II
Hơn nửa đời người vừa thoáng qua trước mắt, rơi rớt lại trong tôi một thứ gì đó nghèn nghẹn chẳng thể tỏ thành lời. Cũng mang danh con trời, nhưng đứa con này có lẽ trời sắp không cần nữa.
Hôm nay Thượng hoàng bỗng tỉnh táo lạ thường, không túy lúy như mọi khi, hơn nữa còn ăn vận chải chuốt gọn gàng. Tóc búi cài trâm, áo sam vàng cùng thường tía, tuy dáng hình vẫn còn tiều tụy, song cũng lấy lại được phần nào phong phạm của bậc đế vương. Tôi thắc mắc, vừa định hỏi thì đã thấy một đám lính mang xa giá đến trước sân, dẫn đầu là gã quan Điện tiền mặt lạnh. Bọn chúng cúi lạy mời ngài lên kiệu, sau đấy tất cả im lặng rời đi. Tất nhiên, tôi đã ám thì phải ám tới cùng.
Đi hơn ba mươi dặm về phía bắc, đến địa phận Cổ Pháp, xa giá dừng lại trước một khu đất rộng, xung quanh cổ thụ mọc um tùm, đầu lối vào đặt một trụ đá to, bên trên khắc bốn chữ "Thọ Lăng Thiên Đức". Kiến Gia lệnh cho tất cả ở lại bên ngoài, muốn một mình đi vào. Mắt thấy Thủ Độ bước lên chực theo sau, ngài lạnh nhạt lên tiếng: "Ngươi nghĩ kẻ sắp chết này chạy được bao xa? Hoàng hôn ta sẽ quay lại, đến lúc mặt trời khuất hẳn mà vẫn không thấy bóng ta thì bắt đầu tìm cũng chưa muộn."
"Thượng hoàng cả nghĩ rồi, trời đã về chiều, nơi rừng rậm gió máy lạnh lẽo, ngài lại đang đau yếu, tôi chỉ lo để ngài một mình thì không ổn." Gã quan Điện tiền cúi người ra bộ kính cẩn.
Thượng hoàng nghe vậy, ơ thờ đáp: "Không ổn chỗ nào? Nếu ta trúng gió chết luôn trong đấy chẳng phải có kẻ càng vui mừng sao?"
"..."
"Ta chỉ muốn một mình yên tĩnh kính viếng cha cùng các vị Tông tổ." Kiến Gia nhìn thẳng vào mắt gã, trầm giọng. "Nếu lòng ngươi còn biết đến công đức của triều Lý thì coi như nể mặt họ, nơi đây đừng làm khó ta!"
Nói rồi quay người đi thẳng.
Nắng chiều úa màu xiên qua tán lá, đổ lên dáng lưng gầy trơ trọi, chiếc bóng dưới chân cứ liêu xiêu nghiêng ngả theo từng nhịp bước nặng nề. Tôi vẫn im lặng đi bên cạnh đức ngài, lắng nghe thứ âm thanh lao xao của gió và lác đác tiếng chim. Không gian vắng lặng toát lên vẻ nghiêm cẩn lạ lùng, tựa như vừa lạc vào chốn rừng thiêng.
Quanh co qua lại hồi lâu trên lối đi lót đá, Thượng hoàng chợt đứng lại trước một gò đất, xung quanh đắp vòng thành vuông cao độ mười tấc, ở giữa có lòng trũng, bên trong dựng ngôi miếu nhỏ đơn sơ, cỏ mọc lưa thưa khắp chỗ. Nhìn kỹ văn tự được khắc trên tấm bài vị sơn son, tôi bất giác ngây người, buộc miệng thốt lên:
"Lăng của Lý Thái Tổ đây sao?"
