Chương 61 - 70

Chương 61

Bị khiển trách

Ngay trong đêm đó, miền Bắc lại đón một cơn mưa ào ạt.

Tiếng mưa rơi rầm rầm như thác đổ, trong không khí dậy mùi ngai ngái của đất đai. Trên đường thành Thứ Châu không một bóng người, mưa to quá, toàn bộ cư dân trong thành đều trú mưa trong nhà chứ chẳng ai đi lại trên đường cả. Một con tuấn mã màu đen phi như bay từ cổng chính nha môn phủ doãn, xông thẳng đến cổng thành. Móng ngựa đạp trên nền đất làm nước mưa văng tung tóe.

Trưởng đoàn Giám sát Sứ Thứ Châu – Kỷ Tri đang ở trong gian chính của nha môn. Sau khi trao bản tấu cho người đưa thư, dặn dò người ấy hỏa tốc về Thịnh Kinh, ông ta tiếp tục bàn bạc vụ việc với các quan khác.

Trong tòa lầu trên cổng thành, Tả thị lang bộ Hộ Từ Lệnh Hậu nhìn con ngựa phi nước đại ra khỏi cổng thành, thở dài khe khẽ. Từ Lệnh Hậu nói bằng một giọng xa thẳm: "Khoái mã từ nha môn phủ doãn đấy. Tạ đại nhân, xem chừng bọn Giám sát Sứ đã điều tra ra rồi."

Đứng bên cạnh ông ta chính là Hữu thị lang bộ Công Tạ Thành.

Từ Lệnh Hậu và Tạ Thành hiện đang là hai đại quan tam phẩm duy nhất trong toàn thành Thứ Châu, cũng là hai quan lớn có phẩm cấp cao nhất.

Nghe xong, Tạ Thành nói với Từ Lệnh Hậu: "Từ đại nhân có cao kiến gì không? Thật choáng váng, thế mà lại có người tham ô trong vụ án này. Hóa ra tai nạn không phải do thiên tai gây nên, mà do nhân họa!"

Từ Lệnh Hậu quay ra nhìn gã ta: "Sao, Tạ đại nhân biết chuyện gì à?"

Tạ Thành cười: "Thế Từ đại nhân biết gì rồi?"

Hai người cười với nhau một hồi, nhưng sâu trong ánh mắt, ý cười chẳng thể chạm tới đáy.

Mưa ồ ồ như thác đổ, không hề có dấu hiệu ngưng nghỉ.

Đêm đến, Đường Thận trở lại trạm dịch. Cậu châm nến, mở một quyển tấu trắng để ghi chép lại những gì quan sát được ba hôm nay. Vào khuya, cậu lấy lệnh bài Triệu Phụ ban cho, bí mật gửi quyển tấu ấy đi.

Lúc Đường Thận vừa về đến chỗ ở thì đụng phải Kỷ Tri.

Kỷ Tri đứng trong sân, ngẩng lên nhìn Đường Thận. Hai người mắt đối mắt, Đường Thận biết Kỷ Tri không tình cờ đứng ở đây, ông ta đã đợi cậu một lúc rồi. Cậu bèn lặng lẽ đi tới: "Kỷ đại nhân."

Kỷ Tri: "Đường đại nhân vừa gửi gì đi thế?"

Đường Thận im ắng hồi lâu mới đáp: "Không có gì, xuống nhà bếp lấy đồ ăn thôi ý mà."

Kỷ Tri: "Đường đại nhân, việc đã đến nước này, ngươi cũng nên ý thức được rằng chúng ta đã tiến đến bước ngoặt ở ngay đầu sóng ngọn gió. Thành Thứ Châu hung hiểm khôn lường, nước ở đây thẳm hơn chúng ta tưởng. Mong Đường đại nhân mở to mắt nhìn mọi sự cho tỏ tường, chớ để kẻ tiểu nhân che mắt thánh."

Đường Thận bình tĩnh nhìn Kỷ Tri, không đáp gì cả.

Vị Ngự sử đại nhân lục phẩm nghiêm túc và bảo thủ ấy chắp tay: "Cáo từ."

Mưa to làm con sông Kinh Hà trở nên dữ dằn hơn bao giờ hết. Các quan và thợ được phái đi điều tra ở khu vực sông đều quay trở về thành Thứ Châu. Còn các quan ở thành cũng đã biết vấn đề ở nằm ở móng cầu và đoán chắc rằng có bàn tay tham nhũng. Kỷ Tri bí mật mời Tả thị lang bộ Hộ Từ Lệnh Hậu đến gặp, hai người mật đàm trong phòng suốt hai canh giờ.

Lúc ra khỏi cửa, sắc mặt Từ Lệnh Hậu vô cùng tồi tệ, ông ta quay đầu lại nhìn cánh cửa khép chặt sau lưng, tức tối phất tay áo ra về.

Trong thành Thứ Châu, dân chúng vẫn thản nhiên như không, còn các quan thì lo ngay ngáy.

Mây đen che lấp cả bầu trời. Chẳng biết có phải do áp lực tâm lý không, quan lại trong thành đều cảm thấy như chết ngộp dưới nền trời sầm sì ấy. Tối hôm đó, Đường Thận đang nghỉ ngơi trong trạm dịch thì đột nhiên nghe có tiếng động trong căn phòng tối om của mình. Đường Thận cả kinh, mò ngay lấy con dao găm giấu dưới gối, căng mắt, cảnh giác lắng nghe động tĩnh bốn bề.

Có tiếng cửa sổ bị ai đó nhẹ nhàng đẩy ra, nối tiếp là tiếng bước chân nhẹ bẫng như lông hồng nhảy vào qua bậu cửa.

Trong tích tắc, Đường Thận định hét toáng lên, nhưng người kia đã kịp thời xông tới, dùng một tay bịt kín mũi miệng cậu lại. Bàn tay lạnh như băng còn ướt nước mưa, lòng bàn tay buốt đến thấu xương. Đường Thận trợn trừng mắt, thò tay ra sau lưng rút dao đâm về phía kẻ lạ mặt. Kẻ đó giật mình "Ối" một tiếng, phản xạ nhanh như cắt, bổ ngoéo một cái vào cổ tay Đường Thận. Đường Thận nhăn nhó vì đau, con dao găm rơi cộp xuống đất.

"Ta đây, đừng lên tiếng."

Đường Thận giật mình thon thót: ...Tô Ôn Duẫn?

"Ngươi đồng ý giữ im lặng thì ta thả tay ra. Gật đầu tức là đồng ý."

Đường Thận gật đầu.

Tô Ôn Duẫn buông cậu ra.

"Tô đại nhân?"

"Ờ."

Đường Thận đứng lên từ trên giường, phủ thêm một tấm áo ngoài lên người, hỏi: "Nửa đêm nửa hôm, Tô đại nhân lén lút đến phòng ta có việc gì?" Nói xong, Đường Thận đến bên cạnh bàn toan đốt nến. Tô Ôn Duẫn lập tức cản cậu lại: "Không được thắp đèn."

Đường Thận lấy làm lạ: "Tô đại nhân có ý gì?"

Tô Ôn Duẫn móc từ trong tay áo ra một viên dạ minh châu cỡ bằng lòng bàn tay, rồi kéo Đường Thận lên giường, hết sức cẩn thận buông màn xuống. Ánh sáng của dạ minh châu êm mượt như tơ lụa, không chói mắt như ánh nến nhưng sáng rực hẳn lên khi kề sát vào. Hai lớp màn giường quây kín xung quanh, Đường Thận và Tô Ôn Duẫn ngồi trên giường, cầm dạ minh châu là có thể thấy rõ mặt nhau.

Đường Thận lúc này mới phát hiện, mặt Tô Ôn Duẫn ướt đẫm nước mưa.

Sắc mặt anh ta tái mét, môi cũng bợt bạt cả đi, tóc tai sũng nước, dính bết cả lên mặt. Tuy thế, trong ánh sáng dạ minh châu, trông anh ta vẫn kiều diễm đến sững sờ.

Đường Thận tiếp tục giữ im lặng.

Tô Ôn Duẫn trêu: "Nửa đêm có người xông vào phòng, còn lôi mình lên giường kéo rèm kín mít. Đường đại nhân, ngươi không thấy kì quặc à? Giả sử bây giờ có ai tông cửa vào, ngươi bảo hai ta nên giải thích thế nào đây?"

Đường Thận hỏi ngược lại: "Tô đại nhân tới tìm ta có việc gì, nói thẳng đi."

"Nhạt nhẽo." Tô Ôn Duẫn cười khẩy, rút trong ngực áo ra một cuốn sổ dày cộp, ướt sũng. Đường Thận thấy bìa sổ thì giật mình thon thót, cậu không dám tin vào mắt mình, nhìn Tô Ôn Duẫn như đang dò hỏi. Tô Ôn Duẫn nói: "Không lầm đâu, giống như ngươi nghĩ đấy, đây là là sổ âm dương1 bí mật bị giấu đi đấy."

[1] Sổ âm dương tức là sổ sách kế toán làm giả (để trốn thuế chẳng hạn). Cuốn "âm" thì để mình giữ, còn cuốn "dương" thì dùng để khai báo, kiểm toán.

"Ngươi lấy từ chỗ nào thế hả?"

"Liều mạng đổi chứ sao."

Tô Ôn Duẫn nói câu ấy bình thản vô cùng, cứ như thể chỉ là một trò đùa vui mồm thì nói. Thế nhưng, Đường Thận phát hiện ở cổ áo anh ta có vết máu. Đường Thận hỏi: "Tô đại nhân bị thương rồi ư?"

Tô Ôn Duẫn giật giật cổ áo: "Không phải máu của ta. Đường đại nhân muốn xem cuốn sổ này không?"

Đường Thận hơi do dự, Tô Ôn Duẫn đưa sổ cho cậu, cậu nhận lấy.

Đọc từ trang đầu tiên, càng lúc sắc mặt Đường Thận càng nặng nề hơn. Cậu lật sổ thoăn thoắt, chỉ trong một khắc đã đọc hết cả quyển. Đường Thận ngẩng lên: "Tô đại nhân, sổ này là thật à?"

"Có thật hay không, chẳng lẽ Đường đại nhân không tự biết?"

Đường Thận im lặng không nói gì.

Là thật!

Mỗi một giao dịch trong cuốn sổ kế toán này được ghi chép cực kì tỉ mỉ, thu chi không sai lệch một li. Nhưng nếu những gì được ghi ở đây là thật, thì không chỉ móng cầu mà cát, đá, suất ăn của thợ thuyền, tất cả đều bị kẻ gian cắt xén! Bốn tháng trước, triều đình xuất kho tám mươi vạn lượng bạc để làm đường ở Thứ Châu, nếu chiếu theo sổ này, thì hao hụt tận hai mươi lăm vạn!

Gập cuốn sổ lại, Đường Thận trả nó về cho Tô Ôn Duẫn.

"Tô đại nhân đem sổ này tới đây tìm ta để làm gì? Có cuốn sổ này, muốn tìm ra kẻ chủ mưu chỉ là vấn đề thời gian. Tức là nếu Kỷ đại nhân có được cuốn sổ, hẳn ngài ấy sẽ truy ra các quan tham ô trong vòng một tháng."

Tô Ôn Duẫn: "Ngươi tin Kỷ Tri à?"

Đường Thận sửng sốt.

Tô Ôn Duẫn cười giễu cợt: "Trông Kỷ Tri công chính vô tư, hiên ngang lẫm liệt lắm chứ gì? Cách đây năm năm, y từng cưới một cô vợ bé. Người thiếp này vốn là con gái nhà lành đã được đính ước, nhưng chẳng may lọt vào mắt xanh của Kỷ Tri nên bị y ép cưới về phủ. Nhà cô gái ấy nghèo túng bần cùng, Kỷ Tri bèn dùng tiền để dẹp yên vụ này, bắt cô gái nhà lành ấy về làm vợ lẽ. Vụ việc cứ thế mà êm xuôi, cũng chẳng có ai tố cáo y cả. Tuy y chỉ là quan lục phẩm, nhưng tiền chưa bao giờ là vấn đề với y."

"Làm sao ngươi biết chuyện này?"

"Đường đại nhân, ta là Thiếu khanh Đại lý tự đấy."

Quan lại trên triều đình ai mà chẳng có chuyện nhơ nhuốc sau lưng, giấu kĩ thì Tô Ôn Duẫn không phát hiện được. Còn nếu mà để bị phát giác, thì người đầu tiên moi được những chuyện ấy ra, dĩ nhiên là Tô Ôn Duẫn rồi.

Tô Ôn Duẫn nói: "Thánh thượng cho ngươi tới đây cốt là để nắm được những sự thật mà Kỷ Tri biết nhưng che đậy thông qua ngươi. Trong tòa thành Thứ Châu to lớn này, Đường đại nhân, chỉ có ta và ngươi mới đích thực là những người phụng sự hoàng thượng."

Tô Ôn Duẫn nói xong thì cất viên dạ minh châu đi, thu gọn màn giường lại. Lúc xuống giường, tự dưng anh ta cười bảo: "Nếu như lúc nãy có người xộc tới bất thình lình, rất có thể hai ta đầu rơi máu chảy ngay tại chỗ đấy."

"Không đâu."

Tô Ôn Duẫn quay lại nhìn Đường Thận.

Đường Thận ngước cặp mắt sáng ngời, thản nhiên nói: "Ta sẽ bảo, ta với ngươi có tình trai ấy mà2."

Tô Ôn Duẫn ngẫn ra.

Hồi lâu sau, đôi môi mỏng của anh ta cong lên: "May là không ai xông tới."

Lúc gần đi, Tô Ôn Duẫn lại nói thêm: "Hãy đem việc vừa thấy hôm nay nói cho bệ hạ, Đường đại nhân. Kính nhờ ngài đấy." Dứt lời, Tô Ôn Duẫn mở cửa sổ, nhẹ nhàng chuồn ra ngoài. Đường Thận cẩn thận khép cửa sổ lại, cậu đang định về giường, chợt nhớ lúc Tô Ôn Duẫn rời khỏi phòng thì ngực áo xẹp hẳn xuống, trông không giống có nhét một cuốn sổ dày.

Đường Thận sợ điếng người, cậu mò mẫm trong căn phòng tối đen một hồi lâu, nhưng trời tối quá, không tìm thấy gì cả.

Suốt đêm Đường Thận không dám chợp mắt, thức trắng đến tận bình minh. Trời vừa sáng, cậu lập tức tìm cẩn thận lại trong phòng một lần nữa. Tìm suốt nửa canh giờ, cuối cùng cậu mới moi được cuốn sổ ra từ một kẽ hở ở giá sách trong góc tường.

Tô Ôn Duẫn!

Đường Thận sợ hãi mà không biết phải làm sao.

Bất kể thế nào cậu cũng không ngờ tên Tô Ôn Duẫn này lại trơ tráo đến vậy! Cậu không biết Tô Ôn Duẫn lấy cắp được cuốn sổ từ đâu, nhưng cậu chắc mười mươi nó chính là một quả bom hẹn giờ. Cả cái thành Thứ Châu này kiểu gì cũng có người đang lùng sục tìm kiếm nó, tìm cuốn sổ mà Tô Ôn Duẫn phải liều mạng mới chiếm được này. Thế mà Tô Ôn Duẫn lại dám giấu nó trong phòng Đường Thận.

"Y... y lôi mình ra làm bia ngắm rồi còn gì!"

Thiếu khanh Đại lý tự Tô Ôn Duẫn, xứng danh là kẻ máu lạnh vô tình nhất trần đời.

Cùng lúc đó, ở Thịnh Kinh cách đây mấy trăm dặm.

Mở đầu buổi triều, bá quan văn võ yến kiến vua, Triệu Phụ bước lên ngai rồng, từ từ ngồi xuống.

Các quan mới đang cúi người hành lễ chứ chưa thẳng lưng dậy, Triệu Phụ đã hừ một tiếng lạnh ngắt, vớ ngay bản tấu đặt trên cái khay gỗ lim Quý Phúc đang bưng, quăng mạnh xuống đất. Cuốn sổ giấy cứng cáp nện "cốp" lên nền gạch lạnh lẽo, bật mấy cái trên sàn rồi lăn đến vị trí thứ ba trong hàng ngũ các quan bên trái, tức là ngay cạnh chân Vương Trăn.

Vương Trăn cầm hốt ngọc trong tay, bình tĩnh nhìn xuống sàn, liếc được một ít nội dung trong quyển tấu.

Cả triều đình im phăng phắc.

Triệu Phụ đứng dậy từ ngai vàng, đi hai vòng trên bệ rồng, thỉnh thoảng lại ngẩng lên nhìn các quan bên dưới. Chợt, ông ta nở nụ cười, cất giọng ôn hòa: "Các ái khanh ở đây, đều là công thần của nước Đại Tống ta, là nhân tài rường cột của Đại Tống ta. Nửa năm trước, trẫm muốn mở đường, các khanh khuyên trẫm rằng, không thể đào kênh, chỉ có thể xây quan đạo, trẫm đã ưng thuận rồi. Thượng Thư tỉnh có sáu bộ, thì riêng bộ Công, trẫm đã phái cả quan Thượng thư lẫn Tả Hữu thị lang đến tận chân công trình. Trẫm còn huy động vô số đại quan tam phẩm, tứ phẩm, vô số quan viên cấp thấp, đặng gánh vác việc trọng đại nghìn xưa này."

"Đêm qua, Kỷ Tri dâng tấu chương lên nói cho trẫm biết, trong các đại thần trẫm đau đáu trong tim, trẫm tín nhiệm cả nửa đời, có kẻ tham ô!"

Triệu Phụ cười: "Viên Mục ở U Châu, trẫm chẳng thể khiển trách. Trẫm không cách nào vượt vạn dặm đường xa, chỉ vào mặt y mà nhiếc móc rằng, quân ăn hại nhà ngươi quản lí thuộc hạ như thế đó hả? Tạ Thành – Hữu thị lang bộ Công nhà y đang làm cái gì ở Thứ Châu? Tại sao khi có kẻ tham ô trong số thuộc hạ của y, thì y lại chẳng hề biết gì sất? Nhưng còn Thượng thư bộ Hộ – Vương đại nhân..."

Vương Trăn tiến lên một bước, hốt ngọc cầm trong tay, chàng cúi đầu không lên tiếng.

Triệu Phụ nhìn chóp mũ của chàng, cười bảo: "Tử Phong, ngẩng mặt lên."

Vương Trăn ngẩng đầu, gương mặt tuấn tú thanh nhã không có mấy cảm xúc.

Triệu Phụ lặng im trong chốc lát, khẽ khàng nháy mắt với Vương Trăn một cái, rồi đột ngột gầm lên: "Vương Tử Phong, ngươi giải thích cho trẫm biết, trong hai quan lớn tam phẩm ở thành Thứ Châu, thì Từ Lệnh Hậu đang làm cái trò gì? Ngươi là Thượng thư bộ Hộ, hắn là Tả thị lang bộ Hộ, thế mà lại để kẻ gian tham ô vơ vét ngay dưới mũi!" Dứt lời, Triệu Phụ lại vớ lấy một quyển tấu ném thẳng về phía Vương Trăn. Vương Trăn không tránh né, bị quyển tấu đập vào mặt, má đỏ lừ.

"Cút đến Thứ Châu, tóm hết bè lũ tham ô về cho trẫm, lập công chuộc tội!"

Điện Tử Thần lặng ngắt như tờ.

Triệu Phụ tin yêu Vương Trăn đến nhường nào, ai ai cũng biết. Hôm nay ông ta nổi cơn thịnh nộ, trông như thể sắp giật phăng cái mũ cánh chuồn trên đầu Vương Trăn, có thể thấy chuyện này khiến đấng cửu ngũ vô cùng giận dữ.

Trong đám quan lại ở đây, số đại quan nhất phẩm đứng trước Vương Trăn chỉ có vài người. Hữu tướng Vương Thuyên đứng đầu hàng các quan bên phải chính là ông chú3 ruột của Vương Trăn. Vương Trăn bị hoàng đế chỉ đích danh nạt nộ, song Vương Thuyên hoàn toàn không phản ứng gì cả, vẫn bình thản nhìn xuống đất.

Trong đại điện trống trải, Vương Trăn chắp tay hành lễ: "Vâng."

Ngày kế, Thượng thư bộ Hộ Vương Trăn lĩnh chỉ đến Thứ Châu.

Từ Thịnh Kinh đến Thứ Châu, đi hết tốc lực chỉ mất một ngày. Một đoàn nhân mã như của Vương Trăn thì phải mất hai đến ba ngày.

Ngày hôm đó, Kỷ Tri triệu tập các quan trong đoàn Giám sát Sứ lại, song lần này khi Đường Thận chuẩn bị đứng dậy, Kỷ Tri lại nói một cách đầy ẩn ý: "Đường đại nhân hãy khoan đã."

Đường Thận ngẩng lên nhìn ông ta.

Kỷ Tri nói: "Đừng tiếp xúc quá nhiều với Tô Ôn Duẫn. Đường đại nhân, đây là lời gan ruột cuối cùng của ta đấy."

Sơn hà bất dạ thiên đã được xuất bản bên Trung Quốc rồi đó ^^ Để hôm nào mình up riêng hình poster lên một bài nhé, tại có liên quan đến việc sư huynh và sư đệ mặc áo đen thay vì áo trắng đó :)

Chú thích

[2] Ở đây dùng Long Dương chi hảo tức là tình gay ấy mà :)

[3] Ông chú tức là chú của bố

Chương 62

Đừng sợ

Các chị em đã nhớ sư huynh chưa?

Hạ tuần tháng Tám, miền Bắc mưa như trút nước.

Trên đường phố thành Thứ châu chỉ nghe rì rầm tiếng mưa, thỉnh thoảng sẽ thấy một số người mặc quan bào vội vã di chuyển từ đầu này sang đầu kia thành.

Chẳng biết bắt đầu từ khi nào, trong thành Thứ châu tạm chia ra thành ba phe phái. Phe thứ nhất dĩ nhiên là đoàn Giám sát sứ do Kỷ Tri đứng đầu. Phe thứ hai là vây cánh của Phủ doãn Thứ châu Trương Phong, bao gồm toàn thể các quan viên đã ở thành Thứ Châu suốt mấy tháng nay, thậm chí là lâu hơn thế. Phe thứ ba do Tô Ôn Duẫn đại diện, bao gồm những quan lại không được gộp vào hai nhóm trên.

Tô Ôn Duẫn là Tuần tra sứ, không liên quan trực tiếp đến việc thi công quan đạo ở Thứ châu. Tuy vậy, anh ta cũng không thuộc về đoàn Giám sát Sứ được phái đến sau này, nên thành ra thân phận anh ta không khớp vào đâu cả.

Ngoài ba phe phái trên, còn có một người lạc lõng hơn cả Tô Ôn Duẫn.

Đó chính là Đường Thận.

Phe Trương Phong, Tạ Thành thì khỏi cần nghĩ, chẳng dính líu gì đến Đường Thận cả. Phe Tô Ôn Duẫn thì càng dẹp đi. Tô Ôn Duẫn giấu sổ âm dương vào phòng Đường Thận cũng đồng nghĩa với việc đẩy cậu vào giữa biển lửa. Về sau chạm mặt nhau, Tô Ôn Duẫn cũng chẳng tỏ thái độ gì cả, cứ như thể đêm hôm ấy người lén lút đột nhập vào phòng Đường Thận tuyệt nhiên không phải anh ta vậy.

Còn đoàn Giám sát sứ, vốn Đường Thận phải được xếp vào phe này, nhưng chẳng biết Kỷ Tri đánh hơi thế nào được vụ Đường Thận và Tô Ôn Duẫn ngầm liên lạc với nhau, thành thử ông ta có vẻ đang cho Đường Thận ra rìa.

Sáng sớm một ngày nọ, Đường Thận bước ra khỏi nha môn phủ doãn, giương chiếc ô trúc, đi bộ đến hàng bánh bao gần nha môn.

"Cho hai bánh nhân rau tể thái với."

"Có ngay!"

Người bán hàng lấy giấy dầu gói kĩ hai chiếc bánh bao nóng hổi, đưa cho Đường Thận. Thấy Đường Thận mặc quan bào, anh ta dè dặt hỏi: "Vị đại nhân này...mới từ nha môn ra đây phải không ạ?"

Đường Thận: "Đúng vậy."

"Sạp bánh bao của tiểu nhân vẫn mở đối diện nha môn, thế mà xưa nay chưa thấy ông quan nào khôi ngô tuấn tú như đại nhân. Nghe giọng đại nhân chắc không phải là người Thứ châu nhỉ?"

"Ta là người Giang Nam."

"Thảo nào."

Đang lúc rảnh rang không có việc gì làm, Đường Thận ngồi luôn ở hàng bánh bao nói chuyện phiếm với ông chủ.

Lúc Hữu thị lang bộ Công Tạ Thành và Phủ doãn Thứ châu Trương Phong đi từ trong nha môn ra thì bắt gặp ngay cảnh ấy. Một viên quan trẻ măng, mặc áo bào đỏ thẫm đang ngồi trong sạp hàng tối om, vừa ăn bánh bao vừa trò chuyện với dân thường. Trương Phong chỉ tay hỏi: "...Trông cứ như Đường Thận – Đường đại nhân ý nhỉ?"

Tạ Thành liếc nhìn: "Chẳng hiểu đang làm trò gì nữa."

Trương Phong: "Bọn Kỷ Tri hình như không qua lại với hắn, vì hắn khá thân với Tô Ôn Duẫn."

Tạ Thành "Ồ" một tiếng, hai người cùng nhau bỏ đi.

Thành Thứ Châu ngoài mặt gió êm bể lặng, bên trong sóng ngầm sôi sục rít gào.

Đêm khuya hôm ấy, Giám sát sứ Kỷ Tri đột nhiên hạ lệnh, tróc nã Ti huân Lang trung bộ Lại – Nhạc Tử Quang. Nhạc Tử Quang sợ điếng người, mặt cắt không còn hột máu. Trương Phong nghe tin cũng choáng váng: "Kỷ đại nhân, ý ngài là sao?"

Kỷ Tri cười khẩy, vứt một mẩu vàng lá be bé xuống đất, lớn lối trách hỏi: "Ý ta ấy à? Thế để ta hỏi Nhạc đại nhân một chút, xin đại nhân nói cho ta biết, đây là vật gì? Nhạc đại nhân, bốn tháng trước ngài đến Thứ Châu với nhiệm vụ điều tiết nhân lực xây dựng quan đạo, dẫn theo cả gia quyến. Chuyện ấy cũng thường thôi, dù gì việc xây dựng quan đạo Thứ Châu ít nhất cũng phải kéo dài một năm rưỡi. Còn lá vàng này, thì được chính lệnh công tử thưởng cho kĩ nữ trong lúc uống rượu hoa đấy!"

Mọi người ồ lên kinh hãi, Trương Phong ngỡ ngàng: "Nhạc đại nhân?"

Nhạc Tử Quang cứng họng, lắp bắp: "Đấy là của hồi môn của phu nhân ta, lẽ nào...lẽ nào có chỗ không thỏa đáng?"

Kỷ Tri: "Thế thì bắt bà ấy về đây! Để ta xem lệnh phu nhân là con nhà nông thì lấy đâu ra vàng lá làm của hồi môn."

Nhạc Tử Quang ngồi bệt xuống đất, không ú ớ được tiếng nào.

Trương Phong lập tức phái sai nha dịch đi tróc nã.

Chưa kịp thở một hơi, Kỷ Tri đã đánh úp tiếp: "Còn chuyện của Cao đại nhân, hôm nay cũng làm rõ luôn một thể nhé."

Nghe ba chữ "Cao đại nhân", Hữu thị lang bộ Công Tạ Thành híp mắt lại, nhìn Kỷ Tri mà cười: "Cao đại nhân, là Cao đại nhân nào thế?"

Kỷ Tri: "Ngu bộ Lang trung bộ Công, Cao Duy – Cao đại nhân."

Tạ Thành: "Cao Duy thì có vấn đề gì?"

Kỷ Tri nháy mắt với thuộc hạ, lấy ra một cuốn sổ kê khai nợ nần dày cộp. Tạ Thành nhìn giấy ghi nợ trong sổ, sa sầm nét mặt, im thin thít. Cao Duy chính là Lang trung bộ Công cách đây nửa tháng đã chạy về Thịnh Kinh bẩm báo hoàng đế về việc cầu sông Kinh Hà bị sập. Hôm nay ông ta vẫn đang ở Thịnh Kinh, nhưng chứng cứ đã hai năm rõ mười rồi. Ngay hôm đó, Kỷ Tri viết tấu tố cáo sai phạm của Nhạc Tử Quang và Cao Duy, sai người gửi về Thịnh Kinh ngay trong đêm.

Tuấn mã phi nhanh như tên bắn trên quan đạo lầy lội, tảng sáng hôm sau đã dâng bản tấu lên án thư của Triệu Phụ.

Trên triều, Triệu Phụ lần thứ hai giận tím tái cả người. Tấu chương bị ông ta quăng đầy đất, các quan đều phải cúi đầu, hít thở khẽ hết mức có thể.

Tan buổi triều, Thượng thư bộ Lễ Mạnh Lãng phe phẩy quạt, thở than với cấp dưới: "Vương Tử Phong khôn thế chứ lại, bảo biến một cái là lẩn nhanh như trạch. Y đi Thứ châu nhanh mấy cũng phải năm, sáu ngày. Còn chúng mình mới khốn khổ khốn nạn làm sao, hễ thánh thượng cáu lên là tụi mình hứng trọn."

Tả thị lang bộ Lễ cười bảo: "Hộ bộ Thượng thư đại nhân đi Thứ châu có khác nào vừa bị cách chức phải đoái công chuộc tội đâu?"

Mạnh Lãng phì cười: "Y mà đòi bị cách chức? Có mà trời đổ mưa vàng! Chao ôi, mấy giờ hôm nay nước ô mai mới về thế? Nóng thế này thì chết mất thôi."

Phía đông thành Thịnh Kinh, Phó phủ, vườn hoa trong hậu viện. Phó Vị đang lúi húi bên cái lồng chim treo trên cành cây, cẩn thận đút mồi cho chú chim trong lồng. Trong lồng tre ấy là một chú chim hoàng yến cực hiếm, được cưng chiều hết mức. Phó Vị dỗ dành mãi, hoàng yến bé bỏng mới chịu xơi một miếng. Mới ăn được hai miếng, ngoài tường bỗng rầm rập tiếng bước chân, hoàng yến sợ quá lại bay vút về.

Lông mày Phó Vị xếch tớn lên: "Làm gì thế không biết, binh lính phương nào ra đường nhũng nhiễu dân chúng vậy trời?"

Cỡ nửa canh giờ sau, Phủ Cầm đồng tử thở hồng hộc chạy tới báo tin: "Lão gia lão gia, con mới hỏi thăm về, Lang trung bộ Công Cao đại nhân nhà ở ngõ kế bên gặp chuyện không may rồi! Ngự lâm quân điều một đội binh sĩ có vũ trang đến tịch biên hết nhà cửa Cao đại nhân, cả nhà họ Cao đang sợ chết khiếp, có người bảo Cao lão phu nhân ngất lịm đi luôn."

