Sherlock Holmes Toan Tap II

TẤN THẢM KỊCH CỦA TÀU KOROSKO

Dịch giả : Trung Khâm

Chương 1

(The tragedy of the “Korosko”)

Có lẽ công chúng sẽ tự hỏi tại sao các báo chí không bao giờ kể lại câu chuyện những hành khách trên tàu Korosko. Ở vào một thời đại như thời đại của chúng ta, khi mà các hãng thông tin, báo chí nhìn soi mói vào khắp vũ trụ để tìm tòi những chuyện giật gân, thật không thể tin được là sự bí ẩn đã che đậy được lâu như vậy một sự cố quốc tế có tầm quan trọng như thế. Ta đành phải nói rằng sự kín tiếng này đã có cơ sở trên những lý do hết sức giá trị, cả về mặt chính trị lẫn về mặt riêng tư. Tuy nhiên, một số người nào đó đã biết rõ các sự việc, một lập luận của những người này đã xuất hiện ngay cả trong một nhật báo tỉnh lẻ và nó đã lôi theo ngay tức thì một bài cải chính. Bây giờ đây là những sự việc được ghi chép dưới dạng một bài thuật sự. Sự chính xác của chúng được bảo đảm bởi những lời khai báo được đưa ra qua sự tuyên thệ của đại tá Cochrane Cochrane, thuộc câu lạc bộ Lục quân và Hải quân, bởi các lá thư của cô Adams, ở Boston, Mass, cũng như bởi lời khai chúng thu lượm được trong quá trình điều tra mật của chính phủ được thực hiện ở Le Caire với đại úy Archer, và những lính cưỡi lạc đà người Ai Cập. Ông James Stephens đã khước từ việc thông báo cho chúng tôi lập luận về sự vụ của ông ấy trên giấy trắng mực đen; nhưng vì các bản in thử của tập sách này đã được gửi cho ông ấy xem, vì ông ấy đã không đưa ra một sự đính chính hay xóa bỏ nào, chúng tôi có quyền giả thiết là ông ấy đã không nêu ra được một sự sai trái cụ thể nào, và những sự phản kháng của ông ấy đối với sự công bố của chúng tôi đã xuất phát phần lớn từ những sự thận trọng, áy náy riêng tư. 

Tàu Korosko có một cái bụng chìm dưới nước hình mai rùa, mũi tàu phình ra, phần lái tàu tròn, tầm nước là tám mươi cen-ti-mét và trắc diện bằng một cái bàn là (bàn ủi). Ngày 13 tháng 2 năm l895, nó nhổ neo từ Shellal, ở gần thác nước thứ nhất, để đi tới Quadi-Halfa. Tôi có được bản danh sách những hành khách của chiếc tàu tuần dương này; đây là bản danh sách đó: 

Ðại tá Cochrane Cochrane _ Luân đôn 

Ông Cecil Brown __________ Luân đôn 

John H Headingly _________ Boston, Hoa kỳ 

Cô Adams _________________ Boston, Hoa kỳ 

Cô S. Adams ______________ Worcester, Mass, Hoa kỳ 

Ông Fardet _______________ Paris 

Ông và Bà Belmont ________ Dublin 

James Stephens ___________ Manchester 

Giáo sĩ John Stuart ______ Birmingham 

Bà Shlesinger,cô vú em và 1 đứa nhỏ __ Florence 

Ðó là những du khách khởi hành từ Shellal, với ý 

định là đi ba trăm ba mươi cây số ngược dòng sông Nil của nước Nubie, quãng sông ngăn cách thác nước thứ nhất và thác nước thứ hai. 

Nước Nubie này, một xứ sở kỳ lạ! Chiều ngang của nó thay đổi trong khoảng vài cây số và vài mét, vì cái tên của nó chỉ được dùng cho một dải đất hẹp cầy cấy được. Với một màu xanh lục, không có bề dày và với những cây cọ mọc bao quanh, nó chạy dài ở mỗi bên của con sông rộng màu cà phê. Ở tít xa kia, trên bờ thuộc nước Libye, là chỗ khởi đầu của sa mạc hoang dã chạy dài trên suốt bề ngang của Châu Phi. Trên bờ bên kia, một phong cảnh cũng hoang vu như vậy tỏa rộng ra tới mãi Hồng Hải xa xôi. Nằm vào giữa hai miền mênh mông cằn cỗi này, nước Nubie trải dài ra dọc theo con sông như một con giun đất xanh rì. Ở nhiều chỗ nó bị đứt đoạn: tại đó sông Nil chảy vào giữa, những hòn núi đen xì và rạn nứt vì trời nắng; những đụn cát di động màu cam là vật để trang trí cho các thung lũng. Ở khắp nơi người ta phát hiện ra các dấu vết của những giống người đã mất tích và những nền văn minh đã bị chìm ngập. Những ngôi mộ kỳ dị in dấu trên các sườn đồi hoặc nổi bật lên trước chân trời; các Kim Tự Tháp, những mộ xây bằng đá, những khối đá dùng làm mộ chí, nhưng ở khắp mọi nơi, toàn là mồ mả. Nơi này, nơi nọ, khi con tàu đi vòng quanh một mũi đất có nhiều núi, người ta nhìn thấy ở trên đỉnh cao một thành phố bỏ hoang, những cái nhà, những bức tường thành, những bờ lũy; ánh nắng xuyên qua các cửa sổ hoặc các lỗ hổng vuông. Người ta biết rằng thành phố đã được xây dựng bởi người La-mã, hoặc bởi người Ai Cập; có điều là tên nó và nguồn gốc của nó đã bị mất đi không còn cứu vãn được. Người ta thấy sửng sốt; người ta tự hỏi tại sao một giống người, dù họ là giống người nào đi nữa, lại đi xây dựng trong một cảnh hoang vắng thô lỗ như thế này. Người ta phải chấp nhận một cách khó khăn, cái thuyết theo đó thì các kiến trúc này không có mục đích nào khác hơn là bảo vệ lối vào vùng đồng bằng phì nhiêu chống lại bọn đạo tặc và bọn man rợ ở miền Nam. Nhưng dù sao thì chúng vẫn còn đứng nguyên, những thành thị im lìm và dữ tợn này; và ở đỉnh các ngọn núi, ta có thể nhìn thấy những nấm mộ ở đó các cư dân của chúng đã được chôn cất, nhìn từ xa chúng giống như những cửa sổ nhỏ của một chiếc thiết giáp hạm. Ðó là miền bí ẩn, không sinh khí mà những du khách đi ngược dòng sông tới biên giới Ai Cập đã đi qua trong lúc vừa hút thuốc, vừa nói chuyện dông dài, vừa tán tỉnh nhau. 

Những hành khách trên tàu Korosko đã rất ăn ý với nhau. Họ đã tất cả cùng nhau đi gần hết đoạn đường từ Le Caire tới Assouan; sông Nil có khả năng làm xúc động được tất cả mọi thứ lãnh đạm kể cả thứ bền bỉ nhất: sự lãnh đạm của dân Anh. Họ đã có một dịp may bất ngờ: nhóm họ đã không có một kẻ tính nết khó chịu, một kẻ mà ở trên một con tàu nhỏ cũng đủ làm hỏng sự vui thích của mọi người. Trên một chiếc tàu chỉ quan trọng hơn chiếc tàu phụ lớn đôi chút thì một kẻ quấy rầy, một kẻ trơ tráo, một kẻ càu nhàu làm mưa làm gió với tất cả hành khách. May mắn thay chiếc Korosko đã không chở trên tàu một người nào giống như một kẻ quấy rầy cả. Ðại tá Cochrane Cochrane, một trong các sĩ quan mà chính phủ Anh, đúng như qui luật, đã tuyên bố là không có khả năng trong ngành hiện dịch ở một độ tuổi nào đó, và đã chứng tỏ giá trị của qui luật bằng cách cống hiến phần còn lại của đời họ để đi thám hiểm nước Maroc hay đi săn bắn sư tử ở Somalie. Nước da nâu, đứng rất ngay ngắn, ông đại tá đã tự ý biểu hiện lối xã giao lễ độ, nhưng cái nhìn của ông có vẻ lạnh lùng của một nhiệm vụ điều tra; rất kỹ càng trong lối ăn mặc, chính xác trong các thói quen, ông là một người quí phái tới tận đầu móng tay. Thực hành sự chán ghét của người Anh đối với việc thổ lộ tâm tình, ông đã tự giới hạn mình trong một sự thận trọng mà thoạt nhìn có vẻ như sự lãnh đạm thờ ơ, nhưng đôi khi ông thấy khó chịu phải che dấu lòng tốt và những tình cảm của con người là những thứ có ảnh hưởng tới các hành động của ông. Ðối với những bạn đồng hành của ông, ông đã gợi lên nhiều sự tôn kính hơn là lòng cảm mến; thật sự tất cả mọi người đều có cảm tưởng rằng ông không phải là người để cho sự liên hệ trong một chuyến tàu nảy sinh ra thành tình bạn. Tuy nhiên, một khi đã được đồng ý thì tình bạn này sẽ trở thành một bộ phận của bản thân ông. Râu mép ông đã lốm đốm bạc, trông rất ra vẻ nhà binh, nhưng ông giữ được mái tóc đen một cách khác thường ở vào tuổi ông. Trong khi trò chuyện không bao giờ ông nhắc tới rất nhiều chiến dịch trong đó ông đã tỏ ra xuất sắc; ông giải thích sự kín đáo này bằng cách nói rằng chúng đã diễn ra từ hồi khởi đầu kỷ nguyên của Nữ hoàng Victoria, và ông đã hiến tế sự vinh quang về binh nghiệp của ông lên bàn thờ của thời thanh xuân bất diệt của ông. 

Ông Cecil Brown (tôi lấy các danh tính theo thứ tự của bản danh sách) là một nhà ngoại giao trẻ tuổi thuộc về một tòa đại sứ ở trên lục địa; chưa hoàn toàn đoạn tuyệt hẳn với phong thái ở Oxford, ông đã phạm phải chút ít lỗi lầm vì sự tỉ mỉ thái quá, nhưng sự nói chuyện của ông thì rất thú vị và chứng tỏ một trình độ văn hóa vững chắc. Ông có một bộ mặt xinh đẹp, buồn bã, một bộ ria mép nhỏ mà ông bôi sáp một cách kỹ càng ở các đầu chót, một giọng nói trầm trầm, và một sự lơi là về tâm tính mà một lối mỉm cười duyên dáng đủ đền bù lại mỗi khi ông đi quá trớn trong tính tình kỳ lạ của ông. Ông đã cố gắng kiềm chế những nhiệt tình ấu trĩ rất tự nhiên của ông bằng một sự hoài nghi có tính cách đùa cợt; trong trạng huống này ông bất chấp sự thật hiển nhiên để nói ra những ý nghĩ làm phật lòng người vừa mới gặp. Trong chuyến du hành, ông đã mang theo những sách của Walter Pater, và suốt cả ngày ông ngồi lại trong căn lều vải với một cuốn tiểu thuyết và một cuốn tập vẽ để bên mình, trên một cái ghế đẩu. Tư cách riêng của ông đã không cho phép ông tán tỉnh làm quen với những người khác, nhưng nếu các bạn đường của ông muốn tới nói chuyện với ông, thì ông tỏ ra vừa lịch sự, vừa khả ái. 

Những người Mỹ đã lập thành một nhóm riêng biệt. Vốn quê quán ở Nowvelle-angletrre và tốt nghiệp tại Harvard (một đại học danh tiếng ở Mỹ), John H Headingly bổ sung sự học vấn của mình bằng cuộc du lịch thế giới. Ông đã tượng trưng một cách toàn hảo cho người thanh niên Mỹ, sinh động, có đầu óc quan sát, nghiêm túc, thèm khát sự hiểu biết, và gần như không bị các thành kiến trói buộc, sôi động với một tình cảm đẹp đẽ về tôn giáo, không một chút đầu óc bè phái hẹp hòi, ông giữ đầu óc lạnh lùng ở giữa những cơn giông tố thình lình của tuổi thanh xuân. Ông có vẻ kém trí thức hơn nhà ngoại giao của Oxford, nhưng thật sự ra ông còn trí thức hơn nữa, vì những cảm xúc sâu sắc hơn của ông đã bù lại cho những kiến thức ít phần chính xác. Cô Adams là cô của cô Sadie Adams : một người con gái già ở Boston, nhỏ bé, đầy nghị lực, với bộ mặt khó thương, cô đã đè nén một cách khó khăn sự trìu mến lớn lao chưa bao giờ được dùng tới; đây là lần đầu tiên cô rời khỏi nước Mỹ, và trong tất cả các nhiệm vụ có một nhiệm vụ làm cô say mê, kéo Ðông - Phương lên ngang hàng với Massa Chusetts. Vừa mới đặt chân lên đất Ai Cập, cô đã thấy rằng nước này cần được khai hóa; cô lo lắng về chuyện này một cách nóng nảy. Những con lừa lưng bị tróc da, những con chó đói, những con ruồi bám quanh mắt lũ trẻ nhỏ, những đứa bé trần truồng, những kẻ hành khất quấy rầy, những người đàn bà quần áo tả tơi, tất cả đều như thách thức lương tâm cô; do đó cô đã dũng cảm lao mình vào một công cuộc cải cách. Tuy nhiên vì cô không nói được một chữ của ngôn ngữ bản xứ. và vì cô không thể làm cho người ta hiểu được cô, nên chuyến đi ngược dòng sông Nil của cô đã để Ðông - Phương ở lại gần như trong tình trạng mà cô đã phát hiện ra nó, nhưng ngược lại đã cung cấp cho các bạn đồng hành của cô nhiều đề tài để vui đùa. Cháu gái Sadie của cô, người đã cùng chia sẻ với bà Belmont danh dự là nữ hành khách được ưa chuộng nhất trên tàu Korosko, không phải là người cuối cùng thích bông đùa giải khuây về chuyện này. Rất trẻ, vừa mới rời khỏi trường Smith College, cô còn giữ được phần lớn những tính tốt và tính xấu của tuổi ấu thơ, cô có một sự thành thật và một niềm tin hơi ngây thơ, sự ngay thẳng ngây thơ, sự dũng cảm, và cả tính nói nhiều và sự bất kính của lứa tuổi cô, nhưng ngay các tính xấu này cũng làm người ta vui thích, càng vui thích hơn khi mà cô con gái cao lớn và xinh đẹp này có vẻ già hơn là tuổi tác thật sự của cô, vì những lon tóc thấp viền quanh tai cô và những đường nét no đầy của thân mình cô. Tiếng xột xoạt của váy cô, giọng nói cương quyết và thành thật, tiếng cười vui tai của cô bao giờ cũng được hoan nghênh trên tàu Korosko. Ông đại tá biểu lộ tính lịch sự hào hiệp với cô, và nhà ngoại giao của Oxford thôi không còn hoa mĩ lòe loẹt khi cô Sadie Adams ngồi bên cạnh ông. 

Chúng tôi sẽ nói ngắn gọn hơn về những hành khách khác. Có vài người tỏ ta đặc sắc hơn những người khác, nhưng tất cả bọn họ đều đứng đắn và có tư cách đàng hoàng. Ông Fardet, một người Pháp hiền hòa mặc dầu có tính hay tranh luận, chủ trì những định kiến liên quan tới các mưu đồ chính trị của nước Anh, và sự bất hợp pháp của vị thế của nước này tại Ai Cập. Ông Belmont, một người Ái-nhĩ-lan khỏe mạnh với mái tóc hoa râm, là người đã thắng hầu hết các cuộc thi bắn súng ở Wimbledon và Bisky; ông mang theo bà vợ, một người đầy sức quyến rũ và đài các, rất tao nhã, và vui vẻ một cách tế nhị như tính tình mọi người dân ở Ái Nhĩ Lan. Bà Shlesinger, một goá phụ ở độ tuổi trung bình, hiền hòa và nhu mì, người chỉ chăm chú vào đứa con sáu tuổi của mình. Giáo sĩ John Stuart là một vị mục sư phi quốc giáo ở Birmingham, thuộc trưởng lão giáo phái hay tự trị giáo đoàn. Ông được tạo hóa phú cho một sự phì nộn đáng nể kèm theo một sự chậm chạp lề mề; ông cũng có một cái vốn hài hước giản dị, mà theo những tin tức tôi được biết, đã làm cho ông trở thành một nhà truyền giáo thành công và một diễn giả hữu hiệu khi ông nói trên các diễn đài cực cấp tiến, mặc dù ông bị bệnh suyễn. 

Sau hết là ông James Stephens một luật sư ở Manchester (một người trong số các cộng sự viên của hãng Hickson, Ward và Stephens), người đi du lịch để làm tiêu tan hết các hậu quả của một bệnh cúm tệ hại. Stephens là người tự thân lập thân, ông đã bắt đầu từ việc lau rửa những hòn gạch vuông của công ty trước khi điều khiển công việc, trong ba mươi năm trời, ông đã tận tụy với một công việc khô khan, chuyên môn, và ông chỉ sống để làm vừa lòng những thân chủ cũ và lôì kéo những thân chủ mới. Tinh thần và linh hồn ông đều thấm nhuần chủ nghĩa hình thức và sự nghiêm ngặt của luật pháp mà ông có nhiệm vụ phải giải thích. Tuy vậy tính tình của ông cũng không thiếu sự cao cả và lòng trắc ẩn; nhưng các đức tính này đã bắt đầu tàn úa, cũng như tất cả các tính tốt của con người đã tàn úa ở chốn thị thành. Ông làm việc theo thói quen, và sống độc thân, ông không quan tâm tới một điều gì khác; tâm hồn ông đã chai lì, giống như thân mình một vị nữ tu thời Trung Cổ đôi khi ngẫu nhiên ông bị đau ốm, tạo hóa đã xô đẩy, tống xuất ông ra khỏi nơi ẩn náu của ông, và ném ông vào thế giới bao la, xa cách Manchester và cái thư viện đầy những chứng điển, tiền lệ được đóng bằng da bê. Lúc đầu ông rất nhớ tiếc cái thư viện đó. Rồi dần dà mắt ông được mở rộng, và ông cảm thấy một cách mơ hồ rằng công việc của ông quá tầm thường bên cạnh cái vũ trụ kỳ diệu, đa dạng, không thể giải thích được này, mà ông đã không biết gì tới. Ngay cả có lúc ông đã tự hỏi liệu cái lúc ngưng nghỉ này trong nghề nghiệp của ông có thể tỏ ra quan trọng hơn chính bản thân nghề nghiệp của ông không. Những lợi ích mới tràn ngập lòng ông, và vị luật gia gần năm mươi tuổi này cảm thấy trong ông bùng lên những ngọn lửa cuối cùng của một thủơ thanh xuân mà việc đọc quá nhiều sách vở đã làm tắc nghẹt. Ông rất ương bướng không chịu nhìn nhận rằng các phong cách của ông lúc nào cũng khô khan, khúc chiết và ông đã dùng một ngôn ngữ hơi mô phạm. Tuy nhiên ông đẵ đọc, đã suy ngẫm và nhận xét; ông gạch ngang dưới hàng chữ và ghi chú sách của Bredeker, cũng như thời trước ông đã gạch ngang dưới hàng và ghi chú các sách về luật của ông. Ông đã lên tàu ở Le Caire, và ông đã kết thân với cô Adams và cháu gái cô ấy. Lối nói năng thành thật và sự mạnh dạn của cô thiếu nữ Mỹ làm ông thích thú; để đáp lại, Sadie đã dành cho ông sự kết hợp của lòng tôn trọng và lòng thương do các kiến thức và các sự giới hạn của ông. Thế là họ trở thành những người bạn thân, và người ta mỉm cười khi nhìn thấy bộ mặt u ám của vị luật sư và khuôn mặt rạng rỡ của cô thiếu nữ cúi xuống trên cùng một quyển sách chỉ nam. 

Con tàu Korosko nhỏ bé chạy ngược dòng sông Nil trong khi tung lên những luồng khói và bọt nước. Với năm hải lý một giờ, nó đã gây ra nhiều tiếng ồn và nhiều trắc trở hơn là một con tàu xuyên Ðại Tây Dương lúc ganh đua giành kỷ lục. Trên boong tàu, dưới tấm lều vải dày, cái tiểu gia đình của các hành khách ngồi ở đó, thường thường là sau vài giờ đồng hồ, con tàu tấp vào bờ để cho hành khách thăm viếng một loạt các đền đài mới thấy. Nhưng các cảnh hoang tàn đã trở nên mỗi lúc mỗi kém cổ kính đi, những du khách là những người đã được thỏa mãn ở Gizeh và SaKARA khi ngắm nghía những đền đài cổ xưa nhất được con người xây dựng lên, đã bắt đầu chán nản với những ngôi đền mới có nhiều lắm là vào lúc khởi đầu kỷ nguyên cơ đốc giáo. Ở Ai Cập, người ta khó tìm ra những cảnh hoang tàn mà ở bất cứ nước nào khác đã là một nơi được sự sùng bái lạ thường. Do đó các du khách chỉ có những cái nhìn uể oải dành cho nghệ thuật nửa phần Hy Lạp của những hình chạm nổi ở Nubie; họ leo lên chóp đỉnh của tàu Korosko để xem cảnh mặt trời mọc trên sa mạc hoang vu của Ðông Phương; họ đồng tình cảm phục ngôi đền lớn Abon-Simbel, vì một chủng tộc cổ xưa đã đào vào một quả núi như đào một cục phô mai vậy. Sau cùng, buổi chiều của ngày thứ tư trong cuộc du hành, họ tới Quadi-Halfa, thành phố biên thùy, với vài giờ chậm trễ gây ra bởi một sự trục trặc nhỏ trong các máy móc. Quadi-Halfa cũng là một thành phố có quân trú phòng. Sáng hôm sau, họ phải đi du ngoạn trên núi Abousir lừng danh, ở đó người ta có được một cái nhìn tuyệt mĩ trên 

thác nước thứ hai. Lúc tám giờ rưỡi, khi các hành khách đang ngồi trên boong sau bữa ăn tối, thì Mansoor, người thông ngôn, một người Syrie lai ở Copte, đi tới để loan báo, như mỗi buổi tối, chương trình của ngày hôm sau. 

Anh ta nói : 

- Thưa các quí bà và các quí ông, ngày mai xin quí vị chớ quên thức dậy vào tiếng kẻng đầu tiên để cho cuộc du ngoạn được kết thúc vào buổi trưa. Khi chúng ta tới chỗ những con lừa đang chờ đợi chúng ta thì chúng ta sẽ cưỡi chúng để đi sâu vào sa mạc tám cây số; chúng ta sẽ đi qua trước một ngôi đền của Ammonra, đã có từ triều đại thứ mười tám, rồi chúng ta sẽ tới núi Abousir mà sự lừng danh là độc nhất vô nhị. Khi quí vị tới nơi, quí vị sẽ thấy rằng quí vị đang ở chỗ ranh giới của nền văn minh, ngoài ra, đi thêm vài cây số xa hơn nữa, quí vị sẽ thấy mình ở trong xứ sở của các tu sĩ Hồi giáo; quí vị sẽ rõ điều này khi quí vị lên tới ngọn núi cao. Từ trên đó, quí vị sẽ thấy rõ thác nước thứ hai trong một khung cảnh gồm đủ mọi vẻ đẹp hoang dại của thiên nhiên. Tất cả các danh nhân trên thế giới đều đã khắc tên tuổi họ trên đá; vậy xin quí vị đừng bỏ qua nghi lễ này... 

Mansoor chờ đợi một tiếng cười nhỏ bị kìm hãm lại; anh ta nghiêng mình khi nghe thấy tiếng cười. 

-...Quí vị sẽ trở lại Quadi-Hafta sau đó, ở đó quí vị sẽ trải qua hai giờ với đàn quân lạc đà; quí vị sẽ dự khán sự trải lông các con vật, quí vị sẽ đi một vòng ở hiệu tạp phẩm. Tôi kính chúc quí vị một đêm vui vẻ và tốt đẹp. 

Những cái răng trắng ởn của anh ta lóng lánh trước ánh đèn; rồi cái quần dài sậm màu, cái áo vét ngắn may theo kiểu ăng-lê và cái khăn bịt đầu đỏ của anh ta nối tiếp nhau mà biến dạng ở chân cầu thang. Tiếng rì rầm nói chuyện, mà sự xuất hiện của anh ta đã làm gián đoạn, lại tiếp nối rôm rả hơn. 

CÔ Sadie Adams nói: 

- Ông Stephens ạ, tôi trông cậy vào ông để biết được mọi thứ ở Abousir. Tôi rất thích biết rõ vật mà tôi nhìn khi tôi đang nhìn nó, chớ không phải sáu giờ sau đó trong phòng của tôi trên tàu. Chẳng hạn, tôi đã không nhớ được bao nhiêu về Abon-simbel và những bức bích họa, mặc dù hòm qua tôi đã nhìn thấy chúng. 

"Tôi thì không bao giờ hy vọng biết được chuyện gì" bà cô của nàng nói. "Khi tôi trở về bình an vô sự trong Ðại lộ Commonwealth, và khi không còn anh thông ngôn nào để xô đẩy tôi, tôi sẽ có nhiều thì giờ để đọc sách, lúc đó tôi có thể say mê và mong muốn trở lại nơi này. Nhưng ông Stephens ạ, ông thật sự rất đáng yêu khi đã cố gắng cung cấp các tài liệu cho chúng tôi". 

"Tôi nghĩ rằng bà và cô muốn có vài tin tức chính xác vì vậy tôi đã soạn thảo cho bà và cô một bản tóm tắt nhỏ" Stephens trả lời và đưa cho Sadie một tờ giấy. 

Nàng liếc mắt nhìn vào tờ giấy dưới ánh sáng của ngọn đèn trên boong tàu và tiếng cười trẻ trung của nàng lan ra thành một tràng cười lớn. 

Nàng đọc. 

- Re Abousir! Này ông hiểu từ Re là cái gì hả ông Stephens? Ông đã viết "Re Ramses II" trên tờ giấy cuối cùng mà ông đã đưa cho tôi mà! 

Stephens nói. 

- Cô Sadie ạ, đó là một thói quen mà tôi mắc phải. Một tục lệ trong nghề nghiệp mà tôi làm khi người ta viết một giác thư. 

- Một cái gì hở ông Stephens? 

- Một giác thư... Một bị vong lục, nếu cô thích vậy. Chúng tôi viết Re này hay Re nọ, để chỉ ra vật gì mà chúng tôi nói tới. "Tôi cũng muốn tin rằng đó là một phương pháp tốt", Sadie nói, "Nhưng đối với tôi nó có vẻ hơi lạ, khi nó được áp dụng vào các phong cảnh hay vào các vị hoàng đế Ai Cập Re Cheops... Ông không thấy như thế là buồn cười à?" 

- Không, tôi không thể nói là tôi thấy nó buồn cười. 

Cô thiếu nữ nói lẩm bẩm: 

- Tôi tự hỏi có phải người Anh có ít tinh thần hài hước hơn người Mỹ không, hoặc có phải đó là một dạng hài hước khác chăng? 

Nàng có một lối phát biểu ý kiến trầm tĩnh, trừu tượng, nàng cho người ta một cảm tưởng là nàng suy tưởng rất cao xa. 

-...Tôi tin rằng họ có ít tính hài hước hơn, nhưng khi người ta suy nghĩ kỹ thì Dickens, Thackeray, Barrie và một số các nhà văn hài hước khác mà chúng ta cảm phục đều là người Anh. Hơn nữa, ở rạp hát, tôi chưa từng bao giờ nghe một công chúng cười lớn hơn là công chúng ở Luân Ðôn. Nghe đây: chúng tôi có ở đằng sau chúng tôi một khán giả mà mỗi lúc ông ta cười đã gây ra một luồng không khí mạnh đến nỗi cô tôi phải quay lại để nhìn xem có phải một cái cửa đã bị để ngỏ không. Nhưng ông đã sử dụng một vài thành ngữ buồn cười đấy, ông Stephens ạ! 

- Cô Sadie, cô còn thấy cái gì buồn cười nữa? 

- Này nhé, khi ông gởi cho tôi cái vé vào thăm ngôi đền và tấm thiệp nhỏ ông đã khởi đầu lá thư: "Kèm theo đây, xin vui lòng tìm ra...". Và ở cuối lá thư, ông đã ghi giữa hai ngoặc đơn "Hai tấm vé đính liền nhau". 

- Thưa cô, đó là những công thức hiện hành trong các việc giao dịch. 

"Trong các việc giao dịch!", Sadie nhắc lại, giả bộ làm ra vẻ nghiêm trọng. 

Một sư yên lặng đột ngột. 

"Có một điều mà tôi mong muốn!" cô Adams dõng dạc nói với một dạng cứng cỏi và lanh lảnh để che dấu trái tim hiền dịu của cô. "Ðó là việc được gặp Quốc hội của nước này và được trình bày với họ một số sự việc. Một đạo luật bắt buộc việc sử dụng thuốc đau mắt nước sẽ là một trong các kiến nghị của tôi. Một kiến nghị nữa là hủy bỏ những thứ mạng che mặt mày, là thứ đã biến đổi các phụ nữ thành những kiện bông có dùi lỗ để làm hai mắt" 

Sadie nói : 

- Tôi không hiểu tại sao họ lại đeo mạng che mặt. Cho tới ngày mà tôi thấy được một người kéo mạng che mặt của cô ta lên. Lúc đó thì tôi đã hiểu! 

Cô Adams bực bội kêu lên. 

- Họ làm tôi mệt mỏi, những người phụ nữ này! Cũng như truyền giảng về nghĩa vụ, về phép lịch sự và về sự thanh khiết cho một khúc gỗ vậy! Còn nhớ không, ông Stephens mới hôm qua thôi ở Abou-simbel, tôi đi qua trước một trong các căn nhà của họ (nếu ông có thể gọi là căn nhà cái đống bùn đó); tôi thấy hai đứa bé con trên bậc cửa với một đống ruồi thường lệ chung quanh hai mắt chúng, và những lỗ thủng lớn trên những cái áo dài nhỏ bé, nghèo nàn, màu xanh của chúng! Tôi từ trên con lừa tụt xuống; tôi xắn tay áo lên; tôi lấy khăn mùi xoa lau mặt cho chúng; tôi khâu lại áo cho chúng. Trong xứ sở này, khi lên khỏi tàu giá để tôi mang theo một hộp đồ may vá chắc còn tốt hơn là mang theo một cái dù trắng, ông Stephens ạ! Thế là tôi phấn khởi với công việc và tôi đi vào trong nhà. Cái nhà mới tệ làm sao! Tôi lùa những người ở trong đó ra ngoài và tôi dọn dẹp như một cô đầy tớ. Tôi đã không còn nhìn thấy đền Abou-Simbel như là tôi đã chưa bao giờ rời khỏi Boston. Ngược lại, tôi đã trông thấy nhiều bụi bặm và cáu bẩn trong một căn nhà lớn như một cái buồng tắm ở New York, hơn là trong bất kỳ một căn hộ nào ở Mỹ. Giữa cái khoảnh khắc mà tôi xắn tay áo lên với cái khoảnh khắc mà tôi ra đi, với bộ mặt đen như đám khói này, đã không mất hơn một giờ đồng hồ; có lẽ tối đa là một tiếng rưỡi! Nhưng tôi đã để lại cái nhà này sạch sẽ cũng như một cái hộp mới. Tôi có mang theo một tờ báo New York Herald tôi trải nó lên trên cái kệ của họ. Và này, ông Stephens, tôi đi rửa tay ở bên ngoài, và khi tôi trở vào, lũ trẻ con vẫn còn những con mắt bám đầy ruồi, và chúng không thay đổi gì cả, trừ việc mỗi đứa đội trên đầu một cái mũ nhỏ của lính sen đầm làm bằng tờ báo New York Herald của tôi. Nhưng Sadie này, sắp mười giờ rồi, và cuộc du ngoạn ngày mai khởi hành sớm đó! 

"Thật là tuyệt đẹp, bầu trời đỏ tía và những ngôi sao lớn bàng bạc!" Sadie lẩm bẩm nói "Hãy nhìn bãi sa mạc im lìm, và những bóng đen của các ngọn núi. Thật là đáng sợ!" Nhưng cũng khủng khiếp nữa. Khi người ta nghĩ rằng chúng ta đang thật sự ở chỗ rìa của nền văn minh, như anh thông ngôn vừa mới nói, không có gì khác hơn là sự man rợ và máu chảy tràn trề ở nơi xa kia mà chòm sao chữ thập chiếu sáng một cách quá đẹp này; người ta có cảm tưởng là đang đứng trong thế thăng bằng trên miệng một ngọn núi lửa!" 

"Suỵt, Sadie! con ơi, chớ có nói nhảm nhí!" người cô kêu lên. "Con có thể gây ra mối lo sợ cho những ai nghe thấy con nói đó". 

- Nhưng cô ơi, chính cô không cảm thấy điều đó à? Hãy nhìn bãi sa mạc lớn này, nó biến mất trong đêm tối mịt mù. Cô hãy nghe tiếng sì sào buồn bã của cơn gió đang thổi bên trén! Cháu chưa bao giờ nhìn thấy một quang cảnh thiêng liêng hơn! 

- Cô lấy làm sung sướng là sau cùng chúng ta đã tìm thấy một điều gì làm cho cháu trở nên trang nghiêm, cháu thân mến ạ! Ðôi khi cô nghĩ... nhân danh những người còn sống, điều đó là gì vậy? 

Từ một nơi nào đó giữa các bóng đen của những ngọn núi, ở phía bên kia mặt nước, một tiếng kêu sắc nhọn vang lên. Tiếng kêu vút lên trên bầu trời đầy sao, và chấm dứt bằng sự tắt nghẹn đi trong một thứ rên rỉ ai oán. 

"Ðó chỉ là một con chó rừng, cô Adams ạ" Stephens giải thích. "Tôi đã nghe thấy một con chó rừng kêu như vậy khi chúng tôi đi xem tượng Sphinx dưới ánh trăng sáng. 

Nhưng cô gái Mỹ đã đứng lên, nét mặt cô biểu lộ một sự bối rối sâu đậm. 

Cô nói. 

- Nếu có một chuyến du lịch nữa, cô sẽ không xuống quá phía bên kia Assouan. Cô không biết cái gì đã xui khiến cô đưa cháu đến tận nơi này, Sadie ạ, mẹ cháu sẽ nghĩ rằng cô đã hoàn toàn điên rồ, và nếu có một sự cố rắc rối nào xảy ra thì chắc không bao giờ cô còn dám nhìn thấy mặt mẹ cháu nữa. Cô đã nhìn thấy trên con sông này tất cả những gì mà cô muốn nhìn; cô muốn quay trở về Le Caire ngay. 

Sadie phản đối: 

- Ô kìa. cô ơi! Nhút nhát như vậy thật chẳng giống cô một chút nào! 

- Sadie này, cô không biết cô có những tính gì, nếu không phải là những dây thần kinh bị căng thẳng, và cái con thú kêu meo meo ở đằng kia là quá lắm rồi. Cô tự an ủi khi nghĩ rằng ngày mai chúng ta sẽ quay về sau khi xem ngọn núi này hoặc ngôi đền này, cô không biết hơn nữa. Cô đã chán ngấy với núi non và đền đài rồi. Ông Stephens ơi! Tôi sẽ rất sung sướng nếu tôi không nhìn thấy thêm một trái núi, một ngôi đền nào nữa trong suốt đời tôi. Lại đây, Sadie! Chúc ngủ ngon! 

- Chúc ngủ ngon! Chúc ngủ ngon, Cô Adams! 

Bà cô và người cháu gái trở về phòng của họ. 

Ông Fardet thầm thì to nhỏ nói chuyện vãn với Headingly, chàng thanh niên vừa tốt nghiệp ở Harvard giữa hai hơi thuốc lá, ông cúi khom người xuống để giải bày tâm sự với ông ta. 

"Những tu sĩ Hồi giáo à, ông Headingly?" ông nói với một thứ tiếng Anh tuyệt hảo, nhưng thường tách rời các vần như phần lớn những người Pháp. "Nhưng không có các tu sĩ Hồi giáo đâu. Những tu sĩ Hồi giáo không hiện hữu mà!". 

Ông người Mũ trả lời: 

- Tôi thì tôi tin rằng sa mạc đầy rẫy các tu sĩ Hồi giáo đó. Ông Fardet ném một cái nhìn xéo tới chỗ mà đóm lửa đỏ của điếu xì gà của đại tá Cochrane đang lập lòe trong bóng tối mù mịt. Ông nói lẩm bẩm. 

- Ông là người Mỹ, và ông không thích người Anh. Tất cả mọi người trên lục địa đều biết rằng người Mỹ hận thù người Anh. 

- "Thú thật" Headingly nói với một giọng thong thả và chín chắn. 

"Tôi không chối cãi là chúng tôi đã có những xích mích nhỏ, và một số người trong các đồng bào của tôi nhất là những người gốc gác Ái Nhĩ Lan, là những người bài Anh một cách điên cuồng; tuy nhiên đại đa số người Mỹ không nghĩ một điều gì xấu về mẫu quốc. Ðôi khi những người Anh có thể làm chúng tôi tức giận, nhưng họ là người trong gia đình chúng tôi, không bao giờ chúng tôi quên điều đó." 

Ông người Pháp nói: 

- Cho là thế đi! Ít nhất tôi đã có thể thổ lộ tâm tình với ông vì tôi không thể nói thế với những người khác mà không làm họ phật ý. Và tôi nhắc lại rằng không làm gì có những tu sĩ Hồi giáo. Những tu sĩ Hồi giáo đã được bịa đặt ra bởi Lord Cromer năm 1885. 

Headingly kêu lên. 

- Ông nói năng không nghiêm chỉnh đấy! 

- Ðó là một việc ai cũng biết ở Paris; nó đã được công bố bởi tờ La Patrie và những nhật báo thạo tín khác. 

- Nhưng chuyện này là quan trọng đó! ông Fardet này, có phải từ việc này ông muốn nói rằng cuộc bao vây Khartoun và cái chết của Gordon, và tất cả những chuyện còn lại đều thuộc về một sự bịp bợm lớn lao không?

- Tôi không chối cãi là một vụ bạo động đã xảy ra, nhưng vụ đó chỉ là một sự cố địa phương, ông hiểu chứ? Một sự cố đã bị quên lãng từ lâu rồi. Từ đó nước Soudan đã được hưởng một nền hòa bình thật sự. 

- Nhưng, thưa ông Fardet, tôi có nghe nói về những vụ cướp bóc và tôi đã đọc những báo cáo về các trận đánh nhau nữa, khi người Ả Rập toan tính xâm chiếm Ai Cập. Ngày hôm kia chúng ta đã vượt khỏi Toski; anh thông ngôn đã nói cho chúng ta biết là một trận đánh đã diễn ra ở đó. Việc này cũng là bịp bợm? 

- Hừm, ông bạn của tôi ơi, ông không biết người Anh đâu! Ông nhìn thấy họ hút ống píp và nét mặt rạng rỡ, rồi ông nói: "Ðây thật là những người dũng cảm, những con người giản dị, những người không làm thương tổn cả đến một con ruồi!" Nhưng lúc nào họ cũng đắn đo suy nghĩ, họ rình rập, họ thảo ra những kế hoạch. "Ðây là nước Ai Cập yếu kém, họ nói. Chúng ta hãy tới đó!" 

và họ chồm vào nước này như một con chim âu chồm lên một miếng bánh. Cả thế giới lên tiếng phản kháng. "Các ông không có quyền gì trên nước Ai Cập. Các ông cút đi!" Nhưng nước Anh đã bắt đầu thiết lập trật tự khắp nơi, giống hệt như cô Adams tốt bụng kia khi cô ấy chiếm cứ căn nhà một người Ả Rập. "Các ông cút đi!". mọi người trên thế giới nhắc lại câu nói "nhất định rồi, nước Anh đáp lại. Hãy đợi một phút thôi, để tôi có thì giờ làm cho tất cả đều sạch sẽ và gọn ghẽ". Rồi thế giới chờ đợi trong một năm hay hai năm, rồi họ lại nhắc nhở "Các ông hãy cút đi!" Và nước Anh lại trả lời: "Hãy kiên nhẫn một chút: có sự lộn xộn ở Khartoum; khi nào sự yên tĩnh được vãn hồi, tôi sẽ rất hài lòng để đi khỏi". Và thế giới kiên nhẫn chờ đợi. Nhưng khi sự lộn xộn ở Khartoum đã chấm dứt, thế giới lại đòi nước Anh phải ra đi. Nước Anh hỏi: "Làm sao tôi có thể ra đi khi còn những vụ cướp bóc và những trận chiến đang diễn ra? Nếu tôi đi khỏi thì Ai Cập sẽ làm mồi cho lũ man di!" Và thế giới lấy làm kinh ngạc: "Không có những vụ cướp bóc, không có cả những trận đánh nhau!" Lúc đó nước Anh nói: "À, không có thật à?" Và trong tuần lễ sau đó báo chí của họ đã tràn đầy những bài tường thuật về các trận đột kích và các cuộc chinh phạt của các tu sĩ Hồi giáo. Không phải tất cả chúng tôi đều mù, ông Headingly ạ! Chúng tôi hiểu rất rõ cách thức người ta xếp đặt các công việc: một vài tên Bédonins, một khoản tiền thưởng nhỏ, nhưng viên đạn không đầu chì, và hãy chú ý một vụ cướp bóc! 

"Ðược, được!" ông người Mỹ nói "Tôi lấy làm hân hạnh, được biết sự thật về vụ này, vì nó thường làm cho tôi quan tâm tới, nhưng trong vụ này thì nước Anh được lợi lộc gì?" 

- Thưa ông, một đất nước. 

- Tôi biết. Ông muốn nói là chẳng hạn là có một quan thuế biểu ưu đãi cho các hàng hóa của nước Anh phải không? 

- Thưa ông, không ạ. Quan thuế biểu giống nhau cho tất cả mọi nước. 

- Vậy thì hẳn là người Anh đã ký được các hợp đồng? 

- Thưa ông, đúng như vậy. 

- Thí dụ con đường sắt mà người ta làm dọc theo con sông và nó chảy ngang qua nước này đã là đối tượng một hợp đồng béo bở cho một công ty Anh phải không? 

Ông Fardet có đầu óc tưởng tượng, nhưng ông ấy là người thật thà. 

- Thưa ông, đó là một công ty của người Pháp đã ký được hợp đồng làm con đường sắt. 

Ông người Mỹ ngạc nhiên, ông nói: 

- Người Anh không có vẻ là đã kiếm được nhiều lợi lộc so với những khó khăn mà họ phải gánh chịu. Nhưng cuối cùng họ cũng phải hưởng được một vài mối lợi gián tiếp, chẳng hạn chắc chắn là Ai Cập phải trả tiền phí tổn cho tất cả những binh lính mặc y phục màu đỏ đó ở Le Caire chứ gì? 

- Thưa ông, Ai Cập à? Không, những binh lính đó do nước Anh trả lương. 

- Ðược rồi, không phải nhiệm vụ của tôi để nói với người Anh rằng họ làm cách nào để điều hành các quyền lợi của họ, nhưng tôi có cảm tưởng là họ tự làm khổ mình rất nhiều cho những thứ chẳng đáng bao nhiêu ! Nếu họ thích duy trì trật tự và bảo vệ biên cương với giá một cuộc chiến liên miên chống lại các tu sĩ Hồi giáo, thì tôi không hiểu tại sao có người lại lấy việc này ra để công kích. Sự thịnh vượng của đất nước đã gia tăng một cách đáng kể từ khi họ đến đây: những bản thống kê về sự thu nhập đã chứng tỏ điều này. Người ta cũng bảo đảm với tôi rằng hiện nay những dân nghèo đã được thừa nhận quyền lợi, điều này chưa từn bao giờ đã đến với họ. 

"Nhưng nếu vậy thì họ ở đây làm gì?" ông người Pháp tức tối la lên. "Họ hãy trở về hải đảo của họ đi! chúng ta không thể dung thứ được việc họ cứ lan tràn như vậy trên khắp thế giới". 

- Dĩ nhiên là người Mỹ chúng tôi, chúng tôi sống ở nước chúng tôi trên mảnh đất của riêng chúng tôi, chúng tôi thấy khó chịu phải nhìn nhận rằng các ông, những dân tộc âu châu, lúc nào các ông cũng tràn lan, vào những nước khác là những nước hoàn toàn xa lạ với các ông. Tất nhiên chúng tôi dám mạnh miệng nói như vậy, vì dân tộc chúng tôi có nhiều đất đai hơn sự cần thiết. Khi nào chúng tôi bắt đầu thặng dư dân số, chúng tôi cũng sẽ phải tiến hành các cuộc thôn tính. Nhưng hiện giờ thì chỉ riêng ở Bắc Phi thôi đã thấy nước Ý ở Abyssinie, nước Anh ở Ai Cập, nước Pháp ở Algerie... 

Ông Fardet nói lớn tiếng: 

- Nước Pháp! nhưng Algerie là thuộc về nước Pháp! Thưa ông, ông cười à? Tôi rất hân hạnh chúc ông một đêm ngủ ngon! 

Bực bội trong lòng tự tôn ái quốc bị xúc phạm, ông đứng dậy đi về phòng mình.

***

Chương 2

(The tragedy of the “Korosko”)

Người đàn ông Mỹ ngẩn ngơ một lát ông muốn lên bộ để gửi bưu điện bài tường thuật về những cảm tưởng trong chuyến du hành mà ông thường gửi hàng ngày cho chị gái ông, nhưng những điếu xì gà của đại tá Cochrane và Cecil Brown vẫn còn đỏ lập lòe ở đầu bên kia của boong tàu, và ông thì lúc nào cũng rình rập để lấy các tin tức. Ông không biết cách làm thế nào xen vào cuộc đàm thoại của họ, nhưng ông đại tá đã đẩy lại phía ông một cái ghế đẩu và gọi ông. 

- Headingly, lại đây! Ðây là nơi lý tưởng cho một sự giải độc. Tôi tin chắc rằng Fardet vừa mới nói với ông về chính trị. 

"Tôi luôn luôn nhận ra lối đề cập tới vấn đề chính trị quốc tế của ông ấy, chỉ cần trông thấy ông ấy cúi vai xuống để xông vào những cuộc bàn bạc thân mật", nhà ngoại giao sang trọng nói. "Nhưng đó là một sự xuẩn ngốc quá chừng vào một buổi tối như tối hôm nay! Mặt trăng mọc trên sa mạc thế này hứa hẹn với chúng ta một bầu trời đêm kỳ diệu màu xanh và trắng bạc. Trong một bản nhạc của Mendel-Sohn đã có một tình cảm hình như bao gồm được tất cả những điều đó: một sự cảm xúc về vô biên, về sự nhắc nhở, tiếng gió hú bên các khoảng không vô tận. Âm nhạc là nghệ thuật diễn dịch các cảm hứng vi diệu mà các từ ngữ không diễn tả được". 

Ông người Mỹ đã ra nhận xét: 

- Ðêm hôm nay tôi thấy phong cảnh có vẻ man rợ hơn, dữ tợn hơn bao giờ hết. Nó cho tói cảm giác của một sức mạnh tàn nhẫn, giống hệt như Ðại Tây Dương vào một ngày lạnh lẽo và u ám của mùa đông. Có lẽ cảm giác này nảy sinh ở việc là chúng ta biết rằng chúng ta đang ở chỗ ranh giới cùng cực của tất cả các loại pháp luật và các nền văn minh. Thưa đại tá Cochrane, theo ý ông thì chúng ta còn cách những tu sĩ Hồi giáo bao xa? 

Vị đại tá trả lời. 

- Trên mạn bờ thuộc Ả Rập, chúng ta có đồn binh Ai Cập ở Sarras vào khoảng sáu mươi cây số về phía Nam của chúng ta. Bên ngoài nơi đó là những miền đất rất hoang vu nằm dài một trăm cây số trước mặt đồn canh của các tu sĩ Hồi giáo ở Akashek. Nhưng ở bờ bên kia thì không có một vật gì giữa họ và chúng ta. 

- Abousir nằm ngay trên bờ bên đó phải không? 

- Phải. Ðó là lý do tại sao hồi năm ngoái chuyến du hành đã bị ngăn cấm. Nhưng bây giờ thì sự yên tĩnh đã trở lại. 

- Ai có thể ngăn không cho bọn tu sĩ Hồi giáo tràn vào nơi này? 

"Hoàn toàn không có gì cả"!. Cecil Brown đáp lại với một giọng hững hờ. 

- Không có gì cả, ngoại trừ sự sợ hãi. Chắc chắn là họ có thể đến không khó khăn gì! Nhưng sự trở về sẽ nguy hiểm hơn: những con lạc đà kiệt sức của họ sẽ là những mồi ngon cho những con ngựa khỏe mạnh của đạo quân đồn trú ở Ouadi-Halfa. Họ cũng biết rõ điều này như chúng ta vậy : đó là lý do tại sao không bao giờ họ dám liều lĩnh làm việc đó. 

Brown nói lớn: 

- Suy luận về một cảm giác sợ hãi của những tu sĩ Hồi giáo là một điều không hợp lý. Không bao giờ chúng ta được quên rằng họ không tuân theo các động lực giống như những dân tộc khác. Họ đông người và mong mỏi được chết, và họ nhất trí tin tưởng một cách mù quáng vào định mệnh, người ta có thể coi họ là một sự ngoan cố tột cùng của tất cả các điều dị đoan, và chính đó là bằng chứng cho thấy sự cuồng tín và dị đoan đã dẫn con người thẳng tới tình trạng man rợ! 

Ông người Mỹ hỏi: 

- Ông có tin rằng dân tộc này tiêu biểu cho một sự đe dọa thật sự đối với Ai Cập không? Tôi đã từng nghe thấy nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề này, chẳng hạn như ông Fardet, ông ấy không nghĩ rằng mối hiểm nguy là rất cấp bách. 

Ðại tá Cochrane trả lời, sau một sự yên lặng ngắn ngủi. 

- Tôi không phải là người giàu có, nhưng tôi sẵn sàng đánh cuộc tất cả những gì mà tôi có là trong ba năm sau khi các sĩ quan Anh đi khỏi, những tu sĩ Hồi giáo sẽ tới bờ biển Ðịa Trung Hải. Lúc đó thì nền văn minh Ai Cập sẽ ra sao? Hàng trăm triệu bạc đã được đầu tư vào nước này sẽ ra sao? Và những đền đài mà cả thế giới đều ngưỡng mộ và sùng kính và đó là những công trình quí giá nhất của cổ thời sẽ ra sao? 

Headingly cười lớn phản đối: 

- Này, ông Ðại tá! Không phải là ông cũng định nói rằng họ sẽ phá hủy các Kim Tự Tháp đấy chứ? 

- Không thể đoán trước được là họ sẽ làm gì! Không có một kẻ bài trừ thánh tượng nào lại điên cuồng hơn là một tên Hồi giáo cuồng tín. Trong cuộc xâm nhập cuối cùng của họ vào Ai Cập, các tu sĩ Hồi giáo đã đốt cháy thư viện ở Alexandrie: Ông biết rằng kinh Coran đã cấm đoán tất cả mọi sự hình dung cái mặt của con người. Do đó dưới mắt họ một pho tượng là một vật chống tôn giáo. Và bọn người man rợ này coi các cảm tính của Âu Châu như một điều xui xẻo. Ngược lại: họ càng lăng nhục chúng thì họ càng khoan khoái. Tượng Sphinx sẽ bị hạ xuống, pho tượng Colorse sẽ bị hạ xuống! Giống hệt như ở nước Anh, trước các quân lính của Cromwell, các vị thánh đều bị quăng xuống đất. 

"Ta hãy xét kỹ một chút" Headingly nói với sự chậm chạp chín chắn của ông ấy. "Ta hãy chấp nhận rằng bọn tu sĩ Hồi giáo có đủ khả năng chinh phục Ai Cập và ta cũng chấp nhận là người Anh các ông ngăn cản họ làm việc đó. Nhưng vì lý do nào mà các ông chi ra nhiều triệu đô la đó và các ông hy sinh bao nhiêu sinh mạng người Anh như vậy? Các ông kiếm được bao nhiêu lợi lộc hơn là nước Pháp, nước Ðức hoặc bất cứ một nước nào không gánh chịu một sự rủi ro nào và không tiêu tốn một xu nào? 

Cecil Brown trả lời: 

- Nhiều người Anh hiền lành cũng đặt ra câu hỏi như vậy. Theo ý tôi thì từ khá lâu rồi chúng tôi đã là những viên cảnh sát của thế giới: chúng tôi đã quét sạch bọn kẻ cướp và bọn buôn nô lệ khỏi các đại dương; hiện nay chúng tôi giải phóng trái đất khỏi tay các tu sĩ Hồi giáo và tất cả những lũ giặc cướp đe dọa nền văn minh. Nếu những người Kurdes quấy rối trật tự công cộng ở Tiểu Á-tế-á, nhân dân trên thế giới muốn biết rằng tại sao Anh Quốc lại không trừng trị họ. Nếu xảy ra một cuộc binh biến ở Ai Cập hay ở Soudan, cũng vẫn là Anh Quốc có nhiệm vụ dẹp tan nó. Và tất cả công việc đó giữa những lời nói xấu cùng một giọng điệu khắp nơi, giống như một nhân viên cảnh sát đã nghe thấy khi anh ta bắt giữ một tên côn đồ trong một ngõ hẻm tối tăm. Chúng tôl chỉ nhận được những lời nói xấu và không có một lời cám ơn nào. Tại sao phải kiên trì như thế? Tốt nhất là ta nên để cho Âu Châu tự mình hoàn thành cái công việc bạc bẽo này. 

"Thú thật là" đại tá Cochrane nói trong khi bắt chéo chân lên và khom mình về phía trước với vẻ cương quyết của một người đã có một ý kiến vững vàng "tôi không đồng ý với ông một chút nào, ông Brown ạ! và tôi cho rằng sự hẹp hòi trong lý luận của ông không phù hợp với những bổn phận của Anh Quốc. Tôi nghĩ rằng đằng sau các quyền lợi quốc gia, đằng sau công việc ngoại giao và tất cả mọi thứ còn lại, còn có một mãnh lực chủ đạo nữa (thực sự là một thiên mệnh) là điều từ xưa vẫn luôn luôn gạn lọc lấy phần tinh hoa nhất của mỗi dân tộc và dùng nó để làm điều tốt đẹp cho cả loài người. Khi một dân tộc thôi không tuân theo điều này tức là nó đã cằn cỗi để nằm trong cơn bệnh hoạn vài ba thế kỷ, như kiểu nước Tây Ban Nha hay nước Hy-Lạp: đó là vì những phẩm chất tốt đã rời bỏ họ, một người hay một quốc gia không phải chỉ được sinh ra trên trái đất này để làm việc gì thích thú hay việc gì mang lại lợi lộc. Thường khi người ta đòi hỏi chúng ta phải làm những việc vừa buồn chán, vừa tốn kém, nhưng nếu công việc là chính đáng thì chúng ta phải tiến lên và không lẩn tránh... " 

Headingly gật đầu tán thành. 

-... Mỗi nước có một sứ mạng riêng của mình ! Nước Ðức thì vượt trội trong tư tưởng trừu tượng; nước Pháp thì trong văn chương, trong nghệ thuật và sự thanh lịch. Nhưng các ông và chúng tôi (tất cả những người nói tiếng Anh đều ở trên một con tàu), chúng ta có trong giới thượng lưu của chúng ta một quan niệm cao cả hơn về tinh thần đạo đức và về nhiệm vụ chung so với bất kỳ một dân tộc nào khác mà đó là hai đức tính cần phải có để dẫn dắt một chủng tộc yếu kém hơn. Các ông không thể giúp đỡ các dân tộc yếu kém bằng tư tưởng trừu tượng hoặc bằng các nghệ thuật mua vui, nhưng chỉ có thể bằng cái tinh thần đạo đức này, nó giữ thăng bằng cho cán cân công lý và nó tự giữ được trong trắng, tránh khỏi mọi hoen ố. Ðó là cách mà chúng tôi cai trị Ấn Ðộ. Chúng tôi đã tới nơi đó bởi kết quả của một thứ luật thiên nhiên, giống hệt như không khí ùa vào để lấp kín một chỗ trống. Ở khắp mọi nơi trên thế giới, đi ngược lại với quyền lợi trực tiếp của chúng tôi và bất chấp những ý định có sẵn của chúng tói, chúng tôi đã bị đưa đẩy tới chỗ phải làm cùng một việc như vậy. Ðiều này rồi sẽ đến với cả các ông đó: áp lực của định mệnh sẽ ép buộc các ông phải điều khiển tất cả Mỹ Châu, từ Mễ Tây Cơ cho tới mũi Horn. 

Headingly bật ra một tràng huýt gió. 

"Những anh ái quốc cuồng tín hẹp hòi của chúng tôi sẽ rất sung sướng được nghe ông nói đấy, đại tá Cochrane ạ!", ông ta nói. "Họ bỏ phiếu cho ông ở Thượng viện và sẽ làm ông trở thành một ủy viên của ủy ban ngoại vụ đấy!" 

- Thế giới thì nhỏ bé, và mỗi ngày nó một thu nhỏ hơn. Nó tạo ra một cơ thể duy nhất: sự thối mục ở một địa phương sẽ có thể lan truyền và làm ung thối tất cả toàn thể. Trên trái đất không có chỗ cho những chính phủ gian lận, không làm tròn những lời cam kết, chuyên chế, vô trách nhiệm. Sự tồn tại của họ bao giờ cũng là nguồn gốc của các vụ lộn xộn và hiểm nguy. Nhưng nhiều chủng tộc có vẻ như quá bất lực trong sự tiến bộ khiến ta không thể hy vọng một ngày nào đó họ có được một chính quyền tốt. Vậy thì ta phải làm gì? Ngày xưa Thượng đế giải quyết vấn đề bằng sự tận diệt một Attila, một Tamerlan đã tỉa bớt những cành yếu kém nhất. Ngày nay thì những qui luật ít nghiêm ngặt hơn đã được thay vào đó: những Phó Vương ở Trung Á và những Quốc gia bảo hộ ở Ấn Ðộ là bằng chứng về điều này. Vì công cuộc này phải được hoàn thành, và bởi vì chúng tôi là những người có trang bị tốt nhất để thành công trong việc này, tôi nghĩ rằng bác - khước chúng tôi sẽ là một sự hèn nhát và một tội ác. 

Ông người Mỹ phản đối. 

- Nhưng ai giải quyết vấn đề để biết rằng các ông có phải là những người được trang bị tốt nhất để can thiệp hay không? Bất kỳ một quốc gia ăn cướp nào cũng có thể sử dụng chiêu bài này để thôn tính toàn thể trái đất. 

- Chính những biến có sẽ giải quyết vấn đề. Những biến cố tàn khốc và không thể tránh được. Thí dụ ông hãy xem vụ Ai Cập đó. Vào năm 1881, ở nước chúng tôi không ai nghĩ tới việc can thiệp ở Ai Cập. Vậy mà năm 1882 chúng tôi đã chiếm giữ nước này. Sự tiếp diễn của các biến cố không để cho chúng tôi một sự lựa chọn. Một vụ tàn sát trong các phố ở Alexandrie, việc bố trí các súng đại bác để xua đuổi hạm đội của chúng tôi đang có mặt tại đó để làm tròn các trách vụ thiêng liêng của - một thỏa ước, như ông đã biết đó, đã khơi ngòi cho cuộc oanh kích. Cuộc oanh kích đã khai mào cho một cuộc đổ quân nhằm giải cứu thành phố khỏi bị hủy diệt. Cuộc đổ bộ dẫn tới sự mở rộng các cuộc hành quân... Và chúng tôi đang ở đây để trông nom, săn sóc đất nước này. Khi những vụ lộn xộn bùng lên, chúng tói đã khẩn cầu, năn nỉ người Pháp và nhiều nước khác tới giúp chúng tôi vãn hồi trật tự : họ đều ngoảnh mặt làm lơ, nhưng họ đã sẵn sàng để công kích chúng tôi. Khi chúng tôi định ra khỏi cái tổ ong vò vẽ này thì vụ nổi loạn của các tu sĩ Hồi giáo bùng ra, và chúng tôi đã phải trụ lại một cách vững chắc hơn bao giờ hết. Chúng tôi đã không đòi hỏi nhiệm vụ này; nhưng khi chúng tôi bị bắt buộc phải hoàn thành nó, thì ít nhất chúng tôi cũng phải làm cho tốt. Chúng tôi đã thiết lập công lý, thanh lọc bộ máy cai trị, bảo vệ những dân nghèo. Nước Ai Cập, đã tiến bộ nhiều hơn trong vòng mười hai năm qua, so với suốt cuộc xâm lăng của Hồi giáo từ thế kỷ mười bảy. Ngoài số lương của hai trăm người, những người này lại tiêu tiền của họ ở ngay trong nước Anh Quốc đã không lấy đi một cách trực tiếp hay gián tiếp, một xu nào trong suốt công cuộc này. Tôi không tin rằng ông lại có thể tìm ra trong lịch sử một sự nghiệp thành công tốt đẹp và vị tha hơn thế. 

Headingly hít một hơi thuốc lá trong khi suy nghĩ. 

"Ở Boston có một ngôi nhà gần với nhà chúng tôi" ông nói, "đã làm hư hại tất cả vẻ đẹp trên vùng biển. Những cái ghế bành cũ nát quăng bừa bãi trên sân đất trước nhà, những bức tường sụp đổ, khu vườn là một bãi bụi hoang, nhưng tôi không nghĩ rằng những người hàng xóm có ý định xâm nhập bằng bạo lực để cư ngụ tại đó và để xếp đặt các đồ vật theo sở thích của họ". 

Ông đại tá hỏi: 

- Nhưng nếu ngôi nhà bốc cháy thì sao? 

Headingly cười lớn và đứng lên ông nói. 

- Thưa ông đại tá, trường hợp này không được tiên liệu bởi chủ thuyết Monroe! Tôi bắt đầu nhận thức được rằng nước Ai Cập hiện đại cũng hoàn toàn thú vị như nước Ai Cập cổ đại và rằng vua Ramsès đệ nhị đã không phải là người đàn ông cuối cùng sống ở nước này. 

Ðến lượt họ, cả hai người Anh cùng đứng lên. 

- Phải, đó là một sự mỉa mai của định mệnh đã xui khiến những cư dân một hòn đảo nhỏ trên Ðại Tây Dương cai trị mảnh đất của các vị Hoàng đế Ai Cập". Cecil Brown đưa ra lời nhận xét. "Ðến lượt chúng ta, chúng ta sẽ tự tàn lụi, và chúng ta sẽ không để lại một kỷ niệm đặc biệt nào trong số những chủng tộc khác nhau đã cai trị đất nước này, vì người Anh không có thói quen khắc các hành động của họ lên đá. Những dấu vết của một hệ thống thoát nước ở Le Caire chắc chắn sẽ là vết tích duy nhất của sự dừng chân của chúng tôi ở đây. Vậy mà rất có thể là sau đây một ngàn năm những nhà khảo cổ sẽ cho rằng công trình này đã được thực hiện bởi triều đại Hyksos. Nhưng kìa những bạn đồng hành khác của chúng ta đi dạo chơi thành phố đã trở về rồi. 

Thật vậy, ở phía dưới họ, họ đã nghe thấy giọng nói Ái Nhĩ Lan êm ái của bà Belmont và tiếng nói trầm trầm của ông chồng bà. Ông Stuart vị mục sư to lớn của Birmingham đang tranh cãi về vấn đề những đồng bạc với một anh chàng dắt lừa lắm mồm; những ý kiến và lời khuyên can tuôn ra từ khắp mọi phía. Rồi sự thỏa thuận được dàn xếp xong, tiếng ồn ào giảm dần, những người về muộn leo lên cầu thang, những tiếng "Chúc ngủ ngon" được trao đổi, những cánh cửa sập mạnh và con tàu nhỏ trở lại yên lặng trong bóng tối của bờ cao của con sông. Ở bên kia cái điểm cùng cực này của nền văn minh và sự tiện nghi, trải dài một bãi sa mạc vô biên, man rợ, vĩnh cửu, màu rơm dưới ánh trăng, lốm đốm những bóng đen xì của những dãy núi.

***

Chương 3

“Đứng lại! Lui lại" viên hoa tiêu người bản xứ quát bảo anh thợ máy người Âu Châu. 

Cái phần mũi phình ra của con tàu xẹp xuống trên vũng bùn trơn tuột màu nâu, và dòng nước đã đẩy con tàu đi song song với bờ sông. Ngay sau khi cái cầu phao dài được thả xuống, sáu người lính lực lưỡng của đoàn hộ tống người Soudan đã bắt tay vào công việc. Dưới ánh sáng trong trẻo của buổi ban mai, họ có dáng bộ rất đẹp, với những bộ đồng phục màu xanh nhạt viền vàng và những chiếc mũ ca rô màu đỏ và vàng. Trên bờ sông, những con lừa được sắp đứng thành hàng, và lũ trẻ con làm ngột ngạt không khí với những tiếng reo hò của chúng. Những lời reo hò này là dành cho người nào bằng một kiểu cách bén nhọn nhất biểu dương được các phẩm chất của con lừa của mình và dèm pha các phẩm chất của con bên cạnh. 

Ðại tá Cochrane và ông Belmont cùng đứng trên mũi tàu, họ đội cái mũ trắng rộng vành cùng với cái khăn che mặt của khánh du lịch. Cô Adams và người cháu gái đứng tựa vào tấm lan can tàu bên cạnh họ. 

Ông đại tá nói: 

- Tôi lấy làm tiếc rằng quí phu nhân đã không cùng đi với chúng ta, ông Belmont ạ. 

- Tôi nghĩ rằng hôm qua bà ấy đã bị ngã nắng qua loa; bà ấy nhức đầu lắm. 

Ông ấy có giọng nói của cái bóng của ông ấy : mạnh mẽ và mập mạp. 

"Tôi tình nguyện ở lại để bầu bạn với bà ấy, ông Belmont ạ" cô gái già người Mỹ nói. "Nhưng tôi nghe nói là bà Shlesinger thấy cuộc du ngoạn quá dài và bà ấy có nhiều thư từ phải viết để hôm nay gửi bưu điện, như vậy là bà Belmont sẽ không cảm thấy quá đơn độc nữa". 

- Cô rất khả ái, cô Adams ạ. Có lẽ chúng tói sẽ quay về vào lúc hai giờ đó. 

- Chắc vậy không? 

- Chắc chắn mà. Chúng tôi không mang theo bữa ăn sáng. Chúng tôi sẽ đói ngấu! 

"Phải, tôi có cảm tưởng là chúng tôi sẽ chạy xô tới một cốc rượu vang Rhin và nước có hơi" ông đại tá phát biểu đồng tình. "Bụi ở sa mạc sẽ làm cho chúng tôi thấy thứ rượu vang tệ nhất cũng khoái khẩu rồi!" 

"Bây giờ, thưa các quí bà và các quí ông!" Mansoor, anh thông ngôn đang đi tới và nói lớn (người ta có thể nói đó là một vị linh mục với cái áo dài của anh ta bay phất phới trước gió và bộ mặt cạo nhẵn nhụi của anh ta) "Chúng ta phải khởi hành sớm để tránh cái nóng buổi trưa...". 

Cái nhìn trìu mến của anh lướt qua nhóm du khách ít ỏi. 

- Cô Adams, xin cô hãy đeo kính màu vào, vì trong sa mạc sự phản xạ rất mạnh. À, ông Stuart, tôi đã dành cho ông một con lừa! Một con lừa hảo hạng đấy, thưa ông, con lừa mà tôi thường vẫn để dành cho vị khách nào cường tráng nhất. Quí vị không cần đem theo vé. Bây giờ, thưa các quí bà và các quí ông, xin quí vị vui lòng! 

Người này nối theo người nọ, các du khách đi qua cầu tàu. Ông Stephens đi đầu, người gầy gò, khô khỏng, nghiêm nghị, đầu đội một cái mũ rơm, quyển sách hướng dẫn cắp trong cánh tay, ông giúp cho cô Sadie và bà cô của nàng leo lên bờ và tiếng cười của cô thiếu nữ vang lên tươi mát và trong trẻo khi quyển sách hướng dẫn tuột ra và rơi xuống rìa vũng bùn. Ông Belmont và đại tá Cochrane đi theo sau, những cái vành mũ của họ chạm vào nhau vì họ tranh luận với nhau về các ưu điểm của các loại súng Mauser, Lebel và Lee-Metford. Ðằng sau họ Cecil Brown bước đi một cách lơ đãng, với cái nhìn châm chọc, lặng lẽ. Vị mục sư cao lớn dùng thì giờ để leo lên đỉnh cao của bờ dốc. Vừa leo vừa càu nhàu về thân hình phì nộn của ông. 

"Tôi thuộc vào loại những người mang tất cả mọi thứ ở phía trước họ", ông vừa rên rỉ vừa nhăn nhó nhìn thân thể tròn vo của ông. Những lời nói đùa của chính ông đã làm ông tươi tỉnh lại và ông cố nén một tiếng cười nhỏ. 

Headingly, người cao và gầy, lưng hơi gù, và Fardet, người dân thành phố Paris, người thích lý luận, là hai người đi sau cùng. 

Người đàn ông Pháp thì thầm với ông người Mỹ. 

- Ông thấy đó, hôm nay chúng ta có một toán hộ tống! 

- Vâng, tôi đã nhận ra việc này. 

- Hừm! Tại sao lại không có một toán hộ tống giữa Paris và Versailles? Sự trang tri là một phần của căn phòng, ông Headingly ạ. Không ai bị lầm đâu, nhưng với căn phòng đó thì phải có sự trang trí này. Này, anh thông ngôn, tại sao chúng ta phải dẫn theo những anh lính kỳ cục đó? 

Vai trò của người thông ngôn là làm vui lòng tất cả mọi người, do đó anh ta thận trọng nhìn quanh mình trước khi trả lời; anh muốn biết chắc rằng mấy người Anh không nghe thấy anh ta nói. 

- Thưa ông, đúng là buồn cười đó! Nhưng ông muốn gì? Ðó là lệnh chính thức của giới chức Ai Cập. 

Ông người Pháp kêu lên. 

- Các giới chức Ai Cập à? Ý anh muốn nói các giới chức Anh hả! Lúc nào cũng là những người Anh đó! 

Trong khi đó, các du khách đã chọn xong lừa, ngựa của họ, và những chiếc bóng của họ ngồi trên lưng ngựa nổi bật trên nền trời màu xanh xẫm. Belmont ngồi một cách ngay ngắn, vững vàng trên một con lừa trắng bé nhỏ, vung vẩy cái mũ với bà vợ ông ấy vừa đi ra trên boong con tàu Korosko. Cochrane giữ rất thẳng người, với một cách ngồi nghiêm ngặt của nhà binh: hai bàn tay thấp xuống, đầu ngẩng cao lên, hai gót chân chỉ xuống đất. Bên cạnh ông, nhà ngoại giao trẻ, người đã được đào tạo ở Oxford, đang quan sát phong cảnh với một cái nhìn nặng nề và cao ngạo, như thể ông ta nghi ngờ sự đáng kính của sa mạc nói riêng và của vũ trụ nói chung. Ở phía sau, các du khách khác tiến bước theo hàng dọc, dọc theo bờ dốc, khi thì vất vả ít nhiều, khi thì thoải mái đôi chút. Mỗi con lừa đều có một người dắt: những thằng nhỏ vừa ồn ào, vừa chai lì. Trên boong tàu màu chì, chiếc khăn mùi xoa của bà Belmont vẫn còn nhấp nhánh. Dòng sông nâu vẽ ra những vòng lớn tới tận tám cây số đằng xa; những đồn canh trắng, vuông ở trên những trái núi đen xì và lởm chởm chỉ rõ miền ven của Ouadi-Halfa, nơi mà các du khách đã ra đi buổi sáng. 

Sadie kêu lên một cách vui thích: 

- Không phải là kỳ diệu hả? Tôi có một con lừa chỉ thích phi nước đại thôi, và các vị nhìn đây, cái yên của tôi mới sang trọng làm sao! Các vị đã từng nhìn thấy cái gì tinh xảo hơn những các hột kết thành chuỗi này và những thứ nhỏ nhặt khác quấn quanh cổ nó không? Chắc ông phải làm một bản bị vong lục về con lừa đó, ông Stephens ạ! Tôi sử dụng từ ngữ pháp lý có đúng không đó? 

Stephens quay lại phía khuôn mặt xinh đẹp, sinh động đang nhìn ông dưới cái nón rơm đỏm dáng và ông rất muốn nói chính nàng mới là kỳ diệu, nhưng ông rất sợ làm phật lòng nàng và làm tan vỡ sự thân mật vui vẻ của họ nên thay vì tất cả những lời khen ngợi, ông chỉ tặng nàng một nụ cười. 

Ông nói: 

- Cô có vẻ rất sung sướng! 

- Xem kìa! Ai có thể không cảm thấy sung sướng với không khí khô ráo và lành mạnh này, bầu trời xanh này, bãi cát vàng lạo xạo này, và một con lừa tuyệt diệu để chở bạn đi? Tôi đã có đủ tất cả mọi thứ cần có để làm cho tôi sung sướng! 

- Tất cả mọi thứ? 

- Tóm lại, tất cả mọi thứ tôi cần có trong lúc này. 

- Tôi nghĩ là cô không biết thế nào là buồn bã phải không? 

- À, khi tôi cảm thấy buồn khổ, tôi buồn khổ quá đi, không thể nói sự buồn tủi nên lời! Trong bao nhiêu ngày, hết ngày này tới ngày khác, tôi đã không ngừng khóc ở Smith College; các cô con gái khác hỏi nhau tại sao tôi khóc và tại sao tôi không muốn nói với họ lý do mà tôi phải khóc. Lý do thật sự là chính tôi cũng không biết tại sao tôi khóc. Ông biết đó; đôi khi một bóng đen lớn tới lơ lửng bên trên người ông, ông không biết một chút gì về nó cả; nhưng ông chỉ còn có cách là tự xét lại mình và tự cảm thấy buồn khổ thôi. 

- Nhưng cô đã không bao giờ có một lý do thật sự để buồn rầu mà? 

- Không, ông Stephens ạ. Suốt cả đời tôi, tôi đã có rất nhiều thời kỳ tốt đẹp khiến cho khi tôi nhìn lại phía sau, tôi không tin là tôi đã từng có một lý do thật sự để buồn phiền. 

- Ðược rồi, cô Sadie này, tôi hết lòng hy vọng rằng cô vẫn sẽ có thể nói điều này khi cô tới độ tuổi của bà cô của cô. Nhưng tôi nghe thấy tiếng bà ấy gọi chúng ta!

"Ông Stephens này, tôi muốn ông trừng trị tên dắt lừa của tôi bằng cái roi của ông nếu hắn còn đánh con vật khốn khổ của tôi!", cô Adams nói lớn, vì cô đã vớ phải một con lừa cao lớn chỉ có da bọc xương. "Nè, anh thông ngôn! nói với thằng ranh con này là tôi sẽ không dung thứ việc nó hành hạ những con vật: nó phải biết hổ thẹn chứ! Nó trưng ra với tôi những nụ cười như là một tấm hình quảng cáo của thợ làm răng vậy. Ông Stephens, ông có tin rằng nếu tôi đan một đôi bít tất len cho anh lính da đen này, thì anh ấy sẽ được phép mang không? Tên quỷ khốn khổ này chỉ có những băng vải quấn quanh chân!" 

"Ðó là những cái xà cạp, cô Adams ạ" đại tá Cochrane quay lại giải thích. "Ở Ấn Ðộ chúng tôi đã nhận thấy rằng không có thứ gì tốt hơn để làm cho việc đi bộ được dễ dàng. Ðối với một người lính thì những cái xà cạp đượ ưa thích hơn những bít tất len rất nhiều". 

- Vậy thì chúng ta không nói tới chuyện đó nữa! nhưng người ta nói một con ngựa bị thương. Tôi thấy chúng ta rất oai vệ với đoàn hộ tống có võ trang này. Nhưng ông Fardet khẳng định với tôi rằng chúng ta không có gì phải lo sợ cả. 

"Ít nhất đó là ý kiến riêng của tôi, thưa cô!" người đàn ông Pháp vội vã đính chính. "Rất có thể là đại tá Cochrane lại có một ý kiến khác biệt" 

"Ý kiến của ông Fardet trái ngược với ý kiến của những sĩ quan chịu trách nhiệm bảo đảm an ninh ngoài biên giới", vị đại tá lạnh lùng trả lời. "Nhưng tôi nghĩ là tất cả chúng ta đều đồng ý để thấy rằng sự hiện diện của những người lính này sẽ đóng góp thêm vào sự tráng lệ của khung cảnh". 

Bên phía tay phải của họ, sa mạc kéo dài những luống cát mềm mại mấp mô của nó, trông giống như những cồn cát bao quanh một cái biển cổ xưa đã bị quén lãng. Khi các du khách leo lên những cồn cát này, từ trên cao họ nhìn thấy những chóp đỉnh đen xì của những núi lửa kỳ quái đứng sững trên bờ sông về phía Libye. Những người lính tiến lên bằng những bước mau lẹ, khẩu súng lăm lăm trong tay, lúc thì những bóng của họ hiện lên trên các đỉnh cao, lúc thì chúng mất dạng trong các hang hõm. 

"Họ được tuyển mộ ở đâu vậy?" Sadie hỏi. "Họ có cùng một màu da như những người gác thang máy ở Mỹ". 

"Tôi đã nghĩ là cô sẽ đặt với tôi một câu hỏi về họ". Ông Stephens nói, ông là người không bao giờ hài lòng hơn là khi đoán trước được một ý nguyện của cô gái Mỹ xinh đẹp. "Sáng hôm nay tôi đã thực hiện một vài sự sưu khảo trong thư viện của con tàu. Ðây này... Ré.. Tôi muốn nói: Vấn đề những người lính da đen. Theo những điều ghi chép của tôi, họ thuộc về tiểu đoàn mười người Soudan trong quân đội Ai Cập. Họ được tuyển mộ trong các bộ lạc da đen Dinkas và Shilluks sinh sống ở miền Nam của xứ sở các thầy tu Hồi giáo, gần đường xích đạo". 

"Làm cách nào mà các tân binh có thể đi qua xứ sở của những thầy tu Hồi giáo?" Headingly hỏi. 

"Tôi nghĩ họ đã không gặp quá nhiều khó khăn đâu". Ông Fardet nói lẩm bẩm và nháy mắt với người đàn ông Mỹ. 

- Những chiến binh lão luyện là những người sống sót của hai tiểu đoàn già nua lính da đen. Một vài người đã phục vụ dưới quyền của Gordon ở Khartoum và họ đã dành được một huy chương ở đó, những người khác thì phần lớn là các đào binh của đạo quân ở Mahdi. 

Cô Adams nói: 

- Thú thật là khi mà chúng ta không cần tới sự phục vụ của họ thì trông họ cũng khá dễ thương trong bộ đồng phục xanh dương này. Nhưng khi gặp sự bực bội, tôi tưởng rằng ta nên cầu chúc cho họ đỡ phần trang trí đi và trắng hơn lên một chút!" 

"Tôi không tin chắc ở điều đó, thưa cô", ông đại tá trả lời. "Tôi đã nhìn thấy những người này trên trận địa; người ta có thể tin ở sự dũng cảm của họ trong khói lửa" 

"Nhưng này, tôi thích tin ở ông qua lời nói chứ không phải qua việc thực hiện một kinh nghiệm!" cô Adams tuyên bố với một giọng làm mọi người mỉm cười. 

Con đường chảy dài theo bờ sông Nil, nước sông bị xao động bởi những xoáy nước dưới sâu, chảy theo sức mạnh của những thác nước ở thượng nguồn. Có chỗ đà chảy của dòng nước bị vỡ tung vì một tảng đá đen xì óng ánh ướt sũng những bọt nước. Ở trên cao hơn, các du khách nhìn thấy rõ ràng sự lấp lánh như bạc của những cái thác nước, những bờ sông đã bắt đầu hóa thành những bờ dốc thẳng đứng. Chẳng bao lâu một núi đá hình bán nguyệt hiện ra sừng sững. Người thông ngôn đã không cần phải nói rõ đó là ngôi đền có tên trong chương trình du ngoạn của họ. Một con đường bằng phẳng dẫn tới ngôi đền. Những con lừa đi vào con đường với nước kiệu nhỏ, ở giữa những tảng đá đen trên nền màu cam, những khúc cột chỉ thẳng lên trời, cũng như một quãng tường thành còn sót lại có mang những dòng chữ, cứ theo màu da xám xịt của nó và sự vững chãi của nó thì hình như nó đã được tạo ra bởi tạo hóa chứ không phải bởi con người. Chàng thông ngôn Mansoor đã xuống ngựa và đợi cho những người đi chậm bắt kịp anh ta. 

"Thưa quí ông và quí bà ngôi đền này", anh nói lớn với điệu bộ một nhân viên đấu giá đang chuẩn bị lần rao giá cuối cùng, "là một kiểu mẫu mỹ thuật rất đẹp dưới triều đại thứ mười tám. Ðây là khuôn ảnh của Hoàng đế Thotmes Ðệ Tam!" anh lấy cán roi ngựa chỉ vào những chữ tượng hình khắc sâu trong vách đá. "Ngài đã sống sáu trăm năm trước chúa cơ đốc, và tấm bia ký này là để kỷ niệm chuyến du ngoạn đắc thắng của ngài ở Mesopotamie. Trên những hình chạm nổi kia chúng ta có lịch sử của ngài, từ thuở ngài sống với mẹ cho tới khi ngài hồi cung với những tù nhân bị cột vào xe của ngài. Chỗ này quí vị trông thấy ngài được tấn phong bởi Ai Cập Hạ, và chỗ kia bởi Ai Cập Thượng, nước đã dâng một thánh lễ lên thần Ammon-Ra, để tôn vinh chiến thắng của ngài. Chỗ này những tù nhân đứng trước mặt ngài, và mỗi tên đều bị ngài cắt mất bàn tay phải. Trong góc kia, quí vị nhìn thấy một đống nhỏ, chỉ nguyên những bàn tay phải. 

"Lạy chúa tôi, chắc tôi không muốn có mặt ở nơi này vào thời gian đó!" cô Adams nói. 

"Này, không có gì thay đổi cả!" Cecil Brown đưa ra nhận xét. "Ðông phương bao giờ cũng là Ðông phương. Tôi không nghi ngờ chút nào rằng, cách chỗ mà hiện giờ cô đang đứng chừng một trăm năm mươi cây số hoặc có thể là ít hơn thế nữa... " 

"Ông hãy im đi!" ông đại tá nói nhỏ. 

Các du khách đi dọc theo bức tường thành trong khi ngẩng đầu lên và hất những cái mũ lớn của họ ra phía sau. Ðằng sau họ mặt trời đổ vào bức tường cổ xưa này một ánh sáng màu đồng và chiếu lên các tảng đá những cái bóng đen của các du khách lẫn lộn với những chiến binh da đen. Cái bóng đồ sộ của cha John Stuart ở Birmingham trong một lúc bao trùm cả ông vua ngoại đạo và vị thượng đế mà ông tôn thờ. 

"Cái gì đây?" ông hỏi với giọng sắc nhọn trong khi giơ thẳng cái ba tôn màu vàng ở Assouan lên. 

"Một con trâu nước" anh thông ngôn trả lời. 

Và tất cả các du khách cố nén một tiếng cười nhỏ vì con vật này có một nét nào đó của ông Stuart. 

"Nhưng nó không lớn hơn một con heo con!" ông phản đối. "Hãy nhìn kìa, ông vua xiên nó trên ngọn giáo một cách dễ dàng". 

"Nó đã được vẽ rất nhỏ, để chứng tỏ rằng so sánh với nhà vua nó chỉ là một vật bé nhỏ" anh thông ngôn giải thích. "cũng như quí vị có thể trông thấy các tù nhân chỉ đứng tới đầu gối nhà vua; đó không phải vì ông ấy có một thân hình đồ sộ mà vì ông ấy có rất nhiều quyền lực hơn họ. Xin hãy nhìn nữa đây, ông ấy to hơn con ngựa của ông ấy vì ông ấy là vua và một con ngựa chỉ là một con ngựa. Một thí dụ nữa: những người đàn bà bé bỏng mà quí vị nhận ra ở chỗ này hay chỗ khác đều là những người vợ tầm thường của ông ấy!" 

"Thật đẹp mặt!" Cô Adams la lên với sự giận dữ. "Nếu người ta khắc được linh hồn của vị vua này, thì hẳn ta phải có một cái kính hiển vi để xem cái linh hồn đó. Liệu ta có thể chấp nhận được rằng ông ấy đã cho phép các bà vợ ông ấy được trưng bày ra theo cái cách thật lố bịch này không?" 

"Nếu ông ấy sống vào thời đại chúng ta" ông người Pháp nói. "thì trong lĩnh vực này ông ấy sẽ vấp phải nhiều khó khăn hơn là ông ấy đã từng gặp phải ở Mésopotamie. Nhưng thời gian sẽ đem lại những sự phục hận. Có thể là rồi đây chúng ta sẽ nhìn thấy hình ảnh một người đàn bà cường tráng và người chồng bé nhỏ tầm thường của bà ta, phải không?" 

