng Hauptmann đã phục vụ Quốc xã quá tận tình nên cấm trình diễn các vở kịch của ông trên khu vực Tây Berlin do Mỹ kiểm soát. Nhân đây, người Nga còn mời ông qua Berlin, đón tiếp ông như một vị anh hùng và tổ chức một lễ hội trình diễn những vở kịch của ông ở Đông Berlin. Sau đó, ông phát biểu ý kiến về sự "hồi sinh tâm linh" của dân tộc Đức .
Nước Đức dưới thời Quốc xã không có vị thế cao trong lĩnh vực Mỹ thuật, dù trường phái hội hoạ Biểu hiện Đức và xu hướng nghệ thuật điêu khắc Bauhaus ở Munich là đáng được chú ý .
Vốn tự xem mình là một nghệ sĩ mỹ thuật thực thụ cho dù những thất bại ngày xưa ở Vienna, Hitler cho rằng nền mỹ thuật đương đại là xuống cấp và vô cảm. Một trong những động thái đầu tiên khi ông lên nắm quyền là "dọn sạch" nước Đức khỏi nghệ thuật "suy đồi" và cố thay thế bằng nền mỹ thuật theo "trường phái Đức". Khoảng 6.500 bức hoạ đương thời – kể cả tác phẩm của Cézanne, Van Gogh, Gauguin, Matisse, Picasso và nhiều người khác – không được phép trưng bày ở các viện bảo tàng nghệ thuật của Đức .
Những gì thế chỗ được trưng bày vào mùa hè 1937, khi Hitler chính thức khánh thành "Ngôi nhà Mỹ thuật Đức" ở Munich trong một toà nhà buồn tẻ kiểu giả cổ mà ông giúp thiết kế và mô tả là có kiến trúc "vô song và không rập khuôn được". Cuộc triển lãm đầu tiên của mỹ thuật Quốc xã này trưng bày khoảng 900 bức hoạ được chọn ra từ 15.000 bức được gửi đến dự thi. Chủ tịch hội đồng tuyển chọn là Adolf Ziegler, cũng là Chủ tịch Ban Mỹ thuật Đế chế. Là một hoạ sĩ tồi nhưng ông leo lên vị thế này nhờ có cơ hội may mắn được vẽ chân dung Geli Raubal, người cháu gái dấu yêu của Hitler. Đối với tác giả, đây là bộ sưu tập tồi tệ nhất và chưa từng thấy ở bất cứ quốc gia nào khác. Chính Hitler là người tuyển chọn chung cuộc và, theo lời kể của những người kế cận, ông tỏ vẻ giận dữ với vài tác phẩm đã được Hội đồng tuyển chọn Quốc xã duyệt đến nỗi chẳng những ra lệnh ném ra ngoài, mà ông còn dùng mũi giày đá thủng vài tác phẩm. Trong bài diễn văn dài khi khai mạc cuộc triển lãm, Hitler nói: "Tôi có ý nghĩ kiên quyết là nếu định mệnh có lúc nào đó mang đến cho chúng ta quyền lực, chúng ta sẽ không thảo luận về giá trị nghệ thuật, mà đi ngay đến quyết định". Và ông ta làm đúng như thế .
Trong diễn văn ngày 18 tháng 7 năm 1937, Hitler định hướng Quốc xã về "mỹ thuật Đức" .
"Chúng ta sẽ không cho phép hiện diện trên nước Đức những tác phẩm nghệ thuật chẳng ai hiểu được mà phải cần đến lời giải thích dài dòng để chứng tỏ tại sao phải giữ lại. Và rồi chúng sẽ chiếm lĩnh đầu óc của những kẻ mắc bệnh tâm thần, những kẻ luôn chấp nhận điều ngu xuẩn hoặc vô lý xấc xược. Không ai được có ảo tưởng! Quốc xã có chủ trương làm sạch Đế chế Đức và nhân dân ta khỏi những ảnh hưởng đang đe doạ sự tồn vinh và bản chất của họ... Khai mạc cuộc triển lãm này đồng nghĩa với việc sự điên rồ về nghệ thuật và tình trạng vấy bẩn nghệ thuật trong nhân dân ta đã chấm dứt..." Tuy thế, ít nhất vẫn còn một số người Đức – đặc biệt là ở trung tâm mỹ thuật Munich – vẫn thích chịu vấy bẩn nghệ thuật. Tiến sĩ Goebbels tổ chức trưng bày những tác phẩm "nghệ thuật thoái hoá" mà Hitler đã loại ra để giúp cứu vớt nhân dân không bị vấy bẩn. Nơi trưng bày là một phòng tranh đổ nát phải đi lên một cầu thang hẹp mới đến được, triển lãm một bộ sưu tập đặc sắc gồm những tác phẩm đương đại của Kokoschaka, Chagall và một số tác phẩm thuộc các trường phái Biểu hiện và Ấn tượng. Ngày tôi đi đến đây, phòng tranh dày đặc người, với một hàng dài người đứng xếp hàng dọc cầu thang kêu cót két và tràn ra ngoài đường. Chẳng bao lâu sau, Tiến sĩ Goebbels, giận dữ và bẽ mặt, ra lệnh đóng cửa phòng trưng bày này .
SỰ KIỂM SOÁT BÁO CHÍ, TRUYỀN THANH, PHIM ẢNH Mỗi buổi sáng, biên tập viên của các nhật báo ở Berlin và thông tín viên báo chí xuất bản các nơi đều tề tựu ở Bộ Thông tin và Tuyên truyền để nghe Tiến sĩ Goebbels hoặc phụ tá của ông này thông báo cho phép in tin nào và cấm tin nào, viết bản tin ra sao và đề tựa như thế nào, chiến dịch tuyên truyền nào phải chấm dứt và chiến dịch nào phải bắt đầu và bài xã luận nào cần viết. Nếu có trường hợp hiểu lầm, một văn bản sẽ được gửi đi kèm lời chỉ dẫn bằng miệng. Văn bản được gửi bằng điện tín hoặc thư bưu điện đến các tờ báo ở xa .
Luật Báo chí ngày 4 tháng 10 năm 1933 quy định người "trong sạch" về chính trị và chủng tộc mới được làm biên tập viên dưới thời Quốc xã: phải có quốc tịch Đức, thuộc chủng tộc Aryan và không kết hôn với người Do Thái. Điều 14 của Luật Báo chí quy định biên tập phải "loại ra khỏi báo chí bất kỳ bài viết nào... có xu hướng làm suy yếu sức mạnh của Đức Quốc xã, chí nội tại hoặc bên ngoài của dân tộc Đức, nền quốc phòng của Đức... hoặc xúc phạm danh dự và phẩm giá của nước Đức". Đó là những vi phạm mà nếu Luật được áp dụng trước 1933, sẽ trấn áp tất cả biên tập viên của Quốc xã. Đồng thời sẽ dẫn đến việc loại bỏ những tờ báo và người làm báo không phải là Quốc xã .
Một trong những tờ báo đầu tiên bị dẹp bỏ là Vossische Zeitung. Được thành lập năm 1704, đây là tờ báo hàng đầu ở Đức, tương đương với tờ Times ở Anh và New York Times ở Mỹ. Tờ báo này có xu hướng tự do, chủ nhân là một công ty của người Do Thái. Tờ báo đóng cửa ngày 1 tháng 4 năm 1934 sau 230 năm hoạt động. Vài tờ báo lớn khác có chủ là người Do Thái được bán lại cho người khác. Những tờ báo còn tồn tại là nhờ Văn phòng Báo chí Đức can thiệp vì muốn duy trì những tờ báo danh tiếng quốc tế này để nhằm tạo ấn tượng cho các nước khác trên thế giới .
Khi mọi tờ báo ở Đức đã được chỉ dẫn phải đăng gì, viết bản tin và xã luận như thế nào, thì điều không tránh khỏi là có sự tuân phục tai hại lan tràn khắp báo chí cả nước. Ngay cả một dân tộc vốn đã được điều hành chặt chẽ và chịu phục tùng chế độ cũng cảm thấy chán ngán với nhật báo. Số báo phát hành giảm nhanh chóng. Trong 4 năm đầu của chế độ Quốc xã, số tựa báo giảm từ 3.607 xuống còn 2.671 .
Nhưng việc mất đi ngành báo chí tự do và đa dạng được bù đắp bằng một mối lợi khác cho Quốc xã – ít nhất về mặt tài chính. Max Amann, Thượng sĩ cấp trên của Hitler trong Thế chiến I và đứng đầu Eher Verlag – công ty xuất bản của Đảng, đã trở thành nhà chuyên chế tài chính của báo chí Đức. Với chức danh Chủ tịch Phòng Báo chí của Đảng, Amann có quyền đóng cửa bất kỳ cơ sở xuất bản nào theo luật định rồi sau đó mua lại cơ sở ấy với giá hời. Chỉ trong một thời gian ngắn, Eher Verlag trở thành một đại gia xuất bản, với tầm vóc to lớn và lợi nhuận có lẽ là cao nhất trên thế giới. Thu nhập của Amann tăng vọt từ 108.000 mác Đức năm 1934 lên 3,8 triệu mác Đức năm 1942 (theo thư gửi tác giả của Giáo sư Oron J. Hale, người nghiên cứu sổ sách của nhà xuất bản). Các nhật báo của Đảng hoặc cá nhân Quốc xã chiếm tổng cộng hai phần ba tổng số phát hành 25 triệu. Trong tờ cung khai được tuyên thệ nộp trước Toà án Nuremberg, Amann mô tả cách ông hoạt động: "Sau khi Đảng nắm quyền năm 1933... nhiều người... đã bán cơ sở cho Nhà xuất bản Eher. Không có thị trường tự do,... và Eher Verlag là người bỏ giá duy nhất. Theo cách này Eher Verlag... mở rộng thành độc quyền của ngành xuất bản nhật báo Đức... Mục đích cơ bản của chương trình báo chí Quốc xã là dẹp bỏ mọi báo chí chống đối Đảng" .
Có lúc vào năm 1934, cả Amann và Goebbels đã phải cùng kêu gọi các biên tập viên hay khúm núm không nên viết bài quá đơn điệu. Một biên tập viên lại quá năng nổ với chỉ thị này, viết bài chỉ trích Bộ Thông tin và Tuyên truyền một cách nghiêm khắc rằng chính Bộ này đã khiến cho báo chí trở nên chán ngắt. Tờ tuần báo của ông này lập tức bị đình bản 3 tháng và chính ông thì bị Goebbels đưa vào trại tập trung .
Ngành Truyền thanh và Phim ảnh cũng nhanh chóng bị uốn nắn để phục vụ cho mục đích tuyên truyền của Nhà nước Quốc xã. Goebbels thường lên tiếng trên đài truyền thanh (truyền hình chưa xuất hiện lúc này). Qua Cục Truyền thanh trong Bộ Thông tin và Tuyên truyền, ông kiểm soát hoàn toàn và lèo lái các chương trình truyền thanh cho mục đích của mình. Công việc càng thêm dễ dàng hơn vì ở Đức, giống như những quốc gia châu Âu khác, Nhà nước nắm độc quyền lĩnh vực truyền thanh .
Ngành phim ảnh vẫn còn nằm trong tay các công ty tư nhân, nhưng Bộ Thông tin và Tuyên truyền và Phòng Phim ảnh kiểm soát mọi hoạt động trong ngành, với chức năng – theo ngôn từ của một bài xã luận chính thức – "nhằm đưa ngành phim ảnh thoát khỏi phạm trù của những tư tưởng kinh tế tự do..." Trong cả 2 trường hợp, hậu quả đối với người Đức là mang đến những chương trình truyền thanh cùng phim ảnh ngớ ngẩn và chán phèo, giống hệt như trong ngành báo chí xuất bản định kỳ vậy. Ngay cả một dân tộc vốn quen chịu o ép cũng bắt đầu tỏ ý phản kháng. Người hâm mộ lánh xa những phim của Quốc xã và chen chúc đến xem một số ít phim nước ngoài (phần lớn là phim Hollywood hạng hai) mà Goering cho phép chiếu trong nước. Có những lúc vào giữa những năm 1930, Bộ trưởng Nội vụ Wilhelm Frick ra một lời cảnh cáo nghiêm khắc về "thái độ phản trắc của khán giả phim ảnh" .
Tương tự, các chương trình truyền thanh bị chê bai thậm tệ, đến nỗi Chủ tịch Phòng Truyền thanh là Horst Dressler-Andress tuyên bố lời ta thán như thế là "xúc phạm đến nền văn hoá Đức" và sẽ không được dung thứ. Trong những ngày này ở những năm 1930, thính giả Đức có thể bắt nghe một số đài nước ngoài mà không sợ rủi ro đến tánh mạng như trong Thế chiến II sau này. Có lẽ nhiều người Đức đã làm thế, tuy tác giả có cảm tưởng là Tiến sĩ Goebbels đã tỏ ra đúng lý khi cho rằng truyền thanh là công cụ tuyên truyền hữu hiệu nhất .