"Tịch biên nhà cửa thì có quyền quấy quả dân chúng ư? Tịch biên nhà cửa thì có quyền phá bĩnh ta nuôi chim hử? Đúng là bọn kiêu binh coi trời bằng vung!"

Phủ Cầm đồng tử thầm nghĩ: Nhà người ta bị lục soát đến là tan hoang thê thảm, máu chảy thành sông, thế mà ngài chỉ bận tâm đến chim chóc, còn gì là tình người nữa!

Phó Vị vỗ tay: "Đi thôi, mình đi ngó tí."

Phủ Cầm đồng tử sửng sốt: "Lão gia?"

"Đi hóng hớt, nhanh."

"Vâng ạ!"

Trong hôm đó, nhà Cao Duy và nhà Nhạc Tử Quang bị tịch biên không chừa lại gì.

Cũng trong đêm đó, sứ giả truyền tin đến Thịnh Kinh trở về Thứ châu, thông báo cho Kỷ Tri biết việc hoàng đế đã phái người đến. Kỷ Tri choáng váng: "Thánh thượng lại cắt cử người đến Thứ châu?"

Sai nha thưa: "Vâng ạ. Nghe nói do Thượng thư bộ Hộ Vương đại nhân suất lĩnh, xuất phát từ sáng hôm qua. Trên đường tôi đi tình cờ bắt gặp xe ngựa của Vương đại nhân, án theo tốc độ của bọn họ thì ngày mai là có thể đến nơi."

Đường Thận đang bước từ ngoài vào thì đụng phải sai nha từ trong nhà đi ra.

Kỷ Tri đang định nói gì đó mà thấy Đường Thận tới thì ông ta lại thôi.

Đường Thận không thể làm gì khác hơn ngoài cười xòa. Đến khi nha môn đóng cửa, cậu lại bung dù về trạm dịch. Một trận sấm rền vang bầu trời, Đường Thận đẩy cửa sổ ra, ngoài trời không mưa nhưng rất u ám, mây đen mù mịt. Gió lớn thốc vào từng cơn rồi lại từng cơn, hất tóc cậu bay phấp phới ra sau lưng.

Đường Thận lẩm bẩm: "Mưa núi toan sang, gió ngập lầu."

[1] Trích Lầu đông thành Hàm Dương của Hứa Hồn thời Đường. Trần Trọng San dịch.

Nói đoạn, cậu đóng cửa, thổi tắt nến.

Đêm xuống, mọi âm thanh lắng dần, cơn bão hầm hè chực tràn đến, gió đêm hung hãn như muốn xé xác từng căn nhà, nện thùm thụp lên từng cánh cửa. Trong trạm dịch, thình lình có mấy bóng người đen thui leo qua bờ tường, di chuyển thoăn thoắt, loáng cái đã đến trước phòng Đường Thận. Một người rút dao, nhẹ nhàng lách lưỡi dao vào giữa khe cửa phòng cậy mở tung.

Bốn người chui vào ngay. Một tên cầm sẵn miếng vải trắng tẩm thuốc mê, nhanh chân mò đến bên giường, vén chăn, toan ụp vải vào miệng mũi Đường Thận. Ai ngờ vừa xốc chăn lên, gã liền sửng sốt quay ra bảo đồng bọn: "Không có trên giường!"

Ba tên kia cũng hoảng, vội vàng lục soát trong phòng nhưng không thấy Đường Thận đâu.

Bốn tên đột nhập lâm vào thế bí, một tên nói: "Cứ tìm đồ đã! Dù sao mục tiêu cũng không phải là hắn!"

Cả bốn lập tức xới tung căn phòng lên. Bọn chúng tìm gần nửa canh giờ, moi móc từng kẽ hở trong phòng mà không thu hoạch được gì. Đang lúc thương thảo kế sách, ngoài cửa chợt có tiếng sột soạt. Lũ bốn tên lập tức núp kín, lát sau, lại có năm kẻ bịt mặt nhảy vào phòng.

Năm kẻ kia vừa vào đến nơi, thấy căn phòng bị xáo trộn lung tung thì rút đao quát lên: "Kẻ nào đấy!"

Lũ bốn tên biết không tránh được, bèn hạ quyết tâm, tuốt kiếm vọt ra.

Tiếng sấm ùng ục nổ vang rền. Chỉ trong chớp mắt, cơn mưa sập xuống, tiếng mưa như thác đổ át cả tiếng đao kiếm chát chúa. Thế nhưng không trận mưa nào có thể giấu nổi máu người. Máu đỏ lòm hòa vào nước mưa chảy ồng ộc ra khỏi cửa phòng. Sai nha trong trạm dịch nửa đêm mò đi đại tiện, bắt gặp khoảnh sân đẫm máu thì khiếp hãi tột độ, hô hoán ầm cả lên.

Trạm dịch lúc này toàn quan lại. Vì đoàn Giám sát sứ đang ở tạm nơi đây nên các quan tại Thứ châu cũng chuyển vào ở cùng.

Bị tiếng hét chói tai đánh thức, Phủ doãn Thứ châu Trương Phong, Tả thị lang bộ Hộ Từ Lệnh Hậu, Hữu thị lang bộ Công Tạ Thành, Giám sát sứ Kỷ Tri... tất cả đều khẩn trương chạy ra khỏi phòng. Thấy máu lênh láng khắp nơi, Trương Phong lập tức điều động sai nha từ nha môn đến.

Trong phòng còn ba tên áo đen chưa chết, chúng thấy tình thế không ổn thì vội đình chiến để tẩu thoát.

Trương Phong gấp gáp hô lên: "Không được để chúng thoát thân!"

Tô Ôn Duẫn giờ mới ra khỏi cửa, anh ta cười khẩy: "Bắt kẻ chạy về hướng đông ấy. Hai kẻ còn lại đều bị thương, ngày mai đi tìm một lát là túm cổ được ngay. Hai đứa ấy có chạy đằng trời."

Trương Phong sửng sốt, nhìn Tô Ôn Duẫn hỏi: "Tô đại nhân, thành Thứ Châu lớn thế này, làm sao ngài bắt được hai kẻ ấy giữa biển người mênh mông?"

Tô Ôn Duẫn giả vờ ngạc nhiên: "Biển người mênh mông ư? Trương đại nhân đang đùa đấy à? Tìm trong biển người làm chi cho nhọc? Cứ tra ngay trong đám hộ vệ Trương phủ nhà ông là đủ rồi còn gì?"

Mặt Trương Phong đỏ gay: "Tô Ôn Duẫn, ngươi có ý gì?"

Tô Ôn Duẫn bỉ bôi: "Ta có ý gì ấy hả? Ý ta thế nào, Trương Phong ông không rõ hay sao? Đi, đuổi theo tên thích khách bị thương kia cho ta!"

"Đuổi cùng nhau chứ nhỉ?" Có tiếng ai vừa ung dung vừa ôn hòa vang lên từ bên ngoài trạm dịch, khiến tất cả các quan trong trạm chết trân.

Nghe thấy giọng nói ấy, nét mặt Tả thị lang bộ Hộ Từ Lệnh Hậu trở nên kì lạ, ông ta đằng hắng một tiếng rồi lẩn vào giữa đám đông trong trạm dịch.

"Đùng..."

Trong màn đêm tối tăm, một ánh chớp rạch ngang bầu trời, chiếu sáng bừng cả trạm dịch.

Ngay giữa cổng chính, Hữu thị lang bộ Hộ Tần Tự cầm một chiếc ô giấy dầu rất rộng theo sau Vương Trăn tiếng vào trạm dịch, che ô cho Vương Trăn đi đằng trước. Hôm nay Vương Trăn mặc bào gấm trắng, cao quý như dát ngọc dát vàng. Tay phải chàng cầm quạt giấy trắng gấp chặt, nhịp nhịp nó vào lòng bàn tay trái.

Chàng vừa gõ mấy cái, thì từ sau lưng, một đội quân Ngự lâm giáp trụ sáng ngời tràn vào trạm dịch. Gõ thêm cái nữa, Tả tướng của quân Ngự Lâm là Thiệu Văn Trác xách kiếm tiến vào, báo cáo với Vương Trăn: "Bẩm đại nhân, đã bắt được ba tên thích khách về quy án."

Mọi ánh mắt đều đổ dồn vào Vương Trăn, trông mặt ai cũng khó coi. Riêng phản ứng của Tô Ôn Duẫn là ngoạn mục nhất. Thoạt tiên Tô Ôn Duẫn cực kì choáng váng, vừa nghi ngờ vừa không thể hiểu nổi. Sau một hồi thì thái độ của anh ta lại thành giễu cợt. Anh ta nhìn Vương Trăn như thể nhìn một tên bại tướng mình đã hạ gục.

Vương Trăn quay ra bảo Tần Tự: "Tần đại nhân, cứ để ta tự cầm ô."

Tần Tự cười nói: "Tiện thì làm thôi mà, Thượng thư đại nhân nói gì vậy."

Vương Trăn nhận chiếc ô từ tay anh ta, không buồn để mắt đến các quan viên khác trong sân mà đi thẳng vào phòng Đường Thận. Bước chân của chàng rất thoải mái, động tác cũng ung dung như thể không việc gì phải vội ở đây. Vào trong phòng, chàng đến bên giường, thấy trên giường không có ai, bàn tay nắm chặt cán ô của Vương Trăn mới thả lỏng ra một chút. Không ai hay biết ngón tay chàng đã trắng bệch vì siết chặt cán ô suốt từ nãy đến giờ. Đến khi vạch mặt nạ từng thi thể trên sàn nhà mà vẫn không tìm thấy người mình muốn tìm, Vương Trăn mới đứng lên, đi ra ngoài sân với nét mặt nhẹ nhõm.

Tô Ôn Duẫn cười: "Vương đại nhân, nghe nói ngày mai các ngài mới đến Thứ châu cơ mà. Sao tối nay đã tới ngay rồi thế?"

Vương Trăn liếc anh ta một cái, điềm đạm nói: "Đương nhiên phải bôn ba cả đêm rồi, không thì làm sao chiêm ngưỡng kịp tấn kịch xuất sắc nhường này?" Đoạn, chàng ra lệnh cho quân Ngự lâm: "Đưa những thi thể này về nha môn phủ doãn."

"Vâng."

Mưa quất rào rào lên nền đất. Các quan lại và sai nha hoặc kéo nhau về nha môn phủ doãn, hoặc thu dọn tàn cuộc ở trạm dịch.

Vương Trăn một mình tìm kiếm khắp trạm dịch mãi, cuối cùng mới phát hiện một gian nhà kho chứa củi quạnh quẽ. Cái kho này bình thường vẫn dùng để chăm nuôi ngựa và cất xẻng hốt phân, thế nên chưa vào đến cửa đã ngửi thấy mùi thối hoăng hoắc. Trong bộ y phục trắng muốt, Vương Trăn một tay cầm ô, tay kia đẩy cửa kho chứa củi.

Vào lúc cánh cửa mở toang, cậu thiếu niên co quắp trong góc phòng chứa củi vội siết chặt con dao găm, quắc mắt nhìn chàng. Đôi mắt ấy đã cả đêm không nhắm, đỏ vằn tia máu. Nhận ra người vừa xuất hiện là ai, Đường Thận chợt cảm thấy một luồng hơi ấm ùa về. Làn môi mấp máy, cậu nhìn Vương Trăn khép ô, đặt xuống một chỗ, rồi bước tới bên cậu.

"Sư... sư huynh." Khi cất tiếng nói, Đường Thận mới phát hiện hóa ra giọng mình đã khản đặc, nỗi sợ hãi cũng trào dâng không cách gì kìm nổi.

Dù đã sống đến hai kiếp, nhưng chưa lần nào trong đời cậu phải đối đầu trực tiếp với mặt tối của xã hội, chưa bao giờ rơi vào cảnh mạng sống mong manh như bước chân trần trên lưỡi dao.

Vương Trăn xốc Đường Thận dậy, ôm cậu thiếu niên mảnh mai vào lòng, vỗ về cậu bằng giọng nói dịu dàng nhất trên đời: "Cảnh Tắc, đừng sợ, huynh đến rồi đây."

Nước mắt chợt ứa ra trên đôi bờ mi, Đường Thận quàng tay ôm chặt Vương Trăn, rúc mặt vào vai chàng, nghẹn ngào không nói nên lời.

Sư huynh đệ hai người lặng lẽ ôm nhau trong phòng chứa củi không biết bao nhiêu lâu, Đường Thận mới từ từ hồi lại, không còn run lẩy bẩy nữa. Cậu cất con dao găm vào trong áo, ngẩng lên nhìn Vương Trăn, đôi mắt còn sũng nước, nhưng ánh mắt hết sức kiên định.

Đường Thận trấn tĩnh nói: "Sự tình ở Thứ châu thật sự quá phức tạp. Tuy sư huynh mưu tính như thần, nhưng e rằng cũng chỉ biết một mà không biết hai, chưa tỏ tường sự thật. Cụ thể thế nào đệ khó giải thích ngay được, nhưng mấy hôm trước, Tô Ôn Duẫn có giao một cuốn sổ thu chi cho đệ, nói rằng đó là sổ âm dương đằng sau án tham ô Kinh Hà này."

Vương Trăn nhướng mày: "Có phải sổ thật không?"

"Là thật ạ." Đường Thận cười mỉa mai, "Đêm hôm ấy, lúc Tô Ôn Duẫn rời khỏi phòng đệ thì y đã giấu một cuốn sổ lại. Y cố ý thể hiện cho người ngoài thấy rằng mình đã giấu vật nguy hiểm ấy ở chỗ đệ, hòng đẩy đệ ra làm bia ngắm. Nhưng y không biết, đệ có bản lĩnh đọc đến đâu nhớ đến đấy, chỉ xem một lần đã nhớ hết từng câu từng chữ trong cuốn sổ ấy rồi. Vì thế đệ biết, cuốn sổ y giấu trong phòng đệ thực ra là sổ giả!"

"Còn sổ thật... Sư huynh, đệ không biết Tô Ôn Duẫn giấu nó ở chỗ nào, nhưng hiện giờ, chúng ta cũng có cuốn sổ ấy rồi."

Hai người đi vào một gian nhà trống. Đường Thận đang định mài mực thì một bàn tay thon gọn trắng bóc đã cầm lấy thỏi mực đen trước khi cậu kịp chạm vào.

Đường Thận ngẩng lên nhìn sư huynh.

Vương Trăn mỉm cười: "Hôm nay đến phiên ta mài mực cho em, tiểu sư đệ."

Manh: *chấm nước mắt* Không gặp nhau thì thôi đã gặp là tình bể bình.

Chương 63

Cuốn sổ thật

Chẳng biết từ bao giờ, mưa đã tạnh.

Chưa đến giờ Sửu, thành Thứ Châu vốn đang trong giờ giới nghiêm lại thắp đèn sáng trưng. Ngự Lâm quân giáp trụ loang loáng, những ngọn đuốc bập bùng trên tay, chạy rầm rập trong thành theo đội ngũ. Họ như giặc cướp xộc vào một nhà, tuốt đao sáng lóa, xông tới lục soát khắp nơi.

Trong đêm đen, ánh đuốc ngút trời, chiếu sáng bầu trời thành Thứ Châu hoen đỏ như máu.

Đến sáng sớm hôm sau, Ngự Lâm quân đã tịch biên toàn bộ phủ đệ của Phủ doãn Thứ Châu Trương Phong và bè lũ vây cánh. Trương Phong tóc tai bù xù, ngồi bệt trên sàn nha môn phủ doãn, mặt mũi thần thộn ngỡ hồn lìa khỏi xác, tai không nghe rõ tiếng, miệng lẩm nhà lẩm nhẩm. Có người ghé vào nghe thử xem gã ta nói gì, nhưng chẳng hiểu được chữ nào.

Tả tướng Ngự Lâm quân Thiệu Văn Trác sai người khiêng từng rương chất đầy vàng bạc châu báu vào thẳng nha môn. Những rương gỗ chật ních bạc xếp kín cả sân. Toàn bộ là tang vật tìm được từ nhà của Trương Phong, trên rương còn dính nguyên bùn đất.

Thiệu Văn Trác nói: "Bẩm đại nhân, đã thanh tra tịch thu hết tài sản, đây là tang vật đào được từ hậu viện Trương phủ."

Vương Trăn liếc một cái rồi ngẩng lên nhìn ra xa, tang vật xếp hàng trải dài ra đến tận cổng lớn nha môn. Giọng chàng ngân nga: "Trước cứ tạm thế đã."

"Vâng."

Đến giờ Dần ba khắc, Trương Phong và một số quan lại Thứ Châu khác đều đã bị bắt giữ, cùm xích sắt, đứng giữa nha môn.

Ghế chủ tọa trong nha môn được dành cho Giám sát Sứ Kỷ Tri. Kỷ Tri vốn muốn nhường lại cho Vương Trăn, nhưng Vương Trăn chỉ mỉm cười bảo: "Kỷ đại nhân, ta chỉ vâng mệnh hoàng thượng đế kiểm tra tiến độ điều tra án tham ô mà thôi, quan đứng đầu ở đây vẫn là ngài."

Kỷ Tri vốn là một quan Ngự Sử thẳng tính, có mọc mười cái mồm cũng không nói lại Vương Trăn, tranh luận vô ích, ông ta đành ngồi vào ghế chủ tọa. Vương Trăn ngồi bên trái, bên phải là Hữu thị lang bộ Công Tạ Thành và Thiếu khanh Đại lý tự Tô Ôn Duẫn. Tả thị lang bộ Hộ Từ Lệnh Hậu và Hữu thị lang Tần Tự đều ngồi cùng phía với Vương Trăn, rất có khí thế của hai ông Thiên lôi chỉ đâu đánh đấy dưới quyền quan Thượng thư đại nhân.

Đẳng cấp của quan lại trong xã hội Đại Tống rất cao, dù có phạm tội thì trước khi bị kết án cũng không phải chịu quỳ. Hơn mười viên quan Thứ Châu đứng dưới công đường, mặt mũi thẫn thờ như chết cha chết mẹ. Mới hôm qua còn phơi phới rạng ngời, mà hôm nay đã hom hem tiều tụy, dường như đường đến quan tài chỉ cách nửa bước chân.

Kỷ Tri gõ kinh đường mộc: "Phủ doãn Thứ Châu Trương Phong, mi có biết tội của mình không?"

Tai Trương Phong ù ù, không nghe rõ Kỷ Tri nói gì cả. Gã ta hốt hoảng ngẩng đầu, mắt nhòe nhoẹt, chẳng còn thấy những đại quan nhị phẩm, tam phẩm ngồi trên công đường. Ảo ảnh vụt lên trong mắt, gã thấy hồi bảy tuổi gã học vỡ lòng, thấy ngày đầu tiên lẫm chẫm vào trường tư thục. Rồi gã lại thấy chín năm ròng rã thi Hương, thi Đình, thấy lúc vinh danh bảng vàng, trở thành Đồng tiến sĩ xuất thân.

Đời gã mới ngoài bốn mươi tuổi đã leo lên thành quan lớn tứ phẩm hiển hách, cai quản cả một phủ Thứ Châu.

Thế mà hôm nay, gã đứng nơi đây, tương lai trước mắt là những tháng ngày quỳ gối trong ngục giam lạnh lẽo của Đại lý tự, rồi sau đó là quỳ gối trước pháp trường, bị đao phủ bổ cho một phát, đi đời nhà ma.

Mọi thứ sụp đổ đánh rầm trong đầu gã.

Trương Phong ngã quỵ xuống sàn.

Kỷ Tri làm sao có thể để gã giả bộ bất tỉnh cho qua chuyện được. Ông ta ra lệnh cho sai nha hắt nước lạnh vào mặt Trương Phong cho tỉnh, rồi liệt kê từng tội danh của gã: "Phủ doãn Thứ Châu Trương Phong, tại sao hai thích khách trong vụ ám sát ở trạm dịch hôm nay lại là hộ vệ trong phủ mi? Nhà mi hãy giải thích đi! Vàng bạc châu báu đào được từ hậu viện Trương Phủ, từ đâu mà có? Vai trò của mi trong vụ việc sập cầu sông Kinh Hà là như thế nào? Khôn hồn thì mau khai báo trung thực từ đầu đến cuối."

Họng Trương Phong đắng nghét, gã không nói nổi một chữ nào.

Nhưng Kỷ Tri không cần gã phải mở miệng.

Kỷ Tri đã thẩm vấn hết các quan viên Thứ Châu khác, kẻ nào cũng sợ vỡ mật, thú nhận hết toàn bộ hành vi hà lạm của mình.

Chỉ cần tìm được tang vật là có thể định tội Trương Phong. Lấy lí do có thích khách, họ cưỡng chế lục soát phủ đệ của Trương Phong, phát hiện của cải bị chôn giấu. Tuy đầu đuôi lẫn lộn, sai về nguyên tắc, nhưng có Ngự Lâm quân ở đây, không ai dám phản đối.

Kỷ Tri thốt lên đầy xót xa: "Ăn lộc vua ban, vì vua dốc sức. Trương đại nhân, ông báo đền ơn nghĩa triều đình như vậy đấy à?"

Câu nói ấy như hồi chuông cảnh tỉnh Trương Phong. Ánh mắt gã trôi về nơi xa xăm, rồi đột nhiên, nét mặt gã trở nên thảng thốt như thể đã ngộ ra điều gì. Trương Phong quỳ mọp dưới công đường, nức nở: "Tội thần biết lỗi, tội thần biết lỗi rồi!"

"Người đâu, áp giải những kẻ này vào đại lao, chờ xử lí."

Bọn Trương Phong bị giải đi hết. Kỷ Tri thở phào nhẹ nhõm, song trông mặt ông ta chưa có vẻ gì là thỏa mãn cả. Ông ta im lặng không nói gì, nhưng có người lại không chịu để cái miệng mình nhàn rỗi. Tô Ôn Duẫn cười nhạt: "Cái án tham ô Kinh Hà lớn thế này mà lại chỉ có mỗi một viên quan tứ phẩm tép riu giật dây thôi ư?"

Mọi người đồng loạt nhìn Tô Ôn Duẫn.

Tô Ôn Duẫn ngồi dưới Tạ Thành, nụ cười ẩn giấu những lưỡi dao: "Chư vị đại nhân có tin không?"

Vương Trăn cúi đầu thưởng trà, Tả Hữu thị lang bộ Hộ thấy chàng không nói gì thì cũng mặc kệ Tô Ôn Duẫn. Hữu thị lang bộ Công Tạ Thành trông khá ảm đạm, chẳng biết đang suy nghĩ gì. Chỉ có mình Kỷ Tri là hỏi: "Ồ, Tô đại nhân có cao kiến gì chăng?"

Trước khi Tô Ôn Duẫn trả lời, một bóng hình mảnh mai lọt vào mắt anh ta. Người ấy đi vào từ góc cổng chính nha môn, hòa mình trong đám đông quan lại dưới công đường. Anh ta thoáng chần chừ, rồi bảo: "Hai chữ 'cao kiến' chẳng dám nhận đâu. Trương đại nhân quả là trang nghĩa khí, ôm hết trách nhiệm về mình, không khai ra đồng bọn nào cả. Nhưng chắc hẳn y chưa biết, Đại lý tự còn đang chờ y ở Thịnh Kinh."

Mọi người nghĩ thầm: Thứ đáng sợ nhất đang chực chờ lão ta, chính là kẻ lòng dạ nham hiểm nhà ngươi đấy Tô Ôn Duẫn ạ!

Tô Ôn Duẫn nói: "Của cải tham ô đã bày ra đây, y tất phải nhận tội chịu phạt. Nhưng đồng bọn sau lưng y vẫn đang ẩn núp rất kĩ. Mặc dù vậy..." Cố ý kéo dài giọng, Tô Ôn Duẫn liếc nhìn Kỷ Tri và Vương Trăn bằng ánh mắt hả hê.

Kỷ Tri trông có vẻ tức tối, nhưng Vương Trăn chỉ mỉm cười.

Tô Ôn Duẫn: "Mặc dù vậy, chỉ cần tìm được cuốn sổ thu chi chứng minh hành vi hà lạm của bọn chúng, chúng ta sẽ có manh mối để vạch trần sự thật!"

Kỷ Tri hoàn toàn không cười nổi.

Sổ thu chi mới chính là bằng chứng phạm tội hết sức cần thiết cho vụ án tham ô này.

Cho dù lục soát được tang vật từ nhà Trương Phong, họ cũng chưa đủ chứng cứ để chứng minh đó đều là tài sản bòn rút từ ngân quỹ làm đường. Bạc của triều đình có đánh số, nhưng ngọc ngà châu báu khác thì không, nên hiện giờ quy mô của vụ tham ô mới chỉ dừng lại ở chỗ bạc tịch thu được. Thêm nữa, muốn truy tìm bè lũ tòng phạm thì phải dựa vào cuốn sổ kế toán kia, bằng không chỉ còn nước dùng cực hình của Đại lý tự để ép Trương Phong khai ra.

Ai tìm được cuốn sổ kế toán bí mật ấy, người đó chính là đại công thần trong án tham ô Kinh Hà.

Hôm qua trong số thích khách lén lút đột kích phòng Đường Thận có một nhóm là do Trương Phong phái đi, nhóm còn lại chính là do Giám sát Sứ Kỷ Tri điều động. Kỷ Tri thân là Giám sát Sứ, khó khăn lắm vớ được một vụ rình rang thế này, làm gì có chuyện ông ta cam tâm tình nguyện biếu công lao cho kẻ khác.

Thoạt tiên ông ta nghi ngờ Tả thị lang bộ Hộ Từ Lệnh Hậu, nhưng không bao lâu, tầm ngắm của Kỷ Tri chuyển sang Phủ doãn Thứ châu Trương Phong. Ấy vậy mà mặc cho ông ta lùng sục khắp mọi nơi, cuốn sổ kế toán vẫn mất tăm mất tích. Sau khi ngấm ngầm quan sát, Kỷ Tri phát hiện Trương Phong dường như rất để mắt đến Tô Ôn Duẫn, nên mới nghi rằng Tô Ôn Duẫn trộm được cuốn sổ ấy trước, rồi giấu trong phòng Đường Thận.

Lúc ấy chỉ còn một ngày là Vương Trăn và quân Ngự Lâm sẽ đến; trước khi cơ hội vuột mất, Kỷ Tri bắt buộc phải hành động ngay để đoạt lấy cuốn sổ. Chính vì vậy, vụ đụng độ giữa hai phe thích khách mới xảy ra trong trạm dịch tối hôm qua.

Không may thay, có tính giời tính bể đi chăng nữa, Kỷ Tri cũng không tính được rằng, chẳng những sổ không có trong phòng Đường Thận, mà Vương Trăn lại đến Thứ Châu sớm hơn dự kiến!

Tuy thích khách của Kỷ Tri cũng bị bắt giữ, nhưng tất cả mọi người đều biết án tham ô Thứ Châu không dính líu đến Kỷ Tri. Ở Thịnh Kinh ông ta chỉ là quan nhỏ lục phẩm, phải đến sau khi cây cầu lớn sập xuống ông ta mới tham gia vào việc điều tra. Trên thực tế, Vương Trăn cũng không nghi ông ta, thậm chí chàng còn sai Ngự Lâm quân thả tên thích khách là thuộc hạ của Kỷ Tri.

Kỷ Tri ngồi giữa công đường, nhìn Vương Trăn bên trái, lại nhìn Tô Ôn Duẫn bên phải. Bỗng ông ta cảm thấy mình già cỗi thật rồi, thủ đoạn không bì nổi với hai chàng trai trẻ.

Giọng điệu Kỷ Tri có phần tự giễu: "Nghe ý Tô đại nhân, hẳn đã biết cuốn sổ ấy ở đâu rồi nhỉ?"

Tô Ôn Duẫn đang định đáp thì bị cắt ngang bởi một âm thanh trong trẻo. Ấy là tiếng chung trà của Vương Trăn đặt xuống bàn. Chàng ngẩng lên một chút, vui vẻ bảo Kỷ Tri: "Dĩ nhiên, Tô đại nhân biết chứ. Cách đây mấy hôm, Tô đại nhân đã bí mật tìm được sổ kế toán rồi mà. Để phòng ngừa bất trắc, ngài ấy đã giấu nó ở chỗ Khởi cư lang Đường Thận – Đường đại nhân."

Có vẻ như Tô Ôn Duẫn chỉ đợi cái trò hề này diễn ra thôi, anh ta nhìn Vương Trăn đầy giễu cợt.

Kỷ Tri: "Đường đại nhân, việc này có thật không?"

Đường Thận tiến lên phía trước, chắp tay hành lễ: "Đúng là có chuyện ấy ạ."

Kỷ Tri: "Vậy cuốn sổ đang ở đâu?"

Đường Thận nói: "Ta đã bàn giao cho Hộ bộ Thượng thư đại nhân rồi.

Vương Trăn chìa tay, sai nha sau lưng đưa một cuốn sổ thu chi cho chàng.

Kỷ Tri thở dài, lòng ông ta đã rõ: công lớn trong vụ án lần này rơi hết vào tay Vương Trăn, Đường Thận và Tô Ôn Duẫn rồi, còn mình thì móm.

Nào ngờ, Tô Ôn Duẫn tự dưng cười phá lên, nheo mắt, giọng điệu cực kì mỉa mai: "Vương đại nhân, ngài có chắc mình đang cầm trên tay sổ thu chi của án sập cầu Kinh Hà không? Ngài hiện là Thượng thư đại nhân quản lí quốc khố triều đình, một cuốn sổ kế toán nhỏ nhoi chắc hẳn không lừa được mắt ưng của ngài. Song đây là việc trọng đại, hạ quan khuyên ngài nên mở sổ ra kiểm tra cho kĩ. Ngộ nhỡ có chỗ nào sai sót, còn kịp thời xử lí trước khi hồi kinh báo cáo thánh thượng."

Vương Trăn ra vẻ tập trung lắm, chàng giả vờ suy nghĩ nghiêm túc một hồi rồi nói: "Tô đại nhân nói phải, chứng cứ này sẽ trình lên Thánh thượng, cẩn thận không đi đâu mà thừa. Đã thế, mời Tần đại nhân và Từ đại nhân mỗi người kiểm tra cuốn sổ này một lượt, để chắc chắn là không có lỗi sai."

Tần Tự và Từ Lệnh Hậu đồng thanh: "Xin vâng."

Hai người nhận cuốn sổ kế toán, bắt tay vào rà soát.

Đường Thận đứng trong phòng xử án, cụp mắt nhìn xuống đất, không nói gì cả.

Tô Ôn Duẫn hết sức đắc chí, chỉ đợi Vương Trăn tự làm xấu mặt mình. Đến lúc nhìn sang Đường Thận, anh ta mới bỏ cái thái độ giễu cợt khinh khi. Tô Ôn Duẫn lòng dạ hiểm độc, thủ đoạn vô tình, nhưng cũng không đến mức thấy người gặp nguy, thừa cơ hãm hại. Anh ta biết thừa trong vụ này mình toàn lợi dụng Đường Thận chứ không hề có ý định chia lộc với cậu ta. Đã lôi người ta ra làm bia ngắm thì làm gì có chuyện giấu sổ thật ở phòng Đường Thận, bằng không nhỡ bị ai đó trộm được thì thua trắng.