Cecil Brown và Headingly đứng ở phía sau, vì những lời bình luân điên đảo thị phi của anh thông ngôn và những câu nói dông dài vô bổ của các du khách đã làm ngột ngạt cảm giác về sự trang nghiêm của họ. Họ lặng lẽ đứng nhìn cái đám rước kỳ quái của những chiếc mũ che nắng và những chiếc khăn trùm đầu màu xanh này diễu hành trước bức tường thành xám xì cổ lỗ. Bên trên đầu họ hai con chim sẻ quạt vừa bay chập chững vừa gọi nhau ở giữa những cây cột trụ đổ nát hoang tàn. 

"Ðó có phải là một sự báng bổ không?" cuối cùng người đàn ông xuất thân từ Oxford lẩm bẩm nói. 

"Này, tôi hài lòng với cảm tưởng của ông! Nó tương hợp với ý của tôi" Headingly trả lời. "Tôi không biết rõ người ta phải tiếp cận loạt sự vật này như thế nào, một khi ta chấp nhận rằng họ phải tiếp cận chúng, nhưng chắc chắn đây không phải là cách đúng. Tóm lại tôi ưa thích những cảnh hoang phế mà tôi chưa nhìn thấy hơn là những cảnh mà tôi đã thấy... ". 

Nhà ngoại giao trẻ ném cho ông ta một cái nhìn đầy nhiệt tình, mỉm cười, nhưng rồi ông lấy lại ngay bộ mặt của con người đã quá chai lì. 

"... Tôi có một tấm bản đồ" ông người Mỹ nói tiếp, "Ðôi khi ở rất xa mọi sinh vật, ở tận giữa bãi sa mạc, không có nước, không có đường mòn, tôi đọc thấy "phế tích" hay "di tích một đền đài". Ngôi đền của Jupiter Ammon chẳng hạn, một trong những đền đài danh tiếng nhất trên thế giới lại ở cách xa hàng trăm cây số với bất cứ một vật nào. Ðó là những phế tích hẻo lánh bị che dấu, tồn tại qua nhiều thế kỷ, làm kích động trí tưởng tượng của con người. Nhưng khi tôi xuất trình một tấm vé ở ngoài cửa và khi tôi đi vào như tôi đã đi vào trong gánh xiếc Barnum, thì tất cả vẻ thơ mộng, tất cả sự vi diện đều tan biến". 

"Hoàn toàn đúng! " Cecil Brown trả lời trong khi nhìn ra sa mạc bằng một con mắt ảm đạm và khắt khe. "Nếu người ta có thể đi chơi ở đây một mình thôi, do sự tình cờ mà đi tới, và trong sự hIU quạnh hoàn toàn đứng trước những bức phù điêu kỳ quặc này thì thật là không thể cưỡng được. Có lẽ người ta sẽ muốn quỳ lạy trong sự kinh hãi và cảm mến. Nhưng khi Belmont rít cái ống vổ kếch xù của ông ấy, khi Stuart bắt người ta phải nghe cái giọng khò khè hen suyễn của ông ấy, khi cô Sadie Adams phá lên cười...". 

" Và khi con chim cà cưỡng thông ngôn này đọc bài của anh ấy!" Headingly thở dài. "Tôi chỉ có một mong muốn, ngồi im lặng và suy ngẫm, tôi đã không bao giờ thỏa mãn được sự mong muốn đó. Ðã có lúc tôi gần phạm phải tội sát nhân khi tôi đang đứng trước Kim Tự Tháp lớn và tôi đã không có thể hưởng được một khoảnh khắc yên tĩnh, vì người ta đã làm tôi điên đầu lên với những lời rao hàng. Tôi đã nện cho gã bán hàng một cái đá, cái đá này suýt nữa đã giết chết hắn ta trên mũi giày! Khi tôi nghĩ rằng tôi đã thực hiện một chuyến đi từ Mỹ Châu để xem Kim Tự Tháp, và một khi đứng trước nó, tôi đã chẳng thấy gì tốt đẹp hơn là việc tặng cho anh chàng người Ả Rập một cái đá!" 

Người cựu sinh viên Oxford cười một cách dịu dàng. Ông nói: 

- Họ lại lên đường kìa! 

Rồi họ thúc những con lừa của họ đi về phía trước để đi vào phía sau đám rước buồn cười này, bây giờ thì đám rước đi vào giữa những núi đá lớn, giữa những ngọn đồi lởm chởm đá. Một con đường nhỏ hẹp và ngoằn ngoèo len lỏi giữa những tảng đá. Phía sau các du khách chân trời bị che khuất bởi những ngọn đồi khác trông đen ngòm và kỳ quái như những đống bã quặng ở một cái giếng khai mỏ. Sự yên lặng ngự trị trong toán người. Nét mặt thường ngày vui vẻ của Sadie sa sầm lại như để suy ngẫm về sự phũ phàng của tạo hóa. Ðoàn hộ tống xích lại gần nhau, tiến bước theo hàng một. Ông đại tá và Belmont vẫn phi ngựa đi tiên phong. 

"Ông Belmont, ông có biết không?" ông đại tá hạ thấp giọng nói. "Có lẽ ông sẽ cho tôi là ngu ngốc, nhưng tôi không thích cái chuyến du ngoạn nhỏ nhặt này". 

Belmont phát ra một tiếng cười gằn nhỏ. 

"Từ trong phòng của tàu Korosko nhìn ra thì mọi thứ đều có vẻ hoàn hảo. Bây giờ khi chúng ta ở đây chúng ta cảm thấy một cách mơ hồ một cái gì đó trong không khí", ông ta nói. "Tuy nhiên tuần lễ nào các du khách cũng tới đây, và chưa từng bao giờ xảy ra một sự cố nhỏ nhặt nào". 

"Tôi tự ý chấp nhận các sự rủi ro khi tôi đi trên con đường của chiến tranh", ông đại tá trả lời. "Chiến tranh rất thành thật, người ta biết rằng với nó thì người ta phải chạm trán với cái gì. Nhưng khi ta dẫn theo các phụ nữ, và khi ta được ban tặng một toán hộ tống tồl tệ như toán này, thì đúng là chơi đùa với lửa! Tất nhiên là có chín mươi chín phần trăm vận may là mọi việc sẽ suông sẻ, nhưng nếu điều trái ngược xảy ra... Tốt nhất là đừng nghĩ tới chuyện đó! Ðiều đáng khen là họ hoàn toàn không biết rằng xứ sở này rất nguy hiểm". 

"Tôi à, tôi rất thích những cái áo dài của người Anh để đi bộ đường dài, ông Stephens ạ!" Sadie cất tiếng nói đằng sau họ. "nhưng với một cái áo dài để mặc buổi chiều thì tôi tin rằng các thợ may người Pháp có nhiều kiểu cách hơn là các đồng nghiệp người Anh của họ. Những người tạo mẫu thời trang của các ông có những sở thích nghiêm ngặt, và họ ít biết khai thác những dây băng và những cái nơ". 

Ông đại tá mỉm cười. 

"Dù sao thì cô ấy cũng có một tâm hồn trong sáng!" ông nói với Belmont. "Tôi sẽ không nhắc lại với ai điều mà tôi vừa nói với ông, và tôi hy vọng rằng những nỗi lo sợ của tôi sẽ tự phơi bày ra là không có cơ sở vững chắc". 

Belmont trả lời: 

- Xin ông hiểu cho là tôi cũng tưởng tượng rằng những băng đảng thầy tu Hồi giáo đang đi trộm cướp kiếm mồi nhưng sẽ không thể có chuyện là chúng đợi đúng cái ngày mà chúng ta đi qua nơi này. 

- Biết rằng một cuộc quảng cáo rầm rộ đã được tung ra về các sự di chuyển của chúng ta và rằng mọi người đều biết trước một tuần các cuộc du ngoạn được xếp đặt cho chương trình của chúng ta, thì sự trùng hợp sẽ không có gì là kỳ lạ! 

"Sự rủi ro một phần trăm, ông đã nói mà!" Belmont lẩm bẩm nói, trong thâm tâm ông thấy vui thích khi biết rằng bà vợ ông được an toàn trên con tàu. 

Chả mấy lúc họ ra khỏi vùng ngổn ngang sỏi đá, chỗ làm cản trở bước đi của những con lừa, bây giờ thì bãi cát vàng, mịn trải dài ra cho tới chân quả đồi hình chóp đứng sững trước mặt họ. "Ây-a! Ây-a!" những người dắt lừa vừa quát vừa lấy roi đánh vào mông các con vật, những con vật này chạy nước đại và lao mình vào trong cánh đồng. Chúng chỉ dừng lại ở dưới chân con đường nhỏ leo lên núi, theo lệnh của anh thông ngôn. 

- Thưa quí bà và quí ông, bây giờ chúng ta đã tới chân ngọn núi Abousir lừng danh. Ðứng trên đỉnh núi này, quí vị sẽ phát hiện ra một toàn cảnh rất đa dạng, nhưng trước hết quí vị sẽ nhận thấy trên vách đá các bậc vĩ nhân đã khắc tên của họ vào đá, những vị này đã đi qua đây trong các cuộc hành trình của họ, có khi còn trước cả lúc Chúa Ki Tô giáng sinh. 

"Ông có Moise không?" Cô Adams hỏi: 

"Cô ơi, cô làm cháu kinh ngạc đó!" Sadie kêu lên. 

- Tại sao, hở cháu cưng? Ngài ở nước Ai Cập, đó là một bậc vĩ nhân, rất có thể là ngài đã du ngoạn ở nơi này. 

"Rất có thể là tên của Moise có ở đó, cũng như tên của Hérodote", anh thông ngôn tuyên bố một cách nghiêm trọng, "nhưng cả hai đều đã phải gánh chịu sự phũ phàng của thời gian, ngược lại ở đằng kia, trên tảng đá màu nâu, quí vị sẽ đọc thấy tên của Belzoni. Trên cao hơn là tên của Gordon. Không có một nhân vật nổi tiếng nào ở Soudom mà quí vị không thể tìm thấy tên nếu quí vị chịu khó tìm một chút. Và bây giờ, với sự cho phép của quí vị chúng ta sẽ để những con lừa ở đó để đi bộ leo lên bằng con đường này, từ trên đỉnh núi quí vị sẽ nhìn thấy con sông và sa mạc...". 

Sau hai hay ba phút leo trèo các du khách đã tới chỗ bằng phẳng hình bán nguyệt nằm trên ngọn núi. Phía dưới chân họ, ở một bên, một ghềnh đá đen xì đứng thẳng, cao tới năm chục mét, cắm sâu xuống những xoáy nước sủi bọt của sông Nil. Tiếng ầm ì inh tai của con sông và tiếng rít lên của nước sông chảy ồ ạt giữa các tảng núi đá vang lên một cách quái dị trong không khí oi nóng và im lìm. Ðằng xa ở thượng nguồn hay hạ nguồn, họ trông thấy dòng sông rộng tới bốn trăm mét, mạnh mẽ, sâu thẳm và gần như đen kịt. Ở mạn bên kia, trải ra một khoảng bao la hoang vu, đó đây rải rác những tảng đá đen xì, vốn là những thứ đá vụn do sông Nil mang tới khi nó chảy tràn khỏi lòng sông. Không một nơi nào có vết tích của đời sống con người. 

"Ở đằng kia", người thông ngôn chỉ về hướng Ðông "là con đường quân sự đi từ Ouadi-Halfa tới Sarras. Sarras ở về phía Nam, dưới cái núi đen này. Hai quả núi xanh mà quí vị trông thấy ở chân trời đều nằm trong sứ Dongola, cách Sarras hơn một trăm cây số. Con đường xe lửa dài sáu mươi lăm cây số, nhưng nó đã chịu thiệt hại nhiều vì bọn thầy tu Hồi giáo, bọn này rất thích chế biến các đường rầy thành những ngọn giáo. Chúng cũng rất thích những sợi dây của máy điện báo. Bây giờ nếu quí vị muốn quay trở về, tôi sẽ giải thích với quí vị những gì quí vị sẽ có thể nhìn thấy ở mạn bên kia...". 

Ðó là một toàn cảnh mà ta không thể quên được sau khi đã nhìn thấy một lần. Cái dải sa mạc hoang dã và liên tu bất tận này có phải là thuộc về một hành tinh đã tiêu mòn và nguội lạnh hay thuộc về trái đất khoan dung của chúng ta? Nó kéo dài cho tới một đám sương mù nhẹ màu tím có vẻ như là chỗ tận cùng của thế giới. Ở lớp thứ nhất, cát có một màu vàng đẹp rực rỡ mà nắng làm thành chói lòa. Sáu người lính trung thành da đen dừng lại ở phía dưới, họ im lìm bất động tựa vào những khẩu súng của họ, mỗi người chiếu ra một cái bóng có vẻ cũng chắc nịch như chính con người của họ vậy. Ở bên ngoài cái cánh đồng vàng hoe này những đống cặn kim loại đen xì xếp thành từng hàng, được phân cách nhau bởi những thung lũng cát thổ hoàng. Những đống cặn kim loại này bị che lấp bởi những quả đồi cao hơn và có hình dạng kỳ quái hơn, những quả đồi này xếp thành tầng và kề sát nhau cho tới lúc tan biến vào trong màn sương mù xa xôi, tím ngắt. Trong những quả đồi này, không quả nào có được một độ cao đáng kể; quả cao nhất có thể được một trăm năm mươi hay hai trăm mét; nhưng các chóp đỉnh hình răng cưa của chúng, những vách dựng đứng bằng đá đã bị nắng nung chín đã cho chúng một vẻ tàn bạo, khủng khiếp.

"...Bãi sa mạc của nước Libye" anh thông ngôn loan báo trong lúc giơ tay lên một cách kiêu hãnh. "Một sa mạc lớn nhất thế giới. Giả dụ quí vị đi từ chỗ này về hướng Tây, và quí vị không rẽ ngang về hướng Bắc hay về hướng Nam, thì những cái nhà đầu tiên mà quí vị nhìn thấy sẽ là những căn nhà ở nước Mỹ. Thưa cô Adams, tôi nghĩ rằng sự giả thiết này làm cho cô nhớ nhà phải không?". 

Nhưng cô gái già người Mỹ đã không nghe anh nói nữa. Sadie đã nắm lấy cánh tay cô và với bàn tay kia nàng chỉ cho cô một vật gì trong bãi sa mạc. 

"Ồ, đây là mức tột độ của sự mỹ lệ!", cô kêu lên, mặt đỏ bừng vì bị khích động. "Ông Stephens, hãy nhìn kìa! Chỉ còn thiếu một vật nữa là quang cảnh được hoàn hảo! Hãy nhìn những người ngồi trên lưng lạc đà đang nhô ra từ các ngọn đồi!". 

Lúc đó tất cả bọn họ đều trông thấy một hàng dài những kỵ binh quấn khăn đỏ đang thúc những con lạc đà ra khỏi một khe núi. Một sự im lặng chụp xuống, im lặng quá đến nỗi họ có thể nghe rõ được tiếng vo ve của những con ruồi. Ðại tá Cochrane vừa bật một que diêm, rồi ông đứng im bất động không nghĩ tới việc châm lửa vào điếu thuốc lá, và ngọn lửa làm bỏng các ngón tay ông, Belmont huýt sáo qua các khe răng. Anh thông ngôn đứng há hốc mồm ra, cặp môi béo mọng và đỏ thắm của anh ta, trở nên xám ngoẹt. Những người khác nhìn nhau, khó chịu trước màn phụ diễn bất ngờ của chương trình. Ông đại tá phá tan sự im lặng. 

Ông nói: 

- Ông Belmont này, nhờ ơn trên phù hộ, tôi nghĩ rằng đây là một phần trăm sự rủi ro đã xuất hiện đó!

***

Chương 4

"Mansoor, thế này là nghĩa làm sao?" Belmont kêu lớn với một giọng thô lỗ, "những người đó là ai, và tại sao anh đứng hai mắt trợn trừng như thể anh đã hóa thành pho tượng bằng muối vậy?" 

Anh thông ngôn, trước khi trả lời, thè lưỡi liếm vào cặp môi khô khan của anh ta . Anh ta nói ấp úng: "Tôi không biết họ là ai". 

"Họ là ai?" ông người Pháp quát lớn. "Anh chỉ cần nhìn cho rõ. Đó là những người có võ trang cưỡi lạc đà: những người Bédouins như là những người mà chính quyền trên biên giới thường thuê mướn". 

"Xin ơn trên phù hộ, có lẽ ông ấy nói đúng, Cochrane ạ!" Belmont quay lại phía viên đại tá và nói: " Tại sao những người kia lại không phải là những bằng hữu?" 

"Chúng ta không có bằng hữu trên bờ bên này của sông Nil", ông đại tá trả lời với một giọng quả quyết. "Tôi hoàn toàn biết chắc về việc đó. Chúng ta sẽ sai lầm khi tự lừa dối mình. Chúng ta phải chuẩn bị cho điều tệ hại nhất". 

Bất kể những lời nói này, các du khách vẫn im lìm bất động, đứng sát vào nhau và nhìn xuống cánh đồng. Sự kinh động bất ngờ này đã làm họ điếng người, họ đang sống trong một giấc mộng không có bản ngã của họ, mơ hồ và phi thực tại. Những kỵ binh đã đi ra từ một khe núi ở cách con đường họ vừa đi qua chừng một ngàn năm trăm mét, như thế là chúng đã cắt hết đường rút lui của họ. Theo như đám bụi bốc lên và chiều dài của đám người thì người ta có thể nói là cả một đoàn quân đang xuất hiện từ những quả đồi. Thật tình thì bảy mươi người cưỡi trên lưng lạc đà cũng che phủ được một mảng đất lớn. 

Sau khi chúng đã tới cánh đồng cát, chúng xếp thành hàng và sau một hồi kèn chát chúa chúng xông lên theo hàng ngang, những cái bóng sặc sỡ nhiều màu của chúng chao đảo trên những cái yên của chúng; cát bốc tung lên thành một đám mây vàng lăn theo dưới chân những con lạc đà. Vừa nhìn thấy những sự việc này, sáu anh lính da đen đã lùi lại và ẩn mình trên sườn đồi đằng sau những tảng đá, như những binh sĩ đã thành thạo trong việc tập luyện, những hộp cơ bẩrn kêu lách cách cùng một lúc khi viên hạ sĩ ra lịnh cho họ nạp đạn vào súng. 

Sự hoảng hốt đầu tiên của các du khách lúc đó đã nhường chỗ cho sự thi triển lớn lao về nghị lực, vừa cuồng nhiệt, vừa bất lực. Tất cả bọn họ đều bắt đầu chạy trên khoảng đất bằng trong sự vội vã không có mục đích, trông họ giống như một đàn gà vịt bị hoảng sợ trong sân chuồng. Họ đã không có thể quyết định nhìn nhận là họ không còn một phương cách nào để thoát hiểm cả. Đã nhiều lần họ cúi xuống bên trên cái mép của ghềnh đá lớn đâm sâu xuống sông Nil, nhưng người trẻ nhất và người táo bạo nhất trong nhóm họ cũng không bao giờ có thể tụt xuống chiều cao của cái vách đá nhẵn thín này. Hai người đàn bà níu chặt lấy tay của Mansoor trong lúc anh này run lẩy bẩy, như thể các cô cho là anh ta phải chính thức chịu trách nhiệm về sự an toàn của mọi người. Stephens, người đại diện cho thân chủ trước tòa án, không rời khỏi Sadle Adams và nói thầm thì như một cái máy hát: "Đừng sợ cô Sadle ạ! Đừng sợ!" việc này cũng không ngăn cản được ngay chính ông ta đang run rẩy cả chân tay. Ông Fardet dậm chân, láy đi láy lại những chữ "r" khi lúng búng nói những câu không ai hiểu được và ném những cái nhìn bực bội vào các bạn đồng hành, ông thấy mình đã bị họ phản bội một phần nào đó. Ông mục sư to lớn đứng rất ngay ngắn dưới cái dù của ông và cặp mắt to, hoảng sợ của ông đang quan sát sự di chuyển của những gã kỵ binh. Cecil Brown đang xoắn bộ ria ngắn của ông; ông tái người đi nhưng vẫn có vẻ khinh khỉnh. Ông đại tá, Belmont và nhà khoa bảng trẻ tuổi của Harward vận giữ được sự điềm tĩnh; họ là những người có nhiều thủ đoạn. 

"Tốt nhất là chúng ta cùng đứng lại với nhau", ông đại tá nói, "không còn cách nào để tránh khỏi bọn chúng, do đó tốt nhất là chúng ta đừng rời xa nhau". 

"Chúng đứng lại" Belmont loan báo. 

"Vì chúng quan sát chúng ta, chúng bịết chắc rằng chúng ta nằm trong quyền sinh sát của chúng; do đó chúng không vội vã. Tôi không nhìn thấy điều gì mà chúng ta sẽ có thể làm được". 

"Nếu chúng ta dấu các phụ nữ đi có được không?" Headingly đề nghị. "Chắc chắn là chúng không biết chúng ta có bao nhiêu người. Khi chúng đã bắt được chúng ta rồi, các phụ nữ sẽ có thể ra khỏi nơi ẩn nấp và trở lại tàu thủy". 

"Tuyệt diệu!" ông đại tá kêu lên. "Cô Adams, xin cô vui lòng lại đây. Mansoor, hãy mời các bà tới chỗ này! Không còn một giây phút nào để bỏ mất nữa". 

Một phần của khoảng đất bằng không thể nhìn thấy được từ bên dưới, những người đàn ông cuống cuồng dựng lên một chỗ trú ẩn nhỏ bằng những tảng đá, những tảng đá thì không thiếu; không cần phải lâu la gì để dựng nghiêng một tảng đá lớn nhất vào một núi đá; và theo lối đó làm thành một thứ mái che, rồi lấp kín hai bên bằng hai tảng đả khác cùng một màu với núi đá; thoạt mới nhìn chỗ ẩn nấp không quá lộ liễu đâu. Hai người đàn bà chui vào chỗ ẩn nấp và ngồi xuống. Sadie ôm choàng lấy bà cô trong hai cánh tay. Khi đã dựng xong chỗ trú ẩn, những nguời đàn ông đi ra nhìn những việc đang diễn ra trong cánh đồng với một tấm lòng nhẹ nhõm hơn. Lúc tới gần rìa của khoảng đất bằng, họ nghe thấy những phát súng đầu tiên; đó là toán hộ tống của họ bắn; nhưng những phát súng rời rạc đó đã mau chóng bị nhận chìm trong một tiếng ầm ì inh tai, và không khí tràn đầy tiếng rít của những viên đạn. Tất cả các du khách đều nằm nép xuống sau các tảng đá, ngoại trừ anh chàng người Pháp thì cứ tiếp tục dậm chân và lấy tay đấm mạnh vào cái mũ rơm của mình. Belmont và Cochrane bò xuống nơi mà những người lính Soudan đang bắn một cách bình tĩnh và theo đúng phương pháp, với những khẩu súng kê trên các tảng đá. 

Bọn nghười Ả - Rập dừng lại ở khoảng năm trăm mét, sự ung dung trong các cử động của chúng chứng tỏ rằng chúng đã biết rõ tình thế tuyệt vọng của các du khách. Chúng chỉ dừng lại để đếm số du khách trước khi xông lên tấn công, một phần lớn bọn chúng ngồi trên mông lạc đà mà bắn, nhưng một vài tên đã tụt xuống đất và quì xuống. Những vết trắng nhỏ, lung linh của chúng hiện rõ ràng trên những sắc vàng của hậu cảnh. Lúc thì chúng bắn lẻ tẻ, lúc thì chúng bắn hàng loạt. Quả đồi kêu gầm gừ như một bọng ong; những viên đạn văng vào núi đá với một tiếng khô khan. 

“Ông đứng phơi mình ra như vậy chẳng có ích lợi gì đâu", Belmont nói. 

Ông kéo ông đại tá vào phía sau một tảng đá lớn, gồ ghề, nơi đã có ba người lính Soudan ẩn núp. 

"Một viên đạn là điều mà chúng ta có thể hy vọng là tốt nhất", Cochrane trả lời với một nụ cười ảm đạm. "Belmont ạ, tôi thật là ngu ngốc quá chừng khi không phản đối một cách cương quyết hơn cuộc du ngoạn kỳ cục này! Tôi hoàn toàn xứng đáng với những gì xảy ra 

với tôi, nhưng khi tôi nghĩ tới những người bất hạnh kia, họ không nghi ngờ tới một chút hiểm nguy nào..."

- Tôi giả thiết rằng chúng ta không thể hy vọng có sự giải cứu? 

- Không có một chút nào. 

- Ông có nghĩ rằng những tràng súng này có thể gợi ý cho những toán quân ở Ouadl-Halfa tới đây không? 

- Ờ, nếu chúng ta không trở về, tàu thủy sẽ báo động! 

- Và trong thời gian đó chúng ta sẽ ở đâu? 

"Norah khốn khổ của tôi! Em bé Norah khốn khổ!" Belmont nói lẩm bẩm đằng sau bộ ria mép lốm đốm bạc của ông. 

Sau một lúc yên lặng, ông hỏi: 

- Ông Cochrane này, theo ý ông thì chúng sẽ làm gì với bọn ta? 

- Chúng sẽ cắt cổ họng chúng ta, hoặc đưa chúng ta tới Khartoun để làm nô lệ. Tôi không biết trong hai cách đó thì cách nào dễ chịu hơn. Kìa dù sao thì một người trong bọn chúng ta cũng đã rũ sạch hết phiền muộn rồi ! 

Anh lính đang bắn bên cạnh họ vừa ngã ngồi phệt xuống, đầu anh ta gục xuống giữa hai đầu gối. Anh ta vừa bị một viên đạn bắn trúng giữa đầu. Anh ấy không động đậy nữa. Anh ấy không thốt ra một tiếng rên rỉ nào. Các bạn của anh cúi xuống bên trên xác của anh, rồi họ nhún vai và lại quay đầu về phía những tên Ả Rập. Belmont lượm lấy khẩu súng của người chết cũng như cái bao đạn của anh. 

"Hơn ba bì đạn. Cochrane ạ!" ông nói và để ba khúc đồng nhỏ lên lòng bàn tay. "Chúng ta đã để cho họ bắn quá sớm và bắn nhiều quá. Lẽ ra chúng ta phải đợi cho bọn thầy tu xông lên tấn công đã". 

"Ông đã nổi tiếng là xạ thủ thuợng thặng đó, Belmont ạ !" ông đại tá lẩm bẩm nói. "Ông không tin là ông sẽ có thể bắn hạ được tên chỉ huy của bọn chúng à?" 

- Tên đó là thằng nào ? 

- Tôi nghĩ nó là tên đang ngồi trên con lạc đà trắng ở bên phải. Tên đó đang nhìn về phía chúng ta, lấy hai bàn tay che lên mắt. 

Belmont nạp đạn vào súng và điều chỉnh thước ngắm. Ông nói: 

- Ánh sáng xấu quá khó mà ước định khoảng cách. Được, tôi sẽ thử ở khoảng năm trăm mét!... 

Ông bắn, nhưng không có gì nhúc nhích cả, cả con lạc đà trắng, cả người ngồi trên lưng nó. 

-... ông có trông thấy cát bay lên không ? 

- Không, tôi không trông thấy gì cả. 

- Tôi chắc rằng tôi đã bắn quá xa. 

- Hãy thử lại một lần nữa đi. 

Belmont ngắm với một sự tin chắc hoàn toàn, nhưng con lạc đà và tên chỉ huy vẫn không động đậy. Phát thứ ba chắc đã đi qua gần hơn, vì con vật nhích nhiều bước về bên phải như kiểu nó muốn di chuyển. Belmont ném khẩu súng hết đạn xuống trong khi thốt ra một tràng than chán nản. 

"Đúng là tự cái ánh sáng chết tiệt này ! " ông nói lớn, mặt đỏ bừng vì bực bội. "Cứ cho rằng tôi đã bắn uổng ba bì đạn! Ở Bisley thì chắc tôi đã bắn rơi cái khăn của nó rồi, nhưng sự phản quang chết tiệt này... Điều gì đã xảy ra với anh chàng người Pháp?". 

Ông Fardet dậm chân trên bãi cát với bộ điệu một người vừa bị ong vò vẽ đốt 

"Đồ chết toi!", ông gào lên. "Đồ chết toi!". 

Những cái răng trắng ởn của ông lóng lánh dưới bộ ria mép đen. Ông vặn xoắn một cách dữ dội bàn tay phải của ông và máu chảy dọc theo các ngón tay của ông. Một viên đạn đã làm sượt cổ tay ông. Headingly phóng mình ra khỏi nơi trú ấn mà ông đã nấp, chắc chắn là ông có ý định bắt buộc anh chàng người Pháp nằm xuống mặt đất, nhưng ông chưa đi được ba bước thì một viên đạn đã bắn vào lưng ông, ông ngã gục xuống giữa những hòn đá. Ông muốn đứng dậy, ông lảo đảo, rồi lại ngã xuống cùng một chỗ đó. Ông vùng vẫy tứ chi như một con ngựa bị gãy lưng vậy. 

"Chúng bắn trúng rồi!" ông ấp úng nói. 

Ông đại tá chạy tới cứu ông, nhưng Headingly không động đậy nữa, đôi má trắng bệch của ông tì lên những hòn đá đen xì. Một năm trước đây, khi ông đi dạo chơi dưới những cây du của trường Cambridge, không bao giờ ông nghĩ rằng cuộc đời trần thế của ông sẽ bị chặt đứt trong sa mạc Libye bởi viên đạn của một tên hồi giáo cuồng tín. 

Tiếng súng của toán hộ tống đã ngưng, những người lính đã hết đạn. Một người lính thứ hai đã bị giết, và một người thứ ba, người làm chức năng của hạ sĩ, đã bị một viên đạn vào đùi, anh ta ngồi trên một mảnh đá và băng bó vết thuơng với vẻ nghiêm trọng, chăm chú của một bà già đang cố gắng gắn lại những mảnh của một cái đĩa bị vỡ. Ba người khác cắm lưỡi lê lên nòng súng, họ quyết tâm bán mạng sống của họ càng đắt giá càng tốt. 

"Chúng nó tới!" Belmont kêu lớn, ông đang quan sát cánh đồng. 

"Được, chúng cứ tới đi!" ông đại tá trả lời trong khi cho hai bàn tay vào túi quần. "Ồ, lũ súc sinh! Lũ súc sinh chết toi!l". 

Chính số phận, những tên dắt lừa khốn khổ đã làm mất sự điềm tĩnh của người quân nhân già. Trong lúc những phát súng được bắn qua, bắn lại, lũ trẻ bụi đời nằm chất đống lên nhau, làm thành một nhóm người đáng thuơng giữa các tảng đá, dưới chân đồi. Khi chúng nhìn thấy bọn thầy tu Hồi giáo xung kích, chúng nghĩ rằng chúng có nguy cơ trở thành những nạn nhân đầu tiên; thế là chúng nhảy tót lên lưng lừa, miệng thì gào thét vì sợ hãi, và chúng tìm cách chạy trốn qua cánh đồng. Nhưng tám hay mười kỵ binh đứng gác bên hông đã tiến lên trong lúc súng nổ. Chúng xông ngay vào lũ trẻ dắt lừa và chém chúng thành từng mảnh với một sự hung bạo lạnh lùng, một thằng nhỏ bụi đời chạy thoát khỏi bọn truy sát được một lúc, nhờ những bước chân dài của chúng, nhưng con lạc đà cuối cùng cũng bắt kịp con lừa của nó, con lừa này không còn trẻ trung nữa, và một tên Ả-Rập đã phóng ngọn giáo của y cắm sâu vào cái lưng đang cúi xuống. Những cái xác bé nhỏ mặc đồ trắng trông giống như một đàn cừu đang gặm cỏ trong bãi sa mạc. 

Nhưng các du khách đã không có thì giờ để thuơng xót cho số phận những đứa bé dắt lừa. Chính ngay cả ông đại tá, sau sự bùng nổ của cơn giận dữ, ông cũng quên ngay bọn chúng. Bọn kỵ binh của toán tiền phong đã cho những con lạc đà phi xuống tới chân đồi; ở đó chúng nhảy xuống đất, và để mặc cho những con vật quì phục xuống một cách lặng lẽ, chúng tiến bước trên con đường nhỏ dẫn tới chỗ đất bằng. Chúng có năm mươi tên nhảy nhót từ tảng đá này sang tảng đá nọ. Không một phát súng, không chậm trễ, chúng tràn ngập ba người lính da đen, giết chết một người, và dẫm lên hai người khác, rồi chúng xuất hiện trên nền đất bằng, nơi đó một cuộc chống cự bất ngờ đã chặn chúng lại một lúc. 

Đứng sát vào với nhau, các du khách đang chờ đợi bọn Ả Rập tới, mỗi người một tâm trạng khác nhau. Ông đại tá, tay đút trong túi quần, đang gắng gỏi huýt sáo miệng, mặc dù môi ông đã khô khổng. Belmont thì khoanh tay đứng tay vào một tảng đá, đầu cúi gằm, ông cau mày một vẻ bực bội, trí não con người đã được sinh ra như vậy, cho nên anh chàng người Ái Nhĩ Lan cảm thấy bối rối vì ba viên đạn đã mất và vì một tì vết vào danh tiếng xa thủ thuợng thặng hơn là vì cái số phận đang chờ đợi ông. Cecil Brown đứng thẳng người, cứng nhắc, nôn nóng kéo những cái đầu của những sợi râu mép lưa thưa. Ông Fardet vừa làu bàu vừa nhìn cái cổ tay đầy máu me của ông. Ông Stephens lắc đầu trong lúc suy nghĩ tới sự bất lực cực nhọc của ông và tiêu biểu khá đúng cho cái trật tự và luật pháp đang bị nhạo báng. 

Ông Stuart, lúc nào cũng được che kín bởi cái dù của ông, thì có một bộ mặt lầm lì và một cái nhìn chăm chú. Headingly thì nằm bất động trên tảng đá : cái mũ của ông đã rơi mất; ông có vẻ rất trẻ với mái tóc vàng hoe bù xù và những đường nét rất rõ ràng. Anh chàng thông ngôn thì ngồi trên một hòn đá và vặn xoắn hai bàn tay một cách bồn chồn, nôn nóng. Đó là tình trạng của họ mà bọn Ả Rập đã bắt gặp trên lòng đường khi chúng tràn ra. 

Và rồi trong lúc những tên xung kích đầu tiên xông tới để bắt những nạn nhân của chúng thì một sự cố hoàn toàn bất ngờ đã chặn chúng lại. Từ lúc nhìn thấy bọn thầy tu Hồi giáo, vị mục sư to béo của Birmingham đã cho người ta ấn tượng một người toàn thân bị cứng đơ. Ông đã không nhúc nhích, ông đã không há miệng ra nhưng bất thình lình ông nhảy chồm lên với một khí lực vừa dũng mãnh, vừa oai hùng. Phải chăng ông đã bị thúc đẩy bởi ruột thứ cuồng điên nảy sinh từ sự hoảng sợ? Dòng máu của một vị tổ tiên đã đột ngột thức dậy trong các mạch máu của ông chăng? Sự thật là ông đã phát ra một tiếng kêu man dại, cướp lấy một cây gậy và bắt đầu đánh những tên Ả Rập với một sự hung hãn còn dữ tợn hơn cả sự hung hãn của chúng. Một người trong các nhân chứng của cảnh này đã khẳng định với tôi rằng trong tất cả những hình ảnh đã làm sáng rực ký ức của ông, không có hình ảnh nào được lưu lại rõ ràng hơn cái hình ảnh của con người to lớn này, mình đẫm mồ hôi và nhảy nhót với một sự mau lẹ không thể tưởng tượng được, dùng hết tay này tới tay khác đánh vào những tên Ả Rập vừa thoái lui, vừa la hét om sòm. Rồi từ phía sau một tảng đá một ngọn giáo bay từ thấp lên cao, và vị mục sư ngã quị xuống, rồi cả đàn những tên xung kích chạy ùa ra dẫm lên trên xác ông để bắt giữ các du khách. Những con dao lấp lóe sáng, nhưng bàn tay thô cục nắm lấy cổ tay họ và cổ họ, họ bị xô đẩy và đem đi một cách thô bạo trên con đường nhỏ, mà phía dưới nó những con lạc đà đang đứng đợi. 

"Quốc vương vạn tuế!" Tù trưởng vạn tuế!" anh chàng người Pháp kêu lên trong lúc vung vẩy cái bàn tay không bị trói của anh ta. 

Một nhát báng súng vào lưng bắt ông ta im lặng. 

Vào lúc này thì cái nhóm nhỏ các khách du ngoạn đang đứng dưới chân núi Abousir, nếu bọn người Ả Rập không vung vẩy những khẩu súng của chúng thì họ đã có thể tưởng rằng họ bị sa vào tay những tên man rợ của thế kỷ thứ bảy. Thật sự không có một chút gì khác biệt giữa những kẻ bắt cóc họ với những chiến binh của sa mạc là những người đầu tiên đã mang biểu tượng lưỡi liềm ra ngoài nước Ả Rập. Đông phương là bất biến. Những tên kẻ cướp thầy tu Hồi giáo vẫn không kém dũng cảm, kém hung bạo, kém cuồng tín hơn là tổ tiên của chúng. Chúng đứng thành vòng tròn, tựa lên những khẩu súng hay những ngọn giáo của chúng, và ngắm nghía những kẻ bị bắt với những cái khăn đỏ thắt nút quanh cổ và quanh đầu, đến nỗi mà những cái nhìn hung hãn của chúng nom như toé lên từ một cái khung đỏ sẫm, những đôi giày màu vàng bằng da sống, một cái áo dài trắng với những mảnh nâu và vuông ghép lại với nhau. Tất cả bọn chúng đều được vỏ trang bằng súng, một tên trong bọn chúng nó một cái tù và đeo dưới nách. Một nửa trong bọn chúng là người da đen: hai gã đàn ông đẹp trai, mình đầy bắp thịt, những chàng Hercules da đen chính cống. Những tên Ả Rập bagarras họp thành một nửa kia; người nhỏ bé, da nâu khô khan, nóng nẩy, với những con mắt hung ác và những cặp môi mỏng dính. Tên chỉ huy cũng là một tên Bagarra nhưng y to lớn hơn những đồng bào của y, và một chòm râu đen dài xuống tới ngực y; dưới cặp lông mày rậm rạp đen xì đôi mắt lạnh lùng và cương nghị của y sáng long lanh như thủy tinh trong khi y kiểm tra các tù nhân của y. Ông Stuart đã được khiêng xuống phía dưới; ông đã bị mất cái mũ, ông vẫn còn bộ mặt đỏ bừng vì giận dữ, và ở một chỗ cái quần của ông bị dính vào cẳng chân. Hai người lính Soudan còn sống sót, những y phục màu xanh đầy các vết máu, đang đứng yên, không nhúc nhích và rất chăm chú, bên cạnh cái nhóm người xơ xác này. 

Tên chỉ huy lần lượt nhìn vào mặt họ, từng người một trong khi lấy tay vuốt ve bộ râu của y. Sau đó y thốt ra mấy tiếng với một giọng khàn khàn, oai vệ, và Mansoor bước ra, lưng khom xuống và những lòng bàn tay cầu khẩn. Bao giờ cũng có một cái gì đó hài hước trong cái váy của hắn kêu xột xoạt trước ngọn gió và trong cái kiểu áo tơi không có tay che phủ hai vai của hắn; nhưng lúc này, dưới ánh nắng buổi trưa, ở giữa vòng vây của những bộ mặt hung tợn, cái bóng của hắn đã cho thêm vào cảnh trí môt phần bổ sung kỳ cục của sự kinh hoàng. Chàng thông ngôn chào đi, chào lại như một con búp bê máy trước khi đột ngột ngã lăn ra, mặt úp xuống đất, sau một câu nói ngắn ngủi của tên chỉ huy. Anh ta vùi kín trán và hai bàn tay vào trong cát. 

" Thế là nghĩa làm sao, Cochrane?" Belmont hỏi. "Tại sao hắn lại làm cho người ta chú ý như vậy nhỉ?" 

Ông đại tá trả lời: 

- Theo chỗ tôi hiểu thì tất cả đều chấm dứt với chúng ta. 

"Nhưng thật là vô lý!" anh chàng người Pháp bị hoàn toàn khích động, kêu lớn lên. "Tại sao những người kia lại làm cho tôi phải đau khổ, dù là một chút ít thôi? Tôi chưa bao giờ làm hại họ cả. Ngược lại, lúc nào tôi cũng đã là bạn của họ. Nếu tôi có thể nói chuyện với họ, tôi sẽ làm cho họ hiểu được tôi. Ê này anh thông ngôn! Mansoor!..." 

Những điệu bộ đầy nhiệt tình của ông Fardet đã lôi kéo sự chú ý của tên chỉ huy bagarra. Tên này lại phát ra một câu hỏi ngắn gọn. Mansoor quì gối dưới chân y, trả lời y. 

-... Nói với ông ấy rằng tôi là người Pháp, anh thông ngôn! nói với ông ấy rằng tôi là một người bạn của Quốc Vương, nói với ông ấy rằng các đồng bào của tôi không bao giờ có xích mích với ông ấy, mà những kẻ thù của ông ấy cũng là kẻ thù của chúng tôi! 

Mansoor nói: 

- Ông chỉ huy hỏi ông theo tôn giáo nào. Ông ấy nói Quốc vương không cần chút nào tới tình bạn của những kẻ ngoại đạo và những kẻ vô tín ngưỡng. 

- Hãy giải thích cho ông ấy rằng ở Pháp chúng tôi coi tất cả các tôn giáo đều tốt cả. 

- Ông chỉ huy nói rằng chỉ có con chó báng bổ tôn giáo và đứa con trai của một con chó mới khẳng định rằng tất cả mọi tôn giáo cũng đều tốt như nhau. Ông ấy nói rằng nếu ông đích thực là bạn của Quốc Vương, thì ông sẽ tiếp nhận kinh Coran và sẽ trở thành ngay tại nơi đây một tín đồ chân chính. Trong trường hợp đó, ông ấy sẽ gởi ông về Khartoum bình an vô sự. 

- Nếu không thì sao? 

- Nếu không thì ông sẽ chIU chung số phận với những người khác. 

- Vậy thì hãy trình lên ông chỉ huy những lời chúc tụng của tôi và nói với ông ấy rằng người Pháp không có thói tục thay đổi tôn giáo dưới sự cưỡng ép. 

Viên chỉ huy nói ra một vài tiếng, rồi quay lại bàn bạc với một tên Ả Rập thấp lùn đứng bên cạnh y. 

"Ông ấy nói, thưa ông Fardet" anh chàng thông ngôn nói tiếp, "nếu ông còn nói nữa thì ông ấy sẽ làm ông biến thành một miếng thịt băm để cho chó ăn. Xin ông đừng nói gì thêm làm cho ông ấy nổi giận, vì ông ấy đang quyết định số phận của chúng ta". 

"Hắn là ai vậy?" ông đại tá hỏi. 

- Ali Vabrahim. Chính là người năm ngoái đã mở cuộc hành quân vào làng của người Nubie và là người đã tàn sát tất cả dân làng ở đó. 

“Tôi đã nghe nói tới hắn ta", ông đại tá nói. Hắn ta đã nổi danh là một trong những tên trùm thầy tu Hồi giáo gan dạ nhất và cuồng tín nhất. Cảm ơn Thượng đế là các phụ nữ đã không lọt vào tay chúng!" 

Hai tên Ả Rập trao đổi vài câu với sự dè dặt khắc khổ làm người ta kinh ngạc trong một chủng tộc ở miền Nam, chúng quay lại phía anh thông ngôn vẫn còn quì gối trên bãi cát. Chúng đưa ra nhiều câu hỏi linh tinh về các tù nhân trong khi chỉ chỏ hết người này tới người nọ. Chúng lại bàn bạc với nhau một lần nữa, và sau cùng thì chúng nói với Mansoor một vài tiếng, cùng lúc kèm theo một cử chỉ khinh mạn bằng bàn tay để biểu thị rằng y có thể dịch những câu này cho các du khách. 

"Thưa Quí vị, ta hãy tạ ơn trời, vì tôi tin rằng chúng ta được thoát nạn trong lúc này!" Mansoor nói thì thào trong khi chùi cái trán lem luốc cát của y. "Ali Wad lbrahim nói rằng một kẻ vô tín ngưỡng chỉ đáng lãnh một nhát kiếm của người con trai của đấng tiên tri, nhưng đấng bề trên Omdurman cho rằng có số vàng mà gia đình các quí vị trả cho các quí vị thì tốt hơn. Cho tới khi nộp khoản tiền chuộc đó, quí vị sẽ có thể làm việc như những người nô lệ của Quốc Vương trừ khi ngài quyết định bắt quí vị phải chết. Quí vị sẽ leo lên lưng lạc đà và quí vị sẽ cùng đi với đoàn quân. 

Chờ tới khi chấm dứt việc thông dịch, tên chỉ huy ra một cái lệnh ngắn gọn, một tên da đen bước một bước về phía trước và giơ cao lên một thanh gươm mũi cong, dài. Anh chàng thông ngôn co dúm người lại như một con thỏ khi trông thấy một con chồn đen và y lại phủ phục xuống trên bãi cát. 

"Việc gì xảy ra vậy, Cochrane?" Cecil Brown hỏi. Quả thực viên đại tá đã từng phục vụ ở Đông Phương và ông là người duy nhất trong bọn du khách đã có một vài hiểu biết về tiếng Ả Rập. 

- Theo chỗ mà tôi hiểu được thì hắn ta nói giữ lại mạng sống của anh thông ngôn thật là vô ích, vì không có ai quan tâm tới chuyện trả tiền chuộc cho anh ta, và anh ta lại quá mập để làm một tên nô lệ tốt. 

"Rõ tội nghiệp!" Brown kêu lên "Này, Cochrane, hãy nói với bọn chúng tha mạng cho anh ta. Chúng ta sẽ không để cho anh ấy bị sát hại trước mắt chúng ta chứ? Báo cho chúng biết là chúng ta sẽ gom góp tiền bạc trong chúng ta. Tôi đồng ý với bất cứ một số tiền phải chăng nào". 

"Tôi cũng tham gia cho tới giới hạn các khả năng của tôi". Belmont la lớn. 

"Chúng ta sẽ ký một tờ bảo chứng", ông luật sư nói. "Nếu tôi có được một tờ giấy và một cái bút chì, tôi sẽ thảo văn bản trong một lát, và tên chỉ huy này sẽ có thể tin vào hiệu lực của nó". 

Nhưng tiếng Ả Rập của ông đại tá còn kém quá và chính Mansoor thì lại quá hoảng sợ không còn hiểu được cái đề nghị mà anh ta là đối tượng. Tên da đen nhìn lão chỉ huy để hỏi ý kiến, rồi cái tay dài thòng, đen đúa của y dãn ra. Nhưng anh chàng thông ngôn gào lên một câu làm nhát chém ngừng lại, tên chỉ huy và gã phụ tá bước tới gần hắn. Những tên khác làm thành một vòng tròn chung quanh con người đang phủ phục van xin lòng thương. 

Ông đại tá không hiểu nguyên do của sự thay đổi đột ngột này, nhưng một bản năng đã cảnh báo Stephens làm ông tái mét đi vì hoảng sợ. 

"Ôi đồ khốn kiếp! " ông la lớn mặt tái nhợt đi. "Câm miệng mi lại, đồ khốn nạn! Im miệng đi! thà rằng chết... Phải, chết một ngàn lần!" 

Đã quá trễ rồi. Những du khách đã đoán ra với phương sách đê tiện nào tên hèn nhát hy vọng cứu vãn mạng sống của hắn; hắn sẽ tiết lộ những người đàn bà. Họ nhìn tên chỉ huy, mà nét mặt để lộ ra sự khinh bỉ của một con người dũng cảm, ra một dấu hiệu cao ngạo 

tỏ sư ưng thuận; rồi Mansoor nói một cách vội vã trong lúc chỉ lên đỉnh núi! Theo một hiệu lệnh của tên chỉ huy, hơn mười tên chiến binh leo lên con đường nhỏ và trở lại chỗ nền phẳng; tới đó các du khách không còn nhìn thấy chúng nữa, họ nghe thấy một tiếng kêu sắc nhọn, một tiếng gào thét kéo dài của sự kinh ngạc và khủng khiếp. Một vài lát sau bọn man rợ tái hiện, chúng đi vây quanh hai người đàn bà. Sadle là người có đôi chân nhanh nhẹ nên đi xuống sườn đồi cùng với những tên đi đầu và cổ vũ người cô bằng cách quay đầu nhìn lại phía bà ấy! Người con gái già vùng vẫy chống cự giữa bọn chiến binh mặc đồ trắng, nàng có dáng điệu một con gà nhép bị lôi ra khỏi ổ. 

Cặp mắt đen của tên chỉ huy, thản nhiên trước cảnh tượng của cô Adams, nhưng lại bốc lửa lên khi y nhìn thấy cô thiếu nữ. Theo lệnh của y, các tù nhân được dẫn tới chỗ những con lạc đà đang quì gối. Họ đã bị lục soát, các vật dụng trong túi họ được ném vào một cái bao mà Aail Wad Ibrahim đã tự tay mình lấy dây buộc lại. 

"Này Cochrane" Belmont thì thầm nói. "chúng đã không phát hiện được khẩu súng lục nhỏ mà lúc nào tôi cũng mang trong người. Nếu tôi bắn hạ tên không ngôn khốn kiếp kia về tội đã tố cáo các phụ nữ có được không?" 

Ông đại tá lắc đầu. 

"Tốt nhất là ông hãy giữ nó đấy". Ông trả lời với một giọng ảm đạm "Các phụ nữ sẽ có thể rất cần tới nó trước khi kết thúc mọi chuyện này!”.

***

Chương 5

Những con lạc đà lông trắng hay màu hạt dẻ đang quì gối thành một hàng; những quai hàm của chúng luôn động đậy để nhai một cách nhịp nhàng và những cái đầu diễm lệ của chúng quay về bên phải hay bên trái với một bộ điệu õng ẹo. Đó là đặc điểm của phần lớn những con vật cao quí, là những con vật chính cống để chạy ở nước Ả Rập, chúng có những cái chân mảnh dẻ và cái cổ nhỏ là những thứ chứng thực cho chủng loại của chúng. Nhưng chúng cũng được kèm theo một vài con vật chậm chạp hơn, năng nề hơn, được nuôi nấng tồi tệ và trên da những con vật này ta còn nhìn thấy những vết sẹo đen của những trận đánh nhau từ trước. Lúc đi thì chúng chuyên chở lương thực và những túi da đựng nước uống của bọn kẻ cướp, được trút bỏ các vật nặng trên mình, các vật này được san sẻ ngay cho những con lạc đà khỏe mạnh, chúng lặng lẽ tiếp nhận những tù nhân. Chỉ có một mình ông Stuart là bị trói tay thôi : bọn người Ả Rập đã biết rằng đó là một giáo sĩ và vốn có thói quen liên kết tôn giáo với bạo lực, chúng thấy cơn nóng giận của ông là hoàn toàn bình thuờng thôi, tuy nhiên chúng đã coi ông như một kẻ nguy hiểm nhất và liều lĩnh nhất trong toán tù nhân của chúng. Ngược lại, những người khác không phải là đối tượng của một biện pháp phòng ngừa nào, hơn nữa sự chậm chạp của những con vật họ cưỡi sẽ ngăn cản mọi hy vọng đào thoát của họ. Trước những lời quát tháo của bọn Ả Rập, những con lạc đà đứng lên và đám rước dài chuyển động, quay lưng về phía con sông hiền hậu, đám rước hướng về phía đám sương mù tím lóng lánh bao quanh bãi sa mạc vừa rùng rợn vừa xinh đẹp, với màu sắc sặc sỡ như một tấm da cọp có màu đen và vàng ửng. 

Đại tá Cochrane là người duy nhất trong đám du khách đã từng nếm mùi di chuyển trên lưng lạc đà. Những người bạn đường của ông thấy mình bị nhấc bổng lên khá cao bên trên mặt đất, với sự lắc lư quái dị của con vật, cộng với sự thiếu vững vàng của cái yên làm họ nôn mửa, và sợ hãi. Nhưng sự khó chịu về thể xác này không thấm thía gì so với cơn lốc trong đầu óc họ, một cái vực thẳm vừa được đào ra giữa quá khứ và hiện tại của họ. Được đào ra một cách mau lẹ quá, bất ngờ quá! Trước đây chưa đầy một giờ họ còn ở trên đỉnh núi Abousir cười nói huyên thuyên hay càu nhàu với sự nóng bức hay lũ ruồi. Headingly đã công kích dữ dội những màu sắc thái quá của tạo hóa, làm sao mà có khi nào họ sẽ quên được sự tái nhợt của đôi má của ông ấy khi ông ấy bị đánh chết nằm bất động trên núi đá đen xì? Sadic đã thuyết giảng về những chiếc áo dài và những quần áo, lúc này thì nàng đang bám chặt lấy cái núm của cái yên bằng gỗ, gần như phát điên cuồng, với tất cả hy vọng chỉ còn là ngôi sao đỏ của sự tự sát đang mọc lên trong bộ não non trẻ của nàng. Về lòng nhân đạo, về sự hợp lý, về cách lập luận, những điểm đó không còn là vấn đề nữa: chỉ có sự hạ nhục phũ phàng của bạo lực là còn lại. Trong lúc này tàu thủy của họ đang đậu phía sau mỏm đá thứ nhì, đang đợi họ ở nơi đó, tàu thủy của họ, những căn phòng của họ, quần áo tinh khiết, những cái cốc óng ánh, quyển tiểu thuyết sau cùng hợp thời trang, những tờ báo ở Luân Đôn. Họ không cần phải có một cố gắng lớn lao về trí tưởng tượng để hình dung ra cái lều vải trắng, bà Shlesinger dưới cái mũ màu vàng của bà ấy, và bà Belmont nằm duỗl dài trên cái ghế dài! Phải, nó gần như hiện ra trong tầm mắt của họ, cái mảnh nhỏ bé đang nổi bập bềnh này của tổ quốc họ, và cứ mỗi bước chân không đều đặn, lặng lẽ là những con lạc đà lại làm cho họ cách xa con tàu một cách tuyệt vọng. Ngay cả buổi sáng hôm ấy, hình như đấng tối cao đã tỏ ra tốt bụng với họ! Và đời sống thoải mái biết bao! Có thể là hơi nhàm một chút, nhưng rất thư thái, rất an nhàn, còn bây giờ thì... 

Cái khăn đỏ, những cái áo với nhiều mảnh chắp nối, những đôi giày vàng đã báo cho ông đại tá biết rằng những người này không hợp thành một bọn cướp của dân du mục, mà chúng thuộc về đạo quân chính qui của Quốc Vương. Càng đi vào sâu trong sa mạc, chúng càng tỏ ra là chúng có một kỷ luật thô bạo cần thiết cho nhiệm vụ của chúng. Cách môt ngàn năm trăm mét về phía trước và ở mỗi bên sườn, những tên xích hầu của chúng lặn vào và lại hiện ra ở giữa những cồn cát vàng. Ail Wad lbrahim dẫn đầu đoàn người, viên phụ tá của hắn chỉ huy toán hậu vệ. Đám rước kéo dài trên hai trăm mét, với nhóm nhỏ những tù nhân ở quãng giữa. Vì bọn Ả Rập không tìm cách cách li họ với nhau, ông Stephens đã có thể lướt con lạc đà của ông vào giữa những con lạc đà của hai cô gái. 

"Chớ nản lòng, cô Adams ạ!" ông nói. "Rõ ràng đây là một sự lăng nhục không thể tha thứ được, nhưng không nghi ngờ gì là sẽ có những biện pháp thích ứng để dàn xếp công việc. Tôi tin chắc rằng chúng ta sẽ không phải chịu đựng một thứ gì trầm trọng hơn là một vài sự bực bội tạm thời. Nếu không có tên đạo tặc Mansoor, thì không ai phát hiện ra các cô!". 

Chỉ trong thời gian một giờ đồng hồ cô gái già ở thành phố Boston đã thay đổi một cách đáng thương: cô đã trở thành một bà lão rất già. Cặp má nâu của cô hõm xuống, cặp mắt cô long lanh một cách dữ tợn và không ngừng nhìn vào Sadie với sự lo sợ, những tai hoạ thường thường gây ra các kỳ tích của sự bất tư kỷ: tất cả những con người này đang đi tới số mạng của họ, đều đã vứt bỏ tất cả sự phù phiếm, tất cả lòng vị kỷ, mỗi người chỉ nghĩ tới người khác. Sadie thì nghĩ tới bà cô của nàng, bà này lại nghĩ tới Sadie. Bọn đàn ông nghĩ tới những phụ nữ, Belmont nghĩ tới bà Belmont, nhưng ông cũng nghĩ tới việc khác nữa, vì ông đã dẫn con lạc đà của ông tới độ cao bằng con lạc đà của cô Adams. 

"Tôi có một điều muốn nói với cô" , ông thầm thì nói. "Chúng ta có nguy cơ là sắp phải xa nhau, do đó ta nên thực hiện những sự xếp đặt mà không để mất thì giờ". 

"Xa nhau!" cô Adams rên rỉ. 

- Nói nhỏ chứ, vì cái thằng quỉ Mansoor kia có thể phản bội chúng ta một lần nữa. Tôi hy vọng rằng chúng ta sẽ không phải xa nhau, nhưng đó là một việc có thể xảy ra. Chúng ta phải chuẩn bị cho sự tệ hại nhất. Thí dụ chúng sẽ có thể quyết định trừ khử những đàn ông và giữ các cô lại. 

Cô Adams rùng mình: 

- Tôi phải làm gì? Cầu xin Thuợng đế, ông hãy nói cho tôi biết là tôi phải làm gì, ông Belmont! Tôi là một phụ nữ già, tôi đã sống. Nếu chỉ có một mình tôi bị liên luỵ tôi sẽ có thể chịu đựng tất cả. Nhưng còn Sadie! Tôi đã hoàn toàn phát điên lên khi tôi nghĩ tới nó, mẹ nó đang chờ nó ở nhà, và tôi thì... 

Cô chắp hai bàn tay nhỏ nhắn, gầy gò vào nhau trong một sự lo âu không thể diễn tả được. 

"Hãy luồn một tay vào trong áo choàng của cô", Belmont nói trong khi cho con lạc đà của ông đứng sát vào con lạc đà của cô gái già người Mỹ. "Chớ để nó rơi mất. Đó! Bây giờ hãy giấu nó bên trong áo dài của cô. Cô sê luôn luôn có một cái chìa khóa để mở cho cô bất kỳ một cái cửa nào". 

Cô Adams sờ vào cái vật mà ông ta mới đưa cho cô và thoạt đầu cô nhìn ông với sự kinh hoàng. Rồi cô cắn môi và lắc cái đầu khắc khổ của cô với sự bất đồng ý. Cuối cùng thì cô nhét khẩu súng nhỏ dưới áo dài của cô, và cô tiếp tục tiến lên, tâm hồn trong một cơn bão tố. Có phải đúng là cô ấy không, cô Eliza Adams ở Boston, người đã sống một cuộc đời chật hẹp nhưng sung sướng giữa căn nhà êm ấm của cô ở Đại lộ Commonwealth và giáo đường trưởng lão phái ở Tremont không? Kia kìa, cô đang ngồi chót vót trên một con lạc đà, bàn tay úp chặt trên một cái báng súng lục, và đang cân nhắc trong đầu sự biện minh cho một vụ sát nhân. Hỡi ôi cõi đời, cõi đời phản phúc, làm thế nào để đặt lòng tin vào mi? Khi mi phô bày những bộ mặt tồi tệ của mi với chúng ta thì chúng ta có thể đối phó được, nhưng khi mà mi làm ra bộ dịu dàng nhất và trơn tru nhất là khi mà chúng ta phải e sợ mi nhiều hơn. 

"Cô Sadie ạ, cùng lắm thì chỉ là vấn đề tiền chuộc thôi", Stephens nói trong khi diễn tả sự trái ngược với điều mà ông đang thật sự suy nghĩ. Ngoài ra chúng ta vẫn còn ở rất gần Ai Cập và ở xa xứ sở bọn thầy tu Hồi giáo. Cô có thể tin chắc rằng sự truy lùng sẽ được thực hiện một cách ráo riết. Điều cần thiết là cô phải cố sức đừng để mất lòng can đảm, và phải hy vọng rằng mọi sự rồi sẽ qua đi một cách tốt đẹp". 

"Không, ông Stephens ạ, tôi không sợ!" Sadie trả lời trong lúc quay về phía ông một bộ mặt trắng bệch, sự kiện này đã phủ nhận những lời nói của cô. "Chúng ta đang nằm trong tay Thuợng đế, và chắc chắn là Ngài sẽ không độc ác với chúng ta. Khi các sự việc diễn tiến tốt đẹp thì người ta dễ dàng nói chắc rằng người ta tin tưởng ở Ngài, nhưng bây giờ sự thử thách có tính chất quyết định đang tới gần, nếu Ngài có ở trần cao kia, đằng sau khoảng trời xanh... 

"Ngài ở trên cao kia!" một tiếng nói ở phía sau họ đáp lời. Đó là vị mục sư ở Birmingham, người vừa theo kịp nhóm họ. Hai bàn tay bị trói của ông bám chặt lấy cái yên và ông lắc qua, lắc lại cái thân hình béo xị ở mỗi bước đi của con lạc đà, máu chảy nhỏ giọt ở cẳng chân bị thương của ông, và những con ruồi bám chặt vào đó, ánh nắng thiêu đốt của sa mạc giội lên đầu ông vì trong lúc đánh lộn ông đã đánh mất cái mũ và cái dù của ông. Sự khởi dầu của cơn sốt nóng lạnh đã làm hơi ửng hồng cặp má đồ sộ xanh mét của ông, mắt ông long lanh, với các bạn đồng hành của ông thì bao giờ ông cũng có vẻ với tầm thuờng. Lúc này thì ông đã biến đổi, ông đã trở thành thanh khiết, linh diệu và hăng say. Ông đã trở thành dũng mãnh một cách quá kỳ lạ khiến cho chỉ cần nhìn vào ông mà những người khác cũng cảm thấy dũng mãnh hơn lên. Ông nói về sự sống và sự chết, về hiện tại và về những hy vọng về tương lai của họ, đám mây đen của sự khốn khổ của họ đã bắt đầu thủng rách và để một tia ánh sáng lọt qua. Cecil Brown nhún vai, vì không phải chỉ trong một giờ đồng hồ mà ông thay đối được các tín niệm của cả đời ông, nhưng số người còn lại của cái nhóm nhỏ này, kể cả Fardet, đều cảm thấy động tâm và tăng thêm nghị lực. Mọi người đều bỏ mũ ra khi ông cầu nguyện. Ông đại tá lấy khăn quàng cổ bằng lụa đỏ của mình làm ra môt cái khăn đội đầu và nài nỉ ông Stuart hãy quấn nó lên đầu. Với bộ y phục tăng lữ và cái khăn sặc sỡ này, trông ông giống như một người nghiêm nghị mà lại hóa trang để đùa với lũ trẻ con. 

Rồi sự hành hạ bất khả kháng của sự khát nước tới góp thêm vào với những cơn nôn mửa do bước đi của những con lạc đà gây ra, nắng như thiêu đốt; ánh nắng phản chiếu trên bãi cát vàng; cánh đồng rộng lớn sáng long lanh đến độ mà họ có cảm tưởng là cỡi ngựa đi 

trên một lớp kim loại đang bị nung chảy thành chất lỏng. Môi họ khô queo như bị nóng cháy, và lưỡi họ thì như là một tiếng da khô. Khi họ nói chuyện với nhau, họ nói một cách cứng đơ kỳ quặc vì họ chỉ phát âm được các nguyên âm là không cần cố gắng thôi. Cô Adams 

cúi đầu xuống, cái mũ lớn đã che khuất bộ mặt của cô. 

Sadie nói: 

- Cô tôi sẽ ngất xỉu nếu người ta không cho cô ấy uống nước. Ông Stephens ơi, chúng ta không thể làm được một việc gì cả à? 

Bọn thầy tu Hồi giáo đang ở gần đó đều là bọn bagarras, ngoại trừ một tên da đen mà bộ mặt còn mang dấu vết của một bệnh đậu mùa mới lành. Hắn có vẻ ít hung ác hơn lũ bạn người Ả Rập của hắn, do đó Stephens đã đánh liều chạm vào khuỷu tay hắn và lần lượt chỉ cho hắn cái túi da đựng nước và cô gái già. Tên da đen lắc đầu một cách không đồng ý, nhưng hắn ném một cái nhìn đầy ý nghĩa vào những tên Ả Rập như thể muốn nói rằng nếu không có chúng ở đó thì hắn sẽ xử sự một cách khác. Rồi hắn đặt ngón tay trỏ đen đúa của hẳn lên ngực hắn. 

"Tippy Tilly" hắn nói. 

"Là cái gì?" đại tá Cochrane hỏi. 

"Tippy Tilly" , tên da đen nhắc lại, hạ thấp giọng như thể hắn không muốn để cho lũ bạn của hắn nghe thấy. 

Ông đại tá lắc đầu. 

"Rõ ràng là tiếng Ả Rập của tôi quá tệ. Tôi không hiểu hắn muốn nói gì", ông càu nhàu. 

"Tippy Tilly. Hicks Pacha", tên da đen nhắc lại. 

"Tôi nghĩ rằng hắn không muốn làm hại chúng ta, nhưng tôi không hiểu một tiếng nào trong ngôn ngữ của hắn", ông đại tá nói với Belmont. "Ông không nghĩ rằng hắn muốn nói tên hắn là Tippy Tilly và hắn đã giết chết Hicks Pacha chứ?" 

Tên da đen nhe những cái răng lớn, trắng ởn ra khi hắn nghe thấy nhắc lại những từ mà hắn đã dùng. 

Hắn nói: 

- Aiwa, Tippy Tilly, Bimbashi Mormer... Boum! 

"Đúng rồi! tôi hiểu rồi" Belmont nói lớn. Hắn cố sức nói tiếng Anh Tippy Tilly, đó là gần như tiếng pháo binh Ai Cập. Hắn đã phục vụ trong pháo binh Ai Cập dưới quyền Bimbashi Mortimer. Hắn đã bị bắt làm tù binh khi Hicks Pacha bị tiêu diệt và hắn đã trở thành thầy tu Hồi giáo để giữ lấy mạng sống của hắn. Hãy hỏi hắn xem tôi có lầm không!". 

Ông đại tá nói vài tiếng và nhận được một câu trả lời nhưng hai tên Ả Rập tiến lại gần, tên da đen im tiếng và thúc lạc đà bước nhanh. 

"Ông nói đúng", ông đại tá nói. "Tên da den này không muốn làm hại chúng ta một chút nào, và hắn thích chiến đấu cho Phó Vương Ai Cập hơn là cho Quốc Vương. Tôi không biết là bằng cách nào hắn sẽ có thể giúp đỡ chúng ta, nhưng tôi đã từng ở trong những tình thế tệ hại hơn trong hợp này, tuy nhiên tôi vẫn thoát nạn được. Tóm lại, không phải là chúng ta đã ở ngoài tầm tấn kích, và những người truy kích còn có thể bắt kịp chúng ta trong bốn mươi tám giờ nữa ".

Belmont làm những con toán với sự chính xác thường lệ của ông. 

"Khi chúng ta ở trên núi thì vào khoảng gần trưa", ông nói. "Ở trên tàu người ta bắt đầu lo lắng khi thấy chúng ta không trở về vào lúc hai giờ" 

"Đúng", ông đại tá ngắt lời. "Chúng ta phải ăn điểm tâm lúc hai giờ. Tôi nhớ rằng tôi đã nói là khi trở về tôi sẽ uống rượu... Ồ, lạy Chúa, tốt nhất là đừng nghĩ tới chuyện đó nữa!". 

"Viên thiếu tá là một ông già nhu nhược", Belmont nói tiếp. "Nhưng tôi có lòng tin tuyệt đối vào sự mẫn nhuệ và tinh thần cương quyết của vợ tôi. Bà ấy sẽ đòi phải ban hành lệnh báo động. Giả thiết là họ đã lên đường lúc hai giờ rưỡi, thì họ sẽ tới Ouadi-Halfa lúc ba giờ, vì họ di theo dòng nước. Phải mất bao nhiêu thì giờ để cho đoàn quân cỡi lạc đà rục rịch di chuyển?". 

- Ta hãy tính là một giờ đi. 

- Thêm vào một giờ để chúng qua sông. Chúng sẽ tới núi Abousir vào lúc sáu giờ, và chúng sẽ thấy đường đi ngay tức thì. Vào lúc đó là sự truy lùng sẽ bắt đầu. Chúng ta chỉ đi trước có bốn giờ, và trong những con lạc đà này một vài con đã mệt lử. Chúng ta còn có thể 

được giải thoát, Cochrane ạ ! 

- Phải, có thể một vài người trong bọn chúng ta. Nhưng tôi không nghĩ rằng ông mục sư còn sống đuợc tới sáng mai, cả cô Adams nữa. Không phải họ được sinh ra cho cái loại phiêu lưu, mạo hiểm này. Hơn nữa, chớ quên rằng bọn người này thường có thói ám sát các tù 

nhân khi những người này tìm cách trốn khỏi tay chúng. Belmont này, trong trường hợp mà ông thoát hiểm, chớ không phải là tôi, tôi có một vấn đề để áp mà tôi sẽ nhờ ông thanh toán thay tôi. 

Họ tiến lại gần nhau để nói rõ hơn về các chi tiết của công việc. 

Tên da đen tự đặt tên mình là Tippy Tilly đã tìm cách lén đưa một mảnh vải ướt sũng nước vào tay ông Stephens và cô Adams có thể làm ướt cặp môi. Một vài giọt nước này đã ban cho cô một sức mạnh mới, một khi qua khỏi sự chấn động đầu tiên, cái bản chất hăng hái, dẻo dai của cô lại y nguyên như trước. 

"Ông Stephens này, những người này không có vẻ muốn làm hại chúng ta", cô nhận xét. "Họ phải có một tôn giáo giống hệt như chúng ta; chắc chắn là họ cũng thấy là xấu những gì mà chúng ta coi là xấu...". 

Stephens lắc đầu không trả lời. Ông đã chứng kiến sự tàn sát những tên dắt lừa, việc mà cô gái già người Mỹ không nhìn thấy. 

"... có lẽ" cô nói tiếp, "chúng ta được cử tới chỗ họ để dẫn dắt họ theo một con đường tốt hơn. Có lẽ chúng ta được cử ra để hoàn thành một công trình tốt đẹp trong nước họ". 

Nếu cô cháu gái không có mặt tại đó thì cái tính tình dũng cảm, táo bạo của cô đã tìm được sự ủy lạo trong cái khả năng thực hiện một cuộc truyền giảng phúc âm rực rỡ ở Khartoum, hay sự biến đổi Omdurman thành cái mẫu nhỏ của một thành phố ở Nouvelle-Angleterru với những đại lộ rộng lớn. 

"Cô có biết cháu đang không ngừng nghĩ tới một điều gì không?" Sadie hỏi. "Cô có nhớ tới ngôi đền mà chúng ta đã xem vào lúc nào nhỉ? Phải rồi, đó là vào sáng hôm nay!" 

Cả ba người đều thốt ra một tiếng kêu kinh ngạc. Phải, họ đã xem ngôi đền đó ngay buổi sáng hôm nay, vậy mà ký ức hình như xuất hiện từ một quá khứ xa xôi, mờ mịt, biến cố xảy ra trong đời họ càng đột ngột và sâu đậm, thì những ý nghĩ của họ càng đi theo một chiều huớng khác biệt. Họ ngồi trên lưng lạc đà di chuyển trong sự yên lặng, cho tới lúc Stephens nhắc nhở Sadie là nàng chưa nói hết câu nói của nàng. 

- À phải! Tôi muốn nói về những hình chạm nổi ở ngôi đền. Ông có nhớ đoàn tù nhân khốn khổ bị kéo lê dưới chân vị Đại Vương không? Và hình như họ bị hạ sát giữa bọn chiến binh dẫn giải họ thì phải? Ai có thể nghĩ rằng chưa đầy ba giờ nữa chúng ta sẽ gặp cùng một 

số phận như vậy! và ông Headingly ... 

Nàng lấy tay che mặt và khóc òa. 

"Sadie, cháu đừng buồn tủi như thế!" người cô thì thào nói. "Cháu có nhớ những điều mà ông mục sư đã nói không, tất cả chúng ta đều nằm trong lòng bàn tay của thượng đế. Ông Stephens, ông nghĩ rằng chúng sẽ dẫn chúng ta tới đâu?" 

Cái mép đỏ của cuốn sách chỉ nam còn thò ra trên cái túi của ông luật sư, vì bọn người dã man đã không cho nó là đáng quan tâm. Ông vuốt ve nó bằng một cái nhìn. 

- Nếu chúng để tôi giữ nó cho tới chặng dừng chân sau tôi sẽ chỉ cho cô xem vài trang. Trong khi chờ đợi tôi có một kiến thức tổng quát về nước này, vì hôm kia tôi đã vẽ một bản đồ nhỏ. Sông Nil chảy từ Nam tới Bắc. Vậy là chúng ta phải đi thẳng tới phía Tây. Tôi cho là khi đi dọc theo quá gần bờ sông chúng sợ bị truy kích. Tôi nhớ là có một con đường cho các đoàn xe, con đường này chạy song hành với sông Nil, vào khoảng một trăm cây số ở bên trong đất liền. Nếu chúng ta tiếp tục đi theo huớng này trong một ngày nữa thì chúng ta sẽ gặp con đường đó. Nếu tôi không lầm thì nó chảy ngang qua một dãy giếng nước khởi đầu từ Asslout, về phía Ai Cập, để chảy tới mạn bên kia trong lãnh thổ của bọn thầy tu Hồi giáo, cũng có thể... 

Ông bị cắt ngang bởi một giọng nói sắc nhọn bất thần tuôn ra một tràng những từ ngữ không có mạch lac, mà cùng chẳng có ý nghĩa. Hai má của ông Stuart trở nên đỏ hồng, cặp mắt thất thần của ông sáng rực và vừa di chuyển trên lưng lạc đà, ông vừa nói những lời lảm nhảm không ai hiểu được. Đấng tạo hóa từ mẫu! Ngài không để cho lũ con của ngài phải chịu đựng quá nhiều sự hành hạ. "Thế là đủ rồi! ngài nói. Cái chân bị thuơng này, những cái vảy trên môi này, sự kinh sợ này, sự chán chường này... Này, hãy thoát ra một chốc lát, cho tới khi thể xác người lại trở thành nơi cư ngụ được!" Và ngài dẫn dắt linh hồn vào cảnh Nát bàn của sự nhiệt cuồng, trong lúc các tế bào chỉnh trang vá víu bên trong ngõ hầu mọi thứ được ở tình trạng hoàn hảo hơn để đón linh hồn trở về. Khi bạn nhìn thấy tấm màn của sự hung ác mà tạo hóa dựng lên, thì bạn hãy cố gắng kéo nó lên, khi đó bạn sẽ kinh ngạc phát hiện ra một bộ mặt khả ái và rất từ bi. 

Bọn Ả Rập quan sát cơn đột biến bất ngờ của ông mục sư với vẻ hoài nghi, thật ra nó đi gần tới chỗ điên cuồng mà đối với họ bệnh điên là một điều siêu nhiên và đáng sợ. Một tên trong bọn chúng tách khỏi hàng để đi nhận lệnh của tù trưởng. Khi hắn trở lại, hắn nói với những tên bạn của hắn, rồi hai tên Ả Rập đi vây quanh gần con lạc đà của ông mục sư để giữ cho ông này khỏi ngã. Anh chàng da đen tốt bụng lướt tới bên ông đại tá và nói thì thầm vào tai ông hai hoặc ba câu. 

"Belmont này, chúng ta sắp dừng chân đó" , Cochrane loan báo. 

- Cám ơn Thượng đế! Chúng sẽ cho bọn ta uống nước. Chúng ta không thể tiếp tục như thế này! 

Tôi đã nói với Tippy Tilly là nếu y giúp đỡ chúng ta, chúng ta sẽ cho y làm bimbashi khi chúng ta đưa y trở lại Ai Cập. Tôi nghĩ là y không đòi hỏi gì hơn đâu, mà y cũng sẽ phải có quyền hành chứ. Này Belmont, hãy quay đầu lại và nhìn con sông kìa! 

Cho tới lúc này con đường của họ đã đi qua một khoảng bãi cát có rải rác những núi đá với các sông núi đen xì và lởm chởm; bây giờ thì nó chạy tới một cánh đồng khô cằn, chia thành nhiều thung lũng, phủ đầy những đá cuội tròn vo, những đợt sóng trập trùng lên xuống của địa hình kéo dài tới những ngọn đồi tím ngắt tận chân trời; chúng đều đặn quá, dài quá, nâu quân, khiến ta có thể tưởng chúng là những đợt sóng tối om của một cơn sóng khổng lồ đã bị đông đặc lại. Thỉnh thoảng một túm cỏ xanh nhỏ bé của lạc đà mọc lên giữa những tảng đá. Phía trước các tù nhân, không còn gì khác ngoài cái cánh đồng màu nâu và những ngọn đồi màu tím này. Đằng sau họ, trước hết là những núi đá lởm chởm đen xì mà họ vừa đi qua với những thung lung cát vàng ối, nhưng xa hơn, xa hơn rất nhiều, một đường màu xanh nhỏ nhắn chỉ rõ dòng sông Nil. Bên cạnh sự đơn điệu hoang dã này, đối với họ màu xanh lục ấy có vẻ tươi mát và kỳ diệu biết bao! Họ cũng nhận ra ngọn núi cao Abousir, ngọn núi mắc dịch đã gây ra sự tổn thất của họ. Ở đằng xa kia, con sông vạch ra những khúc quanh co óng ánh của nó. Ôi, cái thứ chất lỏng long lanh này. Ôi, những bản năng thô cục, sơ khai đã trỗi dậy ngay trong tâm hồn họ! Họ đã đánh mất gia đình, đánh mất tổ quốc, đánh mất tự do, nhưng họ đã quên tất cả để chỉ còn nghĩ tới thứ nước này. Trong cơn mê sảng, ông Stuart kêu lớn đòi những quả cam, nghe tiếng ông kêu thật là rùng rợn. Chỉ có một mình anh chàng thô lỗ người Ái Nhĩ Lan là vượt được lên trên con thú vật: cái đoạn sông mà ông đang ngắm chắc phải ở gần Ouadi-Halfa và chắc chắn là vợ ông đang ở chỗ đó. Ông kéo chụp mũ xuống bên trên mắt và miệng nhằn sợi râu mép đã bạc. 

Mặt trời chậm chạp ngả về phương Tây, bóng của họ kéo dài ra trên con đuờng hẹp. Trời đã mát hơn, gió sa mạc đã nổi lên và thổi vi vu bên trên cánh đồng. Tên tù trưởng gọi tên phụ tá, cả hai đều nhìn kỹ các nơi phụ cận, lấy bàn tay che lên hai mắt, chắc chắn là chúng đang tìm một nơi để nghỉ chân. Rồi, thốt lên một tiếng gầm gừ thỏa mãn, con lạc đà của tên chỉ huy quì xuống trên các đầu gối, rồi tới trên các cổ chân và để bụng của nó lên mặt đất. Tất cả những con lạc đà đi tới chỗ cao của nó đều bắt chước nó, và đều nằm xuống trên cùng một hàng ngang. Các kỵ binh đặt chân xuống đất và bày ra trước mắt những con lạc đà các thức để ăn, nhưng trên các miếng vải, vì một con lạc đà giống tốt không bao giờ ăn trên mặt đất ngay chỗ nó đứng. Trong những con mắt hiền lành của các con vật, trong cung cách điềm tĩnh khi ăn, trong điệu bộ khoan đại của chúng, có một thứ gì là duyên dáng, là thuộc vẻ nữ tính: chúng gợi ra một cách không thế chối cãi được hình ảnh một buổi cắm trại của những cô gái già ở giữa bãi sa mạc của nước Libye. 

Những tù nhân được để tự do trong các cử động của họ, làm sao mà họ có thể nghĩ tới việc đào thoát ở giữa cánh đồng bao la này? Tên tù trưởng bước lại gần, nhìn họ với những con mắt hắc ám, trong khi lấy các ngón tay chải chòm râu của y. Trong lúc run lẩy bẩy, cô Adams phát hiện ra là cái nhìn của tên chỉ huy quay trở lại dính chặt vào Sadie. Rồi, thấy rõ tình cảnh thể chất của họ, y phát ra một mệnh lệnh, một tên da đen mang tới một túi nước và rót cho mỗi người một nửa chén. Nước thì nóng, đầy bùn, nó có mùi vị của da thuộc, nhưng với khẩu-cái khô queo của họ, nó có vẻ ngon ngọt biết bao! 

Tên tù trưởng nói một vài tiếng khô khan với gã thông ngôn rồi đi khỏi. 

"Thưa quí bà quí ông!... " Mansoor bắt đầu. Hắn định tự ý lấy lại vẻ quan trọng của hắn, nhưng trước một thứ tia sáng nào đó trong cặp mắt của ông đại tá hắn khởi đầu một bài biện hộ dài cho cách cư xử của hắn. Hắn rên rỉ: 

-... Làm thế nào mà tôi có thể hành động khác đi được, với lưỡi gươm kề vào cổ họng? 

"Nếu một ngày nào chúng ta trở lại Ai Cập, tôi hứa là sẽ cho anh một sợi dây thừng quấn vào cổ?" ông đại tá làu bàu một cách hung hãn. Trong khi chờ đợi... 

"Đúng lắm thưa ông đại tá!" Belmont cắt ngang. "Nhưng vì lợi ích của bản thân chúng ta, chúng ta phải biết là tên chỉ huy đã nói những gì". 

- Đối với riêng tôi, tôi không còn muốn dính líu gì với đồ chó má này nữa! 

- Tôi nghĩ đó là ta đi quá xa rồi. Chúng ta không thể tự cho phép mình làm ngơ những điều mà tên chỉ huy đã nói. 

Cochrane nhún vai. Những sự thiếu thốn, đói khát đã làm cho ông trở nên hay bực bội. Ông phải cắn môi lại để kìm lại một câu trả lời chua chát. Ông đi xa ra một cách thong thả. 

- Tôi thấy rằng hắn có vẻ dễ chịu hơn trước đôi chút. Hắn nói rằng khi nào còn có nước thì các vị sẽ có phần của các vị, nhưng nước đã không có nhiều. Hắn cũng nói rằng ngày mai chúng ta sẽ tới các giếng nước ở Selimah, và rằng mọi người sẽ có nhiều nước để uống,

kể cả những con lạc đà. 

- Hắn không nói rõ với anh là chúng ta sẽ ở lại nơi này bao lâu à? 

- Một sự nghỉ chân rất ngắn, hắn nói với tôi, rồi sau đó lại lên đường! Ồ, ông Belmont!... 

"Im lặng!" anh chàng người Ái Nhĩ Lan càu nhàu nói. Belmont lại bắt đầu tính toán những thời hạn và những khoảng cách. Nếu tất cả mọi việc đều diễn ra như đã dự trù, nếu bà vợ ông đã rũ sạch được sự biếng nhát của viên thuyền trưởng để cho sự báo động được ban hành ở Ouadi-Haffa, thì những người truy lùng đã được tung ra theo dấu vết của bọn họ. Đạo quân cưỡi lạc đà hay đoàn kỵ binh Ai Cập di chuyển tốt và nhanh dưới ánh trăng hơn là dưới ánh sáng mặt trời. Ông biết rằng ở Ouadi-halfa người ta có tục lệ là lúc nào cũng giữ ít nhất một nửa trung đội kỵ binh trong tình trạng báo động. Ông đã ăn uống thâu đêm suốt sáng ở câu lạc bộ, và các sĩ quan đã giảng giải cho ông biết cách thức mà bán trung đội ky binh này trong trường hợp khẩn cấp có thể đánh xuyên thẳng ngay tức thì. Họ đã chỉ cho ông thấy những nơi dự trữ nước, thức ăn làm sẵn ở bên cạnh mỗi con vật và ông đã cảm phục sự chu đáo dành cho các việc chuẩn bị này mà không lúc nào nghĩ rằng ông sẽ có thể cần tới chúng. Muốn cho cả một đội đến trú cùng di chuyển thì phải tính tới một giờ sớm sủa. Có thể là sáng ngày hôm sau... 

Những sự suy tư của ông bị cắt ngang một cách thê thảm, vùng vẫy như một thằng điên, ông đại tá xuất hiện trên đỉnh một cồn cát ở gần nhất, với một tên Ả Rập đeo cứng ở mỗi cổ tay ông. Mặt ông đỏ bừng vì giận giữ và lo sợ. 

"Lũ sát nhân khốn kiếp!" ông la lớn. "Belmont ơi, chúng đã giết chết Cecil Brown rồi!" 

Đây là sự việc đã xảy ra. Trong con tức giận, ông đại tá đã đi tới ngọn đồi gần nhất, trong thung lũng nhỏ ông chợt nhìn thấy một toán lạc đà và nhiều người đang tức giận nói lớn tiếng. Brown đang đứng ở giữa đám chiến binh; ông xanh mét, có một cái nhìn nặng nề, nhưng lúc nào ông cũng xoắn bộ ria mép và ông giả bộ ra một tư thế lơ là. Ông đã bị lục soát, nhưng bây giờ chúng có vẻ quyết định lột hết quần áo của ông với hy vọng tìm ra một vật gì mà ông còn dấu diếm. Một tên da đen xấu xí với những chiếc khoen đeo tai, nhăn mặt một cách giận dữ trước vẻ mặt bất động của nhà ngoại giao trẻ. Trong thâm tâm của mình, ông đại tá cho sự trầm tĩnh không thể lay chuyển được này là phi nhân tính và anh hùng. Quần áo của Cecil Brown đã bị cởi hết cúc, cái bàn tay kếch xù của tên da đen bay tới cổ ông ta và xé tung áo sơ mi của ông cho tới thắt lưng. Nghe tiếng rách soạt này và thấy sự đụng chạm của những ngón tay thô kệch đó, người thị dân này, cái sản phẩm hoàn thiện của thế kỷ thứ mười chín bèn đoạn tuyệt ngay với các nguyên tắc của ông: ông trở thành một tên man rợ trước mặt một tên man rợ khác. Mặt ông đỏ bừng, môi ông mím lại, răng ông nghiến kèn kẹt, mắt ông đỏ ngầu. Ông chồm lên tên da đen và đánh vào mắt y nhiều lần. Ông đánh như một cô con gái, cánh tay tròn trĩnh và bàn tay xòe ra. Thoạt đầu bị hoảng sợ vì cơn điên dại bất chợt đó, tên da đen lùi lại, rốt hắn bật ra một tiếng cười gằn, rút một con dao từ ống tay áo thùng thình của hắn ra và phạt từ dưới lên trên dưới cái cánh tay đang quay cuồng. Brown ngã người xuống và bắt đầu ho, ông ho như một người bị nghẹn trong bữa ăn, hết cơn này tới cơn khác, không thể ngừng được. Cặp má của ông mà sự phẫn nộ đã làm đỏ ửng đã dần dần phủ màu tái nhợt của chết chóc. Cổ họng ông để lọt ra vài tiếng "ong-óc". Ông đặt một bàn tay lên miệng và nằm lăn xuống. Tên da đen phát ra một tiếng gầm gừ khinh bỉ và nhét con dao vào tay áo trong lúc ông đại tá điên cuồng trong cơn thịnh nộ bất lực đã để cho lũ người đứng xem nắm lấy và dẫn trở lại chỗ các bạn đồng hành đang hoang mang của ông. Chúng trói tay ông lại và ông ngồi gần bên vị mục sư bất cần ước lệ lúc nào cũng mê sảng. 

Như vậy là Headingly đã chết, và Cecil Brown cũng đã chết. Những người sống sót nhìn nhau với những con mắt đờ đẫn, như thể cố sức dò tìm những quyết định của số phận và tiên đoán xem người nào trong bọn họ sẽ là nạn nhân sắp tới. Trong mười du khách thì hai người đã chết và một người điên. Nhất định là những ngày nghỉ của họ đã kết thúc rất tệ. 

Fardet, anh chàng người Pháp ngồi riêng một mình. Ông tì cằm trên hai bàn tay và những khuỷu tay trên đầu gối ông đang ngắm nhìn bãi sa mạc. Đột nhiên Belmont nhìn thấy ông ta giật nảy người và dỏng tai lên như một con chó nghe thấy tiếng bước chân của một kẻ lạ, Rồi, đan những ngón tay vào nhau, Farđet khom mình về phía trước và mắt nhìn ngấu nghiến những ngọn đồi đen xì ở mạn Đông mà họ vừa vượt qua, Belmont trông theo hướng nhìn của ông ta, và... Đúng, đúng! một vật gì đang động đậy ở phía đó ? Kim loại lóng lánh, một cái áo trắng bay phấp phới, một tên thầy tu Hồi giáo đi tuần tra bên hông doanh trại quay con lạc đà của hắn trở lại hai lần ra hiệu báo động, rồi bắn một phát súng chỉ thiên. Trống vang của phát súng chưa tắt lịm hẳn mà tất cả những tên Ả Rập và tất cả những tên da đen đều đã nhảy lên yên và thúc những con lạc đà đứng dậy, chúng thong thả đi về phía mà lệnh báo động đã được phát ra. Nhiều người có võ trang vây quanh các tù nhân, không quên lắp những bì đạn vào những khẩu súng trường của chúng để khuyên họ hãy đứng yên. 

"Lạy trời, đó là những người cưỡi trên lưng lạc đà!" Cochrane kêu lên, trong ông tất cả mọi ưu lo đều tan biến. "Chắc chắn là những người của chúng ta!" 

Trong sự hoang mang đều khắp, ông đã tự cởi trói cho hai bàn tay. 

"Tôi không tin rằng họ lại nhanh chóng đến như thế" Belmont lẩm bẩm nói, hai mắt ông sáng rực lên. "Tôi không trông đợi họ ít nhất là trước hai hay ba giờ. Hoan hô ông Fardet, như thế tốt hơn, phải không ?" 

"Hoan hô! Hoan hô! Tốt một cách kỳ diệu! người Anh muôn năm! người Anh muôn năm!" anh chàng người Pháp kêu to, toàn thân bị kích động. 

Một đoàn lạc đà từ trong các núi đá mà ra. 

"nghe đây, Belmont" ông đại tá nói lớn, "Chắc chắn là lũ kẻ cắp này sẽ muốn hạ sát chúng ta nếu công việc của chúng không trôi chảy. Tôi biết phong tục của chúng, và chúng ta phải chuẩn bị sẵn sàng. Ông có muốn nhảy tới tấn công thằng chột mắt không? Tôi, tôi sẽ bắt thằng da đen cao lớn, nếu hai cánh tay tôi có thể ôm vòng thân mình nó. Stephens, ông sẽ làm việc gì ông có thể làm được. Còn ông, Fardet, ông đã hiểu lời tôi nói chứ? Phải hoàn toàn đặt những tên cướp này ra ngoài tình trạng làm hại chúng ta trước khi chúng có thể làm tổn thương chúng ta. Còn anh, anh thông ngôn, hãy nói cho hai người lính Soudan biết... nhưng, nhưng... " 

Giọng ông trảm xuống, ông nuốt nước miếng. 

" Đó là những tên Ả Rập" ông nói. 

Và không ai nhận ra giọng nói của ông nữa. 

Trong tất cả cái ngày khủng khiếp này, đây là lúc khủng khiếp nhất. Ông Stuart, con người vui vẻ, nằm dài trên những hòn đá sỏi, tựa lưng vào hông con lạc đà của ông và ông nín những tiếng cười nhỏ mỗi khi các tế bào bên trong người ông bận rộn một cách vui vẻ để tái lập trật tự trong thân thể ông. Bộ mặt hồng hào, tươi tắn của ông toát ra vẻ thánh thiện nhưng với những người khác sự tuyệt vọng thật vô cùng! những người đàn bà oà lên khóc thổn thức, những người đàn ông thì núp náu trong một sự yên lặng còn tệ hơn là khóc lóc. Ông Fardet thì khổ sở vì những cơn nấc cụt, ngã sụm xuống, mặt úp xuống đất. 

Bọn Ả Rập bắn súng chỉ thiên để chúc mừng sự may mắn cho các bạn của chúng. Bọn này phi lạc đà chạy trên cánh đồng trống, đáp lại bằng những loạt súng và vung vẩy những cây giáo của chúng. Cái toán mới này không đông bằng toán thứ nhất; nó không có tới quá ba mươi ky binh, chúng mang cùng một thứ khăn đỏ và những chiếc áo chắp nối nhiều mảnh. Một tên trong bọn chúng vác một lá cờ trắng nhỏ có trang hoàng một bản văn thêu màu đỏ. Nhưng sự chú tâm của các du khách, bất thần bị lôi cuốn bởi một vật khác. Lòng họ có cùng một điều lo sợ như nhau, cùng một sự xung động đã chế ngự sự im lặng. Ở giữa đám chiến binh của sa mạc một bóng trắng lảo đảo trên một con lạc đà. 

"Chúng có ai đi với chúng vậy?" cuối cùng Stephens nói lớn. "Hãy nhìn kìa, cô Adams! Ta phải nói đó là một phụ nữ!". 

Quả thực một hình dáng người hình như được đặt trên một con lạc đà, nhưng khó mà đặt cho hình dáng đó một cái tên. Khi hai toán người gập nhau, những kỵ binh tan hàng. Lúc đó thì các tù nhân mới hiểu. 

- Đó là một người đàn bà da trắng! 

- Tàu thủy đã bị tấn công. 

Belmont thốt ra một tiếng kêu như xé rách màn đêm. Ông gào lên, 

- Norah, em yêu của tôi! Chớ để mất lòng can đảm! Tôi ở đây và mọi sự đều tốt đẹp.

***

Chương 6

Thế là tàu Korosko đã bị tấn công và chiếm đoạt; do đó những cơ may giải cứu mà họ tính toán (tất cả những con toán phức tạp về giờ giấc và khoảng cách) cũng tỏ ra hư huyễn như một ảo ảnh. Sự báo động sẽ không được loan ra ở Ouadi-halfa trước khi các nhà chức trách thấy rằng con tàu đã không trở về trong buổi tối. Vậy thì vào giờ này của buổi hoàng hôn khi mà sông Nil chỉ còn là một cái dải mỏng màu xanh dương ở rất xa đằng sau họ, chắc chắn là sự truy lùng chưa khởi sự. Và chỉ một trăm năm mươi cây số nữa thôi. có thể còn ít hơn nữa. đã chia cách họ với xứ sở của bọn thầy tu Hồi giáo. Hầu như không còn chút hy vọng nào là các lực lượng Ai Cập kịp thời gặp được họ. Khi đó một sự chán nản âm thầm, ảm đạm đã chiếm ngự các tù nhân, ngoại trừ Belmont mà bọn Ả Rập phải kiềm chế vì ông muốn chạy tới cứu vợ. 

Hai đôi quân đã nhập lại với nhau. Lũ Ả Rập trao đổi những lời chào và lời tán tụng một cách nghiêm trọng và oai vệ, trong khi bọn da đen cười, la lối. nói huyên thuyên với sự vui tính hồn nhiên mà kinh Coran đã bất lực không cải tạo được. Tên chỉ huy của bọn mới tới là một ông già mũi to, khoằm và có chòm râu bạc. hình dáng gầy gò. khổ hạnh, thô lỗ, hung bạo, điệu bộ rất võ biền. Anh thông ngôn rên rỉ khi nhận ra ông ta. Y giơ hai tay lên trời và lắc đầu, rõ ràng là y đã phát hiện ra một viễn cảnh mới của những sự bực bội. 

"Đó là tù trưởng Abderrahman" y nói. "Bây giờ thì tôi sợ rằng khi tới Khartoum chúng ta không còn sống nữa!" 

Chỉ có một mình đai tá Cochrane là biết hắn qua lời đồn đãi: hắn nổi tiếng là một con quái vật của sự tàn ác và cuồng tin. là một tên hồi giáo khùng điên, là một nhà truyền giáo và một chiến sĩ không bao giờ ngần ngại khi áp dụng những chủ thuyết hung tàn của kinh 

Coran cho tới chung cuộc của chúng... Lão khởi đầu bằng việc chuyện trò với tù trưởng Wad Ibrahlm, những con lạc đà của chúng đứng sát vào nhau. Chòm râu đen hòa lẫn với chòm râu bạc. Rồi cả hai tên cùng quay nhìn về phía toán tù nhân khốn khổ. Tên đàn em cung cấp rất nhiều lời giảng giải cho tên lớn tuổi, tên này lắng nghe, vẻ nghiêm trọng và không mảy may xúc động. 

"Cái ông già có bộ râu trắng là ai vậy?" Cô Adams hỏi, cô là người đầu tiên đã trấn tĩnh lại sau cơn thất vọng. "Ông ta có dáng điệu rất phi phàm". 

"Đó là tên chỉ huy mới" Cochrane đáp. 

- Ông không muốn nói là hắn có cấp bậc cao hơn tên kia chứ? 

-"Có thưa cô" anh thông ngôn nói "Hiện nay hắn là vị chỉ huy tối cao" 

- Được như thế càng tốt! Hắn làm tôi nhớ tới ông già Mathews của giáo hội trưởng lão vào thời mục sư Scott. Cái lão chỉ huy có bộ râu đen và cái nhìn sáng rực như than hồng không nói với tôi một điều gì có giá trị cả. Sadie này, cháu cưng của cô. cháu cảm thấy dễ chịu hơn với sự mát mẻ phải không? 

- Vâng thưa cô. Xin cô chớ bận tâm tới chuyện của cháu, chính cô, thì cô cảm thấy thế nào? 

-Thực ra cô nhiều tin tưởng hơn lúc nãy. Cô đã cho cháu một tấm gương xấu Sadie ạ, cô đã bị hoàn toàn choáng váng bởi sự đột ngột của tất cả cuộc phiêu lưu này, rồi cô nghĩ tới mẹ cháu. Bà ấy đã giao phó cháu cho cô và cô tự hỏi bà ấy nghĩ thế nào khi nhìn thấy cả 

hai cô cháu mình. Cô nghĩ là sẽ có một vài tiêu đề đặt bên trên trong tờ Boston Herald! Và cô đánh cá rằng một người nào đó sẽ phải viết những bài tường thuật!

-"Ông Stuart đáng thương" Sadie kêu lên khi lại nghe thấy cơn mê sảng đơn điệu của ông mục sư. "Cô ơi. lại đây! Thử xem chúng ta có thể làm được điều gì cho ông ấy không". 

"Tôi lo sợ về chuyện của bà Shlesmger và đứa con của bà ấy" đại tá Cochrane nói "Ông Belmont này. tôi nhìn thấy rõ bà vợ ông, nhưng không nhìn thấy ai khác nữa". 

Chúng dẩn bà ấy tới đây". Belmont kêu lên. "Cám ơn Thượng đế! Chúng ta sẽ biết hết mọi chuyện. Norah, chúng đã không làm tổn hại mình chứ, tôi hy vọng...?" 

Ông chạy tới chỗ bà vợ, và hôn bàn tay bà chìa ra để ông đỡ bà, từ trên lưng lạc đà xuống. 

Cặp mắt xám hiền hậu và bộ mặt dịu dàng, trầm tĩnh của người đàn bà Ái Nhĩ Lan mang lại đôi chút khuây khỏa và hy vọng cho các tù nhân. Đây là một người phụ nữ công giáo thuần thành; mà tôn giáo của Giáo hội La Mã là một sự trợ lực tuyệt hảo trong giờ phút hiểm nghèo. Với bà, với ông đại tá là người theo Anh quốc giáo, với ông mục sư không theo nghi thức, với những phụ nữ Mỹ theo phái trưởng lão, và ngay cả với hai người Soudan ngoan đạo, dưới những phương diện khác nhau của nó, tôn giáo đã làm cùng một nhiệm vụ: nó không ngừng nhắc nhở rằng điều xấu xa mà con người có thể gây ra là điều rất nhỏ nhặt, và rằng bất kể sự khắc nghiệt bề ngoài, trên những con đường của Chúa, chúng ta không có điều gì tốt và khôn ngoan để làm hơn là cứ tự để cho cái Bàn Tay Vĩ đai dẫn dắt chúng ta. Những người bạn trong hoạn nạn này không có cùng chung một giáo 

điều. Nhưng họ có lòng dũng cảm sâu đậm và lòng tin số mạng an- nhiên, cần thiết là những thứ đã tạo ra cái khuôn khổ cổ xưa của tôn giáo, những giáo điều mới đã mọc lên như loài rêu phù du trên mặt tảng đá hoa cương. 

"Các ban khốn khổ! " người phụ nữ ái Nhĩ Lan nói lớn "tôi thấy rằng các bạn đã chịu khổ hơn tôi rất nhiều. Thật vậy đó anh John yêu quý ạ, tôi hoàn toàn khỏe mạnh mà ngay cả tôi không bị khát nữa, vì trên chúng tôi đã đổ đầy nước vào các túi da ở sông Nil, và tôi đã uống thỏa thuê theo ý thích. Nhưng tôi không trông thấy ông Headingly, cả ông Brown nữa. Và ông Stuart khốn khổ! ông ấy ra thế nào rồi? 

"Headingly và Brown không còn biết ưu phiền nữa", ông chồng bà trả lời. "Norah này, mình không biết rằng hôm nay chúng tôi đã tạ ơn Thượng đế bao nhiêu lần về việc mình đã không cùng đi với chúng tôi! Vậy mà mình cung lại ở đây!" 

-Tôi sẽ ở nơi nào tốt hơn là ở bên cạnh chồng tôi? Tôi thích một trăm lần, một ngàn lần ở đây hơn là được an toàn ở Ouadl-halfa. 

-Thành phố có được báo động không?" ông đại tá hỏi. 

- Một cái ca nô đã trốn thoát được. Bà Shlesinger, con bà ấy và người vú nuôi đã ngồi trên ca nô đó. Khi bọn Ả Rập tấn công chúng tôi thì tôi ở bên dưới. Những người ở trên boong đã có thì giờ nhảy lên ca nô. Tôi không biết họ có bị thương không vì bọn Ả Rập đã bắn

theo trong một lúc lâu. 

"Thật vậy à?" Belmont kêu lên "như thế đoàn quân trú phòng phải nghe thấy tiếng súng bắn, ông nghĩ thế nào. ông Cochrane? Từ bốn giờ rồi họ phải được tung ra trên con đường của chúng ta! Từng phút một chúng ta có thể hy vọng trông thấy xuất hiện trên đỉnh đồi kia cái mũ cứng của một sĩ quan Anh! 

Nhưng những sự thất vọng liên tiếp đã làm cho ông đại tá thành hoài nghi. 

"Nếu họ không tới với lực lượng mạnh" ông đáp, " thì tốt hơn là họ đừng tới nữa. Bọn kẻ cướp này là những tên lính tinh nhuê và những tên chỉ huy giỏi, và trên chính địa thế của chúng, chúng sẽ kháng cự kịch liệt... " 

Đột nhiên ông ngừng lại và nhìn về phía bọn Ả Rập. "...Lạy Chúa tôi!" ông lẩm bẩm nói. "Cái cảnh này rất đáng xem!" 

Mặt trời to lớn, đỏ rực đã dấu một nửa cái đĩa của nó đằng sau đám sương mù tím lịm ở chân trời. Lúc này là giờ cầu nguyện của người Ả Rập. Một nền văn minh cổ đại hơn và thông thái hơn phải quay về hướng chân trời huy hoàng này và thờ phụng nó, nhưng những đứa con mọi rợ của sa mạc vốn có một tính chất cao quí hơn những người Ba Tư phong nhã, họ đặt tinh thần cao hơn vật chất. Vì vậy họ cầu kinh trong khi quay lưng về phía mặt trời và hướng mặt họ về phía ngôi đền chính của tôn giáo họ. Đó là cách họ cầu nguyện, những kẻ cuồng tín đó! Say sưa một cách sâu xa, với những cặp mắt long lanh và nét mặt rạng rỡ họ đứng lên, quì xuống, trán họ chạm vào tấm thảm để cầu kinh. Khi nhìn thấy một sự sùng kính như thế, ai còn dám nghi ngờ sự hiện hữu của một thế lực lớn lao trên toàn thế giới, phản động nhưng khủng khiếp, có sẵn trong tay hàng trăm triệu đứa con ở giữa mũi Juby và những ranh giới của nước Trung Hoa? Nếu một ngày nào cùng một luồng gió đó đốt cháy họ, nếu một binh gia vĩ đại hay một nhà cai trị vĩ đại đứng lên để tổ chức họ, họ sẽ chẳng phải là khí cụ mà Đấng tối cao quét sạch miền Nam Châu Âu, nơi đã suy tàn, thối nât, ích kỷ, không có dũng khí, như chuyện đã xảy ra một ngàn hai trăm năm trước, để dọn chỗ sạch sẻ cho một chủng tộc tốt đẹp hơn. 

Khi họ đứng dậy, một hồi tù và vang lên; lúc đó các tù nhân hiểu rằng sau khi đã đi suốt cả ngày, họ sẽ phải đi suốt cả đêm. Belmont càu nhàu, vì ông đã hy vọng là những người giải cứu sẽ theo kịp họ trước lúc nhổ trại, nhưng những người khác thì đều đã quá sẵn sàng, để tuân theo sự không thể tránh được. Họ nhận được mỗi người một cái bánh dẹp của dân Ả Rập, rồi để làm tăng thêm phần sảng khoái, một chén nước thứ hai lấy từ những túi da của toán quân thứ nhì. Nếu xác thịt biết tuân lệnh của linh hồn một cách cũng dễ dàng như linh hồn tuân lệnh xác thịt thì trái đất đã là một thiên đường rồi! một khi các nhu cầu về thể chất đã được thỏa mãn, họ lấy lại can đảm và lại leo lên lưng những con lạc đà trong khi chấp nhận một cách độ lượng hơn cái khía cạnh lãng mạn của cuộc phiêu lưu khủng khiếp của họ. Ông Stuart cứ đeo đuổi những lời lảm nhảm trẻ con trên bãi cát ngay cả bọn Ả Rập cũng không nghĩ tới việc đặt ông ngồi lại trên yên lạc đà. Trong bóng đêm đang đổ xuống, bộ mặt to phì của ông ngẩng lên trời làm thành một vệt trắng. 

"Anh thông ngôn!" ông đại tá quát lớn. "Nói với chúng là chúng bỏ quên ông Stuart". 

"Thưa ông vô ích thôi!" Mansoor đáp lại. "Họ nói rằng ông ấy mập quá, và họ không đem ông ấy đi xa hơn nữa. Họ nói là ông ấy sắp chết rồi, như thế bận tâm tới ông ấy có ích gì?". 

Cochrane la lớn: 

- Không đem ông ấy đi! Thế nào! nhưng ông ấy sẽ chết đói và chết khát! ông tù trưởng đâu?... 

Ông gọi lão Ả Rập có bộ râu đen với cái giọng mà ông đã dùng để quở mắng một tên dắt lừa đến trễ. Tên chỉ huy không thèm trả lời ông, nhưng hắn nói hai hay ba tiếng với một trong những tên chiến binh, và tên này đánh vào mạng sườn ông đại tá một nhát báng súng. Người lính già ngã xấp xuống rồi được nâng lên yên lạc đà, gần như bất động. Những người đàn bà lại bắt đầu khóc; những người đàn ông thì lủng bủng những câu nguyền rủa và xiết chặt những nắm tay, họ có thể làm được việc gì trong cái địa ngục của sự bất công và những cách đối xử tàn tệ này? Belmont tìm khẩu súng lục nhỏ của ông, nhưng ông nhớ ra là óng đã giao nó cho cô Adams. Nếu ông còn giữ nó thì tên tù trưởng đã bị hạ sát rồi, nhưng tất cả các du khách đều sẽ bị tàn sát hết. 

Khi tiếp tục lên đường, họ thấy hiện ra trước mặt họ một trong những hiện tượng hy hữu nhất của sa mạc Ai Cập; đúng thực là các tình huống đã làm cho họ chẳng còn bụng dạ nào để thưởng thức cái đẹp. Khi mặt trời đã biến dạng, chân trời còn giữ lại một sắc tím như màu đá đen, nhưng bây giờ thì màn sương mù đó mỗi lúc mỗi trở thành sáng sủa, một bình minh giả hiệu hiện lên. Họ có thể cho là một vừng mặt trời đang lúng liếng mọc trở lại trong bầu trời theo con đường mà nó vừa lặn xuống. Một tấm màn màu hồng lơ lửng bên trên phía Tây đã trang hoàng cho cái rìa phía trên của nó bằng những ánh phản quang có màu xanh tươi mát và trang nhã, nhưng các màu sắc đó đã từ từ hòa tan vào một màu xám mờ mờ khởi đầu cho màn đêm. Trước đây hai mươi bốn giờ, ngồi trên những cái ghế dài hoặc những cái ghế đẩu, họ bàn luận về chính trị trên boong tàu Korosko, dưới ánh sáng những ngôi sao Mười hai giờ trước đây, họ ăn điểm tâm trước khi khởi hành cho cuộc du ngoạn cuối cùng của họ. Rồi từ lúc đó, họ đã khám phá ra cả một thế giới của những cảm giác mới lạ. Họ đã bị xô xuống từ đỉnh cao của sự sung túc với sự phũ phàng làm sao! Cũng là những ngôi sao bạc này, cũng là mảnh trăng lưỡi liềm này, nhưng giữa quá khứ và hiện tại đã có một hố sâu làm sao! Những con lạc đà cũng di chuyển lặng lẽ như những bóng ma vậy. Phía trước các tù nhân, phía sau họ những tên Ả Rập cũng không gây ồn ào nhiều hơn là những con vật chúng cưỡi. Không chỗ nào có một tiếng ồn. Không một chút tiếng ồn. Rồi thình lình từ rất xa về, phía sau, một tiếng người cất lên trong sa mạc, một tiếng mạnh, vo vo, không theo nhạc điệu mấy ti, dần dà một điệp khúc toát ra từ trong tiếng hát xa xăm ấy, các tù nhân có thể phân biệt ra trong điệp khúc ấy những câu: 

"Ban đêm chúng ta dựng cái lều di động của chúng ta, 

Chưa tới một ngày trước lúc trở về của chúng ta... " 

Ông Stuart đã hồi phục thần trí rồi, hoặc đây chỉ là sự ngẫu nhlên trong cơn mê sảng mà ông đã chọn khúc ca này? Các bạn của ông quay nhìn lại, mắt đẫm lệ, họ biết chắc rằng người lữ hành này đã ở rất gần ngày trở về rồi... Tiếng hát dần dà thấp giọng xuống, nó chấm dứt bằng cách chìm ngập trong cái im lặng bao la của sa mạc. 

"Ông bạn già thân mến, tôi hy vọng là ông không bị thương chứ?" Belmont vừa hỏi vừa đặt một bàn tay lên đầu gối ông đại tá. 

Cochrane ngồi dậy, nhưng ông còn thở hổn hển. 

- Tôi hoàn toàn bình phục rồi. Xin ông vui lòng chỉ cho tôi thấy kẻ nào đã đánh tôi? 

- Tên ăn cướp đứng trước mặt ông, tên mà con lạc đà của nó đứng ngang tầm con lạc đà của Fardet đó. 

- Tên thanh niên với bộ ria mép... Với ánh sáng này tôi không phân biệt được nó rõ ràng, nhưng tôi tin rằng tôi sẽ nhận ra nó lúc ban ngày. Cám ơn Belmont! 

- Tôi nghĩ rằng nó đã đâm gãy xương sườn của ông. 

- Không, nó đã cắt đứt hơi thở của tôi, tất cả cơ thể. 

- Người ông chắc phải bằng sắt! Đó là một đòn khủng khiếp. Làm thế nào mà ông có thể hồi phục nhanh quá như vậy? 

Ông đại tá gãi cổ và nói hơi lúng búng khi trả lời. 

- Ông bạn Belmont thân mến, sự thật là... Tôi tin chắc rằng việc này sẽ chỉ có hai chúng ta biết... nhất là đừng nhắc lại việc đó với các đàn bà!... Nhưng tôi có đôi chút già hơn điều mà tôi nhìn nhận, và thà rằng để mất phong thái quân cách là thứ lúc nào cũng quí giá với tôi, tôi... 

"Ông mặc áo nịt ngực à, lạy Chúa tôi!" anh chàng người Ái Nhĩ Lan kêu lên. 

"Thật tình, đó là một sự hỗ trợ nhân tạo!" ông đại tá nói một cách khô khan, và ông lái cuộc đàm thoại sang các sự may rủi của ngày hôm sau. " 

Những người còn sống sót còn nhìn thấy trong những giấc mơ của họ cái đêm dài phải đi trong sa mạc ấy. Hơn nữa tất cả đều là một thứ mộng mơ: sự im lặng mà họ thấy trên những cái chân có sức đàn hồi của lũ lạc đà, và những cái bóng lờ mờ, chuyển động đang lắc lư ở bên trái và ở bên phải họ. Vũ trụ hình như được treo lơ lửng trước mặt họ như một cái mặt đồng hồ khổng lồ. Một ngôi sao lấp lánh ngay tại cuối con đường của họ. Thời gian mà họ nhắm mắt lại, và lại mở mắt ra, một ngôi sao khác đã sáng rực lên bên dưới ngôi sao trước. Giờ này sang giờ khác, làn nước bao la của các vì sao vẫn trôi đi một cách chậm chạp trên cái nền màu xanh dương của trời đêm, những thế giới và những hệ thống thiên thể trôi giạt một cách uy nghi bên trên đầu họ, để làm đầy vòm trời mà sự hoành tráng đã an ủi một cách mơ hồ những người bị bắt, nhất là số phận riêng của họ và bản thân con người của họ hình như quá nhỏ nhoi bên cạnh một sự triển khai các uy lực như vậy, muốn diễn hành trên bầu trời, đám rước lớn của các tinh tú phải bắt đầu bằng việc leo lên nó, rồi đứng lại gần như bất động theo hàng dọc, và cuối cùng thì tụt xuống một cách không vội vã cho tới lúc về mạn đông hiện ra ánh sáng lạnh lẽo, đầu tiên, và khi các tù nhân bị sững sờ vì những gì mà nó làm cho họ thấy ở những bộ mặt của họ. 

Ban ngày đã hành hạ họ bằng sự nóng bức, ban đêm đem lại cho họ một cái lạnh còn khó chịu đựng hơn. Bọn Ả Rập cuộn mình trong những cái chăn và trùm khăn lên đầu. Các tù nhân thì lạnh run lên, xoa tay vào nhau để làm cho người ấm lên. Cô Adams là người khổ sở nhất vì sự gầy còm và sự huyết mạch lưu thông xấu do tuổi tác của cô. Stephens cởi cái áo choàng của ông ra và khoác lên vai cô. Ông đi bên cạnh Sadie, miệng huýt sáo và lẩm nhẩm hát để làm cho cô nghĩ là bà cô của cô đã làm cho ông nhẹ nhõm khi chấp nhận việc mang hộ cái áo choàng của ông, nhưng ông đã gây quá nhiều tiếng ồn khiến người ta khó mà tin được là ông không bị rét lạnh. Tuy nhiên, thật tình thì ông cảm thấy đỡ lạnh hơn những người khác, vì ngọn lửa xưa cũ đang đốt cháy trái tim ông, và một niềm hân hoan kỳ dị hòa nhập lẫn lộn với những sự bất hạnh của ông, ông không thể nói cuộc phiêu lưu này là sự tệ hại nhất trong các điều tệ hại hay nó là một ân huệ lớn lao nhất của đời ông. Khi ở trên tàu, sự trẻ trung của Sadie, nhan sắc của nàng, sự thông minh của nàng và tính tình của nàng đã không cho phép ông hy vọng điều gì hơn là một lòng khoan dung từ ái đối với ông. Nhưng lúc này ông cảm thấy đối với nàng ông không phải là vô dụng; ông biết rằng mỗi giờ mới tới đều thúc đẩy nàng phải nhờ cậy vào ông nhiều hơn như người bảo vệ tự nhiên của nàng, và nhất là (nhất là!) ông đã phát hiện ra nhân cách riêng của ông; ông bắt đầu hiểu là đằng sau tất cả những tập quán của luật pháp, những thứ đã tạo ra cho ông một bản chất giả tạo, một con người mạnh mẽ và hoàn toàn đáng tin cậy đã hiện hữu thật sự. Một tia sáng nhỏ về lòng tôn kính cá nhân đã làm máu ông nóng lại. Thời trẻ trung, ông đã làm hư hỏng tuổi thanh xuân, nhưng lúc này thì nó bùng lên như một bông hoa nở muộn. 

"Ông Stephens ạ, đó là tôi tin rằng ông đang vui thích lắm!" Sadie nói với ông bằng một giọng chua chát. 

Ông trả lời. 

-Tôi sẽ không đi tới chỗ khẳng định là tôi vui thích. Nhưng tôi hoàn toàn tin chắc rằng tôi không muốn rời xa cô ở đây. 

Ông chưa từng bao giờ dịu dàng như thế trong lời nói; cô thiếu nữ nhìn ông, kinh ngạc. 

-Tôi nghĩ rằng cho tới lúc này tôi đã là một người con gái rất ác độc" nàng nói, sau một lúc im lặng. "Bởi vì chính bản thân tôi được sung sướng, không bao giờ tôi nghĩ tới những người khốn khổ. Cuộc phiêu lưu này làm cho tôi nhìn thấy các sự việc dưới một ánh sáng khác. Nếu tôi thoát nạn, tôi sẽ hoàn hảo hơn trong tương lai, đứng đắn hơn, chín chắn hơn".

- Và tôi cũng vậy, tôi sẽ hoàn hảo hơn. Tôi giả sử rằng chính vì điều đó mà chúng ta phải trải qua cuộc phiêu lưu này. Hãy cho như là nó đã làm nổi bật các đức tính của tất cả các bạn bè chúng ta. Thí dụ hãy nói tới ông Stuart xấu số kia; đã có bao giờ chúng ta nghi ngờ tâm hồn cao cả và chung thủy của ông đâu? Và hãy nhìn Belmont và vợ ông ấy ở trước mặt chúng ta kìa, họ nắm tay nhau tiến bước, không sợ sệt, người này chỉ nghĩ tới người kia. Và Cochrane, người mà khi ở trên tàu lúc nào cũng cho người khác cảm tưởng rằng ông ta có một tâm hồn hẹp hòi đểu cáng! Hãy suy nghĩ về lòng dũng cảm và sự phẫn nộ vô tư lợi của ông khi một người trong bọn chúng ta bị ngược đãi. Cả Fardet cũng can đảm như một con sư tử. Tôi nghĩ là sự bất hạnh đã làm điều tốt lành cho tất cả chúng ta. 

Sadie thở dài. 

- Phải, nếu mọi vịêc đều kết thúc tốt đẹp, thì ông nói đúng. Nhưng nếu chúng ta phải chịu sự khổ cực nhiều tuần hay nhiều tháng với cái chết ở một bên, tôi không biết chúng ta sẽ mót nhặt lợi ích của sự tiến bộ của chúng ta ở đâu. Giả dụ rằng ông rút tỉa được lợi ích từ đó, ông sẽ làm gì? 

Ông luật sư ngần ngừ, nhưng các bản năng nghề nghiệp của ông vẫn còn mạnh mẽ. 

- Tôi sẽ xem có thể phát khởi quyền tố tụng được không, và kiện ai. Rất có thể là, kiện những kẻ đứng ra tổ chức đã đưa chúng ta tới núi Abousir. Nếu không thì phải kiện chính phủ Ai Cập về tội không bảo đảm được an ninh ở biên giới của họ. Đây là một vấn đề thú vị của luật pháp! Và cô Sadie, cô sẽ làm gì? 

Đây là lần đầu tiên ông đã không dùng từ "Cô" trước tên người con gái trẻ tuổi, nhưng nàng đang quá bận tâm nên không để ý tới điều này. 

Nàng nói: 

- Tôi se dịu dàng hơn với mọi người. Tôi sẽ cố gắng làm cho một người nào đó được sung sướng để nhớ lại những nỗi cực khổ mà tôi đã gánh chịu. 

- Trong đời cô, cô đã không làm điều gì khác ngoài việc đem lại sự sung sướng. Cô không thể tự ngăn cản được. 

Bóng tối đã giúp cho ông ra khỏi sự dè dặt vốn là thói quen của ông. 

- Cô cần sự thử thách thô bạo này ít hơn bất cứ người nào khác, làm thế nào để tính tình của cô có thể trở nên tốt như vậy? 

- Đúng là ông ít biết về tôi! Tôi là người rất khinh xuất, rất ích kỷ. 

- Ít nhất là cô không cần tới tất cả những cảm xúc mạnh mẽ đó: cô đã sinh động một cách đầy đủ rồi. Với tôi thì khác hẳn. 

- Ông Stephens, tại sao ông lại cần có những cảm xúc? 

- Bởi vì tất cả đều thích thú hơn là sự ngưng trệ. Ngay cả sự đau khổ cũng tốt hơn là sự ngưng trệ. Tôi vừa mới bắt đầu sống, cho tới lúc này tôi chỉ là một cái máy trên trái đất. Tôi chỉ có một ý tưởng trong đầu, và một người chỉ có một ý tưởng trong đầu không thực sự sống một chút nào. Đó là những gì mà tôi bắt đầu hiểu trong tất cả những năm tháng này, tôi chưa bao giờ xúc động cả. Chưa bao giờ một luồng cảm xúc chân thật của con người đã động chạm tới tôi. Tôi không có thì giờ để cảm xúc. Tôi đã ghi nhận những cảm xúc ở người khác, và tôi đã mơ hồ tự hỏi phải chăng trong tôi đã có một khuyết điểm ngăn cản không cho tôi được chia sẻ kinh nghiệm của các bạn trong đời. Nhưng những ngày vừa qua đã nói cho tôi biết là tôi có thể sống một cách thật sự, rằng tôi có thể có được những hy vọng nóng bỏng và những sự kinh hoàng chí tử, rằng tôi có thể hận thù, và tôi có thể... Tóm lại là tôi cô thể cảm nhận bất kỳ một tình cảm mạnh mẽ nào. Tôi được sinh ra ở đời. Có thể ngày mai tôi sẽ đứng trên bờ huyệt mộ, nhưng ít nhất tôi sẽ có thể tự nói với mình là tôi đã sống. 

- Và tại sao ông lại sống cuộc sống này ở Anh Quốc? 

- Tôi là con người có nhiều tham vọng. Tôi muốn thành đạt, và tôi phải nghĩ tới mẹ tôi và các chị em tôi. Cám ơn Thượng đế, trời đã sáng rồi. Trong chốc lát bà cô của cô và cô sẽ thôi không thấy lạnh nữa. 

- Và ông thì không có áo khoác ngoài! 

- Ồ, bộ máy tuần hoàn của tôi thật tuyệt hảo! Tôi thấy rất dễ chịu khi mặc sơ mi trần. 

Cái đêm dài lạnh rét, làm hao tốn sức lực đã đi qua. Bầu trời xanh đậm đã chuyển sang màu tím nhạt, những ngôi sao lớn nhất vẫn tiếp tục chiếu sáng. Phía sau cái ngói sao này, cái vạch màu xám của rạng đông đã bắt đầu gậm mòn bầu trời, đồng thời cũng tự tô điểm cho mình một màu hồng thanh nhã trong đó đã lung linh những tia sáng của vừng thái dương chưa xuất hiện. Bỗng chốc họ cảm thấy sức nóng của mặt trời ở trên lưng họ, ở trên bãi cát, những cái bóng dài đi trước họ, những thầy tu Hồi giáo bỏ những cái chăn của họ ra và bắt đầu nói ba hoa vui vẻ với nhau. Các tù nhân cũng bắt đầu hết cóng lạnh ngấu nghiến ăn những quả chà là mà người ta phân phát làm món điểm tâm. Đoàn người dừng lại, họ có quyền được mỗi người một chén nước. 

"Tôi có thể nói chuyện với ông được không, đại tá Cochrane?" anh chàng thông ngôn hỏi. 

"Không!" ông đại tá nói càu nhàu. 

- Nhưng là việc rất quan trọng! Có lẽ sự thoát hiểm của chúng ta tùy thuộc vào nó. 

Ông đại tâ chau mày lại, tay vuốt hàng ria mép. Cuối cùng ông nói: 

- Được, đó là việc gì? 

- Ông phải tin tưởng ở tôi, vì tôi cũng muốn trở về Ai Cập như ông! Một bên là vợ tôi, cái nhà của tôi, các con tôi, còn một bên là kiếp sống nô lệ. Ông không có lý do nào để nghi ngờ tôi. 

- Nói đi! 

- Ông biết tên da đen đã nói chuyện với ông chứ? Cái tên đi với Hlcks đó! 

- Rồi sao nữa? 

- Hắn đã nói chuyện với tôi hồi đêm. Tôi đã có một cuộc nói chuyện dài với hắn. Hắn giải thích với tôi là ông không thể hiểu rõ ràng lời hắn nói, và hắn cũng hiểu rất ít lời ông nói. Đó là lý do tại sao hắn đến tìm tôi. 

- Hắn đã nói gì với anh? 

- Hắn nói với tôi là trong bọn Ả Rập có tám người lính Ai Cập, sáu tên da đen và hai tên nông dân. Hắn nói với tôi là hắn muốn có lời hứa của ông về một số tiền thưởng rất lớn nếu chúng giúp cho ông trốn thoát. 

- Đồng ý, chúng sẽ có tiền thưởng đó! 

- Chúng yêu cầu tôi một trăm bảng Ai Cập cho mỗi người. 

- Chúng sẽ có số tiền đó. 

- Tôi đã nói với hắn là tôi sẽ đặt vấn đề này với ông nhưng trước tiên tôi hãy trả lời về sự đồng ý của ông. 

- Chúng có ý định làm không? 

- Chúng còn chưa có thể hứa hẹn với tôi một điều gì cả nhưng chúng nghĩ sẽ đánh những con lạc đà của chúng đi gần với nhóm của ông, nhằm nắm lấy cơ hội đầu tiên khi nó xuất hiện. 

- Được, quay lại gặp hắn đi và hứa với hắn hai trăm bảng cho mỗi người nếu chúng giúp được chúng ta một cách hữu hiệu. Anh không nghĩ rằng chúng ta có thể mua được vài tên Ả Rập à? 

Mansoor lắc đầu. Hắn trả lời: 

- Làm thế việc này sẽ quá nguy hiểm. Nếu ta làm thử và nếu ta thất bại trong việc đó, thì đó sẽ là sự cáo chung của tất cả bọn chúng ta, tôi sẽ chuyển câu trả lời của ông cho hắn. 

Các tù trưởng dự kiến sẽ dừng chân tối đa là nửa giờ đồng hồ, nhưng những con lạc đà có đóng yên chở các tù nhân thì nhọc mệt quá khiến người ta không thể bắt chúng tiếp tục lên đường sau một lúc nghỉ ngơi ngắn ngủi như thế. Chúng đã duỗi dài những cái cổ to lớn của chúng lên bãi cát, đối với chúng hiện tượng này là triệu chứng cuối cùng của sự mệt mỏi. Hai lão chỉ huy xem xét chúng, lắc đầu, và lão già khủng khiếp quay bộ mặt gầy ốm của y về phía các tù nhân. Y nói với Mansoor anh chàng thông ngôn tái mặt đi khi nghe hắn nói. 

- Tù trưởng Abderrahman nói rằng nếu các ông không cải theo Hồi giáo, thì ông ấy sẽ không tốn công làm chậm trễ cuộc hành trình của tất cả đoàn chỉ vì có các ông. Ông ấy nói nếu không có các ông thì chúng tôi đã có thể đi nhanh hơn hai lần. Do đó ông ấy muốn biết dứt khoát là các ông có sẽ chấp nhận kinh Coran. 

Rồi, cùng một giọng nói đó, làm như hắn tiếp tục thông dịch, hắn nói thêm: 

-... Các ông sẽ làm được tốt hơn nhiều khi trả lời là có vì nếu các ông từ chối nhất định ông ấy sẽ giết tất cả mọi người. 

Những người tù bất hạnh nhìn nhau, hai tên tù trưởng quan sát họ với vẻ nghiêm trọng. 

Cochrane nói: 

- Về phần tôi, tôi thích chết ở đây hơn là làm nô lệ ở Khartoum. 

- Mình nói gì, Norah? 

- John ạ, nếu chúng ta cùng chết với nhau, tôi nghĩ là tôi sẽ không sợ. 

"Thật là kỳ cục nếu tôi phải chết vì một cái gì mà tôi đã không bao giờ tin tưởng" Farder tuyên bố. "Tuy nhiên danh dự của một người Pháp ngăn cấm hắn không được cải đạo theo cách này..." 

Ông đứng thẳng người lên, và đặt cái cổ tay bị thương của ông lên mạn trước áo gi-lê. Ông kêu to: 

- Tôi là người Cơ-đốc. Tôi vẫn là người Cơ-đốc, mỗi câu trong hai câu này đều là một sự nói dối dũng cảm.

"Còn ông, ông Stephens?" Mansoor hỏi với một giọng cầu khẩn. "Nếu một người trong bọn các ông chịu cải đạo, có lẽ họ sẽ khoan nhượng hơn. Tôi thề với ông là chỉ làm những gì họ yêu cầu" 

"Không, không thể được!" ông luật sư bình thản trả lời. 

- Vậy còn cô, cô Sadie? cô nữa, cô Adams? các cô chỉ cần nói có ngay tức thì, là các cô được thoát nạn 

"Cô ơi, cô có nghĩ rằng chúng ta có thể nói có được không?" cô thiếu nữ ấp úng nói. "Có phải đó là một điều rất tệ nếu chúng ta nói từ ấy không?". 

Cô gái già ôm lấy cô thiếu nữ trong vòng tay. Cô thì thầm nói: 

- Không, không, cháu Sadie yêu quí của cô! Cháu sẽ dũng cảm! Sau đó cháu sẽ tự oán hận mình rất nhiều! Hãy để nguyên bàn tay trên người cô, cháu ngoan ạ, và hãy cầu nguyện đi nếu cháu cảm thấy sự dũng cảm xa rời cháu. Đừng quên rằng người cô Eliza tuổi tác của cháu lúc nào cũng sẽ dẫn dắt cháu trong bàn tay. 

Họ không thiếu lòng dũng cảm, những tay tài tử về các thú vui này! Tất cả mọi người đều nhìn thẳng vào cái chết và họ càng trông thấy nó đến gần thì họ càng ít sợ hãi nó. Họ còn thấy một cảm giác mơ hồ của sự hiếu kỳ, cũng như sự xốn xang của các dây thần kinh của một con bệnh khi sắp ngồi vào cái ghế của nha sĩ. Anh thông ngôn nhún hai tay và hai vai: anh đã cố gắng; và anh đã thất bại. Tù trưởng Abderrahman ra một cái lệnh cho một tên da đen, tên này chạy đi khỏi. 

"Tại sao y lại đòi lấy những cái kéo?" ông đại tá hỏi. 

"Y sẽ khảo đả các phụ nữ" Mansoor vừa trả lời, vừa phác họa cùng một cử chỉ của sự bất lực như trước. 

Sự kinh hoàng làm họ lạnh toát người. Cái chết trong trừu tượng là một chuyện, nhưng các chi tiết quá cụ thể lại là một chuyện khác. Tất cả bọn họ đều chấp nhận chịu đựng bất kỳ một điều gì, mỗi người trong thân xác riêng của họ, nhưng họ còn ái ngại cho nhau, những người đàn bà không nói gì cả, những người đàn ông bắt đầu 

cùng la hét. 

"Khẩu súng lục, cô Adams!" Belmont nói "Đưa nó cho tôi! Chúng tôi sẽ không chịu để cho cô bị tra tấn!" 

"Mansoor, lễ tiền cho chúng đi! Hãy dâng cho chúng tất cả những gì chúng muốn!" Stephens nói "Nghe đây, tôi sẽ cải đạo theo đạo Hồi nếu chúng hứa là không đụng tới các phụ nữ. Tóm lại, một trái vụ dưới sự cưỡng ép không có hiệu lực về mặt pháp luật. Nhưng tôi không muốn thấy các phụ nữ bị tra tấn!" 

"Không, hãy đợi một chút, Stephens!" ông đại tá nói. "Chúng ta không nên mất đảm lực. Tôi tin rằng tôi đã thấp thoáng nhìn thấy một cửa đi ra. Này anh thông ngôn, hãy nghe tôi nói đây: anh lại nói với con quỉ già có bộ râu trắng kia rằng chúng tôi không biết một chút gì về cái tôn giáo tạp pí lù của y. Hãy dịch câu đó một cách dịu dàng. Nói cho y biết là y không thể chờ đợi ở chúng tôi việc chúng tôi cải đạo trước khi chúng tôi biết đó là trò bịp bợm gì. Nói với y rằng nếu y bằng lòng giảng dạy cho chúng tôi thì chúng tôi sẽ tình nguyện nghe sự giáo huấn của y, và anh sẽ có thể nói thêm là một tôn giáo đã sản sinh ra những thứ chó má như y hoặc như thằng quỉ khác cô bộ râu đen kia, chắc chắn đáng được bọn chúng ta chú ý" 

Với sự trợ lực lớn của những cái khom lưng và những dáng điệu bộ tịch, anh chàng thông ngôn giảng giải rằng những người cơ đốc đã hoài nghi rồi, đã ở trên bờ của sự bội giáo, và chỉ cần một vài tia sáng mới để họ quyết định từ bỏ tôn giáo của họ. Hai lão tù trưởng vuốt râu với vẻ nghi ngờ. Rồi Abderrahman nói một vài tiếng, và cả hai tên cùng đi khỏi, một lát sau đó, tiếng tù và mới đoàn người tiếp tục lên đường. 

"Đây là điều mà ông ta đã nói" Mansoor giảng giải với các tù nhân. "Vào khoảng buổi trưa thì chúng ta sẽ tới những giếng nước, và chúng ta sẽ dừng chân. Vị thầy giảng riêng của ông ta, một người rất tử tế và rất thông thái sẽ tới giảng dạy cho các quí vị một giờ về tôn giáo. Sau buổi học này, quí vị sẽ bày tỏ ý kiến. Một khi quí vị đã có sự chọn lựa rồi, các tù trưởng sẽ phán xét xem quí vị sẽ đi Khartoum, hoặc quí vị sẽ bị giết chết. Đó là tiếng nói sau cùng của ông ta. 

- Chúng không nhận tiền chuộc à? 

- Chắc chắn là Wad Ibrahim sẽ nhận, nhưng tù trưởng Abderrahman thì khủng khiếp. Tôi khuyên quí vị nên nhượng bộ ông ta. 

- Chính bản thân anh, anh đã làm gì? Anh cũng là người theo đạo Cơ đốc mà? 

Mansoor đỏ mặt lên. 

- Sáng hôm qua tôi là người cơ đốc. Không chừng sáng mai tôi sẽ trở lại là người cơ đốc. Tôi phục vụ Chúa bao lâu mà những gì Người đòi hỏi có vẻ phải chăng đối với tôi, nhưng lần này thì rất khác. 

Hắn thúc con lạc đà của hắn với một sự tự do trong điệu bộ để chứng tỏ rằng cuộc đàm thoại của hắn đã tạo cho hắn một cấp bậc riêng trong đám tù nhân. 

Vậy là họ được hưởng một sự trì hoãn trong vài giờ, tuy nhiên cái bóng đen của tử thần đang chụp lên đầu họ. Vậy thì có cái gì trong cuộc sống mà chúng ta cứ phải cố níu lấy nó? Không phải những thú vui, vì những người mà cuộc đời đã là một chuỗi dài những đau khổ cũng lùi lại và khóc lóc khi vị tử thần từ bi chìa những cánh tay ủy lạo của ngài ra với họ. Không phải là xã hội, bởi vì chúng ta thay đổi toàn bộ các mối liên hệ của chúng ta tùy theo lề lối chúng ta tiến bước trên con đường rộng lớn mà mỗi cậu con trai, mỗi cô con gái của con người phải đi theo. Phải chăng đó là sự sợ hãi làm mất cái bản ngã của chúng ta, cái bản ngã thân thương mà chúng ta nghĩ là đã biết rất rõ, trong lúc nó luôn luôn làm ra những việc khiến chúng ta kinh ngạc? Tại sao người tự vẫn lại bám chặt một cách tuyệt vọng lấy cái cột chân cầu khi con sông nhận chìm hắn xuống? Phải chăng Tạo hóa sợ rằng các nghệ nhân mệt mỏi của ngài sẽ quăng dụng cụ và mở cuộc đình công, nên ngài mới phát minh ra cách này để giữ họ lại trong trách vụ hiện tại? Dù sao thì các du khách của tàu Korosko cũng đã bị phiền nhiễu và lăng nhục quá nhiều rồi: họ thấy vui thích được sống thêm vài giờ mới mẻ của sự đau khổ.

***

Chương 7

Trong khi họ tiến bước, không có gì chứng tỏ với các tù nhân là họ không đi quay trở lại những nơi mà họ đã đi qua hồi khuya tới buổi chiều khi mặt trời lên. Những quả đồi đen xẫm và cát vàng theo dọc bờ sông đã biến mất từ lâu rồi, họ thấy mình đang ở giữa một cánh đồng chập chùng, màu nâu với những hòn đá cuội tròn trịa, rải rác những cụm cỏ của lạc đà, và nó chạy dài mãi tới một dãy đồi tím, ở đằng xa trước mặt họ. Mặt trời còn chưa mọc khá cao để gây ra những ánh phản quang long lanh của miền nhiệt đới và cái phong cảnh mênh mông hiện ra với một sự rõ ràng tuyệt đối trong ánh sáng trong trẻo. Ðoàn người dài bước theo nhịp lê lết của những con lạc đà có đóng yên. Ở hai bên hông đoàn người, những tên lính do thám dừng lại ở mỗi chỗ gò cao, và xem xét chân trời phía đông trong lúc che mắt lại. 

"Theo ý ông thì chúng ta ở cách sông Nil bao nhiêu xa?" ông đại tá hỏi. 

Chính ông cũng luôn luôn ngoảnh lại để đo lường sự bao la của sa mạc. 

"Ít nhất là tám mươi cây số! " Belmont trả lời. "Không nhiều thế đâu!" ông đại tá cãi lại. "Chúng ta đã không đi quá mười lăm hay mười sáu giờ, và một con lạc đà không đi được trên bốn cây số một giờ nên nó không chạy nước kiệu. Ðiều này rút bớt khoảng cách chừng sáu mươi hay sáu mươi lăm cây số: tuy nhiên thật quá xa, tôi sợ thế, để cho chúng ta được giải cứu. Tôi không nghĩ rằng thời hạn ban cho chúng ta sẽ giúp chúng ta được điều gì lớn lao đâu. Chúng ta có gì để hy vọng? không có gì khác ngoài cái số mạng đang đợi chúng ta!" 

"Chớ có chán nản!" người đàn ông Ái Nhĩ Lan nói lớn. "Chuông báo chính ngọ chưa rung mà, phải làm nhu thể, Hamilton và Hedley, trong đạo binh lạc đà đều là những chàng trai dũng cảm, họ phải xông vào theo các dấu vết của chúng ta. Họ không có những con lạc đà đóng yên để làm họ phải chậm trễ, tôi cam đoan với ông! Tối hôm qua khi tôi dùng bữa với họ ở câu lạc bộ và khi họ giải thích với tôi cách thức họ chống trả lại một cuộc cướp bóc, tôi đã không nghĩ rằng tính mạng của chúng sẽ lệ thuộc vào họ". 

"Cũng được, chúng ta sẽ theo đuổi cuộc chơi cho tới cùng!" Cochrane nói. "Nhưng tôi không có nhiều hy vọng lắm. Tất nhiên là chúng ta sẽ phải làm ra bộ cứng cỏi trước các phụ nữ. Tôi nhận thấy rằng Tippy Tilly là một người đúng mực, vì năm tên da đen này và hai tên Ả Rập đen xạm kia đúng là những người bạn mà y đã nói với chúng ta. Họ không rời xa nhau, vẫn đứng ngang tầm với chúng ta; nhưng tôi tự hỏi họ sẽ có thể làm được điều gì để giúp chúng ta". 

"Tôi đã lấy lại khẩu súng lục của tôi rồi.... ", Belmont nói thầm thào. 

Ông nghiến răng và co giật hai quai hàm trước khi nói tiếp: 

- ...Nếu chúng liều mạng đùa với các phụ nữ, tôi nhất quyết hạ sát cả ba người trong bọn họ bằng chính tay tôi, sau đó chúng ta sẽ chết, linh hồn thanh thản hơn!

"Ông là một anh chàng phong nhã!" ông đại tá lẩm bẩm. 

Họ im tiếng. Vả lại cũng không ai nói nhiều cả. Một cảm giác mơ hồ không thể diễn tả được đang tràn ngập tất cả bọn họ, làm như họ đã nuốt một viên ma túy. Bao giờ tạo hóa cũng cho ta một thứ thuốc an thần khi một cơn biến động khốc liệt đã kích thích quá nhiều thần kinh của ta, sự thanh thản an bình của nỗi tuyệt vọng đã chiếm ngự lòng họ. 

"Thật là đẹp một cách ma quỉ!" Cochrane thở dài khi nhìn chung quanh ông. "Tôi thường nghĩ rằng tôi thích được chết trong làn sương mù vàng, lành mạnh của Luân Ðôn, nhưng chúng ta sẽ có thể thấy sự tệ hại hơn". 

"Còn tôi, thì tôi thích chết trong lúc ngủ" Sadie nói. "Thật là một điều kỳ diệu khi thức dậy và thấy mình đang ở một thế giới khác! Ở đại học, Henry Smith luôn luôn nhắc nhở chúng tôi: "Ðừng nói với tôi một đêm tốt lành", mà hãy cầu chúc cho tôi "một buổi sáng tốt đẹp trong một thế giới hoàn mỹ". 

Bà cô theo thanh giáo của nàng lắc đầu. 

- Sadie này, trình diện trước đấng tối cao mà không có sự chuẩn bị thì thật là khủng khiếp! 

"Chính sự cô đơn của cái chết mới là khủng khiếp". Bà Belmont nói. "Nếu chúng ta cùng chết một lúc với tất cả những người mà chúng ta yêu mến thì chúng ta sẽ hình dung cái chết một cách đơn giản như một sự thay đổi chỗ ở". 

"Nếu sự bất hạnh xảy ra, chúng ta sẽ không bị cô độc" , ông chồng bà đính chính. "Tất cả chúng ta sẽ cùng đi với nhau, và ở thế giới bên kia chúng ta sẽ gặp Brown, Headingly và Stuart đang chờ đợi chúng ta". 

Người đàn ông Pháp nhún vai, ông không tin ở một kiếp sống khác sau cái chết, nhưng ông ghen tị với hai người công giáo về sự thanh thản trong lòng tin của họ. Ông cười thầm khi nghĩ tới các bạn ông ở tiệm cà phê Cubat sẽ nói gì nếu họ biết rằng ông đã hy sinh mạng sống trên bàn thờ của tín ngưỡng Cơ đốc, cái ý nghĩ này càng làm ông thấy vui vui, thì nó lại càng làm ông bực bội, việc này không ngăn cản ông săn sóc cái cổ tay bị thương của ông như một bà mẹ ấp ủ đứa bé đau ốm của bà. 

Ngang qua bãi sa mạc lởm chởm đá, một đường màu vàng dài và mỏng theo hướng từ Bắc tới Nam vừa mới hiện ra. Đó là một giải cát mà bề rộng không quá vài trăm mét và những chỗ phình lên cũng không vượt quá ba mét bề cao. Các tù nhân kinh ngạc khi thấy những tên Ả Rập ngắm nhìn nó với một nét mặt cực kỳ áy náy: khi chúng đi tới trước cái mép của nó, chúng dừng lại giống như khi chúng đứng trên bờ một con sông không lội qua được. Loại cát này rất nhẹ, nhiều bụi bặm, mổi luồng gió nhẹ cũng làm bay tung lên như một đám mây những con ruồi nhỏ, tù trưởng Abderrahman cố thúc con lạc đà của y vào bên trong, nhưng đi được hai hay ba bước thì con vật đứng khựng lại, rên rỉ vì khiếp sợ. Hai tên chỉ huy bàn bạc với nhau một lát, rồi đoàn người đi về hướng Bắc, để lại giải cát ở phía bên trái họ. 

"Có chuyện gì vậy?" Belmont hỏi anh thông ngôn. "Tại sao chúng ta không tiếp tục đi thẳng về hướng Tây?" 

"Cát di động", Mansoor trả lời. Thỉnh thoảng gió cuốn cát đi thành một vạch dài như cái vạch kia. Ngày mai nếu gió nổi lên, có lẽ sẽ không còn lại một hạt nào, nhưng tất cả đống cát kia sẽ du ngoạn trên không trung. Có lần một người Ả Rập bị buộc phải rẽ ngang ra tới tám mươi hay một trăm cây số để đi vòng qua một dải cát di động. Nếu y muốn bước qua nó thì con lạc đà của y sẽ bị gẫy chân, và chính y cũng sẽ bị hút vào và nuốt chửng". 

- Chiều dài của cái dải này là bao nhiêu? 

- Không ai biết gì về nó cả. 

- Này ông Cochrane, đó là diều thuận lợi cho chúng ta! Cuộc truy lùng càng dài thì những con lạc đà còn sung sức càng có nhiều cơ may. 

Ðã đến lần thứ một trăm Belmont quay đầu lại để quan sát chân trời phía sau họ: bãi sa mạc rộng lớn lúc nào cũng nâu và ảm đạm nhưng không có một chút lấp lánh của ánh thép, không có sự óng ánh của một cái mũ trắng. 

Chẳng mấy chốc họ đi tới chỗ tận cùng của vật chướng ngại đã ngăn cản bước tiến của họ về hướng Tây. Dải cát kéo dài trong khi co hẹp lại, khi nó trở thành đủ hẹp để có thể bước qua bằng một cái nhảy, tuy nhiên những người Ả Rập thích đi dọc theo nó trong nhiều trăm mét nữa hơn là đi qua nó. Nhưng khi những con lạc đà lại thấy mặt đất tốt và rắn trước mặt chúng thì chúng bị thúc chạy nước kiệu và những tù nhân bị lắc lư trong một thứ chòng chành và nghiêng ngả kết hợp với nhau. Thoạt đầu họ mỉm cười về chuyện này; nhưng trò chơi đã mau lẹ biến thành bi kịch khi bệnh "say lạc đà" khủng khiếp làm họ đau đớn khắp mình mẩy và xương sống. 

- Cô không chịu được nữa rồi, Sadie ạ! Cô Adams kêu lên. Cô đã làm những gì cô có thể làm. Cô sắp ngã đây này. 

- Không, cô ơi, không! Nếu cô để mình bị ngã thì cô sẽ gãy xương. Hãy cố gắng thêm một chút; có lẽ họ sắp dừng lại đó! 

- Cô hãy tựa người về đằng sau, ông đại tá nói, và nắm lấy mạn sau cái yên. Thế đó. Tư thế này làm dễ chịu... 

Ông tháo tấm mạng trên mũi của ông, buộc hai đầu lại và cột nó vào cái mấu phía trước của cái yên. 

- Luồn bàn chân cô vào cái vòng, như thể nó là một cái chân nâng... 

Sự thoải mái đến ngay tức thì. Stephens cũng làm việc đó cho Sadie. Nhưng sau đó một lát, một trong những con lạc đà sụm xuống vì mệt nhọc, trong một tiếng lách cách khô khan, những bàn chân nó xoạc ra như thể nó bị xé thành nhiều mảnh; đoàn lữ hành phải sử dụng lại một nước đi chừng mực hơn. 

- Ở đằng kia không phải là một dải cát di động nữa hay sao ? ông đại tá hỏi. 

- Không, đó là một dải trắng. Belmont trả lời. Này, Mansoor, cái gì ở đằng trước chúng ta thế? 

Anh thông ngôn lắc đầu. 

- Thưa ông, tôi không biết gì cả. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy nó. 

Từ Bắc tới Nam, một vạch trắng kéo dài ra, cũng thẳng tắp và rõ ràng như thể nó được kẻ bằng phấn. Nó rất mỏng, nhưng nó trải dài từ chân trời này tới chân trời kia. Tippy Tilly chỉ dẫn cho Mansoor. 

- Ðó là con đường lớn của những đoàn lữ hành, ông thông ngôn giải thích. 

- Vậy thì cái gì làm cho nó trắng như thế? 

- Những hài cốt. 

Thật không thể tin được, nhưng có thật! Khi họ đi tới gần, họ nhận thấy quả thực đó là một lối đi băng qua sa mạc, bị khoét sâu xuống bởi sự dẫm đạp của những con vật và những con người, và được cắm mốc một cách quá phong phú bằng những bộ xương người khiến cho người ta ấn tượng của một dải khăn trắng dài liên tu bất tận. Những con vật nằm duỗi dài, nom ghê gớm cắm mốc trên con đường, trong khi ở nhiều chỗ những dãy xương sườn nối tiếp nhau quá gần khiến người ta tính nói đó là cái xác của một con rắn quái dị. Con đường trắng lậpp lòe dưới ánh mặt trời như thể nó được lát bằng ngà. Từ mấy ngàn năm nay nó đã là con đường lớn xuyên qua sa mạc và tất cả những con vật của vô số kể các đoàn lữ hành đã chết ở đó đều được bảo tồn bởi không khí khô ráo và sát trùng. Do đó người ta không phải ngạc nhiên là không thể dẫm lên con đường mà không đồng thời dẫm lên những bộ xương của chúng. 

- Ðây hẳn là con đường mà tôi đã nói với cô, Stephens nói. Tôi nhớ là đã nói tới nó trên tấm bản đồ mà tôi đã vẽ cho cô, cô Adams ạ. Sách chỉ nam của Baedeker nói là nó đã không được sử dụng từ khi cuộc nổi loạn của bọn thầy tu Hồi giáo làm gián đoạn mọi việc buôn bán, nhưng nó là con đường chính cho phép da thú và nhựa cây ở Darfour đi xuống tới Ai Cập Hạ. 

Họ nhìn con đường với sự hững hờ: số phận của chính họ đã làm cho họ bận tâm khá nhiều rồi. Tới đó đoàn lữ hành đi theo hướng Nam bằng cách đi theo con đường cũ. Con đường Golgotha này (theo Kinh Thánh, đó là con đường mà Chúa Ki - Tô đi tới nơi bị hành quyết, con đường chết) thật đúng là con đường thích hợp với nỗi thống khổ đang chờ đợi họ. 

Giờ phút quyết định tới gần : số phận sắp đùa với họ. Bị kinh hoàng vì những viễn tượng rùng rợn mà ông hình dung ra đối với các phụ nữ, đại tá Cochrane, phải cố nén tính kiêu ngạo và cầu khẩn những lời khuyên của anh thông ngôn bội giáo, Mansoor là một tên đểu cáng và hèn nhát, nhưng vốn là người Ðông phương nên hắn hiểu tính tình của người Ả Rập. Sự trò chuyện đã làm dễ dàng việc giao dịch của hắn với bọn thầy tu Hồi giáo, và hắn đã làm cho chúng nói năng dông dài. Tâm tính cứng rắn và quý tộc của Cochrane nổi lên chống cự dữ dội với ý nghĩ đi cầu khẩn lời khuyên của một con người như thế; cuối cùng, khi ông quyết định làm việc đó, ông nói với một giọng khản khản nhất và ít hòa dịu nhất. 

- Anh biết rõ những tên kẻ cướp này, và anh có cùng một cách suy nghĩ về các biến cố như chúng, ông nói: Mục đích của chúng tôi là kéo dài tình trạng này trong hai mươi bốn giờ đồng hồ nữa. Một khi thời hạn đó trôi qua rồi, chúng tôi ít còn quan tâm "tới những gì: sẽ tới với chúng tôi nữa, vì chúng tôi sẽ không còn hy vọng được giải cứu nữa. Vậy làm cách nào để lần khân thêm được một ngày nữa? 

- Ông đã biết những gì tôi nghĩ về việc này, anh thông ngôn trả lời. Tôi đã nói với ông điều đó rồi. Nếu các ông làm như tôi, chắc chắn là các ông sẽ tới được Khartoum một cách yên ổn, khỏe mạnh. Bằng không thì các ông sẽ không còn sống để rời khỏi chỗ trạm dừng chân sắp tới của chúng ta. 

Cái mũi cong của ông đại tá lại vểnh lên và hai gò má gầy ốm của ông ửng đỏ. Ông lặng lẽ tiến bước trong một lúc, vì thời gian phục vụ ở Ấn Ðộ đã tạo cho ông một tính nết lì lợm, và những cuộc phiêu lưu mới đây lại bổ sung thêm cho ông đôi chút ranh mãnh. ông đợi tới lúc có thể nói chuyện một cách điềm tĩnh. 

- Hãy gác ý kiến đó sang một bên, cuối cùng ông nói. Có những việc có thể làm được và có những việc khác không thể làm được. Việc đó không thể làm được. 

- Ông chỉ cần làm giả bộ là cải giáo. 

- Việc đó đã nói nhiều rồi! 

Mansoor nhún vai. 

- Ông hỏi ý kiến tôi làm gì, nếu ông tức giận khi tôi cho ông biết ý kiến của tôi? Nếu ông không muốn hành động như lời tôi khuyên thì ông hãy cứ làm việc gì mà ông cho là phải đi. Ít nhất ông sẽ không thể nói là tôi đã không làm hết sức mình để cứu các ông. 

- Tôi không tức giận, ông đại tá trả lời với một giọng đỡ khô khan hơn. Nhưng như thế sẽ là hạ thấp chúng tôi tới quá mức mà chúng tôi có thể chịu đựng. Tôi nghĩ tới một việc khác. Có thể anh sẽ bằng lòng nói cho cái lão thầy tu và tên thầy giảng kia biết rằng chúng tôi đã bắt đầu nao núng. Với cái hố sâu mà chúng tôi đang bị lún xuống, tôi không nghĩ rằng hắn ta cho việc đó là bất bình thường. Rồi tới khi hắn ta tới giảng dạy cho chúng tôi, chúng tôi sẽ có thể đóng kịch giả vờ là quan tâm tới các bài giảng của hắn, yêu cầu hắn hoàn chỉnh sự học hỏi của chúng tôi và như vậy để kéo dài công việc trong hai mươi bốn tiếng hoặc bốn mươi tám tiếng đồng hồ. Anh không nghĩ đó là ý kiến tốt nhất hay sao? 

- Các ông sẽ làm điều gì các ông muốn, Mansoor nói. Tôi chỉ cho các ông biết ý kiến của tôi một lần thôi. Nên ông muốn tôi nói với tên thầy giảng, tôi sẽ nói với hắn. Hắn là cái người nhỏ thó, tròn xoe, có vẻ hiền lành, có chòm râu bạc, ngồi trên con lạc đà màu hạt dẻ. Tôi có thể đoan chắc với ông rằng hắn đã nổi tiếng là một tay đạo sư giỏi trong việc cải đạo cho những kẻ vô tín ngưỡng, và danh tiếng của hắn là sự kiêu hãnh của hắn, và chắc chắn là hắn sẽ thích thấy các ông được tha chết, nếu hắn nghĩ rằng có cơ may cải giáo cho các ông theo đạo Hồi. 

- Nói với hắn rằng chúng tôi có tâm hồn cởi mở và sẵn sàng đón tiếp những hạt mầm tốt, ông đại tá khẩn khoản nói. Tôi không tin rằng ông mục sư sẽ còn sống tới lúc đó, nhưng vì ông đã chết nên chúng tôi có thể làm sự nhượng bộ này. Mansoor, đi tìm hắn đi và nếu anh làm việc tốt, chúng tôi sẽ quên những chuyện đã qua. Nhân tiện tôi hỏi, Tippy Tilly có nói gì với anh không?

- Thưa ông, không. Hắn đã tụ tập những người của hắn ở quanh hắn, nhưng hắn vẫn chưa tìm ra cách để giúp các ông. 

- Tôi cũng chưa có cách gì cả. Anh đi gặp tên thầy giảng đi, trong khi tôi cho những người khác biết về kế hoạch của chúng ta. 

Tất cả các tù nhân đều tán thành kế hoạch của ông đại tá ngoại trừ cô gái già ở Tân Anh Cát Lợi (Nouvelle Angleterre trên đất Mỹ) là thẳng thắng bác bỏ việc giả vờ có một mối quan tâm nào đó với đạo Hồi. 

- Tôi nghĩ rằng tôi đã quá già để quỳ gối trước thần Baal! Cô nói. 

Trước những lời năn nỉ của ông đại tá, cuối cùng cô đã hứa là cô sẽ không biểu lộ sự phản đối về những gì mà các bạn cô sẽ có thể nói hay làm. 

- Và ai sẽ ra tranh luận với tên thầy giảng kia? Fardet hỏi. Ðiều quan trọng là cuộc tranh luận phải diễn ra một cách hết sức tự nhiên, vì nếu hắn cho rằng chúng ta chỉ cố tìm cách kéo dài thời gian, hắn sẽ từ chối không giảng dạy thêm cho chúng ta nữa. 

- Tôi thấy rằng, Cochrane sẽ phải đảm trách việc này bởi vì ý kiến xuất phát từ ông, Belmont nói. 

- Xin tha lỗi cho tôi! Người đàn ông Pháp nói lớn. Tôi không muốn nói điều gì chống lại ông bạn đại tá của chúng ta, nhưng không thể nào cùng một người mà lại vượt trội về mọi thứ được. Nếu ông ấy đảm trách việc này tức là đi thẳng tới sự thất bại; tên thầy giảng sẽ phát hiện ngay ra mánh khóe của ông đại tá. 

- Ông tin vậy à ? Ông đại tá hỏi với vẻ uy nghi. 

- Phải, ông bạn ạ, hắn sẽ đọc thấy ở ông! Cũng giống như phần lớn các đồng bào của ông, ông hoàn toàn thiếu cảm tình đối với các tư tưởng của những dân tộc khác, và đó chính là khuyết điểm lớn mà tôi thường trách cứ nước các ông. 

- Ồ, hãy dẹp chuyện chính trị đi! Belmont không nhịn được nữa. 

- Tôi không nói chuyện chính trị! Tôi nói chuyện thực tế. Làm cách nào mà đại tá Cochrane có thể làm cho tên thầy giảng tin rằng ông thực sự quan tâm tới tôn giáo của hắn, trong khi đối với hắn thì trên thế giới không còn một tôn giáo nào khác ngoài tôn giáo mà cái giáo phái nhỏ bé từng nuôi dạy hắn đã nhồi nhét cho hắn? Tôi xin nói thêm cho ông đại tá biết là tôi tin chắc rằng ông không có một chút tính nết nào của kẻ đạo đức giả. Ông sẽ không bao giờ có thể đóng màn kịch đủ khéo để đánh lừa tên Ả Rập đó! 

Ông đại tá có một cái lưng cứng cỏi và bộ mặt cương nghị của một người đang tự hỏi rằng ông có nên coi đó là bị sỉ nhục hay được tán tụng. 

- Vậy thì ông hãy đảm nhận cuộc tranh luận đi, nếu ông thích làm việc này, cuối cùng ông nói. Tôi rất sung sướng được thoát khỏi công việc khổ cực này. 

- Quả thật tôi nghĩ rằng tôi là người thích hợp nhất với nhiệm vụ này, vì tất cả các tôn giáo đều làm cho tôi quan tâm như nhau. Khi tôi tìm hiểu, thì thật sự là tôi mong muốn được hiểu biết, chứ không phải để đóng một vai trò. 

- Ðiều tốt nhất chắc chắn là việc ông Fardet đảm trách chuyện này, bà Belmont nói với một giọng quả quyết, giọng nói của bà đã tập hợp được sự nhất trí của mọi người. 

Mặt trời lúc này đã lên cao, và nó làm lóe sáng những bộ xương trắng cắm mốc trên đường. Khổ hình của sự khát nước lại hành hạ những tù nhân. Trong lúc họ bước đi, hình ảnh cái phòng trên tàu Korosko nhảy múa trước mặt họ như một ảo ảnh; họ nhìn thấy những khăn bàn ăn và những khăn mặt trắng tinh, cái thẻ của những chai rượu nho, những cái cổ dài của những cái chai, những chai nước có khí hơi. Sadie, người vẫn khỏe khoắn, tỉnh táo cho tới lúc này, bỗng nhiên lên một cơn u uất thật sự, và những tiếng cười vô cớ sắc nhọn của nàng đã làm các bạn đồng hành của nàng bực bội một cách khủng khiếp. Bà cô của nàng và ông Stephens cố hết sức làm nàng im tiếng cười, và sau một lát cô thiếu nữ kiệt sức, bị huyết áp lên cao, đã chìm vào trạng thái nửa chừng giữa giấc ngủ và sự hôn mê, chỉ còn níu lấy một cách lỏng lẻo cái núm của cái yên, chắc chắn là nàng sẽ ngã nếu nàng không được mọi người vây quanh nâng đỡ những con vật tải đồ cũng mệt mỏi như các người cưỡi chúng; những người này phải luôn tay kéo sợi dây thừng buộc vào đai bịt mồm, để ngăn không cho chúng quỵ xuống. Từ chân trời này tới chân trời nọ, trải dài cái vòm mông mênh của bầu trời xanh không một vết gợn; mặt trời lầm lì bò dọc theo cái lòng chảo dữ dội của nó. 

Họ vẫn đi dọc theo con đường mòn cũ, nhưng họ đi rất thong thả. Nhiều lần hai tên tù trưởng tới xem xét những con lạc đà chở các tù nhân, và chúng lắc đầu. Con vật chậm chạp nhất do một tên lính Soudan bị thương cưỡi; nó đi khập khiễng và nó chỉ giữ được ngang hàng với những con khác nhờ sự thêm sức của những nhát roi. Tù trưởng Wad Ibrnhim giơ súng lên, tì vào vai và bắn một phát đạn vào đầu nó. Người lính bị thương ngã xuống bên cạnh con vật hắn cưỡi. Những người bạn trong cơn bất hạnh quay đầu lại và thấy hắn lảo đảo đứng dậy. Ngay cùng lúc đó một tên baggara từ trên mình lạc đà nhảy xuống, thanh gươm trong tay.

- Chớ có nhìn! Belmont nói lớn với các phụ nữ. 

Tất cả bọn họ đều quay đầu về hướng Nam. Họ không nghe thấy một tiếng ồn nào. Nhưng một lát sau tên baggara đuổi kịp bọn họ. Hắn chùi thanh gươm lên lông cổ con lạc đà của hắn, lúc đi qua hắn nở một nụ cười nham hiểm với họ, nhe tất cả hàm răng trắng ởn của hắn ra. Nhưng những con người đang ở mức độ thấp nhất trong sự khốn khổ của loài người ít nhất cũng có một sự bảo đảm về tương lai: nụ cười khả ố này sẽ làm cho họ phát run lên hai mươi bốn giờ trước đây, nhưng lúc này thì nó chỉ gợi lên trong lòng họ một sự bất cần khinh bỉ. 

Nếu họ mà ở trong tình trạng quan sát con đường mòn cũ kỹ của khách thương này với con mắt người du ngoạn thì họ đã chú ý tới rất nhiều điểm đáng quan tâm. Chỗ này, chỗ nọ còn thấy những cảnh hoang tàn suy sụp của những tòa lâu đài cổ, cổ quá đến nỗi chúng thách đố lịch sử, nhưng chúng đã được xây dựng vào thời một nền văn minh rất xa xưa với mục đích cung cấp cho các lữ khách một nơi tránh nắng và một chỗ trú ẩn chống lại bọn kẻ cướp. Những viên gạch đất bùn được dùng trong việc xây dựng chúng chứng tỏ rằng các vật liệu đã được chuyên chở từ sông Nil tới. Một lần đứng trên chóp đỉnh của một khu đất nhỏ gồ lên họ thấy một khúc cột bằng đá hoa cương đỏ ở Assouan bị gãy; nó được trang hoàng hình tượng có cánh của vị thượng đế Ai Cập với khuôn ảnh của hoàng đế Ramsès ÌI. Sau ba ngàn năm không có cách nào để tránh khỏi những dấu vết không thể xóa bỏ được của ông vua ham chiến trận! Ðối với các tù nhân khuôn ảnh này là một biểu tượng của hy vọng, dấu hiệu là họ vẫn chưa rời khỏi phạm vi ảnh hưởng của người Ai Cập. 

- Ngày xưa họ đã để danh thiếp lại, Belmont nói. Tại sao họ không tới để danh thiếp lại một lần nữa? 

Và mọi người đều gắng gượng mỉm cười. 

Rồi họ đi tới trước một quang cảnh nhìn rất đã mắt, chỗ này, chỗ nọ, trong nhữmg nơi đất lõm, ở hai bên con đường mòn, họ nhìn thấy một vài cọng cỏ, sự hiện diện này có nghĩa là nước không cách xa mặt đất. Ðột nhiên con đường mòn đi sâu vào một lòng chảo lớn, dưới đáy lòng chảo là một khu rừng nhỏ những cây cọ trông thật mê hồn và một bãi cỏ xanh rờn tráng lệ. Mặt trời chiếu sáng chan hòa cái vệt có màu sắc trong sáng và tươi tắn này, ánh nắng làm nó lóng lánh như một viên ngọc bích thuần khiết được nạm vào miếng đồng bóng loáng. Nhưng vẻ đẹp của ốc đảo không làm quên được những hứa hẹn chứa chất trong nó: nước, bóng mát, tất cả những thứ mà những kẻ lữ hành đã kiệt sức có thể mong ước. Ngay cả Sadie cũng tỉnh lại khi nàng nhìn thấy phong cảnh tươi tốt này, những con lạc đà mệt lử lại đứng lên và bắt đầu chạy nước kiệu trong khi thở hít khí trời. Sau sự khắc nghiệt tàn nhẫn của sa mạc, các tù nhân không thể nhìn thấy điều gì tốt đẹp hơn nữa. Họ ngắm nghía bãi cỏ trên đó những bóng đen của các cây cọ đổ dài, rồi họ ngẩng mặt lên nhìn những tàu lá xanh lớn nổi bật lên trong màu xanh của nền trời và họ quên đi cái chết cận kề của họ trước vẻ đẹp của Tạo hóa mà trong lòng của Người họ sắp trở về. 

Ở giữa rừng cây có bảy cái giếng; cần phải thêm vào đó hai cái vũng nhỏ chứa đầy môt thứ nước màu than bùn. Những con lạc đà và mọi người chạy xô tới uống lấy uống để. Sau đó bọn Ả Rập cột những con vật lại và trải chiếu dưới bóng cây để ngủ. Các tù nhân lãnh được một suất chà là và những cái bánh khô; họ được cho biết rằng họ có thể làm những gì họ muốn trong lúc nóng nực lúc ban ngày, và tên thầy giảng sẽ tới thăm họ trước khi mặt trời lặn. Các phụ nữ được hưởng bóng mát dày hơn của một cây keo; những người đàn ông thì nằm dài ra dưới những cây cọ. Những tàu lá xanh kêu sột soạt một cách nhẹ nhàng bên trên đầu họ. Họ nghe thấy tiếng líu lo không rành rọt của các giọng nói Ả Rập, tiếng dậm chân của những con lạc đà; rồi thì do kết quả của một phép lạ bí ẩn và không thể hiểu được, người thì thấy mình đang đứng trong một thung lũng xanh tươi ở Ái Nhĩ Lan, người khác thì trông thấy viên cảnh của đại lộ Commonwealth, người thứ ba thì đang ăn ở một cái bàn nhỏ trước pho tượng bán thân của Nelson tại Câu lạc bộ Lục quân và Hải quân và tiếng xào xạc của những tàu lá trở thành tiếng các xe cộ đang chạy ở trong Pall Mall (con đường ở đó có trò chơi dùng vồ gỗ đánh những trái bóng gỗ). Cứ như vậy tâm tri họ di lang thang mỗi người một phía trên con đường của những ký ức riêng tư, trong khi thể xác buồn thảm của họ nằm trơ bên nhau, dưới những cây cọ của một ốc đảo trong sa mạc nước Libye.\

***

Chương 8

Đại tá Cochrane bị kéo ra khỏi giấc ngủ bởi một người nào đang lay vai ông. Mắt ông mở ra sát với khuôn mặt đen lo sợ của Tippy Tilly. Người cựu pháo thủ Ai Cập để một ngón tay cong queo của hắn lên cặp môi dày cui, và hắn không ngừng nhìn hết bên phải tới bên trái. “Nằm yên! Chớ động đậy!” Hắn nói thì thào bằng tiếng Ả Rập. Tôi sẽ nằm xuống bên cạnh ông; người ta sẽ không phân biệt được tôi với những người khác, ông có thể hiểu những gì tôi nói với ông không?” 

- Có, nếu anh nói thong thả 

- Được. Tôi không đặt nhiều lòng tin vào thằng cha Mansoor kia, tôi muốn nói chuyện trực tiếp với ông chỉ huy 

- Anh có điều gì muốn nói với tôi? 

- Tôi chờ đợi đã lâu cho tới lúc tất cả bọn chúng đã ngủ say. trong một giờ nữa chúng tôi sẽ đọc kinh buổi chiều. Trước hết đây là một khẩu súng lục, ông sẽ không thể nói là ông không có vũ khí. 

Đó là một khẩu súng kiểu cổ, nhưng ông đại tá thấy ngay là nó đã được nạp đạn. Ông luồn nó vào túi áo trong của áo mặc ngoài của ông. 

- Cám ơn! Xin hãy nói thật thong thả để tôi có thể hiểu được ạnh 

- Chúng tôi có tám người muốn trở về Ai Câp. Trong nhóm các ông, ông có bốn người đàn ông. Một người trong bọn chúng tôi, Mahomet Ali, đã cột tất cả mười hai con lạc đà. Đó là những con nhanh nhất, kể cả những con của hai tù trưởng. Có những tên canh gác, nhưng chúng đứng rải rác trong mỗi xưởnng. Mười hai con lạc đà đứng rất gần chỗ chúng tôi: phía sau cây keo. Nếu chúng ta cưỡi lên chúng và ra đi thì tôi nghĩ sẽ không có nhiều con khác có thể đuổi kịp chúng ta; ngoài ra những khẩu súng của chúng ta sẽ loại trừ chúng. Bọn lính gác không đủ nhiều để chặn bắt mười hai người chúng ta. Những túi da đựng nước đều còn đầy. Chúng ta sẽ có thể lại nhìn thấy sông Nil vào chiều nay. 

