su ra doi qhsx tbcn
II. Sự xuất hiện quan hệ sản xuất TBCN và những cuộc đấu tranh đầu tiên của giai cấp tư sản chống phong kiến 1) Sự xuất hiện quan hệ sản xuất TBCN Vào thế kỷ XI trở đi, thành thị ở Tây Âu xuất hiện và ngày càng nhiều. Thành thị xuất hiện là dấu hiệu của văn minh, của sự phát triển là sự đối lập với chế độ phong kiến. Thành thị ngày càng phát triển, tầng lớp thị dân ngày càng lớn mạnh cùng với những hoạt động công thương nghiệp. Điều đó, đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của xã hội Tây Âu. Nó góp phần phá vỡ nền kinh tế đóng kín, tự cung, tự cấp của lãnh địa, tạo điều kiện cho nền kinh tế hàng hoá phát triển. Sự xâm nhập của nền kinh tế hàng hoá, tiền tệ vào nông thôn đã làm thay đổi hình thức bóc lột của địa chủ phong kiến đối với nông dân: địa tô tiền thay cho địa tô hiện vật, địa tô tiền thay cho địa tô lao dịch và các nghĩa vụ phong kién khác. Do vậy, ở một số nước việc dùng tiền để chuộc lại tự do đã được áp dụng. Điều đó, chứng tỏ sự tan rã của quan hệ sản xuất phong kiến. Sự tan rã quan hệ bóc lột phong kiến diễn ra sớm nhất ở nước Anh. Từ thế kỷ XV, nông dân Anh đã trở thành những người lĩnh canh giữ đất, nộp tô tiền cho quý tộc. Gắn liền với sự tan rã của chế độ phong kiến, một quan hệ kinh tế xã họi mới bắt đầu nảy sinh ở Tây Âu là quan hệ TBCN. Chủ nghĩa tư bản ra đời do có sự tiến bộ về kỹ thuật, sự phát triển kinh tế hàng hoá và nhất là có quá trình tích luỹ tư bản chủ nghĩa trong nhiều thế kỷ trước. Đáng chú ý nhất là các cuộc phát kiến địa lý vào thế kỷ XV, XVI. Nó được coi như một cuộc "cách mạng thực sự" trong lĩnh vực giao thông và tri thức. Nhưng điều quan trọng hơn là nó đã đem về cho châu Âu, cho giai cấp tư sản những kho vàng bạc, châu báu khổng lồ làm nguồn vốn đầu tiên cho quá trình tích luỹ tư bản nguyên thuỷ; những vùng đất mênh mông mà họ đã biến thành thuộc địa - bước khởi đầu của chủ nghĩa thực dân. Các cuộc phát kiến địa lý đã thúc đẩy thương nghiệp ở châu Âu phát triển, việc buôn bán không chỉ diễn ra trong nội bộ khu vực châu Âu mà nó diễn ra giữa châu Âu với các lục địa khác, tạo ra cho các thương nhân và tư sản sự giàu có. Đi liền với các cuộc phát kiến địa lý là sự cướp bóc thuộc địa và các vụ cướp biển đã đem về cho châu Âu một khối lượng vàng bạc và hàng hoá. Đó là những nguồn vốn đầu tiên của quá trình tích luỹ tư bản nguyên thuỷ. Tích luỹ nguyên thuỷ tư bản không chỉ cần có vốn mà còn cần phải có lao động làm thuê. Để có nguồn nhân công rẻ mạt, giai cấp tư sản và quý tộc mới đã dùng bạo lực để tước đoạt ruộng đất của nông dân, nhiều nông dân tự do bị phá sản, ruộng đất của họ bị biến thành các trang trại sản xuất theo khuynh hướng tư bản nhằm cung cấp nguyên liệu cho các công trường thủ công, còn những người nông dân thì kiếm sống bằng cách bán sức lao động cho những kẻ vừa tước đoạt mình, tạo ra một đội quân làm thuê đông đảo. Tình trạng này diễn ra ở hầu hết ở các nước Tây Âu, nhưng mạnh mẽ nhất và rõ hơn cả là ở Anh. Sự ra đời của CNTB được đánh dấu banừg sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế hàng hoá, của thương nghiệp trong nước, của mậu dịch hàng hải và những tổ chức ngân hàng, nhưng đặc trưng tiêu biểu nhất là sự ra đời của các công trường thủ công thay thế cho các phường hội trước kia. Từ đầu thế kỷ XVI, ở nhiều nước Tây Âu đã xuất hiện các công trường