Từ đầu đến cuối, Tô Ôn Duẫn không ngần ngại gài bẫy, lợi dụng Đường Thận, thậm chí đẩy Đường Thận ra thí mạng cho mình. Những điều đó không khiến anh ta áy náy, nhưng anh ta sẽ không chế giễu nạn nhân của mình.

Sau gần nửa canh giờ, Tần Tự và Từ Lệnh Hậu nhìn nhau một cái, rồi Tần Tự nói: "Bẩm Thượng thư đại nhân, hạ quan và Từ đại nhân đã thẩm tra xong, đây chính là sổ kế toán thật ạ."

Tô Ôn Duẫn biến sắc, Vương Trăn ôn tồn bảo: "Vất vả cho hai vị đại nhân rồi."

Tần Tự và Từ Lệnh Hậu đều là Thị lang bộ Hộ, ngày ngày tiếp xúc với các loại giao dịch thu chi, hai người này đã tính toán thì không thể sai được. Họ cũng không thể lừa gạt mọi người, vì chỉ cần đưa cuốn sổ này về Thịnh Kinh, trình lên hoàng thượng, chân tướng sẽ lộ ngay.

Mặt Tô Ôn Duẫn trắng bệch, mắt trợn trừng nhìn chằm chằm Vương Trăn. Mãi lâu sau, anh ta mới nghiến răng nặn ra từng chữ: "Đúng... đúng, là, sổ, thật, à?"

Tần Tự nhìn anh ta hết sức lạ lùng: "Chả lẽ sai được ư?"

Vương Trăn cười: "Hay là Tô đại nhân tự kiểm tra đi."

Ai cũng biết Vương Trăn chỉ khách sáo thế thôi, nhưng Tô Ôn Duẫn lại đứng phắt dậy, đi đến trước mặt chàng để lấy cuốn sổ về kiểm tra. Anh ta lật hết trang này đến trang khác, đọc không sót chữ nào. Càng xem, lòng Tô Ôn Duẫn càng lạnh đi. Đến khi gấp sổ, Tô Ôn Duẫn hết cười nổi nữa.

Hàng vạn suy nghĩ lóe lên trong đầu, anh ta liền soi xuống Đường Thận đứng dưới công đường.

Không ngờ đúng lúc ấy, Đường Thận cũng ngẩng lên nhìn anh ta.

Tả thị lang bộ Hộ Từ Lệnh Hậu thấy sự thay đổi của Tô Ôn Duẫn thì manh nha phát hiện ra gì đấy. Coi thái độ Vương Trăn, ông ta bèn giúp một tay: "Thế nào, sổ này là thật đấy, Tô đại nhân không nhận ra ư? Hay là đây không phải cuốn sổ ngài giấu ở phòng Đường đại nhân? Chẳng phải chính ngài đã giao nó cho Đường đại nhân sao?"

Tô Ôn Duẫn chịu chết. Anh ta vô cùng muốn nói cuốn này không phải cuốn mình đưa cho Đường Thận, vì sổ thật còn nhét trong ngăn kép ở tủ quần áo của anh ta kia kìa, nhưng làm sao mà nói thế được! Nếu nói thế, anh ta phải giải thích chuyện có hai cuốn sổ kiểu gì, giải thích việc mình giấu sổ giả trong phòng Đường Thận ra sao? Lẽ nào lại nói toạc móng heo là mình gí Đường Thận lên chết thay, để kẻ địch nhắm vào cậu chứ không nhắm vào mình?

Mãi sau Tô Ôn Duẫn mới nói: "Đương nhiên là không phải rồi, đây chính là quyển sổ ta giao cho Đường đại nhân bảo quản."

Tô Ôn Duẫn bước xuống đài xử án, đi tới trước mặt Đường Thận, bình thản dừng bước.

Môi anh ta nhếch lên thành nụ cười, mắt hoa đào cong vút, nhưng nghe giọng thì rõ là đang tức lộn gan lộn mề.

"Đường Thận, Đường đại nhân. Đường Cảnh Tắc, Đường đại nhân... phải bảo quản cuốn sổ này giúp ta, đúng là quá vất vả cho ngươi."

Đường Thận chắp tay: "Lệnh của Tô đại nhân, hạ quan nào dám chối từ."

Tô Ôn Duẫn đứng trước mặt Đường Thận, bất chợt nở nụ cười: "Cảnh Tắc à."

Vương Trăn nhẹ nhàng nhìn lên.

Đường Thận bình tĩnh đối mặt với Tô Ôn Duẫn.

Tô Ôn Duẫn: "Quả thực, ta phải hết lòng cảm tạ... ngươi và Vương đại nhân đấy!"

Chương 64

Trung Thư xá nhân

Đọc tin thấy kì thi vào 10 đang chuẩn bị diễn ra, và còn khoảng 3 tuần nữa là đến kì thi đại học. Mong rằng các bạn nhỏ chuẩn bị thi sẽ có sức khỏe, tâm trạng thật tốt, tự tin thi hết sức mình và có kết quả ưng ý. Trạng nguyên vô song Vương Tử Phong độ các bạn :)

Ngày hai mươi bảy tháng tám, Ngự Lâm quân áp giải bè đảng Trương Phong về kinh đợi xét xử.

Xuất phát từ Thứ Châu, đoàn áp tải đi được khoảng hai phần ba lộ trình thì đến phần đường quan đạo mới xây. Bọn Trương Phong bị còng bằng xích sắt, nhốt trong xe, đi ngang qua những ruộng lúa mạch vàng ươm. Tả thị lang bộ Hộ Từ Lệnh Hậu giục ngựa chạy song song với xe chở tù, nói với Trương Phong: "Trương đại nhân, ông trông kìa, chúng ta đang đi trên con đường quan đạo ông tham ô đấy. Ông làm quan hơn hai mươi năm, là tiến sĩ cùng khóa với lão phu, hà cớ gì ông lại làm khổ mình như vậy!"

Sát hông chữ "lợi" treo một con dao.

Mặt mũi, tóc tai Trương Phong bơ phờ, bết bát. Ông ta ngước mắt nhìn lên trời, dường như không nghe thấy những gì Từ Lệnh Hậu nói nữa.

Ba ngày sau, Ngự Lâm quân về đến kinh thành. Trương Phong và hơn mười viên quan khác bị tống vào nhà giam của Đại lý tự. Hôm đó, Vương Trăn đích thân dâng sổ kế toán lên hoàng đế. Triệu Phụ xem xong thì giận đùng đùng, ra lệnh cho Đại lý tự thẩm vấn lũ Trương Phong thật kĩ càng, ngõ hầu truy bằng được thủ phạm đằng sau vụ này.

Cùng lúc ấy, Thượng thư bộ Công Viên Mục – người bị điều đi giám sát công trình ở U Châu – cũng trở về kinh thành. Trong khu làm việc của Trung Thư tỉnh ở điện Cần Chính, Viên Mục lấy hộp Bích Loa Xuân thượng hạng ra để cùng nhâm nhi với hai viên Thị lang nhà mình. Trong gian nhà, ba vị quan đứng đầu bộ Công ngồi quây quần bên chiếc bàn, Viên Mục vén tay áo tự châm trà, nếm một hớp, khoan khoái thở ra:

"Trà ngon quá xá! Sống trên đời ấy à, cứ mỗi ngày trôi qua là bớt đi một ngày, nếu được thường xuyên thưởng thức trà ngon nhường này, thì chớ nên lãng phí."

Tả thị lang Lý Ngọc Đức cầm chung trà, ngơ ngác nhìn Viên Mục. Bên cạnh ông ta, Hữu thị lang Tạ Thành im ắng cúi đầu, không nói chi cả.

Hai hôm sau, Thiếu khanh Đại lý tự Tô Ôn Duẫn dẫn quan binh xộc đến nha môn bộ Công, bắt giữ Hữu thị lang Tạ Thành về quy án.

Cả triều đình choáng váng.

Hôm sau lên triều, Thượng thư bộ Công Viên Mục vẫn chưa hết bàng hoàng, đứng ra xin tội ngay với hoàng đế.

"Bẩm thánh thượng, thần lơi lỏng quản lí, để cấp dưới phạm tội tham ô tày đình! Đường quan đạo Thứ Châu là công trình quan trọng của triều ta, là vĩ nghiệp nghìn thu. Sông Kinh Hà gặp mưa lớn gây sập cầu khiến gần một trăm người thợ bị lũ cuốn tử vong, tội của thần không thể tha thứ. Xin bệ hạ hãy trừng phạt thần!"

Ở điện Tử Thần chỉ có các quan từ tứ phẩm trở lên mới được dự buổi chầu. Viên Mục mới nói xong, Tả thị lang bộ Công là Lý Ngọc Đức và các Lang trung trong bộ đều đứng ra thưa: "Quan viên bộ Công đều phạm lỗi giám sát thiếu chu toàn, xin bệ hạ giáng tội!"

Trên ngai rồng, Triệu Phụ lẳng lặng nhìn các quan bộ Công đang xin tội. Phải một lúc sau, ông ta mới nhẹ nhàng cười với Tả tướng Kỷ Ông Tập: "Kỷ khanh, khanh bảo trẫm nên làm gì cho phải đây?"

Kỷ Ông Tập tiến lên, thưa: "Hữu thị lang bộ Công Tạ Thành tham ô, vơ vét của công, khiến cầu sông Kinh Hà sập trong mưa lớn, gây thương vong cho gần một trăm người, tội không thể tha. Viên đại nhân công tác ở U Châu, có lòng mà không đủ sức, chẳng thể phân thân ra để quản hai đầu. Tuy có lỗi quản lí chưa nghiêm, nhưng không phải cố tình lơ là chức trách."

Triệu Phụ gật đầu: "Kỷ khanh nói có lý lắm. Viên khanh, ngươi coi sóc việc làm đường ở châu U thay trẫm, đúng ra trẫm phải ban thưởng cho ngươi mới đúng. Nhưng nếu ban thưởng cho ngươi, thì trẫm không còn mặt mũi nào mà đối diện với hồn thiêng gần một trăm thợ thuyền và các quan viên trên trời. Như vậy, trẫm cho khanh lấy công bù tội, có được không?"

Viên Mục giơ hốt ngọc lên cao: "Thần đội ơn bệ hạ."

"Nói 'đội ơn' dễ dàng quá nhỉ?" Triệu Phụ bất ngờ đổi giọng, hừ một tiếng khiến cả điện Tử Thần sởn tóc gáy. Quần thần trong điện nín thở. Triệu Phụ cười nhạt: "Cứ coi như chuyện sông Kinh Hà ngươi lấy công bù tội đi, nhưng Viên Mục này, ngươi nói trẫm hay, ba năm trước đây, khi miền Nam mắc nạn tuyết lớn, Tạ Thành ngang nhiên ăn hối lộ, ngươi đang ở chỗ nào?"

Viên Mục rên rỉ trong lòng, biết hôm nay mình phải ngã ở ải này rồi.

Quả đúng vậy, thực ra, lần này hoàng đế phái ba tâm phúc của mình đến U Châu, Thứ Châu và Ninh Châu hoàn toàn không phải để điều tra vụ tham ô quan đạo, mà cốt là để điều tra viên quan cao cấp nào trong bộ Công đã ăn chặn tiền cứu trợ nạn tuyết nghiêm trọng ở miền Nam cách đây ba năm.

Ba năm trước, Giang Nam có mùa tuyết lớn nhất trong hàng trăm năm lịch sử, khiến mấy vạn bách tính tử vong vì giá lạnh. Triều đình chi không biết bao nhiêu tiền của để cứu trợ thiên tai mà như muối bỏ bể. Nguyên mùa đông năm ấy, dân chúng cả vùng miền Nam lâm vào cảnh cùng quẫn, khố rách áo ôm. Sang mùa xuân năm sau, tuyết lớn tan dần, hàng vạn bộ hài cốt từng bị chôn vùi bắt đầu lộ ra. Khi các quan địa phương báo cáo số người thương vong và mất tích lên, cả triều đình bàng hoàng kinh sợ.

Mùa xuân sau nạn tuyết, Triệu Phụ tự lên Đàn Trời cầu phúc cho dân chúng, viết chiếu xưng rõ tội trạng của mình.

Mấy tháng trước, Triệu Phụ sai Đường Thận dẫn Tô Ôn Duẫn đến viện Hàn Lâm tìm tài liệu, chính là để bắt đầu tra ngược lại vụ án tham ô hồi ấy.

Không sai, nạn tuyết năm ấy gây thiệt hại lớn không chỉ vì thiên tai khắc nghiệt mà còn có bàn tay con người. Số người tử vong không phải gần một trăm thợ thủ công, mà là hàng vạn lê dân bách tính!

Trong quá trình âm thầm điều tra, Tô Ôn Duẫn đã lần ra được một ít manh mối, bèn bí mật bắt giữ một số quan viên địa phương. Anh ta biết tính chất vụ việc cực kì nghiêm trọng nên không hề trình báo trên triều, sợ đánh động đến những kẻ chóp bu. Tô Ôn Duẫn thẩm tra gắt gao, dùng cực hình xét hỏi những quan viên tham ô, cuối cùng cũng tìm ra được ngọn nguồn, xác định được quan lớn đứng sau vụ án thảm khốc ấy là người của bộ Công, ít nhất phải thuộc hàng tam phẩm trở lên.

Trong bộ Công, các quan thuộc hàng tam phẩm trở lên chỉ có ba người, một là Thượng thư Viên Mục, hai là Tả thị lang Lý Ngọc Đức, và ba là Hữu thị lang Tạ Thành.

Chính vì thế, Triệu Phụ đã sai ba người tâm phúc là Vương Trăn, Tô Ôn Duẫn và Tống Tuân lên phương Bắc điều tra xem, rốt cuộc ai trong ba người đó mới là kẻ cầm đầu thực sự. Vụ sập cầu Kinh Hà chẳng qua là một sự trùng hợp, nhưng phải nói, vận làm quan của Tô Ôn Duẫn xuân đến phát hờn. Trong vụ án lần này, anh ta chẳng những thộp cổ được Tạ Thành, mà còn vơ được thêm một đống lâu nhâu khác, công lao to gấp bội.

Một tướng nêu công chết vạn người1, gần một trăm vong hồn tan xương nát thịt dưới lòng sông Kinh Hà lạnh căm đã xếp thành nấc thang cho Tô Ôn Duẫn tót lên mây xanh!

Trên điện Tử Thần, Triệu Phụ tức giận nhiếc móc Tạ Thành, khiển trách bá quan. Tạ Thành giờ này đã bị tống giam rồi, Triệu Phụ không có đối tượng để trút giận, bèn đổ tuốt lên đầu Thượng thư bộ Công Viên Mục.

Viên Mục quỳ phục xuống thỉnh tội: "Thần quản lí thuộc hạ không nghiêm, tội đáng muôn chết! Xin bệ hạ hãy cách chức thần, trừng trị thần thích đáng, thần không còn mặt mũi nào nhìn bệ hạ, không còn mặt mũi nào đối diện với muôn dân nữa!"

Vở tuồng hiền thần xin tội lại được biểu diễn trong điện Tử Thần.

Triệu Phụ lạnh lùng khiển trách Viên Mục mấy câu liền, Viên Mục nước mắt ngắn nước mắt dài, khóc lóc sụt sùi thảm thiết, nào là thương thay dân đen tị nạn vùi thây trong trận tuyết ba năm trước, nào là đau thay những sinh linh chết đuối ở Kinh Hà hôm nay, nào là mắng mỏ bản thân không biết nhìn người.

Quanh đi quẩn lại một phen Triệu Phụ mới nói: "Được rồi được rồi, việc này cũng không hoàn toàn là lỗi của Viên khanh."

Viên Mục nước mắt tèm lem, rống lên: "Bệ hạ!"

"Phạt ngươi sáu tháng bổng lộc, về ngay U Châu, đôn đốc việc xây dựng quan đạo cho hẳn hoi tử tế, làm không xong thì đừng có bước chân về bộ Công!"

"Thần lĩnh phạt!"

Vở diễn minh quân trung thần hạ màn xuất sắc, Viên Mục đứng lên, trở lại hàng ngũ các quan.

Phạt xong rồi thì đến hồi ban thưởng. Đại thái giám Quý Phúc đứng ra đọc thánh dụ2: "Các khanh, trẫm vâng mệnh trời cao, Thiếu khanh Đại lý tự Tô Ôn Duẫn cơ trí thận trọng, sáng suốt tài giỏi, can đảm hơn người. Nay thăng làm Hữu thị lang bộ Công hàm tam phẩm, kiêm nhiệm chức Thiếu khanh Đại lý tự. Nhậm chức ngay từ hôm nay."

[2] Dụ tức là lời truyền bảo của người trên xuống người dưới

Tô Ôn Duẫn bước ra từ hàng ngũ các quan Đại lý tự, cao giọng thưa: "Đội ơn bệ hạ3."

Quý Phúc đọc tiếp: "Các khanh, trẫm vâng mệnh trời cao, Thượng thư bộ Hộ Vương Trăn trung thành giỏi giang, làm việc nhạy bén kịp thời. Nay ban thưởng năm mươi lạng vàng trắng, ba mươi cuộn gấm trắng."

Vương Trăn hô: "Đội ơn bệ hạ."

"Các khanh, trẫm vâng mệnh trời cao..."

Lần lượt các quan trong đoàn Giám sát Sứ có công điều tra vụ án ở Thứ Châu được ban thưởng, Triệu Phụ tuyên bố tan triều, bá quan lục tục ra về.

Hôm nay là phiên trực của Đường Thận, cậu đã trở lại với công việc ghi chép hàng ngày của Khởi Cư lang. Tan triều, Triệu Phụ sang điện Thùy Củng, cậu liền đi theo ông ta. Trong quá trình di chuyển, Đường Thận và hai Khởi Cư xá nhân khác đi cách Triệu Phụ một quãng, nghiêm chỉnh cúi đầu giữ im lặng. Đường Thận không hề hỏi tại sao trong số quan lại đi Thứ Châu lần này, chỉ có mỗi mình không được ban thưởng.

Đến điện Thùy Củng, Triệu Phụ lật qua lật lại đống tấu chương trên bàn, đùa rằng: "Quý Phúc, ngươi xem đống tấu này đi, ngày nào cũng hành trẫm đến mụ cả đầu. Trẫm đã già, mắt mờ lắm rồi, làm sao đọc nổi tất cả chỗ tấu chương này chứ!"

Quý Phúc lập tức mỉm cười xun xoe: "Quan gia hồng phúc tề thiên, thọ ngang trời đất, vĩnh viễn không già."

Triệu Phụ cười mắng: "Cái mồm khéo đáo để chưa kìa!" Đoạn ông ta nhìn các quan Khởi Cư chầu hai bên, hỏi Đường Thận: "Cảnh Tắc, ngươi thấy thế nào?"

Đường Thận lập tức đứng dậy, hành lễ rồi nói: "Bệ hạ ngày đêm lo việc nước, nhờ vậy mà muôn dân được kê cao gối ngủ, mạnh mẽ oai phong nhường ấy, sao có thể nói là già được ạ."

Triệu Phụ mỉm cười, giở một bản tấu rồi tiện tay đặt nó sang bên.

"Cảnh Tắc cũng học được cách ăn nói của lũ hoạn quan rồi."

Quý Phúc thấy tâm tình Triệu Phụ có vẻ vui, vả lại lão đã biết trước đôi điều, bèn đảo mắt, nhỏ giọng nói: "Bệ hạ ghét bỏ nô tài rồi."

Triệu Phụ cười ha hả: "Thế ngươi có tủi thân không?"

Quý Phúc làm bộ như tủi hờn lắm mà không dám nói.

Cười xong, Triệu Phụ nhìn Đường Thận, nghiêm túc hỏi: "Cảnh Tắc có trách trẫm hôm nay ban thưởng cho tất thảy quần thần mà bỏ qua ngươi không?"

Đường Thận thưa: "Thần không dám. Có thể san sẻ gánh lo cho bệ hạ đã là vinh hạnh lớn lao của thần rồi."

"Dù vậy, cũng không thể bạc đãi ngươi được." Nói rồi, Triệu Phụ nháy mắt ra hiệu cho Quý Phúc, Quý Phúc lập tức tiến lên, chậm rãi đọc thánh dụ: "Các khanh, trẫm vâng mệnh trời cao, Khởi Cư lang Đường Thận tài tư mẫn tiệp, ngôn từ sâu sắc, thấu hiểu tấm lòng trẫm. Nay thăng làm Trung Thư xá nhân hàm tứ phẩm, nhậm chức ngay trong ngày."

Đường Thận tuy đã dự liệu được, nhưng khi trực tiếp nghe dụ lệnh thăng chức, cậu vẫn hết sức choáng ngợp. Trăm mối cảm xúc đan xen trong lòng, Đường Thận hồi tưởng lại toàn bộ những gì đã trải qua suốt một năm nay, cuối cùng mới ngẩng lên nhìn vua với gương mặt đầy ngỡ ngàng. Cậu nghẹn ngào nói: "Bệ hạ..."

Triệu Phụ mỉm cười: "Cảnh Tắc, tiếp chỉ đi chứ, hay là không ưng phần thưởng này?"

Đường Thận lập tức hành lễ: "Thần đội ơn bệ hạ!"

Đường Thận lĩnh chỉ xong thì trở về chỗ ngồi của Khởi Cư lang. Triệu Phụ nói với cậu: "Để Cảnh Tắc sang điện Cần Chính, coi như là chút lòng riêng của trẫm. Ngươi xem tấu chương các quan viết ở đây đi, đến mấy chuyện vặt vãnh như 'Trái sơn trà ở Lĩnh Nam chín nẫu, gấp lắm rồi ạ' cũng tâu lên với trẫm! Hay như cái này chẳng hạn, văn vẻ bay bướm, trẫm đọc hoa cả mắt, hóa ra cũng chỉ để chúc trẫm hai tháng nữa sinh nhật vui khỏe. Nếu Cảnh Tắc đến điện Cần Chính giúp trẫm thẩm duyệt tấu chương, nhất định sẽ hiểu suy nghĩ của trẫm, có thể tóm tắt ngắn gọn nội dung tấu chương cho trẫm, đúng không nào?"

Triệu Phụ đã nói thế, Đường Thận làm sao mà ngồi được nữa, cậu đứng lên ngay: "Thần nhất định không phụ thánh mệnh."

Triệu Phụ nhìn Đường Thận, bỗng nói: "Trẫm là trẫm không nỡ để Cảnh Tắc đi chút nào đâu!"

Ông ta vừa dứt câu, cả Quý Phúc lẫn hai Khởi Cư xá nhân trong điện đều phải nhìn Đường Thận bằng ánh mắt ngưỡng mộ.

Lời Triệu Phụ nói nửa thật lòng, nửa vờ vĩnh. Về một mặt, Triệu Phụ thấy Đường Thận là một trong những quan viên trẻ tuổi hiếm hoi làm việc thực chất, nghiêm chỉnh. Suốt một năm nay theo hầu cậu cũng thường xuyên nắm bắt được ý của ông ta. Không chỉ thế, nhờ là sư đệ của Vương Trăn – tâm phúc của Triệu Phụ, Đường Thận còn được thơm lây và lọt vào mắt xanh của đức vua. Vì những lí do ấy, để Đường Thận đi, thực lòng Triệu Phụ cũng lấy làm tiếc.

Mặt khác, chính vì Đường Thận đang nổi đình đám giữa lớp trẻ trong triều mà Triệu Phụ rất muốn thu phục cậu, khiến cậu toàn tâm toàn ý trung thành với mình.

Quả nhiên, Đường Thận cảm động rơi nước mắt: "Thần nguyện cúc cung tận tụy vì bệ hạ, đến chết mới thôi!"

Triệu Phụ thỏa mãn cười tươi.

Chiều tối, hoàng đế lên đài Đăng Tiên tu luyện. Được nửa canh giờ thì Hữu thị lang bộ Công kiêm Thiếu khanh Đại lý tự Tô Ôn Duẫn vào cung xin yết kiến.

Tô Ôn Duẫn đến cửa đài Đăng Tiên lại gặp Đường Thận. Thái giám vào bẩm báo lên hoàng đế, còn Tô Ôn Duẫn thì đứng chờ ở cửa, đối diện với Đường Thận.

Tô Ôn Duẫn cười: "Nghe nói sáng sớm hôm nay Đường đại nhân đã được thăng làm Trung thư xá nhân tứ phẩm, đáng mừng thật đấy."

Đường Thận hành lễ: "Đa tạ Tô đại nhân. Hạ quan cũng chúc mừng Tô đại nhân vừa lên chức Hữu thị Lang bộ Công tam phẩm."

Ánh mắt đẹp say lòng người của Tô Ôn Duẫn bám lấy Đường Thận hồi lâu, anh ta nói: "Từ sau khi rời Thứ Châu, ta cứ băn khoăn mãi một việc. Đường đại nhân này, nếu đêm đó trong trạm dịch có người tông cửa vào, chém chết hai ta ngay tại chỗ, thì ngươi nghĩ hôm nay ai sẽ là người mang thi thể chúng ta về kinh ẵm hết công trạng đây?"

Đường Thận: "Việc chưa từng xảy ra, Tô đại nhân nghĩ ngợi làm gì."

Chăm chú quan sát Đường Thận thêm một lúc, Tô Ôn Duẫn lại bảo: "Ngày mai Đường đại nhân sẽ đến điện Cần Chính nhậm chức, ta đợi ngươi ở điện Cần Chính đấy."

Không bao lâu sau, Tô Ôn Duẫn đi vào đài Đăng Tiên.

Trong đài Đăng Tiên, Giám chính Khâm Thiên giám Lý Tiêu Nhân cầm chiếc bát ngọc, nhúng lá trúc vào nước trong bát, nhẹ nhàng vẩy lên người Triệu Phụ. Hoàng đế Đại Tống khoác đạo bào, ngồi nghiêm trang ngay giữa trận Thái cực Bát Quái, nhắm mắt tu tiên.

Tô Ôn Duẫn đến xong cũng không lên tiếng, chỉ đứng đó chờ.

Qua một khắc, Triệu Phụ mở mắt ra, nói: "Ngươi lui xuống trước đi."

Lý Tiêu Nhân sững người mất mấy giây mới hiểu ý Triệu Phụ, bèn mau chóng rời khỏi đài Đăng Tiên.

Triệu Phụ đưa mắt nhìn Tô Ôn Duẫn, vẻ mặt hững hờ như bậc tiên nhân đã thoát ly khỏi tình cảm và dục vọng. Tiếng ông ta vang vọng trong đài Đăng Tiên: "Phỉ Nhiên đến bao lâu rồi?"

Tô Ôn Duẫn: "Mới một khắc thôi ạ."

Triệu Phụ vẫn ngồi xếp bằng, hỏi: "Tình hình thế nào?"

Tô Ôn Duẫn trả lời: "Án tham ô trong thảm họa tuyết miền Nam ba năm trước, chỉ lần ra được đến Tạ Thành. Lên cao hơn nữa, nếu không phải không có kẻ nào thì tức là chúng giấu quá khéo, không thể tóm được sơ hở. Thần vô năng, xin bệ hạ thứ tội."

Triệu Phụ gật gù khe khẽ, dường như đang suy tư điều gì.

"Nạn tuyết năm ấy ảnh hưởng rất lớn, triều đình phát hai trăm vạn lượng để cứu tế, nếu chỉ có mình Tạ Thành thì còn non sức lắm." Triệu Phụ cảm thán, nhưng thay vì đi sâu vào việc ấy, ông ta lại thâm thúy ám chỉ chuyện khác: "Ta nhớ rõ năm ấy, họa tuyết lớn không gây thiệt hại gì cho phủ Cô Tô. Đúng là nơi địa linh nhân kiệt, Đường khanh là người Cô Tô đấy."

Tô Ôn Duẫn đương nhiên hiểu ý hoàng đế. Về lí thuyết, đúng ra Tô Ôn Duẫn sẽ nhân dịp này thêm mắm dặm muối, dìm Đường Thận xuống ngay. Song anh ta chỉ nhếch môi rồi thưa: "Tuy Đường đại nhân đã từng là học trò của Phủ doãn Cô Tô Lương Tụng – Lương đại nhân, nhưng tâu bệ hạ, sau khi Lương đại nhân tự ải, chưa đến một tháng, cậu ta đã ngược Bắc đổi thầy ngay tắp lự, cắt đứt hoàn toàn quan hệ với Lương đại nhân. Quyết đoán đến nhường ấy, khiến thần cũng phải thấy tự ti."

Nghe thì có vẻ Tô Ôn Duẫn chỉ đang nhận mình không bằng Đường Thận, nhưng thật ra anh ta đang nói kháy Đường Thận là đồ gió chiều nào theo chiều ấy, thầy vừa mất đã chạy theo người khác, Lương Tụng dưới đất có linh, khéo tức đến nỗi chết rồi cũng phải vùng dậy.

Triệu Phụ ngẩng lên nhìn Tô Ôn Duẫn.

Tô Ôn Duẫn bĩu môi, khinh Đường Thận ra mặt.

Triệu Phụ nói: "Kẻ thức thời là trang tuấn kiệt, việc này đúng là Cảnh Tắc sai, nhưng chẳng qua là trẻ người non dạ."

Tô Ôn Duẫn thôi tỏ ra dè bỉu, không nói nữa.

Triệu Phụ phất tay: "Lui đi."

"Vâng."

Ra khỏi đài Đăng Tiên, Tô Ôn Duẫn tia ngay Đường Thận ngoài cửa, cười tươi roi rói, thái độ vênh váo cực kì: "Đường đại nhân, thế là ngươi nợ ta một ơn huệ lớn rồi đấy. Từ rày trở đi, vụ ta mượn ngươi làm bia ngắm ở Thứ Châu coi như xí xóa nhé."

Đường Thận nhíu mày.

Tô Ôn Duẫn không dài dòng, nghênh ngang ra về.

Trong đài Đăng Tiên, Triệu Phụ mân mê hai viên dạ minh châu trong trẻo. Ông ta nhìn xuống sàn đầy suy tư: "Trẫm nhớ, Đường Thận năm nay mười bảy tuổi nhỉ."

Trong đài Đăng Tiên chỉ có Triệu Phụ và Quý Phúc. Tự dưng hoàng đế nói vậy, Quý Phúc mất một lúc mới nhận ra Triệu Phụ đang chờ mình trả lời, bèn đáp: "Bẩm bệ hạ, Đường đại nhân đỗ Thám hoa năm mười sáu tuổi, tức là vào đầu năm ngoái. Nô tài còn nhớ, Đường đại nhân là Thám hoa lang do chính bệ hạ khâm điểm ạ."

Triệu Phụ: "Ừ, đúng là như vậy, suýt tí nữa trẫm quên mất. Trẫm rất thích văn của cậu ta, nhớ bài văn cậu ta viết nhân ngày sinh nhật trẫm năm ngoái, giọng văn thật tuyệt vời biết bao."

Quý Phúc cười nói: "Đường đại nhân giỏi giang hơn người, tuổi trẻ tài cao, nô tài hết sức ngưỡng mộ."

"Hà hà, đúng là cái đồ già ranh."

