Quyển 2 - Chương 93
Quyển 2: Thanh thảo thoại tà dương
(Cỏ xanh râm ran chuyện ánh chiều)
Chương 93
Văn Xuân Tương nghiêm mặt, cố gắng để mình trông không giống như đang vui khi thấy người gặp họa.
"Tiểu hòa thượng, nếu ngươi đã có nhiều đan dược như thế rồi thì dứt khoát tìm một nơi tiêu hóa đi. Chờ mấy ngày nữa cuộc thi của họ bắt đầu rồi ngươi đến cũng không muộn." Vẫn nên ít lộ mặt ra ngoài sẽ tốt hơn.
"Tiền bối, bần tăng muốn học Như Lai thần chưởng." Tạ Chinh Hồng nghĩ một lúc, sau đó nhẹ giọng.
Trong Phi Long thành không hề thiếu tu sĩ đại năng, chỉ đứng ở đây thôi mà y đã cảm nhận được rất nhiều luồng sức mạnh khó lường, trước tình huống như thế, vẫn nên học thêm một vài thứ sẽ hay hơn. Sau chuyện của Lôi gia, Tạ Chinh Hồng cảm thấy hiện giờ mình đã có thể học được rồi.
"Được." Văn Xuân Tương đồng ý.
Hắn đã muốn dạy từ lâu, nhưng tiểu hòa thượng luôn bảo chưa đến lúc nên không muốn học, Văn Xuân Tương cũng ngại đề cập. Dù sao thì hắn cũng vừa nhận được tấm lòng hiếu kính của tiểu hòa thượng là cái giường hàn ngọc kia, nếu không đáp lại hắn sẽ cảm thấy như mình đang lợi dụng tiểu hòa thượng. Hắn đường đường là một Ma tôn, có cần thiết phải làm vậy không?
Tạ Chinh Hồng nói với bọn người Yến Uyển là mình muốn tìm một nơi tiêu hóa hiệu lực của đan dược, sau đó tìm một khách điếm mới, đặt một phòng dưới lòng đất rồi vào bế quan.
Như Lai thần chưởng có tổng cộng mười hai thức, lần lượt là Phật Quang Sơ Hiện, Kim Đỉnh Phật Đăng, Phật Động Sơn Hà, Phật Vấn Già Lam, Ngưỡng Phật Tây Thiên, Phật Quang Phổ Chiếu, Thiên Phật Giáng Thế, Vạn Phật Triều Tông, Phật Pháp Vô Biên, Duy Ngã Độc Tôn, Lập Địa Thành Phật, Tinh Vân Khai Hoa. Chín thức đầu vốn là một bộ, nghe nói được một vị Phật sáng tạo ra khi nghe Phật tổ truyền đạo, sau truyền đến các thế giới, còn ba thức cuối lần lượt do ba đại năng sáng tạo ra, không rõ họ tên cụ thể. Như Lai thần chưởng là một trong những công pháp đứng đầu trong các tông môn Phật tu, người khát vọng thì nhiều, nhưng tu hành được lại chẳng bao nhiêu, nay đã bị phân tán thành mười mấy phần nhỏ rải đều ở các tông môn Phật tu trong các thế giới. Đa số đều được xem là chiêu thức cao cấp.
Văn Xuân Tương tự nhận mình là một Ma tu đạt tiêu chuẩn, bèn chạy khắp các đại thế giới khiêu chiến, đánh xong đám lừa trọc thì bắt đầu ăn cướp, Như Lai thần chưởng có tổng cộng mười hai thức mà một mình hắn cướp hết năm thức rồi. Ấy thế còn cướp một cách oanh liệt và thiếu đạo đức.
E hèm, tất nhiên Văn Xuân Tương cũng từng hoài nghi mình xui xẻo như vậy có liên quan đến việc suốt ngày cướp đồ của hòa thượng, nhưng hắn không hề nói với Tạ Chinh Hồng, những điều hắn nói đều đã được làm đẹp hóa.
Vì trước đây Tạ Chinh Hồng từng học công pháp Đại Nhật thần chưởng bắt nguồn từ thức thứ nhất Phật Quang Sơ Hiện của Như Lai thần chưởng, nên Văn Xuân Tương dự định sẽ dạy y thức này đầu tiên. Điều quan trọng hơn, đây cũng là thức đầu tiên hắn cướp được từ một tông môn đã lụi tàn, hiện tông môn này đã phân tán, sẽ không gây phiền phức cho tiểu hòa thượng.
Một lần nữa cảm thán vận may của tiểu hòa thượng.
Văn Xuân Tương nghĩ mà chẳng hề thấy hổ thẹn.
Trước khi dạy cho Tạ Chinh Hồng thức thứ nhất Phật Quang Sơ Hiện, Tạ Chinh Hồng chủ động mặc niệm công pháp của Đại Nhật thần chưởng để tìm cảm giác. Tiếp xúc ít nhiều sẽ lĩnh ngộ được, nếu Đại Nhật thần chưởng được sáng tạo dựa trên Như Lai thần chưởng, thì tất nhiên sẽ giúp được y đôi phần.
Đây là thứ đầu tiên Văn Xuân Tương dạy Tạ Chinh Hồng, từng giúp y đánh lui rất nhiều kẻ địch, tất nhiên nó có ý nghĩa phi phàm với Tạ Chinh Hồng. Từ Đại Nhật thần chưởng, y cảm nhận được hai chữ "Nhật Nguyệt".
Cái gọi là Thiền, không có hình ảnh nhất định, cũng chẳng tồn tại bên trong, đa số pháp thuật Phật đạo đều không có ý tưởng hình thể cố định, ví dụ như Phật gia tam bảo, như Chư Hành Vô Thường ấn cũng thế. Còn Như Lai thần chưởng từ trước đến nay đều mang ý nghĩa nhật nguyệt, khiến Tạ Chinh Hồng phải ngẫm sâu về nó.
Đại Nhật thần chưởng, Nhật Xuất Phật Sơn, Nhật Chiếu Phật Ảnh, Nhật Nguyệt Đương Không, Nguyệt Ảnh Tây Lai...
Song càng nghĩ, Tạ Chinh Hồng càng như bước vào ngõ cụt.
Tựa như trước mặt có vô số ngọn đèn, còn y lại đứng ở vùng bóng tối phía sau nó, không biết phải đi đường nào.
Nhật nguyệt và Phật quang cũng có đôi nét giống nhau, nhưng phần nhiều vẫn không quá liên quan đến nhau.
Mồ hôi lạnh dần xuất hiện trên trán Tạ Chinh Hồng.
"Đừng nghĩ quá nhiều." Giọng của Văn Xuân Tương chợt vọng vào tai y.
"Ngẫm kỹ về tứ đại giai không (chú thích chương 72)." Văn Xuân Tương tiếp tục dạy.
Tạ Chinh Hồng thử loại bỏ mọi tạp niệm trong đầu, không đâm đầu vào ý nghĩa của nhật nguyệt nữa mà chỉ dùng thần thức diễn luyện đi diễn luyện lại các thức trong Đại Nhật thần chưởng. Người phàm có một cách nói nôm na là "khi đọc đi đọc lại một quyển sách cả trăm lần, bạn sẽ hiểu ra ý nghĩa của nó", lẽ này vẫn rất khả thi trong tu hành.
Tạ Chinh Hồng liên tục diễn luyện những chiêu thức nọ trong tử phủ, dần dà cũng đắm chìm trong ý cảnh của pháp thuật này.
Vầng nhật nguyệt trên đầu, chân bước trên sen vàng.
Dường như mọi thứ trên thế gian này đều không thể ảnh hưởng đến y được nữa, có pháp trong tay, có đạo trong tim, thì có thể mãi mãi tiến bước.
Vầng sáng nhật nguyệt chiếu rọi thân ta, khiến tâm ta như vầng nhật nguyệt.
Người trong cửa Phật vốn không nên quá cố chấp với những ý nghĩa hình ảnh cụ thể, không nên nghi ngờ, không nên gượng ép, không nên dừng lại. Như Lai thần chưởng thế nào, Đại Nhật thần chưởng thế nào, thượng phẩm hay hạ phẩm cũng đều chẳng quan trọng như đã từng nghĩ, chẳng qua chỉ là trông thấy Phật quang xuất hiện, xúc cảm ập đến, ngẩng đầu nhìn vầng nhật nguyệt kia, cảm xúc được thể hiện ra bên ngoài trở thành Đại Nhật thần chưởng mà thôi.
Do Tạ Chinh Hồng nghĩ sai.
May mà y đã kịp thời tỉnh ngộ.
Dường như trông thấy vẻ vui sướng của một tăng nhân sau khi đắm mình dưới ánh Phật quang rực rỡ, chợt, người tăng nhân ấy trở nên lạnh nhạt, dưới ánh sáng yếu ớt sắp tắt của Phật quang, người ấy liên tiếp đánh ra những chưởng pháp, đó chính là Đại Nhật thần chưởng mà Tạ Chinh Hồng rất đỗi quen thuộc.
"Thượng phẩm vãng sanh gặp Phật nhanh, hạ phẩm vãng sanh gặp Phật chậm, tuy nhanh chậm khác biệt, nhưng sẽ không bao giờ quay ngược trở lại. Tọa Thiền chẳng nên cố chấp tướng ngồi, niệm Phật quý ở chỗ bài trừ mọi hoài nghi. Chỉ cần một lòng tìm tòi và tin tưởng, chân thành niệm Phật, ắt sẽ đến được Tây phương tịnh thổ, thấy được hồ sen nơi cực lạc." Gương mặt vị tăng nhân nọ rất đỗi hiền lành, vừa khiêm tốn lại đặc biệt, hắn nhẹ nhàng tụng vài câu kệ Phật, nhưng không hề nhìn Tạ Chinh Hồng lấy một lần.
Đây là tia thần niệm của đại năng tồn tại trong pháp quyết Đại Nhật thần chưởng.
Khi hoàn toàn thông suốt Đại Nhật thần chưởng, người tu sĩ sẽ có tỷ lệ cơ duyên nhất định nhìn thấy cảnh tượng này. Còn ánh Phật quang xuất hiện vào lúc đó chính là thức thứ nhất của Như Lai thần chưởng, Phật Quang Sơ Hiện. Khi truyền lưu Đại Nhật thần chưởng, vị đại năng nọ vốn muốn tặng thế hệ sau một cơ duyên, bèn khắc ghi lại thức thứ nhất của Như Lai thần chưởng mà mình từng trông thấy vào đầu, cùng truyền theo Đại Nhật thần chưởng. Nếu có duyên, không chừng sẽ học được tinh túy của Như Lai thần chưởng.
Có lẽ người ấy chẳng tài nào ngờ rằng, sẽ có người hiểu rõ công pháp của hắn trước cả khi học thức thứ nhất của Như Lai thần chưởng.
Vứt bỏ mọi ngờ vực trong lòng, quên đi những điều từng học, chỉ như thế mới thấu được thức thứ nhất của Như Lai thần chưởng.
Tạ Chinh Hồng đứng lặng nhìn vị tăng nhân nọ, nhìn ánh Phật quang trên đầu.
Chợt có vài cảm nhận.
Tạ Chinh Hồng thử đánh ra chiêu thức Phật Quang Sơ Hiện, song tay vừa nâng lên huơ vài cái đã thấy không đúng.
"Tuy không đúng, nhưng đã chẳng còn xa nữa." Văn Xuân Tương nhìn Tạ Chinh Hồng đang im lặng đả tọa, cảm thán rằng.
Hắn biết Tạ Chinh Hồng lúc này đang đắm chìm trong ý cảnh của Đại Nhật thần chưởng, trông thấy Như Lai thần chưởng trong thế giới ấy, sau đó thông qua những gì thấy và cảm nhận được để đánh ra thức thứ nhất của Như Lai thần chưởng.
Phải thừa nhận rằng đây là một cách hay.
Vào một lúc nào đó, bất chợt người tu sĩ hay Tiên nhân cảm ứng được điều gì và sáng tạo ra một pháp quyết độc nhất, đôi khi pháp quyết ấy còn vượt cả hạn chế tu vi của bản thân người nọ. Và trong một thời gian hay một địa điểm nào đó của tương lai, cũng có người có cảm nhận giống người đó, tất nhiên cũng sẽ học được cùng một thứ.
