Phần 4
TƯ TƯỞNG CỦA HITLER VÀ CỘI RỄ CỦA ĐẾ CHẾ THỨ BA
HITLER muốn đặt tựa đề cho cuốn sách có nghĩa là Bốn năm rưỡi tranh đấu chống lại những dối trá, ngu xuẩn và hèn nhát, nhưng Max Amann, nhân viên quản trị cứng đầu trong ngành xuất bản của Quốc xã, người sẽ lo việc phát hành cho cuốn sách lại phản đối tiêu đề này vì cho rằng nó quá nhàm chán và sẽ khiến cuốn sách khó bán hơn. Vậy là ông đã rút ngắn tên cuốn sách này lại trở thành Mein Kampf (Cuộc tranh đấu của tôi). Amann cảm thấy thất vọng não nề về nội dung. Thoạt tiên, ông đã hy vọng một câu chuyện cá nhân mà trong đó, Hitler kể lại bước đường tiến thủ từ một người "công nhân" vô danh ở Vienna đến vị thế nổi tiếng trên toàn thế giới. Nhưng như ta đã thấy, có rất ít phần tiểu sử trong cuốn sách này. Nhà quản trị kinh doanh ngành xuất bản của Quốc xã cũng mong có đủ chi tiết nội tình của vụ bạo loạn ở nhà hàng bia, tấn kịch và trò nước đôi mà ông chắc chắn sẽ khiến cuốn sách thu hút người đọc. Nhưng Hitler quá khôn lanh về điểm này, ông không muốn khơi lại đống tro tàn trong khi Đảng Quốc xã đang đi xuống. Không có mấy lời nói đến vụ bạo loạn bất thành trong Mein Kampf. Hitler viết ở cuối Tập 2: "Chẳng ích gì kể tội những người mà có lẽ tận đáy lòng đều tận tâm với đất nước, nhưng lại chưa hiểu được con đường chung". Đối với người kém bao dung như Hitler, thái độ như thế là hiếm hoi, đặc biệt là nếu xét qua chuyện gì sẽ xảy đến với Kahr và những người đã cản trở ông. Có lẽ đó là sự biểu lộ sức mạnh của tinh thần – khả năng kiềm chế nhất thời vì lý do chiến thuật. Dù sao đi nữa, Hitler cũng chẳng trách cứ ai cả .
Tập đầu tiên dày khoảng 400 trang, được phát hành vào mùa thu 1925. Tập này được ghi giá 13 mác Đức (3 USD), gấp đôi giá phần lớn cuốn sách được xuất bản ở Đức thời bấy giờ. Khởi đầu, sách không bán chạy. Amann khoe khoang rằng đã bán được 23.000 quyển trong năm đầu và con số này đang tiếp tục tăng lên, nhưng các phe phái chống Quốc xã đã tỏ ra hồ nghi về điều này .
Nhờ Đồng minh tịch thu được hồ sơ kê khai của Nhà xuất bản Eher Verlag, doanh số bán ra thật sự của cuốn sách này mới được tiết lộ. Năm 1925, sách bán được 9.473 bản và trong 3 năm kế tiếp, doanh thu giảm dần theo từng năm. Năm 1929, số sách bán được tăng lên chút ít, rồi tăng thêm nữa dựa theo thế lực của Đảng Quốc xã: trên 50.000 bản mỗi năm trong các năm từ 1930 đến 1931, rồi nhảy vọt lên trên 90.000 bản vào năm 1932 .
Tác quyền cho Hitler là một số tiền không nhỏ trong bảy năm đầu. Đây cũng chính là thu nhập chính yếu của ông từ năm 1925. Nhưng chưa thấm vào đâu so với năm 1933, tức là thời điểm Hitler trở thành Thủ tướng. Trong năm đầu sau khi lên nắm chính quyền, quyển Mein Kampf bán được 1 triệu bản, tạo doanh thu 1 triệu mác Đức (khoảng 300.000 USD) với tác quyền từ 10% tăng lên 15%, khiến cho Hitler trở thành tác giả giàu có nhất tại Đức, đồng thời nhờ đó, ông cũng lần đầu tiên trở thành triệu phú. Ngoại trừ Kinh Thánh, không cuốn sách nào bán chạy đến vậy trong chế độ Quốc xã, khi mà nhiều gia đình cảm thấy chẳng an tâm nếu không có một quyển trong nhà. Thậm chí cuốn sách này còn được dùng làm quà tặng cho cô dâu chú rể trong ngày cưới, và gần như tất cả học sinh đều nhận được một cuốn vào lễ tốt nghiệp dù cho chúng học trường nào. Tính đến năm 1940, tức là một năm sau khi Thế chiến II bùng nổ, 6 triệu bản của cuốn sách này đã được bán ra trên toàn nước Đức .
Không phải mọi người Đức sau khi mua quyển Mein Kampf đều mang ra đọc. Tôi nghe nhiều người thân Quốc xã than phiền rằng cuốn sách này khó đọc, và cũng không ít người nhìn nhận – trong riêng tư – là họ chưa bao giờ đọc đến phần cuối của bộ sách dày 782 trang .
Nhưng nếu nhiều người Đức không thiên Quốc xã đọc cuốn sách trước năm 1933 và nếu các chính khách trên thế giới đọc kỹ nó hơn trong khi còn có thời giờ, thì cả nước Đức và thế giới đáng lẽ ra đã có thể tránh được khỏi thảm hoạ. Bởi vì tuy người ta có thể kết tội Adolf Hitler về việc gì khác, nhưng chẳng ai có thể lên án ông vì đã không viết ra trên giấy trắng mực đen chính xác mô hình nước Đức mà ông định tạo dựng một khi nắm chính quyền, cũng như mô hình thế giới mà ông muốn thay đổi bằng vũ lực. Cả nền tảng của Đế chế Thứ Ba và thứ Trật tự Mới tàn bạo mà Hitler áp đặt lên châu Âu trong những năm chiến thắng từ 1939 đến 1945 đều đã được diễn tả rõ ràng trong cuốn sách này .
Như ta đã thấy, tư tưởng cốt lõi của Hitler được định hình từ thời tuổi trẻ của ông ở Vienna. Khi rời Vienna để đi đến Đức vào năm 1913 ở tuổi 24, đầu óc Hitler sục sôi đầy chủ nghĩa quốc gia Đức, ác cảm với nền dân chủ, chủ nghĩa Marx cùng người Do Thái, và lòng tin rằng Ơn Trên đã chọn giống dân Aryan, đặc biệt là người Đức, là chủng tộc ưu việt .
Trong quyển Mein Kampf, Hitler diễn giải thêm tư tưởng của ông ta và áp dụng đặc biệt vào việc phục hồi nước Đức bại trận và nhiễu nhương lên đến vị thế chưa từng đạt được bao giờ trước đây. Ông cũng lên kế hoạch cho việc tạo dựng một quốc gia thuộc loại mới – một quốc gia dựa trên chủng tộc và quy tụ mọi người Đức lúc này còn đang sống bên ngoài biên giới Đức. Quốc gia này sẽ thiết lập chế độ độc tài tuyệt đối dưới quyền một Lãnh tụ – chính là ông – để ban hành mệnh lệnh cho một tầng lớp lãnh đạo nhỏ hơn, rồi những người này sẽ truyền lệnh xuống dưới. Vì thế, cuốn sách trước nhất vẽ lên một nước Đức tương lai và cách thức mà Đức sẽ trở thành "chủ nhân của thế giới", như cách tác giả phát biểu ở trang cuối. Nếu một đầu óc bệnh hoạn nghĩ ra những tư tưởng mà người bình thường ở thế kỷ XX thấy là quái đản thì không nói làm gì. Điều kỳ lạ là hàng triệu người Đức lại tiếp thu một cách cuồng tín luồng tư tưởng như thế, và tư tưởng ấy còn dẫn đến chỗ huỷ diệt hàng triệu người vô tội bên trong và đặc biệt bên ngoài nước Đức .
Bây giờ, làm thế nào Đế chế Đức mới sẽ chiếm lại vị thế cường quốc trên thế giới và từ đó làm chủ nhân của thế giới? Hitler suy nghĩ về câu hỏi này trong Tập 1, phần lớn được viết trong thời gian ông ngồi tù năm 1924, rồi trở lại với nhiều chi tiết bổ sung trong Tập 2, được hoàn tất năm 1926 .
Trước nhất, phải tính sổ với nước Pháp, "kẻ thù truyền kiếp của dân Đức". Mục tiêu của người Pháp là xâu xé nước Đức, vì thế phải "có một cuộc tranh đấu một mất một còn... để sau đó dân ta có thể bành trướng ra những nơi khác" .
Bành trướng ra nơi nào? Về vấn đề này, Hitler dẫn đến điều cốt lõi của chính sách ngoại giao mà ông sẽ trung kiên theo đuổi khi trở thành nhà lãnh đạo Đức. Ông ta nói thẳng thừng: Đức phải bành trướng về hướng Đông – chủ yếu là chiếm đất của nước Nga .
Trong tập 1 của quyển tự truyện Mein Kampf, Hitler diễn giải dài dòng về vấn đề Lebensraum – không gian sinh sống – là chủ đề ám ảnh ông cho đến ngày cuối đời. Theo Hitler, Hoàng tộc Hohenzollern đã sai lầm khi tìm kiếm thuộc địa xa xôi ở châu Phi. Nhưng đất ở châu Âu đã bị chiếm hết rồi .
Hitler nhận ra là đúng như thế, "nhưng thiên nhiên đã không dành sẵn đất này đặc biệt cho quốc gia hoặc chủng tộc nào, đất này là để cho dân tộc nào có đủ sức mạnh lấn chiếm". Nhưng nếu chủ nhân hiện tại phản đối thì sao? "Thế thì luật tự sinh tồn sẽ phát huy, nếu không có biện pháp ôn hoà thì phải dùng vũ lực" .
Theo Hitler, "chỉ có thể chiếm đất ở phía Đông... Nếu cần đất ở châu Âu thì chỉ có thể chiếm lấy đất của Nga. Điều này có nghĩa là Đế chế mới một lần nữa phải tiến bước theo con đường của các Hiệp sĩ Teuton ngày xưa, bằng gươm Đức để có đất cho lưỡi cày Đức và bánh mỳ hàng ngày cho dân tộc" .
Như thể chưa trình bày hoàn toàn rõ ràng trong Tập 1, Hitler trở lại chủ đề này trong Tập 2: "Chỉ có một vùng đất rộng trên Trái Đất này mới đảm bảo 13 quốc gia được trường tồn... Không xét đến những "phong tục" và định kiến [Phong trào Quốc xã] phải có can đảm để huy động toàn dân và sức lực nhằm tiến lên con đường sẽ đưa dân ta từ diện tích hạn hẹp hiện giờ đi đến vùng đất mới... Phong trào Quốc xã phải nỗ lực xoá bỏ sự thiếu cân đối giữa dân số và diện tích của nước ta, xem diện tích như là nguồn thực phẩm cũng như là cơ sở cho chính trị sức mạnh... Ta phải kiên trì với mục tiêu này... nhằm đảm bảo dân tộc Đức có đủ đất sống mà họ xứng đáng được hưởng..." Thế nào là đủ cho dân tộc Đức? Hitler khinh miệt giới tiểu tư sản vì họ đòi phục hồi nước Đức theo ranh giới năm 1914 .
"Đòi hỏi phục hồi ranh giới năm 1914 là vô lý về mặt chính trị... Ranh giới của Đế chế vào năm 1914 là phi lý. Trên thực tế, ranh giới này không toàn vẹn theo ý nghĩa quy tụ mọi người gốc Đức và cũng không hợp lý nếu xét về thực tế địa lý-quân sự... Có thể chọn năm làm mẫu khác trong lịch sử Đức và việc phục hồi những điều kiện vào thời điểm ấy phải là mục tiêu cho đường lối ngoại giao." "Năm làm mẫu" của Hitler là 6 thế kỷ trước, khi người Đức đẩy các chủng tộc Slav về phía Đông. Bây giờ, phải tiếp tục đẩy họ về phía Đông. "Ngày nay, có 80 triệu người Đức ở châu Âu! Chính sách ngoại giao này sẽ được nhìn nhận là đúng, nếu chỉ sau 100 năm, có 250 triệu người Đức ở lục địa này". Và tất cả những người Đức này phải sống trong đường biên giới của Đế chế mới và mở rộng .
Hiển nhiên là một số dân tộc sẽ phải nhường chỗ cho nhiều người Đức. Những dân tộc nào? "Vì thế người Quốc xã chúng ta... phải tiếp tục sự nghiệp dang dở 600 năm về trước... Ta phải dừng phong trào không có hồi kết của Đức ở hướng Nam và Tây, để chuyển hướng về vùng đất ở hướng Đông .
Khi ta nói đến lãnh thổ mới ở châu Âu ngày nay, ta phải chủ yếu nghĩ đến Nga và các nước anh em của họ" .
Hitler nhận xét là về phương diện này, Đức có định mệnh thuận lợi. Định mệnh đã trao Nga cho chủ nghĩa Bolsevik, trên thực tế là trao Nga cho người Do Thái .
"Đế quốc bao la phía Đông có đủ điều kiện chín muồi để sụp đổ. Và chế độ Do Thái chấm dứt ở Nga sẽ đồng nghĩa với việc là đất nước Nga chấm dứt." Hitler ngụ ý rằng khi Nga sụp đổ, người Đức có thể tiếp nhận những vùng thảo nguyên rộng lớn phía Đông mà không phải đổ nhiều máu .
Liệu có ai cho rằng kế hoạch của Hitler là thiếu rõ ràng và chính xác hay không? Đức sẽ tiêu diệt Pháp, nhưng tiến về phía Đông mới là mục tiêu chính yếu. Trước nhất, phải chiếm lấy những vùng đất ở phía Đông có nhiều người Đức sinh sống. Những vùng đất nào? Hiển nhiên là nước Áo, vùng Sudetenland ở Tiệp Khắc và phần miền Tây Ba Lan kể cả Danzig. Sau đó là chính nước Nga. Thế thì tại sao thế giới phải ngạc nhiên khi Thủ tướng Adolf Hitler – chỉ ít năm sau – tiến hành thực hiện những mục tiêu này? Về tính chất của nhà nước Quốc xã tương lai thì tư tưởng của Hitler thiếu súc tích. Ông vạch rõ rằng sẽ không có cái trò "dân chủ ngu xuẩn" và rằng Đế chế Thứ Ba sẽ được đặt dưới Fuehrerprinzip – Nguyên tắc Lãnh tụ – tức là chế độ độc tài .
Quyển Mein Kampf hầu như chẳng đề cập gì đến kinh tế. Hitler chán ngán với lĩnh vực này và chẳng bao giờ màng đến việc tìm hiểu, mà chỉ lướt qua tư tưởng lập dị của Gottfried Feder, con người kỳ quặc chống lại "chế độ nô lệ của lãi suất". Hitler chỉ chú tâm đến quyền lực chính trị, còn kinh tế thì nó sẽ tự giải quyết bằng cách nào đấy .
"Nhà nước không có vai trò gì trong bất kỳ ý tưởng hoặc sự nghiệp phát triển kinh tế nào... Nhà nước là một cơ thể chủng tộc chứ không phải là tổ chức kinh tế... Trong những trường hợp hiếm hoi nhất sức mạnh nội tại của Nhà nước trùng hợp với cái gọi là sự phồn thịnh kinh tế, trong vô số trường hợp có vẻ như sự phồn thịnh thể hiện bước đi xuống của Nhà nước... Phổ cho thấy rõ ràng là chỉ những đức hạnh lý tưởng, chứ không phải những phẩm chất vật chất, mới có thể tạo nên một Nhà nước. Chỉ như thế thì cuộc sống kinh tế mới phồn vinh. Khi sức mạnh chính trị của Đức trỗi dậy thì tình trạng kinh tế sẽ được cải thiện, nhưng khi kinh tế trở thành yếu tố duy nhất làm cho dân ta mãn nguyện và làm khô cứng những đức hạnh lý tưởng thì lúc ấy Quốc gia sẽ sụp đổ và kéo đời sống kinh tế sụp đổ theo... Chưa bao giờ có một Nhà nước được xây dựng bằng những biện pháp kinh tế an bình..." Vì thế, như Hitler tuyên bố trong một bài diễn văn ở Munich năm 1923, "chính sách kinh tế muốn thành công thì cần có thanh gươm, muốn công nghiệp hoá thì cần có quyền lực". Ngoài triết lý mơ hồ, thô thiển ấy và ý tưởng phớt qua trong quyển Mein Kampf về "Phòng kinh tế ", "Phòng địa ốc" và "Nghị viện kinh tế Trung ương" vốn sẽ "giữ cho nền kinh tế quốc gia vận hành", Hitler vẫn kiệm lời về cơ sở kinh tế của Đế chế Thứ Ba .
Và dù cho chính cái tên của Đảng Quốc xã đề cập đến "người của Chủ nghĩa xã hội", nhưng Hitler càng mơ hồ hơn về loại hình "Chủ nghĩa xã hội" cho nước Đức mới. Đây là điều không đáng ngạc nhiên, xét qua định nghĩa về "người của Chủ nghĩa xã hội" trong diễn văn của Hitler ngày 28 tháng 7 năm 1922: "Bất kỳ ai sẵn sàng lấy sự nghiệp quốc gia làm sự nghiệp của riêng mình đến mức họ không biết lý tưởng nào cao hơn an sinh của đất nước họ, bất kỳ ai thấu hiểu quốc ca vĩ đại của chúng ta, Deutschland uber Alles có nghĩa dưới mắt họ không gì trên thế giới có thể vượt qua được dân tộc và đất nước Đức – thì đó chính là người của Chủ nghĩa xã hội" .
Dù cho có nhiều đề xuất về biên tập và ngay cả có ít nhất 3 người giúp hoàn chỉnh bản thảo, Hitler vẫn lan man từ chủ đề này sang sự việc khác trong quyển Mein Kampf. Rudolf Hess là người chủ yếu ghi chép lại lời nói của Hitler và cố gắng hiệu đính bản thảo cho gãy gọn, nhưng ông không dám cứng cỏi với Lãnh tụ. Cha Bernhard Stempfle – một mục sư lạ lùng mà ta sẽ biết thêm sau này thì thành công hơn, giúp sửa chữa văn phạm, làm sáng tỏ văn phong và xoá đi vài đoạn mà ông thấy có thể bị phản đối. Người thứ ba là Josef Czerny, gốc Séc, có công nhiều trong việc chỉnh sửa Tập 1 trong lần tái bản đầu tiên, sửa hoặc gạch bỏ những ngôn từ gây khó xử. Ông cũng hiệu đính một cách cẩn thận Tập 2 .
Tuy thế, cuốn sách vẫn còn nhiều chỗ diễn đạt lộn xộn. Hitler bộc bạch ý tưởng của mình một cách lan man ở mọi đề tài, kể cả văn hoá, giáo dục, sân khấu, điện ảnh, tranh biếm hoạ, văn học, lịch sử, tình dục, hôn nhân, tệ nạn mại dâm và bệnh giang mai. Về bệnh giang mai, Hitler dông dài cả 10 trang, tuyên bố Nhà nước có nghĩa vụ tiêu diệt bệnh này, và phải huy động mọi nguồn lực để tuyên truyền. Vấn nạn giang mai và mại dâm phải được giải quyết bằng cách tạo thuận lợi cho việc kết hôn sớm. Và ông hé lộ một phần chính sách trong tương lai: "Hôn nhân không phải tự nó là cứu cánh, nhưng phải phục vụ cho một mục tiêu cao hơn: bành trướng, bảo tồn nòi giống và chủng tộc" .