Một thoáng yên tĩnh trôi qua, Triệu Phụ thong thả nhận xét: "Xét về tài siểm mị4, cậu ta cũng sánh ngang với Tử Phong đấy."

[4] Nịnh nọt, nịnh hót

Quý Phúc sững người, không nói nên lời.

Triệu Phụ thở dài: "Trẫm lại rất thích cậu ta như vậy."

Một bề tôi thấy lợi quên nghĩa, a dua nịnh hót đối với đấng minh quân mà nói, chính là kẻ gian thần tiểu nhân, thế mà Triệu Phụ lại thích kiểu người ấy, thích vô cùng.

"Tô Phỉ Nhiên ghét cậu ta, Vương Tử Phong thích cậu ta." Triệu Phụ cảm khái, "Sao thiên hạ lại sinh ra một Đường Cảnh Tắc hay ho thế nhỉ, vừa khéo kẹp giữa hai người kia. Thế nên, trẫm càng thích."

Quý Phúc có khôn khéo đến mấy thì cũng chỉ là một hoạn quan, lão ta không hiểu ý Triệu Phụ, chỉ đành cười xòa.

Lẽ dĩ nhiên, một lão thái giám hiểu được quyền mưu của đế vương mới là lạ.

Trên triều đình, các quyền thần đức cao vọng trọng đều đã lớn tuổi và có phe phái riêng của mình. Ngay cả với Triệu Phụ, việc thay đổi những người này cũng hết sức nhức đầu, tiềm ẩn hậu họa khôn lường. Trong khi đó, nhóm quan trẻ tuổi được Triệu Phụ cố ý nâng đỡ những năm gần đây, dẫn đầu bởi Vương Trăn và Tô Ôn Duẫn, dần dần đã có vị thế ngang bằng với các cựu thần.

Mà trong nhóm trẻ này thì Vương Trăn lại kình nhau với Tô Ôn Duẫn.

Nếu bây giờ đặt một bàn cờ vào điện Tử Thần cho tất cả mọi người quan sát, để các quan làm quân cờ còn thiên tử cầm quân, bàn cờ ấy sẽ có con sông chia hai bờ, bên Sở bên Hán, vừa tách biệt rõ rệt vừa hòa trộn với nhau. Gió mưa trên triều đình chưa gạt nổi đôi mắt già nua lâu nay của Triệu Phụ. Trăm năm nữa, ông ta vẫn sẽ là hoàng đế tài đức, sáng suốt không ai bằng trong lịch sử Đại Tống. Ông ta muốn hậu thế phải tán dương mình cả đời.

Ông ta sẽ bất tử, ông ta sẽ trở thành vị vua thánh minh nhất trần đời.

Nụ cười của Triệu Phụ trở nên sâu xa khó đoán, ông ta nhắm mắt, tiếp tục tu tiên.

Đến tối, quan viên bộ Lễ đưa quan bào mới đến phủ Thám hoa. Đường Thận thay áo mới, Đường Hoàng hớn hở chạy quanh anh trai mấy vòng liền. Phải mất một lúc cô bé mới bớt kích động, bĩu môi: "Rõ ràng là y phục cho đại quan tứ phẩm hẳn hoi, anh à, sao anh mặc vào trông chả khác trước tí nào thế?"

Đường Thận lườm cô em: "Vào năm Khai Bình thứ ba khi Tống Liêu chiến tranh liên miên, Thượng thư bộ Hộ hồi ấy, giờ là Hữu tướng Vương Thuyên – Vương đại nhân đã dâng thỉnh nguyện, đề xuất đơn giản hóa phục sức của bách quan để giảm bớt gánh nặng cho quốc khố. Em nhìn cái tay áo mà xem."

Đường Hoàng lại gần, nhòm kĩ: "Tay áo làm sao hả anh?"

"Thêu chỉ bạc kia kìa! Chỉ có quan tứ phẩm mới được dùng chỉ bạc thôi!"

Đường Hoàng: "..."

Ai mà nhìn ra nổi!

Đường Thận thăng quan, cả nhà vui mừng khôn xiết. Quan trọng nhất là, từ giờ Đường Thận được ngủ nướng thêm hai khắc.

Trong các quan, Khởi Cư lang phải dậy sớm nhất, họ phải tiến cung trước tất cả những người khác. Từ hồi làm quan Khởi Cư, Đường Thận cả năm nay không được ngon giấc. Dù không có phiên trực, cậu cũng phải dậy sớm vào cung, sẵn sàng đợi lệnh.

Hên nữa là tuy Đường Thận mới nhậm chức, và chức Trung thư xá nhân tứ phẩm cũng phải lên triều, nhưng ngày đầu tiên đi làm, cậu không phải vào triều, chỉ cần đến điện Cần Chính nhận nhiệm vụ sau buổi chầu là được.

Kể từ khi làm quan, hôm nay Đường Thận mới có một giấc ngủ no nê.

Sáng sớm hôm sau, cậu mặc quan bào, đi lên điện Cần Chính.

Trước đây Đường Thận đã ghé thăm điện Cần Chính nhiều lần. Điện Cần Chính là nha môn duy nhất trong hoàng cung, là cơ quan làm việc đặc biệt của Trung Thư tỉnh ở Đại Tống. Vì thế, điện Cần Chính cũng được gọi là nha môn Trung Thư. Tuy vậy, không phải tất cả quan Trung Thư tỉnh đều làm việc ở điện Cần Chính.

Hồi trước Đường Thận làm Khởi Cư lang, về lý thuyết thì cũng là quan viên thuộc Trung Thư tỉnh, nhưng nơi làm việc của Khơi Cư lang là nha môn Trung Thư ở ngoài cung chứ không phải trong điện Cần Chính.

Để khái quát thì điện Cần Chính được chia làm ba khu vực. Khu thứ nhất là nơi làm việc của bốn tướng công, tức là Tả tướng Kỷ Ông Tập, Hữu tướng Vương Thuyên, Tả thừa Trần Lăng Hải và Hữu thừa Từ Bí. Khu thứ hai là nơi làm việc của Thượng thư Lục bộ, gồm ba gian phòng, cứ hai bộ chung một gian. Thượng thư sáu bộ không phải lúc nào cũng làm việc trong điện Cần Chính, họ cũng hay có mặt ở nha môn từng bộ bên ngoài cung.

Còn khu vực đằng sau những gian nhà trên là nơi làm việc của các quan khác trong Trung Thư tỉnh.

Quan Trung thư tam phẩm chia nhau hai phòng. Đường Thận là quan tứ phẩm thì dùng chung một phòng với các quan tứ phẩm khác.

Ở Trung Thư tỉnh, chỉ có quan tứ phẩm trở lên mới được vào điện Cần Chính làm việc.

Đường Thận đến điện Cần Chính từ sớm, cậu không để mọi người chờ mình mà đến trước khi buổi chầu kết thúc. Sau buổi chầu, các quan trở về điện Cần Chính. Ba quan Trung Thư xá nhân cùng phẩm hàm với Đường Thận thấy cậu đến sớm thì ngạc nhiên lắm, mọi người chắp tay: "Chúc mừng Đường đại nhân, từ giờ chúng ta là đồng liêu rồi."

Đường Thận cười: "Đa tạ Quý đại nhân, Lưu đại nhân và Lâm đại nhân."

Trung Thư xá nhân Quý Mậu cười: "Lần trước gặp Đường đại nhân mới cách đây ba tháng thôi. Hôm ấy ta đến chỗ Vương tướng công, vừa khéo gặp đại nhân. Chỉ kịp liếc nhau một cái, không ngờ hôm nay đã thành đồng liêu với Đường đại nhân."

Một Trung Thư xá nhân khác nói: "Đường đại nhân năm nay mới mười bảy tuổi, đúng là tuổi trẻ tài cao."

Bốn người khách sáo một phen, Quý Mậu mới nói: "Trong điện Cần Chính, ta làm việc cho Kỷ tướng công, Lưu đại nhân hỗ trợ Vương tướng công, Lâm đại nhân thì do Trần tướng công sai sử. Như vậy, Đường đại nhân sẽ theo Từ tướng công. Giờ mới tan triều, Từ tướng công đang bận lắm. Cứ chờ một lúc rồi sẽ có người đến tìm Đường đại nhân."

Quý Mậu nói đúng, sau nửa canh giờ, có sai nha đến phòng gọi Đường Thận, báo rằng Hữu thừa Từ tướng công triệu kiến cậu.

Đường Thận chỉnh trang lại quan bào, đi theo sai nha đến gian làm việc của Từ Bí.

Từ Bí đang xem tấu chương, thấy Đường Thận đến thì ông nhẹ nhàng gật đầu với cậu. Đường Thận cũng không lên tiếng, ngoan ngoãn đứng ra sau lưng Từ Bí.

Từ Bí xem tấu chương xong thì thở dài, đưa cho Đường Thận bảo: "Ngươi đọc thử đi."

Đường Thận cung kính nhận cuốn sổ, mở ra xem.

Lúc mới mở ra, cậu cũng bình tĩnh lắm. Mà đọc được một nửa, Đường Thận bắt đầu thấy hoang mang. Cậu nghĩ ngợi một chút, bèn đọc lại tỉ mỉ từ đầu.

Đường Thận: "..."

Đường Thận bảo: "Hạ quan xem xong rồi ạ."

Từ Bí nhấp một ngụm trà: "Thấy sao?"

"... Liễu đại nhân phủ doãn Thương Châu văn từ hoa mỹ, tài giỏi xuất chúng, thần không bì kịp."

Nói tóm lại là: viết nhảm nhí thái quá, đọc đau hết cả đầu!

Từ Bí cười bất đắc dĩ: "Đây cũng là việc của ngươi đấy. Tấu chương của quan viên địa phương đều chuyển về đây cho ta, sau khi ta đọc xong sẽ tóm lược những điểm chính yếu, trình lên bệ hạ. Đường đại nhân trước đây làm Khởi Cư lang, hẳn cũng biết mỗi ngày bệ hạ phải duyệt bao nhiêu tấu chương đúng không?"

"Hạ quan biết ạ."

Từ Bí cảm thán: "Bệ hạ vẫn như xưa!"

Lần đầu tiên, Đường Thận thấy đồng cảm với hoàng đế Triệu Phụ.

Vương Trăn chắc phải có một gian nhà chỉ để áo gấm trắng thượng hạng đủ loại xì-tai cho mọi dịp.

Kể ra Đường Thận cũng không lo xa, Triệu Phụ dùng người nhất định sẽ điều tra đến chân tơ kẽ tóc, Tô 'khẩu nghiệp' mà thêm mắm dặm muối vào kiểu "thà giết nhầm còn hơn bỏ sót loạn đảng" thì chắc cháu bé hết cửa đi thi Đại Tống's next top quyền thần.

Chú thích

[1] Trích bài Năm Kỷ Hợi kỳ 1 của nhà thơ Tào Tùng thời Đường. Bản dịch Cao Tự Thanh. Bài thơ sáng tác trong bối cảnh cuối triều Đường loạn lạc, tướng Cao Biền đàn áp quân khởi nghĩa Hoàng Sào một cách tàn khốc.

[3] Chia sẻ vui là lúc đầu mình cứ băn khoăn mãi phải edit câu "tạ bệ hạ long ân" như thế nào. Lâu nay không coi chữ Hán nên cứ lầm tưởng 'long' là 'rồng', nhưng thực ra chữ 隆 ấy là sâu đậm, to lớn. Long ân được hiểu là ơn sâu, ơn dày của đấng bề trên. Sau mình mới nghĩ ra người ta hay có câu "đội ơn bệ hạ" cũng rất hợp lý, nên chú thích vào cho mọi người biết thêm.

Chương 65

Lăng Tử thạch

Trong bốn vị tướng công ở điện Cần Chính, Hữu thừa Từ Bí – Từ tướng công là người cao tuổi nhất, năm nay đã ngoài bảy mươi. Có người đồn năm ngoái Từ tướng công đã xin bệ hạ cho cáo lão hồi hương. Ban đầu, Triệu Phụ ưng thuận, song hiềm nỗi, khắp cả triều đình không chọn được ai thế chỗ Từ Bí cả. Vì sự ra đi của ông sẽ gây ảnh hưởng lớn đến thế cờ giữa các phe phái trên triều, Triệu Phụ quyết định giữ Từ Bí lại.

Từ tướng công tính tình hiền lành, thường ghé gian sau của điện Cần Chính trò chuyện với các quan tứ phẩm.

Quan lại khắp nơi dâng tấu sớ về Thịnh Kinh, đều phải qua tay Từ Bí sàng lọc rồi mới dâng lên hoàng đế. Lên chức Trung Thư xá nhân, mới từ gian nhà của Từ Bí về, Đường Thận đã thấy hai sai nha gánh một hòm tấu chương theo sau lưng mình.

Đường Thận ngửa mặt lên trời thở dài.

Thế là đi đứt cả buổi sáng chỉ để đọc tấu sớ.

Đến trưa, bụng Đường Thận sôi ùng ục. Trong lúc các quan còn làm việc, nhóm sai nha trong điện Cần Chính đã gánh thùng cơm lên, xới cơm chia canh cho các vị.

Quan lại Trung Thư tỉnh làm việc trong điện Cần Chính dù sao cũng là quan tứ phẩm. Kể cả xét trong đế đô Thịnh Kinh của Đại Tống, họ vẫn thuộc hàng quan lớn, là những bề tôi thân cận nhất của thiên tử. Tuy vậy, đến giờ ăn trưa, sai nha cũng chỉ phục vụ một món mặn một món chay cực kì đạm bạc. Cơm rắn đến nỗi nhai mỏi cả răng, thức ăn thì ổn, nhưng nói tóm lại là không ngon lành gì cho cam.

Hồi Đường Thận còn làm Khởi Cư xá nhân, những hôm vào cung trực, cậu thường được ăn ké những món ngon mà đầu bếp hoàng cung chế biến sau khi Triệu Phụ dùng bữa xong. Nếu không có phiên trực thì cậu ăn ở nha môn, cơm canh cũng không khác gì đồ ăn trong điện Cần Chính cả, còn dở hơn cả đồ ăn căng-tin ở thời hiện đại!

Đường Thận ăn uống phủ phê ở Cô Tô suốt hai năm, về nhà luôn có Diêu đại nương cơm nước cho, tay nghề không phải bàn cãi. Giờ cậu chuyển sang công tác ở điện Cần Chính, được tiếng là quan lớn đấy, nhưng từ rày xin chia tay những tháng ngày ăn ké cơm vua, đón chào những tháng ngày ăn cám ăn trấu.

Đường Thận ngán ngẩm, xơi miếng cơm nhạt như nước ao bèo.

Trong điện Cần Chính, các quan có vẻ tập mãi cũng thành quen, lẳng lặng ăn trưa.

Ăn được nửa bữa, Đường Thận ngẩng lên, tự dưng thấy bóng ai quen ơi là quen đứng ngoài phòng. Đường Thận ngạc nhiên lắm, nghĩ ngợi một lát bèn đặt đũa xuống mò ra ngoài.

Giữa sân, Vương Trăn mặc quan bào đỏ, tay cầm một chiếc lệnh bài, mắt dõi theo từng bước chân Đường Thận.

Đường Thận chú ý đến lệnh bài của chàng trước nhất, hỏi: "Sư huynh qua đây có việc gì thế? Cái này là cái gì?"

Vương Trăn giấu lệnh bài vào tay áo, ngắm nghía Đường Thận một hồi, thở dài: "Tiểu sư đệ gầy đi rồi."

Đường Thận ngớ người, nghĩ bụng, có tóp bớt lạng nào đâu nhỉ?

"Sao sư huynh lại nói vậy?"

Vương Trăn: "Hôm nay chưa gầy, dăm ba hôm nữa thể nào cũng sút cân. Cơm điện Cần Chính, đệ có nuốt nổi không?"

Lòng Đường Thận nặng trĩu nỗi sầu không biết tỏ bày cùng ai.

Vương Trăn trông điệu bộ cậu thì biết thừa. Chàng mỉm cười: "Đi thôi."

Đường Thận chẳng hiểu gì nhưng vẫn tò tò bám theo Vương Trăn. Vương Trăn đi qua hành lang chạm trổ, sai nha thấy chàng đều dừng lại chào một tiếng "Vương tướng công" rồi mới đi tiếp. Chàng dẫn Đường Thận đến tận phòng làm việc của Thượng thư bộ Hộ. Đến cửa, Đường Thận do dự dừng bước.

Vương Trăn quay lại bảo cậu: "Hôm nay Mạnh đại nhân không làm việc trong cung."

Mạnh đại nhân tức là Thượng thư bộ Lễ Mạnh Lãng chứ còn ai!

Đường Thận vẫn không quên, lần đầu tiên cậu sang điện Cần Chính đã bị Mạnh đại nhân tha lôi từ chỗ bốn tướng công đến tận chỗ Thượng thư Lục bộ, y như dắt con khỉ xiếc diễu hành cho các quyền thần nhất phẩm, nhị phẩm trong triều ngắm chơi! Đáng ghét làm sao, người chung phòng làm việc với Vương Trăn cũng chính đầu sỏ trong sự kiện ấy – Thượng thư bộ Lễ Mạnh Lãng!

Biết Mạnh Lãng không có ở đây, Đường Thận mới thoải mái vào nhà theo Vương Trăn.

Sau một hồi lâu, hai sai nha xách hộp đựng thức ăn vào phòng. Họ nhấc nắp hộp, bày biện từng đĩa một lên trên bàn. Những món ăn này tuy không sánh được với đẳng cấp ngự trù, cũng kém tay nghề đầu bếp nhà Vương Trăn, nhưng trong mắt kẻ mới xơi cơm căng-tin là Đường Thận thì mâm cơm này chẳng khác nào sơn hào hải vị!

Tiêu chuẩn của Vương Tử Phong đúng là tiêu chuẩn VIP1!

Sư huynh đệ hai người nhập cuộc tự nhiên. Đến khi cơm nước no nê, Đường Thận mới tò mò hỏi: "Sư huynh ơi, bữa cơm này từ đâu mà ra thế ạ? Đệ tưởng các quan trong điện Cần Chính phải ăn chung với nhau hết cơ mà?"

Vương Trăn giải thích: "Đệ nói đúng rồi, nhưng đệ không biết có một nhà bếp nhỏ dành riêng cho bốn vị tướng công."

"Ủa?" Khoan, chuyện đó thì có liên quan gì đến huynh?

Vương Trăn uống trà Long Tỉnh, phóng tầm mắt ra xa, nhẹ nhàng bảo: "Hữu tướng ưu ái, ta cũng hay được chia phần tí đỉnh."

Ngẫn ra một hồi, Đường Thận mới ngộ ra...

Hữu tướng?

Vương Thuyên?

Nhị thúc tổ của Vương Trăn!

Quả nhiên trong triều cứ có người quen là nhàn, đến miếng ăn cũng phải hơn kẻ khác! Cơ mà ngẫm lại thì, hình như cậu cũng có người quen mà, cậu có Vương Trăn, nên cậu cũng được ăn ké đấy thôi.

Dùng bữa xong, hai huynh đệ uống chén trà rồi Đường Thận phải về đọc tấu chương. Trước khi đi, cậu suy tư một chút, ngập ngừng gọi: "Tử Phong sư huynh."

"Ừ?"

"Bây giờ đệ làm việc ở chỗ Từ tướng công."

Vương Trăn ngước lên nhìn Đường Thận.

Đường Thận đang nhìn chàng đầy trông mong.

Hồi lâu, Vương Trăn mới mỉm cười: "Tiểu sư đệ, mai lại sang ăn cơm nhé?"

Đường Thận thở phào nhẹ nhõm, cười tươi rói: "Vâng!"

Từ khi Triệu Phụ lên ngôi đến giờ, Trung Thư tỉnh đã thay mấy tướng công rồi. Có người là bị biếm trích do phạm phải tội lớn, song hầu hết là do các vị tướng công tuổi cao sức yếu, xin Triệu Phụ cho từ quan về quê dưỡng già. Bốn vị tướng công đứng đầu điện Cần Chính hiện giờ, ai cũng có thể gây dựng đảng phái riêng cho mình.

Trong đó, Tả tướng Kỷ Ông Tập xuất thân hàn môn, không hay qua lại với ba người kia, một mình một phái.

Hữu tướng Vương Thuyên xuất thân danh môn, thuộc dòng dõi Lang Gia Vương thị. Ông và Tả thừa Trần Lăng Hải là đôi bạn đèn sách chí cốt, hai người rất thân với nhau.

Còn lại, Hữu thừa Từ Bí rất nhiều tuổi rồi, là nguyên lão ba triều đức cao vọng trọng.

Vương Trăn thuộc phái quan viên trẻ tuổi, nhưng chàng là cháu trai của Vương Thuyên. Dù thế nào đi chăng nữa, chàng vẫn dính dáng đến Vương Thuyên. Hôm nay, Đường Thận cố ý đem chuyện mình đang làm việc dưới trướng Từ Bí ra để hỏi, Vương Trăn đáp: Mai lại sang đây ăn cơm chung. Nói vậy tức là chàng đã rõ chuyện này và không hề ngại.

Tuy chuyện không to tát mấy, nhưng Đường Thận không muốn nó làm tình cảm sư huynh đệ của mình với Vương Trăn trở nên xa cách.

Đến giờ, cậu không còn coi Vương Trăn là đối tượng để mình lợi dụng nữa. Đối với cậu, chàng đã dần dần trở thành một sư huynh thực thụ, một người bằng hữu mình có thể tin tưởng, một người huynh trưởng mình có thể dựa dẫm. Đường Thận mãi mãi không quên việc Vương Trăn làm vì mình ở trạm dịch Thứ Châu đêm hôm đó.

Triệu Phụ sai Vương Trăn đến kiểm tra tiến độ án tham ô, Vương Trăn hoàn toàn có thể hành quân theo tốc độ bình thường. Một khi chàng đến Thứ Châu, dù không đoạt được sổ kế toán từ tay Tô Ôn Duẫn, chàng cũng vẫn được Triệu Phụ ngợi khen. Năm nay chàng chưa đến hai mươi bảy tuổi nhưng đã quan cao lộc hậu, là Thượng thư bộ Hộ đương triều. Xét công trạng lần này của chàng, Triệu Phụ chỉ thưởng vàng bạc chứ không thưởng gì thêm. Hiện giờ dù chàng có lập công to bằng trời đi chăng nữa, những thứ Triệu Phụ có thể ban cho cũng chỉ là vật chất.

Vì thế, Vương Trăn hành quân gấp gáp đâu chỉ nhằm mục đích chen chân vào vụ án tham ô Thứ Châu sớm hơn một chút hòng tăng thêm chút công trạng? Chàng vội vã như vậy âu cũng là vì Đường Thận.

Thứ Châu là vũng bùn lầy khổng lồ, mà Đường Thận chỉ là một Khởi Cư lang bé nhỏ giữa muôn trùng nanh vuốt. Ai cũng biết cậu là tai mắt của hoàng đế, cậu là kẻ lạc loài nhất ở Thứ Châu, không một ai muốn dính líu đến cậu cả.

Đường Thận biết, Vương Trăn vì mình nên mới ngày đêm không quản, gấp rút hành quân đến Thứ Châu.

Hôm nay Vương Trăn lại tỏ rõ thái độ với cậu, nỗi lo âu trĩu nặng trong lòng Đường Thận cuối cùng cũng tan biến.

Cậu đang định về thì Vương Trăn bỗng đứng dậy từ ghế thái sư, níu tay cậu lại.

"Tử Phong sư huynh?"

"Cảnh Tắc à, hôm nay huynh vui lắm."

Đường Thận sửng sốt.

"... Đệ không hiểu ý sư huynh."

Vương Trăn nở nụ cười, gương mặt chàng vốn đã đẹp mê hồn, cười lên càng tao nhã gấp bội. Chàng buông tay: "Về đi."

Đường Thận: "....?"

Vương Tử Phong lại lên cơn gì không biết?

Ôm nỗi băn khoăn trở về phòng, Đường Thận đọc tấu sớ suốt cả một ngày. Đến tối, xe ngựa của bốn vị tướng công nối đuôi nhau rời điện Cần Chính, theo sau là các quan thượng thư nhị phẩm. Chờ đến khi các quan tam phẩm ra về hết, Đường Thận và các quan tứ phẩm mới lần lượt rời cung.

Đầu tháng chín, Diêu Tam và Đường Hoàng tiếp tục đi Ninh Châu.

Nửa tháng sau, hai người từ Ninh Châu về. Diêu Tam mang theo một phong thư cho Đường Thận: "Tiểu đông gia, tôi đã gặp Vương đại nhân, đưa thư của cậu cho ngài ấy, ngài ấy bảo tất cả vẫn ổn. Sau đó thì ngài có gửi lại thư này cho cậu, cậu đọc nhé."

Đường Thận bóc thư ra .

Trong thư, Vương Tiêu có viết một số tin tức về quan đạo Ninh Châu.

Quan đạo Ninh Châu là con đường dễ làm nhất trong ba quan đạo. Tuy nhiên, do thời tiết khó lường, miền Bắc mưa to liên tục, đường sá lầy lội rất khó thi công, tiến độ xây dựng quan đạo Ninh Châu chậm hơn rất nhiều. Ban đầu dự kiến xây xong vào cuối tháng chín, nhưng giờ có lẽ phải lui lại đến tận cuối tháng mười.

Kể cả như thế thì mọi việc vẫn trong tầm kiểm soát của Đường Thận. Vào tháng mười một, lưu lượng khách ở lầu Tế Hà mới tăng lên đáng kể.

Đúng lúc này, Tả thị lang bộ Công Lý Ngọc Đức – người phụ trách tuyến quan đạo Ninh Châu – đem đến một bất ngờ cho toàn thể nhân dân cả nước.

Đầu tháng mười, quan đạo Ninh Châu được hoàn thành.

Lý Ngọc Đức trở về Thịnh Kinh với thành công này, vừa kịp trước sinh nhật của Triệu Phụ. Triệu Phụ vô cùng mừng rỡ, ban thưởng rất hậu.

Đại thọ hoàng đế, cả nước hân hoan.

Trưa hôm đó, Đường Thận lại lén lút sang ăn chùa cơm VIP ở phòng Thượng thư. Lạ lùng thay, Vương Trăn chỉ ăn đúng một miếng rồi gác đũa, mỉm cười nhìn cậu.

Đường Thận bị chàng ngó dữ vậy, và miếng cơm cũng khó.

"Sư huynh..." Huynh làm gì thế?

Vương Trăn: "Hôm nay là ngày mấy ý nhỉ?"

Đường Thận nghe thế, đầu tiên là hơi ngạc nhiên một chút, xong lại thấy hết sức buồn cười.

Vương Tử Phong cũng tế nhị thật, đương nhiên cậu biết hôm nay là sinh nhật Vương Trăn rồi. Khắp thiên hạ này e chẳng có sinh nhật ai dễ nhớ hơn sinh nhật Vương Trăn cả. Cứ nhớ đó là ngày trước sinh nhật hoàng đế một hôm thì không bao giờ quên được. Chỉ có điều Đường Thận khá ngạc nhiên khi thấy Vương Trăn để ý chuyện này. Chàng hỏi thế, làm Đường Thận có cảm tưởng như bị bạn gái vặn hỏi có nhớ hôm nay là kỷ niệm một trăm ngày yêu nhau không.

Ý nghĩ kì quặc đấy khiến Đường Thận hơi lúng túng, cậu tằng hắng rồi bảo: "Hôm nay là sinh nhật sư huynh ạ."

Vương Trăn: "Tối nay tiên sinh cũng muốn đến nhà ta dùng bữa. Lúc nào thì Cảnh Tắc qua được?"

Phó Vị cũng đến à?

Đường Thận nói: "Xuất cung xong, đệ về thay quan bào rồi sang phủ Thượng thư."

Thế là Vương Tử Phong đã ăn mừng sinh nhật lần thứ hai mươi bảy tại phủ Thượng thư.

Ngày hôm sau là sinh nhật của Thiên tử, muôn dân hồ hởi chung vui.

Sang tháng mười một, mùa đông Thịnh Kinh lạnh cắt da cắt thịt, lượng khách của lầu Tế Hà tăng đột ngột. May mắn thay, chuỗi cung ứng thịt dê, bò không gặp khó khăn gì cả, đường quan đạo Ninh Châu đã xây xong, di chuyển với tốc độ nhanh thì mỗi lượt đi về chỉ tốn một ngày thôi.

Đầu tháng Chạp, quản lí Lục và Diêu Tam lên miền Bắc. Đến khi quay lại, quản lý Lục mang theo một tảng đá trắng về cho Đường Thận. Thấy tảng đá ấy, mắt Đường Thận sáng ngời, cầm nó lên săm soi hồi lâu, rồi ngẩng đầu hỏi: "Tìm thấy ở đâu thế?"

Quản lí Lục nói: "Ở Ninh Châu không có đâu, phải đến sát vùng Đông Bắc Ninh Châu, tức là ngay giáp biên giới với nước Liêu mới kiếm được đấy. Tiểu đông gia, đây là đá Bạch Vân cậu muốn ư? Tôi thấy nó dễ tìm phết! Dân bản xứ họ không gọi là đá Bạch Vân, mà họ gọi là đá Lăng Tử!"

Chú thích

Mình mới để ý Thịnh Kinh là tên cũ của thành phố Thẩm Dương thuộc tỉnh Liêu Ninh. Nơi đây đã từng là cố đô của triều Hậu Kim và triều Thanh. Cái tên Thịnh Kinh được đặt bởi Nỗ Nhĩ Cáp Xích (về sau được truy tôn là vị vua đầu tiên của triều Thanh) và thành phố này có ý nghĩa rất quan trọng với triều Thanh dù sau nay họ dời đô về Bắc Kinh. Tuy trong thế giới giả tưởng này thì vị trí của Thịnh Kinh chắc chắn không trùng với Thẩm Dương, nhưng sự trùng hợp này cũng khá thú vị.

[1] Mình có chú thích một lần, tác giả dùng cụm từ "khai tiểu táo" – nôm na là tiêu chuẩn đặc biệt, hoặc đối xử một cách ưu ái, ưu đãi. Tiểu táo là chế độ ăn cao cấp nhất trong bối cảnh ăn cơm tập thể, phân biệt với trung táo và đại táo.

Chương 66

Miệng lưỡi đàn ông

Đá Lăng Tử hay còn gọi là đá Bạch Vân, có thành phần chủ yếu là CaMg(CO3)2, là một khoáng thạch phổ biến.

Theo Đường Thận nhớ thì ở thời hiện đại, đá Bạch Vân có trữ lượng lớn và khá dễ tìm, Nhưng ở thời đại này thì rất ít khi thấy nó. Thứ nhất, không ai cần dùng đến khoáng thạch này cả. Thời này, công dụng chủ yếu của khoáng thạch là luyện kim và chế tạo gốm sứ, hoặc chế biến thuốc màu. Đá Bạch Vân không dùng để luyện kim được, cũng không thể làm dụng cụ chế tạo gốm sứ, càng không chế biến thành màu nhuộm.

Không có thị trường và cũng không có nhu cầu.

Thứ hai, tìm được một quặng đá Bạch Vân với độ tinh khiết cao là tương đối khó.

