Snowglass

Ngày CủaGió InLượm được ở đâu đóonNovember 19, 2010at12:32 pm

Một buổi sáng, còn chưa ngủ dậy, tôi đã nghe gió thổi ào ào ngoài cửa sổ. Có lẽ vì có gió nên không gian trở nên lành lạnh, kéo giấc ngủ sâu hơn.

Gió vẫn thổi ào ào như thúc giục, như mời gọi. Chợt nhớ sáng phải đưa bố đến thăm người bạn thân của ông, tôi trở dậy. Mở toang cửa sổ, như chỉ chờ có thế, gió ào vào phòng, chạm vào tất cả mọi thứ. Sao hôm nay gió lớn vậy trời!

Bước xuống nhà, đã thấy bố tôi đang ngồi nhìn đăm đăm ra ngoài sân. Sân ngập tràn gió và lá vàng của cây dâu da xoan lớn cuộn thành đống ở góc sân. Lá vàng rụng nhiều nghĩa là thu đã đến. Mùa thu đã đến rồi sao? Lại một mùa thu nữa đến rồi sao?

- Bố! Hôm nay nhiều gió quá bố nhỉ?

- Ừ! Hôm nay không đến nhà bác Mậu nữa. Ta ra đồng đi.

- Ơ, ngoài đồng gió to lắm bố ạ. Bố đang yếu mà.

- Không sao. Ra đồng câu con cá về nấu canh chua. Câu cho vui ấy mà.

Nhớ lời dặn của bác sĩ: “Bố cháu muốn gì thì cố chiều lòng”. Tôi khịt khịt mũi, cố xua đuổi một giọt nước mắt đang sắp trào ra. Lui cui chọn cho bố bộ quần áo có thể giảm bớt cái lạnh của ngày gió lớn. Mẹ xuýt xoa:

- Gió to thế này, hay là ông quàng thêm cái khăn mỏng này vào.

- Ô hay, bà này lạ nhỉ? Trời hôm nay dự báo nóng 30 độ C mà bà bắt tôi quàng khăn.

- Nhưng ngoài đồng gió to lắm. Nhỡ sao thì…

Bố mỉm cười, tỏ vẻ cảm thông cho nỗi lo lắng của người bạn đã 30 năm chung sống.

- Được rồi. Bà đưa đây nào.

Tôi chở bố ra cánh đồng. Vừa qua cơn lũ. Những ruộng lúa đã mượt xanh, sắp trổ đòng. Giữa cánh đồng là ao cá hơn một mẫu của bác tôi. Mặt ao đang nổi sóng. Sóng vỗ bờ oàm oạp. Bác lật đật chạy ra đỡ lấy bàn tay gầy yếu của bố tôi mà xuýt xoa:

- Chết, chết. Gió to thế này, cậu ra đây làm gì chứ?

- Em ra xin chị con cá.

- Cậu muốn, tôi mang vào cho cậu, chứ ra đây làm gì.

Tôi đứng trên chiếc cầu tre nhỏ bắc từ bờ ra chòi cá giữa ao, nghe bác tâm tình với người em trai đau yếu. Bác rầy la vậy thôi, chứ bác biết bố tôi nhớ gió. Nhớ tiếng sóng nước vỗ bờ cỏ, nhớ cái thênh thang của đất trời.

… Nồi canh cá dọn ngay trên chiếc lều ven bờ ao. Bố quay sang tôi cười mủm mỉm:

- Ly rót cho bố chén rượu đi.

Tôi hơi nhăn mặt, không đồng tình.

- Bố còn sống được bao lâu nữa, mày tiếc gì bố chén rượu. Tôi nhìn bác. Thấy mắt bác đã rơm rớm nước.

- Cậu có chết cũng không bỏ được rượu – Rồi như không thể kìm lòng hơn nữa bác khóc tu tu. Bố đỡ chén rượu từ tay tôi rồi thủng thẳng: – “Nhân sinh tự cổ thùy vô tử. Chị buồn làm gì. Ly, con cũng uống một chén đi”.

Tôi rót cho mình một chén, cho bác một chén rồi cụng ly. Rượu cay nồng trong miệng. Sống mũi cay xè, tôi chống chế – rượu đắng quá bố ạ.

Bố lại cười tủm tỉm, mắt lại nhìn xa xăm…

Tôi biết uống rượu đã lâu rồi. Từ khi tôi hai mươi tuổi. Nhưng ngụm rượu đầu tiên tôi uống chính là bố đã dạy. Thực ra, hôm đó bố say rượu, bảo tôi và em trai uống.

Sợ bố mắng, hai chị em nhắm mắt nhắm mũi uống một chút thứ nước cay nồng mà bố và mọi người ai cũng đã uống. Vì chuyện đó mà mẹ tôi giận bố cả tháng trời. Tôi không giận.

Dù sao thì chỉ lúc bố say mới dữ dằn như vậy. Cũng may, tâm hồn tôi mạnh mẽ, chẳng dễ gì bị tổn thương. Tôi lại luôn biết tìm cách cảm thông cho những việc làm của người khác.

Tôi nhớ lần đầu tiên cắt tóc con trai, mặc quần áo giống con trai. Lần đầu uống rượu cùng các bạn không có kinh nghiệm, say lử đử… Tất cả những lần đầu tiên ấy tôi đều ngỡ sẽ bị bố đánh đòn, hay chửi cho một trận. Hóa ra lại không phải.

Bố chẳng đánh mắng. Chỉ cười như ngầm đưa ra một thông điệp: “Con cứ làm những gì con muốn”. Mẹ tôi thì phản đối quyết liệt. Mẹ bảo tôi sinh ra là con gái sao tôi không cam lòng, cứ muốn làm con trai làm gì. Và dù tôi có mặc quần áo của em trai, đi đôi Sandal to oành như cái thuyền, tóc ngắn tun hủn thì tôi cũng đâu thể là một đứa con trai.

Dù cho mẹ có mắng mỏ, tôi vẫn cứ là đứa ẩm ương như tôi muốn. Mẹ lại quay sang bố “Ông không sợ nó hư sao?”. Bố lại chỉ cười nửa đùa, nửa thật “Hư làm sao được. Bà đẻ nó ra mà không biết nó sao. Có đánh chết nó cũng không hư hỏng, mai này biết yêu, lại chẳng điệu bằng mấy”.

Có lẽ bởi sự dung túng của bố mà tôi đã gặp Mắt Lạnh. Để tôi trở thành một cô gái khác hẳn với cả nửa nghìn nữ công nhân ở xưởng may không vì xinh đẹp. Và yêu anh, và được yêu anh. Hôm đá cầu cùng tôi ở sân phân xưởng, anh nhìn tôi chưng hửng:

- Con gái hả?

Và dù tôi có cố làm ra vẻ bề ngoài là một đứa con gái ẩm ương, cá tính, có tham vọng trở thành một chàng trai thì trái tim tôi vẫn đập nhịp đập của trái tim con gái. Tôi và Mắt Lạnh yêu nhau suốt hai năm trời. Cũng hò hẹn, cũng giận hờn, cũng dạo bước dưới trăng sao.

Nhưng chưa bao giờ Mắt Lạnh hôn tôi. Môi tôi – đôi môi thanh xuân tươi trẻ chưa một lần hôn ấy cũng khát khao biết bao nụ hôn đầu đời. Nhưng sao anh lại không hôn tôi? Vì sao?

Vì sao anh không nhận ra mỗi lần gặp anh, môi tôi cũng hồng tươi sức sống vì nắng, vì gió và vì cả thỏi Lipice màu nhiệm. Mỗi lần chúng tôi đối diện nhau, khi hai ánh mắt hòa tan trong nhau. Tôi đã thầm nói, rồi như muốn gào lên: “Hãy hôn em đi. Hãy hôn em”. Nhưng không…

Lũ con gái trong xưởng coi anh là thần tượng. Là hoàng tử lạc lối vào vương quốc những thiếu nữ đồng trinh vì thế. Chúng chẳng thú vị gì với tôi. Một dạo, chúng kháo nhau: “Anh Vũ yêu cái Ly, khác gì yêu một thằng em trai. Nó như đàn ông thế ai mà chịu được”.

Tôi về nằm khóc một đêm trên gác trọ. Hóa ra tôi là một đứa con trai trong mắt mọi người cơ mà cũng tại tôi tự rũ bỏ đứa con gái trong mình đấy chứ. Lĩnh lương tôi ra chợ khuân về mấy cái áo chiết ly và rộng cổ. Mua thêm một thỏi Lipice. Tháng đó, tôi không cắt tóc.

Bỏ đôi giày thể thao vào xó. Tôi đi giày cao gót đến xưởng. Mắt Lạnh nhìn tôi kinh ngạc “Em sao vậy? Sao lại như thế?”. “Anh không thích em nữ tính sao?”. Mắt Lạnh ngập ngừng: “Không phải… nhưng… em thay đổi thế có khác gì hàng trăm nữ công nhân khác.

Anh làm sao tìm thấy em nếu em lẫn vào họ…”. “Anh làm sao thế? Rút cuộc thì anh có vấn đề gì ở não phải không?” – Tôi đã muốn gào lên với anh như thế. Tôi đã muốn khóc. Mà tôi lại không khóc. Tôi cũng im lặng.

Khi tôi đã trở lại là một cô gái như tôi sinh ra vốn thế. Tóc tôi dài mượt, má tôi ửng hồng, đi đứng nhẹ nhàng thì Mắt Lạnh bị bắt, bị kết án tù vì tội tổ chức gây rối.

Hóa ra Mắt Lạnh là dân xã hội đen mà tôi không hề hay biết. Anh hư hỏng, anh ngông cuồng. ừ thì là như thế? Nhưng sao anh lại buông tha tôi? Sao anh không biến tôi thành tay chân của anh, ngông cuồng phá phách. Cầm dao búa đi đòi nợ thuê?

- Anh có yêu em không?

Mắt Lạnh quay đi, tránh cái nhìn đầy tuyệt vọng của tôi.

- Ly, anh xin lỗi. Anh rất quý em, nhưng…

- Vì sao anh lại không yêu em? Vì sao?

- Vì em là một cô gái ngoan.

Ơ hay! Sao người đời lại lạ vậy kìa? Có tin được hay không nhỉ? Một cô gái bị từ chối tình yêu chỉ vì cô ấy không hư.

- Nếu em là cô gái hư thì anh có yêu em không?

- Ly ạ, em quên anh đi. Hãy tìm một người ngoan như em để yêu.

Hôm đó trời cũng rất nhiều gió. Hôm đó cũng là một ngày chớm thu.

Tôi biết uống rượu thực sự từ khi ấy. Thú thực, là tôi rất muốn mình hư hỏng, đua đòi, biết rượu chè, cờ bạc, biết mặc những thứ quần áo mà đứa con gái ngoan không bao giờ dám chạm tới.

Bố mẹ nhận ra tất cả bằng linh cảm thiên phú dành cho các bậc sinh thành và bố mẹ chắc sẽ cười ngất mất nếu biết tôi thất tình chỉ vì ngoan ngoãn, sáng trong, dù vẻ bề ngoài cũng không thể thay đổi bản chất. Bố nói đúng. Cuối cùng thì tôi cũng không trở thành một cô gái hư, không dám hư.

Tôi vẫn ngày ngày đi làm sau khi đã chải mái tóc dài mượt, mặc những bộ quần áo dịu dàng nữ tính, tôi chỉ biết uống rượu thôi, nhưng cũng không bao giờ dám uống đến say không biết trời biết đất. Năm tháng cứ qua đi, nhưng hình như tôi luôn nhớ về Mắt Lạnh.

Một lần bố bảo tôi: “Mối tình đầu đẹp, nhưng cũng dễ đi qua. Như ngày xưa ấy. Ngày xưa bố cũng yêu một người. Nhưng không hiểu sao lại tan vỡ. Bố lại gặp một vài người nữa cho đến một hôm mẹ con tay xách hai thùng đi lấy nước.

Nhảy chân sáo xuống các bậc thềm và hát vang: “Em ơi vút lên một tiếng đàn” thì bố ló đầu ra khỏi phòng và tự hỏi: Ai thế nhỉ? Ai mà xinh xắn và có giọng hát trong trẻo thế kia. Và thế là yêu nhau, và ăn đời ở kiếp. Chỉ tiếc là bố không thể cùng sống đến khi mẹ con cũng đầu bạc răng long”.

Bố bị ung thư phổi, gan, dạ dày… tất cả các bệnh như chỉ chờ cùng lúc xuất hiện khi cơ thể suy yếu. Bác sĩ ái ngại hỏi: “Trước đây bác có chiến đấu ở vùng nhiễm chất độc da cam không?”.

Bố thở dài: “Có hành quân qua”. Bác sĩ lại bảo: “Sao bác không làm hồ sơ xin hưởng chế độ?”. Có chứ sao không, bố có làm hồ sơ, mà làm đi làm lại, làm tái làm hồi. Nhưng người ta cứ lắc đầu quầy quậy, bảo: “Bác thiếu cái này, bác thiếu thứ kia”.

Mà tất cả những năm tháng chiến đấu người lính chỉ được công nhận trong những tờ giấy nhỏ, toen hoẻn như bàn tay đứa trẻ lên ba. Đã úa màu theo năm tháng. Chỉ một lần bị tên bất lương móc trộm cả tiền lẫn giấy tờ trên xe đò.

Thế là mất tất cả: Quá khứ, chiến công, hy sinh. Tất cả như biến vào sương mù. Không ít người ngứa miệng kháo nhau: “Có da cam da kiếc gì đâu. Mấy đứa con, đứa nào cũng lành lặn, hồng hào, đẹp đẽ, dị tật gì đâu. Chẳng qua là chạy giấy tờ để hưởng chế độ”.

Bố không phải là không nghe thấy. Nhưng bố cũng chẳng buồn. Mỗi lần tôi đem giấy tờ chạy lên chạy xuống phòng Thương binh xã hội, bố lại động viên: “Thôi, con cứ làm đi, được thì được, chả được thì thôi.

Dù sao bố cũng đã sống gần hết đời người rồi. Đắng cay ngọt bùi trên đời cũng từng nếm trải. Bố chẳng tiếc gì, chỉ thương con vẫn lận đận tình duyên… Con gái mà mạnh mẽ quá cũng không tốt”.

Bố chẳng hy vọng gì ở sự bù đắp mong manh mà cái chất độc da cam thảm khốc năm nào đã gieo xuống từng tấc đất, từng khe nước của Trường Sơn hùng vĩ. Mà suy cho cùng, có sự bù đắp nào cho vơi đi được những mất mát cơ chứ. Mẹ tôi khóc quá trời. Bố an ủi: “Bà đừng sợ, tôi không bị da cam đâu, già rồi sinh bệnh đấy chứ?”.

Bố vẫn đòi uống rượu. Bố bảo cả cuộc đời bố chưa từng làm gì xấu, chưa từng cờ bạc, trai gái, chưa từng buôn gian bán lận, lừa dối ai. Chỉ duy có rượu là không bỏ được. Rượu như ngấm vào máu vào thịt, cứ như không có nó, bố không thể duy trì sự sống.

Tôi cũng thường hay ngồi tiếp rượu bố vào những khi cả hai bố con đều có nhiều tâm sự trong lòng. Một hôm, bố hỏi “Giả sử bây giờ thằng Vũ có quay lại tìm con, con có tha thứ cho nó không?”.

“Bố à, chuyện cũ đã qua lâu rồi. Con đâu còn nhớ nữa, tha thứ hay không liệu có ích gì đâu ạ”. Phải rồi, tôi không còn nhớ Mắt Lạnh dù tôi đã từng yêu anh. Mối tình đầu đã đi qua 8 năm rồi. Tôi đã yêu người khác. Người ấy đã hôn tôi.