Biết mình vừa thất thố, tôi lập tức đưa tay bụm miệng, bẽn lẽn nhìn sang nhà vua. Ngài chẳng quở trách gì, chỉ bước đến thắp một nén hương, kính cẩn vái lạy rồi ôn tồn nói: "Ngươi ngạc nhiên vì sao Thánh lăng lại trông sơ sài thế này đúng không? Khi ta còn bé mới đầu đến đây cũng giống như ngươi vậy, vốn nghĩ lăng vua phải bề thế, uy nghiêm, khác xa những ngôi mộ bình thường. Thế nhưng nghe thầy Kính Tu kể lại, cụ tổ ta trước lúc băng hà đã căn dặn các quan không được dùng gạch đá để xây lăng cao đẹp, chỉ cần đắp đất là đủ."
"Thưa, tại sao vậy?" Tôi thắc mắc.
Ngài cười, đáy mắt bỗng ánh lên niềm kính ngưỡng: "Vì ba điều lợi..."
Một, thời bình thì cũng cần phải ăn, bớt việc dư thừa cũng đỡ tốn của dân, lại không nhọc sức quân lính, có tưởng nhớ vua cứ việc đắp đất lên, càng cao càng tôn quý. Hai, khi mộ cao, cỏ mọc nhiều thì trâu bò ăn lấy, lớn béo sẽ cày ruộng tốt. Ba, trẻ mục đồng ngồi lên biết đây là lăng vua, nhớ đến công ơn của tiền nhân mà phấn đấu nên người. Bắt đầu từ đấy trở đi hoàng đế các đời sau đều theo lệ an táng ấy cả.
"Ông là một vì vua tốt, không như phụ hoàng và ta, đều là phường hôn quân." Ngài nói, giọng bẽ bàng.
Tôi thoáng sững sờ, Cao Tông dù sao cũng là cha ngài, thuộc vào bậc tiên đế, nói lời ấy có thể được xem như đại nghịch. Con người này ngang tàng hơn tôi nghĩ.
Khắc tưởng niệm qua đi, Thượng hoàng lại rảo bước, lần lượt đến viếng lăng của các vị vua khác, nơi nào cũng là gò đất cao trơ cỏ, khói hương tạm bợ như mộ gió bên đường. Cuối cùng, ngài dừng gót trước huyệt vị trông như vừa mới đắp không lâu, tần ngần hồi lâu mãi mới chịu vào. Đứng lặng người, ngài trầm mặc không lên tiếng, cứ chăm chăm nhìn vào ba chữ "Lý Cao Tông".
Sợi nắng cuối ngày dần kéo dài về tây, nén nhang tàn nửa. Chẳng rõ đã hồi tưởng xong những gì, ngài bất chợt thở dài: "Cha con ta có tội với họ Lý, có tội với muôn dân Đại Việt."
"Ngươi biết húy của ta là gì không?" Ngài hỏi, nhưng dường như không cần câu trả lời.
"Lý Hạo Sảm. Thầy Kính Tu nói, ta sinh ra giữa cảnh sắc quang minh, có ánh mặt trời rạng rỡ, núi sông bát ngát hiền hoà... Đặt tên Hạo Sảm, mang nghĩa vầng dương soi rọi khắp một vùng bao la non nước. Hi vọng ta sau này có thể thay vua cha gánh lấy giang sơn Đại Việt, dùng ánh sáng của bậc minh quân mà bao bọc muôn dân."
"Nhưng ngươi nhìn xem ta đã làm được gì!"
Ngài nhếch môi cười, vẫn cái điệu cười chua chát thường trực. "Đỗ Kính Tu là một người thầy thất bại, dạy ra hai gã vua tồi."
"Mặt trời rạng rỡ, ánh sáng bao bọc muôn dân... Nói ra chỉ tổ làm trò hề! Đó là thứ ánh sáng le lói chực tắt, là mặt trời gác núi. Ngươi hiểu không?"