Với kỹ thuật sản xuất của thời đại này, muốn chế tạo thủy tinh từ đá Bạch Vân đòi hỏi độ tinh khiết của nguyên liệu đầu vào rất cao. Kể cả khi độ tinh khiết cao, cũng chưa chắc đã tạo ra được thủy tinh trong suốt hoàn toàn.

Chính thế đó, Đường Thận đang có ý định sản xuất thủy tinh.

Thực ra mà nói, thủy tinh cũng không phải phát minh của thời hiện đại. Từ ba ngàn năm trước Công nguyên, người Ai Cập đã có dụng cụ bằng thủy tinh rồi. Đến thế kỷ thứ V trước Công nguyên, người La Mã đã phát minh ra phương pháp thổi thủy tinh, dùng ống bằng sứ để thổi ra các dụng cụ bằng thủy tinh. Phương pháp này được phát triển và sử dụng suốt hàng nghìn năm sau; thậm chí trong thời hiện đại, vẫn có những thợ làm thủy tinh thủ công sử dụng phương pháp này để chế tác thủy tinh mỹ nghệ.

Mặc dù vậy, trong lịch sử Trung Quốc, nhất là nước Đại Tống nơi Đường Thận đang ở đây, kỹ thuật luyện chế thủy tinh kém xa so với các nước phương Tây.

Đại Tống cũng có thủy tinh, thường được biết với tên gọi ngọc lưu ly. Được chế tạo từ đá Lưu Ly cực kì đắt đỏ, ngọc lưu ly là một sản phẩm tinh xảo đến phi thường, mỗi chiếc chén ngọc lưu ly đều vô giá, chỉ được sản xuất riêng cho hoàng tộc sử dụng. Đá Lưu Ly phần lớn đều có màu sắc rực rỡ, thế nên những vật dụng làm từ ngọc lưu ly trong hoàng cung cũng pha trộn nhiều màu sắc; loại thủy tinh trong suốt vì thế trở nên cực kì hiếm.

Muốn chế tạo thủy tinh thực ra cũng không khó.

Đường Thận ngẫm nghĩ một hồi, hỏi: "Thế đá Bồ Tát và cát kết thì sao?"

Quản lí Lục đáp: "Hai cái đó đều dễ tìm, trong khu vực Bắc Trực Lệ có những mỏ quặng phù hợp."

Đường Thận nói: "Tốt lắm, thế thì quản lí Lục này, hai hôm nữa, chú hãy đánh một xe đá Bạch Vân có độ tinh khiết cao từ Đông Bắc về đây."

"Được!"

Quản lý Lục hoàn toàn không hiểu được ý đồ của Đường Thận và ông quyết định không nên cố hiểu làm gì, miễn ông biết tiểu đông gia không làm điều xấu, chỉ muốn mua mấy xe đá thôi là được. Thiên hạ thích chơi đá quý, Đường Thận thích chơi đá tảng, ấy là thú vui tốt! Mấy tảng đá vớ vẩn này cũng không khiến họ táng gia bại sản.

Không lâu sau, quản lí Lục đã đánh mấy xe đá Bạch Vân, đá Bồ Tát và cát kết về Thịnh Kinh, chuyển thẳng đến xưởng xà phòng Đường thị ở ngoại thành. Tan làm, Đường Thận qua xưởng ngay, toàn tâm toàn ý nghiên cứu phương pháp chế tạo thủy tinh.

Để tạo ra thủy tinh không quá phức tạp, chỉ cần có nguyên liệu nòng cốt gồm đá Bạch Vân, đá Bồ Tát, cát kết, và xút là được.

Lúc Đường Thận chế tạo xà phòng thì đã điều chế được NaOH. Quen tay hay việc, Đường Thận nhanh chóng điều chế NaOH, đựng cẩn thận trong bình sứ. Đá Bồ Tát và cát kết đều giàu silic, sau khi dùng xút ô-xy hóa đá Bạch Vân, rồi cho phản ứng tạo ra silicat là có thể điều chế ra thủy tinh thô.

Đương nhiên, nói bao giờ cũng dễ hơn làm!

Kiếp trước Đường Thận học ngành Khoa học Vật liệu, nhưng phòng thí nghiệm lúc nào cũng đầy ắp nguyên liệu chứ đâu thiếu thốn thế này. Chế tạo thủy tinh từ những khoáng thạch thô sơ chưa qua xử lí là cả một thách thức.

Đường Thận gọi mấy người thợ thủ công đến nhờ họ mài vụn đá thành dạng bột, mất nguyên nửa ngày. Do nguyên vật liệu có độ tinh khiết chưa đủ cao, cậu vừa phải thí nghiệm, vừa phải điều chỉnh tỉ lệ theo độ tinh khiết của vật liệu nữa.

Tháng Chạp, sắp sửa sang năm mới.

Thịnh Kinh đón trận tuyết đầu mùa, tuyết trắng phau phau, phủ tà áo bạc tinh khôi lên khắp kinh thành. Trên đường sá ngập tuyết in chi chít dấu chân người xe qua lại, đông đến nỗi san phẳng cả tuyết. Để chuẩn bị mừng năm mới, nhà nào cũng giăng đèn kết hoa. Mười hai tháng Chạp, nha môn bắt đầu kì nghỉ lễ kéo dài đến tận sau tết Nguyên tiêu.

Đường Thận trở về nhà từ nha môn, phủi bớt hoa tuyết rơi trên vai. Diêu đại nương bưng bát canh gà nóng hôi hổi đến, Đường Thận húp canh xong là ấm sực cả người. Cậu ngó quanh quất rồi hỏi: "Đường Hoàng đâu rồi ạ?"

Diêu đại nương cười bảo: "A Hoàng và Tam nhi đi sắm đồ Tết rồi."

Đường Thận gật đầu.

Chạng vạng tối, Đường Hoàng và Diêu Tam mới về nhà.

Phủ Thám hoa là một tòa dinh thự lớn với kiến trúc ba tiến, hai bên trái phải có thêm một viện hai tiến nữa. Ở tòa phủ rộng lớn như vậy, ban đầu Đường Thận định mua mấy người đầy tớ, thị nữ về lo việc quét tước, nhưng không ngờ Diêu đại nương kiên quyết ngăn cản.

"Chỉ mình tôi là đủ rồi. Hàng ngày tôi ở nhà rỗi rãi không có việc gì, cứ để tôi quét tước dọn dẹp."

Đường Thận không lay chuyển được bà, đành bỏ ý định mua người hầu. Việc nhà trong phủ Thám hoa được Diêu đại nương và thư đồng Phụng Bút hợp tác lo liệu hết.

Thấy Đường Hoàng về, Đường Thận cố ý tỏ ra sừng sộ: "Anh đã dặn hôm nay ở nhà chờ anh về, tối đi ăn ở lầu Tế Hà cơ mà?"

Đường Hoàng: "Anh hẹn tối cơ mà, anh giai thương mến của em, bây giờ đã đến tối đâu?"

Đường Thận ngán ngẩm lắc đầu: "Lượn đi thay quần áo mau." Được một chốc, cậu lại bảo Đường Hoàng: "Mặc cái áo khoác lông em mang từ Cô Tô đến đây ý."

Đường Hoàng lấy làm lạ nhưng cũng gật đầu, ngoan ngoãn đi thay quần áo.

Đông sang, chưa gì trời đã tối sập. Vừa mới qua giờ Thân, mặt trời đã lặn xuống núi nhường chỗ cho màn đêm bao la. Hai huynh muội Đường gia đi dưới bầu trời lấp lánh ánh sao, chẳng mấy chốc đã đến lầu Tế Hà. Thấy tiểu đông gia đến, quản lí Lục lập tức dẫn hai người vào lầu, lên nhã gian trên tầng hai. Vừa vào phòng, Đường Thận liền cảm nhận được hơi ấm ùa tới xua tan giá rét.

Căn phòng bài trí theo phong cách cổ xưa với tông màu trắng thuần khiết, ở chính giữa đặt một lò than bập bùng ánh lửa.

Than trong lò là than chỉ bạc không khói loại tốt nhất, bên cạnh còn đốt thêm đàn hương. Khói trắng lững lờ đem lại cảm giác thanh thỏa khoan khoái.

Trong phòng rất ấm, Đường Thận và Đường Hoàng cởi áo khoác ra treo một góc. Đường Thận mở cửa sổ cho ánh trăng trắng lóa ùa vào phòng. Trăng soi sáng rực cả thành Thịnh Kinh mênh mông tuyết phủ, ánh tuyết quyện trăng xán lạn bội phần.

Đường Hoàng hồi hộp hỏi: "Anh ơi, tối nay mình ăn với ai mà cầu kì thế?"

Đường Thận liếc cô bé: "Em đoán xem?"

Đường Hoàng nghĩ ngợi một hồi: "...Lẽ nào là thầy của anh?"

"Cả sư huynh anh nữa."

Sau gần nửa canh giờ, Phó Vị và Vương Trăn cũng lần lượt đến lầu Tế Hà.

Phó Vị là người đến trước. Vừa vào phòng, ông đã tia ngay bức tranh trên tường. Mắt Phó Hi Như sáng trưng, ông lập tức đến bên bức tranh. Chiêm ngưỡng kĩ càng hồi lâu, ông hỏi Đường Thận: "Tranh của Ngô Đạo Tử đấy à?"

Đường Thận cười: "Chẳng dám giấu tiên sinh, đúng thế ạ, chính là tranh của Họa thánh."

"Tranh đẹp lắm. Tuy không phải tranh truyền đời của Ngô Đạo Tử, nhưng chắc cũng tốn kha khá tiền." Phó Vị ngắm nghía thêm rồi ngợi khen: "Tranh vẽ khéo thật, đúng là khá hơn lão phu tí đỉnh."

Đến khi Vương Trăn vào phòng, chàng cũng để ý thấy bức tranh trên tường. Chàng thích thú lia ánh mắt qua bức tranh, đoạn quay đầu nhìn sang cô gái nhỏ thấp tha thấp thỏm đứng cạnh Đường Thận.

Công bằng mà nói, Đường Thận và Đường Hoàng không giống nhau mấy.

Vóc dáng Đường Thận cao ráo, tuấn tú nho nhã. Đôi mắt cậu sáng ngời và trong veo, đúng mắt cười trời sinh, hễ cười lên là lấp lánh như hai vì tinh tú, cong vút như mảnh trăng lưỡi liềm. Những lúc không cười, Đường Thận mang vẻ khôi ngô tươi trẻ của một chàng thiếu niên thanh cao như dòng suối trong ngần, hiên ngang như trúc mọc trên đá. Mà trên thực tế, năm nay cậu cũng mới mười bảy, vốn đang độ thiếu niên.

So với Đường Thận thì Đường Hoàng càng lớn càng ra dáng anh hào. Nói vậy không phải bảo cô bé giống con trai, mà khác với người anh trai tuấn tú, diện mạo của Đường Hoàng có phần sắc nét hơn, đôi mắt long lanh rất có hồn. Tuy còn sợ sệt khi nhìn Vương Trăn, nhưng sâu trong đáy mắt cô bé là nghị lực không gì lay nổi.

Hẳn là một cô nhóc vừa gan lì vừa rắn rỏi.

Vương Trăn kết luận thế xong, bèn nhẹ nhàng hỏi Đường Thận: "Em gái đệ đấy à?"

Đường Thận giới thiệu: "Vâng, đây là em gái đệ, tên là Hoàng."

Làm quen xong, bốn người ngồi xuống bàn, bắt đầu thưởng thức bát hà cung.

Không biết tự bao giờ, những bông tuyết lơ thơ đã bay đầy bên khung cửa. Giữa trận tuyết mênh mang trùm lên cả kinh thành, được quây quần bên nồi lẩu nóng hôi hổi mới thật đã đời làm sao.

Cơm nước xong, Đường Thận nháy mắt với quản lí Lục. Quản lí Lục ngầm hiểu, bèn gỡ ngay bức tranh của Ngô Đạo Tử trên tường xuống, gói ghém cẩn thận bằng vải trắng cho Đường Thận đem biếu Phó Vị. Vì đây là tranh của Ngô Đạo Tử nên ngay cả Phó Vị cũng rất kinh ngạc: "Cảnh Tắc, bức họa này mà con cũng tặng vi sư sao?"

Đường Thận: "Con sưu tầm nó cũng vì tiên sinh đấy thôi. Con biết tiên sinh say mê hội họa, lại nghe nói ở phủ Cô Tô có người bán bức tranh này nên đã tranh thủ mua luôn. Tiên sinh nhất định không được từ chối đâu. Con đến Thịnh Kinh tính đến nay cũng hơn ba năm rồi. Ở nơi đất khách quê người, nếu không có tiên sinh dạy dỗ chỉ bảo, con ắt chẳng biết xoay sở ra sao và càng không làm nên trò trống gì. Cảm ơn tiên sinh đã dìu dắt con, ơn nghĩa ấy con xin ghi lòng tạc dạ, không bao giờ dám quên!"

Mặt dày cỡ Phó Vị mà cũng phải thẹn thùng, nghĩ thầm: Ta đã dạy mi được chữ nào đâu?

Ông cười ha hả: "Vậy vi sư nhận nhé."

Cơm no rượu say, Đường Hoàng theo quản lí Lục đi kiểm tra tình hình bán buôn của lầu Tế Hà hôm nay. Phó Vị được bức họa quý thì sướng tê cả lòng, đứng dậy cầm tranh về phủ luôn, bảo là muốn thưởng thức cho kĩ. Thế là trong nhã gian chỉ còn lại Đường Thận và Vương Trăn.

Vương Trăn gạt bớt bọt trà trên chén, nhẹ nhàng nhấp một hớp Bích Loa Xuân.

Cửa sổ mở, trong phòng phảng phất hương đàn. Vương Tử Phong tắm trong ánh trăng thanh, áo trắng lịch thiệp, lặng lẽ thưởng trà ngắm trăng. Không biết trăng đêm nay sáng hơn thường lệ, hay là dưới ánh trăng, khí chất của người đàn ông này càng thêm xuất chúng.

Đường Thận ngắm đến nỗi ngây ngẩn cả người. Mất một lúc cậu mới sực tỉnh, bèn lấy từ trong tay áo ra một hộp gấm nhỏ đưa cho Vương Trăn.

Vương Trăn nhận lấy hộp gấm, cười: "Hối lộ đấy à?"

Đường Thận sửng sốt.

Vương Trăn đâu chỉ nói vu vơ.

Phó Vị là Thừa chỉ viện Hàn Lâm nên không trực tiếp quản lí Đường Thận, Đường Thận tặng quà cho ông không có gì đáng chê trách. Nhưng Vương Trăn là Thượng thư bộ Hộ, nếu chàng thực sự muốn nhúng tay thì chẳng khó để tác động đến vị trí Trung Thư xá nhân của Đường Thận. Huống chi, cả hai còn cùng làm việc ở điện Cần Chính.

Đường Thận bất đắc dĩ bảo: "Sư huynh lại trêu đệ rồi. Phải hay không, chẳng lẽ ngài Thượng thư còn không biết?"

Vương Trăn: "Tiểu sư đệ dạo này to gan gớm nhỉ."

"Đệ to gan chỗ nào?"

Vương Trăn nhại giọng Đường Thận: "To gan chỗ nào, chẳng lẽ ngài Trung Thư xá nhân còn không biết hay sao?"

Hai người nhìn nhau cười.

Vương Trăn mở hộp. Khi thấy vật bên trong, dù đã chuẩn bị tinh thần từ trước, Vương Trăn vẫn bị choáng ngợp và ngay ngẩn mất mấy giây.

Thì ra trong hộp gấm be bé tinh xảo kia là một chiếc bình lưu ly cỡ bằng bàn tay.

Chiếc bình lưu ly trong hộp mới lạ lùng làm sao, toàn thân bình trong suốt, hình dạng vuông vắn, thiết kế sắc sảo, góc cạnh. Miệng bình mạ một vòng kim tuyến rất mảnh, thân bình cẩn một đóa hoa mai. Khen chiếc bình này đẹp không gì sánh, khéo đoạt công trời cũng không ngoa. Chí ít sống hai mươi sáu năm trên đời, Vương Trăn chưa bao giờ thấy bình lưu ly trong suốt, ngay cả trong quốc khố của hoàng cung.

Chiếc bình tinh xảo thật, song tay nghề mạ kim tuyến có phần hơi vụng về. May nhờ bình đựng sẵn chất lỏng vàng kim nên người xem sẽ không mấy để ý đến viền kim tuyến.

Vương Trăn đưa lại gần nghe thử: "Đây là Hoàng Kim Lũ đấy ư?"

"Vâng."

Vương Trăn ngắm nghía thêm: "Chiếc bình lưu ly này từ đâu mà có thế?"

Phần lớn sản phẩm ngọc lưu ly đều dành riêng cho hoàng tộc, thế nên những món đồ lưu ly ngoài cung khá hiếm. Trong khi đó, độ tinh xảo của chiếc bình này có thể sánh ngang với cống phẩm.

Đường Thận: "Đệ tự tay làm tặng sư huynh đấy."

Nghe vậy, Vương Trăn chợt ngẩng lên nhìn Đường Thận không chớp mắt.

Đường Thận cười: "Ba năm quen biết sư huynh gặt hái được bao nhiêu điều. Đây là quà Tết năm nay ạ."

Vương Trăn nhìn Đường Thận rất lâu, rồi khoan thai nói: "Tiểu sư đệ có quà cho ta, thế mà ta chẳng chuẩn bị gì cả. Xem ra ta phải đáp lễ rồi nhỉ."

Làm gì có chuyện Đường Thận từ chối quà Vương Trăn tặng, có mà ủng hộ hai tay hai chân ấy chứ.

Sướng mà không biết đường hưởng thì rõ đần!

Nhưng đợi suốt hai hôm, Đường Thận vẫn chẳng thấy bóng dáng quà cáp của Vương Tử Phong đâu cả.

"Không ngờ Vương Tử Phong mà cũng nói xạo. Đúng là cóc tin được miệng lưỡi đàn ông!"

Đường Thận than thở một hồi thì đi thu dọn hành lý để về quê ăn Tết với Đường Hoàng.

Không sai, năm nay Đường Thận quyết định về thăm phủ Cô Tô.

Diêu Tam còn bận việc nên sẽ ở lại Thịnh Kinh. Đường Thận dẫn em gái và thư đồng Phụng Bút lên thuyền, xuôi dòng Đại Vận Hà về phương Nam. Mười ngày sau, cậu về đến phủ Cô Tô.

Ba người vừa chân ướt chân ráo xuống thuyền đã có tiếng chiêng trống vang trời dậy đất, pháo giấy nổ tưng bừng.

Đương hết hồn, Đường Thận thấy Đường cử nhân và tộc trưởng họ Đường vồn vã chạy đến hò reo: "Cảnh Tắc, cháu đã về rồi. Chúng ta chờ cháu suốt cả năm trời đấy!"

Giờ thì biết Đường Thận học ngành gì rồi nha

Chú thích

Chính xác là những người thợ thủ công Syria dưới thời cai trị của Đế quốc La Mã.

Đá Bạch Vân (dolomit), đá bồ tát (Feldspar) và cát kết (sa thạch) là loại vật liệu giúp gia tăng độ bền, độ trơ cho thủy tinh và tăng hiệu suất cho quá trình sản xuất thủy tinh. Nguyên liệu nòng cốt cho việc sản xuất thủy tinh là cát, Na2CO3 và đá vôi.

Ở đoạn này nhắc đến "tiến". Đây là đơn vị nhỏ nhất trong cấu trúc nhà, gồm một khoảnh sân và kiến trúc nhà bao quanh khoảnh sân đó. "Tam tiến" tức là có ba khoảnh sân với nhà bao quanh hình chữ mục 目, "nhị tiến" là gồm hai sân, dạng hình chữ nhật 日.

Chương 67

Bàn việc cưới xin

Rời khỏi bến tàu, Đường cử nhân lập tức cho Đường Thận thay một bộ áo gấm tinh tươm. Cậu đội mũ điêu1, chân xỏ giày ngọc, đeo đai lưng bảo thạch, đến cây quạt trên tay cũng là quạt cổ từ triều trước. Từ khi Đường Thận được hoàng đế khâm điểm làm Thám hoa trên điện Tử Thần, chưa bao giờ cậu ăn mặc long trọng đến vậy!

[1] quan lớn, bậc quyền quý thời xưa đội mũ có đúc con ve vàng hoặc gắn đuôi chồn (điêu)

Mọi người trong cả dòng họ Đường, chẳng cần biết có thân quen với Đường Thận không, đều tặng cậu đủ loại quà cáp.

Khi đoàn người trùng trùng điệp điệp tiến đến từ đường dòng họ thì trên tay Phụng Bút đã kĩu kịt hàng đống hộp gấm.

Đường Thận đi theo Đường cử nhân và tộc trưởng vào từ đường, chú bác trong họ ngồi kín ghế thái sư hai bên. Đầu tiên, Đường cử nhân quỳ xuống, nói: "Tổ tiên họ Đường trên cao, hôm nay cháu Đường Thận thuộc chi thứ hai nhà họ Đường đỗ Thám Hoa làm rạng danh dòng họ. Là bá phụ của cháu, chúng con mừng rỡ vô cùng. Nhà họ Đường chúng ta có bậc kì tài này, ắt sẽ hưng thịnh trăm năm!"

Tộc trưởng đứng trước linh vị tổ tiên, mở cuốn gia phả, đọc tên Đường Thận lên cho tổ tiên trên trời rồi từ tốn đọc to gia quy.

Vào thời đại này, đỗ Tiến sĩ là việc vẻ vang dòng họ. Nếu đỗ Trạng Nguyên thì sau hôm thi đỗ sẽ có mười sáu sai nha rước bảng Trạng Nguyên theo tân thủ khoa về thăm quê, lệ ấy gọi là phụng chỉ về quê. Trạng Nguyên cùng khóa với Đường Thận là Diêu Thiện đã được hưởng nghi lễ ấy, nhưng nhà anh ta ở Thịnh Kinh, chỉ cần tổ chức ngay tại chỗ là được, không phải đợi chờ lâu.

Đường Thận đỗ Thám Hoa năm ngoái, sau đó suốt một năm rưỡi cậu không quay về phủ Cô Tô khiến cả họ Đường chờ mòn mỏi, chỉ thiếu điều dong buồm lên Thịnh Kinh kiếm Đường Thận, hỏi tận nơi xem cậu có định về thăm quê cũ không.

Hôm nay Đường Thận cuối cùng cũng về rồi, người nhà họ Đường sao có thể tiếp đón qua quýt được.

Đường cử nhân bùi ngùi xúc động: "Thận nhi, cả họ Đường chúng ta chỉ có mỗi cháu đỗ Thám Hoa, thậm chí chỉ có mình cháu là Tiến sĩ. Cháu chính là vinh quang của cả dòng họ ta, đại bá phụ chân thành cảm ơn cháu!"

Đường Thận nói: "Đều là máu mủ ruột rà, đại bá phụ chớ nói vậy."

Đường cử nhân xúc động đến nỗi rơm rớm nước mắt, ông muốn nói thêm dăm câu ba điều, nhưng giờ Đường Thận chẳng những là tân khoa Thám hoa lang mà còn là đại quan tứ phẩm, thành ra ông có phần sợ sệt, không dám nhiều lời.

Đến tối, bữa tiệc linh đình ba ngày ba đêm của nhà họ Đường bắt đầu diễn ra.

Dân chúng trong thành Cô Tô đều kéo đến nhà họ Đường chúc tụng. Mọi người không đến chỉ để đánh chen thỏa thuê mà còn để chung vui với không khí đón mừng Thám Hoa lang.

Nhân tài ở Cô Tô nhiều như nấm mọc sau mưa, nơi đây là đất lành, đất thiêng đã sản sinh ra bao đời hiền tài. Tuy nhiên, Cô Tô đông nhân tài đến mấy đi chăng nữa, trong những năm Khai Bình cũng mới có năm Tiến sĩ, trong năm Tiến sĩ lại chỉ có một Bảng Nhãn mà thôi.

Sau bữa tiệc ai đến trước xơi trước kéo dài ba ngày ba đêm, Đường Thận rốt cuộc cũng có thời gian xả hơi. Nhưng vừa hết tiệc thì đến lượt phủ doãn Cô Tô ghé nhà bái phỏng.

Phủ doãn mới của phủ Cô Tô mang họ Cổ, là tiến sĩ năm Khai Bình thứ ba. Bởi trong triều không có chỗ dựa, ông thi đỗ Tiến sĩ hơn hai mươi năm mà vẫn chỉ có thể làm tri huyện, phủ doãn ở những địa phương xa xôi hẻo lánh. Hơn năm mươi tuổi, Cổ phủ doãn mới được Trần tướng công điều về cai quản phủ Cô Tô. Được thế coi như khổ tận cam lai, đến tuổi già được về nơi đất lành an dưỡng.

Cổ phủ doãn là quan tứ phẩm giống Đường Thận, nhưng so ra về vinh dự thì kém xa.

Quan địa phương không bằng quan kinh thành, quan phổ thông càng không bằng quan trong điện Cần Chính.

Việc Cổ phủ doãn đến nhà mình bái phỏng không khiến Đường Thận ngạc nhiên. Cậu lấy lễ đối đãi, mở tiệc tiếp đón Cổ phủ doãn ở phòng khách. Cổ phủ doãn cẩn thận lựa lời chúc mừng Đường Thận, rồi hỏi thăm những chuyện gần đây ở Thịnh Kinh. Rượu quá ba tuần, Cổ phủ doãn nói: "Đường đại nhân, hôm nay ghé thăm phủ ngài, kì thực tôi còn dẫn theo một người."

Đường Thận hỏi: "Ồ, ngài dẫn theo ai vậy?"

Cổ phủ doãn ra lệnh cho sai nha về nha môn, dẫn một ông lão tóc bạc trắng đến Đường phủ. Đường Thận thấy người đó thì sửng sốt, cậu nhìn kĩ một lát rồi thốt lên: "Bác trưởng thôn?"

Trưởng thôn Đường gia đứng khép nép trong phòng khách, có chút thấp thỏm lo âu.

Chuyện Đường Thám hoa trở về phủ Cô Tô đã lan truyền khắp toàn phủ, nhà họ Đường thiết yết mời cả phủ ăn uống thỏa thuê suốt ba ngày ba đêm, người thôn Đường gia cũng nghe đồn. Hay tin Đường Thận trở về, mọi người trong thôn đều động viên trưởng thôn đến phủ thành một chuyến, không phải để lôi kéo quan hệ với Đường Thận hòng trục lợi, mà cốt là để xin chữ của cậu.

Đường Thận nói: "Bác trưởng thôn, năm năm không gặp, suýt thì cháu không nhận ra bác đấy."

Nói rồi, Đường Thận tiến đến đỡ ông ngồi xuống.

Trưởng thôn quýnh lên: "Thế này không được đâu!"

Hai người ngồi ở bàn này, một là Phủ doãn Cô Tô, một là Thám hoa Đường Thận, trưởng thôn làm sao dám ngồi. Không ngờ, khi ông toan đứng dậy, một bàn tay thon thả nhưng rất cương quyết đã đặt nhẹ lên vai ngăn ông lại. Trưởng thôn nhìn sang thì thấy Đường Thận đang mỉm cười với mình.

Rõ ràng là nụ cười rất ôn hòa, nhưng ở Đường Thận có uy thế rõ rệt của người làm quan, vừa nghiêm trang vừa trịnh trọng, khiến người khác chỉ có thể nghe lời.

Đường Thận suýt thì không nhận ra trưởng thôn, trưởng thôn cũng chẳng tài nào nhận ra cậu.

Ai mà tưởng tượng nổi, sau năm năm, cậu bé sống dựa vào nghề bán nước hoa quả ở đầu thôn Đường gia đã lớn khôn, thành đạt như bây giờ!

Trưởng thôn ngồi xuống, Đường Thận sai Phụng Bút lấy thêm bát đũa cho ông.

Hàn huyên một hồi, Đường Thận mới biết được nguyện vọng của trưởng thôn, cậu dở khóc dở cười: "Hồi trước A Hoàng chỉ nói đùa vậy thôi, không ngờ mọi người lại tưởng thật. Thực ra thì không cần đổi thành thôn Đường gia đâu, nhưng nếu đã lỡ rồi thì đành vậy. Bác trưởng thôn, bác muốn cháu viết ba chữ 'Thôn Đường gia' cho thôn mình phải không?"

Trưởng thôn gật đầu.

Đường Thận suy nghĩ một lát, kêu Phụng Bút chuẩn bị giấy mực. Cậu cầm bút lông sói cỡ lớn, múa ba chữ đại tự "Thôn Đường gia" lên giấy Tuyên Thành.

Vừa dứt bút, Cổ phủ doãn đã trầm trồ thốt lên, vỗ tay khen: "Tuyệt vời! Chữ đẹp lắm! Khí thế hiên ngang, sức lực tràn trề như tùng bách, nét bút thoăn thoắt tựa rồng cuộn, quá đỗi phi thường!"

Nịnh nhau rắm thối cũng thành thơm, Đường Thận gãi tai, nghĩ thầm: bản thân việc nịnh đã là nói không thành có rồi, tinh hoa nằm ở chỗ phải biết một vừa hai phải, hiểu không?

Cổ phủ doãn có ý ca tụng Đường Thận, trưởng thôn vốn không biết thư pháp đẹp xấu chỗ nào, nghe Cổ phủ doãn nói thế, chỉ cảm thấy Đường Thận đúng là người trời. Chữ của Thám Hoa lang đương nhiên phải vượt xa sĩ phu thông thường rồi, ông định bụng sau khi đem bức thư pháp này về khắc thành bia đá ở đầu thôn Đường gia xong xuôi, sẽ bí mật giấu làm của báu gia truyền cho con trai thừa kế!

Nghe tin trưởng thôn đến chơi, Đường Hoàng cũng ra khỏi hậu viện ôn chuyện với ông ta.

Loanh quanh bận bịu suốt bốn ngày, đến ngày thứ năm thì Đường Thận mới có thể nghỉ ngơi tử tế.

Thảnh thơi chưa được hai ngày đã lại đến Tết.

Đêm giao thừa, hai anh em đến nhà Đường cử nhân, cùng nhau đón chào năm mới. Đường cử nhân và đại công tử Đường Vân đều hơi rén Đường Thận, không dám nói chuyện với cậu như trước nữa. Chỉ có Đường phu nhân là vẫn đối xử với hai anh em như con cháu trong nhà, gắp cá cho Đường Thận và Đường Hoàng, chúc: "Niên niên hữu ngư nhé*."

(*) "ngư" (cá) và "dư" đồng âm (yú). Câu chúc năm sau giàu có, no đủ hơn năm trước

Họ hàng nội ngoại Đường gia ở phủ Cô Tô rất đông, nhưng Đường Thận không cần đến tận nơi thăm hỏi vì ngay mùng hai, tất cả mọi người đã đổ xô đến nhà họ Đường để chúc Tết rồi.

Đường Thận tiễn hết tốp khách này đến tốp khách khác, xong xuôi mới trở về thư phòng, trải giấy mực ra viết chữ.