Chính cá nhân tôi nhận thấy người ta dễ chịu ảnh hưởng bởi ngành Báo chí và Truyền thanh bị kiểm duyệt trong một nước chuyên chế. Dù không như người Đức, hằng ngày tôi vẫn được tiếp cận với nhật báo nước ngoài đến chậm một ngày và dù tôi thường xuyên nghe đài BBC cùng những đài truyền thanh khác, nhưng công việc đòi hỏi tôi phải bỏ nhiều giờ mỗi ngày để xem qua báo chí Đức, kiểm tra nội dung truyền thanh, gặp gỡ quan chức Quốc xã và tham dự các buổi mít tinh của Đảng. Điều đáng ngạc nhiên là chế độ tuyên truyền dai dẳng gồm những điều bịa đặt và bóp méo sự thật lại vẫn có khả năng gây ấn tượng lên tâm tư con người và thường khiến họ dễ lầm lạc. Sống nhiều năm dưới chế độ tuyên truyền liên tục có tính toán thì khó mà thoát khỏi tầm ảnh hưởng. Trong nhà riêng hoặc văn phòng người Đức, đôi lúc trong buổi chuyện trò cởi mở với một người mới gặp ở nhà hàng, quầy bia, quán cà phê, tôi thường nghe những lời khẳng định lạ lùng từ những người có vẻ như thông minh và có học thức. Hiển nhiên là họ lặp lại như con vẹt những điều vô lý mà họ đã nghe qua đài truyền thanh hoặc đọc qua báo chí. Đôi lúc ta có thể thử nói ra sự thật, nhưng được đáp lại với cái nhìn kinh ngạc, cùng sự im lặng, như thể ta đã báng bổ thần thánh. Từ đấy, ta có thể nhận ra chỉ là vô ích thôi nếu cố tiếp cận với một tư tưởng đã bị bẻ cong, đã thấm nhuần theo cách mà Hitler và Goebbels muốn uốn nắn .
GIÁO DỤC TRONG ĐẾ CHẾ THỨ BA Ngày 30 tháng 4 năm 1934, Tiến sĩ Bernard Rust được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Khoa học, Giáo dục và Văn hoá Quần chúng. Ông này mang quân hàm Đại tướng S.A., Đảng viên Quốc xã, một thời là Xứ uỷ Hanover, bạn của Hitler từ những năm 1920. Trong thế giới kỳ quặc, bát nháo của Quốc gia Xã hội Chủ nghĩa, Rust rõ ràng là thích hợp với chức vụ ấy. Vào năm 1930, khi còn là giáo viên ở Hanover, ông bị nhà cầm quyền Cộng hoà sa thải vì những biểu hiện của đầu óc mất cân bằng và một phần cũng là vì tư tưởng Quốc xã cực đoan. Ông truyền bá tư tưởng Quốc xã với lòng hăng hái như Goebbels và đầu óc tù mù như Rosenberg .
Vào thời điểm đó, con người thiếu suy nghĩ ấy được giao nhiệm vụ kiểm soát các lĩnh vực khoa học, trường công lập, Đại học, Cao đẳng và những tổ chức thanh niên. Hitler đã trù định là nền giáo dục của Đế chế Thứ Ba không nên gò bó trong phòng học mà phải mở rộng ra chương trình huấn luyện chính trị và quân sự. Đỉnh điểm không phải ở cấp Cao đẳng kỹ thuật hoặc Đại học, mà trước hết là lao động bắt buộc rồi sau đó là thời gian phục vụ trong quân ngũ .
Hitler tỏ ý khinh thường những "giáo sư" và giới hàn lâm trí thức mà ông công kích qua các trang của Mein Kampf. Trong cuốn sách này, ông viết: "Cả nền giáo dục của quốc gia không phải nhắm đến nhồi nhét kiến thức, mà phải tạo nên cơ thể cường tráng từ căn cơ" .
Nhưng, điều quan trọng hơn, là thu phục và huấn luyện giới trẻ để phục vụ một Nhà nước mới. Trong diễn văn ngày 6 tháng 11 năm 1933, Hitler nói: "Khi có một người đối lập nói 'Tôi sẽ không ngả về phe ông', tôi chỉ điềm tĩnh nói: 'Ông là cái gì? Con của ông thuộc về chúng tôi rồi. Ông sẽ đi tiếp. Nhưng con cháu của ông bây giờ thuộc về hàng ngũ mới. Chẳng bao lâu, họ sẽ không biết điều gì khác ngoại trừ cộng đồng mới này'" .
Và ngày 1 tháng 5 năm 1937, Hitler tuyên bố: "Đế chế mới này sẽ không mang giới trẻ đi cho ai, mà sẽ tiếp nhận, giáo dục và dạy dỗ giới trẻ" .
Đó không phải là lời khoác lác nhàn nhã, mà chính xác là những gì đang xảy ra .
Trường học ở Đức, từ cấp Một đến Đại học, đều được Quốc xã hoá. Sách giáo khoa được gấp rút viết lại, chương trình học được thay đổi, Mein Kampf được chọn là tiếng nói chính thức của nhà giáo. Ai không nhận ra tư tưởng mới thì sẽ bị loại ra ngoài. Phần lớn nhà giáo phải ít nhiều là cảm tình viên của Quốc xã nếu chưa phải là Đảng viên thực thụ. Để tăng cường ý thức hệ, họ được tập huấn trong trường lớp đặc biệt để học về những nguyên tắc Quốc gia Xã hội Chủ nghĩa, nhấn mạnh vào chủ thuyết về chủng tộc của Hitler .
Tất cả nhà giáo từ cấp Mẫu giáo đến Đại học đều phải gia nhập Liên đoàn Giáo chức Quốc gia Xã hội Chủ nghĩa mà theo luật "có trách nhiệm điều phối về chính trị và ý thức hệ tất cả nhà giáo theo chủ thuyết của Quốc gia Xã hội Chủ nghĩa". Luật Công chức 1937 đòi hỏi nhà giáo "phải sẵn sàng bất kỳ lúc nào để kiên quyết bảo vệ Nhà nước Quốc gia Xã hội Chủ nghĩa". Một Nghị định trước đó xếp nhà giáo vào diện công nhân viên chức, vì thế người Do Thái bị loại ra. Tất cả nhà giáo đều phải tuyên thệ "trung thành và phục tùng Adolf Hitler". Ứng viên giảng dạy Đại học phải tham gia 6 tuần trong trại quan sát để chuyên gia Quốc xã khảo sát quan điểm và tính cách của họ rồi báo cáo với Bộ Giáo dục. Bộ này sẽ cấp giấy phép giảng dạy nếu ứng viên tỏ ra "đáng tin cậy" về mặt chính trị .
Trước năm 1933, các trường công lập ở Đức do chính quyền địa phương quản lý, còn Đại học do bang quản lý. Nhưng bây giờ tất cả đều nằm dưới lề luật sắt đá của Bộ trưởng Giáo dục Đế chế. Chính ông này bổ nhiệm Hiệu trưởng Đại học và các Trưởng khoa, trong khi lúc trước các chức vụ này do các Giáo sư thực thụ của các phân khoa bầu lên. Bộ trưởng Giáo dục cũng bổ nhiệm lãnh đạo các ban đại diện sinh viên quy tụ tất cả sinh viên và ban đại diện giảng viên gồm tất cả giảng viên. Dưới sự lãnh đạo chặt chẽ của Quốc xã, Hiệp hội Giảng viên Quốc xã có quyền quyết định ai được giảng bài và đảm bảo họ giảng theo đúng chủ thuyết của Quốc xã .
Hậu quả của Quốc xã hoá là thảm hoạ cho nền giáo dục Đức và cho việc trau dồi kiến thức ở Đức. Lịch sử bị bóp méo trong sách giáo khoa và bài giảng đến nỗi trở nên lố bịch. Việc giảng dạy những môn "khoa học chủng tộc" càng tệ hại hơn: tán dương người Đức là chủng tộc ưu việt và người Do Thái là nguồn gốc của mọi vấn nạn trên thế giới. Chỉ ở Đại học Berlin, nơi có nhiều học giả vĩ đại giảng dạy trong quá khứ, vị Hiệu trưởng mới – có nghề chuyên môn thú y và gia nhập lực lượng S.A. – thành lập 25 môn học mới về khoa học chủng tộc và đến khi ông thật sự làm tan hoang trường Đại học này, thì ông ta đã kịp lập ra 86 môn học liên quan tới nghề của mình .
Việc giảng dạy những môn khoa học tự nhiên – mà Đức có thế mạnh qua nhiều thế hệ – bị xuống cấp nhanh chóng. Những giảng viên vĩ đại – như Einstein và Franck về Vật lý, Haber, Willstaetter và Warburg về Hoá học – đều bị sa thải hoặc bị cho về hưu. Những người còn lại phải giảng dạy Vật lý Đức, Hoá học Đức và Toán học Đức. Vào năm 1937, người ta còn cho ra đời một tạp chí mang tên Deutsche Mathematik (Toán học Đức) và số báo đầu tiên long trọng tuyên cáo rằng bất kỳ ý tưởng toán học nào không liên quan đến chủng tộc "là mầm mống cho sự huỷ diệt nền khoa học Đức" .
Ảo tưởng của các nhà khoa học Quốc xã thật là khó tin, thậm chí đối với người có kiến thức thông thường. Giáo sư Philipp Lenard tại Đại học Heidelberg là một trong những nhà khoa học của Đế chế Thứ Ba được thế giới kính trọng. Khi được hỏi về Vật lý Đức và được nghe biện luận rằng khoa học vẫn luôn thuộc về thế giới, ông trả lời: "Đó là sai. Trên thực tế, khoa học, cũng như mọi sản phẩm của con người, có tính chủng tộc và tuỳ thuộc vào huyết thống" .
Giáo sư Rudolphe Tomascheck, Viện trưởng Viện Vật lý tại Dresden, còn đi xa hơn. Ông viết: "Vật lý hiện đại là công cụ của người Do Thái trên thế giới nhằm tiêu huỷ nền khoa học Bắc Âu... Vật lý chính thống là sáng kiến của tinh thần Đức... Thực ra, cả nền khoa học châu Âu là kết quả của tư tưởng Aryan hay đúng hơn, là tư tưởng Đức" .
Giáo sư Johannes Stark, Viện trưởng Viện Khoa học Vật lý Quốc gia Đức, cũng nghĩ thế. Ông nói, có thể thấy rằng, "những người lập ra nghiên cứu trong Vật lý và những nhà phát kiến vĩ đại từ Galileo đến Newton, đến những người đi tiên phong về Vật lý trong thời đại chúng ta, hầu như tất cả đều thuộc chủng tộc Aryan..." Cũng có Giáo sư Wilhelm Mueller, tại Trường Cao đẳng Kỹ thuật Aachen, trong cuốn sách mang tựa Jewry and Science nhìn ra âm mưu toàn cầu của người Do Thái nhằm làm vấy bẩn khoa học và qua đó phá huỷ nền văn minh. Đối với ông, Einstein với thuyết tương đối là tội đồ hàng đầu .
Đối với Giáo sư Ludwig Bieberback ở Đại học Berlin, Einstein là "kẻ khoác lác" – Thậm chí đối với Giáo sư Lenard, "người Do Thái rõ ràng thiếu hiểu biết về chân lý... và phương diện này là trái ngược với nhà khoa học nghiên cứu thuộc chủng tộc Aryan có ý chí cẩn thận và nghiêm túc về chân lý... Vì thế vật lý Do Thái là con ma và hiện tượng thoái hoá của Vật lý cơ bản Đức" .
Tuy thế, trong khoảng thời gian từ năm 1905 đến 1931, đã có 10 người Đức gốc Do Thái đoạt giải Nobel do những cống hiến của họ cho khoa học .
Trong Đế chế Thứ Hai, giống như giới giáo sĩ Tin Lành, các Giáo sư Đại học ủng hộ một cách mù quáng chính quyền bảo thủ cùng những mưu đồ bành trướng, đồng thời họ còn biến giảng đường trở thành nơi phát sinh tư tưởng bài Do Thái. Cộng hoà Đức cho giới hàn lâm mọi quyền tự do và một hậu quả là đại đa số các giáo chức Đại học – do tư tưởng chống tự do, chống dân chủ, bài Do Thái – đã góp phần làm lũng đoạn chế độ dân chủ. Nhiều Giáo sư ngả về phe quốc gia cuồng tín, mong mỏi nước Đức trở lại là quân chủ, bảo thủ. Trước năm 1933, dù Quốc xã hay gây rối và bạo loạn nên khó lôi kéo giới giáo chức, nhưng những bài thuyết giáo của họ vẫn ảnh hưởng tới lớp trẻ. Đến năm 1932, đa số sinh viên ngả theo phe Hitler .