Tôi không nhịn được mà thốt lên an ủi: "Thịnh suy là lẽ thường của tạo hóa, cõi trời đất này còn chưa chắc đã trường tồn, huống hồ một vương triều ngắn ngủi trong dòng lịch sử cuồn cuộn chảy siết muôn đời... Nghĩ như vậy lòng sẽ nhẹ nhàng đôi chút!"
Chẳng biết có phải hoàng hôn đã bắt đầu buông xuống hay không, tôi chợt thấy màu mắt ngài hoen đỏ. Nhìn về bóng ác tà đang dần khuất phía sau đồi, Thượng hoàng im lặng một lúc như cố nén lại thứ gì đó sắp cuộn trào, đoạn khàn khàn cất tiếng: "Nếu như cha ta không chơi bời vô độ, bỏ bê xã tắc làm lòng dân oán hận thì liệu sẽ có ngày ta phải rời bỏ cung cấm chạy loạn tới miền sông nước đó chăng? Nếu như ta không đến, không gặp người con gái ấy, liệu ta có thể bớt nhu nhược, làm một đấng minh quân? Nếu như không phải ta mà là một kẻ khác tài đức hơn, liệu cơ nghiệp họ Lý có thể kéo dài thêm mấy trăm năm nữa?"
Tôi lắc đầu, không biết nên đáp gì. Trời đã muốn phế, ai còn lập được đây!
Nhớ lại hình ảnh vị hoàng tử nhỏ ngày nào hay mơ mộng về chốn dân gian thanh bình, thích những trò vui trẻ nít đồng quê, ngược lại tôi muốn hỏi: Nếu như ngài không sinh ra nơi cung gấm, không mang mệnh làm vua vong quốc, liệu có thể trở thành một chàng trai đơn thuần miền thôn dã, sống cuộc đời yên vui dung dị trong mái tranh đầm ấm hay không?
Đáng tiếc, thế gian vốn luôn bạc tình với hai chữ "nếu như". Kiếp con người nhỏ bé, địch chẳng lại cao xanh.
***
Mùa đông, trời làm sương muối, cái lạnh se sắt trùm lên trăm cây muôn cỏ, và ghì siết lấy lòng người.
Thượng hoàng đến chùa Bút Tháp, xuống tóc nương nhờ cửa Phật, buông bỏ hết thảy vướng bận chốn bụi hồng. Trước ngày rời cung, ngài đã nửa đùa nửa thật hỏi tôi: "Ma có sợ kinh Phật không?"
Tôi nghệch mặt ra: "Không biết, chưa nghe thử bao giờ."
"Ngã Phật từ bi, không cần phải sợ. Ta nghe bảo kinh văn có thể siêu độ vong linh, đến đó mỗi ngày ta đều tụng niệm cho ngươi nghe. Chắc sẽ giúp ngươi sớm ngày đầu thai, khỏi phải đu bám lấy ta nữa."
Nghe vậy lòng tôi bỗng chùng xuống, dạ râm ran khó chịu: "Hóa ra bấy lâu nay ngài vẫn luôn thấy tôi phiền hà, muốn đuổi quách tôi đi đúng không?"
Nói rồi liền biến đi mất dạng, suốt ngày hôm đấy cứ ở lì trong bụi tầm xuân, không thò đâu đến tẩm điện lấy một khắc. Thế nhưng tôi vẫn nghe thấy ngài. Đêm xuống, một mình ngồi bên ngọn đèn leo lét, Thượng hoàng thở dài: "Xuân hạ thu đông qua từng đợt, cứ vất va vất vưởng, không nhớ gì, không biết mình là ai, lắt lay vô nghĩa như vậy để làm gì?"
Nghe vậy tôi không còn giận nữa, thế là lẽo đẽo theo ngài đi tu.
Sư trụ trì đặt cho ngài pháp hiệu Huệ Quang, bắt đầu từ bây giờ tôi phải gọi ngài là thầy, không được nhắc đến cái danh vua chúa chi nữa. Chuỗi ngày yên bình cứ thế trôi qua, tịch mịch mà thanh tịnh.