Ở Thịnh Kinh, Đường Hoàng đã xin Đường Thận viết cho mình một bảng chữ mẫu. Đường Thận hàng ngày đi làm ở điện Cần Chính, về nhà lại mải mê chế tạo thủy tinh, không dư ra được phút nào để viết bảng chữ cho em gái cả. Hôm nay cậu đã chế tạo thủy tinh thành công, lại được nghỉ Tết về quê, cuối cùng cũng có thời gian rảnh để chuẩn bị một quyển chữ mẫu tươm tất cho em gái, để cô bé luyện viết theo.

Đường Thận nắn nót viết lên trang giấy Tuyên Thành: "Thiên địa huyền hoàng, vũ trụ hồng hoang, nhật nguyệt doanh trắc, thần túc liệt trương..."

Viết xong một bản Thiên tự văn, Đường Thận đăm chiêu nhìn trang giấy, hồi lâu sau cậu mới thì thầm: "Khí thế hiên ngang, sức lực tràn trề như tùng bách, nét bút thoăn thoắt tựa rồng cuộn, quá đỗi phi thường? Mình thấy rõ ràng chỉ giống được phần hình, chứ nào bắt chước được phần ý trong chữ Vương Tử Phong."

Khi Đường Thận mới tập tành viết chữ, cậu học theo chữ Lương tiên sinh, ông dạy cho cậu lề lối căn bản trong thư pháp. Khi chữ của cậu còn chưa định hình, Vương Tử Phong cho cậu bảng chữ mẫu của Chung Thái Sinh để cậu rèn từng nét ngang, nét móc, nét phẩy, nét mác. Khi cậu thực sự học được cách thổi hồn vào con chữ, thì Đường Thận học theo chữ của Vương Tử Phong.

Trên đời không phải không có chuyện trò giỏi hơn thầy, nhưng thiên phú của Đường Thận về thư pháp quả thực thua xa Vương Trăn. Thậm chí toàn cõi Đại Tống chẳng có mấy ai sánh kịp Lang Gia Vương Tử Phong!

Người này cứ như yêu nghiệt ngàn năm có một, cầm kỳ thi họa không gì không tinh thông.

Ngoài tường nhà, hàng xóm bắt đầu đốt pháo. Đường Thận nghe tiếng pháo nổ đì đùng, tự dưng lại thấy nhơ nhớ Vương Trăn.

Lúc này Vương Trăn đang làm gì thế nhỉ?

Niềm mong nhớ cứ trôi hoài theo dòng suy tư, Đường Thận mơ màng một chốc, bỗng giật mình, thầm nghĩ sao đang yên đang lành lại nhớ Vương Tử Phong. Cậu lắc đầu, rũ ngay cái ý nghĩ đáng sợ ấy đi rồi trở về nhà ngủ.

Triều đình cho nghỉ năm mới hơn hai mươi ngày, đến tận mười tám tháng Giêng mới kết thúc.

Đường Thận dự tính mùng mười sẽ quay về Thịnh Kinh.

Mùng sáu, cậu sang nhà Đường cử nhân ăn cơm. Đường phu nhân lén lút giữ cậu lại, sai cô con gái thứ của Đường cử nhân dắt Đường Hoàng sang biệt viện chơi, giữ chân cô bé lâu lâu một chút. Đường Thận không hiểu bà định làm gì, cậu vừa uống Bích Loa Xuân vừa ngẫm nghĩ xem có phải Trân Bảo Các gặp rắc rối, nên Đường phu nhân mới muốn nói chuyện riêng với mình.

Đúng lúc đấy, cậu nghe Đường phu nhân hỏi: "Thận nhi, năm nay cháu mười tám rồi đấy, thế đã... để ý cô gái nào chưa?"

Đường Thận: "..."

Miếng trà nóng tí nữa thì phụt ra khỏi mồm, may mắn là Đường Thận ở Thịnh Kinh ba năm nay, hàng ngày nếu không dính lấy con cáo già đạo mạo Vương Tử Phong thì cũng bầu bạn với con hổ chúa Triệu Phụ, tâm lý của cậu đã được mài giũa vững như thành đồng rồi.

Đường Thận lấy lại bình tĩnh, đáp: "Đại bá mẫu, cháu chưa từng nghĩ đến chuyện này. Tuổi cháu còn nhỏ, chưa cập quan, chuyện cưới xin tạm thời cứ thong thả."

Đường phu nhân cười nói: "Anh họ cả của cháu lúc bằng tuổi cháu đã đính ước, đầu năm nay mới thành thân xong. Cha mẹ cháu mất sớm, trong nhà không có người lớn quyết định những việc đại sự này, đương nhiên bác phải lo liệu cho cháu rồi. Nhưng dù sao cháu nói cũng đúng, cháu có phải cái thằng ngốc Đường Vân kia đâu, làm quan ở kinh thành vất vả, chuyện cưới gả thư thư ra mấy năm cũng được. Nhưng Thận nhi này, chuyện hôn nhân của Đường Hoàng... Cháu có tính toán gì chưa?"

Đường Thận nhíu mày, đặt chén trà xuống, nghiêm túc bảo: "Chuyện này cháu cũng trăn trở thật ạ."

Đường phu nhân nói: "A Hoàng năm nay mười bốn rồi, sang năm là cập kê, nên lập gia đình. Nếu cháu bằng lòng để đại bá mẫu thu xếp, thì cháu cứ yên tâm, bác đã thay A Hoàng xem xét hết những chàng trai tốt nhất hai phủ Cô Tô, Kim Lăng rồi, cũng chấm được mấy cậu đấy. Còn nếu cháu nhắm được nhà nào triển vọng ở Thịnh Kinh cho A Hoàng thì bác lại theo cháu."

Đường Thận: "Chuyện này không cần vội đâu ạ, để cháu hỏi ý Đường Hoàng trước đã."

Đường phu nhân hết sức ngạc nhiên.

Huynh trưởng như cha, chuyện cưới gả của con gái vốn là cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy, với nhà Đường Thận thì cậu nên là người quyết định thay Đường Hoàng.

Nhưng Đường phu nhân lại nghĩ, Đường Thận xưa nay vẫn rất thương yêu em gái mình, thế là bà bèn nói: "Được, tất cả đều theo ý cháu. Mà Thận nhi này, bác đã đánh tiếng với mấy cô nương ở Cô Tô và Kim Lăng rồi đấy. Nếu cháu không bận gì, hai hôm tới, bác cháu mình bàn bạc chút xem sao nhỉ?"

Đường Thận: "..."

Ở trạm dịch Thứ Châu nguy hiểm trùng trùng, Đường đại nhân nhạy bén cảnh giác, tùy cơ ứng biến, ung dung không sợ hãi.

Theo hầu đương kim hoàng thượng tính tình đa nghi, Đường đại nhân múa bút như thần, miệng trơn như bôi mỡ, dễ dàng bay vút lên mây xanh.

Thế mà giờ đây khi "đối đầu" với Đường phu nhân hết lòng quan tâm, muốn thu vén hôn sự cho mình, Đường đại nhân vắt chân lên cổ mà chạy, ngay hôm sau đã bịa ra một lí do để chuồn đi Kim Lăng.

Đường Thận dắt theo thư đồng Phụng Bút, trốn biệt sang phủ Kim Lăng.

Phụng Bút theo Đường Thận đã ba năm, cũng hiểu tâm tư Đường Thận, biết cậu sang Kim Lăng để né tránh chuyện dạm ngõ. Khi đến nơi, Đường Thận ngẫm nghĩ một lát rồi bảo: "Ngươi theo ta đi thăm Cẩm Tú Các một chuyến."

Chủ tớ hai người đến Cẩm Tú Các, chỉ thấy trong cửa hàng đầy ắp người dân đến mua xà phòng. Ngó nghiêng một hồi, Đường Thận phát hiện bức thư pháp treo giữa cửa hàng. Cậu tròn mắt, nhìn trân trối dòng chữ kia, không kìm nổi kinh ngạc.

Phụng Bút thấy dáng vẻ ngỡ ngàng của chủ nhân, bèn đọc dòng chữ ấy lên: "Khói trùm nước lạnh, trăng lồng cát. Công tử, câu thơ này có gì không ổn ư?"

Đường Thận dở khóc dở cười: "Ta chưa bao giờ nghĩ rằng, duyên phận của ta với sư huynh hóa ra lại bắt nguồn từ nơi đây."

"Có phải Đường tiểu đông gia phủ Cô Tô đấy không ạ?"

Đường Thận ngoái đầu lại, liền thấy đại chưởng quỹ Phương của Cẩm Tú Các đang dè dặt quan sát họ. Khi Đường Thận quay ra, đại chưởng quỹ Phương mừng rỡ thi lễ rồi nói: "Quả đúng là ngài, cậu chủ Đường. À không, giờ phải gọi là Đường đại nhân mới đúng chứ. Bốn năm trước từ biệt ở Kim Lăng, không ngờ tiểu nhân có phúc ba đời, vẫn được gặp đại nhân một lần nữa."

Đường Thận nói: "Bốn năm mới tái ngộ, Phương đại chưởng quỹ có khỏe không?"

"Không ngờ ngài vẫn nhớ tên tiểu nhân." Đại chưởng quỹ Phương xúc động quá, "Tôi khỏe, mọi sự đều tốt lành. Xà phòng và Hoàng Kim Lũ ở Cẩm Tú Các đều rất đắt hàng, hẳn là kế toán Lâm cũng nói với ngài rồi. Tôi thấy ban nãy Đường đại nhân ngắm mãi bức thư pháp kia, chắc hẳn ngài đã phát hiện bức thư pháp ấy được viết bởi chính đại công tử Lang Gia Vương thị, Vương Trăn – Vương tướng công. Nghe nói Đường đại nhân là sư huynh đệ với Vương tướng công, ngài đến Kim Lăng để bái phỏng Vương tướng công đúng không ạ?"

Đường Thận sửng sốt: "Tử Phong sư huynh đang ở Kim Lăng à?"

"Đúng thế, năm nay Vương tướng công về ăn Tết ở Kim Lăng đấy ạ!"

Nửa canh giờ sau, Đường Thận tần ngần đứng trước hẻm Ô Y, ngước mắt trông cánh cổng oai nghiêm hùng vĩ của Lang Gia Vương thị.

... Rốt cuộc, vì sao cậu phải đứng ở đây hả trời!?

Đang đọc lại Truyện Kiều đến đoạn Kiều trốn sang nhà Kim Trọng hẹn hò, xong Kim Trọng cũng nhờ Kiều vịnh thơ vào bức tranh Kim Trọng vẽ. Vương Trăn cũng nhờ Đường Thận y chang thế TvT (chương 56)

Chú thích

[1] Về đoạn "mũ điêu" hơi khó giải thích, tại trong raw tác giả dùng từ 雕 (đại bàng/chim điêu) chứ không phải là 蛁 (ve sầu) hay 貂(chồn). Mình khá chắc đây là lỗi đánh máy vì ba từ này đồng âm. Trong lịch sử thì cũng có loại "điêu quan" là mũ cánh ve, nhưng đây là loại mũ dành cho quan võ chứ không phải quan văn. Thế nên mình thiên về giải thích của từ điển Thiều Cửu, rằng giới quyền quý họ hay đính đuôi chồn hoặc con ve vàng vào mũ để thể hiện thân phận, mặc dù mình chưa tra được rằng việc này có giới hạn trong những đối tượng cụ thể nào không.

Gốc dùng từ "kì lân" – cũng là để chỉ người xuất sắc, có tài năng.

Chương 68

Lang Gia Vương thị hẻm Ô Y

Đến thì cũng đã đến rồi, tới cửa mà không vào, chẳng phải tác phong của người quân tử.

Phụng Bút cầm danh thiếp của Đường Thận, gõ cổng chính phủ nhà họ Vương. Người gác cổng nhận danh thiếp thì sửng sốt vô cùng, anh ta trịnh trọng mời chủ tớ Đường Thận vào phủ rồi báo ngay cho quản gia. Chỉ trong chốc lát, người quản gia trong bộ trường bào đã chạy tới. Ông ta hành lễ trước tiên: "Xin hỏi công tử có phải là Đường Thận – Đường công tử phủ Cô Tô không ạ?"

Đường Thận nói: "Đúng là ta."

Quản gia hỏi: "Đại nhân là Trung Thư xá nhân – Đường đại nhân đúng không ạ?"

Đường Thận lại đáp: "Chính thế."

Quản gia vội vàng nói: "Mời ngài qua bên này."

Đường Thận đi theo quản gia, chính thức bước qua ngưỡng cửa Lang Gia Vương thị.

Thời trước, hai nhà Vương Tạ là danh môn thế gia chân chính, vừa có quyền thế lại vừa giàu sang không ai bì kịp. Đến triều đại này, họ Tạ đã suy bại nhiều, không còn huy hoàng như xưa nữa, nhưng họ Vương tính đến nay đã sản sinh ra ba tể tướng, hơn hai mươi tiến sĩ, danh tiếng lẫy lừng khắp muôn nơi. Đến thời Khai Bình hoàng đế, họ Vương có đến hai tướng công trong triều đình, có thể nói đã đạt đến đỉnh cao danh vọng.

Dinh thự khổng lồ của nhà họ Vương phần nhiều là những dãy nhà tường phấn ngói chì1, như một tài tử thi nhân từng dạo chơi nơi đây một lần đã sáng tác thành thơ:

"Suối hồng men vách núi xanh, thang son xen lẫn cây xanh điệp trùng."

[1] Dựa theo câu 粉墙黛瓦 tức "tường trắng như phấn, ngói đen như đại (chì kẻ mày cho phụ nữ, màu xanh đen sẫm)".

Vào trong vườn, chỉ thấy lớp lớp rừng cây chen bóng nước, mênh mông cỏ biếc quyện trúc xanh. Cứ mỗi một cánh cổng bán nguyệt lại khắc một cái tên riêng, nào "Tầm Nguyệt môn", nào "Mộng Ẩn cư". Bên mỗi dòng tên là một dấu lạc khoản, những người đóng lạc khoản đều họ Vương. Từ xưa đến nay, danh nhân xuất thân từ Lang Gia Vương thị đều muốn lưu tên mình ở tòa dinh thự rộng lớn này.

Đường Thận đi được khoảng một nén nhang thì thấy, vào Lang Gia Vương thị,̣ mình chẳng khác nào ếch ngồi đáy giếng. Không nghi ngờ gì nữa, nếu hoàng cung Đại Tống mang vẻ đẹp bao la hùng vĩ của tư tưởng và tâm thế phương Bắc, thì dinh thự họ Vương quận Lang Gia là điển hình của nét kì ảo trong phong cảnh Giang Nam, cảnh chuyển động trên từng bước chân, mỗi vị trí lại mở ra một góc nhìn, một khung hình mới mẻ.

Có thể xây dựng được một tòa dinh thự đồ sộ cỡ này, ngoài hàng trăm năm tích lũy danh vọng thì yếu tố then chốt là phải rất giàu.

Chuyến tham quan này đã khắc sâu nhận thức của Đường Thận về sự giàu có của Vương Trăn.

Lắm tiền sướng thế chứ lị!

E rằng chỉ có một nơi như thế này mới sản sinh ra được người như Vương Tử Phong!

Đường Thận chờ trong phòng khách một xíu, quản gia đã tự tay dâng trà nóng, điểm tâm. Không bao lâu sau thì có một người đàn ông tuấn lãng tầm tuổi trung niên bước vào phòng. Người đàn ông này mặc y phục đen tuyền, đầu đội mũ nhà nho. Bỗng dưng thấy người lạ, Đường Thận ngạc nhiên, nhanh nhẹn đặt chén trà xuống, đứng dậy hành lễ.

Hai người thi lễ với nhau, người đàn ông trung niên mặc áo đen nói: "Hôm nay mùng bảy, nữ quyến trong nhà đi dâng hương lễ phật ở chùa Kê Minh, lũ trẻ nhỏ đi theo cả. Tử Phong là anh cả nên cũng đi cùng, giờ vẫn chưa về. Đường công tử chi bằng hãy dùng bữa trước, lưu lại phủ đợi một chốc?"

Đường Thận không ngờ lúc cậu nổi hứng đến thăm nhà họ Vương cũng là lúc Vương Trăn đi vắng!

Đường Thận nhất thời chẳng biết nên làm sao cho phải, cậu nói với người đàn ông kia: "Hôm nay đến đây đã là quấy quả rồi, vậy tại hạ xin phép cáo từ trước."

Người đàn ông trung niên mặc áo đen cười bảo: "Nếu cậu đi, Tử Phong về mà biết lại oán ta mất. Lang Gia Vương thị chúng ta cũng đâu có đạo lí đãi khách thế này."

Đường Thận nghe thế thì ngạc nhiên lắm. Cậu cho rằng người đàn ông này là bậc chú, bác của Vương Trăn, nhưng nghe giọng điệu thì dường như ông thân với Vương Trăn lắm, không hề bị gò bó bởi khoảng cách thế hệ.

Dường như người ấy hiểu được thắc mắc của của Đường Thận, ông bèn giải thích: "Ta họ Vương, tên một chữ Tuệ thôi, đứng hàng thứ tư trong các anh em, là Tứ thúc của Tử Phong. Tử Phong với Đường công tử là sư huynh đệ, cháu cứ gọi một tiếng Tứ thúc thúc là được rồi."

Đường Thận cứ cảm thấy có gì sai sai ở đây, nhưng nghĩ mãi không ra, bèn nghe lời gọi theo: "Tứ thúc thúc."

Vương Tuệ không hề nổi danh trong giới văn nhân Đại Tống, bởi từ bé ông đã không thích sách vở, chỉ say sưa tìm hiểu kinh thương. Đường Thận không biết, phần lớn các cửa hiệu của dòng họ Vương đều do một tay vị Tứ lão gia này điều hành. Tuy vậy, thu nhập chủ yếu của Lang Gia Vương thị không đến từ thương nghiệp mà đến từ thuế ruộng đất. Là một gia tộc thâm căn cố đế mấy trăm năm, họ Vương sở hữu vô số đất đai ở phủ Kim Lăng, chỉ riêng nguồn thu từ thuế đất đã đủ cho họ sống sung túc, ngồi mát ăn bát vàng thêm mấy trăm năm nữa rồi.

Vương Tuệ kinh doanh cũng chỉ vì đam mê mà thôi.

Là thương nhân, Vương Tuệ rất giỏi giao tế. Ông tiếp đón Đường Thận chu đáo, ân cần; Đường Thận trò chuyện với ông càng lúc càng cởi mở. Vương Tuệ khéo ăn khéo nói, hài hước dí dỏm, khiến Đường Thận vô cùng mến mộ.

Đường Thận tới nhà họ Vương vào buổi chiều, nhưng mãi đến chạng vạng mới thấy một con khoái mã đen bóng phi từ chùa Kê Minh về hẻm Ô Y.

Từ lúc Đường Thận vừa vào phủ, Vương Tuệ đã lẳng lặng sai người lên chùa Kê Minh bắn tin cho Vương Trăn. Tứ thúc nhạy bén hơn người, ông đã biết Đường Thận ghé chơi thì sao có thể không báo cho Vương Trăn? Trong triều đình, Vương Tử Phong có địa vị cao chót vót và được hoàng đế hết mực sủng ái, nhưng cũng vì chàng được lòng vua quá, lại có Hữu tướng Vương Thuyên nắm quyền lớn trong triều, thành ra Vương Trăn không kết bè kết đảng với bất cứ ai.

Đảng phái của Vương Trăn là Vương đảng, phe bảo hoàng trung lập.

Vì lòng trung thành của chàng đặt trọn ở hoàng đế nên Triệu Phụ cực kì coi trọng Vương Trăn. Trên triều Vương Trăn chẳng thiếu bè bạn, song người thân thiết và gần gũi với chàng đến mức độ này chỉ có mình Đường Cảnh Tắc mà thôi.

Ở Lang Gia Vương thị, chẳng những gác cổng có thể nhận ra Đường Thận mà ngay cả quản gia cũng có thể đọc vanh vách từng mẩu tin về cậu. Chung quy cũng bởi Đường Thận là hảo hữu hiếm hoi của Vương Tử Phong, nên phủ họ Vương mới tìm hiểu cậu kĩ càng như thế.

Sắc trời tối dần, Đường Thận tự thấy có lẽ không đợi được Vương Trăn, liền muốn đứng dậy ra về.

Vương Tuệ đứng lên khuyên: "Cảnh Tắc, hay là đợi thêm chút nữa?"

Đường Thận định đáp lời, chợt có gã đầy tớ chạy vào bẩm báo: "Đại công tử đã về."

Vương Tuệ nhíu mày: "Đoàn xe đông thế, làm sao nó về nhanh vậy được?"

Gã đầy tớ đáp: "Đại công tử cưỡi khoái mã về trước một mình, còn các phu nhân, tiểu thư đi sau, cỡ nửa canh giờ nữa may ra mới về ạ."

Đến nước này thì Đường Thận hết đường cáo từ.

Cậu theo Vương Tuệ ra khỏi phòng khách, lên sảnh lớn ở nhà trước. Mới đi được nửa đường, bỗng có tiếng ngựa hí vang trời, thu hút sự chú ý của tất cả mọi người. Tim Đường Thận reo lên, cậu rẽ vào hành lang hoa. Vừa ngước mắt, cậu đã thấy Vương Trăn trong bộ áo đại sưởng màu đen, đầu đội ngọc quan, tay ghì cương ngựa, hiên ngang cưỡi trên lưng con tuấn mã. Chàng quay đầu, tình cờ bắt gặp Đường Thận cũng đang nhìn mình.

Cả hai cùng đứng từ xa mà trông về nhau, cùng ngây ngẩn trong ánh mắt.

Đường Thận hồi thần, bèn bước tới gần; Vương Trăn cũng xuống khỏi lưng ngựa. Chàng đứng đó, bình thản ngắm nghía Đường Thận một chốc, rồi mới cười dịu dàng: "Tiểu sư đệ lại gầy đi đấy."

Đường Thận sửng sốt.

Gầy đâu? Mấy hôm nay về Cô Tô cậu ăn khỏe uống khỏe lắm mà, tự cậu còn thấy mập ra cơ mà!

Tiếp theo, Vương Trăn sai bảo người hầu: "Đường công tử thích ăn tôm, nấu luôn tôm mới gửi từ ngoài biển về hôm qua ấy, còn tôm sông thì làm món tôm đuôi phượng Kim Lăng3."

[3] Đuôi tôm để nguyên, giống như đuôi phượng. Xem ảnh cuối bài

Người hầu cúi đầu vâng lệnh.

Sai sử xong, Vương Trăn lại ngắm Đường Thận, nghiêm túc nói: "Phải bồi bổ thêm tí chút."

Đường Thận: "..."

Bồi bổ tức là phải ở lại xơi cơm rồi.

Vương Tuệ đứng bên quan sát, thái độ Vương Trăn khiến ông lén phì cười. Nghe tiếng cười trộm, Vương Trăn quay ra hành lễ với chú mình ngay: "Tứ thúc thúc." Giọng nói ôn hòa du dương của chàng khiến Vương Tuệ phải "khụ" một tiếng.

Vương Tuệ nói: "Tôm biển tôm sông nhà ta đủ cả, ta mà biết Cảnh Tắc thích ăn tôm thì đã dặn chuẩn bị từ lâu rồi."

Vương Trăn: "Cảnh Tắc?"

Vương Tuệ cười bất đắc dĩ: "Nếu Tử Phong đã về thì ta đi lo công chuyện trước nhé. Hai đứa cứ hàn huyên với nhau."

Vương Tuệ đi rồi, Vương Trăn dẫn Đường Thận về chỗ ở của mình.

Tòa viện của Vương Trăn nằm ở tận cùng góc Tây dinh thự họ Vương, ở hướng này có một rừng trúc xanh rì thanh tĩnh. Vào thời điểm giao mùa giữa xuân và hạ, rừng trúc đem lại cho ta cảm giác phóng khoáng thoát tục, thanh thản tươi vui. Nhưng bây giờ là giữa mùa đông rét mướt, Đường Thận bất giác lạnh run. Cậu nhìn Vương Trăn, nhận xét: "Chẳng mấy khi thấy sư huynh mặc màu đen."

Vương Trăn nghĩ một chốc mới hỏi: "Tiểu sư đệ không biết nguồn gốc của cái tên 'Hẻm Ô Y' à?"

Đường Thận: "Ủa, có sự tích gì ư?"

Vương Trăn: "Hẻm Ô Y rất dài, nhưng vì có hai nhà Vương, Tạ ở đây nên nó mới nổi tiếng đến vậy." Người khác nói câu này còn bị cho là bốc phét, nhưng nghe Vương Trăn nói, Đường Thận coi đó là lẽ dĩ̃ nhiên. Hôm nay cậu tham quan Lang Gia Vương thị xong cũng không nhịn được phải khen, dòng họ Vương đúng là một gia tộc hùng mạnh. Nhờ có họ, chẳng riêng gì hẻm Ô Y trở nên tiếng tăm, mà cả phủ Kim Lăng cũng đi vào huyền thoại.

"Hẻm này hồi xưa có tên khác. Phải đến triều trước, khi các công tử quyền quý ở đây chuộng mặc ô y, tức là áo đen đấy, thì nơi đây mới đổi tên. Công tử hai nhà Vương, Tạ đều mặc áo đen đi lại trong hẻm, thế là sinh ra cái tên hẻm Ô Y." Dừng một chút, Vương Trăn nói: "Tiểu sư đệ có muốn thay xiêm áo không?"

Đường Thận lấy làm lạ: "Đệ không phải người nhà họ Vương mà cũng phải thay áo đen sao?"

Vương Trăn thủng thẳng đáp: "Thế thì thôi vậy."

Đường Thận cảm thấy hết sức khó hiểu.

Nhưng đến tối, cậu mới ngộ ra tại sao Vương Tử Phong lại bảo mình làm thế.

Cả nhà toàn người mặc áo đen, mỗi mình cậu mặc áo trắng, đúng là như chim trĩ lạc ổ phượng hoàng, một mình một phách!

Chùa Kê Minh nằm ở phía Đông Bắc phủ Kim Lăng; đêm xuống, cả nhà họ Vương đi lễ Phật ở chùa đã về đến nhà. Phong tục người dân nước Đại Tống khá cởi mở, nam nữ có thể ăn chung trong một phòng. Nhưng dù sao Đường Thận cũng là nam giới đến tuổi lập gia đình, vì thế nên lúc ăn cơm sẽ có bình phong ngăn cách giữa hai bàn một bên là nam giới, bên kia là các tiểu thư, phu nhân.

Vương Trăn chẳng quan trọng chuyện "ăn không nói, ngủ không nói", nhưng những người khác trong nhà họ Vương thì rất để tâm, nên trên bàn ăn tuyệt nhiên không ai nói chuyện cả.

Sau khi các tiểu thư và phu nhân dùng bữa xong, tấm bình phong cũng được giỡ ra, mọi người bấy giờ mới uống trà, tán gẫu với nhau.

Cha của Vương Trăn mất sớm, nhị thúc Vương Thuyên ở Thịnh Kinh, năm nay không về nhà ăn Tết. Nam giới trong đại sảng chỉ có ba người là bậc cha chú, sau đó là đến Vương Trăn, nhị công tử Vương Tự, và giờ có thêm Đường Thận.

Vương Tuệ hỏi: "Uống trà này có quen không hả Cảnh Tắc?"

Đường Thận đặt chén trà xuống: "Trà ngon lắm ạ, cảm ơn Tứ thúc thúc."

Tam lão gia nghe thế thì ngạc nhiên lắm: "Gọi Tứ thúc thúc luôn cơ đấy?" Ông cười hì hì: "Bình thường cũng hay có người đến chơi nhà, nhưng chả mấy khi gặp bạn của Tử Phong. Cảnh Tắc, nghe nói năm nay cháu mới mười tám nhỉ, đúng là tuổi trẻ tài cao."

"Tam thúc thúc quá khen."

Họ Vương không phải ai cũng làm quan, trong số những người có chức sắc ở đây, chỉ có Vương Trăn giữ chức quan cao hơn Đường Thận.

Nhà họ Vương danh giá bao đời nhưng không nghề kiêu căng hợm hĩnh. Mọi người trò chuyện với Đường Thận được một lúc, Đường Thận bỗng nghe ngoài phòng có tiếng ríu ra ríu rít. Cậu ngạc nhiên ngó ra, lắng tai nghe, chợt có tiếng trẻ con lanh lảnh: "Mi nghĩ là anh này hở?"

"Dám thế, dám thế lắm."

"Bao nhiêu năm rồi mà chỉ có mỗi anh này đến đây, cho tui xem với."

Tiếng nói chuyện trong phòng im bặt, Vương Trăn nhấp trà, nét mặt chàng khuất sau làn khói trà vấn vít. Vương Tuệ lúng túng, tằng hắng một tiếng rồi hô: "Đứa nào ngoài đấy, vào đây cả đi!"

"Chết chửa, lộ rồi!"

Giây lát sau, bốn năm đứa trẻ con lũn cũn vào phòng. Trong đám ấy lớn nhất mới mười tuổi, nhỏ thì chỉ cỡ sáu bảy tuổi. Cả lũ đều mặc áo quần đen, đội ngọc quan.

Nhị công tử Vương Tự thấy mấy đứa trẻ thì xây xẩm mặt mày, giải thích với Đường Thận: "Để Đường công tử chê cười rồi, lũ nhóc này là em họ ta. Có lẽ chúng thấy trong nhà có khách nên hiếu kỳ, chạy đến đây ngó nghiêng chút thôi." Nói rồi, cậu ta nơm nớp liếc ông anh họ cả.

Vương Trăn vẫn bình thản uống trà như không.

Lũ trẻ con thấy không bị mắng thì cũng lớn gan hơn. Đứa bé nhất trong hội mở to đôi mắt đen láy hột nhãn, ngó Đường Thận không chớp mắt. Đường Thận cũng không hiểu sao mình lại được chú ý đến thế. Lúc này, Vương Trăn mới nhẹ nhàng đặt chung trà xuống, bảo: "Ban ngày vừa lên chùa Kê Minh, về nhà không chịu nghỉ ngơi, chắc là không mệt nhỉ. Đã thế thì tất cả về phòng, làm thêm một lần bài tập tiên sinh giao."

Lũ trẻ há hốc mồm. Thế thì có mà chết à? Tụi nó trộm liếc Vương Trăn, nhưng trông cái vẻ hổ dữ mỉm cười4 của anh họ cả thì chỉ biết ngậm bồ hòn làm ngọt, khổ lắm mà chẳng thể nói ra. Bầy trẻ ủ ê cụp đuôi rời khỏi phòng.

[4] Thành ngữ chỉ người ngoài mặt thì lành nhưng trong bụng ghê gớm. Giống như miệng phật tâm xà, hay bụng chua miệng ngọt.

Vương Trăn thở dài: "Em thơ bướng bỉnh, khiến tiểu sư đệ chê cười."

Đường Thận: "Đâu có, Tử Phong sư huynh cả nghĩ rồi."

Nhà họ Vương nghe hai anh em nói chuyện kiểu ấy lại nhấm nháy với nhau. Nhị công tử Vương Tự cũng tò mò săm soi Đường Thận, như thể cậu ta muốn soi xem rốt cuộc nhân vật này là người thế nào mới có thể sống chung hài hòa với Vương Tử Phong mà không bị ông anh họ mình ăn tươi nuốt sống.