Điều đáng ngạc nhiên hơn chính là con số giáo chức Đại học cam lòng thuận theo Quốc xã hoá giáo dục cấp cao sau năm 1933. Con số chính thức là 2.800 Giáo sư và Giảng viên bị sa thải trong 5 năm đầu của chế độ, tức là khoảng ¼ trên tổng số. Nhưng theo Giáo sư Wilhelm Roepke – người mà bản thân cũng bị sa thải – thì tỷ lệ những người mất chức vì thách thức Quốc xã là "rất nhỏ". Tuy là nhỏ, nhưng vẫn bao gồm hàng chục các tên tuổi nổi tiếng trên thế giới. Phần lớn trong số họ di cư qua Thuỵ Sĩ, Hà Lan và Anh, rồi sau cùng đến Mỹ .
Tuy vậy, đa số Giáo sư vẫn lưu lại với chức vụ của mình. Vào mùa thu 1933, khoảng 960 người công khai cam kết ủng hộ Hitler và chế độ Quốc xã .
Giáo sư Roepke sau này viết: "Đó là tình trạng giống như bán dâm, làm ô uế lịch sử của nền học thuật danh giá của Đức." Vào năm 1945, khi nhìn lại tình hình hỗn độn, Giáo sư Julius Ebbinghaus nói: "Các trường Đại học ở Đức thất bại vì, trong khi còn có thời giờ, họ đã không công khai chống sự huỷ diệt kiến thức với tất cả sức mạnh của mình và của thể chế dân chủ. Họ thất bại vì không giữ được ngọn đèn của tự do và nhân quyền toả sáng trong đêm tối của chuyên chế." Cái giá phải trả của thất bại là lớn lao. Sau 6 năm Quốc xã hoá, số sinh viên đã giảm hơn phân nửa – gần 130.000 còn chưa đến 60.000. Số sinh viên theo học tại các viện công nghiệp, nơi đào tạo các nhà khoa học và kỹ sư của Đức, cũng giảm mạnh – từ hơn 20.000 còn chưa đến 10.000. Năng lực của giới khoa học kỹ thuật trẻ cũng giảm sút. Nhiều năm trước khi chiến tranh bùng nổ, ngành công nghiệp hoá học, đang bận rộn tham gia chương trình tái vũ trang, than phiền là nước Đức đã mất vị thế đầu tàu về Hoá học .
Cái mất của Đức Quốc xã là cái được của thế giới tự do, đặc biệt trong cuộc chạy đua chế tạo bom hạt nhân. Chính do một trong những trớ trêu của định mệnh mà chương trình phát triển bom hạt nhân của Mỹ hưởng lợi từ việc trục xuất Einstein từ Quốc xã Đức và Fermi từ Phát xít Ý .
Đối với Adolf Hitler, điều quan trọng trong đầu óc ông ta không phải là hệ thống trường công – nơi ông học hành kém cỏi rồi bỏ dở – mà là những tổ chức của Đoàn Thanh niên Hitler mà ông trông cậy để giáo dục giới trẻ Đức theo những mục đích của mình. Trong những năm Đảng Quốc xã còn phải tranh đấu đi lên nắm quyền, phong trào Thanh niên Hitler có vai trò không đáng kể. Trong năm 1932, năm cuối của nền Cộng hoà, dù có hơn 100.000 đoàn viên thuộc về Đoàn Thanh niên Hitler trên tổng số khoảng 10 triệu thanh thiếu niên thuộc về những tổ chức khác nhau được hợp nhất trong uỷ ban Đế chế của các Đoàn Thanh niên Đức. Không có quốc gia nào trên thế giới có phong trào thanh niên sôi động đến thế với con số cao đến thế. Nhận thức được điều này, Hitler quyết tâm nắm lấy và Quốc xã hoá tổ chức này .
Phụ tá thân cận của Hitler đảm trách việc này là Baldur von Schirach, trẻ trung và đẹp trai, đầu óc tầm thường nhưng có bầu nhiệt huyết mạnh mẽ. Anh gia nhập Đảng năm 1925 ở tuổi 18 và đến năm 1931 thì được cử làm Lãnh đạo Thanh niên của Đảng Quốc xã. Giữa các binh sĩ Áo Nâu mặt đầy sẹo, hay gây gổ đâm chém, anh có dáng vẻ lạ lùng của một sinh viên Mỹ, trong sáng và non nớt – có lẽ do tổ tiên anh là người Mỹ (kể cả 2 người đã ký vào bản Tuyên ngôn Độc lập .
Schirach được cử làm "Lãnh đạo Thanh niên của Đế chế Đức" vào tháng 6 năm 1933. Áp dụng đúng chiến thuật của các đàn anh trong Đảng, hành động đầu tiên của anh là phái một toán Thanh niên Hitler có vũ trang đi chiếm lấy văn phòng Trung ương của uỷ ban Đế chế của các Đoàn Thanh niên Đức. Chủ tịch uỷ ban này, một tướng lĩnh già của Quân đội Phổ có tên Vogt, đã phải bỏ chạy. Kế tiếp, Schirach tấn công một trong những anh hùng hải quân nổi tiếng nhất, Đô đốc von Trotha, Tham mưu trưởng Hạm đội trong Thế chiến I và hiện giờ là chủ tịch các Đoàn Thanh niên. Vị đô đốc được tôn kính cũng bỏ chạy, chức vụ và tổ chức của ông bị dẹp bỏ. Tài sản trị giá hàng triệu đô la, chủ yếu là hàng trăm quán trọ thanh niên khắp nước Đức, bị tịch thu .
Giáo ước ngày 20 tháng 7 năm 1933 quy định là Đoàn Thanh niên Công giáo được phép tiếp tục hoạt động. Ngày 1 tháng 12 năm 1936, Hitler ban hành Nghị định xoá bỏ tổ chức này cùng mọi tổ chức thanh niên khác không phải của Quốc xã: "... Tất cả thanh niên Đức trong Đế chế được tổ chức trong Đoàn Thanh niên Hitler .
Ngoài việc nuôi dưỡng trong gia đình và trường học, thông qua Đoàn Thanh niên Hitler, thanh niên Đức sẽ được giáo dục về thể chất, trí tuệ và tinh thần theo lý tưởng của Quốc gia Xã hội Chủ nghĩa..." Cơ quan của Schirach lúc trước nằm trong Bộ Giáo dục, bây giờ được đặt trực tiếp dưới quyền của Hitler. Người thanh niên 29 tuổi này – người viết những dòng thơ lãng mạn để ca ngợi Hitler, người bị lây nhiễm bệnh hoang tưởng kỳ quặc của Rosenberg và tư tưởng bài Do Thái hiểm độc của Schleicher – đã trở thành nhà độc tài của giới thanh niên trong Đế chế Thứ Ba .
Từ năm 6 tuổi đến năm đi nghĩa vụ lao động và quân sự ở tuổi 18, tất cả nam và nữ đều được tổ chức trong các cấp độ khác nhau của Đoàn Thanh niên Hitler. Cha mẹ nào cố ngăn cản con cái gia nhập sẽ bị án tù nặng, dù là cho họ phản đối cho con gái mình gia nhập một cơ sở đã xảy ra nhiều vụ mang thai .
Trẻ em từ 6 đến 10 tuổi gia nhập nhóm nhi đồng. Chúng được phát một quyển sổ để ghi thành tích, kể cả sự tiến bộ về ý thức hệ. Lúc lên 10 tuổi, trẻ phải trải qua những cuộc thi thể dục, cắm trại và lịch sử Quốc xã, trước khi được nhận vào nhóm thiếu niên và cất lời tuyên thệ trung thành với Adolf Hitler .
Khi lên 14 tuổi, trẻ được nhận vào Đoàn Thanh niên Hitler thực thụ cho đến năm 18 tuổi, rồi được gọi đi làm nghĩa vụ lao động hoặc quân sự. Đoàn Thanh niên Hitler là một tổ chức lớn theo cách thức bán quân sự tương tự như lực lượng S.A., trong đó đoàn viên được huấn luyện về cắm trại, thể thao, ý thức hệ Quốc xã và quân sự. Nhiều dịp picnic cuối tuần ở ngoại ô Berlin của tác giả bị gián đoạn vì Thanh niên Hitler di chuyển qua các khu rừng hoặc trên đồng cỏ, tay cầm súng trường, lưng mang ba lô nặng nề .
Đôi lúc, ngay cả các em gái cũng đi tập trận quân sự. Từ 10 đến 14 tuổi, các em được cấp đồng phục và được huấn luyện tương tự như các em trai, nhưng nhấn mạnh về vai trò của phụ nữ trong Đế chế Thứ Ba: làm bà mẹ khoẻ mạnh của những đứa con khoẻ mạnh. Điều này càng được chú trọng hơn khi các em lên 14 tuổi và được nhận vào đoàn thanh nữ .
Lúc lên 18 tuổi, vài nghìn nữ thanh niên (họ phục vụ cho đến năm 21) tham gia một lao động trên nông trường, tương tự như nghĩa vụ lao động của nam giới. Các thiếu nữ sống trong nông trại, hoặc trong lều ở vùng nông thôn và mỗi sáng được xe đưa đến nông trại. Nhiều vấn nạn đạo đức nảy sinh. Sự hiện diện của một cô gái trẻ đôi lúc làm xáo trộn gia đình nông dân và tiếng than phiền giận dữ của các bậc cha mẹ có con gái mang thai bắt đầu cất lên. Vấn nạn càng tệ hại hơn khi bên nữ phải cắm trại gần 1 trại nghĩa vụ lao động của nam giới .
Những vấn nạn đạo đức tương tự cũng nảy sinh vào "Năm Gia đình cho Thanh nữ", khi có khoảng nửa triệu thanh nữ Hitler phải trải qua 1 năm làm việc nội trợ trong các gia đình ở thành phố. Thật ra, Quốc xã không xem đây là vấn nạn đạo đức. Tác giả đôi lần nghe lãnh đạo các đoàn thanh nữ – luôn xấu xí hơn và chưa chồng – giảng bài cho các cô gái trẻ về nghĩa vụ đạo đức và ái quốc trong việc đẻ con cho Đế chế của Hitler: qua hôn nhân nếu có thể được, ngoài hôn nhân nếu cần thiết .
Đến cuối năm 1938, Đoàn Thanh niên Hitler có gần 8 triệu đoàn viên. Tuy con số này là lớn, nhưng rõ ràng là vẫn còn khoảng 4 triệu vẫn còn ở ngoài. Tháng 3 năm 1939, Chính phủ ban hành luật động viên mọi thiếu niên vào Đoàn Thanh niên Hitler tương tự như cách động viên thanh niên vào Quân đội. Nếu cha mẹ cưỡng lại, con cái sẽ bị bắt đi, đưa vào cô nhi viện hoặc gửi vào gia đình khác cho đến ngày gia nhập đoàn .
Chương trình cải tổ giáo dục của Đế chế Thứ Ba lên đến đỉnh điểm với sự thành lập 3 loại trường để đào tạo giới ưu tú: Trường Adolf Hitler, Học viện Giáo dục Chính trị Quốc gia và Thành trì Phẩm cấp. Trường Adolf Hitler ở dưới quyền chỉ đạo của Đoàn Thanh niên Hitler, nhận những đứa trẻ 12 tuổi hứa hẹn nhất và sẽ giáo dục chúng trong 6 năm về lãnh đạo Đảng và dịch vụ công. Trẻ phải sống dưới chế độ kỷ luật khắt khe và khi tốt nghiệp thì được nhận vào Đại học. Có tới 10 trường như vậy được thành lập vào năm 1937 .
Học viện Giáo dục Chính trị Quốc gia nhằm phục hồi loại hình giáo dục trước đây được thực hiện trong các trường võ bị của Phổ. Thanh niên được giáo dục về "tinh thần chiến binh với các đức tính là lòng can đảm, ý thức nghĩa vụ và lối sống giản đơn". Ngoài ra, thanh niên còn được học về những chủ thuyết Quốc xã. Lực lượng S.S. phụ trách giám sát, bổ nhiệm Hiệu trưởng và Giảng viên cho các học viện này. Có 3 học viện như thế được thành lập vào năm 1933, tăng lên 31 học viện khi Thế chiến II bùng nổ, trong đó 3 học viện là dành riêng cho nữ .
cấp cao nhất là cái gọi là "Thành trì Phẩm cấp", được tổ chức theo phong cách của các thành trì Phẩm cấp Hiệp sĩ người Teuton trong thế kỷ XIV và XV, dựa trên nguyên tắc tuân phục tuyệt đối nhà lãnh đạo. Chỉ có thanh niên Quốc xã cuồng tín nhất từ các Trường Adolf Hitler và Học viện Giáo dục Chính trị Quốc gia mới được chọn vào học chương trình trong 6 năm gồm có 4 Thành trì mà họ phải tuần tự vượt qua .