Tôi không còn khao khát nụ hôn như ngày xưa tôi đã từng khao khát, mà nhiều khi, nụ hôn còn làm tôi cảm thấy chán ngắt vô cảm. Nhưng mà có thật là tôi đã quên anh không nhỉ khi mà mỗi lúc nhớ đến anh, lòng tôi chỉ một nỗi buồn tê tái? Đến khi tôi xem phim Fan Fan tôi mới biết vì sao ngày xưa Mắt Lạnh không bao giờ hôn tôi.

Có phải anh đã nghĩ như Alexander: “Chỉ yêu ở trong tim, không có nụ hôn, không va chạm. Vì như thế tình yêu mới là vĩnh viễn. Tại sao khi người ta yêu lại cứ phải hôn nhau, để rồi tất cả lại kết thúc như bao cuộc tình khác?”. Tôi không phải là Fan Fan và anh cũng không phải là Alexander. Vậy tại sao anh lại làm như thế? Tôi đã khóc.

Nước mắt của tôi mãi sau nhiều năm mới tuôn chảy, kể từ khi tôi nhận được bức thư mà Mắt Lạnh viết khi còn ở trong tù: “Ly ơi, em có tin không? Em là cô gái duy nhất trên đời anh không thể làm tổn thương. Bởi vì anh yêu em hơn tất cả trên đời…”.

Ngày ấy. Sao tôi lại không tin anh nhỉ? Sao tôi lại không khóc, sao tôi lại không tự hỏi vì sao? Và vì sao tôi lại đốt bức thư ấy đi, để nó trở nên một nhúm tro tàn? Đến khi tôi có thể khóc, đến khi tôi muốn nhào đến ôm lấy anh và hôn anh, nụ hôn đầu đời.

Nhưng đã muộn mất rồi. Tôi đã hôn người khác. Tôi đã nhận nụ hôn chẳng thiêng liêng, chẳng ngọt ngào thi vị như tôi đã từng tưởng tượng. Bao nhiêu năm qua, tôi cũng từng nghe nói về Mắt Lạnh. Nghe nói anh đã ra tù, rồi lại vào tù. Rồi lại ra tù. Bây giờ anh đang ở nơi đâu? Tôi đã chờ đợi anh mà sao anh không quay trở lại?

Bố tôi mất vào một ngày lặng gió. Gió đã biến đi như thể chúng đã thổi hết mình cho một ngày đã qua. Tôi không khóc được nhiều. Trước mặt thiên hạ, tôi không thể gào lên, lăn lộn, vật vã như biết bao đám ma khác.

Người ta chạy đến hét vào mặt tôi: “Em gọi bố đi. Gọi bố em đi”. Nhưng tôi không gào lên được. Nước mắt đã chảy sâu vào trong tim. Tôi lặng ngắm gương mặt bố tôi lần cuối cùng. Gương mặt bố hiền lành, nhân hậu biết bao. “Bố ạ, con gái của bố rất can đảm và mạnh mẽ phải không bố?”…

Đêm ấy. Trời đầy sao. Cả một bầu trời sao cùng lấp lánh, lấp lánh… Có lẽ linh hồn của bố tôi đã là một trong vô vàn vì sao ấy. “Đêm nay sao nháy. Ngày mai trời trở gió… Sẽ lại có một ngày gió lồng lộng thổi”.

Truyện ngắn Phạm Thanh Thuý

Đêm DươngCầm InUncategorizedonNovember 19, 2010at12:30 pm

Tôi quyết định dọn đến trọ ở nhà Dương. Không phải vì tôi thích. Mà vì anh không thích. Tôi muốn nổi loạn, khiêu khích anh bằng cách làm ngược lại những gì anh không thích. Ngay cả khi đó cũng là điều mà chính tôi không muốn. Thế thì đã sao nhỉ?

Khi tôi gửi email thông báo cho anh là tôi đã dọn đến rồi, tôi đắc ý cười lớn. Tôi hả hê tưởng tượng rằng anh sẽ tức giận biết bao. Nhưng dù anh có tức đến phát điên, cũng không đến mức vù một hơi từ nửa vòng trái đất về để hét vào mặt tôi được.

Trời hỡi anh chẳng thể nào tin được là tôi đã mong anh điên đến mức ấy như thế nào đâu. Vì tôi nhớ anh khủng khiếp. Tôi khao khát được nhìn thấy anh, chạm tay vào gương mặt anh bằng xương, bằng thịt.

Trong những giấc mơ chập chờn, hình ảnh hư ảo, và tôi không có cách nào chạm tay vào anh được. Sau những giấc mơ ấy, tôi tỉnh dậy và hoảng hốt với ý nghĩ: Lỡ một ngày nào đó, ngay cả gương mặt anh, tôi cũng không còn nhớ nữa.

Chiếc dương cầm không phải là vật dụng sang trọng nhất trong ngôi nhà có tới ba tầng ấy, mà hầu như toàn bộ tầng ba chỉ dành cho muỗi ở nếu tôi không dọn đến.

Đủ thấy, với chủ nhân của nó, tiền không quan trọng đến mức phải cho người thuê. Cũng có thể họ không thích phiền phức. Tôi là một ngoại lệ, bởi tôi là người yêu của anh còn anh lại là bạn của họ.

Khi đến xem căn phòng mà tôi sẽ trọ, đi qua chiếc dương cầm bóng loáng ấy, tôi chỉ nghĩ là: Chắc nó chỉ được trưng cho sang trọng thôi. Vì cũng giống như nhiều nhà giàu khác, trong các căn phòng thường bày nhạc cụ. Cốt để cho sang, hay thỏa mãn một tư duy thẩm mỹ nào đó.

Trước đây anh có nói cho tôi nghe về gia đình Dương, nhưng không nói về chiếc dương cầm. Nếu dương cầm ấy đúng là chỉ được trưng cho sang trọng, thì thật đáng tiếc. Là đàn mà không được ngân lên những giai điệu, thì thà chết đi còn hơn.

Đêm đầu tiên dọn đến, tôi khó ngủ bởi nhiều cảm xúc. Tôi mở cửa ra lan can ngắm nhìn thành phố đã chìm vào đêm. Tôi suýt rú lên khi thấy trong vòm cây bằng lăng ở cổng nhà Dương có một đốm sáng xanh ma quái chập chờn, đu đưa.

Là ma hay người đây? Định thần lại và suy đoán. Thì ra không phải ma cũng chẳng phải người. Chỉ đơn giản là cái bóng điện. Nhưng tại sao lại là một bóng điện màu xanh?

Rồi có tiếng dương cầm vang lên, những âm thanh rời rạc, tẻ nhạt, như là chúng kéo nhau lên từ âm phủ. Những âm thanh khiến tôi cảm thấy hai cánh tay mình nổi gai ốc. Cảm giác không phải sợ hãi, nhưng cũng không yên ổn… Sáng hôm sau, tôi được biết Dương là người đã tạo ra những âm thanh đó trong đêm…

Dương nhiều hơn tôi một tuổi, nhưng ngay từ cú chạm mặt đầu tiên, tôi đã bắt Dương gọi tôi là chị. Đó là sáng ngày thứ ba tôi dọn đến. Dương đứng ở cửa, nửa người và nửa gương mặt bên trái nép sau cánh cửa, nửa gương mặt bên phải với con mắt đen trong trẻo, vừa có vẻ sợ sệt, vừa có vẻ thích thú nhìn tôi đang xoay trái xoay phải trong bộ váy áo chẳng giống ai trước gương.

Bình thường khi bị ai đó nhìn trộm như thế, tôi có thể sẽ quát tháo om sòm, nhưng với Dương thì không hiểu sao tôi lại mỉm cười, còn vẫy tay, ra hiệu cho Dương cứ tự nhiên bước vào.

Nhận được tín hiệu ấy, Dương vui hẳn như đứa trẻ được phép chơi trò cấm. Tôi làm việc cho một bà chủ nhà mốt có vẻ lập dị nhất thành phố. Với bà ấy: “Hãy sáng tạo, với mốt, những ý tưởng càng điên rồ càng tốt”.

Và khi tôi khoác trên người bộ váy điên rồ mà có lẽ nếu tôi không đến, thì cả đời chắc Dương chẳng trông thấy bao giờ. Dương cười thích thú, miệng kêu lên: “Này, này…”. Tôi tranh thủ ra luật: “Từ nay Dương phải gọi chị là chị Đình. Nhớ chưa?”.

Tôi không thích cái tên của Dương. Vì sao? Chịu. Giá như lúc nào người ta cũng rạch ròi vì sao mình thích cái này mà không thích cái kia thì tốt biết mấy. Ít ra, người ta sẽ đỡ băn khoăn bởi những hành vi kỳ quặc của mình.

Tôi không bao giờ hỏi anh: “Vì sao anh yêu em?”. Vì như thế thì xoàng quá. Con gái trên đời ai chẳng hỏi những chàng ngốc của mình như vậy. Nhưng tôi nói với anh: “Nếu một ngày nào đó không còn yêu em nữa. Hãy nói với em một lời. Em sẽ không hỏi vì sao đâu. Thật đấy”.

Ngày tiễn anh ở phi trường, tôi đã lạnh người bởi ý nghĩ chợt đến: “Những ai từng tiễn chân ai cho những chuyến đi dài, ít có ai biết rằng: Tạm biệt nghĩa là không bao giờ gặp lại”.

Một lần Phú đến thăm tôi, đi qua phòng khách nhà Dương và chiếc dương cầm. Đi qua tầng hai là căn phòng của vợ chồng Dương với mùi khai khai của tã lót dù đã được tẩy ngâm bằng nước thơm. Rồi lên tầng ba với cái giá áo treo mẫu và chi chít những bản thiết kế điên khùng của tôi.

Phú vừa thở bằng mồm lẫn mũi, vừa cười khì khì, rồi lẩm bẩm, nhưng thừa sức để tôi nghe thấy: “Tiếc cho cậu ta. Nhà to, vợ đẹp tiền đẹp mà lại chẳng ra dáng được hưởng. Không biết phúc hay họa đây”.

Lần khác, Phú thao thao: “Tớ đảm bảo thằng Dương đến giờ phút này vẫn chưa từng biết nói từ đáy lòng: Anh yêu em với vợ, chứa đừng nói là với đứa con gái nào… Hừ, thế mà lại hóa hay. Vì giờ nó vẫn chưa đắc tội với ai. Tớ thèm được như nó”.

Tôi gí quả táo Tàu có màu nhờ nhờ đỏ vào mồm Phú cho cậu ta câm lại. Khổ thân Phú mỗi lần nói “Im Sorry” với một em, Phú lại than vãn: “Tớ lại tổn thọ một năm rồi”. Trời ạ. Cứ cái đà này, có lẽ Phú chỉ được hưởng 40 năm dương thọ.

Tôi nhớ anh nhiều lắm. Nhiều khi nhớ đến phát điên. Nhưng tôi sợ, lỡ có một ngày tôi không thể hình dung được khuôn mặt anh. Phú cổ vũ: “Nhớ thì gọi cho hắn đi, tội gì phải đày đọa mình”. Tôi vểnh mặt: “Điên à!”.

Tôi tỏ ra sĩ diện với Phú. Nhưng tôi đã nghìn lần ôm điện thoại, chầm chậm ấn từng con số quen thuộc để gọi cho anh. Để được nghe giọng nói của anh. Nhưng đến con số cuối cùng thì tôi dừng lại. Tôi nghe khoảng lặng đợi chờ trong máy mà chỉ muốn vỡ òa nức nở.

Tôi không sợ phá vỡ niềm kiêu hãnh của mình. Mà sợ, khi đường dây được nối, và đầu dây bên kia, không phải anh mà một giọng nữ nào đó – có thể chỉ là bạn anh – thì tôi sẽ òa khóc. Tôi chỉ tưởng tượng thế thôi, nhưng nếu là thật, tôi sẽ khóc. Tôi sẽ khóc trong từng đêm dương cầm này mất.

Dương chơi đàn vào mỗi buổi tối, hơi khuya khuya một chút. Khi ông bố bệ vệ của cậu ta đã thơm tho trong bộ pizama kẻ sọc hoặc hoa hoét, ngồi ưỡn bụng trên ghế, cái tăm quế đưa từ mép bên trái sang mép bên phải.

Mẹ cậu ta với cái đầu uốn xù xì chu chu cái miệng để nựng đứa cháu nội đang ra sức ọ ẹ và khua khoắng tay chân trong vòng tay hờ hững, thích thú nhìn cái mặt rầu rầu của mẹ nó.

Tất cả họ đều đang cố làm cái gì đó, nhưng cũng cố để ra vẻ lắng nghe, cổ vũ cho Dương. Nhưng thực tình, họ nghe như bị tra tấn. Mà họ đúng là bị tra tấn bởi âm nhạc của Dương thật. Bởi những âm thanh từ dương cầm ấy không phải là âm nhạc – chỉ gần giống như âm nhạc thôi.

Nhưng tại sao hầu như ngày nào cũng thế? Với những con người ấy, những nét mặt ấy? Chỉ có Dương là khác? Tại sao khác nếu như không có những lần vì tò mò tôi đã lặng lẽ quan sát họ.

Vẫn quanh quẩn với những âm thanh ấy, nhưng khi Dương đàn với vẻ miễn cưỡng, buồn chán, đau khổ. Nhưng cũng có những khi gương mặt gần như vô cảm của Dương như có ai thổi hồn, thoắt vui tươi, sống động. Có thể lúc đó, Dương thực sự đang chơi một bản nhạc.

Dương bị thiểu năng trí tuệ bẩm sinh. Thật may là cậu ta được sinh ra trong một gia đình nhiều tiền. Dương cũng có một anh trai và một chị gái. Nhưng vì họ được bình thường nên đã ra ngoài thực hiện hoài bão của đời họ. Chỉ có Dương từ bé tới giờ, cứ quanh quẩn sân nhà.

Bố mẹ Dương sau nhiều năm thử cách này, cách nọ, cuối cùng, họ mang về cho Dương một chiếc dương cầm với mong muốn: Biết đâu âm nhạc sẽ thức tỉnh tri thức ngủ quên trong đầu con trai họ.

Nghe nói họ mời nhạc sư cho Dương hẳn hoi. Nhưng có tới vài ông, bà, anh, chị, thầy – họ đều lần lượt bó tay mà chẳng để lại trong đầu Dương một cái gì đó gọi là âm nhạc. Trách họ sao được.

Công bằng mà nói, thì nếu chịu khó lắng nghe, cũng có thể sắp xếp được Dương đàn những gì. Có đấy, những chú ngựa tuyệt đẹp tung vó trên thảo nguyên bất tận… Có đấy tuyết rơi… Tôi mơ hồ nhận thấy Dương đang đàn bản “Tuyết rơi”. Phải chăng, người nhạc sư nào đấy đã để đọng lại trong đầu cậu học trò này vẻ đẹp tuyệt diệu của “Tuyết rơi”?…

Nhưng liệu rằng có ai đủ hơi sức sắp xếp để lắng nghe, nên cửa nhà Dương được lắp cách âm để giảm thiểu làm phiền hàng xóm, còn người nhà chịu khó bị tra tấn chỉ bởi ra vẻ như say mê, cổ vũ Dương lắm. Cũng có thể họ không sai. Cũng có thể với Dương, âm nhạc là lẽ sống.

Dương có vẻ thích thú với những bộ váy áo điên rồ của tôi treo lủng lẳng trên giá áo. Tôi làm ra nó, nhưng không dùng nó. Có cho tôi tiền tôi cũng không dám mặc ra đường.