Từ đây, ta đi đến tư tưởng chủ chốt thứ hai: Weltanschauung – thế giới quan – của Hitler. Quan điểm của ông về đời sống – mà một số sử gia, đặc biệt ở Anh, xem là một thể thô thiển của thuyết Darwin – thật ra có cội rễ trong lịch sử và tư tưởng Đức. Giống như Darwin nhưng cũng giống như hàng ngũ triết gia, sử gia, vua chúa, tướng lĩnh và chính khách Đức, Hitler xem cả đời sống như là sự tranh đấu trường kỳ và thế giới như là khu rừng trong đó chủng loài nào mạnh hơn sẽ sống sót và thống trị: "Thế giới là nơi một sinh vật này sinh tồn trên sinh vật khác và cái chết của sinh vật yếu tạo nên sự sống cho sinh vật mạnh... Người mạnh phải thống trị và không nên pha trộn với người yếu." Quyển Mein Kampf chứa đầy rẫy những tuyên bố như thế: "Cuối cùng, chỉ sự thôi thúc tự bảo tồn là có thể chinh phục... Nhân loại đã vươn lên trong cuộc đấu tranh trường kỳ và chỉ tàn lụi trong hoà bình vĩnh cửu... Thiên nhiên... đặt các giống loài trên quả địa cầu này và ngắm nhìn các sức mạnh đối chọi nhau... Người mạnh hơn phải thống trị chứ không pha trộn với người yếu hơn, kẻo phải hy sinh vị thế quan trọng. Chỉ có người sinh ra mềm yếu mới coi đó là tàn bạo... Những người muốn sống thì để cho họ chiến đấu, còn những người không muốn chiến đấu trong thế giới tranh đấu trường kỳ này thì chẳng đáng sống. Nếu có băn khoăn điều này là khắc nghiệt thì nó phải là như thế!" .
Và ai là "đứa con yêu dấu của thiên nhiên, người mạnh nhất trong số can đảm và chăm chỉ" mà Ơn Trên đã ban "quyền chủ nhân"? Chính là chủng tộc Aryan. Ở đây trong quyển Mein Kampf, chúng ta đi đến điều cốt lõi của tư tưởng Quốc xã là về tính ưu việt của chủng tộc Aryan, về chủng tộc chủ nhân mà Đế chế Thứ Ba và Trật tự Mới ở châu Âu lấy làm cơ sở .
"Cả nền văn hoá của nhân loại, cùng thành quả của nghệ thuật, khoa học và công nghệ ngày nay, hầu như tất cả đều là sản phẩm sáng tạo của người Aryan... Chính người Aryan đặt những nền móng và xây lên những bức tường của tất cả cấu trúc lớn lao trong nền văn hoá của nhân loại" .
Làm thế nào người Aryan hoàn thành nhiều đến thế và trở nên ưu việt đến thế? Câu trả lời của Hitler là: Bằng cách chà đạp lên những chủng tộc khác .
"Vì thế nhằm tạo ra những nền văn hoá cao hơn, cần có điều kiện tiên quyết là sự hiện diện của những chủng tộc thấp hơn... Chắc chắn là nền văn hoá đầu tiên của nhân loại dựa ít hơn trên súc vật đã thuần hoá, mà dựa nhiều hơn trên chủng tộc thấp. Chỉ sau khi đã nô lệ hoá chủng tộc làm tôi mọi thì súc vật mới chịu chung số phận. Bởi vì thoạt đầu chiến binh bị khuất phục kéo cái cày – và con ngựa chỉ đi theo sau anh ta. Vì thế không phải ngẫu nhiên mà những nền văn hoá đầu tiên khởi phát ở những nơi mà người Aryan – trong sự chạm trán với những dân tộc thấp hơn – trấn áp họ và bắt họ phải theo ý anh ta. Nếu ngày nào mà anh ta làm chủ một cách không thương tiếc, thì ngày đó anh ta chẳng những củng cố địa vị chủ nhân, mà còn duy trì và phát huy văn hoá" .
Rồi có điều gì đấy xảy ra khiến cho Hitler xem đó là sự cảnh báo với người Đức: "Ngay khi kẻ tôi mọi bắt đầu tự vực dậy và tiến lên địa vị ông chủ, có lẽ là ngay tại giai đoạn họ bắt đầu sử dụng ngôn ngữ chung, thì rào cản giữa chủ nhân và tôi mọi sẽ sụp đổ" .
Nhưng có điều gì khác còn tệ hại việc dùng chung ngôn ngữ của người chủ: "Người Aryan từ bỏ sự tinh khiết trong dòng máu anh ta và vì thế đánh mất địa vị của mình. Anh ta chìm lấp vào sự pha trộn chủng tộc và dần dà mất đi tính sáng tạo về văn hoá" .
Đối với nhà lãnh đạo Quốc xã trẻ tuổi, đó là sai lầm tệ hại .
"Sự pha trộn dòng máu và sự hạ thấp địa vị chủng tộc là nguyên nhân duy nhất khiến cho các nền văn hoá xưa cũ chết dần mòn, bởi vì con người không tàn lụi do thất trận, mà do mất đi sức chống chọi nhằm duy trì trong dòng máu tinh khiết. Tất cả chủng tộc yếu kém trên thế giới này chỉ là cỏ rác" .
Các chủng tộc Do Thái và Slav bị xem là cỏ rác. Sau này khi trở thành nhà độc tài, Hitler ngăn cấm hôn nhân giữa người Đức với các chủng tộc ấy, dù cho ngay cả một học sinh lớp bốn còn biết rõ rằng có rất nhiều người Đức mang dòng máu Slav, nhất là ở những vùng đất miền Đông. Một lần nữa, phải công nhận rằng việc làm của Hitler luôn đi đôi với lời nói khi ông ta thi hành chính sách diệt chủng ở Đông Âu trong chiến tranh .
Đối với người dốt nát về lịch sử và nhân chủng học như Hitler thì dễ đi đến tư tưởng biến người Đức thành chủng tộc Aryan hiện đại và cho rằng đó là chủng tộc ưu việt. Đối với Hitler, người Đức là "giống loài ở bậc cao nhất của nhân loại trên quả đất này" và sẽ luôn là như thế nếu họ "không chỉ bận bịu với việc gây giống chó, ngựa và mèo, mà còn quan tâm đến tính thuần khiết trong dòng máu của mình" .
Nỗi ám ảnh về chủng tộc khiến cho Hitler cổ vũ một nhà nước của dân tộc. Chính xác nhà nước ấy như thế nào – hoặc dự định sẽ ra sao – tôi không bao giờ hiểu rõ được, dù cho đã đọc Mein Kampf rất nhiều lần và chính tai tôi cũng đã nghe hàng chục bài diễn văn của Hitler. Trong tên gọi khái niệm này, không thể dịch chính xác từ Volk của tiếng Đức ra tiếng Anh. Nó thường có nghĩa "quốc gia" hoặc "dân tộc", nhưng trong tiếng Đức nó có nghĩa sâu xa hoặc khác biệt hơn, ý chỉ một cộng đồng dựa trên huyết thống và đất đai. Trong quyển Mein Kampf, Hitler gặp khó khăn trong việc định nghĩa thế nào là nhà nước của dân tộc. Đại loại Hitler cho rằng: "Ngược lại với [các thế giới tư sản và Marxist-Do Thái], triết lý dân tộc cho thấy tầm quan trọng của nhân loại trong những yếu tố chủng tộc cơ bản. Trong một Nhà nước, triết lý này chỉ nhìn phương tiện để đạt cứu cánh và xem cứu cánh là sự bảo tồn sự hiện hữu chủng tộc con người. Vì thế triết lý này không tin nơi sự bình đẳng chủng tộc, nhưng cùng với sự khác biệt thì nó nhận ra giá trị cao thấp và thấy cần phải cổ vũ chiến thắng của người giỏi hơn và mạnh hơn, đồng thời đòi hỏi người kém hơn và yếu hơn phải phục tùng... Triết lý này không chỉ nhìn ra những giá trị khác biệt giữa chủng tộc, mà còn nhận thấy giá trị khác biệt giữa cá nhân... Tất cả chúng ta cảm nhận rằng trong tương lai xa, nhân loại sẽ phải đối diện với những vấn nạn mà chỉ chủng tộc cấp cao, ở địa vị chủ nhân – được hỗ trợ bởi những phương tiện và khả năng của toàn địa cầu – mới có năng lực để vượt qua" .
Hitler làm rõ: "Vì thế, mục đích cao nhất của Nhà nước dân tộc là nhằm bảo tồn những tố chất chủng tộc nguyên thuỷ – những người vốn được ban tặng văn hoá và tạo nên vẻ đẹp cùng giá trị của nhân loại ở tầm cao nhất." Một lần nữa, Hitler dẫn dắt đến chủ đề thuyết ưu sinh: "Nhà nước dân tộc... đặt chủng tộc làm vấn đề cốt lõi của toàn cuộc sống. Phải giữ cho chủng tộc được thuần khiết... Phải đảm bảo chỉ có người khoẻ mạnh mới được sinh con, bị bệnh hoặc có khuyết tật lại đi sinh con thì chính là một điều ô nhục và chỉ có một hành động được coi danh dự cao quý nhất, đó chính là từ bỏ. Ngược lại, nếu trốn tránh Nhà nước mà giấu giếm con khoẻ mạnh là đáng bị khiển trách. Nhà nước phải hành xử như người giám hộ cho tương lai cả nghìn năm sau, mặc cho ước muốn và tính ích kỷ của các cá nhân... Vì thế Nhà nước dân tộc phải bắt đầu bằng cách nâng tầm cao mới để hôn nhân thoát khỏi sự ô uế trường kỳ... nhằm tạo ra những hình ảnh của Trời thay vì quái thú nửa vời giữa loài người và loài khỉ!" niệm quá khích của Hitler về Nhà nước dân tộc dẫn đến nhiều nguyên tắc mà sau này sẽ đưa người Đức lên vị trí thống trị toàn thế giới. Và Hitler bị ám ảnh bởi ý niệm đó. Ông biện luận rằng việc không bảo tồn chủng tộc Đức được thuần khiết là "đã lấy đi sự thống trị thế giới của chúng ta. Nếu dân tộc Đức đã giữ được sự thuần chủng bầy đàn, thì ngày nay đáng lẽ Đế chế Đức chắc chắn đang làm chủ địa cầu". Vì lẽ đó nên Nhà nước dân tộc phải dựa trên chủng tộc, "Đế chế Đức phải bao gồm tất cả người Đức" – đây là điểm chủ chốt trong suy luận của Hitler, là điểm mà khi lên nắm quyền hành ông ta không quên mà nhất định thực hiện .
Cũng vì lẽ Nhà nước dân tộc dựa trên "ý tưởng quý tộc của thiên nhiên", suy ra rằng không thể chấp nhận dân chủ, thay vào đó là Nguyên tắc Lãnh tụ. Đế chế Thứ Ba sẽ ứng dụng chủ nghĩa chuyên chế của Phổ: "thẩm quyền của mỗi lãnh đạo truyền xuống và trách nhiệm truyền lên." "Không có quyết định của số đông, mà chỉ có những người thi hành trách nhiệm... Chắc chắn là mỗi người đều có những cố vấn bên cạnh nhưng người ra quyết định thì chỉ có một... chỉ ông ấy mới có thẩm quyền và ra lệnh... Không thể gạt bỏ Nghị viện. Nhưng thành viên Nghị viện chỉ có quyền tham mưu... Không cơ quan nào sẽ lấy biểu quyết. Họ là định chế làm việc chứ chẳng phải là máy bỏ phiếu. Nguyên tắc này – tức là trách nhiệm tuyệt đối được kết hợp vô điều kiện với quyền hạn tuyệt đối – sẽ dần dần sản sinh những người lãnh đạo ưu tú như ngày nay, trong kỷ nguyên của chế độ đại nghị vô trách nhiệm, là hoàn toàn không thể chấp nhận được" .
Đó là những tư tưởng mà Hitler viết ra trong nhà tù Landsberg bên sông Lech. Và ít lâu sau, tư tưởng ấy lại xuất hiện trong khoảng thời gian từ năm 1925 đến năm 1926, khi ông nhàn nhã ngồi ở ban công của khách sạn Berchtesgaden nhìn ra dãy núi Alps hướng về đất Áo sinh quán, vừa đọc lên từng trang cho Rudolf Hess ghi chép vừa mơ đến Đế chế Thứ Ba mà ông sẽ xây dựng từ đống đổ nát và cai trị với bàn tay sắt. Hitler tin chắc có ngày mình sẽ làm được việc đó, vì ông có một cảm giác cháy bỏng về sứ mệnh đặc biệt của mình, giống như nhiều thiên tài bất chợt vươn lên từ hư không. Ông sẽ đoàn kết một dân tộc được thiên nhiên ban cho tính ưu việt lại với nhau, làm cho họ thuần khiết về chủng tộc và khiến họ mạnh lên. Ông sẽ biến họ thành những chủ nhân của thế giới .
Một thuyết Darwin thô thiển? Tính ngông cuồng tàn ác? Tính tự cao tự đại vô trách nhiệm? Chứng hoang tưởng? Mỗi thứ có một phần. Nhưng liệu còn điều gì khác nữa không? Bởi lẽ đầu óc và nỗi mê muội của Hitler bắt rễ sâu xa từ lịch sử và tư tưởng Đức. Thực tế mà nói, chủ nghĩa Quốc xã và Đế chế Thứ Ba chính là sự tiếp nối hợp lý của lịch sử nước Đức .
CỘI RỄ LỊCH SỬ CỦA ĐẾ CHẾ THỨ BA
Trong những ngày cuồng nhiệt vào đầu tháng Chín, khi Đảng Quốc xã tổ chức mít tinh hàng năm ở Nuremberg, có nhiều người bán dạo mời chào tôi mua loại bưu thiếp có chân dung của Friedrich Đại đế, Bismarck, Hindenburg và Hitler. Câu chú thích là: "Nhà Vua chinh phục, Hoàng thân thành lập, Thống chế bảo vệ, Binh sĩ cứu vớt và thống nhất." Vì thế Hitler được xem như binh sĩ, là người cứu vớt và thống nhất, đồng thời cũng là người nối tiếp ba nhân vật nổi tiếng đã gây dựng nên nước Đức hùng mạnh .
Mọi người đều nhận ra ẩn ý về sự tiếp nối của lịch sử nước Đức, lên đỉnh điểm là chế độ của Hitler. Chính cụm từ "Đế chế Thứ Ba" cũng giúp củng cố ý niệm này .
Đế chế Thứ Nhất là Đế quốc La Mã thần thánh thời Trung cổ, Đế chế Thứ Hai do Bismarck thành lập năm 1871 sau khi Phổ đánh bại Pháp. Cả hai Đế chế đều tạo vinh quang cho người Đức. Theo như cách tuyên truyền của Quốc xã, nền Cộng hoà Đức đã dìm nước Đức xuống bùn nhơ, Đế chế Thứ Ba sẽ phục hồi nước Đức, như Hitler đã hứa. Vì thế, nước Đức của Hitler được cho là sự tiếp nối hợp lý của những gì đã đi qua trong quá khứ hoặc ít nhất là của tất cả những vinh quang trước đây .
Nhưng con người từng một thời lông bông ở Vienna, dù cho đầu óc có lộn xộn đến mấy thì vẫn thừa hiểu rằng Đức đã từng gặp thất bại trong quá khứ – thất bại đi kèm với thành công của Pháp và Anh. Hitler không bao giờ quên rằng vào cuối thời kỳ Trung cổ, trong khi Anh và Pháp nổi lên như là những quốc gia thống nhất, Đức vẫn còn là một mớ hỗn tạp gồm khoảng 300 công quốc và vùng lãnh thổ lớn nhỏ. Chủ yếu vì thiếu sự phát triển quốc gia như vậy, nên chiều hướng của lịch sử Đức từ cuối thời kỳ Trung cổ cho đến giữa thế kỷ XIX khiến cho Đức trở nên khác biệt hẳn so với những nước cường thịnh hơn ở Tây Âu .
Ngoài việc thiếu sự thống nhất về chính trị và vương quyền trong hai thế kỷ XVI và XVII, chúng ta còn phải đề cập thêm về những thảm hoạ do dị biệt về tôn giáo trong Phong trào Cải cách. Phạm vi cuốn sách này không cho phép thuật lại đầy đủ tầm ảnh hưởng rộng lớn mà Martin Luther – một người nông dân gốc Saxon mà sau này trở thành giáo sĩ và phát động Phong trào Cải cách – gây ra cho người Đức và lịch sử sau này. Cuốn sách chỉ có thể trình bày sơ lược rằng ông ta là một thiên tài nhưng lập dị, một người bài Do Thái và ghét Công giáo một cách dữ dội, tổng hợp trong cá tính mãnh liệt là nhiều điểm tốt và xấu của người Đức – vừa thô lỗ, ồn ào, cuồng tín, cố chấp, bạo lực, nhưng cũng chân thật, giản đơn, biết tự vấn lương tâm, đam mê học hỏi, hiểu biết âm nhạc và thi ca cùng tính thiện trong con mắt của Thượng Đế. Ông để lại dấu ấn cho người Đức – cả về mặt xấu lẫn tốt – hằn sâu hơn so với bất kỳ cá nhân nào trước và sau đó. Qua những bài giảng và dịch thuật tuyệt vời từ Kinh Thánh, Luther tạo nên ngôn ngữ Đức hiện đại, khơi dậy trong lòng người Đức không những tầm nhìn mới về Cơ Đốc giáo mà còn về chủ nghĩa quốc gia Đức nồng nhiệt. Ông truyền tải cho họ – ít nhất là trong tôn giáo – sự ưu việt của lương tâm cá nhân .
Nhưng điều không may cho người Đức là Luther về hùa với vương triều để đàn áp nông dân nổi dậy mà trớ trêu thay, chủ yếu do tư tưởng của ông khích lệ. Ông cũng biện hộ mạnh mẽ cho nền chuyên chế chính trị đẩy đa số dân Đức vào nghèo đói. Có lẽ còn tệ hơn nữa, việc này gây ra sự chia rẽ lâu dài và sâu sắc giữa các giai cấp và các nhóm người Đức khác biệt nhau về chính trị và vương quyền. Chính vì thế mà trong nhiều thế kỷ, nước Đức thiếu điều kiện để thống nhất .
Chiến tranh Ba mươi Năm và Hoà ước Westphalia năm 1648 mang đến tai hoạ cuối cùng cho Đế quốc La Mã Thần thánh của người Đức, khiến cho đế quốc này không bao giờ có thể hồi phục hoàn toàn. Đó là cuộc chiến tôn giáo cuối cùng ở châu Âu khiến cho Đức bị tàn phá nặng nề, nhiều thành thị và vùng nông thôn bị san bằng, dân số suy giảm. Ước lượng có ⅓ người Đức đã bỏ mạng trong cuộc chiến tàn bạo này .
Hoà ước Westphalia gây tai hại cho tương lai nước Đức ngang bằng với thiệt hại từ cuộc chiến. Các hoàng thân người Đức được công nhận để trị vì từng lãnh thổ nhỏ – có khoảng 350 lãnh thổ như thế – trong khi Hoàng đế chỉ có hư vị. Trào lưu cải tổ quét qua Đức vào cuối thế kỷ XV và đầu thế kỷ XVI bị dập tắt. Trong thời kỳ ấy, các thành phố lớn được hưởng nền độc lập, chế độ phong kiến thoái trào, nghệ thuật và mậu dịch phát triển, nông dân Đức có nhiều quyền tự do hơn là ở Anh và Pháp. Thật ra, có thể nói vào đầu thế kỷ XVI, Đức là một trong những cái nôi của nền văn minh châu Âu .
Thế nhưng sau Hoà ước Westphalia, Đức lại thụt lùi về tình trạng hoang dại như là nước Nga cũ. Chế độ nông nô chẳng những được tái lập, mà còn phát triển rộng ra thêm ở những vùng trước kia không có nông nô. Các thị trấn mất quyền tự chủ. Vua chúa bóc lột nông dân và công nhân, ngay cả giới trung lưu cũng bị đẩy xuống thành hạng tôi tớ. Nền giáo dục và nghệ thuật chấm dứt. Các nhà cai trị tham lam chẳng màng gì đến tinh thần quốc gia Đức, sẵn sàng dập tắt mọi biểu hiện của tinh thần này trong dân chúng. Nền văn minh bị đình trệ ở Đức. Như một sử gia nhận xét: Đế chế Đức "đã bị ổn định một cách giả tạo ở mức độ rối loạn và yếu kém như thời Trung cổ" .
Đức không bao giờ phục hồi kể từ cơn xuống dốc ấy. Đầu óc người dân Đức dần dà nhiễm tư tưởng dễ chấp nhận sự chuyên chế, phục tùng một cách mù quáng đối với quân vương ti tiện. Ý tưởng dân chủ, hoặc chế độ cai trị qua Nghị viện, nở rộ ở Anh và Pháp nhưng lại tắt ngấm ở Đức. Sự chậm tiến về chính trị, cộng thêm tình trạng chia rẽ và cô lập khỏi những trào lưu tư tưởng và phát triển, khiến cho Đức tụt hậu phía sau các nước Tây Âu khác. Ta cần ghi nhận điều này, để hiểu được con đường thảm hoạ mà dân tộc Đức sau này đi theo là ở trong tình trạng tinh thần đã bị móp méo. Hệ quả cuối cùng là nước Đức bị bào giũa bởi vũ lực trần trụi và gây hấn công khai .
Phía Đông, bên kia sông Elbe, là nước Phổ có phần dân chủ và thống nhất hơn. Qua nhiều thế kỷ, vương quốc của người Đức này nằm ngoài dòng phát triển của lịch sử và văn hoá Đức. Đó gần như là hiện tượng bất chợt của lịch sử. Phổ khởi sinh từ Vương quốc Brandenburg trên vùng đất cát cằn cỗi phía Đông sông Elbe, rồi đến thế kỷ XI bị các dân tộc Slav thôn tính. Dưới quyền dòng họ Hohenzollern trị vì Brandenburg, các dân tộc Slav – chủ yếu là Ba Lan – dần dần bị đẩy lui về dọc bờ biển Baltic. Những người kháng cự hoặc bị tiêu diệt hoặc trở thành nông nô. Luật của Hoàng đế Đức cấm các hoàng thân trị vì xưng tước hiệu hoàng gia, nhưng vào năm 1701, Hoàng đế đã thuận cho Tuyển Hầu tước Friedrich III xưng làm Vua nước Phổ .
Trong thời gian này, Phổ tự mình vươn lên thành một cường quốc quân sự ở châu Âu, nhưng không có tài nguyên như những nước khác. Đất khô cằn, không có khoáng sản, dân số ít ỏi. Không có thị trấn lớn, không có công nghiệp, nền văn hoá thì nghèo nàn. Thậm chí giới quý tộc cũng nghèo túng, còn nông dân không có đất canh tác, sống cuộc đời vô cùng cực khổ. Tuy thế, với ý chí sắt đá và thiên tài tổ chức, hoàng gia Hohenzollern nỗ lực đã gây dựng nên một vương quốc quân sự khắc khổ có quân đội được rèn luyện chu đáo, đánh thắng hết trận này qua trận khác. Họ cũng theo đuổi chính sách ngoại giao mềm dẻo, sẵn sàng liên minh với bất kỳ thế lực nào. Từ đây, vương quốc mở rộng dần lãnh thổ .
Thế là, một vương quốc vươn lên theo cách giả tạo, chỉ biết đi thôn tính, giữ mối gắn bó qua quyền hành chuyên chế của quân vương, qua bộ máy cai trị có đầu óc hẹp hòi và qua quân đội có kỷ luật hà khắc. Hai phần ba – và có lúc năm phần sáu – ngân sách cả nước đổ dồn cho quân đội, và dưới quyền chỉ huy của quân vương, quân đội tự nó trở thành một vương quốc. Điều này khiến cho Mirabeau nhận xét: "Phổ không phải là một quốc gia có quân đội, mà là một đội quân có quốc gia." Cả vương quốc hoạt động như một cỗ máy mà nhân dân là những đinh ốc, chỉ biết phục tùng, làm việc và hy sinh .
Người Junker – đóng vai trò quan trọng trong nước Đức thời hiện đại – là sản phẩm độc đáo của Phổ. Họ tự nhận mình thuộc về chủng tộc ưu việt. Họ chiếm đóng những vùng đất thôn tính được từ các dân tộc Slav, canh tác trên đất đai này bằng mồ hôi nước mắt của nông nô Slav. Có một sự khác biệt cơ bản trong hệ thống nông nghiệp ở Phổ so với miền Tây Đế chế Đức và Tây Âu. Ở những miền kia, giới quý tộc kiêm địa chủ thu thuế từ nông dân và nông dân vẫn có quyền hạn để có thể dần dà làm chủ đất canh tác và hưởng quyền tự do. Nông dân là một thành phần vững chắc của cộng đồng, còn địa chủ sống dư dật và được hưởng thành quả của văn minh với sự phát triển về tư tưởng và nghệ thuật .
Thế nhưng, người Junker của Phổ lại không sống nhàn nhã như vậy. Họ làm việc cực nhọc giống như giới chủ công nghiệp ngày nay. Nông dân canh tác đất của họ bị đối xử như nô lệ. Địa chủ là tiểu vương cai trị trên mảnh đất rộng lớn của mình. Không có thị trấn lớn, không có giai cấp trung lưu như ở Tây Âu. Trái ngược địa chủ ở Tây Âu với tư thái của một chủ nhân có văn hoá, người Junker trở thành lớp người thô lỗ, hà khắc, tự cao tự đại, thiếu văn hoá, có tính áp chế, tàn nhẫn, đầu óc hẹp hòi, buông thả một cách trục lợi mà vài sử gia Đức từng ghi nhận qua cuộc sống riêng tư của Otto von Bismarck – một người Junker thành công nhất .
Trong giai đoạn từ 1866 đến 1871, chính thiên tài chính trị ấy, nhà cải cách "Máu và Sắt" ấy, chấm dứt tình trạng chia rẽ của Đức vốn đã hiện diện gần một nghìn năm, thay vào đó là nước Phổ mở rộng, hoặc có thể gọi là nước Đức của người Phổ. Bismarck tạo dựng nên một nước Đức mà ta biết ngày nay – một đứa trẻ khó bảo của châu Âu và thế giới trong gần một thế kỷ, quy tụ một dân tộc có thiên bẩm và năng động. Trước tiên là Bismarck, kế đến là Hoàng đế Wilhelm II và cuối cùng Hitler đã thành công trong việc nuôi dưỡng tham vọng về quyền lực và thống trị, với sự hỗ trợ của giai cấp quân phiệt và nhiều nhà tri thức lạ kỳ. Từ đây dẫn đến xu hướng thích sử dụng quân đội, khinh thường dân chủ và tự do cá nhân mà chỉ theo đuổi chế độ chuyên chế. Theo chiều hướng như thế, Đế chế Đức nổi lên đến tầm cao mới, xuống dốc rồi lại vươn lên, cho đến lúc xem chừng bị huỷ diệt cùng với Hitler vào mùa xuân 1945 .
Khi nắm quyền Thủ tướng nước Phổ năm 1862, Bismarck tuyên bố: "Những vấn đề trọng đại hiện giờ sẽ không được giải quyết bằng lá phiếu theo đa số, mà phải bằng máu và sắt". Và đó chính xác là cách ông tiến hành, dù cho ông cũng sử dụng đường lối ngoại giao nhưng nó thường mang tính dối trá. Mục tiêu của Bismarck là xoá bỏ chủ nghĩa tự do, củng cố quyền lực theo đường lối bảo thủ – là quyền lực của người Junker, của quân đội và vương triều – và biến Đế chế Đức thành cường quốc, chống lại Áo, một cường quốc không chỉ giữa những người Đức mà còn ở châu Âu. Bismarck tuyên bố với các thành viên Nghị viện: "Đức chẳng quan tâm đến chủ nghĩa tự do của Phổ, mà chỉ quan tâm đến sức mạnh của Phổ" .
Trước tiên, Bismarck lo gây dựng Quân đội Phổ. Khi Nghị viện không chịu biểu quyết thêm ngân sách, ông chỉ việc tự lo huy động nguồn kinh phí rồi cuối cùng giải tán Nghị viện. Sau khi tăng cường quân đội, Bismarck đã phát động ba cuộc chiến. Khởi đầu là đánh Đan Mạch năm 1864, sáp nhập các Công quốc Schleswig và Holstein vào dưới quyền cai trị của người Đức. Cuộc chiến thứ hai đánh Áo năm 1866 mang đến kết quả lâu dài. Trong nhiều thế kỷ trước, Áo nằm trong số các lãnh thổcủa người Đức rồi cuối cùng bị loại ra khỏi những sự vụ của người Đức. Áo không được phép gia nhập Liên bang Bắc Đức do Bismarck thành lập .
Nhà khoa học chính trị nổi tiếng người Đức Wilhelm Roepke viết: "Vào năm 1866, nước Đức đã không còn hiện hữu." Phổ thẳng thừng sáp nhập tất cả các lãnh thổ người Đức phía Bắc sông Main (ngoại trừ Saxony) vốn đã chống lại họ trước đây, gồm có các công quốc Hanover, Hesse, Nassau, Frankfurt và Elbe. Những lãnh thổ khác phía Bắc sông Main bị ép gia nhập Liên bang Bắc Đức .
Phổ bây giờ thống trị hoàn toàn Liên bang Bắc Đức trải dài từ sông Rhine đến thành phố Koenigsberg, rồi trong vòng 5 năm, với chiến bại của Hoàng đế Napoléon III của Pháp, những lãnh thổ miền Nam của người Đức, đứng đầu là Vương quốc Bavaria, đã bị sáp nhập vào nước Đức của người Phổ .
Thành tựu quang vinh của Bismarck là sự ra đời của Đế chế Thứ Hai vào ngày 18 tháng 1 năm 1871, khi Vua Wilhelm I của Phổ cử hành lễ đăng quang làm Hoàng đế Đức trong Điện Versailles của Pháp. Đức đã được thống nhất nhờ quân lực Phổ. Vào lúc này, đó là cường quốc lớn nhất ở lục địa châu Âu, đối thủ duy nhất của họ trên toàn châu Âu chỉ có vương quốc Anh .
Tuy thế, có một nhược điểm nghiêm trọng. Trên thực tế, Đế chế Đức chỉ là nước Phổ mở rộng. Treitschke nhận xét: Phổ là nhân tố thống trị... Thực lực của Đế chế chỉ là thực lực của Phổ. "Đó là sự thật và điều này đã gây ra hậu quả tai hại cho chính người Đức. Từ năm 1871 đến năm 1933 và thật ra cho đến ngày tàn của Hitler năm 1945, ngoại trừ nền Cộng hoà Weimar ngắn ngủi, dòng lịch sử của Đức cứ chạy theo đường thẳng .
Dù cho vẻ bề ngoài dân chủ qua việc thành lập Nghị viện, Đế chế Đức thật ra lại là chế độ chuyên chế quân phiệt dưới quyền của Vua nước Phổ, cũng là Hoàng đế Đức. Nghị viện không có nhiều quyền hành, mà chỉ là một diễn đàn để đại diện nhân dân bàn cãi cho hả dạ hoặc mặc cả quyền lợi nhỏ nhoi cho giai cấp mà họ làm đại diện. Ngai vàng mới là nơi thực sự nắm quyền hành theo ý niệm thiêng liêng. Ngay cả về sau này, năm 1910, Hoàng đế Wilhelm II còn tuyên bố rằng ngai vàng "chỉ do Thượng Đế trao cho, chứ không phải do các Nghị viện, Hội đồng hay thông qua dân chúng..." Ông còn nói thêm: "Vì bản thân tôi là công cụ của Thượng Đế, nên tôi được phép làm theo ý mình" .
Hoàng đế không bị Nghị viện ngăn trở. Ông bổ nhiệm Thủ tướng để chịu trách nhiệm với chính ông, không phải với Nghị viện vốn chẳng có quyền bất tín nhiệm. Vì thế, trái ngược với sự tiến hoá của các quốc gia khác ở Tây Âu, ý niệm về dân chủ và quyền hạn của Nghị viện không bao giờ bén rễ ở Đức, thậm chí là đến tận đầu thế kỷ XX. Đúng là Đảng Dân chủ Xã hội đã trở thành Đảng lớn nhất trong Nghị viện vào năm 1912, sau nhiều năm bị Bismarck và Hoàng đế thống trị. Họ lớn tiếng đòi hỏi chế độ quân chủ nghị viện, nhưng không có kết quả. Cho dù là Đảng lớn nhất, họ vẫn là thiểu số. Các tầng lớp trung lưu – được hưởng lợi từ cuộc Cách mạng công nghiệp và bị lóa mắt vì chính sách hiếu chiến của Bismarck – chỉ biết tiếp nhận lợi ích vật chất mà chẳng thiết tha gì đến tự do chính trị mà họ có quyền hưởng. Họ chấp nhận chế độ chuyên chế của hoàng tộc Hohenzollern. Họ cam lòng nép dưới bộ máy cai trị của người Junker và chế độ quân phiệt của Phổ. Nước Đức vươn lên, giới trung lưu – hầu như toàn dân Đức – đều nức lòng làm theo tất cả những gì mà nhà lãnh đạo đòi hỏi .
Giai cấp công nhân Đức cũng có thái độ tương tự. Nhằm ngăn chặn chủ nghĩa xã hội, trong giai đoạn từ năm 1883 đến năm 1889, Bismarck thiết lập chương trình an ninh xã hội rộng rãi, bao gồm bảo hiểm cho lương hưu, bệnh tật, tai nạn và thương tật. Dù cho là do Nhà nước tổ chức, nhưng nguồn kinh phí lại được lấy từ chủ và thợ. Việc này khiến cho giai cấp công nhân đánh giá cao an ninh xã hội hơn là tự do về chính trị và xem Nhà nước là ân nhân và người bảo vệ của mình .
Hitler sau này lợi dụng triệt để tâm lý ấy. Trong quyển Mein Kampf, ông viết: "Tôi đã nghiên cứu pháp chế chủ nghĩa xã hội của Bismarck." Đối với ông, cho dù có sai lầm, Đế chế Thứ Hai của Bismarck là thành tựu sáng chói mà người Đức đạt được .
"Có phải Đức, vượt lên trên tất cả các quốc gia khác, chính là ví dụ kỳ diệu của một đế chế vươn lên dựa trên chính sách thuần túy của sức mạnh? Phổ – tế bào mầm của Đế chế – khởi phát do chủ nghĩa anh hùng chứ không phải qua hoạt động tài chính hay giao dịch thương mại. Và bản thân Đế chế này cũng chỉ là phần thưởng quang vinh của đường lối lãnh đạo hiếu chiến cùng lòng can đảm của binh sĩ không màng cái chết... Có vẻ như chính việc thành lập Đế chế Thứ Hai được tô vẽ bởi phép màu đã giúp nâng cao vị thế của toàn dân tộc. Sau một chuỗi chiến thắng không gì sánh được, một Đế chế mới ra đời cho các con và các cháu, như một phần thưởng cho chủ nghĩa anh hùng bất diệt... Đế chế ấy tránh được trò bịp bợm của các phe phái trong Nghị viện... Những kẻ đào ngũ và những kẻ biếng nhác không nằm trong thành phần thiết lập nên Đế chế ấy, mà chính có những Trung đoàn trên mặt trận mới có thể làm được việc đó... Một bước tiến mới bây giờ mới thực sự bắt đầu! Tự do bên ngoài cung cấp bánh mỳ mỗi ngày cho bên trong. Đất nước trở nên giàu có với số đông cùng với của cải trần tục. Danh dự của Nhà nước – cùng với đó là danh dự của cả dân tộc – được bảo vệ và che chắn bởi một quân đội khác biệt hoàn toàn so với quân đội của Liên bang Đức trước kia." Đó là nước Đức mà Hitler kiên quyết muốn tái lập. Trong quyển Mein Kampf, Hitler bàn sâu thêm về những lý do khiến cho Đế chế Thứ Hai sụp đổ: việc dung dưỡng người Do Thái và người theo chủ nghĩa Marx, tư tưởng trọng vật chất và ích kỷ của giới trung lưu, ảnh hưởng bất chính của những kẻ "luồn cúi và xu nịnh" quanh ngai vàng Hohenzollern, "chính sách liên minh tai hại" với triều đại Habsburg suy đồi và sự bất tín nhiệm người Ý thay vì người Anh, thêm vào đó còn là do thiếu chính sách về chủng tộc và xã hội cơ bản. Đây là những thất bại mà Hitler cam kết Đức Quốc xã sẽ khắc phục .
CỘI RỄ TRI THỨC CỦA ĐẾ CHẾ THỨ BA
Ngoài khía cạnh lịch sử, Hitler còn tiếp thu tư tưởng từ các nguồn nào khác nữa? Các đối thủ của ông ở bên trong hoặc ngoài nước Đức, hoặc vì quá bận rộn hoặc là quá ngu xuẩn, nên mới không tìm hiểu điều này cho đến khi quá muộn. Cũng như những người Đức khác, bằng cách nào đấy, Hitler tiếp thu một mớ hỗn tạp những ý tưởng vô trách nhiệm, hoang tưởng nổi lên trong thế kỷ XIX. Với tất cả lòng hăng say nóng bỏng, Hitler nắm bắt ý tưởng từ những người như triết gia giả hiệu mụ mị Alfred Rosenberg hoặc nhà thơ say xỉn Dietrich Eckart. Tệ hơn nữa, những người khác có thể chỉ suy nghĩ, nhưng Hitler lại quyết tâm thực hiện ngay khi có cơ hội .
Chúng ta thấy một mớ tư tưởng thâm nhập vào đầu óc của Hitler: vinh quang của chiến trận và thôn tính, quyền lực tuyệt đối của chế độ chuyên chế, niềm tin rằng người Aryan, tức người Đức, là chủng người ưu việt, lòng căm ghét các dân tộc Do Thái và Slav, sự khinh thường nền dân chủ và nhân văn. Những điều này không phải do Hitler tự nghĩ ra, chỉ có điều phương cách thực hiện thì đúng là của Hitler. Những tư tưởng này phát sinh trong thế kỷ trước từ đám người gồm triết gia, sử gia và giáo viên với đầu óc có học thức nhưng mất cân bằng, sau này tạo nên hệ luỵ kinh khủng chẳng những cho nước Đức mà còn cho cả phần lớn nhân loại .
Dĩ nhiên là cũng có một số người Đức đã đóng góp vào nền văn minh phương Tây như: Leibnitz, Kant, Herder, Humbolt, Lessing, Goethe, Schiller, Bach và Beethoven. Nhưng văn hoá Đức – bắt đầu từ Bismarck rồi ngự trị trong thế kỷ XIX rồi truyền đến Hitler – chủ yếu dựa trên Fichte và Hegel trước tiên, rồi đến Treitschke, Nietzsche, Richard Wagner và một số nhà tư tưởng hẹp hòi khác, kể cả một người Pháp kỳ lạ và một người Anh lập dị. Họ tạo nên sự cách ly về tâm linh với phương Tây cho người Đức – một sự cách ly cho đến bây giờ vẫn chưa hàn gắn được .
Vào năm 1807, nối tiếp sự thất bại nhục nhã của Phổ trước Napoléon ở Jena, Johann Gottlieb Fichte bắt đầu diễn thuyết những "Bài diễn văn cho dân tộc Đức" từ bục giảng của Đại học Berlin, nơi ông làm trưởng khoa triết học. Những bài giảng của ông đã khuấy động, đồng thời thu hút cả một dân tộc đang bị chia rẽ và bại trận. Âm thanh của những bài giảng ấy vẫn còn vang vọng đến tận thời kỳ Đế chế Thứ Ba. Tư tưởng của Fichte chính là liều thuốc kích thích cho đám người đang nhụt chí. Đối với ông, người Latin – đặc biệt là người Pháp và người Do Thái – là những chủng tộc suy đồi. Chỉ người Đức là có tiềm năng để phục hồi. Tiếng Đức là ngôn ngữ thuần khiết nhất, nguyên khai nhất. Với người Đức, một kỷ nguyên mới trong lịch sử sẽ khởi phát, thể hiện trật tự của vũ trụ dưới quyền lãnh đạo của một nhóm nhỏ ưu tú không bị ràng buộc về đạo đức. Đây là một vài ý tưởng mà Hitler ghi trong cuốn Mein Kampf .
Sau khi Fichte qua đời năm 1814, người tiếp nhiệm ông ở Đại học Berlin là Georg Wilhelm Friedrich Hegel. Ông này có đầu óc tinh tế và ngôn từ thu hút, khơi mào ý tưởng cho Marx và Lenin, vì thế đóng góp vào việc hình thành chủ nghĩa Cộng sản. Ý tưởng tuyên dương Nhà nước nắm quyền ưu việt trên cuộc sống con người cũng đã dọn đường cho Đế chế Thứ Hai của Bismarck và Đế chế Thứ Ba của Hitler. Đối với Hegel, Nhà nước là tất cả, hoặc gần như là tất cả. Ông nói: "Nhà nước có quyền tối thượng trên cá nhân, và trách nhiệm tối thượng của cá nhân là trên cương vị thành viên của Nhà nước..." Thế còn hạnh phúc của cá nhân trên thế giới? Hegel trả lời rằng: "Lịch sử thế giới không phải là đế quốc của hạnh phúc. Thời kỳ của hạnh phúc là những trang lịch sử trống không, bởi vì đó là thời kỳ của thoả hiệp, không phải của đấu tranh." Chiến tranh có tính thanh lọc vĩ đại. Theo quan điểm của Hegel: "Hoà bình lâu dài làm tàn lụi sức mạnh đạo đức của con người, bởi vì ngọn gió giúp thổi khỏi biển cả mọi thứ hôi thối vốn đã tích tụ trong thời gian yên ắng lâu dài." Không một ý niệm truyền thống nào về đạo đức được làm xáo trộn Nhà nước ưu việt hoặc những vị "anh hùng" đang lãnh đạo Nhà nước ấy: "Những lời kêu gọi về đạo đức lạc lõng không được phép va chạm với hành động mang tính lịch sử trên toàn thế giới và thành tựu từ những hành động này... Nhà nước có quyền năng mãnh liệt, vì thế phải chà đạp lên nhiều đoá hoa vô tội, nghiền nát nhiều chướng ngại trên đường tiến bước." Hegel tiên đoán sẽ có một Nhà nước Đức như thế, khi Đức đã lấy lại thiên tài do Thượng Đế ban cho. Ông dự liệu rằng "thời khắc của Đức" sẽ đến, và thiên chức của Đức sẽ là đổi mới thế giới. Khi đọc qua tư tưởng của Hegel, người ta dễ dàng hình dung Hitler đã tiếp thu chúng như thế nào. Trên hết, lý thuyết của Hegel về "anh hùng" – con người vĩ đại sinh ra với thiên chức thực hiện "ý chí của tinh thần thế giới" – dường như tạo được nguồn cảm hứng cho Hitler, với cảm nghĩ về sứ mệnh, như ta sẽ thấy ở cuối chương này .
Sau đó, Heinrich von Treitschke đến làm việc ở Đại học Berlin. Từ năm 1874 cho đến khi qua đời năm 1896, ông là Giáo sư Sử học nổi tiếng ở đây, thu hút rất nhiều người đến nghe diễn giảng. Họ chẳng những chỉ gồm các sinh viên mà còn có sĩ quan tham mưu và nhân viên của bộ máy hành chính Junker. Ông tạo nên ảnh hưởng mạnh mẽ trong hai thập kỷ cuối của thế kỷ XIX và còn tiếp nối đến chế độ của Wilhelm II và của Hitler. Giống như Hegel, ông tuyên dương vai trò của Nhà nước và xem đó là điều tối thượng, nhưng giọng điệu của ông thậm chí còn mạnh bạo hơn: dân chúng, giống như thần dân dưới quyền vua chúa, gần như trở thành nô lệ. Ông tuyên bố: "Chẳng cần biết bạn nghĩ gì, miễn là bạn phục tùng." Treitschke còn đi xa hơn Hegel khi cho rằng chiến tranh là cách thức cao nhất để con người thể hiện quan điểm. Đối với ông: "Vinh quang chiến trận là nền tảng cho mọi đức tính chính trị. Trong kho tàng phong phú những vinh quang Đức, vinh quang quân sự của Phổ chính là món trân châu cũng quý báu, giống như những kiệt tác của các nhà thơ và nhà tư tưởng của chúng ta vậy... Chiến tranh không những là sự cần thiết thực dụng, mà nó còn là sự cần thiết về mặt lý thuyết, là sự bức thiết của lý lẽ. Ý niệm về Nhà nước ẩn chứa ý niệm của chiến tranh, bởi vì cốt lõi của Nhà nước là quyền lực..." Giống như Goethe, Nietzsche không đánh giá cao dân tộc Đức và trên các phương diện khác, đầu óc của con người hoang tưởng này khác biệt với những nhà tư tưởng cực đoan của Đức trong thế kỷ XIX. Ông xem phần lớn triết gia Đức, kể cả Fichte và Hegel, là những kẻ "bịp bợm trong vô thức". Ông viết trong Ecce Homo: "Người Đức không nhận ra rằng họ đê tiện như thế nào" và kết luận là "bất kỳ nơi nào nước Đức can dự vào, nền văn hoá sẽ bị huỷ diệt". Ông cho rằng tín đồ Cơ Đốc, giống như người Do Thái, phải chịu trách nhiệm đối với "đạo lý nô lệ" đang thịnh hành trên thế giới. Tuy vậy nhưng ông chưa bao giờ có tư tưởng bài xích Do Thái. Đôi lúc, ông lo sợ cho tương lai của Phổ và vào những năm cuối đời, trước khi đầu óc trở nên điên rồ, ông lại nhen nhúm ý tưởng một cộng đồng chung châu Âu và chính quyền cho thế giới .
Tuy thế, hầu như mọi người sống dưới Đế chế Thứ Ba đều có ấn tượng bởi ảnh hưởng của Nietzsche đối với chế độ này. Đảng Quốc xã ca ngợi ông một cách không mệt mỏi. Hitler thường đến thăm viếng bảo tàng Nietzsche ở Weimar và cho chụp ảnh ông đang say mê chiêm ngưỡng bức tượng của vị triết gia vĩ đại ấy .
Có những lý do riêng để lôi kéo Nietzsche làm một trong những người khởi xướng thế giới quan cho Đảng Quốc xã. Ông lên tiếng chống dân chủ và Nghị viện, diễn thuyết về ý chí của quyền lực, ca ngợi chiến tranh, tuyên bố một chủng tộc ưu việt và một siêu nhân sẽ xuất hiện. Đảng viên Quốc xã có thể tự hào trích dẫn ông ở hầu như tất cả đề tài .
Về Cơ Đốc giáo: "... một tai ương thảm hại, một lầm lạc to lớn... Tôi gọi đó là một vết nhơ bất diệt của nhân loại..." Về Nhà nước, quyền lực và thế giới hoang dã của con người: "Xã hội luôn xem đức hạnh như là cứu cánh cho sức mạnh, quyền lực và trật tự... Nhà nước được tổ chức theo cách vô lương tâm... ý chí chiến tranh, để thôn tính và trả thù. Xã hội không có quyền hiện hữu một mình, mà phải phục vụ giống như kết cấu móng và giàn giáo, nhờ đấy một chủng người có thể bước lên để phục vụ những mục đích cao cả... Không có quyền được sống, quyền được làm việc, hoặc quyền được hưởng hạnh phúc, vì theo nghĩa này thì con người chẳng khác gì sâu bọ." Nietzsche không bao giờ có quan hệ với phụ nữ, nên ông liệt họ vào vị thế thấp. Quốc xã cũng thế: họ quy định nơi chốn của phụ nữ là nhà bếp và vai trò chính của phụ nữ là sinh ra chiến binh cho nước Đức. Nietzsche phát biểu như sau: "Đàn ông phải được huấn luyện cho chiến tranh và phụ nữ là để sinh đẻ chiến binh. Mọi chuyện khác là điên rồ." Về chiến tranh, Nietzsche suy nghĩ giống như phần lớn các nhà tư tưởng Đức trong thế kỷ XIX. Trong tác phẩm Thus Spake Zarathustra, ông viết: "Ngươi phải yêu hoà bình như là cứu cánh cho chiến tranh và yêu hoà bình ngắn hạn hơn hoà bình lâu dài... Chiến tranh và lòng dũng cảm tạo nên nhiều thành tựu lớn lao hơn là việc làm từ thiện." Cuối cùng, Nietzsche có những lời tiên tri về việc giai cấp ưu việt sẽ xuất hiện để cai trị thế giới và trong giai cấp ấy sẽ nổi lên một siêu nhân .
Ngôn từ huênh hoang của một trong những đầu óc có nhiều tư tưởng mới lạ nhất của Đức hẳn đã tác động mạnh vào đầu óc lẫn lộn của Hitler. Dù sao chăng nữa, ông cũng đã nắm bắt được những ý tưởng này để tạo nên ý tưởng cho riêng mình. "Chủ nhân của thế giới" là cụm từ diễn đạt quen thuộc trong Mein Kampf. Vì chẳng còn nghi ngờ gì nữa, Hitler vẫn tự xem mình là siêu nhân trong câu tiên tri của Nietzsche .
Hitler thường nói: "Ai muốn tìm hiểu Đức Quốc xã thì phải biết đến Wagner." Đó có thể là do Hitler hiểu sai về nhà soạn nhạc vĩ đại. Wagner cũng bài Do Thái, khinh bỉ dân chủ và Nghị viện giống như Hitler, nhưng cũng thiết tha hy vọng rằng người Đức "với những thiên bẩm đặc biệt, sẽ không trở thành những nhà cai trị, mà sẽ là những con người cao thượng của thế giới" .
Nhưng ảnh hưởng của Wagner không phải qua bài viết chính trị, mà qua những vở nhạc kịch của ông. Trong đó thể hiện thế giới của người Đức thuở xưa với các huyền thoại anh hùng, những vị thần tiên chiến đấu một cách vẻ vang với quỷ dữ và rồng, mang trong mình cảm nhận về định mệnh, về tình yêu và cuộc sống chói lọi, và về những cái chết vinh quang. Tất cả điều đó đều truyền cảm hứng cho những huyền thoại về nước Đức hiện đại, đồng thời mang đến một thế giới quan cùng với bản chất Đức mà Hitler và những Đảng viên Quốc xã đã tiếp nhận như là của riêng mình .
Hitler vẫn hằng tôn thờ Wagner từ những ngày phục vụ trong doanh trại quân đội ẩm ướt và chán ngắt trên chiến trường Nga, với những ước mơ tan vỡ. Ông thích hồi tưởng về quãng thời gian mình được nghe những tác phẩm vĩ đại của Wagner, về vô số lần thăm viếng tư gia Haus Wahnfried của nhà soạn nhạc, nơi mà hiện tại người con trai Siegfried Wagner vẫn đang sinh sống cùng với người vợ gốc Anh của mình tên là Winifred – một trong những người bạn mà Hitler trân trọng nhất .
Chẳng bao lâu sau khi quân Đức thảm bại nặng nề ở Nga, vào đêm 24, rạng ngày 25 tháng 1 năm 1942, trong hầm tránh bom ở Đông Phổ, Hitler nói với tướng lĩnh và Đảng viên tay chân của mình: "Mỗi tác phẩm của Wagner đều mang đến cho tôi niềm vui sướng làm sao!" Bên ngoài phủ đầy tuyết với giá lạnh từ Bắc Cực, kiểu thời tiết mà ông oán ghét vì góp phần vào thất bại đầu tiên của Đức trong cuộc chiến. Nhưng trong căn hầm ấm cúng, ý nghĩ của ông lại hướng về một trong những nguồn cảm hứng mạnh mẽ nhất trong đời. Ông kể: "Tôi còn nhớ cảm xúc khi lần đầu tiên đến viếng Wahnfried. Nếu nói tôi xúc động thì vẫn chưa đủ! Vào những thời khắc tồi tệ nhất, họ luôn vực tôi lên, ngay cả Siegfried Wagner. Tôi xưng hô với họ bằng tên thánh. Tôi yêu tất cả họ và tôi cũng yêu Wahnfried... 10 ngày của Lễ hội Bayreuthluôn là một trong những mùa được ơn phước nhất trong đời tôi. Và tôi vui với ý nghĩ rằng một ngày nào đó tôi có thể trở lại!... Vào ngày kết thúc Lễ hội Bayreuth... tôi cảm thấy rất buồn – như khi nhìn thấy người ta lấy đi các món trang trí trên cây Giáng sinh vậy." Buổi tối mùa đông ấy, trong cuộc độc thoại Hitler nhắc đi nhắc lại rằng đối với ông, tác phẩm Tristan und Isolde (Tristan và Isolde) là "tác phẩm vĩ đại của Wagner". Tuy nhiên, chính tác phẩm kỳ diệu Der Ring des Nibelungen (Chiếc nhẫn của Nibelung) gồm bốn vở nhạc kịch (dựa trên một huyền thoại anh hùng của Đức và phải mất gần 20 năm để hoàn thành) mới đem đến cho Đức, đặc biệt là Đế chế Thứ Ba, nhiều hình ảnh về huyền thoại Đức cổ xưa. Các huyền thoại của một dân tộc thường thể hiện ở tầm cao nhất về tinh thần và văn hoá của dân tộc ấy và trong trường hợp của Đức, điều này lại càng đúng hơn. Thậm chí, Schelling đã từng biện luận rằng "một dân tộc khởi phát với thần thoại học của nó... Sự thống nhất về tư tưởng, có nghĩa là triết lý tập thể, được thể hiện qua thần thoại học của nó, vì thế thần thoại học hàm chứa cả định mệnh của dân tộc" .
Max Mell, nhà thơ thời cận đại, người viết một phiên bản hiện đại của The Song of the Nibelungs, tuyên bố: "Ngày nay, chỉ còn lại chút ít về những vị thần Hy Lạp mà ngành nghiên cứu văn hoá Hy Lạp muốn ăn sâu vào văn hoá của chúng ta... Nhưng Siegfried và Kriemhild luôn ở trong tim của dân tộc!" Siegfried và Kriemhild, Brunhild và Hagen – đó là những anh hùng thời xưa mà nhiều người Đức thời hiện đại muốn đồng hoá với họ. Những người Nibelung ngoại giáo – một thế giới phi lý, anh hùng, bí ẩn, bị phản bội, chết chìm trong máu, đạt đến cao trào trong Goetterdaemmerung (hồi kết của các vị thần), khi cung điện của những người tử trận Valhalla bị Wotan đốt cháy. Sự huỷ diệt điên cuồng luôn khiến cho tinh thần Đức cảm thấy mê hoặc, đáp ứng một niềm khát khao kinh khủng trong linh hồn Đức. Những anh hùng ấy, thế giới hoang sơ ấy, quỷ ám ấy luôn "ở trong tim dân tộc", như lời Mell nói .
Vậy nên, không lấy làm lạ khi vào giai đoạn cuối trong đời, Hitler muốn noi gương Wotan bằng cách quyết chí tàn phá nước Đức để sụp đổ cùng với ông trong ngọn lửa .
Wagner, thiên tài kỳ diệu, nhà nghệ sĩ có tầm vóc khó tin, thể hiện mình nhiều hơn là những gì được mô tả ở đây. Cuộc xung đột trong các vở Nibelungen Ring thường diễn ra xung quanh chủ đề là tính tham lam vàng bạc, mà nhà soạn nhạc xem giống như "thảm kịch của chủ nghĩa tư bản đương đại". Ông kinh hoàng nhận thấy chính tính tham lam ấy đã quét sạch mọi đức hạnh từng được lưu truyền từ ngàn xưa. Nhưng dù cố đưa lên sân khấu bao hình tượng anh hùng, Wagner không hoàn toàn tuyệt vọng với đạo Cơ Đốc, giống như Nietzsche. Và ông có niềm cảm thông sâu sắc với loại người thích chiến đấu và lầm lỗi .
Nhưng Hitler không phải là sai hoàn toàn khi nói muốn thấu hiểu chủ nghĩa Quốc xã, người ta phải hiểu Wagner trước .
Trong cuộc đời sóng gió của mình, Wagner được tiếp xúc với hai người về sau góp phần cho bước đi lên của Đế chế Thứ Ba .
Đầu tiên là Bá tước Joseph Arthur de Gobineau, người Pháp, là một nhà ngoại giao, đồng thời cũng là một văn nhân. Và người thứ hai là Houston Stewart Chamberlain – một trong những người Anh kỳ lạ nhất .
Phải nói ngay rằng hai người này không phải là kẻ khoác lác. Cả hai đều có học thức rộng, có văn hoá sâu sắc và có nhiều kinh nghiệm đi đây đó. Tuy thế, cả hai đẻ ra những học thuyết về chủng tộc sai trái đến nỗi không có ai – kể cả người Pháp và người Anh – để ý đến, chỉ có ngoại lệ duy nhất là người Đức. Đối với Đảng viên Quốc xã, những lý thuyết đáng ngờ của họ trở thành giáo điều thật sự. Có lẽ không phải là quá đáng mà cho rằng Chamberlain là nhà sáng lập tinh thần của Đế chế Thứ Ba và tôi cũng nghe một số người thân cận của Hitler nói như thế. Vốn xem người Đức là dân tộc ưu việt và là niềm hy vọng cho tương lai, Chamberlain tôn thờ Wagner, cũng là cha vợ của ông. Ông tôn trọng nhất là Hoàng đế Wilhelm II và sau đó là Hitler và cuối cùng, ông trở thành người cố vấn cho cả hai. Vào cuối đời mình – một thời gian dài trước khi Hitler lên nắm quyền và chưa thấy có triển vọng gì về quyền lực – ông đã ca tụng cựu hạ sĩ người Áo này như là nhân vật mà Thượng Đế phái xuống trần để lãnh đạo dân Đức thoát khỏi tình trạng hoang sơ. Dĩ nhiên là Hitler xem Chamberlain như là nhà tiên tri và rốt cuộc ông ta đúng là một nhà tiên tri thật .
Có điều gì trong học thuyết của hai nhân vật đó mà khiến cho người Đức trở nên điên cuồng về vấn đề chủng tộc và vận mệnh của nước Đức? Tác phẩm chính của Gobineau là 4 tập Essai sur l'Inégalité des Races Humaines (Khảo luận về sự bất bình đẳng giữa các chủng tộc), được xuất bản ở Pháp vào những năm từ 1853 đến 1855. Điều trớ trêu là nhà quý tộc Pháp này phục vụ một thời gian ngắn trong cương vị Chánh văn phòng của Alexis de Tocqueville – tác giả của sách khảo luận Democracy in America. Sau đó, ông được cử làm nhà ngoại giao ở các thành phố Hanover và Frankfurt của Đức. Qua những tiếp xúc với người Đức, ông đề ra lý thuyết về sự bất bình đẳng trong chủng tộc, dù có lần ông thú nhận rằng mình viết các tác phẩm đó một phần chỉ là để minh chứng cho tính ưu việt của tổ tiên ông .
Theo Gobineau, cốt lõi của lịch sử và nền văn minh là chủng tộc. "Vấn đề chủng tộc luôn ngự trị mọi vấn nạn khác của lịch sử... sự bất bình đẳng trong chủng tộc đủ để giải thích cho vận mệnh của các dân tộc." Có ba chủng tộc chính: da trắng, da vàng và da đen. Da trắng chính là chủng tộc ưu việt. Gobineau lập luận: "Lịch sử cho thấy mọi dòng văn minh đều từ chủng tộc da trắng mà ra. Không nền văn minh nào có thể tồn tại nếu không có sự hợp tác của chủng tộc da trắng." Tinh hoa của chủng tộc da trắng là Aryan, là "nổi tiếng và cao quý nhất trong chủng tộc da trắng" mà ông truy nguồn gốc từ Trung Á. Cũng theo Gobineau, không may là dân tộc Aryan bị suy thoái vì pha trộn với những dân tộc khác, như ta thấy ở Nam Âu. Tuy nhiên, miền Tây Bắc, dân tộc Aryan vẫn còn có tính ưu việt. Họ cư ngụ trên một phần nước Pháp, toàn bộ Anh quốc, miền Bắc Âu, vùng sông Rhine và Hanover. Dường như Gobineau bỏ qua phần lớn nước Đức, nhưng sau này Quốc xã lại phớt lờ điều ấy khi họ truyền bá học thuyết của ông .
Tuy thế, theo luận cứ của Gobineau, người Đức hoặc ít nhất người Tây Đức có lẽ là nhóm người Aryan tốt nhất và hẳn nhiên là Quốc xã đã không phớt lờ điều này. Gobineau lập luận rằng mỗi khi người Đức đi đến đâu, họ đều mang theo sự cải thiện đến nơi ấy. Điều này đúng ngay cả trong Đế quốc La Mã. Việc những bộ lạc Đức hoang dã đi thôn tính La Mã và chia cắt đế quốc này là góp phần đáng kể trong việc xây dựng nền văn minh. Bởi vì vào thế kỷ IV, người La Mã còn rất bán khai, trong khi người Đức là dân tộc Aryan thuần chủng. Gobineau tuyên bố: "Người Đức thuộc dân tộc Aryan là chủng người hùng mạnh... Vì thế, mọi điều họ nghĩ, nói và làm đều có tầm quan trọng đáng kể." Tư tưởng của Gobineau được nhanh chóng tiếp thu ở Đức. Wagner nồng nhiệt đón nhận tư tưởng này khi hai người gặp nhau năm 1876. Chẳng bao lâu, khắp nước Đức mọc lên những câu lạc bộ nghiên cứu học thuyết của Gobineau, tuy không có câu lạc bộ nào như thế trong chính nước Pháp của ông .
CUỘC ĐỜI KỲ LẠ VÀ NHỮNG TÁC PHẨM CỦA H .CHAMBERLAIN
Trong số những thành viên cuồng tín của Hội Gobineau ở Đức, có một người tên là Houston Stewart Chamberlain, với cuộc đời và tác phẩm tạo nên một trong những trớ trêu lạ lùng nhất trong dòng lịch sử, thậm chí còn dẫn đến sự thăng trầm của Đế chế Thứ Ba .
Chamberlain sinh năm 1855 tại Postmouth, là con của một đô đốc Anh, cháu họ của thống chế Anh, Neville Chamberlain và của hai vị tướng người Anh khác nữa. Ông cũng là con rể của Richard Wagner. Nếu không vì lý do sức khoẻ, Chamberlain đáng lẽ đã gia nhập Quân đội hoặc Hải quân Anh. Nhưng giữa năm 15 và 19 tuổi, định mệnh đã khiến ông bị nước Đức thu hút, trở thành công dân Đức và cũng là một trong những nhà tư tưởng hàng đầu ở đây. Ông viết tất cả các tác phẩm bằng tiếng Đức, gây ảnh hưởng mạnh đến Wilhelm II, Hitler và vô số người Đức khác .
Năm 1870, khi 15 tuổi, Chamberlain có người thầy là Otto Kuntze gốc Phổ. Trong 4 năm, ông này để lại nhiều dấu ấn trong đầu óc dễ tiếp thu và tâm hồn nhạy cảm của Chamberlain về mọi vinh quang của nước Phổ quân phiệt thích chinh chiến, cũng như về những nhạc sĩ và nhà thơ như Beethoven, Goethe, Schiller và Wagner. Ở tuổi 19, Chamberlain yêu điên cuồng Anna Horst, một người Phổ, lớn hơn Chamberlain 10 tuổi và giống như ông, Anna cũng bị mắc chứng rối loạn thần kinh thể nặng. Năm 1882, chàng trai Chamberlain 27 tuổi đi từ Geneva đến Bayreuth để theo học trong 3 năm các ngành Triết học, Lịch sử tự nhiên, Vật lý, Hoá học và Y khoa. Ở đây, ông gặp Richard Wagner – người mà ông gọi là Mặt Trời soi sáng cho đời. Từ năm 1885, Chamberlain cùng với Anna Horst, giờ đã là vợ ông, sống Dresden trong vòng 4 năm, trong khoảng thời gian đấy ông đã trở thành một người Đức trong cả ngôn ngữ lẫn tư tưởng. Năm 1889, ông chuyển đến Vienna và sống 10 năm tại đây. Đến năm 1909, ông đến Bayreuth – nơi mà ông sẽ ở lại cho đến khi qua đời vào năm 1927. Năm 1905, ông ly dị với Anna, người mà lúc đó đã 60 tuổi, bệnh tật về cả tinh thần lẫn thể chất (theo như ông kể lại thì việc chia tay vợ đã làm ông đau đớn đến mức gần như phát điên). Thế rồi 3 năm sau, Chamberlain cưới Eva Wagner, con gái của Wagner và sống ở gần Wahnfried .
Là con người quá nhạy cảm và dễ loạn thần kinh đến nỗi thường xuyên bị suy sụp tinh thần, Chamberlain nhìn thấy những quỷ dữ, mà ông cho hay, đã khiến ông phải chuyển qua học những ngành mới, từ Sinh học qua Âm nhạc, Triết học cho đến Sử học... Một lần, vào năm 1896, khi đang trên đường từ Ý về, ông bị hoang tưởng nặng bởi sự hiện diện của một con quỷ, đến nỗi ông bước xuống tàu hoả giữa đường, giam mình trong một phòng khách sạn cả 8 ngày, bỏ dở một tác phẩm âm nhạc nào đấy để chuyển qua viết về một đề tài sinh học rồi đi đến một chủ đề chính yếu cho những tác phẩm sau này: chủng tộc và lịch sử .
Dù có khiếm khuyết, đầu óc của ông bao trùm các lĩnh vực Văn học, Âm nhạc, Sinh học, Tôn giáo, Lịch sử và Chính trị. Như Jean Réal chỉ ra, trong tất cả các tác phẩm được xuất bản của Chamberlain thì luôn có sự đồng nhất sâu sắc trong cảm hứng. Vì ông cảm thấy mình bị quỷ dữ thôi thúc, sách của ông (về Wagner, Goethe, Kant, đạo Cơ Đốc và chủng tộc) được viết trong tình trạng giống như khi lên cơn sốt, thần trí hôn mê, có khi lại như đang say xỉn, đến nỗi trong một quyển tự truyện, ông đã không thể nhận ra đó là tác phẩm của mình. Sau này, những lúc đầu óc tỉnh táo hơn, ông đã tự đánh đổ mọi lý thuyết của mình về chủng tộc và các luận cứ về lịch sử .
Cuốn sách gây ảnh hưởng sâu đậm nhất – khiến cho Wilhelm II cực kỳ sướng thoả và tạo luận cứ lệch lạc về chủng tộc cho Quốc xã – có tựa đề Foundations of the Nineteenth Century (Những nền tảng của Thế kỷ XIX) gồm khoảng 1.200 trang mà Chamberlain viết trong 19 tháng khi bị "quỷ ám" .
Giống như Gobineau, Chamberlain nhận thấy chìa khoá của lịch sử, hoặc cơ bản của nền văn minh, chính là chủng tộc. Để giải thích cho điều này thì vào thế kỷ XIX, tức là thế giới cận đại, người ta phải xem xét đến những gì đã được lưu truyền từ thuở xa xưa. Theo Chamberlain, có 3 thứ thuộc phạm trù này: Triết học và Nghệ thuật Hy Lạp, Luật La Mã, cuối cùng là tính cách của Jesus. Có ba nhóm dân tộc thừa kế: dân tộc Do Thái và dân tộc Đức là "hai dân tộc thuần chủng", và dân tộc Latin bị pha trộn ở Địa Trung Hải là "hổ lốn của mọi dân tộc". Chỉ có dân tộc Đức mới xứng đáng thừa hưởng những di sản sáng chói như thế. Đúng là nước Đức đi vào lịch sử một cách muộn màng, tức là đến tận thế kỷ XIII. Nhưng ngay cả trước đó, khi phá huỷ Đế quốc La Mã thì họ cũng đã chứng tỏ được mình .
Vào lúc viết cuốn sách ấy, Chamberlain thấy nhóm dân tộc Teuton là hy vọng duy nhất của thế giới. Chamberlain bao gồm trong "Teuton" người Celt và người Slav, tuy người Teuton vẫn là thành phần quan trọng nhất .
"Người Teuton là linh hồn của nền văn hoá của chúng ta. Sức mạnh sống còn của mỗi quốc gia hiện nay là tuỳ thuộc vào tỷ lệ dòng máu Teuton trong số dân của quốc gia ấy" .
Về phần người Do Thái, thoạt đầu Chamberlain đả kích "chính sách bài Do Thái ngu xuẩn và đáng khinh". Người Do Thái "không phải thấp kém hơn" mà chỉ là "khác biệt". Nhưng khi phân tích người Do Thái, Chamberlain sa vào ngôn từ thô lỗ để bài xích Do Thái – cách thức mà ông phê phán người khác. Nhiều cơ sở "triết lý" của chính sách bài Do Thái của Quốc xã được rút ra trong chương này .
Một số quan điểm của Chamberlain là vô cùng ngớ ngẩn. Theo ông, Jesus không phải là người Do Thái, nhưng có lẽ thuộc chủng tộc Aryan. Nếu đấy không phải hoàn toàn do huyết thống, thì rõ ràng là do cơ sở đạo đức và tôn giáo, trái ngược với "chủ nghĩa vật chất và chủ nghĩa hình thức trừu tượng" của người Do Thái. Thế thì Jesus là Chúa của người Teuton, bởi vì "không có dân tộc nào khác ngoài Teuton có khả năng nghe được tiếng nói thiêng liêng ấy" .
Qua luận cứ theo dòng lịch sử của người Do Thái, cuối cùng Chamberlain kết luận rằng con đường cứu rỗi là nhờ nhóm dân tộc Teuton và nền văn hoá của họ, và trong nhóm dân tộc Teuton thì dân tộc Đức có phẩm chất tốt nhất. Điều này cho phép người Đức trở thành chủ nhân của thế giới .
Ra đời năm 1899, cuốn sách của Chamberlain gây xúc động mạnh và làm cho tác giả đột ngột nổi tiếng ở Đức. Dù có ngôn ngữ hùng biện và văn phong đặc sắc, nhưng cuốn sách này không phải là dễ đọc. Tuy vậy, chẳng bao lâu sau thì giai cấp thượng lưu tìm đọc, vì dường như họ tìm ra trong đó điều mà họ muốn tin theo. Cho đến khi Thế chiến I bùng phát năm 1914, cuốn sách bán được 100.000 bản. Sách còn bán chạy hơn nữa dưới thời Quốc xã và một thông báo của lần tái bản thứ 24 vào năm 1938 cho biết lúc ấy sách bán được trên 250.000 bản .
Một trong những người đọc đầu tiên và say mê nhất là Hoàng đế Wilhelm II. Ông này mời Chamberlain đến cung điện, rồi giữa hai người nảy sinh mối quan hệ và trao đổi thư từ kéo dài cho đến tận khi tác giả qua đời năm 1927. Vị Hoàng đế khen ngợi tác giả và tác giả đáp lại bằng ngôn từ tâng bốc, xun xoe đến mức có thể khiến người khác buồn nôn .
Chamberlain tiếp tục phục vụ vị quân vương bướng bỉnh và thích phô trương. Vào năm 1908, phong trào chống đối Wilhelm II lên đến đỉnh điểm, khiến cho Nghị viện khiển trách Chamberlain vì những hành động tai hại của ông này khi can dự vào các sự vụ ngoại giao. Nhưng Chamberlain tham mưu cho nhà vua rằng ý kiến của quần chúng chỉ là do những kẻ xuẩn ngốc và kẻ phản quốc tạo ảnh hưởng, vì thế không cần đếm xỉa tới. Đáp lại, Wilhelm II trả lời rằng 2 người sẽ hợp lực với nhau. "Ông vung vẩy cây bút, còn tôi sử dụng miệng lưỡi và thanh gươm." Và Chamberlain luôn nhắc nhở vị Hoàng đế về nghĩa vụ và vận mệnh của nước Đức, rằng Đức sẽ chinh phục thế giới bằng tính ưu việt nội tại .
Do việc thuyết giảng một sứ mệnh chói lọi như thế cho quốc gia mà ông chấp nhận là quê hương mình (ông xin nhập quốc tịch Đức năm 1916), Chamberlain được Hoàng đế Đức trao tặng Huân chương Chữ thập Sắt .
Nhưng chính Đế chế Thứ Ba – chỉ bắt đầu 6 năm sau khi Chamberlain qua đời– lại là đối tượng chịu ảnh hưởng lớn nhất từ ông. Quốc xã ca tụng ông như là một trong những nhà tiên tri của họ. Dưới chế độ của Hitler, sách báo, tờ bướm đầy rẫy lời ca ngợi "người sáng lập tinh thần" của Quốc xã. Rosenberg, một trong những cố vấn của Hitler, thường truyền tải cho Lãnh tụ niềm say mê của ông đối với Chamberlain. Có thể là Hitler lần đầu tiên biết đến tác phẩm của Chamberlain trước khi rời Vienna, vì Hitler đọc nhiều sách của các nhóm người Đức và người có xu hướng bài Do Thái vốn yêu chuộng Chamberlain. Cũng có thể Hitler đã đọc được những bài viết thiên ái quốc cực đoan của Chamberlain khi còn ở trong Quân đội. Trong cuốn Mein Kampf, Hitler tỏ ý nuối tiếc khi Đế chế thứ Hai đã không để ý đến luận cứ của Chamberlain .
Chamberlain là một trong những nhà trí thức đầu tiên nhìn thấy tương lai lớn lao ở Hitler và những vận hội mới cho người Đức, nếu họ đi theo nhà lãnh đạo này. Hai người gặp nhau năm 1923. Dù đang đau yếu, bị liệt một phần cơ thể và vỡ mộng vì Đức bại trận, vương triều sụp đổ khiến cho mọi hy vọng cùng lời tiên tri của ông tan nát, nhưng Chamberlain vẫn cảm thấy phấn khích vì tài hùng biện của Hitler. Hôm sau, nhà tư tưởng viết cho Hitler: "Ông có nhiều công cuộc vĩ đại phải thực hiện... Tôi không bao giờ mất niềm tin vào chủ nghĩa Đức, tuy rằng hy vọng của tôi hiện nay đang xuống thấp. Chỉ một loáng, ông đã thay đổi trạng thái linh hồn của tôi. Trong thời khắc khẩn trương nhất, nước Đức sản sinh ra một Hitler, cho thấy một sức sống mới và ảnh hưởng do nhân vật này mang đến, bởi vì 2 yếu tố – nhân cách và ảnh hưởng – luôn liên quan với nhau." Đó là vào thời điểm mà Adolf Hitler – với bộ râu của danh hài Charlie Chaplin cùng tư cách hay gây rối và tư tưởng cực đoan – vẫn còn bị phần lớn người Đức xem là anh hề. Lúc ấy, Hitler chỉ có một nhúm người xung quanh. Nhưng cá tính của ông lại mê hoặc được triết gia Chamberlain đang già lão và bệnh tật. Chamberlain trở thành một Đảng viên Quốc xã vào thời Đảng còn phôi thai và khi khoẻ lại, ông bắt đầu viết bài cho tờ báo của Đảng. Một trong những bài viết của ông vào năm 1924, lúc Hitler đang ngồi tù, ca tụng Hitler như là người được Thượng Đế phái xuống để lãnh đạo dân Đức .
Định mệnh đã mang đến Hoàng đế Wilhelm II nhưng ông này thất bại, bây giờ đến lượt của Hitler. Một bài báo dài 5 cột kỷ niệm sinh nhật thứ 70 của Chamberlain, ngày 5 tháng 9 năm 1925, ca ngợi tác phẩm của ông là "giáo điều của Phong trào Quốc xã". 16 tháng sau, ông chết với niềm hy vọng ngất trời rằng tất cả những gì ông rao giảng và tiên tri sẽ thành hiện thực dưới sự lãnh đạo thần thánh của một Đấng Cứu thế Đức: Hitler .
Khi đăng tin về cái chết của Chamberlain, tờ báo của Đảng Quốc xã nhận định là dân Đức đã mất đi "một trong những chiến binh vĩ đại mà vũ khí của ông không được sử dụng đúng mức trong thời đại của chúng ta". Vào tháng 1 năm 1927 u ám này, khi con người già lão liệt nửa người Chamberlain đang hấp hối, khi Đảng Quốc xã đã tuột dốc không phanh, Hitler và bất kỳ ai khác ở Đức đều không thể biết trước rằng chỉ một thời gian ngắn sau đó, rất ngắn, vũ khí của Chamberlain sẽ được sử dụng đúng mức và với hậu quả tàn khốc .
Tuy thế, trong những ngày này và ngay cả trước đó, Hitler cảm nhận một cách bí ẩn về sứ mệnh của mình trên thế giới. Trong Mein Kampf, Hitler viết: "Trong hàng triệu người... một người sẽ đứng lên, với ý chí quyền lực hiển nhiên sẽ thiết lập những nguyên tắc cứng cỏi... và lao vào cuộc tranh đấu..." Hitler tỏ rõ cho người đọc hiểu rằng chính mình là người ấy. Rải rác trong Mein Kampf những luận cứ về vai trò của con người thiên tài được Ơn Trên chọn để lãnh đạo một dân tộc vĩ đại, dù ban đầu họ chưa hiểu ông và nhận ra chân giá trị của ông. Người đọc hiểu rằng Hitler đang đề cập đến chính mình và hoàn cảnh hiện tại của mình. Thế giới chưa biết đến ông, nhưng số phận của thiên tài là thế – trong thời gian đầu .
"Luôn luôn cần có tác nhân kích thích để mang thiên tài ra ngoài ánh sáng... Thiên tài đích thực luôn sinh ra đã là như thế không bao giờ cần tự trau dồi, càng không bao giờ cần được giáo huấn" .
Hitler cho rằng những con người vĩ đại làm nên lịch sử là sự pha trộn của một chính trị gia thực dụng với một nhà tư tưởng .
"Trong những giai đoạn dài của lịch sử nhân loại, đôi lúc có những chính trị gia pha trộn nhà tư tưởng. Sự hoà quyện này càng sâu đậm thì những ngáng trở càng lớn. Ông ấy không còn dựa trên phương tiện mà người tầm thường cũng hiểu, mà lại dựa trên cứu cánh mà chỉ ít người hiểu. Vì thế cuộc đời ông ấy bị giằng co giữa thương và ghét. Nghĩa vụ của ông đối với tương lai càng to tát thì càng có ít người thấu hiểu ông, cuộc tranh đấu của ông càng gian nan..." Ngôn từ lê thê trong Mein Kampf viết ra năm 1924 khiến cho chẳng mấy ai hiểu được Hitler định làm những gì. Nhưng chính Hitler thì đã có chủ định rõ ràng. Liệu ông có thực sự đọc Hegel hay không là điều tranh cãi. Nhưng hiển nhiên là câu văn và phát biểu của Hitler cho thấy ông đã nhiễm tư tưởng của triết gia Hegel, ít nhất qua những cuộc thảo luận giữa ông và các quân sư Rosenberg, Eckart và Hess. Theo cách này hay cách khác, những bài giảng nổi tiếng của Hegel ở Đại học Berlin hẳn đã khiến cho Hitler chú ý, giống như nhiều lời bình luận của Nietzsche. Hegel nêu lý thuyết về những vị "anh hùng" khiến cho đầu óc của người Đức cảm thấy hấp dẫn .
"Họ có thể được gọi là anh hùng, bởi vì mục đích và thiên hướng của họ không xuất phát từ tiến trình yên bình do trật tự hiện hữu, mà từ nguồn sống được che giấu, từ Tinh thần nội tại ẩn khuất dưới bề mặt rồi bùng phát ra thế giới bên ngoài. Đó là Alexander Đại đế, Caesar, Napoléon. Họ là những người thiên chính trị, thực dụng. Nhưng cùng lúc họ biết suy nghĩ, nhìn thấu được những yêu cầu của thời đại..." Sự kết hợp giữa chính trị gia và nhà tư tưởng tạo nên anh hùng, giống như Alexander Đại đế, Caesar, Napoléon. Nếu Hitler có sự kết hợp ấy – như ông hằng tin – thì có phải đó là điều người ta mong muốn nơi ông không? Trong luận cứ của Hitler, một nhà lãnh tụ ưu việt là phải vượt lên trên mọi tính cách đạo đức của con người bình thường. Hegel và Nietzsche cũng nghĩ như thế. Hegel đề cập đến việc nhà lãnh đạo giẫm đạp hoặc nghiền nát nhiều đoá hoa vô tội trên bước đường tiến tới của ông. Với sự phóng đại kỳ quặc, Nietzsche càng đi xa hơn: "Khi một người có năng lực lãnh đạo, khi do bản chất ông ấy là "Chủ nhân", khi ông sử dụng bạo lực, thì những hiệp ước có quan trọng gì đối với ông? Để phán xét đạo đức một cách đúng mức, cần thay thế thứ đạo đức này bằng hai ý niệm của môn động vật học: việc thuần hoá thú hoang và việc lai giống để tạo ra chủng loài đặc trưng." Những lời giáo huấn như thế, được Nietzsche đưa đến mức cực đoan và được một số nhân vật Đức khác ca tụng, dường như tạo sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với Hitler. Một thiên tài với sứ mệnh cao cả vượt lên trên luật pháp, ông ta không thể bị đạo đức của giới tiểu tư sản gò bó. Vì thế, khi thời điểm đã đến, Hitler có thể dựa vào đó để biện minh cho những hành động tàn bạo và nhẫn tâm của mình: đàn áp tự do cá nhân, huy động công nhân nô lệ, thiết lập trại tập trung, tàn sát thuộc hạ của chính mình vào tháng 6 năm 1934, giết tù binh chiến tranh và tiêu diệt người Do Thái .
Khi Hitler ra khỏi nhà tù Landsberg vào năm ngày trước Giáng sinh 1924, tình hình trở nên tồi tệ đến nỗi bất kỳ ai cũng muốn từ bỏ chính trị. Đảng Quốc xã và tờ báo Đảng bị cấm hoạt động, những nhà lãnh đạo Đảng thì tan đàn xẻ nghé. Chính ông cũng bị cấm phát biểu trước công chúng. Tệ hơn nữa, ông đối mặt với nguy cơ bị trục xuất về sinh quán Áo. Cảnh sát Bavaria đã cương quyết đề nghị việc này với Bộ Nội vụ. Ngay cả nhiều đồng chí cũ của ông đều có chung ý nghĩ rằng sự nghiệp của Hitler đã chấm dứt, rằng ông sẽ chìm vào quên lãng cùng với các nhà lãnh đạo bang sau những năm lộng hành khi mà nền Cộng hoà xem chừng đang lung lay. Nhưng nền Cộng hoà lại vượt qua cơn sóng gió và đang bắt đầu lớn mạnh. Khi Hitler còn ở trong tù, một chuyên gia kinh tế xuất chúng là Tiến sĩ Hjalmar Horace Greeley Schacht được mời nhằm giúp ổn định tiền tệ và ông này đã thành công. Cơn lạm phát tai hại đã qua. Gánh nặng bồi thường chiến tranh được giảm nhẹ qua Kế hoạch Dawes. Nguồn vốn từ Mỹ bắt đầu đổ vào. Nền kinh tế đang phục hồi nhanh chóng. Thủ tướng Stresemann đang thành công với chính sách hoà giải với Đồng Minh. Pháp đang rút khỏi vùng Ruhr. Một thoả hiệp an ninh đang được thảo luận để dọn đường cho việc ổn định châu Âu (các Hiệp ước Locarno) và tạo điều kiện cho Đức gia nhập Hội Quốc liên. Lần thứ nhất từ khi chiến tranh kết thúc, sau 6 năm căng thẳng, xáo trộn và suy thoái, dân Đức bắt đầu có đời sống bình thường .
2 tuần trước khi Hitler ra khỏi tù, Đảng Dân chủ Xã hội – mà Hitler gọi là những "Tội đồ Tháng Mười Một" – có thêm 30% số phiếu (gần 8 triệu phiếu) trong cuộc tổng tuyển cử và đứng đầu trong nền Cộng hoà. Đảng Quốc xã – kết hợp với những nhóm chủng tộc miền Bắc dưới tên phong trào Tự do Quốc gia Xã hội Chủ nghĩa Đức – thu được 2 triệu phiếu vào tháng 5 năm 1924, nhưng đến tháng 12, con số này giảm xuống chỉ còn dưới 1 triệu. Quốc xã xem chừng đang giãy chết. Họ đã nổi lên dựa trên vận hạn xấu của đất nước, bây giờ khi tình hình được cải thiện, Đảng này lại tàn tạ nhanh chóng. Có vẻ như đa số người Đức và quan sát viên nước ngoài đều đã tin như thế .
Nhưng Hitler không tin như thế. Ông không dễ dàng nản chí. Và ông biết chờ thời. Khi nghĩ về vận rủi trong quá khứ gần và chiều hướng đi xuống trong hiện tại, Hitler càng quyết tâm. Khi ngồi trong tù, ông có thời giờ để rà soát lại chẳng những là quá khứ, chiến thắng cùng với sai lầm của mình, mà còn có dĩ vãng đầy sóng gió của dân Đức cùng những chiến thắng và lầm lạc của họ. Bây giờ, Hitler đã nhìn ra rõ ràng mọi thứ. Và chẳng còn nghi ngờ gì nữa, trong ông nảy sinh một ý thức cháy bỏng mới về sứ mệnh đối với chính mình, cũng như đối với nước Đức .
Với tinh thần phấn khởi như thế, ông đọc cho ghi chép xong Tập 1 của Mein Kampf và bắt đầu ngay Tập 2. Cương lĩnh mà Đấng Toàn năng đã kêu gọi ông phải thực hiện và Weltanschauung – thế giới quan – dùng để biện minh, đều được trình bày một cách lạnh lùng trên giấy trắng mực đen cho mọi người suy ngẫm .
Như ta đã thấy, dù là điên cuồng, nhưng triết lý ấy lại bén rễ sâu xa trong đời sống Đức. Đối với đa số người biết suy nghĩ, thậm chí là ngay cả ở Đức thì trong thế kỷ XX, cương lĩnh ấy vẫn có thể bị xem như lố bịch. Nhưng nó lại ẩn chứa một lý lẽ nào đó. Nó mang tới một tầm nhìn. Dù cho ít người nhận ra vào lúc ấy, nhưng nó lại trù hoạch cho việc tiếp nối lịch sử của nước Đức. Nó chỉ đường đi đến một định mệnh mà tác giả của nó tin tưởng rằng sẽ khiến cho nước Đức trở nên ngời sáng .
Hitler tin rằng thời gian an bình sẽ không kéo dài. Ông cho rằng nước Đức phụ thuộc chẳng những vào tiềm lực của riêng mình mà còn vào sức mạnh của người khác – nhất là của Mỹ, khi ấy đang đổ tiền vào để giúp Đức được phồn thịnh. Trong giai đoạn 1924-1930, Đức vay khoảng 7 tỉ USD và phần lớn tiền vay là từ giới đầu tư Mỹ – những người thậm chí còn không nghĩ khả năng Đức có thể trả tiền. Còn người Đức lại càng không nghĩ đến việc này .
Chế độ Cộng hoà vay tiền để trả bồi thường chiến tranh và để gia tăng dịch vụ xã hội hào phóng vốn là mô hình của thế giới. Các cấp bang, thành phố và thị trấn vay tiền để trang trải chẳng những cho các công trình cải tạo mà còn cho việc xây dựng mới những sân bay, nhà hát, sân vận động và bể bơi xa xỉ. Sau khi xoá được nợ nần nhờ lạm phát, nền công nghiệp vay hàng tỉ để trang bị lại máy móc và hợp lý hoá dây chuyền sản xuất. Sản lượng công nghiệp trong năm 1923 giảm 55% so với 1913, nhưng tăng lên 122% vào năm 1927. Lần đầu tiên sau chiến tranh, số người thất nghiệp thấp hơn 1 triệu – chỉ còn 650.000 người vào năm 1928. Cũng trong năm này, giá trị bán lẻ tăng 20% so với năm 1925, năm kế tiếp mức lương thực tế đạt cao hơn 10% so với bốn năm trước. Giới hạ trung lưu – hàng triệu người có mức lương thấp mà Hitler nhắm đến để gây hậu thuẫn – cũng được hưởng lợi từ sự phồn vinh .
Tôi bắt đầu làm quen với nước Đức trong giai đoạn này. Tôi được phái đến Paris và thỉnh thoảng là đến London. Hai thủ đô này gây ấn tượng đối với một người Mỹ trẻ, nhưng vẫn nhạt nhòa so với Berlin và Munich. Cả nước Đức đang năng động làm việc. Cuộc sống xem chừng được tự do hơn, hiện đại hơn, phấn khởi hơn là bất cứ nơi nào tôi từng thấy. Không có nơi nào nghệ thuật hoặc đời sống tri thức được sinh động đến thế. Có những trường phái mới và tài năng mới trong Văn học, Hội hoạ, Kiến trúc, Âm nhạc và Kịch nghệ đương đại. Và ở mọi nơi, giới trẻ được chú trọng. Giới trẻ ngồi thâu đêm ở quán cà phê hoặc quầy bar lộng lẫy, họ tham dự trại hè, du lịch trên tàu hơi nước ở Rhineland hoặc làm việc trong xưởng vẽ và trò chuyện huyên thuyên về cuộc đời. Họ thể hiện một thế hệ mạnh khoẻ, không lo phiền, thích tung tăng ngoài ánh sáng mặt trời và năng động để tận hưởng cuộc sống trong tự do toàn vẹn. Tinh thần Phổ thuở xưa có tính cách đàn áp dường như đã tắt ngúm. Phần lớn người Đức mà ta gặp – chính trị gia, nhà văn, biên tập viên, nghệ sĩ, giáo sư, sinh viên, doanh nhân, lãnh đạo nghiệp đoàn – đều tạo ấn tượng là những người dân chủ, phóng khoáng và yêu chuộng hoà bình .
Người ta ít khi nghe nói đến Hitler hoặc Quốc xã trừ những lúc giễu cợt – thường là liên quan đến vụ "Bạo loạn Nhà hàng Bia", gọi theo đặc ngữ thông dụng. Trong cuộc tổng tuyển cử ngày 20 tháng 5 năm 1928, Đảng Quốc xã chỉ chiếm hơn chục ghế trong tổng số 491 ghế của Nghị viện. Các nhóm Quốc gia Bảo thủ thất bại nặng nề: từ 103 ghế còn lại 73. Ngược lại, Đảng Dân chủ xã hội chiếm đến 153 ghế, đứng đầu trong Nghị viện. 10 năm sau khi chấm dứt Thế chiến I, nền Cộng hoà Đức được xem như là đã trụ vững .
Vào năm 1928, số Đảng viên Quốc xã vẫn còn thấp, 108.000 người, nhưng lại đang tăng dần. 2 tuần sau khi ra khỏi tù vào cuối năm 1924, Hitler vội đi gặp Tiến sĩ Heindrich Held, Thủ hiến bang Bavaria và thủ lĩnh Đảng Nhân dân Công giáo Bavaria. Nhờ lời cam kết sẽ có hành vi tốt (Hitler vẫn còn trong thời gian tạm tha), Held bãi bỏ lệnh cấm hoạt động đối với Đảng Quốc xã và tờ báo của Đảng này. Held nói với Bộ trưởng Tư pháp của Bavaria: "Con thú hoang đã bị kiềm chế. Chúng ta có thể tháo xiềng xích". Vị Thủ hiến Bavaria là người đầu tiên – nhưng không phải là người cuối cùng – trong số những chính trị gia của Đức phạm sai lầm tai hại trong khả năng phán xét .
Tờ báo của Đảng Quốc xã Voelkischer Beobachter được ra mắt lại vào ngày 26 tháng 2 năm 1925, với bài xã luận dài của Hitler có tựa đề Một bước khởi đầu mới. Ngày hôm sau, Hitler phát biểu trong buổi Đại hội đầu tiên của Đảng Quốc xã tại nhà hàng bia Buergerbraukeller, nơi mà họ tụ họp ngày 9 tháng 11 năm 1923 để bắt đầu cuộc bạo loạn vô phúc. Nhiều Đảng viên trung thành vắng mặt. Eckart và Scheubner-Richter đã qua đời, Goering đang trốn lánh, Ludendorff và Roehm đã tách rời khỏi nhà lãnh tụ. Vì có mâu thuẫn với Streicher và Esser, Rosenberg đang bất mãn và lánh xa. Gregor Strasser – người cùng với Ludendorff lãnh đạo phong trào Tự do Quốc gia Xã hội Đức trong khi Hitler đang ngồi tù và Đảng Quốc xã bị cấm hoạt động – cũng thế. Khi Hitler yêu cầu Anton Drexler chủ trì buổi Đại hội, nhà sáng lập Đảng từ chối tham gia. Tuy thế, khoảng 4.000 Đảng viên vẫn đến nghe Hitler phát biểu và ông đã không làm cho họ thất vọng. Tài hùng biện của ông vẫn có sức thu hút như bao lâu nay. Sau 2 giờ hô hào, đám đông bật dậy vỗ tay hoan hô. Dù cho có nhiều Đảng viên từ bỏ hàng ngũ vì viễn cảnh u ám, nhưng Hitler khẳng định rằng mình vẫn còn là Lãnh tụ độc tài của Đảng. Ông tuyên bố: "Tôi là người duy nhất lãnh đạo phong trào, và không ai có thể áp đặt điều kiện với tôi khi nào mà cá nhân tôi còn nhận lãnh trách nhiệm. Một lần nữa, tôi chịu hoàn toàn trách nhiệm về mọi việc xảy ra trong phong trào" .
Hitler mở Đại hội Đảng với 2 mục đích mà từ nay về sau ông nhất định sẽ theo đuổi. Thứ nhất là tập trung mọi quyền lực vào tay ông ta. Thứ hai là tạo dựng lại Đảng Quốc xã thành một tổ chức chính trị nắm chính quyền thông qua con đường hợp hiến. Khi còn ở trong tù, Hitler giải thích về chiến thuật mới với Karl Ludecke, một trong những đồng chí của ông: "Khi hoạt động trở lại, tôi cần thiết phải theo đuổi một chính sách mới. Thay vì nắm quyền lực bằng cách đảo chính, chúng ta phải bước vào Nghị viện sau khi thắng các nhóm Công giáo và Marxit qua bầu cử. Thắng bằng lá phiếu thì mất thời gian hơn là thắng bằng vũ khí, nhưng ít nhất kết quả sẽ được bảo đảm bằng chính Hiến pháp của họ. Thực ra là bất kỳ quá trình hợp lệ nào cũng chậm... Nhưng chẳng sớm thì muộn ta cũng sẽ chiếm đa số – và sau đó là nắm cả nước Đức." Sau khi ra tù, Hitler trấn an Thủ hiến Bavaria rằng từ nay về sau Đảng Quốc xã sẽ hành động trong khuôn khổ của Hiến pháp. Nhưng Hitler bị đám đông phấn khích lôi cuốn theo khi ra mắt họ trở lại ở nhà hàng bia ngày 27 tháng 2. Ông không giấu giếm lời đe doạ. Ông nói, cũng như người Marxit và người Do Thái, chế độ Cộng hoà là "kẻ thù". Và ở đoạn kết, Hitler lớn tiếng: "Trong cuộc tranh đấu của chúng ta chỉ có hai vấn đề: hoặc là kẻ thù bước qua xác của chúng ta hoặc là chúng ta bước qua xác của họ!" Trong lần đầu tái xuất hiện công khai này, "con thú hoang" dường như không bị "kiềm chế" gì cả. Ông ta lại đe doạ Nhà nước bằng vũ lực, dù đã cam kết sẽ có hành vi tốt. Chính quyền Bavaria lập tức cấm ông phát biểu trước công chúng – lệnh cấm sẽ kéo dài 2 năm. Các bang khác làm theo. Đây là thất bại nặng nề đối với một người có tài hùng biện như ông. Khi Hitler im tiếng, ông sẽ thất bại, giống như một võ sĩ bị còng tay trên sàn đấu. Nhiều người đã nghĩ như thế .
Nhưng một lần nữa, họ lại nhầm. Họ quên rằng ngoài tài ăn nói, Hitler còn có tài tổ chức. Cố dằn lòng vì bị cấm phát biểu trước công chúng, Hitler hùng hục lao vào công việc tái lập Đảng Quốc xã và biến nó thành một tổ chức mà người Đức chưa hề thấy từ trước đến giờ. Hitler có ý đồ tổ chức Đảng như là một đội quân – một nhà nước trong một nhà nước. Công tác đầu tiên là thu hút Đảng viên nộp phí gia nhập. Vào cuối năm 1925, chỉ có 27.000 Đảng viên. Đảng phát triển một cách chậm chạp, nhưng mỗi năm đều có tiến bộ: 49.000 Đảng viên năm 1926; 72.000 năm 1927; 108.000 năm 1928 và 178.000 năm 1929 .
Quan trọng hơn là việc thành lập cơ sở Đảng hoàn chỉnh tương ứng với tổ chức hành chính của Đức và giống với xã hội Đức. Nước Đức được chia ra thành vùng (gaue), tương đương với 34 đơn vị trong các kỳ bầu cử Nghị viện và Hitler đã đích thân bổ nhiệm Đảng viên làm gauleiterđứng đầu mỗi vùng. Còn có thêm 7 vùng ở Áo, Danzig, Saar và Sudetenland ở Tiệp Khắc .
Mỗi vùng được chia ra thành những cấp nhỏ hơn. Riêng thành phố được chia nhỏ thêm thành cấp khu phố và cấp tổ dân phố .
Tổ chức chính trị của Đảng Quốc xã được chia ra làm hai nhóm: Nhóm I có nhiệm vụ tấn công và khuynh đảo chính quyền, Nhóm II có chức năng giống như nhà nước trong một nhà nước. Vì thế Nhóm II có các ban Nông nghiệp, Tư pháp, Kinh tế Quốc gia, Nội vụ, Lao động, Xây dựng và với tầm nhìn hướng đến tương lai, Nhóm II còn có một ban mang tên Chủng tộc-Văn hoá. Nhóm I có các ban Ngoại giao, Nghiệp đoàn và Văn phòng Báo chí. Ban Tuyên truyền đứng độc lập và được tổ chức một cách tinh vi .
Dù một số kẻ vô lại và kẻ chuyên gây bạo động phản đối việc nhận phụ nữ và trẻ em vào Đảng, Hitler vẫn thành lập những tổ chức cho họ. Đoàn Thanh niên Hitler nhận lứa tuổi từ 15 đến 18 và có các ban Văn hoá, Giáo dục, Báo chí, Tuyên truyền, Thể thao Tự vệ v.v.. Lứa tuổi từ 10 đến 15 được kết nạp vào Đoàn Thiếu niên. Thanh nữ và phụ nữ có những tổ chức tương tự. Sinh viên, giáo chức, công chức, bác sĩ, luật sư, bồi thẩm đoàn đều có tổ chức riêng biệt và còn có tổ chức để thu hút giới trí thức và nghệ sĩ .
Sau nhiều khó khăn, đội quân Áo Nâu S.A. được tổ chức lại thành một lực lượng vũ trang gồm vài trăm nghìn người để bảo vệ các buổi họp của Quốc xã, giải tán buổi họp của đối thủ và nói chung là khủng bố những người chống lại Hitler. Vài người chỉ huy còn hy vọng S.A. sẽ thay thế Quân đội chính quy một khi Hitler lên nắm chính quyền. Để chuẩn bị cho việc này, một cơ quan đặc biệt được thành lập dưới quyền của Tướng Franz Ritter von Epp, gồm có 5 phòng liên quan đến Quốc phòng. Nhưng lực lượng S.A. vẫn chỉ là một nhóm ô hợp chuyên gây rối. Nhiều người chỉ huy hàng đầu của lực lượng này, bắt đầu từ Tham mưu trưởng Roehm, là một người đồng tính. Trung uý Edmund Heines, chỉ huy trưởng S.A. ở Munich, không chỉ đồng tính mà còn là kẻ có tiền án giết người. Hai người này và thêm hàng chục người khác luôn gây gổ và chia nhau kết bè kết đảng theo cách của đàn ông có xu hướng lệch lạc giới tính ghen tuông với nhau .
Để được sự hỗ trợ đáng tin cậy hơn, Hitler thành lập lực lượng S.S.-Schutzstaffel – mặc đồng phục màu đen tương tự như đội quân của Phát xít và buộc họ phải cất lời thề trung thành với chính cá nhân ông. Lúc đầu, lực lượng S.S. chỉ là những cận vệ cho Hitler. Mãi đến năm 1929, Hitler mới tìm ra được người lãnh đạo lý tưởng của S.S.: một người nuôi gà cư ngụ gần Munich có tên là Heinrich Himmler. Ông này có tư thái dịu dàng mà người ta dễ nhầm lẫn là một thầy giáo làng (tác giả khi gặp ông lần đầu cũng có ấn tượng nhầm lẫn như thế). Khi Himmler nhận chức vụ Chỉ huy trưởng thì lúc đó, lực lượng S.S. có khoảng 200 người. Về sau, lực lượng S.S. sẽ thống trị cả nước Đức và là một cái tên gây kinh hoàng cho mọi vùng bị Đức chiếm đóng ở châu Âu .
Đứng trên đỉnh của ngọn kim tự tháp chính là Adolf Hitler, với chức vụ chính thức là Lãnh tụ Tối cao của Đảng và S.A. và Chủ tịch Tổ chức Lao động Quốc gia Xã hội Chủ nghĩa Đức. Ngay dưới văn phòng của Hitler là Bộ Chỉ huy Đế chế (Reichsleitung) quy tụ những lãnh đạo cao nhất của Đảng và có những chức vụ như "Trưởng Kho bạc Đế chế" và "Quản trị viên Kinh doanh Đế chế". Khi thăm viếng trụ sở Trung ương bề thế của Đảng ở Munich trong những năm cuối cùng của chế độ Cộng hoà, người ta có ấn tượng đây đúng thật là những văn phòng của một nhà nước trong nhà nước. Chắc chắn đó là ấn tượng Quốc xã muốn tạo ra, vì nó giúp phá hoại lòng tin cả ở trong lẫn ngoài nước về Nhà nước Đức hiện tại – thứ mà Hitler vẫn đang cố gắng lật đổ .
Nhưng Hitler có ý đồ quan trọng hơn là tạo được sự ấn tượng. 3 năm sau khi lên nắm chính quyền, trong một bài diễn văn đọc trước các "cựu chiến hữu", Hitler đã giải thích một trong những mục đích của mình khi gây dựng Đảng theo một cơ cấu đáng gờm và bao quát như thế. Ông nhắc lại giai đoạn tái lập Đảng sau vụ bạo loạn bất thành: "Ta đã nhận ra rằng lật đổ Nhà nước thôi thì không đủ, mà trước đó phải xây dựng Nhà nước mới để sẵn sàng nhận nhiệm vụ... Năm 1933 không còn chuyện lật đổ Nhà nước bằng vũ lực, mà ta phải thiết lập xong Nhà nước mới, khi đó tất cả những việc còn lại chỉ là phá huỷ tàn tích của Nhà nước cũ – mà việc này chỉ mất có vài giờ" .
Dù cho chặt chẽ và có hiệu năng thế nào đi nữa, một tổ chức vẫn tồn tại những nhân sự lệch lạc. Trong những năm đầu khi Hitler đang gây dựng Đảng Quốc xã nhằm nắm lấy số phận của nước Đức, ông gặp nhiều rắc rối với những Đảng viên thân cận luôn gây gổ với nhau và tranh cãi với ông. Như ta đã biết, một đám ma cô, sát nhân, đồng tính, nghiện ngập và tống tiền đổ xô đến gia nhập Đảng như thể đây là thiên đường che chở cho họ. Hitler chẳng màng, miễn là họ có ích cho ông. Khi ra tù, ông thấy bọn này đang đấu đá lẫn nhau, trong khi những Đảng viên có tư cách tốt như Rosenberg và Ludendorff thì yêu cầu trục xuất những kẻ phạm pháp và lệch lạc ấy. Hitler đã thẳng thừng từ chối .
Tuy nhiên, vào năm 1926, những lời tố cáo qua lại giữa các phụ tá của Hitler trở nên rối rắm đến nỗi ông phải thành lập một toà án của Đảng để phân xử và ngăn chặn Đảng viên vạch áo cho người xem lưng. Định chế này được gọi là Untersuchung-und-Schlichtungs-Ausschuss (USCHLA), hay uỷ ban Điều tra và Giải quyết. Tướng Heinemann được cử chủ trì toà án này. Tuy nhiên, Heinemann không thấu hiểu mục đích thật sự của phiên toà này, mà ông đơn giản là chỉ làm cho bị cáo giữ im lặng và không quấy rối kỷ luật, chứ không hề tuyên án bất kỳ ai. Vì thế Thiếu tá Walther Buch và hai phụ tá đã được cử lên thay thế. Một người là Ulrich Graf đã làm cận vệ cho Hitler, người kia là một luật sư trẻ tên Hans Frank, sau này trở thành một kẻ khát máu khi giữ chức Toàn quyền ở các vùng thuộc địa của Đức ở Ba Lan và cuối cùng phải trả giá bằng việc bị treo cổ ở Nuremberg. Bộ tam đầu chế này làm cho Hitler hoàn toàn thoả mãn. Mỗi khi có lời tố cáo một lãnh đạo của Đảng, Buch chỉ muốn biết kỷ luật Đảng có bị xâm phạm hoặc Lãnh tụ có bị xúc phạm hay không .
Dù cho hữu dụng trong hàng nghìn vụ việc, toà án của Đảng vẫn không thể đối phó với các lãnh đạo cấp cao đầy tham vọng, sẵn sàng đấu đá đồng chí. Hitler thường phải đích thân chen vào, không những để duy trì vẻ hoà hợp bề ngoài mà còn để tránh cho chính mình bị đấu đá .
Khi Hitler còn đang ở trong tù, một thanh niên có tên Gregor Strasser bất ngờ nổi lên trong phong trào Quốc xã. Người này trẻ hơn Hitler ba tuổi, cũng nhận Huân chương Chữ thập sắt hạng Nhất, trong chiến tranh leo lên đến cấp trung uý. Anh gia nhập Quốc xã năm 1920 và làm Xứ uỷ vùng Hạ Bavaria. Dáng người cao lớn, có phần thanh nhã, đầy năng lực, anh này có tài ăn nói trước đám đông qua sức mạnh của cá tính hơn là do tài hùng biện trời phú như Hitler. Ngoài ra, anh còn có tài thiên bẩm về tổ chức. Vì mang trong mình tính độc lập cao cả về ý chí lẫn tinh thần, Strasser không muốn quỵ luỵ Hitler và không quan tâm mấy đến lời lẽ Hitler khi ông tuyên bố mình là Lãnh tụ tuyệt đối của Đảng. Điều này cộng thêm cái tính hăng say hướng về khía cạnh "xã hội" trong cái tên "Quốc gia Xã hội Chủ nghĩa" của Đảng, về lâu dài trở nên tai hại cho Strasser .
Tuy bị tù nhân Hitler phản đối, Strasser bắt tay với Ludendorff và Rosenberg tổ chức một phong trào dân tộc Quốc xã để ứng cử trong các cuộc bầu cử cấp bang và toàn quốc năm 1924. Ở Bavaria, nhóm này thu đủ số phiếu để đứng hàng thứ nhì. Ở cấp quốc gia, như ta đã biết, 32 người kể cả Strasser đã đắc cử Nghị viện. Hitler phật ý về những hoạt động của anh chàng trai trẻ. Và càng phật ý hơn khi anh đắc cử. Còn Strasser không toàn tâm chấp nhận Hitler làm chúa tể và tỏ thái độ bằng cách vắng mặt trong buổi Đại hội ngày 27 tháng 2 năm 1925, khi Hitler đang gây dựng lại Đảng .
Hitler nhận ra rằng nếu muốn có tầm vóc quốc gia đích thực, Đảng phải có chỗ đứng ở miền Bắc, ở Phổ và nhất là ở thủ đô Berlin. Strasser đã ra tranh cử ở miền Bắc và liên kết với các nhóm cực đoan quốc gia. Vì thế anh có những mối dây liên hệ ở vùng này, đồng thời là nhân vật lãnh đạo Quốc xã có vị thế. 2 tuần sau buổi Đại hội ngày 27 tháng 2, Hitler cố nén lòng mời Strasser đến, dẫn dụ anh trở về hàng ngũ Đảng và đề nghị anh tổ chức cơ sở Quốc xã ở miền Bắc. Strasser chấp nhận, vì thấy có cơ hội phát huy mà không bị Lãnh tụ kèm cặp một bên .
Trong vòng vài tháng, anh lập ra một tờ báo có tên là Berliner Arbeiterzeitung và để cho người em trai Otto Strasser làm chủ bút. Cùng với đó, anh lập nền tảng cho cơ sở Đảng bộ địa phương lan rộng khắp Phổ, Sachsen, Hanover và vùng công nghiệp Rhineland. Là một mẫu người năng động thật sự, Strasser di chuyển khắp miền Bắc, diễn thuyết trong các buổi Đại hội, cử người đứng đầu cơ sở Đảng tại địa phương và thiết lập guồng máy của Đảng. Với tư cách đại biểu Nghị viện, anh có hai lợi thế so với Hitler: không phải tốn tiền vé tàu hoả và được hưởng quyền miễn tố của người đại diện dân cử. Không chính quyền nào có thể cấm anh phát biểu trước công chúng, không toà án nào có thể xét xử anh về tội phỉ báng. Tóm lại, Strasser được tự do di chuyển và tự do phỉ báng .
Để có người làm Bí thư cho mình và làm chủ bút cho tờ báo của Đảng, Gregor Strasser tuyển dụng một người tên Paul Joseph Goebbels, lúc ấy 28 tuổi .
PAUL JOSEPH GOEBBELS XUẤT HIỆN
Nước da ngăm đen, hơi thấp, một chân bị khuyết tật, đầu óc nhanh nhẹn, cá tính phức tạp và dễ bị khích động, Goebbels là người không xa lạ gì với phong trào Quốc xã. Lần đầu tiên ông nghe Hitler diễn thuyết là vào năm 1922, rồi sau đó gia nhập Đảng. Nhưng phong trào khi ấy lại chưa khám phá ra tài năng của Goebbels. Ba năm sau, khi nghe ông phát biểu hùng hồn, Gregor Strasser quyết định sử dụng tài năng này. Ở tuổi 28, Goebbels trở thành nhà hùng biện lôi cuốn, một người theo chủ nghĩa quốc gia cực đoan, một ngòi bút sắc bén và là người hiếm hoi trong hàng ngũ Quốc xã có trình độ Đại học hẳn hoi. Heinrich Himmler vừa trao chức vụ Bí thư cho Strasser để có thêm thời gian nuôi gà. Strasser cử Goebbels vào thay thế. Và đó là một quyết định mang tính định mệnh .
Paul Joseph Goebbels sinh ngày 29 tháng 10 năm 1897, có cha, Fritz Goebbels, làm đốc công trong một xưởng dệt và mẹ, Maria Katharina Odenhausen, là con gái của một thợ rèn. Cả 2 ông bà đều là người mộ đạo Công giáo .
Goebbels được giáo dục chủ yếu qua hệ thống trường nhà dòng. Ông học trường Công giáo rồi được một tổ chức Công giáo cho học bổng để theo học Đại học – thật ra là 8 trường Đại học. Ông nhận bằng Tiến sĩ ở Đại học Freiburg vào năm 1921 khi mới 24 tuổi, sau khi đã qua 7 trường Đại học tinh túy khác của Đức để học về Triết học, Sử học, Văn chương, Nghệ thuật, Ngôn ngữ Latin và Hy Lạp .
Goebbels định trở thành nhà văn. Khi nhận bằng Tiến sĩ, ông viết 1 quyển tiểu thuyết tự truyện nhưng chẳng nhà xuất bản nào chịu in. Trong vài năm kế tiếp, ông viết 2 vở kịch nhưng chẳng nhà sản xuất nào chịu dàn dựng. Trong nghiệp làm báo Goebbels cũng không may mắn hơn. Một tờ nhật báo lớn từ chối hàng chục bài ông nộp và đơn xin làm thông tín viên của ông .
Ban đầu, cuộc đời của Goebbels cũng đầy trắc trở ban đầu. Vì bị tật ở chân nên ông không thể phục vụ trong chiến tranh, do đó, bị xem là thiếu kinh nghiệm cần thiết để trở thành một nhà lãnh đạo của Đảng Quốc xã. Năm lên 7 tuổi, Goebbels bị bệnh viêm tuỷ xương. Cuộc giải phẫu thực hiện trên đùi trái đã không thành công, nên chân trái của ông trở nên ngắn hơn chân phải và bị teo tóp. Khuyết tật này làm cho ông đi khập khiễng, làm ông bị phiền hà cả đời và là một trong những nguyên nhân khiến cho Goebbels cảm thấy tự ti. Trong những năm tháng học Đại học, hay trong giai đoạn ngắn ngủi khi còn làm phiến quân chống lại người Pháp ở vùng Ruhr, ông vẫn thường tự lừa dối bản thân là một cựu chiến binh bị thương trong chiến tranh .
Trong tình trường ông cũng không được may mắn, ông thường ngộ nhận những cuộc tán tỉnh là những mối tình chân thật. Nhật ký của ông trong các năm từ 1925 đến 1926, khi ông 28, 29 tuổi và vừa được Strasser dẫn đến Quốc xã, đầy những dòng tâm sự về các cô tình nhân Alma, Else, Anke... Goebbels không bao giờ quên Anke Helhom, mối tình đầu của mình ở Đại học Freiburg. Sau này, khi trở thành Bộ trưởng Bộ Thông tin và Tuyên truyền, ông kể với bạn bè bằng giọng phù phiếm và yếm thế cố hữu: "Cô ấy phản bội tôi vì anh chàng kia có nhiều tiền hơn, có điều kiện dẫn cô đi ăn và đi xem nhạc kịch. Cô ta mới khờ dại làm sao!... Bây giờ, đáng lẽ cô ta có thể trở thành phu nhân Bộ trưởng Tuyên truyền! Hẳn cô ta phải lấy làm thất vọng!" Anke cưới "anh chàng kia" rồi ly dị vào năm 1934 và đến Berlin được Goebbels giới thiệu làm việc cho một tờ tạp chí .
Tư tưởng cấp tiến của Strasser và niềm tin vào "xã hội" trong cái tên "Quốc gia Xã hội Chủ nghĩa" tỏ ra thu hút đối với Goebbels. Cả 2 đều muốn xây dựng Đảng dựa trên giai cấp vô sản. Nhật ký của Goebbels vào thời điểm này ghi đầy những ý tưởng thiên về chủ nghĩa Cộng sản. Ngày 23 tháng 10 năm 1925, ông viết: "Trong sự phân tích cuối cùng, chết dưới chủ nghĩa Bolshevik còn tốt hơn là chịu đựng cảnh nô lệ dưới chủ nghĩa tư bản." Ngày 31 tháng 1 năm 1926, ông tự nhủ: "Tôi nghĩ điều tồi tệ là chúng tôi [Quốc xã] và Cộng sản đối đầu nhau... Liệu chúng tôi có thể tập hợp với các nhà lãnh đạo Cộng sản ở đâu?" Chính vào lúc này, ông cho in 1 bức thư ngỏ gửi một nhà lãnh đạo Cộng sản, trấn an ông này rằng chủ nghĩa Quốc xã và chủ nghĩa Cộng sản thật ra là giống nhau .
"Ông và tôi đang tranh đấu với nhau, nhưng chúng ta lại không thật sự là kẻ thù." Đối với Hitler, tư tưởng của Goebbels có vẻ như đi ra ngoài cương lĩnh của Đảng. Hitler cảm thấy bất an khi thấy sự thành công của hai anh em nhà Strasser và của Goebbels trong việc gây dựng một nhánh của Đảng thiên về vô sản cấp tiến ở miền Bắc. Nếu để họ tự do hành động, họ có thể đoạt quyền lãnh đạo Đảng và đi theo mục đích mà Hitler đả phá một cách mãnh liệt. Sự tranh chấp không thể tránh khỏi xảy ra vào mùa thu 1925 và tháng 2 năm 1926 .
Cuộc chạm trán là do Gregor Strasser và Goebbels gây ra trên một vấn đề nhạy cảm ở Đức thời bấy giờ. Đó là đề xuất của các Đảng viên Dân chủ Xã hội và Cộng sản nhằm tịch thu đất đai và tài sản kếch xù của những gia đình hoàng tộc thuộc vương triều đã bị lật đổ, để nhập vào công sản của chế độ Cộng hoà. Việc này sẽ được quyết định qua một cuộc trưng cầu dân ý, theo tinh thần của Hiến pháp Weimar. Gregor Strasser và Goebbels đề xuất Đảng Quốc xã hợp tác với các Đảng Dân chủ Xã hội và Cộng sản, đồng thời hậu thuẫn chiến dịch tịch thu tài sản của giới quý tộc .
Hitler giận dữ tột độ. Vài nhà cầm quyền thuộc chế độ cũ đã đóng góp tài chính cho Đảng Quốc xã. Hơn nữa, một số nhà công nghiệp lớn đang tỏ ý tài trợ cho phong trào của Hitler chính vì Đảng Quốc xã hứa hẹn sẽ đàn áp các phe nhóm Cộng sản, Xã hội và nghiệp đoàn. Nếu Gregor Strasser và Goebbels thi hành kế hoạch của họ, nguồn tài trợ cho Quốc xã sẽ cạn kiệt .
Tuy nhiên, trước khi Hitler có thời giờ hành động, ngày 22 tháng 11 năm 1925 tại Hanover, Strasser đã triệu tập Đại hội các lãnh đạo Đảng ở miền Bắc. Mục đích của Đại hội là huy động nhánh miền Bắc của Đảng Quốc xã đi hậu thuẫn chiến dịch tịch thu tài sản, cùng với đó là phát động một chương trình kinh tế mới, từ bỏ cương lĩnh gồm 25 điểm mà Quốc xã công bố vào năm 1920 (Xem Chương 2). Hai anh em nhà Strasser và Goebbels muốn quốc hữu hoá các nhà máy lớn và nguồn bất động sản dồi dào .
Hitler từ chối tham dự Đại hội, nhưng phái người phụ tá trung thành Gottfried Feder thay mặt ông và đàn áp nhóm Đảng viên phản loạn. Goebbels đòi trục xuất Feder khỏi Đại hội. Vài nhà lãnh đạo Đảng nổi danh sau này có mặt trong Đại hội, nhưng chỉ có Robert Ley lên tiếng ủng hộ Hitler. Khi Ley và Feder biện luận rằng Đại hội đã sa đà, rằng không thể giải quyết việc gì nếu không có Hitler, thì Goebbels lớn tiếng (theo như Otto Strasser, người lúc đó đang hiện diện ở đây): "Tôi yêu cầu trục xuất nhà tiểu tư sản Adolf Hitler khỏi Đảng Quốc xã!" Gregor Strasser nghĩ Goebbels đã thay đổi nhiều từ khi bị Hitler mê hoặc 3 năm trước. Sau phiên toà xử vụ Bạo loạn Nhà hàng Bia, Goebbels đã từng ca tụng Hitler: "Giống như một ngôi sao mới lên... người đã cho chúng tôi niềm tin... Những gì ông phát biểu là ngôn từ vĩ đại nhất ở Đức kể từ Bismarck... Một ngày nào đấy, nước Đức sẽ cảm ơn ông..." Nhưng sau hơn một năm, thần tượng của Goebbels đã sụp đổ. Hitler đã trở thành "tiểu tư sản" đáng bị tống cổ ra khỏi Đảng. Vì chỉ có Ley và Feder chống đối, Đại hội ở Hanover biểu quyết chấp nhận chương trình mới của Đảng do Strasser đề xuất và tham gia cùng những người Marxit vận động cuộc trưng cầu dân ý để tịch thu tài sản của các gia đình vương triều lúc trước .
Ngày 14 tháng 2 năm 1926, Hitler phản công. Ông triệu tập một Đại hội Bamberg, miền Nam nước Đức. Ông ta ranh mãnh chọn ngày làm việc để tổ chức Đại hội, nhằm mục đích làm cho các nhà lãnh đạo Đảng ở miền Bắc khó rời bỏ công việc mà tham dự được. Kết quả là chỉ có Gregor Strasser và Goebbels từ miền Bắc đến tham dự. Họ bị các nhà lãnh đạo Đảng ở miền Nam dùng số đông áp đảo. Các sử gia Đức thiên Quốc xã và một số tác giả nước ngoài bị họ dẫn dắt kể lại rằng trong Đại hội này, Goebbels bỏ rơi Strasser để về phe Hitler. Nhưng nhật ký của Goebbels sau này lại cho thấy ông không phản bội Strasser một cách nhanh chóng như thế. Nhật ký ghi là lúc đầu Goebbels nghĩ Hitler hoàn toàn sai lầm và không có ý định về phe với ông. Goebbels ghi lại: "Hitler phát biểu trong 2 giờ đồng hồ... Hitler là kiểu người gì thế? Hoàn toàn sai lầm về vấn đề Nga... Kinh khủng!... Ta phải tiêu diệt Nga!... Không nên đả động đến tài sản của giới quý tộc. Khiếp!... Tôi không thể thốt lên tiếng nào .
Chắc chắn đây là một trong những nỗi thất vọng lớn lao nhất trong đời tôi. Tôi không còn tin tưởng hoàn toàn vào Hitler..." Để chứng tỏ mình trung thành với ai, Goebbels tìm gặp Strasser nhằm an ủi ông này .
Nhưng Hitler nắm rõ tâm lý của Goebbels giỏi hơn là Strasser. Nhật ký của Goebbels ghi là Hitler mời ông đến Munich để phát biểu ngày 8 tháng 4 năm 1926, tức gần 2 tháng sau Đại hội Đảng ở Bamberg. Ông đến đó vào ngày 7 tháng 4 và thấy xe của Hitler đang chờ sẵn và ông được đón tiếp một cách trọng thị. Ngày kế tiếp, khi ông đến diễn đàn, Hitler chờ sẵn ở đấy. Khi Goebbels bước vào, tiếng chào đón rộ lên. Ông phát biểu trong 2,5 giờ trên cùng khán đài với Hitler, rồi tiếng hoan hô nổi lên và Hitler ôm hôn ông .
Ít ngày sau, Goebbels hoàn toàn khuất phục. Ông ghi vào nhật ký: "Ngày 13 tháng 4: Hitler phát biểu trong 3 giờ. Xuất sắc. Ông ấy có thể làm cho ta nghi ngờ quan điểm của mình. Nga muốn nuốt chửng ta... Ông ấy đã nghĩ đến mọi việc... Tôi cảm phục con người vĩ đại ấy, một thiên tài chính trị." Khi Goebbels rời Munich vào ngày 17 tháng 4, ông trở thành người của Hitler và trung thành với Hitler cho đến ngày cuối cùng .
Vào mùa hè, Goebbels dành nhiều thời giờ đến thảo luận với Hitler, và nhật ký của ông ghi đầy những lời tán tụng Lãnh tụ. Tháng 8 năm 1926, Goebbels công khai rời khỏi Strasser trong một bài đăng trên tờ báo Voelkischer Beobachter của Đảng: "Chỉ bây giờ tôi mới nhận ra bản chất thực của các anh [Stoasser và nhóm của ông ta] chỉ là những người Cách mạng bằng miệng lưỡi nhưng không bằng hành động... Đừng nói nhiều về lý tưởng và đừng tự lừa dối rằng các anh là những người tiên phong... Chúng ta chẳng có gì phải hối hận nếu siết chặt hàng ngũ sau lưng Hitler... Tôi thấy ông ấy là con người vĩ đại nhất trong tất cả chúng ta, vĩ đại hơn cả các anh và tôi..." Tháng 10 năm 1926, Hitler cử Goebbels làm Xứ uỷ Berlin. Ông chỉ thị cho Goebbels quét sạch đám S.A. đang tranh cãi nhau và cản trở bước tiến của phong trào Quốc xã. Thủ đô Berlin là vùng "đỏ". Phần lớn cử tri ủng hộ các phe Xã hội và Cộng sản. Không sờn lòng, Goebbels bắt tay vào công việc muôn vàn khó khăn ấy lúc mới 29 tuổi, chỉ sau hơn 1 năm, ông bước ra từ bóng tối để trở thành một trong những ngọn đèn soi đường cho Đảng Quốc xã .
THỜI GIAN THƯ GIÃN VÀ LÃNG MẠN CHO ADOLF HITLER
Theo như Hitler kể lại sau này, những năm tĩnh lặng về chính trị chính là khoảng thời gian tốt đẹp nhất cho đời tư của ông. Bị cấm phát biểu trước công chúng cho đến năm 1927, với ý định hoàn tất quyển Mein Kampf và sắp đặt trong đầu tương lai của Đảng Quốc xã và của chính mình, Hitler dành phần lớn thời gian ở gần ngôi làng Berchtesgaden trên vùng Obersalzberg, trên dãy núi Alps của Bavaria. Đó là một thiên đường để nghỉ ngơi và thư giãn .
Sau này, trong các cuộc độc thoại ở tổng hành dinh mặt trận, vào những buổi tối thư giãn với các đồng chí kỳ cựu và nữ thư ký trung thành của mình, nhớ về tháng ngày cũ, Hitler nói nhiều về nơi ẩn dật trong vùng rừng núi ấy. Tối 16 rạng ngày 17 tháng 1 năm 1942, ông kể: "Vâng, có nhiều mối dây liên hệ giữa Obersalzberg và tôi. Nơi ấy mang nhiều kỷ niệm của tôi... Tôi đã trải qua những thời khắc đẹp đẽ nhất trong đời... Chính ở đây mà mọi kế hoạch to tát nhất của tôi hình thành và chín muồi. Tôi có nhiều giờ nhàn rỗi trong những ngày này, đặc biệt là có nhiều bè bạn khả ái!" .
Trong 3 năm đầu sau khi ra tù, Hitler ngụ trong những quán trọ khác nhau ở Obersalzberg. Và trong hoài niệm mùa đông năm 1942 ấy, ông nói hàng giờ về nơi chốn này. Ông kể lại 2 mối ưu tư của mình: "Vào thời gian này, tôi quen biết nhiều phụ nữ. Vài người trong số họ để ý đến tôi. Thế thì tại sao tôi không kết hôn? Rồi để lại một người vợ phía sau mình? Chỉ với một hành động khinh suất nhỏ nhặt, tôi có nguy cơ ngồi tù trong 6 năm nữa. Vì thế không có chuyện hôn nhân đối với tôi. Tôi phải từ chối vài cơ hội tự đến với mình." Việc Hitler sợ bị tống vào tù lần nữa hoặc bị trục xuất là có cơ sở. Nếu ông ngang nhiên vi phạm lệnh cấm phát biểu trước công chúng, chính quyền Bavaria hẳn có thể giam ông vào ngục hoặc trục xuất ông về sinh quán ở Áo. Một lý do khiến Hitler chọn Obersalzberg làm nơi ẩn náu là vì vùng này tiếp giáp với biên giới Áo, nếu bị đánh động, ông có thể tức khắc luồn qua biên giới để tránh cảnh sát Đức tầm nã. Nhưng nếu trở về Áo, dù tự ý hay bị bắt buộc, tương lai của ông sẽ bị huỷ hoại. Để giảm nguy cơ trục xuất, ngày 7 tháng 4 năm 1925, Hitler chính thức từ bỏ quốc tịch Áo và Chính phủ Áo lập tức chấp nhận. Nhưng việc này khiến cho ông trở thành người vô tổ quốc: ông từ bỏ quốc tịch Áo nhưng chưa trở thành công dân Đức. Đó là trở ngại đáng kể cho một chính trị gia ở Đức: ông không thể ra ứng cử. Ông công khai tuyên bố rằng sẽ không xin xỏ Chính phủ Cộng hoà quốc tịch mà ông nghĩ đáng lẽ phải thuộc về mình, do thời gian phục vụ Quân đội hoàng gia Đức trong chiến tranh. Nhưng trong những năm cuối của thập niên 1920, Hitler đã bí mật xin chính quyền Bavaria cho mình trở thành công dân Đức. Tuy vậy, các nỗ lực của ông đều thất bại .
Về vấn đề phụ nữ và hôn nhân, có đôi phần sự thật trong lời tự sự của Hitler vào buổi tối năm 1942 ấy. Trái ngược với ý nghĩ của nhiều người, ông thích gặp gỡ phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ đẹp. Ông đề cập rất nhiều lần đến việc này khi hàn huyên ở Tổng Hành dinh Tối cao trong chiến tranh. Ông có vài mối quan hệ lãng mạn, nhưng Adolf Hitler nặng tình nhất là với cô cháu gái .
Vào mùa hè 1928, Hitler thuê một biệt thự ở Obersalzberg và mời người chị cùng cha khác mẹ Angela Raubal từ Vienna đến để chăm sóc nhà cửa cho mình.Bà Raubal dẫn theo hai cô con gái, Geli và Friedl. Geli 20 tuổi, có mái tóc bạch kim bồng bềnh, dáng vẻ xinh đẹp, giọng nói dễ nghe và làn da rám nắng đã khiến cô trở nên hấp dẫn với đàn ông .
Chẳng bao lâu, Hitler yêu cô cháu gái. Ông dẫn cô đi khắp nơi, đến những buổi tụ họp và hội nghị, đi dạo trên sườn núi, đi đến quán cà phê và nhà hát ở Munich. Vào năm 1929, khi Hitler thuê một căn hộ cao cấp có 9 phòng ở Munich, cô được một phòng cho riêng mình. Điều không tránh khỏi là có những lời đồn đại về nhà lãnh đạo Đảng và cô cháu gái xinh đẹp. Vài người lãnh đạo Đảng nghiêm khắc – hoặc ganh tị – đề nghị Hitler không nên phô trương cô gái với công chúng, hoặc nên kết hôn với cô. Hitler giận dữ với lời nói ấy và trong một cuộc cãi vã về việc này, ông đã cách chức một Xứ uỷ Đảng .
Dường như Hitler có ý định cưới cô cháu gái. Các Đảng viên thân cận với ông vào thời gian này nói với tôi rằng cuộc hôn nhân ấy có thể là điều không tránh khỏi. Họ tin chắc rằng Hitler yêu cô gái một cách sâu đậm. Riêng tình cảm của cô như thế nào thì chỉ là điều ước đoán. Hiển nhiên là cô cảm thấy hãnh diện và vui sướng được một người đàn ông nổi tiếng như thế chăm sóc. Nhưng liệu cô có đáp lại tình cảm của ông không thì chẳng rõ, lúc ấy có lẽ là không và cuối cùng chắc chắn là không. Giữa hai người có rạn nứt gì thì chẳng ai biết rõ lý do. Có nhiều phỏng đoán nhưng không có mấy chứng cứ. Hai người dường như ghen tuông lẫn nhau. Cô không thích ông chú ý đến phụ nữ khác – đặc biệt là Winifred Wagner. Ông nghi cô có mối quan hệ thầm kín với Emil Maurice, cận vệ của mình và không muốn cô đi bên ai ngoại trừ ông. Hitler cấm cản cô đi Vienna để tiếp tục học thanh nhạc, vì thế dập tắt tham vọng của cô về nghiệp sân khấu. Ông muốn cô là của riêng mình .
Cũng có dấu hiệu chỉ ra rằng cô cảm thấy khó chịu vì cá tính hung bạo của Hitler, rằng con người chuyên chế trong chính trị này muốn người phụ nữ mà ông yêu phải làm nô lệ ái tình cho mình. Theo những nhà tình dục học, điều này là không hiếm ở những người đàn ông như thế. Có một lá thư do Hitler viết vào năm 1929, thổ lộ tình cảm sâu đậm của ông đối với cô gái. Lá thư rơi vào tay người con trai bà chủ nhà và gây ra hậu quả thảm khốc về sau .
Dù tình cảm của hai bên ra sao đi chăng nữa, thì những trận cãi vã giữa họ ngày càng trở nên nặng nề hơn. Đến cuối mùa hè 1931, Geli cho biết cô định trở về Vienna để tiếp tục học thanh nhạc. Hitler cấm cản cô. Ngày 17 tháng 9 năm 1931, khi ông đang bước lên ô tô để đi Hamburg, những người hàng xóm thấy cô đứng ở cửa sổ gọi theo: "Thế ông không cho tôi đi Vienna phải không?" và người ta nghe ông trả lời: "Không!" Sáng hôm sau, người ta thấy Geli Raubal bị trúng đạn chết trong phòng của cô. Cuộc điều tra của chính quyền cho thấy đây là một vụ tự sát. Viên pháp y báo cáo rằng một viên đạn đã đi qua ngực phía dưới vai trái và xuyên qua tim, có vẻ chắc chắn phát súng là do cô gái tự gây ra .
Tuy thế, trong nhiều năm sau ở Munich có lời đồn đại râm ran rằng Geli Raubal bị sát hại – có người nói là do Hitler trong cơn giận dữ, có người bảo do Himmler vì muốn chấm dứt hoàn cảnh gây tai tiếng cho Đảng. Nhưng không có chứng cứ đáng tin nào .
Riêng Hitler thì đau khổ nhiều. Gregor Strasser sau này kể lại rằng mình kề cận bên Hitler trong 2 ngày và đêm kế tiếp để ngăn ông tự tử. Một tuần sau lễ mai táng Geli ở Vienna, Hitler nhận được giấy phép đặc biệt để đi đến đây, ông ở bên mộ cô cả buổi tối mà khóc. Không gì an ủi được ông trong nhiều tháng .
Ba tuần sau cái chết của Geli, Hitler được Tổng thống Hindenburg tiếp kiến lần đầu tiên. Đây là nỗ lực đầu tiên của Hitler nhắm đến chiếc ghế Thủ tướng của Đế chế. Nhà lãnh đạo Quốc xã bị rối loạn tinh thần trong cơ hội quan trọng này, khiến cho buổi trao đổi diễn ra rất bất lợi cho ông. Vài người bạn của Hitler nhận thấy ông không còn khả năng ăn nói như thường ngày. Những người hiểu rõ hoàn cảnh cho rằng đó là do ông bị sốc nặng sau cái chết của cô cháu gái .
Tác giả tin rằng biến cố cá nhân này đã dẫn đến một hành động từ bỏ: Hitler quyết định không ăn thịt, ít nhất, vài người thân cận của ông dường như nghĩ như thế. Sau này, ông nói với họ rằng Geli Raubal là người phụ nữ duy nhất mà ông từng yêu thương và ông luôn nói về cô trong nước mắt với vẻ tôn trọng sâu sắc nhất. Những người hầu cho biết ngay cả sau khi ngôi nhà ở Obersalzberg được sửa sang lại và mở rộng thêm, căn phòng của cô gái vẫn được giữ nguyên như khi cô ra đi. Các bức hoạchân dung của cô gái luôn được treo trong căn phòng của Hitler ở đây và ở Phủ Thủ tướng tại Berlin. Mỗi năm, vào ngày sinh và ngày mất của cô đều có hoa đặt quanh các bức hoạ này .
Đối với một người đàn ông hung bạo, dường như không bao giờ biết yêu thương người nào khác, tình cảm sâu đậm của Hitler dành cho Geli Raubal là một trong những điều bí ẩn nổi bật trong cuộc đời kỳ lạ của ông. Adolf Hitler không bao giờ có ý định nghiêm túc về hôn nhân, chỉ trừ đến ngày trước khi ông tự kết liễu cuộc đời mình vào 14 năm sau .
Linh mục Bernhard Stempfle thu hồi từ tay con trai bà chủ nhà lá thư gây bẽ mặt của Hitler đã viết cho cô cháu. Ông này là linh mục Công giáo và cũng là một nhà báo bài Do Thái đã giúp biên tập cho cuốn sách Mein Kampf trước khi xuất bản. Franz Xavier Schwarz, thủ quỹ của Đảng, đã xuất tiền ra để mua lại lá thư. Vì thế, Cha Stempfle là một trong số ít người biết đôi điều bí mật về tình yêu của Hitler dành cho Geli Raubal. Ông này cũng chẳng giữ kín vụ việc cho riêng mình. Ông sẽ phải trả giá bằng mạng sống của mình khi tác giả của Mein Kampf trở thành nhà độc tài của Đức và một ngày tính sổ ân oán với bạn bè cũ .
Người ta không bao giờ biết được nguồn thu nhập của Hitler trong những năm thoải mái này là từ đâu, khi mà ông mua biệt thự Berghof ở Obersalzberg và một căn hộ cao cấp ở Munich, lại còn sử dụng một chiếc ô tô sang trọng có người lái. Nhưng hồ sơ nộp thuế được phát hiện sau chiến tranh cho biết một số chi tiết. Trước khi trở thành Thủ tướng và được miễn thuế, Hitler liên tục có vấn đề với cơ quan thuế vụ. Nhiều hồ sơ tích tụ trong thời gian từ 1925 đến 1933 .
Ngày 1 tháng 5 năm 1925, Sở Tài chính Munich thông báo cho Hitler biết là ông chưa khai thuế cho năm 1924 và quý 1 năm 1925. Hitler trả lời: "Tôi không có thu nhập trong năm 1924 [khi đang ngồi tù] và trong quý 1 năm 1925. Tôi vay ngân hàng để chi tiêu." Nhân viên thu thuế hỏi về chiếc ô tô. Hitler trả lời rằng ông cũng vay ngân hàng. Trong tất cả hồ sơ khai thuế, Hitler ghi nghề nghiệp của mình là "tác giả" và đó là một cách minh chứng một phần lớn thu nhập được dùng để chi tiêu cho công việc, nhằm mục đích được miễn tính thuế .
Trong bản giải trình đánh máy dài 3 trang, Hitler biện minh cho khoản miễn trừ tiền thuế là vì phải chi tiêu cho nghề nghiệp, lập luận rằng những hoạt động chính trị cung cấp chất liệu để ông viết về những đề tài chính trị và cũng để tăng doanh số cho cuốn sách của mình .
"Nếu tôi không hoạt động chính trị thì người ta không biết tôi là ai và tôi thiếu tư liệu để xuất bản một cuốn sách chính trị... Vì thế trong trường hợp của tôi, là tác giả chính trị, các chi tiêu cho hoạt động chính trị của tôi, là điều kiện cần cho việc viết sách chính trị và đảm bảo thành công về mặt tài chính không được xem là cơ sở để tính thuế .
Sở Tài chính có thể thấy trong thu nhập từ cuốn sách của tôi, trong thời gian ấy, tôi chỉ dùng phần nhỏ cho riêng mình, tôi không có bất động sản hoặc tài sản ở bất kỳ nơi nào mà tôi có thể gọi là của riêng tôi. Tôi hạn chế nhu cầu cá nhân theo cách nhịn hút thuốc và uống rượu, dùng bữa ở nhà hàng khiêm tốn nhất và ngoài tiền thuê căn hộ tối thiểu thì các chi tiêu khác được tính vào chi phí cho tác giả chính trị... Chiếc ô tô tôi dùng cũng là phương tiện để phục vụ cứu cánh. Nó giúp tôi trong công việc hằng ngày" .
Rốt cuộc, Sở Tài chính chỉ chấp thuận miễn trừ phân nửa thu nhập, phân nửa còn lại phải tính thuế. Hitler phản đối nhưng vẫn chịu trả thuế theo mức ấn định .
Tổng thu nhập trước thuế ghi trong hồ sơ khai thuế của Hitler tương ứng khá chính xác với tiền tác quyền ông nhận được từ quyển Mein Kampf, dao động lên xuống trong khoảng hơn 11.000 đến gần 20.000 mác Đức mỗi năm, trong khoảng thời gian 1925-1929. Vì Sở thuế có thể kiểm tra sổ sách kế toán của các nhà xuất bản, Hitler không dám khai man tiền tác quyền. Nhưng ông chẳng bao giờ kê khai các nguồn thu khác. Người ta biết rằng vào thời gian này Hitler đòi hỏi – và nhận được – thù lao cao cho nhiều bài ông viết đăng trên sách báo của Quốc xã. Có nhiều lời càu nhàu của Đảng viên về những chi phí cao cho Hitler .
Vào cuối những năm 1920, các ngành công nghiệp lớn ở Bavaria và Rhineland bắt đầu rót tiền cho Đảng Quốc xã do chủ trương chống đối phe Marxit và nghiệp đoàn. Hitler thường tiếp nhận trực tiếp những khoản tiền ấy. Có lẽ người ta không bao giờ biết Hitler giữ lại bao nhiêu cho riêng mình. Nhưng mức sống của ông trong những năm này cho thấy không phải mọi khoản tiền ông nhận đều được giao lại cho thủ quỹ của Đảng .
Điều có thật là trong giai đoạn từ 1925 đến 1928, Hitler than phiền gặp khó khăn trong việc trả thuế, ông luôn trả muộn và liên tục xin gia hạn thời gian nộp thuế. Ông giải trình với cơ quan thuế vụ rằng mình luôn mắc nợ vì chi tiêu cao hơn thu nhập .
Thế rồi, giống như có phéplạ, vào năm 1929, dù thu nhập được khai báo thấp hơn 1925, nhưng các khoản chicho lãi suất ngân hàng và thanh toán tiền nợ đã biến mất khỏi tờ khai thuế vàkhông bao giờ xuất hiện trở lại. Bằng cách nào đấy, mọi nợ nần đã được thanhtoán xong xuôi. Như Giáo sư Hale nhận xét: "một phép lạ tài chính đã xảy ra vàông ấy đã thanh toán nợ nần." Công bằng mà nói, dường nhưHitler không bao giờ để ý đến chuyện tiền nong – có đủ tiền để sống thoải máihay phải lo cật lực kiếm tiền, ông không cần quan tâm. Dù sao chăng nữa, vàonăm 1930, khi tiền tác quyền của ông tăng lên gấp ba và có thêm đóng góp tàichính của giới công nghiệp, Hitler chẳng còn phải lo lắng gì về mặt tài chính.Bây giờ, ông có thể tập trung mọi năng lượng và tài năng vào hoài bão đời mình.Thời khắc để chiếm lấy quyền lực cho chức vị độc tài của một quốc gia vĩ đại đãđến
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top