Như Kiếm tu vậy, Kiếm tu luyện ra Kiếm ý và Kiếm phách, để lại tia Kiếm ý của mình cho thế hệ sau mô phỏng theo nó, tìm được Kiếm ý của chính bản thân họ. Việc truyền lưu công pháp ở Phật tu cũng tương tự như thế.
Cho dù là Văn Xuân Tương cũng không thể phán định cách làm của Tạ Chinh Hồng là sai.
Nếu thuận lợi, thậm chí Tạ Chinh Hồng chẳng cần hắn giúp đỡ cũng sẽ học được thức thứ nhất của Như Lai thần chưởng.
Tiếc thật.
Tiếc là nay Tạ Chinh Hồng cũng chỉ mới ở kỳ Xuất Khiếu, tuy có Chư Hành Vô Thường ấn, nhưng y chưa tu ra Phật gia tam bảo, cũng chưa có Phật thân vô thượng, thiếu mất cả hai điều kiện này, cho dù Tạ Chinh Hồng có may mắn chăng nữa cũng làm sao có thể diễn luyện ra một cách hoàn hảo chứ? Vả lại Như Lai thần chưởng trong ý cảnh kia chẳng qua chỉ là những cảm nhận mang tính chủ quan của vị tăng nhân sáng lập ra Đại Nhật thần chưởng mà thôi, chứ không phải chiêu thức thật sự.
Một chiêu thức qua tay người khác, hoặc ít hoặc nhiều đều sẽ có sự khác biệt.
Đây không phải cách truyền thừa chân chính của Như Lai thần chưởng.
Chiêu thức mà Tạ Chinh Hồng diễn luyện theo cảm ngộ này tất nhiên không phải Như Lai thần chưởng, mà là công pháp sinh ra từ phiên bản của Đại Nhật thần chưởng và Như Lai thần chưởng. Nói cặn kẽ hơn thì chẳng giống gì cả. Nhưng có thể tự sáng tạo công pháp chứng minh Tạ Chinh Hồng đã bước được bước đầu tiên vào con đường tự ngộ đạo của mình.
Nhìn Tạ Chinh Hồng đắm chìm trong thế giới của bản thân y, Văn Xuân Tương cảm thán.
Tiểu hòa thượng đã kết ấn thành công rồi, có thành tựu nhường nãy cũng bình thường thôi.
Chẳng qua là thời gian không được bình thường lắm.
Quá nhanh!
Cho dù Văn Xuân Tương là người chứng kiến Tạ Chinh Hồng trưởng thành đi nữa, mỗi khi nhìn thấy từng bước ngoặt bất ngờ của y, hắn vẫn bất giác hoảng hốt. Dù có là Tống Thanh, Phật tu giống Phật nhất trong số những người hắn từng gặp, chăng nữa, khi bằng tuổi Tạ Chinh Hồng nào có được bản lĩnh như y chứ?
Văn Xuân Tương không dám nghĩ thêm.
Có lẽ trước đây hắn đã dự đoán quá thấp về thân phận của Tạ Chinh Hồng.
Tạ Chinh Hồng không biết tâm trạng Văn Xuân Tương lúc này phức tạp nhường nào. Y một lần nữa điều chỉnh tư thế tay, huơ lại theo cảm ngộ của mình.
Linh khí của căn phòng dưới lòng đất trở nên có quy luật theo động tác của y, theo động tác nâng lên hạ xuống của Tạ Chinh Hồng, chúng trở nên sinh động hoạt bát hẳn, mỗi một đường quỹ đạo đều chứa dấu hiệu của đạo.
Văn Xuân Tương nhìn kỹ xung quanh, vội tạo nhiều pháp quyết.
"Khóa!"
Một trận pháp kết giới vô hình bao trùm cả căn phòng, ngăn cản sự thăm dò từ bên ngoài.
Thôi.
Cho dù sau này thành tựu của tiểu hòa thượng có lớn đến đâu chăng nữa, bây giờ y chẳng qua chỉ là một tu sĩ kỳ Xuất Khiếu cỏn con mà thôi.
Vẫn nên để hắn giúp đỡ và bảo vệ thì hơn, không thì với những hành động lúc trước cũng đủ để tiểu hòa thượng bị truy sát rồi.
Nghĩ thế, Văn Xuân Tương lại bất giác đắc ý.
Cũng may tiểu hòa thượng gặp phải hắn, nếu là tên Ma tôn hay Ma hoàng khác, trông thấy mầm tốt như vậy, cho dù có trả giá tất cả tu vi cũng chẳng màng, chỉ biết điên cuồng đoạt xá cơ thể này mà thôi.
Tạ Chinh Hồng đáng để họ phải trả cái giá đắt như thế.
Nhưng tiếc rằng tiểu hòa thượng vẫn chưa trưởng thành đã bị hắn bao nuôi rồi.
Văn Xuân Tương càng đắc ý hơn, ánh mắt khi nhìn Tạ Chinh Hồng dịu dàng đến chảy cả nước.
Còn Tạ Chinh Hồng được dẫn dắt, động tác chẳng mấy chốc đã ngày một trôi chảy hơn.
Tạ Chinh Hồng nhắm mắt, dường như không biết mình đang làm gì, chỉ một lòng chú tâm đến chưởng pháp trong mình, sống và chết, khổ và vinh, đều mang đôi chút Thiền ý.
Văn Xuân Tương thấy thế vội gạt phăng những cảm xúc đắc ý trước đây của mình đi, ngồi bên cạnh nhìn, quyết tâm chờ tiểu hòa thượng diễn hóa và học xong bộ công pháp này. Lấy cũ đổi mới, tuy không có giá trị so sánh nhưng ít ra vẫn có lợi. Hơn nữa như thế hắn sẽ có thể giao lưu vui vẻ với tiểu hòa thượng, đồng thời hưởng thụ ánh mắt ngưỡng mộ của tiểu hòa thượng với hắn.
Nếu Tạ Chinh Hồng nhìn hắn với ánh mắt này, Văn Xuân Tương nghĩ mình sẽ sung sướng lắm.
Một Phật tu rất có thể sẽ vô cùng huy hoàng trong tương lai lại tôn sùng và kính ngưỡng mình như thế, xem lời nói của mình là vàng là ngọc, cảm giác thành tựu nhường này thật khó mà diễn tả thành lời, cám dỗ biết bao nhiêu!
E hèm, tất nhiên phải có chút lâng lâng rồi.
Tuy Văn Xuân Tương có Phật tính, tinh thông nhiều thứ, nhưng vẫn vô duyên với việc tự sáng tạo ra công pháp Phật đạo. Song đây cũng là chuyện thường tình, Phật tu xuất thân chính quy mấy ai có thể tự sáng tạo ra công pháp chứ? Quá lắm cũng chỉ là một vài chiêu thức bé nhỏ, khó liên kết thành một chuỗi mà thôi, chẳng có gì đáng khoe khoang cả. Nhưng lần sáng tạo này của Tạ Chinh Hồng thì khác, công pháp kết hợp từ cảm ngộ giữa Đại Nhật thần chưởng và thức thứ nhất của Như Lai thần chưởng tuy chẳng giống gì cả, nhưng có thể xem như dạng thượng thừa. Đến khi Tạ Chinh Hồng chính thức học Như Lai thần chưởng, thì có thể càng tốt càng hoàn thiện hơn.
Tạ Chinh Hồng cảm thấy mình dường như đang lênh đênh trên biển rộng, cơn sóng cứ dập dìu theo tâm trạng của y. Không biết đã bao lâu, dòng nước dần rút đi để lộ mặt đất bằng phẳng. Phạm vi đất bằng ngày càng lớn, còn nước thì càng ít, cuối cùng hóa thành một mảnh ruộng dâu. Thế sự vô thường, dẫu có là biển rộng, là núi cao, rồi cũng có ngày tan biến mà thôi.
Chỉ có vầng nhật nguyệt trên trời cao, chỉ mỗi Phật đạo Đại Thừa, mới là vĩnh hằng.
Chỉ có lòng cầu Phật, chỉ mỗi lòng hướng đạo, mới chưa từng thay đổi.