Tuy nhiên, nếu cho cực nhiều tiền thì tôi có thể sẽ suy nghĩ. Vì cực nhiều tiền có thể giúp tôi và người khác khối việc. Người mẫu mặc nó trên sàn catwalk, hình ảnh truyền đi khắp nơi, kéo về cả đống tiền nếu trúng giải. Huống chi chỉ mặc chúng đi trên đường phố nhỏ nhoi.

Đường phố cực nhiều người đấy, nhưng cũng có cực nhiều kẻ chẳng thời giờ và công sức đâu mà quan tâm đến những điều quái lạ. Mẹ tôi vẫn dạy: “Có nhiều tiền cũng tốt. Vì có nhiều người nghèo khổ cần được giúp đỡ”.

Ý mẹ tôi là hãy làm từ thiện và cố mà làm từ thiện. Nhưng đừng có kiếm tiền bằng mọi giá. Vì nghĩ đến lời mẹ, mà mỗi khi chạm mặt vợ Dương, tôi lại thấy gờn gợn cái gì đó.

Vì biết Dương thích thú thế giới của mình, nên tôi kệ và thậm chí cho phép cậu ta thường xuyên tự do la cà trong căn phòng bừa bộn của tôi. Vì có Dương ở đó, trong lúc làm việc, tôi có thể thỏa sức nói chuyện.

Nói chuyện với một người mà người đó chẳng hiểu mình nói gì cũng thú vị lắm. Vì ít ra mình cũng thỏa sức nói những suy nghĩ và cả ấm ức trong lòng, để nếu ai đó phát hiện cũng không bảo mình điên. Mà điên thì đã sao?

Mẹ tôi vẫn bảo: Người điên cũng có cái hạnh phúc mà người bình thường thèm muốn. Ví như tự do làm những gì họ muốn, thích chửi ai thì chửi. Dương không và có lẽ là không phải là người điên.

Nhưng nghe những “bản nhạc” trong đêm của Dương thì cũng từa tựa như vậy. Nhưng cũng có cái hay. Hoặc là tôi cho rằng như thế vì tôi không phải trường kỳ chịu đựng.

Nhưng giá như tôi dám nói với ai đó rằng đôi khi tôi thích nghe những âm thanh ấy, giống như Dương thích những thiết kế của tôi như bà chủ nhà mẫu của tôi vậy.

Bà chủ của tôi, ở một phương diện nào đó, chẳng phải cũng “điên rồ” đấy ư?… Một lần tôi và Phú vào công viên chơi. Gặp một người “tự nhiên như người điên trong công viên”, thay vì cười hô hố như người khác, tôi đã quay mặt đi và lau nước mắt.

Thật may là Phú đã không cười khơ khơ khi thấy tôi rơi lệ. Phú còn nhẹ nhàng cầm tay tôi. Ôi, giá như khi đó, người cầm tay tôi là anh chứ không phải là Phú. Vì anh làm sao chịu hiểu: Với con gái, cả ngàn lời tha thiết cũng đâu bằng một hơi ấm bàn tay.

Mẹ Dương rất vui khi thấy tôi và Dương thân thiết. Bà ta nói: Chưa bao giờ thấy Dương được như vậy. Có khi, hai chị em rủ rỉ rù rì nói chuyện cả buổi sáng. Thực ra thì cả hai đều tự mình nói với mình.

Bà ta vui đến nỗi nói rằng: “Nếu cháu khiến Dương vui, thì cô sẽ không lấy tiền nhà, tiền điện nước của cháu nữa, coi như cháu là người nhà”. Một sáng Phú đến chơi, thấy hai chị em đang rủ rỉ nói chuyện, Phú gật gù: “Thằng bé này “vô hại thật”. “Có đặt nó cạnh tiên nữ – nó cũng “vô hại” thôi”…

Phú kể: Ở cạnh nhà Phú cũng có một cậu bé “không bình thường” suốt ngày bị xích chân vào cột nhà. Thế mà nếu được sạch sẽ, ăn mặc, chải chuốt, thì cậu ta cực đẹp trai mới ác liệt.

Mùa hè đó, không biết sao cậu ta không bị xích, bố mẹ cậu ta nói: “Đã ổn hơn rồi”. Thế mà, cả xóm nhà Phú bỗng nháo cả lên vì tin: Đàn bà, con gái trong xóm ngủ trưa bị cậu bé đó lẻn vào nhà và ngồi… ngắm ngón chân.

Sự thật, cậu bé điên ấy chỉ say sưa ngắm và sờ tay vào những ngón chân của những người phụ nữ – dù già hay trẻ. Cậu ta chỉ quan tâm đến những ngón chân chứ không hề quan tâm đến những điều khác. Vậy mà rồi cậu ta đã phải trả giá bằng việc từ đó, không bao giờ cái xích sắt rời khỏi chân cậu ta nữa…

Câu chuyện đó làm tôi muốn rơi nước mắt. Nhưng tôi không thể, vì tôi không muốn yếu mềm trước mặt Phú khi Phú về rồi, tôi chỉ muốn gào to: Tai sao người ta lại không dám tự do sống với cảm xúc thật của mình? Tại sao?

Dương mới cưới vợ được gần hai năm. Đám cưới ấy hẳn phải gây xôn xao dư luận quanh đó. Vì vợ Dương không những hoàn toàn bình thường mà còn khá xinh đẹp, ngon lành. Điều làm tôi đau đáu nhất là vì cô ta xuất thân từ một làng quê nghèo khổ. Phú rên rỉ: “Trời ơi là trời, chỉ tại cô ta nghèo mà Dương lại khá giàu”.

Từ ngày đến ở trọ nhà Dương, dù không muốn, nhưng tôi vẫn phải lượm lặt được ối chuyện mà những bà chị hàng xóm thích thời trang đến kể. Họ rỉ tai tôi: Nào là Dương không hề biết “yêu” vợ. Đến nỗi bố mẹ nó phải mất cả tuần dạy bảo. Thậm chí, bà mẹ còn cam tâm nhìn ông bố nó làm… làm mẫu.

Tai tôi ù đi. Tôi muốn hét vào mặt những cái mỏ son đỏ chóe lắm điều kia. Tại sao họ lại có thể buông những lời xúc xiểm tàn nhẫn ấy. Nhưng tôi không dám. Vì cảm xúc và lý trí của một người bình thường chế ngự tôi.

Nhưng mỗi khi đi qua tầng 2, nơi có căn phòng của vợ chồng Dương. Thấy vợ Dương bế con với nét mặt trơ lì, đôi khi, ông nội đứa bé còn âu yếm hôn cháu chùn chụt khi cháu đang… bú mẹ. Tôi đã lạnh người với ý nghĩ: Lẽ nào họ nói không đùa.

Tôi đi qua chiếc dương cầm của Dương. Bao lần cồn cào xiết bao cảm giác được chạm tay vào những phím đàn kia để tạo nên những giai điệu từng làm tôi và anh say mê… Nghe nói những phím dương cầm ấy được làm từ ngà voi hay xương cá voi gì đấy. Tội nghiệp những con vật khổng lồ.

Trong thế giới tự nhiên, nhiều khi cứ tầm thường thì lại được yên ổn. Nhưng dù Dương có mời tôi ngồi vào để đàn, thì tôi cũng chịu. Tôi mù tịt về âm nhạc. Nhưng âm nhạc lại khiến trái tim tôi rộng mở và khao khát, tin yêu. Tôi bỗng hiểu: Có những giới hạn tôi không thể bước lại gần, không thể chạm tay. Ví như anh…

Một ngày kia, khi tôi mệt mỏi lê bước về “nhà trọ”, đi qua nơi sinh hoạt thường ngày của gia đình Dương, tôi bỗng thấy Dương đã vui hẳn lên khi trông thấy tôi. Rồi khi Dương ấn ngón tay loạn xị trên những phím đàn, nhìn tôi với đôi mắt trong veo lấp lánh.

Tôi bủn rủn tinh thần bởi ý nghĩ: Dương biết yêu thích ư? Và Dương thích mình thì sao nhỉ?

Trời ạ. Tôi đã cảm thấy xấu hổ, và đau lòng khi nghĩ rằng anh sẽ cười tôi vì tôi đã hân hạnh được một người thiểu năng trí tuệ yêu thích… Nhưng lạ quá, cảm giác khiến một người như Dương vui sống, lại làm tôi có chút ấm lòng. Và nếu một ngày nào đó tôi chuyển đi, có lẽ không chỉ Dương đâu, mà tôi cũng sẽ rất buồn.

Phú mang một cây guitar gỗ đến: “Cậu thích nghe bài gì, tớ sẽ đàn cho cậu nghe?”. Tôi rệu rạo cười: “Phú ơi! Mang đàn đi cưa gái giờ xưa như trái đất rồi”.

Mặt Phú không biểu lộ một chút xúc cảm. Lẳng lặng rê tay lướt cung Đô thứ gì đó: “Đình nhầm rồi đấy. Tớ chưa bao giờ cưa những cô gái tầm thường ấy bằng những bản nhạc mà những nhạc sĩ đã vắt kiệt máu trong tim mình viết nên phí lắm”.

Dương cũng có mặt khi Phú vác guitar đến. Nhưng Dương không chú ý đến cây guitar của Phú. Với Dương, có lẽ nhạc cụ trên đời chỉ tồn tại một Dương cầm.

Dương lặng lẽ ngồi ở góc phòng. Trông Dương giống một Manơcanh vì khuôn mặt trái xoan với nước da trắng lướt của người chẳng bao giờ phải dãi nắng.

Gương mặt thì vô cảm, nhưng đôi mắt lại trong veo, lấp lánh. Đôi mắt như mượn được của một thiên thần nhân ái. Dương chăm chú nhìn tôi và Phú như là một tín đồ ngưỡng mộ tôn giáo của anh ta. Phú lại phớt lờ sự có mặt của Dương.

“Có một người có tình cảm với một người. Tuy đã định rõ hình thù rồi, nhưng chưa chắc lắm nên không dám nói”.

“Phú có biết một cái cây bình thường muốn tồn tại, cần yếu tố gì không?”.

“Đất, nước và không khí”.

“Đôi lúc không cần đất đâu. Chỉ cần hòa tan trong nước những dưỡng chất cần cho cây là được. Nhưng với cây sống cạn, cần phải có đất mới phát triển độc lập và vững chãi. Cái cây của cậu đang cần có đất, phải không?”.

Phú phì cười, tiếng đàn thoắt vui như người đánh đàn thuê vừa từ đám ma về đám cưới vậy. Đàn chán. Phú ngồi nhìn theo tôi qua ô cửa sổ. Thành phố nhấp nhô những công trình. Phú bảo:

“Cậu rất nhớ người đó đúng không? Sao cậu không chịu gọi cho hắn? Điện thoại đây, tớ vừa nạp 500 nghìn”.

Tôi lắc đầu, và lại muốn khóc. Nhưng trước Phú, tôi chỉ để mình rơi lệ một lần duy nhất ở công viên thôi.

Tôi đã quen với việc nghe tiếng dương cầm mỗi đêm của Dương. Dương làm việc ấy, đôi khi vì ông bố như kiểm tra bài vở của cậu con cưng. Đôi khi, có thể vì Dương thực lòng thích thú. Hết ngày này sang ngày khác. Trật tự y nguyên như một chu trình.

Tôi không cảm thấy phẫn nộ vì bố mẹ Dương nữa vì người ta cho rằng họ đã đầy đọa Dương. Tôi cho rằng có thể họ đã đúng. Chí ít thì tôi cũng tin rằng Dương đã biết bộc lộ cảm xúc khi lướt tay trên những phím đàn ngay cả khi Dương chẳng hiểu mình đàn những gì.

Rồi cũng đến một hôm tôi ôm điện thoại lại nhẹ nhàng bấm từng con số quen thuộc để được nghe anh nói. Chỉ còn một con số cuối cùng, mà tại sao nhỉ? Tại sao tôi lại không làm thế trong khi tôi có thể? Tôi sợ gì cơ chứ? Sợ sự tưởng tượng hoang đường của mình ư?

Nhưng trong lúc tôi mải phân vân thì ngón tay tôi đã tự ý làm điều đó mất rồi. Sau những hồi dài chuông đổ. Và đầu dây bên kia, một giọng nữ trong vắt: “Hello”.

Tất cả quanh tôi đều ngừng lặng. “Xin chào. Alô…”. Giọng cô gái đầy nghi vấn “Hi!…”. Cô ấy tiếp tục. Tôi cúp máy từ lúc nào tôi cũng không biết nữa. Sao lại có sự ngẫu nhiên đến thế?

Mà có lẽ tôi chỉ tưởng tượng đấy thôi. Tôi có khi nào dám phá vỡ niềm kiêu hãnh của mình để gọi cho anh đâu. Ngay cả con số cuối cùng tôi còn không vượt qua nổi cơ mà…

Chuông điện thoại của tôi đổ. Và giọng nói của anh. Giọng nói đêm ngày tôi nhung nhớ: “Đình ơi. Đừng cúp máy. Nghe anh nói này. Đừng hiểu lầm… Anh…”. Ô kìa! Anh thật ngốc, tôi có nói gì đâu. Có trách móc đâu. Có hiểu lầm đâu. Sao anh lại cuống lên như người mắc lỗi thế?

Buổi sáng tôi không thức dậy vì suốt đêm không ngủ khi tôi mở cửa căn phòng. Dương đã đứng ở đó từ bao giờ, trên tay Dương, một bó hoa hồng rất đẹp. Tôi còn chưa kịp ngạc nhiên thì Dương đã đặt bó hoa lên tay tôi.

“Dương chúc mừng chị…”.

“Mừng cái gì?”.

“Mừng ba… ba…” – Dương bắt đầu cuống, trước nay Dương chưa bao giờ diễn đạt một câu dài, trừ khi được dạy để học thuộc lòng. Tôi chợt hiểu ra.

“À, hiểu rồi, mừng ba tháng đến đây chứ gì?”.

Mắt Dương sáng rỡ.

“Ừ, chị Đình cảm ơn Dương”.

Tôi nói rồi quay người trở vào. Nhưng ngay lập tức vai phải của tôi bị bàn tay mềm, lạnh của Dương giữ lấy. Tôi chưa kịp hiểu thì má tôi nhận được một nụ hôn ướt lạnh. Dương cười rạng rỡ trước khi chầm chậm quay người đi xuống. Còn lại một mình ngơ ngác với bó hoa trên tay, tôi muốn được khóc.

Tôi lẳng lặng mang từng thứ đồ đạc của mình ra khỏi nhà Dương, trông bộ dạng len lén như kẻ trộm chính đồ đạc của mình vậy. Phú nôn nóng:

“Cậu sao không nói một câu, tớ gọi xe đến, khuân vèo một cái là hết, làm gì mà khổ sở thế”. Tôi không đàng hoàng dọn đi như khi tôi dọn đến, vì dù nếu mẹ Dương không yêu cầu: “Cô xin cháu, đừng làm thế. Dương sẽ buồn lắm…” thì tôi cũng không làm vậy.

Tôi không biết trong trái tim và khối óc của Dương đang cần nói lên điều gì, nhưng tôi cũng cảm thấy mình không nên có hành vi giống như “rũ bỏ”. Cảm giác của Dương có khác gì cảm giác của tôi khi thấy anh đang trôi khỏi tầm tay mà tôi không có cách nào giữ lại.

Mà nói cho đúng: Có khi nào tôi chạm được vào anh.

Chiều Hồ Tây gió lộng, ly cà phê cũng man mác gió. Phú tưng tửng: “Người trên đất khách dễ bị tình cảm và sự cô đơn chi phối lắm. Vợ chồng đầu gối tay ấp mà còn phản bội nhau được, nói gì đến người yêu…”.

Tôi không khóc, không phải sợ mình ngu ngốc, yếu mềm trước Phú, mà là không sao khóc được. Sao anh không nhớ nhỉ, rằng đã có lần tôi nói với anh: “Nếu như anh không còn yêu em nữa, hãy nói với em một lời. Em sẽ không hỏi vì sao đâu. Thật đấy”.

… Dương lại chơi đàn như bao đêm khác. Ở ghế dài, vẫn ông bố phì nộn của Dương với cái tăm quế hết đu đưa ở mép bên trái, lại sang mép bên phải. Vẫn khuôn mặt khá đẹp và trơ lì của vợ Dương…

Tôi đến bên dương cầm. Dương ngừng lại ngước nhìn tôi. Rồi tự nhiên, không hề chủ động, tôi đưa một ngón tay ấn một phím đàn. Phím đàn ngân lên một âm thanh lạc lõng.

Tôi nhìn Dương, mắt Dương nhìn tôi như đã từng nhìn ngắm say sưa những mẫu thiết kế của tôi vậy. Tôi lại bắt đầu đặt năm ngón tay lên những phím đàn. Lại ngần đó âm thanh vang lên. Và như có một tiếng hô: “Một, hai, ba”… vô thanh cả tôi và Dương đều cùng lúc ấn cả 10 ngón tay trên những phím đàn… và không dừng lại.

Từng chuỗi, từng chuỗi những âm thanh vang lên. Dương cười vang, tôi cũng cười vang. Hai chị em loạn xị khua những ngón tay trên những phim đàn say sưa hòa tấu một bản nhạc vô thức và say mê của hai tâm hồn khờ khạo.

Dương cầm lặng tiếng rồi… và đêm cũng lặng. Tôi lại một mình trên tầng ba ngắm thành phố trong đêm. Có điều gì băn khoăn, trăn trở nhỉ, khi mà đây vốn là nơi tôi không hề muốn đến?

Cái bóng điện màu xanh ma quái cứ đu đưa, đu đưa… trong vòm lá bằng lăng. Tôi vẫn không hiểu vì sao cổng nhà Dương lại lắp cái bóng điện màu xanh ấy.

Tôi nhớ lời mẹ tôi vẫn bảo: Những người điên cũng có cái hạnh phúc mà nhiều người bình thường thèm muốn: Ví như họ có thể tự do làm những gì họ muốn. Thích chửi ai thì chửi.

Vì sao có một số người: Đã yêu lại cứ phải nói là không yêu? Tại sao quên, lại cứ phải giả vờ rất nhớ?

Truyện ngắn Phạm Thanh Thuý

***

Cô bé mới mười tuổi, không hình dung rõ mức độ của hai từ “cô độc”. Cô chỉ nhớ một tối mùa đông, trong căn nhà lạnh giá không một sắc màu sặc sỡ, mẹ cô cũng run rẩy thốt lên hai từ “cô độc”. Từ đó cô bé mặc định rằng “cô độc” có nghĩa là lạnh lẽo… như người bất động ngoài cánh đồng mưa kia…

Năm mười tuổi, lần đầu tiên cô bé giết một con kiến đen ngơ ngác lạc vào trang giấy kẻ ô ly trên bàn học. Đó là một buổi chiều lạnh giá. Cô bé im lặng ngồi nhìn ra cửa sổ, trong tay là chiếc bút chì màu hồng, một đầu bút đính cục tẩy cũng màu hồng, đầu kia vót nhọn hoắt.

Cô bé định viết hay vẽ cái gì đó lên trang giấy trước mặt. Chú kiến đen ngác ngơ bò vào trang giấy, bò qua bò lại. Cô bé ngắm kiến đen chăm chú, rồi bất ngờ lấy ngón tay cái có móng dài, từ từ xiết nhẹ ngang thân con kiến, ở ngay chỗ thắt eo của nó…

Nửa đầu của con kiến cuống cuồng lao đi tìm một chỗ ẩn, nửa thân sau bất động, một cái chân bị cưa đứt run rẩy bên cạnh nó. Con mèo trắng có đôi mắt xanh biếc nằm bên cạnh dường như không hay biết số phận bi thảm của con kiến, nó him mắt đợi chờ một cái vuốt ve.

Nhưng vào lúc ấy, nửa thân sau đã chết của con kiến bị nhấn chìm trong một giọt nước ấm và mặn mòi. Nửa thân sau đã chết của con kiến nghĩ rằng cuối cùng nó cũng được gặp biển.

…Mẹ nàng, vào một hôm nào đó tâm trạng bất thường, đã nói cho nàng hay rằng nàng vốn không phải là con gái ruột của bà. Khi còn trẻ, bà làm công cho một bệnh viện và một đêm nọ đã nhặt được nàng trong một cái thùng cacton.

Bấy giờ vợ chồng bà đã có một cô con gái. Họ đón nhận nàng như thể nàng là món quà của thượng đế, dẫu họ không có căn cứ gì để tin ở thượng đế. Nàng được đặt tên là Tim, một cái tên rất gợi.

Nàng có một tuổi thơ bình thường, không bận tâm gì đến việc mình bị một ông bố bà mẹ đẻ nào đó đang trôi trong đời kia bỏ rơi. Nàng chỉ hơi trầm lặng, điều mà bố mẹ nuôi nàng nghĩ hẳn đó là kết quả của một trái tim quá nhạy cảm.

Sau này, bố mẹ nuôi ly dị, nàng sống với chị gái nuôi. Bố mẹ nuôi của nàng sau khi ly dị, đã gần như ngay lập tức có gia đình mới. Họ ví hai chị em nàng như hai nửa của một tờ bạc mệnh giá cao, không có nửa kia thì không tiêu được. Có cả hai thì họ lại không thể tiêu chung.

Chị gái nàng cho rằng chị ấy có thể đảm nhận việc nuôi dạy nàng hoàn toàn tốt như một bà mẹ chỉn chu. Thực tế đã chứng minh như thế. Năm mười tám tuổi, trong khi bạn bè vẫn còn nhõng nhẽo bố mẹ, thì chị ấy đã kiếm được nhiều tiền từ các công việc làm thêm, có thể tự nuôi mình một cách sung túc. Chị gái nàng là mẫu phụ nữ hiện đại mà cả xã hội này mơ ước.

Năm đó bố mẹ nuôi của nàng ly dị. Nàng sống với chị gái nuôi. Chị ấy hai mươi, còn nàng tròn mười tuổi.

Mê khúc 2

Cô chủ nhiệm có mái tóc xoã ngang vai và đôi mắt đen dài nói với chị của cô bé rằng trong lớp học cô bé không bao giờ để tâm lên bảng, mà chỉ nhìn ra ngoài trời, ngay cả khi cửa sổ không mở. Nhưng lạ là hỏi gì cô bé cũng trả lời rất tốt. Trong lớp, em luôn là một trong ba người đứng đầu về thành tích học tập.

Người chị gái trẻ măng sau khi nghe cô giáo nói, lẳng lặng dắt em về căn nhà cấp bốn cũ kĩ nhưng rất sạch sẽ, căn nhà do cha mẹ họ khi tìm được tổ ấm mới đã để lại. Ngôi nhà nằm trong vườn thông già lặng lẽ, mái ngói thâm nâu luôn có vẻ ẩm thấp, một loài rêu nào đấy hoan hỉ mọc, lá thông phủ dày trên mái ngói, rụng đầy trên lối đi. Sau nhà là một cánh đồng. Một cánh đồng thi thoảng bị mưa phủ trắng xóa…

Người chị gái vuốt tóc em thầm thì: Giá như chị nhiều thời gian dành cho em hơn nhỉ? Giá như em chịu nói chuyện với các bạn thì tốt hơn không? Giá như…giá như…

Cô bé Tim hôm nào cũng ở nhà một mình. Người chị gái làm kế toán ở một công ty cách nhà ba cây số, luôn luôn về muộn vì các công việc bù đầu. Chị tháo vát nhưng giản dị. Vì nết giản dị ấy mà trong căn nhà của hai chị em không hề có lấy một bức poster ca sĩ, diễn viên hay ban nhạc nào cả. Khi có một mình trong nhà, cô bé chỉ ngồi nhìn ra cánh đồng, nơi có người bất động trong mưa, trong nắng.

…Nhưng nhiều năm trôi qua, chị gái nuôi của nàng vẫn không thành đạt dẫu thay chỗ làm xoành xoạch. Chị bảo chị là người tài giỏi nhưng không thông minh. “Thông minh” ở đây được hiểu theo nghĩa là “biết sống”. Khi còn là sinh viên, việc kiếm được nhiều tiền do năng động lại không mấy liên quan đến việc “biết sống” hay không biết sống. Khi đi làm, người ta chú trọng việc biết sống hơn tài năng. Việc này thoảng nghe thì phi lý. Nhưng thực tế lại rất có lý…

Nàng lơ đãng lướt qua màn hình máy tính, chị nàng đang than thở với anh người yêu cách xa tận Tân Tây Lan về đường công danh lận đận…

Bên tai nàng là tiếng nỉ non của con chuột nhỏ. Con chuột nhỏ là một trong những con chuột bị nàng bắt và sẽ giết chết rồi ném xác ra đường. Những xác chuột chết bị xe cộ qua lại cán bẹp dí, hôm sau chỉ nhìn thấy một mảng bết lại, khô cong, rồi bằng cách nào đó tan biến không một dấu vết.

Con chuột nhỏ thôi nỉ non, ngước đôi mắt hạt đậu đầy run rẩy lên nhìn nàng. Bình thản và cẩn trọng, một tay nàng dùng chiếc que ấn con chuột xuống, tay kia nhón lấy đôi tai nó, mặc nó giẫy giụa tuyệt vọng, nàng từ từ ấn đầu và cả thân con chuột xuống chậu nước, một chốc lại nhấc lên, lại ấn xuống. Cuối cùng, nàng vứt xác con chuột ướt mẹp ra đường trong khi hai hàng nước mắt chảy dài…

Nàng đi qua sau lưng chị gái, chập chờn dòng chữ lấp lánh anh kia gửi cho chị nàng: “Em lẩm cẩm hay sao? Tim đâu có phải máu mủ ruột rà gì với em nào…”.

Linh tính nhạy cảm, chị nàng ẩn rất nhanh câu chuyện, quay sang thảng thốt: “Tim, sao em khóc thế?”

Mê khúc 3

Một hôm, cô bé Tim chợt hiểu rằng hình như người luôn bất động ngoài cánh đồng mưa kia không phải là người thực. Người thực thì không thể lúc nào cũng ở nguyên một chỗ như thế. Thế thì ai đã đứng đó trong nắng, trong mưa?

Cô bé Tim bước trên lối đi rụng đầy lá thông, chầm chậm tiến ra ngoài cánh đồng. Cánh đồng vùn vụt gió. Tấm áo của người bất động tung bay phần phật. Cỏ xanh mềm và ẩm ướt dưới chân. Cô bé đứng im lìm trên cỏ. Người bất động không có mặt mũi, chỉ có một chân và hai tay dang rộng. Chiếc nón lá rách bươm đội trên đầu cũng lúc lắc theo từng cơn gió…

“Tôi biết thế nào bé cũng đến. Bé muốn nói chuyện cho tôi khỏi buồn phải không? Ở đây rất buồn, chỉ có gió…chỉ có gió…”.

… Khi cô bé mở đôi mắt trong veo thì người thanh niên thôi nhìn đám lá thông vi vút trên đầu.

“Chết. Em bị cảm gió ngoài đồng, may mà anh trông thấy, không thì…lần sau không được ra đồng một mình đấy nhé”.

Đó là lần đầu tiên chị em cô bé gặp Minh, chàng kĩ sư nông nghiệp có đôi mắt thật vui. Minh kể, từ xa thấy một cô bé đi ra đồng, đứng bất động rất lâu trước con bù nhìn trông lúa giống của anh. Một lúc lâu nữa không thấy cô bé đâu, chạy đến nơi đã thấy bất tỉnh nhân sự.

Từ buổi trưa nhiều gió đó, cô bé nhận ra mình biết nói chuyện với người bất động. Người bất động bảo người ấy có nhiệm vụ đuổi chim, đuổi chuột, chim chuột là giống ăn hại mùa màng, phải diệt chúng đi. Cô bé nghĩ đến việc giết chết những con kiến, rồi những con gián. Lần nào cô bé cũng vừa giết chúng vừa khóc. Rồi cô bé bắt đầu giết chuột. Một công việc đầy đam mê và cũng đầy nước mắt…

…Một lần, đôi mắt người chị gần như tê dại khi nhìn thấy cách cô bé giết chết con chuột. Và bằng một giọng hơi nghẹn, chị hỏi: “Em ác thế? Lúc bé em còn không bao giờ giết một con kiến cơ mà?”

Cô bé không nhớ khi còn sống chung với bố mẹ nuôi, cô có không bao giờ giết một con kiến như lời người chị gái nói không.

Một đồng nghiệp của chị gái nàng nói rằng “u sầu” không phải là tính cách, mà là một loại bệnh. Nó là cách nói khác đi của bệnh trầm cảm. Bệnh này không đơn giản và dễ chữa, nếu không thận trọng sẽ dẫn đến tử vong.

“Trầm cảm ư? Em tôi không thể nào bị bệnh trầm cảm được. Em học giỏi, rất ngoan…”.

Minh bảo có thể khi còn bé, em ấy gặp một biến cố nào đấy lớn lao…Rồi anh kịp dừng lại, ánh mắt lảng đi chỗ khác, anh biết lâu rồi, biến cố ấy là gì…

…Nàng hay ngắm mình trong gương. Thiếu nữ mười bảy tuổi trong gương trao lại cho nàng một cái nhìn lạnh giá. Mẹ nàng thi thoảng ghé thăm hai chị em, kiểu ghé thăm đầy ban ơn và tò mò. Bà thường nhìn nàng rất lâu, rồi lại bảo sao không thấy có ai tìm kiếm nàng nhỉ?

Anh Minh luôn đợi chị nàng khi chị ấy về muộn, một hôm bảo với nàng rằng bé có biết không, bây giờ nhiều người sống bằng tim giả lắm. Giống người tim giả ấy rất đáng sợ, rất đáng sợ… Anh lại bảo nhiều người tim giả ấy hay lấy lòng người khác bằng cách gào lên cho cả thiên hạ biết là tôi yêu cô ấy/anh ấy mãi mãi. Bằng cách nào ư? Là gọi điện đến chương trình của đài, vô tuyến, vân vân. Rồi anh lại gật gù, dù sao trong bọn tim giả ấy cũng có thằng tim thật. Dù sao họ cũng có một phần can đảm…

Chưa khi nào anh Minh nói đợi chị nàng về vì… muốn đợi. Anh chỉ bảo tình cờ ghé qua. Nàng thinh lặng nghe hai người nói chuyện. Chiếc bút chì màu hồng có một đầu đính cục tẩy và một đầu vót nhọn. Nàng cầm nó trong tay, trước mặt là trang giấy trắng.

Con mèo trắng có đôi mắt xanh biếc luôn nằm bên và him mắt. Con mèo đã già đi nhiều, giọng meo của nó đã khàn đi. Nó thường bình thản và ngoài cuộc những vụ giết chuột của nàng… Đêm đêm, nàng nghe thấy tiếng nhón chân của nó trên nền ẩm mục lá thông, trên nền xanh êm của loài rêu mọc trên mái nhà.

Một đêm, chị nàng dùng điện thoại dò sóng FM, có một chương trình mà người ta công khai gửi lời tỏ tình đến với người mình yêu, mà vì lẽ nào đó trong đời thực họ không nói được.

Chị thở dài…

Mê khúc 4

Anh Minh tuần nào cũng ghé qua nhà cô bé một đôi lần, thường thì anh đứng ở sau nhà, một tay chống hông, một tay vịn vào chấn song cửa sổ, cả mắt và miệng anh cùng cười. Anh bảo mỗi vụ anh phải làm một bù nhìn mới, ban đầu chỉ là bù nhìn rơm và trang trí qua loa thôi, nhưng sau anh nảy ra ý nghĩ tại sao không làm một bù nhìn như người thật. Để làm gì nhỉ? Chả biết, chỉ biết có ai đó trong thẳm sâu mách bảo như thế.

Nhưng bao bù nhìn thế chỗ bù nhìn xưa, thì cô bé đều biết thực ra không có ai thay thế cả, vẫn giọng nói ấy, vẫn tâm tình ấy, bù nhìn không khi nào thay đổi tấm lòng. Bù nhìn lần đầu tiên nói chuyện với cô bé, hứa rằng sẽ tặng cô bé một món quà nhiều ý nghĩa.

Một buổi trưa ghé qua cửa sổ, anh Minh trao cho cô bé một món quà: Một cây bút chì màu hồng có khắc chìm ba chữ cái “TIM”

Bù nhìn nắm chặt tay nàng “Ta đi thôi!”.

Nhưng chàng đứng lặng, đôi mắt hẫng hụt chơi vơi nhìn ra cánh đồng mưa. Một cơn mưa bất ngờ dữ dội khiến những chiếc xe tải ù ì chở đất lấp đồng ngẩn ngơ và chịu nằm chết dí, chờ cơn mưa qua. Bù nhìn thảng thốt, còn nàng tuôn nước mắt như vừa giết chết nhiều con chuột.

Chị gái nàng nằm trên giường nghe sóng FM, bên ngoài là cơn mưa tháng sáu. “Xin mời chủ nhân số điện thoại 090… nhận món quà là ca khúc… do số điện thoại … 098… gửi tặng với lời nhắn “lời bài hát cũng là lời anh muốn nói với em…”.

Giọng chị nàng nghẹn ứ “Trời ơi! Tên ngốc này! Bao nhiêu năm sao không nói…”.

Chị chạy đến bên nàng, muốn khoe với em về món quà lãng mạn, lại nghĩ em ngủ rồi nên thôi.

…Nàng để tay mình trong tay bù nhìn, hai người đi vào mưa. Bỗng nàng sựng lại. Nàng quên không mang đi một món quà. Chiếc bút chì màu hồng, bảy năm trôi qua, chỉ được viết duy nhất bức thư yêu cầu bài hát gửi chị nàng thay Minh.

Chị nàng cầm cây bút chì trên tay ngắm nghía. Có lần nàng bảo bút chì nếu viết sẽ mòn đi mãi mãi.

Gió và mưa lay rèm vải phơ phất… Chị nàng ngồi nhìn ra sau nhà, lần đầu tiên thấy hai bù nhìn đứng giữa đồng mưa.

Mê khúc…

Hà Nội 2010

Truyện ngắn của Phạm Thanh Thúy

***

Lặng nhớ mùa đông...

Khi bạn đọc câu chuyện này có thể là mùa đông đã đi qua. Nhưng mà chẳng sao, năm nào mà chẳng có mùa đông. Sẽ lại có một mùa đông khác. Rồi một mùa đông khác…

Tôi không thích mùa đông. Mùa đông là mùa của nhà giàu và son phấn. Tôi thì nghèo và lại dị ứng với phấn son.

Hồi tôi học tiểu học, một lần cô giáo tôi hỏi cả lớp: “Em thích nhất mùa gì trong năm?”. Đứa nào cũng trả lời là thích mùa hạ, mùa xuân và mùa thu. Chỉ có tôi trả lời là thích mùa đông. Vì tự nhiên tôi thấy thương mùa đông. Vì không ai thích mùa đông cả. Có lẽ đó là lời nói dối hoàn hảo đầu tiên trong đời.

Năm nay tôi bước vào tuổi ba mươi. Người ta bảo phụ nữ ở tuổi ba mươi bắt đầu lo lắng cho tuổi tác. Bình thường người ta sống được bao nhiêu năm nhỉ? Sáu mươi năm như lời một bài hát cũ chăng? Tôi thì cho rằng mình vẫn còn sướng chán.

Phụ nữ ở Bangladesh phần đông thậm chí còn không biết chính xác là mình bao nhiêu tuổi cơ mà. Có khi không biết mình bao nhiêu tuổi lại hay. Bởi như thế người ta sẽ không bao giờ lo lắng khi bước sang tuổi ba mươi. Bọn bạn tôi trêu: “Vân ơi mùa đông lại đến rồi đấy!”.

Tôi cười hì hì: “Hai mươi chín mùa đông đã qua tớ vẫn ổn, lo gì mùa đông thứ ba mươi?”. Nói thế cho vui, chứ thực lòng đôi khi trái tim tôi tê tái khi đứng trên lan can tầng ba nhìn dòng người xuôi ngược với những lứa đôi nhiều lo toan và hạnh phúc.

Trái tim tôi trống rỗng. Cuộc đời tôi trống rỗng. Thi thoảng tôi gặp Hạnh. Hạnh là vợ Huy. Huy là người yêu đầu tiên của tôi. Hạnh kể: “Bà già chồng em kỳ lắm. Lần nào mắng em bà ấy cũng mắng lây sang anh Huy: “Giá mà ngày ấy mày lấy con Vân thì có phải bây giờ tao đỡ khổ không?”.

Và lần nào nghe mẹ chì chiết thế thì dù có bận mắc việc gì anh ấy cũng bỏ lên giường nằm thu lu. Có hôm còn khóc”. Chả biết Hạnh nói thật hay đùa, trong lòng tôi có chút hãnh diện. Tôi lại đâm ra thương mến Hạnh. Nếu là Hạnh, tôi sẽ chẳng bao giờ kể cho người yêu cũ của chồng mình nghe những chuyện như thế hoặc tương tự thế.

Ngày ấy là Huy bỏ tôi. Hai đứa yêu nhau tha thiết, tưởng không lấy được nhau sẽ ôm hận cả đời. Đùng một cái, Huy lặn một hơi không sủi tăm. Đến khi sủi tăm thì đề nghị chia tay. Chia tay thì chia tay. Tình đầu là lẽ sống nhưng không phải là sự sống.

Mà sao năm đó mùa đông kéo dài lạ lùng. Cái rét mùa xuân mà cứ se sắt lạ. Tôi không khóc như nhiều cô gái thường khóc khi chia tay tình đầu. Nhưng tôi hay ngồi một mình nhìn vào một khoảng không nhất định. Khoảng không ấy là khu vườn nhà với những gốc cây đen đúa xù xì, xấu xí. Nền đất vườn màu nâu và những chiếc lá đã rụng cũng màu nâu ẩm ướt.

Tôi tưởng là tôi không còn có thể yêu được nữa. Huy đã đánh cắp trái tim tôi, làm sao tôi còn có thể yêu với một trái tim đã mất? Một sáng nọ, tôi thức dậy và trông thấy cả vườn cây đang rực rỡ nắng vàng. Một đàn gà con nhỏ xíu đang líu ríu bên gà mẹ.

Chúng nhiệt tình bới tãi trên nền đất vườn màu nâu và những chiếc lá đã rụng cũng màu nâu ẩm ướt. Tôi cố nhớ về Huy. Lần đầu tiên tôi nhận ra là mình đang cố hình dung lại khuôn mặt Huy.

Từ ngày Huy kết hôn, tôi có gặp lại Huy vài lần. Không nhiều để đến nỗi lôi được tình đầu đã ngủ yên thức giấc. Huy vẫn cố ra vẻ tự nhiên như ngày nào nhưng Huy chẳng bao giờ nhìn thẳng vào mắt tôi nữa. Huy có vẻ buồn buồn.

Tôi đã không còn buồn nữa sao Huy lại phải buồn?

Có người bảo tôi có đôi mắt biết đọc rạch ròi những suy nghĩ của người khác.

Khi tôi quen với Thạch. Thạch bảo: “Mắt chị đẹp thế sao cứ luôn không nhìn thẳng vào người khác. Chị không tự tin à?”. Tôi đáp: “Không phải. Là chị sợ sẽ phải biết quá nhiều. Mà biết nhiều không hẳn đã tốt”.

Thạch cười ha ha.

Tôi rất ấn tượng bởi những buổi tối đi uống cà phê cùng với Thạch. Nói cũng chẳng có gì đặc biệt lắm đâu. Nói là đi uống cà phê. Chứ thực ra thứ mà tôi vẫn uống không phải là cà phê. Tôi ghét cà phê bởi chúng khiến tôi mất ngủ.

Tôi sợ những đêm không ngủ được và phải vật lộn với những buồn vui do mình tưởng tượng ra. Mỗi khi tôi hỏi chủ quán về thành phần của thứ nước uống là họ bưng ra cho tôi. Chủ quán chỉ đáp lại bằng một nụ cười vô thưởng vô phạt.

Thạch bảo: “Họ không muốn tiết lộ bí mật đấy. Cũng có thể họ nghĩ chị đùa!”. Tôi lý sự: “Nghe chị giống nói đùa lắm à? Đã qua lâu rồi cái thời mà người ta uống nhưng không biết mình uống gì. Chị đang đòi hỏi cái quyền ấy đây”.

Nói thế chứ tôi vẫn cứ uống hết ly nước trước khi ra về. Thạch lại nghiện cà phê, còn bảo: “Bao giờ chị thích uống cà phê, em sẽ giới thiệu cho chị một loại cà phê có tên là Salệ. Uống cà phê đó không dưng người ta sẽ khóc. Nước mắt hòa cùng cà phê đem lại cảm giác không văn nào tả nổi”.

Ngó qua, thấy mắt Thạch xa xăm.

Loại cà phê đó nếu có thực chắc tôi cũng chẳng bao giờ được thưởng thức. Tôi không có nước mắt. Đúng hơn là rất ít. Ngày còn nhỏ, dẫu có bị đánh mắng vì hư hay oan ức thì tôi cũng gào thật to.

Nhưng mắt lại ráo hoảnh. Giọt nước mắt hiếm hoi thì đã khô từ đời tám hoánh. Mẹ tôi từng than: “Con này kỳ quá. Có một trên đời”. Bố lại tỏ ra khoái chí: “Quý tướng đó chứ không phải đùa. Sau này không bao giờ phải buồn”.

Nếu như không có nước mắt mà cả đời không bao giờ phải buồn thì đời tôi đã rẽ sang ngả khác.

Nhiều người bảo tôi sở dĩ khóc không có nước mắt là do khóc giả vờ.

… Tôi mua hoa hồng. Toàn hoa hồng màu kem đem đến cắm đầy bình rồi trang trọng đặt nó ở giữa phòng làm việc. Cả phòng ngạc nhiên: “Vân hôm nay yêu đời nhỉ? Yêu ai rồi phải không?”… Rồi bung ra những chuỗi cười hi hi… ha ha… Thạch không cười, mắt nhìn chăm chăm vào những bông hoa và bằng một nét mặt không thể nào phân tích được.

“À, sáng nay cháu ra chợ, thấy hoa vừa đẹp vừa rẻ nên mua. Nếu các chú không thích thì…”. “Không, không, thích chứ…”. Mấy ông chú cuống lên như thể sắp bị tước mất phần thưởng cuối năm quý giá. Hết giờ làm việc, Thạch túm tay tôi bảo: “Em sẽ giới thiệu cho chị một người. Anh ấy thích hoa hồng màu kem lắm”. “Thật à?”.

“Thật chứ”. Thạch nói vội vã như thể không nói thì không bao giờ được nói. Tôi gật đầu. Gật là để gật vậy thôi chứ tôi chẳng quan tâm. Chẳng hứng thú gì về cái con người yêu hoa hồng màu kem ấy. Với lại, tôi cũng đâu có yêu hoa hồng màu kem. Với tôi hoa nào cũng thế cả thôi, miễn là chúng đừng quá xấu và đừng có mùi hôi.

Mùa đông dần đi qua. Với tôi, ngày nào cũng như ngày nào, chẳng có gì thay đổi. Trong khi đó thì có rất nhiều thứ đang thay đổi. Quán cà phê “Chiều Tím” nơi tôi và Thạch thường đến giờ đổi thành một cái tên rất tây: “Tiamo”. Tôi nhớ có một bài hát cũng tên là Tiamo.

Ngày xưa Huy rất thích nghe bài hát này dù chẳng hiểu gì. Huy chống chế: “Không hiểu mà vẫn thích, đó mới là chỗ tuyệt với của âm nhạc”. Lại còn lý luận thêm: “Trên đời chỉ có ba thứ không biên giới không phân biệt ngôn ngữ, sắc tộc. Đó là ẩm thực, hội họa và âm nhạc”.

Tôi thường không còn thích một bài hát hay một bài thơ khi đã thuộc nó trọn vẹn. Ai đó nói: “Khi yêu chẳng nên hiểu nhau quá. Bởi khi đã hiểu nhau quá thì người ta lại chẳng muốn cưới nhau nữa”. Tôi yêu Huy mà lại chẳng hiểu gì về Huy cả. Giờ Huy đã vĩnh viễn bước ra khỏi nỗi nhớ của tôi thì tôi lại chẳng thể nào hiểu nổi mình.

“Chị có biết Tiamo nghĩa là không?”.

“Không. Chị đã tra từ điển Anh Việt nhưng không thấy”. “Đó không phải là một từ tiếng Anh chị ạ. Em cũng không chắc lắm. Nhưng hình như là tiếng Ý. Nó có nghĩa là Anh yêu em”.

Thạch lại cười, nhưng không nhìn thẳng vào mắt tôi. Nếu Thạch nhìn vào mắt tôi. Chắc tôi lại không dám nhìn vào mắt Thạch. Tôi nhớ câu nói dối ngày tiểu học. Cô giáo lại khen tôi có trái tim nhân hậu.

… “Này Vân sao cháu và thằng Thạch lại không yêu nhau nhỉ? Chú thấy nó rất quan tâm cháu đấy”. Chú Thảo – trưởng phòng nói với tôi như thế vào một hôm chỉ có hai chú cháu. Mặt tôi nóng bừng, dù vẻ bề ngoài vẫn lạnh tanh như tiền xu thời cổ. Mà vì điều gì nhỉ? Vì điều mà chú Thảo nói hay sao?

“Thạch nó chuẩn bị đi công tác mấy tháng ở Lào Cai, nó đã nói với cháu chưa?”,

“Có ạ, Thạch nói với cháu rồi” – Thực ra Thạch chưa hề nói điều đó với tôi. Tôi trả lời thế mà không hiểu sao lại trả lời thế. Tôi sợ là tôi đã quen nói dối. Dù điều đó chẳng nghiêm trọng gì. Cũng có thể tôi muốn nhanh chóng khỏa lấp một khoảng vỡ mơ hồ trong lòng.

Chú Thảo vẫn nhìn như muốn đọc hết vẻ bí mật sau vẻ mặt bình thản của tôi: “Đừng lo. Nó chỉ đi ba tháng thôi mà”. “Ơ, cháu có lo gì đâu chú. Thạch chẳng liên quan gì đến cháu cả”.

Chú Thảo rít một hơi thuốc dài rồi nhả khói. Những vòng tròn khói thuốc bay lên, dăng ra, rồi tan vào không khí. “Vân ạ, cháu hãy mở rộng lòng mình một chút. Đôi khi ta phải cho trái tim một cơ hội. Nếu phải nuối tiếc một cơ hội mà mình không muốn níu giữ thì buồn lắm”.

Tôi không mua hoa về cắm lọ nữa. Tôi sợ mọi người trêu.

Thạch chuẩn bị đi Bắc Hà – Lào Cai. Thạch bảo ở Bắc Hà có loại rượu đặc sản ngon nhất nhì nước ta. Rượu đó được nấu bằng ngô cao sản trồng trên núi đã hấp thụ tinh hoa trời đất và men Hồng Ly. Tôi không nói gì, chỉ chống cằm nhìn những chùm đèn màu viền theo chữ Tiamo đang đuổi theo nhau nhấp nháy. Cứ như thế chủ quán muốn nói “Tình yêu là trò đuổi bắt” vậy.

“Chị có muốn gặp người mà em sẽ giới thiệu cho chị không?”

“Để làm gì? Chắc gì anh ta đã thích chị?”

“Có chứ”

“Làm sao em biết trong lòng người ấy nghĩ gì khi họ không phải là em?”

“À, có đôi khi phải cảm nhận bằng trực giác chị ạ”.

“Thạch có bao giờ nghĩ: Nếu gặp nhau rồi mà người ấy không thích chị thì chị sẽ rất buồn không?”

Tôi không muốn gặp người đó. Bởi dẫu anh ta có tồn tại và có yêu tôi, chắc gì tôi đã yêu anh ta.

Nếu phải yêu thêm một ai đó trên đời này. Biết đâu tôi sẽ yêu Thạch.

Thạch đi công tác vào một ngày chớm hạ. Cả phòng giao cho nhiệm vụ: Phải đem bằng được đặc sản rượu Bắc Hà về làm quà. Ngày Thạch lên đường, tôi cáo ốm nghỉ ở nhà.

Thực ra tôi chỉ hơi nhức đầu chứ có đau ốm gì đâu. Nhiều lần giả vờ thành công tôi đã nghiệm ra một điều: Đôi khi giả vờ cũng khiến cuộc sống dễ chịu hơn. Nói là một dạng của nghệ thuật sống. Tôi cũng nghe nói có nhiều người giả vờ tuyệt vời đến nỗi anh ta chẳng thể nào tìm lại mình nữa.

* * *

Một buổi sáng tôi mua hoa hồng về cắm đầy lọ trong phòng làm việc. Thật ngẫu nhiên, lại là hoa hồng màu kem. Chú Thảo nhìn tôi gật gù: “Ngày trước chú tưởng mày mua hoa cho riêng thằng Thạch chứ. Ông tướng đó mê hoa này lắm đấy”.

Tôi nhớ những chuỗi cười đầy ẩn ý trong buổi sáng mùa đông trước đây khi tôi mang hoa đến phòng làm việc.

Tôi nhớ lời Thạch đề nghị giới thiệu cho tôi một người… Quán Tiamo mùa hạ thơm ngát hương Ngọc lan. Tôi lại ngồi chống cằm nhìn những chùm đèn màu viền theo chữ Tiamo đang đuổi theo nhau nhấp nháy. Gọi một ly cà phê đen. Uống một hơi cạn tới đáy. Gọi tiếp ly thứ hai. Chủ quán và những người xung quanh nhìn tôi như nhìn xác ướp đến từ Ai Cập.

Bỗng nhiên tôi thấy ghét sự giả dối của mình.

Chú Thảo là người sâu sắc. Người ta đồn rằng: Những người sâu sắc thường đã phải trải qua nhiều mất mát. Tôi nhớ câu nói đầy trải nghiệm của chú: “Đôi khi, hãy cho trái tim một cơ hội”.

Những buổi tối mùa hạ rất đẹp. Bầu trời rất nhiều sao. Dải ngân hà như sà xuống thấp. Chỉ cần kiễng chân là chạm vào được. Mùa đông thì không mấy khi trông thấy vẻ đẹp rạng rỡ của dải ngân hà.

Hình như tôi nhớ mùa đông…

Bay giữa hồng trần

1. Đây là câu chuyện của… một con muỗi.

Có một con muỗi, bề ngoài chẳng có gì khác với những con muỗi khác. Cũng có sáu chân, hai cánh và một cái vòi. Nhưng nó lại là một con muỗi đặc biệt: nó có thể hiểu được những tâm tư, suy nghĩ thầm kín của… con người.

Đêm nọ, con muỗi bay đi.

Nó lẻn vào được trong màn của một đôi vợ chồng.

Bấy giờ đã khuya lắm, Người Chồng và Người Vợ nằm quay lưng lại với nhau. Cả hai đều chưa ngủ nhưng ai cũng tưởng người kia đã ngủ rồi. Thế nên, họ mặc nhiên thả những suy nghĩ của mình vào trong đêm tối.

Người Chồng công tác xa nhà, ít khi được về. Người Vợ không thường xuyên được chăm sóc chồng miếng cơm manh áo hay hạnh phúc gối chăn, nhưng những khi Người Chồng trở về, Người Vợ luôn tỏ ra chu đáo… Tuy thế, từ thẳm sâu trong tim, nàng thực sự không cảm thấy hạnh phúc. Từ thẳm sâu trong tim nàng luôn phảng phất một đêm tối trời… Chỉ phảng phất thôi, nhưng không thể nào tan loãng được.

Người Vợ ngày ấy còn rất trẻ. Một hôm, cảm thấy quá mệt mỏi và chán nản với tình yêu hiện tại, nàng một mình một xe lên núi chơi. Gửi xe trong nhà dân, nàng lang thang khắp một quả đồi, rồi xuống sâu một thung lũng. Trong thung lũng, có một dòng suối nhỏ chảy qua. Dọc bờ suối có những cánh bướm đủ màu. Những cánh bướm đậu xuống lại bay lên, rộn ràng. Nàng cảm thấy mình đã lạc vào thế giới khác, thế giới không thuộc về rất nhiều người trần tục đang mê mải bon chen. Nàng từng nghe có người nói về những cảm giác như vậy. Còn nói thêm: những khoảnh khắc như thế không dễ gặp trong đời, càng không dễ gì giữ được

Và bóng đêm đổ xuống.

Đêm sáng nhờ những vì sao rất xa.

Người con gái ở bên bờ suối vẫn chưa trở về.

Trong đêm, dưới ánh sáng lờ mờ, có một người xuất hiện. Người đó như đang mang vật gì trên vai.

“Ai kia?” - Giọng một người con trai.

“Tôi!” - Nàng trả lời.

“Tôi là ai?” - Người con trai lại hỏi.

“Thế anh là ai?” - Nàng vặn lại…

Họ chẳng nói thêm gì, cũng chẳng hỏi thêm gì nữa. Họ không nhìn rõ gương mặt nhau.

Rất lâu, người con trai mới bỏ cái gì đang mang trên vai xuống, rồi lội xuống suối.

“Nước mát lắm. Cô có muốn tắm không?”

Nàng không nói gì, cũng không cảm thấy gì về đề nghị có phần khiếm nhã. Nhưng nàng lẳng lặng lội xuống chỗ chàng trai vừa lội xuống.

… Nàng tỉnh giấc lúc mờ sáng hôm sau, chàng trai thì đã bỏ đi rồi. Nơi đêm trước anh để cái gì đó chỉ còn sót lại vài bông hoa lan rừng tím ngát, đã bị nát cánh. Nàng biết loài hoa này. Nó có tên rất đẹp: phi điệp.

Nàng trở về thành phố, tiếp tục học tập, công tác, lòng nhẹ tênh như chưa bao giờ xảy ra đêm kỳ lạ đó.

Đôi khi nàng vẫn tự hỏi: sao lạ thế, không yêu nhau người ta vẫn cứ trao cho nhau? Nàng thấy trái tim mình lạnh băng, vô cảm trong đêm lặng lẽ yêu đương đầu tiên trong đời ấy. Nhưng nàng nhớ mãi trong lòng…

… Người Vợ trở dậy, bật đèn pin và soi từng góc màn. Việc đó khiến Người Chồng thức giấc, nhăn mặt khó chịu:

- Em làm gì thế?

- Muỗi. Một con muỗi trong màn anh ạ.

- Làm gì có đâu?

- Có mà. Nó kêu vo ve làm em không ngủ được.

- Nó kêu ở ngoài màn đấy. Em cứ ngủ đi.

Người Vợ chẳng biết nói gì thêm, và cũng chẳng tìm thấy con muỗi, nên lại trở về nằm ở tư thế cũ: quay lưng lại với chồng.

Con muỗi đậu ở dưới gối của Người Vợ. Nó chưa kịp đốt nàng vì còn mải đuổi theo ký ức của nàng.

... Người Chồng trước đó đã không ngủ được, hai từ “con muỗi” Người Vợ nói đã kéo suy nghĩ của anh về bên vợ. Từ sau khi kết hôn, Người Chồng biết vợ mình không thể ngủ được chỉ vì một con muỗi nếu nó cứ vo ve trong màn mà chưa bị đập chết. Vì vậy, trước khi đi ngủ, bao giờ Người Vợ cũng chèn màn thật kỹ. Nhưng rất lạ, Người Vợ dù có cẩn thận đến mấy, đôi khi vẫn có những con muỗi bằng cách nào đó chui vào được trong màn…

Với Người Chồng, việc có một con muỗi trong màn không quan trọng lắm. Đập chết nó cũng được mà để nó sống cũng chẳng sao. Vì thế, Người chồng nghĩ vợ mình hẳn rất kỹ tính hoặc là quá nhạy cảm. Nếu là quá nhạy cảm thì thường thiệt thòi nhiều. Những người như thế rất dễ bị tổn thương vì những điều vụn vặt trong cuộc sống.

Ban đầu, Người Chồng rất thương vợ, luôn muốn bù đắp cho vợ thật nhiều những thiệt thòi của cảnh xa chồng đằng đẵng. Nhưng Người Chồng luôn lúng túng, chẳng biết bày tỏ tình cảm của mình như thế nào cho phải.

Căn nhà bình yên của họ nằm trong một xóm thôn yên tĩnh. Nhìn đã thấy bình yên.

Người Vợ cũng rất yêu chồng. Nhưng Người Vợ luôn không cảm thấy bằng lòng.

Rồi về sau, Người Chồng dần dần cảm thấy gờn gợn một cái gì đó xa lạ giữa hai người.

Con muỗi rung râu trầm mặc. Trong lòng nó băn khoăn: chẳng phải điều cuối cùng lớn nhất của con người là họ mong muốn được bình yên trong ngôi nhà của mình hay sao? Tại sao những người bình yên lại cứ tự bắt mình phải cảm thấy bất ổn? Lẽ nào họ còn muốn điều gì lớn hơn cả bình yên và hạnh phúc?

Căn phòng hạnh phúc của vợ chồng họ rất tối. Không bao giờ ánh sáng được hiển hiện khi hai người yêu đương. Người Vợ chỉ đồng ý thoát khỏi quần áo hoàn toàn khi trong buồng cũng hoàn toàn tối. Nàng không muốn ai, kể cả chồng, nhìn thấy thân thể nàng. Trong đêm tân hôn, Người Chồng nghĩ đó là sự ngại ngùng, e thẹn của thiếu nữ mới kết hôn. Nhưng sau này, anh coi đó là điều bí ẩn.

Không phải ngày nào Người Chồng cũng được ở bên vợ. Trong căn nhà bình yên của họ chỉ có hai người. Ánh sáng luôn tràn ngập khi họ cùng nhau nấu ăn, xem phim, nghe nhạc và những việc khác nữa. Nhưng chuyện yêu đương thì chỉ trong bóng tối.

Người Vợ không ít lần trở lại sườn đồi và dòng suối cũ. Không lần nào nàng tìm lại được những khoảnh khắc thần tiên ngày trước. Chỉ thấy suối không còn lung linh nữa. Không còn những cánh bướm rập rờn, không còn thảm cỏ xanh ngày trước. Người dân xóm đồi thì quả quyết: bao năm nay chốn đó chẳng có gì thay đổi cả. Tất cả vẫn thế, mùa qua mùa, lại giống y như thế.

Nàng thường đứng tựa cửa phòng làm việc và nhìn ra dòng người xuôi ngược, hối hả trên quốc lộ. Bất cứ người đàn ông nào tre trẻ đi qua, cả khi khuôn mặt họ bịt kín khẩu trang và chụp mũ bảo hiểm chỉ hở mỗi đôi mắt … nàng cũng tự hỏi: những kẻ đi qua kia, có ai trong số họ từng tình cờ dừng chân bên bờ suối một đêm phong lan nở không nhỉ?

Đi qua nhau mà không biết nhau.

Nhưng nàng vẫn băn khoăn: nếu gặp lại người đàn ông ngày đó, liệu nàng có yêu hay không?

… Người Vợ trở dậy lần thứ hai, cầm đèn pin xăm soi từng góc màn.

- Lạ nhỉ? Rõ ràng là có con muỗi vo ve cơ mà.

- Đã bảo nó bay ở ngoài màn mà - Người Chồng khó chịu.

Người Vợ ngần ngừ vài giây rồi lại nằm xuống, lại ở tư thế cũ: xây lưng lại với chồng.

Con muỗi vỗ cánh bay lên đậu ở đỉnh màn, ở đó nó có thể quan sát toàn cảnh: hai con người trong ngôi nhà bình yên nằm quay lưng lại với nhau, mỗi người theo đuổi một dòng ký ức. Chiếc đồng hồ tích tắc. Con muỗi bỗng cười khẩy khi nghĩ đến việc Người Vợ vừa vô ý phá vỡ khoảng lặng trong đêm vì kiếm tìm, tiêu diệt nó. Người Vợ không phải là người nhạy cảm. Đôi khi, bi kịch của loài người là cảm nhận được nguy cơ mà không tìm cách tận diệt, hoặc bỏ qua vì thờ ơ, lãnh đạm. Con muỗi nhớ đến một con muỗi già nó gặp trước chuyến bay đầu tiên trong đời.

“Cuộc đời của loài muỗi chúng ta rất ngắn ngủi (đấy là trong con mắt của loài người). Chúng ta sinh ra bọn bọ gậy cung quăng, rồi sau đó chúng lại thành muỗi và bay đi hút máu…”

“Cuộc đời ngắn ngủi và tẻ nhạt thế thôi ư?”

“Ừ, cuộc đời loài nào mà chả ngắn ngủi và tẻ nhạt. Quẩn đi quanh lại cũng chỉ là sinh ra, lớn lên, sinh ra thế hệ mới và chết.”

“Con người có cuộc đời dài thế sao họ không tận dụng mà hạnh phúc?”

Con muỗi bay đi. Chuyến bay đầu tiên, nó đã lọt vào trong phòng của một đôi vợ chồng trẻ.

… Người Chồng có một mối quan hệ ngoài vợ… Một cô gái không đẹp nhưng lại có duyên, giỏi nghề trồng ươm cây cảnh và hoa. Cô gái có một vườn hoa lớn ở ngoại ô thành phố. Người Chồng hay đến lều cỏ của cô gái trồng hoa đó vào những chiều thứ bảy. Họ đi bên nhau trong vườn hoa, ngắm nghía hết những bông hoa này đến những bông hoa khác. Nói những chuyện về tình yêu, hạnh phúc… và hoa. Sau đó, họ yêu nhau lặng lẽ trong căn lều…

Cô gái có nụ cười thật buồn. Tại sao thế?

“Đâu phải cứ cười là vui, có khi vui quá lại khóc”.

… Mà đúng thật.

Người Chồng yêu cô gái, nhưng chỉ nghĩ cô là một cơn gió lạ. Còn cô gái, hẳn cũng cho là như thế và cô không bao giờ hỏi Người Chồng về Người Vợ, cũng chẳng bao giờ đưa ra yêu cầu hay điều kiện gì. Họ gặp nhau mỗi thứ bảy. Nước mắt cô gái đôi khi ướt tràn khuôn mặt của hai người.

Người Chồng chẳng bao giờ hỏi tại sao.

… Người Vợ lại lục đục trở dậy lần thứ ba. Lần này Người Vợ cố gắng để không gây ra tiếng động có thể ảnh hưởng đến giấc ngủ của chồng. Trong im lặng, nàng căng tai lắng nghe để cảm nhận chính xác một lần nữa sự hiện hữu của con muỗi không mời mà đến trong chiếc màn hạnh phúc của mình. Con muỗi cũng lặng im, nó không muốn bị phát hiện và bị giết. Nhưng bản thân nó đang nghĩ: rõ ràng là mình không hề kêu một tiếng vo ve.

Người Vợ trở lại nằm xuống, lần này nàng quay mặt lại với lưng chồng.

2. Đây không phải là câu chuyện của con muỗi

Một buổi chiều thứ bảy, Người Chồng nhận được tin vợ phải nhập viện.

Lúc về nhà, Người Chồng thu dọn một số thứ để mang sang bệnh viện cho vợ. Trong chiếc hộp gỗ nạm ngọc trai đựng giấy tờ và tiền tiết kiệm, Người Chồng tìm thấy ba bức thư ngoài phong bì chưa dán kín miệng. Sự hồ nghi, tò mò khiến Người Chồng mở một trong ba bức thư ra. Giây lát, sắc mặt anh tái đi. Người Chồng lại mở hai bức thư còn lại, thẫn thờ đứng dựa vào cột nhà… Ngoài hiên, những bông đỗ quyên như những chiếc chuông màu vàng nghệ rủ xuống, đu đưa trong gió. Người Chồng bần thần cất những bức thư vào chỗ cũ. Đó là ba tờ đơn xin ly hôn của Người Vợ. Viết ở ba thời điểm khác nhau. Một tờ viết sau khi mới kết hôn, một tờ sau khi kết hôn không lâu lắm và một tờ viết gần nhất, khi Người Chồng mới về thăm.

Người Vợ bình phục và trở về nhà, Người Chồng trở lại cơ quan. Chiều thứ bảy ấy Người Chồng lại đến thăm người tình trong vườn hoa. Cô gái trồng hoa đã lấy chồng rồi.

Người Chồng thẫn thờ đi trong vườn hoa đã thay chủ mới. Chủ mới là một ông già. Ông trao cho Người Chồng một giò lan phi điệp rất đẹp. Người Chồng nhận quà mà như có ai vò xé trái tim mình.

“Cô ấy bảo tôi là tặng anh giò lan này. Anh chỉ thích mỗi phi điệp phải không?”

Người Chồng không biết nói gì, chỉ lẳng lặng rời khỏi vườn hoa.

Rất lâu rồi, Người Chồng vẫn nhớ thương người tình cũ. Tự hỏi: có phải đó là người con gái yêu ta trong một đêm sao bên suối hay không?

Thành phố không tạnh mưa Tác giả:Phạm Thanh Thúy ,

Có người nói yêu em. Rất yêu. Yêu mãi mãi... Em muốn bắt đầu câu chuyện của mình trong buổi chiều mưa thu hiu quạnh bên ô cửa sổ căn hộ tầng ba của khu chung cư đã ẩm mùi xưa cũ.

Căn hộ tầng ba, nơi có những cành phượng vĩ sà vào tận chấn song cửa sổ. Cây phượng vĩ lạ lùng, đến mùa xuân lại rắc lá vàng đầy các góc tường, các khe hở. Lọt vào nhà theo gió...

Những chiếc lá phượng vàng nhỏ xíu chẳng bao lâu sẽ âm thầm khô mục ở các góc tường. Những cơn mưa khiến chúng bốc lên mùi ẩm mốc, mà sống chung với chúng lâu ngày, chúng sẽ trở thành một phần trong nỗi nhớ.

Chị từng nói với em. Ở Van-cu-vơ xa lạ, có lần Du đã thốt lên: “Trời ơi! Em nhớ mùi ẩm mốc bên cửa sổ nhà Hạc quá!”. Em tin chị nói thật. Và em cũng tin Du.

Mỗi lần về nước, rồi đến thăm em, trông chị lại càng đẹp hơn trước. Vẻ đẹp và sự sang trọng của chị chỉ khiến em nhận thấy chị xa lạ hơn thôi. Xa lạ đến nỗi, sau mỗi lời chia tay em tưởng là sẽ chẳng bao giờ còn gặp lại. Nhưng chị đã trở lại, lần thứ hai, rồi lần thứ ba. Sự xuất hiện bất ngờ luôn khiến trái tim em thắt lại, như thể đứng trước em, không phải là chị, mà là Du...

...Chị đưa bàn tay trắng hồng mập mạp lên vén tóc. Mưa thu rì rầm trên tán phượng vĩ đã qua mùa hoa đỏ, đã lúc lỉu những quả buông dài như những thanh đoản kiếm xanh xanh.

“Sao lạ thế Hạc ơi! Lần nào đến thăm em, trời cũng mưa, cứ như thành phố này chẳng bao giờ tạnh mưa ý”.

Sự phát hiện của chị đối với em chẳng có gì mới lạ. Bởi vì em nhớ như in những lần ít ỏi chị đến thăm em, mang cho em những điều em muốn biết về Du. Lần nào trời cũng mưa, lần nào những điều em muốn biết về Du cũng làm em buồn tan nát.

Người ta thường nhớ rất lâu những kỷ niệm buồn.

Ở cửa sổ phòng em có thể nhìn sang cửa sổ căn hộ cũ của gia đình chị ở dãy nhà C4. Suốt nhiều năm, em và Du đã ở hai cửa sổ ấy để trông sang nhau.

Có một lần, em nhớ đó là lần đầu tiên chị về nước, đến thăm em và cùng em ngồi nhìn xuống con đường nhỏ xòe bóng mát bên dãy nhà C4. Thấp thoáng trong tán xanh của lá là những người đi qua đi lại.

Chị đã cho em biết rằng: Mỗi khi tạm biệt nhau ở những ngả chia tay, em luôn bước đi ngay mà chẳng bao giờ ngoái đầu nhìn lại... Quay đầu nhìn lại, với nhiều người, đó là một thói quen, một phép lịch sự, hay chỉ là một phản ứng tự nhiên, không chủ ý.

Nhưng em thì khác, em luôn chẳng ngoái nhìn lại, vì thế nên em không biết rằng: Bao giờ Du cũng đứng lại để nhìn theo em cho đến khi bóng em khuất sau dãy cầu thang tối, Du mới một mạch chạy về nhà, đến bên cửa sổ để đợi em mở cửa sổ bên kia.

“Nó muốn giữ điều đó cho riêng nó - chị chầm chậm nói - chị biết, Du là một cậu bé khác biệt với bạn bè đồng trang lứa. Chị luôn cảm thấy nó là một người lớn trong cái vỏ của một đứa trẻ. Nhưng nó lại là một đứa trẻ trong cái vỏ của một người lớn khi nó đã trưởng thành. Rất nhiều khi nó làm chị sợ. Vì nó là người không bình thường...”.

Chị lại đưa tay vén tóc. Những ngón tay trắng hồng mập mạp lùa vào mái tóc nhuộm nâu sóng sánh. Em rất sợ phải nghĩ những nhận xét về chị. Rất sợ phải thừa nhận những nét Việt phôi phai ở chị... Nó khiến em hình dung về Du.

... Trong suốt nhiều năm trời, em không hề có thêm một người bạn mới. Cuộc chia tay với chị em chị đã để lại trong em một khoảng trống lạ lùng. Em yêu Du, còn với chị, là một tình bạn đẹp. Nên khi chị và Du sang Van-cu-vơ sinh sống em đã không tin mình có thể nhớ chị và Du đến thế.

Em đã tự biến mình thành một cô gái cô đơn giữa biển người. Bố mẹ em chỉ có mỗi mình em. Sự lặng lẽ của em khiến họ rất đau lòng. Nên khi em đưa Cường về nhà xin được kết hôn thì họ mới tin là con gái mình sẽ sống...

... Em rất hay buồn. Đầu tiên em nghĩ mình vì có chuyện buồn nên mới buồn. Sau này em nhận thấy, ngay cả khi em hạnh phúc trong tổ ấm mới của mình nhất, em vẫn buồn.

Em nhận ra: Từ khi Du ra đi, với em, nỗi buồn đã trở thành tính cách. Người ta ở đời: Buồn vui, sướng khổ, hỉ nộ ái ố phần lớn phụ thuộc vào tính cách. Những người hay buồn, an lòng với cách sống thầm lặng, thích lắng nghe hơn là tranh luận.

Khi em kết hôn, Cường từng nói: Anh rong ruổi nhiều năm trên đường đời để tìm kiếm một người ít nói, vì anh cho rằng những người ít nói là những người luôn biết lắng nghe. Kết quả ngoài mong đợi. Người mà anh gắn bó cả cuộc đời, chẳng những ít nói, mà dường như chẳng mấy khi nói gì.

... Trong căn phòng của em và Cường, sự nổi bật, gây chú ý nhất không phải là những vật dụng tiện nghi, hay cái gì đó khác, mà là sự hiện diện của những bức tượng thiếu nữ khỏa thân hay bán khỏa thân, chúng đều nho nhỏ và được đặt ở nhiều nơi trong phòng.

Những thiếu nữ thạch cao khỏa thân ở mọi tư thế, mà trong những chuyến đi công tác Cường chịu khó sưu tầm đem về. Lần đầu tiên gặp chị, Cường đã nói với em: “Hạc này, em có biết ở chị Yên, điều gì khiến anh cảm thấy rất thân quen không?”.

Em im lặng và hồi hộp đợi câu trả lời của Cường. Quả nhiên, Cường tự trả lời câu hỏi mà anh đã hỏi.

“Anh thấy, chị ấy giống... những bức tượng nhà mình...”. Rồi như sợ em hiểu lầm, Cường vội vã bổ sung thêm:

“Ý anh nói là... gương mặt chị ấy...”.

Em đã dành thời gian để nhìn ngắm lại tất cả những gương mặt của những thiếu nữ thạch cao khỏa thân trong nhà và rút ra một phát hiện thú vị: Gần ba chục bức tượng đó đều có những gương mặt từa tựa như nhau... và chúng đều có nét gì đó giống chị: Dịu dàng, thánh thiện, hơi có chút đa tình, phóng khoáng.

Phát hiện đó không làm em vui lên hay có thêm chút ấm lòng. Vì nếu những bức tượng kia có bóng dáng gương mặt chị, thì có nghĩa đó cũng là gương mặt của Du. Nghĩa là dù đã rất cố gắng để xóa đi hình bóng Du, thì Du vẫn tồn tại quanh em, dõi theo em như hơi thở của niềm vui, nỗi buồn...

Cường yêu thích những bức tượng khỏa thân ấy và coi nó là sự hiện diện tất yếu, hết sức tự nhiên như hơi thở cuộc sống này. Những bức tượng khiến một vài đồng nghiệp nữ của em đến chơi, thường ý tứ chỉ nhìn em và Cường, hay nhìn xuống bàn uống nước mà không tự nhiên quay ngang quay ngửa.

Còn những người bạn của Cường thì luôn hồn nhiên bày tỏ quan điểm thẩm mỹ của họ về cơ thể phụ nữ. Mỗi khi họ tụ tập vui vẻ em cũng góp vui bằng những nụ cười.

Thế mà dù em đã cố gắng hết mình, thì một lần, cậu đồng nghiệp trẻ của Cường vẫn thốt lên: “Eo ơi! Chị Hạc cười cứ như mếu ấy”. Cường lập tức bênh em: “Chú mày chả biết gì cả. Buồn là một nét đẹp cổ điển đang cần phải “phục hưng” đấy”. Nhưng dù thế nào thì em và Cường cũng khá vất vả mới cưới được nhau, vì mẹ Cường rất có lý: “Buồn tuyệt đối không phải là quý tướng”.

...Ô cửa sổ căn hộ cũ của gia đình chị nhiều năm không mở. Chủ mới của nó là một người đàn ông cô đơn. Ông ta không thích không gian của lá cây và những áng mây trời.

Em đã biết bao lần đau đáu nhìn vào khoảng im lìm quạnh quẽ ấy và tự hỏi: Vì sao người ta lại thay thế nỗi buồn này bằng một nỗi buồn khác, còn thăm thẳm hơn, còn tê tái hơn?

Nỗi nhớ Du và nỗi buồn cuốn lấy em. Khiến em có lúc ngỡ mình không chịu nổi. Nhưng em không có đủ can đảm để dời cha mẹ đến sống ở nơi khác, hay đóng cửa sổ lại... Nên em vẫn ngày ngày mở cửa để cái mùi ẩm mốc xưa cũ phả vào qua chấn song.

Cây phượng vĩ bao mùa thay lá, bao mùa ra hoa. Bao mùa chim về nhảy nhót trong vòm biếc. Em nhận thấy một điều lạ: Chim đã về đây hót suốt bốn mùa. Nhưng không bao giờ thấy có tổ chim nào cả. Không có một tổ chim nào được xây trong vòm biếc ấy...

... Mấy năm gần đây, căn hộ cũ của gia đình chị lại có chủ mới. Đó là hai chàng trai trẻ. Họ là sinh viên của một trường nghệ thuật. Họ hay mở cửa sổ, luyện thanh và chơi đàn. Luôn có những cô bạn gái đến chơi, và họ cười, họ hát. Nhưng rồi các cô ấy không xuất hiện mà lại xuất hiện những cô nàng khác. Một lần, em cố ý hỏi một trong hai chàng trai khi gặp cậu ta mua hàng ở quầy tạp hóa:

“Cô gái tóc vàng rất dài, lâu rồi chị không thấy đến”.

Cậu ta cười toe toét, nói một câu như một triết gia:

“Chị ơi! Có những mối tình rất đẹp, cuối cùng vẫn là tình cũ”.

Nói chuyện một lúc, cậu ta chợt hỏi:

“Chị luôn nhìn thấy bọn em à?”.

Em xác nhận: “Ngày xưa bạn chị đã từng sống ở căn phòng em đang sống”. “Thế ạ?” - Cậu ta tròn xoe mắt. Rồi với bản tính đặc trưng của những người làm nghệ thuật: Đó là hoài cổ.

Cậu ta hỏi: “Người đó có để lại điều gì ở đó không chị?”. Em mỉm cười, không trả lời cậu ta. Nhưng em có thể tự trả lời mình rằng: Trong căn hộ đó, chị và Du không ai để lại điều gì. Nhưng lại không có gì bị mang đi cả.

Lần nào về nước chị cũng đến thăm em, cũng cùng ngồi bên cửa sổ nhà em để trông sang cửa sổ căn hộ cũ, nơi rất nhiều năm gia đình chị đã sống. Nhưng... vì sao chị lại không một lần trực tiếp trở lại đó? Vì chẳng có gì để chị tìm lại, hay chị không phải tuýp người khó thay đổi tâm tư? Chị không trở lại đó, đơn giản vì đó là điều không cần thiết.

Đã biết bao lần em trở lại, đứng trước cánh cửa đó. Em đã trở lại như một thiếu nữ mộng du. Có lần, người đàn ông cô đơn từ sau cánh cửa hiện ra. Ông ta nhìn em với ánh mắt chẳng hề tò mò, ngạc nhiên, mà nói một câu không thừa, không thiếu: “Cháu tìm bạn cũ à? Họ chuyển đi rồi”.

Đó là câu nói ấm áp nhất mà em đã được nghe về chị và Du khi hai người chuyển đi. Em ra về và tự hỏi: Tại sao người có câu nói ấm áp ấy lại cô đơn? Mấy năm sau ông ấy vẫn cô đơn. Khi ông ấy chuyển đi em không biết ông ấy có còn cô đơn hay không nữa.

Ở Van-cu-vơ - Canada, Du cưới một cô gái Canada gốc Pháp. Họ có một đứa con trai. Khi con trai ba tuổi, cô ta bỏ bố con Du để theo trai.

“Nó đã nghĩ rất nhiều về em Hạc ạ. Chị khuyên nó cưới một cô gái Việt. Nó nói: “Không có Hạc trong đời, em thề sẽ không lấy một cô gái Việt nào hết...”.

Du đã nói yêu em. Rất yêu, yêu mãi mãi.

Khi yêu, ai chẳng muốn yêu một người mãi mãi. Nhưng từ yêu đến mãi mãi là khoảng cách xa vời vợi. Mà điều đó, không phải ai cũng có can đảm để thừa nhận. Nhiều khi, người ta quá khờ để nghĩ rằng: Chỉ cần yêu chân thành là sẽ không thể mất nhau.

... Mẹ em bàn với bố em: Phải làm sao để em tránh xa Du càng sớm càng tốt. “Nhưng cậu bé đó ngoan đấy chứ”. Bố em bênh Du. Mẹ em khẳng định: “Thằng bé đó lập dị lắm. Yếu ớt lắm. Đàn bà cần có bờ vai vững chắc của đàn ông mà dựa dẫm...”.

Trong những năm thơ ấu, chị giống một người anh trai, luôn dắt tay Du đi bên để bảo vệ. Du mắc chứng sợ đám đông, sợ những thứ quá ồn ào. Một tiếng nói to bất ngờ cũng khiến Du giật mình, co rúm người lại, mặt mày tái xanh.

Chị bảo Du mắc chứng đó từ khi còn nhỏ xíu, trong một lần mẹ cho hai chị em đi xem phim rạp. Khi tan buổi chiếu, không hiểu sao Du lại bị lạc, bị cuốn theo dòng người ồn ào, nhốn nháo.

Lúc tìm thấy Du từ một cô gái tốt bụng, Du đã gần như tím tái vì khóc và sợ hãi. Du lớn lên bên chị và khẩu hiệu của mẹ: “Đừng để em ở chỗ đông người”... Vì thế, Du gần như không có bạn để chơi cùng. Ở khu tập thể, ở trường lớp thời thơ ấu, em là người bạn đầu tiên cũng là người bạn duy nhất của Du. Ở tuổi trăng rằm, em và Du đã thề trọn kiếp bên nhau trên tầng thượng nhà C4.

Mười sáu tuổi, chị thích một anh bạn ở tầng một nhà C4. Anh ấy có ông bố làm quan trong thành phố, mỗi lời ông ta nói, ai cũng nể. Anh ấy khá bảnh và biết chơi vĩ cầm.

Khi bộ phim về Romeo và Juliet công chiếu trên truyền hình, thì bài hát “A time for us” đã trở thành nổi tiếng. Ở trường, chị là một hoa khôi được nhiều người yêu dấu, nhưng chị bị tiếng vĩ cầm với giai điệu “Atime for us” hút hồn, nên cứ hay kéo em và Du theo chị đến ngồi nghe anh ấy chơi đàn.

Em và Du luôn tò mò ngắm nhìn đồ đạc trong nhà anh và mơ ước một ngày nào đó cũng được ở trong căn nhà có tiện nghi như vậy. Muốn đi vào phòng khách nhà anh ấy phải đi qua một gian bếp nhỏ, đồng thời là khu chứa đồ cũ. Em thấy có một tấm riđô cũ mèm không bao giờ rung rinh vì chẳng bao giờ có gió.

Một buổi chiều, khi em và chị đang ngồi nghe anh ấy kéo đàn, thì Du ra ngoài và không thấy quay trở lại. Em ra ngoài tìm Du. Đi qua căn bếp, linh cảm thế nào, mà không ai cho phép em cũng bước vào.

Ở đó, em thấy Du đứng bất động như một bức tượng ai đó bất thình lình đặt vào. Trước mắt em, ngoài Du ra còn có cánh riđô vén mở. Trong bóng tối nhàn nhạt một mùi ẩm mốc, khăm khẳm bốc ra, xộc vào mũi.

Khi em bình tĩnh hơn, thì nhìn thấy đằng sau tấm riđô giữa khoảng trống hẹp, chật chội của những thùng các tông và nhiều thứ lỉnh kỉnh khác là một cái giường nho nhỏ.

Trên cái giường nhỏ là một thân hình gầy nhóp, già nua, cũ xỉn, một mái tóc bạc trắng, một gương mặt nhăn nheo với hai hốc mắt đục mờ. Thân hình ấy cựa quậy và phe phẩy cái quạt nan. Em cảm thấy mỗi khi cánh quạt nan phe phẩy là phẩy về phía khách một mùi khăm khẳm.

Em nghẹn ứ trong cổ vì em quá ngạc nhiên, quá sững sờ. Khi em và Du còn đang bất động như thế thì bạn chị và chị cũng đã đứng ở sau lưng. Em nghe giọng chị trong và vang: “Ai đấy hả Trung?”. “À, bà nội mình đấy mà”. - Anh ấy trả lời. “Sao bà lại phải ở đây?”. Chị tiếp tục hỏi nhưng anh Trung chẳng nói gì. Chị cũng không hỏi gì thêm nữa.

Du trở nên câm lặng suốt mấy ngày liền. Nhưng có thể chị biết vì sao Du không nói.

Tầng thượng nhà C4 là nơi Du thường lên đó ngồi một mình. Đó cũng là nơi em và Du hò hẹn. Vì nơi đó quá cao nên không có cây xà cừ, cây phượng vĩ nào vươn cành tới được. Đứng ở trên tầng thượng ban đêm, tất cả những ánh đèn thành phố đều ở dưới sao trời. Ở đó chỉ có trăng, sao và những đêm đen thẫm.

Du dùng con dao tem dùng để cạo râu của bố, rất nhẹ, rất êm cứa vào cổ tay mình. Du nhìn em: “Hạc ơi! Du chẳng muốn sống. Sống thì có ý nghĩa gì? Rồi cuối cùng cũng bị đối xử như bà của anh Trung thôi”.

Dòng máu đỏ từ cổ tay Du ứa ra như dòng nhựa của một thân cây non bị bẻ gãy... chảy từ từ xuống vạt áo trắng Du đang mặc.

“Du chỉ muốn trước khi chết, được nhìn thấy Hạc ở bên Du...”.

Dưới sao trời lấp lánh, gương mặt Du em không nhìn rõ được. Nhưng em tin nó không hề biểu hiện một sự đớn đau. Và em... bằng một sức mạnh lạ kỳ nào đó, đã không hề sửng sốt, không hề kêu la, không hề hoảng sợ. Trái lại, còn cảm thấy cái chết là một điều thật giản đơn, và nên như thế...

Em vén tay áo mình lên. Nhặt con dao tem Du vừa để xuống đầu gối, nhìn Du. Em từ từ cứa dao vào cổ tay mình...

Em và Du không ai chết cả. Em và Du không chết, vì chị lúc nào cũng dõi theo Du và dõi theo em nữa.

Chuyện em và Du cắt mạch máu tự tử trên tầng thượng nhà C4 đồn ầm lên ngay lập tức ở khắp các khu nhà. Không ai biết thực sự vì sao em và Du lại dại dột thế. Người ta dứt khoát xây bít lối lên tầng thượng. Có lẽ chị biết vì sao em và Du tự tử. Vì từ đó, chị không bao giờ gặp anh Trung nữa. Mấy tháng sau, bà cụ tội nghiệp cũng qua đời. Du đã khóc...

Bố mẹ em kiên quyết cấm em không được gặp Du từ đó. Vì bố mẹ em cho rằng Du là một kẻ lập dị, nguy hiểm. Trước sau gì cũng dụ dỗ em lặp lại cái trò dại dột đó. Bố mẹ thi hành chính sách đưa đi đón về, nhờ bạn học phong tỏa quan hệ của em và Du. Vì thế em và Du chẳng có cách nào gặp nhau được. Đành đứng ở cửa sổ trông sang. Nhưng rồi cửa sổ cũng bị cấm.

Hai năm sau, chị báo tin, chị và Du sẽ theo bố mẹ sang Canada sinh sống...

“Nhiều khi chị tự hỏi: Nếu em và Du đến được với nhau thì liệu hai đứa có hạnh phúc không nhỉ?”.

Em cũng đã ngàn lần tự hỏi điều đó mỗi khi đi qua những con ngõ hẹp rợp bóng cây đìu hiu từng trưa vắng. Mỗi khi mưa thu mưa xuân rồi lại mưa đông khoan nhặt trên tán phượng vĩ ngoài cửa sổ. Một năm, ngoài cửa sổ, trên cây phượng vĩ không bao giờ có tổ chim ấy... xuất hiện một chú mèo hoang.

“Chỉ có đàn bà cô đơn mới hay nuôi mèo”. – Cường nói với em như thế. “Anh đã dồn hết vốn liếng để yêu em. Sao em vẫn cô đơn vậy”.

Em hiểu Cường đang ngầm khiêu khích, bởi chuyện em và Du tự tử ngày xưa Cường không thể không biết.

Em không cô đơn, cũng không còn nghĩ là mình bất hạnh. Em đã nuôi con mèo hoang đó, có lẽ vì lòng trắc ẩn đối với những thân phận bị bỏ rơi, hay vì miền kỷ niệm xa xưa như một nỗi buồn thầm lặng. Em hiểu là em cần phải dành hết những yêu thương còn lại trong đời cho Cường. Kẻ đã “yêu em hết mình” như anh ta đã nói.

“Vì anh yêu và tin em, nên dù trong quá khứ, em và Du có là gì của nhau, với anh cũng không quan trọng. Chỉ xin em đừng bao giờ giấu anh...”.

Tết Dương lịch trước ngày gia đình chị lên đường, em và Du cuối cùng cũng đã có một cuộc hẹn hò bí mật. Khi người ta yêu chân thành, có điều gì trên đời là không làm được?

Lúc đó, Du đã trở thành một chàng trai không sợ đám đông từ lúc nào. Du cầm tay em siết chặt.

“Hạc ơi! Nếu Hạc còn thương Du, thì từ nay, chúng ta sẽ không bao giờ xa nhau nữa”.

Chúng em nhìn nhau, nước mắt rơi mặn môi hồng.

Thành phố bắn pháo hoa. Vẻ đẹp lung linh, kỳ ảo của pháo hoa khiến người ta choáng ngợp hạnh phúc. Người ta đồn rằng những điều ước tình yêu dưới pháo hoa sẽ trở thành hiện thực. Vì thế, nên hàng trăm người trẻ tuổi và theo nhau để đón đợi điều kỳ diệu. Sức mạnh của họ làm em và Du bị tách xa nhau...

Em đứng giữa biển người mà nức nở. Phải chăng là định mệnh. Phải chăng em và Du không có cách nào ở bên nhau trọn đời. Em nghĩ đến Du với chứng sợ đám đông... Em càng khóc to hơn.

...Pháo hoa bắn mãi rồi cũng hết. Người ta cũng tản ra. Còn em cứ đứng nguyên ở đó. Nhưng rồi Du đã hiện ra trước mặt chỉ cách em mấy bước chân. Khi ôm chặt em trong tay, Du nói:

“Mình sẽ không bao giờ để lạc mất Hạc nữa...”.

Khuya lắm, người ta cũng dần về với tổ ấm của mình để ngủ hay thao thức. Em và Du cứ tay trong tay lang thang hết con phố này sang con phố khác. Bỗng nhiên, thành phố rùng mình lạnh và đổ mưa...

“Nếu bây giờ về nhà, chúng mình sẽ xa nhau mãi mãi...”.

Khi em và Du gõ cửa một nhà nghỉ trong ngõ hẻm, chủ nhà vừa ngái ngủ, vừa nói giọng khinh khỉnh:

“May cho hai đứa nhé! Vẫn còn phòng trống”.

Căn phòng lạnh cóng khi em và Du bước vào. Chẳng có gì ở đó ngoài một chiếc giường đôi với chăn gối xếp ngay ngắn, nhưng trông vẫn cũ kỹ và nhàu nát. Bức tranh vẽ hoa hồng treo trên bức tường lạnh lẽo như đang nhếch mép cười nhạt.

Bên ngoài, mưa vẫn rì rầm rơi.

Em và Du chỉ ngồi nhìn nhau, im lặng. Hai đứa cứ nhìn nhau như thế, tay vẫn trong tay, cho đến khi cả hai mệt lả, thiếp đi cho đến sáng...

Có lẽ em và Du ở bên nhau đêm ấy như những thiên thần, nên em đã không thể nào quên Du được. Vì thế, em chẳng có gì để giấu Cường. Nhưng em càng không có gì giấu Cường thì Cường lại càng tin em có gì để giấu.

...Du vẫn theo gia đình ly hương. Ước mơ đêm pháo hoa không linh nghiệm với tất cả mọi người.

Chị đã ba lần trở lại quê hương. Nhưng Du thì chưa một lần trở lại.

“Nó vẫn nghĩ về em rất nhiều Hạc ạ. “Chị lặp lại câu nói của mình... Câu nói của chị khiến em cảm thấy bờ môi em khẽ run lên. Em đã muốn nói một điều gì đó...

Ngoài trời, mưa không ngớt hạt, thi thoảng có một cơn gió nhẹ đưa hơi nước và mùi ẩm mốc của lớp lá mục nằm trong các kẽ tường vào phòng. Con mèo hoang em nuôi hồn nhiên cuộn tròn trong lòng chị.

Có thể ở Van-cu-vơ xa lạ, Du đã hình dung về em, một thiếu phụ ôm mèo ngồi bên cửa sổ và hoài tưởng. Người thiếu phụ cô đơn bên tình yêu của người đàn ông yêu cô ấy hết lòng.

Nhưng em không cô đơn. Em là người hạnh phúc.

...Em tiễn chị về khi trời vẫn mưa. Chị không thể kiên nhẫn chờ mưa tạnh vì chị còn có bao nhiêu việc phải làm. Đi bên chị, mùi thơm sang trọng từ trang phục của chị cứ quện lấy chân em khi bước qua từng bậc cầu thang cũ. Chị đã không còn thuộc về nơi này nữa, ngay cả khi chị vẫn còn muốn thế. Một ngày nào đó, có thể em cũng sẽ không còn thuộc về nỗi nhớ của Du.

“Lần này, chắc phải rất lâu chị mới lại về thăm quê được”. - Chị nói trước khi xòe ô bước vào mưa thu.

“Vâng”- Em chỉ đáp lại có thế. Ngày rất lâu ấy chị trở lại biết đâu sẽ có nhiều thay đổi. Những khu nhà cũ ẩm mùi rêu và lá mục. Những cây xà cừ vang bóng xa xưa... sẽ thay thế bằng những công trình mới.

...Cường gọi điện từ thành phố biển Nha Trang, khoe với em rằng: Trên thế giới, người ta vừa tìm thấy trong lòng đất một bức tượng nữ thần khỏa thân cao những 1m70. Rất đẹp. Đã bị chôn vùi từ hàng thế kỷ. Tiếc là Cường không thể mang bức tượng ấy về nhà. “Đó là tượng của vị nữ thần nào vậy?” - Em hỏi. Cường cười hăng hắc: “Còn chưa xác định được danh tính”.

Nhưng em không quan tâm đến sự tiếc nuối của Cường. Ở đời những thứ không thuộc về mình thì nhiều. Thứ thuộc về mình lại rất ít. Chẳng sao cả. Trong phạm vi cuộc đời một kẻ bình thường, những thứ ít ỏi sẽ có thể làm cho cả đời ấm áp. Ngày xưa Du nói Du yêu em. Rất yêu, yêu mãi mãi.

Có nhiều người không có duyên để được yêu mãi mãi. Hay có nhiều người khác, căn bản không hiểu thế nào là mãi mãi...?

9/2008

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: