Sherlock Holmes VI (II)
Sherlock Holmes trở về
(The Return of Sherlock Holmes-1904)
Mục lục II
08. Sáu bức tượng Napoleon
(The Adventure of the Six Napoleons-1904)
09. Ba sinh viên
(The Adventure of the Three Students-1904)
10. Cái kính kẹp mũi bằng vàng
(The Adventure of the Golden Pince-Nez-1904)
11. Một trung vệ
bị
mất tích
(The Adventure of the Missing Three-Quarter-1904)
12. Vụ
án tại Abbey Grange
(The Adventure of the Abbey Grange-1904)
13. Vết máu thứ
hai
(The Adventure of the Second Stain-1904)
08. Sáu bức tượng Napoleon
(The Adventure of the Six Napoleons-1904)
Ông Lestrade, thanh tra Scotland Yard, buổi tối thỉnh thoảng ghé thăm chúng tôi và Sherlock Holmes rất hoan nghênh những buổi tối ấy, vì nhờ đó mà anh có được mối liên hệ thường xuyên với Scotland Yard. Để đền đáp lại cho những tin tức mà Lestrade đem đến,chăm chú lắng nghe mọi tình tiết về các vụ án mà viên thanh tra này đang phụ trách điều tra. Đôi lúc, như hoàn toàn vô tình, anh biết cách đưa ra những lời khuyên và gợi ý rút từ vốn tri thức và kinh nghiệm phong phú của anh.
Riêng tối hôm đó Lestrade, sau khi nói về thời tiết và tin các báo, không nói thêm gì nữa, chỉ làm thinh. Holmes nhìn xoáy vào ông.
- Ông có vụ nào đáng chú ý không? - Holmes hỏi.
- Ồ không, ông Holmes ạ, chẳng có gì đặc biệt cho lắm.
- Vậy thì ông cứ kể cho tôi nghe đi.
Lestrade cười:
- Khó mà giấu nổi ông điều gì, ông Holmes ạ. Đúng là tôi đang nghĩ đến một chuyện, nhưng nó thật vớ vẩn nên tôi cứ phân vân không biết có nên làm phiền ông không. mặt khác, việc này lại rất đặc biệt, chắc chắn như thế. Tôi biết ông
vốn rất thích tất cả những chuyện khác thường. Nhưng theo tôi, chuyện này nên để bác sỹ Watson quan tâm hơn là tôi với ông.
- Bệnh tật gì không? - tôi hỏi.
- Chứng điên. Mà lại là một bệnh điên kỳ quặc nữa Các ông chắc không tưởng tượng được bây giờ mà lại có người căm ghét Napoleon Đệ nhất đến mức hễ thấy bất cứ một hình tượng nào của ông ta là đập vỡ cho bằng được.
Holmes ngả người trên ghế.
- Chuyện này không thuộc lĩnh vực của tôi, - anh nói.
- Đúng thế, thì tôi đã nói mà. Nhưng khi thằng cha đó phạm tội ăn trộm để đập nát những pho tượng không phải của hắn, thì câu chuyện đã chuyển từ tay bác sỹ sang tay cảnh sát rồi.
Holmes lại ngồi thẳng dậy.
- Ăn trộm à! Câu chuyện đã thú vị rồi. Xin ông kể chi tiết cho tôi nghe với.
Lestrade rút cuốn số ghi chép công vụ ra, và lật từng trang để nhớ lại cho rành mạch.
- Vụ thứ nhất chúng tôi được báo là cách đây bốn hôm. Sự việc xảy ra tại cửa hiệu ông Morse Hudson làm nghề bán tranh, tượng ở đường Kennington. Người phụ việc vừa rời khỏi cửa hiệu một lát thì nghe có tiếng loảng xoảng. Anh ta vội quay vào và thấy pho tượng bán thân Napoleon vẫn bày trên quầy cùng với các tác phẩm nghệ thuật khác đã vỡ tan tành trên sàn nhà. Anh ta chạy vụt ra đường nhưng không thấy ai, tuy có nhiều người qua đường nói rằng họ trông thấy một người từ trong cửa hiệu chạy ra. Pho tượng thạch cao nọ không đáng giá là bao, và toàn bộ sự việc đó chỉ như một trò trẻ con không đáng phải mở cuộc điều tra.
- Nhưng vụ thứ hai thì nghiêm trọng hơn và cũng kỳ quặc hơn. Chuyện mới xảy ra đêm qua.
Ở đường Kennington, cách cửa hiệu Morse Hudson vài trăm yard là nhà một bác sỹ có tiếng, tên là Barnicot. Tuy nhà ở đường Kennington, bác sỹ này có một phòng mổ ở đường Hạ Brixton, cách đấy 2 dặm. Bác sỹ Barnicot là người rất hâm mộ Napoleon. Nhà ông đầy sách và tranh của vị hoàng đế Pháp này. Mới đây ông mua được ở cửa hiệu Morse Hudson hai bức tượng bán thân Napoleon bằng thạch cao do nhà điêu khắc người Pháp Devine tạc. Ông bày một bức trong đại sảnh của căn nhà trên đường Kennington, còn bức kia ông đặt trên mặt lò sưởi tại phòng mổ ở Hạ Brixton. Sáng nay, từ trên gác bước xuống, bác sỹ Barnicot phải sửng sốt khi phát hiện ra đêm qua nhà ông bị kẻ trộm đột nhập, song trong nhà không mất gì cả, ngoài bức tượng bán thân bằng thạch cao đặt ở đại sảnh. Tên trộm đã mang pho tượng ra khỏi nhà và đập nát vào bức tường ngoài vườn, vì sáng ra người ta thấy mảnh tường vỡ nằm vung vãi dưới chân tường.
Holmes xoa tay nói:
- Chuyện này quả là rất mới lạ.
- Tôi vẫn nghĩ là ông sẽ thích chuyện này mà. Nhưng tôi vẫn chưa kể hết. Bác sỹ Barnicot phải đến phòng mổ lúc mười hai giờ trưa. Đến nơi, ông thấy cửa sổ phòng mổ đã bị phá tung từ đêm qua và khắp sàn vung vãi những mảnh vỡ của pho tượng thứ hai. Pho tượng bị đập vụn ngay tại chỗ. Trong cả hai vụ đều không có manh mối gì về tên tội phạm (hay ke điên rồ) đã làm ra vụ này. Đấy sự việc là như vậy đấy, ông Holmes ạ.
- Tôi muốn biết hai pho tượng bị đập vụn của bác sỹ Barnicot có giống hệt với pho tượng bị phá tan tại cửa hiệu ông Morse Hudson không?
- Những pho tượng đó đều đúc từ một khuôn ra mà.
- Điều đó bác bỏ cái giả thuyết cho rằng kẻ đập tượng hành động do căm thù Napoleon: vậy thì việc kẻ đó bắt đầu bằng ba bản sao của cùng một pho tượng bán thân, khó lòng có thể là do một sự trùng hợp ngẫu nhiên.
- Chính tôi cũng nghĩ như ông, - Lestrade nói, - Tuy nhiên, Morse Hudsson là người bán tượng ở khu vực đó của London và suốt mười năm qua cửa hiệu ông ta chỉ có duy nhất ba pho tượng kia. Cho nên tuy ông nói ở London có hàng trăm pho tượng Napoleon, nhưng cũng rất có thể ba pho tượng kia là những pho tượng duy nhất trong vùng đó. Vì vậy, cái người điên sống trong vùng mới khởi sự bằng chính ba pho tượng ấy.
- Tôi chỉ xin nhận xét là hắn hành động tuy rất kỳ lạ nhưng có tuân theo một nguyên tắc nào đấy. Chẳng hạn, ở đại sảnh trong nhà bác sỹ Barnicot, nơi mà tiếng động có thể làm cho chủ nhà thức giấc, hắn đã đem pho tượng ra ngoài rồi mới đập vỡ. Còn ở phòng mổ ít nguy hiểm hơn, hắn đã đập vụn pho tượng ngay tại chỗ. Vụ này có lẽ như nhố nhăng, nhưng một số vụ hay nhất của tôi khi mới khởi đầu cũng không có chút gì hứa hẹn. Vì vậy, tôi sẽ rất biết ơn ông, Lestrade, nếu ông báo cho tôi bất cứ tiến triển mới nào trong vụ này.
Các sự kiện tiếp theo của vụ án mà bạn tôi đang trông chờ xảy ra nhanh và dưới một hình thức bi đát hơn chúng tôi tưởng tượng nhiều. Sáng hôm sau, tôi còn đang mặc quần áo trong phòng ngủ thì Holmes gõ cửa bước vào, tay cầm một bức điện. Anh đọc to lên:
”Đến ngay nhà số 131, đường Pitt, Kensington,.
Lestrade“.
- Thế là thế nào nhỉ?- Tôi hỏi.
- Không rõ. Cái này có thể hiểu thế nào cũng được. Nhưng tôi nghi đây là câu chuyện về những pho tượng kia. Nhưng trong trường hợp này, có lẽ anh bạn đập phá tượng của chúng ta đã chuyển hoạt động sang một khu khác của London. Cà
phê đã pha sẵn cho anh ở trên bàn và xe ngựa đã đợi sẵn ngoài cửa rồi.
Nửa giờ sau chúng tôi đã có mặt ở đường Pitt. Lúc chúng tôi đến gần, một đám người hiếu kỳ đã tụ tập trước ngôi nhà.
Holmes huýt sáo:
- Thế này thì ít ra cũng là một vụ mưu sát. Nếu không thì dân vô công rồi nghề ở London không tụ tập đông đến thế. ồ, Lestrade đang đứng bên khung cửa sổ trước nhà kia kìa. Chúng ta sẽ biết hết mọi việc ngay thôi.
Lestrade với vẻ mặt trịnh trọng bước ra đón chúng tôi và dẫn vào phòng khách. Chúng tôi thấy một người đàn ông đứng tuổi, mặc áo choàng nội tẩm, đang đi đi lại lại trong phòng. Vẻ băn khoăn lo lắng, Lestrade giới thiệu đó là chủ nhà - ông
Horace Harker, một nhà báo.
- Chuyện pho tượng Napoleon lại tiếp diễn, - Lestrade nói - Tối qua ông tỏ ra quan tâm tới chuyện này, ông Holmes, nên tôi nghĩ ông sẽ vui lòng có mặt khi giờ đây vụ việc đã dẫn đến một sự kiện đáng buồn như thế này.
- Sự kiện gì vậy?
- án mạng. Ông Harker, phiền ông kể lại cho các vị đây nghe đầu đuôi câu chuyện vừa xảy ra. Người đàn ông mặc áo choàng quay về phía chúng tôi.
- Tôi đã nghe tiếng ông, ông Holmes ạ, - ông nói, - và nếu ông làm sáng tỏ được sự việc kỳ lạ này thì tôi cũng thấy mình được đền bù hậu hĩnh cho cái công trình bày tất cả những việc vừa xảy ra.
Mọi việc đều như xoay quanh cái pho tượng bán thân Napoleon tôi mua bốn tháng trước đây. Tôi mua được với giá rẻ tại hiệu Harding Brothers, gần nhà ga High Street. Tôi hay viết bài về đêm và thường ngồi làm việc đến tận sáng sớm. Hôm nay cũng vậy. Tôi ngồi làm việc trong phòng mình ở mặt sau tầng thượng, gần ba giờ sáng bỗng nghe có động dưới nhà.
Tôi lắng tai nghe nhưng chẳng thấy động tĩnh gì nữa, nên tôi nghĩ đó là tiếng động từ ngoài phố đưa vào. Nhưng độ năm phút sau, bỗng có tiếng hét hết sức khủng khiếp - tôi chưa bao giờ nghe thấy một âm thanh nào ghê rợn đến thế ông
Holmes ạ. Tiếng hét đó sẽ vang mãi trong tai tôi cho đến suốt đời. Người tê dại đi vì hãi hùng, tôi ngồi bất động vài phút, sau đó tôi cầm lấy cái que sắt thông lò và bước xuống nhà. Vừa bước vào phòng này tôi thấy cửa sổ mở toang và pho tượng
đặt trên mặt lò sưởi đã biến mất. Tôi không hiểu tại sao tên trộm lại lấy đi một vật như thế, vì pho tượng thạch cao ấy có đáng giá gì đâu.
Như các ông thấy đấy, bất cứ người nào nhảy một bước dài từ cửa sổ này xuống, đều có thể ra đến bậc lên xuống ở cửa chính. Tên trộm rõ ràng đã ra dùng cách ấy, nên tôi đi vòng ra cửa chính và mở cửa. Tôi bước ra ngoài, và trong bóng tối tôi vấp chân suýt ngã đè lên một xác chết đang nằm đó. Tôi chạy vào nhà đem đèn ra. Cổ họng kẻ bất hạnh bị đâm một vết rộng hóac, quanh xác chết máu loang đầy. Người bị giết nằm ngửa, hai đầu gối co lên, miệng há hốc ra trông rất gớm ghiếc. Từ nay trở đi hắn sẽ hiện lên thường xuyên trong những cơn ác mộng của tôi. Tôi chỉ còn kịp gọi cảnh sát, và sau đó chắc là tôi đã ngất đi, vì tôi không còn hay biết gì nữa cho đến khi tôi tỉnh lại trong đại sảnh. Tôi mở mắt nhìn lên
thì thấy một viên cảnh sát đang đứng bên.
- Thế người bị giết là ai? - Holmes hỏi.
- Chẳng có gì cho biết người ấy là ai, - Lestrade nói.- Các ông sẽ được nhìn thấy cái xác, nhưng cho đến nay thì chúng tôi chưa làm gì được.
Đó là một người cao lớn, da rám nắng, khỏe mạnh, chưa đến ba mươi tuổi. Tuy ăn mặc nghèo khổ, anh ta không có dáng dấp dân lao động. Có một con dao nằm trong vũng máu cạnh xác anh ta. Tôi không rõ đó là con dao mà hung thủ đã dùng để gây án hay là con dao của nạn nhân. Trên quần áo anh ta chẳng thấy có tên tuổi gì, còn trong túi áo cũng chẳng có gì ngoài một quả táo, một sợi dây, một tấm bản đồ London và một bức ảnh. Nó đây này
Đó là một tấm ảnh chụp nhanh bằng loại máy ảnh cỡ nhỏ. ảnh chụp một người đàn ông linh lợi, nét mặt gãy gọn, có cặp lông mày rậm.
- Thế còn pho tượng thì sao? - Holmes hỏi sau khi xem kỹ bức ảnh.
- Tôi vừa nhận được tin về pho tượng này ngay trước lúc các ông đến. Người ta tìm thấy nó trong vườn, trước một ngôi nhà không có người ở tại đường Campden House. Nó đã bị đập vụn ra từng mảnh. Tôi đang định đến đó xem đây. Các ông cùng đi chứ?
- Tất nhiên. Tôi phải đến đấy xem qua một lượt. - Holmes xem xét tấm thảm và cái cửa sổ.
Chỗ tìm thấy những mảnh vỡ của pho tượng cách ngôi nhà chỉ vài trăm mét. Pho tượng của Napoleon bị đập vụn, nằm trên bãi cỏ. Holmes nhặt lên vài mảnh vụn và xem xét kỹ lưỡng. Qua nét mặt chăm chú của anh, tôi tin là rốt cục anh cũng lần ra được manh mối.
- Ông nghĩ sao? - Lestrade hỏi.
Holmes nhún vai.
- Chúng ta còn phải hết hơi với vụ này - anh nói.
- Nhưng dù sao thì ... chúng ta cũng đã có được vài đầu mối để tìm tiếp. Dưới mắt tên tội phạm kỳ quặc kia thì pho tượng bán thân rẻ tiền này còn đáng giá hơn cả mạng người. Đó là điểm thứ nhất. Điểm thứ hai cũng thật kỳ lạ. Nếu mục đích duy nhất của hắn là đập vỡ pho tượng, tại sao hắn không đập ngay trong nhà hay ngay sau khi ra khỏi nhà?
- Hắn hoảng hốt khi chạm trán với người khác, đến nỗi giết người đó. Hắn hầu như không ý thức được hắn đang làm gì nữa.
- ừ, ông nói có lý. Song tôi muốn các ông đặc biệt lưu ý đến vị trí căn nhà này, nơi mà pho tượng đã bị đập nát trong vườn.
Lestrade đưa mắt nhìn quanh.
- Đây là ń người ở nên hắn biết sẽ không bị ai bắt gặp trong vườn.
- Phải. Nhưng từ đầu phố đến đây còn có một ngôi nhà bỏ không nữa mà, hắn phải đi qua để đến đây. Tại sao hắn không đập pho tượng ở đó? Hắn thừa hiểu rằng đi xa thêm mỗi mét là tăng thêm nguy cơ bị phát hiện cơ mà?
- Tôi xin chịu thôi. - Lestrade nói.
Holmes chỉ lên ngọn đèn đường phía trên đầu chúng tôi.
- ở đây hắn mới nhìn thấy rõ, còn ở đằng kia thì không. Đó chính là lý do hắn phải đến tận đây.
Viên thanh tra thốt lên:
- Bây giờ tôi mới nhớ lại pho tượng của bác sỹ Barnicot bị đập vỡ cách chỗ ngọn đèn đỏ nhà ông không bao xa. Chúng phải xử lý thế nào với sự việc này, ông Holmes?
- Ghi nhớ nó. Sau này chúng ta có thể gặp phải một tình tiết buộc ta trở lại với nó đấy. Giờ ông định tiến hành những bước gì nữa, ông Lestrade?
- Theo tôi, thiết thực hơn cả là xác minh xem người bị giết là ai. Việc này thì không khó. Khi đã biết được anh ta là ai rồi, chúng ta có thể bắt tay vào điều tra xem đêm qua anh ta làm gì ở đường Pitt, kẻ nào đã gặp và giết anh ta trên bậc
thang trước cửa nhà ông Horace Harker. Ông thấy như vậy có được không?
- Được lắm. Nhưng tôi thì tôi sẽ tiếp cận vụ này một cách khác.
- Vậy ông sẽ làm thế nào?
- ồ, ông không nên để tôi ảnh hưởng đến ông một chút nào. Tôi đề nghị là ông cứ theo cách của ông, còn tôi sẽ theo cách của tôi. Sau đó sẽ đối chiếu những điều đã ghi nhận được với nhau.
- Tốt lắm. - Lestrade nói.
- Này anh Wat, tôi nghĩ trước mắt chúng ta sẽ là một ngày bận rộn đấy. Tôi sẽ rất vui, ông Lestrade ạ, nếu sáu giờ chiều này ông có thể thu xếp đến thăm chúng tôi ở Baker Street. Còn bức ảnh tìm thấy trong túi áo nạn nhân tôi xin được
giữ cho đến lúc đó. Tối nay có lẽ tôi phải nhờ ông giúp một tay nếu những suy luận của tôi cho thấy là tôi đúng. Từ giờ đến lúc đấy xin tạm biệt và chúc ông may mắn.
Tôi và Holmes cùng đi bộ đến High Street và rẽ vào hiệu Harding Brothers, nơi đã bán pho tượng nọ. Một người phụ việc trẻ trong hiệu cho chúng tôi hay là ông Harding mãi đến chiều mới về, còn anh ta thì không thể giúp chúng tôi biết được
điều gì. Mặc Holmes đầy vẻ thất vọng và buồn bực.
- Chúng ta đành phải quay lại đây chiều nay thôi. Watson ạ, vì đến lúc đó ông Harding mới có mặt ở đây, cuối cùng anh nói. - Tất nhiên anh đã đoán ra là tôi đang cố lần theo dấu vết mấy pho tượng kia cho đến tận đầu mối, để xem tại sao gã điên nọ lại quan tâm đến chúng như vậy. Bây giờ chúng ta đến phố Kennington gặp ông Morse Hudson, thử xem ông ta có biết điều gì có thể làm sáng tỏ vụ này chăng.
Chúng tôi đi xe ngựa mất một giờ thì đến được cửa hiệu bán tranh của Morse Hudson. Ông là một người thấp bé, mập mạp, mặt đỏ, phong thái có vẻ nóng nảy.
- Vâng, thưa ngài. Hắn đập vỡ ngay tại quầy của tôi, thưa ngài, - ông nói. chúng tôi đóng thuế để được gì, nếu bạ ai cũng có thể vào nhà phá phách đồ đạc. Vâng, thưa ngài, chính tôi đã bán cho bác sỹ Barnicot hai pho tượng. Tôi mua của ai những pho tượng ấy ư? Tôi không hiểu chuyện đó có can hệ gì đến sự việc. Thôi được, ngài đã muốn biết thì tôi xin nói. Tôi mua tại hãng Gelder và Công ty trên đường Church, Stepney. Tôi có mấy pho tượng ư? Ba pho - hai cộng một là ba - hai pho tôi bán cho bác sỹ Barnicot, còn một pho nữa bị đập nát ngay giữa ban ngày ban mặt tại quầy hàng của tôi. Tôi có biết người trong ảnh này không ư? Không, tôi không biết. à có, tôi có biết. Hắn là Beppo, người Ý. Hắn làm được một vài việc cho cửa hiệu tôi. Hắn biết chạm khắc đôi chút, và làm vài việc sai vặt trong hiệu. Hắn đi khỏi hiệu tuần trước và từ đó tôi chẳng nghe thấy tăm hơi gì về hắn nữa. Không, tôi không biết hắn ta từ đâu đến. Hắn rời hiệu tôi đi đâu
chẳng hay. Tôi chẳng có gì xung khắc với hắn khi hắn làm việc ở đây. Hắn đi khỏi đây hai ngày trước khi pho tượng bị đập vỡ.
ồ, những điều Morse Hudson cho chúng tôi biết thật đáng giá, chúng ta không thể mong muốn gì hơn thế, - Holmes nói khi chúng tôi rời cửa hiệu. - Chúng ta đã biết được tay Beppo này dính dáng đến cả hai vụ: cả ở Kennington lẫn ở Kensington, thật đáng công đi mười dặm đường đến đây. Anh Watson, bây giờ chúng ta đi đến hãng Gelder và Công ty, khu Stepney, đến tận xuất xứ của mấy pho tượng. Tôi tin là ở đấy chúng ta sẽ biết được một điều gì đó giúp chúng ta điều tra vụ này.
Chúng tôi tìm ra cái xưởng tạc tượng ấy trên một con đường rộng chạy dọc bờ sông. Bên ngoài xưởng là một khoảng sân rộng ngổn ngang những sản phẩm bằng đá đủ loại, bên trong có một căn phòng lớn với năm mươi công nhân đang tạc tượng và đúc tượng theo khuôn. Chủ xưởng, một người Đức cao lớn, tiếp chúng tôi rất lịch sự và trả lời rõ ràng mọi câu hỏi của Holmes. Sổ sách cho thấy: xưởng ông đã sản xuất hàng trăm pho tượng bán thân Napoleon bằng thạch cao; tất cả đều được đúc ra từ một khuôn, dùng pho tượng cẩm thạch của nhà điêu khắc Devine làm mẫu. Ba sản phẩm trong một lô hàng riêng gồm sáu pho tượng đã đem giao cho ông Morse Hudson khoảng một năm trước; số còn lại thì bán cho hiệu Harding Brothers, ở Kensington. Sáu pho tượng trong lô hàng đó chẳng có gì khác với những pho tượng còn lại. Ông không hình dung nổi vì lẽ gì lại có kẻ chỉ muốn đập vỡ những pho tượng ấy.
Trong thâm tâm ông thấy ý định đó quả thật nực cười. Mỗi pho tượng đều được đúc từ hai khuôn, khuôn này đúc nửa mặt bên phải, khuôn kia - nửa bên trái; sau đó ghép hai nửa lại với nhau, thế là được một pho tượng hoàn chỉnh. Công việc này thường do mấy tay thợ người ý đảm nhiệm, ngay tại phòng chúng tôi đang đứng. Làm xong họ đặt những sản phẩm đó lên cái bàn kê ngoài lối đi cho khô, sau đó cất vào kho. Đấy là tất cả những gì ông có thể cho chúng tôi biết. Nhưng tấm ảnh đã gây cho ông chủ xưởng một ấn tượng mạnh mẽ. Ông đỏ mặt giận dữ.
- Vâng, thật sự tôi biết hắn rất rõ, - ông hét to lên.- Từ trước đến giờ chỉ có một lần duy nhất cảnh sát đến xưởng tôi chính là vì thằng này đây. Chuyện đó xảy ra hơn một năm nay rồi: hắn dùng dao đâm một tay người ý khác ở ngoài phố rồi chạy bổ vào xưởng tôi để trốn cảnh sát đang đuổi bắt phía sau. Hắn bị tóm cổ ngay tại đây. Tên hắn là Beppo. Tôi không hề biết họ của hắn. Tuy thế hắn là một tay thợ khá - một trong những tay giỏi nhất đấy.
- Hắn bị kết án gì?
- Người bị hắn đâm không chết, cho nên người ta chỉ xử hắn một năm tù ngồi. Tin tin rằng giờ hắn đã được tự do, nhưng hắn chẳng dám thò mặt về đây. Người em họ của hắn đang làm việc ở chỗ tôi. Hy vọng anh ta có thể mách cho ông biết Beppo hiện ở đâu.
- Không, không, - Holmeskêu lên, - ông đừng nói gì với em họ của hắn cả, tôi xin ông đừng nói gì! Việc này rất hệ trọng. Càng đi sâu vào tôi càng thấy nghiêm trọng. Trong cuốn sổ của ông tôi thấy ghi là những pho tượng đó được bán ngày ba tháng sáu năm ngóai. Ông có thể cho chúng tôi biết ngày Beppo bị bắt được không?
- Tôi có thể tính gần đúng dựa theo bản danh sách tính tiền công, chủ xưởng đáp lại. - Đúng, - ông lại lên tiếng sau một hồi lật tìm trong mớ giấy tờ, - hắn được trả tiền công lần cuối vào ngày hai mươi tháng năm.
- Cảm ơn ông, Holmes nói. - Tôi nghĩ không nên làm mất thì giờ và lạm dụng lòng kiên nhẫn của ông nữa. Còn bây giờ, anh Watson,chúng ta quay về Kensington xem ông chủ hiệu Harding Brothers kể được những gì cho chúng ta về vụ này.
Ông Harding là một người nhỏ bé, nhanh nhẹn, tỉnh trí và nhanh miệng.
- Vâng, thưa ngài, tôi đã đọc được chuyện này trên các báo buổi chiều. Ông Horace Harker là một trong những khách hàng của chúng tôi. chúng tôi bán cho ông ấy pho tượng nọ cách đây mấy tháng. Ba pho tượng loại này chúng tôi đã đặt mua tại hãng Gelder và Công ty, ở Stepney và đã bán hết. Bán cho ai ư? Để tôi xem sổ sách bán hàng và trả lời ngài ngay thôi. Đúng, trong này có ghi đầy đủ. Một pho bán cho ông Harker, ông thấy đấy, một pho nữa bán cho ông Josiah Brown ở Biệt thự Laburnum, Laburnum Vale, Chiswick và pho thứ ba bán cho ông Sandeford ở Hạ Grove, Reading. Không, tôi chưa bao giờ thấy người đàn ông trong bức ảnh ngài đưa tôi xem. Trong hiệu tôi có nhân viên nào người Ý không ư? Thưa ngài, có, có mấy người tôi thuê làm công và quét dọn. Bọn họ có thể liếc nhìn quyển sổ bán hàng này nếu thích. Chẳng có lý do gì đặc biệt để giữ bí mật cả. Chà, vụ này quả là kỳ lạ. Tôi hy vọng ông sẽ cho tôi biết những gì ông phát hiện được.
Holmes ghi chép vài điểm. Tôi thấy anh đắc ý ra mặt. Nhưng anh chẳng giải thích gì, chỉ giục tôi nhanh chân kẻo trễ hẹn với Lestrade. Quả nhiên, khi chúng tôi về đến phố Baker, viên thanh tra đã đợi sẵn ở đấy và đang đi đi lại lại, vẻ sốt ruột.
- Công việc thế nào rồi, ông Holmes? - ông ta lên tiếng hỏi.
- Chúng tôi đã bận rộn suốt ngày và thật là không uổng công chút nào - bạn tôi giải thích - Giờ tôi có thể lần theo dấu vết của từng pho tượng từ lúc mới được đúc trong khuôn ra.
- Các pho tượng à! - Lestrade thốt lên. - Thôi được, thôi được, ông Holmes, ông có phương pháp của riêng ông, song tôi cho là ngày vừa qua tôi khám phá được nhiều điều hơn ông. Tôi đã xác minh được người bị giết là ai và tìm ra nguyên nhân gây án.
- Tuyệt vời.
- Ngài thanh tra Hill, người chuyên theo dõi kiều dân Ý sống tại khu phố Italia, vừa trông thấy đã nhận ngay ra hắn. Hắn tên là Pietro Venucci, quê ở Napoli, là một trong những tay đâm thuê chém mướn sừng sỏ nhất London. Hắn có liên hệ với bọn Mafia, như ông biết đấy, một tổ chức chính trị bí mật. Giờ ông thấy đấy, vụ này bắt đầu sáng tỏ. Kẻ giết hắn có lẽ cũng người Ý và là thành viên Mafia. Tay này chắc đã vi phạm luật lệ như thế nào đó. Pietro rình tìm hắn. Tấm ảnh ta tìm thấy trong túi áo hắn có lẽ là của chính tay này, hắn mang theo để không giết nhầm người khác. Hắn theo dõi địch thủ, khi thấy tên này lẻn vào nhà, hắn đừng ngoài đợi tên này trở ra và trong cuộc ẩu đả với địch thủ hắn đã bị tử thương. Ông nghĩ thế nào về điều này, ông Holmes?
Holmes vỗ tay tán đồng.
- Tuyệt, ông Lestrade, thật là tuyệt! - anh thốt lên. - Nhưng tôi chưa rõ ông lý giải như thế nào việc mấy pho tượng bị đập nát.
- Lại mấy pho tượng! Ông không gạt bỏ được mấy pho tượng ấy ra khỏi đầu sao. Rốt cục, đấy chỉ là chuyện vó vẩn. Chính vụ án mạng mới là cái chúng ta thật sự quan tâm, và tôi có thể nói với ông là tôi đã nắm được mọi đầu mối.
- Thế bước tiếp theo ông định làm gì?
- Hết sức đơn giản. Tôi cùng ngài Hill đến khu phố Italia, tìm cho ra tên trong ảnh nọ và bắt hắn vì tội giết người. Ông cùng đi với chúng tôi chứ?
- Có lẽ không đâu. Tôi có cách đơn giản hơn nhiều. Tôi rất mong đêm nay ông cùng đi với chúng tôi, tôi có thể sẽ giúp ông bắt được hắn.
- Ở khu phố Italia ư?
- Không. Theo tôi, tìm bắt hắn ở Chiswick là chắc hơn cả.
- Ông Lestrade, nếu đêm nay ông đi cùng tôi đến Chiswick thì tôi hứa ngày mai sẽ đi với ông đến khu phố Italia. Hoãn lại một tí đâu có hại gì. Anh Watson, trong lúc chờ đợi, anh làm ơn bấm chuông gọi giúp người đưa thư vì tôi muốn gửi gâp một bức thư rất hệ trọng.
Tối hôm đó Holmes lục tìm các chồng nhật báo cũ chất đầy ắp cả một phòng trong nếp nhà hai chúng tôi đang ở. Cuối cùng rồi anh cũng ra với chúng tôi, mặt rạng rỡ vẻ đắc thắng, nhưng anh chẳng hé răng nói gì với cả tôi lẫn viên thanh tra về những kết quả vừa khám phá. Tôi đã theo sát anh từng bước chân trong suốt tiến trình điều tra vụ này. Vì vậy, tuy chưa thể biết rõ mục tiêu cuối cùng chúng tôi đang theo đuổi, tôi vẫn hiểu mười mươi rằng Holmes hy vọng sẽ tóm được tên tội phạm đang cố tìm mọi cách đoạt hai pho tượng còn lại, mà một, theo tôi nhớ, hiện đang nằm tại Chiswick. Không còn ngờ vực gì nữa, mục đích chuyến đi của chúng tôi đêm nay là bắt quả tang hắn ta. Tôi chẳng ngạc nhiên khi Holmes nhắc tôi nên mang theo cả khẩu súng ngắn ưa thích của tôi.
Mười một giờ, một chiếc xe ngựa đã đậu trước cổng nhà. Chúng tôi lên xe, đến một nơi nằm bên kia cầu Hammer Smith. Sau một quãng đi bộ, chúng tôi đã đến một con đường yên tĩnh với những tòa nhà đẹp mắt, xây trên từng khoảng đất riêng, cách biệt nhau.
Nhờ ánh đèn đường, tôi đọc được hai chữ Laburnum Lodge trên cổng hậu một tòa nhà. Chủ nhân chắc chắn đã đi nghỉ, vì toàn bộ ngôi nhà đang chìm trong bóng tối, ngoại trừ một khung cửa sổ ngay bên trên cửa chính dẫn vào tiền sảnh, hắt một quầng sáng lẻ loi xuốngđi trong vườn. Một dãy rào gỗ ngăn khu vườn với đường phố, hắt một dải bóng tối dày dặc vào phía trong. Chúng tôi chọn đó làm nơi ẩn nấp.
- Tôi e là anh sẽ phải đợi lâu đây, - Holmes ri tai tôi.
- Nhưng tôi dám đánh cược hai ăn một là chúng ta sẽ được đền bù xứng đang cho những nỗi vất vả mà chúng ta đã trải qua.
Nhưng hóa ra chúng tôi chẳng phải đợi lâu như Holmes đã nghĩ, và kết cục thật bất ngờ và kỳ lạ. Thình lình, không có một tiếng động nào báo trước, cảnh cổng vườn bật mở, và một bóng đen nhanh nhẹn, khéo léo chạy vụt vào theo lối mòn trong vườn. chúng tôi thấy cái bóng đó lướt qua cái quầng sáng trên cửa sổ hắt xuống cửa chính, và biến mất vào bóng tòa nhà. Bốn bề im ắng khá lâu. chúng tôi nín thở chờ đợi, rồi một tiếng động khẽ vọng tới: cánh cửa sổ mở ra. Tiếp đó, không còn nghe một tiếng động nào nữa, và tất cả lại lặng ngắt một hồi lâu. Bóng đen nọ lẻn vào nhà. Bỗng chúng tôi thấy một ánh đèn lóe sáng trong phòng. Cái hắn tìm chắc không có ở đó, vì chúng tôi lại thấy ánh đèn lóe sáng tại một chỗ khác, rồi một chỗ khác nữa.
- Nào, chúng ta hãy tới cửa sổ để ngỏ. Chúng ta sẽ tóm hắn lúc hắn leo ra, - Lestrade khẽ nói.
Nhưng chúng tôi chưa kịp tới nơi dự tính thì gã nọ đã xuất hiện. Khi hắn ra đến quầng sáng, chúng tôi thấy hắn đang cắp trong nách một vật màu trắng. Hắn đưa mắt nhìn quanh. Quay lưng về phía chúng tôi, hắn đặt vật đang cắp dưới nách xuống, và ngay sau đó, bỗng vang lên một tiếng đập mạch, rồi tiếp theo là những tiếng lại xạo. Hắn mải miết với việc đang làm đến mức không nghe thấy tiếng bước chân chúng tôi lướt trên mặt cỏ. Holmes nhảy chồm lên lưng hắn như một con hổ, và chỉ một chớp mắt sau, Lestrade và tôi đã tóm lấy cổ tay hắn. Khi chúng tôi lật ngửa hắn lại, tôi thấy hắn đang nhìn chúng tôi một cách hằn học. Và tôi nhận ra kẻ bị bắt chẳng phải ai khác, mà chính là người đàn ông trong ảnh.
Nhưng Holmes chẳng hề quan tâm đến kẻ bị bắt. Anh chỉ chăm chú xem pho tượng Napoleon mà gã nọ vừa lấy trộm trong nhà ra. Pho này cũng giống như pho mà chúng tôi thấy sáng nay, và cũng đã bị đập vụn từng mảnh. Thận trọng, Holmes đưa từng mảnh vỡ ra chỗ sáng xem xét, nhưng những mảnh thạch cao đó xem ra chẳng khác gì nhau. Anh vừa xem xong thì ánh đèn trong tiền bỗng sáng rực. Cửa mở, và từ trong nhà bước ra một người đàn ông vui vẻ, ăn mặc tề chỉnh, tự giới thiệu mình là chủ nhà.
- Ông chắc hẳn là ông Josiah Brown? - Holmes nói.
- Vâng, thưa ngài. Còn ngài chắc hẳn là ngài Holmes? Tôi đã nhận được thư ngài do người đưa thư chuyển tới, và tôi đã làm đúng như lời ngài dặn trong thư. Chúng tôi đã khóa chặt các cửa phòng và đợi mọi diễn biến. Tôi rất mừng là ngài đã tóm được hắn. Tôi hy vọng các ngài sẽ quá bộ vào nhà nghỉ một lát trước lúc ra về.
Nhưng Lestrade sốt ruột, chỉ muốn đưa gấp tên trộm về đồn cho chắc ăn, nên chỉ vài phút sau, ba chúng tôi và tên trộm đã yên vị trên xe về lại London. Tên trộm không hề hé răng thốt ra một lời nào, mà chỉ hằn học nhìn chúng tôi từ sau mái tóc rũ xuống trán. Có một lần, khi tay tôi nằm trong tầm với, hắn vụt cúi xuống định ngoạm. Chúng tôi lưu lại đồn cảnh sát khá lâu để chờ kết quả khám xét người hắn, nhưng chảng tìm thêm đựoc gì ngoài một vài đồng xu trong túi và một con dao dài, trên cần còn nguyên vết máu chưa kịp xỉn lại.
- Thôi ổn rồi, - Lestrade nói khi chia tay chúng tôi. - Ngài Hill biết mặt tất cả các kiều dân khu này, nên sẽ cho chúng ta biết họ tên hắn. Ông sẽ thấy giả thuyết của tôi về bọn Mafia là chính xác một trăm phần trăm. Dù sao tôi cũng biết ơn ông đã mách giúp tôi cách tóm cổ hắn. Có điều,tôi vẫn chưa hiểu hết làm thế nào mà ông biết nơi hắn sẽ xuất đầu lộ diện.
- Tôi e rằng muốn giải thích phải đợi dịp khác, vì bây giờ đã khuya quá rồi, - Holmes nói. - Hơn nữa, vẫn còn một vài tình tiết tôi chưa khám phá ra, và đây là một trong những vụ đáng để chúng ta thực hiện đến nơi đến chốn. Nếu ngày mai, ông chịu khó ghé lại nhà tôi vào lúc sáu giờ, tôi nghĩ tôi có thể cho ông thấy: cho tới lúc này ông vẫn chưa hiểu hết điểm mấu chốt của vụ này. Đó mới chính là những điểm khiến vụ này là vụ án độc đáo nhất lịch sử tội phạm.
Tối hôm sau, khi gặp lại nhau, Lestrade đã cho chúng tôi biết hàng loạt thông tin về kẻ bị bắt. hóa ra tên hắn là Beppo, còn họ thì không rõ. Có thời, hắn từng là thợ đúc tượng giỏi, làm ăn lương thiện. Nhưng về sau hắn đã gây nên những vụ phạm pháp. Hắn từng hai lần ngồi tù, một lần vì ăn cắp vặt, lần sau thì như các ông đã biết, vì tội đâm trọng thương một ồng bào của hắn. Hắn rất thạo tiếng Anh. Nhưng lý do nào khiến hắn đập nát những pho tượng thì chưa rõ: hắn không chịu trả lời bất cứ câu hỏi nào về chuyện này. Cảnh sát đã phát hiện được rằng những pho tượng mà hắn đập nát có thể đều do chính tay hắn làm ra, vì hắn từng làm loại công việc này tại hãng Gelder và Công ty. Tất cả những thông tin này, phần nhiều chúng tôi đều biết cả rồi, nhưng Holmes vẫn lịch duyệt lắng nghe; có điều tôi vốn biết rõ anh, nên tôi hiểu rằng ý nghĩ anh đang đổ dồn vào một chuyện khác. Bỗng anh đứng bật dậy, mắt sáng rực khi nghe vang lên tiếng chuông gọi cửa dưới nhà. Một phút sau, có tiếng chân bước lên cầu thang, rồi một người đàn ông đứng tuổi, mặt đỏ gay, bước vào, tay phải xách theo một cái túi. Ông ta đặt cái túi lên bàn, rồi lên tiếng:
- Đây có phải là nhà ngài Holmes không?
Bạn tôi mỉm cười cúi chào.
- Nếu tôi không nhầm, ông là Sandeford ở Reading? - anh lên tiếng.
- Vâng, thưa ngài, có lẽ tôi đến hơi muộn, nhưng không có chuyến tàu nào thuận tiện hơn. Trong thư ông có yêu cầu tôi nhượng lại pho tượng bán thân mà tôi đang sở hữu.
- Quả đúng như vậy.
- Tôi có đem theo thư ông đây. Ông viết:“Tôi muốn có một bản sao pho tượng bán thân Napoleon do Devine tạc và tôi sẵn sàng trả mười bảng để mua lại pho tượng ông hiệu sở hữu.” Có đúng vậy không ạ?
- Chính thế.
- Tôi rất ngạc nhiên khi đọc thư ông, vì tôi không thể hình dung được nhờ đâu mà ông biết được tôi có pho tượng như thế.
- Ông ngạc nhiên là phải thôi, nhưng chuyện này có thể giải thích hết sức đơn giản. Ông Harding, chủ hiệu Harding Brothers nói là đã bán phúc bản cuối cùng của pho tượng cho ông, và có cho tôi biết địa chỉ của ông.
- Thì ra là vậy. Thế thì tôi có mang theo pho tượng như ông đã yêu cầu. Nó đây này!- Ông ta đã mở túi xách và mãi lúc này chúng tôi mới được thấy trên bàn chúng tôi một pho tượng nguyên vẹn, trước đến giờ chúng tôi chỉ toàn thấy những mảnh vụn.
Holmes rút trong túi ra một tờ giấy và đặt lên bàn tờ giấy bạc mười bảng.
- Ông Sandeford, ông làm ơn ký vào tờ giấy này trước sự chứng kiến của các vị đây. Trong giấy xác nhận rằng ông chuyển nhượng cho tôi mọi quyền lợi có thể có đối với pho tượng. Cám ơn ông Sandeford. Đây, xin ông nhận lấy tiền và chúc ông một buổi tối tốt lành.
Khi vị khách đã đi khuất, Holmes liền lôi trong ngăn kéo ra một tấm vải trắng tinh và trải lên bàn. Rồi anh đặt pho tượng vừa mua vào chính giữa tấm vải. Xong xuôi, anh giờ cao gậy, giáng một cái thật mạnh vào đỉnh đầu Napoleon. Pho tượng vỡ vụn ra từng mảnh. Holmes háo hức cúi xuống xem xét các mảnh vỡ. Lát sau, anh reo lên đắc thắng và giơ cao một mẩu thạch cao bọc bên ngoài một vật tròn tròn sẫm màu.
- Thưa các vị, anh reo lên - xin được giới thiệu với các vị viên ngọc đen nổi tiếng của dòng họ Borgias.
Lestrade và tôi ngồi lặng người đi một lúc, rồi cả hai cùng vỗ tay hệt như vừa xem xong một vở kịch. Má Holmes vốn tái nhợt giờ vụt ửng hồng. Anh cúi chào chúng tôi như một diễn viên bậc thầy đáp lại lòng ngưỡng mộ của khán giả. Chỉ trong những khoảnh khắc đó Holmes mới tỏ ra là một nhân viên rất người, rất thích được ngưỡng mộ và thán phục, chữ không phải là một cái máy giỏi suy luận.
- Vâng, thưa các ngài, - anh nói- đây chính là viên ngọc lừng danh Thế giới. Tôi đã có cái may mắn được theo dõi hành trình của viên ngọc quý từ phòng ngủ của Quận công xứ Colonna trong khách sạn Darce, nơi nó bị mất, cho tới khi nó chui vào pho tường cuối cùng trong số sau pho Napoleon do hãng Gelder và Công ty tại Stepney đúc ra. Ông Lestrade, chắc ông còn nhớ vụ scandal nổ ra sau ngày viên ngọc quý này mất tích, và những nỗ lực tìm kiếm vô vọng của cảnh sát London. Chính tôi cũng được mời đến làm cố vấn cho họ trong vụ này, nhưng tôi đã không làm sáng tỏ được gì. Người ta nghi cho cô hầu gái của Quận chúa.
Cô này người Ý, và người ta cũng phát hiện ra rằng cô ta có một người anh ở London, nhưng chúng tôi không tìm ra dược bất cứ một mối liên hệ nào giữa hai người. Cô ta tên là Lucretia Venucci, và tôi tin chắc rằng chính gã Pietro bị giết cách đây hai hôm là anh. Tôi dò tìm ngày tháng trong đống báo cũ và thấy rằng viên ngọc bị mất đúng hai ngày trước hôm Beppo bị bắt vì tội mưu sát. Hắn bị bắt ngay tại xưởng Gelder và Công ty đúng vào thời điểm những pho tượng kia đúc ra. Beppo đang giữ viên ngọc. Có thể hắn đánh cắp của Pietro, hoặc hắn là tòng phạm của Pietro, hoặc hắn làm trung gian giữa Pietro và em gái hắn ta. Thực ra khả năng nào là đúng, đối với chúng ta không hệ trọng. Cái chính là hắn có viên ngọc và đang giữ viên ngọc trong người lúc bị cảnh sát truy đuổi. Hắn đến cái xưởng làm tượng mà hắn đang làm việc, và hắn biết mình chỉ còn vài phút để giấu cái báu vật vô giá ấy, nếu không cảnh sát sẽ tìm thấy nó khi khám xét người hắn. Lúc sáu pho tượng Napoleon bằng thạch cao đang hong ở lối đi, trong đó có một pho còn mềm. Vốn là một tay thợ giỏi, trong chớp mắt Beppo đã tạo được một cái hốc nhỏ, ấn viên ngọc vào đó, rồi với vài động tác hắn đã có thể trám ngay được cái hốc kia. Quả không còn một nơi cất giấu nào tốt hơn. Không một ai có thể tìm ra viên ngọc được nữa. Nhưng Beppo bị kết án một năm tù, và trong thời gian đó sáu pho tượng kia được bán đi khắp London. Ra tù, hắn không thể biết báu vật nọ hiện nằm trong pho tượng nào. Bây giờ chỉ còn cách đập vỡ từng pho một mới biết được vì dù có lắc mạnh viên ngọc cũng không gây được tiếng động nào: khi thạch cao còn ướt, viên ngọc có thể bị dính chặt ở bên trong, và sự thực quả đúng như vậy. Nhưng Beppo không nản lòng. Hắn thực hiện một cuộc tìm kiếm thật tài tình. Qua người em họ làm cho Gelder, hắn biết được những pho tượng ấy đã được bán cho hãng nào. Hắn cố xin một chân ở hiệu Morse Hudsson và nhờ đó đã lần ra được dấu tích của ba pho. Tiếc thay trong cả ba pho ấy đều không thấy có viên ngọc. Sau đó, nhờ một nhân viên người ý, hắn đã dò ra được ba pho còn lại hiện ở đâu. Pho thứ nhất ở nhà ông Harker. Tại đây Beppo bị Pietro theo dõi. Tên này vốn coi hắn như kẻ chịu trách nhiệm về vụ mất viên ngọc, Beppo đã hạ sát tên này trong trận ẩu đả sau đó.
- Nếu chúng đồng lõa với nhau thì tại sao Pietro lại phải mang theo tấm ảnh?- tôi hỏi.
- Đó là một phương tiện để hỏi dò người khác xem họ có nhận ra người trong ảnh không. Lý do chỉ có vậy. Sau khi gây án mạng, tôi đoán chắc Beppo nhất định phải hành động khẩn trương hơn, chứ không thể chần chứ. Hắn sợ cảnh sát khám phá được điều bí mật của hắn, nên hắn phải làm gấp trước khi bị cảnh sát biết. Tất nhiên ở thời điểm đó, tôi chưa thể nói rằng hắn không tìm thấy viên ngọc. Tôi cũng chưa thể kết luận đích xác rằng hắn đang tìm viên ngọc. Nhưng tôi biết chắc rằng hắn đang tìm một vật gì đó, vì hắn phải mang pho tượng ấy nhà liền để tìm một chỗ nào đó có ánh đèn. Bấy giờ chỉ còn hai pho, nên dĩ nhiên hắn phải tìm pho ở London trước tiên. Vì thế tôi phải báo trước với chủ nhà để tránh một thảm kịch thứ hai. Và ở đó chúng ta đã thu được kết quả mỹ mãn nhát. Lúc này, dĩ nhiên, tôi đã biết chắc cái mà chúng ta đang theo đuổi chính là viên ngọc Borgias. Tên kẻ bị giết đã giúp tôi tìm ra mối liên hệ giữa các sự việc với nhau. Cuối cùng chỉ còn một pho tượng độc nhất - pho ở Reading – và chắc chắn viên ngọc phải nằm ở đó. Tôi đã mua nó từ tay chủ nhân trước sự chứng kiến của các vị, và viên ngọc giờ này đã ở đây.
Chúng tôi ngồi im lặng một lúc.
- ấy đấy - Lestrade lên tiếng - tôi đã từng được chứng kiến ông xử lý nhiều vụ án, ông Holmes ạ, nhưng từ lúc hành nghề tới giờ, tôi chưa hề được thấy một vụ được xử lý một cách tài tình như vụ này. Nếu ngày mai ông có nhã ý quá bộ đến Scotland Yard thì tôi tin rằng không một ai, kể từ ông thanh tra già nhất đến anh nhân viên trẻ nhất, không lấy làm sung sướng được bắt tay ông.
- Cám ơn ông! - Holmes nói. - Cám ơn ông! - Và khi anh quay đi tôi có cảm giác xúc động hơn bất cứ lúc nào mà tôi từng được chứng kiến. Lát sau, anh đã lại trở thành con người có cách suy nghĩ lạnh lành và thực dụng như cũ.
- Watson, cất giúp viên ngọc vào chỗ an toàn - anh nói. Tạm biệt ông Lestrade. Nếu sau này ông có gặp một vấn đề nhỏ nhặt nào, tôi sẽ lấy làm sung sướng được góp với ông một vài ý nhỏ để giúp ông tìm giải pháp.
09. Ba sinh viên
(The Adventure of the Three Students-1904)
Trong năm 1895, Sherlock Holmes và tôi tới ngụ tại một thành phố lớn có nhiều trường đại học. Lúc đó chúng tôi trọ trong một nhà cho thuê có đồ đạc, gần một thư viện, để Holmes nghiên cứu một đề tài mà anh thích. Một buổi tối, chúng tôi tiếp ông Hil-tơn, thầy giám học và giáo sư giảng tại trường trung học Saint Luc.
- Thưa ông Holmes, một chuyện rất khổ tâm vừa xảy ra ở Saint Luc. Và nếu không có sự may mắn đưa ông tới đây thì không biết xoay sở ra sao.
- Tôi đang bận, và mong không bị mất tập trung.
Tôi thật lòng muốn ông nhờ tới cảnh sát thì hơn.
-Không. Không thể được! Khi luật pháp đã khởi động thì chẳng có cách gì làm cho nó ngừng lại. Mà nhà trường thì không muốn bị mang tai mang tiếng. Ông là người duy nhất có thể giúp chúng tôi, thưa ông Holmes.
Tính nết Holmes đã không khá hơn kể từ khi anh rời bỏ bầu không khí quen thuộc của con đường Baker.
Không có những cuốn sách to lớn, những cuộc phân tích hoá học, sự bừa bộn quen thuộc của anh, thì anh không được thoải mái. Vả chăng anh đã nhún vai để bày tỏ một sự không đồng ý. Ngay đó người khách không ngừng tuôn ra những câu nói hối hả.
-Thưa ông Holmes, ngày mai bắt đầu cuộc thi lấy học bổng. Tôi là một trong số các giám khảo về môn tiếng Hy Lạp. Tôi chọn đề thi là một bài dịch khá dài mà chưa một thí sinh nào dịch qua. Bản văn được đem đi in. Tất nhiên là thí sinh nào biết được và chuẩn bị bài làm thì sẽ có nhiều hi vọng hơn. Chính vì thế mà chúng tôi luôn luôn giữ thật kỹ.
Hôm nay, vào lúc ba giờ, các bản in thử được nhà in gửi đến tôi. Tôi phải đọc lại thật cẩn thận để bản văn được hoàn toàn đúng ngữ pháp. Tới bơn giờ rưỡi, tôi vẫn đọc chưa xong. Thế mà tôi lại bận đi dự tiệc ở bên ngoài trường. Tôi để các bản in thử trên bàn giấy và vắng mặt khoảng một tiếng đồng hồ. Những cánh cửa ở trường là cửa kép: bên ngoài làm bằng gỗ sồi và bên trong là lớp thảm bồi. Khi trở về, tôi ngạc nhiên khi thấy có chìa khoá gắn trong ổ. Thoạt đầu tôi ngỡ là mình để quên chìa khoá!
Nhưng tôi lục tìm trong các túi, chìa khóa của tôi vẫn ở trong túi. Cái chìa khoá thứ hai do người hầu của tôi, tên là Ba-ni giữ. Ông này đã sống với tôi suốt mười năm và là người ngay thẳng. Chìa khoá đó, đúng là chìa khoá của ông ta. Ông ta đã vàđể xem tôi có muốn uống trà không, và khi đi ra, ông đã để quên... Ba-ni hẳn đã vào trong phòng vài phút sau khi tôi đã đi ra ngoài. Trong bất cứ ngày nào khác, sự việc đó không có gì quan trọng.
Nhưng hôm nay, thì nó rất là thảm hại.
Nhìn lên bàn giấy, tôi thấy ngay là đã có người lục lọi giấy tờ của tôi. Những bản in thử in trên ba tờ giấy dài. Tôi đã để chúng cùng một chỗ. Và giờ đây tôi thấy ba tờ nằm ba nơi: tờ thứ nhất nằm trên sàn nhà, tờ thứ hai ở gần cửa sổ và tờ thứ ba nằm ở vị trí cũ. Trong một lúc lâu, tôi tự nhủ là Ba-ni đã tự tiện xem giấy tờ của tôi. ông ta đã đoan chắc với tôi là không. Vậy thì có ai đó, khi đi ngang trước cửa phòng tôi, thấy cái chìa khoá và đoán rằng tôi đi ra ngoài nên người đó bước vào xem các bản in thử.
Ba-ni gần như ngất đi khi chúng tôi khám phá ra rằng những bản in thử bị đổi chỗ. Tôi đã cho ông ta uống vài giọt cô-nhắc và tôi để ông ta ngồi xuống ghế rồi khám xét thật tỉ mỉ căn phòng. Trên cái bàn nhỏ gần cửa sổ, tôi tìm thấy những miếng gỗ vỏ bút chì được gọt. Còn có một mẩu ruột bút chì bị gãy. Rõ ràng là kẻ ranh mãnh đã chép vội chép vàng bài thi. Vì luống cuống y đã làm gấy cây bút chì và đã gọt lại.
- Tuyệt vời. Ông đã gặp may! - Holmes kêu lên.
- Chưa hết. Tôi có một cái bàn rất mới, được phủ bằng lớp da màu đỏ rất đẹp. Mặt bàn thật trơn và sạch.
Thế mà tôi đã bắt gặp một vết đứt dài sáu centimet; không phải là vết xước mà là một vết đứt; ở trên mặt bàn có một cục bột đen nhỏ, trong đó có vài hạt nhỏ giống như là mạt cưa. Tôi tin chắc là những dấu vết đó do kẻ chép đề thi để lại. Tôi không thấy dấu chân nào mà cũng chẳng thấy dấu vết nào khác có thể tìm ra đó là ai. Giữa lúc tôi hoàn toàn nản chí thì sực nhớ ra ông đang ở trong thành phố này. Xin hãy giúp tôi. ông Holmes? Cuộc thi sẽ phải bị hoãn lại cho đến khi nào các đề thi mới được in xong.
Tất nhiên tôi phải giải thích lý do bằng cách khai ra sự thật. Như vậy một vụ tai tiếng sẽ nổ ra. Tôi mong muốn được dàn xếp công việc theo cách kín đáo nhất?
T sung sướng được lo vụ này - Holmes nói, đứng lên và mặc áo choàng ngoài vào - Có ai tới thăm ông sau khi những bản in thử được đem tới không?
Có. Chàng trai Đô-lát, một sinh viên người Ấn ở cùng trong một cầu thang; anh ta đã vào phòng và hỏi tôi vài chi tiết về cuộc thi.
- Anh ta là thí sinh?
- Vâng.
- Lúc đó các tờ giấy để trên bàn giấy của ông?
Nó còn được quấn thành cuộn.
- Nhưng người ta có thể đoán ra đó là những bản in thủ?
- Chắc chắn là như vậy.
- Không có người nào khác vào phòng ông hay sao?
- Không.
Có ai đoán biết là các đề thi dang có tại đó?
- Không một ai, ngoại trừ nhà in.
- Ông Ba-ni cũng không biết chứ?
- Phải. Tất cả mọi người đều không biết!
-Bây giờ Ba-ni ở đâu?
-Ông ta bị bệnh. Tôi để ông ta lại trong ghế bành. Tôi vội vàng đi tới đây.
-Ông để cửa mở à?
-Tôi cất giấy tờ vào trong ngăn tủ có khoá.
-Nếu người sinh viên Ấn Độ mà không đoán biết cuộn giấy đó là những bản in thử thì người đụng tới đề thi là người đã tình cờ bắt gặp, mà trước đó, họ không hề biết là đề thi có mặt ở
-Dường như vậy.
Holmes cười một cách khó hiểu. Anh nói:
-Vậy thì, hãy tới nhà ông xem sao.
Căn phòng được dùng làm văn phòng của ông giáo có một cửa sổ thấp, gắn lưới sắt, nó nhìn ra cái sân cũ của trường. Một cửa ra vào mở ra trên cầu thang đá. ông giám học ở tầng một. Ba sinh viên ở các tầng trên, mỗi người một tầng. Khi chúng tôi tới hiện trường, gần như đã vào đêm. Holmes quan sát kỹ khuôn cửa sổ từ mé ngoài.
Anh đứng nhón chân, nghển cái cổ dài ra mà ngó vào trong phòng.
- Hắn đã vào trong phòng qua ngả cửa chính. Màng lưới sắt của cửa sổ ắt hẳn đã không cho y đi xuyên qua đây - Ông giám học nói.
-Thật vậy sao? - Holmes nói khi ném một tia nhìn kỳ lạ về phía thân chủ - Thế thì chúng ta nên vào trong xem xét tiếp.
Ông giám học mở cửa chính ra và dẫn chúng tôi vào trong văn phòng. Chúng tôi đứng lại trên ngưỡng cửa trong lúc Holmes quan sát tấm thảm, anh nói:
- Ở đây chúng ta chẳng tìm ra được dấu vết nào.
Trời quá khô ráo! Ông Ba-ni dường như đã bình phục.
Ông đã để ông ấy lại trong ghế bành. Cái ghế nào?
- Cái ghế gần bên cửa sổ.
- Giờ đây các ông có thể vào được rồi - Holmes nói.
Tôi đã xem xong tấm thảm. Trước hết chúng ta hãy quan sát cái bàn nhỏ. Hiển nhiên là người nọ đã lấy những bản in thử, tờ này tiếp tờ kia. Người đó ngồi vào cái bàn nhỏ gần bên cửa sổ, bởi vì từ đó, hắn có thể canh chừng việc trở về qua ngả cửa chính mà bỏ
- Sự thật thì hắn không thể ìàm thế. Bởi vì tôi trở về qua ngả cửa nhỏ, phía bên kia.
- A, đó là điều rất hay! Xin hãy cho tôi xem ba tờ giấy thi. Không có dấu vết ngón tay. Không Thoạt đầu hắn lấy tờ giấy này và ởã chép. Hắn cần phải mất bao nhiêu thời gian để làm công việc này? Tối thiểu cũng mất một khắc. Đoạn hắn vứt tờ giấy đã chép xong xuống đất, rồi lấy tờ thứ hai. Hắn hẳn đã chép được một nửa của tờ giấy thứ hai thì thấy ông về, nên hắn phải bỏ trốn, rất hấp tấp, bởi vì hắn không kịp xếp lại các tờ giấy này như cũ. ông không nghe thấy những tiếng chân hối hả trên cầu thang khi ông trở về qua ngả cửa ngoài sao?
- Không.
- Hắn đã viết hết sức vội vã nên làm gấy đầu bút chì, và hắn phải vót lại. Điều này rất đáng chú ý, Watson.
Cây bút chì này có một chiều dài bình thường và ruột bút chì thật mềm. Vỏ bên ngoài màu xanh đậm. Tên nhà sản xuất được khắc bằng chữ nhũ màu bạc. Cái mẩu còn lại dài gần năm phân. Thưa ông giám học. Hãy tìm một cây bút thuộc loại đó, và ông sẽ tìm ra được người cần tìm. Tôi còn dám nói rằng hắn có một con dao nhíp lớn, rất cùn.
Ông giáo sư hơi bị choáng ngợp trước dòng thác những thông báo đó.
-Tôi theo kịp ông về một số điểm, nhưng về cái chiều dài thì . . .
Holmes đưa cho ông ta coi một mẩu vỏ bút chì trên có những chữ NN mà không có bất cứ một chữ nào khác tiếp theo sau.
Ông thấy chứ?
- Không ngay đến giờ đây cũng chưa . . .
- Anh Watson, những chữ NN này có thể là gì? Hai chữ cuối của một từ. Anh đã biết rằng Johann Faber là nhà sản xuất bút chì. Cây bút chì còn lại một khúc ngắn tiếp theo chữ Johann . . .
Anh nghiêng cái bàn ánh sáng đèn điện.
- Nếu người đó viết trên giấy mỏng thì tôi sẽ tìm thấy dấu vết kiểu chữ của y trên cái mặt phẳng nhẵn bóng này. Nhưng không, tôi không thấy gì hết. Hãy thử xem cái bàn giấy của ông. Tôi đồ chừng đám nhỏ này là đống chất đen lợt mà ông đã nói với tôi. Hình chóp và rỗng. Ông nói đúng, những hạt mạt cưa ở bên trong. Điều này thật là đáng chú ý! Và vết đứt, đúng là một vết rách, bắt đầu bằng một vết xước mỏng và chấm dứt bằng một cái lỗ rách xơ ra. Cánh cửa này dẫn tới đâu?
-Vào phòng ngủ của tôi.
- Kể từ lúc xảy ra câu chuyện, ông có vào trong phòng đó lần nào không?
- Không. Ngay tức khắc, tôi tới đằng nhà ông.
-Tôi mong muốn được xem qua. Căn phòng thật duyên dáng, với cái kiểu kiến trúc cổ này! Chờ một chút, để tôi quan sát cái sàn nhà này... Tôi không thấy gì cả.
Còn tấm ri-đô này? ông treo quần áo Ơû đằng sau. Nếu ai đó muốn nấp trong căn phòng này thì y sẽ trốn vào đây, bởi cái giường thì quá thấp và phòng vệ sinh thì không đủ rộng. Chẳng có ai đâu, chắc vậy?
Theo cái cách mà Holmes nhấc tấm ri-đô lên, tôi hiểu là anh sẵn sàng ứng phó với mọi sự. Thật ra, góc nhà đó không chứa đựng cái gì khấc hơn là vài bộ quần áo treo trên những cái mắc áo. Holmes xoay gót và bất thình lình cúi xuống.
- Này! Cái gì đây nhỉ? - Anh reo lên.
Đó là một cái tháp nhỏ chất đen, giống hệt với cục nhỏ mà chúng tôi đã thấy trên bàn ở văn phòng. Holmes nhặt lên và quan sát nó.
Người khách của ông đã để lại những dấu vết ở trong phòng ngủ cũng như văn phòng ông đây này.
Hắn vào đây để làm gì? .
- Ông quay về theo một ngả mà hắn không tiên liệu được, và hắn chỉ được bá khi ông đến trước cánh cửa. Hắn bèn quơ lấy tất cả những gì có thể tố giác hắn và hối hả chui vào phòng ngủ của ông đế trốn.
- Vậy trong suất thời gian tôi nói chuyện với Ba-ni trong văn phòng, người đó đã ở trong phòng ngủ của tôi hay sao? Thưa ông Holmes, liệu có khả năng nào khác được chúng ông chưa quan sát cửa sổ phòng tôi.
- Những ô vuông hình thoi, sườn bằng que chỉ, ba miếng kính rời, một xoay trên những bản lề khá lớn đủ cho một người có thể lách mình qua.
-Đúng vậy. Và nó mở ra một góc sân. Người đó đã vào phòng qua ngả cửa sổ, để lại những dấu vết trong phòng mà y đã đi qua, đoạn bỏ theo cửa chính để ngỏ mà ra ngoài.
Holmes lắc đầu nói:
- Ông đã bảo với tôi rằng có ba sinh viên sử dụng cái cầu thang này và thường hay đi ngang trước cửa phòng ông?
-Vâng.
- - Và cả ba đều dự thi? .
- Vâng.
Ông có nghi ngờ người nào không?
- Đây là một vấn đề rất tế nhị. Tôi chẳng muốn phát biểu chút nào khi chưa có chứng cớ.
- Tầng lầu một là anh Gi-ri, một người hoàn hảo và là một lực sĩ đẹp. Anh ta chơi trong đội bóng bầu dục và khúc côn cầu của nhà trường, là tay vô địch môn chạy vượt rào và nhảy xa. Thân phụ anh là một nhà quý tộc bị phá sản trên các trường đua ngựa. Người con trai đó nghèo. Nhưng làm việc chăm chỉ và thông minh.
Tầng lầu hai là nơi Đô-lát cư ngụ. Người Ấn Độ này rất trầm tĩnh và kín đáo. Anh học tập tốt, nhưng tiếng Hi-lạp thì yếu. Anh chăm học và có phương pháp.
Tầng lầu chót có Mi-lê. Anh ta rất siêng học, một trong những học sinh sáng suốt nhất của trường. Nhưng anh ta lại thất thường, ngch ngợm, vô nguyên tắc.
Trong năm thứ nhất, anh ta suýt bị đuổi học vì một vụ đánh bài. Trong suốt quý này, anh ta đã đi chơi rong và ắt hẳn anh phải nhắm tới kỳ thi với nỗi kinh hoàng.
Vậy là ông nghi anh ta?
- Tôi không dám đi xa tới thế. Nhưng một người có hành vi như thế sẽ dễ bị người khác nghi ngờ.
- Giờ đây, tôi muốn gặp ông Ba-ni.
Đó là một người bé nhỏ, trạc năm mươi tuổi: Nước da trắng, không râu; tóc hoa râm, mặt tròn trịa, có thoáng qua những chứng giật gân mặt và các ngón tay cứ luôn luôn bắt chéo vào nhau rồi lại buông ra.
- Chúng tôi đang điều tra về cái vụ không may mắn đó, Ba-ni! - Chủ ông ta nói.
- Vâng, thưa ông.
- Hẳn ông đã để cái chìa khoá lại trên cửa? - Holmes hỏi ông ta.
Vâng thưa ông.
Phải chăng là sự khác thường, khi ông lơ đễnh đúng vào cái ngày mà những tài liệu lại để ở trong phòng?
- Thật hoàn toàn đáng tiếc, thưa ông.
-Ông vào đây lúc mấy giờ?
Khoảng bốn giờ rưỡi, giờ chủ tôi dùng trà.
Ông ở lại trong bao lâu?
- Khi thấy ông chủ không có ở đây, tôi bỏ đi ngay.
- Ông có nhìn vào các giấy tờ để trên bàn không?
Không, thưa ông.
Làm thế nào mà ông lại có thể để cái chìa khoá ở trong ổ khoá?
- Tôi đang bưng khay trà. Tôi tự nhủ là sẽ quay lại lấy chìa. Thế rồi tôi quên luôn.
Cánh cửa bên ngoài có một bộ phận đóng tự động không? .
Không, thưa ông!
- Thế là nó vẫn mở suốt trong thời gian đó.
- Vâng.
- Bất cứ ai từ trong phòng cũng có thể đi ra bằng cửa đó.
-Vâng.
- Khi ông chủ trở về và cho gọi ông, thì ông rất bối rối?
- Vâng. Tôi hầu hạ ở đây đã lâu và một việc như vậy chưa bao giờ xảy ra. Tôi gần như bị ngất xỉu.
-Tôi biết. Ông ngồi tại đâu khi ông bắt đầu cảm thấy khó thở?
- Ở đây gần bên cánh cửa.
- Thật là kỳ cục. Ông tới ngồi trong cái ghế bành đằng kia, trong góc này. Tại sao ông không ngồi ở những cái ghế khác?
Đối với tôi điều đó không có gì là quan trọng. Miễn sao tôi được ngồi xuống. . .
Tôi thật sự tin là anh ta không dính dấp vào vụ này, thưa ông Holmes - Giám học nói.
- Ông vẫn ngồi đó khi chủ ông đã bỏ đi?
Chỉ trong một hay hai phút. Đoạn tôi đóng cửa lại rồi leo lên phòng tôi.
Cám ơn, thế là đủ - Holmes trả lời - Ồ, cònđiều này nứa: ông không nói với một trong ba sinh viên rằng có một biến cố vừa xảy ra chứ?
Tôi không nói một lời nào.
- Rất tốt. Giờ đây, chúng ta hãy đi dạo trong chốc lát ngoài sân.
Ba ô vuông màu vàng lấp lánh ánh sáng ở phía trên chúng tôi .
- Ba con chim của ông đều đang ở trong tổ - Holmes nói khi ngước lên nhìn - Này chuyện gì xảy ra vậy? Một trong ba người tỏ ra khá dao động?
Đó là người sinh viên Ấn Độ chợt hiện ra trên bức mành cửa. Anh ta đi đi lại lại trong phòng.
- Tôi muốn được nhìn thấy họ gần hơn một chút - Holmes nói.
- Dạ được. Mấy phòng đó nằm trong cái phần cổ xưa nhất của nhà trường và thỉnh thoảng chúng tôi đưa khách tới đó tham quan. Các ông hãy cùng đi với chúng tôi.
- Cần nhất là đừng có gọi tên! - Holmes thì thầm khi chúng tôi gõ cửa phòng Gi-ri.
Một thanh niên to con, dong dỏng cao, mái tóc màu gai, mở cửa và ngỏ lời chúc mừng khi được biết mục đích chuyến viếng thăm của chúng tôi. Phòng anh không thiếu những di tích của lối kiến trúc xưa. Holmes bị lôi cuốn mãnh liệt bởi một trong những di tích đó, khiến muốn anh vẽ lại trên cuốn sổ tay; anh làm gẫy bút chì, hỏi mượn chủ nhà một cái bút chì và sau cùng hỏi mượn một con dao nhíp dể gọt lại. Việc đó xảy ra trong phòng của người sinh viên Ấn Độ. Nhưng mưu toan thứ ba của chúng tôi bị thất bại. Cánh cửa không mở ra và chúng tôi chỉ nhận được một tràng những lời lẽ kém nhã nhặn.
- Tôi cóc cần biết các ông là ai! Đi chỗ khác mà xem! Tôi bận học thi, các ông nghe rõ chưa?
- Một người không vui tính - Người hướng dẫn chúng tôi nói, trong lúc xuống cầu thang - Tất nhiên anh ta không biết tôi là người đã gõ cửa. Tuy nhiên anh ta cư xử một cách bất lịch sự và đáng nghi ngờ.
Câu trả lời của Holmes lại khá bất ngờ:
- Ông có thể cho tôi biết chiều cao đích xác của anh ta không?
- - Anh ta cao hơn người Ấn Độ nhưng thấp hơn Gi- ri? Tôi nghĩ là một mét bảy mươi...
- Điều đó rất quan trọng. Và giờ đây, thưa ông giám học xin chúc ông một đêm an lành - Holmes nói.
Người hướng dẫn chúng tôi bày tỏ nỗi ngạc nhiên và lòng tuyệt vọng của ông.
Lẽ nào ông lại bỏ rơi ông một cách đột ngột đến thế. Ngày mai thi rồi. Tối nay tôi buộc phải làm một cái gì đó minh bạch, dứt khoát. Tôi không thể giữ nguyên kỳ thi nếu người ta đã đụng vào những bản in thử đó.
- Hãy cứ giữ nguyên. Sáng mai tôi sẽ đến đây thật sớm và chúng ta sẽ bàn lại vấn đề. Rất có thể là lúc đó tôi đã nắm được những yếu tố mới, khả dĩ giúp ông thoát ra khỏi cảnh ngộ này. Từ đây tới đó, ông đừng thay đổi gì cả .
- Được lắm, thưa ông Holmes.
- Ông cứ yên tâm. Tôi đem về hai cục hình chóp đen cùng những mẩu vỏ bút chì. Xin chào ông Khi ra tới sân, chúng tôi quan sát những khuôn cửa sổ một lần nữa. Người Ấn Độ vẫn tiếp tục sải bước trong phòng. Hai người kia thì không nhìn thấy. Khi ra tới đầu đường, Holmes hỏi:
- Anh Watson, một trò chơi ba người. Anh hãy chọn lựa đi! Người nào?
-Cái nhân vật thô bạo Ơû trên cao. Anh ta là người "có tiếng" hơn cả. Cái anh chàng Ấn Độ cũng khéo vờ vĩnh. Tại sao anh ta lại cứ sải bước trong phòng.
- Rất nhiều người đi bách bộ để thử cố học thuộc lòng một cái gì đó.
-Anh chàng đã nhìn chúng ta với sự chán ghét. .
-Nếu có một bọn người lạ đột nhập vào phòng anh vào buổi tối trước ngày thi, anh sẽ có thái độ như thế nào?
Cái bút chì, con dao nhíp, tất cả đều được hết. Duy gã nọ là bắt tôi phải suy nghĩ.
Gã nào?
- Ba-ni. Ông ta chơi trò gì?
- Tôi có cảm tưởng rằng ông ta rất thật thà.
- Cả tôi cũng thế. Và đó chính là điều khiến tôi phải suy nghĩ. Tại sao một người lương thiện đến thế mà lại...?
Đây là một cửa hàng giấy bút lớn: Chúng ta tìm kiếm từ nơi này.
Trong thành phố chỉ có bốn cửa hàng giấy bút lớn.
Holmes đưa những mẩu vỏ bút chì ra và hỏi mua thứ bút đó. Lần nào người ta cũng đưa ra một thứ bút mà Holmes tìm kiếm. Bạn tôi nhún vai với một cử chỉ nhẫn nhục vui vẻ.
- Không may rồi. Chúng ta chẳng đi tới đâu cả. Chín giờ rồi bạn ơii Sau bữa ăn tối muộn màng, Holmes không đã động gì tới vụ đó nữa. Tám giờ sáng, anh vào phòng tôi.
- Tới giờ đi Saint Lục rồi. Anh có thể bỏ bữa điểm tâm được không?
Được thôi, có gì mới không?
- Có.
- Anh rút ra được những kết luận gì?
- Tôi đã giải quyết xong vấn đề. Tôi ra khỏi giường hồi sáu giờ, làm việc cật lực trong hai tiếng đồng hồ và đi bộ tám cây số để đi tìm một cái gì đó. Anh hãy coi cái này!
Trên lòng bàn tay Holmes có ba cái chóp nhỏ bằng đất sét đền sệt.
-Ngày hôm qua chỉ có hai thôi mà?
- Và sáng hôm nay, có thêm một cái nữa. Nơi xuất phát của cái thứ ba cũng là nơi xuất phát của hai cái kia.
Nào, chúng ta hãy đi gặp ông bạn giám học.
Ông thầy đáng thương đang ở trong một tình trạng bồn chồn trong phòng ngủ của ông. Chỉ còn vài giờ nữa là cuộc thi bắt đầu và ông còn đang tự hỏi không biết nên giải thích tất cả hay cứ để mặc cho kẻ phạm tội dự thi. Ông nhạy ùa về phía Holmes với hai cánh tay dang thẳng, nói:
- Tôi sợ ông nản chí. Cuộc thi có tiến hành không?
Cứ tiến hành.
- Nhưng, tên vô lại đã..?
-Hắn sẽ không dự thi.
-Ông biết hắn là ai?
- Biết. Bởi vụ này cần phải được giữ kín, nên chúng ta sẽ lập ra một thứ như "toà án quân sự đặc biệt". Mong ông ngồi đây, Watson ngồi vào đây. Tôi ngồi vào ghế bành của ông ở chmh giữa. Chúng ta đủ oai nghiêm để làm cho một tâm hồn phạm tội phải sững người vì sợ hãi? Xin ông vui lòng gọi chuông.
Ba-ni vào phòng và suýt té ngửa vì ngạc nhiên và hốt hoảng trước cảnh đó. Holmes nói với Ba-ni:
-Mong ông vui lòng đóng cánh cửa đó lại. Giờ đây, ông hãy nói về việc đã xảy ra hôm qua.
Ba-ni tái mét tới tận chân tóc:
-Tôi đã thưa tất cả rồi.
Ông không còn gì để nói thêm sao?
- Không
Trong trường hợp này, tôi phải gợi ra với ông vài ý kiến. Ngày hôm qua khi ngồi trên cái ghế bành này, có phải ông đã chọn cái chỗ đó cất để ý che giấu một đồ vật có thể tiết lộ người đã vào phòng này không.
Bộ mặt Ba-ni tím ngắt.
-Không, thưa ông.
-Đó chỉ là một gợi ý? - Holmes nói với giọng ngọt ngào - Tôi không có khả năng chứng minh điều đó. Nhưng có điều chắc chắn là ngay khi ông giám học vừa xoay lưng đi, thì ông đã đưa người trốn trong phòng ngủ ra ngoài.
Ba-ni liếm cập môi khô:
- Không có ai cả, thưa ông.
- A! Thật đáng tiếc! Cho tới giây phút này, ông vẫn có thể nói ra sự thật, nhưng tôi biết là ông đã nói dối.
Bộ mặt của Ba-ni chỉ còn bộc lộ một sự thách thức buồn bã.
Không có ai cả, thưa ông.
-Coi nào, ông Ba-ni.
-Không, thưa ông, không có ai cả.
-Thôi được, ông hãy tời đứng gần bên cửa ra vào phòng ngủ. Bây giờ, ông giám học, tôi mong ông leo lên phòng chàng trai Gi-ri, yêu cầu cậu ta xuống đây.
Một lát sau, ông thầy cùng với cậu sinh viên bước vào Đó là một thanh niên đẹp trai, lực lưỡng, mảnh và cao, mềm mại, dáng đi linh hoạt, vui mắt, anh ta có bộ mặt cởi mở. Cặp mắt xanh của anh chăm chú nhìn chúng tôi trước khi đặt lên Ba-ni với một dáng vẻ rụng rời.
- Hãy đóng cửa lại - Holmes nói - Giờ đây, ông thấy là chúng ta hoàn toàn tách biệt với bên ngoài. Không một ai nghe chúng ta nói chuyện. Vậy thì chúng ta có thể nói chuyện với tất cả lòng thẳng thắn. Chúng tôi muốn biết, làm thế nào mà ông, một người trọng da, lại phạm vào một lỗi lầm như trong ngày hôm qua?
Chàng thanh niên lảo đảo và ném lên Ba-ni một tia nhìn oán trách.
- Nhưng, thưa ông Gi-ri Tôi đã không nói gì hết - Người đầy tớ kêu lên. - Nhưng bây giờ thì ông đã nói - Holmes trả lời - Coi nào, chàng trai! Sau cái điều vừa thoát ra khỏi cổ họng Ba-ni địa vị của ông hẳn là bớt đẹp.
Ông chỉ còn có một cơ may: Thành thật nhận lỗi.
Trong một lúc, Gi-ri giờ một bàn tay lên thử chế ngự mối cảnh xúc và bất thình lình anh ta quỳ gối xuống bên cạnh bàn, vùi mặt vào trong hai bàn tay và khóc nức nở.
Holmes dịu dàng nói:
Coi nào, coi nào. Lỗi lầm là bản chất của con người, có thể anh thích để cho tôi nói thay anh? Anh sẽ đính chính nếu tôi bị lầm lẫn. Anh đồng ý chứ? Tốt. Thưa ông giám học, kể từ lúc ông nói rằng không có ai biết những bản in thử ở trong văn phòng ông, thì vụ này đã làm cho tôi thích thú. Chúng ta có thể gạt bỏ người thợ in, bởi vì nếu muốn, anh ta có thể chép những bản văn đó ngay trong nhà mình. Tôi cũng loại bỏ người Ấn Độ: Nếu những bản in thử còn quấn thành cuộn, anh ta không thể đoán được rằng, đó là cái gì. Mặt khác, có thể có sự trùng hợp như thế này: Một người nào đó đã vào trong văn phòng ông và tình cờ nhìn thấy đề thi đang nằm ở trên bàn! Tôi cũng gạt bỏ luôn giả thiết đó.
Cái người vào đây phải là người đã biết nơi này đang có bản in thử. Vì sao người ấy biết được?
Khi tôi tới gần bàn giấy của ông, tôi quan sát khung cửa sổ. Ông đã làm tôi cười khi ông tin rằng có một ai đó đã lẻn vào văn phòng bằng ngả đó. Một giả thiết như thế thật là phi lý. Tôi đã tính chiều cao cần thiết mà người đó có thể đi ngang cửa nhà này và người ấy phải biết trước loại giấy tờ nào đang nằm trên bàn ông. Tôi cao hơn một mét tám và chỉ cần hơi gắng sức là tôi đã trông thấy xấp giấy trên bàn. Vậy, nếu một trong ba sinh viên của ông, người có thân hình thật cao, là mục tiêu của sự tìm kiếm. Tuy nhiên, lúc đứng trong văn phòng, tôi không rút ra được điều gì, nhưng ông đã mô tả với tôi rằng Gi-ri là một nhà vô địch chạy vượt rào và nhảy xa hế là tôi hiểu tất cả. Nhưng tôi cần có những chứng cớ xác minh.
Chàng thanh niên này đã tập nhảy suốt buổi chiều trên sân thể thao. Anh trở về, mang theo đôi giày nhảy, là thứ có gắn những mũi nhọn, như ông đã thấy. Khi đi ngang qua cửa phòng ông, nhờ thân hình cao, anh đã trông thấy nhưng bản in thử đó để trên bàn, còn trên cánh cửa thì có chìa khoá để quên. Một sự thôi thúc đẩy anh vào phòng và để xem coi đó có phải là đề thi của ngày hôm sau không? Nếu bị bắt gặp, anh có thể nới rằng anh tới để hỏi ông thầy một câu gì đó.
Khi thấy đó đúng là đề thi, thì anh đành chịu thua sự cám dỗ. Anh để đôi giày có gắn mũi nhọn lên bàn. Thế anh đã để cái gì lên trên cái ghế bành kê gần bên cửa sổ này?
- Đôi bao tay - Chàng trai trả lời.
Holmes nhìn Ba-ni với tư thế của người thắng cuộc.
- Anh đặt đôi găng tay lên thành ghế và lấy từng tờ giấy để chép lại. Anh nghĩ rằng ông thầy sẽ trở về qua lối cổng chính, và anh sẽ trông thấy. Thế nhưng ông thầy lại trở về qua cổng nhỏ. Bất thình lình, anh nghe thấy tiếng gõ của thầy ở đằng sau cánh cửa. Anh vội vàng quơ lấy đôi giày nhảy và bỏ trốn trong phòng ngủ, bỏ quên đôi bao tay trên thành ghế. Vết khắc trên mặt bàn in nhẹ ở một bên, nhưng lại hằn rõ trong hướng đi tới phòng ngủ. Điều đó cho thấy thủ phạm đã trốn trong phòng. Đất bám chung quanh một mũi nhọn vương lại trên bàn, một mẩu đất thứ hai tuột ra và rơi xuống trong phòng. Sáng nay tôi đã tới sân nhảy và thấy hố đó đầy thứ đất đen dính chắc này. Tôi mang về một ít và tôi cũng ghi nhận rằng người ta đã rắc mạt cưa lên trên mặt đất để các lực sĩ khỏi bị trượt chân.
Tôi nói có đúng không, ông Gi-ri?
Chàng sinh viên đứng lên.
Đúng, thưa ông.
- Nhưng anh không có gì để nói thêm sao? - Ông giám học kêu lên.
- Có, thưa thầy. Tôi có nhiều điều để no
Nhưng sự khám phá ra đó đã làm tôi kinh ngạc. Tôi có một lá thư gửi thầy. Tôi viết vào giữa một đêm mà lương tâm không yên ổn. Thư đó đây. Đây là câu đầu tiên: "Tôi quyết định không dự thi; người ta đã đề nghí với tôi một chỗ là trong sở cảnh sát ở Rhodésia; tôi sẽ sang Nam Phi ngay tức khắc".
- Tôi thật sung sướng được biết anh không có ý định lợi dụng một sơ sót của tôi. Nhưng tại sao anh lại đổi ý?
Gi-ri chỉ vào Ba-ni nói:
- Đây là người đã đưa tôi trở lại con đường ngay thẳng.
Coi nào, Ba-ni! - Holmes kêu lên - Sau điều tôi vừa giải thích, ông hiểu rõ rằng chính ông đã để cho chàng trai này đi ra khỏi phòng, bởi ông đã ở lại một mình trong phòng và ông đã khoá cửa lại sau khi bỏ đi.
Ông có muốn cho chúng tôi biết tại sao ông hành động như vậy không.
Thưa ông, một thời, tôi đã phục vụ như người quản gia nơi nhà thân phụ của chàng trai. Khi cụ bị phá sản, tôi trở thành nhân viên thuộc trường này, nhưng tôi không bao giờ quên được ông chủ cũ. Tôi đã chăm sóc con trai cụ hết sức mình để tưởng nhớ một thời êm đềm xa xưa. Hôm qua, khi tôi vào trong văn phòng này, cái đầu tiên mà tôi trông thấy, đó là đôi bao tay của cậu đặt trên ghế bành. Tôi biết, nếu ông giám học cũng trông thấy chúng, là cậu bị phát hiện Thế nên tôi bèn "ngất xỉu” trên cái ghế bành này và không gì có thể làm tôi động đậy, mãi cho tới khi ông giám học ra đi. Người chủ trẻ của tôi đã rời khỏi chỗ ẩn nấp và thú nhận với tôi. Thuở xưa, tôi đã từng đặt cậu ấy ngồi trên đầu gối tôi. Về phần tôi, thật là tự nhiên khi tôi làm đủ mọi cách để cứu cậu ấy? Mặt khác, tôi nói với cậu rằng chẳng nên làm như thế. Ông có chê trách tôi không, thưa ông Holmes.
Holmes đứng lên nồng nhiệt nói với Ba-ni và ông giám học rằng vấn đề đã được giải quyết êm đẹp. Quay sang chàng trai, Holmes tiếp:
- Về phần anh, người bạn trẻ, tôi tin chắc rằng ở một chân trời xa xôi kia, một tương lai xán lạn đang chờ đón anh
10. Cái kính kẹp mũi bằng vàng
(The Adventure of the Golden Pince-Nez-1904)
Những ngày cuối tháng 11-1894. Buổi tối thật buồn. Holmes đang dùng kính lúp để cố đọc những gì còn sót lại của một câu văn viết trên da cừu, trong lúc tôi say mê đọc một cuốn chuyên luận về phẫu thuật. Bên ngoài gió gào rú, mưa dông mạnh. Tôi tới bên cửa số nhìn xuống đường phố vắng tanh. Những ngọn đèn đường chiếu sáng một mặt đường bùn lầy. Một chiếc xe ngựa chạy tới, làm nước văng tung toé. Holmes đặt kính lúp xuống và gấp mảnh da cừu lại:
- Thật may mắn là bọn mình không phải đi ra ngoài. Tôi đã ngán cái trò tìm đoán này: thật tội nghiệp cho đôi mắt! Ồ, có chuyện gì thế?
Nổi bật trên tiếng gió vù vù, tiếng móng ngựa đập đôm đốp dọc theo nhà rồi tiếng bánh xe ngừng lại, kêu cọt kẹt khi cọ vào vỉa hè. Chiếu xe ngựa đậu lại trước nhà chúng tôi.
- Ông này muốn gì đây? - Tôi kêu lên khi thấy một người đàn ông từ trên xe bước xuống.
- Muốn gì à? Người đó muốn chúng ta. Và chúng ta muốn những cái áo choàng ngoài, những khăn choàng cổ, những đôi giày cao su và tất cả những gì mà loài người đã phát minh ra để bảo vệ trước thời tiết xấu. Hãy chạy xuống dưới, và mở cửa ra mau, bởi vì vào giờ này tất cả những người có đạo đức đều đi ngủ cả rồi!
Khi ánh sáng ngọn đèn trong gian tiền sảnh chiếu rõ người khách, tôi nhận ra ngay đó là Stanley Hopkins, một thanh tra trẻ tuổi.
- Ông ấy có nhà không? - Anh ta ném cho tôi câu hỏi khi
- Hãy lên đi! - Holmes trả lời từ phía trên - Chắc đêm nay anh không ấp ủ những ý đồ đen tối chống lại chúng tôi?
Viên thanh tra leo vội lên cầu thang, từng bốn bậc một. Nước trên áo mưa của anh ta chảy ròng ròng. Tôi giúp anh ta cởi nó ra, trong lúc Holmes khơi cao ngọn lửa.
- Hãy đến gần ngọn lửa mà sưởi ấm đôi chân. Đây là một điếu xì-gà. Bác sĩ ta sẽ sẵn lòng làm một chén thuốc, trong có nước sôi và một quả chanh. Có chuyện gì quan trọng lắm nên luồng gió độc địa này mới thổi anh tới đây?
- Ông đã đọc tin giờ chót của các báo chưa? Về vụ án Yoxley đó mà.
- Anh nói đi!
- Được. Đó là bản tin vắn, đầy rẫy những sai lầm. Chuyện đó xảy ra trong vùng Kent, cách Chatham 7 dặm và cách đường xe lửa 3 dặm. Người ta báo cho tôi bằng điện tín vào lúc 3 giờ 15, tôi tới Yoxley Old Place vào hồi 5 giờ. Tôi đã mở cuộc điều tra, rồi quay trở về Charing Cross bằng chuyến xe lửa cuối cùng và đi thẳng tới đây.
- Vậy là anh chưa thấy rõ vụ này? - Holmes hỏi.
- Đây là vụ rối rắm nhất trong tất cả những vụ mà tôi đã đảm trách. Không có động cơ gây ra tội ác; có người bị chết, nhưng không sao hiểu được tại sao có người muốn giết anh ta?
Holmes mồi một điếu xì-gà và ngồi nép vào trong ghế bành.
- Chúng tôi nghe anh đây.
- Cách đây vài năm, một người đứng tuổi, giáo sư Coram đến mua một căn nhà ở vùng quê Yoxley Old Place. ông ta đau ốm, tàn tật, một nửa thời gian nằm liệt trên giường, nửa thời gian còn lại chống gậy đi quanh nhà. ông được láng giềng yêu quý. Họ thường tới thăm ông và coi ông như nhà thông thái. Đám gia nhân gồm có người quản gia lớn tuổi, bà Marker, và người hầu gái Susan Tarlton. Đó là hai phụ nữ trung hậu.
Ông giáo sư viết một cuốn sách. Năm vừa qua, ông thuê một thư ký. Hai người đầu không làm được việc, người thứ ba là một thanh niên tốt nghiệp đại học, đã đáp ứng được những mong muốn của giáo sư. Mỗi sáng, anh ghi chép lại những gì ông chủ đọc; và buổi chiều, anh đọc kỹ những câu trích dẫn có quan hệ với công việc ngày hôm sau. Không thể nào tìm ra được một điều gì đó chống lại anh chàng Willoughby Smith này, hoặc là lúc anh ta hãy còn nhỏ, hoặc là lúc anh ta theo học ở đại học. Tôi đã xem các bằng cấp và những lá thư tiến cử. Anh ta luôn luôn là người trầm tĩnh, siêng năng, thật thà và đứng đắn. Ấy thế mà anh đã bị giết sáng nay trong văn phòng của giáo sư và những tình huống đã chỉ dẫn một cách dứt khoát rằng đây là một vụ ám sát.
Gió vẫn gào thét bên cửa sổ. Chúng tôi ngồi sát gần ngọn cửa, trong lúc viên thanh tra khai triển câu chuyện.
- Trong khắp nước Anh, chúng ta sẽ không gặp một ngôi nhà nào cách biệt và thoát ra khỏi những ảnh hưởng bên ngoài như căn nhà đó. Nhiều tuần lễ đã qua mà không một người lạ nào vượt qua hàng rào sắt quanh nhà. Ông giáo sư bị cuốn hút vào trong công việc Chàng thanh niên không quen biết ai trong lối xóm, nghĩa là anh ta sống y như ông chủ. Hai người đàn bà không bị một mối quan hệ nào lôi họ ra khỏi nhà. Người làm vườn là một quân nhân về hưu tên là Mortimer. Ông ta không ở trong nhà, nhưng sống trong một căn nhà nhỏ ba gian ở đầu đằng kia khu vườn. .
Người hầu gái khai rằng, sáng nay, trong khoảng từ 11 đến 12 giờ, bà đang treo những tấm màn trong căn phòng ở trên cao, mé trước nhà. Giáo sư còn ngủ. Bà quản gia thì đang bận rộn tận cuối căn nhà. Willoughby Smith đã đi tới phòng ngủ mà anh dùng như là văn phòng riêng. Nhưng bà ta lại nghe tiếng bước chân anh đi ra, bước dọc theo hành lang và đi xuống văn phòng ở ngay mé dưới, nơi bà đang làm việc. Bà không trông thấy anh, không nghe thấy tiếng cánh cửa văn phòng đóng lại, nhưng ít lâu sau, một tiếng kêu kinh hoàng đã vang lên trong căn phòng phía dưới. Một tiếng thét chói tai và quá khác thường khiến cho bà không phân biệt được là tiếng của đàn ông hay đàn bà. Cùng lúc đó có tiếng té ngã vang lên, làm rung chuyển cả ngôi nhà, rồi sau đó hoàn toàn im lặng. Bà ta sững người, nhưng sau đó lấy lại can đảm và chạy xuống nhà dưới. Cánh cửa văn phòng đóng kín. Bà mở ra. Anh chàng Willoughby Smith nằm sóng sượt dưới đất. Thoạt tiên bà không thấy một vết thương nào; nhưng khi bà thử đỡ ông lên thì có máu chảy ở dưới cổ. Vết thương thật nhỏ nhưng cái động mạch nhánh đã bị cắt đứt. Hung khí là một con dao nhíp loại nhỏ, dùng để cắt xi gắn niêm phong, một loại dùi mà thỉnh thoảng người ta còn bắt gặp trong những căn phòng cổ xưa có cán bằng ngà và một cái lưỡi sắc. Nó là một trong những vật dụng văn phòng của giáo sư.
Thoạt đầu bà ta tưởng Willoughby Smith đã chết, nhưng khi bà lấy nước trong một cái bình rưới lên đầu anh thì anh mở mắt ra; anh thì thào: “Giáo sư! Chính là bà ta đó!”. Nói xong, anh chết. Bà hầu phòng quả quyết rằng chính tai bà nghe rõ câu nói đó. Giữa lúc ấy, bà quản gia cũng tới nơi xảy ra tội ác. Bà này đã để người hầu gái ở lại bên cạnh xác chết và bà vội vàng chạy lên phòng ông chủ để báo tin. Ông giáo sư đang ở trong phòng, ngồi dậy, bị dao động một cách khủng khiếp. Bà Marker làm chứng rằng giáo sư vẫn còn mặc quần áo ngủ và ông không thể mặc quần áo được, nếu không có sự phụ giúp của người làm vườn. Ông giáo sư khai rằng ông đã nghe thấy tiếng kêu, nhưng ông không biết gì khác. ông không thể nào giải thích được những lời nói sau cùng của người thư ký trẻ: “Giáo sư! Chính là bà ta đó!”. Ông cho rằng đó là do tác dụng của sự mê sảng. Ông tin rằng chàng thanh niên không có kẻ thù nào. Giáo sư phái người làm vườn đi trình cảnh sát địa phương.
Một lát sau, viên cảnh sát trưởng đã triệu tôi tới. Không có cái gì bị dời chỗ. Những mệnh lệnh nghiêm ngặt đã được ban ra để không cho một ai đi lại trên những lối đi trong vườn dẫn tới nhà. Thưa ông Holmes, đây là cơ hội mơ ước để ông đem ứng dụng những lý thuyết của ông, nó tuyệt đối không thiếu một thứ gì…
- Chỉ thiếu có ông Sherlock Holmes. - Bạn tôi nói trong một nụ cười gần có phần chua chát - Được, chúng tôi xin nghe phần tiếp theo. Vậy anh đã làm gì?
- Trước lết, tôi mong ông liếc qua cái sơ đồ này.
Anh ta mở bản phác họa và trải nó ra trên đầu gối Holmes. Tôi đứng lên và quan sát nó qua bạn tôi.
- Nó rất sơ sài. Sau này ông sẽ tự mắt quan sát phần còn lại. Giờ đây, điểm thứ nhất: Nếu kẻ sát nhân đã vào trong nhà, thì y đi qua lối nào? Chắc là đi qua lối vào trong vườn (A) và qua cánh cửa dành cho người giúp việc (B), từ đó đi thẳng tới văn phòng (C). Tất cả mọi ngả đường khác đều đưa ra những khó khăn lớn. Lối y bỏ trốn cũng được thực hiện qua ngả đó, bởi vì trên hai lối ra khác của căn phòng, một bị chặn bởi Susan đang chạy tới (D) và lối kia dẫn thẳng vào phòng của giáo sư). Vậy là tôi chú tâm vào lối đi trong vườn, bị làm nhão bởi một cơn mưa. Tôi không tìm thấy một dấu chân nào trên lối đi.
Ngược lại, có ai đó đã men theo lối đi bằng cách bước trên cỏ khiến cho không để lại những dấu vết. Tôi đã không thế tìm ra một dấu chân rõ ràng nào, nhưng cỏ bị rạp xuống: hẳn là cỏ bị bàn chân của kẻ sát nhân đạp lên, bởi vì người làm vườn cũng như hai bà già kia, không ai đi dạo trong vườn vào buổi sáng và còn ban đêm thì trời đã đố mưa.
- Lối đi này dẫn tới đâu? - Holmes hỏi.
- Tới con đường.
- Chiều dài là bao nhiêu?
- Gần 100 yard.
- Ở cái chỗ mà lối đi đụng vào hàng rào, ắt hẳn anh thu thập được những dấu vết?
- Ở đó, lối đi lại được lát đá.
- Thế còn trên con đường, phía bên kia hàng rào?
- Đúng là một vũng bùn.
- Tốt. Hãy trở lại với những dấu vết trên cỏ: chúng đi về hướng nào?
- Không thể nói được. Không có những đường viền.
- Một bàn chân lớn hay một bàn chân nhỏ?
- Không thể nào xác định được!
Holmes thở dài, mất kiên nhẫn:
- Vấn đề này còn khó hiểu hơn là đọc trên miếng da cừu! Thế rồi, anh đã làm gì?
- Tôi biết chắc là có một ai đó từ bên ngoài đã vào trong nhà. Sau đó tôi quan sát cái hành lang (F) có lót một tấm lác nếu đan bằng sợi dừa: không một dấu vết nào. Cuộc khám xét đó đã đưa tôi vào ngay trong căn phòng. Đồ đạc chính là một cái bàn lớn đặt trên hai chồng ngăn kéo được nói liền với nhau bằng một thứ như tủ buýp-phê. Các ngăn kéo đều mở, cái tủ buýp-phê bi khoá. Dường như những ngăn kéo không bao giờ đóng lại và chúng không chứa những đồ vật đáng giá nào. Trong tủ buýp-phê có vài tờ giấy quan trọng, nhưng dường như người ta đã không đụng tới và ông giáo sư khai với tôi là không một giấy tờ nào bị mất cả. Chắc chắn là không có vụ trộm nào xảy ra.
Thi hài của chàng trai gần bên cái tủ. Vết thương ở bên tay phải gần cổ và trổ từ sau ra trước; khó mà kết luận rằng đây là một vụ tự tử.
- Ngoại trừ trường hợp mà anh ta bị ngã xuống trúng con dao. - Holmes nói.
- Rất đúng! Nhưng chúng tôi lại tìm thấy con dao ở cách thi hài khá xa, vậy là giả thiết đó không đứng vững. Vả lại còn có những lời trăn trối của nạn nhân. Và sau chót, đây là bằng chứng rất quan trọng mà người chết đã nắm chắc trong bàn tay phải co quắp lại.
Stanley Hopkins rút từ trong túi ra một cái hộp nhỏ. Anh ta mở rộng tờ giấy và trưng ra một cái kính kẹp mũi bằng vàng với hai mẩu dây bằng lụa đen đang đong đưa. Anh nói thêm:
- Willoughby Smith có một thị lực hoàn hảo! Vậy cái kính kẹp mũi này đã được giật ra từ trên mặt hoặc trên người của kẻ sát nhân.
Holmes cầm lấy và quan sát nó chăm chú. Anh đặt kính lên mũi, thử đọc, đi tới bên cửa sổ và nhìn xuống đường phố, đoạn anh gỡ nó ra và đặt dưới ánh đèn. Sau cùng, anh bật ra một tiếng cười nhỏ, đến ngồi vào bàn và viết vài hàng trên một tờ giấy rồi dưa cho Stanley Hopkins.
- Đây là cái mà tôi có thể làm cho anh. Chúng ta sẽ thấy là nó có ích hay không.
Viên thanh tra ngạc nhiên, cất cao giọng, đọc tờ giấy:
“Người ta tìm kiếm một bà có dáng vẻ lịch thiệp, ăn vận thanh lịch. Bà có cái mũi dày một cách dị thường và haisát gần hai bên mũi. Bà có vầng trán nhăn, hai bờ vai đã còng. Chắc chắn là trong những tháng gần đây bà đã đến hiệu kính ít nhất hai lần. Vì những tiệm kính không nhiều lắm, ắt hẳn không khó khăn gì dể tìm ra dấu vết của bà”.
Holmes cười trước cái vẻ ngơ ngác của Hopkins. Anh nói:
- Cặp kính kẹp mũi rất dễ cho ta suy diễn. Về việc cái kính là của một phụ nữ, tôi suy diễn từ sự mảnh dẻ của cái kính và từ những lời nói sau cùng của nạn nhân. Về điều dáng vẻ thanh tao và lịch thiệp: cái kính này làm bằng vàng, cho thấy chủ nó giầu sang, tất nhiên bà phải ăn mặc thanh lịch. Hai cái kẹp của kính quá rộng, chứng tỏ rằng cái mũi của bà này rất nở ở dưới đáy. Tôi có một khuôn mặt hẹp, dài, ấy thế mà tôi không thể nhìn vào chính giữa hoặc gần trung tâm những tròng mắt này. Vậy thì đôi mắt của bả ta được đặt sát bên sống mũi. Một phụ nữ mà thị lực đã bị suy giảm đến như thế suốt đời, thì chắc chắn có chăng nét đặc trưng về cơ thể hợp với thị lực đó, như là một vầng trán nhăn, và những bờ vai bị còng.
- Đúng! Tôi theo dõi rất sát những suy diễn của anh, ngoại trừ một điều: làm thế nào mà anh biết bà ta đã hai lần đi tới tiệm kính? - Tôi hỏi.
Holmes cầm cặp kính kẹp mũi trong bàn tay.
- Những cái kẹp được viền bằng những vòng nhỏ xíu bằng bần, ngõ hầu làm dịu sức ép trên mũi. Một trong những cái vòng đó bị phai mầu và hơi cũ, nhưng cái kia thì mới. Vậy là một cái đã bị rơi và bà đã thay cái khác. Theo ý tôi, cái vòng cũ hơn cũng không lâu tới quá vài ba tháng. Và bởi chúng giống y như nhau, tôi suy luận ra rằng bà đó đã trở lại lần thứ hai ở cùng một nơi.
- Ông thật tuyệt vời! - Hopkins kêu lên, miệng há hốc vì khâm phục - Tôi có trong tay tất cả những sự hiển nhiên đó mà tôi chẳng hề suy luận ra một điều nhỏ .
- Bạn thân mến, bạn còn có điều gì khác để nói với chúng tôi không?
- Không. Ông cũng đã biết như tôi… Và có thể còn nhiều hơn tôi nữa. Chúng tôi đã điều tra về sự có mặt có thể có của một người đàn ông hoặc một người đàn bà xa lạ; hoặc ở trên con hoặc ở tại nhà ga: không có kết quả! Điều làm tôi băn khoăn là sự thiếu những động cơ gây ra tội ác.
- À! Chỗ đó, tôi không có khả năng giúp được anh. Nhưng ngày mai, chúng ta gặp nhau tại hiện trường, được không?
- Ta tới Yoxley Old Place từ 8 đến 9 giờ.
- Chúng ta sẽ đáp chuyến tàu đó. Này, Hopkins, cũng gần một giờ sáng rồi. Cái trường kỷ kê trước lò sưởi thuộc quyền sử dụng của anh đó.
Sáng hôm sau chúng tôi xuống tàu ở một ga xép cách Chatham vài cây số. Thời gian thắng một con ngựa vào đôi càng xe độc mã đủ để chúng tôi quất một bữa điểm tâm xoàng xĩnh. Khi tới Yoxley Old Place chúng tôi làm việc ngay. Một cảnh sát viên đón chúng tôi ở hàng rào quanh vườn.
- Thế nào, có gì mới không Wilson?
- Không, thưa ông.
- Người ta vẫn chưa báo gì về một người lạ trong xứ à?
- Không, thưa ông. Ở dưới ga, họ tin chắc là không có một người lạ nào đã tới hoặc đã đi.
- Anh đã điều tra trong các quán ăn và các nhà trọ?
- Tất cả mọi người đều theo đúng luật lệ với những lý do vắng mặt đều chấp nhận được và đã kiểm tra.
- Từ đây đi Chatham không xa lắm. Bất cứ ai cũng có thể xuống đó và đáp tàu mà chẳng bị ai để ý tới... Đây là lối đi trong vườn mà tôi đã nói với ông, thưa ông Holmes
- Ở phía nào có những dấu vết ở trên cỏ?
- Qua đây! Trong cái dải chật hẹp giữa lối đi và những khoảng đất trồng hoa trong vườn.
- Đúng, đúng! Có một ai đó đã đi qua ngả này. Người đàn bà xa lạ của chúng ta hẳn đã bước đi rthận trọng, bởi vì phía này bà hẳn để lại một dấu vết trên lối đi và trên phía bên kia một dấu vết còn rõ hơn nữa, trên khoảng đất trồng hoa thật mềm, phải không?
- Bà ta phải là người điềm tĩnh một cách khác thường.
Bất thình lình Holmes tập trung tư tưởng.
- Anh nói là bà ta đã đi ra qua ngả này?
- Vâng, không có một lối đi nào khác.
- Trên cái dải cỏ này à?
- Chắc chắn rồi.
- Hừm! Vậy đúng là một kỳ tích rất đáng chú ý… Rất đáng chú ý! Thôi! Chúng ta hãy đi xa hơn. Cái cánh cửa vườn này thường được mở rộng, tôi đoán thế. Vậy là bà khách chỉ có việc vào. Vì nghĩ về một vụ ám sát không có trong đầu bà ta; nếu không, thì bà đã mang theo một vũ khí nào đó thay vì sử dụng con dao nhíp trên bàn giấy. Bà ta đã đi trong hành lang, không để lại dấu vết khi đi qua trên cái chiếu dệt bằng sợi dừa. Rồi thì bà ta tới trong văn phòng này… Bà ta đã ở nơi đây bao lâu?
- Chừng 15 phút thôi. Bà Marker khẳng định như vậy.
- Người đàn bà xa lạ đi vào trong văn phòng này và làm gì? Bà ta đi tới cái tủ. Tại sao? Không phải để tìm một cái gì đó trong những ngăn kéo. Nếu trong ngăn kéo mà có một cái gì quan trọng thì ắt hẳn chúng đã được khóa lại. Không, bà ta đã tìm một cái gì đó trong tủ buýp-phê bằng gỗ này. Coi này, thế còn cái vết xước này, đây này. Này Watson, hãy đánh cho tôi một que diêm. Tại sao anh lại không nói với tôi về cái vết xước này, Hopkins?
Cái vết mà Holmes quan sát bắt đầu từ mặt đồng hồ bên mé phải có khóa và nó kéo dài khoảng 4 inch trên nước véc-ni.
- Tôi đã thấy nó. Nhưng luôn luôn chúng ta thấy chung quanh một có khóa có những vết xước giống như vết này. Vết này hoàn toàn mới… Rất mới. Anh hãy nhìn xem chỗ bị cào xước này, màu đồng mới bóng làm sao. Một vết xước cũ hẳn đã lâ màu của mặt có khóa. Hãy dùng kính lúp của tôi mà coi. Chúng ta nhận thấy lớp véc-ni ở chỗ này, giống như đất ở mỗi bên của một luống cày. Bà Marker có ở đây không nhỉ?
Một bà đứng tuổi, có nét mặt ủ ê, bước vào.
- Sáng hôm qua bà có quét bụi cái bàn giấy này không?
- Có.
- Bà có để ý thấy cái vết xước này không?
- Không, tôi không thấy nó.
- Ai giữ chìa khoá tủ này?
- Ông giáo sư gắn nó trong sợi dây đeo đồng hồ của ông.
- Đó có phải là một cái chìa thông thường không?
- Không, chìa khóa hiệu Chubb.
- Tốt lắm bà Marker, bà có thể về. Thế là chúng ta đã tiến được chút đỉnh. Người nữ khách của chúng ta vào trong phòng, tiến lại gần bàn giấy, và mở ra hoặc thử tìm cách mở tủ ra. Trong lúc vội vã rút cái chìa khoá ra, bà đã gây nên vết xước trên cánh cửa. Willoughby Smith tóm lấy bà, nhưng bà quơ lấy món đồ đầu tiên nằm trong tầm tay, tình cờ lại là con dao nhíp, và đâm vào anh ta để anh buông bà ra. Không ngờ cú đâm lại làm chết người. Willoughby Smith gục xuống và bà bỏ trốn: có thể bà đã lấy được món đồ hoặc chưa lấy được. Thế còn bà hầu phòng Susan có ở đấy không? Bà Susan ơi, có thể nào có ai đó lại có thể ra khỏi cửa này sau khi bà đã nghe thấy tiếng kêu không?
- Không thể nào được. Khi họ xuống cầu thang, tôi ắt hẳn đã trông thấy ai đó trong hành lang. Hơn nữa, người ta đã không mở cửa ra, nếu mở cửa ra thì tôi đã nghe thấy rồi.
- Thế là giải quyết dứt một điểm. Không còn nghi ngờ chút nào về việc người đàn bà đó đã bỏ đi bằng cùng một con đường mà bà ta đã vào. Cánh cửa dẫn thẳng tới phòng của giáo sư à? Không có lối nào qua ngả phòng của giáo sư s
- Không, thưa ông.
- Vậy thì chúng ta hãy theo lối đó và tới làm quen với ông giáo sư. Ồ, Hopkins! Đây là điều rất quan trọng: Hành lang dẫn vào phòng giáo sư cũng được trải chiếu đan bằng sợi dừa phải không?
- Phải, nhưng có gì là quan trọng.
- Tôi thấy chi tiết đó rất là đáng chú ý. Anh hãy vào và giới thiệu tôi.
Đằng cuối của dãy hành lang có vài bậc thềm dẫn đến một cánh cửa. Người hướng dẫn chúng tôi gõ cửa, rồi chúng tôi đẩy nhau vào trong phòng của ông giáo sư.
Đây là một căn phòng rất lớn, sách chất đầy trên các kệ và nằm chồng đống trong tất cả mọi xó góc, hoặc xếp chồng dưới những tầng giá dọc theo căn phòng. Cái giường kê chính giữa. Chủ nhà ngồi dựa lên những cái gối. Một bộ mặt trơ xương, nhìn nghiêng như chim đại bàng hướng về chúng tôi, cặp mắt đen sắc sảo nép mình trong những hốc mắt sâu và được che chở bởi đôi lông mày rậm sệ xuống. Mái tóc và bộ râu ông đều bạc phơ như tuyết, chỉ khác là râu chung quanh miệng bị vàng khè một cách kỳ lạ. Một điếu thuốc lá đang tàn dần giữa cái mớ lông trắng đó và không khí trong phòng thật ngột ngạt vì khói thuốc. Ông chìa một bàn tay ra bắt tay Holmes: những ngón tay ông cũng bám đầy chất nicotine.
- Ông hút thuốc chứ, thưa ông Holmes? - ông nói bằng một thứ tiếng Anh không chê vào đâu được dẫu rằng có ẩn tàng một âm tiết xa lạ - Tôi xin mời ông hút một điếu. Còn ông, thưa ông? Thuốc hút và công việc, đó là tất cả những gì còn nơi tôi.
Holmes đã mồi điếu thuốc và anh ném những tia nhìn lén qua khắp căn phòng.
- Thuốc hút và công việc của tôi, nhưng giờ đây chỉ còn lại có thuốc hút. Than ôi, sự đứt đoạn mới nguy hại làm sao! Nào ai có thể ngờ một tai họa như vậy? Một thanh niên xứng đáng được quý mến đến thế! Tôi đoán chắc với ông là chỉ sau vài tháng khởi công, anh ấy đã trở thành một cộng sự viên đáng phục. Ông nghĩ sao về chuyện này
- Tôi chưa nghĩ gì.
- Tôi sẽ mang ơn ông rất nhiều, nếu như ông làm sáng tỏ được vụ này. Với một người tàn phế ham chuộng sách như tôi, vụ này làm tôi bị tê liệt luôn: tôi tin rằng tôi đã bị mất ngay cả đến năng lực suy nghĩ. Nhưng ông là chuyên gia phá án những vụ bí mật, ông có khả năng giữ được thế quân bình trong bất kỳ tình huống nào. Chúng tôi thật may mắn có ông ở gần bên!
Trong lúc ông giáo sư nói, Holmes đi đi lại trong một phần căn phòng. Tôi nhận thấy anh hút thuốc nhanh chóng khác thường.
- Đây là một vố quá nặng nề! - ông nói tiếp - Đây là tác phẩm lớn của đời tôi, cái chồng giấy mà ông trông thấy xếp trên mặt bàn cạnh đó, tôi đã phân tích những tài liệu tìm thấy trong các tu viện giáo phái Coptic ở Syrie và ở Ai Cập; tác phẩm của tôi sẽ làm đảo lộn các nền móng của tôn giáo đã được phát hiện. Giờ đây, xét vì sức khoẻ suy nhược và sự mất mát người cộng sự, tôi tự hỏi không biết rồi ra tôi có thể hoàn tất được nó hay chăng. Chúa ơi, ông Holmes, thế là ông hút thuốc còn nhiều hơn tôi nữa?
- Tôi là một người sành điệu! - Holmes nói, khi lấy một điếu thuốc thứ tư trong hộp và nối vào cái mẩu còn cháy của điếu thuốc trước - Thưa giáo sư, tôi tin rằng vào giờ xảy ra tội ác, ông đang nằm trên giường và rằng ông không biết gì cả. Tôi chỉ muốn nêu ra với ông một câu hỏi: theo ý ông, người thanh niên đã muốn nói gì trước khi trút hơi thở cuối cùng qua câu: Giáo sư... Chính là bà ta đó.
Ông giáo sư lắc đầu.
- Susan là một người đàn bà quê mùa và ông thừa biết sự ngốc nghếch của loại người đó. Tôi nghĩ rằng trong cơn mê sảng, anh chàng tội nghiệp đã thì thầm vài từ rời rạc và rằng chị ta đã dựa vào đó mà tạo ra một câu chẳng có ý nghĩa gì cả.
- Ông không có một lời giải thích riêng tư nào để đề xuất với chúng tôi hay sao?
- Có thể là một tai nạn. Có thể là... Có thể là một vụ tự tử. Mấy người trẻ tuổi giữ kín những mối lo âu và những nỗi khổ đau của họ… Một chuyện yương lỡ làng.
- Nhưng còn cặp kính kẹp mũi?
- A! Tôi chỉ là một nhà trí thức. Một người chỉ biết nghiên cứu và mơ mộng. Tôi không có khả năng giải thích những sự việc thực tiễn của đời sống. Nhưng ít ra chúng ta cũng biết rõ rằng những bằng chứng của tình yêu có thể có những hiện tượng bề ngoài thật lạ lùng. Dù thế nào đi nữa, xin ông hãy dùng thêm điếu thuốc nữa. Thật là thích thú khi gặp người biết thưởng thức chúng đến thế. Một cây quạt, một đôi găng tay, cặp kính đeo mắt… Ai biết được là một người sắp chấm dứt cuộc sống ràng buộc cho món đồ nào một giá trị tượng trưng? Ông đây đã xác nhận với tôi là có những dấu chân trên cỏ: dù sao, trên một chi tiết tương tự, một sự nhầm lẫn luôn luôn là điều có thể xảy ra! Còn về con dao nhíp, nó có thể bị kẻ bất hạnh ném đi, khi anh ta ngã xuống. Có thể là các ông thấy tôi là ấu trĩ, nhưng cứ theo tôi thấy, thì Willoughby Smith đã tự sát.
Holmes dường như bị ngạc nhiên về cái lý thuyết mà anh vừa nghe. Anh tiếp tục sải bước trong gian phòng, vừa suy nghĩ vừa hút hết điếu thuốc này sang điếu thuốc khác. Sau cùng, anh nói:
- Thưa giáo sư, xin cho tôi biết ông cất giữ cái gì trong phần chính giữa bàn giấy ông?
- Chẳng có gì có thể gợi lòng tham của kẻ trộm. Những giấy tờ của gia đình, những lá thư của bà vợ… Những bằng cấp mà nhiều viện Đại học đã trao tặng cho tôi. Đây là chìa khoá, ông hãy tự mình xem lấy.
Holmes đón lấy cái chìa khoá và quan sát nó trong một lát. Đoạn anh giao trả cho người giữ.
- Không! Tôi không tin là nó có thể giúp ích cho tôi được điều gì nhiều. Tôi ưa thích được xuống dưới vườn một cách bình thản để suy nghĩ về tất cả nội vụ, ngõ hầu có thể rút ra được một điều gì từ cái lý thuyết về sự tự sát mà ông đã triển khai. Tới hai giờ trưa, chúng tôi sẽ quay lại và chúng tôi sẽ tường trình với ông về tất cả những gì có thể xảy ra.
Holmes tập trung tư tưởng một cách lạ lùng. Chúng tôi im lặng đi bách bộ trong vườn, rồi thì tôi không thể ngăn mình hỏi xem anh có một hướng điều tra nào không
- Cái đó tuỳ thuộc vào những điếu thuốc lá mà tôi vừa hút. Có thể là tôi bị lầm.
- Làm thế nào mà...?
- Rồi anh sẽ thấy. Nếu tôi bị lầm thì cũng chẳng có gì là tai hại lắm. Đương nhiên, chúng ta vẫn còn cái hướng tiệm kính, nhưng tôi theo những hướng đi tắt, mỗi khi tôi thấy có con đường đó. A! Đây là bà Marker tốt bụng Chúng ta hãy nói chuyện với bà.
Không đầy hai phút, anh đã chinh phục được người đàn bà này, anh tán chuyện với bà cứ y như anh đã quen biết bà từ nhiều năm qua.
- Vâng, đúng như ông nói đó. Cụ chủ hút thuốc thật là kinh khủng Suốt ngày và đôi khi suốt đêm. Buổi sáng, tôi đã thấy phòng cụ… Tội nghiệp ông Smith đáng thương, ông cũng là một người hay hút thuốc nhưng không hút nhiều như giáo sư. Sức khoẻ của cụ…. Nói thật, tôi không biết là cụ khoẻ hay yếu hơn!
- Nhưng hút thuốc nhiều thì đâu còn ăn ngon miệng được?
- Vậy thì tôi chẳng hiểu gì hết.
- Tôi đoán chừng rằng ông giáo sư ăn ít?
- Ồ, cái đó cũng còn tùy?
- Tôi cam đoan là sáng nay cụ đã không dùng bữa điểm tâm và cụ cũng chẳng ăn thật thà trong bữa, sau những điếu thuốc mà tôi thấy cụ đã hút.
- Ông bị lầm rồi! Sáng nay, cụ đã ăn rất nhiều, cụ dặn bữa trưa dọn một dĩa lớn món sườn non! Tôi là người đầu tiên ngạc nhiên, bởi vì kể từ hôm qua, sau lúc tôi trông thấy ông Smith nằm sóng soài trên đất, thì tôi không đụng tới bất cứ nón ăn nào. Úi cha, thế gian phải có người thế này người thế khác chứ, đúng vậy không? Cho nên cụ giáo sư đã không vì thế mà ăn mất ngon.
Suốt buổi sáng, chúng tôi đi thơ thẩn trong vườn. Stanley Hopkins xuống dưới làng để kiểm tra một lời đồn đại về một người đàn bà lạ mặt mà sáng nay lũ trẻ đã trông thấy trên con đường từ Chatham tới. Về phần Holmes, tôi chưa bao giờ thấy anh thờ ơ trước một vụ như vụ này. Ngay cả cái tin mà Hopkins đem về cho biết rằng cảnh sát đã thẩm vấn những đứa trẻ và rằng mấy em đó đã trông thấy một người đàn bà có nhận dạng giống hệt với người mà Holmes đã miêu tả, cũng không lôi anh ra khỏi sự lãnh đạm. Ngược lại, anh dỏng tai lên nghe bà Susan, trong lúc hầu bàn, báo cho anh biết rằng buổi sáng trước ông Smith đã đi ra khỏi nhà và chỉ trở về chừng nửa tiếng đồng hồ trước khi xảy ra thảm trạng. Bất thình anh, Holmes đứng lên và xem đồng hồ, rồi nói:
- Hai giờ rồi! Chúng ta phải lên gặp giáo sư.
Ông già vừa dùng xong bữa trưa và cái đĩa đựng thức ăn trống trơn, chứng tỏ sự ngon miệng mà bà Marker đã ghi nhận. Điếu thuốc lá đang phì phèo trong miệng ông. Ông đã thay quần áo và ngồi trong ghế bành ở một góc bên ngọn lửa.
- Thế nào, ông Holmes, ông đã làm sáng tỏ được sự bí ẩn được chưa?
Ông đẩy cái hộp thuốc lá lại phía Holmes. Cùng lúc đó, Holmes cũng duỗi tay ra. Hai tay của hai người đã làm đổ tung cái hộp. Trong một lúc lâu, tất cả chúng tôi đều quỳ xuống đất để nhặt những điếu thuốc lá đã văng vào trong những xó góc rất khó tìm. Khi đứng lên, tôi thấy đôi mắt Holmes long lanh và cặp má anh đã hồng lên: anh đang giương ra lá cờ quyết đấu. Anh trả lời câu hỏi của ông chủ nhà:
- Có, tôi đã làm sáng tỏ được điều bí ẩn.
Stanley Hopkins và tôi chăm chú nhìn anh với vẻ ngạc nhiên. Trên những nét khổ hạnh của ông giáo sư có thoáng qua một cái gì như một nét cười ngạo.
- Đúng vậy ư? Trong vườn à?
- Không, ở đây.
- Ở đây? Bao giờ?
- Ngay lúc này!
- Chắc chắn là ông đang đùa cợt rồi, vụ này quá nghiêm trọng, nên không hợp với sự đùa c
- Tôi đã rèn và đã thử từng mắt một trong sợi xích của tôi, thưa giáo sư; và tôi tin chắc rằng sợi xích đó vững chắc. Vì động cơ nào mà giáo sư tuân theo, hoặc giáo sư thủ một vai trò nào trong tấn thảm kịch này, thì tôi chưa có khả năng để nói rõ. Trong vài phút nữa, chắc chắn là tôi sẽ được chính miệng giáo sư nói ra. Trong khí chờ đợi, tôi sẽ lặp lại những sự việc theo ý giáo sư, để giáo sư biết là tôi còn cần được chỉ bảo thêm điều nào.
Ngày hôm qua, một người đàn bà đã vào trong văn phòng giáo sư, Bà ấy đã tới với ý định lấy một số tài liệu ở trong bàn giấy. Bà ấy có một chìa khoá riêng. Cái chìa khoá của giáo sư không phải là chiếc chìa khóa dã tạo ra một vết xước trên mặt đánh véc-ni của ổ khóa. Vậy giáo sư không phải là một tòng phạm. Bà nọ đã tới để đánh cắp tài liệu của ông và ông không hay biết gì về những ý định của bà ta.
Ông giáo sư thả khỏi cặp môi một đám mây khói thật dày:
- Điều đó cũng là lý thú như là bổ ích! Ông không có gì để thêm vào sao? Bởi vì ông đã theo dõi người đàn bà tới đó, ông có thể nào cho chúng tôi biết là bà ta đã ra sao không?
- Thoạt đầu, bà ta bị người thư ký của ông tóm bắt và bà ta đã đâm anh ta để bỏ trốn. Tôi nghiêng về việc coi cái thảm hoạ này như một việc rủi ro, bởi vì tôi tin chắc rằng người đàn bà này không có ý định gây ra một vết thương trầm trọng đến thế. Nếu là kẻ sát nhân thì họ phải có khí giới. Kinh hoàng về việc mà bà đã làm, bà bỏ trốn như một người điên. Nhưng trong lúc giành giật, bà ta bị mất cái kính kẹp mũi. Vì bị cận thị quá nặng, bà đã đi lầm đường. Bà đi theo một hành lang mà cứ tưởng rằng đó là hành lang đã đưa bà vào đây. Cả hai hành lang đều được lót chiếu đan bằng sợi dừa. Và khi bà nhận ra sự sai lầm thì đã quá muộn và bà hiểu rằng lối rút lui của bà đã bị chặn. Bà không thể quay gót trở lại. Bà cũng không thể đứng mãi một chỗ. Bà phải tiếp tục tiến lên phía trước, tiến lên trong hành lang, leo lên một cầu thang đẩy một cánh cửa ra: bà thấy mình lọt vào trong phòng ông.
Ông già miệng há hốc nhìn Holmes. Sự sửng sốt và sự sợ hãi trộn lẫn trên gương mặt. ông cố gắng buông ra một tràng cười lớn và nhú
- Hoàn hảo, thưa ông thầy bói! Nhưng rất lấy làm tiếc, bên trong cái “mu rùa” của ông có một khuyết tật nhỏ: tôi ở trong phòng này suốt cả ngày.
- Tôi biết điều đó, thưa giáo sư. - Holmes đáp.
- Và ông muốn hỏi vì sao tôi nằm ở đây mà không nhận thấy người đàn bà đã bước vào phòng tôi?
- Giáo sư đã nói chuyện với người đàn bà đó.
Ngài đã nhận ra bà ta. Ngài đã giúp bà ta ẩn mặt.
Lần nữa, ông giáo sư lại phá ra cười. Ông đã đứng hẳn lên. Đôi mắt lấp lánh như hai cục than hồng, kêu lớn lên:
- Ông Sherlock Holmes, ông điên rồi! Ông nói toàn những điều tầm bậy tầm bạ! Tôi mà lại giúp cho bà ta trốn thoát ư? Thế thì bây giờ bà ta ở đâu?
- Bà ấy ở đây này! - Holmes nói, tay chỉ vào một tủ sách cao kê trong một góc phòng.
Tôi thấy ông già giơ hai cánh tay lên. Một sự co giật kinh khủng làm cho mặt ông ta biến dạng. Ông buông mình xuống ghế bành. Cùng lúc đó, cái tủ sách mở tung và một người đàn bà từ bên trong vọt ra.
- Ông đã có lý! - Bà ta kêu lên với một âm tiết xa lạ - Ông đã nói đúng! Tôi đây!
Mặt bà dơ dáy. Nhưng, trông bà ta có một cái gì đó nó toát lên sự kính trọng và sự cảm phục!
Stanley Hopkins đã đặt một bàn tay lên cánh tay bà ta và bắt giữ bà, nhưng bà gạt anh ta ra một cách nhẹ nhàng với vẻ mặt nghiêm khắc khác thường. Ông già ngồi khuỵu xuống trong ghế bành, nhìn bà với đôi mắt tuyệt vọng. Bà già nói:
- Thưa ông, tôi là tù nhân của ông! Từ chỗ ẩn nấp, tôi đã nghe tất cả và tôi biết là quý ông đã hiểu được sự thật. Chính tôi đã giết chàng trai đó. Nhưng như ông đã nói, đó là do rủi ro. Tôi còn không biết là trong tay mình có một con dao, bởi vì trong tuyệt vọng, tôi đã chốp lấy vật đầu tiên mà tôi thấy trên bàn.
- Thưa bà, tôi tin chắc sự việc là như vậy. Tôi thấy bà không được khoẻ trong người.
Bà ta đã tái xanh, dưới lớp bụi bặm, mặt bà trắng bệch. Bà ngồi xuống trên mép giường, trở lại bình tĩnh:
- Tôi chỉ còn có một chút thời gian. Nhưng tôi muốn cho quý ông biết rõ sự thật. Tôi là vợ của người đàn ông này. Ông ta không phải là người Anh. Ông ta là người Nga. Nhưng tôi sẽ không nói tên ông ta.
Lần đầu tiên ông già cựa quậy, kêu lên:
- Chúa sẽ ban phước lành cho em, Anna!
Bà nhìn ông, khinh bỉ:
- Tại sao phải bám víu cuộc đời khốn khổ hả Sergey. Nó đã làm hại những người tốt, chứ đâu chỉ riêng ông? Tôi không làm thay đổi được gì, nhưng tôi đã có được sự thanh thản khi tôi bắt đầu bước quá ngưỡng cửa của cái nhà đáng ghét này. Nhưng tôi sẽ nói hoặc sẽ là quá muộn.
Tôi chính là vợ của người đàn ông này. Khi chúng tôi lấy nhau, ông ta đã 50 tuổi, còn tôi là một thiếu nữ xuẩn ngốc. Chuyện đó xảy ra bên nước Nga, trong một trường đại học... Mà tôi sẽ không nêu tên ra!
- Chúa ban phước lành cho em, Anna! - Lão già lặp lại trong một tiếng thì thầm.
- Lúc đó, chúng tôi là những nhà cách mạng: ông ấy, tôi và nhiều người khác nữa. Khi một sĩ quan cảnh sát đã bị giết chết thì liền đó có nhiều vụ bắt bớ. Để cứu mạng mình và để lĩnh một món tiền thưởng lớn, chồng tôi đã phản bội ngay chính vợ mình và các đồng chí của mình. Vậy là tất cả chúng tôi đã bị bắt theo sự chỉ điểm của chồng tôi. Một vài người trong chúng tôi bị đưa lên đoạn đầu đài và nhiều người khác bị đày sang Sibérie.
Tôi ở trong đám những người đó, nhưng tôi không bị tù chung thân. Chồng tôi tới định cư tại nước Anh với số tiền dơ bẩn. Nhưng ông ta biết rõ rằng nếu tổ chức của chúng tôi biết nơi cư trú của ông thì công lý sẽ được thực thi ngay.
Ông lão vươn tay ra, rút lấy một điếu thuốc:
- Em tùy ý sử dụng số phận đời anh đó, Anna! Em luôn luôn tốt với anh mà!
- Trong số các đồng chí thuộc tổ chức, có một người đã từng là bạn trai tôi. Anh ấy cao thượng, vô tư và gắn bó: tất cả những cái mà chồng tôi không được như thế. Anh ấy ghét bỏ bạo lực. Anh ấy đã viết thư cho tôi để thuyết phục tôi đứng về “phe ôn hòa”. Chồng tôi đánh cắp lấy những lá thư của anh ấy và cuốn sổ nhật ký của tôi.ông đã đem giấu chúng đi, tìm cách làm cho chàng trai đó bị xử bắn. Nhưng Alexey chỉ bị lưu đầy sang Sibérie, hiện đang lao động trong một hầm muối. Hãy nghĩ tới việc đó, tên hèn nhát! Ngày hôm nay, vào cái giờ mà ta đang nói đây, con người cao đẹp kia đang sống như một nô lệ. Còn ta, ta là người nắm giữ mệnh mi trong tay, thế mà ta lại để cho mi được sống.
- Em luôn luôn là một tâm hồn cao thượng, Anna! - Lão già kêu lên, khi rít trên điếu thuốc lá.
Bà đứng lên, nhưng lại ngã về phía sau với một tiếng kêu đau đớn nhỏ:
- Tôi cần phải nói cho xong. Khi mãn hạn tù, tôi bắt đầu đi tìm cuốn sổ tay và những lá thư mà một khi nó tới được chính phủ Nga, chắc chắn anh ấy sẽ được trả tự do. Tôi đã biết lão già này sang nước Anh. Sau nhiều tháng truy lùng, tôi tìm ra nơi trốn tránh của y. Tôi đã biết là y vẫn còn giữ cuốn sổ tay, bởi vì trong lúc tôi còn bị lưu đày ở Sibérie, tôi đã nhận được một lá thư của y đầy những lời trách móc và những câu trích dẫn rút ra từ trong cuốn nhật ký. Nhưng y là một người hèn hạ, chắc sẽ không trả lại cho tôi. Vậy thì tôi phải đích thân đi lấy lại thôi. Với mục đích đó, tôi thuê một thám tử tư vào trong nhà này làm thư ký riêng. Đó là người thư ký thứ hai của mi đó, tên tồi? Cái người đã rời bỏ mi thật vội vã. Anh ta đã biết những giấy tờ đó được cất giữ trong phần giữa của bàn giấy mi và anh đã lấy cái dấu chìa khoá. Anh ta không muốn đi xa hơn. Anh ta thông báo cho ta biết sơ đồ căn nhà và bảo ta rằng buổi sáng, trước lúc giữa trưa, văn phòng luôn luôn trống vắng vì người thư ký sẽ phải làm việc tại trong phòng này cùng với mi.
Tôi đã th can đảm đi lấy lại cuốn sổ. Tôi vừa lấy lại được những giấy tờ và đóng cái tủ lại thì người thanh niên nắm lấy tay tôi. Tôi đã từng gặp anh ta buổi sáng. Chúng tôi đã gặp nhau trên đường và tôi đã xin anh cho biết giáo sư ở đâu. Lúc đó tôi không biết anh ta làm việc ở đây.
- Đúng thế! - Holmes nói - Người thư ký đã quay về nhà và đã nói với ông chủ về người đàn bà mà anh vừa gặp. Rồi thì, trong hơi thở sau cùng, anh đã cố đưa tin rằng chính bà là người đàn bà mà anh ta vừa nói với ông chủ.
- Hãy để cho tôi nói hết! - Bà ta nói với một giọng khẩn thiết trong lúc mặt bà co lại một cách đau đớn - Tôi vùng vẫy và anh ta ngã xuống, lập tức tôi vội chạy ra khỏi phòng, nhưng tôi đã đi lạc vào trong phòng của tên hèn này. Y đe doạ là sẽ tố giác tôi. Tôi nói nếu y làm thế, mạng sống của y sẽ bị chấm dứt. Nếu y bỏ rơi tôi lại cho luật pháp thì tôi sẽ bỏ rơi y cho tổ chức. Y buộc lòng phải che chở cho tôi. Y ném tôi vào trong cái chỗ trốn lánh tối tăm này. Y dùng bữa trưa trong phòng, ngõ hầu có thể nuôi tôi. Y thoả thuận rằng khi cảnh sát rời khỏi nhà, thì y sẽ để cho tôi trốn đi trong ban đêm với điều kiện là tôi không trở lại nữa. Nhưng ông Holmes đã ngăn trở dự định của chúng tôi…
Bà rút từ trong vạt áo ra một gói nhỏ và nói thêm:
-… Và giờ đây, đây là cái sẽ cứu Alexey. Tôi xin gởi gắm gói này vào lòng tôn trọng danh dự và lòng yêu công lý của ông. Hãy cầm lấy, và trao lại cho toà Đại sứ nước Nga. Giờ đây, tôi đã hoàn thành nhiệm vụ, và...
- Ngưng lại! -Holmes kêu lên.
Anh đã nhảy chồm tới và giật ra một cái lọ nhỏ.
-Muộn quá rồi! - Bà thì thầm khi lăn xuống giường - Quá muộn rồi! Tôi đã uống thuốc độc trước khi ra khỏi nơi trú ẩn. Đầu tôi quay cuồng! Tôi chết đây! Hãy nhớ đến cái gói.
Trên đường về London, Holmes giải thích cho chúng tôi biết rằng nếu chàng trai không tóm bắt được cái kính kẹp mũi thì không biết bao giờ chúng tôi mới tìm ra đáp số. Anh nói:
- Nhìn những tròng kính, tôi biết chủ cặp kính bị cận thị nặng, như thế khi mất kính thì bà ta dễ lạc đường. Khi anh bảo tôi hãy tin là bà đã đi trên một dải cỏ hẹp mà không để lại dấu chân, tôi trả lời rằng việc đó hẳn là một kỳ tích. Tôi thật sự nghĩ rằng kỳ tích đó không thể nào thực hiện nổi; nếu không, thì bà ta phải có một cặp kính thứ hai. Vậy là tôi phải xem xét nghiêm túc cái giả thiết theo đó bà ta chưa ra khỏi nhà. Khi nhận thấy hai dãy hành lang giống hệt nhau, tôi nghi bà có thể bị lầm đường và trong trường hợp này bà đã vào phòng ông giáo sư. Do đó tôi đi theo giả thiết này.
Tôi đã kiểm tra rất kỹ căn phòng khi hy vọng tìm ra một nơi trú ẩn. Tấm thảm được chải kỹ và liền một tấm nên tôi đã bỏ ý nghĩ về một cánh cửa mở xuống hầm. Có thể có một nơi kín đáo đằng sau các cuốn sách. Như các anh đều biết, điều đó thường gặp trong những thư viện xưa. Mặt khác, tôi thấy những cuốn sách được xếp thành đống trên sàn gác, ngoại trừ trước một tủ sách. Sự dọn dẹp gọn ghẽ đó có thể tạo ra một lối đi vào. Tôi không thấy một dấu vết nào để hướng dẫn tôi, nhưng tấm thảm màu sẫm nên tôi đã hút thật nhiều thuốc lá rồi vung vẩy tàn thuốc xuống trước cái tủ sách bị nghi ngờ. Đó là một mánh khoé đơn giản nhưng lại tỏ ra hữu hiệu. Tôi đi xuống dưới nhà, tìm cách thu thập tin tức. Thật may bà giúp việc cho tôi biết giáo sư đã ăn rất nhiều, đó là điều phải nghi ngờ trong trường hợp ông nuôi một người thứ hai. Sau đó chúng ta lên phòng và sau khi lật đổ cái hộp đựng thuốc lá, tôi có cơ hội khám xét cái sàn ván. Lúc đó, căn cứ theo những dấu vết để lại trên tàn thuốc lá, tôi nhận thấy rõ, rằng trong lúc chúng ta vắng mặt, người nữ tù đã ra khỏi nơi trú ẩn… Vậy thì, Hopkins, chúng ta đã tới ga công trường Charing Cross và tôi có lời khen anh đã thành công trong vụ án này. Chắc hẳn là anh về Scotland Yard? Này Watson, về phần chúng ta, chúng ta hãy thuê xe ngựa đi tới toà đại sứ Nga.
11. Một trung vệ bị mất tích
(The Adven of the Missing Three-Quarter-1904)
Xin vui lòng chờ tôi. Bất hạnh kinh khủng. Mất trung vệ cánh phải. Cần thiết cho ngày mai. ô-vơ'l' - Bưu ấn từ Strand. Giờ gửi: 10 giờ 36 phút - ~ Holmes nói, sau khi đã đọc bức điện tin - Thần kinh ông ô-vơ bị căng thẳng lắm nên mới viết văn bản rời rạc như vậy Mấy ngày nay nhàn rỗi quá, bất cứ một vấn đề nhỏ nào cũng sẽ được hoan nghênh. ' ĐÓ là một người. trẻ tuổi, to con, mạnh khoẻ với cả tạ xương và cơ bắp, hai bờ vai của ông đụng sát hai bên khung cửa ra vào. ông lần lượt nhìn chung tôi với một vẻ lo âu:
~ Thưa, ông là Sherlock Holmes?
Holmes chào người khách.
Tối vừa từ Scotland Yard ra. ông thanh tra Hộp- kín khuyên tối tới gặp ông. ông ấy n.ói rằng việc này thích hợp với ông hơn.
ông hãy ngồi xuống. Và cho tôi biết đó là chuyện gì Tô-tân... Chắc chắn là ông đã có nghe nhắt đến anh ta?... Anh ta là cái bản lề của toàn đội. Khi anh tả chuyền bóng, dù anh ta móc bóng, dù anh ta dắt bóng, không một ai có thể cản được. Vả chăng, anh ta còn có đầu óc. Bên cạnh anh, chúng tôi đều là những đứa trẻ. Tôi phải làm sao đây? Nếu ông không giúp tôi tìm cho ra Tô-tân thì chúng tôi chắc chắn bị thua.
Khi người thanh niên dứt lời, Holmes duỗi tay, lấy bộ sưu tập ra, nhưng anh không tìm thấy tên Tô-tân. Tới lượt người khách của chúng tôi tỏ vẻ ngạc nhiên.
Coi nào, thưa ông Holmes, tôi cứ tưởng là ông đã biết anh ta chứ! Nếu ông chưa từng nghe r~hắc tới Tô-tân thì ông cũng chẳng biết ai là ô-vơ.' Với tâm trạng vui vẻ, Holmes ra dấu là anh cũng không biết. ~ Kinh khủng thật - Nhà lực sĩ gầm lên - Tôi là . người chỉ huy đội bóng nhà trường. Tôi chẳng là cái thá gì cả Nhưng tôi không thể ngờ được là tại nước Anh lại có người không biết đến Tô-tân, nhà vô địch trong các trung vệ, tay cừ của Cambridge, của Blackheath, 5 lần đoạt giải quốc tế Nhưng thưa ông Holmes, ông đã sống Ơû đâu vậy?
Ho/mes phá ra cười trước vẻ ngạc nhiên ngây thực của chàng trai khổng lồ
- Chúng tôi không cùng sống trong một vũ trụ, thưa ông ô-vơ. ông sống trong một thế giới lành mạnh hơn, . thú vị hơn tôi. Nhưng mà này ông bạn tốt bụng, hãy ngồi xuống và nói một cách từ tốn về chuyện gì đã xảy ra.
ô-vơ để lộ sự bối rối của một người quen sử dụng những cơ bắp hơn là trí tuệ. Giữa vô số những câu nói lặ~ đi lặp lại, anh đã trình bày chi tiết câu chuyện kỳ lạ nh~ sau:
- Tôi là người điều khiển đội bóng bầu dục của đại học Cambridge và Tô-tân là cột trụ của đội. Ngày ma.
chúng tôi sẽ đấu với đội của đại học Oxford. Hôm qua chúng tôi đến Luân Đôn và Ơû một khách sạn. Lúc mười giờ, tôi đảo qua một vòng các phòng để xem các bạn đồng đội đã đi ngủ chưa. Tôi trao đổi vài câu nói với Tô-tân trước khi anh lên giường. Tôi thấy anh xanh xao, có vẻ lo lắng. Tôi hỏi anh vì sao. Anh trả lời là anh rất khoẻ, chỉ hơi nhức đầu thôi. Nửa tiếng đồng hồ sau, người gác cửa tới cho tôi hay là có một người có râu, đem một lá thư tới cho Tô-tân. Vì Tô-tân chưa ngủ, người gác cổng đã cầm thư đó lên trao tận tay anh. Đọc xong, anh ta xỉu xuống cái ghế dựa, tựa hồ như anh đã bị quất một dùi cui. Người gác cổng kinh hoàng, muốn đi tìm tôi nhưng Tô-tân đã ngăn lại, anh đã uống một cốc nước lớn, mặc quần áo rồi đi xuống, nói vài lời với người đợi dưới gian tiền sảnh, rồi cả hai ra đi. Sáng nay, căn phòng của Tô-tân trong tuềnh, chăn nệm vẫn còn y nguyên, đồ đạc cũng vẫn nguyên. Tôi có cảm tưởng rằng chúng tôi sẽ không bao giờ còn gặp lại anh nữa ?
Anh đã làm những gì? - Holmes hỏi.
Tôi điện về Cambndge để xem coi có tin tức gì về anh không. Cambridge điện trả lời là "Không một ai trông thấy anh ta cả". - Liệu anh ta có thể trở về Cambridge được không - - CÓ một chuyến tàu chót vào hồi 11 giờ 15.
Nhưng, theo tin tức của anh, thì anh ta không đáp chuyến tàu đó?
- Vâng, không ai thấy anh ấy Ơû Cambndge cả.
- Thế rồi sau đónh làm gì?
Tôi đánh điện cho huân tước Giậm.
~ Tại sao lại gửi cho huân tước. Tô-tân là trẻ mồ côi, và huân tước Giậm là bác ruột của anh.
Điều đó soi sáng nội vụ một cách đặc biệt. Huân tước Giậm là một trong những người Anh giàu có nhất.
Tô-tân đã nói với tôi như vậy.
- Và bạn anh là người thừa kế di sản của ông Giậm.
Vâng, ông già đã tám mươi tuổi, và lại mắc bệnh nữa. ông chưa bao giờ cho Tô-tân một xu. ĐÓ ỉa một người cực kỳ hà tiện, nhưng rối tất cả gia tài sẽ về tay anh _ ấy một ngày gần đây thôi.
- Anh có nhận thư trả lời của huân tước không - Không.
Tại sao bạn anh lại đi tới nhà huân tước? ~ Tồl hôm qua, có một cái gì đó làm cho anh ấy lo lắng Nếu đó là một vấn đề tiền bạc, có thể anh đã đi tới nhà ông ấy.
Được Tôi sẽ chăm lo vụ này. Tôi không biết nói gì hơn là khuyên anh nên chuẩn bị cho cuộc thi đấu mà đừng có trông mong gì vào chàng trai đó nữa. Chắc chắn phải có một việc gì cực kỳ quan trọng mới khiến anh ta bỏ đi như vậy. CÓ thể điều quan trọng đó đã giữ anh ta lại. Chúng ta hãy tới khách sạn và nói chuyện với người gác cổng. ' Holmes mau chóng làm thân với người gác khách sạn vả thu được nhiều tin tức:
Người đem tin ăn mặc không hẳn đàng hoàng mà cũng không hẳn là một người thợ. ông ta thuộc loại "trung gian" . Một người trạc năm mươi tuổi, có bộ mặt xanh xao, tóc hoa râm. Bàn tay ông ta run lên khi ông lấy lá thư ra. Tô-tân đã nhét lá thư vào túi, không bắt tay người đó. HỌ đã nói chuyện rất ngắn, rồi cả hai vội vàng bỏ đi. Lúc đó là 10 giờ rưỡi.
- Anh là người gác cổng ban ngày, phải thế không?
Vâng. Tôi hết phiên vào lúc mười một giờ. .
CÓ lẽ người gác cổng ban đêm đã không thấy gì.
Vâng. Một toán người đi xem hát về muộn. Không có ai khác.
- Hôm qua, anh gác suất ngày? ' ' Vâng. ' - Anh đã được tin nhắn gửi cho ông Tô-tân. ~ CÓ Một bức điện. ' ' - ~ Lúc mấy giờ? . - ~ ~ ' ' ' Khoảng 6 giờ. ' : ~ ' ' : ~ ~ ' ' Lúc đó ông Tô-tân Ơû đâu? ~ ~ ' ' : ' Tại đây. ' ' '-:
Anh có mặt Ơû đây khi ông ấy đọc bức điện? : ' Vâng. Tôi chờ đợi để xem có trả lời không. ' ' ~ .
Thế là có điện trả lời phải không?
Vâng. ông ấy đã viết một bức điện trả lời. ' ' Anh có cầm lấy bức điện đó không?
Không. Chính ông ấy mang đi.
- Nhưng ông ấy đã viết trong lúc anh có mặt Ơû đây?
Vâng. Khi ông ấy viết xong. ông bảo tôi: "Tốt lắm, anh bạn? Tôi sẽ đích thân lo liệu việc này".
- ông ấy viết bằng gì?
- Ngòi bút.
- ông ấy đã dùng một trong những tờ giấy in sẵn để trên bàn này à? .
- Vâng: Viết trên tờ giấy thứ nhất.
Holmes đứng lên, cầm lấy mẫu in sẵn, đem tới bên cửa sổ và quan sát kỹ lưỡng tờ bên trên.
- Đáng tiếc là anh ấy không viết băng bút chì? Bút chì thường để lại bên dưới một dấu. . . Tuy nhiên, tôi vui mừng là anh ta đã viết bằng một cây bút có ngòi lớn, mực nhiều và có thể còn vết tích trên tờ giấy thấm... Đây rồi?
Anh giật lấy một tờ giấy thấm trên có những nét chữ ngược. ô-vơ tỏ ra sôi động, kêu lên:
- Hãy đặt ngược nó trước tấm gương. .
- Không cần - Holmes nói - Tờ giấy thấm này mỏng, cứ nhìn vào mặt sau là chúng ta có thể đọc được. ' Anh lật ngược tờ giấy thấm lại và chúng tôi đọc:
"Đừng bỏ rơi chúng tôi, vì lòng kính Chúa!".
- ĐÓ là cái đoạn chót của bức điện tín mà Tô-tân đã gửi vài tiếng đồng hồ trước khi anh ta biến mất. ít ra - cũng có sáu từ đã chúng ta không đọc được, nhưng mấy chữ còn lại: "Đừng bỏ rơi chúng tôi, vì lòng kính Chúa" chứng tỏ rằng chàng trai này đã thấy một mồl nguy hiểm kinh khủng đang tới gần, và một ai đó có thể che chở được anh. Danh từ "chúng tôi" cho thấy có một người khác nữa bị dính líu vào.
- Cần phải tìm hiểu xem bức điện đã được gửi cho ai?
Tôi nói.
- Đúng vậy. Nhưng nếu anh vào một nhà bưu điện để yêu cầu được đọc cái cuống của sổ biên nhận thì các nhân viên sẽ tỏ ra ít sẵn lòng làm vừa lòng anh. Trước sự hiện diện của ông, ông ô-vơ, tôi muộn được coi qua những giấy tờ mà Tô-tân đã để lại trên bàn.
Holmes kiểm tra cẩn thận các thư từ, biên lai và cuốn sổ tay.
- Không có gì trong này cả. Nhân đây, tôi thấy là bạn ông có một sức khoẻ thật tốt đấy chứ? Anh ta không có những trở ngại vụn vặt về sức khoẻ chứ?
Anh 'ấy vững như bàn thạch? ~ ~ - ông có thấy anh ấy bị đau ốm bao giờ không" - Không một ngày nào?
- CÓ thể là anh ấy không được khoẻ như ông nghĩ.
Tôi thiên về việc tin rằng anh ấy có những sự buồn phiền bí mật. Nếu được ông cho phép, tôi sẽ đem theo hai hoặc ba tờ giấy, để đi điều tra tiếp. - Xin chờ một chút - Một giọng ảo não kêu lên
Chúng tôi quay lại và thấy một ông già nhỏ bé trên ngưỡng cửa. ông ăn vận đồ đen màu gỉ sắt, đội một cái ' mũ cao, thành có vành rộng, trang điểm một cái cà-vạt trắng, thắt vụng về. ' ông là ai mà lại đụng tới giấy tờ của người vắng mặt. - Tôi là một thám tử tư và tôi thử tìm cách giải thích sự biến mất của ông Tô-tân. ' Ai thuê ông làm việc đó?
- ông này đây, bạn của Tô-tân.
ông là ai? ' Tôi là ô-vơ, người dìu dắt đội bóng.
- Vậy ra ông là người đã gửi điện cho tôi đây. Tôi là huân tước Giậm. Như vậy là ông đã nhờ tới một thám tử?
- Vâng.
Mà ông sẵn lòng chi trả các phí tổn. .
- Anh Tô-tân sẽ chi trả, khí chúng tôi tìm ra anh ấy.
- Nhưng nếu người ta không tìm ra nó, thì ai trả tiền .
- Trong trường hợp đó, chắc chắn rằng gia đình Tô- tân sẽ . . .
Đừng trông mong gì - ông già hét lên - Đừng trông mong Ơû tôi, dù chi một xui Một xu, ông nghe chứ? Thưa ông thám tử. Về phần nhưng giấy tờ mà ông đang tự ý cầm trong tay đó, ông phải tường trình cho tôi biết một cách nghiêm túc?
- Được lắm - Sherlock Holmes nói - Trong lúc chờ đợi, tôi xin mạn phép hói xem ông có ý ngh~ nào về sự mất tích của cháu ông?
- Tôi chẳng có một ý nghĩ nào hết. Anh ta đã trưởng thành, vậy anh ta hãy tứ chăm sóc lấy mình và nếu anh ta đi lạc như một đứa trẻ, thì tôi không chịu tốn tiền để tìm kiếm anh ta.
- Tôi hiểu quan điểm của ông - Holmes trả lời với một ánh mắt tinh nghịch - Nhưng có thể ông lại chưa hiểu quan điểm của tôi. Tô-tân là một người nghèo. Nếu như anh ta bị bắt cóc, thì chắc chắn đó không phải là người muốn cướp một món của ca nào của anh. Nhưng danh tiếng của ông thì lừng lẫy khắp toàn cầu, thưa huân tước, rất có thể một toán trộm cướp đã bắt cóc cháu ông với hy vọng sẽ khai thác được những tin tức về ngồi nhà của ông, những thói quen của ông, những cua cai cua ông. . .
Gương mặt người khách trở nên trắng bệch. ' - Chúa ơi, chưa bao giờ tôi nghĩ đến điều đó.
Nhưng Tô-tân là một chàng trai dũng cảm, sẽ không bao giờ phản bội người bác ruột của mình. Ngay chiều nay, tôi sẽ đem các đồ bằng bạc gửi vào ngân hàng.
Trong lúc chờ đợi? Thưa ông thám tử, ông hãy xem xét kỹ từng hòn đá . Còn về tiền bạc . . . Coi nào, cho tới con số là 5 bảng, chúng ta cứ nói là 10 bảng đi, ông có thể tin cậy nơi tôi!
Ngay khi đã dịu đi, ông già keo kiệt cũng không thể cho chúng tôi một hn tức gì, bởi lẽ ông ta biết rất ít về đời sống của người cháu ông. Vậy thì hướng điều tra duy nhất nạm trong cái mẩu điện tín này Holmes chép lại nội dung bức điện, chúng tôi bắt tay ông già. ô-vơ bỏ đi, để tham khảo ý kiến các bạn đồng đội về cách ra quân của đội bóng. Holmes và tôi đi đến bưu cục gần nhất. Đến trước cổng, chúng tôi dừng lại, anh nói:
- Với một trát toà thì chúng .ta có thể đòi hỏi được xem cái cuống điện báo, nhưng chúng La không phải là cảnh sát chính thức. Tuy vậy chúng ta cứ thử xem' - Tôi rất tiếc phải làm phiền bà - Anh nói một cách lễ độ với mót thiếu phụ ngồi sau ghi-sê - Nhưng hẳn phải có một sự sai lầm về bức điên tín mà tôi đã gửi đi ngáy hôm qua. Tôi đã không nhận được điện trả lời, và tôi e là mình đã quên ghi tên Ơû cuối bức điện. BÀ~ có thể nào kiểm tra lại giùm được chăng?
Người thiếu phụ lật cuốn sổ ra xem. ~ ' - ông đã gửi đi hồi mấv giờ? ~ ~ ~ - Sau sáu giờ một chút. ~ _ .
- Bức điện gửi cho ai? .
Holmes đặt một ngón tay lên môi và thì thầm với giọng tâm sự.
- Những chữ chót là "Vì lòng kính Chúa".
Người đàn bà gỡra một cái cuống điện báo.
- NÓ đây. ông đã không đề tên ông' - Bà ta nói khi bà~r bức điện ra trên quầy..
Chính vì thế mà tôi không nhận được hồi âm! - Holmes reo lên - ô, tôi mới thật dại dột làm sao Xin chàm bà, và xin cám ơn bà nhiều.
Anh phát ra một tiếng cười nhỏ trong cuống họng và xoa hai bàn tay vào nhau ngay khi chúng tôi ra tới phố. Tôi hỏi: .
Thế nào?
- Tất. Tôi đã hình dung ra bảy mánh khoé để có thể liếc nhìn qua bức điện đó, thành công ngay trong mánh khoé đầu tiên.
- Anh đã thấy gì?
- Đi ra ga công tr.ương Kinh? - Anh kêu lên với người xà ích mà anh đã gọi xe.
- Chúng ta đi du lịch à?
- Phải, chúng ta phải đi tới Cambridge. Anh hẳn đã thấy sự mất tích này xảy ra trước một trận đấu quan trọng, và rằng người cầu thủ đó lại là cột trụ của đội bóng.
CÓ thể đó chỉ là một sự trùng hợp, nhưng nó thật đáng quan tâm. Thể thao tài tử không có những vụ đánh cá lớn, nhưng tổng số tiền đánh cá rải rác trong quần chúng cũng không nhỏ, và rất có thể là một ai đó có lợi khi bắt cóc một cầu thủ trong vài ngày, như một tên cướp cá ngựa đã bắt cóc những con ngựa nòi. ĐÓ là một lối giải thích.
Một lồl thứ hai cũng có thể chấp nhận vì chàng trai đó là người thừa kế một tài sản lớn.
- Những giả thiết đó không tính đến bức điện tín! .
Rất đúng. Chính vì muốn tìm hiểu một điều gì đó về bức điện tín mà chúng ta mới đi Cambridge.
Khi chúng tôi mới tới nơi thì trời đã sẩm tối. Holmes thuê xe ngựa Ơû và đưa ra địa chỉ của bác sĩ Lê-li.
Vài phút sau cỗ xe dừng lại trước một ngôi nhà lớn trên đường phố chính. Chúng tôi bước vào, và sau một hồi chờ đợi khá lâu, chúng tôi gặp một bác sĩ ngồi đằng sau cái bàn trong phòng mạch: bác sĩ Lê-li.
ông cầm tấm danh thiếp của Holmes và nhìn chúng tôi với một dáng vẻ kém nhã nhặn.
Tôi có biết danh ông, thưa ông Sherlock Holmes, và tôi biết ông làm nghề gì: một trong những nghề mà tôi chê bai. .
- Sự đánh giá đó được chia sẻ bởi những kẻ phạm tội - Holmes trả lời một cách bình thản.
- Cái chỗ mà ông dễ bị chỉ trích đó là việc ông lục lọi vào trong những bí mật của các cá nhân, đào bới những việc riêng tư của người khác và làm mất thời giờ của những người còn bận rộn hơn ông nữa. Chẳng hạn như vào lúc này đây, tôi đang soạn thảo một bản chuyên luận thay vì ngồi nói chuyện với ông. .
- Tất nhiên rồi! Nhưng cuộc nói chuyện này có thể còn quan trọng hơn bản chuyên luận của ông. Tuy vậy, tôi có thể nói với ông rằng chúng tôi cố gắng để tránh đưa ra công luận những việc riêng tư. . . Tôi tới đây để nới với ông về ông Tô-tân.
- Về việc gì?
- ông biết ông ấy mà.
- ĐÓ là một người bạn thân của tôi.
- Anh ta đã bị mất tích.
- A, vậy sao...?
Gương mặt ông bác sĩ vẫn bình thản.
- Đêm vừa qua, anh ấy rời khách sạn. Từ đó. bặt vô âm tín.
- Ngày mai là cuộc đấu lớn giữa hai đội Oxford - Cambridge. Tôi không có thiện cảm với những trò trẻ con đó Nhưng số phận của chàng trai tôi quan tâm một cách sâu xa.
Vậy thì tôi' xin ông dành mối thiện cảm cho cuộc điều tra về số phận của ông Tô-tân. ông biết anh ấy Ơû đâu không?
- Không. ~ ~ ' - Hôm qua, ông không gặp anh {ly? ' - Không.
- ông Tô-tân có được mạnh khoẻ không? . ~ - Sức khoẻ toàn hảo. ' - ông chưa bao giờ thấy anh ấy bị đau ốm sao? .
- Chưa bao giờ. .
Holmes đặt một tờ giấy trước mặt bác sĩ:
Vậy thì ông giải thích như thế nào về tờ biên nhận mười ba đồng ghi-nê do Tô-tân trả cho bác sĩ Lê-li trong ~ tháng trước. Tôi đã thấy tờ giấy này trong số những tờ giấy khác của anh ta. .
ông bác sĩ đỏ mặt tía tai.
- Tôi không cần giải thích với ông, thưa ông Holmes.
Holmes nhét tờ biên nhận vào trong ví.
- Chẳng lẽ ông thích giải thích trước công chúng. Tôi đã thưa với ông rằng tôi sẽ giữ im lặng. Người ta sẽ khôn ngoan biết bao khỉ thổ lộ riêng với tôi.
Tôi không biết gì cả.
ông có nhận được tin gì của Tô-tân từ Luân Đôn không?
- Không!
- A? Nhà bưu điện này kỳ cục thật - Holmes thở dài - vliột bức điện khàn đã do Tô-tân đánh đi từ Luân Đôn vào hồi 6 giờ 15 chiều hôm qua... Một bức điện có liên quan tới sđ mất tích của anh ta . . . ấy thế mà người nhận lại không nhận được Tôi sẽ tới bưu điện làm đơn khiếu nại Bác sĩ Lê-ìi nhảy cẫng lên. Mặt ông chuyển sang màu đỏ sẫm.
Tôi ra lệnh cho ông ra khỏi nhà tôi - ông ta kêu lên - ông có thể nói với ông chủ của ông, h
rằng tôi không có việc gì cần giải quyết với ông ta cả; cũng như với những nhân viên của ông ta. ~ . . ~ .
ông nhấn chuông một cách giận dữ. ~ - . . John, hãy đưa hai ông này về .
Một người quản gia oai vệ đẩy chúng tôi ra cửa. Ra tới ngoài đường, Holmes phá ra cười:
- Anh Watson, thế là chúng mình bì thất bại Ơû hiệp thứ nhất. Ta đấu tiếp nhé. Cái lữ quán nhỏ kia, ngay trước mặt căn nhà của Lê-li rất thích hợp với các nhu cầu của chúng ta. Anh chịu phiền tới đó hỏi thuê một phòng trọ Ơû mé trước, tôi đi lo vài việc lặt vặt.
Holmes trở về lữ quán trước chín giờ tối. Anh mệt mỏi, ủ rũ, bụi bậm bám đầy người. Một bừa ăn nhẹ được dọn trên bàn.' Sau khi ăn xong, anh mồi tẩu thuốc nhưng lúc đó tiếng động của một cỗ xe khiến anh đứng lên và ngó ra ngoài khung cửa sổ. Một cỗ xe và một cặp ngựa lông xám đang đứng bất động trước cửa nhà bác sĩ.
- CỖ xe này đã ra đi vào lúc 6 giờ rưỡi; bây giờ đã hơn 9 giờ. Sau 3 tiếng đồng hồ đi và về. Vậy nơi ông ta đến cách đây 1 5 hoặc 1 8 cây số. Và ông ta đi như vậy mỗi ngày một lần, có khi tới hai lần.
Điều đó chẳng có gì đáng ngạc nhiên đối với một y sĩ có đông thân chủ. - Nhưng Lê-li không có thân chủ. ĐÓ là một diễn giả, một thầy thuốc tham vấn, ông tạ ít chịu trị bệnh, cất để không bị phân tâm trong lúc viết sách. Tại sao ông ta lại ra đi như thế Đi để gặp ai?
- Gã xà ích của ông.
- Tôi có ngỏ lời với hắn, nhưng gã mất dạy đó đã thả chó ra. May mắn là không có con chó nào chịu nổi cây can của tôi. Nhưng một người địa phương ' đã cho tôi biết .
nhưng thói quen và chuyến đi hàng ngày của ông ta.
Giữa lúc chúng tôi đang nói chuyện thì cỗ xe lại ra đi. . ~ Anh không thể theo dõi chiếc
- Hoan hô, anh thật là chói lọi. Hồi chiều tôi đã làm như anh vừa nói: tôi tới tiệm bán xe đạp, thuê một chiếc theo sau xe, cách khoảng chừng một trăm thước cho 'tới khi chúng tôi rời xa thành phố. Khi đi vào con đường lớn thì cỗ xe dừng lại. Tôi cũng dừng lại, ông bác sĩ xuống xe và đi nhanh tới tôi. ông ta nói rằng con đường chật hẹp quá và mong muốn cỗ xe của ông không làm cản trở cho việc đạp xe của tôi. Ngay đó tôi vượt qua xe ngựa, tôi đạp trong nhiều cây số rồi dừng lại Ơû một nơi thích hợp để chờ xem cỗ xe có đến không. Xe không đi qua chỗ đó, nó đã rẽ sang một trong những con đường phụ. Tôi chạy ngược lại, nhưng không thấy cỗ xe. Nhưng vì ông ta đã nói rằng ông ta nhất quyết không cho một ai theo dõi ông, nên việc này là quan trọng và tôi quyết lôi nớ ra ánh sáng.
Ngày mai chúng ta sẽ theo dõi ông ta.
Tôi đã gửi điện cho ô-vơ, nhờ anh ta cho biết là Ơû đây có phương tiện nào kín đáo để đi theo dõi không) Trong lúc chờ đợi, chúng ta phải theo dõi bác sĩ Lê-li: ông ta biết chàng trai đó Ơû đâu, tên ông có trên cái quang điện báo.
Ngày hôm sau, vào giờ ăn điểm tâm, người ta đem dện cho chúng tôi một lá thư:
Thưa ông ông chi phí thì giờ khi theo dõi tôi. Tơi có mặt tấm hình gắn sau cỗ xe ngựa. Nếu ông muôn đi trong 30'cây sô/ mà cuô~ cùng nó sẽ dẫn ông về điểm khởi hành, thì ông cử việc bám theo tôi. Ngoài ra, tôi báo chơ ông biết rằng không phải cử tò mò theo tôi mà ông sẽ tìm thấy ông Tô- tân. Trái lại, ông hãy trở về Luân Đôn mà tìm, đồng thời báo cho ông chủ của ông biết rằng ông đã không thành công tại nơi này. Chắc chắn là tại đây, ông chỉ phí thì giờ mà thôi. ~ . _ : ~ : Người tận tâm với ông.
Bác sĩ Lê-/1' .
Một đối thủ trung thực, thẳng thắn, ông ta kích thích óc tò mò của tôi và tôi muốn làm quen với ông ta - Holnles nói.
- CỖ xe của ông ta giờ đây đang đứng trước cửa, ông ta đang lao xe vào kìa. Tôi thấy ông liếc nhìn về khuôn cửa sổ của chúng ta. Anh có muốn tôi thử cầu may với cái xe đạp không? - Tôi nói.
- Anh Watson, tôi không tin là anh ngầm với ông ấy. Tôi hy vọng từ giờ tới tối, tôi sẽ thuật lại với anh một vài tin tức. Thêm một lần nữa, bạn tôi trở lại về, đầy chán nản.
- Tôi đã theo cái hướng mà ông đã đi cả ngày hôm nay, tôi đi thăm từng thôn xóm nhỏ . Ơû bên phía Cambridge, tôi đã tán gẫu với các chủ quán và các bà nội ' trợ. Tời đã thám hiểm mà không thành công. Trong cái vương quốc của những người uể oải này, chẳng ai buồn để ..
ý đến sự xuất hiện của 'một cỗ xe do hai con ngựa kéo. .
ông bác sĩ lại ghi thêm một điểm nữa. Một bức điện cho .
tôi à!
- Phải: "Hãy hỏi Pom-pê của ông Di-xơn. Trinity Co/1ege". Tôi chẳng hiểu gì hết. ~ ồ, nó khá rõ mà! ông bạn ô-vơ trả lời cho tôi thấy.
Tôi sẽ viết ít hàng gửi ông Di-xơn và cơ may của chúng ta .
có cơ xoay chiều. Nhân đây, đã có kết quả trận đấu bóng chưa? .
Rồi, Oxford đã thắng một bàn. Những câu chót viết: ' Sđ thất bại của một đội mặc đồ xanh ỈA do thiếu cầu thủ Tô-tân" . A - Nhưng dự đoán của anh bạn ô-vơ đã thành sự thực. Chúng ta hãy đi ngủ sớm, bởi vì ngày mai sẽ có những biến chuyển lớn. ' Lúc thức giấc, tôi thấy Holmes đang ngồi bên ngọn lửa . - Tôi vừa làm một cuộc dạo chơi nho nhỏ và tất cả _ .
đều thuận lợi. Anh hãy ăn một bữa điểm tâm cho chắc ~ bụng, bởi vì chúng ta sẽ không ăn khi theo tới tận các ' hang của ông ta. ' Vậy, ta mang theo bữa điểm tâm, bởi vì cỗ xe đã ' đậu trước cửa nhà ông ta rồi kìa.
. - Không sao. Cứ để cho ông ấy đi. Khi anh đã ăn' xong, tôi sẽ giới thiệu anh với một nhà thám tử lỗi lạc.
Tôi gặp Holmes trong sân chuồng ngựa; anh ta mở cửa một cái chuồng chó và dắt ra một con chó béo lùn, có đôi tai thõng xuống, lông trắng và vàng. Holmes nói bạn Pom-pê là niềm kiêu hãnh của giống chó s
Anh dẫn nó tới cửa nhà ông bác sĩ. Con chó đánh hơi chung quanh nó một lúc, rồi với một tiếng lào thào bị kích động, nó chạy nhanh xuống đường phố, lao về phía trước. Trong gần nửa tiếng đồng hồ, chúng tôi đã rời khỏi thành phố và chúng tôi đã đi vội trên con đường nông thôn. Holmes nói:
- Sáng nay tôi đã đi dạo trong sân nhà bác sĩ và tôi đã dùng ống tiêm phun dầu hồi vào bánh sau cỗ xe. Một con chó săn tài giỏi sẽ đuổi theo một hướng có mùi dầu hồi cho tới tận chân trời góc biển. ồ, thằng cha ranh mãnh!
Đây là lối mà hắn đã thoát đi vào tối hôm trước.
Bất chợt, con chó bỏ con đường lớn để lao vào trong một lồl mòn có cỏ.
- Như vậy lâ con đường' mòn này dành để bỏ rơi chúng ta? Bên tay phải chúng ta hẳn là làng Trumpington. à, kìa là cỗ xe ngựa đang đổ ra khúc quành. Mau lên, Watson! Tới lúc quyết định rồi.
Anh lao vào trong một chỗ trống trong cánh đồng.
Kéo theo Pom~pê đang bực bội. Chúng tôi vừa kịp núp vào chau hàng giậu t~lì cỗ xe vượt qua. Trong xe có bác sĩ Lê-li, ông còng hẳn xuống, đầu gục trong hai bàn tay. BỘ mặt của Holmes cũng trở thành nghiêm trọng:
- Cuộc điều tra sẽ có một kết quả bi thảm? Nào ta đi, Pom-pê! CÓ một biệt thự trong cánh đồng.
Pom-pê buông ra những tiếng càu nhàu Ơû bên ngoài hàng rào sắt, nơi mà những dấu xe ngựa hãy còn thấy rõ.
Một lối đi dẫn vào trong biệt thự, Holmes cột con chó vào hàng rào, và chúng tôi vội vã bước vào. Holmes gõ lên cánh cửa nhiều lần mà không có ai trả lời. ấy thế mà ngôi biệt thự không hoang vắng, bởi vì có một tiếng động bị nghẹt, vọng tới tai chúng tôi: một thứ tiếng rên rỉ tuyệt vọng, một thứ tiếng rầm rì buồn bã một cách kinh khủng.
Holmes dừng lại, ngó lại phía sau chúng tôi. Trên con ' đường mà chúng tôi vừa đi, một cỗ xe ngựa lại hiện
Holmes reo lên.
- ông bác sĩ lại trở lại, vậy là giải quyết xong tất cả một lần. Chúng ta buộc phải xem chuyện gì xảy ra nơi đây trước khi ông ta tới.
Anh mở cửa ra và chúng tôi bước vào trong gian tiền sảnh. Tiếng rì rầm nổi bật lên; nó từ trên cao vọng xuống. Holmes leo lên và tôi theo anh. Anh đẩy một cánh cửa hé mở. Chúng tôi đứng bất động, sửng sốt vì cảnh' tượng hiện ra trước mắt: một phụ nữ, trẻ và đẹp, nằm dài trên giường, đã chết. Dưới chân giường, một chàng trai đang khóc nức nở. Anh ta chỉ ngẩng đầu lên khi Holmes đặt một bàn tay lên vai anh.
- CÓ phải ông là Tô-tân.
- Phải . . . Nhưng quý ông đã đến muộn mất rồi. CÔ ấy đã chết.
Kẻ bất hạnh bị bồ/ rối đến nỗi đã lầm chúng tôi với .
những thầy thuốc được mời tới khám bệnh. Holmes chưa kịp nói vài lời an ủi thì tiếng bước chân trên cầu thang và cái bóng khắc khổ của bác sĩ Lê-li hiện ra nơi ngưỡng cửa.
Bác sĩ nói:
Vậy là, quý ông đã tới đích. Trước mặt người chết, tôi xin thề là nếu như tôi còn trẻ, thì thái độ quái gở của quý ông chắn chắn sẽ bị trừng trị. - Xin bác sĩ thứ lỗi. Tôi tin là có sự hiểu lầm! - Holmes nói, giọng trang nghiêm - Nếu bác sĩ vui lòng xuống dưới chúng ta sẽ hiểu lẫn nhau.
Chúng tôi ngồi trong phòng khách Ơû tầng trệt.
- Xin mời! - ông bác sĩ nói. ' - Tôi không phải là người làm công cho huân tước Giậm và trong vụ này, những thiện cảm của tôi không hề dành cho nhà quý tộc đó. Khi có một người bị biến mất, tôi có nhiệm vụ tìm hiểu số phận của anh ta ra sao. Tôi đã tìm thấy. Vậy là công việc của tôi đã xong. Nếu sự mất tích này không kéo theo những điều gì phạm pháp, thì ông có thể tin cậy Ơû sự kín tiếng của tôi.
Bác sĩ Lê-li tiến lên một bước và bắt tay Holmes:
ông là một người dũng cảm. Tôi đã hiểu lầm ông. ông đã biết nhiều: nhưng tôi cũng xin được nói thêm đôi câu: Cách đây một năm, Tô-tân tới sống Ơû Luân Đôn và yêu say đắm cô gái con bà chủ nhà. Anh cưới cô ta. CÔ ấy đẹp, thông minh và tốt bụng. Nhưng Tô-tân lại là kẻ thừa kế ông già quý phái kia, và tin báo về đám cưới chắc chắn sẽ làm tiêu tan tất cả "những hy vọng thừa kế của anh ta". Tôi biết rõ chàng trai đó. Tôi yêu thương anh ta vì anh ta eo nhiều phẩm chất lớn.
Chúng tôi đã cố che giấu đám cưới với mọi người. Nhờ Ơû ngôi biệt thự cách biệt này và cũng nhờ Ơû sứ kín tiếng riêng, Tô-tân đã thành công cho tới nay. Nhưng bất thình lình? cô gái bị bệnh lao phổi ác tính. Chàng trai gần như điên lên vì buồn rầu. Anh ta buộc phải tới Luân Đôn, nơi anh phải tham dự trận đấu. Việc rời bỏ hàng ngũ trong giờ quyết đấu sẽ làm lộ hết mọi chuyện.
Tôi đã trấn an anh ta bằng một bức điện, và anh ta đã trả lời bằng một bức điện, van nài tôi hãy làm hết sức mình. ĐÓ là bức điện mà dường như ông đã đọc bằng cách nào đó tôi không sao hiểu nổi. Tôi đã không hề rlói rõ về căn bệnh của cô gái; nhưng tôi có viết thư nói rõ cho ông-già-vợ anh ta, vrà ông đó, quá đỗi vụng về, đã tìm cách báo tin cho Tô-tân biết. Kết quả là anh ta đã bỏ trận đấu, quay về đây trong một trạng thái gần như điên loạn. Từ khi về đây, anh ta luôn luôn ngồi Ơû chỗ đó, quỳ Ơû bên giường. Nhưng sâng nay, thần chết đã hoàn thành công việc. ĐÓ là tất cả, ông Holmes? Tôi tin chắc rằng tôi có thể hoàn toàn tin cậy vào sự kín tiếng của ông và của bạn ông.
Holmes siết chặt bàn tay bác sĩ, rồi nòi:
Anh Watson, chúng ta đi thôi.
. Chúng tôi buồn bã rời khỏi ngôi nhà có đám tang.
12. Vụ án tại Abbey Grange
(The Adventure of the Abbey Grange-)
Vào một buổi sáng lạnh lẽo và buốt giá của mùa đồng năm 1897, tôi bỗng thức giấc vì có ai lay mạnh vai tôi. Hóa ra là Holmes. Ngọn nến trên tay anh soi rõ gương mặt hăm hở, mà chỉ thoáng nhìn qua cũng biết ngay là có chuyện vừa xảy ra.
“Đi thôi, Watson, đi thôi!” anh giục “Đừng hỏi han gì cả! Mặc ngay quần áo vào, rồi lên đường!”
Mười phút sau, hai chúng tôi đã ngồi trên một chiếc xe ngựa và lóc cóc băng qua những đường phố yên tĩnh đến ga Charing Cross. Ánh bình minh yếu ớt của một ngày đông bắt đầu ửng lên, nên thỉnh thoảng chúng tôi có thể thấy được bóng dáng lờ mờ của một người thợ đi làm sớm. Sau khi chúng tôi uống mấy chén trà nóng ngoài ga và được yên vị trên chuyến tàu đi Kent, anh mới thấy đủ ấm người lên để nói, còn tôi thì mới đủ tỉnh trí để nghe được câu chuyện. Holmes rút trong túi ra một mảnh giấy và đọc to lên:
“Abbey Grange, Marsham, Kent, 3.30 sáng
Ông Holmes thân mến. Tôi sẽ rất lấy làm sung sướng, nếu ông vui lòng trợ lực cho tôi ngay lập tức trong việc điều tra một vụ án nhiều điều thú vị. Vụ này rất hợp với sở thích của ông. Ông sẽ thấy tôi vẫn giữ nguyên hiện trường, đúng như lúc tôi được mời đến. Chỉ xin ông đừng bỏ lỡ thời gian.
Người bạn trung thành của ông.
Stanley Hopkins”.
“Hopkins đã bảy lần mời tôi và lần nào cũng rất thích đáng” Holmes nói “Tôi nghĩ chúng ta sẽ có một buổi sáng thú vị. Vụ án mạng xảy ra lúc 12 giờ đêm qua.”
“Căn cứ vào đâu mà anh có thể nói chắc như thế?”
“Vào giờ tàu và cách tính thời gian. Đầu tiên họ phải mời cảnh sát địa phương. Tiếp đó mới trình báo với Scotland Yard. Rồi Hopkins phải đến tận hiện trường, sau đó mới có thể đánh điện cho tôi. Phải mất trọn một đêm mới làm dược chừng đó việc. À, ga Chislehurst kia rồi. Mọi chuyện rồi sẽ sớm ngã ngũ thôi.”
Vượt qua quãng đường vài dặm trên một hương lộ hẹp, chúng tôi đến trước cổng một khu vườn. Người gác cổng già vội mở cổng cho chúng tôi. Một lối đi rộng vắt ngang khu vườn, chạy giữa hai hàng cổ thụ, dẫn đến trước một tòa nhà rộng và thấp. Phần chính tòa nhà rất cổ kính, ẩn mình dưới những dây trường xuân sum suê, nhưng những khung cửa sổ rộng cho thấy chủ nhân đã cho sửa sang lại theo kiểu dáng hiện đại. Một bên trái xem ra mới làm thêm. Đón chúng tôi trước cánh cửa mở rộng là viên thanh tra Stanley Hopkins, dáng trẻ trung, gương mặt lộ rõ vẻ nôn nóng.
“Ông Holmes, rất mừng là ông đã đến Và cả ông nữa, bác sỹ Watson. Thực ra giá được biết sớm, chắc tôi chẳng dám làm phiền ông. Từ khi tỉnh lại, phu nhân đã cho chúng tôi biết về vụ này một cách rành rọt đến nỗi chúng ta có lẽ chẳng còn bao nhiêu công việc để làm nữa. Ông chắc còn nhớ băng trộm ở Lewisham?”
“Sao? Băng ba cha con nhà Randall phải không?”
“Đúng vậy. Ông bố với hai thằng con. Rõ ràng là bàn tay của chúng. Tôi không còn hồ nghi chút nào. Chúng mới ra tay ở Sydenham cách đây hai tuần. Người nhà ở đấy đã nhận diện được chúng. Thật kỳ lạ là chúng lại dám tiến hành một vụ nữa sớm như vậy. Nhưng đây chính là băng đó, chẳng còn nghi ngờ gì nữa. Lần này thì nhất định chúng khó lòng thoát khỏi giá treo cổ. Ngài Eustace Brackenstall, một trong những người giàu có nhất ở Kent, đã bị sát hại. Chúng đã dùng chính thanh cời than trong phòng đập vỡ sọ ông. Phu nhân Brackenstall hiện đang nằm trong phòng tiếp khách buổi sáng. Tội nghiệp cho phu nhân, bà đã phải một phen hãi hùng. Bà gần như chết khiếp khi tôi vừa đặt chân đến đây. Tôi nghĩ, hai ông nên gặp phu nhân, để được nghe chính bà kể lại đầu đuổi vụ này. Sau đó, chúng ta sẽ cùng xem xét phòng ăn.”
Phu nhân Brackenstall quả là một người phụ nữ phi thường. Mái tóc bà vàng óng, mắt xanh, dáng người thanh tú, dung nhan thật diễm lệ. Ngay phía trên một bên mắt là một vết bầm tím, sưng vù, trông chẳng đẹp chút nào. Bà hầu của phu nhân đang dùng nước chườm vết thương. Còn phu nhân thì mệt mỏi nằm dài trên đi-văng, người khoác một chiếc áo choàng rộng màu xanh điểm ngân tuyến.
“Ông Hopkins, tôi đã kể hết mọi chuyện với ông rồi.” bà nói, giọng mệt nhọÔng không thể thay tôi thuật lại được sao? Ấy, nếu ông thấy cần, tôi đành kể lại lần nữa với các quý ông mới tới này. Hai vị ấy đã vào phòng ăn chưa?”
“Tôi nghĩ tốt hơn cả là nên để hai ông đây nghe phu nhân kể trước đã.”
“Tôi hy vọng các ông có thể dàn xếp được mọi việc. Thật khủng khiếp khi nghĩ đến cảnh nhà tôi vẫn còn nằm nguyên đó.” Phu nhân rùng mình, đưa tay che mặt một lát. Khi bà đưa tay lên, ống tay áo rộng hạ xuống tận khuỷu. Holmes thốt lên:
“Ồ, thưa phu nhân, phu nhân còn bị mấy vết thương trên tay nữa kìa! Sao thế này?”
Hai vệt đỏ ửng nổi bật trên cánh tay trắng muốt tròn trĩnh của phu nhân. Bà vội kéo ống tay áo xuống che đi.
“Ồ, không có gì đâu. Mấy cái vệt này chẳng dính dáng gì đến vụ đêm qua cả. Nếu ông và các bạn ông chịu phiền ngồi xuống, tôi xin kể hết những gì tôi biết được.
Tôi là vợ huân tước Eustace Brackenstall. Chúng tôi kết hôn với nhau được gần một năm nay. Cuộc hôn nhân chẳng lấy gì làm êm thấm. Có lẽ một phần là tại tôi. Tôi lớn lên trong khung cảnh của miền nam nước Úc, vốn tự do hơn và ít lễ nghi hơn, nên tôi không thích lối sống ở Anh quốc.Nhưng lý do chính mà ai cũng biết là ông Eustace nhà tôi là một người nghiện rượu thâm căn cố đế. Sống với một con người như vậy thì dù chỉ một giờ cũng chẳng được thế nào là tình cảnh tôi, một phụ nữ nhạy cảm, lại bị trói chặt cả ngày lẫn đêm với một người như thế?
Tôi xin kể với các ông chuyện đêm qua. Tất cả người hầu kẻ hạ trong nhà này đều ở trong dãy nhà dọc mới xây. Toàn bộ tòa nhà chính được phân thành những phòng khách; còn sau lưng là nhà bếp. Ông nhà tôi cho bố trí phòng ngủ của hai chúng tôi trên lầu. Người hầu gái của tôi, bà Theresa, thì ngủ trong một căn phòng ngay bên trên phòng chúng tôi. Ngoài bà ta ra trên lầu không còn một ai; nên không một tiếng độ nào có thể vọng xuống đám gia nhân ở dưới kia. Bọn kẻ trộm chắc hẳn biết rõ điều đó; nếu không, nhất định chúng đã không dám hành động như thế.
Tối qua, ông Eustace nhà tôi lui về phòng riêng lúc 10 giờ rưỡi. Đám gia nhân cũng đều lui về phòng của ho. Chỉ còn một mình bà Theresa vẫn thức trên phòng mình, ở tầng trên cùng tòa nhà, chờ xem tôi có cần sai bảo gì không. Tôi ngồi tại căn phòng này đến quá mười một giờ, mê mải đọc sách. Rồi tôi đảo một vòng quanh nhà, để xem mọi thức đã ngăn nắp chưa, trước lúc lên gác. Tôi luôn tự mình cáng đáng việc này, vì như tôi đã nói, không phải lúc nào tôi cũng có thể cậy vào nhà tôi.
Tôi xuống nhà bếp, ghé phòng viên quản gia, lên phòng khách, rồi cuối cùng là phòng ăn. Vừa đến gần khung cửa sổ có che một tấm màn dày, tôi hiểu rằng cửa sổ để ngỏ. Tôi kéo tấm rèm sang một bên thì thấy mình đang đứng đối mặt với một gã đàn ông to ngang, đứng tuổi, vừa đặt chân vào phòng. Cái cửa sổ đó là thứ cửa sổ cao, kiểu Pháp, có thể dùng như một cửa ra vào thông ra vườn. Nhờ ánh nến từ phòng ngủ tôi hắt ra, tôi thấy còn có hai tên nữa theo vào sau lưng gã kia.
Tôi lùi lại, nhưng gã đàn ông xông vào tôi ngay. Mới đầu gã chộp cổ tay tôi tiếp đến chẹn chặt cổ. Tôi mở miệng định kêu, nhưng hắn đã đánh rất mạnh vào trán tôi ngay bên trên mắt, khiến tôi khuỵu xuống. Tôi ngất đi, chắc phải một lát sau mới tỉnh lại, lúc bấy giờ tôi thấy bọn chúng đã giật đứt một sợi dây kéo chuông và trói tôi vào chiếc ghế mức không thể cựa quậy được, rồi một chiếc khăn tay bịt quanh miệng tôi làm cho tôi không còn cách nào kêu la. Đúng lúc đó, người chồng bất hạnh của tôi bước vào phòng. Chắc ông ấy nghe thấy những tiếng động khả nghi nên đã chuẩn bị sẵn sàng để ứng phó. Ông ấy mặc áo ngủ và quần dài, tay cầm chiếc gậy ưa thích. Ông ấy lao đến một gã trong băng trộm, nhưng một gã khác, gã đứng tuổi, đã kịp cúi xuống nhặt cái thanh cời than trong lò sưởi ra, và giáng mạnh một vồ khi ông ấy đi ngang qua trước mặt gã. Nhà tôi gục ngã, không còn rên nổi một tiếng, và nằm bất động không bao giờ còn dậy nữa. Tôi lại ngất đi, nhưng cũng chỉ trong vài phút. Lúc tỉnh lại, tôi thấy bọn chúng đã vơ hết từ trong tủ buýp phê ra mấy bộ đồ dọn ăn bằng bạc, mở một chai rượu cũng lôi từ đó ra. Mỗi tên cầm một cốc. Như tôi đã nói, một gã trong bọn đã đứng tuổi, có râu; hai đứa kia còn trẻ măng. Chắc chúng là ba bố con. Chúng trò chuyện với nhau khe khẽ. Xong, chúng tới chỗ tôi, xem tôi đã bị trói chặt chưa. Cuối cùng, chúng chuồn ra ngoài, không quên đóng chặt cửa sổ. Mất 15 phút, tôi mới gỡ được chiếc khăn khỏi miệng. Nhờ thế, tôi mới la lên được, gọi bà hầu gái tới giúp tôi. chúng tôi cho người đến báo cho cảnh sát đại phương. Họ lập tức báo lên London. Đó là tất cả những gì tôi có thể kể cùng quý ông, và tôi hy vọng sẽ không phải nhắc lại câu chuyện đau lòng này nữa.
“Ông có hỏi gì không, ông Holmes?” Hopkins hỏi.
“Tôi không muốn lạm dụng lòng kiên nhẫn và thời giờ của phu nhân Brakenstall nữa.” Holmes nói. Rồi anh đưa mắt về phía bà hầu gái “Trước lúc sang phòng ăn, tôi muốn được nghe câu chuyện của bà.”
“Tôi đã trông thấy bọn chúng trước lúc chúng vào nhà” bà nói “Khi ngồi bên cửa sổ trong phòng ngủ, tôi thấy ba người đàn ông hiện ra bên cổng dưới ánh trăng, nhưng lúc đó tôi không nghĩ bọn chúng là kẻ trộm. Hơn một tiếng sau, tôi bỗng nghe thấy tiếng bà chủ kêu, tôi mới chạy xuống và thấy bà chủ lâm vào tình cảnh đúng như bà ấy vừa kể; còn ông chủ thì nằm dưới sàn. Cảnh đó quá đủ dể làm cho một người phụ nữ mất vía, nhất là khi bị trói chặt. Nhưng phu nhân tôi không bao giờ thiếu can đảm cả. Quý ông hỏi bà chủ tôi lâu quá rồi đó ạ, nên bây giờ xin quý ông cho tôi đưa bà chủ về phòng nghỉ vì mệt mỏi quá rồi.”
Như một người mẹ hiền, bà hầu phòng vòng tay qua lưng chủ, đỡ bà về phòng.
“Bà ta quấn quít với phu nhân từ nhỏ tới giờ” Hopkins nói “chăm chút phu nhân từ khi còn là một hài nhi cho tới lúc sang Anh, khi lần đầu tiên họ rời Úc cách đây một năm rưỡi. Tên bà ấy là Theresa Wright. Ông Holmes, mời ông đi lối này.”
Vẻ hào hứng biến mất trên gương mặt sinh động của Holmes, và tôi hiểu ra rằng vụ này chẳng còn lôi cuốn anh chút nào nữa vì đã hết tính chất bí ẩn ly kỳ. Một người thầy thuốc từng trải được mời tới chữa một ca cảm lạnh thông thường cũng sẽ có cảm giác giống hệt như vậy thôi. Nhưng cảnh tượng trong phòng ăn tại Abbey Grange đủ kỳ lạ để khơi dậy sự chú ý của anh.
Phòng này rất rộng, trần cao, ghép bằng những tấm gỗ sồi có chạm trổ, trên bốn vách tường trưng bày la liệt cả một bộ sưu tập tuyệt vời những gạc nai và vũ khí kiểu cổ. Trong góc xa nhất của căn phòng kể từ cửa ra vào là cánh cửa sổ kiểu Pháp mà chúng tôi đã được nghe kể. Ba khung cửa sổ nhỏ hơn bên tay phải làm cho căn phòng tràn ngập ánh nắng lạnh lẽo của mùa đông. Phía bên trái là một cái lò sưởi rộng, xây sâu vào tường, với những súc gỗ sồi nguyên khối viền quanh. Cạnh lò sưởi có đặt một chiếc ghế bành gỗ sồi dáng nặng nề. Luồn qua một lỗ nhỏ những hoa văn chạm trổ trên chiếc ghế bành ấy là một sợi thừng đỏ, được cột chặt ở cả hai bên. Khi cởi trói cho phu nhân, người ta nới rộng sợi dây, nhưng những chỗ thắt nút vẫn chưa được tháo hẳn. Tuy vậy tâm trí chúng tôi bị thu hút hoàn toàn vào các vật khủng khiếp, đang nằm dài trước mặt lò sưởi: xác của ông chủ nhà.
Nạn nhân là một người đàn ông cao lớn, thân hình cân đối, tuổi trạc tứ tuần. Ông ta nằm ngửa, cằm nghếch lên, hàm răng trắng lộ rõ phía dưới hai mép hơi nhếch lên sau bộ râu đen xén ngắn. Hai bàn tay nắm chặt đang ở tư thế còn giơ cao quá đầu. Một chiếc gậy nặng trích nằm vắt ngang qua giữa hai bàn tay. Trên gương mặt đẹp trai, ngăm đen hằn rõ một vẻ căm thù ghê gớm. Chắc ông đang ngả lưng trên giường khi nghe tiếng động, vì trên người vẫn còn mặc nguyên áo ngủ, và phía dưới gấu quần còn thấy rõ đôi chân đi đất. Đầu ông bị một vết thương khủng khiếp.Cạnh đó nằm chỏng chơ chiếc thanh cời than bị cong lại vì cú giáng mạnh vào đầu. Holmes xem kỹ thanh sắt và xác nạn nhân.
“Lão kia hẳn phải có sức lực phi thường, lão Randall bố ấy” anh nhận xét.
“Đúng thế!” Hopkins đáp “Chúng tôi đã thu thập được một vài thông tin về lão và biết rõ lão là kẻ hết sức cộc cằn.”
“Tóm cổ lão ta, chắc đối với ông sẽ chẳng có gì khó khăn.”
“Không khó chút nào. Chúng tôi đã theo dõi lão từ lâu, vì lão đã tính chuồn sang Mỹ. Bây giờ,biết bọn chúng còn ở đây, tôi nghĩ bọn chúng chỉ còn cách mọc cánh mới hy vọng trốn thoát. Chúng tôi đã cho yết thị nhân dạng bọn chúng tại tất cả các hải cảng, và định chiều nay thì công bố giải thưởng cho ai tóm được. Tôi thật không thể hiểu nổi tại sao bọn chúng lại làm một chuyên điên rồ như vậy, vì chúng thừa biết sẽ bị phu nhân tả lại diện mạo, và nhất định chúng tôi sẽ nhận ra chúng.”
“Đúng vậy. Tôi rất lấy làm lạ sao chúng không bắt phu nhân vĩnh viễn im lặng một thể.”
“Tôi dự đoán có lẽ chúng không biết là phu nhân đã tỉnh lại.” tôi nói.
“Có lẽ thế. Vì phu nhân xem ra đã bị ngất xỉu, nên chúng không thấy cần giết. Thế còn ông chủ nghiệp này thì sao, ông Hopkins? Tôi nhớ hình như có nghe đồn một số chuyện kỳ quặc về ông ta.”
“Khi tỉnh rượu, ông ta là người tốt bụng, nhưng hễ quá chén rồi, thì hóa thành một con quỉ dữ. Vào những lúc như vậy, ông ta có thể làm đủ mọi chuyện. Có lần, ông ta đã gây nên một chuyện rắc rối: ông ta tẩm dầu hỏa khắp người một con chó rồi châm lửa đốt, mà đó lại chính là con chó của phu nhân, mới lôi thôi chứ, và người ta phải chật vật lắm mới giữ kín được vụ này. Về sau, ông ta còn ném cả một cái chai vào bà hầu phòng Theresa Wright. Chuyện này lại gây nên rắc rối. Nhìn chung, cái này tôi nói riêng với ông thôi, giá không có ông ấy thì cả nhà sẽ thấy dễ chịu hơn nhiều. Ông đang nhìn gì vậy?”
Holmes đang quỳ gối xuống sàn hết sức chăm chú xem xét những nút thắt trên sợi thừng đỏ dùng để trói phu nhân. Tiếp đến, anh xem kỹ chỗ đầu dây sờn bị đứt ra khi bọn trộm giật sợi thừng xuống.
“Khi chúng giật sợi dây này, cái chuông dưới bếp hẳn phải vang lên rất to” anh nhận xét.
“Không một ai nghe thấy cả. Nhà bếp nằm ngay sau nhà.”
“Do đâu mà kẻ trộm biết được là sẽ không có ai nghe thấy tiếng chuông? Sao hắn lại dám liều lĩnh giật sợi dây như vậy nhỉ?”
“Đúng thế, ông Holmes, đúng thế. Ông nêu lên chính câu hỏi mà tôi vẫn tự hỏi đi hỏi lại nhiều lần. Không còn ngờ vực gì nữa, kẻ đó phải biết rõ nhà này và thói quen sinh hoạt của những người đang ở đây. Chúng phải hiểu cặn kẽ tất cả gia nhân đều đang ngủ và không một ai ở dưới bếp để có thể nghe được tiếng chuông cả. Như vậy là hắn phải quen biết rõ ai đó trong đám gia nhân. Chuyện này không còn gì phải nghi ngờ nữa. Nhưng trong nhà chỉ có tám gia nhân, và hạnh kiểm của họ đều rất tốt.”
“Bình thường ra” Holmes nói “người mà tôi nghi sẽ chính là kẻ bị ông Eustace ném vỏ chai rượu vào mặt: bà Theresa Wright. Tuy nhiên, nếu thế thì bà lại là kẻ phản chủ, người chủ mà bà ta hình như đã hầu hạ hết sức tận tụy. Thôi được, đó chỉ là chuyện nhỏ nhặt. Câu chuyện phu nhân kể rõ ràng là rất chính xác, nếu căn cứ vào những gì mà chúng ta đang thấy trước mắt” Anh tiến về phía khung cửa sổ kiểu Pháp, và đẩy cả hai cánh ra “Chỗ này chẳng có dấu vết gì, vả lại mặt đất lại cứng như sắt nên tôi không có hy vọng tìm thấy dấu vết. Theo tôi, những ngọn nến trên mặt lò sưởi lúc đó đã được thắp sáng.”
“Đúng thế, chính nhờ những ngọn nến đó và mấy ngọn nến trong phòng ngủ của phu nhân mà bọn trộm thấy đường.”
“Thế bọn chúng đã lấy đi những gì?”
“Chẳng bao nhiêu. Mấy bộ đồ đã trong tủ buýp-phê. Phu nhân Brackenstall nghĩ rằng chắc bọn chúng đã hốt hoảng với cái chết của ngài Eustace. Nếu không, chắc chúng đã sục sạo khắp nhà.”
“Đúng thế thật. Nhưng tôi thấy chúng đã ung dung uống rượu.”
“Chắc để tự trấn tĩnh thôi.”
“Đúng thế. Ba chiếc cốc trên bàn chắc chưa ai động tới thì phải.”
“Chưa. Cả chai rượu vẫn để nguyên như khi bọn chúng bỏ lại.”
“Nào, để ta xem thử. Ồ, cái gì thế này?"
Ba chiếc cốc để trên bàn nằm cạnh nhau. Một chiếc vẫn còn ít cặn dưới đáy. Chai rượu đặt bên cạnh, chỉ vơi hết một phần ba, và nằm bên cạnh là cái nút chai dài ngấm rượu rất sâu. Thái độ của Holmes bỗng đổi khác, và tôi lại thấy cặp mắt sâu và tinh của anh ánh lên vì hào hứng. Anh giơ cao cái nút chai lên ngắm nghía rất kỹ.
“Bọn chúng mở nút chai rượu bằng cách nào nhỉ?” anh hỏi.
Hopkins chỉ vào cái ngăn kéo đang mở nửa chừng, bên trong có vài chiếc khăn trải bàn vải lanh và một cái mở nút chai.
“Phu nhân Brackenstall có nói tới chuyện chúng dùng cái mở nút chai này không?”
“Không. Ông không nhớ à, phu nhân đã bị ngất xỉu khi chúng mở chai rượu.
“Nhớ chứ. Thực ra cái mở nút chai này đã không được dùng đến. Chúng mở chai rượu bằng một cái mở nút loại bỏ túi, có lẽ nằm trong một con dao nhíp, và không dài quá 1 inch rưỡi[1]. Nếu ông quan sát phần trên của cái nút thì ông sẽ thấy ngay rằng cái nút chai của bọn chúng đã phải xoáy vào ba lần mới mở được chai rượu. Còn nếu dùng cái trong ngăn kéo kia thì chỉ cần một lần xoáy là được. Khi tóm được gã nọ, các ông sẽ phát hiện được rằng hắn có một con dao nhíp.”
“Tuyệt!” Hopkins nói.
“Nhưng, thú thực, ba cái cốc này lại khiến tôi băn khoăn. Phu nhân Brackenstall đã từng tận mắt ba gã nọ uống rượu phải không?”
“Có. Phu nhân đã kể rõ rồi còn gì.”
“Vậy là câu chuyện đã kết thúc. Còn biết nói gì nữa kia chứ? Nhưng ông phải thừa nhận rằng ba cái cốc này rất đáng để ý, thưa ông Hopkins. Sao, ông không nhận thấy gì sao? Thôi được, không sao cả. Dĩ nhiên, mấy cái cốc này chỉ là chuyện ngẫu nhiên thôi. Thôi, chào ông Hopkins. Tôi không nghĩ rằng tôi có thể giúp ông được gì, vì với ông, vụ này coi như đã rõ cả rồi. Khi nào ông bắt được Randall, ông nhớ báo cho tôi biết, và cũng xin ông cho biết những gì có thể xảy ra sau đó nữa. Tôi hy vọng sẽ sớm được chúc mừng ông kết thúc vụ án thắng lợi.”
Trên đường về, qua nét mặt của Holmes, tôi có thể thấy rõ là anh vẫn bị dằn vặt vì một điều gì đó mà chính mình vừa quan sát được. Cứ mỗi lần như vậy anh lại cố gạt bỏ những ý nghĩ ấy đi và trò chuyện như thể vụ án đã rõ cả rồi. Nhưng sau đó, mối người vực lại ám ảnh anh, và vẻ mặt anh cho thấy anh lại đang mải nghĩ về căn phòng ăn lớn rộng tại Abbey Grange. Cuối cùng, đúng vào lúc sắp sửa rời ga, anh bỗng nhảy phắt xuống và kéo tôi xuống theo.
“Anh Watson thân mến ạ, anh thứ lỗi cho tôi nhé,” anh nói trong khi chúng tôi nhìn theo những toa cuối cùng của đoàn tàu khuất sau một khúc quanh. “Tôi rất lấy làm tiếc là gây phiền phức cho anh, nhưng thực tình tôi không thể để yên vụ án trong tình trạng như thế này. Mọi bản năng trời cho ở trong tôi đều lên tiếng phản đối việc đó: không ổn rồi, sai to rồi.
Tôi ́m quả quyết rằng mình đã đi chệch hướng, xác nhận của bà hầu phòng cũng rất đầy đủ. Mọi chi tiết đều rất chính xác. Vậy tôi lấy gì để bác lại? Ba cái cốc, chỉ có vậy thôi. Nhưng sự thể ra sao, nếu ta không tin hoàn toàn vào những chuyện ấy? Nếu ta cứ tự xem xét sự việc một cách thận trọng, như lẽ ra ta phải làm trong trường hợp phu nhân Brackenstall không nói gì hết? Lúc bấy giờ, chẳng lẽ ta không tìm được một cái gì cụ thể hơn để điều tra tiếp hay sao?
Dĩ nhiên là được. Ngồi xuống đi, Watson! Trong lúc chờ chuyến tàu quay lại Chislehurst tôi sẽ trình bày cho anh thấy những bằng chứng. Chúng ta không nên tin vào bất cứ điều gì mà bà hầu phòng hoặc cô chủ ba ta đã nói. Đừng để cho cái nhân cách khả ái của phu nhân Brackenstall tác động đến những nhận định của chúng ta.
Chắc chắn là trong câu chuyện của phu nhân có những chi tiết mà nếu xem xét lại, ta sẽ thấy rất đáng nghi. Băng trộm này vừa làm một vụ gây xôn xao cách đây hai tuần. Một số hành tung và diện mạo của bọ chúng đã được báo chí đăng tải, nên bất cứ ai muốn dựng lên một câu chuyện trộm cắp tưởng tượng cũng đều nghĩ đến chúng. Thực ra, những bọn kẻ trộm vừa được một vố béo bở thì thường chỉ thích ngồi yên tận hưởng món “chiến lợi phẩm” nọ, chứ không dại gì lại tiến hành một vụ mạo hiểm mới. Việc chúng đánh một người đàn bà để buộc bà ta câm miệng cũng thật lạ đời, bởi lẽ theo tôi nghĩ, đó chính là cách chắc chắn nhất để khiến bà ta kêu ầm lên. Cũng lạ đời và việc gì chúng phải giết một mạng người trong khi bọn chúng thừa sức bắt ông ta ngồi im mà không cần gây án mạng. Cũng lạ đời là tại sao bọn chúng lại mãn nguyện chỉ với vài món dọn đồ ăn bằng bạc, trong khi chúng có thể vơ vét được nhiều hơn thế nhiều. Và điều lạ đời cuối cùng là tại sao bọn chúng lại chịu vứt lại chai rượu mới uống có một ít. Tất cả những điều vừa nói đó không khiến anh ngạc nhiên sao, Watson thân mến?”
“Toàn bộ, những điều đó gộp lại thì rõ ràng là rất đáng lưu ý, nhưng nếu xét từng điểm một thì thấy chẳng có gì là lạ.”
“Và bây giờ ta nói đến điều đáng chú ý nhất: mấy cái cốc uống rượu.”
“Mấy cái cốc đó thì có gì là lạ?”
“Người ta khai với chúng ta là cả ba đều đã uống rượu. Anh có tinời khai đó không?”
“Sao lại không? Vết rượu vẫn còn nguyên trong cả ba.”
“Đúng. Nhưng chỉ một là còn thấy cặn rượu dưới đáy. Anh nên để ý chi tiết đó. Anh giải thích thế nào về chi tiết này?”
“Chiếc cốc có cặn là chiếc rót sau cùng.”
“Ồ, không, không. Chai rượu còn đầy, nên không thể có chuyện rượu ở hai cốc đầu thì trong, còn cốc thì ba thì không. Có hai khả năng giải thích, và chỉ có thể có hai thôi. Khả năng thứ nhất: rót xong hai cốc đầu, bọn chúng đã lắc mạnh chai, rồi mới rót cốc thứ ba, nên cặn chỉ lắng xuống cốc thứ ba. Nhưng khó có chuyện đó lắm. Phải, phải. Tôi tin chắc mình hoàn toàn đúng.”
“Vậy thì anh lý giải thế nào?”
“Họ chỉ dùng có hai chiếc cốc, và đổ những giọt cuối cùng trong hai cốc này sang cốc thứ ba để tạo cho người ngoài cái ấn tượng là đã có ba người cùng uống với nhau. Chính vì vậy, nên cặn rượu chỉ thấy có ở đáy chiếc cốc cuối cùng, đúng không? Phải, tôi quả quyết sự việc đã diễn ra đúng như thế. Nhưng nếu quả như vậy được, thì có nghĩa là phu nhân Brakenstall và bà hầu phòng của phu nhân cố tình nói dối chúng ta. Không một lời nào trong câu chuyện họ kể còn có thể tin cậy được cả. Họ phải có những lý do hết sức nghiêm trọng để che giấu kẻ thủ phạm đích thực, và chúng ta chỉ còn cách phải tự mình dựng lại vụ án, chứ đừng hy vọng vào bất cứ sự giúp đỡ nào từ phía họ. Đó chính là sứ mạng mà ta phải gánh vác kể từ giờ phút này, và kìa, Watson tàu đi Chislehurst đã tới kia rồi.”
Những người sống ở Abbey Grange rất sửng sốt khi thấy chúng tôi quay lại. Stanley Hopkins đã về gặp thượng cấp để báo cáo kết quả, nên Sherlock Holmes chiếm ngay lấy phòng ăn, khóa trái cửa lại và dành trọn hai giờ đồng hồ để khám xét cẩn thận mọi thứ. Tôi thì ngồi xuống một chiếc ghế kê ở góc phòng, hệt như một sinh viên chăm chỉ theo dõi thầy giáo thao diễn, và cố theo sát từng bước một tiến trình của cuộc khám phá thú vị kia. Khung cửa sổ, mấy tấm rèm, chiếc thảm, chiếc ghế, rồi sợi dây - tất cả đều lần lượt được xem xét tỉ mỉ. Thi thể huân tước Eustace đã được mang đi rồi, nhưng mọi thứ vẫn còn được giữ nguyên như chúng tôi đã thấy s. Thế rồi, trước sự ngạc nhiên của tôi, Sherlock Holmes trèo lên mặt cái lò sưởi rộng. Trên đầu anh lủng lẳng một đoạn dây giật chuông màu đỏ, dài chừng vài phân, vẫn còn buộc chặt vào sợi dây thép nối liền với cái chuông treo dưới nhà bếp.
Sherlock Holmes ngắm nó hồi lâu, rồi để vươn người lên cho gần thêm chút nữa, anh tì hẳn gối vào một đường gờ bằng gỗ áp trên tường. Nhờ vậy tay anh chỉ còn cách đầu sợi dây thừng vài phân, nhưng việc đó không khiến anh chú ý bằng cái rầm chìa trên tường. Xong xuôi, anh nhảy xuống, miệng khẽ reo lên một tiếng tỏ ý mãn nguyện.
“Ổn cả rồi, Watson ạ” anh nói “Chúng ta đã khám phá được một trong những vụ án thú vị nhất trong bộ sưu tập của chúng ta. Nhưng tôi thật tối dạ, vì suýt nữa phạm phải một sai lầm tệ hại nhất đời mình! Bây giờ tôi nghĩ chỉ còn thiếu vài khâu bị mất nữa là tôi đã có trong tay hầu như toàn bộ chuỗi sự kiện.”
“Anh đã dò ra được các hung thủ?”
“Chỉ một thôi, Watson, một hung thủ thôi. Một thôi, nhưng là một kẻ đáng gờm. Hắn khỏe như gấu - cái thanh cời than bị bẻ cong kia là một minh chứng. Cao lớn, nhanh như sóc, khéo tay kinh khủng. Ngoài ra, còn tinh khôn rất mực, vì chính hắn đã dàn dựng nên toàn bộ vở kịch tài tình này. Có điều trên sợi dây kéo chuông kia, chính hắn đã để lại dấu vết của riêng mình, giúp chúng ta có được một đầu mối để loại bỏ hết mọi ngờ vực.”
“Thế cái đầu mối đó nằm ở đâu?”
“Thế thì anh nghe đây, Watson. Nếu anh giật sợi dây chuông thì anh thử liệu xem nó sẽ đứt ở đoạn nào? Rõ ràng nó sẽ đứt ở chỗ nối với sợi dây thép. Vậy thì sao nó lại đứt ở cách chỗ ấy tám phân như anh đã thấy?”
“Vì chỗ đó bị sờn?”
“Đúng. Đầu dây này, như chúng ta đã xem xét, quả có bị sờn thật. Và gã nọ quả đã đủ tinh quái, nên hắn mới dùng dao để làm cho sợi dây có vẻ như bị sờn. Nhưng đầu ở trên kia thì không. Đứng đây, anh không thể thấy được đâu, nhưng nếu anh trèo lên lò sưởi, anh sẽ thấy rõ nó đã bị cắt, chứ chẳng có dấu hiệu nào cho thấy là bị sờn cả. Bây giờ, anh có thể tự mình táip được mọi diễn tiến. Hung thủ cần một sợi dây. Hắn không thể giật xuống vì sợ chuông rung, đánh động mọi người. Hắn phải làm gì? Trèo lên lò sưởi, nhưng vẫn không với tới, nên phải tỳ đầu gối vào đầu rầm chìa, anh sẽ thấy dấu vết in lại trên lớp bụi ngoài đó, vì từ chỗ tôi còn thấp hơn ít nhất 3 inch[2] nữa. Bởi vậy, hắn phải cao hơn tôi ít nhất 3 inch. Này bây giờ anh thử nhìn xem vết gì trên mặt chiếc ghế bành gỗ sồi? Vết gì?”
“Vết máu.”
“Đúng là vết máu. Chỉ riêng chi tiết này thôi cũng đủ cho thấy: câu chuyện của phu nhân Brackenstall là chuyện bịa. Nếu bà ta đã bị trói vào đó trước lúc hung thủ giết ông chồng. Ước gì tôi được trò chuyện ngay bây giờ với bà vú nuôi Theresa. Chúng ta phải thật thận trọng, nếu chúng ta muốn thu thập được những thông tin mình muốn.”
Bà ta, bà vú nuôi người Úc nghiêm nghị ấy, quả là một nhân vật đáng chú ý. Bà ta đa nghi và ít thiện ý, nên thái độ hòa nhã của Holmes phải mất một thời gian mới chiếm được thiện cảm của bà. Bà chẳng hề giấu giếm lòng căm ghét cả bà đối với ông chủ quá cố.
“Vâng, thưa ngài, quả tình ông ấy có ném cái vỏ chai vào tôi được. Tôi thấy ông ấy lăng mạ bà chủ tôi, nên tôi bảo thẳng với ông ta rằng giá anh trai bà chủ có mặt ở đây thì ông ta đừng hòng ăn nói như thế. Vậy là tôi bị ông ấy ném thẳng cái vỏ chai vào mặt.
Ông ấy thường xử tệ với phu nhân Brakenstall, mà bà chủ tôi vốn kiêu hãnh, không bao giờ than phiền. Bà ấy thậm chí cũng không kể cho tôi nghe những cách hành hạ của ông ta đối với bà. Ngay cả những vết bầm trên tay mà ông thấy sáng nay cũng vậy, như tôi biết rõ chính là vết đinh ghim mũ. Ông ấy tỏ ra hết sức dịu dàng hồi chúng tôi gặp nhau lần đầu chỉ mới cách đây có mười tám tháng. Nhưng cả hai chúng tôi lại cảm thấy mười tám tháng ấy dài chẳng khác nào mười tám năm.
Hồi đó, bà chủ tôi vừa chân ướt chân ráo tới London. Vâng, đó là lần xa nhà đầu tiên, chứ trước đó phu nhân chưa bao giờ đi đâu cả. Ông ấy đã dùng tước vị, tiền bạc và cả thủ đoạn giả dối để chiếm đoạt bà chủ. Lấy ông ta, bà ấy đã phạm một sai lầm, và bà ấy đã trả giá xong cho sự sai lầm ấy. Ông hỏi: chúng tôi gặp ông ấy hồi tháng nào, đúng không ạ? Thế thì xin thưa là chúng tôi gặp ông ta ngay sau ngày đến: chúng tôi sang̀i tháng 6, và gặp ông ta hồi tháng 7. Ông ấy cưới bà chủ tôi vào tháng Giêng năm ngoái. Vâng bà chủ vẫn đang nằm nghỉ dưới phòng khách, và dĩ nhiên sẽ vui lòng gặp ngài. Nhưng xin ngài đừng gạn hỏi bà ấy nhiều, vì bà ấy vừa phải chịu đựng hết thảy những gì ít người phàm trần đủ sức kham nổi.”
Phu nhân Brakenstall vẫn nằm trên chính chiếc đi-văng đó, nhưng trông đã đỡ thất sắc hơn hồi sáng, bà hầu phòng cũng theo vào cùng chúng tôi; và bắt tay vào thay tấm khăn chườm lên trán cô chủ.
“Tôi hy vọng” phu nhân lên tiếng “rằng ông đến đây không phải để thẩm vấn tôi lần nữa?”
“Ồ, không,” Holmes đáp, giọng hết sức lịch sự “Tôi sẽ không quấy rầy bà thêm nữa đâu, thưa phu nhân Brakenstall. Tôi chỉ muốn cất đỡ gánh nặng cho phu nhân thôi.”
“Vậy ông muốn tôi phải làm gì?”
“Kể hết sự thật.”
“Ông Holmes!”
“Ồ, không, không, phu nhân Brakenstall làm như vậy hoàn toàn vô ích. Tôi biết chắc rằng câu chuyện của phu nhân kể là hoàn toàn sai sự thật.”
Cả phu nhân Brakenstall lẫn bà hầu phòng đều chằm chằm nhìn Holmes, mặt tái đi, ánh mắt lộ vẻ sợ hãi.
“Ông thật là thô lỗ!” bà Theresa kêu lên “Ông muốn ám chỉ bà chủ tôi đã nói dối?”
Holmes đứng ngay dậy.
“Phu nhân không có gì để kể với tôi sao?”
“Tôi kể hết với ông rồi còn gì.”
“Mong phu nhân nghĩ lại, phu nhân Brakenstall. Chân thật, tôi nghĩ, sẽ tốt hơn nhiều.”
Một thoáng lưỡng lự lướt qua gương mặt kiều diễm của phu nhân. Nhưng rồi một quyết định mới khiếnấy cứng lại như thể đeo mặt nạ.
“Tôi đã kể hết với ông những gì mình biết.”
Holmes cầm lấy mũ, nhún vai.
“Tôi rất lấy làm tiếc” anh nói. Rồi không thốt thêm một lời nào nữa, chúng tôi rời khỏi phòng, ra về. Trong khu vườn có một cái ao, và bạn tôi lôi tôi đi về phía đó. Mặt ao đóng băng gần hết, và chỉ còn chừa một khoảnh nhỏ dành làm nơi trú đông có một con thiên nga cô độc. Holmes nhìn chòng chọc vào vũng nước nhỏ đó một lúc, rồi đi tiếp về phía cổng vườn. Dừng chân bên cổng, Holmes viết vội một mẩu tin ngắn, trao cho người gác cổng, nhờ chuyển lại cho ngài Stanley Hopkins.
“Chúng ta có thể hoặc trúng đích, hoặc chệch mục tiêu, nhưng đằng nào cũng phải làm được một chút gì giúp ông bạn Hopkins, dù chỉ để thanh minh cho chuyến viếng thăm thứ hai” anh nói “Tuy vậy tôi vẫn chưa dám tiết lộ hết bí mật với ông ấy. Tôi nghĩ, bây giờ nơi kế theo mà ta cần đến để điều tra vụ này là văn phòng của Hãng Hàng hải Adelaide - Southampton.”
Qua viên Giám đốc, Holmes nhanh chóng thu thập được mọi thông tin mà anh cần biết. Vào tháng sáu năm 1895, hãng chỉ có duy nhất một con tàu cập bến Anh quốc. Đó là chiếc “Rock of Gibraltar”, con tàu lớn và đẹp nhất hãng. Bản danh sách hành khách cho thấy: cô Fraser xứ Adelaide cùng bà hầu của cô đã đi chuyến này. Hiện thời con tàu đang chạy ngang qua một nơi thuộc mạn nam kênh Suez, trên hải trình sang úc như lệ thường. Thành phần sĩ quan trên con tàu vẫn giống hệt như hồi năm 1895, ngoại trừ một điều: viên phó thuyền trưởng, ông Jack Croker, đã được đề bạt lên cấp thuyền trưởng và chuyển sang chỉ huy con tàu mới của hãng, chiếc “Bass Rock”, hai ngày nữa sẽ rời Southampton. Viên sĩ quan này hiện sống tại Sydenham, nhưng sáng nay anh ta có lẽ sẽ đến đây, và nếu chúng tôi muốn thì có thể chờ gặp anh ta.
Tuy nhiên, Holmes lại không có ý định gặp mà lại hỏi thêm về lý lịch và hạnh kiểm của anh ta.
Lý lịch của anh ta tuyệt hảo. Trong hạm đoàn, không một sĩ quan nào được đánh giá cao như thế. Còn về hạnh kiểm, tuy anh ta là một người ngông cuồng, liều lĩnh khi lên bờ, nóng nảy, dễ bị kích động, nhưng lại là một sĩ quan đáng tin cậy lúc thi hành phận sự, cương trực, chân thành và tốt bụng. Nắm được những thdó, chúng tôi rời văn phòng hãng Adelaide - Southamton, và vòng tới sở điện tín Charing Cross. Holmes gửi một bức điện, rồi chúng tôi lại quay về phố Baker.
Gần tối, viên thanh tra Staley Hopkins ghé thăm chúng tôi. Công việc của ông rõ ràng chẳng mấy suôn sẻ.
“Ông Holmes, ông quả là một pháp sư. Thỉnh thoảng tôi nghĩ thầm ông có một sức mạnh siêu phàm. Này, nhờ đây mà ông biết được những bộ đồ bằng bạc bị đánh cắp đó chúng đã vứt xuống đáy ao?”
“Thật vậy sao? Thế mà tôi không biết đấy.”
“Nếu vậy thì tại sao ông lại dặn tôi thử mò đấy ao?”
“Ông đã vớt lên được rồi chứ gì?”
“Phải, đúng thế.”
“Tôi rất lấy làm mừng là đã giúp được ông.”
“Nhưng ông có giúp gì tôi đâu! Ông làm cho vụ án rắc rối thêm thì có. Làm gì có thứ kẻ trộm cố vơ vét đồ đạc bằng bạc, lại đem vứt xuống cái ao gần nhất?”
“Quả là một hành vi khá kỳ quặc. Tôi chỉ có ý là chỗ đồ bạc lấy đi chỉ để đánh lạc hướng chúng ta. Vì thế, dĩ nhiên, bọn chúng chỉ muốn vứt bỏ nó đi cho nhanh.”
“Nhưng tại sao ông lại đi đến ý nghĩ đó?”
“Ồ, tôi nghĩ đó là chuyện có thể có được. Khi chúng tẩu thoát qua cái cửa sổ kiểu Pháp, ngay trước mặt chúng đã hiện ra một cái ao. Trên mặt ao lại có một chỗ nước chưa đóng băng đầy sức quyến rũ. Tìm đâu ra một nơi cất giấu tốt hơn thế?”
“À, một nơi cất giấu! Hay quá!” Stanley Hopkins reo lên “Vâng, vâng, giờ thì tôi hiểu hết cả rồi! Dọc đường sẽ có người, chúng sợ chạm trán với họ giữa lúc đang mang mấy bộ đồ ăn bằng bạc, nên chúng vội tẩu tán tang vật xuống ao, chờ dịp thuận tiện sẽ quay lại lấy lên. Tuyệt quá, ông Holmes ạ. Ý tưởng này đắc địa hơn ý tưởng lúc đầu. Nhưng tôi vẫn vướng phải một trở ngại lớn.”
“Trở ngại?”
“Đúng thế, ông Holmes ạ. Băng Randall vừa bị bắt sáng nay tại New York.”
“Trời ơi, ông Hopkins! Vậy thì rõ ràng giả thuyết của ông về việc bọn này gây ra vụ án mạng tại Kent tối qua đã hoàn toàn đổ vỡ.”
“Ông Holmes, đó quả là một đòn chết người, thực sự chết người. Tuy vậy, chắc là còn có nhiều băng trộm khác, ngoài bọn Randall, cũng gồm ba tên, hoặc có một băng mới nào đó nữa, mà cảnh sát chưa hề nghe nói.”
“Có lẽ thế. Rất có thể là đúng thế thật. Nếu vậy thì ông còn phải điều tra tiếp?”
“Vâng, ông Holmes. Tôi còn chưa được nghỉ ngơi chừng nào vẫn chưa làm sáng tỏ ngọn ngành vụ này. Tôi hy vọng ông sẽ vui lòng gợi cho tôi một ý tưởng nào hay hay?”
“Thì tôi đã mách cho ông rồi đấy thôi.”
“Mách gì kia?”
“Phải, tôi đã nói với ông là bọn chúng cố đánh lạc hướng.”
“Nhưng để làm gì, ông Holmes, để làm gì?”
“À, dĩ nhiên, đó chính là vấn đề. Nhưng ông có thể thấy là có một cái gì trong đó. Ông không thể ở lại dùng cơm với chúng tôi à? Vậy thì xin tạm biệt ông, và nhớ cho chúng tôi biết kết quả cuộc điều tra.”
Ăn tối xong, Holmes châm một tẩu thuốc, rồi đưa chân lại gần ánh lửa đang reo vui trong lò sưởi. Thình lình anh liếc nhìn đồng hồ.
“Tôi đang chờ một sự việc nữa xảy ra, Watson ạ.”
“Bao giờ?”
“Chỉ vài phút nữa thôi. hắc lúc này anh đang nghĩ rằng tôi đã đối xử không phải với Stanley Hopkins đúng không?”
“Tôi tin vào sự phán đoán của anh.”
- Một lời đáp thật tế nhị. Watson, anh phải nhìn sự việc theo cách sau đây: những gì tôi biết chỉ mang tính chất riêng tư, còn những gì ông ta biết lại là chuyện công vụ. Tôi có quyền phán đoán theo cách của riêng tôi; còn ông ta thì không thể. Ông ta phải phơi bày hết thảy mọi chuyện, nếu không sẽ bị xem là không làm tròn công vụ. Trong một vụ còn nhiều ngờ vực, tôi không thích đẩy ông ta vào một tình thế khó xử, và vì vậy, tôi phải giữ kín mọi thông tin cho tới lúc nội vụ đã được làm sáng tỏ.”
“Nhưng đến bao giờ thì mới sáng tỏ?”
“Sắp rồi. Anh sắp được chứng kiến màn chót của một vở kịch nhỏ đặc sắc.”
Có tiếng chân lên cầu thang, rồi cửa mở và một người đàn ông trẻ tuổi, cao lớn xuất hiện. Khách là một chàng trai để ria vàng, mắt xanh, da rám nắng. Anh đóng cửa lại, rồi đứng yên, hai tay nắm chặt lại như đang cố nén một cảm xúc mãnh liệt nào đó.
“Mời ông ngồi, thuyền trưởng Croker. Chắc ông đã nhận được bức điện?”
Khách gieo phịch người xuống chiếc ghế bành, rồi đưa cặp mắt dò xét hết nhìn tôi lại nhìn Holmes.
“Tôi vừa nhận được bức điện, và đến đúng giờ ông đã chỉ định trong bức điện. Tôi nghe nói ông có đến đằng văn phòng. Thật chẳng có cách nào lẩn tránh được ông. Tôi sẵn sàng nghe những lời phán xử tồi tệ nhất. Ông định xử lý với tôi thế nào đây? Bắt tôi? Ông nói đi! Chứ đừng ngồi đó mà đùa giỡn với tôi như mèo vờn chuột.”
“Tôi sẽ không ngồi đây phì phèo tẩu thuốc trước mặt ông nếu tôi cho ông là một tên tôi phạm, ông có thể tin chắc như vậy.” Holmes nói “Hãy thành thực với tôi, thì ông và tôi sẽ có thể làm một việc gì tốt đẹp. Còn nếu ông định giở trò lừa gạt tôi, thì tôi sẽ triệt hạ ông ngay.”
“Xin ông cho biết: ông tôi làm gì?”
“Thuật lại một cách trung thực cho tôi nghe những gì đã diễn ra tại Abbey Grange tối qua, không thêm, không bớt. Tôi đã biết đủ tới mức nếu ông kể sai sự thật dù chỉ một chút, là tôi sẽ gọi cảnh sát,và thế là vụ này sẽ vĩnh viễn vuột khỏi tầm tay tôi đấy.”
Chàng thuyền trưởng đăm chiêu một lúc, rồi nắm chặt bàn tay to, rám nắng giáng mạnh một cái xuống đùi.
“Thôi, đành liều vậy.” anh thốt lên “Tôi tin ông là người trọng lời hứa, nên xin kể cho ông nghe hết câu chuyện. Nhưng trước tiên, tôi phải nói diều này. Tôi chẳng ân hận, mà cũng chẳng sợ hãi bất cứ điều gì. Ví thử phải làm lại từ đâu, tôi cũng sẽ làm đúng như vậy, sẽ lấy làm tự hào vì đã làm như thế. Nhưng hễ nghĩ tới chuyện mình sẽ gây rắc rối cho Mary Fraser, là lòng tôi lập tức thấy hãi hùng. Tôi sẵn sàng đổi mạng sống của mình để được nhìn thấy gương mặt thân yêu của nàng một nụ cười tươi vui.
Tôi phải kể lùi câu chuyện lại một chút. Ông hình như đã biết hết mọi chuyện; vì vậy, tôi nghĩ ông đã biết tôi gặp nàng khi nàng là một hành khách, còn tôi là phó thuyền trưởng trên tàu “Rock of Gibraltar”. Ngay từ lần đầu gặp nàng, nàng đã trở thành người phụ nữ duy nhất của đời tôi. Và càng ngày, tôi càng yêu thương nàng hơn trong suốt cuộc hành trình đó. Tôi thường quỳ trong bóng tối và hôn lên boong tàu, vì tôi biết rằng chân nàng đã đi qua đó. Nàng chẳng bao giờ có tình cảm đặc biệt với tôi. Nàng cư xử với tôi tử tế, như bất cứ người đàn bà nào cũng có thể đối xử với một người đàn ông. Tôi không có điều gì phải trách cứ nàng. Về phía tôi là một tình yêu toàn tâm, còn về phía nàng chỉ là thiện cảm và tình bằng hữu. Khi chúng tôi chia tay nhau, nàng vẫn là một cô gái tự do; còn tôi thi không bao giờ còn có thể thấy mình tự do được nữa.
Sau ngày trở về từ chuyến đi kế tiếp, tôi được tin nàng đã lấy chồng. Ồ, sao nàng lại không được quyền lấy người nàng yêu kia chứ? Tôi chẳng đau buồn gì về cuộc hôn nhân đó. Tôi không phải là một kẻ vị kỷ. Tôi chỉ mừng vì hạnh phúc đã mỉm cười với nàng, và khỏi chứng kiến cảnh nàng phải gắn bó đời mình với anh chàng thủy thủ nghèo khổ. Tôi yêu Mary Fraser say đắm đến thế đấy!
Ồ, tôi không bao giờ nghĩ là mình sẽ được gặp lại nàng. Nhưng rồi tôi b được thăng chức sau chuyến đi mới đây. Con tàu mới chưa được hạ thủy; vì vậy, tôi phải về nhà ở Sydenham vài tháng trong lúc chờ đợi. Một hôm, đang đi dạo trên đường làng, tôi bỗng gặp Theresa Wright, bà hầu già của nàng. Bà ta kể cho toi nghe về nàng, về lão ta, về mọi chuyện. Thưa quý ngài, tôi phải cho quý ngài hay rằng tôi suýt phát điên, khi biết gã chó chết nghiện ngập đó đã dám đánh nàng, thiên thần của tôi! Tôi gặp lại bà Theresa. Rồi gặp chính Mary, rồi lại gặp nàng lần thứ hai. Sau đó, nàng không cho tôi gặp nữa. Nhưng gần đây tôi có nhận được một thông báo: một tuần nữa tôi sẽ phải lên đường. Vì thế, tôi quyết định phải gặp lại nàng lần nữa. trước ngay rời Anh quốc. Tôi bao giờ cũng coi bà Theresa như bạn, vì bà cũng yêu Mary và cũng căm ghét cái lão hung ác nọ chẳng thua kém gì tôi. Qua bà ấy, tôi biết rõ đường đi lối lại trong nhà. Mary thường ngồi đọc sách trong căn phòng nhỏ của nàng ở tầng trệt. Tối qua, tôi đi vòng qua đó, rồi cào vào cửa sổ ra hiệu. Thoạt tiên nàng không mở cửa. Nhưng tôi biết bây giờ nàng đã thầm yêu tôi và không nỡ để tôi phải đứng trong bóng tối giá rét. Nàng thầm bảo tôi hãy vòng ra cánh cửa sổ lớn ở phía trước. Tôi thấy cửa đã mở sẵn, để tôi có thể trèo vào phòng ăn. Vâng, thưa quý ngài, tôi đang đứng với nàng bên cửa sổ thì lão ta lao vào, như một thằng điên. Lão chửi nàng một câu thậm tệ, rồi giơ cao chiếc gậy đang lăm lăm trong tay, lão vụt vào mặt nàng. Tôi chồm tới, vớ lấy thanh cời than và giữa hai chúng tôi đã nổ ra một cuộc đọ sức sòng phẳng. Ông nhìn đây, trên tay tôi vẫn còn nguyên dấu vết chiếc gậy của lão, vì lão ra đòn trước. Tôi không chút ân hận. Bởi lẽ đây là chuyện một mất một còn; hoặc là lão, hoặc là tôi. Và hơn thế nữa: hoặc là tính mạng của lão ấy, hoặc là tính mạng của nàng, vì làm sao tôi có thể phó mặc nàng cho cái lão điên rồ ấy? Tôi đã giết lão như vậy đấy. Tôi có sai trái không? ấy, thử hỏi hai ông thì hai ông sẽ làm gì, nếu ở vào địa vị tôi?
Nàng đã thét lên khi bị lão đánh, nên bà Theresa nghe thấy vội chạy xuống. Thấy trong tủ buýp-phê có một chai rượu, tôi liền lấy ra, mở nút, đổ vài giọt vào miệng Mary, vì nàng đang bất tỉnh do bị choáng. Rồi cũng uống một hớp. Bà Theresa thì bình tĩnh như không, và cách khai báo với cảnh sát chính là do tôi và bà ta nghĩ ra. Chúng tôi buộc phải làm cho người ta tưởng vụ án mạng do bọn trộm gây nên. Trong lúc tôi trèo lên cắt sợi dây chuông, thì bà Theresa cứ nhắc đi nhắc lại cho Mary thuộc lòng câu chuyện bịa đặt kia. Sau đó, tôi trói nàng vào chiếc ghế, làm xơ dầu dây cho có vẻ tự nhiên. Nếu không người ta sẽ phải tự hỏi: làm cách nào mà tên trộm có thể leo lên tận đó? Rồi tôi vơ vội một vài bộ ấm chén, thìa đĩa bằng bạc, làm ra vẻ đây là một vụ trộm. Tôi để Mary và bà Theresa ở lại, dặn họ chỉ hô hoán sau khi tôi đã rời khỏi nhà mười lăm phút. Tôi vứt những bộ đồ ăn bằng bạc xuống ao và về lại Sydenham, lòng mãn nguyện vì đã làm một việc tốt thật sự. Đó là sự thật, ông Holmes ạ, dù tôi có phải trả giá cho nó bằng tính mạng của tôi chăng nữa.”
Holmes trầm ngâm hút thuốc và im lặng hồi lâu. Rồi anh tiến đến bắt tay viên thuyền trưởng.
“Tôi biết mỗi lời ông nói ra đều đúng sự thật,” anh nói “vì ông không cho tôi biết thêm một điều gì mới lạ cả. Ngoại trừ một thủy thủ không một ai có thể thắt được những nút buộc chặt đến thế khi trói phu nhân Brackenstall vào chiếc ghế bành. Mà phu nhân thì chỉ mới gặp dân thủy thủ đúng một lần hồi bà đáp tàu sang Anh. Và người đó ắt phải cùng giai tầng với bà; vì bà đã cố che chở, và điều này cho thấy bà rất yêu con người đó. Ông thấy đấy, tôi đã dễ dàng tìm ra dấu vết ông, một khi tôi đã đi đúng đường.”
“Tôi nghĩ rằng cảnh sát sẽ không bao giờ phát hiện được sự thật qua câu chuyện chúng tôi bày ra.”
“Và quả nhiên họ đã không phát hiện được, và tôi không tin là họ sẽ phát hiện được. Thuyền trưởng Croker, vụ này rất nghiêm trọng, tuy tôi sẵn lòng thừa nhận ông đã hành động như một trang quân tử. Tôi rất có thiện cảm với ông, cho nên nếu ông chọn phương án là sẽ rời khỏi Anh quốc sau hai mươi bốn tiếng nữa, tôi xin hứa ông sẽ không bị một ai cản trở.”
“Sau đó ông sẽ báo cho cảnh sát?”
“Dĩ nhiên.”
Sắc mặt viên thuyền trưởng vụt ửng đỏ vì phẫn nộ.
“Sao ông lại đề nghị với tôi kỳ cục như vậy? Tôi biết rõ luật pháp nên thừa hiểu Mary sẽ bị bắt vì tội đồng lõa. Ông tưởng tôi sẽ bỏ mặc nàng để tẩu thoát một mình sao? Ồ, không, thưa ông. Cứ để mặc họ muốn làm gì tôi thì làm, nhưng ông Holmes, xin ông vì Chúa, hãy nghĩ cách giúp Mary tội nghiệp của tôi khỏi phải ra tòa.”
Holmes lại chìa tay lần nữa cho viên thuyền trưởng
“Tôi chỉ thử lòng ông vậy thôi. Được rồi, tôi xin nhận cái trọng trách ông trao cho tôi, nhưng tôi đã cho Hopkins một lời gợi ý rất đáng giá, và nếu ông ấy không biết khai thác cái ý đó, thì tôi không thể làm gì hơn. Nào, thuyền trưởng Croker, bây giờ chúng ta sẽ làm đúng thể thức của tòa án. Ông là bị cáo, còn Watson, anh là bồi thẩm đoàn, tôi không thấy ai thích hợp hơn anh để đảm nhận vai này. Tôi là chánh án. Vâng, thưa các vị trong bồi thẩm đoàn, các vị đã nghe lời khai, các vị thấy bị cáo có tội hay vô tội?
“Vô tội!” tôi nói.
“Vậy ông được trắng án, thuyền trưởng Croker ạ. Và trong khi luật pháp chưa tìm được một con mồi nào khác, thì ông được hoàn toàn bình yên vô sự từ phía tôi.”
[1] xấp xỉ 3,8 cm.
[2] khoảng 8 cm.
13. Vết máu thứ hai
(The Adventure of the Second Stain-1904)
Một buổi sáng của mùa thu, trong căn hộ chúng tôi xuất hiện hai người nổi danh khắp châu Âu... Người thứ nhất mũi cao, mắt diều hâu, có cái nhìn trịch thượng, trông nghiêm khắc và kiêu kỳ. Đó là huân tước Bellinger, người hai lần giữ chức Thủ tướng. Người thứ hai tóc đen, hơi thấp, có khuôn mặt cân đối. Người ông ta toát ra một vẻ lịch thiệp, trang nhã. Đó là bá tước Trelawney Hope, phụ tá đặc trách đối ngoại Âu châu.
Hai vị khách ngồi cạnh đi-văng. Đôi tay gầy gò của Thủ tướng bóp chặt lấy cái cán dù. Ông h́t nhìn Holmes lại nhìn tôi, buồn rầu và lo ngại. Người phụ tá thì gảy gảy những đồ trang sức trên dây đồng hồ.
- Ông Holmes, tôi đã bị mất cắp. Tôi báo cho Thủ tướng và ngài muốn gặp ông.
- Ông không báo cảnh sát sao?
- Không - Thủ tướng lên tiếng - Không báo và sẽ không báo. Báo cho cảnh sát nghĩa là công bố sự việc. Mà chúng tôi muốn né tránh việc này.
- Vì sao, thưa ngài?
- Tài liệu quan trọng tới mức nếu công bố nó, thì có thể dẫn đến một cuộc xung đột có tính quốc tế. Có thể nới rằng vấn đề chiến tranh và hòa bình phụ thuộc vào tài liệu này. Nếu đi truy tìm mà không giữ bí mật thì không nên truy tìm.
- Tôi hiểu. Còn bây giờ, ông Trelawney Hope, tôi sẽ rất biết ơn ông, nếu ông kể cho tôi nghe tài liệu bí mật mất trong trường hợp nào.
- Đó là bức thư của một nguyên thủ nước ngoài đến cách đây sáu ngày. Bức thư có ý nghĩa hệ trọng đến nỗi tôi quyết định không cất nó trong cái tủ chống cháy của chính phủ. Chiều đến tôi mang nó về nhà tôi, tại Whitehall Terrace, cất trong cái tráp, đặt ở trong phòng ngủ của tôi. Tráp này chuyên dùng để cất giữ những tài liệu quan trọng. Chiều hôm qua, lá thư vẫn nằm ở đấy. Khi mặc quần áo đi ăn trưa, tôi lại mở tráp ra và tài liệu vẫn còn nguyên. Thế mà sáng nay nó biến mất. Suốt đêm, cái tráp được đặt ngay cạnh giường trên bàn rửa mặt của tôi. Tôi ngủ rất tỉnh, vợ tôi cũng vậy. Cả hai chúng tới thề rằng không một ai vào phòng ban đêm cả.
- Ông ăn tối lúc mấy giờ?
- 7 giờ 30.
- Ông đi ngủ khi nào?
- Vợ tôi đi xem hát. Tôi chờ cô ấy. Gần 12 giờ chúng tôi đi vào phòng ngủ.
- Nghĩa là trong khoảng gần bốn giờ đồng hồ tráp không được một ai bảo vệ
- Không một ai được phép vào phòng ngủ ngoài nữ hầu phòng người hầu và vợ tôi. Tuy nhiên, cả hai người này đều là những gia nhân đáng tin cậy. Hơn nữa họ không hề biết trong tráp đựng thứ gì.
- Ai biết có lá thư này?
- Trong nhà tôi, không một ai biết cả.
- Thế nhưng, vợ ông biết chứ?
- Không, thưa ông! Sáng hôm nay, khi không tìm thấy lá thư, tôi cũng không nói gì với vợ tôi cả.
Thủ tướng gật đầu tán đồng:
- Tôi biết ông luôn có một ý thức trách nhiệm rất cao.Trong công việc này, ý thức đó còn cao hơn nữa, ngay cả với gia đình...
Người phụ tá cúi chào.
- Thật vậy, thưa ông! Sáng hôm nay, tôi không hề nói một lời về lá thư với vợ tôi.
- Bản thân phu nhân liệu có đoán ra không?
- Không, cô ấy không thể đoán được. Thêm vào đó, không thể có ai đoán được.
- Trước đây, có khi nào ông bị mất tài liệu không?
- Không, thưa ông.
- Có ai ở nước Anh biết lá thư này không.
- Các thành viên của nội các đã được thông báo về lá thư. Nhưng việc yêu cầu giữ bí mật được Thủ tướng nhấn mạnh bằng lời cảnh cáo nghiêm khắc. Nhưng ai mà ngờ rằng chỉ vài giờ sau đó, chính tôi đã làm mất nó.
Sự tuyệt vọng đã làm cho khuôn mặt của người phụ tá thay đổi nhiều. Ông vò đầu ân hận. Trong khoảnh khắc hiện ra trước chúng tôi là những tm chân chính của một con người bồng bột, nhiệt thành. Tuy nhiên, ngay sau đó cái nét kiêu kỳ lại hiện lên trên khuôn mặt ông ta. Với giọng điềm tĩnh, ông tiếp:
- Ngoài các thành viên của nội các còn có hai hoặc ba quan chức của ban biết sự hiện diện của bức thư. Còn ngoài ra, trong cả nước Anh, không một ai biết.
- Thế còn ở nước ngoài?
- Ở nước ngoài, tôi cũng tin là không một người nào biết lá thư, trừ tác giả của nó. Ngay cả các bộ trưởng của quốc gia đó cũng không biết.
Holmes ngẫm nghĩ ít phút rồi nói:
- Bây giờ, tôi cần biết cái gì ở đằng sau tài liệu? Vì sao việc lấy lá thư sẽ đem tới những hậu quả nghiêm trọng?
Hai nhà hoạt động chính trị nhìn nhau rất nhanh.
Thủ tướng chau mày:
- Bức thư nằm trong phong bì màu xanh da trời, dài và hẹp. Dấu đóng trên xi màu đỏ có hình sư tử đang ở thế tiến công. Địa chỉ được viết bằng những nét cứng và đậm...
- Những chi tiết này tất nhiên là rất thú vị và quan trọng - Holmes ngắt lời Thủ tướng - Có điều tôi cần biết về nội dung của lá thư. Lá thư nói về chuyện gì?
- Đó là bí mật quốc gia. Tới e không thể trả lời ông được hơn nữa, tôi chưa rõ điều ông hỏi cần thiết ở chỗ nào. Nếu bằng tài năng hiếm thấy như người ta thường nói về ông, thì ông sẽ có thể tìm được chiếc phong bì cùng với lá thư ở trong đó. Ông sẽ xứng đáng với lòng biết ơn của đất nước, và sẽ nhận bất kỳ phần thưởng nào mà khả năng chúng ta cho phép.
Holmes mỉm cười và đứng dậy:
- Tất nhiên ngài là một trong những người bận rộn nhất nước. Nhưng nghề nghiệp đã tước mất khá nhiều thời gian của tôi. Rất tiếc là trong công việc này, tôi không hữu ích cho ngài, và tôi coi sự tiếp x trò chuyện giữa chúng ta là sự tiêu phí thời giờ vô ích.
Thủ tướng nhổm phắt dậy. Trong đôi mắt sâu của ông lóe lên một ngọn lửa:
- Tôi không quen... Thưa ông! - Ông bắt đầu nói. Tuy nhiên sau khi tự trấn tĩnh được, ông lại ngồi xuống. Chúng tôi ngồi im lặng đến một phút. Sau đó ông siết chặt lấy vai mình
- Ông Holmes, ông hoàn toàn đúng. Thật là vô lý nếu chờ đợi sự giúp đỡ của ông mà chưa tin ông.
- Tôi tán thành với ngài! - Nhà ngoại giao trẻ tuổi nói.
- Được, tôi sẽ nói cho ông nghe tất cả. Tôi tuyệt đối trông cậy vào lòng trung thành và lòng yêu nước của các ông.
- Ngài có thể hoàn toàn tin vào chúng tôi.
Chuyện thế này, đó là bức thư của một vị nguyên thủ nước ngoài. Ông ta tỏ ra lo ngại bởi sự mở rộng thuộc địa gần đây của nước ta. Bức thư được viết vào giây phút bực bội. Sự tìm hiểu tin tức đã chỉ rõ rằng các bộ trưởng của ông cũng không hay biết gì về lá thư. Lời lẽ trong thư rất gay gắt, một vài câu mang tính khiêu khích. Vì vậy, nếu lá thư được công bố, dư luận sẽ xao động, đất nước chúng ta sẽ bị cuốn hút vào một cuộc chiến tranh lớn.
Holmes viết tên một người trên mảnh giấy và đưa cho Thủ tướng coi.
- Ông ta đấy. Bức thư có khả năng cuốn theo nó những chi phí khổng lồ, sự hủy diệt hàng trăm nghìn người - Thủ tướng nói.
- Ngài đã báo tin cho người viết lá thư chưa?
- Báo rồi. Bức thư viết bằng mật mã và được chuyển đi.
- Nhưng rất có thể ông ta đã tính đến chuyện công bố lá thư?
- Không. Chúng tôi có cơ sở để tin rằng ông ấy đã hiểu được tính thiếu thận trọng và sự bồng của mình.
- Việc công bố lá thư là quả đấm mạnh sẽ giáng vào ông ta. Nếu vậy, người ta đánh cắp nó để làm gì?
- Ông Holmes, thế là ông buộc tôi phải nói tới tình hình chính trị thế giới. Ông đã thấy châu Âu là một trại lính được vũ trang. Có hai liên minh cân bằng về lực lượng đang tồn tại. Nước Anh thi hành chính sách trung lập. Nếu chúng ta bị lôi kéo vào một cuộc chiến tranh với một liên minh thì liên minh kia sẽ có ưu thế hơn. Hơn thế, điều này không phụ thuộc vào việc liên minh thứ hai có tham gia hay không tham gia vào cuộc chiến...
- Vậy là những kẻ thù của vị này, những người muốn thấy có sự hiềm khích giữa ông ta với chúng ta, rất quan tâm đến lá thư?
- Đúng vậy.
- Nếu tài liệu rơi vào tay đối phương thì ai có thể chuyển nó đến bất cứ chính phủ nào ở châu Âu. Rất có thể hiện giờ bức thư đang lao đi với tốc độ chỉ có tàu thủy mới đuổi kịp? Người phụ tá đứng cúi đầu với một tâm trạng nặng nề. Thủ tướng nhẹ nhàng đặt tay lên vai ông ta:
- Nỗi bất hạnh đã xảy ra với ông bạn của tôi. Không ai có ý định kết tội ông đâu. Chúng ta sẽ áp dụng mọi biện pháp để phòng ngừa… Bây giờ, ông khuyên chúng tôi nên làm gì?
Holmes lắc đầu buồn rầu:
- Thưa ngài! Nếu tài liệu này không được hoàn lại thì chiến tranh sẽ xảy ra?
- Chắc chắn như vậy!
- Nếu vậy, hãy chuẩn bị cuộc chiến thôi?
- Đây là những lởi tàn nhẫn, ông Holmes.
- Hãy chú ý đến sự thật, thưa ngài. Tôi không tin là bức thư bị mất sau 12 giờ khuya đâu. Vì từ lúc ấy cho đến khi phát hiện ra, ông Hope và phu nhân đều ở trong phòng ngủ. Thế nghĩa là tài liệu bị mất vào tối qua trong khoảng từ 7 giờ rưỡi tới 12 giờ, bởi kẻ cắp khi ở đâu, tất nhiên hắn sẽ gắng đoạt lấy nó sớm nhất. Còn nếu tài liệu bị mất vào hôm qua thì hiện giờ nó ở đâu? Kẻ cắp đã nhanh chóng chuyển cho người đang quan tâm. Vậy thì chúng ta còn có cơ hội nào để tóm được hắn hoặc lần ra dấu vết của hắn trên đất nước của chúng ta.
Thủ tướng đứng dậy:
- Ông lập luận rất logic. Tôi thấy quả thực không nên làm gì ở đây nữa.
- Ví như chúng ta cho rằng người hầu ăn cắp tài liệu?
- Họ là những gia nhân quen thuộc và đáng tin cẩn.
- Phòng ngủ ở gác ba và không có lối riêng ăn thông ra ngoài phố. Vậy thì không ai có thể trèo lên cửa trước của căn phòng mà không bị để ý. Nghĩa là có một người nào đó ở trong nhà đã phạm tội. Kẻ cắp có thể chuyển nó cho ai? Chỉ có thể chuyển cho một trong những điệp viên quốc tế mà tôi biết rõ tên của họ. Ba người có thể nói là cầm đầu bọn này. Tôi sẽ bắt đầu tìm xem một trong số ba người đó. Nếu một người nào đó trong bọn họ đã đi khỏi thành phố và nhất là đã ra đi vào chiều hôm qua thì chúng ta sẽ biết tài liệu này biến đi đâu.
- Vì sao người đó phải ra đi? - Người phụ tá hỏi - Hắn có thể mang bức thư tới một đại sứ quán nào đó ở London chứ?
- Các điệp viên này thường có những quan hệ rất căng thẳng với các đại sứ quán.
Thủ tướng gật đầu khẳng định điều đó:
- Tôi nghĩ ông rất có lý. Hắn sẽ tự tay mình mang lá thư. Kế hoạch hành động của ông, tôi cảm thấy tuyệt đối chính xác. Tuy nhiên, ông Hope, ông đừng vì chuyện này mà quên đi những trách nhiệm khác của chúng ta.
Các vị khách cúi chào rất trân trọng rồi rời khỏi căn phòng.
Holmes bắt đầu im lặng. Thời gian trôi đi. Anh mê mải với những suy tưởng của mình. Tôi giở các báo buổi sáng đọc bài nói về một tội ác vừa xảy ra vào chiều hôĐột nhiên, bạn tôi nhổm phắt dậy, đặt tẩu thuốc lên lò sưởi, kêu lên:
- Đúng. Tình thế rất căng thẳng nhưng chưa hết hy vọng. Bây giờ cần biết ai là kẻ ăn cắp. Suy cho cùng, chỉ có tiền mới làm bọn hắn quan tâm. Ngân khố của nhà nước sẽ giúp tôi. Nếu hắn bán, tôi sẽ mua... Rất có thể hắn còn giữ bức thư. Hắn cần biết ở đây người ta trả giá bao nhiêu trước khi đem bán ở nước ngoài. Chỉ ba người có khả năng dự vào trò chơi này. Đấy là Oberstein, La Rothiere, và Eduardo Lucas. Tôi sẽ tới thăm họ.
Tôi liếc vào tờ báo buổi sáng.
- Eduardo Lucas ở phố Godolphin phải không ?
- Đúng rồi.
- Anh không thể tới thăm hắn ta được?
- Tại sao?
- Hắn đã bị giết rồi.
Holmes sửng sốt, dán mắt vào tôi, vẻ hoài nghi. Sau đó anh giật lấy tờ báo.
“Vụ giết người ở Westminster.
Chiều hôm qua, tại ngôi nhà số 16 phố Godolphin, đã xảy ra một án mạng. Phố Godolphin là một trong những con đường yên tĩnh trải dài giữa dòng sông và tu viện Westminster. Phần lớn những ngôi nhà ở đây được xây vào cuối thế kỷ XVIII. Ông Eduardo Lucas nổi tiếng trong xã hội như một người dễ mến, một trong những giọng hát nam cao được ưa chuộng nhất. Ông đã sống nhiều năm liền tại một biệt thự nhỏ trên phố này. Ông 34 tuổi, chưa lập gia đình. Người hầu của ông gồm người quản gia, bà Pringle và người hầu Mitton. Bà Pringle thường không làm vào buổi chiều. Bà ta lên phòng mình ở gác thượng rất sớm. Còn chiều hôm đó, người hầu đi thăm một người bạn ở Hammersmith.
Từ 10 giờ, ông Lucas ở một mình trong ngôi nhà. Cho tới bây giờ, chưa ai rõ chuyện gì đã xảy ra trong thời gian ấy. Nhưng lúc 12 giờ kém 15, viên cảnh sát tuần tra Barrett khi đi tuần qua phố Godolphin, thấy cửa ngôi nhà số 16 bị mở toang. ông gõ cửa, nhưng không có tiếng, ông bước vào hành lang và gõ cửa một lần nữa. Vẫn không có ai trả lời. Khi đó ông đẩy cửa bước vào.
Căn phòng rất hỗn độn. Tất cả đồ gỗ bị xê dịch về một phía, một chiếc ghế nằm lỏng chỏng ở ngay giữa nhà. Chủ nhà nằm cạnh chiếc ghế. Ông bị giết bằng một nhát dao xuyên thẳng vào tim. Vũ khí giết người là con dao găm Ấn Độ được lấy từ bộ sưu tập vũ khí phương Đông trang trí trên một bức tường của căn phòng. Kẻ giết người không phải với mục đích ăn trộm, bởi vì toàn bộ đồ đạc trong nhà vẫn còn nguyên vẹn.
Ông Eduardo Lucas là một người danh tiếng. Cái chết này đã gây ra nỗi đau xót cho các thân hữu của ông”.
- Watson, anh nghĩ gì về chuyện này?
- Một sự trùng hợp kỳ lạ!
- Một trong số ba người có khả năng tham dự vào tấn kịch này đã bị chết. Thật là một sự trùng hợp kỳ lạ! Không. Hai sự việc này chắc chắn có liên quan với nhau, chúng ta phải tìm cho ra mối liên hệ này.
- Nhưng rồi cảnh sát sẽ biết tất cả.
- Không. Họ chỉ biết những gì mà mọi người đều biết ở phố Godolphin thôi? Chỉ có chúng ta mới rõ cả hai trường hợp. Có một điểm làm cho tôi nghi ngờ Lucas. Phố Godolphin, Westminster chỉ nằm cách Whitehall Terrace vài bước đi bộ. Những điệp viên khác thì sống ở cuối West End. Cho nên, Lucas dễ nhận được tin từ nhà ông phụ tá hơn những người kia. Đây là điểm nhỏ, nhưng nếu tính đến sự khai triển với tốc độ nhanh thì nó có thể biến thành điểm chủ yếu. A! Lại có điều gì mới chăng!
Bà Hudson xuất hiện, mang chiếc khay trên có một tấm danh thiếp phụ nữ. Holmes nhìn bà, nhíu lông mày và chuyển cho tôi.
- Hãy mời phu nhân Hilda Trelawney Hope vào. - Holmes nói.
Chỉ một thoáng sau, một trong những người phụ nữ đẹp nhất London bước vào căn hộ chúng tôi. Tôi thường nghe nói về vẻ đẹp của người con út của công tước Belminster, nhưng không một sự mô tả nào có thể truyền đạt được vẻ duyên dáng của bà. Tuy nhiên, vào buổi sáng mùa thu này, vẻ đẹp của bà conét gì khang khác; khuôn mặt bà lấp lánh, nhưng ánh mắt đỏ như đang lên cơn sốt. Cái miệng tình tứ khép chặt lại. Bà đang cố gắng tự trấn tĩnh.
- Chồng tôi đã ở chỗ ông, phải không, ông Holmes?
- Vâng.
- Ông Holmes, tôi van ông, ông đừng nói cho chồng tôi biết là tôi đã đến đây.
Holmes cúi chào lạnh nhạt:
- Vẻ lộng lẫy của bà đặt tôi vào một tình huống rất khó xử. Mời bà ngồi xuống đây và nói cho tôi biết bà cần gì. Song đáng tiếc là tôi không thể đem lại những lời hứa - Holmes nói.
- Ông Holmes. Tôi biết là ở tại nhà chúng tôi có một tài liệu nào đó đã bị thất lạc. Nhưng vì nó đụng đến vấn đề chính trị nên chồng tôi không nói gì với tôi. Tôi van ông, ông giải thích cho tôi biết cái gì đã xảy ra và hậu quả nó như thế nào?
- Bà đã đòi hỏi ở tôi cái điều vượt quá khả năng của tôi .
Bà ta thở dài rồi lấy tay ôm mặt.
- Bà cần hiểu tôi hơn, thưa bà! Nếu chồng bà đã không cho bà biết việc này thì bà tìm hiểu làm chi? Thậm chí bà cũng không nên hỏi nơi tôi. Bà nên hỏi chồng bà.
- Tôi đã hỏi anh ấy. Thôi, nếu ông không muốn nới thì thôi Nhưng mong ông vui lòng trả lời một câu hỏi khác.
- Câu hỏi như thế nào.
- Do vụ này, sinh mạng chính trị của chồng tôi có bị tổn thất không?
- Nếu công việc không được thu xếp ổn thỏa thì nó sẽ dẫn tới các hậu quả nghiêm trọng.
Bà thở dài.
- Những hậu quả ấy như thế nào?
- Tôi không đủ sức trả lời câu hỏi này.
- Nếu thế, tôi sẽ không làm phí thời giờ của ông nữa. Tôi thực lòng muốn chia sẻ sự lo lắng với chồng tôi. Một lần nữa, yêu cầu ông đừng nói với chồng tôi về chuyện gặp gỡ hôm nay.
Đến ngưỡng cửa, bà ngoảnh đầu lại và một lần nữa tôi nhìn thấy khuôn mặt đẹp, xúc động, đôi mắt lo sợ và cái miệng xinh xắn mím chặt lại. Sau đó bà biến mất.
- Watson này, phái đẹp là một phần của cuộc đời anh - Holmes vừa cười vừa nói khi cánh cửa được đóng mạnh lại và tiếng sột soạt của váy phụ nữ đã im bặt - Người đàn bà này muốn gì đây?
- Bà ta lo sợ cho chồng là điều dĩ nhiên.
- Hãy hình dung lại khuôn mặt bà ta: nỗi lo sợ mất bình tĩnh và lòng kiên nhẫn.
- Đúng, bà ấy rất lo lắng.
- Đồng thời bà đã cố gắng thuyết phục chúng ta tin rằng bà ta hành động chỉ xuất phát từ lợi ích của chồng mình, và vì vậy bà ta cần biết hết thảy mọi chuyện. Qua việc đó bà ta muốn nói gì? Có lẽ anh cũng nhận ra là bà đã cố ý ngồi quay lưng về phía ánh sáng. Bà không muốn để chúng ta nhìn thấy rõ mặt bà.
- Đúng vậy, bà ấy đã ngồi chính chỗ này.
- Nói chung, đàn bà thật khó hiểu. Rất nhiều điều được che đậy ở đằng sau các hành vi bình thường nhất của đàn bà mà thôi. Chào Watson nhé!
- Anh đi à?
- Vâng. Tôi đến phố Godolphin vì vụ Lucas để một chút manh mối nào đó. Anh hãy tiếp khách giùm tôi nhé.
Suốt ngày hôm đó và hai ngày tiếp theo, Holmes im lặng như những hạt gạo. Anh đi, rồi lại về, hút thuốc liên miên, kéo vi-ô-lông với những giai điệu du dương, hay trầm ngâm nghĩ, ăn bánh sandwich bất kỳ lúc nào và trả lời nhát gừng các câu hỏi của tôi. Tôi hiểu anh chưa đem lại kết quả. Anh không hề kể cho tôi nghe về điều gì. Chỉ qua báo chí, tôi mới được biết người ta bắt giữ John Mitton, gia nhân của người quá cố.
Cuộc điều tra đã xác minh đây là vụ giết người có chủ tâm từ trước, thế nhưng vẫn chưa tìm ra được động cơ phạm tội. Trong phòng có nhiều vật dụng giá trị, nhưng không mất một thứ nào. Giấy tờ của người quá cố cũng không bị đụng đến. Người ta xem xét chúng tỉ mỉ và xác nhận người quá cố rất quan tâm đến tình hình thế giới. Ông ta quen biết những nhà hoạt động chính trị danh tiếng của một vài nước. Có điều trong các tài liệu chất đầy ngăn bàn ông ta, không tìm thấy cái gì đáng quan tâm. Đối với phụ nữ, ông ta quen nhiều nhưng không yêu một ai. Cái chết của ông còn là một câu hỏi bí ẩn.
Việc tạm giam người hầu Mitton cũng chỉ là biểu hiện của sự bế tắc. Không có yếu tố chống lại anh ta. Chứng cớ ngoại phạm rất đầy đủ. Vào chiều hôm đó, Mitton đi thăm bạn bè ở Hammersmith và về tới nhà lúc 12 giờ. Tuy nhiên, anh đã thực sự xúc động trước tấm thảm kịch bất ngờ. Mitton luôn có quan hệ thân tình với chủ nhà. Một vài vật dụng của người quá cố - ví như hộp dao cạo râu - được tìm thấy trong va-li của người hầu, nhưng anh nói rõ đấy là quà của ông chủ. Bà quản gia cũng đã khẳng định điều này. Mitton phục vụ trong nhà Lucas được ba năm. Đáng lưu ý là Lucas không bao giờ cho Mitton cùng đi với mình ra nước ngoài. Đôi khi ông sống liên tục ở Paris suốt ba tháng liền, thế mà vẫn để Mitton ở lại trông nom nhà cửa.
Theo báo chí thì đã ba ngày rồi, các bí mật vẫn còn nguyên. Mặc dầu Holmes biết nhiều hơn báo chí, song anh vẫn không kể cho tôi nghe điều gì cả. Chỉ có một lần, nhân câu chuyện hàng ngày, anh có nói rằng thanh tra Lestrade đã đưa anh vào thực chất của vấn đề. Do vậy tôi hiểu anh đã nắm bắt được nhiều tin tức mới. Bước sang ngày thứ tư, có một bức điện dài từ Paris chuyển đến:
Báo “Daily Tétégraph” viết: “Cảnh sát Paris đã vén bức màn bí mật về cái chết của ông Eduardo Lucas.
Bạn đọc còn nhớ rằng thi thể của ông được phát hiện ra trong căn phòng cùng với con dao găm, rằng mối ngờ vực đã đổ xuống đầu người hầu phòng, song anh ta đã chứng minh được tình trạng ngoại phạm
Hôm qua, gia nhân của bà Henri Fournaye[1], người đang sống ở Paris, tại đường Auterlitz, đã nói với cảnh sát rằng bà chủ của mình bị điên. Các khám nghiệm đã chứng tỏ rằng bà ta thực sự mất trí. Trong lúc điều tra, cảnh sát xác minh là vào thứ ba vừa rồi, bà ta trở về sau chuyến đi tới London. Có nhiều cơ sở cho rằng chuyến đi này có liên quan đến án mạng tại Westminster. Sự đối chiếu các bức ảnh cho phép khẳng định chồng bà, ông Henri Fournaye và ông Eduardo Lucas chỉ là một, và không rõ vì sao người quá cố đã sống hai cuộc đời ở London và ở Paris.
Bà Fournaye là người gốc Âu Mỹ, có tính cách rất dễ bị kích động, do vậy thường không hoàn toàn làm chủ được mình. Đây có thể là nguyên nhân của bi kịch đã xảy ra ở London. Sáng thứ ba, có một người đàn bà rất giống bà ta đứng trên sân ga Charing Cross với tâm trạng bị kích động mạnh. Cho nên, rất có thể chồng bà chết là do bà gây ra trong cơn điên loạn, hoặc cái chết ấy đã tác động đến bà, khiến bà bị mất trí, vẫn chưa có hy vọng bà sẽ khỏi bệnh. Có nhiều tin tức cho hay rằng vào chiều thứ hai có một người đàn bà nào đó - có thể là bà Fournaye, - đã đứng quanh ngôi nhà trên đường Godolphin chừng vài tiếng đồng hồ...”.
Tôi đọc bức điện cho Holmes nghe khi anh dùng xong bữa điểm tâm.
- Anh Watson, anh là người kiên nhẫn vô cùng. Ba ngày vừa rồi tôi chưa kể điều gì cho anh nghe, chỉ vì không có gì để kể. Ngay bây giờ các tin tức từ Paris vẫn chưa giúp chúng ta bao nhiêu.
- Thế nhưng cái chết của người ấy hiện giờ đã hoàn toàn được sáng tỏ.
- Cái chết ấy chỉ là một phần rất nhỏ so với nhiệm vụ của chúng ta. Chúng ta phải tìm cho được bức thư và cứu châu Âu ra khỏi thảm họa chiến tranh. Trong ba ngày vừa qua, chỉ có một sự kiện đáng lưu ý là: chưa có cái gì xảy ra cả. Khắp châu Âu chưa có dấu hiệu bất an. Lẽ nào bức thư bị thất lạc… Nếu nó chưa bị thất lạc thì hiện giờ nó ở đâu? Tại sao người ta lại cất giữ nó? Phải chăng Lucas bị giết đúng vào cái buổi tối bị mất lá thư? Nói chung, bức thư có ở chỗ hắn ta hay không? Nếu có, thì vì lẽ gì lại không tìm thấy nó? Tại sao người vợ điên loạn của Lucas lại không mang nó theo mình? Nếu bà ta mang lá thư đi thì vì lẽ gì nó không có ở chỗ bà tại Paris? Tôi có thể tìm nó ở đấy mà không làm cho cảnh sát Phá được chăng? Nếu như tôi thành công trong việc này thì nghề nghiệp của tôi sẽ kết thúc một cách hiển hách... À đây rồi. Cái tin tức mới nhất từ những cảnh sát tiên phong - Anh liếc nhanh vào mẫu thư chuyển cho anh - A ha! Hình như Lestrade đã tìm ra một điều gì thú vị sao đó Watson, chúng ta cùng đi đến Westminster.
Trước tiên, chúng tôi đến nơi xảy ra án mạng. Đó là ngôi nhà cao, mặt tiền hẹp, trông không đẹp lắm. Khuôn mặt Lestrade lấp ló qua cửa sổ. Viên cảnh sát mở cửa ra và ông ta thân mật chào chúng tôi.
Căn phòng chúng tôi bước vào chính là nơi Lucas bị giết, có điều giờ đây dấu tích của tội ác không còn nữa, ngoài vết máu hiện rõ trên tấm thảm. Chiếc thảm là một miếng nỉ dày, hình vuông. Bộ sưu tập vũ khí nổi tiếng treo lơ lửng trên lò sưởi.
- Ông đã được nghe những tin tức mới từ Paris chưa? - Lestrade hỏi.
Holmes gật đầu.
- Lần này các bạn Pháp đã nói trúng cái điều cần thiết. Vụ giết người tất nhiên đã diễn ra đúng như họ trình bày. Vợ ông ta gõ cửa và ông ta đưa bà vợ vào nhà. Bà ấy đã kể cho ông ta nghe là đã tìm thấy ông ta bay bướm như thế nào, rồi sau đó mắng sa sả vào mặt chồng. Sau đấy, nhân có con dao găm trong tay, bà nhanh chóng đi đến kết thúc. Mọi chuyện diễn ra cố nhiên phải ngay một lúc vì tất cả chiếc ghế được chất thành đống. Một chiếc ghế nằm trong tay ông ta, hình như ông ta có dùng chiếc ghế này để tự vệ.
Holmes nhướn lông mày:
- Ông có tin tức gì cho tôi đấy?
- Ồ, đây là chuyện khác, một chuyện đáng khả nghi.
- Chuyện gì !
- Sau khi được báo tin, chúng tôi đến đây, cẩn thận canh giữ hiện trường; đồ đạc được giữ nguyên như cũ. Sáng hôm nay, sau khi người chết đã được mai táng và việc xem xét căn phòng này đã kết thúc, chúng tôi cho thu dọn đồ đạc trong phòng, xếp lại cho nó ngăn nắp. Và tấm thảm này nó không được dính chặt xuống nền nhà mà chỉ đặt sơ sài trên đó. Vô chúng tôi nâng nó lên và tìm thấy...
- Thấy? Thấy cái gì? ...
Sự quan tâm hiện rõ trên khuôn mặt Holmes.
- Ồ! Ông có nhận ra vết máu trên tấm thảm này không? Quả thật phải có một lượng máu đáng kể mới thấm qua tấm nỉ như thế này.
- Phải.
- Hãy hình dung rằng trên sàn ván, ở chỗ ngay tấm thảm đặt lên mà lại không có một dấu máu nào.
- Không có dấu máu? Sao vậy? Phải có chứ?
- Đúng như ông nghĩ. Vậy mà nó không có, mới là kỳ lạ ông ta khẽ nâng rìa tấm thảm lên. Và chúng tôi thận thấy trên sàn ván, nơi tiếp xúc với tấm thảm, không có vết máu.
- Thế nhưng, mặt dưới của tấm thảm cũng bị vấy máu nhiều như ở mặt trên kia mà. Phải có một mặt nào đó lưu lại dấu vết trên sàn nhà chứ!
Nhận thấy vẻ ngạc nhiên của người chuyên gia nổi tiếng, Lestrade cười hì hì khoái trá:
- Vết máu trên sàn ván cũng có đấy, nhưng nó không nằm ở vị trí đó. Hãy nhìn coi?
Vừa nói, ông ta khẽ lật phía điểm khác của tấm thảm lên. Quả thật trên những ô vuông sáng bóng của sàn ghép gần phía cánh cửa, chúng tôi nhìn thấy một vệt đỏ loang lổ.
- Ông nói gì về điều này, ông Holmes?
- Ở đây mọi chuyện thật đơn giản. Hai vết máu vẫn hoàn toàn trùng lên nhau. Nhưng tấm thảm đã bị lật trở lại Vì rằng tấm thảm hình vuông và không được ghìm chặt xuống nền nhà nên chuyện đó là rất dễ.
- Ông Holmes, chuyện đó hoàn toàn hiển nhiên. Nếu đặt tấm thảm y vào vị trí cũ thì vết bẩn, một ở mặt trên tấm thảm và một ở trên sàn ván, bắt phải chồng lên nhau. Còn tôi xin hỏi ông: Ai đã lật tấm thảm lên? Và người ấy lật lên để làm gì?
Holmes cố gắng kiềm chế nỗi xúc động đang xâm chiếm lấy mình.
- Ông Lestrade! Người cảnh sát đứng ở hành lang luôn luôn trực ở đây, phải không?
- Vâng.
- Tôi khuyên ông thế này vậy: Hãy hỏi hắn đến nơi đến chốn. Nhưng chúng tôi sẽ không chứng kiến. Chúng tôi chờ ở đây. Hãy nói vì sao hắn dám cả gan cho một người nào đó vào đây và để cho người ấy ở lại một mình trong phòng này. Hãy nói với hắn là ông đã biết rõ như vậy. Hãy đe dọa hắn. Hãy nói rằng chỉ có sự thú thực mới có thể giúp hấn chuộc lỗi lầm.
- Tôi thề là tôi sẽ ép hắn đến cùng.
Ông chạy vào phòng bên cạnh. Chỉ sau một phút, chúng tôi đã thấy tiếng quát tháo ầm ĩ.
- Mau lên. Watson mau lên - Holmes cuống quít.
Tất cả sức lực siêu nhiên trong người Holmes đột ngột trỗi dậy. Anh lật tấm thảm lên, quỳ xuống bắt đầu lần từng ô vuông gỗ lát sàn dưới chân mình. Một ô vuông đã văng ra. Đó là một nắp hộp nhỏ, phía dưới có một lỗ tối om. Holmes thọc tay vào đó. Thế nhưng, sau khi lôi chiếc hộp ra, anh bắt đầu rên lên vì buồn bực và thất vọng, chiếc hộp trống không.
- Nhanh lên Watson! Hãy đặt nó vào chỗ cũ!
Chúng tôi vừa kịp giấu chiếc hộp và đặt tấm thảm lên thì đã nghe thấy giọng của Lestrade ở ngoài hành lang. Khi ông ta bước vào, Holmes đã tựa vào lò sưởi với vẻ ngạo mạn, phớt đời.
- Xin lỗi, không biết điều gì đã giữ chân ông ở lại đây, ông Holmes! Tôi thấy những chuyện này đã làm ông ngán đến tận cổ rồi. Cuối cùng hắn phải thú nhận! MacPherson, vào đây!
Một cảnh sát to lớn, mặt đỏ ửng rón rén bước vào căn phòng
- Chiều hôm qua một người đàn bà trẻ tuổi rẽ vào đây. Bà nói bà bị lầm nhà. Chúng tôi có trò chuyện với nhau một chốc. Suốt ngày đứng một mình ở đây quả có buồn thật.
- Được rồi Vậy chuyện gì đã xảy ra?
- Bà ta muốn coi tận mắt vụ giết người mà báo chí đã đưa tin. Đó là một người đàn bà trẻ trung và đứng đắn. Lúc đó tôi nghĩ rằng sẽ không có gì xấu xa, nếu tôi đưa bà ta vào xem. Nhưng sau khi trông thấy vết bẩn trên tấm thảm, bà ta đã ngã quỵ xuống, nằm bất động như một người chết. Tôi chạy ùa vào bếp, mang nước ra, thế nhưng vẫn không làm sao cho bà ấy tỉnh lại; tôi lại chạy ra tận góc phố Ivy Plant, mua một chai brandy. Nhưng lúc tôi bước vào phòng thì bà ta đã tỉnh dậy và đi ra. Có lẽ bà xấu hổ khi gặp lại tôi.
- Thế không có ai đụng vào tấm thảm chứ?
- Khi tôi quay lại, tấm thảm có bị xê dịch chút xíu, bởi vì bà ta ngã lên nó mà. Thêm vào đó, tấm thảm lại không được đóng chặt xuống nền nhà. Sau đấy, tôi đặt nó ngay ngắn trở lại.
- Đó là bài học cho ông đấy, cảnh sát MacPherson ạ, không lừa nổi tôi đâu - Lestrade nói với vẻ quan trọng - Chắc ông nghĩ rằng việc đó sẽ không bị phát hiện. Thế mà tôi chỉ cần ném một cái nhìn vào tấm thảm là tôi lập tức hiểu ngay là đã có một ai đó rẽ vào căn phòng này. Thật may cho ông, là đã không mất gì cả ông chỉ phải mang tiếng xấu thôi! Ông Holmes, rất tiếc là tôi gọi ông tới đây vì cái trò nhảm nhí này. Thế nhưng tôi cho rằng cái vết máu thứ hai cái vết không trùng lên vết thứ nhất sẽ khiến ông thích thú.
- Cố nhiên...
- Ông cảnh sát, người đàn bà ấy vào đây chỉ một lần thôi sao?
- Vâng chỉ một lần.
- Tên bà ta là gì.
- Tôi không biết. Bà ta nói là đi tìm việc làm, nhưng nhầm số nhà. Bà ta rất lịch thiệp và thoải
- Bà ấy có cao không? Có đẹp không?
- Vâng bà ta hơi cao. Cũng có thể nói là bà ta đẹp, thậm chí rất đẹp. “Ôi ! Ông sĩ quan, xin hãy cho phép tôi liếc nhìn một chút xíu thôi!”. Phong thái bà ta dễ coi và dễ thương như thế nên tôi khó lòng từ chối.
- Bà ấy ăn mặc ra sao?
- Áo choàng dài phủ đến tận gót.
- Chuyện đó xảy ra từ lúc mấy giờ?
- Khi tôi từ tửu quán quay trở lại, thì đèn phố đã được bật sáng.
- Rất tiếc! Ta đi thôi, Watson!
Chúng tôi bước ra, Lestrade ở lại trong phòng. Viên cảnh sát chạy ra, mở rộng cửa cho chúng tôi với vẻ hối hận. Holmes quay lại, đứng ở ngưỡng cửa, đưa ra một cái gì đó. Viên cảnh sát chăm chú nhìn.
- Trời ơi! - Ông ta kinh ngạc kêu lên.
Holmes đặt ngón tay lên môi rồi nhét vật đó vào túi. Anh cười khanh khách, khi chúng tôi bước ra ngoài đường.
- Thật tuyệt vời. Ta đi nào! Bức màn đang được vén lên. Chiến tranh sẽ không thể xảy ra được. Danh vọng chói lọi của bá tước sẽ không bị lu mờ. Vị nguyên thủ thiếu cẩn trọng kia sẽ ngủ ngon, Thủ tướng sẽ không phải tháo gỡ tình hình phức tạp ở châu Âu. Lòng tôi tràn ngập niềm khâm phục đối với con người đáng khâm phục này.
- Anh đã giải bài toán ra sao?
- Bây giờ thì chưa. Chúng ta sẽ đi thẳng tới Whitehall Terrace và sẽ kết thúc công việc.
Khi đến nhà ông phụ tá, Holmes nói rõ là anh muốn gặp phu nhân Hilda Trelawney Hope. Chúng tôi được đưa ngay vào phòng khách.
- Ông HolmesBà ta nói, mặt ửng hồng lên vì giận dữ - ông không cao thượng chút nào. Tôi đã nói là tôi muốn giữ bí mật chuyến viếng thăm của tôi, kẻo chồng tôi nghĩ rằng tôi nhúng tay vào công việc của anh ấy. Bằng việc đến đây, ông đã làm tổn hại thanh danh của tôi.
- Rất tiếc là tôi không thể làm gì khác, thưa bà. Người ta bảo tôi phải tìm cho ra tài liệu. Tôi đề nghị bà trao nó cho tôi.
Người đàn bà đứng phắt dậy. Đôi mắt của bà mờ đi. Bà ta dao động dữ dội, tôi có cảm giác bà sắp ngất xỉu đi. Nhưng không, bà ta có một nghị lực thật phi thường. Bà ta giận dữ, quát:
- Ông đã xúc phạm đến tôi.
- Xin hãy nghe đây, thưa bà! Giận dữ cũng vô ích. Hãy đưa bức thư cho tôi.
Bà ta lăng xăng chạy tới máy điện thoại.
- Người quản lý sẽ đưa tiễn ông.
- Đừng gọi, thưa phu nhân Hilda. Nếu bà làm như vậy thì mọi ý định chân thành của tôi nhằm giúp bà sẽ vô ích. Hãy trả lại bức thư cho tôi thì mọi chuyện sẽ được ổn thỏa. Còn nếu bà không nghe, buộc lòng tôi phải tố giác bà.
Bà ta đứng trước chúng tôi, uy nghi và kiêu hãnh, tay không rời khỏi máy điện thoại, nhưng vẫn chưa gọi.
- Ông không cao thượng đâu, ông Holmes ạ. Ông nói là ông biết một điều gì đó, vậy ông biết điều gì?
- Thưa bà, xin bà hãy ngồi xuống. Bà sẽ bị thương nếu bà ngã. Tôi sẽ không nói chừng nào bà chưa ngồi. Vâng, xin cám ơn bà!
- Ông Holmes, tôi cho ông năm phút.
- Chỉ một phút thôi. Tôi biết bà đến gặp Eduardo Lucas, đưa lá thư cho hắn ta. Tôi cũng biết chiều hôm qua, bà lại vào căn phòng của hắn ta, lấy lại lá thư bên dưới tấm thảm.
Mặt phu nhân Hilda trở nên tái mét. Bà không dám nhìn Holmes. Hơi thở bà nghẹn lại, không nói một lời.
- Ông quẫn trí rồi, ông Holmes... Ông quẫn trí mất rồi! - Cuối cùng bà kêu lên.
Holmes rút từ túi ra một tấm ảnh nhỏ. Trong ảnh là hình một người phụ nữ đã được cắt riêng ra.
- Đây là tấm ảnh nhỏ. Tôi cầm theo nó vì tôi cho rằng nó có thể sẽ hữu ích. - Anh nói - Người cảnh sát đã nhận ra bà.
Bà ta thở dài một cách khó nhọc, đầu bà ngã xuống lưng ghế.
- Thưa bà! Bà đang giữ bức thư. Tôi không muốn làm bà phiền muộn. Nhiệm vụ của tôi sẽ chấm dứt khi tôi hoàn lại lá thư cho chồng bà. Hãy nghe lời khuyên nhủ của tôi.
Cho tới lúc đó, bà vẫn chưa chịu thua.
- Ông Holmes, tôi xin nhắc lại với ông rằng ông đang bị một thứ tưởng tượng nào đấy điều khiển.
Holmes đứng dậy khỏi ghế.
- Tôi tiếc cho bà, thưa phu nhân Hilda. Tôi đã làm tất cả những gì có thể làm được để cứu giúp bà. Nhưng thôi. Tùy bà.
Anh bấm chuông. Viên quản lý bước vào.
- Ông Trelawney Hope có ở nhà không?
- Ông ấy sẽ về đến nhà sau 15 phút nữa, thưa ông.
Holmes liếc nhìn đồng hồ:
- Rất tốt, tôi sẽ chờ.
Đúng lúc viên quản lý khép cửa lại, phu nhân Hilda giang rộng hai tay, phủ phục dưới chân Holmes giàn giụa nước mắt.
- Hãy lượng thứ cho tôi, ông Holmes. Xin đừng nói với anh ấy! Tôi yêu anh ấy! Tôi đau lòng nếu làm anh ấy nhiều phiền muộn.
Holmes nâng bà dậy.
- Xin cám ơn bà. Thế là vào phút chót, bà đã nghĩ lại. Không nên mất một giây nào nữa. Bức thư đâu?
Bà ta lao đến bàn giấy, mở khóa và rút ra tấm phong bì dài, màu xanh da trời.
- Nó đây, ông Holmes...
- Chúng tôi cần cho nó vào chỗ cũ. Mau lên! Mau lên! Cái tráp đựng tài liệu đâu?
- Trong phòng ngủ.
- Mau lên!
- Hãy để nó vào đấy.
Một phút sau, bà xuất hiện với cái tráp dẹt.
- Bà có chìa khóa thứ hai không? Mở đi!
Phu nhân Hilda rút ra từ trong người chiếc chìa khóa nhỏ. Tráp được mở. Trong đó, đầy giấy tờ. Holmes đặt chiếc phong bì vào chính giữa, kẹp vào những tài liệu khác. Tráp được khóa và được trở lại phòng ngủ.
- Bây giờ chúng ta chuẩn bị tiếp chồng bà. - Holmes nói - Chúng ta còn 10 phút nữa. Tôi sẽ che giấu cho bà, thưa phu nhân Hilda. Trong thời gian còn lại, bà hãy kể cho tôi nghe câu chuyện này đi.
- Ôi, ông Holmes! Chặt cánh tay phải của tôi còn dễ hơn là để cho anh ấy đau khổ, dù chỉ một phút thôi. Khắp London này, không thể có người đàn bà nào yêu chồng mình hơn tôi. Tuy vậy, nếu chồng tôi biết rằng tôi phải làm cái điều bắt buộc phải làm, anh ấy vẫn không thể tha thứ cho tôi. Hãy giúp tôi, ông Holmes Hạnh phúc của tôi, hạnh phúc của anh ấy, tất cả cuộc sống của chúng tôi sẽ sụp đổ hết!
- Nhanh lên, thưa bà. Thời gian còn rất ít.
- Trước lúc xây dựng gia đình, tôi có vá thư dại dột và thiếu thận trọng. Đó là thư của một cô gái đa cảm đang yêu. Trong thư, không có điều gì xấu xa cả, vậy mà chồng tôi sẽ coi hành vi này là tội lỗi. Nếu như chồng tôi đọc lá thư đó, chắc chắn anh ấy sẽ không còn tin tôi. Nhiều năm đã trôi qua. Tôi ngỡ rằng “chuyện lá thư” đã rơi vào quên lãng. Thế nhưng, đột nhiên Lucas báo cho tôi biết là lá thư đã rơi vào tay ông ta và ông ta có ý định chuyển cho chồng tôi xem. Tôi van nài ông ta, xin ông ta hãy buông tha cho tôi. Ông ta hứa sẽ hoàn lại lá thư nếu tôi mang đến cho ông ta một tài liệu. Ông ta nói tài liệu này hiện chồng tôi đang cất trong tráp đựng các công văn khẩn. Ông ta biết về tài liệu này. Lucas cam đoan với tôi là điều đó không làm tổn hại chút nào tới chồng tôi. Nếu ông ở đó vào địa vị của tôi, ông sẽ làm gì.
- Kể tất cả cho chồng bà nghe.
- Ôi! Không thể làm như vậy được Tôi đã đánh cắp, ông Holmes à. Tôi lấy khuôn chìa khóa và Lucas làm được chiếc chìa khóa thứ hai. Tôi mở tráp, lấy tài liệu và mang tới phố Godolphin.
- Rồi tại đó, chuyện gì đã xảy ra?
- Tôi gõ cửa vào giờ hẹn. Lucas ra mở cửa. Tôi đi theo ông ta vào phòng. Cửa được khép hờ. Tôi nhớ rằng khi tôi bước vào nhà thì ở ngoài đường có một người đàn bà nào đó đang đứng. Hai lá thư nhanh chóng được trao nhau. Đúng lúc đó, tôi nghe có tiếng động mạnh ở cạnh cửa và tiếng bước chân vang lên ở hành lang. Lucas nhanh chóng lật tấm thảm lên, nhét tài liệu xuống đó, rồi đặt tấm thảm vào như cũ. Tiếp theo, tôi trông thấy một bộ mặt xám đen ngây dại và nghe giọng đàn bà quát mắng bằng tiếng Pháp: “Sự chờ đợi của tao quả không vô ích. Cuối cùng tao đã bắt gặp mày với nó”. Tôi nhìn thấy ông ta cầm chiếc ghế, còn trong tay bà ta lấp loáng một con dao găm. Tôi lao ra khỏi nhà vì khiếp đảm. Chỉ vào sáng hôm sau, nhờ đọc báo, tôi mới biết về vụ giết người đó. Tối hôm ấy tôi rất mừng vì đã đốt xong lá thư thời xa xưa.
Nhưng sáng hôm sau, tôi biết một tai họa khác sắp đổ xuống đầu tôi. Khó khăn lắm tôi mới không quỳ lạy anh ấy. Sáng hôm sau, tôi đến chỗ ông, và đã thấy rõ rằng tình hình nghiêm trọng. Từ giây phút đó, tôi luôn nghĩ là phải hoàn lại tài liệu cho nhà tôi. Tài liệu đang nằm ở chỗ Lucas cất giấu. Nếu bà ta không xuất hiện, tôi không bao giờ biết được nơi cất giấu tài liệu. Phải đột nhập vào căn phòng đó. Nhưng bằng cách nào? Tôi theo dõi ngôi nhà suốt hai cánh cửa không được mở lấy một lần. Mãi tới chiều hôm qua, tôi mới thành công. Tôi đem tài liệu về nhà, quyết định tiêu hủy nó, và sẽ không kể cho anh ấy nghe chuyện gì xảy ra. Bởi vì tôi không biết cách hoàn lại lá thư cho nhà tôi. Ôi! Tôi đã nghe thấy tiếng chân của anh ấy ở ngoài cầu thang rồi.
Ông phụ tá chạy bổ vào phòng, kêu lớn:
- Có gì mới không, ông Holmes? Có gì mới!
- Có hy vọng!
- May quá - Nét mặt ông rạng rỡ hẳn lên - Thủ tướng đang ăn sáng với tôi. Có thể chia sẻ nỗi hân hoan với ngài được không? Thần kinh của ngài rất vững. Vậy mà ngài hầu như không ngủ được, từ khi xảy ra vụ này. Jacobs! Hãy mời Thủ tướng đến đây. Có gì liên quan tới mình đâu, hỡi em yêu quý!
Cứ theo ánh mắt của Thủ tướng, cứ theo sự cử động dồn dập của đôi tay ông, tôi thấy ông đang chia sẻ nỗi xúc động với người phụ tá của mình.
- Ông Holmes, tôi rất hiểu là ông muốn báo cho chúng tôi biết một điều lành?
- Sau khi thăm dò tất cả những nơi tôi có điều kiện thăm dò, tôi tin rằng chúng ta không còn gì phải lo ngại.
- Nhưng quả là không đầy đủ, ông Holmes. Chúng ta không thể sống mãi trên núi lửa được. Chúng ta cần biết một cách rõ ràng.
- Tôi hy vọng sẽ tìm ra bức thư, vì vậy tôi mới đến đây. Càng nghĩ về công việc này, tôi càng tin rằng bức thư không bao giờ vượt ra khỏi ranh giới của ngôi nhà này!
- Ông Holmes!
- Nếu quả thật nó đã bị mất thì cố nhiên người ta đã công bố nó từ lâu, từ rất lâu rồi. Nhưng vì sao có thể cho rằng bức thư được cất giấu trong ngôi nhà này?
- Chúng tôi không tin có kẻ đã lấy nó.
- Vậy nó tráp làm sao được?
- Tôi cũng không tin là nó đã ra khỏi cái tráp.
- Ông Holmes! Bây giờ không phải là lúc để đùa cợt. Tôi cam đoan với ông là trong đó không có lá thư.
- Thì ta hãy nhìn lại một lần nữa, xem sao?
- Không! Điều đó hoàn toàn vô ích?
- Có thể ông không để ý đến nó.
- Không đời nào có chuyện ấy cả.
- Ai mà biết được? Những chuyện tương tự như thế vẫn thường xảy ra. Vì ở đây có lẽ còn có những tài liệu khác nữa. Bức thư có thể bị lẫn trong số tài liệu đó.
- Bức thư nằm ở trên cùng.
- Có thể một ai đấy xóc nó lên và bức thư đã bị dịch chuyển.
- Không, không! Tôi đã lấy tất cả ra rồi!
- Nhưng có thể dễ dàng kiểm tra lại điều đó, ông Trelawney Hope - Thủ tướng nói - Hãy lệnh mang tráp lại đây!
Ông phụ tá ấn nút chuông.
- Jacobs, hãy mang cái tráp đựng giấy tờ của tôi ra đây! Chúng ta sẽ phí thì giờ, nhưng nếu điều đó làm ông hài lòng thì... Chúng tôi sẽ kiểm tra lại. Cám ơn Jacobs, hãy đặt nó xuống đây… Chìa khóa tôi luôn móc theo dây đeo đồng hồ. Đây mọi giấy tờ đây! Ông xem đi. Bức thư của huân tước Merrow, báo cáo của ngài Charles Hardy, bị vong lục từ Belgrade, các tài liệu về thuế lúa mì Đức- Nga, bức thư từ Madrid, bản báo cáo của huân tước Flowers... Trời ơi! Cái gì thế này? Huân tước Bellinger! Huân tước Bellinger!
Thủ tướng giật lấy tấm phong bì màu xanh da trời từ tay người phụ tá.
- Đúng, nó đấỳ bức thư còn nguyên vẹn… Xin chúc mừng ông, ông Hope ạ!
- Cám ơn ngài. Xin cám ơn ngài! Một sức nặng ghê gớm đã trút khỏi vai tôi ! Thế nhưng không thể hiểu nổi… Ông Holmes, ông là phù thủy! Do đâu ông biết được tài liệu ở đây?
- Bởi vì tôi biết rằng đối với nó không ở đâu tốt hơn là ở đây cả.
- Tôi không thể tin vào đôi mắt của mình nữa rồi! - Ông lao vút ra khỏi phòng - Vợ tôi đâu rồi? Hilda! Hilda!
Chúng tôi nghe rõ giọng nói của ông vang lên ở ngoài cầu thang.
Ông Thủ tướng nheo nheo đôi mắt, rồi nhìn vào Holmes.
- Hãy nghe đây, ông Holmes - Ông nói - Ở đây ẩn giấu một điều gì đó. Bức thư trở lại trong tráp bằng cách nào vậy?
Holmes mỉm cười quay lưng lại để lẩn tránh cái nhìn từng trải của Thủ tướng.
- Chúng ta còn có những bí mật xã giao của mình nữa. - Holmes nói, và sau khi cầm lấy mũ, anh bước ra phía cửa...
[1] Nguyên văn: Mme, hay Madame: bà (tiếng Pháp).
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top