Uống trà xong, Vương Trăn giữ Đường Thận qua đêm ở phủ, Đường Thận không từ chối.

Rời khỏi đại sảnh, Đường Thận lơ đãng liếc nhìn về phía nhà sau. Trong nhà có giọng nữ thì thầm: "Úi, hình như cậu ấy phát hiện ra chúng ta rồi."

Đường Thận: "..."

Sao người nhà họ Vương kì quặc thế nhỉ?

Suy nghĩ của nhà giàu đúng là khó hiểu!

Đường Thận đến nơi ở được chuẩn bị riêng cho mình, rửa sơ sơ mặt mũi rồi đi ngủ. Nữ giới và những người khác ở tách riêng phía hậu viện, còn Đường Thận, Vương Trăn và những công tử chưa lập gia đình trong họ Vương thì ở tiền viện.

Không thể phủ nhận, khu nhà dành cho khách trong dinh thự họ Vương vô cùng xinh xắn, có hồ nước với đá trang trí, chỗ nào trông cũng thật mê li. Suốt cả ngày, Đường Thận trốn từ Cô Tô đến Kim Lăng, giờ đã mệt rã rời. Vừa đặt lưng là cậu ngủ thiếp đi.

Đến nửa đêm, Đường Thận giật mình tỉnh giấc, trán đẫm mồ hôi.

Ngoài phòng có những tiếng động mơ hồ, nghe thật lạ lùng, thật yếu ớt, len lỏi vào tâm can.

Đường Thận đẩy cửa sổ. Đêm sâu hun hút, tuyết lông ngỗng trắng xóa bầu trời. Tuyết rơi xuống hồ nước trong sân, lặng lẽ tan chảy.

Trái tim cậu thắt lại, kí ức ba năm trước bỗng dội về. Vào một ngày đông tuyết lớn giống thế này, cậu cắm đầu chạy dưới mưa tuyết, điên cuồng đuổi theo Lương Tụng, nhưng Lương Tụng quay lưng về phía cậu, lững thững bước vào giữa trận tuyết mịt mùng... để rồi tan biến, chỉ lưu lại cho cậu một bóng lưng quả quyết, không bao giờ ngoái đầu.

Đường Thận ngơ ngác đứng trước cửa sổ, ánh mắt bần thần xa xôi. Mãi sau khi cậu đưa tay lên chùi má, mới phát hiện mặt mình nhòe nhoẹt nước, lạnh căm.

Mặc quần áo vào, Đường Thận ra khỏi phòng, xòe ô bước vào trong sân.

Dưới trận mưa tuyết trắng trời, Đường Thận giương ô, thả bộ một vòng quanh hồ nước. Cậu rẽ vào một rừng mai, đi mải miết rồi lạc đường lúc nào không hay. Đường Thận nghĩ thầm, gay go rồi, giờ đã quá nửa đêm, cậu vừa không biết đường ra, vừa không thể chờ sáng hôm sau mọi người thức dậy tìm mình được, thế thì chết rét mất.

Biết thế này thì đã chẳng đi dạo lung tung.

Cậu lang thang thêm một lúc, chợt nghe vang tiếng thở dài sau lưng: "Không lạnh à?"

Đường Thận kinh ngạc ngoái lại, chưa kịp thấy rõ mặt Vương Tử Phong thì một tấm áo khoác lông dày sụ đã choàng lên vai cậu. Nhiệt độ cơ thể ấm áp và mùi hương thân thuộc xua tan đi giá lạnh trên người, Đường Thận ngẩn ngơ, ngẩng lên nhìn Vương Trăn, sẽ sàng gọi một tiếng: "Sư huynh..." Giọng nói pha lẫn chút rụt rè vì biết mình mới mắc lỗi.

"Đệ cũng biết sai rồi hử?"

Đường Thận dụi mũi. Hơn nửa đêm không ngủ lại đi lung tung trong nhà người ta, đúng là chẳng có phép tắc gì cả.

"Sao sư huynh cũng ở đây?"

"Sao đệ lại ở đây?"

Đường Thận: "Đệ không ngủ được.

Vương Trăn: "Ừ, ta cũng mất ngủ."

Đường Thận: "..."

Vương Tử Phong mà nói thì một dấu chấm câu cũng không thể tin!

Vương Trăn: "Chỗ này gần phòng ta, tuyết lớn lắm, về đó tránh tuyết đã."

Đường Thận giờ mới phát hiện sau khi nhường áo cho mình, tay Vương Trăn bị lạnh đỏ cả lên. Môi cậu mấp máy, nhưng không biết nói sao. Trong đêm trăng tuyết trắng, Vương Tử Phong mặc áo đen, vẻ anh tuấn pha chút cao ngạo ung dung. Bỗng Đường Thận nhận ra chàng đang nhìn mình chờ đợi. Vương Trăn hỏi rất nhẹ nhàng: "Tiểu sư đệ?"

"Vâng."

Sư huynh có vẻ nhạy cảm với hai chữ "Cảnh Tắc". Lần trước thì lườm Tô khẩu nghiệp, hôm nay thì dằn mặt cả chú Tư. Cháu dâu của các chú ngoan đáo để!

Chú thích

Mình đã tra cứu lại thì dòng họ Lang Gia Vương thị có thật, xuất thân từ quận Lang Gia (còn có phiên âm là Lang Tà) tỉnh Sơn Đông. Dòng họ này hưng thịnh nhất vào thời Tấn rồi sau đó suy bại nên trong truyện chỉ là hư cấu thôi.

Ánh nắng chiếu vào suối tạo nên suối hồng (đỏ). Hồng tuyền, thúy bích (núi xanh) là những cảnh thiên nhiên đẹp hùng vĩ. Mình từng giới thiệu kiến trúc vườn trong văn hóa Á Đông chuộng dùng hồ nước, thác nước, giả sơn để mô phỏng cảnh thiên nhiên. Nên có thể hiểu cảnh vườn trong nhà họ Vương cũng nguy nga tráng lệ như thiên nhiên thực thụ. Cầu thang đỏ (đan thê) còn ám chỉ con đường làm quan, hình ảnh cây xanh mình chưa hiểu rõ lắm, nhưng có thể câu thơ này mô tả dòng dõi khoa bảng, quan lại kéo dài.

[3] Tôm sông nấu với đậu xanh, trứng, chiên với mỡ vịt. Món nổi tiếng của Kim Lăng.

Ảnh: Baidu

Gốc: Đứa câm ăn hoàng liên. Tương đương với "ngậm bồ hòn làm ngọt" nhưng mình đổi qua ngậm bồ hòn cho khớp câu.

Chương 69

Đồng khâm cộng chẩm

Từ rừng mai đi dọc theo hồ nước, khoảng hơn mười bước nữa thì đường lối thoáng đãng, hai người đã vào đến khoảnh sân nơi Vương Trăn ở.

Vương Trăn ngụ ở góc Tây yên ắng nhất trong dinh thự họ Vương, nơi có rừng trúc êm ả. Từ rừng trúc, phóng mắt ra bên ngoài có thể thấy bờ Tần Hoài tĩnh mịch mờ khói sương. Tuyết rơi càng lúc càng dày trong lúc họ đi, vào đến sân nhà Vương Trăn thì tuyết đã phủ trắng bờ vai hai sư huynh đệ.

Chẳng ô nào che nổi khi tuyết tạt liên miên từ bốn phía, tuyết bám đầy trên mái tóc Đường Thận và cả mái tóc Vương Trăn.

Hai chàng trai trẻ "tóc bạc phơ" khép ô chui vào phòng, hơi ấm lan tỏa trong khoảnh khắc. Chậu than hồng đang cháy giữa nhà át đi khí lạnh trên người Đường Thận. Đêm khuya rồi, nước trà trong ấm nguội ngắt. Vương Trăn đặt ấm lên tấm lưới sắt mỏng kê trên chậu than để hâm nóng lại.

"Trễ quá, người hầu ngủ hết rồi. Tiểu sư đệ, mình đun chút trà nóng uống cho ấm người nhé."

Đường Thận nghĩ thầm: Người hầu đã ngủ hết, sao huynh còn thức làm chi?

Nhưng cậu không hỏi ra miệng mà ngoan ngoãn nhận chén trà nóng Vương Trăn đưa cho. Cậu hớp ngụm trà, cả người khoan khoái tức thì.

Đường Thận ngồi trên đệm mềm, tay ôm cái chén, dè dặt ngó nghiêng căn phòng.

Đây là buồng ngủ của Vương Trăn.

Hồi chiều khi Đường Thận vào nhà này, cậu chỉ ngồi chơi ở thư phòng Vương Trăn chứ không ghé buồng ngủ. Vào đây rồi, Đường Thận mới thấy phòng ngủ của Vương Trăn bày biện rất khiêm tốn, chỉ kê một chiếc giường la hán và thêm cái giá đặt mấy chậu hoa dại không rõ tên. Trên tường treo ba bức họa vẽ tuế hàn tam hữu1 – tức tùng, trúc, mai, lạc khoản đề Vương Tử Phong.

[1] Ba người bạn trong giá rét. Đây là một mô típ trong tranh cổ, ba loài cây đều đại diện cho người quân tử, và chúng xanh tươi ngay cả giữa mùa đông

Căn phòng ngủ này được bài trí hết sức nhã nhặn và mộc mạc. Đường Thận không biết phòng ngủ của Vương Trăn ở phủ Thượng thư trên Thịnh Kinh có đơn giản vậy không, nhưng cậu nghĩ rằng: Vương Tử Phong tâm tư sâu kín, xưa nay luôn khó đoán. Nếu thư phòng của chàng đã là chỗ xa xỉ và cao nhã, trưng bày rất nhiều đồ cổ, tranh, thư pháp, thì rất có thể chàng thích buồng ngủ của mình giản tiện hơn một chút.

Đường Thận trộm nhìn mấy lần, Vương Trăn hỏi: "Sao hôm nay lại đến Kim Lăng thế?"

Đường Thận trầm ngâm giây lát, không muốn nói ra chuyện mình trốn dạm ngõ mới tới đây. Cậu bảo: "Sư huynh cũng biết rồi đấy, đệ về Cô Tô mừng năm mới, vừa hay có chút thì giờ rảnh rỗi nên nảy ra ý định ghé Kim Lăng chơi. Vì có mối buôn bán với họ Trịnh ở Kim Lăng, đệ đã đến Cẩm Tú Các một chuyến, rồi tình cờ lại thấy bức thư pháp lưu niệm của sư huynh trong cửa hàng. Khói trùm nước lạnh, trăng lồng cát... Đệ rất ngạc nhiên khi biết đích thân sư huynh đã viết lại câu thơ ấy."

Nói đến chuyện này, Đường Thận xúc động lắm. Cậu không ngờ mình và Vương Trăn còn có mối duyên phận như thế.

Thế mà Vương Trăn lại bảo: "Thực ra huynh biết đệ là người sáng tác câu thơ ấy từ lâu rồi."

Đường Thận sửng sốt.

Vương Trăn: "Chắc đệ đã quên, hôm tiên sinh giới thiệu ta với đệ, ta đã hỏi đệ rằng câu thơ nối tiếp câu 'khói trùm nước lạnh, trăng lồng cát' là câu gì."

Đường Thận bừng tỉnh: "Đệ chỉ nghĩ sư huynh là người Kim Lăng, đi ngang qua Cẩm Tú Các nên biết câu thơ này chứ chẳng ngờ có duyên do như thế!"

Vương Trăn vén tay áo nhấc cái ấm lên: "Chén trà."

Đường Thận chẳng chần chừ, ngoan ngoãn chìa chén ra để Vương Trăn rót cho mình.

Đường Thận: "Sư huynh có hay về Kim Lăng ăn Tết không? Đệ nhớ năm ngoái huynh không về."

Vương Trăn khoan thai uống trà: "Ta ít khi về, thỉnh thoảng được một hai lần."

"Bao giờ huynh trở lại Thịnh Kinh?"

"Ngày mai."

Đường Thận ngỡ ngàng: "Nhanh thế cơ ạ?"

Vương Trăn mỉm cười: "Đệ sang muộn một ngày thôi là ta không còn ở Kim Lăng rồi. Bộ Hộ nhiều việc lắm, tuy nói các quan được nghỉ đến mười bảy tháng Giêng nhưng ta vẫn phải về sớm."

"Thế thì khéo thật."

Đường Thận đẩy cửa sổ ra nhìn trời tuyết bên ngoài. Tuyết càng lúc càng dày, trút xuống lả tả như lông ngỗng. Vạn vật trắng xóa trong tầm mắt. Cậu không có cách nào quay về, chỉ đành trở vào nhà tiếp tục chờ đợi. Đường Thận thở dài: "Nếu biết trước, đệ đã không ra ngoài đi dạo lung tung giữa đêm khuya, may mà sư huynh còn bắt gặp."

Vương Trăn bỗng bảo: "Tâm trạng tiểu sư đệ hôm nay có vẻ tốt nhỉ?"

Đường Thận ngẩng đầu.

Vương Trăn mỉm cười: "Hôm nay đệ nói chuyện nhiều hơn ngày thường."

Đường Thận nhíu mày, suy ngẫm kĩ càng lời Vương Trăn nói, cũng nhận ra đêm nay mình quả thật hơi khác.

Tối nay cậu gặp ác mộng, tỉnh dậy không nhớ nổi mình đã mơ gì mà tưởng như đứt từng khúc ruột. Ra mở cửa sổ lại thấy ngoài trời tuyết lớn, khiến cậu nhớ lại cách đây ba năm, Lương Tụng cũng ra đi trong một cơn mưa tuyết mịt mùng giống vậy. Cõi lòng trống trải đơn côi, không tài nào vỗ giấc, Đường Thận đành ra vườn tản bộ cho khuây khỏa. Sau đó, cậu tình cờ gặp Vương Trăn.

Ban đầu cậu cảm thấy lạc lõng, bức bối không để đâu cho hết, nhưng sau khi cùng Vương Trăn đến gian nhà này, uống trà nói chuyện một hồi, nỗi bi thương trong lòng đã dần dần nguôi ngoai.

Có lẽ nào Vương Trăn biết cậu không vui, nên mới cố ý dẫn cậu về đây để gỡ mối tơ vò?

Đường Thận bối rối, ánh mắt nhìn Vương Trăn cũng thay đổi theo, cậu chân thành nói: "Đạ tạ sư huynh."

Vương Trăn: "...?"

Lần đầu tiên bắt trượt tâm tình sư đệ, Vương Trăn có chút tư lự. Chàng bảo: "Ta không biết đệ hiểu lầm chỗ nào, nhưng Cảnh Tắc này, chắc là phải lâu nữa tuyết mới tạnh đấy."

Hai người tới bên cửa sổ, đẩy cánh cửa ra quan sát, quả nhiên, ngoài sân tuyết sắp dày quá mắt cá chân. Nếu muốn về, Đường Thận dĩ nhiên không đi một mình được mà phải có Vương Trăn dẫn đường cho cậu. Nhưng tuyết lớn thế, cậu đội tuyết đã đành, sao nỡ phiền Vương Trăn tự mình đưa về đây?

Vương Trăn khuyên: "Chi bằng đệ hãy ở lại đây nghỉ ngơi một đêm."

Cũng chẳng còn cách nào khác, Đường Thận đành nói: "Vậy xin quấy rầy sư huynh."

Vương Trăn nghe thế, ánh mắt cũng trở nên sâu xa, nhưng chàng không nói gì cả.

Đã đến giờ Tý, hai người cởi quần áo, chỉ chừa lại lần áo đơn mỏng manh để lên giường đi ngủ. Căn phòng vô cùng ấm áp, đắp chăn lên không quá nóng. Nếu như đang ở nhà, Diêu đại nương sẽ nhét một túi nước nóng vào ổ chăn trước khi cậu đi ngủ. Tuy ở đây không có túi nước nóng, nhưng phòng đủ ấm nên cũng không hề gì. Chỉ một lát sau Đường Thận đã thả lỏng người.

Giường rất rộng, đủ cho hai người đàn ông cùng nằm mà không chật chội hoặc đụng chạm đến nhau.

Đường Thận nhắm mắt lại. Một khắc sau, cậu vẫn không thấy buồn ngủ chút nào. Nghe tiếng hít thở đều đặn của Vương Trăn, Đường Thận biết chàng đã say giấc nồng, song về phần mình, cậu không tài nào đi vào giấc ngủ. Trằn trọc chốc lát, một giọng nói êm ái cất lên: "Tiểu sư đệ không ngủ được à?"

Đường Thận kinh ngạc: "Sư huynh còn thức đấy ư?"

"Ừ."

"Đệ cứ tưởng huynh đang ngủ."

Nếu đã mất ngủ thì nói chuyện thôi.

Đường Thận kể lại những chuyện trái khoáy mình gặp phải khi soạn tấu chương ở điện Cần Chính cho Triệu Phụ. Theo lý thuyết thì quan viên không được tiết lộ nội dung tấu chương, nhưng hai vị quan trong phòng này chẳng những biết nhau như lòng bàn tay, mà còn là hai quan lớn được nhà vua hết lòng tin cậy.

Đường Thận lựa một số chuyện không ảnh hưởng đến toàn cục để nói, tỷ như chuyện hai tháng trước, vào dịp sinh nhật Triệu Phụ, có một quan địa phương viết tấu chương suốt ba tháng trời, hi vọng được đến Thịnh Kinh đúng vào dịp mừng sinh nhật Triệu Phụ, Triệu Phụ chẳng ngại phiền, phê sổ mắng xéo kẻ ấy, bảo y kiếm chỗ nào mát mẻ mà chờ. Viên quan này cứ như thể không hiểu ý, vẫn viết tấu sớ đều đặn dâng lên để tỏ lòng trung.

Vương Trăn hỏi: "Ở điện Cần Chính có thân với đồng liêu nào không?"

Đường Thận nghĩ ngợi một lát, nói: "Người đệ thân nhất chẳng phải sư huynh sao?"

Cảnh giới tối cao của nịnh nọt ấy là nịnh mà như không nịnh, nhịp nhàng êm ru.

Riêng ngón nghề này thì Đường đại nhân quá am hiểu rồi, Cổ phủ doãn phủ Cô Tô mà đọ tài thì chỉ còn nước phục sát đất.

Vương Trăn im im một hồi, bất chợt cúi đầu bật cười.

Đường Thận: "???" Nịnh lố rồi sao? Có lí nào lại như vậy?

Bỗng, Đường Thận bất cẩn chạm chân vào một thứ gì đó nong nóng. Vương Trăn ngừng cười, Đường Thận cũng ngây ngẩn. Theo bản năng, cậu định rút chân lại, cậu biết mình chạm phải chân Vương Trăn. Nhưng Vương Trăn lại nói: "Tự nhiên, huynh nghĩ đến một câu."

Đường Thận: "Câu gì thế?"

"Để túc nhi miên2. Tiểu sư đệ, đệ gác lên chân ta, chúng mình cùng đi ngủ, chính là gác chân lên nhau mà ngủ đấy còn gì?"

[2] ví tình cảm sâu đậm. Xuất xứ từ Tam Quốc, đoạn Chu Du mời Tưởng Cán là bạn học cũ nằm chung một ghế, gác chân lên nhau mà ngủ.

Đường Thận dở khóc dở cười. Cậu nghĩ một lát, bèn co đầu gối đụng vào đầu gối Vương Trăn. Vương Trăn ngẩn người, chỉ nghe Đường Thận bắt chước điệu bộ của chàng, nói: "Tự nhiên, đệ nghĩ đến một câu: xúc tất trường đàm3. Sư huynh với đệ gối kề gối, mình nói chuyện thâu đêm với nhau, chẳng kề gối tâm sự đấy thì gì?"

[3] đầu gối sát nhau, tả bạn bè tâm sự thân thiết

Vương Trăn cười: "Giờ huynh lại nghĩ đến câu, đồng sàng dị mộng. Tiểu sư đệ ngủ cùng giường với ta, nhưng thể nào cũng không mơ chung một giấc, chính là chung giường khác mộng chứ chẳng sai."

Đường Thận thầm nghĩ: Huynh chê ta chẳng đồng lòng với huynh, muốn mỉa mai ta chứ gì?

Đường Thận sao có thể để quả núi dựa lưng bự nhất của mình nói thế được. Cậu buột miệng: "Sư huynh sai rồi, đệ thấy rõ ràng là đồng khâm cộng chẩm cơ. Ta với huynh đắp chung một chăn, ngủ chung một gối, chẳng phải chung chăn sẻ gối ấy thì gì?"

Cậu nói xong câu ấy, cả phòng lặng im như tờ, Vương Trăn không trả lời nữa.

Đường Thận sững người, giờ mới vỡ lẽ là mình lỡ lời, nhưng nhất thời chẳng biết mình nói sai chỗ nào. Rõ ràng không khí giữa cả hai đang hết sức hòa hợp, sao tự dưng lại thành thế này chứ?

Đường Thận ngước mắt, cẩn thận ngó Vương Trăn.

Có lẽ là mắt đã quen với bóng tối, khi ánh trăng giao hòa ánh tuyết rót vào phòng qua lớp giấy cửa sổ mỏng tang, Đường Thận thấy rõ đôi mắt đen sẫm của Vương Trăn đang nhìn mình. Tầm mắt quyện vào nhau, Đường Thận mấp máy môi, không hiểu sao thấy họng mình nghẹn chát.

Phải rất lâu sau, cậu mới nghe Vương Trăn thở dài khe khẽ: "Câu chung chăn sẻ gối dùng chưa chính xác rồi. Truyện Thái Bình Quảng viết, Phan Chương và Vương Trọng Tiên mới gặp đã phải lòng nhau, tình như phu phụ, liền chung chăn sẻ gối, quấn quýt không rời."

Đầu Đường Thận ong ong, cậu ngây ra như phỗng, ngập ngừng muốn nói mà không thốt nổi chữ nào.

Giọng Vương Trăn vẫn đều đều thong thả: "Tình như chồng vợ có phải để chỉ ta với tiểu sư đệ không? Phan Chương và Vương Trọng Tiên đều là nam giới, là tình Long Dương đấy. Họ là như vậy... nên, Cảnh Tắc này, có phải đệ muốn cắt tay áo với ta không?"

Đường Thận: "..."

Tâm tư Đường Thận bùng nổ, cậu vừa hổ thẹn lại vừa tức tối. Cậu giận mình có trí nhớ siêu phàm hẳn hoi mà lại lỡ miệng nói ra câu thành ngữ này! Bao nhiêu thành ngữ chẳng dùng, tại sao lại nhắc đến chung chăn sẻ gối? Giờ thì hay chưa, bị Vương Tử Phong vặn hỏi cho cứng họng, giải thích thế nào cũng không xong.

Hồi lâu sau, Đường Thận bèn trùm chăn kín đầu, buồn bực nói: "Đệ chưa cập quan, hẵng còn con nít nên đọc sách không kĩ càng. Sư huynh đừng cười nhạo đệ."

"Con nít à?" Vương Trăn bật cười dịu dàng.

Đường Thận: "..."

Vương Trăn không nói nữa.

Trong lúc ấy, Đường Thận xấu hổ chết đi được, thế mà lại ngủ lịm đi.

Sáng sớm hôm sau, Đường Thận tỉnh lại thì thấy Vương Trăn vẫn còn say giấc.

Đúng là hiếm có khó tìm cậu mà lại dậy sớm hơn Vương Tử Phong, được thấy Vương Tử Phong ngủ nướng hẳn hoi!

Đường Thận rón rén xuống giường, lẹ tay lẹ chân mặc quần áo vào. Tuyết đã tạnh, trời đã sáng sủa, dù không có Vương Trăn dẫn đường cậu cũng tìm về khu nhà khách được. Việc này chớ nên nấn ná, Đường Thận khẽ khàng đẩy cửa chính chui ra khỏi phòng. Vừa mới ra đến cửa, quay đầu lại, đã thấy một người hầu bưng chậu nước tới.

Người hầu đi đến cửa viện thì thấy Đường Thận từ trong nhà đi ra, anh ta hoảng hốt, mắt trợn ngược cả lên, dáo dác nhìn quanh cho chắc mình không đi nhầm chỗ, nhưng đây đúng là chỗ ở của đại công tử mà.

Đường Thận trông vẻ mặt khiếp đảm của anh hầu thì nhíu mày, cứ thấy là lạ thế nào ấy. Cậu bước tới hỏi: "Xin hỏi, ngươi có biết đi đường nào mới về được khu nhà ta ở không?"

Người hầu cuống quýt chỉ đường cho Đường Thận.

Đường Thận gật đầu nói cảm ơn rồi đi về hướng ấy.

Người hầu bưng chậu nước, tiến thoái lưỡng nan, không biết bây giờ mình nên vào nhà hay chạy sang xin chỉ thị của Tam lão gia – người phụ trách mọi sự trong phủ. Đột nhiên anh ta nhận ra chỗ bất thường, dáng vẻ Đường công tử lúc ra khỏi phòng rất là nhanh nhẹn, bước đi khoan thai, không giống như là... đã phát sinh chuyện ấy.

Có lí nào, đại công tử nhà mình mới là...

Người hầu rùng mình lần thứ hai.

Đúng lúc ấy, cửa phòng bật mở, Vương Trăn trong bộ trang phục đen tuyền bước ra nói: "Vào đi."

Người hầu: "Vâng."

Vương Trăn súc miệng, rửa mặt, thong thả lau tay bằng nước nóng. Đoạn chàng hỏi anh hầu: "Sáng sớm hôm nay ngươi có thấy gì không?"

Người hầu cung kính thưa: "Bẩm công tử, tiểu nhân thấy..."

Vương Trăn hiền từ nhìn anh ta, ánh mắt ngậm cười.

Anh hầu cứng người, từ từ nói: "Tiểu nhân chẳng thấy gì cả, cũng không biết đại công tử nói gì ạ..."

Vương Trăn thở dài một hơi: "Đi thôi, lên tiền sảnh."

Dùng bữa sáng xong, Đường Thận bái biệt Vương Trăn, dẫn thư đồng rời khỏi Lang Gia Vương thị, nói thế nào cũng không nán lại thêm. Chiều nay Vương Trăn phải về Thịnh Kinh rồi, quả thực cũng không tiện giữ cậu lại. Tiễn Đường Thận đi, trông theo bóng lưng cậu xa dần, Tứ lão gia Vương Tuệ chỉ tay bảo: "Y như chạy nạn ý nhỉ."

Vương Trăn thờ ơ liếc ông: "Sao tự dưng Tứ thúc thúc lại nói thế?"

Vương Tuệ bảo: "Ta nghe nói lúc người hầu đến biệt viện tặng quà cho Đường công tử thì phát hiện phòng chẳng có ai, ngay cả thư đồng cũng không biết cậu ấy ở chỗ nào. Tử Phong, con có biết cậu ta đi đâu không?"

Vương Trăn cười nhẹ tênh, lắc đầu, dường như đang nhấm nháp cảm giác bị bắt bài hiếm hoi.

Vương Tuệ hỏi: "Thế là cậu bé ấy hả?" Biểu cảm của ông hết sức nghiêm túc, không hề có ý đùa cợt.

Vương Trăn dừng bước, nhíu mày ngạc nhiên hỏi Vương Tuệ: "Là cái gì cơ ạ?"

"Con hiểu ý ta mà."

"Thế thì chắc Tứ thúc thúc vẫn nhớ, cách đây mười năm con đã nói rồi, con chưa bao giờ nghĩ sẽ có ngày con gặp được người đó cả. Bấy lâu nay con vẫn chuẩn bị sẵn sàng để sống cô độc cả quãng đời còn lại. Thế gian này có hàng nghìn, hàng vạn người tốt, con chỉ cần một người, nhưng chưa chắc người đó đã cần con. Là em ấy, hay không phải em ấy thì có khác gì. Em ấy và con không chung đường chung lối, con cũng không phải là người xứng đôi với em."

Vương Tử Phong nói một tràng dài rồi thong dong phất tay áo rời đi, để lại Tứ lão gia nhà họ Vương choáng váng đứng ngây ra như phỗng, không nói nên lời.

Hồi lâu sau, Vương Tuệ mới định thần, híp mắt cười khoái trá: "Vớ va vớ vẩn. Từ cái lúc bé tí đến giờ, có cái gì mi muốn mà không chiếm được đâu?"

Đầu giờ chiều, Vương Trăn đi thuyền lên phương Bắc, trở về Thịnh Kinh.

Mấy ngày sau, Đường Thận từ biệt người thân và bạn bè ở Cô Tô, cũng hồi kinh theo lối ấy. Vừa cập bến Thịnh Kinh, cậu đã tìm Diêu Tam, hỏi: "Chuyện xưởng ngọc lưu ly, chuẩn bị đến đâu rồi?"

Nghe sư huynh nói thấy chua chát thế nào. Sư huynh cũng muốn được yêu thương lắm ấy chứ T^T

Dưới là poster mặc áo đen làm dâu họ Vương background chim én và thắng cảnh chùa Kê Minh ở Nam Kinh chương trước quên up ảnh.

Chú thích

Lược dịch theo Chuyện Phan Chương trên Chinese Text Project:

Phan Chương có phong tư tài mạo hiếm có, người đương thời vừa ghen tị lại vừa ngưỡng mộ. Nước Sở có chàng Vương Trọng Tiên, nghe danh thơm bèn tìm đến để kết bạn. Hai người vừa gặp đã yêu, tình như phu phụ, liền chung chăn sẻ gối, quấn quýt không rời. Về sau cùng mất đi, người nhà thương tiếc, bèn hợp táng ở núi La Phù. Chôn cất xong thì trên mộ hai người mọc một thân cây, cành lá cuốn lấy nhau. Người đương thời lấy làm lạ, đặt tên là cây Cộng Chẩm.

Có thể bạn chưa biết: Cắt tay áo (đoạn tụ) là tích về tình yêu đồng giới giữa Hán Ai Đế và Đổng Hiền. Đổng Hiền gối lên tay áo vua ngủ, vua muốn quay người nhưng sợ đánh thức Đổng Hiền, bèn cắt tay áo đi. Về sau cụm từ này dùng để chỉ tình yêu đồng tính nam. Tương tự, tình Long Dương cũng là tích về tình yêu đồng giới của Long Dương quân, một nam sủng của An Ly vương nước Ngụy thời Chiến quốc, mình đã từng chú thích.

Chương 70

Món quà của Vương Tử Phong

Diêu Tam nói: "Hầu như thợ nắm bắt được hết phương pháp rồi, nhưng sản lượng ngọc lưu ly trong suốt vẫn chưa ổn định. Thứ nhất là vì sản phẩm này rất khó chế tạo, khó hơn xà phòng nhiều. Thứ hai là vì thời hạn ngắn quá, lại đúng dịp Tết, công nhân về nhà ăn Tết hết, chưa sản xuất được bao nhiêu lần."

Đường Thận suy nghĩ một lát, nói: "Dẫn tôi đi xem thế nào."

Các quan được nghỉ đến mười bảy tháng Giêng, tức là sau tết Nguyên Tiêu mới phải đi làm. Đường Thận về Thịnh Kinh sớm hơn hạn ấy mấy hôm, cậu khoác áo ấm dày dặn, đi cùng Diêu Tam đến xưởng ngọc lưu ly ở phía Đông thành.