Thành trì đầu là trong năm đầu, chú trọng về các "khoa học chủng tộc" và ý thức hệ Quốc xã .
Thành trì thứ hai là trong năm thứ hai, gồm các môn Thể dục thể thao, kể cả leo núi và nhảy dù .
Thành trì thứ ba, kéo dài 1,5 năm, dạy chính trị và quân sự .
Trong Thành trì thứ tư kéo dài 1,5 năm, sinh viên tập trung ở thành trì Ordensburg, nơi mà 5 thế kỷ trước là căn cứ địa của Hiệp sĩ người Teuton. Chương trình huấn luyện chính trị và quân sự chú trọng vào vấn đề miền Đông và nhu cầu phải mở rộng đất đai của Đức – là bước chuẩn bị cho tiến trình thôn tính bắt đầu từ năm 1939 .
Theo cách ấy, giới trẻ của Đế chế Thứ Ba được huấn luyện để chuẩn bị cho cuộc đời, cho công việc và cho cái chết. Dù đầu óc của họ bị đầu độc, chương trình giáo dục thông thường bị xáo trộn, bị tách xa khỏi mái ấm, nhưng giới trẻ lại có vẻ vô cùng hạnh phúc, tràn đầy hăng hái cho cuộc sống của một Thanh niên Hitler. Và chắc chắn rằng việc mang lớp trẻ từ mọi giai cấp xã hội, nghèo hoặc giàu, con nhà công nhân hay doanh nhân, đến sống chung và làm việc với nhau, là điều tốt. Trong phần lớn trường hợp, không có hại gì cho các em trai và gái cùng nhau thi hành nghĩa vụ lao động, sống ngoài trời, đồng thời hiểu được giá trị của công việc chân tay và hoà thuận với mọi người thuộc mọi giai cấp. Trong thời gian này, ai từng hỏi chuyện giới trẻ, quan sát họ làm việc, chơi đùa và ca hát đều thấy đây là một phong trào thanh niên vô cùng năng động – dù cho việc giáo dục là để phục vụ cho mưu đồ đen tối .
Giới trẻ trong Đế chế Thứ Ba đang lớn lên để có cơ thể mạnh khoẻ, niềm tin vào tương lai của đất nước họ, vào chính bản thân mình, vào ý thức về tình bạn và tình đồng chí mà thông qua đó, phá tan mọi ngăn cách về giai cấp, kinh tế và xã hội. Tôi suy nghĩ về điều này trong những ngày tháng 5 năm 1940, dọc con đường giữa Aachen và Brussels, khi người ta thấy sự tương phản giữa binh sĩ Đức với nước da sạm nắng, cường tráng so với tù binh Anh má lõm, vai tròn, nước da xanh xao và hàm răng xấu xí. Đó là những biểu hiện bi thảm của giới trẻ mà nước Anh đã quên lãng một cách vô trách nhiệm trong những năm giữa 2 cuộc thế chiến .
NÔNG DÂN TRONG ĐẾ CHẾ THỨ BA Khi Hitler lên nắm quyền năm 1933, cũng như phần lớn quốc gia, nông dân Đức đang trong tình trạng tuyệt vọng: thu nhập sụt giảm, nợ nần chồng chất và một phần đáng kể thu nhập phải dùng để trả nợ, chưa kể đến các khoản thuế và dịch vụ xã hội. Tháng 10 năm 1933, Hitler tuyên bố: "Nông dân phá sản sẽ khiến cho cả dân tộc Đức phá sản" .
Trong nhiều năm, Quốc xã cố lấy lòng nông dân qua cương lĩnh cải cách đất đai, xoá lãi suất cho các khoản vay nông nghiệp, ngăn chặn đầu cơ đất đai... Những hứa hẹn đối với nông dân không được thực hiện – ngoại trừ việc ngăn chặn đầu cơ đất. Năm 1938, 5 năm sau khi Quốc xã lên cầm quyền, việc phân phối đất vẫn còn tạo ra sự bất công còn lớn hơn cả các nước phương Tây khác. Chế độ độc tài Quốc xã, giống như những Chính phủ Xã hội – Tư sản của nền Cộng hoà, không dám phân cắt những trang trại mênh mông của người Junker nằm phía Đông sông Elbe .
Tuy thế chế độ Quốc xã đã thực hiện một chương trình hỗ trợ nông nghiệp rộng lớn. Hitler bổ nhiệm Walther Darré – một trong số ít lãnh đạo Quốc xã có chuyên môn sâu – điều hành chương trình này. Là chuyên gia nông nghiệp xuất sắc, Darré đã phục vụ trong Bộ Nông nghiệp Phổ cũng như Bộ Nông nghiệp Đức. Vì mâu thuẫn với cấp trên, ông từ chức các nơi này rồi về nhà viết cuốn sách Das Bauerntum als Lebensquell der nordischen Rasse (Nông dân như là cội nguồn cuộc sống của chủng tộc Bắc Âu). Tựa sách như thế khiến cho Quốc xã chú ý đến ông. Rudolf Hess dẫn Darré đến ra mắt Hitler và Hitler có ấn tượng đến nỗi giao cho ông nhiệm vụ soạn thảo chương trình nông nghiệp cho Đảng .
Tháng 6 năm 1933, Hugenberg bị sa thải, Darré ngồi vào ghế Bộ trưởng Lương Nông. Tháng Chín, ông đã chuẩn bị sẵn sàng cho kế hoạch nông nghiệp. 2 đạo luật được ban hành nhằm tái cơ cấu cả hệ thống sản xuất và phân phối, với mục đích đảm bảo giá cao hơn cho nông dân, cùng lúc đặt nông dân Đức vào vị thế mới – điều ngược đời là vị trí đó trùng hợp với ngày xưa, khi mà trong đó nông dân và con cháu của họ (miễn là thuộc chủng tộc Aryan) phải gắn bó với mảnh đất của mình mãi mãi .
Luật Trang trại Thừa kế vào ngày 29 tháng 9 năm 1933 là sự pha trộn giữa việc đẩy nông dân lùi về thời trung cổ và bảo vệ họ chống lại những lạm dụng của thời hiện đại. Tất cả trang trại rộng đến 125 héc ta (đủ tạo cuộc sống thoải mái cho một gia đình) được tuyên bố là tài sản thừa kế, không được bán, phân chia, cầm cố hoặc phát mãi để trả nợ. Khi người chủ qua đời, toàn bộ mảnh đất được để thừa kế cho con trai trưởng hoặc con trai út (tuỳ tập quán địa phương), hoặc cho người nam ruột thịt gần nhất và người này phải chu cấp khoản sinh hoạt và giáo dục cho các anh chị em cho đến khi khôn lớn. Chỉ công dân Đức người Aryan mới có thể chứng minh sự thuần khiết trong huyết thống ngược đến năm 1800 mới được làm chủ một trang trại như thế. Và chỉ có người như thế mới được mang "danh hiệu danh dự" Bauer, tức Nông dân. Và người ta có thể mất danh hiệu này nếu vi phạm "Quy chuẩn danh dự nông dân" hoặc không canh tác trên trang trại. Vì thế, nông dân đang mang nợ được bảo vệ: trang trại không bị phát mãi hoặc chia cắt (không cần cắt một phần để trả nợ), nhưng đồng thời nông dân cũng mãi mãi bị trói chặt vào mảnh đất, giống như nông nô thời phong kiến .
Và mọi lĩnh vực của cuộc sống và công việc của Darré được điều hành chặt chẽ bởi một tổ chức rộng lớn do chính ông đứng đầu, có thẩm quyền trong mọi ngành sản xuất, phân phối và chế biến .
Lúc đầu, chương trình mới có phần thành công, vì nông dân hưởng lợi từ giá nông sản cao. Tuy nhiên, nông dân phải mua máy móc và phân bón cũng với giá tăng cao tương ứng .
Riêng mục tiêu tự túc lương thực – được xem là cấp thiết trong khi Đức đang chuẩn bị chiến tranh – thì chẳng bao giờ đạt được, xét qua diện tích và chất lượng đất đai so với số dân Đức. Mức khá nhất có thể đạt được là tự túc 83% và đấy chỉ là sau khi Đức thôn tính đất của nước ngoài .
Những thành tựu của Hitler trong giai đoạn đầu là chiến thắng về ngoại giao mà không phải đổ máu, thêm sự hồi phục kinh tế, mà trong Đảng cũng như các nhà kinh tế nước ngoài ca ngợi là phép lạ. Đối với nhiều người thì có vẻ đúng như thế. Số người thất nghiệp từ 6 triệu năm 1932 giảm còn không đến 1 triệu 4 năm sau. Sản lượng và thu nhập quốc nội tăng gấp đôi trong thời gian từ năm 1932 đến năm 1937. Dưới con mắt của người nước ngoài, nước Đức giống như một tổ ong. Guồng máy công nghiệp đang chạy hối hả và mọi người đều bận rộn như ong thợ .
Trong năm đầu, những chính sách kinh tế của Quốc xã đều do Tiến sĩ Schacht đề ra – bởi vì Hitler chán ngán với kinh tế học mà ông hầu như dốt đặc – chủ yếu nhằm tạo công ăn việc làm cho người thất nghiệp qua chương trình xây dựng công ích và khuyến khích doanh nghiệp tư nhân. Tín dụng Chính phủ được cung cấp qua trái phiếu thất nghiệp đặc biệt và miễn thuế rộng rãi để giúp trang trại tăng chi tiêu, đồng thời sử dụng thêm nhân công .
Nhưng sự hồi phục kinh tế của Đức chỉ thực sự bắt đầu là nhờ hoạt động tái vũ trang mà chế độ Quốc xã đã dồn mọi nỗ lực từ năm 1934. Cả nền kinh tế Đức được nói đến trong ngôn ngữ Quốc xã là Wehrwirtschaft (Kinh tế chiến tranh), được thiết kế để vận hành chẳng những trong thời chiến mà còn trong thời bình dẫn đến chiến tranh. Tướng Ludendorff, trong cuốn sách của mình mang tựa Der Totale Krieg (Chiến tranh tổng lực), nhấn mạnh sự cần thiết phải huy động nền kinh tế trên cơ sở chuyên chế nhằm chuẩn bị cho chiến tranh tổng lực. Đó không hẳn là điều mới mẻ đối với người Đức, bởi vì Phổ trong các thế kỷ XVIII và XIX đã dành ra khoảng 5/7 ngân sách của Chính phủ để dùng cho Quân đội, đồng thời toàn bộ nền kinh tế luôn được xem là công cụ phục vụ chính sách quân sự chứ không phải an sinh của dân tộc. Chế độ Quốc xã đã vận dụng nguyên tắc kinh tế chiến tranh cho thập kỷ thứ ba của thế kỷ XX. Thiếu tướng Georg Thomas, Phó Tham mưu Kinh tế Quân sự đã tóm tắt kết quả một cách chân thật: "Lịch sử sẽ chỉ biết một số ít trường hợp trong đó một quốc gia – ngay cả trong thời bình – có chủ ý và có hệ thống dồn toàn lực kinh tế cho những nhu cầu của chiến tranh, giống như nước Đức bắt buộc phải làm trong giai đoạn giữa hai Thế chiến" .
Dĩ nhiên là Đức không "bắt buộc" phải chuẩn bị cho mức độ chiến tranh đến thế – đó là quyết định có chủ ý của một mình Hitler. Trong Luật Quốc phòng bí mật ngày 21 tháng 5 năm 1935, ông bổ nhiệm Schacht làm Bộ trưởng Đặc mệnh Toàn quyền Kinh tế Chiến tranh, ra lệnh "bắt đầu công việc trong thời bình" và trao cho ông này quyền hạn để "chỉ đạo sự chuẩn bị kinh tế cho chiến tranh". Và vị Tiến sĩ Schacht độc nhất vô nhị cũng chẳng đợi đến tận mùa xuân 1935 để bắt đầu xây dựng nền kinh tế Đức phục vụ cho chiến tranh. Ngày 30 tháng 9 năm 1934, không đầy 2 tháng sau khi được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Kinh tế, ông nộp một báo cáo cho Hitler có tựa đề "Báo cáo Hiện trạng công việc Huy động Kinh tế-Chiến tranh tính đến 30 tháng 9 năm 1934", trong đó ông nhấn mạnh một cách hãnh diện rằng Bộ của ông "đã được giao nhiệm vụ chuẩn bị kinh tế cho chiến tranh". Ngày 3 tháng 5 năm 1943, bốn tuần trước khi được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Đặc mệnh Toàn quyền về Kinh tế Chiến tranh, ông nộp một bản ghi nhớ cá nhân cho Hitler, bắt đầu bằng "việc hoàn tất tái vũ trang với tốc độ và khối lượng mong muốn là vấn đề của nền chính trị Đức, vì thế mọi hoạt động khác phải tuỳ thuộc vào việc này" .