Lắm lúc, nhìn vào bóng lưng đơn độc khoác lên chiếc áo nâu sòng ngồi giữa gian điện khói hương vây quấn, tôi có thấy chạnh lòng thay ngài, song nghĩ lại bỗng buồn ít hơn vui. Quyền uy, ngôi báu, chung quy cũng chỉ là phù du, dạ được thanh thản tìm về cõi sáng mới là điều đáng quý. Vô hình trung tôi hài lòng với cảnh sống này, làm ma như vầy cũng tốt, không phải lặn ngụp giữa cõi người bon chen. Tính toan, tranh đoạt, tham si, yêu hận... cuồng quay hết một đời, cuối cùng ngã xuống với hai bàn tay không.
Nhưng rồi, bình yên ấy chẳng kéo dài được bao lâu. Mộng làm ma lành nơi cửa Phật của tôi thế mà cũng không yên với gã quan Điện tiền dai như đỉa đói. Gã chưa chịu buông tha cho nhà vua, chùa Bút Tháp quá xa triều đình, gã phải dời ngài về Chân Giáo để tiện bề kiểm soát, quyết không cho họ Lý lần nữa manh nha trổ rễ.
"Nhổ cỏ phải nhổ tận gốc! Ngài tu Phật, có lẽ cũng đủ thấu suốt để hiểu được cái mầm mống họa tai ở đời. Nếu còn chút lòng nghĩ cho Đại Việt, không muốn lại nổi dậy cơn binh đao loạn lạc, chắc ngài cũng tự biết nên phải làm gì."
Đó là câu nói cuối cùng mà ban sáng gã bỏ lại cho nhà vua ở giữa sân chùa, kèm một mâm cơm chay nguội lạnh.
"Sảm, đừng ăn!" Tôi van lơn. "Chẳng phải ngài hứa sẽ độ tôi sao! Tôi còn chưa siêu thoát, ngài không được chết!"
Ngài cầm đũa lên, không nhìn tôi. "Cô nghĩ ta không ăn thì chúng chịu để yên à? Đây đã là nhân từ lắm rồi!" Dứt lời liền và cơm vào miệng, cứ thế từ tốn ngồi ăn.
"Đừng ăn! Đừng ăn nữa! Tôi bảo anh ngừng ăn, nghe thấy không!"
Tôi gào lên, điên cuồng chộp lấy tay ngài nhưng vô ích. Lồng ngực như muốn nổ tung, nước mắt chảy xuống đầm đìa. Lần đầu tiên, tôi ý thức được thế nào mới thật sự là tuyệt vọng.
Tại sao phải đuổi cùng giết tận? Tại sao chút yên bình sót lại cũng nỡ lòng cướp đi? Ngài đã an phận lánh mình chốn thiền môn, thân như ngọn đèn tàn trước gió thì có thể tạo mầm tai họa gì? Họ Lý còn có ai gây được sóng gió đây?
Quân bất nhân! Phường tàn bạo! Tôi giận không thể xé xác hắn ra để bồi mạng cho ngài.
"Đừng khóc... Chẳng phải cô từng nói thịnh suy lẽ thường tình sao? Sống thác cũng vậy, đều là luật của tạo hóa cả." Ngài chợt quay người ngồi xuống cạnh tôi, đưa tay ra rồi bỗng khựng lại giữa lưng chừng.
"Có gì phải buồn đâu. Ta chết rồi thì thành ma, là đồng loại với cô. Đến lúc đó chúng ta vẫn sẽ ở đây cùng nghe kinh Phật..."
"Vất vưởng ở đâu cũng là vất vưởng, ta sang cõi ấy cùng cô vậy."
Lời vừa dứt, mi mắt ngài rũ xuống, khép dần...
Thế gian bặt tiếng.
...
___________
- HẾT -
Vĩnh Long, [22:45] 02/08/2021
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top