Đúng thế, trước khi rời khỏi Thịnh Kinh, Đường Thận đã dày công nghiên cứu suốt nửa tháng để tạo ra được thủy tinh.

Khi Đường Thận đưa thành phẩm cho bọn Diêu Tam và kế toán Lâm, mọi người đều trầm trồ thốt lên: "Ngọc lưu ly!"

Quản lí Lục hay giao lưu với người bên phủ Cảnh Vương, đã thấy vô số thứ đồ quý giá. Ông ta nói: "Ngọc lưu ly có giá vô cùng đắt, phần lớn là cống phẩm cho hoàng cung, bên ngoài cũng có nhưng hầu hết chế tác rất thô sơ, độ tinh khiết lại kém. Ngọc lưu ly chất lượng xuất sắc thế này, hẳn phải được chế tạo từ đá Lưu Ly cao cấp nhất. Tiểu đông gia, cậu có được từ đâu thế?"

Mọi người đều coi thủy tinh là ngọc lưu ly nên Đường Thận không có ý định phân biệt quá rạch ròi. Cậu nói: "Ngọc lưu ly phần nhiều là loại màu sắc sặc sỡ, ông đã gặp loại trong suốt thế này bao giờ chưa?"

Quản lí Lục săm soi một hồi: "Thế thì chưa, đúng là chưa thấy loại trong suốt bao giờ cả."

Đường Thận nói: "Đây là một loại ngọc lưu ly đặc biệt, không dùng đá Lưu Ly tạo thành. Tôi gọi nó là thủy tinh, nhưng mọi người cứ gọi là ngọc lưu ly cũng được. Cái chính là nó không được làm từ đá Lưu Ly." Đường Thận nhấn mạnh thêm một lần nữa.

Kế toán Lâm và quản lí Lục sửng sốt nhìn nhau.

Kế toán Lâm nói: "Tiểu đông gia, ý của cậu là... nguyên liệu làm nên vật này, rẻ hơn so với đá Lưu Ly?"

Quản lí Lục: "Rẻ hơn bao nhiêu thế ạ?"

Đường Thận giơ tay làm dấu một con số.

Mọi người chao đảo, hít vào một hơi.

Vì thế, hôm nay mới có một màn như sau.

Đường Thận và Diêu Tam đến xưởng ngọc lưu ly, thấy các thợ thủ công đang tỉ mỉ mài đá Lăng Tử thành bột. Ở một gian khác trong xưởng, những người thợ đang điều chế xút. Vì trước đó mọi người đã có kinh nghiệm sản xuất xà phòng, quá trình điều chế xút diễn ra vô cùng suôn sẻ. Tuy nhiên, nếu cứ trộn hết bột đá Lăng Tử, bột đá Bồ Tát và bột cát kết vào với nhau rồi cho phản ứng với xút thì vẫn thất thoát kha khá.

Đường Thận theo dõi rất lâu, rồi tự bắt tay vào thử nghiệm, cậu thảo luận với mấy người thợ có kinh nghiệm trong việc chế tạo xà phòng suốt mấy ngày, cuối cùng chỉ tăng hiệu suất được đến 40%.

Đường Thận tiếc rẻ: "Mặc dù đây là phương pháp chế tạo thủy tinh của người phương Tây từ thời cổ đại, nhưng nếu có thể sử dụng máy móc thời hiện đại, hiệu suất phải lên đến 70%."

Sau khi chế tạo ra thủy tinh dạng lỏng đỏ rực và nóng rẫy như nham thạch là đến công đoạn thổi thủy tinh thành hình dáng.

Phương pháp thổi thủy tinh cũng là phương pháp chế tác thủy tinh được sử dụng suốt mấy ngàn năm ở thế giới phương Tây, đến thời hiện đại nó vẫn được kế thừa bởi nhiều thợ thủ công. Các thợ thủ công dùng một tuýp sắt dài mảnh, nhúng một đầu vào thủy tinh lỏng. Thủy tinh lỏng có độ dính rất cao, sẽ cuốn vào một đầu ống giống như keo thổi bong bóng vậy, thợ thủ công sẽ thổi mạnh từ đầu kia của ống tuýp, khiến thủy tinh lỏng phồng lên.

Sau đó, người thợ có thể tùy ý thổi thủy tinh thành hình dạng mong muốn.

Hiện giờ thợ của Đường Thận vẫn chưa thể thổi ra các sản phẩm đòi hỏi độ khéo léo cao, mà mới chỉ thổi được những hình đơn giản.

Đường Thận quan sát thợ thổi thủy tinh rồi chọn vài người dẫn ra một góc. Đường Thận nói: "Từ giờ các anh được miễn tham gia công đoạn chế tạo nham dịch." Nham dịch ở đây chính là thủy tinh lỏng, "Nhiệm vụ của các anh là tập trung vào công đoạn thổi thủy tinh, làm sao tạo ra được càng nhiều hình dáng phức tạp và hoa văn cầu kì hơn nữa."

Những người thợ ấy gật đầu vâng lệnh.

Nói xong, Đường Thận bảo Diêu Tam: "Diêu đại ca, việc kinh doanh xưởng ngọc lưu ly lần này chúng ta sẽ không hợp tác với ai cả, đây là sản nghiệp riêng của nhà mình. Việc đảm bảo bí mật kinh doanh, anh đã làm xong chưa?"

Hồi làm xà phòng và tinh dầu, mọi chuyện đã có họ Đường quản lí, Đường Thận chỉ cần cung cấp công thức là được. Nhưng trong lần sản xuất thủy tinh này, cậu không hợp tác với bất kì ai cả mà chỉ làm một mình, thế nên việc gì cũng đến tay đến chân hết.

Diêu Tam vội nói: "Đương nhiên là đâu vào đấy rồi ạ. Tôi đã phân công từng người thợ điều chế các nguyên liệu khác nhau và trông coi cẩn thận. Hơn nữa, so với thương nhân bình thường, tiểu đông gia đường đường là đại quan tứ phẩm, thợ thuyền không dám khinh nhờn đâu. Nếu cả gan phạm tội, họ cũng biết hậu quả ra sao."

Đường Thận gật đầu.

Thời cổ đại ở thế giới của cậu, quan lại không được phép làm kinh doanh vì hai lí do, một là địa vị xã hội của thương nhân rất thấp, hai là để phòng ngừa các quan lợi dụng chức vị kiếm chác cho bản thân. Tuy ở thế giới này không có luật ấy, địa vị của thương nhân trong xã hội cũng cao hơn nhiều, nhưng việc buôn bán của đại quan tứ phẩm với dân đen cũng khác nhau một trời một vực.

Sau khi đôn đốc công việc ở xưởng ngọc lưu ly xong, hai mươi ngày nghỉ Tết cho quan lại cũng kết thúc.

Năm Khai Bình thứ hai mươi chín, ngày mười bảy tháng Giêng, giờ Sửu ba khắc.

Đường Thận nhanh chóng xuống giường, Phụng Bút đồng tử bê chậu nước nóng đến cho cậu rửa mặt rửa tay. Tiếp theo, Phụng Bút lại hầu Đường Thận mặc từng lớp quan bào cầu kì lên người. Đường Thận lâu lắm mới dậy sớm thế này, cậu ngó ra ngoài, thấy chị Hằng vẫn lơ lửng trên cao, nền trời hẵng còn tối đen.

Chưa đến ba giờ sáng.

Thở dài, Đường Thận đội mũ quan, cầm hốt ngọc, rời nhà đi vào cung.

Đại quan nhất phẩm thì được vào cung bằng xe ngựa song mã; đại quan nhị phẩm thì được ngồi xe ngựa đơn mã. Quan tam phẩm dùng xe lừa, còn quan tứ phẩm thì đi bộ. Một số quan tứ phẩm đi lại bất tiện có thể trình đơn lên bộ Lễ, nếu bộ Lễ phê chuẩn thì hàng ngày họ cũng được ngồi xe lừa lên triều.

Nhưng đến cổng Tuyên Võ của hoàng cung, tất cả đều phải xuống xe, đi bộ vào cung.

Chưa đến giờ chầu, các quan nhất phẩm, nhị phẩm đang nghỉ ngơi trong chính điện của điện Sùng Chính, các quan tam phẩm ở tả điện, còn quan tứ phẩm, nhóm đông người nhất, thì chịu khó chen nhau trong hữu điện.

Lâu lắm mới lên triều, các quan đều hồ hởi chúc Tết nhau.

Chỉ có các quan kinh thành từ tứ phẩm trở lên mới được vinh hạnh dự buổi triều hàng ngày. Còn các quan địa phương từ tứ phẩm trở lên vào kinh thì phải báo trước một ngày cho bộ Lễ, đến hôm sau mới được vào chầu.

Đường Thận nhìn quanh quất trong hữu điện một hồi, quả nhiên phát hiện vô số gương mặt lạ hoắc.

Năm mới đến, các quan địa phương đều lên kinh chúc Tết hoàng đế, nên đông người hơn hẳn mọi khi.

Canh giờ đã điểm, thái giám chuyên trách đến trước điện Sùng Chính, tuyên các quan vào điện yết kiến vua. Các quan lớn nhất phẩm, nhị phẩm trong chính điện bước ra đầu tiên, tiếp theo là các quan tam phẩm từ tả điện. Sau rốt là đến các quan tứ phẩm.

Lễ pháp Đại Tống sâm nghiêm, dù có là hoàng đế cũng không được vượt mặt quy củ.

Đường Thận là Trung Thư xá nhân, tức quan viên của điện Cần Chính, cậu đứng trong hàng ngũ các quan bên trái, lắng nghe Thượng thư bộ Lễ Mạnh Lãng đọc bài cầu phúc lành năm mới. Trong hàng ngũ quan viên tứ phẩm, Đường Thận đứng hàng thứ hai, hệt như câu vè truyền miệng ở kinh thành: Thịnh Kinh bằng mấy miền ngoài, điện Cần Chính lại bằng mười Thịnh Kinh.

Làm quan ở điện Cần Chính oai hơn bao nhiêu so với quan tứ phẩm ở các địa phương khác.

Bởi hôm nay là buổi chầu đầu tiên của năm mới, trên triều đình, các quan đều bẩm báo với Triệu Phụ những việc xảy ra trong năm vừa qua. Năm ngoái, ngoại trừ miền Bắc có mưa lớn, gây ngập lụt nhiều thành lũy, làm sập một cây cầu đang xây dở, thì không còn thiên tai nào khác. Tuy thế, chẳng ai dại mà đi chạm vào cái nọc ấy của hoàng đế ngay lúc này cả. Tân phủ doãn Thứ Châu tóm lược qua loa về cầu sông Kinh Hà, rồi trắng trợn tung hô rằng quan đạo Thứ Châu đã xây được một nửa, đến giữa năm nay nhất định sẽ thông đường.

Phủ doãn Thứ Châu: "Bệ hạ hồng phúc tề thiên, con dân Thứ Châu ngày nhớ đêm mong, quan đạo cũng sắp sửa thi công xong rồi ạ!"

Triệu Phụ mỉm cười phất tay, hiền từ nói: "Thế thì nỗ lực hoàn thành nhé."

"Vâng!"

Một canh giờ sau, buổi chầu kết thúc, các quan rời khỏi cung.

Đường Thận ngẩng đầu, liếc về phía các đại quan nhất, nhị phẩm theo bản năng. Cậu thấy Vương Trăn đang nói chuyện với Tả thị lang bộ Hộ Từ Lệnh Hậu. Không biết hai người nói gì mà Từ Lệnh Hậu tỏ ra rất đỗi ngạc nhiên, gật đầu lia lịa. Một lúc sau, Đại thái giám Quý Phúc đi từ trong điện ra, nói mấy câu với Vương Trăn.

Vương Trăn dừng bước, trở vào theo Quý Phúc.

Cuối tháng Giêng, quản lý Lục và kế toán Lâm cùng nhau lên phương Bắc, chuyến đi ấy kéo dài nửa tháng.

Là Trung Thư xá nhân, Đường Thận hằng ngày đều phải đọc tấu sớ quan viên khắp các nơi gửi về, thỉnh thoảng cũng tham gia vào việc soạn thảo chiếu thư.

Thánh chỉ và chiếu thư của hoàng đế, đương nhiên không thể do ông ta tự viết được. Ngoài chiếu tự phê bình và văn khấn trời hàng năm, còn lại, hoàng đế chỉ cần ra ý chỉ, sai thái giám đến điện Cần Chính tuyên đọc khẩu dụ, rồi Trung Thư xá nhân sẽ án theo đó mà viết chiếu thư, gửi về điện Thùy Củng cho hoàng đế duyệt rồi đóng ấn ngọc.

Đầu năm Khai Bình thứ hai mươi chín, thiên hạ thái bình, cả nước mưa thuận gió hòa.

Đến trung tuần tháng hai, kế toán Lâm trở lại Thịnh Kinh.

Kế toán Lâm nói: "Có thư của tiểu đông gia và sự giúp sức của Vương Tiêu đại nhân, công việc ở Ninh Châu đúng là làm một hưởng mười. Ninh Châu vốn là là nơi tập trung hoạt động giao thương của nước Liêu với Đại Tống ta, người Liêu rất ưa chuộng những sản phẩm mới lạ như tơ lụa, lá trà, và cả ngọc lưu ly trong suốt mà chúng ta giới thiệu lần này nữa. Chuyện buôn bán với nước Liêu xin tiểu đông gia cứ yên tâm, không có gì phải lo cả."

Đường Thận gật đầu, đang định đáp lời thì một cô nhóc mặc quần áo nam đã chen vào: "Trên lí thuyết thì đi đường quan đạo từ Ninh Châu chỉ mất một ngày là đến Thịnh Kinh, nhưng nếu phải vận chuyển nhiều hàng hóa thì không đi nhanh được đâu, phải hơn hai ngày mới đến nơi ấy."

Đường Thận nghe thế thì cười: "Anh còn chưa thèm hỏi ai cho em đi Ninh Châu, lại còn ăn mặc thế này đâu nhé!"

Đường Hoàng trợn mắt: "Em, em mặc thế đã làm sao nào? Anh này, anh không thấy trong sách người ta bảo con gái triều trước rất chuộng ăn mặc giống nam giới à? Thời ấy, con gái hay mặc đồ nam hằng ngày, đi cưỡi ngựa ở ngoại ô! Tuy rằng thời nay kém phổ biến hơn hẳn, nhưng ở lầu Tế Hà nhà mình, mỗi ngày cũng thấy một hai chị. Huống hồ..." Giọng con bé lí nhí lại, "Huống hồ em giả trai đi Ninh Châu, cả đường có bị ai phát hiện ra đâu."

Đường Thận cười phá lên.

Té ra em giả trai mà không bị ai phát hiện là chuyện đáng mừng à?

Đường Thận tỉ mỉ ngắm em gái mình, cũng hiểu đại khái vì sao con bé cải trang thành con trai mà qua mặt được tất cả mọi người. Đường Hoàng từ bé đã sống lam lũ dưới quê, phơi nắng phơi gió, da dẻ không được nhẵn nhụi như các tiểu thư khuê các. Con bé cũng ăn uống thả phanh, Đường Thận và Diêu đại nương chưa bao giờ kìm kẹp nó, thế nên Đường Hoàng khỏe mạnh phổng phao, cao hơn con gái bình thường phải đến nửa đầu.

Một cô gái như vậy mặc quần áo nam, đúng là khó bị người ta phát hiện ra thật.

Đường Thận: "Nào mời cô nương giải trình trước, ai cho phép em Ninh Châu?"

Đường Hoàng câm như hến, xong mới lí nhí bảo: "Tự em đòi đi được chưa? Chẳng lẽ đi thăm thú Ninh Châu mà em cũng không được đi hay sao..."

Đường Thận không ừ hử chi sất.

Đường Hoàng lo ngay ngáy, con bé chỉ sợ Đường Thận sẽ mắng mỏ rồi từ rày cấm nó ra khỏi cửa, ấy thế mà Đường Thận chỉ cười: "Anh có cấm em ra ngoài bao giờ đâu? Nhưng em phải biết là em không được đi một mình, đi gần đi xa đều phải hết sức cẩn thận. Ninh Châu là nơi tụ tập đông người Liêu, nếu có chuyện gì bất trắc xảy ra ở đàng ấy, ai bảo vệ được em đây?"

"Em biết rồi, anh trai em tốt nhất trần đời!"

Đường Thận trao đổi với kế toán Lâm thêm một chút rồi kế toán Lâm mới ra về. Cả nhà ăn cơm tối xong, Đường Thận lại gọi Đường Hoàng vào thư phòng mình. Giờ Đường Hoàng đã mặc lại quần áo con gái rồi. Con bé này, mặc đồ nam thì khôi ngô anh tuấn, mặc đồ nữ thì bừng bừng khí khái. Đường Thận nghiêm túc nhìn em gái mình, chẳng hiểu sao vừa thấy lúng túng vừa thấy sởn da gà.

Đường Thận: "Mới đây đại bá mẫu có bảo anh rằng em sắp đến tuổi cập kê, nên tìm đối tượng để bàn chuyện cưới gả."

Đường Hoàng: "..."

"Em thấy thế nào?"

"Giờ em chưa muốn lập gia đình đâu!"

Đường Thận: "Ờ, vậy cứ thế nhé."

Đường Hoàng đang định lí luận một tràng, nghe Đường Thận nói thế thì ngớ người: "Anh, anh... cho phép em không lấy chồng à?"

Đường Thận nhướng mày: "Em bảo tạm thời chưa muốn lấy chồng còn gì, hay là sau này cũng không có ý định lấy chồng luôn?"

Đường Hoàng cười hí hửng: "Đâu có, chỉ bây giờ thôi."

"Tùy em. Nhà họ Đường này thừa sức nuôi em đến già."

Đường Hoàng ngẩn ngơ nhìn anh trai, tự dưng nảy ra một suy nghĩ rằng nếu bây giờ em bảo Đường Thận rằng cả đời này em không muốn cưới ai, rất có thể Đường Thận cũng sẽ đồng ý. Rõ ràng điều ấy không hợp lễ giáo, nhưng Đường Thận nhất định sẽ không ép em làm việc mà em không thích.

Cô bé ôm suy nghĩ ấy, chẳng vì bất cứ một lí do nào cả.

Hồi lâu sau, cô thiếu nữ mười bốn tuổi mới nhỏ nhẹ bảo rằng: "Anh ơi, lúc vào phòng em thấy Diêu đại nương bảo bà nấu canh móng giò cho anh đấy, em múc cho anh một bát nhé?"

Đường Thận trố mắt nhìn em gái mình.

Cô em nhà mình tâm lí thế từ bao giờ ý nhỉ?

Đường Thận: "Ừ."

Đường Hoàng vui sướng chạy ùa ra khỏi thư phòng.

Kỳ thực lần này dù Đường Hoàng có không từ chối đi chăng nữa, Đường Thận cũng không có ý định cho em gái lấy chồng trước tuổi mười tám.

Mười lăm tuổi đã cưới xin, đúng là tội ác với loài người!

Cậu không dám tưởng tượng ra cái hình ảnh Đường Hoàng bụng mang dạ chửa ở tuổi mười lăm. Ở cái tuổi ấy, cơ thể con gái chưa phát triển hoàn thiện, mang thai vừa khó sinh nở vừa rất có hại cho sức khỏe. Tuổi thọ trung bình của nữ giới thời cổ đại ngắn như thế, nguyên nhân lớn nhất chắc chắn là có liên quan đến việc kết hôn và sinh sản quá sớm!

Ờ Đại Tống, con gái mười tám tuổi mới lập gia đình tuy không nhiều những cũng chẳng đến nỗi hiếm hoi. Chỉ có điều những cô gái như vậy thường hay bị điều tiếng. Phải người nào yếu thế thì cũng đến khốn khổ vì những lời đồn thổi, bịa đặt ác ý. Về phần nhà mình, Đường Thận tin rằng cậu có khả năng che chở cho em gái. Cậu không bao giờ để cô em nhỏ từng khóc sưng húp mắt đòi nhường hết của hồi môn cho anh trai cắp sách đến trường phải lấy bừa một người xa lạ.

Hạ tuần tháng hai, Đường Vân đi thuyền lên miền Bắc, cập cảng Đại Vận Hà ở Thịnh Kinh.

Diêu Tam dẫn anh ta đến phủ Thám hoa.

Lần đầu tiên Đường Thận gặp Đường Vân là ở phủ Cô Tô, hồi cậu còn ở căn nhà nhỏ đơn sơ mộc mạc. Đường Vân hôm ấy nổi giận đập phá tanh bành cả sân nhà Đường Thận, rồi hai đứa thách nhau xem Đường Thận có đỗ đồng sinh vào kì thi năm sau không.

Bây giờ đã bốn năm trôi qua, biết bao nhiêu điều đã thay đổi.

Đường Vân đã lấy vợ và cũng nuôi râu rồi. Năm ngoái anh ta vất vả lắm mới thi đỗ Tú tài, nhưng đến kì thi viện thì không qua nổi. Vì thế, hiện giờ anh ta vẫn chưa đủ điều kiện để thi Hương. Gặp Đường Thận, Đường Vân lại nơm nớp lo sợ.

Đường Thận trông dáng vẻ rúm ró của anh ta mà buồn cười. Đến tầm này thì cậu hơi sức đâu mà ra oai, đe nẹt anh ta nữa. Việc nhỏ như con kiến thế mà cũng so đo, thì mỗi ngày làm việc trong triều đình cậu phải chết vì tức mấy chục lần ấy chứ!

Đường Thận chủ động mở lời: "Đại đường huynh, tình hình ở Cô Tô và Kim Lăng thế nào rồi?"

Đường Vân thấy Đường Thận gọi mình là "Đại đường huynh" thì lén thở phào nhẹ nhõm. Anh ta nói: "Như lời cậu dặn, tháng trước, vừa hết Tết, tôi và phụ thân đã đi Kim Lăng, bàn bạc chuyện vận chuyển hàng hóa với nhà họ Trịnh. Nhà ta với họ Trịnh vẫn buôn bán cùng nhau, họ nhận lời ngay. Chỉ có điều, chuyển hàng trên Đại Vận Hà đến Thịnh Kinh nhanh nhất cũng phải mất bảy ngày. Khối lượng hàng hóa càng nhiều thì giá thành càng rẻ. Nhưng Đường... Đường Thận này, cậu có chắc là cần nhiều hàng đến vậy không? Bán hết được chứ?"

Đường Thận: "Chuyện ấy thì anh cứ yên tâm."

Đường Vân ở lại Thịnh Kinh hai ngày rồi cũng cáo từ để về Cô Tô.

Việc kinh doanh khu vực miền Bắc đã có quản lí Lục và kế toán Lâm quản lí, tình hình phương Nam thì khoán hết cho nhà họ Đường. Đường Thận đi vào thư phòng, trải trang giấy Tuyên Thành trắng bóc ra, hít sâu một hơi, hạ bút viết ba con chữ lớn.

Bách Bảo Các

Viết xong, cậu lại thấy chưa hài lòng, vo tờ giấy lại, viết thêm lần nữa.

Viết đi viết lại bảy tám lần, Đường Thận đành gác bút, để khi khác viết tiếp sau.

Hôm sau, vừa tan buổi triều, Đại thái giám Quý Phúc đột nhiên gọi cậu lại.

Đường Thận hoảng hốt lắm. Đối diện với Quý Phúc, cậu giả đò như vừa mừng lại vừa lo, khiêm tốn hành lễ: "Quý công công."

Trong khi Đường Thận là đại quan tứ phẩm, Quý Phúc chỉ là một hoạn quan. Việc cậu hành lễ với lão ta kỳ thực không phù hợp phép tắc, nhưng Quý Phúc đã quá quen với việc ấy rồi. Trước đây khi Đường Thận làm Khởi Cư lang, cậu luôn đối xử trọng thị với lão ta, các dịp lễ tết kiểu gì cũng có chút lễ mọn. Giờ Đường Thận làm quan tứ phẩm, là Trung Thư xá nhân của điện Cần Chính mà lễ tiết với Quý Phúc không hề thay đổi, khiến lão ta cười nhăn nheo cả mặt mày.

Quý Phúc nhỏ nhẹ nói: "Đường đại nhân, quan gia đang chờ ngài ở điện Thùy Củng, xin ngài mau đi theo tôi."

Đường Thận lập tức đi theo Quý Phúc đến điện Thùy Củng.

Trong điện Thùy Củng, Triệu Phụ đang xem tấu chương. Thấy Đường Thận tới, ông ta liền bỏ quyển tấu xuống, cười bảo: "Cảnh Tắc đến rồi đấy à."

Đường Thận hành lễ: "Bệ hạ."

Cậu lặng lẽ nhìn xung quanh, Khởi Cư lang và Khởi Cư xá nhân hai bên đều lạ hoắc, hẳn là những người mới được bổ nhiệm sau khi Đường Thận rời vị trí.

Triệu Phụ mỉm cười với Đường Thận: "Lâu lắm trẫm mới gặp Cảnh Tắc, sao Cảnh Tắc giữ kẽ thế?"

Đường Thận diễn tròn vai, ngẩng lên nhìn vua bằng vẻ mặt hàm ơn, rưng rưng xúc động.

Triệu Phụ nhìn rõ mười mươi hành động ấy, ông ta biết thừa Đường Thận đang ra sức lấy lòng mình. Bản thân ông ta cũng ưa nịnh, nhất là những viên quan chỉ cần liếc mắt là thấy tuốt ruột gan, Triệu Phụ lại càng thích.

Triệu Phụ nói: "Trẫm có tuổi rồi, gần đây trẫm phê tấu chương ở điện Thùy Củng giữa ban ngày mà cứ thấy tôi tối, không được như xưa."

Đường Thận vội vàng thưa: "Bệ hạ thọ ngang trời đất."

"Cảnh Tắc, trẫm nghĩ đi nghĩ lại thì thấy cửa sổ dán giấy thế kia, ánh sáng chẳng lọt được vào bao nhiêu. Trẫm nghe nói, ngươi mới làm được một thứ khá thú vị." Nói rồi, Triệu Phụ nhìn Quý Phúc. Quý Phúc ngầm hiểu, ra lệnh cho một thái giám trẻ bưng khay gỗ sưa lên, trên khay bày một vật gì đó trong veo, lấp lánh.

Vật này đặc biệt đến nỗi tất cả các thái giám, Khởi Cư lang và Khởi Cư xá nhân trong điện phải sửng sốt.

Triệu Phụ: "Ngẩng lên xem này."

Đường Thận ngẩng lên, khi cậu thấy lọ tinh dầu bằng thủy tinh nho nhỏ kia thì sững người.

Triệu Phụ thấy cậu kinh ngạc đến thế thì nói: "Ngươi thấy thứ này có quen không? Của Tử Phong đấy. Có một hôm cậu ta để lộ ra từ tay áo, trẫm tình cờ nhìn thấy liền lấy về để thưởng thức. Ngọc lưu ly trong suốt, đúng là hiếm có khó tìm. Tử Phong bảo trẫm, vật này là do ngươi làm ra, có thật thế không?"

Đầu óc Đường Thận rối bung, cậu nói: "Thần đến từ nhà họ Đường ở phủ Cô Tô, nhà thần có làm thương nghiệp. Ngọc lưu ly trong suốt này có tên là thủy tinh, là sản phẩm mà một người thợ trong xưởng nhà họ Đường phát minh ra ạ."

"Thứ này tuyệt lắm, nên thưởng cho kẻ đó. Mà trẫm thấy, vật này không phải làm từ đá Lưu Ly đúng không?"

Đường Thận giới thiệu một lượt các vật liệu sử dụng để chế tạo thủy tinh.

Tình huống bất ngờ này khiến Đường Thận hồn vía lên mây, sợ run như dẽ. Nhưng Triệu Phụ chỉ nhìn cậu bằng ánh mắt thâm thúy, rồi lại mân mê chiếc bình thủy tinh nho nhỏ.

"Thay hết giấy dán cửa sổ trong điện Thùy Củng cho trẫm."

"Vâng!"

Đường Thận vã mồ hôi lạnh, cậu rời khỏi điện Thùy Củng mà run lẩy bẩy đến từng ngón tay. Đặt chân lên con đường xây bằng đá bạch ngọc trong hoàng cung, Đường Thận ngoái đầu lại, nhìn về phía cung điện tráng lệ hùng vĩ. Môi cậu lập bập, giờ mới phát hiện mình không thốt nên lời nữa.

Triệu Phụ chỉ nói một câu mà khiến Đường gia trở thành hoàng thương1, khiến thủy tinh thành mặt hàng độc quyền của Đường gia!

Đường Thận không thể biết Vương Trăn đã làm thế nào. Trong hai tháng này, rốt cuộc chàng đã làm gì mới có thể khiến Triệu Phụ yên tâm về Đường Thận thế, yên tâm đến mức cho phép Đường gia trở thành hoàng thương, khiến thủy tinh gắn liền với tên tuổi Đường gia?

Mấy hôm nay, Đường Thận cứ trằn trọc ngày đêm nghĩ kế bán thủy tinh, thậm chí cậu còn định giảm sản lượng xuống mức tối thiểu, tạo sự khan hiếm để nâng cao giá bán.

Nhưng Vương Trăn đã quét sạch mọi chướng ngại vật cho cậu.

"Vương Tử Phong..."

"Sư huynh."

Đường Thận thì thầm gọi tên chàng, trái tim rộn ràng thổn thức.

Màn đêm buông xuống, cậu mang một hộp điểm tâm sang phủ Thượng thư.

Vương Trăn đang chơi đàn dưới trăng. Nói là chơi đàn thôi, chứ thực ra chàng đang lên dây, chỉnh âm. Hôm nay Vương Trăn mặc trường sam màu xanh lơ, mái tóc dài được buộc cao lên bằng ngọc quan. Nghe tiếng bước chân, Vương Trăn ngẩng đầu cười khẽ, dường như chàng đã sớm đoán được là Đường Thận sẽ đến: Tiểu sư đệ."

Đường Thận bước vào ngôi đình ven hồ. Cậu đứng trước mặt Vương Trăn mãi rồi mới nói: "Hôm nay, đệ nhận được quà Tết sư huynh dành tặng đệ rồi."

Trong ngôi đình sóng sánh ánh trăng, chàng thiếu niên áo trắng nhoẻn cười, vành môi Vương Trăn cũng chầm chậm nhếch lên theo.

Manh: Bệnh sợ gái của Đường Thận nặng lắm rồi, tiên nam họ Vương đâu mau đến cứu giá!!!!

Đoạn cuối bạn nào không hiểu thì Triệu Phụ chê giấy dán cửa sổ làm phòng thiếu sáng, đổi sang thủy tinh cho có nhiều ánh sáng, và nhà họ Đường sẽ cung cấp thủy tinh cho hoàng cung.

Chú thích

[1] Hoàng thương chỉ các thương nhân chỉ phục vụ riêng hoàng cung/hoàng đế. Ví dụ như cung cấp riêng tơ lụa cho hoàng cung chẳng hạn. Số lượng hoàng thương rất giới hạn nên đây là danh hiệu cực kì danh giá. 

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: #dammy