Schacht giải thích với Hitler là "vì cần nguỵ trang hoàn toàn việc tái vũ trang cho đến ngày 16 tháng 3 năm 1935 (khi Hitler tuyên bố động viên cho một quân đội gồm 36 sư đoàn), nên cần phải dùng máy in tiền" để chi trả cho giai đoạn đầu. Ông cũng vui mừng chỉ ra rằng số tiền tịch thu từ kẻ thù của Nhà nước (phần lớn là người Do Thái) và những người khác từ tài khoản nước ngoài bị phong toả giúp chi trả cho súng ống của Hitler. Ông pha trò: "Vì thế việc tái vũ trang của ta được chi trả một phần với tín dụng từ kẻ thù chính trị của ta" .
Dù trong Toà án Nuremberg, Schacht phản bác cáo buộc cho rằng mình đã tham gia trong âm mưu của Quốc xã để gây chiến, nhưng sự thật là không một người nào khác có trách nhiệm như Schacht trong việc chuẩn bị sức mạnh kinh tế cho Đức để tiến đến chiến tranh. Quân đội Đức toàn tâm công nhận điều này. Vào dịp sinh nhật lần thứ 60 của Schacht, một ấn phẩm của Quân đội ca ngợi Schacht là: "người đã giúp cho sự tái tạo dựng Quân đội được khả thi về mặt kinh tế... Lực lượng Quốc phòng hàm ơn năng lực lớn lao của Schacht đã vượt qua mọi khó khăn để tạo ra sức mạnh hiện tại từ cơ số 100.000 người" .
Schacht đã mang ra thi thố tất cả ngón nghề phù thuỷ về tài chính nhằm chuẩn bị cho Đế chế Thứ Ba sẵn sàng với chiến tranh. In thêm tiền chỉ là một trong những biện pháp ông thực hiện. Ông thao túng đồng tiền một cách khéo léo đến nỗi các nhà kinh tế nước ngoài có lúc ước lượng đồng mác có đến 237 giá trị khác nhau. Schacht đàm phán được nhiều cuộc trao đổi hiện vật có lợi cho Đức với hàng chục quốc gia, đồng thời chứng tỏ với các nhà kinh tế chính thống là càng mang nợ một quốc gia thì càng dễ làm ăn với quốc gia ấy. Việc ông tạo ra tín dụng trong một quốc gia thiếu vốn luân chuyển và hầu như không có dự trữ tài chính là do thiên tài hoặc – như một số người nói – là mánh lới bậc thầy. Ví dụ cụ thể là việc Ngân hàng Nhà nước phát hành tín phiếu "Mefo" được Nhà nước bảo lãnh và được dùng để chi trả cho các nhà sản xuất vũ khí. Vì tín phiếu này không xuất hiện trên báo cáo tài chính của Ngân hàng Nhà nước lẫn Ngân sách Nhà nước, nên chương trình tái vũ trang vẫn giữ được bí mật. Trong giai đoạn từ năm 1935 đến năm 1938, tín phiếu này được sử dụng riêng cho việc tái vũ trang và lên đến số tiền tổng cộng là 12 tỉ mác. Có một lần khi giải thích việc này với Hitler, Bộ trưởng Tài chính Bá tước Schwerin von Krosigk nói đây chỉ là một hình thức "in tiền" .
Tháng 9 năm 1936, Đức bắt đầu Kế hoạch Bốn năm và chuyển qua nền kinh tế chiến tranh toàn diện. Dù dốt nát về kinh tế ngang bằng Hitler, Goering vẫn thay thế Schacht để nắm quyền độc tài về kinh tế. Mục đích của kế hoạch là làm cho Đức được tự túc được trong vòng 4 năm, để không phải khốn đốn vì phong toả. Nhập khẩu phải giảm đến mức tối thiểu, vật giá và tiền lương cũng được kiểm soát nghiêm ngặt, cổ tức được giới hạn ở mức 6%, những nhà máy lớn được giao nhiệm vụ sản xuất cao su nhân tạo, hàng dệt may, nhiên liệu và những sản phẩm khác từ nguyên vật liệu sẵn có trong nước, nhà máy thép khổng lồ Hermann Goering thì phải sản xuất thép từ quặng sắt cấp thấp. Nói tóm lại, cả nền kinh tế Đức được huy động cho chiến tranh. Doanh nhân dù có thêm lợi nhuận nhưng chỉ là những đinh ốc trong cỗ máy chiến tranh, công việc của họ bị hạn chế đủ điều với nhiều loại giấy tờ phải khai báo. Tiến sĩ Funk, thay thế Schacht năm 1937 làm Bộ trưởng Kinh tế và năm 1939 làm Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, phải nhìn nhận rằng "mậu dịch xuất khẩu của Đức có 40.000 giao dịch mỗi ngày và mỗi giao dịch đòi hỏi điền vào 40 loại giấy tờ khác nhau" .
Ban đầu, giới doanh nhân hoan nghênh chế độ Hitler vì họ thấy nghiệp đoàn bị giải tán, mà điều này thì có nghĩa là họ sẽ được tự do tha hồ kiếm lợi nhuận. Thế nhưng bây giờ, họ lại bị chìm ngập dưới núi giấy tờ quan liêu, bị Nhà nước chỉ đạo phải sản xuất món gì, trĩu nặng thêm vì thuế cùng những khoản "đóng góp đặc biệt" cho Đảng, họ cảm thấy hoàn toàn vỡ mộng. Một trong số họ là Fritz Thyssen, thuộc hàng đóng góp sớm nhất và nhiều nhất cho Đảng. Trốn chạy khỏi Đức vào lúc chiến tranh bùng nổ, ông nhận ra rằng "chế độ Quốc xã đã phá huỷ nền công nghiệp Đức". Và với mọi người ông gặp, ông đều tuyên bố: "Tôi đúng là một thằng khờ!" .
Giới công nghiệp và tài chính cũng vỡ lẽ rằng Hitler không hề có ý định thực hiện một mục nào trong cương lĩnh của Đảng – thứ bao gồm những lời hứa hẹn cấp tiến được ném ra chỉ nhằm thu phiếu của cử tri. Trong vài tháng đầu năm 1933, một số thành phần cực đoan của Đảng cố chiếm quyền kiểm soát của các hội đoàn kinh doanh, tiếp nhận các trung tâm bách hoá và thiết lập chế độ quốc doanh tương tự như Mussolini đang thực hiện. Nhưng Hitler nhanh chóng ném họ ra ngoài rồi thay thế bằng các doanh nhân bảo thủ. Gottfried Feder – quân sư trước đây của Hitler về kinh tế, người muốn bãi bỏ "chế độ nô lệ lãi suất" – được bổ nhiệm Thứ trưởng Kinh tế, nhưng thủ trưởng của ông – Tiến sĩ Karl Schmitt, trùm tư bản về bảo hiểm chuyên cho vay tiền và thu lãi suất, lại không giao cho Feder việc gì, rồi khi Schacht tiếp nhiệm bộ thì Feder bị cho ra rìa luôn .
Những người làm chủ doanh nghiệp nhỏ – một trong những tầng lớp ủng hộ Đảng quan trọng nhất và trông mong nhiều điều ở Adolf Hitler nhất – chẳng bao lâu đã bị huỷ hoại hoặc bị hạ xuống giai cấp làm công ăn lương. Các luật ban hành tháng 10 năm 1937 giải tán mọi doanh nghiệp có số vốn dưới 40.000 USD và cấm mở doanh nghiệp mới có số vốn dưới 200.000 USD. Việc này quét sạch 1/5 các doanh nghiệp nhỏ. Mặt khác, những tập đoàn công ty, vốn đã được nền Cộng hoà ưu ái, bây giờ lại được Quốc xã củng cố thêm. Bộ Kinh tế có chức năng tổ chức những tập đoàn mới hoặc ra lệnh công ty nhỏ gia nhập vào tập đoàn hiện hữu. Theo một luật ban hành ngày 15 tháng 7 năm 1933, thì điều này là bắt buộc .
Những hội đoàn doanh nghiệp từ thời Cộng hoà được phép tồn tại, nhưng họ phải tổ chức lại dưới sự kiểm soát của Nhà nước. Mọi doanh nghiệp đều phải là thành viên. Đứng đầu cơ cấu cực kỳ phức tạp này là Phòng Kinh tế Đế chế, có chủ tịch do Nhà nước bổ nhiệm, kiểm soát 7 nhóm kinh tế quốc gia, 23 phòng kinh tế, 100 phòng công nghiệp và thương mại và 70 phòng tiểu thủ công nghiệp. Ngay cả một doanh nhân sắc sảo nhất vẫn bị rối trí trong mê hồn trận của cơ cấu tổ chức, vô số ban ngành của Bộ Kinh tế và Kế hoạch Bốn năm cùng hàng nghìn loại luật và nghị định. Doanh nghiệp phải thuê luật gia chuyên ngành thì mới mong trụ vững. Để tìm ra quan chức nào có thể ra quyết định nào tuỳ theo lệnh của ai hoặc để biết cách lách qua vô số quy định thì cần phải chi những khoản tiền lớn. Một doanh nhân đã nói với tác giả: "Đó là sự cần thiết về mặt kinh tế" .
Tuy nhiên, dù cho việc làm ăn bị phiền hà, các doanh nhân vẫn có lợi nhuận khá. Các ngành công nghiệp nặng được hưởng lợi nhiều nhất từ chương trình tái vũ trang. Dù cho cổ tức bị hạn chế ở mức 6%, các công ty cũng không gặp khó khăn. Thậm chí là còn ngược lại. Trên lý thuyết, luật quy định là phải tái đầu tư khoản lợi nhuận vượt quá hạn chế vào trái phiếu Chính phủ và điều này lại không có ý nghĩa là tịch thu. Thật ra, các công ty đều tái đầu tư khoản lợi nhuận vượt quá hạn chế vào việc sản xuất. Vào năm 1938, khoản này lên đến 5 tỉ mác, so với 2 tỉ mác tổng số tiền tiết kiệm gửi trong các ngân hàng tiết kiệm. Ngoài lợi nhuận thoải mái, giới công nghiệp còn được vui vì công nhân không thể đòi hỏi đồng lương quá đáng. Thật ra, lương của công nhân có phần sụt giảm so với 25% gia tăng về giá cả. Nhất là không có đình công, vì đình công là điều bị Đế chế Thứ Ba nghiêm cấm .
CÔNG NHÂN DƯỚI CHẾ ĐỘ NÔ LỆ Không được tổ chức nghiệp đoàn, không được thương thảo tập thể và không có quyền đình công, công nhân trong Đế chế Thứ Ba trở thành một thứ nô lệ công nghiệp, bị trói buộc vào người chủ doanh nghiệp giống như nông nô thời Trung cổ bị trói buộc vào địa chủ. Cái gọi là Mặt trận Lao động Đức, trên lý thuyết thay thế những nghiệp đoàn cũ, lại không phải là đại diện cho công nhân. Mặt trận này quy tụ những người làm công ăn lương lẫn chủ nhân và thành viên của các ngành nghề. Trên thực tế đó là một cơ quan tuyên truyền rộng lớn và như một số công nhân nói, là một trò đại lường gạt. Như luật quy định, mục đích của Mặt trận không phải là bảo vệ công nhân, mà để "thành lập một cộng đồng có tính chất xã hội thật sự và có năng suất cao của mọi người dân Đức... để thực hiện công việc một cách tối đa". Cũng như mọi nhóm khác ngoại trừ Quân đội, Mặt trận Lao động Đức là một phần của Đảng Quốc xã, hoặc đúng hơn, là một công cụ của Đảng. Thật vậy: luật quy định là nhà lãnh đạo của Mặt trận phải là người của Đảng Quốc xã, nghiệp đoàn cũ của Quốc xã, lực lượng S.A. hoặc S.S. .
Trước đó, Luật Điều hành Công nhân Quốc gia ngày 20 tháng 1 năm 1934, được biết đến như là "Hiến chương Lao động", quy định chủ nhân là "lãnh đạo của doanh nghiệp" và công nhân là người "chấp hành". Chủ nhân có quyền quyết định mọi việc liên quan đến doanh nghiệp. Trong thời xa xưa, lãnh chúa chịu trách nhiệm về đời sống của nông nô trong lãnh địa của mình. Bây giờ, dưới thời Quốc xã cũng thế: chủ nhân "chịu trách nhiệm về đời sống của nhân viên và công nhân". Đổi lại, luật quy định là "nhân viên và công nhân có nhiệm vụ trung thành" – tức là họ phải làm việc nặng nhọc, không được than phiền ngay cả về tiền lương .
"Nhân viên uỷ thác", do Mặt trận Lao động Đức bổ nhiệm, ấn định tiền lương của công nhân. Trên thực tế, họ định mức lương theo ý kiến của giới chủ và luật thì không cho phép công nhân quyền được tham khảo. Chỉ đến năm 1936, khi công nghiệp tái vũ trang thiếu công nhân và một số người chủ tăng mức lương để thu hút thêm người, Nhà nước đã phải ra lệnh giữ đồng lương ở mức thấp, Hitler tỏ ra thẳng thắn trong việc giữ cho đồng lương thấp .