Ông đại tá không nắm vững được tất cả nhưng ông cũng hiểu khá đủ để cho niềm hy vọng lại trỗi dậy trong lòng ông. Cái ngày cuối cùng đã để lại dấu vết một cách khủng khiếp trên bộ mặt xanh mét của ông, tóc ông trở nên bạc hết. Người ta có thể nghĩ ông là cha của viên sĩ quan được chăm nom kỹ. Chúng đã đi dạo những bước chân quân cách trên boong tàu Korosko 

- Rất hay - ông nói - Nhưng còn những người đàn bà? 

Anh lính da đen nhún vai 

- Mặc kệ họ. - hắn nói - Một người thì đi Siria rồi. Và dù sao thì khi chúng ta trở về Ai Cập, chúng ta sẽ không thiếu đàn bà. Về phần những người này, sẽ không có gì nguy hiểm xảy ra với họ đâu. Họ sẽ được gởi tới hậu cung của Quốc vươg. 

- Anh nói những chuyện vớ vẩn. - ông đại tá tuyên bố một cách nghiêm khắc - Hoặc là chúng tôi mang những người đàn bà đi với chúng tôi, hoặc chúng tôi sẽ không đi. 

Anh lính da đen bực tức: 

- Tôi nghĩ là chính ông mới nói những chuyện vớ vẩn! - Hắn nói lớn. - Làm sao ông lại có thể đòi hỏi chúng tôi và các bạn của tôi phải dấn thân vào một cuộc mạo hiểm mà cuối cùng sẽ bị thất bại? Chúng tôi đã chờ đợi cơ hội nhiều năm rồi. Hôm nay cơ hội tới, ông lại bắt chúng tôi đuổi nó đi vì những người đàn bà! 

- Chúng tôi đã hứa với anh những gì nếu chúng tôi trở về được Ai Cập? - Cochrane hỏi 

- Hai trăm bảng Ai Cập và sẽ thăng cấp trong quân đội Tất cả trong lời hứa danh dự của một người Anh 

- Tốt lắm. Các anh sẽ lãnh được mỗi ngườl ba trăm bảng, nếu các anh triển khai một kế hoạch khác cho phép chúng tôi mang theo những người đàn bà. 

Tippy Tilly lấy tay gãi cái đầu tóc rậm bù xù của hắn với vẻ bối rối 

- Chắc chắn là chúng tôi sẽ có thể bịa ra một lý do nào đó để đem tới đây ba con lạc đà nhanh nhẹn khác. Nói thật ra còn ba con ngựa vẫn còn rất tốt trong đám những con được cột ở gần đống lửa. Nhưng làm thế nào để cho những người đàn bà cưỡi lên? Mà ngay cả khi chúng ta có thể nâng họ lên trên lưng chúng, chúng ta cũng biết chắc rằng họ sẽ ngã ngay khi những con vật bắt đầu phi nhanh Tôi cũng đã sợ rằng các ông, những người đàn ông, các ông cũng bị ngã, vì không phải là chuyện dễ để giữ được thăng bằng trên lưng một con lạc đà đang phi nước đại. Còn về những người đàn bà, đừng nói tới họ nữa? Không, chúng ta sẽ để những người đàn bà ở đây, và nếu các ông không muốn bỏ rơi họ, thì chúng tôi sẽ bỏ rơi tất cả các ông, và chúng tôi sẽ đi một mình 

- Được lắm? Hãy đi đi! ông đại tá nói một cách khô khan 

Và Cochrane lại nằm xuống để ngủ tiếp, ông biết rằng với những người Đông phương, chính kẻ im lặng không nói mới là kẻ đạt được mục đích. 

Tên da đen đi khỏi và bò tới chỗ một tên trong bọn bạn của hắn, Mahomet Ali, người trông coi lũ lạc đà. 

Cả hai tên bàn bạc một lúc, và cuối cùng thì người ta không từ bỏ một cách khinh suất ba trăm đồng tiền vàng 

Tên da đen trở lại chỗ ông đại tá, vẫn bằng cách bò choài 

- Mahomet Ali đồng ý. - hắn nói. - Hắn đã đi kiếm ba con lạc đà kia. Nhưng thật là điên rồ, và tất cả bọn chúng ta đều đi tới chỗ chết. Xin ông cùng đi với tôi, phải đánh thức những người đàn bà dậy và nói cho họ biết 

Ông đại tá lay các bạn của ông và thì thầm nói cho họ nghe về kế họạch của Tippy Tilly. Balmont và Fardet thì sẵn sàng đảm nhận bất cứ một sự rủi ro nào. Stephens là người đã hình dung một cách khá lạnh lùng viễn cảnh một cái chết thụ động. nay bị kinh họàng vì đề nghị của một hành đông tích cực để tránh cái chết; ông run rẩy tất cả chân tay, ông rút quyển sách chỉ nam ra và bắt đầu làm nhiệm vụ soạn thảo bản chúc thư của ông trên trang đầu quyển sách nhưng tay ông run đến nỗi chữ viết của ông không thể đọc được. Do một sự tập luyện kỳ cục của một linh thần pháp lý, cái chết, ngay cả có kèm theo nhiều bạo lực, nhưng được chấp nhận một cách điềm tĩnh vẫn có chỗ đứng trong trật tự hiện hữu của các sự vật. trong khi một cái chết đánh gục một người đang cưỡi lạc đà chạy một cách điên dại qua bãi sa mạc đối với ông có vẻ họàn toàn bất bình thường và hỗn lọan. Ông không sợ bị biến mất khỏi thế giới của những người sống. Nhưng ông sợ sự nhục nhã và sự thống khổ do một cuộc tranh đấu vô lý và uổng công chống lại cái chết làm nảy sinh 

Đại tá Cochrane và Tippy Tilly đi cùng tới chỗ bóng mát của cây keo lớn, nơi mà những phụ nữ đang nằm duỗi dài - Sadle và bà cô của nàng ôm nhau mà ngủ; đầu của cô thiếu nữ gối lên ngực bà già người Mỹ- Bà Belmont được đánh thức dậy; bà đồng ý ngay tức thì.

- Nhưng các ông phải để tôi ở lại - CÔ Adams phản đối. - hãy nghĩ xem ở tuổl tôi thì còn quan trọng cái gì. 

- Không, cô Ellza. Không có cô cháu sẽ không đi! Cô đừng tưởng rằng cháu sẽ bỏ rơi cô! Cô thiếu nữ kêu lên. Hoặc là cô cùng đi với chúng cháu, hoặc là cả hai 

- Thôi đi cô, thôi đi! Đây không phải là lúc tranh cãi. - Ông đại tá nói xen vào một cách thô tục. - mạng sống của chúng ta tùy thuộc vào mọi cố gắng của các cô. Các cô hiểu rõ rằng chúng tôi không thể bỏ rơi các cô vào tay lũ kẻ cướp này! 

- Nhưng tôi sợ bị ngã! 

- Tôi sẽ cột cô lại bằng cái khăn choàng của tội Tippy, bây giờ thì tôi nghĩ rằng chúng ta có thể bắt đầu thi hành kế hoạch 

Nhưng từ một lúc rồi anh lính da đen quan sát bãi sa mạc với một bộ mặt bối rối. Hắn quay lại và thốt ra một lời nguyền rủa 

- Trông kìa! - Hắn nói với giong bực bội. - ông đã nhìn thấy kết quả của tất cả sự ba hoa của các ông! Các ông đã làm hỏng cơ may của chúng tôi và của các ông. 

Một toán năm sáu người đàn ông cỡi lạc đà bỗng đột ngột xuất hiện trên bờ của lòng chảo; bóng của họ nổi bật lên rõ ràng trên nền trời lúc hoàng hôn. Họ phi nhanh và vung vẩy những khẩu súng trong tay. Một vài giây sau đó, tù và thổi lệnh báo động, và trại binh ồn ào lên như một đàn ong vỡ tổ. Ông đại tá chạy tới nhập bọn với các bạn bè, và Tippy Tilly chạy tới chỗ con lạc đà của hắn. Stephens có vẻ khoan khoái, Belmont thì nhăn nhó, ông Farde cáu kỉnh. 

- Đồ chó má! - ông kêu lên - Chúng ta sẽ không bao giờ nhìn thấy kết cục của vụ này à? Sẽ không bao giờ chúng ta thoát khỏi bàn tay của những tên thày tu Hồi giáo. 

- Ồ đúng thật là những tên thầy tu Hồi giáo phải không? - ông đại tá nói với một giọng chua chát - Tôi thấy hình như ông đã thay đổi ý kiến. Tôi cứ tưởng bọn thày tu Hồi giáo là một sự bịa đặt của chính phủ Anh. Chúng con quỉ khốn khổ đã hết sức chịu đựng rồi

Sự chế giễu của ông đại tá là một que diêm trong thùng thuốc nổ: người đàn ông Pháp nhảy chồm lên ông trong lúc tuôn ra hàng tràng lời chửi bới; ông ấy nắm lấy cổ họng Cochrane trước khi Belmont và Stephens có thể can thiệp và tách hai người ra 

- Nếu tóc ông không bạc - ông ấy la lên 

- Quỉ tha ma bắt ông đi! - ông đại tá gào lên 

- Nếu chúng ta phải chết, thì hãy chết như những người lịch sự, chứ không như lũ trẻ lang thang mất dạy. 

Belmont nói với vẻ đường họàng 

- Tôi chỉ nói rằng tôi vui thích là ông Fardet đã học được một điều gì đó trong cuộc phiêu lưu của ông. 

Ông đại tá trả lời, vẫn một giọng châm chọc 

- Im lặng lại. Cochrane! - Người đàn ông Ái Nhĩ Lan nói lớn - Tại sao ông cứ muốn dồn ông ta tới cùng đường 

- Belmont này, tôi chắc là ông quên thân phận của mình rồi. Tôi không cho phép bất cứ ai được nói với tôi bằng cái giọng đó 

- Vây thì hãy coi chừng những lời nói của ông! 

- Thưa quí ông, thưa quí ông, đây là các bà phụ nữ! - Stephens nói 

Đang sôi sục trong cơn giận dữ, ba người nín thinh và vừa đi bách bộ vừa lấy tay giật manh hàng ria mép. 

Khí sắc cáu kỉnh là một thứ rất hay lây, vì ngay chính cả Stephens cùng bắt đầu càu nhàu khi các bạn của ông đi qua, đi lại trước mắt ông. Họ đối diện với cơn nguy biến lớn nhất đời họ, bóng của tử thần đang bay lên bên trên đầu họ vậy mà họ tự để cho mình bị lôi cuốn vào những cuộc cãi cọ riêng tư mà nguyên nhân quá nhỏ nhặt đến nỗi họ không thể diễn tả ra bằng ngôn ngữ đươc. Hoạn nạn có thể mang tâm hồn con người lên tới những 

đỉnh cao nhưng càng lên cao thì cán cân càng không ngừng động đậy. 

Tuy nhiên ngay sau đó những nỗi khó khăn, một cấp độ khác đã nắm giữ sự chủ tâm của họ ở bên cạnh những cái giống một hội đồng chiến tranh đang nhóm họp. Hai tên tù trưởng lầm lì đang nghe bản báo cáo mà tên trong toán tuần tra liến thoắng trình bày. Các tù nhân nhận thấy đã hai, ba lần tên chỉ huy trẻ hơn lùa những ngón tay của hắn vào trong chòm râu đen dài một cách bực bội. 

- Tôi tin rằng đàn quân lạc đà đã đi truy lùng rồi, - Belmont nói. - Ngay cả họ không ở cách đây quá xa đâu. Ta có thể đoán thế bởi sự dao động này. 

- Có thể đúng đó. Có điều gì đó làm chúng xôn xao? 

- Kìa chúng đang ban hành mệnh lệnh. Lính gì đây? Ô này Mansoor, có việc gì thế? 

Anh thông ngôn bước rảo tới. một tia hy vọng làm rạng rỡ mắt hắn ta 

- Tôi tin rằng chúng đã trông thấy một điều gì làm chúng hoảng sợ. Chắc hẳn các binh lính Ai Cập đang đi truy sát chúng. Chúng đã ra lệnh đổ nước đầy các túi da và chuẩn bị sẵn sàng để khởi hành khi trời bắt đầu tối. Nhưng tôi cũng phải tập hợp các ông lại, vì tên thày dòng sắp tới để dạy giáo lý cho các ông. Tôi đã nói với hắn là các ông đã có cảm tình tốt với đạo Hồi. 

Mansoor đã giữ được những lời lẽ mà hắn thông thuộc tới mức độ nào? Không bao giờ ta biết được cả. Tuy nhiên, người thày giảng Hồi giáo cũng bước tới chỗ các tù nhân với một nụ cười của kẻ đang sắp làm một nhiệm vụ dễ dàng. Hắn bị chột mắt và mập ú. Nhưng chắc ngày xưa hắn phải mập hơn rất nhiều vì mặt hắn có nhiều nếp nhăn mỡ. Hắn có một khoảng râu bạc và ở trên đầu có một khăn xanh của những khách tới hành hương ở La Mecque. Một tay hắn cầm một tấm thảm nhỏ màu hạt dẻ, tay kia cầm một bản kinh Coran bằng giấy da cừu. Hắn trải tấm thảm của hắn lên mặt đất và mời Mansoor ngồi xuống bên hắn; rồi hắn lấy tay ra dấu vòng tròn cho các tù nhân làm thành một vòng tròn quanh hắn; cuối cùng hắn ra hlệu cho họ ngồi xuống. Con mắt độc nhất của hắn láo lơ nhìn vào mắt từng người một trong khi hắn trình bày những nguyên tắc của niềm tin mới hơn, thô bạo hơn, đam mê hơn của hắn. Họ chăm chú nghe và họ gật đầu môt cách ngụ ý mỗi khi Mansoor thông dịch lại khích lệ; cứ mỗi dấu hiệu đồng ý là những cử chỉ của tên thày giảng lại trở nên khả ái hơn và bài giảng của hắn thân thiết hơn. 

- Bởi vì tại sao các người lại đi tìm cái chết, hỡi những con chiên ngoan của ta. Trong khi tất cả những điều các ngươi được yêu cầu chỉ là vứt bỏ những gì sẽ đưa các ngươi vào hỏa ngục đời đời, và chấp nhận luật của đấng Allah như nó đã được viết ra bởi bậc tiên tri, chắc chắn là luật này sẽ đem lại cho các người những niềm vui không thể tưởng tượng được, đúng như đã được hứa hẹn trong cuốn sách của con lạc đà! Bởi vì người đã tuyển chọn đã nói gì? 

Rồi hắn đọc cho họ nghe một trong những bản giáo điều. những thứ mà được tất cả các tôn giáo đều lấy như là những luận cứ. 

- Hơn nữa chẳng phải rõ ràng là Thượng đế ở với chúng ta, bởi vì từ lúc khởi đầu, khi chúng ta chỉ có gậy gộc để chống lại súng ống của người Thổ Nhĩ Kỳ. Chiến thắng đã luôn luôn mỉm cười với chúng ta! Chẳng phải chúng ta đã chiếm El Obeid, chiếm Khatoum đã hủy diệt Hs, đã giết Gordon, đã thắng tất cả những kẻ động chạm tới chúng ta đấy. Trong những tình huống này làm sao người dám không tin là sự tốt lành ở về phía chúng ta? 

Trong lúc tên thầy giảng thuyết pháp với họ như thế, ông đại tá nhận thấy các tên thầy tu Hồi giáo lau chùi súng của chúng, đếm những viên đạn, và làm mọi việc chuẩn bị cho một trận đánh nhau. Hai tên tù trưởng bàn bạc với một vẻ nghiêm trọng. Tên trưởng tuần tra chỉ cho chúng súng của Ai Cập. Rõ ràng là một cơ hội giải cứu đã tới, với điều kiện là mọi việc có thể kéo dài thêm vài giờ nữa. Những con lạc đà chưa hồi phục sau cuộc hành trình dài của chúng. Nếu chiến binh lạc đà đã thật sự lên đường thì chắc chắn là họ sẽ bắt kịp chúng. 

- Vì lòng thương của Thượng đế, hãy cố gắng kéo dài cuộc chơi đi, Fardet ạ! - ông nói - Tôi tin rằng chúng ta có một vận may nếu quả bóng còn lăn trong một giờ nữa. 

Nhưng phẩm cách bị tổn thương của một người Pháp không nguôi ngoai được một cách dễ dàng. Ngồi tựa lưng vào cây cọ, ông Fardet cau cặp lông mày đen lại. Ông không nói gì, nhưng cứ tiếp tục gịât bộ ria mép cứng. 

- Tiếp tục đi, Fardet! Vận mạng của chúng ta tùy thuộc vào ông đó. - Belmont nói 

- Cochrane cứ làm việc đó đi. - Fardet cau có trả lời - ông ấy đã quá tùy tiện làm việc này rồi mà, cái ông đại tá Cochrane này! 

- Đô đốc Belmont nói như thể ông tìm cách làm cho một đứa bé hay hờn dỗi vui vẻ trở lại Tôi tin chắc rằng ông đại tá sẽ bịểu lộ sự hối tiếc của ông ấy về sự cố lúc nãy, và ông ấy sẽ nhìn nhận các sai lầm của ông. 

- Tôi sẽ chẳng làm gì về vụ đó cả! - ông đại tá càu nhàu nói 

- Ngoài ra, chuyện cãi vã của ông chỉ liên quan tới môt mình ông thôi. - Belmont nói tiếp. - Vì sự an toàn của cả bọn chúng ta mà chúng tôi muốn ông nói chuyện với tên thầy giảng. bởi vì tất cả chúng tôi đều cảm thấy ông là người có đủ tư cách nhất để làm việc này 

Nhưng người đàn ông Pháp chỉ nhún vai thôi. 

Tên thầy giảng nhìn họ, hết người này tới người nọ và nét mặt khả ái của hắn bắt đầu tối sầm lại; những nếp nhăn quanh miệng hắn xẹp xuống 

- Lũ vô đạo này muốn chơi trò đóng kịch với chúng ta hả? - Hắn hỏi anh thông ngôn - Tại sao chúng nói với nhau và không nói gì với ta cả? 

- Hắn nổi cáu rồi! - Cochrane thở dài - Có lẽ tốt nhất là tôi phải tự hy sinh tính mạng mình, vì thằng cha khốn kiếp người Pháp này làm dở dang chúng ta. 

Nhưng trí mẫn tiệp của một người đàn bà đã cứu vãn được tình thế. 

- Ông Fardet ạ. - bà Belmont nói. - Tôi tin chắc rằng ông một người Pháp. Do đó một người hào hiệp, có tinh thần mã thượng, ông sẽ không chịu để cho một sự tổn thương tới tình cảm của ông chống lại việc thi hành lời hứa của ông và việc chu toàn các bổn phận của ông đối với ba người đàn bà bất hạnh chứ? 

Fardet nhảy cẫng lên, ông đặt một bàn tay lên ngực 

- Thưa bà, bà đã hiểu rõ bản chất của tôi! - ông nói lớn. - Tôi không có thể bỏ rơi một người đàn bà. Tôi sẽ làm hết sức mình. Bây giờ, Mansoor, anh hãy nói với vị thánh nhân này rằng tôi muốn tranh luận với ông ta về các vấn đề cao siêu của tôn giáo của ông ta 

Và ông đã tranh luận với một sự xảo diệu làm các bạn của ông kinh ngạc ngẩn người ra. Ông dùng giọng điệu của một người cảm thấy mình bị lôi cuốn mạnh mẽ, nhưng còn bị một sư nghi ngại nhỏ níu lại và một khi sự nghi ngại nhỏ này được ông thầy giảng quét sạch. Ông lại đưa ra vài sự phản chống thứ yếu là những điều còn níu ông lại. Trong tất cả những sự ngoắt ngoéo của lý luận của ông, ông đã không quên đưa ra những lời tán tụng ông thày giảng Hồi giáo, ông còn đi cả tới việc tự xưng tụng là nhóm ông đã có sự may mắn gặp được một người tài trí như thế, một nhà toán học thông thái như thế. Những cái bọng thịt của tên thầy giảng bắt đầu rung lên vì đắc ý. Hắn tự để cho mình bị lôi cuốn vào hết sự phản bác này tới sự phản bác khác, rồi tới sự phản bác thứ ba rồi tới những lần khác nữa. Trong lúc đó màu xanh của da trời đã chuyển sang màu tím, những tàu lá xanh đã trở thành đen sẫm. Cuối cùng những vì sao hiện ra giữa những lá cọ 

- Về những gì thuộc về khoa học mà ông đã khen ngợi ta, hỡi con chiên của ta. - tên thày giảng nói để trả lời một lập luận của Fardet.- ta đã học ở đại học đường El Azaz ở Le Caire. Và ta biết ông ám chỉ tới điều gì. Nhưng khoa học của tín đồ không giống với khoa học của kẻ vô đạo, và chúng ta không được phép đi quá sâu vào những con đường của đấng Allah. Các tinh tú đều có một cái đuôi, ôi con chiên ngoan ngoãn của ta, và những tinh tú khác thì không có đuôi; nhưng có ích lợi gì đâu để tìm hiểu đó là những tinh tú nào? Thượng đế đã tạo ra tất cả những tinh tú đó, và chúng sống yên ổn trong bàn tay Ngài. Do đó, hỡi anh bạn của ta, chớ nên bám lấy cái thứ khoa học vô nghĩa của Tây phương nữa, và hãy hiểu rằng chỉ có môt sự khôn ngoan: đó là sự tuân theo ý muốn của đấng Allah như là bậc tiên tri được tuyển chọn của Ngài đã đặt ra trong sách này. Bây giờ 

thì ta thấy rằng các người đã sẵn sàng đến với đạo Hồi. Hỡi các con chiên của ta, đã tới giờ rồI, vì tiếng tù và báo hiệu là chúng ta sắp sửa tiếp tục lên đường, và ngài Tù trưởng Abdelahman siêu phàm đã ra lệnh rằng quyết định của các người phải đạt được trước khi chúng ta rời khỏi những giếng nước này 

- Tuy nhiên, thưa cha, vẫn còn nhiều điểm khác mà tôi rất mong sẽ tiếp nhận được một sự giáo huấn bổ sung. - người đàn ông Pháp nói - Thật tình đúng là một điều khoái trá khi được nghe sự khúc chiết của lời nói của ngài, sau những lời mơ hồ mà chúng tôi đã nghe ở những vị giáo sư khác 

Nhưng tên thầy giảng đã đứng dậy, và một tia nghi ngờ nhen nhóm lên trong con mắt độc nhất của y. 

- Một sự giáo huấn bổ sung như vậy sẽ được thực hiện cho các người sau đây - y nói, - vì chúng ta còn cùng đi với nhau tới tận Khartoum. Với ta đó sẽ là một niềm hân hoan khi thấy các người trên đường đi đã tăng thêm được sự khôn ngoan và đức hạnh. 

Y đi tới chỗ đống lửa, cúi xuống với sự chậm chạp oai vệ của một người phì nộn, rồi đi trở lại với hai cái que đã cháy ra than một nửa mà y đặt xuống thành hình chữ thập - Những tên thầy tu tập hợp lại khắp chung quanh để dự lễ kết nạp những tín đồ mới cải đạo trong giáo hội Hồi giáo. Ở bên trên họ những cái cổ dài và những cái đầu ngạo mạn của những con lạc đà đang lắc lư một cách thanh thản 

- Bây giờ - tên thày giảng nói tiếp, tiếng nói của y đã mất cái giọng hòa hoãn và khuyên lơn- đã tới giờ rồi. Trên mặt đất dày này ta đã dùng hai cái que này làm vật tượng trưng mơ hồ và dị đoan cho cái tôn giáo cũ của các người. Các người sẽ dẫm chân lên chúng, tức là dấu hiệu là các người đã từ bỏ đạo; các người sẽ hôn kinh Coran, tức là dấu hiệu là các người đã chấp nhận nó; và tất cả sự giáo huấn bổ sung và các người cần có sự ban cho các người sau này. 

Các tù nhân đã đứng dậy: bốn người đàn ông và ba người đàn bà này đang ở trong giờ phút quyết định của số phận họ. Có lẽ trong tất cả mọi người chỉ có cô Adam và bà Belmont là có lòng xác tín vững mạnh về tôn giáo. Cả bảy người bọn họ đều là những đứa con của thế giới này, và một vài người đã phủ nhận tất cả những gì được tượng trưng bởi cái biểu tượng đặt trên mặt đất kia. Nhưng lòng kiêu hãnh của người Âu Châu, lòng kiêu hãnh của giống da trắng đang sôi sục trong người họ và giữ họ lại trong tín ngưỡng của các đồng bào họ. Động lực nhân đạo? Động lực tội lỗi? Động lực phi Cơ đốc? Bất kể động lực nào; nó sẽ biến họ thành những chứng nhân tử vì đạo của tín ngưỡng Cơ đốc. Trong sự im lặng, trong sự căng thẳng thành kính của họ, môt tlếng động yếu ớt bỗng chốc vang lên tới tai họ. Tiếng sì sào của những tàu lá cọ bên trên đầu họ không ngăn cản được họ nghe thấy từ xa tiếng chân phi nhanh của một con lạc đà. 

- Đây là một việc gì đang tới. - Cochrane nói thì thào - Hay gắng chần chừ năm phút nữa, Fardet. 

Người đàn ông Pháp tiến lên một bước và chào một cách lễ độ bằng cánh tay bị thương của ông, ông có vẻ như sẵn sàng cho bất cứ điều gì 

- Anh lại nói với vị thánh nhân là tôi đã hoàn toàn sẵn sàng để cúi đầu trước lời giáo huấn của ông ấy. Và tôi cũng trả lời thay cho các bạn của tôi. - ông nói với anh thông ngôn. - Nhưng có một việc mà tôi muốn nhìn thấy ông ấy làm để loại bỏ tất cả những nghi ngại có thể còn vướng mắc trong lòng chúng tôi. Mỗi tôn giáo chân chính đầu tự chứng minh bằng các kỳ tích mà các môn đồ có thể thực hiện. Ngay chính tôi đây tôi chỉ là một tín đồ Cơ đốc thấp hèn, tôi cũng có thể làm được một vài phép như vào tư cách tôn giáo của tôi. Vậy thì ông, vì tôn giáo của ông cao siêu, chắc chắn là ông có thể thực hiện được nhiều hơn. Và tôi yêu cầu ông chứng tỏ cho chúng tôi thấy bằng một dấu hiệu Hồi giáo là tôn giáo. 

Bọn Ả Rập đã cố sức chứng tỏ là đàng hoàng và kín đáo, nhưng chúng cũng rất hiếu kỳ. Sự im lặng bao trùm lên những kẻ đang lắng nghe chứng tỏ rằng những lời nói của Fardet do Mansoor dịch lại đã làm chúng xúc động. 

- Những việc như thế đều nằm trong tay đấng Allah. - tên thầy giảng trả lời. - Chúng ta không có quyền đi ngược lại các luật lệ của Ngài. Nhưng nếu chính bản thân ngươi có các quyền năng mà ngươi tự gán cho mình, chúng ta sẽ vui lòng làm nhân chứng cho việc này. 

Người đàn ông Pháp tiến lên, giơ một bàn tay ra quả chà là lớn kếch sù ông nuốt chửng quả chà là này, và ngay sau đó lấy ra một quả khác từ khuỷu tay trái của ông. Ông đã thường chơi cái trò tiểu xảo này trên tàu Korosko, và các bạn đồng hành thường cười nhạo ông, vì ông đã không đủ khéo léo để lừa gạt được tinh thần phê phán của những người Âu Châu. Nhưng lúc này họ tự hỏi liệu cái trò ảo thuật này có phải là nhân tố quyết định mà số mạng của tất cả bọn họ đang tùy thuộc vào. Một tiếng xì xào của sự kinh ngạc nổi lên từ đám người Ả Rập, và tiếng xì xào tăng lên gấp đôi khi người đàn ông Pháp lấy ra từ lỗ mũi một con lạc đà một quả chà là khác và ném nó lên trên không, và không thấy nó rơi xuống nữa, hay ít nhất hình như nó không rơi xuống nữa. Cái ống tay áo rộng ngoác của ông đã nhìn thấy rất rõ với các bạn ông. Nhưng ánh sáng lúc chiều tà đã phù trợ cho cái tài để mua vui trong lúc trà dư tửu hậu của ông. Đám người dự khán đã quá say mê, quá vui thích đến nỗi họ chú ý rất ít tới một kỵ sĩ mà con lạc đà đang phi nước đại ở gia những cây cọ. Tất cả mọi việc sẽ có thể kết thúc đẹp đẽ nếu Fardet đang sảng khoái vì sự thành công, không muốn bắt đầu lại trò ảo thuật của ông. 

Quả chà là rơi ra khỏi bàn tay ông, và sự lừa bịp đã rõ ràng. Ông muốn chuyển ngay sang một trò khác, nhưng tên thầy giảng nói một vài tiếng và một tên Ả Rập đánh vào bả vai Fardet môt nhát cán giáo 

- Khá đủ trò trẻ nít rồi - Tên thầy giảng gầm lên trong cơn giận dữ. - Chúng ta là người lớn hay là trẻ nít mà để các ngươi lừa gạt bằng cách này? Đây là cây thánh giá kinh Coran, các ngươi quyết định thế nào? 

Fardet nhìn quanh mình với vẻ tuyệt vọng: 

- Tôi không thể làm gì hơn nữa, ông yêu cầu tôi năm phút, ông có năm phút rồi. - Ông nói với đại tá Cochrane.

- Và có lẽ chúng cùng sẽ đủ đó, - ông đại tá trân lời - Những tên tù trưởng kia … 

Tên kỵ sĩ mà họ đã nghe thấy từ xa đi về phía hai tên chỉ huy Ả Rập để trình chúng một báo cáo ngắn gọn trong khi lấy tay chỉ về hướng mà hắn vừa từ đó tới. Hai tên tù trưởng trao đổi vài câu. rồi đi tới chỗ những tên thầy tu đứng vây quanh các tù nhân. Lão già hung hăng giơ một bàn tay lên và nói một câu ngắn gọn với một gịong cục cằn; những tên Ả Rập đáp lại bằng một thứ tiếng như chó sủa; nom chúng giống như một lũ chó săn trước tên thợ săn chỉ huy đàn chó, ánh lửa lấp lánh trong cặp mắt hách dịch của y đã truyền sang những tên đang nhìn y. Tới lúc đó mới đong thở phát lộ ra sức mạnh và sự nguy hiểm của phong trào bởi những bộ mặt bị co rúm vì sự đam mê, vì những khí giới được vung vẩy trên tay này, vì những tâm hồn cuồng tín này; chúng không đòi hỏi gì khác ngoài một cái chết đẫm máu, với điều kiện là nhanh tay chúng trước hết phải được vấy máu 

- Các tù nhân có chịu theo lòng tin chân chính không? - Tù trưởng Abderrahman hỏi trong khi cặp mắt độc ác của y nhìn chòng choc vào họ 

Tên thày giảng đã có một danh tiếng tốt để gĩư gìn, hắn không chịu thú nhận sự thất bại 

- Chúng sẽ cải đạo khi … 

- Này thầy giảng, hãy để việc này lại đó. 

Y phát ra một hiệu lệnh. Tất cả những tên Ả Rập đều nhảy lên lưng lạc đà. Tù trưởng Wadlbrahlm đi khỏi ngay tức thì cũng với phân nửa người của nhóm y. Những tên khác ngồi yên trên lạc đà, súng cầm trong tay. 

- Chuyện gì xảy ra vậy? - Belmont hỏi 

- Những toán quân của chúng ta kéo lên rồi! - ông đại tá kêu lên. - Nhờ ơn trên phù hộ, tôi nghĩ rằng chúng ta sắp thoát nạn rồi. Toán quân lạc đà ở Ouadl-haifa tiến sâu vào theo dấu vết của chúng ta 

- Làm sao ông biết việc này? 

- Ông muốn rằng ai đã báo động cho họ như thế? 

- Ông đại tá, ông thật sự tin rằng chúng ta sắp được giải cứu à? - Sadle thổn thức nói 

Sự chìm đắm vào nỗi bất hạnh đã làm tê cóng thần kinh của họ đến mức hình như họ không có thể thấy được những cảm giác mạnh, nhưng sự hồi phục đột ngột của niềm hy vọng lại đem tới cho họ sự đau khổ và lo âu. Chính ngay Belmont cũng tràn đầy những nghi ngại. Lo sợ ông đã hy vọng ngược lại tất cả mọi hy vọng. Lúc này sự hiện thực của các ước mong của ông đã tới gần lại làm cho ông run sợ. 

- Tôi hy vọng là họ sẽ tới với quân số đông. - Ông nói. - Saprletl, nếu viên tư lệnh chỉ gởi tới một liên đội yếu ớt thì phải đưa ông ta ra hội đồng chiến tranh? Dù sao thì chúng ta cũng nằm trong tay của thượng đế. 

Bà vợ ông nói với vẻ bình tĩnh: 

- Anh John thân quý, hãy quỳ xuống với em; có lẽ đây là lần cuối cùng; vợ chồng ta hãy cầu nguyện cho dù ở trên trời hay ở dưới đất chúng ta cũng sẽ không xa cách nhau 

- Không! Xin các vị đừng quỳ! - ông đại tá hét lên lo sợ vì ông trông thấy tên thày giảng đang nhìn họ 

Đã quá trễ rồi. Hai người công giáo La Mã đã quỳ xuống và đã làm dấu thánh giá. Sự giận dữ làm đỏ bừng mặt tên thầy giảng Hồi giáo khi hắn nhìn thấy bằng chứng công khai về sự thất bại của hắn. Hắn quay đi và nói 

- Đứng lên. Hãy đứng dậy - tên Mansoor quát bảo - ông ấy xin phép giết các vị đó. 

- Thì hắn cứ việc làm việc gì hắn thích đi! - Người đàn ông bướng bỉnh Ái Nhĩ Lan trả lời - Chúng tôi sẽ đứng dậy khi các bài kinh của chúng tôi chấm dút, không đứng dậy trước! 

Tên tù trưởng vừa nghe tên thày giảng nói vừa phóng cái nhìn hắc ám của hắn vào hai cái bóng đang quỳ. Hắn ra những mệnh lệnh. Bốn con lạc đà được dẫn tới. Những con lạc đà chở đồ mà không được dùng để cưỡi vẫn không được đóng yên và vẫn ở lại chỗ mà chúng bị cột 

- Đừng có ngốc, Belmont! - ông đại tá nói lớn. - Tất cả đều tùy thuộc vào tâm trạng mà chúng ta sẽ tạo ra cho chúng. Đứng dậy đi, bà Belmont! Ông bà chỉ làm cho chúng đứng lên chống lại bọn ta. 

Người đàn ông Pháp nhún vai: 

- Trời ơi! - ông kêu lên - Sao lại có một dân tộc cố chấp như vậy kìa! 

Hai phụ nữ Mỹ cũng quỳ xuống bên cạnh bà Belmont 

- Họ giống như những con lạc đà, một con nằm xuống, tất cả những con khác nằm theo! Thật là kỳ cục! 

Nhưng ông Stephens cũng quỳ ở bên canh Sadle. Ông đã giấu bộ mặt phờ phạc vào hai bàn tay dài và gầy gò của ông. Chỉ còn ông đại tá và ông Fardet là vẫn đứng thẳng. Cochrane ném một cái nhìn dò hỏi cho người đàn ông Pháp 

- Dù thế nào, - ông nói. - người ta sẽ ngu ngốc khi cầu nguyện suốt cả đời, cũng như không cầu nguyên khi mà ta không còn điều gì khác để hy vọng ngoài lòng thương của đấng tối cao. 

Ông để thân mình khuỵu xuống trên hai đầu gối. 

Đứng thẳng như một người lính, những cam gục xuống ngực, người đàn ông Pháp nhìn các bạn của ông cầu nguyện, rồi đôi mắt ông chuyển sang những nét mặt bực tức của tên tù trưởng và tên thầy giảng 

- Đồ chó má! - ông làu bàu - Chúng nghĩ rằng một người Pháp lại có thể sợ hãi? 

Rồi vừa làm dấu thánh một cách đường hoàng công khai, ông vừa quỳ xuống bên cạnh các bạn của ông. Mình mẩy bẩn thỉu, khốn khổ, quần áo tả tơi, bảy tù nhân trong cái tư thế khúm núm dưới bóng tối của những cây cọ, đang chờ đợi số phận họ được định đoạt 

Tên tù trưởng quay lại nhìn tên thày giảng với một nụ cười mai mỉa để chỉ cho hắn thấy kết quả sự thuyết giáo của hắn. Rồi y ban ra một mệnh lệnh mới. Ngay tức thì bốn người đàn ông bị lũ thầy tu túm lấy và trói hai cổ tay lại. Fardet rú lên một tiếng vì sợi dây thừng nghiến vào vết thương của ông. Những người khác chịu đựng cái luật của kẻ mạnh hơn với vẻ hiên ngang 

- Các ông đã làm hỏng hết cả rồi! Tôi ngậm rằng chính tôi cũng đã bị các ông sát hại! - Mansoor vừa kêu la vừa vặn vẹo hai bàn tay. - Các phụ nữ sẽ leo lên ba con lạc đà này. 

- Không bao giờ? - Belmont phản kháng - Chúng tôi sẽ không để bị chia cách. 

Ông xông lên như một thằng điên, nhưng sự đói khát, thiếu thốn đã làm ông yếu đi, và hai tên Ả Rập khỏe mạnh nắm lấy tay gì ông lại. 

- John, đừng tự làm khổ mình. - bà vợ ông nói lớn trong khi chúng đẩy bà tới chỗ con lạc đà. - Không có sự tệ hại nào chờ đợi em đâu. Đừng cựa quậy nữa! Bằng không chúng sẽ giết anh đó! 

Bốn người đàn ông sợ run lên khi họ trông thấy những người đàn bà đang đi xa dần. Tất cả những sự lo sợ của họ đã không có một chút nào khi ở bên cạnh mấy người đàn bà. Sadle và bà cô của nàng có vẻ gần như ngất xỉu đi vì kinh họàng Chỉ có bà Belmont là còn giữ được nét mặt quả cảm. Một khi đã được nâng lên trên lưng những con lạc đà rồi, họ được đưa tới dưới cái cây mà bốn người đàn ông đang đứng ở phía sau 

- Tôi có một khẩu súng lục trong túi áo. - Belmont nói với bà vợ - Tôi sẽ hy sinh tính mạng để có thể đưa nó cho mình. 

- Cứ giữ lấy nó, john. nó còn có thể dùng được. Em không sợ gì cả. Từ lúc chúng ta cầu nguyện, em có cảm tưởng là các vị thần hộ mạng đang che chở cho chúng ta bằng những đôi cánh của các ngài 

Chính ngay bà trông cũng giống như một vị thần hộ mệnh vì bà đang quay lại phía cô Sadle run rẩy và thì thầm nói với cô một vài lời đầy hy vọng và khích lệ. 

Tên Ả Rập nhỏ bé, lùn chỉ huy toán hậu vệ của Wadlbrahlm đi tới gặp tên tù trưởng và tên thày giảng, cả ba tên vừa bàn bạc với nhau vừa liếc mắt nhìn về phía các tù nhân. Rồi một tên tù trưởng nói với Mansoor: 

- Ông chỉ huy muốn biết ai là người giàu nhất trong bọn các ông? - Tên thông ngôn nói 

Những ngón tay của hắn ngọ nguậy với một vẻ nóng nảy điên cuồng và hắn luôn luôn lau mồ hôi trên trán 

- Tại sao hắn lại muốn biết? - ông đại tá hỏi 

- Tôi không biết tại sao. 

- Nhưng đó là sự hiển nhiên mà! - ông Fardet nói lớn - Hắn muốn biết ai là người giàu nhất để giữ người đó lại hòng đòi tiền chuộc! 

- Tôi nghĩ là chúng ta phải cùng nhau xem xét vấn đề này - ông đại tá nói - ông Stephens này, chính ông nên khai ra, vì chắc chắn ông là người giàu nhất trong bọn. 

- Có thể vậy - ông luật sư trả lời - Nhưng bất kỳ trong trường hợp nào tôi cũng không mong được xếp vào một loại riêng biệt 

Tên tù trưởng lại cất tiếng với một giọng khắc nghiệt 

- Ông ấy nói - Mansoor thông dịch, - rằng những con lạc đà chở đồ đã mệt lử, và nay chỉ còn duy nhất một con là có thể tiếp tục lên đường. Ông ấy để thuộc quyền sử dụng của một người trong bọn các ông, và ông ấy để các ông có quyền lựa chon. Người giàu nhất trong bọn các ông sẽ được ưu tiên 

- Hãy trả lời hắn rằng tất cả bọn chúng ta đều giàu bằng nhau. 

- Trong trường hợp này, ông ấy nói là các ông phải chon ngay người nào sẽ có con lạc đà 

- Còn những người khác? 

Anh chàng nhún vai 

- Đuợc - ông đại tá nói- Này các bạn, nếu chỉ có một người trong bọn chúng ta được thọát nan, thì tôi nghĩ rằng các bạn sẽ đồng ý với tôi người đó sẽ là Belmont, bởi vì ông ấy đã có vợ. 

- Phải, phảI! Người đó phải là ông Belmont! - Fardet nói 

- Tôi cũng nghĩ thế - Stephens nói 

Nhưng người đàn ông Ái Nhĩ Lan không muốn nghe 

- Không, chia đều - ông nói lớn - Chúng ta sẽ cùng chết hoặc sẽ cùng được giải cứu tất cả, và quỷ sứ bắt kẻ nào thối chí! 

Một cuộc thi đấu ngoan mục về tính bất tự kỷ diễn ra sôi nổi. Một người nào đó nói rằng ông đại tá nên đi, vì ông là người già nhất. Cochrane trở nên giận dữ 

- Người ta có thể nghĩ rằng tôi là ông già tám mươi - ông phản đối - sự nhận xét này đã hoàn toàn lỗi thời rồi 

- Này. - Belmont nói. - tất cả chúng ta đều từ chối không 

- Đó không phải là điều khôn ngoan lắm! - Người đàn ông Pháp nói lớn - Các bạn hãy nghĩ xem! Thế là để cho các bà ở lại một mình à? Một người trong bọn ta phải ở gần các bà ấy để giúp ý kiến cho họ, đó là điều vô cùng tốt đẹp 

Họ nhìn nhau bối rối. Rõ ràng là Fardet đã nói đúng. Nhưng làm sao mà một người trong bọn họ lại có thể bỏ rơi các bạn của mình? Tên tù trưởng nói xen vào để đề nghị một giải pháp 

- Ông chỉ huy nói. - Mansoor nhắc lại. - nếu các ông không thể tự quyết định được: chỉ còn có cách dành sự quyết định lại cho đấng Allah và phải rút thăm 

- Tôi không thấy giải pháp nào tốt hơn nữa. - ông nói 

Ba người bạn của ông cũng đồng ý 

Lúc đó tên thầy giảng chìa ra cho họ bốn miếng vỏ cây cọ và giữ một đầu của chúng lại trong các ngón tay 

- Ông ấy nói ai rút được miếng dài nhất sẽ được cưỡi con lạc đà. - Mansoor thông dịch 

- Chúng ta đồng ý, một cách nghiêm chỉnh làm theo như vậy không? - Cochrane hỏi các bạn của ông 

Họ đều hứa sẽ làm vây 

Bọn thầy tu đã làm thành một vành bán nguyệt phía trước họ. Ngọn lửa trại chiếu ánh sáng đỏ của nó vào những diễn viên của màn kịch và vào các khán giả. Tên tù trưởng phòng rời mặt khỏi toán tù nhân. Đằng sau bốn người đàn ông là một hàng lính gác. Đằng sau những tên lính gác này là ba người đàn bà đang ngồi trên lưng lạc đà xem màn kịch. Với một nụ cười quái ác, tên thầy giảng đi tới gần Belmont. Người đàn ông Ái Nhĩ Lan không thể nào khỏi thốt ra một tiếng rên rỉ làm cho bà vợ của ông cũng rên rỉ theo, vì miếng vỏ cây ông rút được nhỏ xíu. Người đàn ông Pháp rút được một miếng dài hơn một chút. Ông đại tá rút được một miếng dài gấp hai lần cả hai miếng kia hợp lại. Miếng của Stephens cùng vào cỡ miếng của Belmont. Đại tá Cochrane là người thắng cuộc trong trò chơi xổ số khủng khiếp này 

- Tôi sẵn lòng đổi chỗ của tôi cho ông đó, ông Belmont ạ - ông lầm bầm nói - Tôi không có vợ cũng không có con. Họ hàng chỉ có vài người. Anh hãy đi với vợ ông đi! Tôi sẽ ở lại 

- Tuyệt đối là không. Một giao ước là một giao ước. Tất cả đều phải trung thực 

- Ông tù trưởng ra lệnh ông phải leo lên ngay tức thì. - Mansoor nói 

Một tên Ả Rập dẫn ông đại tá hai tay vẫn bị trói tới chỗ con lạc đà đang đứng. 

- Hắn sẽ ở với toán hậu vệ - tên tù trưởng nói với tên phụ tá của hắn - Anh cùng sẽ trông coi những người đàn bà cùng đi với anh 

- Còn con chó thông ngôn này? 

- Với những tên kia? 

- Và những tên kia? 

- Khử đi!

***

Chương 9

Vì không có ai trong ba tử tội hiểu tiếng Ả Rập cả, lệnh của tên tù trưởng sẽ chẳng có ý nghĩa gì đối với họ khi không có sự phiên dịch của Mansoor. Sau những trò phản phúc, những sự khom lưng, quỳ gối và sự bôi bác của hắn ta, anh chàng thông ngôn khốn khổ thấy rằng những sự lo sợ tệ hại của hắn sắp trở thành hiện thực. Vừa thốt ra một tiếng rú kinh họàng, con người khốn khổ đó vừa nằm phục xuống, mặt úp xuống đất và níu lấy vạt áo của tên tù trưởng. Tên này thấy khó mà gỡ ra khỏi sự nắm gĩư điên cuồng nên đã cho hắn một cái đá dữ dội. Cái khăn bịt đầu đỏ của anh thông ngôn bay tung lên trời. và Mansoor nằm rên rỉ và ẻo lả ngay tại chỗ mà cái đá của tên Ả Ráp vừa xô hắn tới Lúc đó trại binh tràn ngập một sự xao động điên cuồng. Tên tù trưởng già leo lên lưng con lạc đà của y. Một vài tên trong toán của y phóng đi không còn chờ đợi để nhập bọn với các bạn của chúng. Tên phụ tá béo lùn, tên thày giảng và hơn hai chục tên thầy tu vây quanh các tù nhân. Chúng vẫn còn đi bộ, vì chúng đã được lệnh hành quyết ba người tù. Khi nhìn chúng, Belmont, Stephens và ông Fardet biết rằng họ chỉ còn vài phút nữa để sống thôi. Tay họ vẫn còn bị trói, nhưng bọn lính canh đã thôi không gĩư tay họ nữa. Do đó cả ba người đều quay đầu lại để chào vĩnh biệt mấy người đàn bà 

- Bây giờ thì tất cả đều chết rồi, Norah ạ! - Belmont nói - Chúng tôi không có vận may, vì hy vọng đã tới rất gần. Mặc kệ! Chúng tôi đã làm hết sức mình 

Đây là lần đầu tiên bà vợ của ông bị suy sụp tinh thần. Bà khóc thổn thức, giấu mặt vào hai bàn tay 

- Đừng khóc, em yêu của anh ! Chúng ta đã cùng hưởng sung sướng rồi. Em hãy chuyển tất cả lòng kính mến của anh tới các bạn của chúng ta. Hãy nhớ lại cho anh kỷ niêm tốt đep của Amy Mocarthy và gia đình Bịessmgtn. Em sẽ có đầy đủ mọi thứ để sống nhưng anh muốn nhắc em nên hỏi ý kiến của Rodger trong việc đầu tư của em. Chớ quên điều đó ! 

- ôi John. không có anh em sẽ không sống được. 1 sự u buồn mà người đàn ông ái Nhĩ Lan cũng cảm thấy trong nỗi đãu buồn của bà vợ đã bắt ông khuất phục; ông gục đầu xuô ng và tựa nó trên cái hông đầy lông của con lạc đà. Cả hai vợ chồng cùng bắt đầu khóc. 

Trong lúc đó Stephens tiến lại gần Sadle. Trong bóng tối chang vạng của lúc họàng hôn, nàng trông thấy bộ mặt gày ốm và nghiêm trọng của ông ngẩng lên về phía mình 

- CÔ đừng lo sợ cho bà cô của cô, và cả cho cô nữa. Ông nói Tôi tin chắc rằng bà và cô sẽ được giải cứu: đại tá Cochrane sẽ săn sóc cho hai người. Những người Ai Cập không thể ở xa phía sau. Tôi hy vọng là bà và cô sẽ cô thể uống nước trước khi rời khỏi những cái giếng. Tôi rất muốn đưa cho bà cô của cô cái áo ngoài của tôi. vì chiều nay trời sẽ lạnh. Nhưng với những sợi dây trói này tôi nghĩ rằng tôi sẽ không thể cởi nó ra. Nói với bà ấy hay gĩư lại một ít bánh dự trữ để sáng 

Ông nói một cách rất bình tĩnh; người ta có thể nói đó là một người đang sắp xếp các chi tiết cho một cuộc đi cắm trại ngoài trời - một cảm gíac bất chấp. Sự mến phục lối cư xử điềm tĩnh của người đàn ông sắp phải chết đã tràn ngập trong tim sôi động của Sadle. 

- Ông thật là tử tế ! Nàng kêu lên Tôi chưa bao giờ gặp được một người như ông. Người ta nói về các vị thánh. nhưng lúc này ông đang đứng trên ngưỡng cửa 

tử thần, mà ông chỉ nghĩ tới chúng tôi ? 

- CÔ Sadle ạ, tôi muốn nói với cô một tiếng cuối cùng nếu cô cho phép. Như vậy tôi sẽ chết môt cách sung sướng hơn ! Nhiều khi tôi đã muốn nói với cô, nhưng tôi lại nghĩ có lẽ cô sẽ cười vào mũi tôi, vì không bao gìơ cô nhìn các sự việc môt cách quá nghiêm túc, phải vậy không? Với tính vui vẻ của cô thì việc đó cũng rất tự nhlên thôi, nhưng đối với tôi thì việc đó rất quan trong. Lúc này tôi đã là một người chết rồi, do đó những gì tôi nói không quan trọng lắm nữa. 

- ồ có chứ. ông Stephens 

- Tôi sẽ im tiếng, nếu vịệc nghe tôi nói làm cho cô khó chịu. Như tôi đã nói với cô, tôi sẽ chết sung sướng hơn. Nhưng tôi không muốn tỏ ra tôi là kẻ ích kỷ; nếu 

tôi nghĩ rằng những lời nói của tôi sau đây sẽ làm u ám cuộc sống của cô, hoặc sẽ trở thành một kỷ niệm tệ hại cho cô, tôi sẽ không nói một tiếng nào nữa. 

- ông muốn nói gì với tôi? 

- Một cách đơn giản là tôi yêu cô biết bao. Tôi đã mãi mãi yêu cô từ lúc ban đầu tôi đã cảm thấy mình là một người khác khi tôi đứng với cô. Nhưng thật là vớ vẩn, chắc chắn thế! Tôi biết rõ điều này. Tôi đã không nói gì cả. và tôi đã cố không làm cho tôi trở thành lố bịch: nhưng tôi muốn rằng cô biết việc đó, lúc này thì việc đó không còn quan trọng nữa. CÔ sẽ hiểu rằng tôi thật lòng yêu cô khi tôi nói với cô rằng nếu đó chỉ là việc tôi nhìn thấy cô khổ sở và lo lắng, thì hai ngày vừa qua. trong đó chúng ta đã không rời xa thau, đã là những ngày sung sướng nhất trong đời tôi. 

CÔ thiếu nữ vẫn tái mét, lăng lẽ, nhìn với con mắt ngạc nhiên bộ mặt đang quay về phía mặt nàng. Nàng không biết phải làm gì, nói gì trước mối tình đang tỏa ra ánh lửa quá sáng tỏ trong bóng tối của tử thần. Với trái tim thơ ấu của nàng. tất cả những điều này không thể hiểu được; tuy nhiên nàng cũng cảm thấy sự êm dịu 

và tươi đep của nó 

- Tôi sẽ không nói một điều gì khác với cô: Stephens nói tiếp - Tôi thấy là cô đang bối rối, nhưng tôi muốn cô phải biết. Bây gìơ thì cô biết rồi, tất cả đều tốt đẹp. Cám ơn cô đã nghe tôi nói một cách rất lịch sự và nhiều kiên nhẫn. Chào cô, cô Sadle bé nhỏ! Tôi không thể giơ bàn tay lên được; cô có thể hạ thấp bàn tay cô xuống được không? 

Nàng chìa một bàn tay ra cho ông Stephens đặt môi ông vào bàn tay nàng. Rồi ông quay đi, trở lại chỗ cũ giữa Belmont và Fardet. Trong suốt cuộc đời tranh đấu 

và thành công, chưa bao giờ ông cảm thấy một niềm hân hoan trầm lặng như gìơ phút này, khi mà ông sắp chết. Không có gì để tranh cãi về tình yêu. Nó là yếu tố thắm thiết nhất của đời sống con người . Nó là thứ làm lu mờ và biến đổi tất cả mọi yếu tố khác. Nó là yếu tố duy nhất đã được tuyệt đối vẹn toàn. Sự đau đớn trở thành 

một khọái lạc. Sự cùng quẫn trở thành một nguồn an ủi. Cái chết là tất cả sự êm ái khi mặt trăng óng ánh vàng này tô điểm hào quang cho một con tim. Trước mặt những tên sát nhân, Stephens có thể ca hát vui vẻ. Thật tình ông đã không có thì giờ để nghĩ tới chúng. Điều quan trọng, sự kỳ diệu và chân quý là nàng sẽ không còn coi ông như một người bạn tình cờ. Suốt cả cuộc đời, nàng sẽ nghĩ tới ông. Nàng sẽ biết 

Con lạc đà của đại tá Cohrane đi hơi xa xa phía bên, và viên sỹ quan già mà hai tay đã được cởi trói lặng nhìn quang cảnh và với tính bướng bỉnh cố hữu của ông, tự hỏi có thật sự phải từ bỏ mọi hy vọng không Ông biết chắc rằng bọn ả Rập tâp hợp hung quanh các nạn nhân vẫn ở đằng sau, còn những tên khác đã leo lên lưng lạc đà rồi sẽ phụ trách việc canh gĩư ba người đàn bà và ông. Ông không thể hiểu tại sao các bạn ông lại chưa bị chém cổ. Với sự tinh vi trong tính độc ác của người Đông phương, không chừng toán hậu vệ sẽ chờ cho tới lúc những lính Ai Cập tới thật gần mới ra tay 

chăng? Những cái xác còn nóng hổi của các nạn nhân sẽ là một sự lăng nhục đối với những kẻ truy sát chúng Phải. chác chắn sự giải thích này là đúng, ông đại tá đã 

từng nghe nói về những thủ đoạn như vậy. Nhưng trong trường hợp này sẽ không có quá mười hai tên ả Rập đi kèm các tù nhân. Trong bọn chúng không có tên nào có thể trở thành một đồng minh à? 

Nếu Tippy Tilly và sáu người trong bọn y có mặt tại đó? Và nếu Belmort có thể gỡ tay khỏi dây trói và cầm lấy khẩu súng lục của ông thì may ra họ có thể chạy thoát được. Ông đại tá vặn vẹo cái cổ nhưng lại càu nhàu thất vọng. Ánh lửa đã chỉ cho ông thấy những cái đầu của bọn lính canh. Bọn này tất cả đều là dân Ả Rập baggaras mà không ai có thể hy vọng ở lòng thương người hoặc ở việc chúng tự để cho mình bị hủ hóa. Chắc là Tippy Tilly và những tên khác đã phải đi trong toàn dẫn đầu. Đây là lần đầu tiên viên sĩ quan già đành bỏ rơi tất cả mọi hy vọng. 

- Tạm bịêt các bạn! Xin Thượng đế ban phước lành cho các bạn! ông nói lớn 

Một tên da đen tới kéo cái rọ mõm của con lạc đà của ông. Mấy người đàn bà tiến lên đằng sau ông, họ buồn khổ quá không thể nói năng gì. Đối với ba người đàn ông còn đứng lại thì sự khởi hành của họ lại là một sự nhức nhối trong lòng. 

- Tôi rất sung sướng là các bà ấy đã đi khỏi . Stephens nói từ đáy lòng mình 

- Phải, như thế còn tốt hơn - Fardet nói lớn - nhưng chúng ta còn phải đợi bao lâu nữa đây? 

- Rất lâu hơn nữa? Belmont trả lời với một giọng cay đắng 

Bọn Ả Rập vây kín quanh họ Ra tới rìa ốc đảo: ông đại tá và ba người đàn bà quay đầu lại phía những thân cây cọ. Họ nhìn thấy đống lửa đã tàn. Bên trên toán người ả Rập họ nhận ra ba cái mũ trắng. Rồi những con lạc đà của họ bắt đầu chạy nước kiệu. Khi họ liếc lại phía sau một cái nhìn cuối cùng, khu rừng cọ chỉ còn là một khối tối sẫm với sắc lập lòe mông lung của đôi chút ánh sáng ở khoảng gĩưa. 

Trong lúc họ nhìn với những con mắt khẩn cầu cái chấm đỏ trong lành tối tăm này thì họ cũng vượt qua cái bờ của lòng chảo; ngay tức thì bãi sa mạc mông mênh được 

ánh trăng soi sáng đã bao trùm lên họ với sự im lặng của nó. Và ốc đảo đã biến khỏi tầm nhìn của họ. Ở mọi phía bầu trời xanh êm như nhung lốm đốm những vì 

sao sà xuống phía bình nguyên bao la họang dã. Bầu trời và mặt đất đã trộn lẫn với nhau ở chân trời. Bị tuyệt vọng quá, những người đàn bà không còn đủ can đảm để nói chuyện nữa. Ông đại tá cũng im tiếng luôn: ông có thể nói cái gì đây? Bỗng dưng cả bốn người đều giật nẩy mình lên trên yên của họ, và Sadle sế nén một tiếng kêu buồn khổ. Trong bóng đêm một phát súng đã nổ phía sau họ. Có một phát nữa. Rồi nhiều phát nữa. Và cuối cùng thì những tiếng nổ ngưng hẳn 

- Có lẽ đó là những người Ai Cập, những cứu tinh của chúng ta ! - Bà Belmont kêu lên -Đại tá Cochrne. ông không tin rằng đó là những người Ai Cập à? 

- Có có ! Sadle ấp úng nói. Đó phải là những người 

ông đại tá đã lắng nghe một cách chăm chú, nhưng tất cả đều trở lại im lìm. Lúc đó, với một dáng điệu nghiêm trang, ông bộc lộ tâm tình. Ông nói: 

- Bà Belmont ạ, thật là vô ích khi chúng ta tự lừa dối mình. Chúng ta phải chấp nhận sự thật. Các bạn của chúng ta đã rời bỏ chúng ta, nhưng họ đã chết như những 

người dũng cảm. 

- Nhưng tại sao chúng lại bắn súng? Chúng đã có những ngon giáo của chúng mà . 

Bà run rẩy toàn thân: 

- Đúng thật vậy. - ông đại tá nói - Để đổi lấy bất kỳ vật gì trên đời tôi cũng không muốn làm mất niềm hy vọng thực tế của bà; nhưng ngược lại tốt nhất là dù sao 

hãy đặt cho chúng ta một sự thất vọng phũ phàng. Nếu chúng nghe thấy một cuộc tấn công thì chúng ta cũng phải nghe thấy một sự phản kích. Ngoài ra, nếu những 

lính Ai Cập đã tấn công, thì họ đã phải tấn công với lực lượng lớn. Thật thế. Như bà đã nói, đúng là hơi kỳ quái khi họ đã phí hoài những viên đạn. Lạy chúa tôi, hãy 

nhìn kìa. 

ông duớn thẳng tay về hướng Đông. Hai bóng người đang di chuyển trên sa mạc. Hai cái bóng lén lút mau lẹ của họ nổi bật rõ ràng hơn trên mặt đất. Họ trông thấy chúng leo lên và tụt xuống ở những nơi gồ lên, xẹp xuống của địa hình. Chúng biến đi và hiện ra sau đó dưới ánh sáng mập mờ. Chúng lẩn tránh bọn ả Rập. Rồi chúng 

dừng lại trên đỉnh một đồi cát. Lúc đó các tù nhân phân biệt được chúng một cách rõ ràng. Đó là hai người đàn ông ngồi trên lưng lạc đà; nhưng chúng ngồi bỏ chân ra 

hai bên, như một kỵ sĩ trên lưng ngựa vậy 

- Những lính cưỡi lạc đà của Ai Cập ! ông đại tá 

- Họ chỉ có hai người! Có Adams nói thầm thào với một giong thảm sầu 

- Đó chỉ là những tên xích hầu, thưa cô! Họ đã tung ra các toán tuần thám trên suốt bề rộng của sa mạc. và đây chỉ là một toán? Đại bộ phận lực lượng không ở cách xa quá mười lăm cây số. Họ sẽ cho lính báo động. Những người lính lạc đà già, dũng cảm! 

Ông đại tá dè dặt là thế, đúng mực là thế. mà cũng khó có thể nói ra lời, nhất là khi ông bực bội. Một ánh chớp đỏ chiếu sáng trên đỉnh cái đồi, rồi một cái chớp 

thứ hai. Tiếng súng nổ lốp đốp tiếp theo. Hai cái bóng tan biến một cách cũng lặng lẽ và mau lẹ như hai con cá hồi trong một dòng nước chảy mạnh. 

Bọn ả Rập đã dừng lại; chúng ngán ngẩm không muốn làm gián đoan cuộc hành trình để chạy đuổl theo hai cái bóng nọ. Nhưng bây gìơ thì chúng không còn gì để đuổi theo nữa, vì ở gĩưa những cồn cát nhấp nhô, những tên xích hầu đã có thể đi theo bất kỳ hướng nào. Tên tù trưởng phi nước đại quay trở lại, ra các mệnh lệnh. Những con lạc đà tăng tốc bước đi. Những hy vọng của các tù nhân khi đó đã bị loãng đi trong những cái lắc lư khủng khiếp mà họ phải chịu. Những người đàn bà cố hết sức bám chặt lấy cái núm yên, ông đại tá cũng gắng kiệt sức như họ. Nhưng ông luôn luôn rình rập một cách thèm thuồng dù là một dấu hiệu nhỏ nhặt của những người truy kích 

- Tôi nghĩ rằng, Tôi nghĩ rằng. bà Belmont nói - tôi trông thấy một vật gì đang động đậy phía trước 

Ông đại tá ngồi thẳng dậy trên yên và che mắt tránh ánh sáng trăng 

- Lạy chúa tôi, bà nói đúng đó. Ở đằng kia có người 

Lúc này thì ông nhìn thấy họ rất rõ ràng: ở phía trước mắt họ một dãy kỵ binh đang trải dài ra trên sa mạc. 

- Họ đi cùng một hướng với chúng ta - Bà Belmont kêu lên. bà có cặp mắt tinh hơn ông đại tá Cochrane cố nén một lời chửi thề trong hàng ria mép 

- Hãy nhìn những dấu vết trên mặt đất, ông nói - Chắc chắn đây là bọn tiền quân của chúng đã rời khỏi ốc đảo trước chúng ta Tên chỉ huy bắt chúng ta phải 

dùng nước bài chết người này để chúng ta bắt kịp chúng. 

Lúc hai bên tới gần nhau, họ nhìn thấy đó đúng là toán quân A Rập kia. Ngay sau đó tù trưởng Wad Ibrahlm tới gặp tù trưởng Abdenahman Chúng chỉ về hướng mà 

các xích hầu đã xuất hiên và lắc đầu; rõ ràng là chúng đã có nỗi bận tâm nghiêm trọng và những linh cảm xấu. Những chiến binh của sa mạc hợp thành một 

đạo duy nhất đang rục nịch đi về hàng chòm sao chổi thấp, ngay phía trước họ ở chân trời. Trong nhiều giờ lối chạy nước kiệu khủng khiếp này cứ tiếp tục. Những 

người đàn bà đang sắp ngất xỉu. Ông đại tá khích lệ họ gĩư vững tinh thần. và ông luôn luôn quay đãu lại để ngóng trông những người lính lạc đà. Máu đập mạnh trên thái dương của ông. Ông nói là ông nghe thấy tiếng trống đồng. Trong cơn mê 

sảng ông nhìn thấy những đám đông lính lạc đà Ai Cập đang cất bước. Suốt cả cái đêm dài vô tận đó, ông tung ra những tin tốt lành để rồi tức thì bị đính chính bởi các 

sự việc. Mặt trời lúc mọc lên cũng không tiết lộ được điều gì có thể an ủi được những kẻ khốn khổ 

Những người đàn bà bị kinh hoàng vì vẻ mặt của người bạn đường của họ. Ông không còn là vị sĩ quan xuất sắc đã cùng đi với họ từ Le CAire nữa! Hình như 

tuổi tác đã thình linh đổ ụp lên người ông. Mái tóc ông đã trở nên trắng như tuyết. Một bộ râu để đã ba ngày, cũng trắng như tóc ông đã làm lu mờ đường nét cương 

nghị và rõ ràng của cái cằm ông. Các gân máu trên mặt ông phồng căng lên; những nếp nhăn lên được khơi sâu Lưng ông còng xuống, đầu ông thấp đi, nhưng trong cơn 

mê sảng, mặc dù sự kiệt sức đang ở ngưỡng cửa của tử thần, ông vẫn gĩư được vẻ nghĩa hiệp và bao dung khi ông ngoảnh nhìn về phía ba người phụ nữ. Ông nói với 

họ những lời ngắn gọn, những lời an ủi hay những lời khuyên răn, ông luôn luôn nhìn về phía sau như hy vọng trông thấy sự tiếp cứu không bao giờ tới đó. 

Một giờ sau khi mặt trời mọc, đoàn người dừng lại. Đã có sự phân phát thức ăn và nước uống cho tất cả mọi người; sau đó đoàn người lại lên đường đi về phía Đông 

Nam nhưng với những bước đi khoan thai hơn; nó trải dài bốn trăm mét trên sa mạc. Cứ xem cái vẻ ngoài vô tư lự và những sự nói năng huyên thuyên của chúng thì 

chắc chắn là bọn ả Rập nghĩ rằng chúng đã vượt khỏi những kẻ truy kích chúng. Chúng có ý định quay trở lại sông Nil sau chuyến đi vòng vèo của chúng tới một nơi 

nằm khá xa phía trên những triền núi Ai Cấp. Phong cảnh biến đổi dần dần. Chả mấy chốc những hòn đá cuội đã nhường chỗ cho những núi đá kỳ quái, đen ngòm và cho 

cái thứ cây màu vàng cam mà các tù nhân đã nhìn thấy lúc khởi đầu chuyến đi thê thảm của họ ở bên phải và bên trái họ những quả đồi hình chóp, những khe sâu có 

bờ lởm chởm đá đứng dựng lên bên trên những thung lũng cát. Những con lạc đà tiến bước theo hàng một, đi vòng qua các tảng đá lên hoặc dùng những bàn chân mềm mại có chất dính như keo để leo lên những tảng đá có thể làm một con ngựa phải lùi bước. Đoàn người tiến bứơc một cách lặng lẽ và chậm chạp vào một đường 

đèo được bao quanh bởi những núi đá đen ngòm và cây vàng. bầu trời vẽ ra một vòng cầu hẹp bên trên khe núi 

CÔ Adams - người mà đêm dài lạnh lẽo đã thực sự làm cho tê cóng, nay đã bắt đầu hết cóng dưới cái nóng của mặt trời. Bà nhìn quanh mình và xoa hai bàn tay 

- Này. Sadle. - bà nói - cô nghĩ là đêm vừa qua cô đã nghe thấy tiếng cháu, và bây gìơ cô thấy là cháu đã khóc 

- Cháu suy nghĩ đó, cô ạ 

- Này. chúng ta phải cố gắng nghĩ tới những người khác, cháu cưng ạ. Chớ không phải đến bản thân chúng ta! 

- CÔ ơi cháu không nghĩ đến cháu đâu .. 

- Có phải đặc biệt đến một người nào không? 

- Đến ông Stephens, cô ạ. Ông ấy duyên dáng và dũng cảm biết bao! Khi cháu nghĩ tới lúc đứng giữa tất cả những tên sát nhân này mà ông vẫn thu xếp các chi 

tiết nhỏ nhặt cho chúng ta. Ông ấy còn định cởi áo khọác ngoài ra? Cô ạ, ông ấy là ông thánh và là vị anh hùng của cháu trong suốt cuộc đời này. 

- Thực tình ông ấy đã rũ sạch mọi ưu phiền rồi ! 

Cô Adams nói với sự cộc cằn của tuổi bà 

- Vậy thì cháu cũng muốn chết theo 

- CÔ không thấy việc đó sẽ có thể giúp được gì cho ông ấy 

- Cháu nghĩ rằng ông ấy sẽ có thể cảm thấy đỡ cô đơn. Sadle vừa nói vừa để cho cái cằm nhỏ nhắn mỹ miều của nàng trễ xuống. 

Trong sự im lặng trở lại, ông đại tá vố trán với một điệu bộ bối rối 

- Lạy Chúa tôi - ông kêu lên - Tôi phát điên lên 

Trong lúc ban đêm các người bạn phái nữ của ông đã thấy rõ là ông bị mê sảng, nhưng từ lúc tảng sáng ông có vẻ đã hồi phục tinh thần. Sự điên đảo vì cơn khủng 

họảng đột ngột này, các bà vẫn cố sẽ làm ông nguôi ngoai bằng những lời nói ngọt ngào 

- Điên rồi. tôi nói với các bà. Họàn toàn điên rồi! ông quát to lên với họ. Các bà có biết tôi vừa nhìn thấy cái gì không ? 

- Xin ông đừng sợ. Bà Belmont vừa trả lời vừa cho con lạc đà đi sát lại gần để dịu dàng đặt một bàn tay lên bàn tay ông. Không có gì là lạ về việc ông đã bị mệt mỏi. Ông đã không ngừng suy nghĩ và hành đông cho tất cả bọn chúng ta ! Chả mấy chốc chúng ta sẽ dừng chân, ngủ được một vài giờ sẽ làm ông hoàn toàn bình tĩnh. 

Nhưng ông đại tá lại nhìn lên trời và ông lại thốt ra một tiếng kêu kinh ngạc 

- Trong đời tôi, chưa bao giờ tôi nhìn thấy cái gì rõ ràng hơn nữa . ông làu bàu nói - Kìa trên mỏm núi ở phía tay phải chúng ta, ông Stuart khốn khổ với cái 

khăn phu-la đỏ của tôi quấn trên đầu, đúng hệt như lúc chúng ta rời xa ông ấy vậy. 

Ba người đàn bà ngẩng mặt nhìn về nơi mà ông đại tá chỉ họ. Và họ cùng thốt lên một tiếng kêu kinh hoàng Trên mạn bên phải của cái khe sâu khủng khiếp mà 

những con lạc đà đang leo lên, có một cái cạnh sắt đen ngòm chìa ra như một cái bao lơn có một chỗ nó nhô cao lên để tạo thành một thứ ngọn núi nhọn nhỏ. Và trên 

ngọn núi đó đứng sững một cái bóng đơn độc im lìm, y phuc họàn toàn màu đen, nhưng trên đầu lại đội khăn đỏ. Trong bãi sa mạc của nước Libye chắc chắn là không 

thể có hai cái bóng cùng to lớn và cũng thấp lùn như vậy, hai khuôn mặt cùng xanh xao như vậy ! Người đó cúi về phía trước và y hết sức chăm chú quan sát 

nơi đầu cùng của ngọn đèo. Người ta có thể nói đó là một bức hoạt họa của Napoléon! 

- Có thể nào đó là ông ta không? ông đại tá ấp úng. 

- Đúng là ông ấy. Đúng là ông ấy! Những người đàn bà xác nhận. Trông kìa, ông ấy nhìn về phía chúng ta và ông ấy ra hiệu cho chúng ta 

- Trời ơi? Chúng nó sẽ giết ông ấy! Cúi thấp xuống, đồ điên khùng. Nếu không các bà sẽ tự giết mình đó. 

Ông đại tá muốn gầm lên nhưng cổ họng ông khô quá không thể phát ra những tiếng gì khác ngoài tiếng oang Nhiều tên thầy tu cũng trông thấy như họ sự xuất 

hiện ly kỳ trên chóp núi; chúng đã cầm súng lên tay. Nhưng một cánh tay dài bất chợt giơ lên từ đằng sau vị mục sư ở Birmmgham. Một bàn tay nâu nắm lấy quần 

của ông, và ông biến mất như trong một trò ảo thuật.

Ngay ở phía dưới, tù trưởng Abderrahman, sau khi nhảy lên một tảng đá lớn, bắt đầu la hét và vung vẩy cánh tay. Nhưng những lời quát tháo của hắn bị chìm đi trong 

một loạt dài những tiếng súng bắn ra từ hai bên bờ khe sâu. Ngọn núi có hình một pháo đài có những nòng súng nhô ra, những khăn bịt đầu màu đỏ xõa xuống bên trên những cái cò súng. Cả về mạn đầu cùng của ngọn đèovà phía trước mặt, những tia lửa tóe lên kèm theo những tiếng nổ khô khan. Bị bắn lia lịa ở mặt trước và ở hai 

bên; bọn kẻ cướp bị rơi vào một ổ phục kích. Tên tù trưởng gục xuống; hắn lại đứng lên môt cách khó khăn. Một vết máu lấm hoen bẩn bộ râu dài của hắn. Hắn không 

ngớt khoa chân múa tay và ra thêm nhiều mệnh lệnh. Nhưng những người của hắn tản mát mọi nơi không tuân lệnh hắn. Có những tên lại tụt xuống khe sâu để tránh 

khỏi bị làm bia đỡ đạn. Trái lại, những tên khác thì bị đẩy về phía trước bởi những tên đi sau của đoàn người. Một vài tên tụt xuống đất và toan leo lên chân núi đá. 

gươm tuốt trần để xung phong lên chiếm pháo đài. Nhưng xác chúng bị trúng đạn chết lăn long lóc từ tảng đá này tới tảng đá nọ cho tới chân đèo. Sự tác xạ không được chính xác lắm, một tên da đen đã có thể đứng lên tận trên cao, mà không bị bắn trúng. nhưng một nhát báng súng đã đánh vỡ đầu hắn. Tên tù trưởng 

đã ngã từ trên tảng đá của hắn xuống và hắn nằm không nhúc nhích trên mặt đất như một đống giẻ rách màu trắng và nâu hạt dẻ. Khi một phân nửa bọn A Rập đã bị loại khỏi cuộc chiến, những tên cuồng tín nhất phải nhìn nhận rằng không không còn giải pháp nào khác ngoài việc cấp tốc ra khỏi cái khe núi của tử thần này và quay trở lại sa mạc. Vậy là chúng quay lại và phóng nước đại chạy đi trên đường đèo. Thật là một sự khủng khiếp khi một con lạc đà phi nhanh trên một đia hình lởm chởm gồ ghề

Sự kinh họàng đã chiếm hữu con vật. Bốn chân của nó cùng bay lên trên không trong một lúc. Những tiếng kêu rùng rợn của nó đi kèm theo những tiếng la hét của 

kẻ cưỡi nó đang nảy lên bên lưng nó. Tất cả những cảnh này kết hợp lại để tạo thành một hình ảnh mà những ai đã nhìn thấy một lần khó lòng quên được. Khi làn sóng những con lạc đà điên cuồng tràn qua trước mặt họ, mấy người đàn bà trông rằng gìơ phút cuối cùng của họ đã tới. nhưng ông đại tá đã đẩy con lạc đà của ông và những con của các bà vào gĩưa những tảng đá đen; phía bên ngoài những tên ả Rập đang rút lui. Những viên đạn rít lên trong không khí, rít lên trên những tảng đá chung quanh họ. 

- Hãy bình tĩnh! Chúng nó sẽ bỏ quên chúng ta. 

Ông đại tá thì thào nói. Ông đã trở lại là ông trong lúc này, lúc mà gìơ hành động đã điểm. Tôi rất muốn gặp Tippy Tilly hoặc một vài người trong đám bạn của y. Họ sẽ có thể giúp đỡ đắc lực cho chúng ta! 

Nhưng trong đám những kẻ chạy trốn đang phi nước đại trước mặt họ, ông không trông thấy người thủ pháo. May mắn thay, tất cả mọi người đều thấy rằng trong 

lúc vội vã rời khỏi khe núi, bọn thày tu đã không nghĩ tới những tù nhân của chúng nữa. Đại bộ phận của đoàn người đã đi xa rồl, chỉ còn môt vài tên tụt hậu phải chịu 

những loạt đạn bắn từ trên cao xuống. Tên cuối cùng là một tên baggara trẻ tuổl có ria mép đen và râu cằm để nhọn. Lúc đi qua hắn ngẩng đầu lên và tay vung gươm trong một điêu bộ bực tức mà không làm gì được nhắm vào những tên lính Ai Cập. Ngay lúc đó một viên đạn bắn trúng con lạc đà của hắn và con vật ngã 

quỵ trên mặt đất. Tên Ả Rập nhảy xuống đất, nắm lấy cái rọ mõm và lấy bản của thanh gươm đập một cách man rợ vào hông con lạc đà để bắt nó đứng lên. Nhưng 

cặp mắt lờ đờ của nó báo cho hắn biết rằng nó đã bị đánh đến chết. Mà ở trên sa mạc thì cái chết của một con lạc đà thường xảy ra ít lâu trước cái chết của người 

cưỡi nó. Tên baggara phóng ra chung quanh hắn những cái nhìn nảy lửa của con sư tử lúc cùng đường. Hai vết đỏ phơi ra trên nước da cam nâu của hắn. Nhưng hắn 

chẳng cau mày. Trông thấy các tù nhân hắn thốt lên một tràng kêu vui thích hung bạo và tung mình lại chỗ họ, tay vung vẩy thanh gươm trên đầu hắn. Cô Adams đứng ở gần hắn nhất. Khi bà thấy hắn xông tới, bà nhảy xuống khỏi lưng con lạc đà mà bà dùng làm vật để che chở cho bà. Tên ả Rập nhảy chồm lên một tảng đá và hắn muốn phóng một nhát đâm khủng khiếp vào bà Belmont nhưng ông đại tá đã chĩa súng luc của ông và bắn hắn phọt óc ra ngoài. Trong cơn tức giận điên dại, còn dữ dội hơn sự hấp hối của cái chết, tên A Rập tuy đã ngã xuống đất rồi mà vẫn tiếp tục dãy dụa trong một lúc và chém vung vít những nhát gươm vào không khí 

- Xin các bà đừng sợ nữa! ông đại tá nói lớn - Hắn chết thật rồi, tôi đoán chắc với các bà thế, tôi rất áy náy là đã tiến hành sự hành quyết hắn ở trước mặt các bà, nhưng con quỷ này rất nguy hiểm. Hơn nữa tôi cũng có một món nợ nhỏ phải thanh toán vớt hắn, vì hôm nọ hắn đã toan đâm thủng mạng sườn của tôi bằng khẩu rertlington của hắn. Tôi hy vọng rằng bà không tự gây thương tích cho mình chứ, bà Adams. Đợi một lát, tôi leo xuống. 

CÔ gái già Boston không hề hấn gì vì cô phòng bị ngã quá cao. Sadle, bà Belmont và đại tá Cochrane tự để mình tuột xuống trên những tảng đá. Bà Adams đứng thẳng người, vung vẩy một cách đắc thắng những mảnh còn lại của tấm khăn mỏng xanh lục của bà 

- Hoan hô Sadle? Hoan hô cô cháu cưng của ta ! Bà kêu to, chúng ta đã được giải cứu rồi. con ạ ! Dù sao thì chúng ta cùng đã được giải cứu rồi! 

- Nhờ ơn trên, đúng, chúng ta đã được giải cứu 

ông đại tá kêu lớn 

Nhưng Sadle đã học được lối nghĩ tới ngườii khác trong những ngày khủng khiếp này. Nàng ôm lấy bà Belmont và áp má nàng vào má của bà 

- ôi vi thần yêu quý của sự dịu hiền. nàng kêu lên. Làm sao mà chúng tôi còn có bụng dạ để vui đùa khi 

- Nhưng tôi không tin một tí gì về chuyện đó ! Người đàn bà dũng cảm xứ ái Nhĩ Lan trả lời nàng - Không. tôi không tin một chút nào về chuyện đó khi mà tôi 

chưa nhìn thấy xác của John. Nhưng nếu tôi trông thấy xác anh ấy thì cuộc đời tôi sẽ không muốn trông thấy một cái xác nào khác nữa! 

Lúc này khe núi đã được quét sạch hết những tên thầy tu cuối cùng. Phía bên trên đầu họ, trên hai vách cao của đường đèo, họ trông thấy những người Ai Cập: cao lớn, mảnh khảnh với những cái vai vuông vắn. Họ hiện rõ nét trên nền trời xanh và họ họàn toàn giống như các chiến binh được cham trổ trong các bức phù điêu 

cổ xưa. Họ đã buộc những con lạc đà của họ ở đáy khe sâu và họ vội vã đi gặp chúng. Một vài người lính đã bắt đầu đi vào đường đèo. Mắt họ sáng rực lên với sự 

khích động của chiến thắng và của sự truy kích. Một người Anh nhỏ thó với một bô ria mép hoe vàng và một vẻ lì lợm cưỡi lạc đà đi dẫn đầu ông dừng con lạc đà lại 

vào ngang tầm với các cựu tù nhân và chào các bà. Ông mang giày ống nâu và một dải đeo kiếm màu hung hung với những cái móc bằng thép trên bộ quân phục kaki 

- Lần này người ta đã tóm được chúng, và đã tóm khá tốt! - ông nói - Dĩ nhiên là rất vui thích đã có thể gíup đỡ được quý vị. Tôi hy vọng rằng các bà không đến nỗii vất vả lắm để thoát nạn. Đây không phải là môn thể thao rất dễ chịu đối với các bà. 

- Tôi đoán rằng ông ở Ouadl - Haifa phải không ? 

ông đại tá hỏi 

- Không. Chúng tôi thuộc về một toán khác. Chúng tôi là đội trú phòng ở Sarras. Chúng tôi đã gặp chúng trong ở mạc, chúng tôi đã đi vòng về phía trước chúng 

và toán ở Ouadl - Haifa thì chờ chúng ở phía sau. Tôi xin nói với ông. Hãy leo lên các tảng đá và ông sẽ nhìn thấy sự tiếp diễn của các trận đánh. Lần này sẽ là một trận hạ đo ván trong một hiệp duy nhất. 

- Chúng tôi còn bỏ lại ở chỗ những giếng nước một bộ phận của nhóm chúng tôi. Chúng tôi rất lo lắng cho số phận của họ ông không có tin tức nào về mạn áy à? 

Cochrane hỏi 

Viên sĩ quan trẻ trở nên nghiêm trọng và lắc đầu 

- Một chuyện bẩn thỉu - ông ấy nói - Khi ông đẩy những ngườl đó tới chỗ đường cùng, họ trở nên độc ác. Hãy để cho tôi nói với ông rằng chúng tôi tuyệt nhiên 

không nghĩ là sẽ tìm thấy các ông còn sống. Tất cả những gì chúng tôi hy vọng chỉ là trả thù cho các ông 

- Không có người Anh nào khác đi với ông à ? 

- Archer chỉ huy chi đội đang ở trên kia kìa. Ông ấyy sẽ phải đi qua đây, vì tôi không tin rằng còn có con đường nào khác để đi xuống. Chúng tôi đã lượm được 

một người đồng bọn các bạn ông: một con chim ngộ nghĩnh với một cái mũi đỏ. Tôi hy vọng sẽ gặp lại ông sau này! Hẹn tái ngộ, thưa quý Bà! 

Ông cầm lấy cái mũ cứng của ông, dắt con lạc đà và phi nước kiệu để bắt kịp những binh lính của ông 

- Chúng ta không còn gì để làm tốt hơn là chờ cho mọi việc qua đi - ông đại tá nói 

Quả thực những quân lính phục kích trên các đỉnh vách đèo đều phải mượn đường đèo để đi ra. Đi theo hàng một, họ tiến bước, da đen hay da nâu, người Soudan 

và người Ai Cập, nhưng tất cả bọn họ đều có phong thái đẹp vì đạo quân lạc đà là đạo quân ưu tú của quân đội Ai Cập. Họ đeo một bao đạn lên trên ngực và khẩu súng ngang đùi. Một người đàn ông thân mình to lớn với bộ ria mép đen rậm nhìn xuống, ống nhòm cầm trong tay và cưỡi lạc đà đã đoạn hậu. 

- Hê-lô, Archer! ông đại tá gọi 

Viên sĩ quan nhìn vào mắt ông với một cái nhìn lạnh lùng trống rỗng như thể ông đại tá là người hoàn toàn xa lạ với ông ta 

- Tôi là Cochrane đây này! Chúng ta đã cùng đi du ngoạn với nhau . 

- Thưa ông, xin thứ lỗi - viên sĩ quan trả lời - Tôi có biết một đại tá Cochrane, nhưng không phải là ông, ông ấy cao hơn ông mười phân, tóc đen, và .. 

- Rất đúng - ông đại tá nói lớn, trong lòng không khỏi bực bội - Hãy sống vài ngày với bọn thày tu Hồi giáo, rồi ông sẽ thấy sau đó các bạn bè của ông có nhận 

ra ông không ? 

- Trời ơi. Cochrane. Đúng là ông thật à ? Chả bao giờ tôi lại tin là có chuyện này! Lạy Chúa, nỗi thống khổ của ông mới tệ hại làm sao! Tôi đã từng nghe nói nhiều người có thể bạc đầu trong một đêm. Nhưng … 

- Được rồi - ông đại tá cắt ngang câu nói, mặt dỏ bừng - Cho phép tôi được đề nghị điều này, ông Archer ạ. Nếu ông có thể kiếm cho các bà này thứ gì để ăn và 

thứ gì để uống, thay vì bàn cãi về thể chất của cá nhân tôi thì ông sẽ chứng tỏ là ông không thiếu tinh thần thực tế. 

- Được lắm - đại úy Archer ưng thuận - ông ban Stuart của ông biết là ông ở đây và ông ấy sẽ mang một ít lương thực tới cho ông và các bà. Thức ăn sẽ ít thôi, 

thưa các bà. Nhưng chúng tôi không thể cống hiến thứ gì tốt hơn cho các bà. Ông Cochrane, ông là một quân nhân già. Xin ông hãy leo lên các tảng đá. vì ông sẽ 

nhìn thấy một cảnh đẹp. Tôi không có thì gìơ dừng lại, vì trong năm phút nữa chúng tôi sẽ tham chiến toàn bộ. Tôi có thể làm việc gì khác nữa cho ông trước khi lên đường không ? 

- Ông không có cái gì giống như một điếu xì gà à? ông đại tá hỏi 

Archer lấy từ trong cái túi da của ông ra một gói thuốc Paraga dày cộm và đưa cho ông cùng với mấy que diêm; rồi ông đi khỏi để nhập bọn với những người của ông. Cochrane ngồi dựa lưng vào một tảng đá, rít điếu xì gà một cách say sưa. Chính trong những lúc như thế này những dây thần kinh bị quá căng thẳng mới thấy 

biết ơn tất cả những đức tính của thuốc lá, thứ thuốc an thần đáng yêu này là thứ đã vừa tăng cường, vừa trấn an. Trong một lúc ông nhìn những vòng khói lãng đang 

xoay lòng vòng chung quanh ông, một sự uể oải dễ chịu chiếm ngự cái thân thể mệt mỏi của ông. Ba người dàn bà thì ngồi trên một tảng đá phẳng 

- Lạy Chúa, Sadie này. Cháu có vẻ thế nào nhỉ? 

CÔ Adams nói. cô đã hoàn toàn trở lại chính là cô. Mẹ cháu sẽ nói gì nếu bà ấy trông thấy cháu? Cháu có mái tóc đầy rơm rác và áo dài của cháu thật là quá bẩn thỉu 

đến phát sợ lên. 

- Cháu nghĩ là tất cả bọn chúng ta đều cần tắm rửa một chút. Sadle nói với một giọng mà sự êm dịu làm cho không ai nhận ra tiếng của nàng. Bà Belmont, 

lúc nào bà cũng xinh đẹp, nhưng xin bà cho phép tôi sắp lại cái áo dài cho bà . 

Cái nhìn của bà Belmonl đã bị chìm đi trong khoảng xa xăm. Bà lắc đầu một cách buồn bã và đẩy bàn tay của Sadle ra. 

- Tôi có vẻ ra sao cũng không có gì quan trọng tôi không nghĩ tới điều đó. - bà nói - Liệu cô có thể bận tâm về cái áo dài của cô, nếu cô đã bỏ lại sau lưng cô 

người đàn ông mà cô yêu quý. Như tôi đã bỏ lại người yêu quý của tôi không? 

- Tôi đã bắt đầu, Tôi đã bắt đầu nghĩ rằng tôi đã bỏ lại người đàn ông yêu quý của tôi - Cô Sadle khốn khổ nức nở khóc 

Và nàng giấu khuôn mặt nóng bỏng của nàng vào lòng lẻn mẫu của bà Belmont. 

***

Chương 10 (chương kết)

Tất cả đạo quân lạc đà đã diễn hành trong khe núi mở cuộc truy kích bọn thầy tu Hồi giáo đang tháo lui . Trong một vài phút, những người được giải cứu đứng lại một mình. Nhưng chẳng mấy chốc một tiếng nói vui vẻ 

gọi họ. Một cái khăn quàng đầu màu đỏ đang nhảy nhót giữa những tảng đá, và cái đầu lạc đà to phè của vị mục sư bất phục quy tắc hiện ra. Ông tựa mình trên một ngọn glâo vì cái chân bị thương của ông, và cái nạng kiểu nhà binh này kết hợp với bộ y phục hòa bình của ông đã cho ông một hình thù bất tương hợp: người ta tưởng tượng đến một con cừu bỗng nhiên mọc ra những móng vuốt khủng khiếp. Hai tên da đen đi theo ông vác một cái lồ và một túi da đựng nước. 

- Ðừng nói gì cả! Ông nói lớn với họ, trong khi cập cẫng đi tới chỗ họ. Tôi biết một cách chính xác những gì các vị đang nghĩ ngợi. Chính tôi cũng đã ở trong trường hợp các vị. Ðem nước lại đây, Ali! Chỉ có nửa chén thôi, bà Adams ạ; các vị sẽ có thể uống thêm, một lát nữa đây. Ðến lượt bà, bà Belmont! Lạy Chúa, lạy Chúa, những linh hồn khốn khổ, tôi đau lòng biết bao vì các vị! Trong cái lồ có bánh và thịt, nhưng các vị nên ăn vừa phải khi mới bắt đầu... 

Ông khúc khích cười vui thích, ông vỗ tay trong khi nhìn họ ăn và uống. 

- ...Còn những người khác? Ông hỏi với tất cả vẻ nghiêm trọng vừa lấy lại của ông. 

Ông đại tá lắc đầu: 

- Chúng tôi đã bỏ họ ở lại chỗ những cái giếng. Tôi sợ rằng tất cả đều đã kết liễu với họ. 

- Suỵt, suỵt! Vị mục sư kêu lên với một giọng vang tai như muốn làm cho mọi người quên đi sự bối rối hiện ra trên nét mặt ông. Tất nhiên các vị cũng đã nghĩ là tất cả đều đã kết thúc với tôi rồi; thế mà tôi vẫn còn đây. Bà Belmont, chớ mất can đảm! Chắc chắn là số phận của ông chồng bà không tuyệt vọng hơn số phận của tôi đâu. 

- Khi tôi trông thấy ông đứng trên mỏm núi kia, tôi cứ tưởng rằng tôi bị mê sảng, ông đại tá nói. Nếu các bà đây đã không nhận ra ông như tôi thấy, thì không bao giờ tôi dám tin vào cặp mắt của tôi. 

- Tôi nghĩ rằng tôi đã xử sự rất tệ. Ðại úy Archer nói rằng suýt nữa tôi đã làm hỏng tất cả các kế hoạch của họ, rằng tôi đáng bị đưa ra hội đồng chiến tranh và bị xử bắn. Sự việc là khi tôi nghe thấy bọn Ả Rập đi qua ở phía dưới, tôi đã không thể kháng cự lại ý muốn biết xem các bạn cũ của tôi có cùng đi với chúng không? 

- Tôi hết sức kinh ngạc thấy rằng ông đã không bị xử bắn bên ngoài mọi hội đồng chiến tranh, ông đại tá nói. Ma quỷ đưa đường thế nào mà ông đến được đây? 

- Ðội quân lạc đà ở Quadi - Halfa đã tung ra đi theo con đường mòn của chúng ta lúc tôi bị bỏ lại, và họ đã nhặt được tôi trong sa mạc. Tôi đoán rằng tôi đã bị mê sảng, vì họ nói rằng họ đã nghe thấy tiếng tôi từ rất xa: hình như tôi đã gân cổ lên mà hát những bài thánh ca và thánh thi; chính là tiếng của tôi, với sự phù trợ của thượng đế, đã hướng dẫn họ tới chỗ tôi. Họ có một trạm cứu thương trên một con lạc đà; sáng hôm sau thì tôi bình phục. Chúng tôi bắt liên lạc với quân trú phòng ở Sarras, và tôi lại đi cùng với họ, vì có một y sĩ đi theo họ. Vết thương của tôi không hề hấn gì cả. Viên y sĩ khẳng định với tôi rằng tôi sẽ khỏe mạnh rất nhiều hơn sau vụ mất máu này. Và bây giờ các bạn ... 

Cặp mắt nâu, lớn của ông đã mất đi sự ranh mãnh và làm ra vẻ nghiêm trang, kính cẩn. 

- ...Tất cả bọn chúng ta đều ở trên ngưỡng cửa của tử thần, và những người bạn đồng hành thân mến của chúng ta có lẽ ngay cùng lúc đó cũng giống như chúng ta. Cái quyền lực đã cứu vớt chúng ta có thể cũng đã cứu vớt họ. Chúng ta hãy cùng nhau cầu nguyện cho sự việc được như vậy. Nhưng chúng ta phải luôn luôn nhớ rằng, nếu bất kể những lời cầu nguyện của chúng ta, sự việc không được như vậy, thì chúng ta sẽ phải chấp nhận sự thật như là quyết định hoàn hảo nhất và khôn ngoan nhất của đấng bề trên. 

Ở giữa những tảng đá đen ngòm, tất cả năm người bọn họ đều quỳ xuống, và họ cầu nguyện như thể vài người trong bọn họ chưa từng bao giờ cầu nguyện trước đây. Thật thế, bàn luận về việc cầu nguyện với sự hời hợt và hoàn toàn có tính cách triết lý trên boong tàu Korosko là điều rất lý thú. Và thật không khó khăn gì để cảm thấy mình dũng mãnh và đầy lòng tự tin trong một cái ghế bành êm ái, trong lúc một tên Ả Rập đi quanh bàn dâng cà phê và rượu ngọt. Nhưng khi bất thần bị ném ra ngoài dòng đời bình lặng, họ bị tổn thương trước những sự thật khủng khiếp, rùng rợn của cuộc đời. Bị suy sụp vì nhọc mệt và sợ hãi, họ thấy cần phải bám víu vào một cái gì đó. Tin tưởng vào một định mệnh mù quáng và khắc nghiệt thật là khủng khiếp. Một quyền lực của sự nhu hòa, thao tác với trí thông minh nhằm vào một mục đích, một quyền lực sinh động, hữu hiệu, tách họ ra khỏi những lề lối tư tưởng thường nhật, trừ bỏ những thói quen bè phái nhỏ nhặt của họ, dẫn dắt họ vào một con đường tốt đẹp hơn, đó là những gì họ đã học và biết được trong những ngày kinh hoàng này. Những bàn tay vĩ đại đã khép lại trên con người họ, đã tạo cho họ những hình dạng mới, đã chuẩn bị cho họ đi vào một cuộc sống khác. Liệu cái quyền lực đó sẽ có thể không để tự mình mềm lòng bởi những sự van nài của con người không? Nó là tòa phúc thẩm tối cao mà loài người đau khổ có thể kêu cầu. Ðó là lý do tại sao tất cả bọn họ đều cùng nhau cầu nguyện, cũng như một gã si tình yêu đương hay một thi sĩ viết thơ với niềm sâu thẳm nhất của tâm hồn họ. Khi họ đứng dậy, họ nghiệm thấy cái cảm giác đặc biệt, phi lý của sự yên bình nội tâm và sự mãn nguyện mà chỉ có sự cầu nguyện mới có thể ban cho họ. 

- Im lặng! Cochrane nói. Hãy lắng nghe! 

Tiếng vang của một loạt súng lan ra trong khe núi hẹp. Nó được tiếp theo bởi một loạt khác, và nhiều loạt nữa. Ông đại tá dậm chân tức tối như một con ngựa già khi nghe thấy tiếng kèn săn và những tiếng sủa của đàn chó săn. 

- Chúng ta có thể trông thấy những gì đang diễn ra ở nơi nào? 

- Hãy tới đây! Tới đây, nếu ông vui lòng! Một con đường nhỏ leo lên tới đỉnh núi. Nếu các bà muốn theo tôi, tôi sẽ tránh cho các bà khỏi phải nhìn một cảnh tượng đau lòng. 

Ông mục sư dẫn các bà theo một cách để các bà không nhìn thấy những xác chết nằm ngổn ngang dưới đáy khe sâu. Từ bên trên các mỏm núi, toàn cảnh thật khác thường. Ở dưới chân họ là bãi sa mạc trải dài ra với những đợt lượn sóng; nhưng ở lớp thứ nhất đang diễn ra một cảnh mà chắc chắn là không bao giờ người ta quên được. Trong cái ánh sáng trong trẻo và khô khan này, trên một cái nền màu hung hung, những cái bóng người hiện ra cũng rõ ràng như những anh lính bằng chì trên một cái bàn vậy. 

Những tên thầy tu, hoặc đúng hơn là những kẻ còn lại, rút lui một cách chậm chạp thành một đám đông hỗn độn. Chúng không có vẻ gì là những kẻ bại trận. Những sự di chuyển của chúng được tính toán; nhưng chúng đã không ngừng thay đổi đội hình có vẻ như chúng đang ngập ngừng về chiến thuật phải theo. Sự rối rắm của chúng là chuyện bình thường thôi, vì những con lạc đà của chúng đều mệt lử, và chúng đang ở trong một tình thế gần như tuyệt vọng. Còn về phần những người ở Sarras, thì họ đã từ trong khe núi ùa ra, nhảy xuống đất và buộc những con lạc đà của họ từng nhóm bốn con một; các xạ thủ dàn ra thành một hàng dài, bao quanh là một làn khói; họ bắn hết loạt này tới loạt khác. Bọn Ả Rập chống trả một cách rời rạc. Nhưng những người đứng xem không còn quan tâm nhiều tới bọn thầy tu hay tới các xạ thủ ở Sarras nữa. Ở đằng xa trên bãi sa mạc, ba chi đoàn thuộc đạo quân lạc đà ở Quadi - Halfa đang tiến lên trong một đoàn dày đặc để rồi trong chốc lát mở rộng ra để làm thành một vành bán nguyệt lớn. Bọn Ả Rập bị kẹp vào giữa hai hỏa lực. 

- Lạy Chúa! Ông đại tá kêu lên. Hãy nhìn xem kìa. 

Trong cùng một lúc, những con lạc đà của bọn thầy tu đều quỳ xuống, và những người cưỡi trên lưng chúng nhảy xuống đất. Ở hàng đầu, đứng sừng sững cái bóng uy nghi của tù trưởng Wad Ibrahim. Y quỳ xuống một lát để cầu nguyện. Rồi y đứng lên, lấy một vật gì từ cái yên ra, đặt vật đó một cách thận trọng trên bãi cát và đứng lên trên, đứng rất ngay ngắn. 

- Một người dũng cảm! Ông đại tá kêu lên - Y đứng lên trên tấm da cừu của y. 

- Ông hiểu ra sao về việc này? Stuart hỏi. 

- Tất cả những người Ả Rập đều có một miếng da cừu để trên yên của họ. Khi một người Ả Rập thấy rằng tình thế của y đã hoàn toàn tuyệt vọng, và khi bất chấp mọi điều y cương quyết chiến đấu cho tới hơi thở cuối cùng, y lấy miếng da cừu ra và đứng lên nó cho tới khi chết. Nhìn kìa, tất cả bọn chúng đều đứng trên những miếng da cừu của chúng. Lúc này không có sự khoan dung của bên này hay bên kia! 

Màn kịch đến gần đoạn kết một cách nhanh chóng. Một vòng khói và lửa bao quanh những tên thầy tu Hồi giáo đang quỳ gối, chúng chống trả tận lực. Gọng kìm xiết lại. Bọn Ả Rập đã bị mất nhiều người, bọn còn lại tiếp tục bắn với một sự anh dũng bất khuất. Hơn mười cái xác bận đồ kaki đã chứng thực rằng những người Ai Cập cũng phải trả giá cho chiến thắng của họ. Một hồi kèn nổi lên trong đám quân lính ở Sarras; một hồi khác đáp lại trong đám quân lạc đà ở Quadi - Halfa. Những người này đã nhảy xuống đất và xếp thành hàng ngũ. Sau loạt súng cuối cùng, họ đi theo nhịp bước xung kích, trong khi thốt lên những tiếng la man rợ mà những dân da đen đã du nhập từ những miền bao la hoang dã của Phi Châu. Trong một phút, một cơn cuồng phong thật sự đã trộn lộn những ngọn giáo và những báng súng ở giữa một đám mây bụi mờ mịt. Rồi những tiếng kèn lại nổi lên. Nhưng binh lính Ai Cập lùi lại ngay tức thì để bố trí lại đội hình với sự quyết định nhanh chóng của một đạo quân có kỷ luật. Ở giữa bãi chiến trường, những tên cướp và tên chỉ huy của chúng nằm bất động, mỗi tên trên mảnh da cừu của hắn. Thế kỷ thứ mười chín đã trả thù cho thế kỷ thứ bảy. 

Ba người đàn bà đã nhìn quang cảnh với những con mắt đờ đẫn, kinh hoàng. Sadie và cô nàng khóc sướt mướt. Ông đại tá quay lại phía họ để nói một vài lời khích lệ, nhưng ông im tiếng trước vẻ mặt của bà Belmont, mặt bà cũng trắng bệch, cũng căng thẳng như thể được khắc trong một miếng ngà; bà có một cái nhìn không chớp mắt như thể là bà đang ở trong tình trạng xuất thần. 

- Trời ơi, bà Belmont, bà làm sao vậy? ông đại tá kêu lên. 

Thay cho câu trả lời, bà chỉ một chấm nhỏ trên sa mạc, ở đằng xa, ở nhiều cây số cách nơi giao tranh, một toán nhỏ những kỵ binh đang tiến tới. 

- Ðồ mắc dịch, đúng rồi! Kia có người đi tới. Họ là ai vậy?... 

Họ cố căng mắt lên mà nhìn, nhưng khoảng cách quá xa. Họ chỉ biết được một điều: đó là chừng hơn một chục người cưỡi lạc đà. 

- Ðó là những con quỷ dữ ở lại trong ốc đảo, Cochrane nói. Không thể là người nào khác. Niềm an ủi duy nhất của chúng ta là chúng sẽ không thể tránh khỏi số phận đang chờ đợi chúng. Chúng đang lao đầu vào tử địa. 

Nhưng bà Belmont vẫn tiếp tục nhìn với cùng một sự khẩn trương và cùng một nét mặt bằng ngà. Thình lình bà thốt lên một tiếng kêu vui thích và vung vẩy hai bàn tay. 

- Ðúng là họ rồi! Họ được giải cứu rồi! Ðúng là họ, ông đại tá, đúng là họ! Ôi, bà Adams, đúng là họ! 

Bà chạy nhảy lăng quăng trên đỉnh đồi. Mắt bà sáng rực lên như mắt một đứa trẻ đang bị khích động. 

Các bạn đồng hành của bà không muốn tin lời bà, vì họ không nhìn ra một vật nào chính xác cả; nhưng trong một vài trường hợp các giác quan của chúng ta trở nên sắc bén lạ thường. Người ta bảo rằng linh hồn và tâm trí đã ban cho chúng tất cả nguyên khí. Bà Belmont đã đi xuống con đường nhỏ gồ ghề đá sỏi để leo lên con lạc đà của bà, nhưng các bạn của bà vẫn chưa thấy điều gì đã mang lại cho bà tín điệp vui mừng này. Tuy nhiên, cuối cùng thì họ cũng phân biệt được trong nhóm người đang tiến tới ba cái chấm trắng long lanh dưới ánh mặt trời: ba chấm trắng đó chỉ có thể là ba cái mũ của những người âu. Ðến lượt họ, ông đại tá, bà Adams và Sadie đều đổ xô tới: họ nhận ra Belmont, Fardet, Stephens, anh thông ngôn Mansoor và người lính Soudan bị thương. Ðoàn hộ tống cùng đi với họ gồm có Tippy Tilly và những cựu quân nhân Ai Cập khác. Belmont ngả vào hai tay bà vợ ông; Fardet nắm lấy tay ông đại tá. 

- Nước Pháp muôn năm! Những người Anh muôn năm! Ông la lớn. Mọi sự đều tốt đẹp, có phải không, đại tá? A, lũ chó má! Cây thánh giá và những người cơ đốc giáo muôn năm! 

Sự vui mừng làm cho ông hoàn toàn mất hết mạch lạc trong những lời nói. 

Ông đại tá cũng tràn trề hồ hởi trong phạm vi mà bản chất của dân Anh Cát Lợi đã cho phép ông. Ông không thể khoa chân múa tay; nhưng ông bắt đầu cười khành khạch, đó là một chỉ dẫn của sự xúc cảm tột độ của ông. 

- Ông bạn thân, tôi rất hài lòng được gặp lại tất cả các ông. Tôi đã coi như các ông bị chết cả rồi. Chưa bao giờ tói được sung sướng thế này! Làm cách nào mà các ông đã có thể thoát nạn? 

- Chính ông đã làm tất cả mọi việc! 

- Tôi à? 

- Phải, ông bạn ơi, và khi tôi nghĩ tới việc tôi đã cãi vã với ông! Tôi thật là một kẻ vô ơn khốn nạn! 

- Nhưng tôi đã cứu ông bằng cách nào? 

- Ông đã bày mưu tất cả với anh chàng Tippy Tilly dũng cảm này, bằng cách hứa cho y tiền nếu y đưa chúng ta còn sống trở lại Ai Cập! Nhờ có bóng đêm, các bạn của y và y đã lẻn vào khu rừng cây cọ và họ ẩn núp ở đó. Khi ông đi rồi, họ đã bò tới với những khẩu súng và họ đã hạ sát những kẻ sắp hành quyết chúng tôi. Cái tên thầy giảng chết tiệt đó, tôi tiếc rằng họ đã giết hắn! Tôi tin rằng tôi sẽ có thể cải đạo cho hắn sang cơ đốc giáo. Và bây giờ, xin óng cho phép tôi được chạy tới ôm lấy cô Adams, vì Belmont đã có vợ của ông ấy, Stephens có Sadie; vì thế tôi thấy rõ ràng là cảm tình của cô Adams sẽ dành cho tôi 

Mười lăm ngày sau, chiếc tàu thủy được thuê riêng cho những người được cứu thoát đang vượt sóng ở phía Bắc Assiout. Sáng hôm sau họ phải tới Beliani, rồi từ đó đi tàu tốc hành tới Le Caire. Do đó đây là buổi tối cuối cùng mà họ chung sống với nhau. Bà Shlesinger và đứa con của bà, những người mới tránh khỏi những viên đạn của bọn Ả Rập, đã được đưa tới biên giới rồi. Cô Adams đã bị ốm nặng sau những ngày thiếu thốn, đói khát, và đây là lần đầu tiên cô được phép lên boong tàu sau bữa ăn tối. Cô ngồi trên một cái ghế dài, người gầy hơn, khắc khổ hơn, nom khả ái hơn bao giờ hết. Sadie đứng bên cô, choàng một cái mền lên vai cô. Ông Stephens mang cà phê tới và đặt nó trên một cái bàn nhỏ. Ở mạn bên kia boong tàu, Belmont và bà vợ ông đang ngồi, yên lặng và vui vẻ. Ông Fardet đứng tựa lưng vào bao lơn, ta thán về sự lơ là của chính phủ Anh trong việc tuần tra trên biên giới Ai Cập. Ông đại tá đứng trước mặt ông ta, người rất phẳng, và cái đầu có lửa của điếu xì gà lập lòe dưới hàng ria mép của ông. 

Nhưng điều gì đã xảy ra với ông đại tá? Bất cứ ai đã nhìn thấy người đàn ông già đã bị suy sụp trong bãi sa mạc Libye này cũng không thể nhận ra ông. Tất nhiên là bộ ria mép vẫn lốm đốm bạc, nhưng mái tóc của ông đã lấy lại màu đen bóng, cái màu đã gây được sự cảm mến của tất cả mọi người trong chuyến đi của cuộc hành trình. Lúc trở về tới Ouadi - Halfa, với một bộ mặt trơ như đá và một sự lạnh lùng hiếm thấy, ông đã tiếp nhận rất nhiều lời ủy lạo liên quan tới các hậu quả của thời gian ông sống với những tên thầy tu Hồi giáo. Rồi ông chạy về tự nhốt kín mình trong phòng của ông. Một giờ sau ông trở ra giống hệt như con người ông trước lúc bị cắt đứt hết mọi nguồn tiếp tế của nền văn minh. Và ông đã nhìn tất cả những ai đối diện với ông bằng một cách mà không ai dám đưa ra một nhận xét nhỏ nhoi nào về cái kỳ tích hiện đại này. Từ lúc này người ta chỉ có thể nói rằng nếu ông đại tá phải chạy, dù chỉ một trăm mét thôi, trong bãi sa mạc, thì ông vẫn mang theo trong cái túi bên trong áo ngoài của ông một cái chai đen nhỏ có dán một cái nhãn màu hồng. Nhưng những ai đã biết ông trong các tình huống mà một người đàn ông phải tự bộc lộ hoàn toàn thì đều nói rằng viên sĩ quan già đã có một trái tim và một trí óc trẻ trung, đó là một điều rất tự nhiên khi ông cố giữ những màu sắc trẻ trung. 

Trên boong tàu, sự yên tĩnh, sự ngưng nghỉ mới hoàn hảo làm sao! Không một tiếng động nào khác ngoài tiếng bì bọp của nước đập vào thành tàu. Những ánh phản quang đỏ cuối cùng của mặt trời lặn đang phản chiếu lại trong con sông. Những người được giải cứu nhìn thấy những con cò đứng một chân trên rìa những bờ sông lầy cát. Xa hơn nữa, những cây cọ đứng xếp hàng, thành một đám rước uy nghi. Những ngôi sao bạc còn lấp lánh; cũng chính những ngôi sao trong sáng, trầm lặng, tàn nhẫn mà họ vẫn thường ngước mắt lên nhìn trong những đêm dài của sự thống khổ của họ. 

- Bà Adams, bà xuống nơi nào ở Le Caire? Bà Belmont hỏi. 

- Tôi nghĩ là ở khách sạn Shepheard. 

- Còn ông, ông Stephens? 

- À, chắc chắn là ở khách sạn Shepheard rồi! 

- Chúng tôi xuống khách sạn Continental. Tôi hy vọng rằng chúng ta sẽ không mất liên lạc với nhau. 

- Bà Belmont ạ, không bao giờ tôi quên được bà, Sadie nói lớn. À, chắc bà sẽ phải tới Hoa Kỳ! Chúng tôi sẽ chuẩn bị cho bà một chuyến ở chơi tuyệt mỹ! 

Bà Belmont cười với sự duyên dáng cố hữu của bà. 

- Chúng tôi có những nhiệm vụ ở Ái Nhĩ Lan, và chúng tôi đã lơi là chúng từ ít lâu nay. Chồng tôi có việc của ông ấy, còn tôi thì tôi có căn nhà của tôi, và mọi việc đều hỏng cả. Hơn nữa, bà nói thêm với một giọng ranh mãnh, nếu chúng tôi đi Hoa Kỳ, rất có thể chúng tôi sẽ không gặp cô ở đó. 

- Tất cả bọn chúng ta sẽ phải lại gặp nhau nữa, Belmont nói, dù là chỉ để nói chuyện lại chút ít về những cuộc phiêu lưu của chúng ta. Việc này sẽ dễ dàng hơn trong một hay hai năm. Chúng vẫn còn rất gần gũi mà. 

- Tuy nhiên đối với tôi chúng có vẻ xa xôi lắm! Tôi thấy chúng như là một cơn ác mộng, bà vợ ông nói. Ðấng tối cao đã nhủ lòng thương làm nguôi đi những kỷ niệm đau buồn! Tôi có cảm tưởng là đã sống qua tất cả biến cố này trong một kiếp tiền sinh. 

Fardet giơ cái cánh tay mà chỗ cổ tay còn bị quấn băng lên. 

- Thể xác không thể cũng quên nhanh được như tinh thần, ông nói. Bà Belmont ạ, vụ này không có gì là một cơn ác mộng cả! 

- Thật là một điều tai hại khi một vài người được giải cứu và nhữmg người khác thì không! Sadie nói lớn. Chỉ cần có ông Brown và ông Headingly có mặt ở đây với chúng ta là tôi không còn ân hận gì nữa? Tại sao họ lại bị giết, mà không phải là chúng ta? 

Ông Stuart khập khiễng trên boong tàu đi tới, trong tay ông cầm một quyển sách lớn mở ngỏ. 

- Tại sao cái trái cây chín bị hái, và trái cây xanh thì bỏ lại? Ông nói để trả lời tiếng than van của cô thiếu nữ. Chúng ta không biết gì về tình trạng tinh thần của hai người bạn thân yêu, bất hạnh bị mất tích đó, nhưng người thợ làm vườn vĩ đại đã hái các trái cây của Ngài theo như sự hiểu biết của chính Ngài. Tôi xin đọc đoạn này để các bạn nghe... 

Một cây đèn được đặt trên bàn, ông ngồi bên cây đèn. Ánh sáng vàng vọt soi sáng cặp má đồ sộ của ông và những đoạn màu đỏ của quyển sách. Cái giọng mạnh mẽ, trầm tĩnh của ông làm át cả tiếng nước rì rào. 

- ..."Cầu xin phước lành cho họ, những người mà Chúa đã chuộc lại và giải thoát khỏi tay kẻ thù và tái hợp lại ở phương Ðông, ở phương Tây, ở phương Bắc và ở phương Nam. Họ đã bị lạc lõng trong sa mạc và họ đã không tìm thấy nơi trú chân tại đó. Bị đói, bị khát, họ đã mất can đảm và linh hồn họ đã suy sụp trong người họ. Vì vậy họ đã cầu khẩn Chúa, và Chúa đã giải thoát họ khỏi cơn hoạn nạn. Ngài đã dắt họ trên con đường thiện hảo, ngõ hầu họ có thể tìm lại thiên quốc, nơi mà họ đã từng cư ngụ. Ôi, cầu cho những người này có thể ca ngợi Chúa vì từ tâm của Ngài, và loan truyền các kỳ tích mà Ngài đã hoàn thành cho những con cái của loàn người!... " 

Vị mục sư gập sách lại. 

- ...Hình như những câu này đã được viết ra cho chúng ta; mặc dù chúng đã được viết từ hai ngàn năm nay. Bất cứ ở thời đại nào, con người đều bị bắt buộc phải nhìn nhận cái bàn tay đã dìu dắt họ. Về phần tôi, tôi không tin là sự hứng khởi đã được sinh ra từ hai ngàn năm nay, khi Tennyson viết với bao nỗi hăng say và lòng xác tín. 

"Ôi, chúng ta vẫn còn tin rằng điều thiện bất chấp mọi sự, sẽ là mục đích tối hậu của cái ác!" 

là ông đã nhắc lại cái tín điệp đã được truyền cho ông giống hệt như Ezéchiel, khi thế giới còn non trẻ hơn, đã nhắc lại một tín điệp sơ đẳng hơn và thô kệch hơn. 

- Tất cả những điều đó đều rất đẹp, ông Stuart ạ! Người đàn ông Pháp nói. Ông yêu cầu tôi ca ngợi Thượng đế vì Ngài đã làm tôi thoát khỏi hiểm nguy và đau khổ; nhưng điều tôi rất muốn biết là, khi Ngài đã cai quản mọi việc, tại sao Ngài lại đặt tôi vào giữa chốn đau khổ và hiểm nguy. Theo ý tôi, tôi có nhiều lý do để quở trách hơn là để ca ngợi. Ông sẽ không cám ơn tôi về việc tôi đã vớt ông từ dưới sông lên, nếu trước đó chính tôi đã đẩy ông xuống sông! Ðiều tối thiểu mà ông có thể đòi hỏi ở Thượng đế là Ngài phải chữa chạy những đau khổ mà chính bàn tay của Ngài đã gây ra cho ông. 

- Tôi không phủ nhận sự khó khăn, vị mục sư chậm rãi trả lời. Người nào không tìm cách tự lừa dối mình thì sẽ không phủ nhận sự khó khăn. Hãy xem Tennyson đã đương đầu với nó hăng hái thế nào cũng ngay trong bài thơ đó, bài thơ vĩ đại nhất, sâu sắc nhất và chắc chắn là hứng khởi nhất trong tất cả văn học nước Anh. Xin hãy nhớ lại kết quả mà nó đã gợi ý cho ông. 

"Tôi sẩy chân ở nơi mà tôi bước đi rất vững vàng 

Và tôi ngã xuống với gánh nặng ưu tư 

Trên những bực thềm của bàn thờ lớn của cõi đời này 

Nơi mà các bóng tối bay lên cao tới Thượng đế. 

Tôi xòe những bàn tay vụng về trong niềm tin, tôi rờ rẫm 

Tôi thu lượm bụi bặm và rơm rác, và tôi kêu gọi 

Người mà tôi cảm thấy là Thượng đế của muôn loài 

Và tôi hy vọng một cách yếu ớt vào một niềm hy vọng lớn hơn" 

Ðó là bí ẩn cốt lõi của những sự bí ẩn : Vấn đề tội lỗi và đau khổ, sự khó khăn lớn lao duy nhất mà nhà luân lý học phải giải quyết nếu y muốn biện minh cho sự đối xử của Thượng đế với con người. Xin hãy lấy trường hợp của chính chúng ta làm thí dụ. Chỉ nói riêng về bản thân tôi, tôi biết rõ những gì tôi đã sở đắc trong chuyến phiêu lưu này. Tôi nói ra điều này với tất cả lòng khiêm tốn, nhưng tôi phân biệt được rõ ràng hơn trước đây những bổn phận của tôi. Nó đã dạy tôi nên ít lơi là hơn khi nói điều gì mà tôi cảm thấy là điều thiện. 

- Còn tôi, Sadie nói lớn, nó đã dạy tôi nhiều điều hơn là quãng đời đã qua của tôi. Tôi đã học được nhiều, và cũng quên đi nhiều điều không nên nhớ. Tôi đã trở thành một con người khác. 

- Cho tới lúc này tôi chưa bao giờ hiểu được bản chất của chính tôi, Stephens nói. Hơn nữa tôi khó có thể nói rằng tôi đã có một bản chất để tìm hiểu. Tôi đã sống cho những gì không quan trọng, và tôi lơi là với những gì là cốt yếu! 

- Ồ, một sự rung chuyển nhẹ nhàng không bao giờ gây ra tệ hại! Ong đại tá nói. Một cái giường có nệm lông và bốn bữa ăn hàng ngày, chuyện đó chả có ích lợi gì cho một đấng nam nhi, cũng như cho một bọn quần thoa. 

- Cảm tưởng sâu xa của tôi là, bà Belmont nói xen vào, tất cả bọn chúng ta đều đã được nâng lên cao trong những ngày ở trong sa mạc này, hơn là những gì chúng ta đã làm từ trước hoặc những gì chúng ta sẽ làm sau này. Khi các tội lỗi của chúng ta được phán xét, chúng ta sẽ được tha thứ rất nhiều vì tình thương mà chúng ta đã chứng tỏ với nhau. 

Họ ngồi yên lặng trong khi những bóng xám tối đen lại và lũ chim nước vạch ra những chữ V lớn bên trên bề mặt óng ánh của con sông lớn. Một luồng gió lạnh nổi lên từ mạn Ðông; Stephens cúi xuống gần Sadie. 

- Cô có nhớ những gì cô đã hứa khi cô ở trong sa mạc không ? ông nói thì thào. 

- Ðiều gì vậy? 

- Cô đã nói rằng nếu cô được thoát nạn, trong tương lai cô sẽ cố gắng làm cho một người nào đó sung sướng.

- Vậy thì tôi sẽ phải làm điều đó. 

- Thế là đã làm rồi, ông nói. 

Và những bàn tay họ nắm lấy nhau phía dưới cái bàn.

********************************

Thung lũng khủng khiếp

Phần I: Tấn thảm kịch ở lâu đài Birlstone

Chương 1

Tin báo

Holmes không đụng một tý nào đến bữa điểm tâm, cứ ngồi chống tay xuống bàn, ngắm nghía mãi một tờ giấy vừa lôi ở một bì thư ra. Anh đưa bì thư ra ánh sáng, chăm chú xem xét cả trong lẫn ngoài:

- Tuồng chữ của thằng Porlock. Mặc dầu tôi chưa nhìn thấy tuồng chữ nó đến hai lần, nhưng chắc chắn đây là của nó. Nhưng thằng này mà phải gửi thư cho tôi thì nhất định là có chuyện quan trọng.

- Porlock là ai vậy? - Tôi tò mò hỏi.

- Porlock chỉ là một cái tên giả, một loại ký hiệu để nhận ra nhau thôi. Đằng sau cái tên ấy là một thằng tinh như ma. Đã có lần nó viết thư nói thẳng thừng rằng Porlock đâu có phải tên thật của nó, và nó thách tôi tìm xem nó là ai. Sở di tôi chú ý nhiều đến nó, không phải vì bản thân nó mà chính vì nó có liên quan đến một "đại nhân" mà tôi đang theo dõi. Thằng này cung giống như kiểu con chó rừng đi truớc con sư tử, một thằng người tý hon hợp tác với một tên khổng lồ vậy. Mà cái tên khổng lồ đó, chẳng những rất ghê gớm, mà còn khủng khiếp nữa kìa. Watson, đã có lần nào tôi nói với anh về giáo sư Moriarty chưa?

- Tên tội phạm khoa học trứ danh ấy chứ gì?

- Chết, anh mà gọi hắn như vậy, thì anh sẽ phải ra tòa. Mà chính cái chỗ đó mới là tuyệt đấy. Hắn, một thằng chủ mưu của tất cả những gì bẩn thỉu nhất đã xảy ra từ trước đến nay. Một bộ óc chỉ huy tất cả các tầng lớp cặn bã nhất của xã hội.

Thế nhưng, không hề có một mối nghi ngờ, thậm chí không có cả một lời phê bình nhỏ nào có thể đụng đến lông chân hắn. Hắn đã che giấu những thủ đoạn của hắn khéo đến mức hắn có thể lôi anh ra tòa chỉ vì mấy câu nói vừa rồi, và tòa sẽ tịch thu hết số tiền lương hưu trí của anh để đền bù danh dự cho hắn. Nhưng rồi thế nào chúng ta cung phải đấu với hắn thôi.

Tôi bốc lên:

- Mong rằng lúc ấy, tôi sẽ có mặt bên cạnh anh. Nhưng mà anh dang nói về tên Porlock kia mà.

- à, Porlock chính là một mắt xích trong sợi dây xích, gần mốc trung tâm đó. Cho đến bây giờ, Porlock là mắt xích yếu nhất của sợi xích. Sức bền của một sợi dây xích tùy thộc vào mắt yếu nhất của nó. Chính vì thế mà thằng Porlock là rất quan trọng đối với tôi, thằng này đôi lúc cung có ý trở lại con đuờng lương thiện, lại thêm, lâu lâu, tôi có gửi cho anh ta mươi bảng, thành ra đã có hai, ba lần, nó có báo cho tôi một vài tin tức có giá trị, các loại tin tức có thể giúp tôi biết trước và ngăn ngừa tội ác, nhưng không trừng phạt đuợc kẻ định gây ra. Chắc chắn là nếu có chìa khóa giải đuợc mật mã, thì lá thư này cũng là loại tin tức ấy đấy.

Holmes trải tấm giấy lên bàn, tôi đứng dậy, đi lại đằng sau, nhìn qua trên vai anh và đọc đuợc những giòng chữ này:

“534 C2 13 127 36 31 4 17 21 41

DOUGLAS 109 293 5 37 BIRLSTONE

26 BIRLSTONE 9 47 171”

- Anh nghi gì thế, Holmes?

- Tất nhiên đây là một cách để hắn báo tin cho tôi đấy.

- Nhưng viết mật mã mà không cho chìa khóa giải thì có lợi ích gì?

- Trong trường hợp cụ thể này, thì bức mật mã này đúng là không làm gì được.

- Tại sao lại nói rằng "trong trường hợp cụ thể này"

- Bởi vì có nhiều bức mật mã ta có thể đọc dễ dàng cung như đọc tin rao vặt trong báo vậy. Nhưng lần này... tôi đứng trước một cái gì có khác đây. Rõ ràng nó có liên hệ đến các chữ trong một trang của một cuốn sách nào đó. 

- Thế tại sao có hai chữ Douglas và Brilstone 

- Tại vì trong trang sách đó không có hai chữ này.

- Thế thì tại sao nó lại không nói rõ tên cuốn sách?

- Có ai cho cả mật mã lẫn chìa khó giải vào trong cùng một bì thư? Vì nếu thư bị đua nhầm người thì tiêu ngay. Cho nên chắc không lâu đâu, sẽ có một bức thư thứ hai nữa.

Những dự đoán của Holmes đều đúng cả. Chỉ vài phút sau, người giúp việc mang đến cho chúng tôi bức thư chờ đợi. Holmes vừa xé bì thư vừa nhận xét:

- "Cung cùng một thứ chữ, nhưng lần này thì lại ký tên nữa". Holmes vừa trải tờ giấy ra vừa nói một cách đắc thắng. "Này Watson ơi, chúng ta tiến lên đuợc rồi", nhưng vừa đọc đuợc vài dòng, trán Holmes bỗng nhăn lại. - Thế là bao hy vọng tan vỡ như bọt xà phòng, chỉ mong thằng Porlock không bị gãy cổ.

Holmes đọc to bức thư cho tôi nghe:

"Ông Holmes thân mến. trong vụ này tôi sẽ không mạo hiểm thêm nữa. Nó nguy hiểm quá. Thình lình lão đến, vào lúc tôi đã viết xong phong bì này với ý định báo cho ông biết cách giải mã, tôi đã giấu đuợc cái bì thư đi. Nhưng tôi đọc trong mắt lão, thấy lão nghi ngờ tôi. tôi xin ông hãy đốt bức mật mã đi, vì bây giờ nó chẳng còn có ích gì cho ông nữa" Fred Porlock.”

Holmes ngồi xuống, vò nát bức thư trong tay mắt nhìn sững vào ngọn lửa trong lò sưởi. 

"Có lẽ hắn tự biết là hắn đã phản bội chủ hắn, nên hắn tưởng tượng ra lời buộc tội trong mắt của lão kia".

- Lão kia là lão giáo sư Moriarty? - Tôi hỏi.

- Khi một tên trong cái băng này nói đến "lão ta" thì mọi người đều hiểu là ai rồi. Đối với bọn chúng, chỉ có một "lão ta" mà thôi.

- Nhưng lão có thể làm gì đuợc?

- Khi người ta là một trong những bội óc lớn nhất của Châu Âu và đuợc những quyền lực đen tối nhất sùng bái, thì người ta đã nắm trong tay những khả năng vô hạn. Porlock đang hoảng sợ. Anh đem so sánh chữ trong bức thư với chữ trên phong bì mà xem. Chữ ở cái phong bì thì viết rắn rỏi, còn trong bức thư thì run quá.

- Thế hắn viết thư làm gì? Hắn chỉ việc bỏ rơi tất cả là xong.

- Hắn sợ rằng nếu đột nhiên hắn lại câm bặt đi thì rồi mình sẽ đi điều tra xem tại sao, và điều đó có thể gây phiền phức cho hắn.

- Anh nói có lý, lẽ di nhiên là...

Tôi cầm bức mật mã lên quan sát thật cẩn thận:

- ... Bực thật, một điều bí mật rất quan trọng đã đuợc viết trên mảnh giấy này, mà lại không làm sao đọc đuợc.

Holmes đẩy mâm thức ăn ra, rồi đốt cái tẩu thuốc.

- Anh thử xem lại. Liệu có một vài cho tiết nào đó mà cái bộ óc quỉ quái của anh đã để lọt lưới chăng? - Tôi đề nghị.

- Nào, ta hãy xét bài toán này về phương diện lý trí thuần túy xem sao. Thằng Porlock nó chỉ cho ta là phải chiếu vào một cuốn sách nào đó. Đấy. Điểm bắt đầu là từ đấy.

- Cung mơ hồ quá đi thôi.

- Thì chúng ta làm cho rõ hơn? Chúng ta có những chỉ dẫn gì về cuốn sách này?

- Chẳng có gì cả.

- Ồ, ồ, bản mật mã bắt đầu từ con số 534 phải không? Ta đặt giả thiết đây là con số của trang sách. Như thế thì cuốn sách này khá dầy đấy. Thử xem có còn những chỉ dẫn nào nữa về cuốn sách này không? Mã hiệu thứ nhì là chữ C2. Anh nghi gì về chữ C2 này.

- Chương 2, chắc thế.

- Tôi ngờ là không phải, vì đã ghi số trang thì số chương không cần thiết nữa. Vả lại nếu trang 534 mà lại mới chỉ ở chương 2, thì bề dày của cuốn sách là không thể tưởng tượng đuợc.

- Không phải chương 2, mà là cột - tôi kêu lên.

- Hoan hô, sáng nay óc anh sáng chói như một ánh chớp vậy. Ta đã hình dung ra một cuốn sách dày, in hai cột, mỗi cột khá dài. Vì trong bản mật mã của ta có một chữ mang đến con số 203. Nếu đây không phải là một cuốn sách thường dùng, thì nó đã gửi cho mình cuốn đó. theo trong thu thì trước khi bị "lão kia" bắt

gặp, nó có ý định gửi cho ta cái khóa giải mã ở ngay trên bì thư này. Điều này có nghia đây là một cuốn sách mà mình có thể dễ dàng có đuợc ngay. Một cuốn sách mà nó có, và nó nghi rằng mình cung có, nghia là một cuốn sách rất phổ biến.

- Có lý lắm.

- Vậy cái diện điều tra sẽ đuợc giới hạn vào một cuốn sách dầy, in hai cột, và thông dụng 

Tôi kêu lên một cách đắc thắng:

- Cuốn Kinh Thánh.

- Tốt, tốt. Nhưng mà không tốt lắm. Kinh Thánh thì có biết bao nhiêu là bản in khác nhau, làm sao mà Porlock biết đuợc là bản của nó với bản của mình có cùng một số trang như nhau. Không. Đây phải là một cuốn sách in đồng loạt, và Porlock phả biết chắc chắn rằng số trang 534 là có trong cuốn sách của mình kia.

- Như thế là có thể thu nhỏ diện tích tìm kiếm lại nữa.

- Đúng thế. Cuộc tìm kiếm của chúng ta hướng về những cuốn sách in hàng loạt mà nhà nào cung có.

- Cuốn "Chỉ dẫn giờ tàu hoả".

- Ngôn ngữ trong cuốn này quá khô khán., không dễ gì dùng những chữ ở trong đó để tạo nên một bức thơ. Chúng ta loại bỏ cuốn "Chỉ dẫn giờ tàu hoả". Cung loại bỏ cuốn tự điển vì những lý do đó. Thế thì còn gì nữa nào?

- Một cuốn Lịch niên giám.

- Xuất sắc. Nào ta thử xét cuốn Lịch niên giám xem, nó rất thông dụng, nó có đủ số trang đòi hỏi, nó in trên hai cột, ở quãng đầu thì ngôn ngữ của nó có hạn chế thật, nhưng phần cuối nó cung hùng biện lắm đấy...

Holmes giật lấy cuốn sách để trên bàn.

- Đây, trang 534 cột 2, mình thấy một bài văn tràng giang đại hải nói về nền thương mại và những tài nguyên của xứ Ấn Độ thuộc Anh, Watson, anh ghi các chữ này lại đi. Số 13 là chữ " Mahratta". Hứ, cái bắt đầu này có vẻ bất lợi rồi, chữ số 127 là "Chính phủ". cung còn có ý nghia một chút, nhưng chẳng có liên can gì đến chúng ta và giáo sư Moriarty cả. Bây giờ cứ thử nữa xem, Chính phủ làm gì? Than ôi, chữ sau là "lông heo" thôi thế là hết. Chúng ta đã thua cuộc ...

Holmes nói với một giọng hài hước nhưng cay đắng. Nản lòng, tôi cung ra ngồi cạnh lò sưởi. Sự im lặng kéo dài, bỗng nhiên bị phá vỡ bởi một tiếng kêu của Holmes. Anh chạy vội đến chiếc tủ đứng và moi ra một cuốn sách dày cộm khác, bìa màu vàng.

- Tại vì chúng ta muốn đi truớc thời đại. Hôm nay là ngày mùng 7 tháng giêng, cho nên chúng ta mới đi tra cứu một cuốn lịch niên giám năm mới. Nhưng chắc chắn là Porlock đã dùng một cuốn lịch năm ngoái, và có lẽ nó đã nói rõ cho chúng ta biết điều này nếu như nó viết đuợc lá thơ chỉ dẫn. Nào, thử xem cái trang 534 có cái gì nào? Số 13 là chữ "một". A, có vẻ hứa hẹn rồi. Số 127 là "nguy hiểm".

Mắt Holmes long lanh lên. Những ngón tay thon nhọn của anh cứng đờ ra trong lúc anh lẩm bẩm đếm chữ.

- À! Một nguy hiểm.. . Ghi lại đi Watson, ghi "một nguy hiểm... cấp bách... đang đe dọa một người tên là... ở đây chúng ta có chữ "Douglas" một người giàu có trong tỉnh Birlstone, lâu đài Birlstone. Xác thực khẩn cấp..."[1]. Đó Watson. Nếu anh bạn tạp hóa ở đầu phố mà có bán một vòng hoa thì tôi sẽ cho đi mua về để tự tặng thưởng cho mình.

Tôi đọc lại bức thư kỳ lạ mà tôi đã ghi nguệch ngoạc trên giấy khi Holmes đang giải mã, và thở dài:

- Vì sao lại tìm một cách phức tạp đến thế này để viết vài câu.

- Trái lại, thằng Porlock đã hành động xuất sắc đấy. Nếu định tìm chữ trong một cột thôi thì sẽ khó mà tìm cho đủ chữ để nói hết ý nghi. Ở đây trái lại, nội dung thư là hoàn toàn rõ ràng. Người ta đang âm muu chống lại một người nào đó tên là Douglas, chắc chắn là một tay địa chủ giầu có ở tỉnh. Porlock biết đích xác là sự nguy hiểm rất cấp bách. (Nó không tìm thấy chữ "đích xác"[2] trong cột in chữ nên phải dùng chữ "xác thực").

- Chúng ta vừa làm đuợc một công trình kiệt tác về phân tích.

Holmes vui như một nghệ si chân chính trước một tác phẩm thành công nhất của mình, và anh đang còn giữ một nụ cười trên môi, thì Billy mở cửa để cho viên thanh tra MacDonald của Scotland Yard bước vào.

Chuyện này xảy ra vào những năm 80[3]. Vào thời ấy, Alec MacDonald là một trinh thám trẻ, năng nổ, cung đã có đôi chút thành tích trong một vài vụ án... Cả cái vóc người to lớn, cung chứng tỏ sức mạnh phi thường của anh ta. Trán rộng, đôi mắt sáng nằm sâu trong hai hốc mắt, lông mày rậm rì. Đó là một chàng trai ít nói, tính tình nghiêm nghị, đứng đắn. Holmes đã có dịp giúp anh ta thành công một đôi lần và không chịu nhận bất cứ một ơn huệ nào. Điều này giải thích đuợc tại sao người thanh tra xứ Ecosse này kính trọng và yêu mến anh bạn đồng nghiệp tài tử của mình.

Holmes đon đả chào hỏi:

- Ông là một loài chim dậy sớm, xin chúc ông nhiều may mắn trong khi đi săn sâu bọ sáng nay, nhưng tôi sợ rằng ông đến vào giờ này không khéo lại có một chuyện chẳng lành xảy ra.

Viên thanh tra trẻ trả lời với một nụ cười tâm lý:

- Ông Holmes, nếu ông thay chữ "tôi sợ rằng" bằng chữ "tôi mong rằng" thì có lẽ ông gần sự thật hơn. Không, tôi không hút thuốc đâu, cám ơn. Tôi phải lên đuờng ngay bây giờ, vì những giờ đầu tiên của một vụ án là những giờ có ích lợi nhất, nhưng...

Viên thanh tra bỗng ngưng bặt, ông ta vừa thấy tờ giấy trên đó tôi đã ghi lại lời giải mã, ông ta há hốc mồm nhìn tờ giấy.

- Douglas, Birlstone, thế này là thế nào, ông lấy những cái tên này ở đâu ra vậy?

- Đây là một bức mật mã mà bác sỹ Watson và tôi vừa giải ra. Nhưng sao những cái tên này làm ông phải bối rối?

- Một ông tên là Douglas ở lâu đài Birlstone vừa bị ám sát sáng hôm nay. - MacDonald nói.

---

[1]Nguyên văn bức thư: “THERE IS - DANGER - MAY - COME - VERY - SOON – ONE – NAME IS” – “DOUGLAS” - “RICH - COUNTRY - NOW – AT” – “BIRLSTONE” – “HOUSE” – “BIRLSTONE” – “CONFIDENCE - IS – PRESSING”.

[2] Nguyên văn: confident (đích xác) đồng âm với confidence (xác thực) - tiếng Anh

***

Chương 2

Ông Sherlock Holmes diễn thuyết

Nói rằng một cái tin kỳ lạ như vậy làm anh ta phải bối rối hay xúc động thì là nói ngoa. Mặc dù là người không có tính độc ác, nhưng vì sống mãi trong những cái "giật gân thành ra cung chai người đi rồi. Và nếu những xúc cảm của anh có bị cùn nhụt đi thì trái lại sự thông minh của anh lại tăng thêm.

Holmes nói lớn:

- Phi thường. Thật phi thường.

- Hình như ông không ngạc nhiên gì thì phải?

- Tại sao tôi lại phải ngạc nhiên? Tôi nhận đuợc một bức thư nặc danh báo cho biết là có một sự nguy hiểm đang đe dọa một người nào đó. Rồi một giờ sau, tôi hay tin rằng sự nguy hiểm đó đã thành sự thật và người kia đã chết. Vậy thì tôi có chú ý, chớ không hề ngạc nhiên.

Holmes kể lại cho viên thanh tra nghe chuyện chúng tôi vừa giải mã bức thư. MacDonald ngồi xuống hai tay đỡ lấy cằm, và hai con mắt chỉ còn như hai cái khe màu vàng. Ông ta nói:

- Tôi định sáng nay sẽ đi xuống lâu đài. Tôi rẽ vào đây để hỏi xem ông có cùng đi không? Nhung bây giờ làm việc ở London có lẽ có kết quả hơn.

- Tôi không nghĩ thế. - Holmes nói.

- Ông hãy xem, chỉ ngày mai hay ngày kia thôi, là báo chí sẽ làm rùm beng lên về câu chuyện bí mật ở lâu đài đó. Nhung bí mật ở đâu kia chứ, vì ngay tại London, đã có người báo tin trước khi án mạng xảy ra. Vậy chúng ta hãy tóm cổ cái vị tiên tri ấy, thì mọi việc còn lại sẽ tuồn tuột theo ra cả thôi.

- Chắc chắn là thế. Nhưng làm cách nào mà ông tóm cổ đuợc cái tên Porlock này?

Dona lật ngược lá thư mà Holmes vừa đua cho anh ta.

- Thùng thư ở trạm bưu điện Camberwell. Điều này cung không giúp đuợc gì? Theo ông thì cái tên này là tên giả? Có phải ông nói rằng ông có gửi tiền cho hắn ta phải không?

- Hai lần.

- Bằng cách nào?

- Gửi qua bưu điện

- Ông không bao giờ đi xem mặt người linh số tiền đó.

- Không.

Viên thanh tra tỏ ra hơi ngạc nhiên và khó chịu.

- Tại sao lại không?

- Bởi vì bao giờ tôi cung giữ đúng lời hứa, Khi hắn viết thư cho tôi lần đầu tiên, tôi đã hứa với hắn là sẽ không tìm cách theo dõi hắn.

- Ông có nghi rằng có một người nào khác đằng sau hắn không?

- Tôi không nghi, mà tôi biết chắc kia.

- Cái vị giáo sư mà ông đã nói với tôi?

- Đúng đấy.

Vien thanh tra mỉm cười và nháy mắt với tôi

- Ông Holmes ạ. Chính tôi đã đích thân điều tra về ông ta: mọi cái đều cho thấy rằng đây là một con người rất đáng kính, một nhà bác học đầy tài năng.

- Tôi thật sung sướng thấy ông nêu lên những tài năng của ông ta.

- Thật vậy, người ta chỉ còn biết cúi đầu kính chào ông ta mà thôi. Tôi có lần ngồi nói chuyện với ông ta về nguyệt thực, nhật thực, mà thật quái quỷ: tôi cung không hiểu bằng cách nào câu chuyện lại quay sang đến vấn đề đó. Nhung thực tình chỉ với một cái đèn và một quả địa cầu, ông ta đã cắt nghia tất cả cho tôi hiểu trong có một phút đồng hồ. Ông ta có cho tôi mượn một cuốn sách, nhưng nó quá cao đối với tôi. Ông ta có một bộ mặt nhẵn nhụi, mái tóc hoa râm, và cách ăn nói hoi trịnh trọng đủ để làm một ông bộ trưởng.

Holmes phát ra một tiếng cười, xoa hai bàn tay vào nhau:

- Thật là tuyệt, có phải cuộc đàm đạo mê ly và xúc động ấy là ở ngay trong buồng làm việc của giáo sư phải không?

- Đúng thế.

- Một căn phòng rất đẹp

- Rất đẹp, đúng thế.

- Ông ngồi trước bàn làm việc của ông ta

- Vâng

- Mặt trời chiếu vào mắt ông, còn mắt của giáo sư thì ở trong bóng tối.

- Lúc đó à vào buổi tối, cái đèn quay về phía tôi

- Tất nhiên là như thế. Ông có nhận thấy ở trên đầu chỗ giáo sư có treo một bức tranh không?

- Vâng, bức tranh. Một người phụ nữ trẻ tuổi, hai tay ôm đầu và liếc nhìn xuống người xem tranh.

- Tranh của Jean Baptiste Greuze đấy

Viên thanh tra chăm chú nghe, Holmes ngả người vào lưng ghế, chụm đầu các ngón tay vào nhau, nói tiếp:

- Jean Baptiste Greuze là một họa sỹ người Pháp sống vào khoảng 1750 đến 1800. Các nhà phê bình hiện đại đánh giá cao họa sỹ này.

Hai mắt của viên thanh tra dãn ra:

- Có lẽ tốt hơn hết là chúng ta hãy...

Holmes cắt ngang ngay:

- Tất cả những điều tôi nói với ông đều có một mối liên quan với cái bí mật của lâu đài Birlstone đấy. Thực ra, chúng ta đang đứng ở trung tâm của lối bí này.

Dona miễn cưỡng mỉm cười và nhìn tôi:

- Ông suy nghi có hơi nhanh quá. Ông nhảy mất một hay hai bước. Thành ra tôi không theo kịp ông nữa. Làm sao lại có thể có một mối liên hện giữa nhà họa sỹ của thế kỷ trước với vụ án này đuợc.

- Sự kiện năm 1865 một bức tranh của Greuze đuợc La Jeune Fille a l Agneau đem ra bán đấu giá 1.200.000 franc, khoảng 40.000 bảng, không đủ làm chuyển bánh cả một đoàn tàu dài những suy nghi trong chất xám của ông sao?

Không biết có phải là chuyển bánh không? Nhưng thấy viên thanh tra gãi đầu ghê quá, Holmes lại tiếp tục:

- Lương giáo sư Moriarty là 700 bảng một năm. Vậy thì làm sao mà ông ta có thể mua đuợc bức tranh?

Đoàn tàu của viên thanh tra bây giờ đang chạy hết tốc lực:

- Thật hấp dẫn. Tôi rất thích nghe ông nói chuyện.

Holmes mỉm cười. Anh ta rất khoái những sự tán thưởng ngây thơ như vậy. 

- Thế ở lâu đài đã xảy ra chuyện gì? Holmes hỏi.

- Chúng ta có thì giờ ông ạ. Có một xe ngựa đợi tôi ở dưới đuờng kia. Về chuyện bức tranh.... Ông Holmes ạ, có lần ông đã khẳng định với tôi là ông chưa hề gặp mặt giáo sư bao giờ.

- Đúng. Tôi chua hề gặp mặt ông ta. 

- Thế thì làm sao ông biết đuợc căn buồng của ông ta.

- Tôi đã đến nhà ông ta ba lần: Hai lần tôi đã kiếm cớ ngồi chờ ông ta, và tôi đã đi khỏi trước khi ông ta về; Còn một lần... chính lần đó tôi đã tự cho phép tôi đọc qua những giấy tờ của ông ta và kết luận thật là bất ngờ.

- Ông có tìm thấy một cái gì phạm pháp không?

- Tuyệt đối không có. Chính điều đó làm tôi bối rối. Nhưng mà ông đã thấy tầm quan trọng của chi tiết bức tranh rồi chứ, chi tiết ấy nói lên rằng ông giáo sư rất giàu. Nhưng ông ta làm gì mà lại giàu thế? Ông ta không lấy vợ. Em ông ta là một người xếp ga quèn ở miền Tây.

- Vậy thì sao?

- Suy luận ra cung đon giản thôi.

- Ông cho rằng ông giáo sư có những nguồn thu nhập lớn, và những nguồn này là bất hợp pháp phải không?

- Đúng là như thế. Cái ý nghi này, tất nhiên không phải là chỉ có dựa trên bức họa của Greuze thôi, Tôi có cả tá những sợi tơ mong manh dẫn tôi đến trung tâm của màng nhện, là nơi con vật đó đứng im rình mồi. Sở di tôi nêu lên chuyện bức họa, cung chỉ vì nó nằm trong giới hạn tầm mắt của ông mà thôi.

- Những điều ông vừa nói là hết sức đáng chú ý. Nhung nếu có thể, chúng ta thử đào sâu thêm một tý xem sao. Có phải ông ta đã làm giàu bằng mánh mung, lừa đảo làm bạc giả....

- Ông đã có bao giờ đọc một cái gì nói về Jonathan Wild chưa?

- Có phải là tên của một nhân vật tiểu thuyết không không? Trong đó các ngài thám tử đều làm đuợc những việc rất kỳ diệu.

- Jonathan Wild không phải là thám tử cung không là một nhân vật tiểu thuyết. Đó là một tên tội phạm bậc thầy đã sống vào khoảng năm 1750. Ông Mac, ông nên đọc lại tất cả những tài liệu ghi chép lại các vụ án. Tất cả mọi việc đều chỉ lặp lại mà thôi, kể cả lão giáo sư Moriarty nữa. Jonathan là sức mạnh của những tên tội phạm của London. Hắn đã bán bộ óc cho bọn này lấy 15% hoa hồng trong

mỗi vụ. Tất cả những chuyện đã làm trước đây, sẽ còn đuợc làm lại nữa. Tôi sẽ kể cho ông nghe một vài việc về Moriarty mà có lẽ sẽ làm ông vui thích. 

- Tôi xin dỏng cả hai tai lên.

- Tôi đã tìm hiểu đuợc ai là khâu đầu tiên của sợi xích. Một sợi dây xích mà đầu này là một tên tôi phạm thượng thặng, còn đầu kia là cả trăm tên ăn cắp, móc túi, những tên đi tống tiền, những tên bợm cờ bạc. ở giữa hai đầu sợi xích đó, là tất cả các loại tội ác. Tham mưu trưởng của bọn chúng là tên đại tá Sebastian Moran. Theo ông thì lão giáo sư trả lương cho hắn ta bao nhiêu tiền?

- Tôi muốn biết điều đó lắm.

- Sáu nghìn bảng một năm. Tôi cung Tôi cung tình cờ mà biết đuợc chi tiết này thôi. Ngài đại tá Moran lương còn cao hơn cả thủ tướng, những cái cái séc bình thường để trả tiền sinh hoạt trong nhà thôi. Nó đuợc trả vào tài khoản của sáu ngân hàng khác nhau. Chi tiết này có làm cho ông phải suy nghi không?

- Tất nhiên cung đáng chú ý thật. Nhưng từ đó ông suy luận ra những gì?

- Những gì à, là hắn không muốn ai bép xép gì về của cải của hắn, hắn có khoảng 20 tài khoản ở ngân hàng, và phần lớn tài sản của hắn thì ký gửi ở Pháp hoặc Đức.

MacDonald ngồi lặng đi, chìm đắm trong một suy nghi sâu lắng, nhưng rồi cái óc thực tế xứ Ecosse lại kéo anh ta đứng lên. 

- Hiện giờ, thì lão ta có thể cứ tiếp tục. Ông đã kéo chúng tôi đi quá xa với những câu chuyện cổ tích của ông rồi. Tôi chỉ còn ghi nhận đuợc cái điều cốt yếu là có một sự liên hệ nào đó giữa giáo sư với tội ác. Vậy xin hỏi ông, liệu chúng ta có thể đi xa hon thế không?

- Ông đã nói với chúng tôi rằng vụ án mạng này hiện giờ chưa giải thích đuợc. Nếu chúng ta giả thiết, rằng nguồn gốc của nó là như chúng ta đã nói, thì có thể phải xét đến hai động cơ khác nhau. Trước hết, Moriarty cai quản cái thế giới của lão bằng một cây roi sắt. Bộ luật hình của hắn chỉ gồm có một hình phạt: Xử tử. Như vậy có thể Douglas đã phản bội sếp của hắn. Hình phạt đã đuợc thi hành, và cái chết này sẽ thổi một luồng gió sợ hãi vào những tên còn sống trong băng của lão.

- Đó là một gợi ý, thưa ông Holmes

- Giả thiết thứ hai, là vụ án mạng đã đuợc Moriarty dựng lên như một vụ thông thường mà thôi. ở đó có mất gì không, ông Mac?

- Tôi không nghe nói có mất gì cả.

- Nếu có mất đồ thì điều này chống lại giả thiết thứ nhất và sẽ phù hợp hơn với giả thiết thứ hai. Moriarty có thể đã bị đẩy đến chỗ phải gây ra vụ án mạng này để chia phần, hoặc là hắn đã đuợc bọn nào đó thuê tiền để tổ chức vụ án. Cả hai khả năng này đều có thể cả. Nhưng dù sao, thì cung phải đến đó mới tìm đuợc lời giải.

MacDonald bật đứng dậy, reo lên:

- Vậy thì phải đi tới lâu đài Birlstone thôi. 

Holmes vừa thay áo vừa nói:

- Trong khi đi đuờng, xin ông MacDonald kể lại cho chúng tôi nghe tất cả.

Chữ "tất cả" này thật ra là quá ít ỏi. Nhưng cũng đủ để cho Holmes phải chăm chú nghe. Những chi tiết lặt vặt đã làm cho anh cứ xoa mãi hai tay vào nhau, mặt hồng hào hẳn lên. Chúng tôi vừa mới sống mấy tuần lễ quá tẻ nhạt, và hôm nay mới lại đứng trước một bí mật xứng đáng với những tài năng của Holmes. Viên thanh tra cung nói rõ rằng đây chỉ là những chi tiết anh ta lấy từ một bản báo cáo vội vã mới gửi theo chuyến tàu sớm nhất. Viên thanh tra địa phương đó là bạn của ông ta. Vì vậy ông ta đuợc tin rất sớm, khác hẳn với mọi lần. MacDonald đọc to cho chúng tôi nghe bức thư của Mason

"Gửi thanh tra MacDonald

Những tài liệu chính thức cần cho các bộ phận công tác của ông đã đuợc gửi trong một bao bì riêng. Thư này là gửi riêng cho một mình ông. Hãy điện ngay cho tôi biết ông đi chuyến tàu nào xuống đây để tôi ra đón. Đây là một bài toán sẽ làm cho ông phải đau đầu. Xin ông hãy xuống ngay. Nếu ông có thể mời đuợc cả ông Holmes thì hay quá. Thực tình, tôi thấy phức tạp quá".

Holmes nhận xét:

- Gớm, ông bạn của ông có vẻ sắc mắc nhỉ?

- Vâng đúng thế, thưa ông. Mason xưa nay vẫn là con người tích cực lắm.

- Đuợc. Thế ông có tin gì khác nữa không, ông Mac.

- Không, khi nào đến nơi, Mason sẽ cho biết.

- Thế thì tại sao ông lại biết Douglas bị ám sát.

- Trong bản báo cáo chính thức có nêu tên Douglas và ghi rõ là đã bị giết bởi một viên đạn súng săn bắn vào giữa đầu. Cung có ghi cả giờ báo động là trước lúc nửa đêm hôm qua một chút. Báo cáo nói thêm là đây chắc chắn là một vụ án mạng rồi., nhưng chưa bắt giữ ai, và vụ án này có một vài khía cạnh kỳ lạ làm cho người ta phải bối rối.

- Vâng, ông Mac, nếu ông cho phép thì chúng ta tạm ngưng ở đây. Hiện giờ thì tôi mới chỉ thấy có hai điều là: có một bộ óc lớn ở London và một cái xác chết ở Sussex. Vấn đề là phải tìm đuợc sợi dây xích nối hai cái này lại với nhau.

***

Chương 3

Tấn bi kịch ở Birlstone

Làng Brirlstone là một nơi thưa thớt những căn nhà nhỏ bé nửa gỗ, nửa gạch ở bìa phía bắc Sussex. Trong hàng thế kỷ trước, ngôi làng vẫn giữ nguyên phong cách cổ xưa, nhưng vào khoảng vài năm gần đây, đã có nhiều địa chủ giàu có đến dựng những biệt thự ở chung quanh. Trong các cánh rừng bọc theo bờ của khu rừng lớn Weald chạy dài mãi đến tận chân những ngọn đồi đá vôi ở bờ biển.

Lâu đài nằm cách làng khoảng nửa dặm, trong một khu vườn cu nổi tiếng về những cây giẻ gai cực lớn. Một phần của tòa lâu đài này đã đuợc dựng lên từ thời Thập tự chinh lần thứ nhất. Năm 1534, một trận hỏa tai đã thiêu trụi tất cả. Một số gạch đá ám khói còn sót lại, đến triều vua James I, đã đuợc dùng để xây nên một tòa lâu đài khác trên nền của tòa lâu đài cu. Tòa lâu đài mới này với những đầu hồi chi chít và những khuôn cửa sổ có lắp những mảnh kích hình quả trám, gợi lại hình ảnh của nền kiến trúc vào thế kỷ thứ XVII. Về hai đuờng hào trước đây thì nay chỉ còn lại đuờng bên trong. Đuờng hào ngoài đã đuợc tát khô, và bây giờ trở thành một mảnh vườn trồng rau. Đuờng hào còn lại bao quanh cả tòa lâu đài dài, rộng đến 40 feet nhưng sâu chỉ vài feet. Nước trong hào là từ một dòng sông nhỏ chảy vào, nên không hôi thối. Những cửa sổ của tầng dưới cung chỉ cao hơn mặt nước khoảng 1 foot. Lối đi duy nhất để vào lâu đài là một cây cầu rút, đã hư hỏng từ lâu. Nhưng người chủ lâu đài hiện nay cho sửa chữa lại để buổi sáng thì hạ xuống, đến chiều tối lại rút lên: sự phục hồi lại truyền thống của thời phong kiến đã biến tòa nhà ban đêm thành một hòn đảo.

Khi gia đình Douglas đến làm chủ tòa lâu đài này thì nó đang sắp đổ nát. Gia đình chỉ gồm hai người: John Douglas và vợ ông ta.

John Douglas khoảng 50 tuổi, có một cái quai hàm thật khoẻ, nét mặt rắn rỏi, một bộ râu hoa râm, một đôi mắt xám rất sắc, vóc người lực lưỡng, dáng điệu cứng cỏi. Những gia đình lân cận có học thức hơn, đã tiếp đãi ông với một sự tò mò và có phần dè dặt, nhưng ông thì lại rất đuợc lòng người dân ở trong làng. Ông tham gia đóng góp rất rộng rãi vào tất cả mọi hoạt động ở địa phương, phụ trách các buổi hòa nhạc, và vốn có một giọng nam trầm, bao giờ ông cung sẵn sàng giúp vui bằng một bài hát thật hay. Hình như ông có khá nhiều tiền, và người ta đồn rằng ông đã làm giàu trong các mỏ vàng ở xứ Californiafornia. Điều đó thì không biết có đúng không, nhung chỉ cần nghe ông nói chuyện cung biết ông đã sống cả một phần đời ở bên Mỹ, người ta lại càng kính trọng ông hơn vì ông hoàn toàn coi thường sự nguy hiểm. Mặc dù cưỡi ngựa rất tồi, nhưng mỗi khi có những cuộc thi ngựa là thế nào ông cung tham dự, và cái tính bướng bỉnh đó đã đem lại cho ông mấy lần ngã ngựa đến kinh hồn. Khi bên nhà thờ bị cháy, lính cứu hỏa địa phương đã bó tay, ông một mình xông vào cứu những đồ đạc ra. Cứ như thế, trong vòng năm năm trời, Douglas trở thành một nhân vật nổi tiếng ở Birlstone.

Vợ ông ta cung đuợc bạn bè kính nể, ở đây, bà ít đi lại chơi bời. Nhưng số ít bạn bè này là đã quá đủ cho một bà chủ nhà vốn có tính dè dặt, và hình như chỉ để hết thời gian chú ý, săn sóc chồng. Người ta biết rằng bà phu nhân người Anh này thuộc tầng lớp xã hội thượng lưu, và đã làm bạn với ông ở London khi ông này góa vợ. Bà rất đẹp, vóc người cao lớn, thanh mảnh, tóc màu nâu, trẻ hơn chồng đến 20 tuổi, bà thường tỏ ra rất kín đáo về quá khứ của chồng mình. Hình như bà ta không hiểu biết gì nhiều lắm về ông ta. Một vài người còn thấy bà vợ có vẻ bồn chồn, lo lắng mỗi khi ông chồng về trễ. Trong một vùng nông thôn thanh bình như thế này, người ta rất thích thú bàn tán về những câu chuyện mách lẻo, và khi vụ án xảy ra thì dư luận càng xôn xao và cho rằng đúng là những điều nhận xét ấy có một ý nghia rất đặc biệt.

Trong lâu đài còn có một nhân vật nữa, tuy không sống ở đó một cách thường xuyên. Đó là ông Cecil James Barker, ở biệt thự Hales, Hampstead. Cái dáng cao lênh khênh rất quen thuộc trong làng, vì ông ta hay đến lâu đài, và đuợc người ở đó quý mến lắm. Người ta nói rằng ông là người nhân chứng duy nhất biết về quá khứ của ông Douglas. Barker chắc chắn là một người Anh rồi, nhưng qua những câu chuyện của ông ta, thì có thể hiểu đuợc rằng, ông ta quen biết Douglas trước đây là ở bên Mỹ và lúc đó hai nguời sống với nhau thân thiết lắm. Hình như ông ta cũng giàu có lớn thì phải và hiện vẫn chưa lập gia đình. Ông ta trẻ hơn ông Douglas, chỉ trạc độ 45 tuổi là hết mức, người cao lớn, lưng thằng, thân hình nở nang, mặt mui nhẵn nhụi, không để râu. Ông ta có hai hàng lông mày đen nhánh và nhất là đôi mắt đen áp đảo người khác.

Ông ta không đi săn, không cuỡi ngựa, suốt ngày cứ ngậm cái tẩu thuốc đi dạo chung quanh làng. Nếu không thì lại dong xe đi vào các vùng nông thôn với ông chủ nhà, và khi nào ông này vắng, thì với bà chủ nhà. Người đầu bếp Ames trong lâu đài nói "Đó là một vị thượng lưu vô tư hào phóng". Nhưng cũng bổ xung thêm "Nhưng thực tình, tôi không bao giờ lại dại dột muốn cãi lại ông ta. Ông ta rất nhiệt tình với ông Douglas, và cung không kém phần nhiệt tình với vợ ông Douglas."

Còn đối với những người khác cùng ở trong lâu đài, thì tôi chỉ cần kể đến anh đầu bếp Ames, nhanh nhẹn, đứng đắn đáng kính; bà Allen tươi tắn phốp pháp, một tay giúp việc đắc lực cho bà chủ nhà. Còn sáu người gia nhân khác thì không dính dáng gì đến những sự kiện xảy ra trong đêm đó. 

Đồn cảnh sát địa phương được báo tin vào 12 giờ kém 15 phút đêm. Lúc đó là buổi trực của trung sỹ Wilson thuộc cảnh sát Sussex. Ông Barker, đã đến đập cửa và kéo chuông ầm ầm, báo tin rằng ông Douglas đã bị ám sát. Báo xong, ông lại vội vã trở về lâu đài. Sau khi đã báo lên thượng cấp, trung sỹ Wilson đến ngay hiện trường. Khi đến nơi, Wilson thấy chiếc cầu đã đuợc hạ xuống, các cửa sổ đều sáng đèn; và toàn thể lâu đài ở trong một tình trạng rối loạn. Các gia nhân, mặt mui xám ngoét, đứng sát vào nhau ở phòng ngoài, còn anh đầu bếp, cứ vặn hai bàn tay vào nhau trên bực cửa, chỉ một mình ông là có vẻ tự chủ và kìm đuợc nỗi xúc động. Ông mở cửa ở phòng ngoài, và mời trung si đi theo ông. Cùng lúc đó bác sỹ Wood ở trong làng, cung đến. Cả ba người bước vào căn phòng đã xảy ra tấn thảm kịch. Anh đầu bếp theo vào, đóng cửa lại. 

Nạn nhân nằm ngửa. chân tay duỗi thẳng ở giữa buồng, trên người chỉ có một cái áo choàng màu hồng, phủ ra ngoài bộ quần áo ngủ, chân đi giày vải. Vị bác sỹ cầm cây đèn đặt lên bàn và quỳ xuống bên cạnh xác chết; thoáng nhìn qua ông lắc đầu: Douglas đã chết. Một thứ vu khí kì lạ đuợc đặt tréo ngực ông ta: Đó là một khẩu súng ngắn mà nóng đã đuợc cưa ngắn đi, chỉ cách cò súng khoảng 1 foot. Trông rõ ràng là ông ta đã bị bắn rất gần, và bị trúng đạn vào ngay giữa mặt. Cả hai cò súng đã đuợc nối liền với nhau bằng một sợi dây thép, để lúc bắn thì cả hai nòng đều bắn một lượt làm cho sức công phá càng ghê gớm.

Viên cảnh sát nói thất thanh:

- Không ai đuợc sờ mó vào một tý gì ở đây, truớc khi cấp trên của tôi đến.

Ông Barker nói dứt khoát:

- Chưa có ai đụng vào đây cả, tất cả mọi vật đều vẫn y nguyên như lúc đầu.

- Vào lúc mấy giờ?

Viên trung si đã rút cuốn sổ tay ra.

- Vào lúc 11 giờ rưỡi. Lúc đó tôi vẫn ngồi trước lò sưởi ở trong phòng tôi, thì nghe thấy tiếng nổ. Nổ không to lắm. Hình như có cái gì bịt kín lại vậy. Tôi vội đâm bổ xuống dưới nhà. Tôi nghi rằng từ trên đó xuống đến đây không quá 30 giây đồng hồ.

- Lúc đó cửa có mở không?

- Cửa mở, ông Douglas thì nằm đúng nhu thế này. Ngọn nến trong buồng vẫn cháy sáng ở trên bàn làm việc. Sau đó một chút thì chính tối đã thắp cây đèn lên.

- Ông có trông thấy ai không?

- Không. Tôi nghe thấy tiếng bà Douglas ở trên lầu chạy xuống sau tôi, và tôi đã ngăn bà lại để cho bà khỏi trông thấy cảnh thương tâm này. Bà hầu phòng Allen cung chạy đến và đã dìu bà chủ đi lên. Rồi anh đầu bếp Ames đến, và tôi với ông ta cùng đi vào trong phòng.

- Tôi tưởng rằng cây cầu rút đêm nào cung kéo lên kia mà.

- Đúng thế. Nhưng chính tôi đã hạ nó xuống để đi báo cho ông.

- Nhung vậy thì tên sát nhân làm sao trốn ra đuợc. Phải đặt vấn đề khác đi thôi: Có thể là ông Douglas tự tử chăng?

- Chúng tôi cung đã có nghi đến điều đó. Nhung ông xem đây này....

Ông Barker kéo tấm rèm để lộ một khuôn cửa sổ cao mở toang.

- Và mời ông xem cái này nữa.

Ông Barker đua cái đèn lại gần thành cửa sổ, nơi đó có một vết máu giống hệt như hình đế của một chiếc giầy.

- Rõ ràng là có người đã trèo qua đây.

- Có phải ông muốn nói rằng có người đã chạy trốn bằng cách vượt qua con hào này, phải không? Nhưng mà nếu chưa đầy nửa phút sau vụ án, ông đã có mặt ở đây, thì người ấy lúc đó còn phải đang lội nước.

- Chắc chắn là như vậy. Ôi tiếc quá, không hiểu sao lúc đó tôi không nhẩy bổ ngay qua cửa sổ. Bị cái rèm cửa này che khuất, thành ra tôi không nghi ra nữa. 

Vị bác sỹ cung lẩm bẩm nói khẽ:

- Tôi chưa bao giờ trông thấy một vết thương nát bấy ra như vậy.

Viên trung si vẫn cứ ngắm mãi khuôn cửa sổ mở rộng.

- Nhưng mà này, câu chuyện có người lội nước qua khe hào nghe thú vị thật, nhưng hắn làm cách nào để vào đuợc lâu đài, vì chiếc cầu rút đã bị kéo lên rồi mà.

- À vâng. Đó, tất cả vấn đề là ở chỗ đó. - Ông Barker nói.

- Thế mấy giờ thì người ta kéo cầu lên?

- Lúc đó là gần 6 giờ chiều. - Ông Ames trả lời.

- Tôi nghe nói là ở đây vẫn thường rút câu lên vào lúc mặt trời lặn. Như thế vào mùa này thì gần 4 giờ rưỡi hơn là gần 6 giờ chứ. - Viên trung si lại nhấn mạnh

- Hôm nay bà chủ tiếp khách. Tôi không thể đụng đến cây cầu khi các vị khách chưa ra về. Chính tay tôi đã rút cây cầu lên. – Anh Ames giải thích

- Nếu như có những người từ bên ngoài vào lâu đài thì họ phải đi qua cầu trước sau giờ, rồi trốn ở trong này, vì ông chủ mãi sau 11 giờ đêm mới bước vào căn buồng này

- Đúng nhu thế. Đêm nào, trước khi đi ngủ, ông Douglas cung đi một vòng quanh lâu đài để xem đã tắt hết đèn chưa? Chính trong khi đi vòng như vậy, ông đã vào căn buồng này. Tên sát nhân đã đợi ông ta ở đây, và bắn thẳng vào ông ta. Rồi hắn trốn bằng cách leo qua cửa sổ, bỏ lại cây súng. - Barker giải thích.

Viên trung si cúi xuống nhặt một mẩu bìa cứng ở bên cạnh xác chết trên có ghi 2 chữ “V. V.” và một con số 341, chữ viết rất thô kệch. Ông ta giờ mẩu bìa lên hỏi:

- Cái gì thế này?

Ông Barker nhìn mẩu bìa một cách tò mò:

- Tôi cung không để ý thấy nó. Có lẽ tên hung thủ lúc chạy trốn đã bỏ rơi lại.

- V.V. 341. Tôi chẳng hiểu gì cả.

Viên trung si cứ xoay đi xoay lại mãi mẩu bìa.

- V.V.? Có lẽ là những chữ đầu tiên của một người nào đây chăng. Bác sỹ Wood, bác sỹ có cái gì đó.

Ông bác sỹ đã nhặt đuợc một chiếc búa khá to trước lò sưởi. Ông Barker chỉ vào một hộp dính dầu bằng đồng trên mặt lò sưởi, giải thích:

- Ngày hôm qua, ông Douglas có thay đổi chỗ treo mấy bức tranh. Tôi thấy ông ta đứng trên chiếc ghế này để treo bức tranh lớn bên trên. Việc đó cắt nghia tại sao lại có chiếc búa trên đây.

Viên trung si gãi đầu ra vẻ khó nghi:

- Có lẽ chúng ta nên để lại chiếc búa ở nơi tìm thấy nó thì hơn. Phải những cái đầu giỏi nhất ở Scotland Yard mới hiểu thấu đáo đuợc mọi việc.

Rồi ông ta cầm lấy chiếc đèn từ từ đi quanh căn phòng.

- Có người đã trốn ở đây, chắc chắn là như thế.....

Viên trung si hạ cây đèn thấp xuống: ở một góc, thấy những vết giầy có dính bùn rất rõ.

- Việc phát hiện này là phù hợp với gỉa thiết của ông, ông Barker ạ. Có thể là tên hung thủ đã vào lâu đài sau 4 giờ chiều khi những tấm rèm cửa sổ đã đuợc buông xuống; và trước 6 giờ, khi cây cầu đuợc rút lên. Nó lẩn ngay vào đây, trốn đằng sau bức rèm này. Rất có thể ý định của nó là vào ăn trộm, nhưng chẳng may ông Douglas lại bắt gặp nó, thế là nó giết ông ta và chạy trốn.

- Tôi cung nghi gần giống như vậy. Nhưng ông có thấy rằng chúng ta đã mất bao nhiêu thời giờ quý báu rồi không? Tại sao chúng ta không kéo cả mọi người ra đi lùng sục khám xét khắp xung quanh, trước khi hung thủ có thể trốn thoát đuợc. - Barker đề nghị.

Viên trung si cắn môi suy nghi một lát:

- Không có chuyến tàu nào chạy trước 6 giờ sáng. Vậy nó không thế trốn thoát đi bằng đuờng tàu hoả. Nếu nó đi đuờng bộ thì với cái quần ướt sung, thế nào nó cung bị người ta để ý. Nhưng dù sao tôi cũng không thể rời khỏi đây đuợc trước khi có người đến thay tôi.

Vị bác sỹ lại cầm lấy cây đèn để khám lại tử thi một lần nữa. Ông bỗng hỏi:

- Cái vết này là cái gì đây. Nó có liên quan gì đến vụ án này không?

Cánh tay áo bên phải của người chết đã đuợc kéo lên khuỷu tay, ở giữa cánh tay thấy nổi lên trên da hình màu nâu của một tam giác nằm trong một vòng tròn.

Bác sỹ Wood nói:

- "Đây không phải là một vết xăm. Tôi coi bộ như ngưòi này đã bị đánh dấu bằng một cái khuôn nung đỏ, giống như người ta đánh dấu đàn gia súc vậy." Bác sỹ nói thêm: "Thế này là thế nào?"

- Tôi không hiểu đuợc. Có điều là từ 10 năm nay, tôi đã nhiều lần nhìn thấy cái dấu này trên tay ông Douglas. - ông Barker nói.

- Tôi cung thấy nhiều lần khi ông chủ xắn tay áo lên. - Anh đầu bếp nói

- Nếu như vậy thì nó không có dính dáng gì đến vụ án mạng này rồi. Nhưng dù sao thì nó cung thật kỳ lạ. Trong vụ này không có cái gì là bình thường cả. Tôi cung không hiểu bây giờ còn xảy ra những gì nữa đây - Viên trung si kết luận

Anh đầu bếp vừa thốt kêu lên kinh ngạc và chỉ vào bàn tay duỗi thẳng của người chết, nói lắp bắp:

- Nó tháo mất chiếc nhẫn cưới của ông rồi.

- Cái gì?

- Ông chủ tôi đeo chiếc nhẫn bằng vàng ở bên trong một chiếc nhẫn khác có gắn một hạt ngọc, chiếc nhẫn có hạt ngọc còn đây nhung chiếc nhẫn cưới thì biến mất.

- Anh ấy nói đúng đấy. - Barker lên tiếng

- Ông vừa khai là chiếc nhẫn cưới đeo ở trong chiếc nhẫn có gắn ngọc., - Viên trung si hỏi lại.

- Thưa vâng.

- Thế thì hung thủ đã tháo chiếc nhẫn có ngọc ra, rồi sau đó nó mới đoạt lấy chiếc nhẫn cưới, rồi lại đeo lại chiếc nhẫn có hạt ngọc vào tay người chết.

- Như vậy đó.

Viên trung si lắc đầu lia lịa:

- Chúng ta hãy báo cáo tất cả về London. Ông Mason là một tay cừ khôi. Chưa bao giờ có một vụ án nào làm ông phải lúng túng cả. Còn về phần tôi, tôi xin thú nhận là vụ này vượt quá sức hiểu biết của tôi.

***

Chương 4

Tối mò

Ông Mason trông có vẻ bình tĩnh và thoải mái. Ông mặc một bộ quần áo vải tuýt rộng thùng thình, chân đi ghệt. Trông ông giống như một ông chủ trại cỡ nhỏ, một người gác rừng đã về hưu, hơn là giống một người đại diện cơ quan cảnh sát hình sự cấp tỉnh.

Ông không ngừng nhắc đi nhắc lại:

- Đây là một vụ án làm đau đầu đây, thưa ông MacDonald. Tôi mong rằng chúng ta sẽ làm tốt được nhiều việc, trước khi bọn ký giả rúc mũi vào cuộc điều tra làm hỏng hết các dấu vết. Có nhiều chi tiết có lẽ sẽ làm ông vui lòng, thưa ông Holmes. Cả đối với ông cũng thế, thưa ông bác sỹ Watson. Buồng của các ông đã được đăng ký trước ở khách sạn "Westville Arms". Thôi để bác khuân vác trông coi hành lý và xin mời các ông vui lòng đi theo tôi.

Chỉ sau 10 phút là chúng tôi đã có phòng ở và 10 phút sau nữa, chúng tôi đã ngồi cả trong phòng khách của khách sạn. Ông MacDonald giở sổ tay ra ghi. Còn Holmes thì có dáng điệu của một nhà thực vật học vừa ngạc nhiên vừa ngắm nghía một bông hoa. Sau khi nghe xong câu chuyện, anh ta reo lên:

- Tuyệt. Thật là tuyệt. Chưa có một vụ nào kỳ lạ như vụ này.

Ông Mason hớn hở:

- Vâng, tôi đã trình bày với các ông tất cả những gì mà thượng sỹ Wilson báo cáo với tôi. Thượng sĩ đã nắm được hết mọi sự kiện.

Tôi đã có kiểm tra lại, suy nghĩ, và có bổ sung thêm chút ít.

- Thế ông có biết thêm điều gì mới nữa không? - Holmes hỏi.

- Trước hết, tôi xem xét chiếc búa, không tìm thấy một dấu vết gì của bạo lực cả.

Ông thanh tra MacDonald lưu ý:

- Trong nhiều vụ án mạng, nạn nhân bị đập bằng búa, mà trên chiếc búa có thấy dấu vết gì đâu.

- Đúng như vậy. Sau đó tôi xem xét đến khẩu súng. Súng được lắp đạn ghém, hai cò súng được buộc với nhau, chỉ cần bóp cò thì cả hai viên đạn ở hai nòng để nổ một lúc. Nòng súng bị cưa ngắn đi, như vậy có thể dễ dàng mang nó theo dưới một áo khoác. Toàn bộ tên của nhà sản xuất thì không thấy có, nhưng trên những đường góc giữa hai nòng súng thấy còn lại chữ "PEN", các chữ khác thì bị cưa đi mất rồi.

Holmes hỏi luôn"

- Một chữ P hoa có vẽ hoa lá bên trên, và một chữ E, một chữ N nhỏ hơn có phải không ạ?

- Đúng đấy ạ.

- Hãng sản xuất súng Mỹ tên là "Pennsylvania Small Arms Company "

Ông Mason nhìn Holmes với cặp mắt của một ông thầy thuốc nông thôn nhìn một đại chuyên gia trong ngành y tế.

- Không còn nghi ngờ gì nữa, đúng là một khẩu súng Mỹ rồi. Tôi có đọc đâu đấy rằng súng săn cưa nòng, chính là một loại vũ khí thường dùng trong một số vùng nào đó ở bên Mỹ. Như vậy có rất nhiều khả năng là cái tên đã lọt vào trong lâu đài và đã giết ông chủ nhà là người Mỹ.

Ông MacDonald gật gù:

- Ông đi mau quá đấy, tôi chưa có chứng cớ gì để tin rằng có một kẻ lạ mặt đã lọt vào trong này.

- Cửa sổ mở toang, vết máu trên thành cửa, mẩu bìa cứng, vết giày ở góc nhà, khẩu súng...

- Mấy thứ đó chẳng có cái gì mà không bố trí trước được? Ông Douglas vốn là một người Mỹ, ông Barker cũng thế, vậy thì đâu nhất thiết phải đưa một người Mỹ khác từ ngoài lọt vào để giải thích những chi tiết Mỹ đó.

- Ames, người đầu bếp...

- Anh ta có đáng tin cậy không?

- Anh ta đã ở với gia đình Douglas từ 5 năm nay. Anh ta chưa hề trông thấy khẩu súng này trong nhà.

- Khẩu súng này không phải là thứ đem trưng bày cho mọi người thấy. Chính vì thế người ta mới đem cưa nòng của nó đi. Nó có thể đem cất giấu vào bất cứ một cái hộp nào. Làm sao anh Ames lại có thể đoán chắc được rằng trong nhà không có một khẩu súng loại này.

- Nhưng dù sao thì tôi cũng chưa trông thấy nó bao giờ.

MacDonald vẫn lắc đầu không chịu:

- Tôi vẫn chưa tin là có một người lạ mặt vào đây. Tôi xin các ông hãy thử suy nghĩ xem hậu quả sẽ như thế nào khi giả thiết rằng khẩu súng này là do một người từ bên ngoài mang vào và người này đã hành động như các ông vừa nói.

Holmes lấy cái giọng rất "chánh án" chỉ MacDonald, nói:

- Ông Mac, tòa nghe lời khai của ông.

- Hung thủ không phải là một tên ăn trộm tầm thường. Chuyện chiếc nhẫn và mẩu bìa cứng đã chứng tỏ rằng đây là một vụ giết người có âm mưu, vì một lý do cá nhân nào đó mà ta chưa rõ.

- "Vậy hung thủ đã lẩn vào trong nhà với ý định gây ra một vụ án". Mason nói. "Hắn biết sẽ gặp khó khăn khi muốn thoát ra vì lâu đài được bao bọc bởi một đường hào đầy nước. Vậy thì hắn sẽ chọn thứ vũ khí gì? Chắc các vị sẽ trả lời tôi: Một vũ khí thầm lặng. Dùng vũ khí đó, thì sau khi gây ra án mạng, hắn có thể hy vọng chui nhanh qua cửa sổ, lội qua con hào rồi bình tĩnh chạy trốn. Như vậy, thì tôi có thể chấp nhận được, Còn nói hắn chọn một khẩu súng, trong khi hắn biết tiếng nổ sẽ làm cho mọi người trong nhà đổ xô đến và hắn sẽ bị phát hiện trưóc khi lội qua con hào.Liệu luận cứ này có lý không, thưa ông Holmes".

Anh bạn tôi suy nghĩ một lát rồi đáp:

- Tất nhiên là ông đã trình bày sự việc một cách không thể cãi được. Nhưng mà phải có chứng minh. Tôi xin phép được hỏi ông Mason, không biết ông có xem xét ngay bờ bên kia của đường hào để tìm dấu vết của một người từ dưới nưóc lội lên không?

- ở đó không có một dấu vết nào. Bờ bên kia xây bằng đá, thành ra cũng khó thấy.

- Không có một cái vết, không có một dấu in nào, không có gì cả hay sao?

- Tuyệt đối không. 

- A, thế nếu bây giờ tất cả chúng ta cùng đi ngay ra đấy xem lại.

- Tôi cũng định đề nghị như vậy. Nhưng có lẽ tốt hơn cả, tôi thông báo hết mọi chuyện để ông nắm trước khi ra đấy.

Mason nhìn Holmes, không tin tưởng gì lắm.

Ông thanh tra MacDonald nói:

- Tôi đã có làm việc với ông Holmes và ông đã chịu vào cuộc với chúng ta rồi.

Holmes cười tủm tỉm:

- Tôi vào cuộc nhưng với quan niệm riêng của tôi về cách chơi. Tôi có chú ý đến một vụ nào cũng cốt là để giúp đỡ công lý và công việc của cảnh sát mà thôi. Nếu tôi có đứng ngoài cơ quan cảnh sát thì cũng chỉ vì cơ quan này gạt tôi ra ngoài. Nói rõ như thế rồi, tôi đòi hỏi quyền được làm việc theo những phương pháp riêng và khi nào thấy có thể được, tôi sẽ xin thông báo với ông những kết quả toàn bộ làm một lần, chứ không phải từng phần một.

Ông Mason nói:

- Chúng tôi rất hân hạnh về sự có mặt của ông, bác sỹ Watson, chúng tôi hy vọng rằng sau này chúng tôi sẽ được ông dành cho một chỗ trong những tác phẩm của ông.

Chúng tôi đi xuôi xuống một con đường làng giữa hai hàng cây dương đã hớt ngọn. ở phía dưới hai cây cột bằng đá phủ rêu còn dấu vết của con sư tử đá ngày xưa. Sau một khúc quẹo gấp cuối cùng, chúng tôi trông thấy tòa nhà cổ thấp xây bằng gạch cũ. Tòa lâu đài đã qua ba thế kỷ, chứng kiến biết bao sự ra đời, bao lần đi xa trở về tổ ấm, bao nhiêu cuộc khiêu vũ, bao nhiêu cuộc hẹn hò. Nay những bức tường cổ kính này lại phải chứng kiến một tấn thảm kịch thương tâm.

Mason chỉ cho chúng tôi:

- Đó, cửa sổ đó. Cái cửa ở ngay bên phải sát cây cầu rút. Nó được mở toang ra đúng như trong đêm hôm qua.

- Nó hẹp quá, làm sao một người chui qua được. 

- Tên hung thủ chắc không mập lắm. Ông và tôi, chúng ta đều chui qua được một cách dễ dàng.

Holmes đi tới con hào, xem xét bãi cỏ cùng bờ đá. Mason nhắc lại:

- Tôi đã xem kĩ lắm rồi, không có bất cứ một dấu vết gì chứng tỏ có một người từ dưới nước đi lên.

- ở đây cứ luôn đục bùn thế này?

- Thường thì nước có màu này. Giòng nước sông đưa phù sa vào. 

- Nó sâu bao nhiêu.

- ở gần bờ thì khoảng 2 feet, còn giữa thì là 3.

- Như vậy chúng ta có thể loại bỏ giả thiết là hắn bị chết đuối khi lội qua hào.

- Trẻ con cũng không chết đuối.

Chúng tôi bước qua chiếc cầu rút và một nhân vật xương xẩu ra mở cửa cho chúng tôi: Đó là Ames. Anh chàng vẫn còn run rẩy. Trung sĩ ngồi cạnh trong căn phòng xảy ra án mạng. Ông bác sỹ Wood đã về. Ông Mason hỏi:

- Có gì mới không, thượng sĩ Wilson?

- Thưa ông, không có gì.

- Thế thì anh có thể về nhà. Khi nào cần anh, sẽ báo sau. Anh bảo anh đầu bếp hãy đi báo cho ông Barker, bà Douglas và bà hầu phòng rằng chúng tôi cần gặp họ. Bây giờ, tôi xin trình bày quan điểm riêng của tôi, sau đó các ông sẽ nói lên quan điểm của các ông...

Cái ông cảnh sát ở tỉnh nhỏ này coi bộ mới đàng hoàng làm sao. Ông ta nắm rất vững mọi sự kiện và có một bộ óc sáng suốt, lạnh lùng, nhất định ông ta sẽ tiến rất xa về nghề nghiệp. Holmes nghe ông ta nói một cách chăm chú.

- ... Đây là một vụ tự sát? Hay là một vụ ám sát? Nếu đây là một vụ tự sát thì chúng ta phải tin rằng người nay bắt đầu tháo chiếc nhẫn cưới của mình ra, đem giấu đi. Rồi người đó đi xuống đây, đặt đôi giày có dính bùn vào đằng sau bức rèm cửa để làm cho người ta tưởng là có ai đứng đợi ở đó, sau đó mở toang cửa sổ ra, bôi máu lên thành...

Ông MacDonald cắt ngang: 

- Chúng ta có thể gạt bỏ giả thiết này.

- Vậy thì đã xảy ra một án mạng. Chúng ta phải tìm xem hung thủ là người trong nhà hay từ ngoài vào.

- Chúng tôi xin nghe lập luận của ông.

- Trong cả hai trường hợp đó, chúng ta đều vấp phải những khó khăn to lớn. Nhưng không thể có một giả thiết thứ ba. Chỉ một trong hai giả thiết đó thôi. Trước hết chúng ta hãy giả thiết: hung thủ là người ở ngay trong lâu đài này. Chúng đã hạ ông Douglas trong một thời điểm mà tất cả mọi sự đều yên tĩnh, nhưng chưa ai ngủ cả. Mặt khác, chúng đã gây án mạng bằng một vũ khí lạ nhất và ầm ĩ nhất, để sau đó mọi người đều biết. Một vũ khí mà trước đó, chưa ai nhìn thấy ở trong nhà. Như vậy thật cũng khó tin quá.

- Vâng khó tin thật.

- Tất cả mọi lời khai đều khớp với sự kiện này. Sau khi báo động, chỉ chưa đầy một phút, thì mọi người đã có mặt ở hiện trường. Như vậy thì liệu các ông có tin được rằng trong một khoảng thời gian rất ngắn mà hung thủ đã làm rất nhiều việc: in các dấu chân trong góc nhà, mở cửa sổ, làm vấy máu lên thành cửa, rút chiếc nhẫn cưới ra rồi lại gắn vào ....

Holmes tán thành:

- Ông đặt vấn đề một cách rất rõ ràng.Tôi ngả theo quan điểm của ông.

- Như vậy, chúng ta bắt buộc phải trở lại giả thiết do một người ở ngoài gây ra. Tên sát nhân đã lọt vào nhà trong khoảng thời gian từ 4 giờ rưỡi đến 6 giờ chiều. Hôm đó có tiếp khách, cửa mở rộng, nên không có gì ngăn được nó. Cũng có thể nó chỉ là một tên ăn trộm tầm thường thôi. Cũng có thể nó là một người có hận thù riêng gì với ông Douglas. Nó đã chui vào căn phòng này và đã trốn ở đằng sau bức rèm cửa. Nó đứng ở đó đến quá 11 giờ đêm. Vào giờ này ông Douglas bước vào phòng. Cuộc đối thoại với tên sát nhân rất ngắn ngủi, vì bà Douglas khai rằng chồng bà mới đi xuống chừng vài phút thôi là bà đã nghe thấy tiếng súng .

- Cây nến cũng phù hợp với điều đó. - Holmes nói.

- Đồng ý. Cây nến còn mới, chỉ cháy khoảng nửa inch, chắc ông ta đã đặt nó lên bản trước khi bị tấn công; nếu không, nó đã rơi xuống đất khi ông ta ngã. Điều này cũng chứng tỏ là ông ta không bị tấn công ngay khi vừa bước vào phòng.

- Tất cả đều rõ ràng.

- Bây giờ chúng ta có thể hình dung lại diễn biến của vụ án.: Ông Douglas bước vào phòng, đặt cây nến lên bàn. Một người từ sau bức rèm hiện ra. Hắn có mang cây súng. Hắn đòi chiếc nhẫn cưới. Ông Douglas đưa nhẫn cho hắn. Thế là hắn bắn ông Douglas vì ông này đã vớ được cái búa để trên thảm. Hắn bỏ rơi khẩu súng xuống, và cả mẩu bìa cứng có mang chữ "V.V 341". Rồi hắn chạy trốn qua cửa sổ và lội qua hào giữa lúc ông Barker phát hiện ra vụ án mạng. Ông nghĩ thế nào ông Holmes?

- Rất hay, nhưng chưa thuyết phục được người nghe.

Ông MacDonald kêu lên:

- Ông bạn thân mến, tôi sẽ chứng minh cho ông thấy là nó sẽ hành động theo một cách khác. Tại sao nó dám dùng một khẩu súng sau khi nó biết rằng muốn thoát ra thì phải dùng một vũ khí thầm lặng. Nào, ông Holmes bây giờ xin ông cho biết ý kiến.

Holmes hết liếc mắt từ phải qua trái rồi từ trái sang phải. Anh đứng dậy, đến quỳ bên xác chết.

- Tôi muốn có thêm một vài sự kiện bổ xung, trước khi đi vào một giả thiết, thưa ông MacDonald. Những vết thương này thật là khủng khiếp. Chúng ta có thể cho anh đầu bếp vào đây một lát được không, các ông... Anh Ames, tôi chắc rằng anh đã được nhìn thấy nhiều lần cái hình rất kì lạ này, một tam giác trong một đường tròn, áp bằng sắt nung đỏ lên cẳng tay của ông Douglas phải không?

- Vâng, thưa ông, nhiều lần ạ.

- Anh có bao giờ nghe thấy một lời nói nào có thể giải thích được ý nghĩa của cái dấu ấy không?

- Thưa ông, không.

- Chắc lúc mới áp vào phải đau đớn lắm đấ., Rõ ràng là một vết bỏng. Này anh Ames, bây giờ tôi trông thấy một miếng băng dính ở dưới cằm ông Douglas. Anh có nhận thấy không? 

- Thưa ông có ạ. Sáng hôm qua, ông ấy đã bị đứt khi cạo mặt.

- Ông ấy có hay bị đứt như vậy khi cạo mặt không?

- Thưa ông, hầu như không.

- Rất hay. Tất nhiên đây chỉ là một sự ngẫu nhiên thôi. Nếu không, nó chứng tỏ ông ta đang lo lắng về một mối nguy hiểm nào đó. Anh Ames, ngày hôm qua anh có nhận thấy có một cái gì đó khác thường trong sinh hoạt của ông chủ không?

- Ông chủ tôi có hơi bồn chồn và cáu gắt.

- à, thế thì. Hình như chúng ta đã tiến thêm được vài bước. Ông MacDonald, ông có muốn đích thân hỏi thêm gì nữa không?

- Không, xin nhường cho những người cao minh hơn.

- Vậy thì chúng ta quay sang mẩu bìa "V.V. 341". Đây là một loại bìa tồi, ở trong nhà có thứ bìa nào giống thế này không?

- Thưa ông, không ạ.

Holmes đi lại bên bàn giấy, lấy mỗi lọ mực, đổ vài giọt lên giấy thấm. 

- Những chữ này không phải viết ở đây rồi. Viết bằng mực đen, còn mực ở đây màu đỏ gạch, vả lại viết bằng một ngoì bút to nét, còn những ngòi bút ở đây đều nhỏ nét cả.

- Không, những chữ này đã được viết ở nơi khác rồi. Anh Ames, anh có cho rằng những chữ này có ý nghĩa gì không?

- Thưa ông, tôi không biết.

- Ông nghĩ thế nào, ông MacDonald?

- Nó làm tôi nghĩ đến một hội kín. Cái dấu ở trên cánh tay kia cũng thế.

- Tôi cũng nghĩ như vậy. - Ông Mason lên tiếng.

- Chúng ta chọn giả thiết đó. Một thành viên của một hội kín lọt vào trong lâu đài, chờ ông Douglas và bắn vỡ sọ ông ta, rồi trốn ra bằng đường hào, sau khi đã vứt lại bên cạnh nạn nhân một mẩu bìa cứng có ghi những chữ mà khi báo chí đăng lên sẽ báo tin cho các thành viên khác của hội biết rằng việc trả thù đã hoàn thành. Tất cả mọi cái đều khớp.

- Nhưng tại sao lại dùng súng, mà không dùng bất cứ vũ khí nào khác?

- Đúng thế.

- Và tại sao chiếc nhẫn cưới lại biến mất?

- Đồng ý.

- Tại sao người ta lại chưa bắt được người nào? Bây giờ là 14 giờ rồi, tôi chắc rằng từ rạng đông đến giờ tất cả cảnh sát đang truy lùng một người lạ mặc quần áo ướt và lấm bùn.

- Vâng, ông không nhầm, ông Holmes ạ.

- Nếu hắn không có một nơi ẩn nấp ở gần đây, và nếu hắn không thay được quần áo, thì cảnh sát không để lọt lưới. ấy vậy mà cho đến giờ này, hắn đã lọt lưới thật....

Holmes đi lại phía cửa sổ, và rút chiếc kính lúp ra, xem xét vết máu trên thành cửa.

- Đúng là vết in của một bàn chân. To hơn bình thường. Phải nói là giống như một bàn chân phẳng. Một điều kì lạ khác nữa: Cái vết chân dính bùn ở góc nhà kia lại có vẻ bình thường hơn vết này. Nói cho ngay ra, thì tất cả đều mờ nhạt không rõ ràng. Còn cái gì ở dưới gầm chiếc bàn con thế kia?

- Những quả tạ của ông Douglas. - Ames đáp.

- Chỉ thấy có một quả thôi, Còn quả kia đâu?

- Thưa ông, tôi không biết. Có thể là chỉ có một quả thôi, Đã hàng tháng nay tôi không nhìn xuống đó.

Holmes nói một cách trầm ngâm:

- Một quả tạ ....

Một tiếng gõ cửa đã ngắt lời anh. Một người đàn ông cao lớn, mặt cạo râu nhẵn nhụi, da rám nắng, trông thông minh, lanh lẹ bước vào. Đó là Barker. Đôi mắt quen ra lệnh của ông ta đảo nhìn chúng tôi một lượt.

- Tôi xin lỗi đã làm gián đoạn cuộc họp, nhưng tôi muốn báo các ông một tin cuối cùng,

- Đã bắt được rồi ư?

- Chưa. Nhưng người ta đã tìm thấy chiếc xe đạp, hung thủ đã bỏ nó lại. Chỉ cách cửa ngoài chưa tới 100 yards.

Mấy gia nhân cùng những người hiếu kì đang ngắm nghiá một chiếc xe đạp mà người ta vừa lôi ở trong một bụi cây ra. Cái túi sau yên xe đựng một chiếc cờ lê và một lọ dầu nhớt, nhưng không có một chỉ dẫn nào về người chủ của nó. ông thanh tra thở dài, nói:

- Công việc sẽ đơn giản biết bao nếu xe này có mang biển số. Nhưng chúng ta sẽ biết được ngay chủ nó mang xe từ đâu đến.

Nhưng mà, tại sao hắn lại vứt bỏ chiếc xe đạp? Làm thế, hắn không đi xa được. Ông Holmes này, hình như chúng ta chưa có được một tia sáng nào.

- Chính tôi cũng đang tự hỏi như vậy. - Holmes đáp.

***

Chương 5

Những nhân vật của tấn thảm kịch

Khi chúng tôi bước ra khỏi phòng, ông Mason còn hỏi lại:

- Các ông đã xem kỹ căn phòng này chưa?

- Hiện nay thì đủ rồi. - ông thanh tra đáp.

Holmes cũng gật đầu đồng ý.

- Bây giờ thì chắc các ông muốn nghe lời khai của một vài người ở trong lâu đài này. Anh Ames, chúng tôi sẽ làm việc ở trong phòng ăn. Trước hết, anh hãy cho chúng tôi nghe tất cả những gì mà anh biết.

Câu chuyện của anh đầu bếp kể lại đã thuyết phục được người nghe. Anh ta đã được nhận vào làm 5 năm trước đây, khi ông Douglas vừa đến ở Birlstone. Ông Douglas là một người có của và đàng hoàng, đã từng làm giàu trước đây ở bên Mỹ, ông tỏ ra là một ông chủ tốt và hào phóng, ông Douglas ra lệnh mỗi buổi chiều phải kéo cây cầu lên là để nối tiếp lại một phong tục cũ của tòa lâu đài cổ này. Ông rất ít khi đi London, và cũng ít khi rời khỏi làng. Nhưng một ngày, trước hôm xảy ra án mạng, ông đi lên Tunbridge Wells để mua sắm một ít đồ vật. Ngày hôm sau, chính Ames nhận xét thấy ông Douglas có vẻ hơi nóng nảy, cáu gắt và

điều này thật là khác thường. Lúc xảy ra án mạng, Ames đang ở trong bếp, đang cất dọn các đồ chén bát. Chính lúc đó anh nghe tiếng kéo chuông thật mạnh, nhưng không nghe thấy tiếng súng nổ vì từ bếp lên đến căn phòng ấy còn phải qua một dãy hành lang dài và mấy lớp cửa đóng. Tiếng chuông quá mạnh cũng làm cho bà hầu phòng phải chạy ra, và hai người cùng chạy lên nhà trên. Khi đến chân cầu thang, thì bà Douglas ở trên lầu đang đi xuống. Không, bà ta không có dáng vội vàng. Và Ames có cảm giác là bà ta không bối rối. Khi bà Douglas xuống đến bậc cầu thang cuối cùng, thì ông Barker từ trong phòng chạy ra, ngăn bà lại và xin bà trở lên. Ông ấy kêu lên:

- Chị hãy trở lên phòng ngay đi. Anh ấy đã chết rồi. Chị lên đi.

Ông Barker phải nói mãi bà Douglas mới chịu lên phòng. Bà không khóc. Bà không làm ồn ào. Bà hầu phòng Allen đã dìu bà lên và ở trong phòng với bà. Ames và ông Barker lúc đó mới đi vào trong căn phòng. Bấy giờ ngọn nến không cháy, mà cây đèn lại cháy. Cả hai người nhìn qua cửa sổ, nhưng đêm tối đen như mực, và không nghe thấy gì cả. Họ đổ xô ra buồng ngoài và Ames đã hạ cây cầu rút xuống để ông Barker đi báo cảnh sát.

Lời khai của bà hầu phòng Allen cũng khớp với lời khai của Ames. Buồng riêng của bà hầu phòng ở gần phía nhà trên hơn là chỗ bếp của Ames. Bà đang đi ngủ, thì nghe tiếng chuông kéo thật mạnh. Bà có hơi nặng tai. Không biết có phải vì thế mà bà không nghe thấy tiếng súng chăng? Khi ông Ames chạy lên nhà trên, thì bà cũng chạy theo ông ta. Bà có trong thấy ông Barker mặt bối rối từ trong phòng đi ra.Ông ta chạy đến trước mặt bà Douglas lúc đó ở trên cầu thang đi xuống. Ông ta năn nỉ mời bà Douglas đi lên, và bà ta có trả lời lại điều gì đó mà bà Allen nghe không rõ. Ông Barker ra lệnh cho bà:

- Bà đưa bà chủ lên lầu đi. Và ở luôn đó với bà chủ.

Bà đưa bà chủ lên lầu về phòng và cố khuyên bà chủ bình tĩnh lại. Bà Douglas, chân tay run bắn, nhưng cũng không muốn đi xuống nữa. Bà mặc chiếc áo khoác, ngồi vào bên lò sưởi, hai tay ôm lấy đầu. Bà Allen đã ở lại đó cả đêm với bà. 

Còn các gia nhân khác, thì họ đều đi ngủ cả, và chỉ được báo động trước lúc cảnh sát đến một chút thôi.

Đến lượt ông Barker. Về những sự kiện xảy ra đêm hôm qua, ông cũng khai y như đã khai với trung sĩ Wilson. Riêng ông, ông tin rằng tên sát nhân đã trốn qua cửa sổ. Theo ông thì vết máu ở trên thành cửa sổ không cho phép người ta nhgi ngờ điều đó. Nhưng ông ta không hiểu vì sao hung thủ lại có thể biến đi được, hoặc tại sao nó lại không chịu trốn bằng xe đạp, nếu chiếc xe ấy là của nó.

Về vụ án mạng này, ông có thể có một quan điểm rất rõ ràng. Ông Douglas là người Ailen di cư sang Mỹ từ thời còn thanh niên, đã làm ăn phát đạt và Barker đã quen biết ông ta ở California. Hai người chung vốn khai thác một cái mỏ, kết quả hết sức tốt đẹp. Đột nhiên Douglas bán lại phần của ông ta và trở về Anh. Lúc đó Barker vừa góa vợ. ít lâu sau, Barker chuyển hết tài sản ra thành tiền mặt rồi về London, vì thế hai người lại nối lại tình bạn cũ. Douglas làm cho Barker có cảm giác rằng có một mối nguy hiểm nào đó đang treo trên đầu mình, và Barker vẫn nghĩ rằng việc Douglas đột ngột rời bỏ California là có liên quan đến mối nguy hiểm đó. Barker tưởng tượng một hội kín nào đó, có mối thù không đội trời chung với Douglas. Chính một vài câu nói của Douglas đã làm nẩy nở ý nghĩ này trong đầu Barker, chứ bản thân Barker thì chưa bao giờ hỏi gì về cái hội kín này. Barker đoán rằng những chữ viết trên mẩu bìa cứng là có liên quan đến hội kín.

Ông thanh tra MacDonald hỏi:

- Ông đã sống với ông Douglas trong bao lâu ở California?

- Khoảng 5 năm.

- Lúc đó Douglas sống độc thân?

- Góa vợ.

- Bà vợ thứ nhất của Douglas là người nước nào?

- Thụy Điển. Tôi có thấy ảnh của bà ta. Đó là một phụ nữ rất đẹp, chết trước khi chúng tôi quen nhau một năm.

- Liệu ông có thể xác định được quá khứ của bà ta ở một vùng nào cụ thể bên Mỹ không?

- Douglas có nói với tôi là ở Chicago. Ông ta biết rất rõ thành phố này và đã làm việc ở đó, Ông ta cũng có nói với tôi về những vùng mỏ khai thác than và sắt.

- Ông Douglas có làm chính trị không? Cái hội kín này có mục đích chính trị không?

- Không. Ông ấy không bao giờ để ý đến chính trị.

- Ông có nghĩ rằng đây là một cái hội phạm pháp không?

- Tuyệt đối không. Tôi chưa thấy một người nào lại thẳng thắn và dứt khoát như ông Douglas.

- Ông có thể cho chúng tôi biết những chi tiết gì đặc biệt về cuộc đời của Douglas ở California được không?

- Lúc đó ông ta sống ru rú trong khu mỏ và chỉ đi đến những nơi đông người khi nào đặc biệt lắm mà thôi. Khi ông ta đột ngột bỏ về Châu Âu, thì một tuần lễ sau có 6 người đến tìm ông ta.

- Loại người như thế nào?

- Những người trông có vẻ bất trị lắm. Họ kéo nhau đên khu mỏ và muốn biết Douglas đang ở đâu. Tôi nói là ông ta đã trở về Châu Âu và tôi không biết địa chỉ.

- Họ là người Mỹ? Người California?

- California thì tôi không biết. Nhưng người Mỹ thì chắc chắn rồi, không phải là dân thợ mỏ.

- Cách đây có đến 6 năm không?

- Gần 7 năm .

- Thế mà hai ông đã sống với nhau 5 năm ở California. Vậy thì cái vụ hội kín này phải cách đây ít nhất đến 11 năm.

- Đúng thế.

- Một mối thù dai dẳng.

- Tôi nghĩ rằng mối thù này lúc nào cũng lởn vởn trong đầu ông ta.

- Khi một người cảm thấy mình bị đe dọa, thì người đó phải nhờ cảnh sát bảo vệ chứ?

- Có thể đây là một mối nguy hiểm mà các cơ quan cảnh sát không làm gì được cũng nên, Nhưng có một điều này các ông cần phải biết: ông Douglas không khi nào đi ra ngoài lại không mang vũ khí. Nhưng hôm qua ông ấy lại mặc chiếc áo khoác ở nhà, và để súng ở trong buồng. Có lẽ vì thấy chiếc cầu rút đã kéo lên, nên ông ta cho thế là an toàn chăng?

Ông MacDonald hỏi thêm:

- Ông Douglas đã rời California đã 6 năm rồi. Đến năm sau thì ông cũng bỏ đi nốt phải không?

- Vâng, đúng thế.

- Ông ta lấy vợ khác từ 5 năm nay. Vậy thì ông trở về Anh vào lúc ông ta cưới vợ chứ?

- Một tháng trước ngày cưới. Tôi là người làm chứng của ông ta.

- Thế ông có quen biết bà Douglas trước khi cưới không?

- Không. Tôi đã rời khỏi nước Anh từ 10 năm rồi.

- Nhưng từ đó đến nay ông đã gặp bà ta nhiều lần rồi chứ?

Barker nhìn ông thanh tra một cách hết sức nghiêm trang:

- Tôi đã gặp ông ta nhiều lần, từ ngày cưới đến giờ. Còn nếu tôi có gặp bà ta đi nữa thì bới vì không thể ở trong nhà một người mà lại không biết đến vợ người đó. Nếu ông tưởng tượng rằng có một mối liên quan nào đó....

- Tôi chẳng tưởng tượng gì cả. Tôi có nhiệm vụ phải tìm tất cả những gì có thể liên quan đến vụ án. Nhưng tôi không muốn làm mất lòng ai.

Barker đáp lại một cách khô khốc:

- Có những cái tìm kiếm làm mất lòng người khác đấy, ông thanh tra à.

- Chúng tôi chỉ muốn có các sự kiện. Nếu những sự việc này được trình bày ra đây một cách sáng tỏ, thì điều này chỉ có lợi cho ông, cho mọi người. Ông Douglas có hoàn toàn tán thành tình bạn của ông đối với với vợ ông ta không?

Barker tái mặt, hai bàn tay nắm chặt vào nhau, nói to tiếng:

- Ông không có quyền hỏi tôi những câu như vậy. Việc này có liên quan gì đến vụ án mà ông đang điều tra?

- Tôi có phải nhắc lại câu hỏi này không, thưa ông?

- Ông cứ nhắc lại, còn tôi, tôi không trả lời .

- Ông có thể không trả lời, nhưng ông phải biết chính cái việc từ chối đã là một câu trả lời rồi. Bởi vì ông sẽ chịu trả lời nếu ông

không có điều gì dấu diếm.

Barker ngồi im lặng một lát, nét mặt căng thẳng. Rồi ông ta trở lại thư thái hơn, nhìn chúng tôi mỉm cười:

- Thôi được, tôi thấy thật ra các ông cũng chỉ làm nhiệm vụ của mình thôi. Tôi muốn nói với các ông rằng Douglas có một tính xấu là hay ghen. Ông ta rất quý mến tôi, Và ông ta cũng quý vợ ông ta lắm. Mỗi lần tôi đến đây, ông ta đều rất vui lòng. Lâu tôi không đến chơi là ông liền cho người đi gọi. Tuy vậy, khi ông thấy vợ ông và tôi ngồi nói chuyện với nhau thì ông ta nổi nóng đến mức nói tôi chẳng ra gì nữa. Đã nhiều lần tôi thề rằng sẽ không đặt chân đến đây nữa. Nhưng khi tôi hờn dỗi thì ông ấy lại viết cho tôi những bức thư rất dễ thương làm tôi không thể giận lâu hơn được nữa. Và sau đây là lời nói cương quyết của tôi: Không có một người phụ nữ nào lại yêu chồng và chung thủy như bà Douglas.

Ông thanh tra MacDonald hỏi:

- Ông có biết chiếc nhẫn cưới của nạn nhân đã bị rút ra khỏi ngón tay của người ấy không?

- Hình như thế.

- Tại sao ông lại nói là "hình như thế". Ông biết rõ đây là một việc có thật kia mà.

Barker có vẻ lúng túng:

- Khi tôi nói "hình như thế" là tôi muốn nói rằng cũng có thể chính nạn nhân đã tự mình rút chiếc nhẫn đó ra.

- Việc chiếc nhẫn cưới biến mất, đã gợi ý cho mọi người thấy rằng có một mối liên quan nào đó giữa đám cưới của ông Douglas và vụ án này. Có phải không ông?

Barker nhún vai trả lời:

- Tôi sẽ không đi tìm xem nó gợi ý cái gì, nhưng nếu ông muốn ám chỉ rằng việc đó làm tổn thương đến danh dự bà Douglas thì.....

Hai mắt ông ta long lanh sáng quắc, và ông ta phải dùng tất cả nghị lực để kìm hãm xúc cảm.

- .... Thì ông đã đi lầm đường rồi đấy, Có thế thôi.

Ông thanh tra MacDonald lạnh nhạt nói:

- Tạm thời bây gì tôi không có gì hỏi thêm ông nữa...

Holmes vội bác ngay:

- Xin ông một chi tiết nhỏ, thưa ông Barker. Khi ông bước vào trong phòng, thì chỉ có một ngọn nến thắp để trên bàn, có phải không?

- Vâng.

- Chính nhờ ánh sáng của ngọn nến đó mà ông đã trông thấy là có một việc khủng khiếp vừa xảy ra,phải không?

- Đúng thế.

- Ông đã tức khắc kéo chuông ngay để báo động.

- Vâng.

- Và mọi người đã đổ ngay đến đấy chỉ sau một khoảng thời gian rất ngắn, Có phải không?

- Chỉ sau không đầy một phút.

- ấy thế mà khi mọi người vào đây lại thấy ngọn nến được tắt đi và ngọn đèn đã được thắp lên, như vậy có lạ lùng không ông?

Một lần nữa, Barker lại tỏ ra hơi lúng túng. Ông ta im lặng một lát rồi mới trả lời:

- Thưa ông tôi không thấy có gì lạ lùng. Ngọn nến chiếu ánh sáng lu mờ quá. ý nghĩ đầu tiên của tôi là phải có một ánh sáng tốt

hơn. Cái đèn lúc đó để trên bàn, tôi đã thắp nó lên.

- Và ông đã tắt ngọn nến đi.

- Vâng.

Holmes không hỏi thêm, và Barker - sau một cái nhìn thách thức về phía mỗi người chúng tôi, đã rời căn phòng đi ra.

MacDonald viết một mảnh giấy nhỏ báo cho bà Douglas biết là ông sẽ lên gặp bà, nhưng bà đã trả lời là bà sẽ xuống.

Đó là một phụ nữ khoảng 30 tuổi, cao lớn, rất đẹp, dáng điệu chín chắn, và hết sức tự chủ, khác hẳn với hình ảnh một người bi thảm và rã rời mà tôi hình dung ra trong đầu. Bà lần lượt nhìn chúng tôi, với một biểu hiện dò hỏi. Rồi đôi mắt dò hỏi đó, nhường chỗ cho một câu hỏi đột ngột:

- Các ông đã tìm ra gì chưa?

Trong giọng nói của bà chứa đựng sự sợ sệt nhiều hơn là niềm hy vọng. 

- Thưa bà, chúng tôi đã làm những việc cần làm. Xin bà cứ yên tâm. - MacDonald trả lời

- Xin các ông đừng ngại tốn kém tiền bạc. - bà Douglas nói, giọng thều thào.

- Không biết bà có đem lại cho chúng tôi một chút ít ánh sáng nào không?

- Thưa, tôi sẵn sàng làm tất cả những gì mà các ông cần.

- Ông Barker cho biết rằng bà không bước chân vào căn phòng xảy ra án mạng. 

- Vâng. Ông ta đã bắt tôi phải đi lên và trở về phòng riêng.

- Bà nghe tiếng súng nổ, và bà đã tức khắc xuống ngay?

- Tôi mặc áo khoác ngoài và tôi chạy xuống.

- Từ lúc bà nghe tiếng nổ đến lúc ông Barker ngăn bà lại, mất khoảng bao nhiêu.

- Có lẽ độ hai phút. Trong những lúc như vậy thật khó tính được thời gian.

- Bà có thể dự tính được khoảng thời gian từ lúc chồng bà đi xuống nhà đến lúc bà nghe tiếng súng nổ không?

- Thưa ông, chồng tôi đi từ buồng tắm ra nên tôi không nghe thấy tiếng anh ấy đi xuống.

- Bà đã quen ông ấy ở Anh có phải không?

- Thưa vâng, đã 5 năm rồi.

- Bà có bao giờ nghe thấy ông ấy nói về một chuyện gì xảy ra ở bên Mỹ và dự cảm về một mối nguy hiểm nào không?

Bà Douglas suy nghĩ lung lắm trước khi trả lời. Mãi một lúc sau bà mới nói:

- Thưa có. Tôi vẫn có linh tính là có một sự nguy hiểm đe dọa chồng tôi. Anh không chịu bàn luận gì với tôi về việc này cả, vì anh ấy chủ tâm tránh cho tôi mọi sự sợ hãi.

- Vậy làm sao bà lại biết được?

Nét mặt bà Douglas hồng tươi hẳn lên trong một nụ cười:

- Tôi biết được bí mật này là nhờ vào nhiều dấu hiệu: vì anh ấy không chịu nói gì với tôi về một vài quãng đời của anh khi còn ở bên Mỹ. Vì tôi thấy anh ấy có những biện pháp tự vệ riêng. Vì đôi lúc anh ấy không kiềm chế được và nói lỡ vài lời. Vì thấy cái cách anh ấy nhìn những người lạ mặt bất chợt đến đây. Tôi hoàn toàn chắc chắn là anh ấy có những kẻ thù ghê gớm, mà anh ấy cho là đang dò tìm tung tích của anh, và anh luôn luôn cảnh giác đề phòng.

- Ông ấy đã lỡ mồm nói ra điều gì làm bà phải chú ý. - Holmes hỏi.

- "Thung lũng khủng khiếp". Có một lần anh ấy dùng hình tượng này để nói với tôi. Khi tôi thấy anh ấy nghiêm nghị hơn bình thường, tôi có hỏi: "Có bao giờ chúng ta ra khỏi được cái "Thung lũng khủng khiếp" ấy không? " Và anh ấy đã trả lời rằng: "Có lẽ chúng ta không bao giờ ra khỏi được". 

- Tất nhiên là bà có hỏi ông nhà xem ông muốn nói gì bằng hình tượng "Thung lũng khủng khiếp". 

- Vâng, tôi có hỏi.Nhưng anh ấy sa sầm mặt lại và lắc đầu nói: "Cầu trời cho cái bóng ấy không bao giờ phủ cả lên em nữa". Đó là cái thung lũng thực sự chứ không phải là một hình tượng. Anh ấy đã sống ở đó và một sự khủng khiếp đã xảy ra có liên quan đến anh.

- Thế ông ấy có nêu lên một người nào không?

- Cách đây ba năm, anh ấy bị sốt cao. Trong cơn mê, anh ấy luôn luôn nhắc đến một tên người. Cái tên ấy là trưởng toán McGinty. Lúc anh ấy bình phục, tôi có hỏi trưởng toán McGinty là ai. Anh ấy cười trả lời: "Nhờ trời, nó chưa bao giờ làm trưởng cái toán của anh". Nhưng chắc có một mối liên hệ nào đó giữa người trưởng toán đó và thung lũng khủng khiếp.

Ông thanh tra MacDonald nói:

- Bà đã gặp ông Douglas trong nhà trọ một gia đình ở London và hai ông bà đã hứa hôn với nhau cũng ở đó. Trong việc lập gia đình, có một yếu tố nào bí mật hay cần phải giữ kín không? Hay là một yếu tố lãng mạn? 

- Lãng mạn à? Vâng, thưa có. Bao giờ thfi cũng có yếu tố lãng mạn. Không có cái gì là bí mật cả.

- Ông ấy có tình địch không?

- Thưa không. Lúc đó tôi hoàn toàn tự do.

- Việc mất chiếc nhẫn cưới, có gợi cho bà một ý nghĩ gì không? Nếu kẻ thù cũ đã đến đây và ám hại ông, thì có lý nào chúng lại tháo chiếc nhẫn.

TRong một thoáng, tôi chợt thấy một cái gì đó như là một nụ cười rất kín đáo trên đôi môi bà Douglas. Bà ta bình tĩnh trả lời:

- Tôi tuyệt đối không hiểu gì cả. Thật là kỳ lạ.

Ông Thanh tra nói:

- Thưa bà, chúng tôi không giữ bà lâu hơn nữa và rất tiếc đã quấy rầy bà. Tất nhiên còn một số điều nữa phải xem xét thêm, nhưng

chúng tôi sẽ xin kêu gọi sự giúp đỡ của bà khi nào cần thiết.

Bà ta đứng lên, và tôi lại bất chợt một lần nữa thấy đôi mắt sắc sảo nhìn chúng tôi một cách dò hỏi. Rồi bước ra khỏi phòng ăn.

Khi hai cánh cửa phòng đã khép lại, ông thanh tra MacDonald khe khẽ nói một cách trầm ngâm: "Một người đàn bà đẹp. Một người đàn bà rất đẹp. Cái tay Barker này là một người được phụ nữ ưa thích. Cậu ta công nhận rằng Douglas có tính hay ghen. Biết đâu rằng cái ghen này không phải là vô căn cứ. Rồi lại còn chuyện cái nhẫn cưới nữa. Chúng ta không thể coi thường chi tiết ấy được. Một người mà đã rút cái nhẫn cưới ra khỏi bàn tay của một xác chết. Ông nghĩ thế nào, ông Holmes". 

Holmes ngồi yên lặng, hai tay ôm đầu. Anh đứng dậy ra giật chuông, và khi người đầu bếp vào, anh hỏi:

- Anh Ames, ông Barker hiện giờ ở đâu?

- Thưa ông, để tôi đi xem.

Một lát sau, anh ta trở lại báo cáo ông Barker hiện đang ở ngoài vườn.

- Anh Ames, anh cố nhớ lại xem, đêm hôm qua khi anh vào gặp ông Barker thì ông ta đi gì ở chân?

- Ông ta đi giày vải. Tôi đã mang giày da đến cho ông ta thay để đi báo cảnh sát.

- Thế đôi giày vải ấy bây giờ ở đâu rồi?

- Dưới gầm ghế ở phòng ngoài.

- Rất tốt, việc phân biệt giữa những vết chân của ông Barker và của một người ở ngoài là rất quan trọng chứ? Anh có đồng ý không.

- Thưa ông, vâng, tôi nhận thấy các vết chân của ông Barker đều đầy dấu máu. Nhưng cả những vết chân của tôi cũng thế.

- Đó là điều bình thường, nếu căn cứ vào tình trạng căn buồng lúc đó. Chúng tôi lại sẽ gọi chuông khi nào cần đến anh.

Vài phút sau chúng tôi đã trở lại căn buồng có án mạng. Holmes đã nhặt mang theo đôi giày vải để ở buồng ngoài, đôi giày đỏ lòm máu.

Holmes cầm đôi giày ra đứng trước cửa sổ chăm chú xem xét, vừa xem vừa nói khẽ một mình.

- Kỳ cục. Thực là kỳ cục.

Anh ta nhẹ nhàng cúi xuống và đặt chiếc giày cải lên vết máu trên khung thành cửa sổ: KHớp đúng như in. Anh ta mỉm cười, nhìn mọi người.

Ông thanh tra bối rối đến cực độ, hét lên như người điên:

- Chính tay Barker này đã in dấu gìay trên thành cửa sổ. Nó rộng hơn một dấu chân bình thường. Tôi nhớ rằng ông đã có nói đây là một bàn chân phẳng. Bây giờ mới hiểu tại sao. Nhưng này ông Holmes, thế hắn định chơi cái trò gì đây?

Holmes cũng nhắc lại một cách trầm ngâm:

- Vâng, vâng. Trò gì nào?

Mason tủm tỉm cười: xoa mãi hai bàn tay vào nhau với một niềm vui thích hoàn toàn có tính cách nghề nghiệp:

- Tôi đã báo trước cho các ngài biết mà. Gay go hóc búa lắm chứ có phải chơi đâu.

\

***

Chương 6

Một tia sáng chợt loé

Trong khi ba nhà thám tử đi thẩm tra lại một số chi tiết, tôi đi dạo một vòng khu vườn ở bên hông lâu đài. Được bao quanh bởi những hàng cây thuỳ dương uy nghi, khu vườn có một bãi cỏ rất đẹp, ở giữa là một chiếc đồng hồ mặt trời cổ kính. Sự yên tĩnh ở đây làm cho thần kinh tôi như giãn hẳn ra.

Đi về phía xa nhất của tòa lâu đài, những lùm cây mọc sát vào nhau làm thành một thứ hàng rào rất kín. Đằng sau hàng rào, có một chiếc ghế kê khuất hẳn, người đi từ phía lâu đài lại không thể nhìn thấy được. Đi gần đến đó, tôi chợt nghe tiếng nói của đàn ông, và một tiếng nói nhỏ của phụ nữ. Một lát sau khi đã đi vòng qua hàng rào, tôi trông thấy bà Douglas đang ngồi với ông Barker. Vẻ mặt của bà ta làm tôi phải kinh ngạc. Lúc nãy, bà tỏ ra nghiêm nghị và dè dặt bao nhiêu thì bây giờ, bà ta yêu đời bấy nhiêu; khuôn mặt vẫn còn rung lên trong sự thích thú vì câu nói vừa rồi của ông Barker. Ông ngồi nghiêng người ra phía trước, hai tay đan vào nhau, một nụ cười tươi làm rạng rỡ hẳn bộ mặt rắn rỏi. Khi trông thấy tôi, họ lấy lại nét mặt trang nghiêm, thì thầm với nhau câu gì đó, rồi Barker đứng dậy và tiến về phía tôi: 

- Thưa ông, có phải tôi đang được hân hạnh nói chuyện với bác sỹ Watson không?

Tôi chào lại một cách lạnh nhạt.

- Chúng tôi nghĩ rằng có lẽ đúng là ông, người mà ai ai cũng biết là bạn thân của ông Holmes. Bà Douglas mong muốn được thưa với ông một đôi điều.

Tôi cau mày và đi theo ông ta. Hình ảnh của người chết lại hiện ra trong đầu tôi. Chỉ vài giờ sau tấn thảm kịch thì vợ và bạn của kẻ xấu số đã cười đùa vui vẻ với nhau. Tôi chào bà Douglas một cách dè dặt.

- Tôi sợ rằng ông sẽ coi tôi là một người đàn bà không tốt.

- Đó không phải là việc của tôi. - Tôi nhún vai, nói.

- Có thể một ngày nào đấy, ông sẽ hiểu được rằng...

- Cũng không cần thiết là bác sỹ Watson phải hiểu. Đúng như ông ta nói, đây không phải là việc của ông. - Ông Barker nói.

- Đúng thế. Vì vậy tôi xin phép được tiếp tục đi dạo.

- "Xin hãy khoan, bác sỹ Watson!". Bà Douglas kêu lên. "Ông hiểu biết ông Holmes và những mối quan hệ của ông ta với cơ quan cảnh sát hơn ai hết. Nếu có một sự việc nào đó đem nói riêng với ông ta, thì ông ta có luôn luôn đem báo cáo lại với các thám tử của chính quyền không?"

- Xin hỏi ông Holmes làm việc riêng cho ông ta, hay ông ta làm việc cho cảnh sát? - Barker cũng nhấn mạnh thêm.

- Tôi cũng không biết mình có đủ thẩm quyền để bàn về vấn đề này không.

- Tôi van ông. Nếu ông mách cho chúng tôi điều này, thì ông sẽ giúp đỡ cho chúng tôi nhiều lắm.

Trong giọng nói của bà chứa đựng một cái gì nghe thành thật quá, đến nỗi lúc đó tôi quên hết cái chuyện vô tâm của bà, và chỉ nghĩ cách làm sao cho bà vui lòng:

- Ông Holmes là một nhà điều tra độc lập. Ông ấy tự làm chủ lấy mình và hoạt động theo sự suy nghĩ riêng của ông. Mặt khác, ông ấy cũng phải tỏ ra trung thực đối với những thám tử của nhà nước cùng làm việc trong một vụ án, và ông ấy sẽ không giấu diếm họ bất cứ một điều gì có thể giúp họ đưa các tội phạm ra trước công lý. Như vậy bà và ông nên hỏi thẳng ông Holmes.

Nói thế rồi, tôi nhấc mũ lên chào và bỏ đi, để mặc họ ngồi đằng sau lùm cây. Khi tôi đi khỏi hàng rào và quay lại thì thấy họ vẫn đang bàn cãi và trông theo tôi. Khi tôi kể lại cho Holmes nghe câu chuyện vừa rồi, Holmes trả lời: "Tôi không mong ước được nghe những lời tâm sự của họ".

Sau đó Holmes làm việc với hai đồng nghiệp suốt buổi chiều ở lâu đài và mãi 5 giờ mới về. Anh còn nhắc lại lần nữa:

- Này Watson, không có tâm sự gì cả đấy nhé. Những tâm sự này sẽ trở nên rất cộm nếu sau này có sự bắt bớ về tội đồng lõa.

- Sắp tiến đến bước đó rồi à?

- Khi nào tôi tiêu diệt xong cái quả trứng thứ tư này, tôi sẽ nói cho anh biết tình hình hiện nay. Tôi không nói rằng chúng ta đã giải được bài toán. Còn xa đấy. Nhưng khi nào chúng ta tìm thấy quả tạ còn thiếu kia thì.....

- Quả tạ à?

- Tất cả vụ án này quay chung quanh cái quả tạ vắng mặt kia. Một quả tạ duy nhất. Anh hãy tưởng tượng có một nhà lực sĩ nào chỉ tập với một quả tạ thôi, trẹo cột sống.

Anh ta nhai nhồm nhoàm cái bánh ngọt, hai mắt long lanh tinh nghịch: trông anh ăn ngon như thế cũng đủ hiểu là công việc tiến hành tốt rồi ; ăn xong, anh đến ngồi bên góc chiếc lò sưởi của quán trọ, bắt đầu nói:

- Nói dối. Nói dối to bằng cái đình. Tất cả câu chuyện của Barker là nói dối. Nhưng câu chuỵên của Barker lại được bà Douglas công nhận. Vậy thì bà Douglas cũng nói dối. Bởi vậy, giờ đây chúng ta đang đứng trước bài toán này: Tại sao họ lại nói dối, và cái sự thật họ đã cố gắng che giấu là gì? Theo họ kể lại thì tên sát nhân chỉ có một khoảng thời gian chưa đầy một phút để tháo chiếc nhẫn thứ nhất ra, lấy chiếc nhẫn cưới, rồi đeo chiếc nhẫn thứ nhất vào tay nạn nhân. Chắc chắn là không bao giờ nó làm như vậy đâu. Sau đó nó lại còn nhớ để một mẩu bìa cứng bên cạnh xác chết nữa, không thể làm kịp. Cậu có nói rằng: chiếc nhẫn cưới đã

được rút ra khỏi tay Douglas trước khi ông ta chết. Sự kiện cây nến cháy ít như vậy chứng tỏ cuộc đối thoại chắc phải là ngắn ngủi. Lại nữa một người can đảm, liều lĩnh như Douglas liệu có tháo ngay chiếc nhẫn cưới của mình đưa cho tên sát nhân khi tên này mới đòi lấy không? Không, tên sát nhân đã ở lại một mình với xác chết một thời gian nữa sau khi cây nến được thắp lên. Nhưng phát đạn là nguyên nhân đã gây ra cái chết. Vậy thì phát đạn này được bắn sớm hơn là người ta khai báo với chúng ta, vết máu ở trên thành cửa sổ, chính là do Barker đã cố tình tạo nên ở đó để đánh lừa cảnh sát. Hôm ấy, gia nhân trong lâu đài còn đi lại đến 10 giờ rưỡi đêm, vậy thì vụ án không thể xảy ra trước giờ đó được. Đến 11 giờ kém 15 thì họ đi ngủ, chỉ trừ có Ames lúc đó đang ở trong bếp.

Chiều nay, sau khi anh đi về rồi, tôi có tiến hành một vài thử nghiệm: Khi tôi đóng kín các cửa lại, MacDonald gây ra nhiều tiếng động trong căn phòng có án mạng ; ở dưới bếp không ai nghe thấy cả. Nhưng đứng ở căn phòng riêng của bà hầu phòng thì lại khác: ở trong buồng của bà này, tôi vẫn nghe thoang thoảng tiếng người nói thật to ở nhà trên. Tiếng nổ của một phát súng chắc không lớn lắm, nhưng trong cái im lặng của ban đêm, thì ở căn buồng của bà Allen cũng có thể nghe thấy được. Bà ấy có nói là hơi nặng tai nhưng mặc dầu vậy bà ấy lại khai là có nghe thấy tiếng một cánh cửa đập nửa giờ trước khi có báo động. Nửa giờ trước khi báo động, nghĩa là vào lúc 11 giờ kém 15, chắc chắn là cái tiếng mà bà ta cho là tiếng đập cửa ấy, chính là tiếng súng và thời điểm 11 giờ kém 15 ấy chính là giờ xảy ra vụ án. Giả sử ông Barker và bà Douglas không giết người thì họ đã làm gì trong khoảng thời gian từ 11 giờ kém 15 (Là lúc họ nghe thấy tiếng súng và chạy từ trên lầu xuống) tới 11 giờ 15 (lúc họ giật chuông để báo động với gia nhân). Tại sao họ lại không báo động ngay? Khi trả lời được câu này, thì đã tiến được một bước lớn.

- Tôi lại tin chắc là có một sự đồng lõa giữa hai con người này. Một người đàn bà phải tàn nhẫn đến thế nào thì mới có thể cười cợt như vậy khi chồng mới chết có vài tiếng đồng hồ.

- Đúng thế. Ta ít thấy có người phụ nữ yêu chồng mà lại chỉ mới nghe một lời khuyên đơn giản như thế đã không vào nhìn xác của chồng. Đó, chỗ này đạo diễn có phần "yếu" quá, vì bất luận một nhà điều tra nào dù ngu đến đâu cũng phải chú ý đến việc ở đây thiếu hẳn những lời than khóc của phụ nữ.

- Vậy thì Barker và bà Douglas là những thủ phạm của vụ án này phải không?

Holmes rút cái tẩu thuốc ở mồm ra, dứ dứ vào tôi thở dài:

- Nếu anh muốn nói rằng bà Douglas và Barker biết sự thật về vụ án mạng nhưng họ cố che giấu thì tôi đồng ý. Nhưng còn câu kết luận của anh, thì tôi thấy chưa đủ chứng minh. Phải chăng họ đã yêu nhau và đã quyết định phải ra tay? Không. Những người trong làng đã nói là tuyệt đối không có thế. Tất cả mọi cái đều chứng minh rằng gia đình Douglas rất thuận hòa êm ấm.

Tôi nhanh chóng nhớ lại nét mặt tươi cười mà tôi đã bắt gặp trong khu vườn, nên cãi lại:

- Về vấn đề này thì anh đã sai rồi.

- Ừ thì ít nhất họ cũng cho ta cái cảm giác là họ thuận hòa với nhau. Như thế phải giả thiết rằng cái đôi thủ phạm kia gian giảo, đến mức vừa giết chồng, vừa đánh lừa được mọi người. Và trên đầu người bị giết đang treo lơ lửng một mối nguy hiểm nào đó ...

- ồ ... Giả thiết về mối nguy hiểm này chỉ do một mình họ gợi ra mà thôi.

Holmes có vẻ suy nghĩ:

- Theo anh thì chẳng có mối nguy hiểm nào đe dọa Douglas, chẳng có thung lũng khủng khiếp. Họ bịa ra những chuyện đó để giải thích vụ án mạng. Rồi họ lại nghĩ ra việc bố trí một cái xe đạp giấu trong bụi cây để chứng tỏ có sự hiện diện của một kẻ lạ mặt. Cả vết máu trên thành cửa sổ cũng nằm trong ý nghĩ đó. Rồi lại cả mẩu bìa cứng, đáng lẽ ra có thể chuẩn bị ngay ở trong lâu đài. Tất cả những cái ấy đều khớp với giả thiết của anh. Nhưng ác cái lại có những góc cạnh khác cứ lòi ra. Tại sao có súng cưa nòng? Tại sao lại là súng Mỹ? Tại sao họ tin chắc là không ai nghe thấy tiếng súng? Anh có thể giải thích được cho tôi nghe không, Watson?

- Xin chịu.

- Nếu một người đàn bà cùng nhân tình âm mưu giết chồng, thì liệu họ có dại dột đến mức tháo chiếc nhẫn cưới ở tay người chết ra để "lạy ông tôi ở bụi này" không? Điều này liệu có thế xảy ra được không?

- Không? 

- Lại còn thế này nữa: Nếu chính họ là những ngưòi giấu chiếc xe đạp trong bụi cây, thì tất họ cũng đủ tinh khôn để nghĩ rằng bất cứ một viên thám tử nào cũng hiểu đây là một động tác giả, vì chiếc xe đạp chính là cái mà một người chạy trốn cần đến trước nhất để thoát.

- Chịu thôi.

- Vậy chúng ta hãy giả thiết tay Douglas này có một bí mật đáng xấu hổ trong đời. Bí mật này đưa đến chỗ hắn bị ám sát bởi một người đi báo thù. Người này, vì một động cơ nào đó đã tháo chiếc nhẫn cưới của hắn. Ta cũng có thể giả thiết rằng mối thù này có từ thời Douglas lấy người vợ trước kia, thì mới giải thích được việc tháo nhẫn cưới. Trước khi hung thủ trốn thoát, thì Barker và bà Douglas ập vào phòng. Tên sát nhân nói với họ rằng nếu họ bị bắt, thì bí mật ghê gớm của Douglas sẽ bị đưa ra ánh sáng. Hai người buộc lòng phải để cho nó chạy trốn. Có lẽ họ đã hạ chiếc cầu xuống để cho nó chạy đi rồi lại kéo cầu lên. Tên sát nhân biết rằng đi bộ tốt hơn là dùng chiếc xe đạp, nên đã để lại chiếc xe đạp ở chỗ mà người ta khó phát hiện ra trước khi nó đã đi xa. Đến đây thì chúng ta vẫn còn ở trong phạm vi những điều có thể được, đúng không?

Tôi trả lời một cách không tin tưởng lắm:

- Tất nhiên là có thể được.

- Tiếp tục nhé, sau khi đã để cho tên sát nhân trốn thoát, hai người kia biết mình đã lâm nguy, bởi vì làm sao chứng minh được rằng họ không giết Douglas hay không phải là đồng lõa của tên sát nhân. Thế rồi họ chọn một quyết định: Barker lấy chiếc giày vải, thấm máu in vết lên thành cửa sổ để gợi ý là tên sát nhân đã trốn ra theo con đường đó. Chắc chắn họ đã để chậm nửa giờ sau khi sự việc xảy ra, rồi mới báo động.

- Làm cách nào để chứng minh được những điều đó.

- Một mình tôi ở lại đây một đêm thì sẽ có kết quả.

- Ở một mình suốt một đêm trong căn phòng xảy ra án mạng?

- Tôi đã thu xếp với bạn Ames rồi. Tôi sẽ tới ngồi ở đó, và không khí trong phòng có lẽ sẽ gợi cho tôi nhiều ý nghĩ hay. à, mà này, anh có mang theo cái ô to gộc của anh đi đấy chứ.

- Có, kia kìa.

- Thế thì xin cho tôi mượn.

- Được thôi. Nhưng ... nó có phải là một vũ khí đâu.

- Không có gì nguy hiểm đâu. Bây giờ tôi chỉ còn chờ các vị đồng nghiệp chúng ta ở Tunbridge Wells về, họ lên đấy để xác minh chủ nhân của chiếc xe đạp đó.

Trời tối mịt mới thấy ông thanh tra MacDonald và White Mason trở về. Họ vui mừng ra mặt, vì họ đã tiến lên một bước khá dài.

- Chúng tôi đã xác minh được chiếc xe đạp và đã có được hình dạng của người chủ nó. - MacDonald nói.

- Tôi xin hết lòng ca ngợi nhị vị - Holmes nói.

- Cậu Ames khai là bữa trước hôm xảy ra án mạng, ông Douglas từ Tunbridge Wells về, có tỏ ra cáu kỉnh khác thường. Vậy chắc là khi ở đó, ông được biết có một mối nguy hiểm đang đe dọa mình. Như thế nếu có ai đến đây bằng xe đạp, thì người đó xuất phát từ Tunbridge Wells. Bọn tôi mang cái xe đạp đến đó cho các khách sạn xem. Chủ quán trọ "Eagle Commercial" nhận ra ngay là chiếc xe của một người Mỹ tên là Hargrave đến thuê buồng ở đó đã hai ngày rồi. Tất cả hành lý chỉ có chiếc xe đạp với một cái va ly nhỏ. Anh ta khai trong sổ đăng ký là từ London đến, nhưng không nói rõ địa chỉ.

Holmes kêu lên vui sướng:

- Hô, hô. Hai ông đã làm được một công việc hết sức tốt, trong khi tôi và ông bạn Watson cứ ngồi đây mà xây dựng hết thuyết nọ đến thuyết kia. Đấy, óc thực tiễn có lợi là như thế đó, ông MacDonald ạ.

Ông thanh tra nở mày nở mặt, vui vẻ nói:

- Vâng, ông nói đúng đó.

Tôi nói với Holmes:

- Nhưng sự phát hiện này cũng khớp với giả thiết của cậu kia mà.

- Khớp mà không khớp. Ông MacDonald, ông có tìm thấy cái gì để xác minh được người ấy không?

- Không có bất cứ một thứ giấy tờ, thư từ, giấu vết gì trên quần áo. Trên bàn của hắn, có một tấm bản đồ của vùng này. Sáng hôm qua, sau khi ăn điểm tâm xong, hắn ở khách sạn ra, lên xe đạp đi, thế là biến luôn. Không ai thấy hắn nữa.

Mason ngắt ngang:

- Đó. Chính chỗ này làm cho tôi thắc mắc đây ông Holmes ạ. Nếu tên này muốn làm cho người ta không chú ý đến hắn, thì hắn nên trở lại khách sạn và ở đấy như một người du lịch bình thường. Hắn thừa biết người chủ khách sạn phải báo cáo với cảnh sát về sự mất tích của hắn, và tất nhiên là người ta sẽ ráp sự mất tích của hắn với vụ án mạng.

- Tất nhiên rồi, nhưng cho đến bây giờ nó vẫn chưa bị bắt. Mà các ông có nắm được hình dạng của nó không?

MacDonald mở cuốn sổ tay ra:

- Tôi đã ghi được những gì người ta nói với chúng tôi đây. Hắn cao khoảng 5 feet 9, cỡ 50 tuổi, tóc hơi hoa râm, râu cũng hoa râm, mũi két; về cái bộ mặt của hắn, mọi người đều mô tả là dữ dằn và đáng ngại.

- Trời đất. Trừ cái điểm cuối cùng ra, thì phải nói là giống hệt một bức chân dung của chính Douglas. Tay này cũng khoảng hơn 50 tuổi, tóc cũng muối tiêu, râu cũng hoa râm, và cũng cao cỡ đó. Các ông có chi tiết nào khác nữa không?

- Hắn mặc bộ quần áo mầu xám rộng thùng thình, một cái áo khoác màu vàng, ngắn và đội một cái mũ mềm.

- Còn về khẩu súng?

- Một khẩu súng dài có 2 feet có thể xếp được hoàn toàn trong chiếc va ly, và giấu dưới áo khoác.

- Thế bây giờ các ông định ráp những tin tức mới này vào khung cảnh của vụ án như thế nào?

MacDonald trả lời:

- Hiện nay, chúng ta chỉ mới biết có một người Mỹ, tên là Hargrave, ngày hôm kia đến Tunbridge Wells với một chiếc xe đạp và một cái valy. Trong valy có một khẩu súng săn cưa nòng. Sáng hôm qua, hắn đi xe đạp tới làng Birslstone và đã giấu khẩu súng dưới áo khoác. Theo chỗ chúng ta biết, thì không ai trông thấy hắn đến đây. Nhưng hắn cũng không cần đi qua làng vẫn có thể đến được trước cổng sắt của lâu đài. Con đường hắn đi cũng có nhiều người cỡi xe đạp như hắn. Tôi đoán rằng, hắn đã giấu ngay chiếc xe đạp trong những bụi cây trúc đào. Bản thân hắn cũng nấp ở đó để rình ông Douglas ở lâu đài. ở trong nhà thì khẩu súng săn đúng là bất lợi, nhưng ở ngoài trời thì nó có hai ưu điểm rõ ràng: trước hết nó giết người được một cách chắc chắn, sau nữa sẽ không có ai để ý đến tiếng nổ, trong một vùng nông thôn có nhiều người đi săn.

- Rất rõ ràng. - Holmes nói.

- Nhưng ông Douglas lại không ra khỏi lâu đài. Vậy thì tên sát nhân có thể làm gì được bây giờ? Hắn bỏ chiếc xe đạp ở đó và chờ sẩm tối mới lần mò vào gần lâu đài. Hắn thấy cây cầu rút vẫn còn hạ xuống mà xung quanh thì vắng vẻ cả. Hắn liều đi vào, và chắc là có chuẩn bị trước một lý do gì đó để xin lỗi nếu có gặp người ở trong nhà. Hắn không gặp ai cả. Hắn lẻn vào cái phòng gần nhất và trốn sau bức rèm cửa. ở đó, hắn trông thấy cây cầu được rút lên, và hắn hiểu rằng sẽ phải lội qua hào để trốn ra. Hắn đợi đến 11 giờ 15. Đến giờ này, ông Douglas bước vào buồng. Hắn giết ông ta và chạy trốn. Hắn biết rằng chiếc xe đạp của hắn có thể bị những người trong khách sạn nhận ra được, vì thế hắn đã bỏ nó lại, và dùng một phương tiện giao thông khác để trở về London.

- Rất rõ ràng. Nhưng tôi lại tin là án mạng đã xảy ra nửa giờ sớm hơn là người ta đã nói với chúng ta. Rằng bà Douglas và ông Barker đã cùng nhau che giấu một cái gì đó, đã giúp đỡ cho tên sát nhân trốn thoát, đã tạo ra những dấu vết để làm cho người ta tưởng là nó đã trốn qua đường cửa sổ, và có nhiều khả năng là họ đã hạ cây cầu rút xuống cho nó trốn.

Hai nhà thám tử của nhà nước gật gù. ông thanh tra MacDonald nói:

- Nếu cách nhìn của ông mà đúng, thì chúng ta chỉ chuyển từ một bí mật này sang một bí mật khác thôi.

White Mason bổ sung:

- Nhưng về một số mặt nào đó thì lại vấp phải một bí mật gay go hơn nữa. Bà Douglas chưa hề sang Mỹ. Vậy thì bà có thể liên hệ như thế nào với một tên sát nhân người Mỹ?

- Tôi công nhận là có rất nhiều khó khăn. Tôi dự tính tối nay sẽ tiến hành cuộc điều tra theo cách riêng của tôi.

- Chúng tôi có thể giúp ông được không, ông Holmes?

- Không. Chỉ cần bóng tối và chiếc ô của bác sỹ Watson thôi, ông Ames sẽ giúp tôi một vài điều.

Khi Holmess trở về phòng trọ, thì đêm đã khuya lắm rồi. Lúc Holmes mở cửa vào phòng, tôi hỏi nhỏ:

- Thế nào Holmes, có thấy gì không?

Holmes cầm một ngọn nến, cúi xuống thì thầm vào tai tôi:

- Anh có sợ khi phải ngủ chung phòng với một thằng điên không?

- Không.

- Ồ, thế thì hạnh phúc cho anh đó.

Thế rồi không nói thêm một lời nào nữa, anh ta chui vào chăn.

***

Chương 7

Giải đáp

Sáng hôm sau, chúng tôi đi gặp ông thanh tra MacDonald và thám tử Mason. Họ đang họp trong cơ quan cảnh sát địa phương. Đằng trước mặt họ, trên bàn có cả xấp những thư và điện tín đã đuợc xếp thứ tự cẩn thận.

Holmes vui vẻ hỏi:

- Vẫn trên đuờng đi tìm nhà cua rơ xe đạp chứ? Tin tức cuối cùng như thế nào?

MacDonald buồn rầu chỉ tập thư tín, nói:

- Người ta đã bắt hai chục người mặc áo khoác màu vàng ở khắp nơi.

Holmes kêu lên với giọng chân thành:

- Sáng nay, tôi đến đây để khuyên các bạn một lời. Lời khuyên này có thể tóm tắt trong ba chữ: "Bỏ vụ án".

MacDonald và Mason vô cùng kinh ngạc. Mãi rồi ông thanh tra mới kêu lên đuợc:

- Ông thấy vụ án này tuyệt vọng đến thế kia à?

- Theo cách điều tra của các ông, thì sẽ không đi đến đích. Nhung chúng ta không đuợc phép tuyệt vọng trong khi đi tìm chân lý.

- Thế cái tên đi xe đạp ấy thì sao? Nó có phải là một vật tưởng tượng ra đâu. Nhất định nó phải ở một nơi nào chứ?

- Vâng, nó phải ở một nới nào đó, và chúng ta sẽ tìm thấy nó, trong một đuờng bán kính hẹp hơn nhiều.

Ông thanh tra phản đối một cách bực tức rõ ràng:

- Ông giấu chúng tôi một cái gì đó. Ông Holmes?

- Ông MacDonald. Tôi chỉ giấu ông - trong một thời gian ngắn thôi - những gì tôi chưa thể cho ông biết đuợc. Tôi muốn thẩm tra lại một số chi tiết. Việc thẩm tra xong, lúc đó tôi sẽ trở về London sau khi đã thông báo với các ông tất cả kết quả tôi đã thu lượm đuọc.

- Chiều hôm qua ông đồng ý trên những nét lớn với những kết quả của chúng tôi. Nhưng hôm nay thì hình như có chuyện gì xảy ra đã làm ông thay đổi hoàn toàn.

- Vâng. Tối hôm qua tôi đã đến ở lâu đài trong mấy tiếng đồng hồ.

- Thế thì sao?

- Tôi có đọc một tài liệu ngắn về tòa lâu đài này. Tôi mua nó mấy xu ở quán bán thuốc lá trong làng.

Holmes rút ở túi áo ngoài ra một tờ giấy nhỏ, có vẽ một bức hình thô sơ của tòa lâu đài cu.

-... Những loại tài liệu như thế này mang đến nhiều hứng thú cho cuộc điều tra. Tôi xin phép đọc ông nghe một đoạn sau này:

“Đuợc dựng lên trong năm thứ 5 của triều vua James I trên vị trí của một lâu đài cu cổ xưa hơn, lâu đài Birlstone là một trong những hình ảnh rất đẹp còn nguyên vẹn của loại phủ thất có hầm vào thời các vua James...

- Ông định chế nhạo chúng tôi, ông Holmes?

- Đây là lần đầu tiên tôi thấy ông nổi cáu đấy. Thôi tôi không đọc nữa. Nhưng nếu tài liệu này có nói đến việc một ông đại tá của Quốc Hội đã chiếm lấy tòa lâu đài này vào năm 1644; việc nhà vua Charles có trốn tránh ở đây vài ngày trong thời kỳ nội chiến; và nhà vua Georges Đệ Nhị cung đã có ở đây... thì chắc ông sẽ đồng ý với tôi là những việc này có thể gợi cho chúng ta nhiều ý nghi liên hệ lắm.

Nhà thám tử sốt sắng trả lời ngay:

- Tôi đồng ý với ông về điều đó, ông sắp đến đích, nhung ông quá kín đáo.

- Tối hôm qua, tôi có tới lâu đài. Tôi không gặp ông Barker, cung không gặp bà Douglas, nhưng tôi được biết rằng bà chủ lâu đài đã dùng bữa tối một cách rất ngon miệng. Tôi chỉ cần gặp anh Ames thôi, và anh ta đồng ý cho tôi ở lại một mình trong căn buồng xảy ra án mạng, và Ames cam đoan sẽ giữ kín về việc này.

- Thế nào? ở lại bên cạnh cái ...

- Không! Mọi vật đã đuợc dọn dẹp cả rồi. Vì vậy tôi đã sống một vài giờ rất có ích ở đó.

- Có ích thế nào thưa ông?

- Tôi đi tìm quả tạ còn thiếu. Và tôi sắp thấy nó.

- Ở đâu vậy?

- Xin để tôi tiếp tục tìm kiếm.

Ông thanh tra càu nhàu:

- Ông muốn thế nào, chúng tôi cung phải theo thế thôi. Nhưng bắt phải bỏ vụ án này đi, thì ... mà, tại sao lại phải bỏ?

- Bởi mục đích cuộc điều tra của ông là...

- Chúng tôi điều tra về vụ ám sát ông Douglas.

- Vâng. Nhưng các ông đừng mất công đi tìm cái tên đi xe đạp. Chuyện đó không đi đến đâu cả.

- Chúng tôi phải làm gì?

- Tôi xin nói cặn kẽ, nếu các ông muốn.

- Tôi sẽ làm theo lời khuyên của ông.

- Thế còn ông, ông White Mason?

Nhà thám tử địa phương có phần hơi ngơ ngác, phương pháp làm việc của Holmes hoàn toàn mới lạ đối với ông ta.

- Vâng, ông thanh tra đã đồng ý, thì tôi cung đồng ý.

- Hoan hô. Vậy hai ông hãy tổ chức một cuộc đi dạo chơi cho thật thoải mái. Người ta có nói với tôi rằng đứng từ trên cao nhìn xuống sẽ thấy phong cảnh của cánh rừng Weald tuyệt đẹp.

MacDonald nổi cáu, đứng phắt lên:

- Ông Holmes, ông đã đi quá giới hạn của sự bông đùa rồi đó.

Holmes vỗ nhè nhẹ vào vai ông ta:

- Thôi đuợc! Thế thì xin tùy các ông, nhưng nhất định phải đến tìm tôi ở đây, truớc buổi tối nay.

- Thật là quá lắm. 

- Bây giờ, trước khi tôi đi, tôi nhờ ông viết mấy chữ cho ông Barker.

- Viết gì kia?

- Xin mời ông viết "Thưa ông, chúng tôi nghĩ rằng, chúng tôi có nhiệm vụ phải tát cạn con đuờng hào để hy vọng có thể tìm thấy...”

Ông thanh tra phản đối ngay:

- Tôi đã đích thân tìm xem có cách gì tát cạn đuờng hào hay không, nhưng thấy không thể đuợc.

- Xin ông cứ viết.

- Thôi đuợc. Ông đọc tiếp đi.

- “... một yếu tố mới có liên quan đến cuộc điều tra. Chúng tôi đã sắp sẵn cả. Sáng sớm mai, công nhân sẽ bắt tay vào việc đổi hướng dòng nước...”

- Tôi nhắc lại với ông rằng không thể đuợc mà.

- “... Chúng tôi thấy nên báo để ông biết trước". Vào khoảng độ 4 giờ chiều, ông cho người đua thu tận tay ông Barker. Đó cung là giờ chúng ta sẽ gặp lại nhau ở đây. Trong khi chờ đợi, ai muốn giải trí thế nào thì xin tùy thích, vì cuộc điều tra đang dẫm chân tại chỗ.

Buổi tối, chúng tôi gặp lại nhau như đã quy định. Vẻ mặt Holmes rất nghiêm trang. Tôi thì tò mò, còn hai vị thám tử thì nghi ngờ ra mặt. 

Holmes bắt đầu một cách trịnh trọng:

- Thưa các ông, bây giờ chúng ta phải tới đuợc chỗ đứng quan sát trước khi trời tối hẳn. Chúng ta nên đi ngay bây giờ.

Chúng tôi đi dọc theo bờ ngoài khu vườn của lâu đài và đến trước một lỗ hổng trong hàng rào. Chúng tôi chui qua lỗ đó. Holmes dẫn chúng tôi đến đằng sau một bụi cây nhìn chếch sang phía cổng chính và cây cầu, lúc đó còn chưa rút lên. Holmes ngồi xổm sau bụi cây. Chúng tôi cung làm theo anh ta.

MacDonald hỏi bằng một giọng bực tức:

- Làm gì bây giờ đây?

- Hãy kiên nhẫn và đừng gây ra tiếng động.

- Ông nên thành thật với chúng tôi hơn.

Holmes bật cười:

- Ông MacDonald, tôi xin ông kiên nhẫn một chút, rồi tất cả sẽ sáng tỏ thôi.

Đêm xuống dìm cả tòa lâu đài vào bóng tối. Một màn sương lạnh từ đuờng hào Baynes lên làm chúng tôi rét thấu xương. Trên khung cửa chính chỉ có một ngọn nến đuợc thắp, và trong căn buồng có án mạng cung có một ngọn đèn khác đang cháy, còn tất cả chung quanh tối đen nhu mực.

Đột nhiên ông thanh tra lại cất tiếng hỏi:

- Phải chờ bao lâu nữa, và chờ cái gì?

- Tôi không biết phải chờ bao lâu. Nếu những tên tội phạm hoạt động đúng giờ giấc như những chuyến tàu chạy, thì đỡ cho chúng ta biết bao. Còn việc chúng ta chờ... à mà kìa, việc chúng ta chờ kia kìa.

Trong khi Holmes nói, thì ánh sáng trong căn buồng đã bị che khuất đi bởi một người đi đi lại lại trước nó. Sau đó cửa sổ mở toang và bóng một người đàn ông nhô ra quan sát bóng tối. Hắn nhìn ngược nhìn xuôi trong mấy phút. Rồi cúi xuống và trong đêm khuya yên tinh, chúng tôi nghe thấy tiếng nước vỗ nhè nhẹ. Tôi có cảm giác là người đó đang dìm một vật gì cầm trong tay xuống đuờng hào. Sau cùng anh ta kéo một vật gì lên: Một vật gì đó to, tròn, khi đuợc đem qua cửa sổ, nó che khuất cả ánh sáng ngọn đèn.

Holmes kêu lên:

- Nào, bây giờ. Ta vào đi. 

Chúng tôi chồm lên, líu ríu chạy theo Holmes. Holmes đã chạy tới chiếc cầu rút và giật chuông ầm i. ở phía bên kia cửa các chốt đuợc tháo ra. Ames hiện ra trong khung cửa, vẻ mặt ngơ ngác, Holmes chẳng nói chẳng rằng, gạt anh ta sang bên, rồi cùng ba chúng tôi xông vào căn buồng.

Ngọn đèn dầu hỏa để trên bàn là nguồn ánh sáng mà chúng tôi trông thấy từ bên ngoài. Lúc này, nó đang ở trong tay của Barker, và ông ta đang huớng về phía chúng tôi. Nó chiếu lên một khuôn mặt cả quyết, cương nghị, một cặp mắt đe dọa thách thức.

- Thế này là thế nào? Các ông tìm gì?

Holmes nhìn chung quanh, rồi nhảy sổ tới một cái gói ướt sung có buộc dây để ở trên bàn.

- Chúng tôi tìm cái này đây. Cái gói có một quả tạ mà ông vừa kéo ở dưới đáy hào lên.