Khi Tạ Chinh Hồng choàng tỉnh khỏi tâm cảnh của ruộng dâu bao la, bên ngoài cũng chỉ vừa qua một canh giờ ngắn ngủi mà thôi, linh thạch bày trí xung quanh y đã hóa thành bột phấn, linh khí trong phòng cũng bị hút cạn. Từng chiêu từng thức chưởng pháp mà y đánh ra xuất hiện thật rõ ràng trong đầu, để rồi dần hóa thành ba chữ "Thương Hải chưởng".
"Khá đấy khá đấy." Thấy Tạ Chinh Hồng tỉnh lại, Văn Xuân Tương cũng lập tức choàng dậy, "Tuy bộ Thương Hải chưởng này uy lực không mạnh, nhưng cái quý là ý cảnh của nó, có không gian cải thiện lớn đấy."
"Tiền bối học được rồi?" Tuy là câu hỏi, nhưng ngữ điệu của Tạ Chinh Hồng lại vô cùng khẳng định.
"Tất nhiên, có gì làm khó được ta chứ." Văn Xuân Tương đắc ý, "Trước đây tuy ngươi học Đại Nhật thần chưởng rất nhanh, nhưng bổn tọa còn nhanh hơn cả ngươi."
"Tiền bối rất giỏi, bần tăng vô cùng bội phục." Tạ Chinh Hồng đáp với giọng thành khẩn.
Văn Xuân Tương đắc ý lắm, bất giác huýt sáo một đoạn.
Tiểu hòa thượng tài năng biết bao nhiêu, mình thì có tài gì chứ.
Đây cứ như câu hỏi của một đứa trẻ vậy, người lớn nhanh chóng trả lời được, thật ra chẳng có gì đáng để khoe khoang cả. Chỉ là thấy tiểu hòa thượng thuận lợi như thế, Văn Xuân Tương hơi đố kỵ nên mới nói như vậy thôi.
Phải biết rằng, giới tu chân hung hiểm lắm, tiểu hòa thượng không thể cứ ngốc nghếch và tốt bụng mãi được.
"Nào, bổn tọa truyền cho ngươi chiêu thức công pháp Phật Quang Sơ Hiện." Văn Xuân Tương bay ra khỏi chuỗi hạt của Tạ Chinh Hồng, cố ý áp sát mặt mình vào mặt Tạ Chinh Hồng.
Ánh mắt Tạ Chinh Hồng hơi né tránh, vành tai ửng đỏ.
Tiền bối dựa gần quá.
Tuy Tạ Chinh Hồng lấy lại bình tĩnh rất nhanh, nhưng cảm xúc chợt lóe này vẫn không qua mắt được Văn Xuân Tương.
Xem đi, quả nhiên sức hút của hắn với tiểu hòa thượng vẫn còn lớn lắm.
Hiện hắn chỉ cách tiểu hòa thượng khoảng một ngón tay mà thôi, lúc trước Mạnh Tân Huyên còn dán sát mặt vào nữa kìa, gần hơn bây giờ biết bao nhiêu, mà mặt tiểu hòa thượng còn chẳng đỏ chút nào.
Ừm, ít ra khiếu thẩm mỹ của tiểu hòa thượng vẫn còn bình thường.
"Nhắm mắt, ngưng thần." Văn Xuân Tương mừng thầm, nhưng ngoài mặt vẫn nghiêm túc lắm.
Tạ Chinh Hồng lập tức nhắm mắt.
Nhưng sau khi nhắm mắt, vì có thần thức nên y ngược lại càng trông thấy rõ hơn.
"... Đóng luôn thần thức." Văn Xuân Tương bổ sung.
Tạ Chinh Hồng đành phong bế thần thức.
Xúc giác và khứu giác vẫn còn.
Phân thần của Văn Xuân Tương vốn được tụ thành từ linh khí, nhưng dường như Tạ Chinh Hồng vẫn có thể ngửi được mùi hương trên người tiền bối.
Y nhận thấy mùi hương ấy ngày càng nồng, tựa như có gì đó áp vào trán y.
Song, Tạ Chinh Hồng chưa kịp ngẫm nghĩ xem đó là gì, thì ý niệm khổng lồ đã xông thẳng vào thần thức.
Thuật pháp cao thâm như Như Lai thần chưởng vốn không phải chỉ dựa vào ngọc giản và diễn luyện là học được, mà phải mặt đối mặt truyền cho. Ban đầu, vì học chiêu thức này, Văn Xuân Tương không tiếc đánh ngất tất cả hòa thượng biết thức thứ nhất của Như Lai thần chưởng, sau đó tìm một con mộng yêu mới có thể thuận lợi xâm nhập vào trong mộng của họ trộm đi thức này. Sau khi trộm xong thì nhân tiện xóa đi ký ức của các hòa thượng đó, làm trong thầm lặng.
Bị thần niệm khổng lồ ấy bao trùm, Tạ Chinh Hồng ngay tức thì bình tâm lại.
Nơi sâu trong tử phủ, nguyên anh với hình dáng thiếu niên Tạ Chinh Hồng mở choàng mắt, trong đôi mắt ấy chất chứa vẻ mừng rỡ.
Một tượng Phật chẳng phân rõ nam nữ như đã nhìn thấu hàng trăm thế thái của chúng sinh, trên người tản ra hơi thở huyền diệu khiến người nhìn bất giác sinh ra cảm giác kính ngưỡng.
Tạ Chinh Hồng đứng trước bức tượng, trong đầu trống rỗng.
Thân vô thất, khẩu vô thất, niệm vô thất, vô dị tưởng... (chú thích chương 63).
Tổ hợp chữ cổ xưa trong Thập Bát Bất Cộng Phật pháp xoay chuyển với tốc độ chóng mặt, nhanh và chói mắt hơn cả khi Tạ Chinh Hồng kết anh.
Tất cả thân nghiệp đều hành động theo trí tuệ... tất cả ý nghiệp đều hành động theo trí tuệ.
Tượng Phật tỏa ánh sáng chói lòa, bao trọn lấy Tạ Chinh Hồng và cả tử phủ.
Đắm mình dưới Phật quang, tựa như toàn thân đều đang thăng hoa, thậm chí Tạ Chinh Hồng còn cảm nhận được sự chuyển động của từng giọt máu đang chảy xuôi trong cơ thể, từng dòng linh khí huyệt vị kinh mạch trong cơ thể mình. Y chưa bao giờ được "nhìn" bản thân mình rõ ràng như thế.
Đây chính là Như Lai thần chưởng.
Đây chính là Phật Quang Sơ Hiện!
Đồng thời, chưởng quầy của khách điếm và các tu sĩ khác cũng cảm giác được nhịp đập của linh mạch, linh khí vô cùng dị thường. Các tu sĩ xôn xao chạy ra khỏi phòng hỏi chưởng quầy có phải linh mạch của khách điếm có vấn đề gì hay không.
Bản thân chưởng quầy cũng chẳng rõ đầu cua tai nheo, linh mạch do trưởng lão thương hội của hắn chôn xuống, ngày thường hắn cũng chẳng tiếp xúc được, làm sao mà trả lời khách đây?
Linh mạch bên dưới khách điếm tựa như có mắt, chúng cuồn cuộn tràn vào căn phòng dưới lòng đất nơi Tạ Chinh Hồng ở, khiến linh khí những nơi khác mỏng manh hơn rất nhiều.
Tình trạng linh khí dao động mạnh nhanh chóng ổn định trở lại, tuy linh khí ít đi nhưng các tu sĩ không để bụng, có lẽ đây là dấu hiệu khi linh mạch sắp đến cực hạn. Chưởng quầy cũng nghĩ thế, có lẽ do linh mạch cạn kiệt nên mới dao động như thế, bụng cũng oán thầm sao trưởng lão lại chôn một linh mạch sắp cạn xuống chỗ này?
Trưởng lão thương hội chẳng hề hay biết mình đã bị vu oan, trước khi chôn xuống, linh khí của linh mạch này vô cùng sung túc, trước đây chẳng dùng bao nhiêu, dù có cung cấp thêm một trăm năm cũng chẳng thành vấn đề. Song hiện giờ lại chỉ dùng được quá lắm một năm mà thôi.
Văn Xuân Tương kéo giãn khoảng cách với Tạ Chinh Hồng, nhìn tốc độ tiêu hao của linh khí của phòng, hắn cũng đau lòng thay cho tòa khách điếm này.
Gặp tiểu hòa thượng xem như họ xui xẻo rồi.
May mà hiện tiểu hòa thượng vẫn chưa tìm được linh mạch mà y nói sẽ tìm cho hắn, nếu không thì thứ đầu tiên bị hút cạn chính là linh mạch đó. Thuật pháp càng cao thâm, lượng tinh khí cần tiêu hao càng nhiều, đây là điều không thể tránh khỏi. Bất kể tông môn Phật tu nào, số lượng đệ tử đích truyền vẫn sẽ luôn ít hơn Pháp tu, Kiếm tu hoặc Ma tu, bởi lượng linh khí họ tiêu hao luôn hơn những tu sĩ khác gấp vài lần.
Trước đây tuy linh khí trong động phủ của Hoàng Oanh cũng bị hút cạn, nhưng sau đó Tạ Chinh Hồng kết ấn, dị tượng trời giáng giúp Hoàng Oanh có cái may trong cái rủi, điều này ngoài việc Tạ Chinh Hồng cảm kích Hoàng Oanh, một phần cũng vì bản thân Hoàng Oanh thuộc dạng may mắn. Còn về những người khác, trước tiên hãy tự kiểm điểm lại xem mình có làm chuyện gì thiếu đạo đức không đã.
Văn Xuân Tương bất giác tìm đủ mọi lý do cho Tạ Chinh Hồng, ra quyết định sẽ không nói sự thật cho tiểu hòa thượng nghe.
Nếu không thì theo lối suy nghĩ của tiểu hòa thượng, e rằng sẽ ở lại khách điếm này để bồi thường tổn thất của họ mất.
Khi Tạ Chinh Hồng mở choàng mắt lần nữa, đã là ba ngày sau.
Với y, khoảng thời gian này chỉ vỏn vẹn như một tích tắc khi vừa trông thấy thần niệm của chiêu thức đầu tiên trong Như Lai thần chưởng, lúc ấy y vẫn chưa bắt đầu học nữa là.
Song, cho dù chỉ mới tiếp xúc sơ cũng đã vô cùng có lợi với Tạ Chinh Hồng.
"Tiểu hòa thượng, cảm giác của ngươi hiện giờ thế nào?" Văn Xuân Tương cũng từng cảm nhận sự mạnh mẽ của công pháp này, bèn hỏi.
"Sảng khoái." Tạ Chinh Hồng trầm ngâm một lúc rồi đáp.
"Ừm, tinh thần của ngươi khá đấy." Nhìn gương mặt tươi tắn của Tạ Chinh Hồng, Văn Xuân Tương nhịn không được nói.
Quả là mỗi người một số phận mà.
Trước đây sau khi học chiêu này, hắn bị Phật quang chiếu cho khó chịu thật lâu.
Như Lai thần chưởng có năm thức, hiện giờ cả Văn Xuân Tương cũng chẳng dám vỗ ngực xưng rằng bản thân đã thông thấu chúng.
Ma Phật cách biệt, với thuật pháp Phật đạo gần như đứng hàng đầu này, hắn vẫn có đôi chút lực bất tòng tâm.
Nhưng như thế cũng đủ để hắn kiêu ngạo trước rất nhiều Phật tu.
"Tiền bối nhọc lòng rồi." Tạ Chinh Hồng đứng lên nhìn quanh phòng, "Tiền bối, lúc bần tăng nhập định có chuyện gì xảy ra không?" Sao y cứ cảm thấy có gì đó là lạ.
"Có gì đâu." Văn Xuân Tương đáp với vẻ thờ ơ, "Bây giờ có phải ngươi cảm thấy nhìn gì cũng rõ ràng hơn rồi không, còn cảm nhận được sự dao động của linh khí?"
"Đúng thế."
"Bình thường thôi, trước đây khi bổn tọa học cũng vậy." Văn Xuân Tương nói tiếp, dù sao thì hiện giờ người học được Phật Quang Sơ Hiện chỉ có mỗi hắn, hắn muốn nói gì thì nói thôi.
"Hóa ra là vậy, đa tạ tiền bối đã chỉ giáo."
"Đừng khách sáo." Văn Xuân Tương nháy mắt.
Bổntọa sống bao nhiêu năm rồi, chẳng lẽ không dắt mũi được tên tiểu hòa thượng nhưngươi sao?
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top