"Một nguyên tắc sắt đá của cấp lãnh đạo Quốc gia Xã hội Chủ nghĩa là không cho phép tăng lương, nhưng cho phép có thêm thu nhập qua việc tăng năng suất" .
Trong một nền kinh tế mà phần lớn đồng lương được dựa trên công việc đơn lẻ, điều này có nghĩa là công nhân chỉ có thể mong có thêm thu nhập bằng cách làm việc nhanh hơn hoặc làm thêm giờ .
So với Hoa Kỳ và sau khi trừ ra khác biệt về giá sinh hoạt và dịch vụ xã hội, mức lương ở Đức luôn luôn thấp hơn. Dưới thời Quốc xã, mức lương thậm chí còn thấp hơn trước .
Dù hàng triệu người có việc làm, nhưng phần đóng góp của công nhân Đức vào tổng thu nhập quốc dân giảm từ 56,9% trong năm suy thoái kinh tế 1932 xuống còn 53,6% trong năm phồn thịnh 1938. Trong cùng thời gian, thu nhập từ giới tài chính và doanh nghiệp tăng từ 17,4% của tổng thu nhập quốc dân lên 26,6%. Đúng là nhờ ít thất nghiệp, tổng thu nhập của giới làm công ăn lương có tăng 66%, nhưng thu nhập từ giới tài chính và doanh nghiệp còn tăng nhanh hơn: 146%. Cả hệ thống tuyên truyền của Đế chế Thứ Ba từ Hitler trở xuống đều huênh hoang với công chúng rằng họ chống lại giới tiểu tư sản và tư bản, tuyên bố đoàn kết với công nhân. Nhưng nếu tỉnh táo nghiên cứu số liệu thống kê chính thức – mà có lẽ ít người Đức màng đến – ta sẽ thấy rằng giới tư bản thường bị Quốc xã lên án lại hưởng lợi nhiều nhất từ những chính sách của Quốc xã .
Ngoài các khoản thuế bảo hiểm y tế, thất nghiệp và tật nguyền, tiền hội viên của Mặt trận Lao động Đức, giống như những người khác dưới chế độc Quốc xã, công nhân còn chịu áp lực phải đóng càng ngày càng nhiều cho các loại quỹ từ thiện, chủ yếu là quỹ Winterhilfe (Từ thiện Mùa đông). Nhiều công nhân bị sa thải vì không chịu đóng tiền cho Từ thiện Mùa đông hoặc đóng quá ít. Toà án lao động ủng hộ việc sa thải mà không báo trước, phán quyết tội này là "có thái độ thù địch với cộng đồng nhân dân... cần phải lên án mạnh mẽ nhất". Vào giữa những năm 1930, ước tính các khoản thuế và đóng góp chiếm từ 15 đến 35% tiền lương của công nhân. Số tiền còn lại là không nhiều để dành cho các nhu cầu nhà ở, thực phẩm, quần áo và giải trí .
Giống như nông nô thời Trung cổ, công nhân dưới chế độ Đức Quốc xã bị trói chặt vào nơi làm việc, tuy ở đây không phải chủ nhân trói họ, mà là chính Nhà nước. Chúng ta đã thấy nông dân dưới chế độ Đức Quốc xã bị Luật Trang trại Thừa kế trói chặt vào nông trại như thế nào. Nhưng phải nói rằng đây là một luật của Quốc xã không được tôn trọng: trong giai đoạn từ năm 1933 đến năm 1939 có trên 1 triệu công nhân trang trại bỏ đi tìm việc ở các nhà máy hoặc công ty. Nhưng đối với công nhân nhà máy thì luật lại được áp dụng chặt chẽ hơn. Nhiều Nghị định hạn chế một cách ngặt nghèo việc công nhân thay đổi chỗ làm. Sau tháng 6 năm 1935, Nhà nước có toàn quyền chỉ định thu dụng ai cho công việc gì và ở nơi nào .
Tháng 2 năm 1935, mỗi công nhân được phát một "sổ công tác" ghi quá trình công tác và kỹ năng. Sổ công tác vừa cung cấp dữ liệu cho Nhà nước và người chủ doanh nghiệp về mọi công nhân trong quốc gia, nhưng cũng được sử dụng để trói chặt công nhân vào chỗ làm của họ. Công nhân không được tuyển dụng nếu không có sổ này. Vì thế họ không thể bỏ đi nơi khác tuỳ thích vì chủ nhân có thể giữ lại sổ công tác. Sau cùng, một Nghị định đặc biệt ban hành ngày 22 tháng 6 năm 1938 đòi hỏi mọi công dân Đức phải làm việc tại nơi mà Nhà nước điều động họ đến. Công nhân vắng mặt không có lý do chính đáng sẽ bị phạt tiền và tù. Dĩ nhiên là cũng có mặt trái của đồng tiền. Chủ nhân không thể sa thải công nhân được điều động như thế nếu không xin phép Nhà nước. Vì thế, công nhân được an tâm về công ăn việc làm – một điều tốt đẹp hiếm hoi dưới chế độ Cộng hoà .
Giống như giới công nhân không có tài sản dưới thời La Mã, công nhân Đức phải làm việc nặng nhọc với đồng lương vừa đủ sống cần được chủ nhân cho phương tiện giải trí để họ quên đi cuộc sống khổ sở. Tiến sĩ Ley có lần giải thích: "Chúng ta phải chuyển hướng chú ý của quần chúng từ vật chất qua tinh thần .
Chăm lo cho linh hồn của họ quan trọng hơn là cho dạ dày" .
Thế là, ông lập ra một tổ chức gọi là Kraft durch Freude (Sức mạnh qua Vui chơi), nhằm cung cấp thú vui kiểu rập khuôn ở mức cho phép. Dưới chế độ chuyên chế của thế kỷ XX, họ thấy cần phải kiểm soát cả giờ làm việc lẫn giờ giải trí của cá nhân. Trước thời Quốc xã, có hàng nghìn câu lạc bộ hoạt động trong nhiều lĩnh vực từ cờ vua, bóng đá và xem chim cảnh. Dưới chế độ Quốc xã, chỉ có tổ chức Sức mạnh qua Vui chơi là còn được phép hoạt động .
Đối với người Đức trung lưu, tổ chức này còn tốt hơn là chẳng có gì. Họ có những ngày nghỉ lễ với giá rất rẻ. Tiến sĩ Ley cho đóng 2 tàu trọng tải 25.000 tấn, một tàu mang tên chính mình và thuê thêm 10 tàu khác để thực hiện những chuyến du hành theo đường biển. Nhà nước thu hồi các bãi biển và bãi cát dọc bờ hồ để tiếp đón giới công nhân đến nghỉ mát trong mùa hè, đồng thời tổ chức những chuyến đi trượt tuyết trên miền núi Alps ở Bavaria trọn gói bao gồm xe di chuyển, khách sạn, đồ trượt tuyết cho thuê và lớp dạy trượt tuyết .
Tổ chức Sức mạnh qua Vui chơi cũng có những hoạt động thể thao, với trên 7 triệu lượt người tham dự mỗi năm. Tổ chức cũng dành một số vé với giá thấp hơn để xem kịch nghệ và hoà nhạc. Tổ chức cũng có riêng một dàn nhạc giao hưởng gồm 90 nhạc công đi trình diễn khắp nơi, thường là ở vùng sâu vùng xa khó tiếp cận với âm nhạc. Sau cùng, tổ chức Sức mạnh qua Vui chơi cũng thu hồi khoảng 200 cơ sở giáo dục thường xuyên và tiếp tục điều hành với thêm ý thức hệ pha trộn vào chương trình học .
Dĩ nhiên là rốt cuộc, công nhân vẫn phải trả tiền cho các trò vui chơi này. Tiền hội viên thu từ công nhân là 160 triệu USD vào năm 1937 và hơn 200 triệu USD vào năm 1939. Từ số tiền này, 10% được dành cho tổ chức Sức mạnh qua Vui chơi. Nhưng cho dù giá du lịch và giải trí có hạ, công nhân vẫn phải trả 1,25 tỉ USD cho chúng. Và đó lại thêm một khoản chi phí nặng nề khác cho công nhân. Mặt trận Lao động Đức phình to để quản lý 25 triệu thành viên với hàng chục nghìn nhân viên làm việc toàn thời gian. Khoảng từ 20% đến 25% tiền thu phí được dùng cho các mục đích hành chính .
Có một trò bịp bợm của Hitler đối với công nhân Đức mà chúng ta cần phải nhắc qua. Đó là chiếc xe Volkswagen (Xe của Nhân dân) – là ý tưởng của chính Lãnh tụ. Hitler nói mỗi người Đức, hoặc ít nhất mỗi công nhân Đức, phải làm chủ một chiếc ô tô, giống như ở Mỹ. Cho đến lúc này, tỷ lệ là 1 ô tô trên 50 người Đức (so với 1 ô tô trên 5 người Mỹ). Chính vào thời điểm đó, Hitler đã ra lệnh là phải chế tạo một kiểu ô tô với giá chỉ 990 mác Đức – tức là 396 USD theo hối suất chính thức .
Vì lẽ lĩnh vực tư không thể sản xuất ô tô với giá 396 USD, nên Hitler đã giao cho Mặt trận Lao động Đức để thực hiện dự án này. Vào năm 1938, Mặt trận lập tức xây dựng "nhà máy ô tô lớn nhất thế giới" với công suất 1 triệu rưỡi chiếc xe mỗi năm – "cao hơn cả Ford", theo tuyên truyền của Quốc xã. Mặt trận Lao động Đức ứng trước 50 triệu mác. Công nhân phải trả trước mỗi tuần 5 mác, hoặc nếu có khả năng, mỗi tuần 10 đến 15 mác. Khi trả được 750 mác, công nhân được phát một số thứ tự để theo đấy được nhận xe. Hỡi ôi cho công nhân, không có một chiếc xe nào được xuất xưởng! Công nhân chi hàng chục triệu mác mà chẳng được bồi hoàn một xu nào. Khi chiến tranh bùng nổ, nhà máy Volkswagen chuyển qua sản xuất loại sản phẩm hữu ích cho Quân đội hơn .
Dù bị bịp trong vụ này và nhiều vụ khác cho đến mức trở thành nô lệ công nghiệp, công nhân Đức – phải công bằng mà nói – lại không tỏ vẻ bất mãn về vị trí thấp kém của mình trong Đế chế Thứ Ba. Cuộc sống của họ bị đưa vào khuôn phép, đôi lúc bị khủng bố, nhưng người dân Đức thời trước cũng thế – bao thế kỷ đã được đưa vào khuôn phép, được bảo làm gì phải làm nấy, giống như mọi người Đức khác. Có lẽ vơ đũa cả nắm thì không hay, nhưng tác giả cuốn sách này có cảm tưởng về những người làm công ở Berlin và trong vùng Ruhr là dù cho họ tỏ ý nghi ngờ những lời hứa hẹn của chế độ, thì họ cũng không muốn phản kháng. Không được tổ chức và thiếu người lãnh đạo, họ có thể làm được gì? Công nhân thường hỏi bạn như thế .
Nhưng có một điều chắc chắn là: lý do chính yếu mà họ chấp nhận vị thế yếu kém trong Đế chế Thứ Ba là vì họ có công ăn việc làm trở lại và được đảm bảo không bị thất nghiệp nữa. Nếu đã biết về tình trạng chông chênh của giới công nhân dưới thời Cộng hoà, ta có thể hiểu tại sao họ không lo lắng vì bị mất tự do cá nhân và ngay cả mất nghiệp đoàn miễn là họ có công ăn việc làm ổn định. Trong quá khứ, đối với nhiều người, đối với 6 triệu người và gia đình của họ, quyền tự do chết đói đã che lấp quyền tự do cá nhân. Khi lấy đi tự do cuối cùng, Hitler đảm bảo được giai cấp công nhân ủng hộ – có lẽ là những công nhân có tay nghề cao nhất, siêng năng nhất và có kỷ luật nhất trong thế giới phương Tây. Sự ủng hộ ấy chẳng phải là do chủ thuyết nửa vời hoặc ý đồ thâm độc, mà do yếu tố quan trọng nhất đối với công nhân: việc sản xuất khí tài cho chiến tranh .