Barker kinh ngạc:

- Vì sao ông lại biết có quả tạ trong ấy?

- Bởi vì chính tôi đã để quả tạ ấy vào đó.

- Ông đã để quả tạ vào đó?

Holmes chữa lại:

- Ông còn nhớ chứ, ông thanh tra, việc thiếu một quả tạ ngay từ đầu đã đập vào trí tôi. Khi nước thì gần kề ngay bên, mà lại thấy thiếu một vật nặng, thì có lẽ một vật gì đó đã đuợc nhận chìm xuống nước. Với sự giúp đỡ của anh Ames, tôi đã vào đuợc căn phòng này, và với chiếc ô của bác sỹ Watson, tôi đã vớt vật này lên và xem xét nó. Nhưng điều cơ bản là phải chứng minh đuợc ai đã dìm cái gói đó. Bức thơ của ông MacDonald báo trước ngày mai sẽ tát hào. Tin này bắt buộc người đã giấu cái gói đó phải chờ đêm tối, lôi nó lên. Vậy ông Barker, đã đến lúc ông phải giải thích.

Holmes đặt cái gói còn ướt sung lên bàn và tháo dây ra. Đầu tiên anh lôi ra một quả tạ, kế đó là một đôi giày da mui vuông. 

- Giày kiểu Mỹ, như các ông thấy đấy. - Holmes nói.

Sau đó anh ta để lên bàn một con dao dài còn nằm trong bao. Rồi anh ta giở ra một mớ quần áo, gồm một bộ quần áo lót, một đôi tất, một bộ quần áo bằng vải tuýt xám, và một cái áo khoác màu vàng.

- Quần áo thì thường thôi. Chỉ có cái áo khoác là đáng chú ý. - Holmes nói.

Anh nhẹ nhàng trải nó ra trước ánh sáng, những ngón tay dài lần theo các đuờng khâu. 

- Xem đây, túi trong của nó kéo dài mãi trong lần lót để có thể giấu đuợc một khẩu súng cưa nòng. Tên hiệu của người thợ may dính trên cổ áo dây: "Neale, thợ may, Vermissa, U.S.A". Tôi đã ở cả chiều hôm nay trong căn phòng đọc sách của ông hiệu trưởng trường, và đã học thêm đuợc một điều mới nữa: "Vermissa" là tên của một thành phố nhỏ ở trong thung lung nổi tiếng về các mỏ sắt và mỏ than tại Mỹ. Nếu tôi không quên, thì thưa ông Barker, chính ông đã có nói đến mối liên quan giữa những khu mỏ và người vợ trước của ông Douglas. Cho nên tôi suy luận từ đó ra rằng mấy chữ “V.V.” trên miếng bìa cứng tìm thấy bên cạnh người chết có nghia là “Thung lung Vermissa”[1] và chính cái thung lung này đã cử một người mang cái chết đến tận đây. Tất cả những điều ấy đã đủ rõ ràng. Và bây giờ, đến lượt ông, thưa ông Barker.

Trong lúc nghe Holmes trình bày, gương mặt Barker lần lượt hiện lên nét căm giận, kinh ngạc, buồn rầu, lúng túng. Cuối cùng ông ta lẩn trốn trong một thái độ mỉa mai và cười gằn:

- Ông biết nhiều đến thế, thì xin ông cứ nói thêm cho chúng tôi nghe.

- Tôi có thể nói thêm đuợc nữa, nhưng sẽ lịch sự hơn, nếu ông nói tiếp hộ cho tôi.

- ồ, ông tưởng thế à? Nếu ở đây có một bí mật gì, thì cái đó không phải là bí mật của tôi, và tôi không thể nói ra cái bí mật của người khác.

Ông thanh tra bình tinh:

- Nếu ông nghi như vậy, thì bắt buộc chúng tôi phải canh giữ ông cho đến khi chúng tôi nhận đuợc trát bắt ông.

Barker trả lời bằng giọng đầy thách thức:

- Ông cứ làm.

Sự đối chất hình như đã kết thúc. Bộ mặt rắn như đá hoa cương của Barker cho thấy rằng không có một sự đe dọa nào có thể bắt đuợc ông ta nói. Nhưng bà Douglas đã bước vào phòng.

- Anh Barker, anh đã giúp chúng tôi quá nhiều rồi.

Sherlock Holmes tán thành với một giọng nói rất nghiêm trang:

- Tôi rất thông cảm với bà, và tôi xin khuyên bàn nên tự giác báo cáo tất cả với cảnh sát, chính tôi cung có lỗi vì đã không đáp ứng lời thỉnh cầu của bà, khi bà nói với bác sỹ Watson đây. Lúc đó tôi tin rằng bà là người có dính líu trực tiếp đến án mạng. Bây giờ tôi biết là không phải thế.

Bà Douglas thốt lên một tiếng kêu kinh ngạc khi nghe những lời nói cuối cùng của Holmes.

Hai nhà thám tử và cả tôi nữa có lẽ cung đã kêu lên như thế, khi chúng tôi trông thấy một người như là trong bức tường hiện ra, đang buớc dần ra khỏi bóng tối, tiến về phía ánh đèn. Bà Douglas nhào vào, ôm lấy cổ người đó. Barker cung nắm chặt một cách trìu mến bàn tay của người đó. Bà Douglas nhắc đi nhắc lại:

- Anh yêu quí, có lẽ thế này tốt hơn anh ạ.

Holmes gật đầu tán thành:

- Vâng, đúng đấy, thưa ông Douglas.

Ông Douglas chớp chớp đôi mắt màu xám, một bộ râu cứng đã hoa râm; một cái cằm vuông nhô ra và một cái miệng nhậy cảm. Ông ta lần lượt nhìn chúng tôi, rồi bỗng tiến về phía tôi và đua cho tôi một tập giấy làm tôi hết sức ngạc nhiên.

Ông ta nói bằng một giọng hết sức dễ chịu:

- Tôi biết ông, bác sỹ Watson, chưa bao giờ ông có một câu chuyện giống như câu chuyện này. Tôi đã tự giam mình trong hai ngày, và đã lợi dụng những giờ có ánh sáng, trong cái lỗ chuột ấy, để viết lại toàn bộ sự việc. Đó là câu chuyện về "Thung lung khủng khiếp".

Holmes xen vào:

- Ông Douglas, đó là câu chuyện về quá khứ. Bây giờ chúng tôi muốn biết câu chuyện của hiện tại kia.

- Ông sẽ đuợc nghe ngay bây giờ. Tôi có thể vừa hút thuốc, vừa nói đuợc không? Xin cảm ơn ông Holmes.

Ông ta đứng dựa lưng vào lò sưởi, kéo những hơi thuốc dài.

- Tôi có đuợc nghe nói nhiều về ông, ông Holmes. Tôi không nghi rằng có ngày tôi lại đuợc làm quen với ông. Nhưng khi ông đã đọc xong tất cả những cái này ....

Ông ta chỉ vào tập giấy vừa đua cho tôi.

- ... thì chắc chắn ông sẽ nói rằng tôi có đem lại cho ông một điều gì mới lạ.

Ông thanh tra MacDonald vẫn không rời mắt nhìn Douglas, mãi rồi mới nói lên đuợc:

- Chuyện này thật vượt quá sức hiểu biết của tôi, hai ngày nay chúng tôi điều tra về cái chết của ông, thì bây giờ ông như một bóng ma từ dưới mồ chui lên vậy.

Holmes trách móc, chỉ về phía ông thanh tra:

- Trong cái tài liệu mà tôi đã đua cho ông, có mô tả cái cách vua Charles đã ẩn náu trong lâu đài này. Một chỗ ẩn dùng trong thế kỷ thứ XVII rất có thể còn dùng đuợc trong ngày nay.

Ông thanh tra nổi giận thật sự, hỏi lại:

- Thế ông đã đóng kịch với chúng tôi từ bao lâu rồi, ông Holmes?

- Chỉ mới từ tối hôm qua thôi. Vì phải đợi đến tối hôm nay mới có thể chứng minh đuợc điều này, nên tôi có mời quý ông nghỉ xả hơi một ngày. Khi đã thấy gói quần áo trong đuờng hào, tôi biết rằng xác chết kia không phải là xác của ông Douglas mà là của người đi xe đạp. Vì vậy tôi phải đi tìm nơi ông Douglas ẩn nấp, ông đã ẩn nấp dưới sự yểm trợ của vợ và bạn ông ta.

- Ông lý luận rất đúng. Tôi hài lòng vì đã gạt bỏ đuợc những con chó vẫn đi tìm dấu chân tôi. Ông thanh tra, tôi sẽ nói hết:

Có một vài người có nhiều lý do để căm thù tôi và sẵn sàng giết tôi. Chừng nào mà chúng còn sống, thì tôi không hề có an ninh. Chúng đã theo tôi từ Chicago đến California, rồi còn bắt buộc tôi, phải rời khỏi Châu Mỹ. Khi tôi cưới vợ và về sống ở đây, tôi đã tưởng những năm cuối của đời tôi là vô sự. Tôi chưa bao giờ nói rõ cho nhà tôi hiểu mọi chuyện vì nếu biết, nhà tôi cung sẽ luôn sống trong lo sợ...

Douglas nắm chặt lấy tay vợ.

- ... Thưa các ông, một ngày trước hôm xảy ra sự việc, tôi có đi Tunbridge Wells, và có gặp một người ở ngoài phố. Chỉ thoáng nhìn hắn thôi, tôi cung biết hắn là kẻ thù tệ hại nhất của tôi. Tôi trở về đây và tiến hành những biện pháp tự vệ.

Tôi đã cảnh giác không bước chân ra đến ngoài vườn. Khi cây cầu đã đuợc kéo lên, tôi mới yên tâm hơn, nhưng, tôi không ngờ rằng nó đã lẻn vào trong lâu đài và chờ tôi ở đây. khi đi kiểm tra, vừa đặt chân vào căn buồng này thì tôi cảm thấy ngay có sự nguy hiểm. Tôi thấy một đôi giầy thò ra dưới bức rèm cửa sổ, và một giây đồng hồ sau, tôi thấy cả con người đang nấp ở đó. Lúc đó tôi chỉ có một cây nến cầm ở tay, nhưng cây đèn ở buồng ngoài cung chiếu sáng khá tốt. Tôi để cây nến xuống bàn, và nhảy đến chộp lấy cây búa trên lò sưởi. Cùng lúc đó hắn cung nhảy bổ vào tôi. Tôi trông thấy ánh lên một lưỡi dao nhọn, và tôi đã đập nó bằng một nhát búa quay ngang. Con dao rơi xuống sàn. Nó đã lanh lẹ vòng qua chiếc bàn và lôi ra một khẩu súng giấu dưới chiếc áo khoác. Tôi nghe thấy nó lên đạn, nhưng tôi đã nắm đuợc khẩu súng. Tôi nắm đuợc nòng súng. Tôi với nó vật lộn trong khoảng một hai phút gì đó. Nó không rời khẩu súng, nhưng nó đã để báng súng chúc xuống dưới. Không biết là tôi đã bóp cò, hay chính nó đụng phải cò. Chỉ biết rằng nó đã lãnh cả hai viên đạn vào mặt. 

Tôi đang đứng bám vào thành bàn thì anh Barker chạy vào. Tôi cung nghe thấy tiếng chân nhà tôi chạy đến nữa. Tôi ngăn nhà tôi lại. Tôi hứa với nhà tôi là sẽ lên với bà ấy ngay. Tôi nói đôi câu với anh Barker, và chỉ thoáng nhìn qua là anh đã hiểu hết tất cả mọi chuyện. Chúng tôi chờ gia nhân trong lâu đài chạy đến. Nhưng chẳng thấy ai đến cả. Lúc đó chúng tôi mới hiểu rằng không ai nghe thấy tiếng súng nổ, và chỉ có chúng tôi biết việc gì mới xảy ra thôi. Chính vào lúc này tôi chợt có ý kiến. Tôi vén cánh tay áo nó lên, và chúng tôi thấy ngay cái dấu hiệu của hội kín in trên đó, Đây các ông xem ....

Douglas cung vén tay áo ngoài và tay áo sơ mi lên, chỉ cho chúng tôi thấy một cái hình tam giác màu nâu nằm trong một đuờng tròn, giống như cái hình chúng tôi đã thấy trên tay xác chết.

- Khi tôi nhìn thấy cái dấu hiệu đó, tôi bắt đầu xếp đặt kế hoạch. Nó cung cỡ người như tôi, cũng tóc hoa râm và dáng dấp cung gần giống tôi. Còn về bộ mặt thì chẳng còn ai phân biệt ra đuợc nữa. Tôi trở lên phòng để lấy bộ quần áo, và 15 phút sau thì Barker và tôi đã mặc vào cho nó cái áo khoác ngoài của tôi, rồi đặt nó nằm như các ông đã thấy đấy. Chúng tôi bọc hết quần áo của nó vào trong một cái gói, rồi buộc thêm vào đó quả tạ, là vật nặng duy nhất mà tôi tìm thấy lúc bấy giờ, sau đó đem ném cả gói qua cửa sổ. Mẩu bìa cứng mà nó định để cạnh xác tôi, thì nay tôi đem để cạnh xác nó. Tôi đeo mấy cái nhẫn của tôi vào ngón

tay nó, nhưng đến cái nhẫn cưới thì...

Douglas chìa ra một bàn tay to lớn.

- ... Từ ngày cưới nhà tôi đến giờ, tôi chưa hề tháo nó ra, và bây giờ có lẽ phải có một cái giua thì mới lấy nó ra đuợc. Tôi phải bóc cả miếng băng dính duới cằm của tôi và dán vào cùng một chỗ trên cái phần còn lại của đầu kẻ thù. Ông Holmes, mặc dù ông là người tinh khôn, nhưng ông cũng đã có lúc sơ ý: vì nếu ông dở miếng băng dính ấy lên, thì ông sẽ thấy ở dưới không có một dấu đứt nào cả.

Tôi định ẩn náu trong ít lâu; rồi đi đến một nơi nào đó, nhà tôi sẽ đến sau, thì may ra tôi còn có thể sống yên ổn đuợc trong những ngày cuối cùng của đời mình. Bây giờ tôi có một điều muốn hỏi các ông: "Đối với luật pháp nước Anh, thì tội của tôi sẽ như thế nào?"

Tất cả mọi người đều yên lặng. Mãi sau, Holmes mới lên tiếng:

- Luật pháp nước Anh, nói chung, là một luật pháp đúng đắn. Luật pháp này sẽ công bằng đối với ông. Nhưng tôi muốn biết tại sao người đó lại biết ông ở đây, và hắn làm cách nào mà lọt đuợc vào căn buồng này.

- Tôi hoàn toàn không biết.

Holmes tái nhợt, rất nghiêm trọng, nói như thì thầm.

- Như thế thì câu chuyện này chưa kết thúc đâu. Ông sẽ còn phải đuong đầu với những mối nguy hiểm còn ghê gớm hơn cả những kẻ thù của ông ở bên Mỹ nữa kìa. Xin ông hãy theo lời khuyên của tôi: Hãy hết sức cảnh giác.

Và bây giờ, xin mời các bạn độc giả hãy theo tôi rời lâu đài Birlstone, lùi về quá khứ 20 năm, vuợt qua một ngàn dặm về phía Tây, để nghe một câu chuyện lạ lùng và khủng khiếp. Và sau đó chúng ta sẽ trở lại gian buồng ở phố Baker, là nơi sẽ viết chương cuối của câu chuyện này.

__________________________

Phần II: Những người tiên phong

Chương 8

Con người ấy

Ngày 4 tháng 2 năm 1875 tuyết phủ đầy các đường đèo của ngọn núi Gilmerton. Chiếc xe quét tuyết đã dọn sạch được con đường hoả xa nối liền các trung tâm mỏ than và sắt. Một con tàu đang ì ạch leo lên con đường đèo chạy từ tỉnh Stagville lên thị trấn Vermissa. Từ đó, đường tàu lại đổ xuống đến giao điểm của Bartons Crossing, Helmdale và vùng nông nghiệp Merton. Hàng dãy dài những toa xe goòng chất đầy than hoặc quặng sắt đã lôi kéo đến đây cả một số lớn những người nhiều ý chí. Mà vùng này hiểm ác thật. Những ngọn núi trọc, trắng xóa tuyết, nhô lên từ những cánh rừng tối tăm, rậm rạp đã tạo ra một thung lũng dài ngoằn ngoèo và lộng gió. Chính trong thung lũng này, con tàu đang bò dần lên, vừa đi vừa thở phì phò.

Mấy ngọn đèn dầu hỏa mới vừa được thắp lên, trên toa hành khách thứ nhất có khoảng độ 20 hay 30 người. Phần đông họ là những thợ thuyền đi làm việc ở dưới thung lũng về. ít nhất cũng có đến mười, mười hai người mặt mũi nhem nhuốc, có đeo những cây đèn an toàn. Họ hút thuốc và nói chuyện rì rào, thỉnh thoảng liếc nhìn về phía hai người cảnh sát mặc sắc phục đang đứng ở đầu toa. Có cả một số nữ công nhân và vài ba người buôn bán ở địa phương.Nhưng ở một góc toa tàu, có một người trẻ tuổi ngồi một mình.

Anh ta gần ba mươi tuổi, nước da tươi tắn, vóc người trung bình. Đôi mắt mầu xám mở to vừa khôn ngoan, vừa tinh nghịch lóng lánh sau cặp kính. Rõ ràng đây là một con người cởi mở và giản dị, nụ cười sẵn sàng nở trên môi. Mới thoạt nhìn thì như vậy. Nhưng quan sát kĩ thêm nữa, sẽ thấy một cái quai hàm rắn chắc và chung quanh đôi môi, những vết nhăn nghiêm nghị, chứng tỏ cái anh chàng trẻ tuổi người Ailen này cũng không phải là một tay vừa.

Sau khi ba lần thử bắt chuyện với người thợ mỏ gần nhất, và chỉ nhận được vài tiếng trả lời càu nhàu, anh chàng đành ngồi yên, buồn bã nhìn qua cửa kính, ngắm một phong cảnh chẳng có gì thích thú. Đêm xuống dần, những tia lửa đỏ của các lò đúc lập lòe trên các sườn núi, soi sáng những đống than và xi quặng cùng những giếng mỏ. Rải rác đó đây, dọc theo đường tàu, những xóm nhà gỗ nhỏ đã bắt đầu lên đèn. Tàu dừng lại ở nhiều nơi, ở mỗi nơi lại có những toán thợ thuyền bước xuống.

Người hành khách trẻ tuổi ngắm nhìn xứ sở u buồn này một cách vừa chăm chú vừa ghê sợ. Thỉnh thoảng anh ta lại lôi từ trong túi ra một phong thư dày cộm, đọc một vài đoạn rồi lại nghí ngóay vài chữ lên đó. Có một lần, anh ta lôi từ đằng sau chiếc thắt lưng ra một khẩu súng lục. Khi anh ta nghiêng nó về phía ánh sáng đèn, thì thấy rõ là khẩu súng đã lên đạn. Anh ta lại vội nhét nó vào trong túi áo. Một người thợ nói:

- Này anh bạn, anh có vẻ chuẩn bị dữ quá đấy!

Người trẻ tuổi mỉm cười, hơi lúng túng:

- Đúng. ở chỗ tôi sống trước đây, đôi lúc cũng cần đến nó.

- Thế anh ở đâu đến?

- ở Chicago.

- Anh chưa đến đây bao giờ?

- Chưa.

- Rồi sẽ thấy, ở đây anh cũng cần nó.

- Thật không?

- Anh chưa nghe gì ở đây à?

- Chưa.

- Thế mà tôi cứ tưởng là chuyện đã lan ra khắp xứ sở rồi chứ. Nhưng không lâu đâu, rồi anh sẽ biết hết. Thế tại sao anh lại đến cái thung lũng này?

- Tôi tìm việc làm.

- Anh có vào nghiệp đoàn không?

- Có chứ.

- Thế thì anh sẽ được toại nguyện. Anh có bạn bè không?

- Chưa, nhưng sẽ có.

- Nhờ đâu?

- Tôi là hội viên của "Hội những Người Tự Do". Trong mỗi tỉnh đều có một chi hội.

Người thợ sửng sốt, liếc nhìn những người cùng ngồi trong toa với cặp mắt ngờ vực. Nhưng những người thợ mỏ vẫn rì rào nói chuyện. Hai người cảnh sát thì ngủ gà, ngủ gật. Người thợ liền đứng dậy đi lại gần người trẻ tuổi, ngồi xuống bên cạnh anh ta, chìa tay ra và nói:

- Vậy hãy bắt tay tôi đi.

Họ trao đổi nhau một cái bắt tay theo một kiểu riêng nào đó.

- Được rồi. Anh nói sự thật. Nhưng tôi muốn chắc chắn hơn kia...

Người thợ giơ tay phải lên ngang tầm mắt phải, Anh trẻ tuổi vội giơ ngay tay trái lên ngang tầm mắt trái. Người thợ nói:

- Những đêm đen tối rất khó chịu.

Anh kia trả lời:

- Phải, nhất là cho những người lạ mà phải đi lại.

- Thôi đủ rồi, Tôi là Scanlan, chi nhánh 341, thung lũng Vermissa, sung sướng được gặp anh trong vùng này.

- Cảm ơn. Tôi là John McMurdo, chi nhánh 29, Chicago. Toán trưởng: J.H.Scott. Tôi may mắn gặp được một môn huynh như anh.

- Không ở đâu mà Hội lại phồn thịnh như ở Thung lũng này. Có điều tôi không hiểu được là tại sao một hội viên năng nổ như anh mà lại không tìm được việc làm ở Chicago.

- ở đó, tôi có thể tìm được bất cứ việc nào mà tôi muốn. - McMurdo trả lời.

- Thế thì tại sao anh lại bỏ đi?

McMurdo mỉm cười trỏ người cảnh sát:

- Hai ông cố nội này mà biết được lý do thì hẳn là vui lắm.

- Chuyện lôi thôi à? - Scanlan thì thào.

- Nặng.

- Tù được không?

- Chưa đủ.

- Không phải án mạng chứ?

McMurdo trả lời như một người vừa chợt nhận thấy rằng mình đã nói hơi quá:

- Mình có những lý do để ra đi. Anh nghe đến thế là đủ rồi nhé.

- Tôi không hỏi nữa. Tôi không muốn làm mất lòng anh mà. Các bạn ở đây sẽ không đánh giá xấu anh đâu. Thế bây giờ anh định đi đâu?

- Đến Vermissa.

- Còn ba ga nữa thì đến. Thế anh định ở đâu?

McMurdo rút ra một chiếc bì thơ, đưa đến gần ngọn đèn:

- Địa chỉ đây: Cụ Jacob Shafter. Đường Sheridan. Đây là một nhà nấu cơm trọ. Có người ở Chicago mách cho tôi.

- Tôi không biết nhà trọ này. Vermissa không nằm trong khu của tôi. Tôi ở Hobson s Patch, ga sau là đến. Nhưng mà này, nếu anh có chuyện gì lôi thôi ở Vermissa, thì cứ đi thẳng đến nhà hội quán và vào tìm ông chủ McGinty. Ông ta là toán trưởng của chi nhánh Vermissa. Thôi tạm biệt, sẽ gặp lại nhau ở chi hội.

McMurdo ngồi lại một mình với những ý nghĩ quay cuồng trong đầu. Đêm đã xuống hẳn. Trong khung cảnh tranh tối tranh sáng đó, những dáng người đen sẫm cúi xuống co, kéo, quay đi quay lại với những động tác của người máy, theo nhịp điệu những tiếng gầm gừ của sắt thép.

Một tiếng nói bỗng cất lên:

- Địa ngục có lẽ cũng giống thế này thôi.

McMurdo quay lại: Một người cảnh sát đã đến ngồi bên cạnh anh và đang ngắm nhìn cái cảnh tượng khủng khiếp đó, Người cảnh sát kia gật đầu đáp lại.

- Đúng. Nếu ở địa ngục mà có những con quỷ sứ dữ tợn hơn một số kẻ ở đây thì tôi sẽ rất ngạc nhiên. Anh mới về vùng này phải không?

- Phải. - McMurdo trả lời.

- Tôi khuyên anh hãy cẩn thận trong việc chọn bạn. Không nên kết bạn với Scanlan hay cái băng của hắn.

- Đó là chuyện riêng của tôi, các anh can dự vào làm gì?

McMurdo nhe hai hàm răng ra cười.

Hai người cảnh sát ngạc nhiên khi thấy thiện chí của mình bị đáp lại một cách thô bạo. Một người nói:

- Đấy là một lời báo động chỉ có lợi cho anh thôi.

McMurdo vẫn cứ tái đi vì tức giận, hét lên:

- Tôi không biết vùng này thật, nhưng tôi biết rằng mỗi lần mở miệng là các anh cứ khuyên với răn.

- Thôi được, chúng tôi sẽ được biết anh rõ hơn, anh có vẻ "chịu chơi" lắm.

Người cảnh sát kia bồi thêm:

- Đúng, rồi chúng ta sẽ gặp lại nhau, không lâu đâu.

- Tên là Jack McMurdo.

Hai người cảnh sát nhún vai và quay ra nói chuyện với nhau. Mấy phút sau, tàu từ từ vào một cái ga tối tăm, và nhiều người bước xuống, vì Vermissa là thị trấn lớn nhất trên tất cả tuyến đường. McMurdo cầm cái bọc lên. Khi anh sắp đi vào trong bóng tối của sân ga, thì một người thợ mỏ đến nắm lấy tay anh:

- Đưa cái bọc đây tôi mang cho, và tôi sẽ chỉ đường cho anh.

Khi hai người đi đến sân ga, ngang qua đám thợ mỏ, hàng loạt tiếng chào nổi lên. Thế là trước khi đặt chân xuống Vermissa, McMurdo đã trở thành một nhân vật nổi tiếng ở đó rồi.

Đứng dưới thung lũng nhìn mấy đống lửa ngất trời cùng những đám khói dày đặc còn thấy một cái gì là hùng vĩ, ở đấy con người nhờ sức hai bàn tay và bộ óc đã đẽo gọt những ngọn núi bằng máy và dựng lên những công trình. Trái lại, về đến thị trấn, chỉ thấy toàn một sự nhớp nhúa và xấu xí. Đường phố chính đã bị xe cộ đi lại biến thành một thứ tuyết pha bùn nhão như hồ. Những cây dèn chỉ dùng để làm lộ ra những dãy nhà bằng gỗ, mặt tiền có một hàng lan can, tất cả đều nhếch nhác bẩn thỉu. Vào đến trung tâm thì một vài cửa hàng có thắp đèn sáng hơn, nhưng cả một đám nhà chỉ là những hàng cà phê và sòng bạc, để cho thợ mỏ đến

vung phí tiền lương.

Người đưa đường chỉ vào một cái quán rượu to, nói;

- Đấy nhà hội quán đấy, McGinty là ông chủ.

- Ông ta như thế nào?

- Anh chưa bao giờ nghe nói đến ông ta?

- Tôi mới đến.

- Thế mà tôi cứ tưởng là khắp xứ này phải biết đến ông ta. Ông ta được đăng báo hoài mà. 

- Tại sao báo lại đăng tên ông ta?

- ờ thì vì...

Người thợ mỏ hạ giọng xuống nói nhỏ:

-... Vì áp phe mà.

- áp phe gì?

- áp phe của những "Người Tiên Phong".

- ừ, ở Chicago tôi cũng có đọc một cái gì đấy về những "Người Tiên Phong". Chúng nó là một bọn sát nhân, phải không?

Người thợ mỏ hoảng hốt, nói lạc cả tiếng:

- Anh muốn sống thì im ngay đi. Này anh, ở đâu mà ăn nói kiểu đó, thì không được đâu, đi mò tôm đó.

- Không, tôi chỉ biết được đôi chút thôi.

Anh ta liếc chung quanh, nhìn những bóng đen và đêm tối như là sợ hãi một sự nguy hiểm nào đó.

- Nếu giết người có nghĩa là ám sát. Thì ở đây những vụ ám sát đem bán "xôn" cũng không hết. Nhưng anh đừng có dại dột mà đem cái tên của McGinty đi kèm với các vụ ám sát. Bởi vì ông ta không tha thứ cho bất cứ ai xì xào về ông ta. Đây căn nhà mà anh tìm ở lùi vào đằng sau đường phố một chút đó.

McMurdo bắt tay người bạn mới:

- Xin cám ơn anh.

Anh ta đi lên con đường dẫn vào nhà, và gõ cửa. Hai cánh cửa mở ngay ra: trước mặt anh là một phụ nữ còn trẻ, đẹp kì lạ. Cô ta có dáng người xứ Thụy Điển, bộ tóc vàng óng lộng lẫy tương phản với đôi mắt đen nhánh. Cô ngạc nhiên nhìn người thanh niên lạ mặt, và sự lúng túng làm sắc mặt đỏ hồng lên, một đóa hoa tươi thắm nở trên một đống than xỉ. Anh mê mẩn ngắm cô gái, không nói được nên lời và cuối cùng cô ta phải lên tiếng:

- Tôi tưởng là ba tôi về. Ông đến tìm ba tôi? Ba tôi lên phố, cũng sắp về.

McMurdo vẫn cứ ngắm say sưa:

- Thưa cô. Tôi không vội lắm, tôi đến đây để xin ở trọ.

- Vậy xin mời ông vào. Tôi là Ettie Shafter, con gái ông Shafter. Má tôi đã mất, và chính tôi trông nom cái nhà trọ này. Ông có thể ngồi cạnh lò sưởi để chờ ba tôi về. à, mà kìa, ba tôi về tới rồi.

Một người đàn ông nặng nề bước vào nhà. McMurdo giải thích ngắn gọn lý do anh đến đây. Ông già Shafter nhanh chóng đồng ý: 12 dollars mỗi tuần, trả tiền trước cả tiền ăn, tiền phòng.

***

Chương 9

Người trưởng toán

McMurdo là một người muốn ai cũng phải để ý đến mình. Chỉ sau một tuần lễ, anh ta đã trở thành nhân vật quan trọng nhất trong nhà trọ. Buổi tối, khi những người tá túc tại đây ngồi với nhau, thì anh chàng này luôn luôn có những chuyện khôi hài làm cho họ phải phá lên cười. Sức hấp dẫn riêng của anh làm tỏa sự vui vẻ ra xung quanh. Đối với những người đại diện cho pháp luật, anh tỏ thái độ khinh thường, làm cho những người trong nhà trọ hoặc là thích thú hoặc là lo ngại.

Ngay từ khi mới đến trọ, anh đã công khai bộc lộ sự chiêm ngưỡng đối với cô thiếu nữ trong nhà rằng từ phút đầu tiên, cô gái đã chiếm hoàn toàn trái tim anh. Trong ngày thứ hai, anh nói thẳng rằng anh yêu cô ta, và từ đó, anh không ngừng nhắc đi nhắc lại cái điệp khúc ấy.

- Cô có người khác rồi à? Cô hãy bảo cái người ấy lo công việc riêng của anh ta đi. Còn tôi, tôi sẽ không để lỡ mất dịp may duy nhất của đời tôi. Ettie, hiện giờ cô có thể nói tiếng Không. Nhưng một ngày nào đó, rồi cô sẽ trả lời là: Có. Tôi còn trẻ, tôi đợi được.

Đó là một gã si tình nguy hiểm, với tác phong Ailen trắng trợn, và những cử chỉ dịu dàng âu yếm đến mê người. Thêm nữa, anh ta được bao bọc trong một vòng hào quang của những chuyện phiêu lưu và bí mật, vòng hào quang dễ làm cho một phụ nữ phải chú ý, và từ đó dẫn đến tình yêu có xa gì. Anh ta kể về những thung lũng thanh bình, về hòn đảo xa vời đẹp như trong những chuyện thần tiên, về những ngọn núi hiền lành, những cánh đồng xanh muốt. Người ta có cảm giác là nhiều chuyện kỳ lạ đã xảy đến cho anh ta trong cái thành phố Chicago quá kỳ lạ, quá bí mật. Anh ta gợi lại với một vẻ trầm ngâm buồn rầu, một cuộc ra đi đột ngột, một cuộc chạy trốn vào nơi tận cùng của cái thung lũng âm u này. Ettie lắng nghe từng lời, đôi mắt nhung đen ánh lên một niềm thương xót và thông cảm.

McMurdo làm kế toán. Anh bận suốt ngày, và cũng chưa có thì giờ đến trình diện ở chi nhánh của "Hội những người Tự Do".

Scanlan đến nhà trọ cụ Shafter vào một buổi tối. Scanlan là một mẫu người nhỏ bé, láu táu, mặt lưỡi cày. Anh ta có vẻ vui lòng khi gặp lại McMurdo. Sau vài ngụm, anh ta đi vào lý do của việc đến thăm.

- Này, McMurdo, sao anh chưa trình diện ông toán trưởng.

- Tôi bận.

- Làm gì thì làm, nhưng phải tới gặp McGinty ngay đi. Lẽ ra sau ngày anh đến, anh phải trình diện ỏ trụ sở Hội rồi, anh không được làm ăn bê bối với ông ta.

McMurdo có vẻ ngạc nhiên.

- Tôi là một hội viên đã hơn hai năm rồi. Sao lại phải đi trình diện gấp thế?

- Ở Chicago thì không gấp như thế đâu.

- Ở đây cũng là một Hội ấy chứ?

- Cùng một Hội à? - Scanlan nhìn McMurdo trừng trừng, mắt anh ta lóe lên một tia sáng đe dọa.

- Thế không phải là cùng một Hội sao? - McMurdo hỏi lại.

- Một tháng nữa, chúng ta sẽ trở lại chuyện cùng hay không cùng này. Tôi nghe nói là bữa nọ trên tàu anh có đối đáp gì đó với mấy tay cảnh sát.

- Sao anh biết?

- Ồ tin tức bay đi mà. Ở đây tin tức bay đi nhanh lắm, tốt cũng có, xấu cũng có. Ồ! Anh sẽ là người lý tưởng của McGinty đó.

- Sao vậy? Ông ta cũng ghét cảnh sát ư?

Scanlan bật cười, đứng dậy:

- Hãy đi gặp ông ta ngay đi. Nếu không, thì không phải ông ta ghét cảnh sát, mà là ghét anh đó.

Cũng đêm hôm đó, ông già Thụy Điển mời anh chàng trẻ tuổi vào phòng ông.

- Tôi có cảm giác là anh đang ve vãn con gái tôi.

- Tôi yêu cô ấy.

- Thế thì anh tốn công vô ích. Có người đã đến trước anh rồi.

- Cô ấy đã nói với cháu như thế.

- Con bé có nói với anh là ai không?

- Cháu có hỏi nhưng cô ấy không nói.

- Có lẽ nó không muốn làm anh phải sợ hãi đấy.

- Làm cháu sợ hãi à?

McMurdo đã bắt đầu nóng mặt.

- Đúng đó,anh bạn. Nó là thằng Teddy Baldwin đó.

- Cái thằng Teddy ấy là một thứ ma quái dữ dằn hay sao?

- Nó là một trong những thằng chủ của bọn "Người Tiên Phong" đấy.

- "Người Tiên Phong" à? Tại sao mọi người ở đây lại phải sợ chúng đến thế?

Ông chủ trọ hạ thấp ngay giọng xuống.

- "Người Tiên Phong" là hội viên của "Hội những Người Tự Do".

Người trẻ tuổi giật mình.

- Cháu cũng là hội viên của Hội ấy đây.

- Anh à? Nếu tôi biết thế, thì tôi không cho anh vào nhà. Dù anh có trả tôi đến 100 dollars một tuần đi nữa.

- Hội lập ra cốt để giúp đỡ lẫn nhau, và gây tình bạn tốt. Bác hãy đọc điều lệ của nó mà xem.

- ở nơi khác thì như thế đó. Nhưng ở đây thì không.

- ở đây nó thế nào?

- Một bọn sát nhân. Thế thôi.

McMurdo đáp lại bằng một nụ cười không tin:

- Bác chứng minh được điều đó không?

- Cả năm mươi vụ án mạng ở đây chưa đủ để chứng minh hay sao? Trong cùng thung lũng này không ai không biết những việc ấy.

McMurdo nói rất nghiêm trang:

- Thưa bác, cháu muốn bác rút lại những lời vừa nói, nếu không thì bác phải giải thích.

- Tôi chỉ nhắc lại cho anh cái gì mà tất cả mọi người đều nói ở đây. Những người chủ của Hội thì cũng là những người chủ của bọn "Tiên Phong". Nếu ai làm gì phật ý Hội, thì bọn "Tiên Phong" sẽ ra tay ngay.

- Cháu muốn có những chứng cớ thực sự kia.

- Nếu anh còn ở lại Vermissa này, thì rồi anh sẽ có những chứng cớ. Nhưng tôi quên mất rằng anh cũng ở trong cái băng ấy, thì rồi anh cũng chẳng hơn gì bọn chúng đâu. Trong khi chờ đợi, thưa ông, xin ông đi tìm một nơi trọ khác.

Thế là McMurdo bị kết án phải đi đày đến hai lần: đi đày khỏi căn buồng ấm cúng và đi đày xa người thiếu nữ. Anh đi tìm Ettie.

- Ba em vừa mới đuổi anh. Nếu chỉ là chuyện căn buồng thôi thì anh có cần gì. Nhưng mà, anh không thể sống không có em được.

- ồ, ông McMurdo. Xin ông đừng nói thế. Ông đã đến quá trễ. Em chưa hứa với hắn nhưng em cũng không thể hứa với người khác được.

- Thế nếu anh là người đến trước, thì liệu anh có một tia hy vọng nào không?

Cô gái úp mặt vào hai bàn tay, khóc nức nở:

- Em thề trước Thượng Đế là em muốn anh là người đầu tiên đến với em.

McMurdo quỳ ngay xuống bên cô gái, thốt lên:

- Anh van em, em hãy làm theo tiếng gọi của trái tim mình.

McMurdo nắm lấy đôi bàn tay cô gái.

- Em hãy nói rằng em là của anh, và chúng ta sẽ cùng nhau xây dựng cuộc đời.

- Nhưgn không phải ở đây chứ?

- ở đây, ngay ở đây em ạ.

- Không, không, anh...

McMurdo ôm chặt cô gái vào trong tay. Cô gái không chống cự.

- ở đây thì không được đâu anh. Nhưng... anh có thể đi với em được không?

Một trận bão nội tâm, làm rung động nét mặt người thanh niên. Một lát sau, khuôn mặt trở lại rắn đanh

- Không. Anh ở đây để bảo vệ em và chống với cả hoàn cầu. 

- Thế tại sao chúng ta không đi nơi khác.

- Không, anh không thể đi được.

- Tại sao?

- Nếu chúng ta yêu nhau thì ai dám ngăn cản?

- Anh mới đến đây nên anh không biết cái thằng Teddy đâu. Anh cũng không biết McGinty và bọn "Tiên Phong".

- Anh đã sống giữa những con người dữ tợn, và bao giờ rồi cuối cùng chính chúng phải kiêng anh. Nếu bọn chúng đã phạm tội thì tại sao không ai đưa chúng ra trước pháp luật.

- Không có ai dám ra làm chứng chống lại chúng: người nào làm như vậy, thì ngay trong tháng đó sẽ chết.

- Có thể người ta tìm cách hại chúng và chúng không có cách gì để tự vệ chăng?

- Ôi, em không muốn nghe anh nói như vậy. hắn cũng nói đúng như vậy đó... cái thằng ấy.

- Thằng Teddy ấy à? à, nó nói như vậy có phải không?

- Và vì vậy, mà em ghét nó. Em ghét nó nhưng em sợ nó. Cho nên em cứ phải tìm cách tránh né bằng những lời hứa nửa vời. Nhưng nếu anh chịu đi với em, thì chúng ta sẽ đưa ba em đi, và sống mãi mãi với nhau.

Một lần nữa nét mặt người thanh niên lại hiện lên cuộc tranh đấu nội tâm dữ dội, và một lần nữa, một quyết định không gì lay chuyển nổi.

- Sẽ không có gì nguy hại xảy đến cho em và ba em đâu.Còn về cái bọn độc ác kia, anh tự hỏi không biết rồi em có ngạc nhiên khi thấy rằng anh còn độc ác hơn cả đứa độc ác nhất trong bon chúng, trước khi chúng ta lấy nhau.

- Không, em tin anh... tin suốt đời.

Trên môi McMurdo nở một nụ cười cay đắng.

- Em biết anh còn ít quá, em không thể đoán biết được những gì diễn ra trong tâm hồn anh đâu. Này, ai đến kìa?

Hai cánh cửa buồng bật toang ra, và một người trẻ tuổi bước vào, dáng điệu dương dương tự đắc, hắn đẹp trai, ăn mặc đẹp đẽ. Vóc dáng và tuổi tác cũng vào cỡ của McMurdo. Dưới chiếc mũ phớt vành đen rộng, cặp mắt dữ tợn nhìn chăm chăm vào đôi trai gái đang ngồi cạnh lò sưởi.

Ettie vội vàng đứng bật dây, hoảng hốt.

- Tôi rất sung sướng được ông đến chơi, ông Teddy. Xin mời ông ngồi.

Teddy hai tay chống nạnh, nhìn thẳng vào mặt McMurdo, hỏi:

- Người này là ai?

- Một người khách trọ mới. Ông McMurdo, ông cho phép tôi giới thiệu với ông, ông Teddy.

Hai người thanh niên trao đổi một cái gật đầu lạnh nhạt.

- Cô gái đã nói cho anh biết sự quan hệ của cô ta với tôi rồi chứ?

- Tôi chẳng biết mối quan hệ nào giữa cô ta và anh cả.

- Cô gái này là của tôi, và bây giờ thì anh đi chơi đi, ngoài kia trời dễ chịu lắm đấy.

- Cám ơn. Lúc này tôi không thích đi chơi.

- "Lại thế nữa kia". Đôi mắt của Teddy rừng rực lửa giận. "Thế chắc ông thích đánh nhau có phải không, thưa ông khách trọ?"

McMurdo nhảy dựng lên:

- Anh đã đoán đúng đấy. Chưa bao giờ anh lại có một lời nói đúng hơn thế nữa.

Cô thiếu nữ kêu lên, sợ hãi:

- Ôi, anh McMurdo. Ôi anh McMurdo.

- ồ, người ta đã gọi nhau bằng anh rồi, nhanh quá nhỉ?

- Anh Teddy. Xin anh hãy độ lượng mà tha lỗi cho anh ấy.

McMurdo bình tĩnh nói:

- Ettie, anh sẽ giải quyết chuyện này ổn thỏa thôi. Thưa ông Teddy, ông có thấy hứng thú mà đi dạo với tôi một vòng ngoài đường kia không? Trời ban đêm đẹp lắm, đúng như ông đã nói, ở đằng sau nhà bên cạnh này có một cái bãi trống, tiện lợi lắm, ông ạ.

- Tôi sẽ trả món nợ này, mà không cần phải bẩn tay. Anh sẽ hối hận là đã đặt chân vào nhà này.

- Sẽ à? Có ngay vẫn hơn chứ.

- Tôi sẽ chọn giờ. Anh có thể để tôi thu xếp việc ấy cho. Này, nhìn đây.

Teddy kéo ống tay áo lên và chỉ vào một dấu hiệu đặc biệt: một hình tam gíac nằm trong một đường tròn.

- Anh có biết cái này là gì không?

- Tôi không biết và cũng chẳng cần biết.

- Thế thì rồi anh sẽ biết. Ettie sẽ chỉ dẫn cho anh. Con kia, mày sẽ quỳ xuống ,và van xin trở về với tao. Sau đó, mày sẽ biết tao trừng phạt mày như thế nào. Mày đã gieo..., thì tao sẽ cho mày gặt...

Hắn giận dữ, nhìn hai người một lần cuối, rồi quay gót đi ra và dập cửa lại.

Trong giây lát, McMurdo và người thiếu nữ đứng lặng đi. Nhưng rồi người thiếu nữ nhào tới ôm chặt lấy anh:

- Ôi, anh McMurdo, anh can đảm biết bao nhiêu. Nhưng anh phải trốn ngay tối nay, nó sẽ giết anh. Em đã nhìn thấy trong mắt nó. Làm sao mà anh chống cự được với cả băng của chúng.

McMurdo dịu dàng hôn người thiếu nữ và dìu cô ngồi xuống ghế

- Em đừng có lo, Anh cũng là một hội viên trong Hội những Người Tự Do, anh đã nói với ba em rồi, và bây giờ anh cũng nói cho em biết nữa, đừng ghét bỏ anh.

- Em không thể nào ghét bỏ anh được. Nhưng nếu anh cũng là một hội viên, tại sao anh không đến lấy lòng ông McGinty. ồ, anh đi ngay đi.

- Anh cũng có ý đó. Em có thể nói với ba em là đêm nay anh còn về ngủ ở đây, nhưng ngày mai anh sẽ đi tìm một căn phòng khác.

Quầy rượu của quán McGinty đông nghẹt khách gồm toàn những bọn hạ lưu của thị trấn.

McGinty là nhân vật nổi tiếng, bên ngoài được che đậy bằng tác phong của một người vui tính sởi lởi. Nhưng bên trong, sự sợ hãi mà hắn gieo rắc không những ở thị trấn Vermissa, mà cả trên toàn bộ cái thung lũng này, đủ lôi kéo khách đến quán rượu của hắn rồi.

McGinty đã được những bọn cướp, bọn lưu manh, bầu hắn giữ chức vụ Ùy viên Hội đồng Thành phố, và Quận trưởng Cảnh sát giao thông. Thuế má và các khoản tiền đóng góp rất lớn, những công trình công cộng thì bị bỏ bê, báo cáo trước nhân dân thì bị bóp méo sự thật Người dân thường bị bắt buộc phải câm miệng vì sợ bị tai họa. Thế là, năm này qua năm khác, quán rượu của ông ta đã phình ra đến mức đe dọa nuốt cả một góc của phố chợ.

McMurdo đẩy cửa bước vào, chen giữa đám đông ồn ào, trong một bầu không khí ô nhiễm khói thuốc và sặc mùi rượu. Căn phòng được thắp đèn sáng choang. Những tấm gương lớn, khung mạ vàng, treo trên bốn bức tường phản chiếu và nhân lên gấp bội không biết bao nhiêu là đèn. Những người bồi rượu, tay áo sơ mi xắn lên đến khuỷu tới tấp pha rượu cho khách hàng. ở một đầu, đứng dựa mình vào quầy, là một người đàn ông cao lớn. Đó là McGinty. Ông ta có bộ tóc đen nhánh, dài như một cái bờm rủ xuống đến tận cổ, bộ râu nham nhở hai bên má, nước da mai mái của một người Italia, đôi mắt đen nhìn không chớp, trông rất dữ tợn. Tất cả phần còn lại, một thân hình cân đối, nét mặt thanh tú, tác phong cởi mở, phù hợp với dáng điệu vui tính và chịu chơi mà ông ta cố làm cho mọi người thấy rõ. Một người khách lạ sẽ nghĩ rằng đây là một tay làm ăn lương thiện. Nhưng khi đôi mắt hung bạo kia nhìn trừng trừng vào khách, thì người này bắt đầu run sợ, và cảm thấy mình đang đứng trước một thiên tai thực sự.

Sau khi đã quan sát kỹ con người đó, McMurdo, cùi tay gặt một đám xu nịnh đang bao quanh. Đôi mắt táo bạo của người thanh niên như đóng đinh vào đôi mắt đen đang soi mói nhìn anh.

- Này anh, tôi chưa hề thấy cái bản mặt của anh ở đây.

- Tôi mới đến, thưa ông McGinty.

- Nhưng không vì thế mà không biết thưa gởi với một người có chức vụ.

Một người trong bọn xu nịnh vội giải thích:

- Này anh, đây là ông hội đồng McGinty đó.

- Rất tiếc, thưa ông hội đồng. Tôi chưa biết hết các tập quán ở đây. Nhưng người ta có khuyên tôi đến gặp ông.

- Thế thì anh gặp tôi rồi đó. Anh thấy tôi thế nào?

- ồ, nói ra bây giờ còn sớm quá. Nhưng nếu trái tim của ông cũng to như thân hình của ông, và tâm hồn ông cũng đẹp như ông, thì tôi tự thấy là bằng lòng rồi.

Nghe câu trả lời đó, tên chủ quán đâm ra ngỡ ngàng, không biết nên cười cợt hay giữ một vẻ nghiêm trang với tên thanh niên này.

Một lát sau, hắn mới quyết định.

- Tổ mẹ, đúng là một kiểu ăn nói Ailen rồi. Thế ra tôn ông đã hài lòng về phần người ngợm của tôi rồi, phải không?

- Chắc chắn thế.

- Và người ta bảo anh đến gặp tôi.

- Vâng.

- Ai nói?

- Môn huynh Scanlan, chi nhánh 341, của Vermissa. Tôi xin nâng ly mừng sức khỏe của ông, ông hội đồng.

McMurdo vừa uống vừa giơ ngón tay út lên. McGinty chăm chú theo dõi anh ta và bỗng nhíu cặp mắt đen rậm lại nói:

- ồ, ra thế đấy. Vậy thì tôi phải xét trường hợp của ông một cách cặn kẽ hơn nữa, thưa ông...

- ... McMurdo

- Một cách cặn kẽ hơn nữa, thưa ông McMurdo, vì ở đây không ai tin lời nói của ai cả. Xin mời qua đằng sau quầy này.

ở đó có một căn phòng nhỏ với những thùng rượu xếp dọc theo tường. McGinty đóng cửa rồi ngồi lên một thùng, vừa cắn vào điếu xì gà vừa quan sát anh thanh niên. Hai phút trôi qua như thế. McMurdo chịu đựng cuộc thẩm tra này một cách vui vẻ. Anh ta đút một tay trong túi áo vét, còn một tay thì vân vê ria mép. Đột

nhiên McGinty chồm người về phía trước và chìa ra một khẩu súng lục. 

- Này, thằng kia. Nếu mày định chơi tao thì cái này sẽ đưa mày sang thế giới bên kia ngay.

McMurdo bình tĩnh trả lời:

- Đón tiếp một môn huynh như thế này thì quả thật là kỳ cục, nhất là khi người ta lại là một trưởng toán trong chi nhánh của Hội những Người Tự Do.

- Anh được nhập hội ở đâu?

- Chi nhánh 29, Chicago

- Bao giờ?

- Ngày 24 tháng 6 năm 1871

- Tên trưởng toán?

- J.H.Scott.

- Ai chịu trách nhiệm toàn khu?

- Bartholomew Wilson.

- Đến Vermissa làm gì?

- Tôi cũng đi làm như ông

- Anh đối đáp trơn tru lắm nhỉ?

- Vâng, tôi không ngọng nghiụ.

- Thế trong hành động, anh có lanh lẹ không?

- Tôi nổi tiếng về việc ấy.

- Rất tốt, anh sẽ được thử thách. Anh đã nghe nói đến chi nhánh ở đây bao giờ chưa?

- Người ta nói với tôi rằng trước tiên phải là một con người đã, rồi sau mới thành một môn huynh được.

- Đúng đó. Tại sao anh lại bỏ Chicago ra đi?

- Ông đừng hòng bắt tôi khai.

McGinty trố mắt ra nhìn. Hắn không quen nghe những câu trả lời như vậy. Câu này, hắn thấy nó thật ngộ nghĩnh.

- Tại sao vậy?

- Vì môn huynh không được phép nói dối với một môn huynh khác.

- Nghĩa là sự thật không được tốt lắm chứ gì.

- Nếu ông muốn hiểu như vậy, thì xin tùy ông.

- Một người trưởng toán như tôi, chắc sẽ không đưa một ai vào trong chi nhánh Hội, khi chưa biết quá khứ của anh ta.

McMurdo có vẻ lúng túng. Sau cùng, anh ta lôi ở túi áo trong ra một mảnh báo cũ, và còn hỏi lại:

- Ông không phản thùng tôi chứ?

- Mày mà còn nói cái kiểu ấy thì tao đập vỡ mặt mày ra bây giờ.

McMurdo tỏ vẻ hối tiếc:

- Tôi xin lỗi ông. Tôi nói mà không suy nghĩ. Tôi biết rằng ở trong tay ông thì tôi sẽ được an toàn. Ông hãy đọc mảnh báo này đi.

McGinty đọc lướt qua bài báo đưa tin về vụ án mạng tên Jonas Pinto ở quán rượu Lake, phố Market, tại Chicago, đêm mồng 1 tháng giêng năm 1874. Hắn đưa trả lại mảnh báo cũ, hỏi:

- Anh làm cái việc ấy à?...

McMurdo trả lời bằng cái gật đầu.

- Tại sao anh lại hạ nó?

- Tôi giúp đỡ nhà nước đúc ra các đồng đô la. Có lẽ những đồng dollars của tôi làm ra, vàng không đủ tuổi như đồng dollars của Nhà nước, nhưng trông nó vẫn có vẻ xài được. Cái tên Pinto này giúp tôi tiêu thụ những đồng ấy. Một hôm nó nói rằng sẽ đi tố cáo tôi. Tôi hạ nó ngay, rồi đến đây.

- Tại sao lại đến cái xứ than này?

- Thấy báo nói ở đây người ta không khó tính lắm.

McGinty bật cười.

- Thế ra trước hết anh là một thằng làm bạc giả, rồi sau là một tên giết người, và anh nghĩ rằng đến đây anh sẽ được người ta đón tiếp tốt có phải không.

- Vâng, đại khái là như vậy.

- Thế bây giờ anh còn làm đươc những đồng dollars ấy không?

McMurdo móc túi lấy ra mấy đồng tiền vàng đưa cho McGinty xem

- Đây ông xem...

- Thật không? Không nói đùa đấy chứ?

McGinty soi các đồng tiền ra ánh sáng, để nó trên bàn tay to tướng.

- Không thấy có gì khác cả. Tổ mẹ, thế này thì anh sẽ là một môn huynh đắc lực đây. ở đây chúng tôi cũng có thể nhận một vài tay đầu bò đầu bướu.

- Thưa ông, tôi sẽ giữ được vị trí của tôi, trong cuộc tự vệ đó.

- Thần kinh của anh có vẻ vững vàng lắm. Anh không xáo động khi tôi chĩa súng vào anh?

- Lúc đó không phải tôi đang bị nguy hiểm.

- Thế thì ai vậy?

- Ông.

McMurdo rút tronng túi áo vét ra một khẩu súng sáu đã lên đạn.

- Tôi vẫn nhắm vào ông suốt trong thời gian vừa qua, tay tôi cũng không lanh kém gì ông đâu.

Ông hội đồng đỏ mặt tía tai nhưng rồi bỗng phá lên cười.

- Tôi có cảm giác một ngày nào đó, chi nhánh Hội ta rồi sẽ đươc kiêu hãnh về anh đó... Cái gì thế này. Chúng mày không thể để yên cho tao được nói chuyện đến năm phút với một vị khách quý hay sao?

Người hầu bàn cúi đầu:

- Xin lỗi ông hội đồng, có ông Teddy. Ông ấy muốn gặp ông gấp.

Lời báo ấy là vô ích, Teddy đã hiện ra trong khung cửa. Hắn gặt người hầu ra rồi đóng cửa lại, và nhìn McMurdo bằng một cặp mắt nẩy lửa.

- Thế là mày đã đến đây trước tao rồi hả? Được, ông hội đồng, tôi có câu chuyện muốn nói với ông về cái tên này.

McMurdo nói như hét:

- Thì mày nói ngay đi, nói ngay trước mặt tao nè.

- Tao sẽ nói lúc nào tao cần nói, và nói theo cách của tao.

McGinty từ trên thùng rượu nhảy xuống, can thiệp

- Teddy, đây là một môn huynh mới đến, chúng ta không được đón tiếp anh ta như vậy. Hãy chìa tay ra làm lành với nhau đi.

- Không đời nào. - Teddy hét lên

- Tôi đã mời anh ta đấu với tôi bằng tay không, hoặc bằng bất cứ thứ vũ khí nào. Thưa ông hội đồng, bây giờ tôi xin để ông phân xử cho chúng tôi.

- Thế giữa hai anh có chuyện gì vậy?

- Một cô gái trẻ tuổi.

- "Tự do à?" Ông trưởng toán nói tiếp. "Vì đây là giữa hai môn huynh trong cùng một chi nhánh hội, nên cô gái đó hoàn toàn tự do".

- ồ, luật lệ của ông là như thế đấy hả?

- Đúng, luật lệ của tao là như thế đấy, Teddy!

McGinty nhìn hắn một cách hiểm ác, tiếp luôn:

- Phải chăng mày định chống lại luật lệ ấy không?

- Ông gạt ra ngoài một người vẫn đứng bên ông từ 5 năm nay, để ôm vào lòng một tên mà ông chưa bao giờ gặp mặt. Mẹ kiếp, đến kỳ phiếu sắp tới...

Ông hội đồng chồm lên như một con hổ, khép chặt hai bàn tay vào quanh cổ tên kia và vật ngửa nó lên một thùng rượu. McMurdo can thiệp. Anh kéo ông hội đồng lại, làm ông ta thả tay ra. Teddy bị khuất phục. Hắn ngồi lên trên thùng rượu. 

- Teddy, đã từ lâu mày đáng được một trận như thế này. Ngày hôm nay thì mày nếm mùi sơ sơ rồi đó. Mày tưởng tượng rằng nếu tao không được bầu lại làm trưởng toán thì mày sẽ chiếm chỗ tao phải không? Rồi đây chi nhánh Hội sẽ định đoạt việc này. Nhưng chừng nào tao còn là trưởng toán, thì không một đứa nào được mở mồm ra chống lại những điều tao quyết định, nghe rõ chưa?

Teddy vừa xoa cổ vừa lắp bắp nói:

- Tôi có chống ông cái gì đâu.

Thế là McGinty đột ngột trở lại ngay cái kiểu cách ra vẻ hồ hởi thường ngày của hắn:

- ồ, nếu thế thì thôi. Chúng ta đều là bạn tốt với nhau cả. Và việc này coi như là xong.

Lão lấy từ trong hốc tủ ra một chai champagne bật nút mở rượu, rót đầy vào ba cốc:

- Nào, chúng ta hãy uống ly rượu hòa giải. Sau tuần rượu này, không có một cuộc cãi lộn nào nữa. Vậy thì bây giờ Teddy, hãy để tay trái của anh lên cổ tôi đi.

Rồi lão nói tiếp:

- Thưa ông, nghĩ sao khi bị xúc phạm?

- "Những đám mây đều nặng nề".

- "Nhưng chúng sẽ tan đi, để không bao giờ trở lại nữa".

- "Và điều đó, tôi xin thề".

Hai người uống cạn ly rượu, và nghi lễ đó lại diễn ra giữa Teddy và McMurdo

McGinty xoa hai tay vui vẻ nói:

- Được rồi. Thế là cuộc cãi lộn đã kết thúc. Nếu nó còn tái diễn thì các anh sẽ phải chịu sự trừng phạt của Hội.

McMurdo chìa tay ra cho Teddy bắt:

- Tôi thật không dám thế. Tôi dễ gây lộn, nhưng cũng dễ tha thứ. Người ta bảo đó là do giòng máu Ailen. Nhưng đối với tôi thế là xong, và tôi không có thù hằn gì cả. 

Teddy đành phải giơ tay ra bắt, vì đôi mắt của ông trưởng toán không rời hắn 

McGinty ôm lấy vai hai người, thở dài:

- Thật không thể tưởng tượng được là mảnh gấu váy ấy lại có thể làm cho hai chàng trai của tôi đến phải trở thành đối thủ của nhau. Nhưng những chuyện này vượt ra ngoài thẩm quyền của một người trưởng toán rồi. Môn huynh McMurdo, anh được nhập vào chi nhánh 341. Chúng tôi thường hội họp vào tối thứ 7. Nếu anh đến dự, anh sẽ mãi mãi là một người Tự Do ở cái thung lũng này.

***

Chương 10

Chi nhánh 341 ở Vermissa

Ngay hôm sau, McMurdo dọn đến nhà một bà góa chồng tên là Widow MacNamara ở ven thị trấn. Scanlan ít lâu sau cũng có việc về Vermissa nên hai người đến ở chung với nhau.

Bà chủ trọ đã già, tính kín đáo và biết điều. McMurdo và Scanlan ở đó không có ai khác cùng trọ nên có thể ăn nói, hoạt động rất tự do. Cụ Shafter cũng đồng ý để cho McMurdo khi nào muốn, cứ đến nhà dùng cơm, thành ra quan hệ của anh với Ettie không bị đứt đoạn, mà trái lại cứ ngày càng chặt chẽ, thân thiết hơn.

McMurdo bày những cái khuôn dập bạc giả ra. Một vài môn huynh của chi nhánh được phép bí mật đến nhà anh, và khi ra về thì túi nặng những đồng bạc mới. Những người cùng làm với anh thường thắc mắc tại sao anh có tài như vậy, mà lại chịu hạ mình đi làm công. Anh trả lời rằng nếu anh không có những nguồn thu nhập chính đáng, thì cảnh sát sẽ điều tra về đời sống của anh ngay.

Sau cuộc gặp mặt lần đầu tiên với McGinty, anh thường lui tới quán rượu để biết "những chàng trai". Đó là cái tên rất dễ thương mà bọn quỉ sứ trong khắp vùng này tự đặt cho mình. McMurdo nổi tiếng trong bọn chúng vì sự nóng nảy và về cách nói táo tợn của anh.

Một buổi tối, khi quán rượu đang đông khách, thì có một người bước vào. Người đó mặc binh phục màu xanh và đội mũ lưỡi trai của cảnh sát vùng mỏ. Đây là một đơn vị đặc nhiệm đã được ban điều hành của các công ty hỏa xa, mỏ than và mỏ sắt cùng dựng lên để yểm trợ cho cảnh sát dân sự. Khi người đó vừa mở cửa vào, thì cả phòng bỗng im bặt, cả mấy trăm con mắt đều đổ dồn nhìn như xiên vào mặt anh ta. McGinty đứng sau quầy, không tỏ ra một chút ngạc nhiên nào khi thấy viên thanh tra ngồi vào giữa đám khách quen của ông ta.

- Một ly whisky nguyên chất. à, ông hội đồng, hình như chúng ta chưa gặp nhau lần nào?

- Anh là đại úy mới đến đây phải không?

- Chính tôi. Chúng tôi kêu gọi ông và tất cả mọi công dân, hãy giúp đỡ chúng tôi giữ vững pháp luật và trật tự trong thị trấn này. Tôi là đại uý Marvin của Công ty than và sắt.

- Không có ông, chúng tôi thu xếp còn tốt hơn đấy. Bởi vì chúng tôi có đội cảnh sát riêng. Ông chỉ là một công cụ tư bản, đến đây để quất roi gân bò và bắn giết những người công dân nghèo mà thôi.

Viên sĩ quan cảnh sát cười:

- Không nên cãi vã với nhau.

Anh ta uống cạn ly rượu và sắp đi ra thì chợt trông thấy McMurdo đang đứng cười gằn gần đó. Anh ta vừa nhìn McMurdo từ trên xuống dưới vừa vui vẻ gọi:

- à, một người quen cũ đây.

McMurdo lảng ra.

- Tôi chưa bao giờ là bạn của ông.

Đại uý Ma-vin phá lên cười:

- Một người quen không nhất thiết phải là một người bạn. Anh là McMurdo, ở Chicago.

McMurdo nhún vai, đáp lời ngay:

- Tôi không chối tên tôi, Anh tưởng tôi xấu hổ vì cái tên tôi à?

- Nếu anh có cảm thấy xấu hổ về cái tên của anh, thì cũng có lý thôi.

McMurdo đã nắm chặt lại thành hai nắm đấm và gầm lên:

- Tôi yêu cầu ông phải giải thích những điều ông vừa mới nói?

- Đừng có lên mặt anh chị với tôi. Trước khi tôi đến đây, tôi là một quan chức ở Chicago, và khi tôi trông thấy một thằng lưu manh của Chicago, tôi phải nhận ra được nó chứ.

McMurdo tái nhợt người, thốt lên:

- Chắc ông không phải là Marvin của Sở cảnh sát trung ương ở Chicago chứ?

- Tôi luôn luôn vẫn là Marvin ấy đấy. Chúng tôi cũng vẫn chưa quên được cái thằng Pinto đã bị giết.

- Tôi không giết nó.

- Thế à? Thế thì cũng hơi lạ đó. Bởi vì cái chết của nó đỡ cho anh biết mấy. Nó mà khai ra được trước toà, thì anh đã vào chảo rang lâu rồi. Nhưng thôi, không nói chuyện quá khứ nữa. Này, tôi nói riêng với anh một chuyện đáng lẽ tôi không đươc phép nói ra: cái vụ ấy mà, về phần anh không có gì là rõ ràng đâu. Ngày mai anh có thể trở về Chicago, nếu anh muốn. Anh sẽ không bị phiền đâu.

- Tôi ở đây tốt rồi, chẳng phải đi đâu cả.

- ờ thì tuỳ, tôi đã mách nước cho anh, đáng lẽ anh nên có một lời cảm ơn mới phải.

McMurdo trả lời một cách lạn nhạt:

- Thì cứ cho là ông muốn làm cho tôi vui lòng đi, cám ơn.

- Chừng nào mà tôi còn thấy anh trên con đường tốt thì tôi sẽ không nói gì. Nhưng nếu anh lại muốn dở trò, thì lúc đó sẽ là câu chuyện khác đấy. Thôi, chào anh. Chào ông hội đồng!

Ma-vin bước ra khỏi quán rượu. Tin tức nhanh chóng loan ngay đi rằng McMurdo đã tác yêu tác quái ở Chicago. Trước đây, khi có người hỏi anh ta về việc này anh ta chỉ tránh né với nụ cười của một người không muốn ai làm rùm beng quá khứ của một câu chuyện chẳng đáng gì. Bây giờ câu chuyện đó đã được xác nhận chính thức. Những khách quen đến bao quanh và âu yếm bắt tay anh ta. Từ nay trở đi, anh đã có một vị trí xứng đáng trong tập thể.

Một tối thứ bẩy, McMurdo được đưa ra trình diện trước hội viên trong chi nhánh.

Cuộc họp được triệu tập trong một căn buồng rộng ở nhà hội quán. Khoảng 60 hội viên có mặt. Họ chỉ là một phần rất nhỏ của tổ chức thôi vì có nhiều chi nhánh khác hoạt động ở trong thung lũng cũng như ở phía sườn núi bên kia. Trong tất cả khu mỏ này, tổng số hội viên như vậy không dưới 500 tên.

Những người tới họp, tập trung quanh một chiếc bàn dài trong căn buồng hoàn toàn trơ trụi, không có bất cứ một thứ trang trí nào. ở một phía có một cái bàn khác trên xếp đầy rượu và ly. Một số môn huynh đã để mắt liếc nhìn về phía đó.

McGinty ngồi ở một đầu bàn, đầu đội một cái mũ bình thiên bằng nhung đen, vai khoác một tấm áo choàng bằng nhung đỏ. Những vị chức sắc cao cấp nhất của chi nhánh, trong số đó có Teddy, bao quanh ông ta. Người nào cũng có đeo một cái đay hay một huy chương chỉ rõ ngôi thứ và chức vụ. Phần đông trong số họ là những người tuổi, số còn lại gồm những thanh niên từ 18 đến 25 là những tay chân thừa hành. Trông mặt của các hội viên già, người ta cũng đoán thấy bên trong là những tâm hồn tàn bạo và bất trị, nhưng khi nhìn đến những người trẻ tuổi, thì không ai có thể ngờ được rằng những thanh niên này lại họp thành băng nhóm tội phạm. Đồi trụy đến tận gốc rễ, chúng cho rằng có xin xung phong đi thủ tiêu những người chưa bao giờ động chạm gì đến chúng, thì mới gọi là có can đảm và có tinh thần hiệp sĩ. Hồi đầu, chúng còn giữ bí mật về những hành động của chúng, nhưng vào thời xảy ra câu chuyện này thì chúng công khai khoe khoang thành tích. Trong 10 năm chưa một đứa nào trong bọn chúng phải chịu một án sát phạt nào.

McMurdo đã được báo trước là sẽ có những lễ nghi chờ đợi anh ta. Anh được hai môn huynh đưa vào một căn buồng biệt lập. Qua tấm vách ngăn bằng ván, lọt vào tiếng ồn ào của nhiều người nói trong căn buồng hẹp. Một hay hai lần gì đó, anh nghe thấy nói đến tên anh. Hình như người ta đang kháo nhau về sự chấp nhận anh vào chi nhánh hội. Rồi một người bảo vệ, bước vào căn phòng anh đang đứng đợi và truyền cho hai người môn huynh biết:

- Ngài trưởng toán ra lệnh hãy trói người này lại, bịt mắt và đưa vào trình diện.

Cả ba người lột áo anh ra, vén tay áo sơ mi bên phải lên và trói giật cánh khuỷu anh ra đằng sau. Rồi họ đội lên đầu anh một chiếc mũ lưỡi trai may bằng thứ vải đen dày, và ấn sâu xuống cho đến che hết phần trên của mặt, anh được dẫn vào phòng họp. Anh có cảm giác là đêm tối đen như mực. Anh nghe tiếng thì thào của những người dự họp, rồi tiếng nói của McGinty:

- McMurdo, anh đã là hội viên của Hội những Người Tự Do chưa?

McMurdo gật đầu.

- Chi nhánh của anh có phải là số 29 ở Chicago không?

McMurdo lại gật đầu.

- Những đêm đen tối rất khó chịu...

- ... cho những người lạ mặt phải đi lại.

- Những đám mây đều nặng nề

- Một cơn bão sắp lại gần.

- Các môn huynh đã thỏa mãn chưa?....

Có một tiếng rì rầm chứng tỏ sự đồng ý.

- Môn huynh, anh đã đáp đúng được mật hiệu, chúng tôi biết anh thật sự là ngườ trong hội. Nhưng chúng tôi cũng muốn anh biết rằng trong khu vực này, chúng tôi có những nghi lễ và những điều bắt buộc đòi hỏi phải có lòng dũng cảm. Vậy anh có sẵn sàng để chịu đựng không?

- Có.

- Anh có can đảm không?

- Có.

- Hãy tiến lên một bước.

Vừa nghe đến đây thì anh cảm thấy có hai mũi nhọn, cứng ở đằng trước mắt. Hai mũi nhọn này ấn vào hai mắt anh khiến anh có cảm giác là nếu tiến lên thêm thì hai mắt sẽ bị đâm thủng. Mặc dầu vậy, anh vẫn tiến lên một bước, và hai mũi nhọn biến mất. Anh nghe thấy những lời khen ngợi kín đáo.

- Anh can đảm đấy. Nhưng liệu có chịu được sự đau đớn không?

- Không kém bất kỳ ai.

- Hãy thử thách.

McMurdo đã phải sử dụng tất cả nghị lực mới không kêu thét lên: một sự đau đớn khủng khiếp vừa xiên qua cánh tay anh, suýt làm anh ngất xỉu.

- Tôi có thể chịu được hơn thế nữa.

Lần này thì tiếng vỗ tay nổ vang lên. Chưa bao giờ chi nhánh ở đây thấy một người mới nhập hội cương quyết hơn thế. Người ta nhấc cái mũ ở trên đầu xuống, và vỗ vào lưng anh đồm độp. Anh vẫn đứng im, chớp chớp mắt cười trong khi các môn huynh tới chúc mừng anh.

McGinty nói:

- Môn huynh McMurdo. Anh đã tuyên thệ giữ bí mật và trung thành, nhưng chắc anh biết rằng ai phản bội lời thề đó sẽ bị án tử hình tức khắc chứ?

- Tôi biết.

- Và anh có tuân theo lệnh của người toán trưởng trong bất kỳ hoàn cảnh nào không?

- Có.

- Vậy thì, nhân danh chi nhánh 341 của Vermissa, tôi mời anh được tham dự vào những nghi lễ và những đặc quyền của Hội. Môn huynh Scanlan, hãy cho chúng ta uống rượu đi.

Có một người đem trả lại cho McMurdo chiếc áo vét. Trước khi mặc vào, anh xem xét lại chỗ cánh tay phải vẫn còn đau như xé: Một cái ấn bằng sắt nung đỏ đã in lên đấy hình một tam giác nằm trong một đường tròn. Những người đứng xung quanh cũng vén tay áo lên và chỉ cho anh xem dấu ấn của họ.

- Chúng tôi cũng đã được nhận dấu ấn này, nhưng không ai dũng cảm được bằng anh đâu.

- ồ, cũng không có gì ghê gớm lắm. - McMurdo trả lời.

Mấy tuần rượu mừng lễ nhập hội đã xong, chi hội bắt đầu bàn đến một số vấn đề thường vụ. McGinty tuyên bố:

- Việc thứ nhất của buổi họp đêm nay là bức thư của vị trưởng hạt Windle ở Merton, chi nhánh 249. Bức thư như sau: 

"Quý vị thân mến, có một việc nhỏ cần làm đối với Adrew Rae, ở công ty Rae Sturmash, chủ những mỏ bên cạnh. Chắc các vị chưa quên là chi nhánh các vị còn nợ chúng tôi về việc chúng tôi đã cử hai môn huynh đến để giúp các vị trong vụ tên cảnh sát, mùa thu vừa qua.

Nếu các vị cử đến cho chúng tôi hai người tình nguyện, thì họ sẽ được người thủ quỹ Higgins của chi nhánh chúng tôi trông nom chu tất, và sẽ hướng dẫn họ cách hành động, ở đâu và lúc nào. Chào huynh đệ. J. W. Windle. D. M. A. 0. F."

Ông Windle chưa bao giờ từ chối cho chúng ta vay một hoặc hai người khi chúng ta cần, thì bây giờ chúng ta cũng không thể từ chối ông ta.

McGinty ngừng lại, đưa mắt nhìn khắp căn phòng.

- Ai xung phong đi làm công việc này?

Mấy thanh niên cùng giơ tay một lượt. Ông trưởng toán mỉm cười đồng ý.

- Hổ Cormac, anh sẽ đi. Nếu anh cũng làm ăn tốt như lần trước thì mọi việc sẽ bình thường cả thôi. Cả anh nữa, Wilson.

Người xung phong đó thắc mắc:

- Nhưng tôi không có súng lục.

- Đây là trận đầu tiêm của anh, có phải không? Thế thì phải bắt đầu bằng lễ chịu lửa đã. Còn súng lục, đến nơi sẽ có. Khi nào trở về, sẽ có ăn mừng trọng thể.

- Thế còn tiền thưởng, lần này thì sao? - Cormac hỏi.

- Tiền thưởng không phải là quan trọng. Anh ra tay vì danh dự mà. Khi nào công việc xong xuôi, người ta cũng sẽ vét được ở đáy két bạc một đôi đồng dollars cũ rích nào đó để trao cho anh.

Wilson hỏi:

- Cái người đó đã làm gì?

- Chuyện đó không dính dáng gì đến chúng ta, công việc của chúng ta, là thay họ thanh toán nó, cũng như họ đã thay ta ở đây vậy. à cũng nhân đây nói luôn; tuần lễ sau sẽ có hai môn huynh của chi nhánh Merton đến đây để làm thay cho chúng ta một công việc nhỏ.

Có người hỏi:

- Ai đến thế?

- Đừng nên đặt những loại câu hỏi như vậy. Anh chỉ cần biết đây là những người rất chịu chơi.

Teddy kêu lên:

- ở đây đang cần có những loại người ấy đấy. Dân chúng ở đây đã bắt đầu hơi coi thường rồi đó. Trong tuần trước ba người của chúng ta đã bị tên đốc công Blaker đuổi không cho làm nữa. Chúng ta mắc nợ với cái thằng này từ lâu rồi, bây giờ phải hoàn lại đủ cả vốn lẫn lãi cho nó thôi.

McMurdo thì thầm vào tai người ngồi bên hỏi:

- Hoàn vốn như thế nào?

Người này phá lên cười:

- Bằng một viên đạn súng săn chứ còn bằng cái gì nữa. Anh thấy những phương pháp của chúng tôi thế nào, môn huynh.

McMurdo tỏ vẻ tán thành những phương pháp của cái hội giết người này.

- Phương pháp hay quá. Một chàng trai không phải thỏ đế thì ở đây tốt quá đi chứ.

Những người ngồi bên vỗ tay tán thưởng. ở đầu bàn đằng kia, ông toán trưởng hỏi với lại

- Cái gì thế?

- "Thưa ông", vị môn huynh nói, "McMurdo thấy phương pháp làm việc của chúng ta hợp với khẩu vị của anh ấy lắm".

McMurdo đứng phắt ngay lên, trịnh trọng nói:

- Thưa thầy kính mến, tôi muốn nói rằng, nếu thầy cần đến một người để làm một việc gì đó thì tôi sẽ tự coi như có danh dự lớn, nếu được thầy cho làm.

Nhiều tiếng vỗ tay. Chỉ có một vài môn huynh trong hội là thấy anh ta đi có hơi quá nhanh.

Viên thư ký Harraway, một lão già râu xám ngồi bên cạnh toán trưởng, can thiệp ngay:

- Tôi đề nghị là môn huynh McMurdo chờ đợi khi nào chi nhánh cần đến.

- Tất nhiên. Đó chính là điều mà tôi muốn nói. Tôi hoàn toàn thuộc quyền sử dụng của chi nhánh. - McMurdo đáp lại.

Toán trưởng nói một cách an ủi:

- Rồi sẽ đến lượt anh thôi, môn huynh. Chúng tôi nhận thấy anh là một con người cương nghị, và tin chắc rằng anh sẽ làm được những việc xuất sắc. Tối nay, nếu anh muốn, anh có thể tham dự vào một công việc nhỏ thôi.

- Tôi xin chờ.

- Bây giờ, trước hết tôi yêu cầu thủ quỹ cho chúng ta biết bản hạch toán tiền nong. Phải trả một số tiền kha khá cho người vợ góa của Jim.

Một người ngồi bên McMurdo giải thích cho anh ta hiểu:

- Jim đã bị giết tháng trước trong khi đang định hạ sát Chester Wilcox của Marley Creek.

Thủ quĩ mở sổ sách ra trước mặt, nói:

- Quỹ hiện nay rất phong phú, công ty Max Linder & Co. đã trả 500 dollars. Walker Brothers gửi đến 100 dollars, nhưng tôi đã tự ý gửi trả lại họ, để đòi 500 kia. Nếu từ nay đến thứ tư sau, mà tôi không có tin tức gì thì bộ cầu trục của họ có thể sẽ bị tai nạn. Năm ngoái chúng ta đã bắt buộc phải đốt cháy cái máy nghiền quặng của họ. Hiện nay chúng ta có vốn đủ để có thể đương đầu với bất

cứ một yêu cầu nào.

- Thế còn Archie Swindon thì sao?

- Nó đã bán hết gia sản và đi khỏi khu vực rồi. Cái thằng quỷ già đó có để lại cho chúng ta một bức thư nói rằng thà nó đi làm nghề quét đường ỏ New York còn thú vị hơn là làm một chủ mỏ lớn để bị một băng cướp tống tiền khống chế. Quân chó đẻ, cũng may là nó đã đi khỏi đây trước khi bức thư đến tay chúng ta.

Một người đã đứng tuổi, mặt mũi nhẵn nhụi có dáng hiền lành hỏi:

- Thưa ông thủ quỹ, tôi có được phép xin ông cho chúng tôi biết ai đã mua cái lô đất của người mà ta vừa đuổi chạy khỏi khu này không?

- Được, môn huynh Morris. Lô đất ấy đã do công ty hỏa xa State & Merton County mua.

- Và ai đã mua lại những mỏ của Todman và của Lee đem bán đấu giá, năm ngoái cũng vì những lý do trên.

- Cũng lại công ty hỏa xa.

- Và ai đã mua lại những lò luyện của Manson, của Shuman, của Van Deher và của Atwood khi họ bỏ lại để chạy trốn.

- Tất cả đều được công ty mỏ tổng hợp West Gilmerton mua lại hết.

Toán trưởng can thiệp, hỏi lại:

- Môn huynh Morris, tên tuổi của những người đã đứng tên mua không làm cho chúng ta phải quan tâm, vì không thể bê những cái bể là đó ra khỏi vùng này được kia mà.

- Thưa thầy kính mến, với tất cả lòng tôn kính của tôi đối với thầy, tôi vẫn nghĩ rằng vấn đề này phải được chúng ta quan tâm nhiều hơn nữa. Như thế là trong mười năm nay, chúng ta vẫn tiếp tục dùng có một phương pháp thôi. Đó là chúng ta dần dần đuổi hết những nhà thầu nhỏ ra khỏi nơi đây. Kết quả là thế nào? Họ được thay thế bởi những công ty lớn, mà những giám đốc của các công ty đó thì ngự ở New York hay Philadelphia, và hoàn toàn coi thường những lời đe dọa của chúng ta. Những chú nhỏ không thể làm gì chúng ta được. Nhưng, khi những công ty lớn thấy chúng ta là vật chướng ngại giữa họ và số lãi, thì họ sẽ không từ bất cứ một cố gắng nào, để đưa chúng ta ra pháp luật.

Mọi người im bặt, nét mặt sa sầm xuống. Từ trước đến giờ họ vẫn cảm thấy họ có uy lực đến mức không ai dám khiêu khích họ, và họ cho rằng họ vững như thành đồng. ý kiến của môn huynh đã làm dựng chân lông những con người bất trị nhất.

Diễn giả nói tiếp:

- Vì vậy, ý kiến của tôi là, chúng ta nên nới bớt tay đối với các chủ nhỏ. Ngày nào mà họ bắt buộc phải trốn chạy đi hết, thì ngày ấy quyền lực của Hội sẽ bị tan vỡ.

Không phải sự thật nào cũng nên nói ra. Khi môn huynh Morris ngồi xuống, những tiếng kêu giận dữ đã nổi lên. McGinty đứng dậy, vừng trán bừng bừng.

- Này môn huynh Morris, anh từ trước đến nay vẫn là người chuyên nói những điều gở dại. Chừng nào mà tất cả hội viên trong chi nhánh vẫn sát cánh với nhau, thì không có một thế lực nào làm hại đến chúng ta, những công ty lớn cũng sẽ cảm thấy được là trả tiền cho chúng ta sẽ đơn giản hơn là chọi với chúng ta. Và rồi họ cũng sẽ làm theo như các công ty nhỏ thôi. Còn bây giờ, thưa các môn huynh...

McGinty bỏ cái mũ nhung đen và tấm đai xuống.

- ... Chi hội chúng ta đã bàn xong mọi công việc tối nay, chúng ta chỉ còn một việc nhỏ nữa cần phải nói trước lúc chia tay. Nhưng bây giờ đã đến lúc chúng ta nghỉ xả hơi giải khát một chút và vui hát với nhau, như anh em trong một nhà.

McMurdo có một giọng hát nam cao rất hay, anh hát bài "Em Mary, anh ngồi dưới dàn nho" và bài "Trên con sông lớn" và hốt hết các tình cảm của khán giả. Ai cũng đoán rằng rồi đây anh ta sẽ tiến bước lên những chức vụ cao nhất trong hội. Nhưng muốn làm một Người Tự Do trong cái hội này, cũng đòi hỏi phải có một vài đức tính khác nữa, McMurdo đã hiểu ra được điều đó trước khi buổi họp tối hôm ấy kết thúc. Chai rượu whisky đã được truyền tay đi mấy lần. Các chàng trai mặt đỏ như gấc, đã chín mùi để có thể làm bất cứ một việc gì. Ông trưởng toán tiếp tục:

- Các cậu ơi, trong thành phố có một người đang cần một bài học. Đó là lão James Stanger của tờ báo Herald, gần đây hắn lại bắt đầu há cái mồm to tướng ra để chống lại chúng ta.

Một tiếng rì rào đồng tình đáp lại, pha lẫn đâu đó là một vài câu chửi thề thô tục. McGinty rút ở trong túi áo ra một mẩu nhật trình và đọc 

“Pháp luật và Trật tự.

Sự khủng bố đang ngự trị trong vùng than và sắt. Mười hai năm đã trôi qua từ khi xảy ra những vụ ám sát đầu tiên chứng tỏ có sự hiện diện của một tổ chức tội ác trong vùng chúng ta. Từ ngày đó đến nay, những vụ án mạng không một lúc nào ngừng và bây giờ đã lên đến một quy mô làm cho chúng ta trở thành một mối ô nhục của thế giới văn minh. Một tình trạng khủng bố và vô chính phủ sẽ được thiết lập dưới bóng thiêng liêng của lá cờ tự do hay sao? Người ta biết rõ những tên cầm đầu. Chúng đã hoạt động công khai trước mắt mọi người. Chúng ta sẽ còn phải chịu đựng tình trạng này bao nhiêu lâu nữa. Chúng ta sẽ sống...".

Ông trưởng toán vứt mảnh báo xuống bàn.

- Thôi đọc cái thứ văn chương này như thế là đủ rồi. Đó, nó nói về chúng ta như vậy đó. Câu hỏi tôi muốn đặt ra cho các bạn là: “Chúng ta sẽ nói gì với nó.”

Hàng tá tiếng thét hung dữ nổi lên:

- Giết mẹ nó đi!

Môn huynh Morris, cái người có bộ mặt hiền lành đó lại đứng lên, cãi lại:

- Tôi đã nói với các môn huynh rằng: bàn tay chúng ta đập quá nặng xuống thung lũng này, và cũng chẳng còn lâu nữa sẽ đến cái ngày mà tất cả công dân trong vùng họp nhau lại để đè bẹp chúng ta. James là một ông già. ông ta được người trong thành phố và trong vùng kính trọng. Nếu các anh giết người này, thì cả nước sẽ náo động, cho đến khi chúng ta bị tiêu diệt hết mới thôi.

McGinty rống lên:

- Chúng tiêu diệt chúng ta bằng cách nào, thưa ngài Thỏ đế. Bằng cảnh sát chăng? Coi nào, một nửa số cảnh sát ăn lương của chúng ta, nửa kia thì sợ chúng ta như sợ cọp. Bằng tòa án chăng? Chúng ta đã thử nhiều lần rồi đó, hỏi có đi đến đâu không?

Môn huynh Morris đáp lại:

- Có một quan tòa tên là Lynch có thể tuyên án.

- Tôi chỉ cần giơ một ngón tay lên, là có thể đưa về đây 200 người để dọn sạch thành phố này từ đầu đến cuối - McGinty nói

Rồi bỗng ông ta chồm người về phía trước, vầng trán nhăn lại một cách dữ tợn, nói dằn từng tiếng:

- Nghe đây, môn huynh Morris, tôi theo dõi anh từ lâu rồi. Bản thân anh không có một chút can đảm nào, nhưng anh lại cứ cố gắng phá hoại lòng can đảm ở người khác. Môn huynh Morris, khi nào mà tên anh được ghi trên chương trình nghị sự, thì ngày ấy sẽ là một ngày không tốt cho anh.

Morris mặt nhợt nhạt, ngã ngồi xuống ghế, hai đầu gối nhũn ra như bông. Ông chìa một bàn tay run rẩy ra cầm lấy ly rượu uống cạn một hơi trước khi trả lời:

- Thưa thầy tôn kính, tôi xin thầy thứ lỗi cho. Tôi xin tất cả các môn huynh thứ lỗi cho, nếu như tôi đã quá lời. Tôi là một hội viên trung thành và trung thực, tất cả các môn huynh đều biết chính vì sợ một biến cố có thể xảy ra, nên tôi mới phát biểu ý kiến như vậy. Nhưng tôi tin tưởng ở sự phán xét sáng suốt của thầy tôn kính hơn là tin tưởng ở sự nhận thức của tôi... Tôi xin hứa là từ giờ trở đi, tôi sẽ không bao giờ dám làm phật ý thầy nữa.

Những nếp nhăn trên trán ngài trưởng toán dãn ra.

- Được rồi, môn huynh Morris, tôi sẽ buồn nếu phải giảng cho anh một bài học, nhưng chừng nào mà tôi còn giữ chức vụ, thì chúng ta sẽ giữ vững sự thống nhất trong chi nhánh về lời nói và việc làm. Và bây giờ, hỡi các chàng trai...

Ông trưởng toán nhìn một vòng khắp mặt những người đứng xung quanh.

- Nếu James lãnh đủ những gì mà hắn đáng phải nhận, thì chúng ta sẽ bị phiền nhiều. Những thằng nhà báo kết với nhau lắm đấy. Nếu James bị hạ, tất cả các báo chí ở Hoa Kỳ sẽ đòi cảnh sát và quân đội can thiệp. Vậy các anh chỉ nên cho hắn một lời cảnh cáo nghiêm khắc mà thôi. Môn huynh Teddy, anh có thể gánh vác việc này được không?

- Dĩ nhiên là được ạ. - Teddy phấn khởi trả lời.

- Anh cần bao nhiêu người?

- Độ 6 người. Thêm 2 người nữa để giữ cửa.

- Tôi đã hứa để cho vị môn huynh mới của chúng ta được tham dự vào trận ra quân này.- McGinty nói.

Teddy nhìn McMurdo với một cặp mắt chứng tỏ hắn chưa tha thứ một tí gì. Hắn trả lời bằng một giọng chua như giấm:

- Thì để anh ta đi. Công việc làm xong sớm chừng nào hay chừng ấy.

Hội nghị chia tay nhau giữa những tiếng la, hét và những bài hát say rượu. Quầy rượu bên ngoài vẫn còn đông khách, nhiều môn huynh cũng sà vào đó. Toán đi làm nhiệm vụ thì chia nhỏ ra. Bên ngoài rét lắm. Một mảnh trăng lưỡi liềm le lói trên bầu trời giá buốt và đầy sao. Các chàng trai tụ tập trong một mảnh sân đối diện với một tòa nhà lớn, giữa hai cửa sổ sáng choang có khắc hàng chữ vàng "Vemmissa Herald". Bên trong các máy in đang chạy đều đều.

Teddy sẵng giọng hỏi McMurdo:

- Anh kia, đứng đấy. Anh sẽ ở dưới này canh cửa và giữ đường thông suốt lúc chúng tôi ra. Còn những người khác theo tôi. Đừng sợ gì cả.

McMurdo cùng một người khác đứng dưới nhà. Họ nghe thấy ở tầng lầu một những tiếng thét, tiếng kêu cứu, tiếng chân người chạy, và tiếng đập phá đồ đạc. Một lát sau, một người tóc hoa râm chạy ra cầu thang. Nhưng chưa chạy xa được, thì đã bị túm lại, và cặp kính rơi xuống chân McMurdo. Một tiếng người té ngã, tiếp theo là những tiếng rên rỉ. Người đó nằm sấp, mặt úp xuống. Sáu cây gậy cùng một lúc đánh tới tấp xuống. Đánh chán một lúc sau, chúng mới ngừng tay, Teddy vẫn ra sức đánh vào đầu nạn nhân. Máu đã chảy loang lổ cả vùng tóc bạc. Teddy cúi xuống định đánh một đòn cuối cùng, McMurdo nhảy bổ lên gác, gạt nó ra.

- Mày định giết ông ta à. Thôi!

- Cút. Mày làm gì thế này, lùi ra.

Nó giơ cao cây gậy lên. Nhưng McMurdo đã rút súng, hét lên:

- Nếu mày động đến tao, tao bắn bể đầu mày ngay. Lúc nãy ông trưởng toán đã ra lệnh là không được giết ông James.

Một đứa trong bọn chúng tán thành:

- Anh ấy nói đúng đó.

Người đứng gác dưới nhà gọi vọng lên:

- Thôi nhanh lên. Các anh muốn cả phố xông ra hay sao.

Đúng là lúc ấy ở ngoài đường đã nghe thấy nhiều tiếng người kêu gọi nhốn nháo. Bọn lưu manh chạy vội xuống và tẩu thoát ra lối cửa. Khi chúng về đến hội quán thì một vài đứa lẩn ngay vào đám khách và thì thào vào tai McGinty. Những đứa khác, trong số đó có McMurdo thì tản ra trong các ngõ hẻm để về nhà.

***

Chương 11

Thung lũng khủng khiếp

Sáng sớm hôm sau, khi tỉnh dậy, McMurdo thấy đầu nhức như búa bổ. Cánh tay phải nơi dấu ấn sắt nung đỏ in vào bị cháy bỏng và sưng phồng lên, anh ăn điểm tâm rất trễ và không ra khỏi nhà. Anh viết một bức thư dài cho một người bạn. Rồi anh đọc lướt qua tờ Herald. Trong mục tin giờ chót "Tòa soạn báo Herald bị tấn công. Chủ bút bị thương nặng". Theo sau là một bài tường thuật ngắn về những sự việc mà anh biết rõ hơn ai hết. Bài báo kết thúc như sau:

" Sự việc hiện nay đang được cảnh sát tra xét. Nhưng người ta cũng không hề hy vọng có kết quả gì hơn những vụ trước đây. Một số những tên côn đồ không phải là những người xa lạ. Chúng phải bị kết tội. Những bạn hữu rất đông đảo của James sẽ hết sức vui mừng khi nghe tin, tính mạng của ông không bị đe dọa". 

Dưới bài báo, một mục tin nhỏ thông báo một đội canh gác của cảnh sát vùng mỏ được vũ trang bằng súng, từ nay sẽ bảo vệ tòa soạn.

McMurdo ném tờ báo xuống và đang đưa một tay lên đốt thuốc, thì có tiếng gõ cửa. Bà chủ trọ vào đưa cho anh một bức thư, mà một đứa nhỏ vừa cầm đến. Thư không ký tên, viết như sau:

"Tôi muốn nói chuyện với ông, nhưng nói ở bên ngoài nhà ông. Ông có thể gặp tôi ở cạnh cột cờ trên đồi Miller. Nếu ông đến ngay bây giờ, tôi sẽ nói cho ông hay một điều quan trọng đối với ông và tôi".

McMurdo đọc đi đọc lại bức thư và không thể đoán được ai là tác giả. Anh chần chừ suy nghĩ rồi quyết định phải làm cho sáng tỏ vấn đề.

Đồi Miller là một công viên ở ngay trung tâm thành phố. Mùa hè có đông người dạo chơi, nhưng mùa lạnh thì vắng ngắt. Đứng trên đồi, người ta nhìn thấy không những cả thành phố mà cả vùng thung lũng nữa. McMurdo đi theo con đường dẫn lên một quán ăn, bên cạnh quán có một cột cờ, và dưới chân cột cờ là một người đàn ông mũ đội sụp xuống tận mắt, cổ áo khoác bẻ cao lên. Khi người nay qua lại, McMurdo nhận ra môn huynh Morris. Hai người trao đổi với nhau nghi thức của Hội.

Ông già ngập ngừng nói như người đang dò dẫm đi lần từng bước.

- Tôi xin cảm ơn ông đã đến.

- Tại sao ông không ký tên dưới bức thư.

- Thưa ông. Trong cái thời buổi này, không ai biết trước được hậu quả của bất cứ một việc gì. Mà cũng không biết có thể tin cậy được vào ai.

- Dù sao cũng có thể tin cậy được ở các môn huynh trong cùng một chi nhánh chứ.

- Không. Không thể tin được. Dù chúng ta có nói gì, thì tất cả đều đến tai của McGinty cả.

McMurdo nói một cách trang nghiêm:

- Tối hôm qua, tôi thề trung thành với ngài toán trưởng. Mà hôm nay ông lại đòi hỏi tôi phản bội lời thề đó sao?

Morris buồn rầu nói thều thào:

- Nếu ông nhìn sự việc như vậy, thì thôi, tôi rất tiếc đã quấy rầy ông. Tình hình đã đi đến chỗ tồi tệ đến nỗi hai Người Tự Do không dám trao đổi những ý nghĩ của mình với nhau nữa.

McMurdo cảm thấy bớt căng thẳng hơn

- Tôi là người mới tới đây, tôi không hay biết gì hết, nếu ông tin rằng việc ông định nói với tôi là có ích lợi thì tôi đến đây chính là để nghe ông.

Morris cay đắng tiếp theo:

- Để rồi mách lại tất cả với McGinty.

Nhưng McMurdo vội nói ngay:

- Ông đánh giá tôi không đúng. Tôi trung thành với chi nhánh Hội. Tôi đã nói dứt khoát với ông như vậy, nhưng tôi sẽ là một thằng khốn nạn nếu tôi đi kể lại với một người nào khác những điều ông tâm sự với tôi, nhưng ông chớ có mong ở tôi một sự giúp đỡ hay cảm tình.

- Tối hôm qua tôi có cảm tưởng là ông đang cố rập theo khuôn mẫu của những tên tệ hại nhất trong cái băng này. Dù ông có xấu đến đâu đi nữa, thì ông cũng vẫn là một hội viên mới, lương tâm chưa bị đanh cứng lại. Vì vậy, mà tôi muốn nói chuyện với ông.

- Ông định nói gì với tôi?

- Khi ông gia nhập Hội ở Chicago, và khi ông tuyên thệ giữ lòng nhân ái, trung thành thì có bao giờ ông nghĩ, rằng điều đó sẽ dẫn ông đến tội ác không?

- Hãy giả thiết đó là tội ác.

Morris la lên, giọng nói xúc động:

- Hãy giả thiết à?... Mới tối hôm qua đây thôi, đánh một người già bằng tuổi bố ông, như thế có phải là tội ác không? Nếu ông cho rằng đó không phải là tội ác, thì là cái gì vậy?

- Có người nói đó là chiến tranh. Chiến tranh giữa hai giai cấp. Một cuộc chiến tranh tốc lực, không khoan nhượng.

- Thế khi ông xin gia nhập Hội những Người Tự Do ở Chicago, lúc đó ông có nghĩ đến cuộc chiến tranh ấy không?

- Không, lúc đó tôi không nghĩ như thế.

- Tôi cũng vậy, khi tôi gia nhập Hội ở Philadelphia, Hội chỉ đơn giản là một hội ái hữu tương tế, một nơi đến để gặp gỡ bạn bè. Rồi tôi nghe nói đến vùng này. Tôi dọn đến đây với dự tính cải thiện hoàn cảnh của tôi. Vợ tôi và ba con tôi cũng đi theo tôi. Tôi mở một cửa hàng bán vải ở Phố Chợ và phát đạt lên. Rồi người ta biết tôi là một hội viên Hội những Người Tự Do, thế là tôi bắt buộc phải gia nhập vào chi nhánh ở địa phương. Tôi cũng có cái dấu hiệu ô nhục này trên cánh tay, và một cái gì còn tệ hại hơn nữa in bằng sắt nung đỏ vào tim. Tôi có thể làm gì được? Tất cả những gì tôi nói ra đều bị coi như một sự phản bội. Tôi không thể chạy trốn đi khỏi nơi này. Tất cả của cải của tôi là nằm trong cửa hàng. Nếu tôi xin ra khỏi Hội, thì đó là tự ký vào bản án tử hình, rồi còn vợ và các con tôi.

Morris úp mặt vào hai bàn tay, và cả người đều run lên trong những tiếng khóc nức nở.

- Ông quá yếu mềm đối với trò chơi này. Hoàn toàn không phải loại người thích hợp...

- Trước đây tôi có một lương tâm và một tôn giáo. Chúng đã biến tôi thành một tên tội phạm, tôi đã bị chỉ định vào một vụ án mạng. Nếu tôi từ chối, tôi biết cái gì sẽ chờ đợi tôi. Tôi đã tham gia vào vụ án đó. Đó là một căn nhà hẻo lánh, ở cách đây 20 dặm, ở bên kia núi. Chúng cũng đặt tôi ngoài cửa như ông đêm hôm qua. Chúng không tin tôi. Chúng xông vào nhà. Và khi trở ra, thì tay chúng đầy máu. Chúng tôi bỏ đi, nhưng đằng sau tôi có tiếng một đứa trẻ la hét: Đó là một đứa bé trai, khoảng 5 tuổi, vừa chứng kiến bố nó bị giết ngay trước mắt nó. Tôi muốn ngất đi vì khủng khiếp, nhưng tôi vẫn phải giữ nụ cười trên mội, vì nếu không thì lần sau, chúng từ nhà tôi trở ra cũng với bàn tay đầy máu. Khi biết tôi là một hội viên, vị thầy tu rút phép thông công. Đó là tình trạng tôi bây giờ. Thế mà tôi thấy ông cũng đang trượt xuống cái dốc đó. Ông có sẵn sàng trở thành một tên giết người như chúng hay không. Hay chúng ta có thể làm được một cái gì để ngăn chặn chúng.

- Thế ông định tố cáo chăng?

- Ai mà dám làm một việc như vậy. Chỉ nghĩ trong đầu thôi cũng đã đủ mất mạng.

- Được. Tôi thấy ông nghĩ ngợi quá nhiều.

- Ông hãy nhìn thung lũng này. Ông có thấy những đám mây tỏa ra từ hàng trăm ống khói đang bao phủ trên nó không? Những đám mây tội ác còn nặng nề gấp hàng trăm lần: đang bao phủ trên những người dân. Đây là thung lũng của sự khủng khiếp.

McMurdo trả lời một cách rất thản nhiên:

- Thôi được, để khi nào tôi thấy nhiều hơn, tôi sẽ nói cho ông biết tôi nghĩ gì. Nhưng có một điều chắc chắn là ông nên dẹp cái cửa hàng của ông đi, càng sớm càng tốt. Những điều ông nói với tôi, chỉ hai người, tôi với ông biết mà thôi. Nhưng nếu tôi nghĩ rằng ông là một người chỉ điểm...

- Không.

- Thế thì thôi, ta ngừng lại ở đây. Tôi tin rằng ông đã nói với tôi vì có ý tốt. Bây giờ, tôi đi về đây.

- Xin ông cho tôi nói với ông một điều nữa trước khi ông ra về. Rất có thể là có người trông thấy chúng ta đứng đây, và người ta muốn biết chúng ta nói gì với nhau.

- ồ! Đúng.

- ông sẽ nói rằng tôi muốn mời ông vào làm công trong cửa hàng của tôi.

- Và tôi đã từ chối. Thôi môn huynh Morris, thế nhé, một ngày khác ta gặp lại.

Buổi chiều hôm đó, trong lúc McMurdo đang ngồi hút thuốc và tự lự bên cạnh lò sưởi thì cửa mở, và trong khung cửa hiện lên cái bóng to tướng cả McGinty. Hắn làm dấu hiệu chào của Hội rồi đến ngồi trước McMurdo và nhìn anh trân trân không chớp mắt. Cái nhìn đó đã được đáp lại bởi một cái nhìn khác cũng không kém.

Một lát sau, McGinty mới nói:

- Tôi đến đây, không phải là để thăm anh, mà đến để xác định với anh một việc.

McMurdo tỏ vẻ rất hân hoan về việc tới thăm bất ngờ này. Anh đứng dậy, ra mở tủ lấy một chai whisky.

- Thưa ông Hội Đồng, tôi vui mừng được đón tiếp ông. Tôi không ngờ lại có vinh dự này.

- Cái tay thế nào?

McMurdo nhăn mặt:

- Tôi sẽ không thể nào quên được. Nhưng việc đó cũng đáng ghi nhớ lắm.

- Đúng. Thật đáng ghi nhớ đối với những người trung thành, những người hết lòng với Hội. Sáng nay anh nói gì với Morris. 

Câu hỏi đã được đặt ra một cách hết sức đột ngột cho nên phải trả lời ngay. McMurdo phá lên cười ngặt ngẽo.

- Morris không biết rằng tôi có thể làm ăn ở đây, ngay trong nhà này thôi. Mà cũng không nên để cho hắn biết, vì tôi thấy hắn thắc mắc nhiều quá. Nhưng hắn là một lão già tốt bụng. Hắn tưởng tôi không có công ăn việc làm, nên muốn mời tôi về làm công trong cửa hàng bán vải.

- ồ, ra thế đấy.

- Vâng.

- Thế anh đã từ chối chứ.

- Dĩ nhiên. Tôi có thể kiếm được 10 lần hơn thế nữa với 4 giờ làm việc. 

- Đúng thế. Nhưng tôi là anh, tôi sẽ không đi lại với Morris.

- Sao thế?

- Bởi vì tôi bảo anh là không nên đến, giải thích thế là đủ rồi.

- Có lẽ đối với phần đông những người khác thì đủ đấy, nhưng đối với tôi thì chưa đủ đâu. Nếu ông là một người biết người biết của, thì ông phải hiểu điều đó.

McGinty như nhìn đóng đinh vào mặt McMurdo, bàn tay hắn bóp chặt ly rượu. Nhưng rồi hắn lại bật cười.

- Đúng, anh không phải là một loại người bình thường. Anh muốn biết lý do tại sao không nên đi lại với Morris phải không?

Được. Thế Morris có nói gì chống lại chi Hội không?

- Không.

- Có nói gì chống lại tôi không?

- Không.

- à, vậy là hắn không tin anh, hắn không phải là một người trung thành. Chúng tôi biết rõ hắn, và vẫn theo dõi hắn để chờ đến lúc nào đó sẽ cho hắn một bài học xứng đáng. Trong đàn cừu, không thể để một con cừu ghẻ lở như vậy được. Nếu anh đi lại với một tên phản bội, thì chúng tôi có thể nghĩ rằng anh cũng là một tên phản bội. Anh thấy không?

- Tôi không thể nào gắn bó với hắn được, vì tôi không thích loại người như hắn. Còn cái chữ phản bội ông vừa gắn cho tôi nếu một người khác nói như vậy thì anh ta sẽ không đến một lần thứ hai nữa đâu.

McGinty uống cạn ly rượu:

- Đủ rồi đó. Tôi đến đây để cho anh một lời khuyên. Anh đã nghe lời khuyên đó rồi. Thế là xong.

- Tôi muốn biết, ông làm cách nào mà biết được rằng tôi đã nói chuyện với Morris.

McGinty mỉm cười:

- Đừng bao giờ quên rằng, cuối cùng rồi tôi cũng sẽ biết tất cả mọi việc. Thôi, đến giờ rồi, và...

Vừa lúc McGinty đứng lên định đi thì hai cánh cửa bị đẩy mạnh, bật tung ra, và ba cái đầu đội mũ lưỡi trai của cảnh sát, chăm chăm nhìn hai người. McMurdo vùng đứng dậy, định rút súng ra, nhưng hai khẩu đã chĩa thẳng vào anh. Anh thả tay xuống. Một người mặc binh phục bước vào. Đại uý Marvin ngúc ngắc cái đầu và mỉm cười nhìn McMurdo.

- Tôi vẫn nghĩ rằng thế nào rồi ngài cũng giở trò mà! Ngài lưu manh McMurdo. Thôi lấy mũ đội vào, rồi đi theo tôi.

McGinty can thiệp: 

- Đại uý sẽ phải trả giá đắt về cái trò bông đùa này. Sao ông dám tự tiện xông vào nhà người ta để dọa nạt những người lương thiện.

- Ông Hội đồng, ông không dính gì đến chuyện này. Chúng tôi chỉ có chuyện đối với tên McMurdo này thôi.

- Đây là một người bạn của tôi, và tôi bảo lãnh cho anh ta về những hành vi của anh.

- Theo tất cả những điều người ta nói về ông, thì rồi một ngày nào đó, chính ông, ông cũng sẽ phải trả lời trước pháp luật... Tên này là một thằng lưu manh trước khi đến đây. Hiện nay nó cũng vẫn là một thằng lưu manh. Thượng sĩ (???), hãy nhắm súng vào nó, trong khi tôi tước vũ khí của nó.

McMurdo lạnh lùng nói:

- Đây, súng của tôi đây.

- Trát bắt người của ông đâu. Tôi xin thề là ông sẽ biết tay tôi. - McGinty đe dọa.

- Ông cứ hành động.

- Tôi bị buộc tội gì? - McMurdo hỏi.

- Dính líu vào vụ hành hung ở tòa soạn báo Herald.

McGinty vừa cười vừa nói.

- Người này tối hôm qua ở trong quán rượu của tôi. Anh ta đánh bài đến nửa đêm mới ra về. Tôi có cả tá người làm chứng có thể xác nhận việc này.

- Đó là việc của ông. Ngày mai ông sẽ trình bày trước tòa. McMurdo, đi thôi.

McGinty cố thu xếp để nói riêng với McMurdo mấy câu trước khi anh bị dẫn đi.

- Thế còn cái?...

McGinty giơ một ngón tay cái lên để ám chỉ cái máy dập tiền. McMurdo đã giấu kỹ nó dưới sàn nhà nên trả lời.

- Yên trí.

- Chúng ta sẽ sớm gặp nhau thôi. Tôi đi tìm thầy cãi. Chúng sẽ không giữ được anh lâu đâu.

Đại uý Marvin xen vào:

- Thượng sĩ (???), ông hãy canh gác kỹ tên tù này, và cho phép ông bắn bỏ nếu nó định giở trò gì ra, tôi đi khám buồng của nó.

Người sĩ quan không tìm thấy cái máy làm bạc giả. Khi ở trên lầu xuống, anh ra lệnh dẫn McMurdo về đồn. Trời đã tối, gió thổi lạnh lẽo, đường xá vắng tanh. Chỉ có mổ vài người hiếu kỳ đi theo, và được bóng tối làm cho bạo dạn hơn, đã văng tục chửi thề tên tù đang bị dẫn đi.

- Hãy đánh chết cái thằng "Tiên phong" này đi! Đánh chết đi!

Họ cười đùa và nói khôi hài khi thấy cả đám bước vào trong đồn cảnh sát, Sau khi bị hỏi cung chiếu lệ, McMurdo bị dẫn tới một phòng giam. Anh gặp lại ở đây tên Teddy và ba tên tội phạm khác. Nhưng ngay ở trong bức thành trì của luật pháp này, bàn tay dài ngoằng của những Người Tự Do cũng vẫn vươn tới được. Buổi tối hôm đó, một người cai ngục mang rơm vào để chúng rải xuống sàn nhà ngủ cho ấm. Chúng moi từ bó rơm ra hai chai rượu, mấy cái ly và một cỗ bài. Chúng đã qua một đêm vui vẻ, không cảm thấy có một chút nào lo sợ đối với vụ xử án ngày hôm sau.

Tại toà, trước những chứng cớ đưa ra, vị quan tòa đành chịu không thể tuyên án. Những người thợ nhà in công nhận rằng ánh sáng lúc đó nhấp nhem. Bản thân họ cũng không được tỉnh trí, nên họ ở trong tình trạng rất khó nói dứt khoát về nhận dạng những tên côn đồ... Đến khi họ bị ông luật sư hỏi vặn lại thì họ lại càng ấp úng hơn nữa. Nạn nhân cũng đã khai rằng ông ta bị tấn công quá đột ngột nên không thể xác định được một điều gì ngoài việc thấy tên đánh đầu tiên vào ông có một bộ râu mép. Ông nói thêm rằng bọn chúng chỉ là "Những Người Tiên Phong" thôi, vì ông ta không có ai khác là kẻ thù trong thành phố. Mặt khác, những lời làm chứng quả quyết của 6 công dân, trong số đó có McGinty đã chứng minh rằng những người bị buộc tội ở đây đã đánh bài tại nhà Hội quán đến tận một thời điểm sau vụ hành hung rất nhiều.

Chúng đã được tha bổng. Đại uý Marvin và ngành cảnh sát bị khiển trách.

***

Chương 12

Giờ đen tối nhất

Sau phiên tòa, McMurdo càng nổi tiếng hơn. Những huynh trưởng trong chi nhánh bảo nhau: "Không ai có thể thay thế anh ta được khi có những vụ gay go". McGinty cũng công nhận rằng McMurdo là cánh tay đắc lực nhất. Hắn có cảm giác là đang nắm ở đâu đây một con chó săn cực kỳ hung ác. Tất nhiên để làm những việc lặt vặt thì hắn không thiếu những con chó con, nhưng nhìn xa trông rộng, hắn đã nhìn thấy trước được cái ngày mà hắn phải xua con chó dữ tợn này vào một con mồi xứng đáng với nó kia. Một vài môn huynh trong chi Hội, trong đó có Teddy đã đem lòng căm hờn, nhưng thầm lặng trong bụng.

Nếu McMurdo đã chiếm được cảm tình của các bạn hữu, thì ở một nơi khác, anh lại mất hết. Bố của cô Ettie không muốn trông mặt anh nữa và cũng không cho anh bước chân vào nhà nữa. Ettie thì không từ bỏ anh được. Nhưng cô cũng tỉnh táo suy nghĩ về những hậu quả của một cuộc hôn nhân với một kẻ bị mọi người coi như một tên tội phạm. Một buổi sáng, cô quyết định đi gặp anh ta, cố gắng kéo anh ta ra khỏi những ảnh hưởng độc hại đang hút anh ta xuống vực thẳm.

McMurdo đang ngồi trước bàn,quay lưng ra ngoài, trước mặt có một bức thư. Một ý nghĩ tinh nghịch thoáng qua đầu óc cô bé 19 tuổi này. Anh không nghe thấy cô mở cửa, nên cô nhón gót yên lặng đi đến sau lưng, nhẹ nhàng đặt hai tay lên vai anh.

Anh ta nhảy chồm lên như một con hổ, tay phải thì nắm lấy cổ cô, tay kia thì vò nát bức thư để trước mặt. Lúc đó anh mới kịp nhìn ra cô. Thế là sự ngạc nhiên và niềm vui tràn ngập đến thay sự hung bạo. Nhưng, sự hung bạo đã làm cho cô khiếp đảm phải lùi mãi đến bức tường phía sau lưng.

McMurdo vừa lau mồ hôi trán vừa nói:

- Em đấy à, lại đây, em yêu...

McMurdo giang rộng hai tay ra phía trước.

- Anh phải đền em.

Ettie vẫn còn bàng hoàng vì nét mặt của McMurdo mà cô vừa phát hiện: Tất cả linh tính của phụ nữ đã mách bảo cho cô biết rằng đó không phải là sự sợ hãi bình thường của một người bị bất ngờ. Không, rõ ràng là sự sợ hãi của một người có tội. Cô la lên:

- Anh làm sao thế. Tại sao anh lại sợ em đến như vậy.

- Anh đang mải suy nghĩ về hàng trăm việc, thì em đến nhẹ nhàng quá, như những bước chân của một nàng tiên.

- Không. Có cái gì hơn thế nữa kia.

Một thoáng nghi ngờ xuyên qua tâm trí cô.

- Hãy đưa cho em đọc cái thư anh đang viết đó.

- Anh không thể đưa em đọc được.

- Anh viết thư cho một người đàn bà khác rồi. Nếu không, tại sao anh lại không đưa cho em coi.

- Anh chưa có vợ, anh thề trên thánh giá.

- Thế tại sao anh không cho em coi thư.

- Anh đã có lời thề với những người khác là sẽ không cho ai đọc bức thư đó, anh cũng không muốn phản bội những người đã tin anh, như anh không muốn phản bội em. Đây là một công việc của chi nhánh Hội, một công việc bí mật, ngay cả đối với em nữa. Và anh hoảng sợ tưởng đó là bàn tay của cảnh sát...

Ettie tin lời McMurdo. Những chiếc hôn nồng cháy của anh đã xóa sạch hết sợ hãi và nghi ngờ.

- Em hãy đến ngồi bên cạnh anh. Đây là một cái ngai vàng thật không xứng đáng với một nữ hoàng như em.

- Làm sao có thể yên tâm được khi biết rằng anh đã nhập bọn với một lũ tội phạm.

- Hãy tin rằng anh không đến nỗi xấu xa như em tưởng đâu. Bọn anh chỉ là những người đáng thương đang cố sức, the cách riêng của mình, bắt người khác phải tôn trọng những quyền lợi của mình.

Ettie quàng hai tay vào cổ người yêu:

- Hãy bỏ hết đi anh! Vì tình yêu, hãy bỏ hết đi!

McMurdo ôm chặt cô vào lòng.

- Làm sao anh có thể bỏ được, vì như thế là anh sẽ phản bội, và bỏ rơi bạn hữu. Mà dù bây giờ anh có muốn bỏ nữa cũng không thể được. Không bao giờ chi

nhánh Hội lại để cho một hội viên rời bỏ mang theo tất cả những bí mật của Hội.

- Em đã lo trước tất cả rồi. Ba có một ít tiền để dành được. Ba cũng ngán nơi này lắm rồi. Em sẵn sàng đi nơi khác. ở đó, chúng ta sẽ được an toàn.

McMurdo bật cười:

- Chi nhánh Hội có cánh tay dài lắm. Em tưởng bọn chúng không thể với tay từ đây tới Philadelphia hay New York sao?

- Thì chúng ta đi về miền Tây, đi sang Anh, sang Đức; đi bất kỳ đâu cũng được, miễn là ra khỏi cái Thung lũng Khủng khiếp này.

McMurdo chợt nghĩ đến môn huynh Morris.

- Đây là lần thứ hai anh nghe nói đến cái tên Thung lũng Khủng khiếp đó.

- Anh tưởng rằng thằng Teddy đã tha chúng ta à? Nếu nó không sợ anh, thì nó đã tiêu diệt chúng ta rồi. Mỗi lần gặp nó, chỉ cần nhìn đôi mắt hổ đói của nó, em phát run lên.

- Nếu mà anh bắt được những lúc đó, anh sẽ dạy cho nó biết lễ phép. Nhưng em gái bé bỏng. Anh không thể đi khỏi nơi đây được. Nhưng anh sẽ tìm cách thoát khỏi những sự việc này một cách có danh dự.

- Không có danh dự trong một việc như thế này đâu.

- Trong vòng sáu tháng, anh sẽ tìm cách đi khỏi nơi đây mà không phải xấu hổ khi nhìn mặt người khác.

- Sáu tháng à, chắc chắn nhé.

- Có thể là bảy, tám tháng, nhưng tối đa, là trước một năm.

Ettie không thể đòi hỏi thêm được. Cô ra về. Kể từ khi McMurdo xâm nhập vào đời cô, chưa bao giờ cô thấy trong lòng vui vẻ, nhẹ nhàng như hôm nay.

McMurdo tưởng rẳng khi mình đã là một hội viên thực thụ, thì anh có thể biết được tất cả những hoạt động của Hội, nhưng chẳng bao lâu sau, anh khám phá ra rằng tổ chức này rộng lớn và phức tạp hơn một chi nhánh rất nhiều, chính McGinty cũng có nhiều chuyện không biết, vì có một vị chức sắc cao cấp hơn gọi là Uỷ nhiệm vùng đóng ở phía dưới đường xe lửa, có toàn quyền đối với nhiều chi nhánh.

McMurdo có gặp hắn một lần. Trông hắn như một con chuột chù, dáng đi thì thậm thà thậm thụt, đôi mắt gian giảo chuyên nhìn ngang. Tên hắn là Evans Pott. Một hôm Scanlan, người bạn cùng trọ với McMurdo, nhận được mấy chữ của McGinty kèm theo một lá thư của Evans Pott. Ông "đại vương" báo cho McGinty biết rằng ông ta phái đến Vermissa hai người tên là Lawler và Andrews, với đầy đủ chỉ thị để hoạt động trong vùng. Và ông toán trưởng phải chịu trách nhiệm bố trí cho hai người đó được ăn, ở chu đáo cho đến giờ hành sự. McGinty viết thêm cho Scanlan là ông sẽ biết ơn Scanlan và McMurdo nếu hai vị này thu xếp để cho họ tới ở nhà trọ của bà quả phụ MacNamara.

Họ đến ngay chiều hôm đó, mỗi người mang theo một cái bọc. Lawler là một người đứng tuổi, nét mặt khắc khổ, ít nói và dè dặt, có dáng của một tay đi giảng đạo rong. Andrews thì giống như một đứa trẻ mới lớn lên, mặt mũi cởi mở, vui vẻ, không khác gì một cậu học sinh đi nghỉ hè. Cả hai chỉ uống nước lã, nhưng đều là những tên giết người có hạng. Lawler đã thực hiện 17 vụ, Andrews 3 vụ. Chúng kể lại những thành tích cũ của chúng với một thứ kiêu hãnh giống như những người đã làm được nhiều việc tốt đẹp cho tập thể. Nhưng khi hỏi đến công việc chúng sắp làm, thì chúng lại tỏ ra kín đáo.

- Chúng tôi đã được chọn đi, vì cả tôi lẫn thằng bé không ai biết uống rượu, vì thế chúng tôi sẽ không lỡ mồm lỡ miệng. Vậy các anh đừng giận chúng tôi, đó là vì phải tuân theo lệnh của ngài Uỷ nhiệm vùng. - Lawler giải thích.

- Dĩ nhiên rồi.

McMurdo vừa chửi thề vừa nói:

- ở trong vùng này có gần nửa tá những đứa mà tôi sẵn sàng muốn cho đi mò giun. Không biết có phải thằng Jack Knox ở Ironhill là mục tiêu của các anh không? Tôi muốn trả giá rất đắt để được thấy nó lãnh đủ những gì mà nó đáng được nhận.

- Không. Không phải nó đâu.

- Hay là thằng Herman Strauss.

- Cũng không phải nó.

- ồ thôi, chúng tôi không thể bắt buộc các anh nói được. Nhưng mà đối với tôi nó ngứa ngáy chân tay thế nào ấy.

Một buổi sáng, còn sớm lắm, McMurdo nghe thấy hai thằng nhón gót bước nhẹ xuống cầu thang, anh vội đánh thức Scanlan dậy và hai người nhanh chóng mặc áo. Khi họ xuống đến dưới nhà thì thấy cửa mở và hai thằng đi trước họ không xa. Họ liền thận trọng bước theo.

Nhà trọ ở vùng gần ven thành phố, đi một lát thì đến một ngã tư ở giữa nông thôn. Có ba người đã chờ sẵn ở đó. Lawler và Andrews đứng nói chuyện với chúng một lát, rồi cả bọn lại kéo nhau đi. Từ ở chỗ đó có nhiều con đường dẫn đến những mỏ khác nhau. Bọn chúng đi vào con đường dẫn đến đồi Crow là một cái mỏ lớn của Josiah H. Dunn, người New England.

Bây giờ trời đã sáng rõ. Thợ thuyền đang vội vã đi làm, hoặc đi lẻ tẻ hoặc nhập lại thành từng nhóm. McMurdo và Scanlan đi lẫn vào với họ. Sương mù dày đặc bao phủ tất cả. Một hồi còi xé tan bầu không khí: Đó là hiệu lệnh 10 phút trước khi những thang máy đưa thợ xuống hầm mỏ.

Khi họ đến khoảng trống trước miệng giếng xuống mỏ thì ở đó đã có khoảng một trăm thợ mỏ đang đứng đợi, vừa đập chân vừa thổi các ngón tay cho đỡ rét. Bọn hung thủ đứng tụm lại trong bóng tối của nhà máy. Scanlan và McMurdo trèo lên một đống than xỉ để có thể nhìn rõ quang cảnh. Họ nhận ra kỹ sư mỏ tên là Menzies, từ trong nhà máy đi ra thổi một tiếng còi để ra lệnh cho thang máy xuống hầm. Vừa lúc đó, một người trẻ tuổi, cao lêu nghêu, tiến lại gần miệng giếng. Anh ta trông thấy đám người đứng im lặng cạnh nhà máy, mũ đội sụp xuống thấp, cổ áo thì kéo lên che kín cả mặt. Anh ta hướng về phía những người lạ mặt khả nghi và lớn tiếng hỏi: 

- Các anh là ai? Tại sao lại vào đây làm gì?

Không có tiếng trả lời. Chỉ có thằng Andrews tiến lên một bước và bắn một phát vào bụng người đó. Cả trăm người thợ như vừa bị tê liệt hẳn. Người giám đốc mỏ ấn hai tay vào vết thương ở bụng và gập đôi người lại, chuệnh choạng định chạy đi, nhưng một phát đạn nữa làm anh ta ngã nghiêng xuống, tay chân quờ quạng trên mặt đất. Kỹ sư Menzies hét lên một tiếng, tay cầm mỏ lết xông vào, nhưng anh cũng lãnh hai viên đạn và chết ngay dưới chân chúng. Lúc đó đám đông thợ mỏ mới rùng rùng lên như một đợt sóng. Một vài người xông về phía bọn sát nhân. Nhưng hai khẩu súng bắn chỉ thiên như trút đạn phía trên đầu họ. Thế là mọi người đứng sững lại, rồi lùi dần và bắt đầu tản ra. Một số chạy thẳng hẳn về nhà. Khi những người dũng cảm nhất tập hợp lại được và chạy tới nhà máy, thì bọn sát nhân đã biến mất trong đám sương mù. 

Scanlan là McMurdo trở về nhà trọ. Scanlan có vẻ buồn rầu, McMurdo im lặng, suy nghĩ.

Tối hôm đó có một buổi ăn mừng lớn ở chi nhánh Hội. Không những ăn mừng vụ ám sát người giám đốc và người kĩ sư mỏ ở đồi Crow, mà còn để ăn mừng một thắng lợi khác mà chi nhánh đã thực hiện được ở một nơi xa đây. Bây giờ mới rõ là Evans Pott cử hai người xuống Vermissa, thì đồng thời hắn cũng đòi hỏi Vermissa phải bí mật cử ba người lên trên hắn để thủ tiêu William Hales của Stake Royal, một trong những người chủ mẫu mực. Anh ta chỉ có cái tội là cứ thích có năng suất trong công việc nên đã đuổi một số tên sâu rượu và lười biếng, mà những tên này lại là hội viên của Hội.

Bản án vừa được thi hành xong. Teddy hãnh diện ngồi chễm chệ trên ghế danh dự bên phải ông toán trưởng. Bộ mặt đỏ dừ, hai con mắt đỏ sọc máu, chứng tỏ hắn vừa qua một đêm trắng và uống nhiều rượu. Chúng đã rình nạn nhân trong khi người này đi về nhà vào buổi tối. Chúng phục trên đỉnh một quả đồi, đường đi khấp khểnh nên bắt buộc ngựa phải đi bước một. Nạn nhân mặc nhiều áo quá để chống rét nên không rút súng ra kịp. Cái xác đẫm máu được vứt lại trong đống tuyết để làm một lời cảnh cáo cho tất cả các ông chủ có trái tim sắt đá.

Đó là một ngày trọng đại cho tất cả những Người Tiên Phong. Bóng tối đè nặng hơn nữa lên thung lũng khủng khiếp. McGinty đã nghĩ đến một trận tấn công mới chống những kẻ thù của ông ta. Đêm hôm đó, khi mọi người đã say sưa chia tay nhau ra về, ông ta ngóac McMurdo lại và đưa anh ta vào căn phòng gặp nhau lần đầu tiên.

- Hãy nghe đây. Bây giờ tôi mới có một công việc xứng đáng với anh.

- Tôi hãnh diện vì đã được ông chọn lựa.

- Chúng ta không thể nào yên tâm chừng nào vụ Chester Wilcox chưa được giải quyết xong.

- Nó là ai vậy? Nó ở đâu?

McGinty bỏ điếu xì gà xuống, xé ở sổ tay ra một tờ giấy trên có vẽ một bản đồ sơ lược.

- Nó là thằng đốc công chính của công ty thép Dike, thượng sĩ cũ, đã có đi đánh trận về. Chúng ta đã hai lần định hạ nó, nhưng không được may mắn và Jim đã bị nó hạ lại. Đây nhà nó đây, ở chơ vơ một mình tại ngã tư của công ty. Không nên đi đến đó ban ngày, nó có vũ khí, bắn nhanh và bắn giỏi. Nhưng ban đêm... Tóm lại, nó ở đó với vợ nó, ba đứa con và một người đầy tớ gái. Nếu đặt một gói chất nổ ở cửa nhà nó với một cái ngòi, thì xong hết mọi chuyện.

- Người này đã làm gì?

- Nó đã giết Jim Camaway

- Tại sao nó lại giết Jim?

- Một buổi tối Jim đi vào vùng nhà nó, thế là nó giết thôi.

- ở đó có hai người đàn bà và ba đứa trẻ con. Có cần phải cho tất cả bọn này bay lên trời không?

- Tất nhiên rồi.

- Nhưng sợ con nó có tội gì đâu?

- Ahh xì hơi rồi hay sao?

- Hãy bình tĩnh, ông hội đồng. Tôi đã từ chối đâu.

- Thế anh có thi hành mệnh lệnh không?

- Tất nhiên.

- Bao giờ?

- Xin ông cho tôi một hay hai đêm, để tôi dò địa điểm cái nhà nó và lập một kế hoạch...

McGinty chìa tay ra bắt tay McMurdo.

- Tôi trông cậy ở anh. Các đòn cuối cùng này sẽ bắt chúng nó phải quỳ gối hết.

Ngay đêm hôm đó, một mình McMurdo đến đấy để nghiên cứu địa hình. Mãi sáng bạch hôm sau mới trở về. Ngày hôm sau, anh hội ý với hai tên trợ thủ. Ngày hôm sau nữa, cả ba người tụ họp ở ngoài thành phố, mang theo đầy đủ thứ vũ khí. Một đứa mang theo một cái bọc đựng đầy thuốc nổ. Khoảng 2 giờ sáng thì cả bọn đến trước nhà Wilcox. Hôm ấy gió to lắm. Mây bay như chạy dưới một mảnh trăng hạ huyền. Chúng đã được báo trước là phải đề phòng những con chó giữ nhà nên chúng rất thận trọng tiến lại gần. Nhưng không thấy có tiếng động nào khác ngoài tiếng gió rít và tiếng cây lá xào xạc. McMurdo ghé sát tai vào cửa nghe, không thấy động tĩnh gì bên trong. Anh đặt gói thuốc nổ vào sát cửa, lấy dao thọc một lỗ và buộc ngòi vào. Sau khi anh đã châm ngòi, cả bọn vắt chân lên cổ mà chạy, được một quãng, vừa nằm rạp xuống một cái rãnh, thì nghe thấy tiếng nổ long trời lở đất, và căn nhà nọ sụp xuống. Công việc đã hoàn thành. Chưa bao giờ một sự thành công trọn vẹn như vậy được ghi nhận trong lịch sử biên niên của Hội. Nhưng than ôi bọc thuốc nổ chỉ làm sụp đổ một căn nhà rỗng không, và người thượng sĩ già vẫn tiếp tục giữ vững trật tự trong các mỏ của công ty Dike.

McMurdo tỏ vẻ bực tức lắm. Anh nói:

- Tôi thề là tôi sẽ hạ được nó.

Toàn thể chi nhánh bỏ phiếu biểu quyết tín nhiệm anh. Rồi vụ Wilcox cũng nguôi ngoai đi. Nhưng vài tuần lễ sau, khi báo chí đăng tin, Wilcox đã phải đấu súng trong một vụ phục kích, thì ai cũng hiểu rằng đó là McMurdo quyết tâm hoàn thành một công việc còn đang dang dở.

Đó! Hội những Người Tự Do đã lũng đoạn cả một vùng bằng sự khủng bố. Bóng tối trùm kín thung lũng khủng khiếp.

Rồi mùa xuân đến với những bông hoa tươi thắm và tiếng hát của các con suối. Thiên nhiên bị bàn tay nặng nề của mùa đông giam giữ nay đã trỗi dậy. Nhưng không ở đâu có một tia hy vọng nào, cho những người đàn ông và đàn bà bị khống chế trong sự khủng bố. Trên đầu họ chưa bao giờ có những đám mây dày đặc sự đen tối và hãi hùng như vào đầu mùa hạ năm 1875 này.

***

Chương 13

Nguy hiểm

McMurdo đã được tôn lên địa vị của một phụ tá trong Hội. Anh đã trở thành tối cần thiết trong các buổi họp của Hội. Nhưng nếu anh càng nổi tiếng giữa đám Người Tự Do bao nhiêu, thì khi ra ngoài đường phố ở Vermissa, anh càng phải chịu đựng những cái nhìn có ngụ nhiều ý nghĩa bấy nhiêu. Mặc dù vẫn khiếp sợ nhưng những người dân ở Vermissa bây giờ đã bắt đầu hợp đoàn với nhau. Chi nhánh đã biết tin là... có những cuộc họp bí mật được triệu tập tại tòa soạn báo Herald, và những người bảo vệ pháp luật đã được phát đầy đủ súng ống. McGinty và cả bọn đều coi thường những tin tức này. Chúng cậy đông người, gan lỳ và võ trang tốt. Địch thủ của chúng thì tản mạn, lại không có thế lực. Đó là ý kiến đánh

giá của McGinty, của McMurdo và của những tay cứng khác trong chi nhánh.

Một buổi tối thứ bảy tháng năm, theo thường lệ, chi nhánh họp ở nhà hội quán, McMurdo đang sửa soạn sắp đi, thì môn huynh Morris chợt đến tìm anh với vầng trán lo âu, đôi mắt hoảng hốt.

- Tôi có thể nói chuyện tự do với ông được không, ông McMurdo?

- Dĩ nhiên.

- Tôi không quên rằng đã có lần tôi trút cả bầu tâm sự với ông, và ông đã giữ kín cho tôi.

- Nhưng sự yên lặng của tôi không có nghĩa là một sự tán thành những ý nghĩ của ông.

- Tôi biết. Nhưng tôi có một điều bí mật ở đây...

Anh ta để một tay lên ngực.

- Một bí mật ngày đêm gặm nhấm tim tôi. Nếu tôi nói nó ra, thì chắc chắn nó sẽ gây thêm một vụ án mạng nữa. Nhưng nếu không nói, thì nó sẽ là hồi chuông báo tử cho tất cả chúng ta.

Morris đang run bần bật. McMurdo rót một ly rượu whisky và đưa cho ông ta.

- Đây là một liều thuốc cho ông. Bây giờ, ông hãy nói vì sao ông lo sợ đến thế.

- Tôi nói một câu thôi: Có một thám tử đang dò theo dấu vết của chúng ta.

McMurdo nhìn ông ta, kinh ngạc:

- Thì ở đây lúc nào mà chẳng nhung nhúc những cảnh sát và thám tử.

- Không. Đây không phải là một người ở trong vùng này. Ông có nghe nói đến những người của Pinkerton không?

- Cái tên này có gợi cho tôi một cái gì đấy.

- Đó! Đây không phải là một tổ chức muốn làm được việc, muốn có kết quả kia. Nếu một người của Pinkerton đang theo dõi công việc của chúng ta, thì chúng ta chắc chắn bị tiêu diệt mất.

- Tất nhiên,

- Nhưng tôi không phải là kẻ chỉ điểm người cần bị giết. Ôi! Tôi biết làm gì bây giờ?

Morris đứng lên, đi đi lại lại trong phòng, dáng điệu cực kỳ bối rối. Nhưng những lời nói của anh ta đã làm McMurdo xúc động.

Anh nắm lấy hai vai Morris và lắc mạnh.

- Không làm được gì cả, nếu cứ than khóc như một mụ già. Trước hết phải biết thằng đó là ai? Nó hiện ở đâu? Bằng cách nào ông lại biết nó có ở đây. Tại sao ông lại đến tìm tôi?

- Tôi đã nói với ông rằng trước khi đến đây, tôi đã có một cửa hàng ở miền đông, tại đó tôi có nhiều bạn tốt. Một người trong bọn họ hiện làm việc ở sở Bưu điện. Ngày hôm qua tôi nhận được thư của anh ta. Đây cái đoạn ở trên đầu trang này. Ông có thể đọc được.

"... ở vùng anh, bọn Tiên Phong hoạt động như thế nào? Chúng tôi đọc báo thấy nói nhiều về chúng nó lắm. Giữa chúng ta với nhau, tôi trông đợi tin tức của anh. Năm tập thể lớn và hai công ty hỏa xa đã đứng ra gánh vác việc này, và họ làm đến nơi đến chốn lắm. Họ muốn có những kết quả thực sự. Theo lệnh của họ, đích thân Pinkerton chỉ huy chiến dịch này và đã phái đến đó, thám tử giỏi nhất của ông ấy là Birdy Edwards. Người ta chờ đợi là ngày một ngày hai, cái bọc mủ ung nhọt ấy sẽ được chọc thủng ra".

- Bây giờ mời ông đọc thêm phần tái bút.

"Tất nhiên, tôi biết được những điều nói trên là vì công việc của tôi, cho nên anh đừng cho ai biết nhé. Họ dùng một thứ mật mã riêng, mà anh có thể đoán cả ngày cũng không hiểu gì hết".

McMurdo ngồi lặng đi một lát, tay vẫn không rời bức thư. Màn sương mù thế là vừa tan hết, để lộ ra một vực thẳm trước mặt anh.

- Có ai biết việc này nữa không?

- Tôi không nói với ai cả.

- Người bạn của ông có viết thư cho ai nữa không?

- Anh ta có biết một hai người ở đây.

- Hội viên của Hội à?

- Hình như thế.

- Người bạn ông có thể cho họ biết nhân dạng của tên Birdy này, và nhờ đó chúng ta sẽ có thể tìm ra nó.

- Có thể lắm. Nhưng tôi tin rằng người bạn của tôi không biết mặt tên Birdy đó. Anh ta chỉ cho tôi biết những tin tức đã thu lượm được trong công việc của anh ta thôi.

McMurdo nhảy dựng lên:

- Tôi nắm được nó rồi. Chúng ta may mắn quá. Chúng ta sẽ thanh toán nó trước khi nó có thể làm hại được chúng ta. Này, ông Morris, ông có để tôi đảm nhiệm việc này không?

- Tất nhiên rồi.

- Ông yên tâm, cứ để một mình tôi xử trí. Tôi coi như cái thư này gửi đến cho chính tôi. Như thế đối với ông đã được chưa?

- Tôi không dám đòi hỏi gì thêm nữa.

- Thế thôi, chúng ta ngừng ở đây nhé. Bây giờ tôi xuống hội quán để họp đây, và rồi chúng ta sẽ cho tên Pinkerton này có dịp than khóc.

- Ông không giết người thám tử đấy chứ?

- Ông càng biết ít càng tốt. Xin ông đừng hỏi tôi nữa.

Morris lắc đầu buồn bã:

- Tôi có cảm giác là tay tôi đã vấy máu.

McMurdo đáp lại với một nụ cười ghê rợn:

- Tự vệ không phải là ám sát. Hoặc nó, hoặc chúng ta. 

McMurdo tuy mồm có vẻ cứng cỏi, nhưng những hành động của anh lại tỏ ra là anh thấy sự đe dọa rất nghiêm trọng. Trước khi ra khỏi nhà, anh đã hủy hết những giấy tờ gì có thể buộc tội anh. Nhưng hình như anh vẫn còn lo sợ một cái gì đó, nên trên đường đến hội quán, anh đã dừng lại trước cửa nhà trọ của cụ Shafter, khi anh gõ khẽ vào cửa thì Ettie chạy ra. Nhìn dáng điệu trang nghiêm

của anh, cô biết rằng một mối nguy hiểm đang gần kề.

- Có gì thế, anh đang bị nguy hiểm à?

- Chưa nguy hiểm lắm. Nhưng chúng ta nên đi khỏi nơi đây trước khi nó trở thành tệ hại hơn.

- Đi hả anh?

- Chiều hôm nay anh nhận được một số tin tức, và thấy nhiều nguy hiểm đang chờ anh.

- Cảnh sát à?

- Không, anh đã dính líu quá sâu vào rồi, và bây giờ anh muốn rút ra khỏi đây không chậm trễ nữa.

- Đó là con đường cứu nguy cho anh đó.

Không một lời nói, Ettie đặt bàn tay mình vào tay người yêu.

- Tốt lắm. Nhiều sự việc sắp xảy ra dồn dập trong vùng thung lũng này. Nhiều người trong bọn anh phải tự lo lấy thân mình. Nếu anh ra đi, em phải đi ngay với anh.

- Em sẽ theo anh sau.

- Không, em đi ngay cùng với anh. Anh có quen biết một bà con rất tốt, anh sẽ đưa em đến đó để chờ ngày làm lễ cưới.

- Vâng, em sẽ đi.

McMurdo đi tới nơi hội họp. Đến nơi, anh được chào đón một cách vui vẻ. Phòng họp đầy nghẹt người. Qua màn khói thuốc lá, anh trông thấy cái bờm tóc đen của ông trưởng toán, bộ mặt độc ác của thằng Teddy, cái tướng diều hâu của thư ký Harraway, cùng khoảng một tá những chức sắc cao cấp của chi nhánh. Anh mỉm cười khi nghĩ rằng tất cả bọn này rồi sẽ phải cuống cuồng lên vì cái tin anh đem đến.

Ông chủ toạ cuộc họp tuyên bố:

- Chúng tôi vui mừng thấy anh đến họp, môn huynh McMurdo. Chúng tôi đang bàn về một vụ rất khó phân giải.

Một người ngồi kế bên nói cho anh hay:

- Chuyện Lander và Egan đấy mà. Cả hai đều đòi tiền thưởng. Ai biết được đứa nào đã bắn viên đạn chủ yếu.

McMurdo đứng dậy và giang tay ra. Nét mặt bất thường của anh chiếm hết sự chú ý của mọi người. Cả phòng họp im phăng phắc, McMurdo trịnh trọng nói:

- Thưa sư huynh tôn kính, yêu cầu được thông báo khẩn cấp.

McGinty nhắc lại:

- Môn huynh McMurdo yêu cầu được thông báo khẩn cấp. Theo nội qui của chúng ta, thì đây là một quyền ưu tiên phải tôn trọng. Bây giờ môn huynh, chúng tôi nghe anh nói.

McMurdo rút cái thư ở trong túi ra.

- Thưa sư huynh tôn kính, và thưa các môn huynh, hôm nay tôi mang đến đây những tin tức không tốt. Tin đó là những công ty có quyền lực nhất, và giàu có nhất của xứ này đã họp nhau lại để tiêu diệt chúng ta. Ngay lúc này đây, một thám tử của Pinkerton, một người mang tên là Birdy Edwards đang hoạt động trong thung lũng, thu nhập những chứng cớ có thể tiêu diệt hết chúng ta. Đó là tình trạng mà tôi yêu cầu bàn bạc khẩn cấp.

Cả hội nghị ngồi chết lặng đi, không ai nói câu nào. Một lát sau, chủ toạ mới lên tiếng:

- Anh có chứng cớ gì không?

- Chứng cớ ở trong bức thư này...

Anh đọc đoạn thư cần thiết, rồi nói tiếp:

- Đây là một vấn đề danh dự của tôi. Tôi không thể cho biết chi tiết hơn về bức thơ này, cũng không thể để cho mọi người chuyền tay nhau cùng đọc được.

Một môn huynh đã có tuổi đứng dậy, nói:

- Thưa ông chủ toạ, xin cho phép tôi được phát biểu. Tôi đã có nghe nói đến cái tên Birdy. Nó là phụ tá đắc lực của Pinkerton.

- ở đây ai biết mặt nó? - McGinty hỏi.

- Có. Tôi biết. - McMurdo trả lời.

Một tiếng rì rầm ngạc nhiên truyền đi trong phòng họp. McMurdo tiếp tục nói với một nụ cười đắc thắng trên môi.

- Nếu chúng ta hành động khôn ngoan và nhanh chóng thì chúng ta có thể thoát ra được bước nguy hiểm này. Nếu tôi có được sự tin tưởng và sự hỗ trỡ của chi nhánh thì các vị không có gì phải lo sợ nhiều nữa.

- Chúng tôi có gì phải lo sợ, Nó biết gì về công việc của chúng ta.

- Thưa ông hội đồng, ông có thể nói được như vậy nếu như ai cũng thanh liêm như ông. Nhưng người này có khả năng sử dụng

hàng triệu bạc của bọn tư bản. Vậy ông thử nghĩ xem, ở trong tất cả các chi nhánh, há lại không có một môn huynh nào sa ngã

trước bạc tiền? Tên thám tử này rồi ra cũng sẽ biết hết những bí mật của chúng ta. Chỉ có một môn thuốc để trị bệnh này mà thôi.

Teddy nói dằn từng tiếng:

- Không để cho nó ra khỏi thung lũng.

McMurdo tán thành nhiệt liệt:

- Hoan hô, môn huynh Teddy, anh đã nói rất đúng.

- Bây giờ làm sao nhận ra nó? McMurdo nói một cách trang nghiêm:

- Thưa ông trưởng toán. Đây là một vấn đề sinh tử, quá quan trọng để có thể đem ra bàn bạc rộng rãi. Tôi không nghi ngờ bất cứ một người nào trong chúng ta ở đây, nhưng nếu một câu nói chơi lọt đến tai người ấy, thì chúng ta không có một hy vọng nào khống chế được nó. Tôi muốn xin chi nhánh bầu ra một uỷ ban tín nhiệm. Tôi xin đề cử chính ông, ông chủ tọa, môn huynh Teddy và 5 môn huynh khác nữa. Lúc đo trước uỷ ban, tôi sẽ nói rõ về những gì tôi biết và các biện pháp nên theo.

Đề nghị của McMurdo được chấp nhận ngay, và một uỷ ban được chỉ định. Ngoài McGinty và Teddy, còn có Harraway, Carter, Hổ Cormac và hai anh em Willaby.

Buổi họp hàng tuần chấm dứt sớm hơn mọi lần trong sự buồn rầu, lo sợ. Lần đầu tiên thấy hiện lên trên bầu trời trong sáng của họ những đám mây đen của pháp luật.

Khi mọi người đã ra về hết, trước mặt uỷ ban tín nhiệm, McGinty ra lệnh:

- McMurdo, nói đi!

Bảy người trong uỷ ban ngồi như những tượng đá lạnh lùng trong các ghế bành.

- Birdy đang ở đây nhưng với cái tên khác. Nó lấy tên là Steve Wilson và hiện ở Hobson s Patch.

- Sao anh biết?

- Tôi ngẫu nhiên có nói chuyện với nó một lần mà không biết. Hồi đó tôi không nghĩ gì nhiều về Pinkerton, và có lẽ cũng đã quên hẳn cái tên ấy đi nếu không nhận được bức thư này. Nhưng bây giờ thì tôi chắc chắn là nó rồi. Tôi đã gặp nó hôm thứ tư vừa rồi trên chuyến tàu. Nó nói nó là ký giả của tờ New York. Tôi tin là thật. Nó muốn biết về những Người Tiên Phong, nói là để viết gửi về tòa soạn. Tất nhiên là tôi không hở ra một chuyện gì. Nó nói với tôi rằng: "Tôi sẽ trả tiền, mà trả giá rất đắt để có những chi tiết có thể làm vui lòng ông chủ báo của tôi". Tôi đã bịa ra cho nó nghe những điều mà tôi cho là nó sẽ thích thú. Sau đó nó đưa cho tôi một tờ giấy bạc 20 dollars và nói rằng: "Anh sẽ có mười lần hơn thế này, nếu anh tìm được cho tôi những thứ gì mà tôi cần".

- Thế anh đã kể những gì với hắn

- Tất cả những gì đến trong đầu tôi lúc ấy.

- Tại sao anh biết nó không phải là nhà báo?

- Khi xe chạy đến Hobson s Patch thì nó xuống tàu. Tôi cũng xuống. Cùng ngẫu nhiên khi tôi bước vào phòng bưu điện thì thấy nó từ trong đó đi ra. Người đánh điện tín nói với tôi rằng: "Coi này, tôi nghĩ có lẽ phải bắt hắn trả gấp đôi mới đúng". - Tôi trả lời "Tôi cũng nghĩ như ông". Thì ra nó đã viết được cả một tờ điện tín những câu đọc lên không ai hiểu gì cả. Người đánh điện nói ngày nào hắn cũng đánh đi những bức điện tối mò như thế.

- Anh nói có lý. Thế bây giờ chúng ta phải làm gì? - McGinty nói.

- Tại sao không xuống dưới đó mà thanh toán mẹ nó đi? - Một người hỏi.

- Mà sớm chừng nào càng tốt chừng ấy.

- Tôi sẽ đi ngay tức khắc nếu tôi biết nó ở đâu. Nó ở Hobson s Patch, nhưng không biết ở nhà nào. Nhưng tôi đã có sẵn một cái bẫy này, nếu các ông chịu nghe tôi...

- Bẫy thế nào?

- Ngày mai tôi sẽ đi Hobson s Patch. Tôi sẽ nhờ người đánh điện tín chỉ dẫn cho, và tôi sẽ tìm ra nó. Tôi sẽ nói với nó rằng tôi cũng là một hội viên của Hội những Người Tự Do, và muốn bán những bí mật của chi nhánh, nó sẽ vồ ngay. Tôi sẽ nói rằng các tài liệu hiện để ở nhà tôi, nhưng nếu ban ngày mà đến đấy lấy, thì thật là điên. Tôi sẽ hẹn đến 10 giờ đêm. Chắc nó đến thôi.

- Rồi sao nữa?

- Sau đó thì phần các ông muốn xử trí thế nào thì tuỳ. “Widow MacNamara s” là một căn nhà hẻo lánh. Bà chủ trọ của tôi là người tin cẩn được. Nếu nó hứa chắc với tôi là nó sẽ đến, thì tôi sẽ báo cho các ông biết và tôi muốn vào khoảng 9 giờ tối mai cả 7 ông phải có mặt ở nhà tôi. Nó sẽ sập bẫy.

McGinty kết luận:

- Đồng ý về tất cả kế hoạch. Chín giờ tối mai, chúng tôi sẽ đến nhà. Anh chỉ việc đóng cửa sau lưng nó, còn để mặc chúng tôi.

***

Chương 14

Birdy sập bẫy

Căn nhà nơi McMurdo ở trọ nằm ở ven thành phố và xa đuờng cái đi lại. Trong những trường hợp khác, bọn chủ mưu chỉ việc đua con mồi đến đấy, rồi trút đạn lên nạn nhân. Nhưng đây chính là một trường hợp ngoại lệ: còn cần phải rõ người kia đã biết những gì, làm cách nào mà biết, và đã truyền đi nhung tin tức gì. Nếu người thám tử đã làm xong công việc thu thập tài liệu, thì cần phải biết ai đã phản bội để xử trí tên ấy.

McMurdo đi xuống Hobson s Patch như đã dự định trược. Buổi sáng hôm đó, hình như cảnh sát lại đặc biệt chú ý đến anh ta thì phải. Đại uý Marvin định tới nói chuyện với anh, khi anh đứng đợi tàu ở sân ga. Anh quay mặt đi không thèm trả lời. Đến chiều thì McMurdo trở về và tìm ngay McGinty ở nhà hội quán để báo tin:

- Nó sẽ đến.

- Hoan hô!

Ông trưởng toán vỗ tay reo mừng:

- Cậu có tin là nó biết gì nhiều lắm không?

McMurdo gật đầu buồn bã:

- Nó đã ở đây ít nhất là 6 tuần rồi. Nếu nó cứ vung tiền ra trong suốt thời gian vừa qua, thì nó cung đã thu đuợc không ít tin tức và đã gửi những tin ấy đi rồi.

McGinty la lên:

- Nhưng trong chi nhánh, mọi người đều vững vàng như thành đồng luỹ thép cả. Chỉ có cái thằng Morris ấy thôi. Nếu có một người nào đó đi tố gíac chúng ta thì chính là nó. Tôi muốn cho hai đứa đến nhà nó ngay trước tối hôm nay để cho nó một trận và đồng thời cung tra hỏi nó xem có biết thêm gì không.

- Tôi không giấu ông là tôi cung có thương hại lão ấy, mà nếu lão ấy bị làm sao thì tôi cung có phần áy náy. Mặc dù lão có những cách nhìn không giống ông và tôi, nhưng tôi có cảm gíac lão không phải là một tên phản bội. Nhưng thôi, tôi đâu có dám can thiệp chuyện giữa ông và lão.

- Tôi sẽ thanh toán nó

- Nhưng xin ông hãy đợi cho đến ngày mai, không nên để cho người ta chú ý quá nhiều đến chúng ta trước khi giải quyết xong vụ Pinkerton.

- Anh nói có lý. Và chúng ta sẽ bắt thằng Birdy phải khai rõ là nó đã nhận đuợc những tin tức từ người nào. Dù chúng ta có phải moi tim ra để bắt nó nói, cung phải làm cho kỳ đuợc. Nó có cảm thấy là bị gài bẫy không?

- Tôi đã tóm đuợc điểm yếu của nó. Nó sẵn sàng đi từ đây đến New York, nếu có đuợc những tài liệu tốt. Tôi đã cầm tiền của nó...

McMurdo rút ở trong túi ra một xấp giấy dollars

- Nó sẽ đua cho tôi bấy nhiêu nữa khi nào nó thấy những tài liệu của tôi.

- Tài liệu nào?

- Tất nhiên tôi làm gì có tài tiệu. Nhưng tôi đã cho nó giỏ nước dãi ra khi nói đến những nội quy, những sổ thanh toán, những đon xin nhập hội. Hắn tin chắc rằng, trước khi đi khỏi nơi đây, hắn sẽ mò đuợc đến tận đáy của vấn đề.

McGinty thì thầm với một giọng dễ sợ:

-ừ, nó cung không nghi sai đâu. Thế nó có hỏi anh tại sao không mang những tài liệu đó đi theo luôn không?

- Ai dại gì mang theo trong mình từng ấy tài liệu? Ngay mới buổi sáng hôm nay, đại uý Marvin còn muốn nói chuyện với tôi ở ngoài sân ga nữa kìa.

- ừ, người ta cung đã có thuật lại với tôi như vậy. Tôi sợ rằng không khéo rồi cuối cùng chỉ có một mình anh sẽ phải gánh chịu tất cả sức nặng của vụ này. Sau khi thủ tiêu nó trong một cái giếng cu, chúng ta không thể gạt bỏ đuợc hai sự kiện là nó thì ở Hobson s Patch, mà hôm nay chính anh cung đi Hobson s Patch.

- Ban đêm thì sẽ không có một ai trông thấy nó vào nhà tôi, và tôi cuộc rằng sẽ không ai trông thấy nó ở trong nhà tôi đi ra. Bây giờ xin ông Hội đồng nghe kỹ tôi nói đây. Các ông sẽ đến đây đúng giờ đã quy định. Mười giờ thì nó đến. Nó sẽ gõ cửa ba lần. Chính tôi sẽ ra mở cửa cho nó vào. Tôi đi đằng sau nó và sẽ khóa cửa lại. Thế là xong. 

-ừ, dễ như trở bàn tay thôi.

- Nhưng chuyện tiếp theo mới là cần suy nghi. Nó có vu khí, ai cấm nó không biết cảnh giác và đề phòng. Ông hãy cứ tưởng tượng rằng tôi đua nó vào một căn buồng có 7 người đàn ông ngồi chờ nó, trong khi nó tưởng chỉ có một mình tôi thôi. Thế là sẽ nổ ra một cuộc đọ súng, và có thể có những cái không may xảy đến cho một vài anh em chúng ta.

- Đúng.

- Và tiếng súng có thể làm cho tất cả bọn cớm trong thành phố này đổ xô đến đây.

- Anh nói có lý lắm.

- Cho nên tôi định xếp đặt mọi việc như thế này. Các ông sẽ ngồi tất cả ở căn phòng lớn. Tôi mở cửa ngoài đuờng, đua nó vào buồng khách nhỏ bên cạnh cửa. Tôi sẽ để nó ngồi đó trong khi tôi đi vào lấy tài liệu. Tôi sẽ trở lại với một vài tài liệu giả. Trong khi nó đọc, tôi sẽ nhảy vào ôm chặt tay nó. Các ông sẽ nghe thấy tiếng tôi gọi và chạy ùa sang, xin các ông chạy nhanh nhanh cho một chút.

- Kế hoạch thế tốt đấy. Chi nhánh Hội ta sẽ mang nợ anh nhiều lắm đấy.

- Thưa ông Hội đồng, di nhên tôi không còn là một tên lính mới tò te nữa.

Khi về đến nhà, anh bắt đầu vào việc chuẩn bị cho cái buối tối ghê gớm này. Trước hết anh đem khẩu súng ra lau chùi, bôi mỡ và lắp đạn. Rồi anh kiểm tra lại căn buồng nơi sẽ giương bẫy. Cuối cùng anh kể hết mọi chuyện cho Scanlan nghe và nói thêm:

- Này Scanlan, đêm nay anh nên đi ngủ ở nơi khác. Trước sáng ngày mai, nơi đây sẽ có nhiều máu đấy.

- Tôi sợ chi nhánh đánh giá tôi không tốt, chứ tôi rất muốn theo lời khuyên của anh.

Bọn sát nhân đến đúng giờ đã định. Nhìn bề ngoài chúng có vẻ là những công dân ăn mặc đẹp đẽ, sạch sẽ. Nhưng nếu người nào biết xem tướng mặt, thì sẽ hiểu rằng Birdy ít có khả năng sống sót đuợc. Chủ nhà có để chai rượu whisky trên bàn, nên chúng vội vã nốc rượu ngay cho ấm bụng. Teddy và Cormac đã chuếnh choáng say rồi. Rượu hun đốt thêm sự độc ác tự nhiên của chúng. Cormac để tay gần cái bếp lò sưởi đã đuợc đốt lên. Nó nói:

- Nóng thế này, đuợc đấy.

Thằng Teddy hiểu ngay ý nghia của câu nói đó, gật gù tán thành:

- ừ, đuợc, đem trói nó vào đây thì sự thật nào cung phải khạc ra hết.

McMurdo nói:

- Đừng lo. Chúng ta sẽ bắt nó phải khai.

McMurdo, con người này có lẽ có những dây thần kinh bằng thép hay sao ấy. Tất cả công việc khó khăn nguy hiểm này là đặt trên hai vai anh ta, mà anh ta vẫn bình tinh, như không có gì xảy ra cả.

Tên toán trưởng nói với McMurdo:

- Một mình anh sẽ thu xếp riêng với nó. Chừng nào mà tay anh còn chưa nắm đuợc vào cổ nó, thì nó sẽ chưa biết sự có mặt của chúng tôi.

- Có thể nó sẽ không đến. Có thể nó cảm thấy có có nguy hiểm. - Tên thư ký nói.

- Thế nào nó cung đến. Nó ao ước đuợc đến đây cung không kém gì các ông ao ước đuợc thấy nó. Này, nghe xem. - McMurdo đáp.

Chúng sững người lại, đứng im lặng như tượng đá. Ba tiếng gõ cửa vang lên ở cánh cửa ngoài đuờng. McMurdo giơ một tay lên để căn dặn phải thận trọng. Cả bảy cặp mắt cùng lóng lánh chung một ánh đắc thắng, cả bảy bàn tay đều đặt lên vu khí.

- Không đuợc gây tiếng động nữa. - McMurdo thì thầm.

Rồi anh bước ra khỏi phòng và đóng cửa kỹ lưỡng. Bọn sát nhân căng tai nghe ngóng. Chúng nhận thấy bước chân của McMurdo đi trên hành lang, rồi thấy anh mở cửa ngoài. Có vài lời chào đón trao đổi qua lại, sau đó chúng nghe thấy tiếng bước chân của một người đi rụt rè trong nhà, và một giọng nói mà chúng không quen biết. Một lát sau, một cánh cửa đập mạnh và có tiếng chìa khóa xoay. Thế là xong, con mồi đã sập bẫy. Hổ Cormac phá lên cười ghê rợn. McGinty vừa bắt nó im, vừa thì thào:

- Đồ ngu, mày làm hỏng việc bây giờ.

ở buồng bên, nghe có tiếng người nói chuyện, nói rất lâu. Rồi cửa mở. McMurdo hiện ra, một ngón tay để lên môi ra hiệu.

Anh ta đi đến một đầu bàn và nhìn kỹ từng bộ mặt. Một sự thay đổi rất tế nhị xuất hiện ở anh ta, gương mặt lạnh lùng, rắn đanh lại, đôi mắt sâu đậm, long lanh sau cặp kính. Rõ ràng anh ta đã lột xác thành một người có uy quyền đối với người khác. Bọn sát nhân ngắm anh không chớp mắt, nhưng anh vẫn không nói gì. Chỉ nhìn chúng bằng cặp mắt rất kỳ lạ.

Cuối cùng McGinty phải lên tiếng:

- Thế nào. Thằng Birdy có ở đây không?

McMurdo chậm rãi trả lời, dằn từng tiếng:

- Có. Tao là Birdy đây.

Muời giây đồng hồ trôi qua, sự im lặng sâu đậm đến nỗi người ta tưởng căn phòng này không có người. Bảy bộ mặt xám ngoét, quay nhìn về hướng con người đang chế ngự chúng. Trong tiếng kính bị bể vỡ, rèm cửa bị rứt tung và qua mỗi khung cửa sổ, những họng súng chia vào. McGinty rống lên như một con gấu bị thương, nhảy bổ ra phía cửa. Hắn chạm ngay vào mui súng và đôi mắt xanh của đại uý Marvin. Tên trưởng toán lùi lại, ngã ngồi xuống ghế.

McMurdo gật đầu tán thành:

- Ông Hội đồng, ông ngồi chỗ ấy tốt đấy. Còn mày, Teddy, nếu mày không cất tay ra khỏi khẩu súng thì mày sẽ không đuợc gặp mặt đao phủ đâu. Bỏ tay ra. Đó. Thế đuợc đấy. Có bốn mươi tay súng chung quanh ngôi nhà này. Marvin, hãy tước hết súng của chúng nó đi. 

Bọn giết người bị tước hết vu khí. Kinh ngạc, sợ hãi, buồn rầu, chúng vẫn ngồi cả chung quanh bàn.

Người giương bẫy dõng dạc nói lớn:

- Tao muốn nói với chúng mày một vài lời trước khi chia tay. Tao chính là Birdy của tổ chức Pinkerton đây, tao đến đây là để tiêu diệt chúng mày. Tao đã phải chơi một ván bài khó khăn và nguy hiểm.

Bảy bộ mặt tái nhợt, sững sờ. Bảy cặp mắt trong đó cháy bỏng một mối căm hờn không bao giờ có thể dập tắt đuợc.

- Chúng mày tưởng là ván bài chưa kết thúc phải không? Nó kết thúc rồi: ở đây bảy đứa và ngay đêm nay, 60 tay chân của chúng mày sẽ ngủ trong nhà tù. Khi đảm nhiệm vụ án này, tao không tin rằng trên đời này lại có cái hội như hội của chúng mày. Tao tưởng đó chủ là những chuyện phóng đại của một số nhà báo. Người ta nói với tao rằng tao sẽ phải chạm trán với những "Người Tự Do" vì thế tao đã đi đến Chicago đến trở thành một Người Tự Do. ở đó, tao thực sự tin rằng đúng là những chuyện phóng đại của báo chí, vì tao thấy Hội không có gì xấu xa, mà trái lại là đằng khác. Vì phải làm cho trọn vẹn cuộc điều tra, nên tao đã đến thung lung này. Khi đến đây tao mới hiểu rằng tao đã lầm. Cho nên tao đã ở lại đây để nghiên cứu vấn đề cho cặn kẽ.

Tao chưa hề giết một người nào ở Chicago, tao chưa bao giờ làm bạc giả. Những đồng dollars tao đua cho chúng mày tiêu, nói là bạc giả nhưng chính là bạc thật. Thế là tao đuợc nhập vào cái chi nhánh địa ngục của chúng mày và cùng chúng mày bàn bạc những chuyện giết người. Cái đêm hôm tao đuợc nhập vào chi nhánh, chúng mày đi hành hung cụ James. Tao không báo kịp cho cụ biết. Nhưng tao đã giữ tay mày lại, Teddy, khi mày định giết ông cụ. Tao không cứu đuợc anh bạn Dunn và Menzies,vì tao không rõ sự việc, nhưng tao sẽ treo cổ những tên giết hai người đó. Tao đã báo tin cho Wilcox, để có thể cùng vợ và các con ông ta thoát đi khỏi, trước khi tao đặt thuốc nổ. Cung có nhiều vụ tao không thể báo trước cho nạn nhân biết. Nhưng rõ ràng đã có biết bao nhiêu lần những người mà chúng mày định ám hại đã trốn thoát.

McGinty rít lên giữa hai hàm răng:

- Thằng phản bội.

- McGinty! Mày gọi tao là "phản bội", nhưng sẽ có hàng nghìn người khác gọi tao là "người tốt", đã xuống tận địa ngục để cứu họ lên, trong cái địa ngục này, tao cố sống cho đến khi nắm đuợc tất cả từng đứa một, từng bí mật trong lòng bàn tay này. Nhưng một bức thư đã khiến tao sắp bị lộ. Vì vậy tao phải hành động ngay tức khắc. Tao không còn nói gì thêm với chúng mày nữa. Thôi, bây giờ ông Marvin, ông hãy đem giam bọn này lại, Chuyện còn lại ta sẽ làm sau.

Scanlan đuợc giao một chiếc phong bì dán kín mà anh ta có nhiệm vụ phải đua đến địa chỉ của Ettie. Sáng hôm sau, một cô gái trẻ đẹp và một người đàn ông khăn áo trùm kín người bước lên một chuyến tàu đặc biệt của công ty hỏa xa dành riêng cho họ, mở hết tốc lực rời khỏi một vùng đất đầy nguy hiểm. Mười ngày sau, họ làm lễ cưới ở Chicago. Cụ Shafter là người làm chứng trong cuộc hôn nhân đó.

Vụ xử án những "Người Tiên Phong" đuợc tổ chức cực kỳ cẩn mật. Chúng cố chối cãi. Nhưng vô ích. McGinty và 8 tên phụ tá, chết trên đoạn đầu đài, 50 đứa khác ngồi tù. Thắng lợi của Birdy trọn vẹn và hoàn toàn.

Nhưng thằng Teddy không phải lên đoạn đầu đài. Anh em thằng Willabys cung thế. Và một vài thằng hung thần khác cung thoát. Chúng bị giam giữ trong 10 năm, rồi chúng tìm đuợc tự do. Ngày chúng ra khỏi tù, Birdy biết rằng ông bắt đầu gặp khó khăn.

Chúng ám sát hai lần, nhưng ông đều thoát. Ông phải rời Chicago, đổi tên để sinh sống ở California. Tại đây, Ettie từ trần. Một lần khác ông lại suýt bị giết. Mang một cái tên mới là Douglas, ông làm việc trong một hầm mỏ với một người hùn vốn tên là Barker, và trở nên giàu có. Có người báo rằng: bọn khát máu lại đánh hoi thấy dấu vết của ông rồi. Thế là ông vội vã xuống tàu trở về Anh, đổi tên là John Douglas, lấy vợ và sống như một nhà quý phái nông thôn tại vùng Sussex rồi sau đó tại lâu đài cổ này xảy ra câu chuyện như ta đã thấy.

Tác phẩm bậc thầy

Trước tòa đại hình, Douglas đuợc trắng án vì đã hành động trong hoàn cảnh tự vệ. Holmes viết thư cho bà vợ ông ta: "Bằng mọi giá, bà hãy đua ông ấy đi khỏi nước Anh. ở đây có những tổ chức còn mạnh hơn gấp bội những tổ chức mà ông đã thoát đuợc. Không thể nào có an toàn cho ông ở Anh quốc".

Hai tháng đã trôi qua. Vụ án chìm dần vào di vãng. Một buổi sáng, có một bức thư khó hiểu đuợc nhét vào hòm thư của chúng tôi.

"Ông Holmes đáng thuong của tôi ơi! Ôi... ôi..."[1]

Bức thư nặc danh chỉ có mấy chữ đó thôi. Tôi bật cười. Holmes thì trở nên nghiêm trang:

- Quỷ quái thật.

Và anh ta ngồi lặng đi, vầng trán cau lại.

Tối khuya hôm đó, bà Hudson bước vào, nói rằng có một vị khách muốn đuợc gặp ông Holmes về một vấn đề quan trọng.

Người khách đuợc mời vào ngay: Đó là ông Barker. Với gương mặt căng thẳng, đôi mắt hoảng hốt, ông nói:

- Tôi mang đến những tin tức xấu.

- Đó là những điều tôi đang sợ đây. - Holmes nói

- Ông nhận đuợc một bức điện?

- Thư của người nhận đuợc bức điện đó.

- Chuyện của ông Douglas. Người ta nói với tôi rằng tên thật của ông ta là Birdy. Hai ông bà ấy đã xuống tàu Panama đi Nam Phi từ ba tuần lễ rồi. Tối hôm qua, tàu đỗ lại ở Cape Town . Sáng nay, tôi nhận đuợc bức điện này của bà Douglas: "Jack mất tích dưới biển trong một trận bão ngoài khơi St. Helena. Không ai biết tai nạn xảy ra như thế nào.”

- Thì ra như vậy đó. Việc bố trí và dàn cảnh thật tuyệt vời. Holmes nói.

- Ông không tin đây là một tai nạn?

- Phải.

- Thế thì Douglas đã bị mưu sát?

- Phải.

- Tôi cung nghi thế. Bọn Người Tiên Phong.

Holmes ngắt lời:

- Không phải đâu. Đây là một bàn tay bậc thầy kia. Đây không còn là một khẩu súng săn cua nòng, một khẩu súng lục. Mà là tác phẩm vi đại của một bậc thầy. Trông những nét bút tuyệt vời này, tôi có thể nhận ra ngay đây là tác phẩm của Moriarty. Vụ án mạng này không phải là sản phẩm của Mỹ quốc mà chính là của London đó.

- Vì sao vậy?

- Vì nó đã đuợc thực hiện bởi một người "bất bại". Một bộ óc lớn và một tổ chức khổng lồ dùng để thủ tiêu một người mà thôi. Khác nào dùng búa tạ để đập một hạt dẻ. Một sự phung phí năng lực quá cỡ, nhưng hạt dẻ đã bị đập nát bét.

- Nhưng bậc thầy ấy sao lại dính líu vào vụ này đuợc.

- Thằng Porlock chính là một trong những tay chân của bậc thầy đó, Nguời Mỹ rất khôn ngoan. Khi họ dự định đánh một trận ở Anh, thì họ nghi ngay đến việc hợp tác với một chuyên gia lớn về tội ác ở Anh.

Mới đầu Moriarty chỉ huy động bộ máy của hắn để tìm ra Douglas. Rồi hắn chỉ dẫn cho hung thủ cách tiến hành công việc như thế nào cho tốt. Nhưng Teddy đi từ Mỹ sang đây đã thất bại. Bấy giờ Moriarty tự đứng ra đảm nhận việc này, và đã giải quyết nó bằng một tác phẩm bậc thầy.

Barker đùng đùng nổi giận, nắm chặt bàn tay, tự đấm vào trán.

- Chúng ta bắt buộc phải chấp nhận điều đó u? Sẽ không có ai lên đến ngang tầm của tên ma vương này sao?

Holmes chậm rãi trả lời:

- Không. Tôi không nói rằng tên ma vương ấy sẽ không thể bị đánh bại. Nhưng ông phải để cho chúng tôi có thời gian... vâng, phải có thời gian.

Chúng tôi ngồi lặng im. Đôi mắt tiên tri của Holmes vẫn như đang muốn chọc thủng bức màn tương lai.

________________________________________

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: