Phần 20


CHIẾN THẮNG TRÊN MẶT TRẬN PHÍA TÂY 

 SÁNG sớm một ngày mùa xuân đẹp trời, 10 tháng 5 năm 1940, Ribbentrop thông báo cho Đại sứ Bỉ và Công sứ Hà Lan tại Đức rằng quân Đức đang tiến vào lãnh thổ của họ nhằm bảo vệ nền trung lập, đồng thời là để chống lại cuộc tấn công sắp đến của quân Anh và Pháp. Đây cũng là lý do hèn hạ mà Đức đã sử dụng chỉ 1 tháng trước với Đan Mạch và Na Uy. Một tối hậu thư chính thức của Đức kêu gọi 2 Chính phủ ngăn chặn việc kháng cự. Nếu không, Đức sẽ nghiền nát việc kháng cự bằng mọi cách và trách nhiệm đối với việc gây đổ máu "sẽ do Vương quốc Bỉ và Chính phủ Hoàng gia Hà Lan gánh chịu" .

Cũng như ở Copenhagen và Oslo trước đây, ở Bruxelles và The Hague các nhà ngoại giao Đức cũng trao công hàm tương tự cho nước chủ nhà. Tại Bộ Ngoại giao Bỉ, khi máy bay thả bom của Đức đang gầm rú trên đầu và tiếng bom nổ ở những sân bay kế cận khiến cho cửa kính rung chuyển, thì Đại sứ Đức Buelow-Schwante bước vào văn phòng Bộ trưởng và bắt đầu rút ra 1 mảnh giấy từ trong túi áo. Ngoại trưởng Bỉ Paul-Henri Spaak ngăn ông lại: "Xin lỗi, ông Đại sứ. Để cho tôi nói trước .

Quân đội Đức [Spaak nói mà không giấu giếm cảm nghĩ bị xúc phạm] vừa tấn công đất nước chúng tôi. Đây là lần thứ hai trong vòng 25 năm, Đức phạm tội gây hấn với một nước Bỉ trung lập. Những gì xảy ra có lẽ còn ghê tởm hơn là cuộc xâm lăng năm 1914. Không có tối hậu thư, không có công hàm, không có lời phản đối theo bất cứ cách nào được đưa ra trước Chính phủ Bỉ. Chỉ qua chính việc tấn công mà Bỉ mới biết rằng Đức xâm phạm những điều khoản mà Đức đã cam kết với Bỉ... Đế chế Thứ Ba sẽ chịu trách nhiệm trước lịch sử. Bỉ sẽ quyết tâm tự vệ." Vị Đại sứ Đức buồn rầu bắt đầu đọc lên bản tối hậu thư, nhưng Spaak ngắt ngang. "Đưa văn bản cho tôi." Ông nói. "Tôi muốn tránh cho ông một nhiệm vụ đau khổ như thế." Chế độ Cộng hoà Đức cam kết sẽ không bao giờ cầm súng đánh Bỉ. Sau khi lên cầm quyền, Hitler liên tiếp tái xác nhận rằng sẽ không bao giờ xâm lấn Bỉ, đồng thời cũng đưa ra những lời đảm bảo tương tự cho Hà Lan. Ngày 30 tháng 1 năm 1937, sau khi từ bỏ Hiệp ước Locarno, Thủ tướng Quốc xã Hitler còn công khai tuyên bố: "Chính phủ Đức muốn trấn an Bỉ và Hà Lan rằng chúng tôi sẵn sàng công nhận và đảm bảo sự toàn vẹn lãnh thổ và nền trung lập của các quốc gia này." Sợ hãi vì việc Đức tái vũ trang và chiếm lại vùng Rhineland, Bỉ muốn quay lại nền trung lập sau khi từ bỏ chính sách này năm 1918. Ngày 24 tháng 4 năm 1937, Anh và Pháp bãi miễn cho Bỉ các nghĩa vụ trong Hiệp ước Locarno. Ngày 13 tháng 10 trong năm này, Đức chính thức và long trọng xác nhận: "... quyết tâm rằng trong bất kỳ trường hợp nào sẽ không xâm phạm sự toàn vẹn [của Bỉ] và lúc nào cũng tôn trọng lãnh thổ Bỉ... cùng với đó sẽ luôn sẵn sàng hỗ trợ Bỉ nếu nước này bị tấn công..." Từ ngày ấy, Hitler thường thiếu nhất quán giữa những lời tuyên bố công khai và những lời khiển trách các tướng lĩnh trong bí mật. Ngày 28 tháng 4 năm 1939, khi trả lời Tổng thống Mỹ Roosevelt, Hitler lại nêu rõ "những tuyên bố có tính ràng buộc" đã được đưa ra cho Hà Lan và Bỉ. Không đầy 1 tháng sau, ngày 23 tháng 5, Lãnh tụ lại bảo các tướng lĩnh rằng: "phải chiếm đóng các căn cứ không quân ở Hà Lan và Bỉ... với tốc độ sấm sét, phớt lờ những tuyên bố về nền trung lập." Hitler chưa khởi động cuộc chiến, nhưng các kế hoạch của ông đã sẵn sàng. Ngày 22 tháng 8, 1 tuần trước khi tấn công Ba Lan, ông hội ý với tướng lĩnh về "khả năng" vi phạm nền trung lập của Hà Lan và Bỉ. Bốn ngày tiếp theo, ông ra lệnh cho các Đại sứ Đức tại Bỉ và Hà Lan thông báo với nước chủ nhà rằng nếu chiến tranh bùng nổ, "dù là trong trường hợp nào, thì Đức cũng sẽ không vi phạm sự toàn vẹn lãnh thổ của Bỉ và Hà Lan", đồng thời ông còn công khai lặp lại lời trấn an này vào ngày 6 tháng 10, khi chiến dịch Ba Lan kết thúc .

Ngày hôm sau, 7 tháng 10, nhận lệnh của Hitler, Tướng von Brauchitsch chỉ thị cho các chỉ huy quân sự: "thực hiện mọi bước chuẩn bị nhằm lập tức xâm lăng lãnh thổ Hà Lan và Bỉ, nếu tình hình chính trị đòi hỏi." 2 ngày sau, Hitler ban hành Chỉ thị số 6: "Thực hiện các bước chuẩn bị cho một cuộc hành quân tấn công... qua Luxembourg, Bỉ và Hà Lan. Phải phát động cuộc tấn công này càng sớm và càng mạnh càng tốt... Mục đích của cuộc tấn công là chiếm lấy những vùng đất của Hà Lan, Bỉ và miền Bắc nước Pháp với mức độ rộng nhất có thể." Vào thời gian xảy ra sự cố máy bay đáp khẩn cấp ngày 10 tháng 1 năm 1940, quân đội Hà Lan và Bỉ đã nhận được tin tình báo là Đức đang tập trung khoảng 50 sư đoàn dọc biên giới .

Họ cũng có nguồn tin quý giá khác thường ở thủ đô Đức từ Đại tá Tuỳ viên Quân sự G. J. Sas của Hà Lan tại Berlin. Sas là bạn thân với Đại tá Quân báo Oster và thường đến dùng bữa tối tại nhà ông này ở vùng ngoại ô. Đầu tháng Mười một, Oster tiết lộ cho Sas là Đức sẽ tấn công vào ngày 12 tháng 11 năm 1939 và sau đó đưa cảnh báo mới vào tháng 1 năm 1940. Vì lẽ sau mỗi lần cảnh báo đều không xảy ra tấn công, cả Hà Lan và Bỉ đều mất tin tưởng Sas, nhưng hiển nhiên họ không biết Hitler thật sự đã ấn định ngày rồi hoãn lại. Tuy nhiên, việc Sas nhận tin từ Oster về cuộc tấn công Na Uy và Đan Mạch và dự báo thời điểm chính xác dường như vãn hồi lòng tin tưởng nơi Sas .

Ngày 3 tháng 5, Oster thẳng thừng nói với Sas rằng Đức sẽ tấn công qua Hà Lan và Bỉ ngày 10 tháng 5 và Sas lập tức báo cáo về nước. Ngày hôm sau, Hà Lan nhận được xác minh tin này từ Đại sứ của họ tại Toà thánh Vatican. Hà Lan báo tin ngay cho Bỉ .

Buổi tối 9 tháng 5, Oster và Sas cùng ăn tối với nhau và đây là lần cuối cùng họ làm như thế. Oster xác nhận rằng mệnh lệnh cuối cùng đã được ban hành để phát động tiến công vào bình minh ngày hôm sau. Để biết chắc không có sự thay đổi vào giờ chót, sau bữa ăn Oster ghé qua Bộ Chỉ huy Tối cao Quân lực. Không có tin thay đổi nào. Sas thông báo cho Tuỳ viên Quân sự Bỉ rồi gọi điện về Hà Lan. Một mật mã đặc biệt đã được thiết lập cho thời khắc này và Sas sử dụng ngôn từ vô thưởng vô phạt để đưa về tin báo với nội dung "Ngày mai, lúc bình minh. Hãy chuẩn bị." Điều kỳ lạ là cả Anh và Pháp đều bị bất ngờ. Bộ Tổng Tham mưu cả 2 nước đều bác bỏ tin báo từ Bỉ và Hà Lan. Riêng London thì bận rộn trong cuộc khủng hoảng Nội các, cuộc khủng hoảng dẫn đến việc Churchill thay Chamberlain làm Thủ tướng vào ngày 10 tháng 5. Tin tức đầu tiên về cuộc tấn công mà các tổng hành dinh Anh và Pháp nhận được là sau khi máy bay oanh tạc và máy bay tiêm kích của Đức đang gầm rú trên trời, tiếp theo vào lúc bình minh là lời kêu gọi cứu giúp khẩn cấp từ 2 Chính phủ Hà Lan và Bỉ, vốn đã giữ khoảng cách với Đồng minh trong 8 tháng thay vì phối hợp với nhau cho cuộc phòng vệ chung .

Tuy thế, trong vài ngày đầu, Đồng minh xúc tiến kế hoạch đối đầu với mũi tiến công của Đức ở Bỉ. Một đoàn quân hùng hậu Anh-Pháp từ biên giới Pháp-Bỉ kéo đến tuyến phòng thủ dọc các sông Dyle và Meuse phía Đông Bruxelles. Đây chính là điều mà Quân đội Đức mong muốn. Cuộc chuyển quân lớn của Đồng minh sa đúng vào cái bẫy của Đức .

NHỮNG PHƯƠNG ÁN KÌNH CHỐNG NHAU Phương án tấn công đầu tiên của Đức ở phía Tây được thay đổi toàn diện từ khi hồ sơ rơi vào tay Bỉ và phía Đức nghi ngờ rằng nó cũng đã rơi vào tay Anh-Pháp. Do Hitler thúc ép, vào mùa thu 1939 Bộ Tư lệnh Lục quân vội vã soạn thảo Phương án Màu Vàng nhằm đánh qua phía Tây dự kiến sẽ diễn ra vào giữa tháng Mười một. Theo phương án đầu tiên này, mũi tiến công chính của Đức là theo sườn phải đánh qua Bỉ và miền Bắc nước Pháp nhằm chiếm lấy các cảng dọc bờ biển Manche. Mục đích của Hitler là chỉ đẩy lùi chứ không hạ nốc ao quân Pháp, thay vào đó là trấn đóng các căn cứ không quân và hải quân dọc bờ biển Manche nhằm làm bàn đạp mà khuấy phá và phong toả nước Anh. Theo những lời hô hào của Hitler với tướng lĩnh, Hitler nghĩ rằng với chiến bại như thế thì Anh và Pháp sẽ chịu dàn hoà để rồi ông sẽ chuyển sự chú tâm qua phía Đông .

Ngay cả trước khi Phương án Màu Vàng đầu tiên rơi vào tay Bỉ, Bộ Chỉ huy Tối cao Đồng minh cũng đã đoán trước được kế hoạch của Đức. Ngày 17 tháng 11 năm 1939, Hội đồng Chiến tranh Tối cao Đồng minh họp ở Paris chấp thuận "Phương án D" theo đó các Đại Quân đoàn Thứ Nhất và Thứ Chín của Pháp sẽ cùng với Lực lượng Viễn chinh Anh kéo đến tuyến phòng thủ bên bờ hai con sông Dyle và Meuse, trải dài từ Antwerp qua Louvain, Namur và Givet cho đến Mezieres .

Vào cuối tháng 11 năm 1939, Đồng minh có thêm sức mạnh: Đại Quân đoàn Thứ Bảy của Tướng Henri Giraud sẽ tiến đến bờ biển Manche để hỗ trợ Hà Lan trong trường hợp Hà Lan cũng bị tấn công. Vì thế, nếu Đức tấn công qua Bỉ – và có lẽ cả Hà Lan – để đi vòng qua Phòng tuyến Maginot, họ sẽ phải lập tức đối đầu với toàn bộ Lực lượng Viễn chinh Anh, lực lượng chính yếu của Quân đội Pháp, 22 sư đoàn của Bỉ và 10 sư đoàn của Hà Lan – cộng lại tương đương với Đức về quân số .

Chính vì để tránh đối đầu trực diện như thế và cùng lúc đưa quân đội Anh và Pháp vào rọ mà Trung tướng Erich von Manstein, Tham mưu trưởng Tập đoàn quân A dưới quyền Rundstedt, đã đề xuất thay đổi sâu rộng Phương án Màu Vàng. Manstein là một tướng tham mưu thiên bẩm và nhiều sáng kiến ở cấp tương đối thấp, nhưng vào mùa đông ông có cơ hội trình bày tưởng táo bạo của mình cho Hitler trong sự chống đối lúc đầu của Brauchitsch, Halder và một vài tướng lĩnh khác. Đề xuất của Manstein là mũi tiến công chính của Đức phải là ở khu vực trung tâm xuyên qua vùng Ardennes bằng một lực lượng cơ giới mạnh mẽ, vượt sông Meuse về phía Bắc của Sedan, đánh qua vùng đồng trống rồi tiến nhanh đến bờ biển Manche tại Abbeville. Vì là người vốn luôn để ý đến những giải pháp táo bạo và thậm chí có phần khinh suất, nên Hitler khá quan tâm đến phương án mới. Rundstedt kiên trì thúc đẩy ý tưởng này không những vì ông tin nó sẽ thành công, mà còn vì Tập đoàn quân A của ông sẽ đóng vai trò quyết định. Riêng Halder thì không ưa Manstein, còn vài tướng lĩnh cấp cao hơn Manstein thì có ý ganh tỵ với ông này. Vì thế, vào cuối tháng 1 năm 1940, Manstein đã bị đẩy đi làm chỉ huy của một quân đoàn bộ binh. Nhưng ngày 17 tháng 2, trong bữa ăn tối ở Berlin để khoản đãi các tân tư lệnh quân đoàn, Manstein đã có được cơ hội diễn giải cho đích thân Hitler nghe các quan điểm phi chính thống của mình .

Manstein biện luận rằng 1 mũi tiến công bằng cơ giới qua Ardennes sẽ làm Đồng minh bị bất ngờ nhất, vì lẽ tướng lĩnh của họ – cũng như phần lớn tướng lĩnh Đức – đều xem vùng đồi núi này là không thích hợp cho xe thiết giáp. Một mũi tấn công nghi binh ở cánh phải của Đức sẽ thu hút quân Anh-Pháp đổ xô đến Bỉ. Lúc ấy, bằng cách đánh qua Pháp ở Sedan và phóng về hướng tây, quân Đức sẽ bao vây được lực lượng chủ lực của Anh-Pháp cũng như quân đội Bỉ .

Đó là một phương án táo bạo, có rủi ro, như vài tướng lĩnh kể cả Jodl nêu rõ. Nhưng vào lúc này, vốn tự cho mình là một thiên tài về quân sự, Hitler xem đó là ý tưởng của mình và ông càng thêm phấn khởi.Dù ban đầu bài bác ý tưởng đó là lập dị, nhưng rồi Halder dần dà chấp nhận phương án mới. Với sự hỗ trợ của Bộ Tham mưu Lục quân, ông cải thiện đáng kể phương án này. Ngày 24 tháng 2 năm 1940, Bộ Chỉ huy Tối cao Quân lực chính thức chấp thuận phương án, đồng thời ra lệnh cho tướng lĩnh điều động lại các đơn vị của họ, hạn chót là vào ngày 7 tháng 3 .

Riêng kế hoạch tấn công Hà Lan – vốn đã bị loại ra khỏi Phương án Màu Vàng khi chỉnh lý ngày 29 tháng 10 năm 1939 – lại được tái lập vào ngày 14 tháng 11 vì Không quân thúc giục. Việc này là nhằm chiếm các sân bay của Hà Lan để dùng làm nơi xuất phát thả bom quân Anh và cũng làm căn cứ xuất phát lính dù cho cuộc hành quân tuy nhỏ nhưng có phần phức tạp. Dựa theo những suy xét như thế mà đôi lúc số phận các quốc gia nhỏ đã bị định đoạt .

Thế là, trong khi chiến dịch Na Uy đi gần đến chiến thắng và những ngày đầu tháng 5 năm 1940 ấm áp đang đến, quân Đức chuẩn bị tiến đánh sang phía Tây. Xét về quân số, hai bên gần ngang bằng nhau: 136 sư đoàn của Đứctiến đánh 135 sư đoàn của Pháp, Anh, Bỉ và Hà Lan. Phe Đồng minh có điểm lợi về hệ thống công sự phòng thủ bao quát: miền Nam có Phòng tuyến Maginot được cho là không thể xuyên thủng, miền Trung có những pháo đài của Bỉ, còn miền Bắc có tuyến phòng thủ dọc theo bờ nước của Hà Lan. Ngay cả về số xe thiết giáp, Đồng minh cũng tương đương với Đức .

Nhưng những đơn vị thiết giáp của Đồng minh không được tập trung như bên Đức. Và Hà Lan và Bỉ cũng muốn duy trì nền trung lập, nên không có sự tham khảo giữa giới chỉ huy quân sự các nước nhằm trao đổi kế hoạch và nguồn lực để đạt lợi điểm cao nhất. Quân đội Đức có bộ chỉ huy thống nhất, có sáng kiến của bên tấn công, không cảm thấy băn khoăn về đạo lý khi gây chiến, có lòng tự tin và một kế hoạch táo bạo. Họ có kinh nghiệm chiến trường ở Ba Lan, nơi họ thử nghiệm những chiến thuật mới và vũ khí mới trong điều kiện tác chiến. Họ biết giá trị của máy bay tiêm kích và cách đánh tổng lực bằng xe thiết giáp. Và như Hitler luôn vạch rõ, họ biết Quân đội Pháp dù đang bảo vệ lãnh thổ mình vẫn không có tinh thần chiến đấu .

Cho dù có sự tự tin và quyết tâm, tài liệu mật cho thấy Bộ Chỉ huy Tối cao – hoặc ít nhất là Tư lệnh Tối cao Hitler – vẫn có những thời khắc hoảng hốt khi giờ G đang đến gần. Jodl ghi lại các diễn tiến vào nhật ký của ông. Hitler hoãn đi hoãn lại ngày tiến công. Vào ngày 1 tháng 5, ông định ngày mùng 5 tháng 5. Đến ngày 3 tháng 5, ông dời đến ngày 6 tháng 5 do dự báo thời tiết xấu, nhưng một phần cũng có lẽ do Bộ Ngoại giao nghĩ lý do biện minh của ông khi xâm phạm vào nền trung lập của Bỉ và Hà Lan là chưa đủ thuyết phục. Ngày kế Hitler định Ngày X là ngày 7 tháng 5, rồi ngày kế tiếp lại hoãn đến ngày 8 tháng 5. Jodl ghi: "Lãnh tụ đã hoàn tất cách biện minh cho Phương án Màu Vàng". Bỉ và Hà Lan sẽ bị lên án là đã hành động không theo cách trung lập gì cả. Nhật ký của Jodl ghi tiếp: "Ngày 7 tháng 5. Xe lửa của Lãnh tụ dự kiến rời Finkenkrug lúc 16 giờ 38 phút. Nhưng thời tiết không chắc chắn nên lệnh tấn công được rút lại. Lãnh tụ dao động mạnh vì việc trì hoãn có nguy cơ phản bội... Trao đổi giữa Công sứ Bỉ ở Vatican với Brussels cho thấy sự phản bội của một nhân vật Đức, người rời Berlin đi Rome ngày 29 tháng 4... Ngày 8 tháng 5. Tin khẩn từ Hà Lan. Bãi bỏ nghỉ phép, di tản, phong toả đường sá, những phương pháp động quân khác... Lãnh tụ không muốn chờ đợi thêm. Goering muốn hoãn đến ít nhất ngày mùng 10. Lãnh tụ rất dao động, rồi đồng ý hoãn đến ngày mùng 10. Ông nói rằng điều này là đi ngược với trực giác của mình. Nhưng không được hoãn thêm ngày nào nữa... Ngày 9 tháng 5. Lãnh tụ quyết định chắc chắn sẽ tấn công vào ngày 10 tháng 5. Rời Finkenkrug với xe lửa của Lãnh tụ lúc 17 giờ. Sau khi có dự báo thời tiết tốt ngày mùng 10, mật mã "Danzig" được ban hành lúc 21 giờ." Trời vừa hừng sáng ngày 10 tháng 5 năm 1940, được Keitel, Jodl và những sĩ quan khác của Bộ Chỉ huy Tối cao tháp tùng, Hitler đến tổng hành dinh mà ông đổi tên là Felsennest (Eyrie), gần Muenstereifel. Cách 40 km về hướng tây, các lực lượng Đức đang tràn qua biên giới Bỉ. Dọc chiến tuyến 280 km trải dài từ biển Bắc đến Phòng tuyến Maginot, quân Đức tràn qua biên giới của ba quốc gia trung lập nhỏ bé Hà Lan, Bỉ và Luxembourg, xâm phạm thô bạo những cam kết mà Đức đã long trọng đưa ra và lặp lại nhiều lần .

CUỘC CHIẾN SÁU TUẦN Từ 10 tháng 5 đến 25 tháng 6 năm 1940 .

Đối với Hà Lan thì đó là cuộc chiến năm ngày. Trong cùng thời gian ngắn này số phận của Bỉ, Pháp và Lực lượng Viễn chinh Anh cũng bị định đoạt. Đối với quân Đức, mọi việc đều theo đúng như binh thư, hoặc còn nhuần nhuyễn hơn là trong binh thư, về mặt chiến lược lẫn chiến thuật. Thành công vượt quá sự mong đợi cao nhất của Hitler. Chính tướng lĩnh Đức cũng lấy làm ngạc nhiên về tốc độ hành quân và mức độ chiến thắng, về phía các nhà lãnh đạo quân sự Đồng Minh, họ nhanh chóng bị tê liệt bởi những diễn tiến mà họ không hề mong đợi và trong tình hình rối ren cùng cực, họ cũng không thể hiểu nổi chuyện gì đang xảy ra .

Vừa nhậm chức Thủ tướng vào ngày đầu của trận chiến, Winston Churchill cảm thấy điếng người. Thủ tướng Pháp Paul Reynaud gọi điện đến cho ông lúc 7 giờ 30 phút sáng ngày 15 tháng 5 và hoảng hốt thông báo: "Ta đã thất trận! Ta đã bị đánh bại!" Churchill không muốn tin. Cả quân đội Pháp hùng mạnh bị đánh tan trong vòng 1 tuần? Không thể thế được. Sau này, ông đã viết rằng mình vẫn không thể hiểu được mức độ dũng mãnh của một khối thiết giáp di chuyển với tốc độ cao .

Yếu tố chủ chốt của quân đội Đức là xe thiết giáp của cả 7 sư đoàn thiết giáp đều tập trung để đánh xuyên qua vị trí yếu nhất trong tuyến phòng thủ phía Tây. Cộng thêm vào đó là máy bay tiêm kích Stuka, quân dù và bộ binh không vận được thả xuống sâu phía sau những phòng tuyến của Đồng Minh, hoặc trên nóc những pháo đài được cho là không thể xuyên thủng, rồi tàn phá chúng một cách mãnh liệt .

Nhưng những người như chúng tôi ở Berlin tự hỏi tại sao một chiến thuật như thế lại có thể gây kinh ngạc cho các giới lãnh đạo Đồng minh đến vậy. Chẳng phải là lực lượng của Hitler đã chứng tỏ hiệu lực của chiến thuật này trong chiến dịch tại Ba Lan rồi đấy hay sao? Ở đây, những mũi tiến công Đức bao vây hoặc tiêu diệt những đơn vị Ba Lan trong vòng 1 tuần là do sức mạnh của xe thiết giáp sau khi máy bay tiêm kích Stuka đánh tan tác sức kháng cự. Quân dù và bộ binh không vận Đức chiến đấu không giỏi ở Ba Lan, họ không thể chiếm được chiếc cầu nào còn nguyên vẹn. Nhưng ở Na Uy, 1 tháng trước khi đánh qua phía Tây, họ đã trở nên phi thường: Chiếm được thủ đô Oslo và tất cả sân bay, nhảy xuống tăng viện cho những toán quân cô lập đổ bộ lên Stavanger, Bergen, Trondheim và Narvik, qua đó giúp giữ vững trận địa. Chẳng nhẽ những tư lệnh phía Đồng minh lại không nghiên cứu những chiến dịch này và rút ra bài học cho mình? ĐỨC THÔN TÍNH HÀ LAN Đức chỉ có thể dành ra 1 sư đoàn thiết giáp để đánh Hà Lan. Họ hoàn tất chiến dịch chỉ trong 5 ngày, được yểm trợ chủ yếu bởi quân dù và bộ binh do máy bay vận tải thả xuống phía sau phòng tuyến ven bờ nước mà nhiều người ở Berlin tin rằng có thể cầm cự Đức cả nhiều tuần. Riêng lực lượng Hà Lan, họ đã phải kinh qua cách tấn công không vận tổng lực lần đầu tiên được thực hiện trong lịch sử chiến tranh. Xét qua việc quân Hà Lan thiếu chuẩn bị cho sự thử thách và bị hoàn toàn bất ngờ, họ đã chiến đấu khác những gì người ta nghĩ lúc bấy giờ .

Mục tiêu đầu tiên của Đức là không vận một lực lượng mạnh đến những sân bay gần The Hague, lập tức chiếm lấy thủ đô, bắt giữ Nữ hoàng và Chính phủ, như đã thực hiện tháng trước ở Na Uy. Nhưng cũng như Oslo, Đức thất bại ở The Hague, tuy rằng tình huống lần này có sự khác biệt. Đã hoàn hồn sau sự ngạc nhiên và náo loạn ban đầu, vào buổi tối ngày 10 tháng 5, bộ binh Hà Lan được pháo yểm trợ đẩy lui 2 trung đoàn của Đức ra khỏi 3 sân bay xung quanh The Hague. Việc này giúp cứu vãn thủ đô và Chính phủ trong tạm thời, nhưng cũng khiến cho lực lượng dự bị của Hà Lan bị cầm chân trong khi những nơi khác khẩn thiết cần đến họ .

Chìa khoá trong kế hoạch của Đức là việc thả quân dù xuống chiếm lấy những chiếc cầu phía Nam Rotterdam bắc qua sông Nieuwe Maas và xa hơn về phía Đông nam qua 2 nhánh của sông Maas (Meuse) tại Dordrecht và Moerdijk. Sau đó, Tướng Georg von Kuechler sẽ dẫn Đại Quân đoàn Thứ Tám từ biên giới Đức cách 150 km đi qua những chiếc cầu này để tiến vào Hà Lan. Thực tế cũng không còn cách nào khác để vượt qua nhanh chóng những rào cản chắc chắn dọc các bờ nước của The Hague, Amsterdam, Utrecht, Rotterdam và Leyden .

Sáng ngày 10 tháng 5, quân không vận Đức, kể cả 1 đại đội đáp xuống nước ở Rotterdam bằng máy bay cổ lỗ sĩ, đã chiếm được những chiếc cầu trước khi lính gác Hà Lan còn đang kinh ngạc có thời giờ phá huỷ. Những đơn vị quân Hà Lan tập kết lại cố đánh bật quân Đức trở ra và họ gần thành công. Nhưng quân Đức cố trụ vững cho đến sáng 12 tháng 5, khi 1 sư đoàn cơ giới dưới quyền Kuechler chạy đến, sau khi xông qua Phòng tuyến Grebbe-Peel mà Hà Lan hy vọng có thể cầm cự được vài ngày .

Một chút hy vọng đã loé lên khi Đại Quân đoàn Thứ Bảy của Pháp dưới quyền Tướng Giraud tiến vội từ biển Manche có thể chặn đứng quân Đức ở các cầu tại Moerdijk. Nhưng giống như quân Hà Lan, bộ binh thiếu sự yểm trợ của không quân, xe thiết giáp, súng chống thiết giáp và súng phòng không, nên dễ dàng bị đánh bật về Breda. Việc này đã mở lối cho Sư đoàn 9 Thiết giáp của Đức vượt qua các chiếc cầu ở Moerdijk và Dordrecht, rồi đến chiều ngày 12 tháng 5, họ tiến đến được bờ nam sông Maas, nơi quân dù Đức vẫn kiểm soát các chiếc cầu .

Nhưng xe thiết giáp Đức không thể đi qua những chiếc cầu ở Rotterdam. Cùng lúc, quân Hà Lan đóng chốt bên bờ bắc. Thế là vào sáng 14 tháng 5, tình hình của Hà Lan vẫn chưa ngã ngũ. Các đội quân dù Đức hùng mạnh xung quanh The Hague hoặc bị bắt hoặc phải phân tán vào những ngôi làng gần đó. Thành phố Rotterdam vẫn trụ vững. Cả Bộ Chỉ huy Tối cao Quân lực lẫn Hitler đều mất kiên nhẫn vì họ muốn rút một phần quân ở Hà Lan về để đi đánh miền nam nước Pháp. Sáng ngày 14 tháng 5, Hitler ban hành Chỉ thị số 11: "Sức mạnh kháng cự của Quân đội Hà Lan mạnh hơn dự kiến. Những yêu cầu chính trị cũng như quân sự đòi hỏi đập tan sự kháng cự một cách nhanh chóng." Nhưng mà bằng cách nào? Hitler đã ra lệnh điều 1 phần Không lực từ Đại Quân đoàn Thứ Sáu ở Bỉ qua nhằm "nhanh chóng giải quyết Hà Lan." Một cách cụ thể, Hitler và Goering đã ra lệnh oanh tạc mạnh Rotterdam. Người Hà Lan sẽ được thúc giục đầu hàng bằng biện pháp khủng bố kiểu Quốc xã – như đã xảy ra ở Ba Lan mùa thu trước .

Buổi sáng 14 tháng 5, một sĩ quan tham mưu thuộc Quân đoàn XXXIX cầm cờ trắng đi qua chiếc cầu ở Rotterdam và yêu cầu thành phố đầu hàng, cảnh cáo nếu không Đức sẽ ném bom. Trong khi hai bên đang đàm phán điều kiện đầu hàng, máy bay Đức đến thả bom tiêu huỷ khu trung tâm của thành phố. Khoảng 800 người thiệt mạng, hầu hết là dân thường, vài nghìn người bị thương và 78.000 người trở thành vô gia cư. Trong một thời gian, người ta tin rằng có 25.000 đến 30.000 người Hà Lan thiệt mạng, nhưng tại Toà án Nuremberg Chính phủ Hà Lan cho biết số người thiệt mạng là 814 .

Người Hà Lan sẽ còn nhớ mãi trò lừa dối và hành động tàn bạo có tính toán này. Tuy nhiên, trước Toà án Nuremberg, cả Goering và Kesselring biện hộ rằng Rotterdam không phải là một thành phố mở, mà là thành phố được quân Hà Lan phòng thủ một cách kiên cố. Cả hai khai họ đã không hề biết rằng đang có đàm phán đầu hàng khi họ điều máy bay đến, dù có chứng cứ rõ ràng cho thấy họ hoàn toàn biết điều đó. Không có bản án nào về việc thả bom thành phố Rotterdam. Dù sao đi nữa, vào lúc ấy Bộ Chỉ huy tối cao Quân lực cũng không đưa ra lý do biện minh nào. Chính tôi được nghe qua đài phát thanh Berlin vào buổi tối 14 tháng 5 một thông cáo đặc biệt của Bộ Chỉ huy Tối cao Quân lực: "Dưới sự tấn công dữ dội của máy bay tiêm kích Đức và với lực lượng xe thiết giáp của Đức chuẩn bị tấn công, thành phố Rotterdam đã đầu hàng và qua đó tự cứu mình khỏi nguy cơ bị tàn phá." Thành phố Rotterdam đầu hàng, rồi quân lực Hà Lan cũng đầu hàng. Nữ hoàng Wilhelmina và các thành viên Chính phủ đã đi London bằng 2 tàu khu trục của Anh. Vào buổi tối 14 tháng 5, Tướng H. G. Winkelman, Tổng Tham mưu trưởng của quân lực Hà Lan, ra lệnh cho binh sĩ buông súng và vào lúc 11 giờ sáng hôm sau ông ký văn kiện đầu hàng. Trong vòng 5 ngày, cuộc chiến chấm dứt. Trong 5 năm kế tiếp, bóng tối của sự khủng bố dã man sẽ bao trùm lên toàn bộ đất nước nhỏ bé văn minh này .

BỈ ĐẦU HÀNG VÀ QUÂN ĐỒNG MINH BỊ BAO VÂY Khi Hà Lan đầu hàng, số phận của Bỉ, Pháp và Lực lượng Viễn chinh Anh cũng bị khép lại. Ngày 14 tháng 5 là một ngày tồi tệ, dù đây mới là ngày thứ năm trong cuộc tấn công. Vào buổi tối trước, những đơn vị thiết giáp của Đức chiếm được 4 bàn đạp bắt ngang sông Meuse có bờ dốc và cây cối rậm rạp, từ Dinant đến thành phố Sedan, rồi chiếm lấy Sedan .

Ngày 14 tháng 5, cơn hồng thuỷ ập đến. Một đoàn quân thiết giáp chưa từng thấy về quân số, sự tập trung, tính cơ động và hoả lực, theo 3 mũi trải dài đến 160 km, tập kích qua các Đại Quân đoàn Thứ Chín và Đại Quân đoàn Thứ Hai của Pháp rồi tiến nhanh đến biển Manche, phía sau phòng tuyến lực lượng Đồng minh ở Bỉ. Ban đầu là từng đợt máy bay tiêm kích Stuka tiến đánh những điểm phòng thủ của Pháp, kế đến là công binh tác chiến đưa tàu cao su xuống sông và bắc cầu phao băng qua sông. Mỗi sư đoàn thiết giáp đều có riêng đại bác tự động và một lữ đoàn bộ binh cơ giới. Những sư đoàn bộ binh cơ giới chạy theo sau từng đội hình thiết giáp để chiếm đóng những vị trí do xe thiết giáp đánh xuyên thủng trước. Binh sĩ trú phòng hoảng loạn đến mức không thể có cách nào ngăn chặn đội hình sắt thép và lửa đạn như thế .

cả 2 bên sườn thành phố Dinant ven sông Meuse, quân Pháp bị đánh lùi và mở ngỏ đường cho Quân đoàn thứ XV Thiết giáp của Tướng Hermann Hoth, với vị Thiếu tướng dũng cảm Erwin Rommel là tư lệnh của 1 trong 2 sư đoàn thiết giáp. Xa hơn về phía Nam có tình hình tương tự: Tướng Geor-Hans Reinhardt chỉ huy Quân đoàn thứ XLI Thiết giáp với 2 sư đoàn thiết giáp đánh qua Monthermé. Nhưng mũi tiến công mãnh liệt nhất xảy ra xung quanh Sedan. Vào sáng ngày 14 tháng 5, 2 sư đoàn thiết giáp trong Quân đoàn thứ XIX Thiết giáp dưới quyền Tướng Heinz Guderian vội vã bắc 1 chiếc cầu nổi qua sông Meuse để đánh đến phía Tây. Xe thiết giáp Pháp và máy bay oanh tạc Anh cố tìm cách đánh sập chiếc cầu nhưng không có kết quả. Vì việc này, 40 trong số 71 máy bay Anh đã bị bắn hạ và 70 xe thiết giáp Pháp đã bị phá huỷ. Đến tối, quân Đức thiết lập được 1 đầu cầu ở Sedan trải rộng 50 km và sâu 25 km, trong khi lực lượng Pháp ở đây thuộc khu trung tâm của phòng tuyến Đồng minh bị đánh tan nát. Quân Anh-Pháp ở phía Bắc cũng như 22 sư đoàn của Bỉ có nguy cơ bị cô lập .

Nhưng phía Đồng minh đã cho rằng trong những ngày đầu họ có lợi thế. Đối với Churchill, vừa phấn khởi lao vào trách nhiệm của Thủ tướng, như ông kể lại: "Cho đến đêm 12, không có lý do nào cho thấy chiến trận bị bất lợi". Còn Gamelin, Thống chế của lực lượng Đồng Minh, tỏ ra rất hài lòng với tình hình. Tối hôm trước, các Đại Quân đoàn Thứ Nhất, Thứ Bảy và Thứ Chín của Pháp cùng với Lực lượng Viễn chinh Anh, chín sư đoàn dưới quyền Lord Gort theo kế hoạch mà kết hợp với quân Bỉ, tạo thành một tuyến phòng thủ mạnh chạy dọc sông Dyle từ Antwerp qua Louvain đến Namur và chạy dọc sông Meuse đến Sudan. Riêng giữa 2 pháo đài Namur và Antwerp, trên mặt trận dài gần 100 km, Đồng minh có quân số áp đảo gồm 36 sư đoàn chống lại 20 sư đoàn trong Đại Quân đoàn Thứ Sáu của Reichenau .

Quân Bỉ chiến đấu tốt dọc theo tuyến biên giới Đông Bắc, nhưng không thể chống cự được lâu. Cũng như Hà Lan, đơn giản là họ không thể đối phó với chiến thuật có tính Cách mạng của Quân đội Đức. Giống như ở Hà Lan, quân Đức tiến chiếm những chiếc cầu bằng chiến thuật táo bạo của từng nhóm nhỏ binh sĩ được huấn luyện đặc biệt, sử dụng máy bay lượn lặng lẽ đáp xuống mục tiêu vào lúc bình minh. Họ khống chế binh sĩ canh gác tại 2 trong số 3 chiếc cầu bắc qua kênh Albert trước khi quân trú phòng kịp cho nổ tung cầu .

Đức còn đạt thắng lợi lớn hơn khi chiếm được Pháo đài Eben Emael và vì thế kiểm soát được vùng hợp lưu của sông Meuse và kênh Albert. Pháo đài hiện đại này nằm ở vị trí có tầm quan trọng chiến lược, được xem là có cấu trúc kiên cố nhất châu Âu, kiên cố hơn bất kỳ công sự nào mà Pháp xây Phòng tuyến Maginot hoặc Đức xây ở Bức tường phía Tây. Pháo đài gồm mạng lưới giao thông hào sâu bằng bê-tông cốt thép, những ổ súng được bảo vệ bằng lớp thép dày do 1.200 quân điều hành, được cho là có thể chống trả vô thời hạn những cuộc oanh kích của máy bay và đại pháo. Nhưng trong vòng 30 tiếng đồng hồ pháo đài này lại rơi vào tay 80 binh sĩ Đức dưới quyền chỉ huy của 1 trung sĩ (Trung uý chỉ huy gặp sự cố khiến ông này đến muộn) .

Quân Đức bay đến bằng 9 máy bay lượn đáp trên nóc pháo đài và chỉ chịu thiệt hại nhẹ: 6 thiệt mạng và 19 bị thương. Tại Berlin, tôi còn nhớ, Bộ Chỉ huy Tối cao Quân lực đã mô tả sự kiện này theo cách rất bí ẩn, loan báo trong một bản tin đặc biệt rằng Pháo đài Eben Emael bị chiếm bởi 1 "phương pháp tấn công mới", khiến lan truyền nhiều rất nhiều thông tin đồn đại. Tiến sĩ Goebbels vui mừng phát tán thêm tin đồn rằng Đức có "vũ khí mới" .

Sự thật hoá ra đơn giản hơn. Cuối năm 1939 và đầu năm 1940, Đức cho xây mô hình của pháo đài và những chiếc cầu để huấn luyện phương pháp tấn công cho 400 binh sĩ. 3 nhóm có nhiệm vụ chiếm 3 chiếc cầu, còn nhóm thứ tư chiếm pháo đài Eben Emael, ném bộc phá xuống những ụ pháo nhằm tiêu diệt pháo thủ và thổi khí nóng cùng lửa xuống giao thông hào bên dưới. Quân Đức cũng dùng súng phun lửa cầm tay phun vào những lỗ châu mai và quan sát. Bộ binh Bỉ phía sau pháo đài cố đẩy lui nhúm nhỏ quân Đức nhưng chính họ lại bị máy bay Stuka và quân dù tăng viện đẩy lui. Vào sáng ngày 11 tháng 5, những đơn vị thiết giáp tiền phương tiến qua 2 chiếc cầu còn nguyên vẹn và đến bao vây pháo đài. Sau đợt tấn công thêm của máy bay Stuka và đánh giáp lá cà trong hệ thống giao thông hào, lúc giữa trưa Bỉ kéo lên 1 lá cờ trắng, rồi 1.200 binh sĩ choáng váng đi ra đầu hàng .

Cùng lúc, Đại Quân đoàn Thứ Sáu dưới quyền Tướng von Reichenau được yểm trợ bởi Tướng Hoepner chỉ huy Quân đoàn XVI Thiết giáp gồm 2 sư đoàn thiết giáp và 1 sư đoàn bộ binh cơ giới mở đợt tấn công dữ dội. Những động thái tấn công toàn diện của Đức khiến cho Đồng minh tin rằng bây giờ, giống như năm 1914, kẻ thù của họ đang mở cuộc tiến công chủ lực vào vùng này và họ có sẵn những biện pháp thích hợp để đối phó. Đúng thế: Cho đến tối 15 tháng 5, các lực lượng Bỉ, Anh và Pháp vẫn đang giữ chặt phòng tuyến Dyle từ Antwerp đến Namur .

Việc này xảy ra đúng như Đức mong muốn. Bây giờ, họ có thể thực hiện phương án của Manstein để phóng đòn quyết định ở miền trung tâm. Tướng Tham mưu trưởng Lục Quân Halder nắm rõ tình hình và cơ hội vào buổi tối 13 tháng 5. Ông viết trong nhật ký: "Phía bắc Namur, ta có thể kể ra 24 sư đoàn Anh-Pháp và 15 sư đoàn Bỉ tập trung vào một chỗ. Để chống lại họ, ta có Đại Quân đoàn Thứ Sáu gồm 15 sư đoàn tiền tuyến và 6 sư đoàn dự phòng... Ở đây ta đủ mạnh để đẩy lui bất kỳ mũi tấn công nào của địch. Không cần thiết phải điều thêm quân, về phía Nam Namur, ta đối mặt với quân địch yếu hơn. Khoảng phân nửa sức mạnh của ta. Kết quả của mũi tấn công Meuse sẽ được quyết định ở nơi chốn và thời điểm ta khai thác được ưu thế này. Quân địch không có lực lượng nào đáng kể phía sau phòng tuyến này." Không có lực lượng nào đáng kể phía sau phòng tuyến mà ngày hôm sau sẽ bị xuyên thủng hay sao? Ngày 16 tháng 5, Thủ tướng Churchill bay đến Paris để tìm hiểu. Lúc xế chiều, khi ông đến gặp Thủ tướng Renaud và Tướng Gamelin, mũi tiến công của Đức qua Sedan đã vào sâu được gần 100 km và đang tiến nhanh trên vùng đồng bằng không được phòng vệ. Không có mấy lực lượng giữa họ và Paris, hoặc giữa họ và biển Manche, nhưng Churchill không biết điều này. Ông hỏi Gamelin bằng tiếng Pháp: "Où est la masse de manœuvre?" ("Lực lượng dự phòng đang ở đâu?") Vị Tổng Tham mưu trưởng Pháp lắc đầu và nhún vai mà trả lời, cũng bằng tiếng Pháp: "Aucune" ("Không có gì.") Sau này, Churchill kể lại: "Tôi đã choáng váng cả người." Không thể tưởng tượng được là một lực lượng hùng hậu khi bị tấn công mà lại không có quân dự phòng. Churchill nói: "Tôi phải thừa nhận rằng đó là một trong những sự ngạc nhiên lớn nhất trong đời tôi." Bộ Chỉ huy Tối cao Quân lực và Hitler cũng ngạc nhiên không kém. 2 lần trong chiến dịch phía Tây, mà Lãnh tụ đích thân chỉ đạo, ông đã lưỡng lự. Lần thứ nhất là vào sáng 17 tháng 5, khi Guderian đang chỉ huy 1 quân đoàn thiết giáp tiến được về đường đến bờ biển Manche thì nhận lệnh dừng lại. Tin thám báo của Không quân cho biết quân Pháp đang mở một cuộc phản công lớn để cắt ngang đường tiến của xe thiết giáp Đức. Hitler vội hội với Brauchitsch và Halder. Hitler tin chắc rằng Pháp đang đe doạ một cách nghiêm trọng từ mặt phía Nam. Rundstedt, Tư lệnh Tập đoàn quân A, lực lượng chính yếu đánh qua sông Meuse, đồng ý với Hitler khi được hỏi ý kiến sau đó. Ngày kế, Hitler viết cho Mussolini: "Tôi đang theo dõi chặt chẽ tình hình. Phép lạ ở Marnenăm 1914 sẽ không lặp lại." Hitler trở nên vô cùng lo lắng và vẫn còn lo lắng cho đến ngày hôm sau, dù tin dồn dập đưa về là quân Pháp đang sụp đổ. Halder ghi vào nhật ký ngày 18 tháng 5: "Lãnh tụ lo lắng một cách vô lý về sườn trái. Ông giận dữ và la hét rằng ta đang làm hỏng cả chiến dịch và có nguy cơ chiến bại. Ông không muốn ta tiếp tục tiến về hướng tây và luôn có ý nghĩ là nên đánh qua hướng Tây Bắc. Đây là đề tài tranh cãi khó chịu nhất giữa một bên là Lãnh tụ và Brauchitsch với một bên là tôi." Nhưng Halder đã nghĩ đúng: Quân Pháp không có lực lượng để phản công từ phía Nam. Đến sáng ngày 19 tháng 5, một mũi tiến công mãnh liệt của Đức gồm 7 sư đoàn thiết giáp thẳng tiến phía Bắc sông Somme về hướng Tây, đến cách bờ biển Manche 80 km. Vào buổi tối ngày 20 tháng 2, Sư đoàn 2 Thiết giáp của Đức tiến đến thị trấn Abbeville gần cửa sông Somme, trong sự ngạc nhiên của tổng hành dinh của Hitler. Quân Bỉ, Lực lượng Viễn chinh Anh và 3 đại quân đoàn Pháp bị bao vây .

Jodl ghi vào nhật ký rằng Lãnh tụ rất vui mừng. Ông ca ngợi hết mình Quân đội Đức và các chỉ huy. Mọi người đang làm việc cho các hoà ước theo chiều hướng chung: Lấy lại lãnh thổ bị tước đoạt từ người dân Đức 400 năm nay và những giá trị khác .

Hy vọng duy nhất của Đồng minh để thoát ra khỏi vòng vây thảm hoạ này là cho quân Bỉ rút ra khỏi mũi tiến công của Đại Quân đoàn Thứ Sáu của Đức, quay về hướng Tây Nam, đánh ngang qua mũi tiến công của thiết giáp Đức để đến bắt tay với lực lượng của Pháp từ Somme tiến lên hướng Bắc. Đó chính là chiến thuật mà Tướng Gamelin ra lệnh tiến hành vào sáng ngày 19 tháng 5, nhưng buổi tối hôm đó ông lại bị thay thế bởi Tướng Maxime Weygand và Weygand lập tức huỷ bỏ lệnh hành quân. Là vị tướng nổi danh trong Thế chiến I, Weygand muốn hội ý với các tư lệnh Đồng minh ở Bỉ trước khi quyết định sẽ làm thế nào. Vì thế Đồng minh bị mất 3 ngày, rồi Weygand ra lệnh theo phương án đúng như người tiền nhiệm định tiến hành. Đồng minh phải trả giá đắt cho sự chậm trễ này. Vẫn còn có 40 sư đoàn thiện chiến của Pháp, Anh và Bỉ ở phía Bắc và vào ngày 19 tháng 5, nếu lực lượng này tiến về phía Nam như Gamelin đã định, thì đáng lẽ họ đã có thể đánh xuyên qua đội hình mỏng của thiết giáp Đức. Vào lúc lực lượng này chuyển động, việc thông tin liên lạc giữa các tư lệnh chiến trường thuộc các quốc tịch khác nhau trở nên rối loạn và các hướng tiến của Đồng minh thì giẫm chân lên nhau. Dù sao đi chăng nữa, kế hoạch của Weygand chỉ hiện diện trong đầu óc của ông, vì ngoài trận tuyến không có lực lượng Pháp nào tiến lên từ Somme .

Trong lúc đó, Đức đã huy động mọi lực lượng bộ binh để tiến lên lấp vào khoảng trống của thiết giáp và mở rộng trận địa. Ngày 24 tháng 5, lực lượng tăng của Guderian từ Abbeville tiến lên chiếm lấy Boulogne và bao vây Calais – hai cảng chính – và hướng đến Gravelines, cách thị trấn Dunkirk chỉ hơn 30 km. Quân Anh, Pháp và Bỉ ở phía Bắc bị dồn vào 1 tam giác nhỏ với đường đáy kéo dài từ Gravelines đến St. Omer và đỉnh ở Valenciennes, cách bờ biển khoảng 100 km. Bây giờ họ không có hy vọng gì mà thoát ra, ngoại trừ hy vọng mong manh là thoát ra đường biển ở Dunkirk .

Chính vào ngày 24 tháng 5 này, khi các đội hình xe thiết giáp Đức dàn trận dọc kênh Aa từ Gravelines đến St. Omer và đang chuẩn bị tiến lên dứt điểm, thì họ nhận một chỉ thị lạ lùng, đối với binh sĩ thì điều này là không thể hiểu nổi: Lệnh dừng quân. Đây là sai lầm quan trọng đầu tiên của Đức trong Thế chiến II, trở thành một chủ đề tranh cãi dữ dội không chỉ giữa các tướng lĩnh Đức mà còn giữa các sử gia quân sự, để xác định xem ai là người có trách nhiệm và lý do tại sao. Chúng ta sẽ quay lại vụ việc này dựa theo khối lượng tư liệu hiện có. Dù cho lý do là thế nào đi chăng nữa, thì lệnh cho lực lượng thiết giáp của Đức dừng lại đã mang đến phép lạ ở Dunkirk cho Đồng Minh, đặc biệt là quân Anh. Nhưng Bỉ lại không được hưởng một phép lạ nào .

VUA LEOPOLD ĐẦU HÀNG Vua Leopold III của Bỉ đầu hàng vào rạng sáng ngày 28 tháng 5 năm 1940. Vị vua cứng đầu này, người đã mang đất nước của mình ra khỏi mối liên minh với Pháp và Anh để dại dột đi theo hướng trung lập, người đã từ chối tái lập mối liên minh ngay cả trong những tháng ông biết Đức đang chuẩn bị tấn công qua biên giới nước ông, người đã cầu cứu Anh và Pháp khi Đức tấn công và được quân Anh-Pháp hỗ trợ, bây giờ lại bỏ rơi Đồng Minh, mở đường cho các sư đoàn Đức ùa vào cạnh sườn của liên quân Anh-Pháp đang chịu áp lực nặng nề. Hơn nữa, ông đã làm thế, như Churchill phát biểu trước Viện Dân biểu ngày 4 tháng 6, mà "không hề tham khảo trước, ít nhất qua thông báo với các bộ trưởng tham mưu mà lại tự mình quyết định" .

Thật ra, ông làm ngược lại lời khuyên nhất trí của Chính phủ mà theo Hiến pháp ông đã tuyên thệ sẽ tuân theo. Lúc 5 giờ sáng ngày 25 tháng 5, vị Vua tiếp kiến 3 thành viên của Chính phủ kể cả Thủ tướng và Ngoại trưởng. Họ khuyên ông lần cuối rằng không nên tự tuyên bố đầu hàng và trở thành một tù nhân của Đức, vì nếu như thế ông "sẽ bị hạ thấp bằng với vai trò của Hácha" ở Tiệp Khắc. Họ muốn nhắc nhở rằng ông là nhà lãnh đạo quốc gia cũng như là Tổng Tư lệnh Quân đội và nếu tình hình trở nên tệ hại, ông có thể thực thi vai trò đứng đầu của mình khi đi lưu vong, như Nữ hoàng Hà Lan và Vua Na Uy đã quyết định làm thế .

Leopold nói: "Tôi đã quyết định ở lại. Sự nghiệp của Đồng minh đã hết." Nhà Vua chấp nhận lệnh đầu hàng vô điều kiện lúc 11 giờ tối. Giao tranh chấm dứt lúc 4 giờ sáng hôm sau .

Trong 1 bài phát biểu truyền thanh từ Paris, Thủ tướng Pháp Reynaud giận dữ chỉ trích sự đầu hàng của Leopold. Thủ tướng Bỉ Pierlot cũng phát biểu truyền thanh từ Paris nhưng với ngôn từ nhẹ nhàng hơn, thông báo cho dân Bỉ rằng nhà Vua đã hành động đi ngược với lời khuyên nhất trí của Nội các, cắt đứt mối liên hệ với nhân dân và không còn có tư cách để điều hành, vì thế Chính phủ Bỉ lưu vong sẽ tiếp tục tranh đấu. Churchill cũng lên tiếng chỉ trích vua Bỉ .

Tranh cãi còn tiếp tục cho đến khi chiến tranh kết thúc. Nhiều người trong và ngoài nước Bỉ biện hộ cho Leopold, tin rằng ông đã làm đúng khi chia sẻ số phận với binh sĩ và thần dân của ông. Và họ dựa trên lý lẽ rằng ông đầu hàng trên cương vị không phải là lãnh tụ quốc gia mà là Tổng tư lệnh Quân lực Bỉ .

Có một điều rõ ràng là vào ngày 27 tháng 5, quân Bỉ lâm vào tình thế tuyệt vọng. Họ đã đồng ý mở rộng mặt trận của mình để quân Anh-Pháp được rảnh tay tiến công về hướng Nam. Mặt trận này suy sụp nhanh chóng, tuy quân Bỉ vẫn chiến đấu một cách kiên cường. Và Leopold không được biết rằng vào ngày 26, Lord Gort đã nhận lệnh từ London phải rút lui về Dunkirk để bảo toàn hết mức có thể Lực lượng Viễn chinh Anh. Đây chỉ là 1 khía cạnh của biện luận, nhưng còn 1 khía cạnh khác. Quân đội Bỉ được đặt dưới Bộ Chỉ huy Đồng minh và Leopold đã tuyên bố đầu hàng riêng rẽ mà không tham khảo ý kiến Đồng Minh. Người bênh vực ông vạch ra rằng ông đã gửi điện thông báo cho Lord Gort về quyết định sắp tới của mình nhưng vị tướng Anh vì quá bận và di chuyển liên tục nên không nhận được tin. Sau này ông khai rằng sau 11 giờ tối ngày 27 tháng 5, lần đầu tiên ông nghe tin đầu hàng và thấy mình "thình lình đối mặt với một khoảng hở rộng 36 km giữa Ypres và biển, mà qua đó quân địch có thể tiến đến bờ biển." Đối với Tướng Weyand, một tư lệnh cấp cao, bức điện đưa tin đến ông từ giao liên Pháp ở tổng hành dinh Bỉ sau 6 giờ chiều và ông cảm thấy "như sét đánh ngang tai. Không có dấu hiệu nào báo trước..." Rốt cuộc, dù là Tổng tư lệnh Quân lực, theo chế độ quân chủ lập hiến thì Leopold vẫn phải chấp nhận lời tham mưu của Nội các. Dù cho trên cương vị ấy hoặc cương vị quốc trưởng, ông vẫn không có thẩm quyền tự tuyên bố đầu hàng. Cuối cùng, chính người dân Bỉ có quyền phán xét ông. Sau khi chiến tranh chấm dứt, ông không được mời về từ nơi lưu vong ở Thuỵ Sĩ để lên ngai vàng trở lại. Mãi cho đến năm 1950, sau khi 57% số phiếu trong cuộc trưng cầu dân ý chấp nhận, ông mới trở về nhưng bị chống đối mạnh mẽ. Chẳng bao lâu, ông thoái vị để nhường ngôi cho con trai .

Dù có nhiều ý kiến đối nghịch nhau về Vua Leopold, nhưng người ta vẫn nhất trí rằng lực lượng của ông đã chiến đấu một cách tuyệt vời. Trong vài ngày tháng Năm, tôi đi theo Đại Quân đoàn Thứ Sáu của Tướng Reichenau qua Bỉ và tận mắt thấy họ đang kiên trì chiến đấu chống lại kẻ thù vượt trội .

Họ không tan rã khi bị máy bay Đức tấn công một cách không thương xót hoặc bị thiết giáp Đức chia cắt đội hình. Vài đơn vị Đồng minh không được như họ. Quân Bỉ cầm cự được 18 ngày và đáng lẽ có thể kéo dài thêm nếu họ không bị sa vào cái rọ không phải do họ làm ra .

PHÉP LẠ Ở DUNKIRK Từ ngày 20 tháng 5 năm 1940, khi các đội hình thiết giáp của Guderian đánh xuyên qua Abbeville để tiến đến bờ biển, Bộ Tư lệnh Hải quân Anh nhận lệnh của Churchill huy động mọi tàu thuyền để dự phòng di tản Lực lượng Viễn chinh Anh và những đơn vị Đồng minh khác. Những người không có nhiệm vụ chiến đấu được di tản trước. Như ta đã biết, trận tuyến của Bỉ ở phía Bắc gần sụp đổ vào ngày 24 tháng 5 và ở phía Nam, thiết giáp Đức đánh lên từ Abbeville và tiến đến Kênh Aa chỉ cách Dunkirk hơn 30 km. Bị lọt vào rọ là một đại quân đoàn của Bỉ, 9 sư đoàn của Lực lượng Viễn chinh Anh và 10 sư đoàn của Đại Quân đoàn Thứ nhất của Pháp. Dù địa hình về phía Nam không thích hợp cho xe thiết giáp vì có nhiều kênh mương xẻ ngang dọc và nhiều vùng ngập nước, nhưng các quân đoàn thiết giáp của Guderian và Reinhardt đã lập được 5 đầu cầu qua Kênh Aa, đồng thời chuẩn bị cho đòn đánh nốc ao. Cộng thêm Đại Quân đoàn Thứ Sáu và Đại Quân đoàn Thứ Mười Tám của Đức đang tiến xuống từ hướng Đông Bắc, xem như quân Đồng minh sẽ bị đánh tan tác giữa hai gọng kìm .

Thế nhưng đột nhiên, vào buổi tối 24 tháng 5 có một mệnh lệnh dứt khoát của Hitler đưa đến, được Rundstedt và Goering ủng hộ nhưng Tư lệnh Lục quân Brauchitsch và Tham mưu trưởng Lục quân Halder phản đối quyết liệt: Các lực lượng thiết giáp phải dừng lại dọc con kênh và không được tiến thêm. Lệnh này giúp cho Lord Gort có thời gian quý báu mà ông cùng Hải quân và Không lực Hoàng gia Anh đã khai thác triệt để. Sau này, Rundstedt cũng nhận ra và nói rằng đó là "một trong những điểm ngoặt quan trọng của cuộc chiến" .

Làm thế nào lại có một lệnh dừng quân khó hiểu như thế khi mà Đức đang gần như chắc chắn sẽ giành đại thắng? Lý do cho việc này là gì? Ai chịu trách nhiệm? Những câu hỏi này tạo nên một trong những cuộc tranh cãi dữ dội nhất trong cuộc chiến giữa các tướng lĩnh Đức có liên quan và giữa các sử gia. Các tướng lĩnh, do Rundstedt và Halder dẫn đầu, trút mọi trách nhiệm cho cá nhân Hitler. Churchill thêm dầu vào lửa khi nói lệnh dừng quân là do Rundstedt chứ không phải Hitler, cùng với đó ông dẫn chứng nhật ký chiến trường của tổng hành dinh của Rundstedt. Ta khó xác định đúng được các sự kiện trong cơn hoả mù của những biện luận đối nghịch nhau. Để chuẩn bị viết chương này, tác giả đã biên thư cho Halder yêu cầu ông làm sáng tỏ và đã nhận được phúc đáp tử tế với khá nhiều chi tiết. Dựa vào phúc đáp này và bây giờ có thêm chứng cứ, ta có thể rút ra vài kết luận và làm cuộc tranh cãi lắng xuống, tuy không đến mức chính xác chắc chắn nhưng ít nhất cũng có tính thuyết phục .

Dù tuyên bố thế nào chăng nữa, thì Rundstedt vẫn phải chia sẻ với Hitler trách nhiệm cho lệnh dừng quân nổi tiếng đó. Sáng ngày 24 tháng 5, Lãnh tụ đến làm việc với tổng hành dinh Tập đoàn quân A của Rundstedt. Rundstedt đề xuất là nên cho dừng lại các sư đoàn thiết giáp dọc bờ kênh trước Dunkirk để chờ cho bộ binh tiến lên. Hitler đồng ý cho dừng quân vì nhận thấy phải bảo tồn lực lượng thiết giáp cho những chiến dịch kế tiếp để đánh quân Pháp ở miền Nam. Hơn nữa, ông nghĩ nếu quân Đồng minh bị bó rọ trong diện tích quá chật hẹp thì hoạt động của Không quân sẽ bị trở ngại. Có lẽ là với sự chấp thuận của Hitler, Rundstedt đã ban hành lệnh cho thiết giáp dừng quân lập tức, vì Churchill ghi nhận là vào lúc 11 giờ 42 phút sáng, quân Anh đã bắt được sóng vô tuyến của Đức ban hành lệnh này. Lúc ấy, Hitler và Rundstedt đang hội họp với nhau .

Dù sao đi nữa thì buổi tối ấy Hitler đã ban hành chỉ thị chính thức từ Bộ Chỉ huy Tối cao Quân lực, cả Jodl lẫn Halder đều ghi việc này vào nhật ký của họ. Halder là người buồn bực nhất: "Cánh trái của ta, gồm các lực lượng thiết giáp và cơ giới, thế là phải dừng lại ngay trên đường tiến công chỉ vì Lãnh tụ trực tiếp ra lệnh! Không quân sẽ có nhiệm vụ thanh toán nốt quân địch!" Dấu chấm than có ý khinh bỉ cho thấy Goering đã can thiệp [vào quyết định của] Hitler và sự thật đúng là như thế. Goering đề xuất là chỉ để Không quân của ông tiêu diệt quân địch đang bị bao vây! Trong bức thư đề ngày 19 tháng 7 năm 1957 gửi cho tôi, Halder giải thích lý do cho tham vọng và đề xuất hão huyền của Goering .

"Trong những ngày tiếp theo [tức là sau ngày 24 tháng 5], quyết định của Hitler chịu nhiều ảnh hưởng của Goering. Đối với nhà độc tài, cuộc tiến công thần tốc của Lục quân đang trở nên nguy hiểm, vì thế huấn luyện quân sự nên Lãnh tụ không hiểu được những khả năng rủi ro và thắng lợi. Ông luôn cho rằng tình thế có thế đảo ngược..." Vốn nắm rõ tâm lý Lãnh tụ, Goering lợi dụng nỗi lo này. Ông đề xuất để cho Không quân tham gia phần còn lại trong trận chiến bao vây, do đó loại trừ rủi ro phải sử dụng những đơn vị thiết giáp quý giá... Ông đề xuất như thế... với 1 lý do vốn là đặc thù cho con người Goering đầy tham vọng nhưng cẩu thả... Sau cuộc hành quân của Lục quân suôn sẻ một cách đáng ngạc nhiên cho đến lúc này, Goering muốn dành cho Không quân của ông ấy vai trò cuối cùng có tính quyết định trong trận chiến vĩ đại và qua đó, hưởng vinh quang chiến thắng trước toàn thế giới .

Rồi Halder thuật lại trong bức thư lời kể của Brauchitsch sau khi ông này nói chuyện với các tướng không quân Milch và Kesselring trong nhà giam Nuremberg vào tháng 1 năm 1946, mà họ cho rằng: "vào lúc ấy [tháng 5 năm 1940], Goering vạch ra với Hitler rằng nếu chỉ có tướng lĩnh Lục quân lập công trong chiến thắng vĩ đại thì uy tín của Lãnh tụ trên toàn nước Đức sẽ bị tổn hại mà không khôi phục được. Chỉ có thể tránh được điều này nếu để cho Không quân chứ không phải Lục quân thực hiện cuộc tấn công dứt điểm." Tóm lại, khá rõ ràng rằng ý tưởng của Hitler – mà Goering và Rundstedt ủng hộ nhưng Brauchitsch và Halder cực lực chống đối – là để cho Không quân và Tập đoàn quân B của Bock làm nhiệm vụ quét sạch quân đối phương đang bị bao vây 3 mặt, mặt còn lại là biển. Nhưng Không quân không thể thực hiện được nhiệm vụ này. Còn quân của Bock lúc ấy không có đơn vị thiết giáp nào đáng kể và đang chậm chạp đẩy lùi quân Bỉ và Anh ở hướng Tây Nam biển Manche. Vào buổi sáng 26 tháng 5, Halder phàn nàn trong nhật ký là "mệnh lệnh từ cấp trên không hợp lý... Các đội hình thiết giáp phải dừng lại như thể bị tê liệt." Giờ đây, chúng ta được biết có thêm lý do chính trị cho quyết định của Hitler. Halder kể lại rằng ông ghi vào nhật ký ngày 25 tháng 5, bắt đầu từ "một trong những giằng co giữa Brauchitsch và Lãnh tụ về bước tiến kế tiếp: bây giờ thôi thúc chính trị tạo nên ý tưởng là trận chiến quyết định không được tiến hành trên vùng Flander, mà trên miền bắc nước Pháp." Điều này khiến cho tôi cảm thấy khó hiểu, nên tôi biên thư cho Halder hỏi ông có nhớ nguyên nhân chính trị của Hitler để muốn kết thúc trận đánh miền bắc nước Pháp chứ không ở Bỉ hay không. Halder nhớ rất rõ. Ông phúc đáp: "Theo ký ức vẫn còn sống động của tôi, Hitler giải thích lý do dừng quân qua 2 luồng tư tưởng. Thứ nhất là lý do quân sự: Địa hình không thích hợp cho xe thiết giáp, thiệt hại nặng sẽ làm suy yếu cuộc tấn công tiếp theo trên phần còn lại của nước Pháp và đại loại như thế .

lý do thứ hai là Hitler biết rằng những quân nhân chúng tôi không thể tranh luận vì đó là lý do chính trị, không phải quân sự .

...Vì lý do chính trị, ông ấy không muốn có trận chiến dứt điểm vốn sẽ gây thiệt hại nặng cho dân cư vùng Flander... Ông ấy có ý định lập nên một vùng Quốc xã từ lãnh thổ của sắc dân Flemish gốc Đức, qua đó kết hợp họ gần gũi với Đức. Những người ủng hộ ông đã hoạt động trên đất Flander theo chiều hướng này trong một thời gian dài, ông đã hứa sẽ giữ cho đất đai của họ không bị thiệt hại vì chiến tranh. Nếu ông không giữ lời hứa, họ sẽ chẳng còn tin tưởng ông nữa. Điều này sẽ bất lợi về chính trị cho nước Đức mà ông, như là một nhà lãnh đạo có trách nhiệm về chính trị, phải tránh." Có vô lý không? Nếu điều này có vẻ như là thêm một cơn loạn thần kinh đột xuất của Hitler (Halder nói ông và Brauchitsch "không cảm thấy thuyết phục vì luận cứ này"), thì có một lý do khác xem chừng tỉnh táo hơn. Tướng Guenther Blumentritt, Tham mưu trưởng Tập đoàn quân A dưới quyền Rundstedt, kể lại cuộc họp giữa Hitler và Rundstedt ngày 24 tháng 5: "Hitler trông rất vui vẻ... và cho ý kiến là cuộc chiến sẽ chấm dứt trong 6 tuần. Sau đó, ông muốn đi đến 1 thoả thuận hoà bình hợp lý với Pháp để được rộng đường cho một hiệp định với Anh... Rồi ông khiến cho chúng tôi kinh ngạc khi ông nói về Đế quốc Anh với lòng ngưỡng mộ..., về nền văn minh mà Anh đã mang ra thế giới... Ông nói điều ông muốn từ Anh chỉ là Anh công nhận vị thế của Đức trên lục địa châu Âu. Việc trả lại những thuộc địa của Đức là điều mong ước nhưng không phải thiết yếu... Ông kết luận rằng mục đích của ông là dàn hoà với Anh trên cơ sở mà Anh xem là xoa dịu danh dự của họ để chấp nhận ý tưởng hoà bình." Trong vài tuần tới, Hitler còn phát biểu ý tưởng như thế với các tướng lĩnh Đức, với Ciano và Mussolini và sau cùng là với công chúng. Một tháng sau, Ciano kinh ngạc mà nghe Hitler, lúc ấy đang ở trên đỉnh cao của thành công, lải nhải về tầm quan trọng trong việc duy trì Đế quốc Anh như là "một yếu tố của thế giới: sự quân bình." Thế thì, tuy có người còn nghi ngờ, nhưng Hitler kiềm chế lực lượng xe thiết giáp trước cửa ngõ Dunkirk có lẽ là nhằm tránh cho Anh một thảm bại nhục nhã, vì thế sẽ tiến đến giải pháp hoà bình dễ dàng hơn. Đó sẽ là nền hoà bình mà Anh trao cho Đức, để Đức được rảnh tay quay trở lại phía Đông, lần này là nhằm tấn công Liên Xô. Bây giờ và mãi về sau, Hitler vẫn không thể hiểu được tố chất của nước Anh hay ý chí của các nhà lãnh đạo và dân tộc Anh chính là chiến đấu đến cùng .

Hitler và các tướng lĩnh Đức – vốn dốt nát về biển cả – không thể ngờ rằng người Anh có thể di tản ngay trước mũi họ ⅓ triệu người từ một cảng nhỏ đã bị hư hại và từ 1 bãi biển không được phòng ngự .

Sau cùng, vào buổi tối 26 tháng 5, Hitler huỷ bỏ lệnh dừng quân và đồng rằng, xét qua tiến độ chậm chạp của Bock ở Bỉ và sự vận chuyển của binh sĩ đối phương khỏi bờ biển, các lực lượng thiết giáp phải tiếp tục tiến đến Dunkirk. Nhưng lúc này thì đã muộn: Đối phương đã có thời giờ để củng cố tuyến phòng thủ và sau phòng tuyến này, đối phương đang tẩu thoát ra biển .

Ít lâu sau khi Hitler huỷ bỏ lệnh dừng quân, Hải quân Anh ra lệnh bắt đầu "Chiến dịch Dynamo" để di tản binh sĩ khỏi Dunkirk. Vào đêm này, thiết giáp Đức mở đợt tiến công bến cảng từ phía Tây và nam, nhưng họ gặp nhiều khó khăn. Lord Gort đã có thời giờ bố trí ba sư đoàn bộ binh được pháo hạng nặng yểm trợ. Các đội hình thiết giáp của Đức tiến một cách chậm chạp. Cùng lúc đó, cuộc di tản của Anh bắt đầu. Một đội tàu gồm 850 chiếc đủ mọi kích thước, hình thù và phương tiện hải hành, từ tàu tuần dương và tàu khu trục cho đến thuyền buồm nhỏ, nhiều chiếc do dân thường lái từ những thị trấn ven biển Anh, tụ tập đến Dunkirk. Trong 4 ngày đầu, 27 tháng 5 cho đến 30 tháng 5, họ di tản được tổng cộng gần 130.000 người, vượt quá mong đợi của Hải quân Anh vốn dự định di tản được 45.000 người trong thời gian họ đoán chỉ có 2 ngày .

Chỉ đến ngày 30 tháng 5, phía Đức mới thức tỉnh để thấy chuyện gì đang xảy ra. suốt 4 ngày, các bản thông cáo của Bộ Chỉ huy Tối cao Quân lực vẫn lặp đi lặp lại rằng số phận quân địch đang bị bao vây đã khép lại .

Nhưng đối phương đang rút ra khơi. Không có vũ khí và chiến cụ nặng, nhưng chắc chắn là binh sĩ đã được cứu sống để còn chiến đấu sau này .

Ngay đến sáng ngày 30 tháng 5, Halder vẫn ghi vào nhật ký về việc "quân địch mà ta bao vây đang tiếp tục tan rã" .

Vào xế trưa, sau buổi họp với Brauchitsch, Bộ Tư lệnh Lục quân mới nhận ra tầm quan trọng của những chiếc thuyền nhỏ bé một cách tội nghiệp mà binh sĩ Anh sử dụng để trốn thoát .

"Brauchitsch nổi giận... Đáng lẽ vòng vây đã siết chặt nếu thiết giáp của ta không bị dừng lại. Thời tiết xấu khiến cho Không quân không thể cất cánh và bây giờ ta phải đứng nhìn vô số nghìn quân địch tẩu thoát về Anh ngay dưới mũi chúng ta." Đúng là họ nhìn thấy như thế. Dù quân Đức gây áp lực từ mọi hướng, nhưng phòng tuyến của Anh vẫn trụ vững và có thêm binh sĩ được di tản. Hôm sau, ngày 31 tháng 5 là ngày tấp nập nhất: khoảng 68.000 người xuống tàu đi Anh, ⅓ từ bãi biển, còn lại là từ bến cảng. Tổng cộng gần 200.000 người đã được chở đi, gấp hơn 4 lần con số được kỳ vọng ban đầu .

Không quân Đức nổi tiếng đang ở đâu? Như Halder ghi lại, một phần thời gian họ không cất cánh được do thời tiết xấu. Trong thời gian còn lại, họ bất ngờ bị Không lực Hoàng gia Anh bay lên từ những căn cứ bên kia eo biển chống trả quyết liệt. Nhiều binh sĩ Anh không biết là máy bay Anh thật sự có mặt, vì những cuộc không chiến thường diễn ra ngoài khơi hoặc phía trên tầng mây. Binh sĩ chỉ thấy là họ bị máy bay Đức không kích suốt con đường hành quân từ Bỉ đến Dunkirk và nghĩ bị Không lực Hoàng gia Anh bỏ rơi. Khi về đến Anh, một số binh sĩ mắng nhiếc Không lực, khiến cho Churchill phải cải chính. Dù ít hơn về số lượng, nhưng máy bay Spitare của Anh vẫn có ưu thế so với máy bay Messerschmitt của Đức, đồng thời đã bắn tan tác máy bay thả bom chậm chạp của Đức. Trong một số ít cơ hội, máy bay Đức đến được Dunkirk vào giữa thời gian những đợt tấn công của máy bay Anh, gây hư hại cho bến cảng khiến cho trong một thời gian Anh chỉ có thể tiến hành di tản từ bãi biển .

Không quân Đức cũng tấn công đoàn tàu và đánh đắm phần lớn – 243 tàu bị chìm – trong tổng số 861 tàu tham gia cuộc di tản. Nhưng Không quân Đức không thể thực hiện đúng lời Goering hứa với Hitler là tiêu diệt Lực lượng Viễn chinh Anh. Vào ngày 1 tháng 6, khi máy bay Đức mở cuộc không kích mạnh nhất (và chịu thiệt hại nặng nhất – mỗi bên mất 30 máy bay) và đánh chìm được 3 tàu khu trục Anh và một số tàu vận tải nhỏ, nhưng Anh vẫn di tản được gần 65.000 người. Ngày hôm sau chỉ còn lại 4.000 binh sĩ Anh, được bảo vệ bởi 100.000 quân Pháp giờ đang phụ trách tuyến phòng thủ quanh khu vực bị bao vây .

Lúc này, Đức đã điều đến pháo hạng trung trong tầm bắn và Anh không thể di tản vào ban ngày được nữa. Không quân Đức vào thời này chưa thể hoạt động ban đêm, vì thế trong hai đêm ngày mùng 2 và 3 tháng 6, tất cả Lực lượng Viễn chinh Anh còn lại và thêm 60.000 quân Pháp được di tản. Lúc này Dunkirk còn 40.000 quân Pháp cố thủ, trụ được cho đến sáng 4 tháng 6. Đến ngày này, tổng cộng gần 340.000 quân Anh và Pháp đã thoát ra khỏi gọng kìm của Đức. Họ không còn là 1 đoàn quân vững chắc và phần lớn đều đang ở trong tình trạng thảm não. Nhưng họ là những chiến binh dạn dày trận mạc, họ biết nếu được vũ trang đầy đủ và được không quân yểm trợ thì họ có thể đứng lên mà chiến đấu với quân Đức. Sau này họ sẽ chứng tỏ điều ấy ngay ở trên những bãi biển cách không xa nơi họ được giải cứu .

Anh đang ở vào tình thế khẩn trương. Không lực Hoàng gia Anh đang bị suy yếu nhiều ở Pháp. Chỉ có Hải quân là còn mạnh, nhưng chiến dịch Na Uy cho thấy máy bay đối phương dễ gây tổn thất cho tàu chiến lớn. Lúc đó, Không quân Đức chỉ mất 5 đến 10 phút để bay qua biển Manche là đến lãnh thổ Anh. Về phần Pháp, những đội quân thiện chiến nhất đã bị tiêu diệt ở Bỉ và ở miền Bắc nước Pháp, phần lớn không lực nhỏ nhoi và lạc hậu đã bị tiêu diệt. 2 vị tướng nổi danh nhất là Thống chế Pétain và Đại tướng Weygand cũng chẳng còn tinh thần chiến đấu chống lại đối thủ đáng gờm như thế .

Những sự kiện ảm đạm này đã chiếm lĩnh tâm tư của Thủ tướng Churchill, khi ông đứng trước Viện Dân biểu ngày 4 tháng 6 năm 1940, trong khi những con thuyền cuối cùng từ Dunkirk vừa về đến Anh. Chính trong dịp này mà ông có bài diễn văn nổi tiếng, sẽ được ghi nhớ mãi và được xem là một trong số những bài diễn văn hay nhất mọi thời đại: "Ngay cả khi những dải đất của châu Âu và nhiều quốc gia xưa cũ và nổi tiếng đã sụp đổ, hoặc rơi vào vòng kìm kẹp của Mật vụ và của mọi bộ máy kinh tởm của chế độ Quốc xã, thì chúng ta sẽ không nhụt chí hoặc cảm nhận thất bại. Chúng ta sẽ đi đến cùng, chúng ta sẽ chiến đấu ở Pháp, chúng ta sẽ chiến đấu trên biển và đại dương, chúng ta sẽ chiến đấu trên bầu trời với lòng tự tin ngày càng kiên định và với sức mạnh ngày càng được củng cố, chúng ta sẽ bảo vệ đảo quốc của chúng ta với bất cứ giá nào, chúng ta sẽ chiến đấu trên bờ biển, chúng ta sẽ chiến đấu trên bãi đáp, chúng ta sẽ chiến đấu trên trận tiền và trên đường phố, chúng ta sẽ chiến đấu trên đồi núi, chúng ta sẽ không bao giờ đầu hàng và ngay cả nếu, mà tôi không hề tin là hiện thực, đảo quốc này hoặc một phần lớn của nó bị khuất phục và đang đói kém, thì Đế quốc của chúng ta phía bên kia bờ biển, được Hạm đội Anh vũ trang và bảo vệ, sẽ tiếp tục cuộc chiến đấu cho đến khi Tân Thế giới, với mọi sức mạnh và ý chí của nó, tiến lên để cứu nguy và giải phóng Cựu Thế giới." NƯỚC PHÁP SỤP ĐỔ Dường như Hitler không tỏ ra băn khoăn về ý chí chiến đấu của người Anh. Ông tự tin nghĩ Anh sẽ nhìn ra vấn đề sau khi Đức tiêu diệt Pháp và Hitler sẽ tiến hành việc này ngay bây giờ. Buổi sáng sau khi Dunkirk thất thủ, ngày 5 tháng 6, quân Đức mở cuộc tổng tấn công trên sông Somme. Chẳng bao lâu sau, Đức tấn công với sức mạnh áp đảo dọc chiến tuyến dài hơn 600 km từ Abbeville đến thượng nguồn sông Rhine. Để chống lại 143 sư đoàn của Đức, kể cả 10 sư đoàn thiết giáp, Pháp chỉ có thể huy động 65 sư đoàn, phần lớn thuộc hạng nhì, bởi vì những đơn vị thiện chiến nhất và phần lớn lực lượng thiết giáp đã bị thiệt hại ở Bỉ. Hơn nữa, Không lực Pháp cũng chẳng còn lại gì nhiều. Anh chỉ có thể đóng góp 1 sư đoàn bộ binh và một phần của 1 sư đoàn thiết giáp. Không lực Hoàng gia Anh chỉ có thể phái một ít máy bay cho trận chiến vì còn phải lo bảo vệ chính quốc của họ. Bộ Tổng Tham mưu Pháp – lúc đó đang do Pétain và Weygand chế ngự – thì lâm vào tinh thần chủ bại. Tuy thế vài đơn vị của Pháp vẫn chiến đấu một cách dũng cảm và ngoan cường, đôi lúc chặn đứng được thiết giáp Đức và kiên quyết chống trả lại những cuộc không kích liên tục của Đức .

Nhưng đây là cuộc chiến đấu không cân sức. Quân Đức tràn qua lãnh thổ Pháp như cơn sóng thần, tạo nên cảnh "hỗn độn trong chiến thắng" vì quân số quá đông và tiến quá nhanh, đôi lúc còn giẫm chân lên nhau. Ngày 10 tháng 6, Chính phủ Pháp vội vã di tản khỏi paris. Ngày 14 tháng 6, Đại Quân đoàn Thứ Mười Tám của Tướng von Kuechler tiến vào chiếm thành phố Paris vĩ đại và cũng là niềm vinh quang của Pháp, lúc ấy đang bị bỏ ngỏ. Lá cờ chữ thập ngoặc được kéo lên Tháp Eiffel .

Ngày 16 tháng 6, Thủ tướng Reynaud đứng đầu Chính phủ chạy đến Bordeaux, rồi từ chức. Pétain lên thay thế và ngày hôm sau xin đình chiến với Đức.Hitler trả lời rằng sẽ phải thảo luận trước với Đồng minh của mình, Mussolini. Vì lẽ ông này, giống như chó sói, đã nhảy vào vòng chiến ngày 10 tháng 6 để cố chia chác chiến lợi phẩm .

ĐÂM SAU LƯNG PHÁP Dù tất bật với chiến cuộc phía Tây, điều ngạc nhiên là Hitler vẫn thu xếp thời giờ để viết thư cho Mussolini một cách thường xuyên để thông báo những chiến thắng của Đức .

Sau bức thư đầu ngày 7 tháng 5 thuật lại cuộc tấn công Bỉ và Hà Lan "nhằm đảm bảo nền trung lập của họ", thêm những bức thư khác vào ngày 13, 18 và 25 tháng 5, mỗi thư đều có chi tiết mới và bày tỏ niềm phấn khởi hơn những bức thư trước. Tuy tướng lĩnh Đức không màng Ý đang làm gì – dù tham chiến hay không – nhưng vì lý do nào đấy, Hitler vẫn đề cao vai trò tham dự của Ý. Sau khi liên quân Anh-Pháp bị đè bẹp và binh sĩ Anh còn sống sót được di tản khỏi Dunkirk, Mussolini quyết định nhảy vào vòng chiến. Ông thông báo cho Hitler biết là Ý sẽ tham chiến ngày 5 tháng 6. Hitler lập tức bày tỏ "lòng cảm động sâu sắc" .

Tuy nhiên, Hitler đã yêu cầu Mussolini hoãn lại 3 ngày với lý do là cần triệt hạ Không lực Pháp trước đã. Mussolini thì trì hoãn 5 ngày, đến ngày 10 tháng 6. Ý sẽ chiến đấu bắt đầu từ ngày hôm sau .

Thực ra, Quân đội Ý cũng không giúp ích được gì nhiều. Vào ngày 18 tháng 6, khi Hitler mời Ý đến Munich để thảo luận việc đình chiến với Pháp, 32 sư đoàn Ý sau 1 tuần "chiến đấu" đã không thể đẩy lui nổi 6 sư đoàn Pháp ở vùng nam nước Pháp. Bộ Tổng Tham mưu Pháp có tư tưởng chủ bại nên cấm hành động tấn công quân Ý. Ngày 14 tháng 6, một hạm đội Pháp bắn phá các nhà máy, bồn dầu và xưởng lọc dầu gần Genoa, nhưng hành động kế tiếp lại bị cấm đoán. Khi máy bay Anh định cất cánh từ Marseilles để thả bom 2 thành phố Milan và Turin của Ý, quân Pháp đã lái xe tải cho đỗ trên đường băng để ngăn chặn .

Ngày 21 tháng 6, Ciano ghi vào nhật ký: "Mussolini cảm thấy khá nhục nhã vì lực lượng ta không tiến được bước nào. Ngay cả hôm nay, họ cũng không thể tiến công và phải dừng bước ngay trước công sự Pháp đầu tiên có sức chống trả." Khả năng quân sự mà Mussolini thường khoe khoang hoá ra là rỗng tuếch và giờ đã bị bại lộ. Việc này khiến cho nhà độc tài Ý tỏ ra chua cay khi ông và Ciano lên tàu hoả buổi tối 17 tháng 6 để hội đàm với Hitler về việc đình chiến với Pháp. Ciano ghi vào nhật ký: "Mussolini cảm thấy không mãn nguyện. Hoà bình đến bất ngờ khiến cho ông bất an... Trong cuộc hành trình, chúng tôi bàn luận cặn kẽ nhằm làm rõ những điều kiện cho việc đình chiến. Ông... muốn đạt đến mức chiếm đóng hoàn toàn nước Pháp và đòi hạm đội Pháp phải đầu hàng. Nhưng ông nhận ra rằng ý kiến của ông chỉ có giá trị tham khảo. Hitler đã thắng trong cuộc chiến mà không có sự tham dự tích cực của và chính Hitler sẽ có quyết định cuối cùng. Lẽ tự nhiên là điều này khiến cho Mussolini rối trí và buồn rầu." Phía Ý bị sốc vì "quyết định cuối cùng" của Hitler hoá ra lại khá nhẹ nhàng. Bản ghi nhớ mật chỉ rõ rằng Hitler nhất quyết không để cho hạm đội Pháp rơi vào tay Anh. Ông cũng lo Chính phủ Pháp đi lưu vong ở Bắc Phi hoặc Anh là để tiếp tục cuộc chiến. Vì lý do này, những điều khoản đình chiến và các điều khoản hoà bình chung cuộccó thể sẽ ôn hoà hơn, mục đích là để duy trì "một Chính phủ Pháp điều hành trên đất Pháp" và "hạm đội Pháp bị vô hiệu hoá". Hitler đột nhiên gạt bỏ yêu cầu của Mussolini cho chiếm đóng Thung lũng Rhone kể cả Toulon (căn cứ hải quân trên bờ Địa Trung Hải, nơi phần lớn hạm đội tập trung) và Marseilles, cũng như giải giới Corsica, Tunisia và Djibouti .

Ciano nhận thấy là ngay cả Ribbentrop, bình thường hiếu chiến là thế lại "ôn hoà và trầm tĩnh một cách khác thường và thiên về hoà bình". Còn chiến binh Mussolini thì "rất ngượng ngùng" .

"Ông ấy tự cảm thấy chỉ có vai trò phụ thuộc... Sự thật là: Ông sợ thời khắc khi hoà bình đang đến gần và một lần nữa phải thấy giấc mộng vinh quang trên trận tuyến của mình tan vỡ." Mussolini lại không được Hitler đồng ý cho tham gia đàm phán đình chiến với Pháp. Lãnh tụ không muốn chia sẻ với kẻ gia nhập hàng ngũ quá muộn công lao chiến thắng tại địa điểm lịch sử (ông không muốn tiết lộ cho người bạn biết rõ địa điểm). Nhưng ông hứa với Mussolini rằng thoả hiệp đình chiến với Pháp sẽ chỉ có hiệu lực khi Ý cũng ký vào .

Mussolini rời Munich trong tâm trạng cay đắng và nhụt chí, nhưng Ciano có ấn tượng tốt với một phương diện của con người Hitler mà trước đây ông không thấy hoặc nghĩ đến. Ciano ghi vào nhật ký: "Mọi lời nói cho thấy rõ Hitler muốn hành động nhanh chóng để chấm dứt mọi việc. Bây giờ, Hitler là người chơi trò may rủi, người đã vớ được canh bạc lớn và không muốn liều lĩnh thêm nữa... Hôm nay, ông ấy đã phát biểu với sự dè dặt và minh mẫn đáng kinh ngạc, sau một chiến thắng như thế, hôm nay tôi thật sự ngưỡng mộ ông." ĐÌNH CHIẾN LẦN THỨ HAI TẠI COMPIÈGNE Tôi đi theo Quân đội Đức đến Paris vào tháng 6 năm 1940 – tháng dễ chịu nhất ở thủ đô tráng lệ này, nhưng hiện tại mọi việc lại đang trở nên khốn khổ. Địa điểm mà Hitler áp đặt những điều khoản cho cuộc đình chiến cũng chính là nơi Đế chế Đức đã đầu hàng Pháp và các Đồng minh vào ngày 11 tháng 11 năm 1918: trên một khoảng trống trong khu rừng Compiègne. Ở đây, Hitler sẽ phục thù và chính địa điểm này sẽ gia thêm hương vị ngọt ngào cho chiến thắng của ông. Ngày 20 tháng 5, chỉ mới 10 ngày sau khi khởi động chiến dịch rộng lớn phía Tây và cũng là ngày xe thiết giáp Đức tiến đến Abbeville, Hitler đã bắt đầu nảy ra ý nghĩ ấy. Jodl ghi vào nhật ký ngày ấy: "Lãnh tụ đang làm việc về hoà ước... Những buổi đàm phán đầu tiên là ở rừng Compiègne." Buổi xế chiều 19 tháng 6, tôi đi đến đây và thấy công binh Đức đang phá đổ bức tường của nhà bảo tàng nơi lưu giữ wagon-lit (toa xe làm phòng ngủ)của Thống chế Foch. Chính trên toa xe này mà Hiệp định đình chiến năm 1918 được ký kết. Khi tôi rời đi, công binh đã phá xong bức tường và kéo toa xe chạy trên đường ray ra giữa khu vực trống trải, mà theo họ nói thì đó chính xác là điểm mà toa xe này đã được đặt vào lúc 5 giờ chiều ngày 11 tháng 11 năm 1918, khi Thống chế Foch ra lệnh cho đại diện của Đức ký vào bản hiệp định đình chiến .

Và thế là vào buổi chiều ngày 21 tháng 6, tôi đứng ở rìa khoảnh rừng tại Compiègne để quan sát thắng lợi mới nhất và to lớn nhất của Hitler. Đó là một trong những ngày hè đẹp đẽ nhất mà tôi từng nhớ ở Pháp. Ánh nắng ấm áp của tháng 6 chiếu qua những tán đại thụ – những cây du, sồi, tùng bách và thông – tạo thành những bóng tối dễ chịu trên con đường dẫn đến khoảng trống. Lúc 3 giờ 15 phút chiều, Hitler đến trên chiếc Mercedes to, theo sau là Goering, Brauchitsch, Keitel, Raeder, Ribbentrop và Hess trong những bộ quân phục khác nhau, sau cùng là Goering, lúc này là người duy nhất có quân hàm Thống chế, vung vẩy trong tay cây gậy Thống chế của mình. Hitler đứng trước ô tô của họ, trước Đài Tưởng niệm Alsace-Lorraine được phủ bằng lá cờ chiến của Đức để Hitler không nhìn thấy (nhưng tôi vẫn còn nhớ từ những chuyến thăm viếng trước), đó là một thanh gươm lớn, thanh gươm của Đồng minh năm 1918 đã đâm xuống một con ó nằm chết lịm tượng trưng cho Đế chế Đức của vương triều Hohenzollern. Hitler liếc qua đài tưởng niệm rồi bước đi tiếp. Tôi ghi vào nhật ký: "Tôi quan sát nét mặt của ông ấy. Đó là nét mặt nghiêm trang, long trọng, nhưng vẫn ánh lên khóe phục hận. Trên khuôn mặt, cũng như trong bước đi rắn rỏi, có nét của một nhà chinh phục đã chiến thắng và của một người đã thách thức toàn thế giới. Còn có nét gì khác... giống như là niềm vui bên trong sự khinh bỉ, khi hiện diện ở nơi đảo ngược của định mệnh – một sự đảo ngược mà do chính ông đã tạo ra." Khi Hitler đi đến khoảng trống giữa khu rừng và lá cờ hiệu cá nhân của ông đã được kéo lên, ông để ý đến một khối đá granit lớn đặt cách mặt đất khoảng 1 m .

Hitler, với những người khác theo sau, bước chầm chậm đến khối đá và đọc dòng chữ khắc (bằng tiếng Pháp): "NƠI ĐÂY, VÀO NGÀY 11 THÁNG 11 NĂM 1918, SỰ KIÊU HÃNH ĐẦY TỘI LỖI CỦA ĐẾ QUỐC ĐỨC ĐÃ LỊM TẮT – BỊ CHẾ NGỰ BỞI NHỮNG DÂN TỘC TỰ DO MÀ ĐẾ QUỐC CỐ ĐƯA VÀO VÒNG NÔ LỆ." Hitler đọc qua và Goering cũng đọc qua. Tất cả bọn họ đều đọc qua, đứng đấy dưới ánh nắng tháng 6 và trong im lặng. Tôi cố tìm cảm xúc trên gương mặt Hitler. Tôi đứng cách ông ấy không đến 50 m và nhìn ông qua tròng kính của tôi như thể ông đang đứng ngay trước mặt mình. Tôi đã nhìn thấy gương mặt này nhiều lần vào những thời khắc quan trọng nhất trong cuộc đời ông. Và hôm nay! Chính là gương mặt đó. Gương mặt rực lửa với vẻ khinh thường, giận dữ, căm thù, rửa hận chiến thắng .

Ông rời xa khỏi đài kỷ niệm và tỏ thái độ khinh bỉ. Ông lại liếc nhìn, cáu giận, cáu giận, người ta gần như cảm thấy thế, bởi vì ông không thể xoá đi dòng chữ kinh khủng, khiêu khích kia đi... Ông chầm chậm nhìn qua khoảng trống và lúc đó ai cũng có thể nhận ra chiều sâu của lòng thù hận nơi ông... Rồi Hitler cùng đoàn tuỳ tùng bước vào toa xe và ông ngồi xuống chiếc ghế mà Foch đã ngồi năm 1918. 5 phút sau, đoàn Pháp đến, dẫn đầu là Tướng Charles Huntziger, Tư lệnh Đại Quân đoàn Thứ Hai ở Sedan, theo sau là một đô đốc, một tướng không quân và một quan chức dân sự và Léon Noël, cựu Đại sứ tại Ba Lan. Trông họ có vẻ choáng váng, nhưng vẫn giữ tư thái tự trọng tuy có phần bi thương. Họ không biết trước là sẽ được đưa đến đài kỷ niệm chiến thắng này của Pháp để trải qua cơn nhục nhã và họ bị sốc theo cách đúng như Hitler đã tính toán. Halder ghi vào nhật ký: "Người Pháp không được báo trước là sẽ nhận những điều khoản ở đúng nơi chốn của việc đàm phán năm 1918. Hiển nhiên là họ sững người vì sự sắp xếp này và lúc đầu trông họ có vẻ buồn thảm." Có lẽ đó là điều tự nhiên, thậm chí với một người Đức có văn hoá cao như Halder, khi nhìn thấy tư thái trang trọng đều có thể nghĩ lầm đó là sự buồn thảm. Ta thấy ngay là người Pháp đúng là đã bị choáng váng. Tuy vậy, khác với những tường thuật trong thời gian này và tài liệu tịch thu được cho thấy, họ đã cố giảm nhẹ những phần khắc nghiệt trong các điều khoản của Hitler và loại trừ những phần mà họ nghĩ làm mất danh dự của mình. Nhưng họ chỉ hoài công .

Hitler và đoàn tuỳ tùng rời khỏi wagon-lit ngay sau khi Tướng Keitel đọc qua phần mở đầu của văn bản đình chiến, cho phép ông này đàm phán nhưng phải nằm trong khuôn khổ mà Hitler đã định .

Huntziger nói ngay với phía Đức rằng những điều khoản này quá "cứng rắn và khắc nghiệt", còn tệ hại hơn là những điều khoản mà Pháp áp đặt Đức năm 1918. Và ông nói không thể đặt bút ký vào hiệp ước đình chiến của Đức được .

Tướng Jodl, nhân vật số Hai trong Bộ Chỉ huy Tối cao Quân lực, lúc này đang tạm thời chủ trì, không lường trước được lời lẽ đầy thách thức như thế của một kẻ địch đã bị đánh bại toàn diện. Ông trả lời rằng dù thông cảm với Huntziger, nhưng ông không có quyền thay đổi những điều khoản của Lãnh tụ. Jodl nói, tất cả những gì mình có thể làm là "giải thích và làm rõ vài điểm mập mờ". Phía Pháp hoặc phải chấp nhận bản hiệp định như thế, hoặc là khước từ hẳn .

Phía Đức bực dọc khi thấy phái đoàn Pháp không có quyền chốt lại bản thảo hiệp định mà phải xin ý kiến của Chính phủ ở Bordeaux. Bằng một phép lạ của kỹ thuật và có lẽ thêm một ít may mắn, họ nối 1 đường dây điện thoại từ toa xe cũ, băng qua những bãi chiến trường vẫn còn xảy ra chạm súng, rồi nối đến Bordeaux. Đoàn Pháp đọc bản thảo hiệp định và thảo luận với Chính phủ của họ qua đường điện thoại này. Tiến sĩ Schmidt, người có nhiệm vụ làm thông dịch, đã nhận lệnh nghe nội dung đàm thoại từ băng ghi âm đặt trong một chiếc xe thông tin của Quân đội đậu cách vài bước trong một lùm cây. Ngày hôm sau, tôi được nghe một đoạn băng ghi lại cuộc đàm thoại giữa Huntziger và Tướng Weyand .

Tuy Tướng Weyand chịu trách nhiệm cho tinh thần chủ bại và việc đầu hàng, nhưng cần phải ghi nhận rằng ít nhất ông đã kiên trì chống đối những yêu sách của Đức. Một trong những yêu sách ghê tởm nhất là đòi phía Pháp phải giao cho Đức tất cả người Đức chống Quốc xã đang sống tị nạn trên đất Pháp và những lãnh thổ thuộc Pháp. Weyand gọi điều này là thiếu danh dự, nếu xét qua truyền thống của Pháp về quyền cho lánh nạn, nhưng Keitel không muốn xoá bỏ điều khoản này. Nhưng phía Pháp lại không phản đối điều khoản quy định mọi công dân Pháp sẽ bị hành quyết lập tức, nếu bị bắt khi chiến đấu cho một quốc gia khác chống lại Đức. Điều khoản này nhắm đến De Gaulle, hiện đang tổ chức lực lượng Pháp Tự do ở Anh và cả Weyand và Keitel đều biết đây là sự vi phạm thô bạo quy tắc cơ bản của chiến tranh. Và phía Pháp cũng không phản đối đoạn quy định mọi tù binh sẽ bị giam giữ cho đến khi lập lại hoà bình. Lúc đó vì Weyand tin chắc nước Anh sẽ bại trận trong vòng 3 tuần nên sau đó tù binh Pháp sẽ được trả tự do. Nhưng không, ông đã khiến cho 1 triệu rưỡi người Pháp phải sống trong trại tù binh trong suốt 5 năm .

Cốt lõi của hiệp định đình chiến chính là việc xử lý Hải quân Pháp: hạm đội sẽ bị giải tán, giải trừ quân bị, các con tàu được đưa vào lưu trữ ở những bến cảng. Đổi lại "Chính phủ Đức long trọng cam kết với Chính phủ Pháp rằng sẽ không có ý định sử dụng Hải quân Pháp cho những mục đích của họ trong chiến tranh. Hạm đội Pháp sẽ những bến cảng dưới sự giám sát của Đức. Hơn nữa, Chính phủ Đức tuyên bố long trọng và rõ rệt là sẽ không có ý định đòi hỏi gì ở hạm đội Pháp khi đạt tới hoà bình." Giống như những lời hứa khác của Hitler, lời hứa này cũng sẽ bị vi phạm .

Hitler để lại cho Chính phủ Pháp một vùng ở miền Nam và Đông Nam để họ tự do điều hành. Đây là một động thái khôn ngoan: vừa phân chia Pháp theo địa lý và hành chính vừa ngăn Chính phủ Pháp bỏ đi lưu vong. Hơn nữa, Hitler biết rằng những người nắm quyền kiểm soát Chính phủ Pháp tại Bordeaux là kẻ thù của nền dân chủ Pháp và có thể trông mong họ thành lập Trật tự Mới theo Quốc xã ở châu Âu .

Tuy thế, trong ngày thứ hai, đoàn Pháp lại tỏ ra dùng dằng, vì Huntziger muốn Weyand ra lệnh chứ không phải uỷ nhiệm cho ông – không ai ở Pháp muốn nhận trách nhiệm. Sau cùng, lúc 6 giờ 50 chiều ngày 22 tháng 6 năm 1940, Huntziger và Keitel đã ký hiệp định đình chiến .

Tôi lắng nghe đến lúc cuối qua micro bí mật đặt trong toa xe. Trước khi ký, Huntziger với giọng run run nói, ông tuyên bố. Tôi ghi chép: "Tôi tuyên bố rằng Chính phủ Pháp đã ra lệnh cho tôi ký những điều khoản đình chiến... Bị thúc ép bởi sự huỷ diệt của vũ khí nhằm chấm dứt cuộc giao tranh mà chúng tôi đã tham gia bên cạnh các nước Đồng Minh, nước Pháp đã bị áp đặt những điều kiện rất khắc nghiệt, ở vòng đàm phán tương lai, Pháp mong Đức sẽ thể hiện tinh thần trợ giúp để 2 quốc gia láng giềng vĩ đại cùng sống và làm việc trong hoà bình." Vòng đàm phán ấy – cho một hoà ước – không bao giờ diễn ra, nhưng tinh thần mà Quốc xã đã thể hiện, nếu có, thì chẳng bao lâu nữa sẽ tỏ rõ khi việc chiếm đóng càng trở nên khắc nghiệt hơn và áp lực lên chế độ của vị Thống chế già nua ngày càng nặng hơn. Bây giờ, Pháp đang trở thành 1 nước chư hầu của Đức, như Pétain, Weyand và Laval vẫn hằng tin – và chấp nhận điều đó .

Một cơn mưa nhỏ bắt đầu rơi khi các đại biểu rời toa xe đình chiến và bước lên ô tô của họ ra đi. Cuối con đường, người ta có thể nhìn thấy một hàng dài không dứt những người tị nạn đang trên đường trở về nhà trên đôi chân mệt mỏi, hoặc trên xe đạp, xe súc vật kéo, một số người may mắn thì đi trên xe tải cũ kỹ. Tôi bước ra khoảnh rừng trống. Một nhóm sĩ quan công binh Đức bắt đầu di chuyển toa xe cũ .

"Mang đến đâu thế?" Tôi hỏi .

"Đến Berlin." Họ đáp. Hiệp định đình chiến Pháp-Ý được ký kết ở Rome 2 ngày sau. Mussolini chỉ có thể chiếm đóng phần đất mà lực lượng của ông đã thôn tính, có nghĩa là vài trăm mét của lãnh thổ Pháp, cùng với đó là vùng phi quân sự dài 80 km ở Pháp và Tunisia. Hiệp định được ký vào lúc 7 giờ 35 phút chiều ngày 24 tháng 6. 6 giờ sau, tiếng súng trên nước Pháp cuối cùng cũng đã tắt hẳn .

Nước Pháp không hề bại trận trong 4 năm của Thế chiến I, nhưng lần này lại bị loại khỏi vòng chiến trong vòng 6 tuần. Quân Đức bây giờ đã có mặt trên phần lớn châu Âu, từ bắc xuống nam là Bắc Cực cho đến Bordeaux, từ tây sang đông là biển Manche đến Ba Lan. Con người gốc Áo lông bông trước kia, người đầu tiên đã thống nhất dân Đức vào 1 quốc gia đúng nghĩa, người cựu hạ sĩ trong Thế chiến I, bây giờ đã trở thành nhà thôn tính có vị thế lớn lao nhất. Ngáng trở ông ta đi đến chế độ bá quyền châu Âu chỉ một người Anh bất khuất, Winston Churchill và một dân tộc kiên cường mà Churchill lãnh đạo, dù cho ông phải đứng chơ vơ giữa đảo quốc đang bị đe doạ bởi một cỗ máy quân sự hùng mạnh nhất thế giới từ trước đến nay .

HITLER CHƠI TRÒ HOÀ BÌNH 10 ngày sau khi quân Đức bắt đầu tấn công qua phía Tây. Vào buổi chiều, khi xe thiết giáp Đức tiến đến Abbeville, Hitler đã chuẩn bị 1 bản hoà ước. Trong vài tuần lễ kế tiếp, Hitler vẫn tin rằng sau khi Pháp bị đánh bại, Anh sẽ nôn nóng muốn hoà bình. Theo quan điểm của Đức, những điều khoản mà Hitler đưa ra là rộng lượng, nếu xét qua việc Đức đã đánh bại Anh cả Na Uy và Pháp. Hitler nói ông chỉ muốn Anh cho ông được tự do hành động trên lục địa châu Âu .

Hitler vô cùng tự tin là Anh sẽ đồng ý, đến nỗi sau khi Pháp sụp đổ, ông không hề có kế hoạch nào nhằm tiếp tục chiến tranh với Anh, còn Bộ Tư lệnh Lục quân hay được tán dương, vốn thường chu toàn lập trước kế hoạch dự phòng cho mỗi tình huống, lần này cũng không màng lên kế hoạch nào cả. Nhật ký của Halder trong thời gian này không nhắc gì đến Anh quốc. Tâm trí ông bận rộn với sự đe doạ của Liên Xô ở vùng Balkans và biển Baltic hơn là với nước Anh .

Mà đúng thế: Tại sao Anh muốn một mình chiến đấu trong tình thế không cân sức này? Đặc biệt là không như Pháp, Ba Lan và các lãnh thổ khác bị đánh bại, Anh có thể đạt được một nền hoà bình trong khi đất nước vẫn còn toàn vẹn và tự do? Đó là câu hỏi được đặt ra ở mọi nơi ngoại trừ trong Chính phủ Anh. Sau này, Churchill cho biết họ không bao giờ thảo luận về câu hỏi này, vì ai cũng biết câu trả lời ra sao. Nhưng nhà độc tài Đức không biết được điều này và khi Churchill công khai nói ra rằng Anh không muốn chịu thua, thì dường như Hitler vẫn không chịu tin. Và Hitler dường như quyết không tin vào điều đó, ngay cả khi vào ngày 18 tháng 6, Pétain xin đình chiến và Churchill lặp lại "quyết tâm không gì lay chuyển được để tiếp tục cuộc chiến" rồi trong một bài diễn văn hùng hồn và đáng nhớ, Churchill kết luận: "Chúng ta hãy gắng hết sức cho những nghĩa vụ của mình và nếu Đế quốc Anh và Liên hiệp Anh kéo dài 1000 năm, ta sẽ tỏ ra xứng đáng khi hậu thế nói: "Đó là thời khắc vinh quang nhất của người Anh."" Hitler hẳn có thể nghĩ đây chỉ là ngôn từ huênh hoang của một người giỏi hùng biện, như chính mình vậy. Ông hẳn cũng có thể được khuyến khích bởi những ý kiến từ các nước trung lập. Ngày 28 tháng 6, một công hàm mật của Giáo hoàng được trao cho Hitler – công hàm tương tự cũng được trao cho Mussolini và Churchill – tình nguyện làm trung gian cho "một nền hoà bình công bằng và danh dự" .

Vua Thuỵ Điển cũng tích cực đề nghị hoà bình cho cả Anh và Đức .

Tại Mỹ, Đại biện lâm thời Hans Thomsen của Đức đã vung tiền ra nhằm hỗ trợ phe chủ trương biệt lậpđể giữ cho nước Mỹ đứng ngoài vòng chiến, đồng thời qua đó khiến cho Anh nản lòng trong cuộc chiến. Tài liệu tịch thu được của Bộ Ngoại giao Đức chứa đầy những báo cáo của Thomsen về nỗ lực của Đại sứ quán Đức nhằm lung lạc công luận ở Mỹ để ủng hộ Hitler. Trong những Đại hội Đảng được tổ chức vào mùa hè năm ấy, Thomsen đã càng nỗ lực thêm để gây ảnh hưởng đến cương lĩnh chính trị của họ, đặc biệt là của Đảng Cộng hoà .

Ví dụ, ngày 12 tháng 6, ông điện cho Berlin trong mật mã "tối khẩn, tối mật" rằng "một Dân biểu Cộng hoà nổi tiếng" đang hợp tác một cách "thân cận" với Đại sứ quán Đức, với thù lao 3.000 USD để đề nghị mời 50 Dân biểu Cộng hoà có chủ trương biệt lập đến Đại hội Đảng Cộng hoà "để họ có thể vận động các đại biểu chấp nhận chính sách ngoại giao biệt lập". Thomsen báo cáo rằng nhân vật này cũng muốn nhận 30.000 USD để giúp đăng bài quảng cáo chiếm nguyên trang trên báo chí Mỹ, có tiêu đề "Giữ Mỹ đứng ngoài cuộc chiến". Quảng cáo như thế đã thực sự xuất hiện trên tờ New York Times vào ngày 25 tháng 6 năm 1940 .

Kế tiếp, Thomsen báo cáo về việc mình đang thương thảo qua một người trung gian để 5 tác giả Mỹ có tiếng tăm viết những cuốn sách "để qua đó tôi sẽ đạt những kết quả lớn lao". Ông cần 20.000 USD cho việc này, ít ngày sau Ribbentrop chấp thuận lập tức. Ngày 5 tháng 7 năm 1940, Thomsen lo lắng về các khoản chi trả nên ông gửi điện về Berlin xin phép tiêu huỷ mọi hoá đơn và kế toán .

"Các khoản chi trả... được thông qua trung gian, nhưng trong những tình huống này hiển nhiên là không có biên nhận... Biên nhận hoặc bản ghi nhớ có thể rơi vào tay Mật vụ Mỹ nếu chính quyền Mỹ bất ngờ chiếm đóng Đại sứ quán. Và cho dù mọi nỗ lực để nguỵ trang thì chỉ với một sự hiện diện như thế là đủ để gây tác hại về chính trị và những hệ luỵ nghiêm trọng khác cho bạn bè chính trị của ta... Vì thế tôi yêu cầu cho phép Đại sứ quán tiêu huỷ những biên nhận này... Báo cáo qua điện tín này đã được tiêu huỷ .

Một trong những bài phỏng vấn mà trong đó Hitler bày tỏ niềm hy vọng hoà bình với Anh đã được đăng tải trên tờ Journal American tại New York ngày 14 tháng 6. 2 tuần sau, Thomsen thông báo cho Bộ Ngoại giao rằng mình đã cho in thêm 100.000 bản của bài phỏng vấn và rằng: "Qua một cộng tác viên giấu tên, tôi có thể thuyết phục Dân biểu Thorkelson [thuộc Đảng Cộng hoà bang Montana] đưa bài phỏng vấn Lãnh tụ vào Biên bản Quốc hội ngày 22 tháng 6. Việc này sẽ giúp bài phỏng vấn được phân phối rộng rãi nhất." Đại sứ quán Đức tại Mỹ cố nắm bắt mọi cơ hội. Tuỳ viên Báo chí thông báo về đề nghị của một bình luận viên phát thanh, Fulton Lewis, Jr., người được cho là "ngưỡng mộ nước Đức và Lãnh tụ và là một ký giả Mỹ được kính trọng": "Lãnh tụ nên gửi điện cho Roosevelt... với nội dung như sau: "... Tôi không tuyên chiến với Anh, trái lại tôi luôn khẳng định mình không hề có ý định tiêu diệt Đế quốc Anh. Tôi liên tục yêu cầu Churchill nên tỏ ra biết điều và đi đến một hiệp ước hoà bình trong danh dự nhưng đều bị Churchill ương ngạnh từ khước. Tôi hiểu rõ rằng nước Anh sẽ khổ sở nặng nề khi tôi dấy động cuộc chiến trên chính vương quốc Anh. Vì thế tôi yêu cầu ông tiếp xúc với Churchill và khuyên ông ấy nên từ bỏ thái độ ngoan cố một cách vô vọng... Việc kêu gọi như thế chắc chắn sẽ gây ấn tượng sâu sắc đối với dân chúng Bắc Mỹ và đặc biệt ở Nam Mỹ ..."" Hitler không làm theo lời khuyên của Lewis, nhưng Bộ Ngoại giao điện qua hỏi bình luận viên phát thanh này có tầm quan trọng như thế nào ở Mỹ. Đại biện lâm thời Đức ở Washington, Thomsen, trả lời rằng Lewis "gần đây đạt thành công nhất định, nhưng mặt khác ông ấy không có tầm quan trọng về chính trị." Riêng Churchill, như sau này thuật lại trong hồi ký của mình, ông đã có phần khó chịu bởi những người thăm dò hoà bình qua Thuỵ Điển, Mỹ và Vatican và ông cho rằng Hitler đang lợi dụng họ. Được báo cáo rằng Đại biện lâm thời Đức ở Washington, Thomsen, đã tìm cách liên hệ với Đại sứ Anh ở đó, Churchill liền gửi điện qua chỉ thị "vì bất kỳ lý do gì, Lord Lothian cũng không được phép trả lời vị Đại biện lâm thời." Đối với Vua Thuỵ Điển, vị Thủ tướng nghiêm nghị soạn phúc đáp mạnh mẽ: "Trước khi có thể xem xét bất kỳ yêu cầu hoặc đề nghị nào, chúng ta cần phải có đảm bảo bằng hành động, chứ không phải bằng ngôn từ của Đức nhằm lập lại đời sống tự do và độc lập cho Tiệp Khắc, Ba Lan, Na Uy, Đan Mạch, Hà Lan, Bỉ và trên hết là Pháp... Đó là điều cốt lõi trong quan điểm của Churchill và hiển nhiên không ai nước Anh dám đi đến thoả thuận hoà bình nhằm bảo tồn Anh nhưng lại đưa các nước mà Hitler đã chinh phục vào vòng nô lệ vĩnh viễn. Nhưng Đức thì không thấu hiểu, nơi mà như tôi còn nhớ về những ngày hè năm ấy, mọi người – đặc biệt là giới hành chính và quân sự – cứ tự tin mà xem như là cuộc chiến đã kết thúc .

Những động thái của Đại sứ Đức tại Mỹ trong thời gian này có thể cung cấp tư liệu cho một cuốn sách hấp dẫn. Người ta dễ nhận thấy xu hướng của các nhà ngoại giao Đức là hay nói cho đẹp lòng Hitler. Vì thế Quân đội Đức tỏ ra nghi ngờ những báo cáo từ Đại sứ quán Đức tại Washington, thay vào đó Quân đội Đức đã tự thiết lập một mạng lưới tình báo cho riêng mình tại Mỹ. Trung tướng Friedrich von Boetticher, Tuỳ viên Quân sự Đức tại Mỹ, luôn cảnh báo Quân đội rằng nước Mỹ bị người Do Thái chi phối – đúng như Hitler đã nghĩ. Boetticher cũng đánh giá quá cao ảnh hưởng của nhóm người chủ trương biệt lập đối với nền chính trị Mỹ, đặc biệt là Đại tá Charles A. Lindbergh mà ông xem như vị anh hùng .

Ngày 18 tháng 9, Thomsen báo cáo về 1 cuộc trao đổi mật mà ông cho là đã diễn ra giữa Lindbergh và vài sĩ quan tham mưu của Mỹ. Lindbergh nhận xét rằng Anh sẽ sụp đổ nhanh khi Đức tấn công bằng Không quân. Tuy nhiên, các sĩ quan Mỹ cho rằng sức mạnh của Không quân Đức không đủ để thôn tính Anh .

3 tuần sau, Hội nghị Munich, Lindbergh được trao tặng huân chương "Chữ thập của Chim ó Đức với Ngôi sao" và ông tiếp nhận. Tôi tin rằng đây là huân chương cao quý hàng thứ hai của Đức, thường được trao tặng cho người nước ngoài có nhiều công trạng với Đức .

Suốt cuối tháng 6 và đầu tháng 7 năm 1940, Hitler trông chờ thông báo từ London rằng Chính phủ Anh sẵn sàng chịu thua và chấp nhận hoà bình. Ngày 1 tháng 7, Hitler nói với tân Đại sứ Ý Dino Alreri rằng mình "không thể tưởng tượng được là có ai đó ở Anh vẫn còn nghiêm túc tin vào chiến thắng". Và Bộ Chỉ huy Tối cao Quân lực vẫn không làm gì để tiếp tục cuộc chiến chống Anh .

Nhưng ngày hôm sau, 2 tháng 7, Bộ Chỉ huy Tối cao Quân lực cuối cùng ra chỉ thị. Đó là một mệnh lệnh ngập ngừng: "Lãnh tụ và Tư lệnh Tối cao quyết định: Có thể thực hiện một cuộc đổ bộ lên đất Anh, miễn là tạo được ưu thế trên không và đạt được vài điều kiện. Ngày khởi sự vẫn chưa được quyết định. Phải bắt đầu ngay các bước chuẩn bị." Hitler tỏ ra thờ ơ với chiến dịch, thậm chí tin rằng chiến dịch này là không cần thiết: "Phải thực hiện những bước chuẩn bị trên cơ sở cuộc tiến công chỉ mới là một kế hoạch và chưa có quyết định gì về việc này." Khi gặp Hitler ngày 7 tháng 7, Ciano nhận thấy (như ông ghi vào nhật ký) nhà lãnh đạo Quốc xã đang bối rối vì không biết phải quyết định ra sao .

"Ông ấy muốn tiếp tục cuộc chiến và giáng cho Anh một trận bão với nỗi phẫn nộ và sắt thép. Nhưng ông ấy vẫn chưa đi đến quyết định cuối cùng và vì lý do này ông trì hoãn bài diễn văn của mình vì ông muốn cân nhắc từng chữ một." Hitler triệu tập các chỉ huy quân sự đến Obersalzberg ngày 11 tháng 7 để xem họ nghĩ thế nào về việc này. Thuỷ sư Đô đốc Raeder, với hạm đội sẽ chở binh sĩ ngang qua biển Manche, có buổi hội kiến kéo dài với Hitler. Cả 2 không muốn đụng đến vấn đề gai góc này, mà họ dành phần lớn thời gian để bàn về việc phát triển những căn cứ hải quân ở Na Uy .

Theo báo cáo mật của Raeder, Hitler tỏ ra nhụt chí. Ông hỏi Raeder liệu bài diễn văn sắp tới ở Nghị viện có kết quả gì không. Raeder đáp rằng có, đặc biệt nếu trước đó Không quân Đức mở cuộc tấn công "tập trung" xuống đất Anh. Raeder nhắc cho Hitler nhớ rằng Không lực Hoàng gia Anh đang mở những cuộc oanh kích gây thiệt hại cho các căn cứ hải quân của Đức. Nhưng về việc đổ bộ lên nước Anh, vị Tư lệnh Hải quân tỏ ra hoàn toàn dửng dưng. Ông khẩn thiết nói rằng việc đổ bộ "chỉ là biện pháp cuối cùng nhằm thúc ép Anh đi đến hoà bình" .

"Ông ấy [Raeder] tin rằng có thể thúc ép Anh chấp nhận hoà bình bằng cách dùng tàu ngầm để cắt đứt tuyến đường nhập khẩu của Anh và dùng Không quân tấn công những đoàn tàu vận tải... Tư lệnh Hải quân [Raeder] không muốn cổ vũ cho việc tiến công Anh như ông đã từng cổ vũ trường hợp của Na Uy." Tiếp theo, Raeder giải thích một cách chi tiết mọi khó khăn liên quan đến cuộc tiến công như thế. Lời lẽ của ông có lẽ sẽ làm nhụt chí nhưng lại thuyết phục được Hitler. Vì Raeder ghi trong bản báo cáo mật là "Lãnh tụ cũng xem tiến công là biện pháp cuối cùng." 2 ngày sau, các tướng lĩnh đi đến Obersalzberg để trao đổi với Hitler. Họ thấy ông vẫn còn hoang mang về người Anh. Halder ghi vào nhật ký: "Lãnh tụ vẫn còn bị ám ảnh với câu hỏi tại sao Anh chưa muốn đi đến hoà bình." Nhưng bây giờ, lần đầu tiên, 1 trong những lý do bắt đầu lộ ra. Halder ghi lại: "Cũng như chúng tôi, ông ấy thấy giải pháp cho vấn đề là ở chỗ Anh đang đặt hy vọng vào Nga. Vì thế ông cũng nghĩ phải dùng vũ lực thì mới ép được Anh chấp nhận hoà bình. Tuy nhiên, ông không thích làm việc như thế. Lý do: Nếu ta đánh bại Anh về mặt quân sự, Đế quốc Anh sẽ tan rã. Tuy thế Đức không có lợi gì trong việc này. Máu của Đức đổ ra nhưng chỉ có Nhật, Mỹ và những nước khác hưởng lợi." Cùng ngày, Hitler gửi thư cho Mussolini, từ chối và cảm ơn Ý đã đề nghị gửi binh sĩ và máy bay để trợ giúp cuộc tiến công nước Anh. Qua thư này, hiển nhiên là Hitler rốt cuộc đã đi đến quyết định của mình. Người Anh đơn giản là quá lạ kỳ nên mới không chịu nghe theo lý lẽ. Ông viết: "Tôi đã nhiều lần đề nghị một hiệp định, thậm chí một sự hợp tác nhưng tôi đã bị đối xử một cách tệ hại đến nỗi bây giờ tôi tin rằng dù có kêu gọi thêm cũng chỉ bị khước từ lần nữa. Bởi vì ở đây không có lý lẽ ngự trị..." 2 ngày sau, 16 tháng 7, rốt cuộc Hitler đi đến quyết định. Ông ban hành "chỉ thị Số 16 về việc Chuẩn bị Đổ bộ chống Anh quốc." TỐI MẬT Tổng hành dinh của Lãnh tụ 16 tháng 7 năm 1940 Vì lẽ Anh quốc vẫn chưa cho thấy dấu hiệu hoà giải nào cho dù đã lâm vào tình thế vô vọng về quân sự, nên tôi quyết định sẽ chuẩn bị một cuộc đổ bộ chống Anh, đồng thời sẽ cho thực hiện cuộc đổ bộ này nếu cần thiết .

Mục đích của chiến dịch là nhằm tiêu diệt chính quốc Anh như là căn cứ tiến hành cuộc chiến chống Đức, và, nếu cần thiết, sẽ chiếm đóng toàn bộ lãnh thổ .

Mật mã của cuộc tấn công là "Sea Lion". Các bước chuẩn bị sẽ phải xong xuôi vào giữa tháng Tám .

"Sẽ thực hiện nếu cần thiết". Dù trực giác cho thấy sẽ cần thiết, nhưng câu này lại cho thấy Hitler vẫn chưa chắc chắn. Chữ "nếu" vẫn đặt ra một dấu hỏi lớn khi Hitler đứng lên giữa Nghị viện buổi tối 19 tháng 7 năm 1940 để đề nghị hoà bình lần cuối cùng với Anh. Đó là bài diễn văn quan trọng cuối cùng của Hitler tại Nghị viện sau nhiều năm tác giả nghe ông phát biểu. Đó cũng là một trong những bài diễn văn hùng hồn nhất của Hitler. Tôi ghi lại cảm tưởng của mình ngay buổi tối ấy: "Con người Hitler mà ta thấy tại Nghị viện tối nay là một nhà chinh phục và ông ý thức rõ điều này. Đó cũng là một kịch sĩ tuyệt diệu, người chi phối đầu óc dân Đức một cách hoa mỹ nhất, đến nỗi ông pha trộn một cách tài tình vẻ tự tin tuyệt đối của 1 nhà chinh phục với lòng khiêm tốn vốn luôn được quần chúng yêu thích khi họ thấy ông lãnh đạo theo cách như thế. Tối nay, giọng điệu của Hitler nhỏ nhẹ hơn, ông ít khi lớn tiếng như thường lệ, ông không hề la hét lấy một lần như lúc trước tôi vẫn thường thấy tại diễn đàn này." Bài diễn văn dài của Hitler vẫn đầy ắp luận điệu xuyên tạc lịch sử và xen kẽ lời nhục mạ cá nhân Churchill. Nhưng giọng điệu thì nghe ra ôn hoà, cố tranh thủ một cách khôn ngoan sự hậu thuẫn của người Đức cũng như của các quốc gia trung lập và khiến cho quần chúng Anh phải suy nghĩ: "Từ nước Anh, tôi nghe một lời kêu gọi duy nhất – không phải của dân chúng mà là từ phía chính trị gia – rằng ta phải tiếp tục cuộc chiến! Tôi không rõ liệu các chính trị gia này có hiểu được hậu quả sẽ như thế nào nếu cứ tiến hành chiến tranh hay không. Họ tuyên bố rằng họ sẽ tiếp tục cuộc chiến và rằng, ngay cả nếu nước Anh bị tiêu diệt, họ vẫn sẽ tiếp tục chiến đấu từ Canada. Có thể đoán rằng chỉ những người quan tâm đến việc tiếp tục chiến tranh mới có thể đi đến Canada. Tôi e rằng người dân sẽ phải ở lại nước Anh và... chắc chắn sẽ nhìn chiến tranh với cặp mắt khác với những kẻ tự gọi là lãnh đạo ở Canada .

Quý vị hãy tin rằng tôi cảm thấy kinh tởm đối với loại chính trị gia vốn chỉ huỷ hoại cả dân tộc và vô nguyên tắc như thế. Tôi đau đớn khi nghĩ rằng hẳn định mệnh đã chọn tôi để ra tay đánh đổ cơ cấu mà họ đã làm lung lay... Chắc chắn ông Churchill... sẽ đi đến Canada, nơi mà những người chỉ quan tâm đến chiến tranh đã gửi đến tiền bạc và con cái của họ đến đó. Tuy nhiên, đối với hàng triệu người khác, nỗi thống khổ của họ chỉ mới bắt đầu. Có lẽ ít nhất lần này ông Churchill nên tin tôi khi tôi tiên đoán rằng một Đế quốc vĩ đại sẽ bị tiêu diệt, một Đế quốc mà tôi không bao giờ có ý định tiêu diệt hoặc ngay cả xâm phạm..." Sau khi châm chọc vị Thủ tướng lì lợm và cố ly gián dân Anh xa khỏi ông, Hitler đi đến vấn đề: "Vào thời khắc này, tôi thấy có nhiệm vụ đối với lương tri của mình để một lần nữa kêu gọi đến lý lẽ và trực quan ở nước Anh, cũng như ở những nơi khác. Tôi tự thấy mình có vị thế cất lời kêu gọi này vì tôi không phải là kẻ chiến bại van xin ân huệ, mà là người chiến thắng dựa trên lý lẽ .

Tôi không thể thấy lý do tại sao cuộc chiến này phải tiếp tục." Hitler không đi vào chi tiết cụ thể hơn. Ông không đưa ra đề xuất nào về những điều khoản hoà bình, không đề cập gì về số phận của hàng trăm triệu người hiện đang ở dưới ách của Quốc xã trên những quốc gia đã bị chiếm đóng. Nhưng trong Nghị viện không có mấy người trong buổi tối ấy tin rằng đến lúc này cần thiết phải đi vào chi tiết. Khi kết thúc phiên họp, tôi gặp gỡ nhiều viên chức và sĩ quan và họ đều nói họ nghĩ rằng người Anh sẽ chấp nhận cái mà họ tin là đề nghị rất rộng lượng, thậm chí cao thượng của Lãnh tụ. Chẳng bao lâu, họ sẽ thấy là chính bản thân mình cũng đã bị lừa dối .

Một quang cảnh màu mè và chưa từng có tiền lệ trong lịch sử Đức đã diễn ra, đó là khi Hitler đột nhiên ngừng bài diễn văn để phong quân hàm Thống chế cho 12 tướng lĩnh và quân hàm Thống chế Đế chế mới được thành lập cho Goering, đặt ông này lên vị thế cao hơn những người còn lại. Goering cũng được trao tặng huân chương Đại Thập tự của Chữ thập Sắt, là người duy nhất trong cả cuộc chiến nhận huân chương cấp cao nhất này. Riêng Halder chỉ được thăng từ Đại tướng lên Đại tướng cấp cao. Trong suốt Thế chiến I, Hoàng đế Đức chỉ phong quân hàm Thống chế cho năm người và thậm chí vị tướng nổi tiếng Ludendorff cũng không được phong. Việc phong quân hàm Thống chế hàng loạt như thế rõ ràng có hiệu lực dập tắt sự chống đối của các tướng lĩnh vốn ít nhất đã 3 lần đã đe doạ lật đổ ông ta. Chín Đại tướng cấp Cao lục quân được phong Thống chế: Brauchitsch, Keitel, Rundstedt, Bock, Leeb, List, Kluge, Witzleben và Reichenau, cùng với họ là 3 Đại tướng cấp Cao không quân: Milch, Kesselring và Sperrle .

Trong phiên họp Nghị viện này, Ngoại trưởng Ý đã có những hành vi như anh hề, đứng lên ngồi xuống như con lật đật và dang tay chào theo kiểu Quốc xã mỗi khi Hitler ngừng lại để lấy hơi. Tôi cũng nhận thấy Quisling ngồi thu mình trên ghế ở một góc trên lầu. Ông ta đã đến Berlin để van nài Lãnh tụ cho ông một chức vụ ở Na Uy .

Chỉ trong vòng 1 tiếng đồng hồ, qua chương trình phát thanh tiếng Đức của đài BBC, người Anh đã trả lời Hitler bằng một tiếng quả quyết: Không! Nhiều sĩ quan cấp thấp của Bộ chỉ huy Tối cao Quân lực và nhân viên ở những ban ngành khác nhau đều thất vọng. Họ không thể tin vào tai mình. Một người lớn tiếng nói với tôi: "Ông có biết sự thể ra sao không?" Người này có vẻ hoang mang. Anh ta tiếp tục gào lên: "Ông có hiểu những người Anh ngu dốt ấy không? Bây giờ mà từ chối hoà bình hay sao? Họ điên rồi!" Ciano nhận thấy tác động của việc đó lên Mussolini là ngược lại. Ông ghi vào nhật ký: "Ông ấy... đánh giá 'đó là một bài diễn văn quá xảo quyệt.' Ông ấy e rằng Anh sẽ nhân đó mà viện lý do để đàm phán. Điều này là đáng buồn cho Mussolini, bởi vì ông ta muốn có chiến tranh hơn bao giờ hết." Như Churchill sau này nhận xét, Mussolini "không cần phải lo buồn .

Ông sẽ có toàn bộ cuộc chiến mà ông ta muốn" .

Tôi ghi vào nhật ký tối hôm ấy: "Bài diễn văn của Hitler là một kiệt tác nếu xét đến tác dụng của nó như là một trò xảo quyệt đầy tính toán nhằm động viên người Đức chiến đấu chống lại Anh. Vì lẽ, người Đức bây giờ sẽ nói: 'Hitler đề nghị hoà bình với Anh mà không kèm theo điều kiện nào. Ông ấy nói ông không thấy có lý do gì để cuộc chiến phải tiếp tục. Nếu vẫn tiếp tục thì đó là lỗi của Anh.'" Liệu đó có phải đấy chính là lý do chính để 3 ngày sau, Hitler ban hành Chỉ thị số 16 nhằm chuẩn bị tiến công Anh? Hitler thừa nhận điều này với Đại sứ Ý Alfieri: "... Đó luôn là chiến thuật hữu dụng để làm cho kẻ thù phải chịu trách nhiệm dưới con mắt của dư luận quần chúng ở Đức và nước ngoài về những biến cố trong tương lai. Điều này giúp củng cố tinh thần của ta và làm suy yếu tinh thần của địch. Một chiến dịch như Đức đang chuẩn bị sẽ đổ máu rất nhiều... Vì thế, ta phải thuyết phục dư luận quần chúng là ban đầu ta đã làm mọi việc để tránh tình cảnh kinh hoàng này... Trong bài diễn văn ngày 6 tháng 10, ông ấy cũng được lèo lái bởi ý nghĩ tưởng là làm cho địch thủ nhận trách nhiệm với tình hình tiếp theo sau. Vì thế mà ông ấy đã thắng cuộc chiến trước khi cuộc chiến thực sự bắt đầu. Bây giờ ông ấy lại lý do tâm lý nhằm chống đỡ đạo đức đối với những động thái tiếp theo của mình." 1 tuần lễ sau, Hitler thổ lộ cùng Ciano và ông này kể lại: "Hitler sẽ dàn dựng một cuộc biểu tình để khi chiến tranh tiếp tục – mà ông ấy nghĩ đó là khả năng duy nhất giúp ông có thể tạo hiệu ứng tâm lý lên người Anh... Có lẽ nếu kêu gọi đến người dân Anh một cách khéo léo, người ta có thể cô lập Chính phủ Anh hơn nữa ngay tại chính vương quốc Anh." Nhưng điều đó không thể được. Bài diễn văn ngày 19 tháng 7 có hiệu lực đối với người Đức, nhưng vô hiệu đối với người Anh. Ngày 22 tháng 7, Lord Halifax chính thức bác bỏ lời kêu gọi hoà bình của Hitler. Dù việc này đã được dự báo, nhưng Chính phủ Đức vẫn kinh ngạc. Người phát ngôn chính thức của Chính phủ Đức nói với chúng tôi: "Lord Halifax không chấp nhận đề nghị hoà bình của Lãnh tụ. Thưa các ông, điều đó sẽ dẫn đến chiến tranh!" Nói thì dễ hơn là làm. Sự thật là cả Hitler lẫn Bộ Chỉ huy Tối cao Quân lực và các Bộ Tư lệnh Lục quân, Hải quân và Không quân đều chưa từng xem xét một cách nghiêm túc làm thế nào để tiến hành 1 cuộc chiến chống Anh mà có thể đi đến thắng lợi. Giữa mùa hè năm 1940 này, họ không biết làm gì với thành công rực rỡ của mình. Họ không có kế hoạch gì cả và cũng không mấy hăng hái để khai thác những chiến thắng quân sự lớn lao nhất trong lịch sử của đất nước Đức. Đúng vào lúc Hitler đang đứng trên đỉnh cao của quyền lực quân sự, với phần lớn lục địa châu Âu phủ phục dưới chân mình, thì những đoàn quân chiến thắng lại đang nghỉ ngơi và sẵn sàng mở đợt tiến công mới, nhưng ông không biết làm cách nào để đi đến chiến thắng dứt điểm. Tướng lĩnh của ông cũng thế, dù 12 người trong số họ đang vung vẩy cây gậy Thống chế .

Dĩ nhiên là có lý do cho việc này, mặc dù lúc ấy không ai trong chúng ta thấy rõ. Dù có những tài năng quân sự lỗi lạc, nhưng người Đức vẫn thiếu ý niệm về chiến lược tổng thể. Chân trời của họ bị giới hạn – luôn luôn bị giới hạn – trong phạm trù chiến tranh trên bộ chống lại những quốc gia láng giềng ở lục địa châu Âu. Bản thân Hitler cảm thấy sợ biển cả. Có lần ông nói với Rundstedt rằng: "Trên đất liền tôi là anh hùng, nhưng trên mặt nước tôi là kẻ hèn nhát." Đầu óc của người Đức bị gói gọn trong đất liền chứ không mở rộng ra biển cả. Quân đội Đức có thể đánh bại Lục quân Anh trong vòng 1 tuần, nhưng với một eo biển hẹp – hẹp đến nỗi bạn có thể đứng bên này mà vẫn trông thấy bờ bên kia – thì đó lại là một chướng ngại vật mà họ không biết làm thế nào để vượt qua .

Dĩ nhiên là Đức có thể chọn phương án khác. Họ có thể hạ gục Anh bằng cách cùng với Đồng minh Ý đánh qua Địa Trung Hải, chiếm lấy Gibraltar về phía Tây và tiến qua phía Đông đến Ai Cập rồi băng qua kênh đào Suez đến Iran, cắt đứt con đường huyết mạch của Đế quốc Anh. Nhưng phải cần đến một chiến dịch hải quân rộng lớn và vào năm 1940, điều này dường như vượt quá tầm tưởng tượng của người Đức .

Thế là, ở trên đỉnh cao chóng mặt của thành tựu, Hitler và các hạm trưởng của ông đều do dự. Họ không nghĩ ra được bước đi kế tiếp và làm thế nào thực hiện bước đi này. Đây là một trong những điểm ngoặt quan trọng nhất của cuộc chiến và đúng ra là của vòng đời ngắn ngủi của Đế chế Thứ Ba và của sự nghiệp đang lên như diều gặp gió của Adolf Hitler. Thất bại đã bắt đầu nhen nhúm. Nhưng vào lúc này, chưa ai nhận ra điều ấy khi mà nước Anh cô độc đang lo chuẩn bị những phương tiện quân sự yếu kém để chống lại đợt tấn công của Đức vào cuối mùa hè .

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: #dichle