CÔNG LÝ TRONG ĐẾ CHẾ THỨ BA Trong những tuần lễ đầu của năm 1933, khi những vụ bắt bớ, đánh đập và thủ tiêu hàng loạt bắt đầu, nước Đức dưới chế độ Quốc xã chẳng còn là xã hội dựa trên luật pháp. Ánh sáng công lý nêu rõ: "Hitler chính là luật!" Goering khẳng định điều này khi ông nói với các công tố viên Phổ ngày 12 tháng 7 năm 1934 rằng "luật và ý muốn của Lãnh tụ là một". Luật là những điều mà nhà độc tài thốt lên. Như ta đã biết, sau vụ thanh trừng đẫm máu, Hitler tuyên bố trước Nghị viện rằng ông chính là "Chánh án tối cao" của dân tộc Đức, với quyền hạn bắt ai chết thì người đó phải chết .
Dưới thời Cộng hoà, phần lớn thẩm phán có ác cảm với chế độ. Những phán quyết của họ vì thế đã viết nên những trang sử đen tối cho Cộng hoà Đức và góp phần khiến cho chế độ sụp đổ. Nhưng ít nhất dưới thời Cộng hoà, thẩm phán được độc lập, chỉ nhận trách nhiệm trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ. Phần lớn thẩm phán có cảm tình với Quốc xã, nhưng vẫn bất ngờ trước cách đối xử của Quốc xã lúc Đảng lên nắm quyền. Luật Hành chính công ngày 7 tháng 4 năm 1933 loại ra khỏi ngành tư pháp người Do Thái và cả những người mà Quốc xã thấy không phù hợp. Những thẩm phán còn lại được chỉ rõ nhiệm vụ của họ nằm ở đâu. Để đảm bảo mọi người thấu hiểu, năm 1936, Tiến sĩ Hans Frank, uỷ viên Tư pháp và Lãnh đạo Luật Đế chế đã nói với các bồi thẩm: "Chủ thuyết Quốc gia Xã hội Chủ nghĩa là nền tảng cho mọi luật cơ bản, như đã giải thích trong cương lĩnh Đảng và trong các bài diễn văn của Lãnh tụ." Tiến sĩ Frank giải thích thêm: "Không có độc lập về pháp luật chống lại Quốc xã. Hãy tự trả lời đối với mọi quyết định của bạn: "Trên cương vị của tôi thì Lãnh tụ sẽ quyết định như thế nào?" Hãy tự hỏi: "Liệu quyết định này có phù hợp với lương tâm Quốc xã của dân tộc Đức hay không?" Thế là bạn sẽ có cơ sở vững chắc, đi đôi với Nhà nước Nhân dân Quốc xã và với nhận thức về bản chất vĩnh cửu trong ý chí của Adolf Hitler, những điều đó sẽ cho bạn phạm trù quyết định với thẩm quyền của Đế chế Thứ Ba trong mọi thời khoảng" .
Luật mới về Hành chính Công ngày 26 tháng 1 năm 1937 cho phép bãi nhiệm mọi công chức, kể cả thẩm phán, vì lý do "không đáng tin cậy về chính trị". Hơn nữa, tất cả bồi thẩm đoàn đều bị bắt buộc phải gia nhập Liên đoàn Bồi thẩm Quốc xã Đức, nơi họ thường nghe giảng về các phát biểu của Frank .
Tuy thế, vài thẩm phán, dù chống Cộng hoà, vẫn không đi theo đường lối của Đảng. Một số dựa trên những phán xét của luật. Ví dụ tệ hại nhất, theo quan điểm của Quốc xã, chính là phán quyết của Toà án Tối cao tha bổng ba bị cáo Cộng sản trong vụ đốt toà nhà Nghị viện vì thiếu chứng cứ. Việc này khiến cho Hitler và Goering giận dữ đến nỗi trong vòng 1 tháng, ngày 24 tháng 4 năm 1934, quyền xét xử tội phản quốc đã được giao cho Toà án Nhân dân. Chẳng bao lâu, đây là loại toà án gây kinh hoàng nhất trên đất nước. Hội đồng xét xử của Toà án Nhân dân gồm có 2 thẩm phán chuyên nghiệp và 5 người khác được chọn từ Đảng viên Quốc xã, lực lượng S.S. và Quân đội, vì thế thẩm phán chuyên nghiệp thuộc phía thiểu số. Phán quyết của toà án này là bất khả kháng cáo và các phiên xử thường là xử kín. Tuy nhiên, đôi lúc để phục vụ mục đích tuyên truyền khi sẽ tuyên bản án nhẹ, nhà báo nước ngoài cũng được mời làm dự khán .
Chính vì lẽ đó, tác giả đã có cơ hội quan sát một vụ án được xử trước Toà án Nhân dân vào năm 1935. Tác giả có ấn tượng mạnh rằng đó là một thứ toà án quân sự dã chiến hơn là toà dân sự. Quá trình xét xử kéo dài chỉ trong 1 ngày, không có cơ hội để đưa ra người làm chứng phía bị cáo (trong trường hợp có người dám làm chứng biện hộ cho bị cáo khỏi tội "phản quốc"). Còn lý lẽ của luật sư biện hộ, là Đảng viên Quốc xã, thì yếu ớt đến độ khó tin. Bởi vì báo chí vốn chỉ đăng tải phần phán quyết, nên người ta có cảm tưởng phần lớn các bị cáo đều nhận bản án tử hình (nhưng không phải là phiên toà tôi tham dự), tuy nhiên cũng không có con số chính thức nào được đưa ra .
Trước khi có Toà án Nhân dân, Toà án Đặc biệt nhận trách nhiệm xét xử các tội phạm chính trị. Hội đồng xét xử của Toà án Đặc biệt gồm có 3 thẩm phán, đều là người thân tín của Đảng và không có bồi thẩm đoàn. Công tố viên Quốc xã có quyền đưa vụ việc ra xét xử trước Toà án thông thường hoặc Toà án Đặc biệt, nhưng thường là họ chọn Toà án Đặc biệt, vì lý do hiển nhiên: họ có thể gây ảnh hưởng lên Toà án Đặc biệt để có thể điều chỉnh phán quyết theo ý mình. Giống như ở Toà án Nhân dân, luật sư biện hộ ở Toà án Đặc biệt phải được Quốc xã chấp thuận. Đôi lúc, cho dù được chấp thuận, họ vẫn không thể làm cho Quốc xã hài lòng. Vì thế khi bà quả phụ của Tiến sĩ Klausener, bị sát hại trong vụ thanh trừng đẫm máu, khởi kiện Nhà nước, các luật sư chuẩn bị làm đại diện cho bà đều bị nhốt vào trại tập trung cho đến khi họ chính thức xin rút lui khỏi vụ án .
Hitler và đôi khi cả Goering, đều có quyền huỷ bỏ phiên xử. Trong số các hồ sơ được đưa ra ở Nuremberg, có trường hợp Bộ trưởng Tư pháp đề nghị cương quyết khởi tố một nhân viên Mật vụ cấp cao và một nhóm binh sĩ S.A. vì có chứng cứ rõ ràng là họ phạm tội tra tấn người bị giam trong trại tập trung. Lãnh tụ đã ra lệnh huỷ bỏ việc khởi tố. Lúc đầu, Goering cũng có quyền hành như thế. Một lần, vào tháng 4 năm 1934, Goering cho dừng phiên toà xử một doanh nhân nổi tiếng. Chẳng bao lâu sau, người ta được biết bị cáo đã chi cho Goering 4 triệu mác Đức. Gerhard F. Kramer, một luật sư có tiếng tăm vào lúc ấy ở Berlin, nhận xét: "Không thể nào xác định Goering tống tiền nhà công nghiệp hay nhà công nghiệp đút lót Thủ tướng Phổ". Điều duy nhất xác định được là Goering đã ra lệnh bãi bỏ phiên toà .
Mặt khác, Rudolf Hess, cánh tay phải của Lãnh tụ, được giao quyền "hành động không khoan nhượng" đối với những bị cáo mà theo ông là đã lãnh án quá nhẹ. Biên bản moi lại các bản án của những người đã bị kết tội chống đối Đảng, lãnh đạo hoặc Nhà nước đều được gửi đến Hess để xem xét. Và những "hành động không khoan nhượng" thường là tống nạn nhân vào trại tập trung hoặc mang đi hành quyết .
Phải nói rằng có đôi lúc thẩm phán cũng thể hiện tinh thần độc lập và gắn bó với pháp luật. Trong những trường hợp như thế, hoặc là Hess hoặc là Mật vụ sẽ can thiệp vào. Vì vậy, như ta đã thấy, sau khi nhận được bản án nhẹ của Toà án Đặc biệt, Mục sư Niemoeller bị Mật vụ bắt giữ ngay lúc ông bước ra khỏi toà án và đưa ông vào trại tập trung .
Mật vụ (tức Gestapo), giống như Hitler, cũng là luật. Tổ chức này khởi đầu được Goering thành lập cho bang Phổ, đây chính là công cụ mà ông ta sử dụng để giam cầm và sát hại những đối thủ của chế độ. Đến tháng 4 năm 1934, khi Goering bổ nhiệm Himmler làm Chỉ huy phó Mật vụ Phổ thì lực lượng này bắt đầu mở rộng thành một nhánh của S.S.. Dưới quyền điều hành của chỉ huy mới – con người trông mềm mỏng nhưng độc ác – và của con người tàn nhẫn Reinhard Heydrich đứng đầu Sở An ninh (Sicherheitsdienst hoặc S.D.), Gestapo trở thành lực lượng có quyền sinh sát đối với mọi người Đức .
Dưới sức ép của Quốc xã, Toà án Hành chính Tối cao của Phổ ra phán quyết là những mệnh lệnh và hành động của Gestapo không thuộc thẩm quyền xét xử của ngành tư pháp. Như Tiến sĩ Werner Best, cánh tay phải của Himmler ở Gestapo, giải thích: "Khi cảnh sát thi hành ý muốn của giới lãnh đạo, tức là họ hành động theo luật" .
Tấm màn "hành động theo luật" được phủ lên những vụ bắt bớ và giam cầm nạn nhân trong trại tập trung. Thuật ngữ này thường được sử dụng là "canh giữ bảo vệ" và biện pháp ấy cũng được thi hành thay cho những điều khoản bảo đảm quyền tự do con người của Hiến pháp. Nhưng canh giữ bảo vệ ở Đức không nhằm bảo vệ con người khỏi hiểm nguy như ở các nước văn minh hơn, mà là một hình thức trừng phạt bằng cách giữ nạn nhân trong vòng rào kẽm gai .
Những trại tập trung mọc lên như nấm trong vòng năm đầu sau khi Hitler lên nắm quyền. Đến cuối năm 1933, có khoảng 50 trại, chủ yếu do lực lượng S.A. lập nên để đánh đập nạn nhân một trận rồi tống tiền gia đình hoặc bạn bè của họ. Đó căn bản chính là hình thức bắt cóc rồi đòi tiền chuộc. Tuy nhiên, đôi lúc nạn nhân cũng bị sát hại, thường do tính bạo dâm hoặc do hung ác. Trong Toà án Nuremberg, bốn vụ như thế được đưa ra ánh sáng, xảy ra vào mùa xuân năm 1933 ở trại tập trung Dachau gần Munich của S.S.. Trong mỗi trường hợp, nạn nhân đều bị sát hại một cách dã man .
Vì lẽ sau vụ thanh trừng đẫm máu vào tháng 6 năm 1934 thì cũng không còn có sự chống đối Quốc xã nữa, nhiều người Đức hy vọng những vụ bắt bớ để "canh giữ bảo vệ" và trại tập trung cũng sẽ biến mất. Trước ngày Giáng sinh 1933, Hitler tuyên bố lệnh ân xá cho 27.000 tù nhân trong các trại tập trung, nhưng Goering và Himmler nghĩ ra cách né tránh lệnh này, nên chỉ có vài người được trả tự do. Rồi Bộ trưởng Nội vụ Frick cố giảm thiểu sự lạm quyền bằng cách bí mật ra lệnh hạn chế "canh giữ bảo vệ" và trại tập trung, nhưng Himmler thuyết phục ông nên bỏ ý tưởng ấy đi. Nhà lãnh đạo S.S. thấy rõ hơn vị Bộ trưởng: mục đích của trại tập trung là chẳng những nhằm trừng phạt kẻ thù của chế độ, mà còn là nhằm mục đích răn đe và khủng bố tinh thần dân Đức, để họ không phạm thêm hành động chống đối mới .
Sau khi Roehm bị thanh trừng, Hitler đã giao các trại tập trung cho lực lượng S.S, và họ nhanh chóng tổ chức lại với hiệu năng và tính tàn bạo cố hữu của mình. Nhân viên canh gác được giao cho các đơn vị gọi là Totenkopfverbaende (Đầu Tử thần), được chọn ra từ những thành phần Quốc xã cứng rắn nhất, mang huy hiệu đầu lâu và xương chéo trên bộ đồng phục đen. Chỉ huy đội Đầu Tử thần đầu tiên và chỉ huy đầu tiên của trại tập trung Dachau là Theodor Eicke, cũng phụ trách tất cả các trại tập trung khác. Trại nhỏ được dẹp bỏ, trại lớn hơn được xây lên. Các trại chủ chốt là Dachau (gần Munich), Buchenwald (gần Weimar), Sachsenhausen (thay thế trại Oranienburg gần Berlin), Ravensbrueck (ở Mecklenburg, cho phụ nữ) và, sau khi chiếm đóng Áo năm 1938, thì có thêm Mauthausen (gần Linz) – những cái tên cùng với Auschwitz, Belsec và Treblinka sau này trở nên quá quen thuộc với phần lớn thế giới .