thủ công nhưng ở Hà Lan và Anh hình thức này sớm chiếm được địa vị chủ yếu trong sản xuất. Các công trường thủ công mặc dù còn sản xuất thủ công nhưng đã có sự phân công trong lao động nên năng suất lao động đã được tăng lên rất nhiều. Đây là hình thức sản xuất công nghiệp đặc trưng của chủ nghĩa tư bản. Nhưng là hình thức đầu tiên còn đơn giản về lao động, thấp kém về mặt tổ chức và hạn chế về tác dụng kinh tế. Trong ngành thương nghiệp cũng xuất hiện các công ty thương mại lớn thay cho các thương hội thời trung đại (các công ty Đông Ấn của Hà Lan, Pháp, Anh). Sự chuyển biến về kinh tế đã đưa đến sự chuyển biến trong quan hệ xã hội. Những giai cấp mới đã được hình thành. Giai cấp tư sản vốn là những chủ xưởng, thương nhân, thị dân giàu có nay trở thành những chủ các công trường thủ công, chủ ngân hàng hay nhà buôn lớn. + Ở Nêđéclan: giai cấp tư sản hình thành từ tầng lớp thương nghiệp và cho vay lãi, nhưng đến thế kỷ XVI đang còn trên con đường hình thành nên còn mang nhiều tính chất của tầng lớp thị dân. Vì thế, giai cấp tư sản còn yếu ớt về kinh tế và chính trị + Anh: giai cấp tư sản bao gồm các chủ công trường thủ công, thương nhân loại trung và những người thợ cả lớp trên giàu có chiếm chủ yếu. Họ mâu thuẫn với chế độ phong kiến, nhưng lại muốn dựa vào vua và chế độ phong kiến để duy trì chế độ phường hội. Do vậy, họ có tính dao động, không kiên quyết. Nhưng mặt khác, họ cũng mâu thuẫn với chế độ phong kiến nên họ cũng là bộ phận tích cực trong cuộc đấu tranh chống phong kiến. + Bắc Mỹ: sự hình thành giai cấp tư sản cong thương nghiệp miền Bắc và chủ nô ở miền Nam là kết quả của cả quá trình lịch sử hình thành dân tộc Bắc Mĩ. + Pháp: giai cấp tư sản ra đời trên cơ sở của sự phát triển công thương nghiệp với nhiều tầng lớp khác nhau. Nhìn chung các tầng lớp tư sản Pháp không có thế lực về chính trị, do vậy họ thống nhất trong việc chống đặc quyền phong kiến. + Đức, Italia: CNTB ra đời chậm hơn so với các nước khác ở Tây Âu, đất nước bị cát cứ, chế độ phong kiến phục hồi cho nên phong trào dân tộc dân chủ phát triển khá mạnh. Chính vì vậy, giai cấp tư sản ra đời muộn lại không có dũng khí đấu tranh quyết liệt chống chế độ phong kiến như ở các nước khác Tây Âu. Do vậy, họ bắt tay với tầng lớp quý tộc tư sản hoá để chống chế độ phong kiến. + Nhật Bản: giai cấp tư sản cũng được hình thành trên cơ sở của sự phát triển của công thương nghiệp. Nhưng giai cấp tư sản Nhật còn non yếu chưa đủ khả năng nắm quyền lãnh đạo chống chế độ phong kiến mà vai trò đó do bộ phận võ sĩ có xu hướng tư sản hoá. Nhìn chung, giai cấp tư sản tuy có nhiều của cải nhưng chưa có địa vị trong xã hội, họ đại diện cho một nền sản xuất mới, tiến bộ. Vì vậy, họ sẽ là lực lượng lãnh đạo trong các cuộc cách mạng tư sản chống chế độ phong kiến lỗi thời Giai cấp vô sản tức những người lao động làm thuê. Quan hệ giữa giai cấp tư sản với giai cáp vô sản trong các công trường thủ công, đồn điền hay hầm mỏ là quan hệ thợ với chủ, giữa những người bóc lột và những người bị bóc lột, bán sức lao động theo chế độ làm công, ăn lương. Trong buổi đầu, họ đi cùng giai cấp tư sản để chống chế độ phong kiến. Như vậy, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã được hình thành. 2) Những cuộc đấu tranh đầu tiên của giai cấp tư sản Trong khi các giai cấp mới ra đời và ngày càng phát triển thì giai cấp quý tộc phong kiến ngày càng suy yếu về kinh tế và chính trị. Để duy trì và bảo vệ quyền lợi, chúng tăng cường các chính sách phản động, tăng cường đàn áp, bóc lột nhân dân. Điều đó, làm cho mâu thuẫn giữa các giai cấp, tầng lớp cư dân với quý tộc phong kiến ngày càng sâu sắc và những phong trào đấu tranh mang tính chất tư sản đầu tiên đã nổ ra. Muốn chống lại giai cấp phong kiến trước hết giai cấp tư sản phải chống lại hệ tư tưởng và văn hoá phong kiến, xây dựng một nền văn hoá riêng của mình. Vì vậy, mở đầu là phong trào văn hoá Phục hưng. - Phong trào văn hoá Phục hưng bắt đầu từ thế kỷ XIV ở ácc thành thị Bắc Ý, sau đó lan rộng ra các nước châu Âu và phát triển rực rỡ vào thế kỷ XVI.Giai cấp tư sản đã khôi phục lại nền văn hoá của Hy Lạp và Rôma cổ đại để dùng nó làm phương tiện đấu tranh chống văn hoá phong kiến, đồng thời góp phần xây dựng một nền văn hoá mới dựa trên nhân bản và tự do. Nền tảng tư tưởng của văn hoá Phục hưng là chủ nghĩa nhân văn, nhưng việc đề cao con người ở đây không phải là mọi người lao động mà là con người tư sản, chống lại mọi hủ bại của nhà thờ và bọn quý tộc phong kiến. Giai cấp tư sản đòi tự do, đòi thoát khỏi mọi ràng buộc, giáo điều và quy tắc phong kiến. Con người được tự do sáng tạo, tự do làm giàu. . . Phong trào văn hoá Phục hưng là cuộc đấu tranh công khai đầu tiên của giai cấp tư sản đang lên với giai cấp phong kiến đang suy tàn trên lĩnh vực tư tưởng - Phong trào cải cách ton giáo là đòn thứ hai mà giai cấp tư sản đánh trực diện vào hệ tư tưởng của giai cấp phong kiến. Giáo hội là chỗ dựa của chế độ phong kiến, chiếm địa vị thống trị và chi phối đời sống chính trị Tây Âu trong một thời gian dài mấy thế kỷ. Giáo hội không những là lực lượng bảo thủ, phản động mà duy trì chính sách ngu dân và trực tiếp bóc lột các tầng lớp nhân dân, đồng thời kìm hãm sự phát triển sản xuất và sự làm giàu của giai cấp tư sản. Vì thế, đã dẫn dến phong trào cải cách tôn giáo vào thế kỷ XVI. Người khởi xướng phong trào là mục sư Luthơ (1483-1546) người Đức, tiếp đó là cải cách của Canvanh (1509-1564) người Pháp sống ở Thuỵ sĩ. Tư tưởng cải cách của các ông là đòi thủ tiêu vai trò của giáo hội, giáo hoàng, bãi bỏ những thủ tục lễ nghi phiền hà, xây dựng một tôn giáo "rẻ tiền" trong đó không có đẳng cấp tăng lữ mà chỉ có những mục sư làm công việc truyền giáo . . . Ăngghen gọi là "một cái áo may rất vừa khổ người của giai cấp tư sản". Điều đó, phù hợp với giai cấp tư sản đang lên và nó được giai cấp tư sản hưởng ứng. Quần chúng nhân dân vốn căm ghét giáo hội và phong kiến họ cũng tham gia tích cực vào phong trào. - Chiến tranh nông dân ở Đức (1525), cuộc chiến tranh này được giai cấp tư sản hướng đạo (người lãnh đạo là Tômát Muynxe, chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa nhân văn). Họ đòi thủ tiêu chế độ phong kiến, thống nhất tiền tệ, lãnh thổ và tự do buôn bán. Nếu như phong trào văn hoá Phục hưng và phong trào cải cách tôn giáo là hai đòn đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng văn hoá để dọn đường cho cuộc cách mạng sắp tới, thì cuộc chiến tranh nông dân Đức là đòn vũ trang đầu tiên của giai cấp tư sản đánh vào giai cấp phong kiến, mở màn cho cuộc đấu tranh quyết liệt của giai cấp tư sản chống phong kiến đó là - các cuộc cách mạng tư sản
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top