Trong các trại tập trung ấy, hàng triệu người bị sát hại và hàng triệu người khác bị hành hạ và tra tấn với mức độ ít người mường tượng được. Nhưng lúc đầu, những năm 1930, số nạn nhân trong các trại tập trung của Quốc xã ở Đức có lẽ là không khi nào quá 30 ngàn cùng với những hành động tàn bạo chưa được biết đến. Các trại diệt chủng, lao động nô lệ hay "nghiên cứu y khoa" đều là sau chiến tranh mới có .
Nhưng các trại lúc ban đầu vẫn không có tính nhân văn. Tôi có được một bản điều lệ của trại Dachau do Chỉ huy trại Theodor Eicke soạn ra ngày 1 tháng 11 năm 1933: Điều 11. Người phạm những tội sau đây... sẽ bị treo cổ: phát biểu và tụ tập chống đối, tạo bè Đảng, rình rập người khác, tuyên truyền cho phe đối lập, cung cấp thông tin đúng hoặc sai về trại tập trung, nhận, chôn giấu hoặc nói với người khác về thông tin đó hoặc đưa những thông tin ấy ra khỏi trại cho người nước ngoài, v.v. .
Điều 12. Người phạm những tội sau đây... sẽ bị bắn ngay lập tức hoặc bị treo cổ sau đó: tấn công một nhân viên bảo vệ hoặc S.S., không tuân lệnh... hoặc xô xát, lớn tiếng, phát biểu trong khi diễu hành hoặc làm việc .
Liên kết với Mật vụ, Sở An ninh được thành lập (Sicherheitsdienst hoặc S.D.), tạo thêm một cái tên gọi tắt gây kinh hoàng cho mọi người Đức, rồi sau này là cho dân cư các vùng bị chiếm đóng. Khởi đầu do Himmler thành lập năm 1932 như là một bộ phận tình báo của S.S. và do Reinhard Heydrich được Himmler bổ nhiệm làm chỉ huy trưởng, chức năng của S.D. là rình rập Đảng viên và báo cáo các hành động khả nghi. Năm 1938, một luật mới được ban hành và giao nhiệm vụ cho S.D. bao trùm cả Đế chế .
Dưới bàn tay lão luyện của Heydrich, cựu sĩ quan quân báo trong Hải quân, chẳng bao lâu S.D. giăng lưới hoạt động toàn quốc, sử dụng 100.000 người làm mật báo viên bán thời gian. Những người này được nhận chỉ thị theo dõi dân chúng và báo cáo bất cứ biểu hiện lớn nhỏ nào cho thấy sự chống đối chế độ. Không một ai – nếu không phải là điên rồ – nói và làm điều gì để có thể bị ghép tội "chống Quốc xã" mà không kiểm tra trước liệu lời nói có bị thu âm lén hoặc bị nghe trộm hay không. Người dân không thể biết được liệu con trai, người cha, người vợ, anh em họ, bạn thân, người chủ hoặc thư ký liệu có phải là mật báo viên cho S.D. hay không, mà tốt hơn là chẳng nên tin ai cả .
Trong những năm 1930, nhân viên mật thám làm việc toàn thời gian cho S.D. có lẽ không bao giờ quá 3.000 người. Phần lớn bọn họ đều được tuyển dụng từ giới trí thức không thể tìm được việc làm thích hợp hoặc không có chỗ ổn định trong xã hội bình thường. Vì thế giữa những điệp viên chuyên nghiệp này luôn luôn có bầu không khí thông thái rởm. Tuy thế, người nước ngoài khó mà tiếp xúc được với họ, dù Heydrich cũng thỉnh thoảng xuất hiện trong một hộp đêm ở Berlin .
Một trong những nhiệm vụ của S.D. chính là tìm xem ai đã bỏ phiếu chống lại ý muốn của Hitler trong những cuộc trưng cầu dân ý. Trong số tài liệu được đưa ra trước Toà án Nuremberg, có một báo cáo mật của S.D. về việc theo dõi cuộc trưng cầu dân ý ngày 10 tháng 4 năm 1938. Theo báo cáo này, hội đồng bầu cử ghi bằng sữa vào mặt sau của các lá phiếu một số thứ tự và trong cuộc bỏ phiếu họ phát các lá phiếu theo số thứ tự, đồng thời ghi lại tên người bỏ phiếu. Vì thế, sau đó có thể tìm ra lá phiếu chống đối là của ai .
Ngày 16 tháng 6 năm 1936, lần đầu tiên trong lịch sử nước Đức, lực lượng cảnh sát được hợp nhất trên toàn Đế chế – trước đây cảnh sát nằm trong chính quyền mỗi bang. Himmler được cử làm Chỉ huy trưởng cảnh sát Đức. Việc này gần giống như đặt cảnh sát vào tay của S.S. – mà thanh thế mạnh mẽ vốn đang tăng nhanh sau vụ thanh trừng đẫm máu năm 1934. Lực lượng S.S. chẳng còn là nhóm cận vệ hoặc đội vũ trang của Đảng Quốc xã, mà bây giờ có quyền hạn của cảnh sát quốc gia. Vì thế, Đế chế Thứ Ba trở thành một chế độ cảnh sát trị .
CHÍNH PHỦ TRONG ĐẾ CHẾ THỨ BA Dù nền Cộng hoà Weimar bị sụp đổ, Hiến pháp Weimar lại không bao giờ bị Hitler bãi bỏ. Thật ra, điều mỉa mai là Hitler lại sử dụng Hiến pháp Cộng hoà làm cơ sở pháp lý cho chính chế độ của mình. Vì thế, hàng nghìn luật được ban hành chiếu theo Nghị định của Tổng thống về việc Bảo vệ Nhân dân và Nhà nước ngày 28 tháng 2 năm 1933. Cần nhớ lại là vị Tổng thống già đã bị Hitler lừa dối bằng cách tố giác các hiểm hoạ của Cộng sản để ký ban hành Nghị định sau vụ cháy toà nhà Nghị viện. Nghị định này đình chỉ mọi quyền công dân và có hiệu lực xuyên suốt thời kỳ Đế chế Thứ Ba .
Luật Trao quyền mà Nghị viện biểu quyết ngày 24 tháng 3 năm 1933 trao quyền lập pháp cho Chính phủ Quốc xã là cột luật chống thứ hai cho tính "hợp hiến" của chế độ Hitler. Nghị viện giờ đã trở thành những con rối dưới sự vận dụng của Quốc xã, ngoan ngoãn gia hạn thêm 4 năm cho Luật Trao quyền. Nghị viện chỉ "ban hành" 4 luật, không tổ chức tranh luận biểu quyết và không bao giờ nghe ai khác phát biểu ngoại trừ Hitler .
Sau vài tháng đầu năm 1933, Nội các không còn có những phiên thảo luận nghiêm túc, sau cái chết của Hindenburg tháng 8 năm 1934 lại càng ít họp hơn và sau tháng 2 năm 1938 thì không bao giờ được triệu tập để họp nữa. Tuy vậy, một số thành viên Nội các vẫn có quyền hành đáng kể vì được phép ban hành Nghị định và khi Lãnh tụ đồng ý, Nghị định đó sẽ trở thành luật. Hội đồng Nội các Cơ mật, được thành lập một cách long trọng năm 1938 có lẽ là để gây ấn tượng cho Thủ tướng Anh Chamberlain, chỉ hiện diện trên giấy tờ, không bao giờ được họp dù chỉ 1 lần. Hội đồng Quốc phòng Đế chế được thành lập vào thời gian đầu của chế độ như là cơ quan hoạch định chương trình dưới quyền của Hitler, chỉ chính thức họp 2 lần, tuy công việc của vài uỷ ban trong hội đồng này khá tất bật .
Nhiều chức năng của Nội các được giao cho những cơ quan đặc biệt, như Văn phòng Phụ tá Lãnh tụ, tức Phó Lãnh tụ Đảng (Hess và sau đó là Martin Bormann), Cơ quan Đặc mệnh Toàn quyền Kinh tế Chiến tranh (Schacht), Cơ quan Đặc mệnh Toàn quyền Hành chính (Frick) và Cơ quan Kế hoạch Bốn năm (Goering) .
Như ta đã thấy, Nghị viện và chính quyền của bang bị giải tán ngay trong năm đầu của Quốc xã. Bang được chuyển thành tỉnh và tỉnh trưởng thì sẽ do chính Hitler bổ nhiệm. Thành phố cũng mất quyền tự quản, giờ được đặt dưới Bộ Nội vụ. Bộ trưởng Nội vụ bổ nhiệm Thị trưởng của thành phố có trên 100.000 dân và Tỉnh trưởng bổ nhiệm Thị trưởng của thành phố từ 100.000 dân trở xuống. Riêng Hitler giữ quyền bổ nhiệm Thị trưởng Berlin, Hamburg và Vienna (sau năm 1938, khi Áo được sáp nhập) .
Hitler điều hành trực tiếp 4 văn phòng chính: Văn phòng Tổng thống (dù chức vụ bị bãi bỏ năm 1934), Văn phòng Thủ tướng (chức vụ bị bãi bỏ năm 1939), Văn phòng Đảng và Văn phòng Lãnh tụ trông nom công việc riêng của ông ta, đồng thời thực hiện những nhiệm vụ đặc biệt .
Thật ra, Hitler luôn chán ghét những chi tiết điều hành hằng ngày và sau cái chết của Hindenburg, ông củng cố vị thế của mình rồi để cho các phụ tá lo liệu chi tiết. Các đồng chí kỳ cựu như Goering, Goebbels, Himmler, Ley và Schacht được tự do mỗi người chiếm lấy cho riêng mình một mảng quyền lực – và cũng thường là bổng lộc. Hitler chẳng màng những phụ tá của mình cãi cọ với nhau về quyền lực hay bổng lộc. Thật ra, ông còn khuyến khích việc này, bởi vì như thế ông sẽ có vị thế cao với tư cách là nhà hoà giải, mà cũng không sợ họ toa rập với nhau để chống lại mình. Vì thế, có vẻ như ông thích cảnh 3 người kèn cựa nhau trong những sự vụ ngoại giao: Ngoại trưởng Neurath, Trưởng ban Ngoại giao của Đảng, Rosenberg và Ribbentrop, có riêng Văn phòng Ribbentrop cũng lo về chính sách ngoại giao. Cả 3 người đều kình chống nhau và Hitler cứ để như vậy một thời gian, rồi cuối cùng bổ nhiệm con người ù lì Ribbentrop làm Ngoại trưởng để thực hiện những mệnh lệnh của ông ta về ngoại giao .
Đó là Chính phủ của Đế chế Thứ Ba, được điều hành từ trên cao xuống thấp trong một guồng máy to lớn, không có mấy hiệu năng như những lĩnh vực khác của Đức, lại thêm nạn tham nhũng, kình chống lẫn nhau, bị Đảng chen lấn vào công việc và đôi lúc tê liệt vì bị S.S. và Gestapo khủng bố .
trên tận cùng cái đám nhung nhúc ấy là tên lông bông người Áo thuở nào, bây giờ đã trở thành nhà độc tài chuyên chế nhất trên thế giới – ngoại trừ Stalin. Như Tiến sĩ Hans Frank nhắc nhở hội nghị các luật gia vào năm 1936: "Ở nước Đức hiện giờ chỉ có một quyền hành, đó là quyền hành của Lãnh tụ" .
Với quyền hành ấy, Hitler nhanh chóng tiêu diệt những kẻ chống lại mình, thống nhất và Quốc xã hoá Nhà nước, đưa ra các định chế và nền văn hoá vào khuôn phép, trấn áp tự do cá nhân, giải quyết nạn thất nghiệp, vận hành cỗ máy công nghiệp và thương mại trở lại. Đó không phải là những thành tựu nhỏ chỉ sau 3 hay 4 năm cầm quyền. Lúc đó, ông đang quay sang 2 niềm đam mê chính của đời mình: lèo lái chính sách ngoại giao về hướng chiến tranh và tạo dựng một cỗ máy chiến tranh hùng mạnh nhằm giúp ông đạt được mục tiêu .
Bây giờ chính là lúc để trở lại câu chuyện – được ghi chép cẩn thận hơn bất cứ câu chuyện nào khác trong lịch sử đương đại – để biết một con người khác thường, đứng đầu một Quốc gia lớn lao và hùng mạnh như thế chuẩn bị cho việc thực hiện mục tiêu của mình như thế nào .
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top