sdfsd-Lenghiabk05
Cá rô khô
Những năm cuối đời, do sức yếu và hoàn cảnh chiến tranh không thể về bên ngoại được, bố tôi buồn lắm. Chiều chiều, khi uống rượu, người thường kể rất nhiều về quê mẹ tôi. Chuyện gần, chuyện xa, bao giờ cũng kết thúc bằng câu: “Bây giờ mà được nắm cá rô khô của bà ngoại đem rang lên uống rượu và ăn cơm thì còn gì bằng?”. Tôi hiểu nỗi nhớ ấy của cha tôi.
Quê ngoại tôi ở làng Yên, một làng quê hẻo lánh thuộc huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh. Đất đồng mùa, nơi gặp gỡ của hai con sông (sông Cà Lồ đổ vào sông Cầu ở cửa Tam Giang) sao mà lắm tôm, cá, cua, ếch đến thế, nhất là cá rô. Tháng ba mưa rào, cá rô lách đầy ngõ, khắp vườn, tha hồ nhặt! Tháng tám đi đánh rọ cứ là hàng thúng, con nào con nấy béo vàng. Làng rất xa chợ, bán không có người mua. Nhà nhà thường xây cái bể chứa, thả ếch, thả cá vào đấy, ăn dần. Nhà bà ngoại tôi thì khác. Ếch ăn xổi đã đành, cua bà làm mắm. Riêng cá rô, bà phơi khô. Bà bảo thế là giữ cái màu ngon, màu thơm của nó quanh năm.
Cách chế biến cá khô của bà tôi rất cẩn thận và độc đáo. Trước hết, bà nghe ngóng thời tiết xem có nắng bền hay không rồi gọi các dì, các mợ, con gái... đến làm cá. Đầu tiên phải đánh vảy từng con, mổ lấy hết ruột gan ra rồi phân loại to, nhỡ, nhỏ vào từng cái rổ. Bọn trẻ chúng tôi thì đi lấy mảnh sành, vỏ hến bỏ vào để người lớn mang ra ao xóc cho sạch nhớt rồi mang về để cho ráo nước. Bà tôi lo việc pha nước tương trong. Đây chính là khâu kỹ thuật và cũng là bí quyết chỉ riêng bà mới làm được, sao cho không mặn quá, không nhạt quá, không nhiều quá hay ít quá với từng mẻ luộc cá. Tất cả chỉ nhờ vào con mắt ước lượng và cách nếm.
Khâu đun nước, bà cũng không thể rời con mắt. Ngày ấy, nhà bà chủ yếu là đun rơm. Hai tay ba bếp, bà nhìn tăm nước sôi mà điều chỉnh lửa, nhìn da con cá biết là phải dừng đúng lúc. Non - con cá sượng; già - con cá nứt, đều không đạt yêu cầu. Cá vớt ra, bà rải đều trên những cái nong thưa mà ông tôi đan từ trước đã được cọ rửa thật sạch. Nắng lên, bà cho bắc thang phơi lên ngọn đống rơm và trên nóc nhà lợp rạ, rồi phủ lên lượt vải màn để tránh ruồi nhặng. Vất nhất và cũng khó nhất là khâu trở cá, sớm, muộn cá đều bị dính nong, trợt da mất đẹp, mất ngon. Khi con cá vừa se mình đến độ là bà bảo bắc thang lên, hạ từng nong xuống, khẽ dùng đôi đũa trở đều từng con, rồi lại phơi lên. Cứ thế, mỗi ngày bà đảo cá một lần. Phơi dăm sáu nắng cho đến lúc con cá khô cong, thơm phức thì để nguội mới cất vào chum. Chum đựng cá, phía dưới lót lá chuối tiêu khô, phía trên cũng vậy, vài lớp. Bà bảo: “Cái anh lá chuối khô này là ủ cả được cái nắng vào trong đấy”.
Năm nào bà tôi cũng làm được ba chum như thế. Mỗi chum một loại to nhỏ. Cách chế biến tuy đơn giản nhưng những ngày làm cá, phơi cá cứ như là ngày có cỗ. Cả nhà được huy động vào việc làm ếch, làm cá, ăn uống no say và đợi chờ sai bảo, cười nói râm ran, đi lại tấp nập
Cách chế biến cá rô này, sau cả làng đều biết nhưng không ai khéo được như bà tôi. Có lẽ là do bà tinh tế và do món tương của bà khó có nhà nào sánh được độ ngọt. Bà tôi không biết chữ mà sao tài thế? Từng con cá của bà cứ nhẹ bấc, thơm phức, sáng màu. Khi ăn, đem rang lên cho hơi vàng và đủ độ nóng, đặt vào đầu lưỡi là tan vụn ra như bánh quy mới ra lò, nhưng mà đậm, mà ngọt, cái “màu” đậm ngọt của cá rô đồng và nước tương trong thật nhuần nhị, thấm dần vào đầu lưỡi, gây dư vị miên man như gọi miếng cơm thơm, gọi tớp rượu nồng.
Lúc tôi còn nhỏ, bà thường đe: “Một bát cơm, một con cá thôi nhé! Ăn mặn khát nước chết đấy!”. Nhưng dù bà cố ý xới bát cơm cho tôi thật ít và cho con cá thật to, tôi vẫn cứ chìa bát xin thêm cá. Những lúc ấy, bà lần nào cũng rộng lượng tiếp cho con nữa với câu mắng yêu: “Cái con mẹ mày! Trai kẻ Đình, con nhà Tú cử mà cứ ma thèm ma nhạt, ma đói ma khát nó nhập vào!”. Nhưng tôi chẳng khát nước tí nào! Cá của bà, giá cứ cho tự do, tôi có thể bốc chén như ăn lạc rang cả ngày không chán. Mỗi lần mẹ tôi về quê ngoại, bao giờ bà cũng gói cho vài đấu cá để “bố con nó ăn dần!”.
Bà tôi qua đời đã từ lâu. Mỗi khi cái rét đầu đông tới, vắng món cá rô khô của bà, cha con tôi lại nhớ, cho dù bữa rượu của cha tôi nào có thiếu thốn gì! Nay cha tôi cũng ra người thiên cổ và tôi cũng đã vào cái tuổi của người, tôi càng hiểu nỗi nhớ ấy. Cá rô khô chỉ là điểm đầu của nỗi nhớ, nỗi nhớ một miền quê đôn hậu, nỗi nhớ bà và người mẹ hiền tài đảm, làm nên hương vị giữa quê nghèo. Bà ơi! Bà của cháu chính là hồn quê ngoại, là gốc văn hóa kiệm cần, sáng tạo, tài hoa!
Chân trời xa
Truyện ngắn của
Trọng Bảo
T
hằng Mẫn len lén quay vào nhà. Nó đứng lặng hồi lâu nhìn em gái đang nằm co quắp trên giường. Con em vừa ngủ thiếp đi, vệt nước mắt còn hằn trên má. Ba gian nhà trống toang, trống toàng, quạnh quẽ. Mẹ nó vẫn đang lầm lũi nấu cám lợn dưới bếp. Còn bố nó giờ này chắc lại đang la cà ngoài quán rượu sau khi hất đổ mâm cơm của mấy mẹ con nó.
Thằng Mẫn lần trong túi áo lấy ra một tờ giấy bạc năm nghìn đồng. Nó gấp lại thật nhỏ đặt vào tay bé Mận rồi khẽ khẽ gập mấy ngón tay của em nắm lại giữ chặt để tờ giấy bạc khỏi rơi và đề phòng bố nhìn thấy. Bé Mận mơ ngủ gọi mẹ. Thằng Mẫn khe khẽ vuốt má em một cái rồi lách cửa đi ra.
Trời vẫn còn se lạnh. Bàn chân trần của thằng Mẫn giẫm vào những hạt cơm rơi vãi trên sân nhem nhép. Trong căn bếp nhỏ, bóng mẹ nó chập chờn méo mó in trên vách. Nó muốn gọi mẹ một tiếng trước khi ra đi nhưng không dám. Nó sợ mẹ sẽ không cho nó bỏ nhà đi như thế.
Thằng Mẫn quyết rời quê ra thành phố kiếm tiền. Nó không thể chịu đựng được mãi cái cảnh bố nó suốt ngày say rượu, hành hạ mẹ và anh em nó. Trận đòn chiều nay của bố càng thôi thúc nó phải ra đi. Nó biết khi không tìm thấy nó, mẹ và em chắc sẽ hoảng sợ lắm. Nhưng ý chí của nó đã quyết. Nó cắn chặt môi lầm lũi bước ra cổng.
Chiều nay, đội dịch vụ thủy nông bơm hút nước hồ Chằm đổ lên đồng chống hạn. Khi nước hồ gần cạn, cả làng ào xuống hôi cá. Cá thả thì người ta đã vớt hết, hồ chỉ còn lại một ít cá hoang. Đám đông quần thảo mò cá làm bùn sục ngầu lên. Lũ cá rô, cá trạch, cá trê ngoan cố chui sâu dưới bùn cũng phải ngoi cả lên. Thỉnh thoảng, một con cá bị dồn đuổi giẫy đành đạch là cả đám đông lại hò hét xúm đến tranh cướp nhau. Ai nấy đều lấm lem bùn đất. Thằng Mẫn bất ngờ tóm được một con cá quả to. Con cá giẫy đành đạch. Đám người xông đến. Thằng Mẫn bị xô đẩy ngã dúi dụi úp mặt xuống bùn. Nhưng nó kiên quyết không chịu buông con cá. Ngón tay cái của thằng Mẫn thọc vào miệng con cá quả, ngón chỏ móc vào mang nó giữ chặt. Răng con cá nghiến vào ngón tay nó đau điếng. Có tiếng người quát:
- Thằng Mẫn bắt được con cá rồi! Để cho nó đem lên bờ.
Mọi người bấy giờ mới chịu tản ra tiếp tục mò cá. Thằng Mẫn như vừa chui lên từ bùn đất. Quần áo nó sũng bùn. Nó ôm con cá quả lao lên bờ. Con cá có dễ phải đến hai cân. Nó giẫy giụa làm ngón tay thằng Mẫn bật máu.
Con cá ấy thằng Mẫn bán được năm mươi nghìn đồng. Nó vui lắm. Thế là ngày mai sinh nhật bé Mận, nó sẽ có tiền mua cho em một bộ quần áo mới. Mai lại đúng là phiên chợ, nó sẽ dẫn em gái ra thị trấn. Em Mận thích bộ quần áo nào, Mẫn sẽ mua cho em bộ đó. Bộ quần áo trẻ con chỉ khoảng ba, bốn chục nghìn. Nếu còn thừa tiền nó sẽ mua kem hai anh em cùng ăn. Hay là sẽ mua cho em một cái váy. Bé Mận đang học mẫu giáo. Hôm trước, đi học về nó phụng phịu nói với anh: “Em không có váy, nên cô giáo ứ cho vào tốp múa!”. Thằng Mẫn thương em lắm. Từ khi mới sinh ra em đã chịu khổ. Mẹ đau ốm thiếu sữa. Bố thì mất việc lại ra vào rượu chè, nghiện ngập lấy đâu tiền mua quần áo đẹp cho các con. Bé Mận chưa được một ngày sung sướng. Còn nó - thằng Mẫn nghĩ - nó dù sao thì cũng có những ngày vui vẻ, đủ đầy. Đó là khi bố nó đang còn là công nhân kỹ thuật cao của một công ty liên doanh với nước ngoài. Cái công ty ấy có một nhà máy to ở ngay đầu làng, chuyên sản xuất các loại ti-vi, tủ lạnh. Bó nó lương cao. Mẹ nó là giáo viên trường tiểu học. Thằng Mẫn được chiều chuộng, nâng niu. Quần áo chưa cũ đã bỏ. Giầy dép chưa mòn đã cho. Khi còn học lớp mẫu giáo nó đã muốn gì được nấy. Học lên cấp một, nó được bố mẹ đón đưa, mỗi lần đạt điểm giỏi đều được thưởng tiền.
Nhưng rồi nhà nó dần dần sa sút. Sa sút ấy lại bắt nguồn chính từ sự đủ đầy, tăng trưởng. Cái công ty liên doanh sản xuất ti-vi, tủ lạnh càng làm ăn phát đạt, doanh thu, lãi xuất ngày càng cao. Tất nhiên, lương thưởng của công nhân cũng tăng lên. Dần dần người ta quên đi những đồng tiền Việt lẻ. Những tờ trăm, tờ chục USD cũng trở thành quen quen trong ví người Việt Nam. Khi đời sống kinh tế phát triển ắt xuất hiện các loại dịch vụ. Dịch vụ từ thị trường công cộng tiến dần vào tư gia. Dịch vụ thường là tốt. Nó làm cho cuộc sống con người khá hơn, tốt hơn, nhàn hạ hơn, hoàn thiện hơn. Nhưng cũng có những loại “dịch vụ” thì lại làm cho con người ta suy đốn, đời sống xã hội lụi tàn đi.
Xung quanh cái nhà máy nửa xã hội chủ nghĩa, nửa tư bản chủ nghĩa đầu làng xuất hiện nhiều loại dịch vụ mà người nông dân lần đầu tiên mới được biết. Đó là các loại dịch vụ mát xa, karaôkê, tắm nóng lạnh, "cà phê… đen" - tức là nơi người ta ngồi uống cà phê trong bóng tối.
Sẵn tiền trong tay, nhiều người dần quen với các loại dịch vụ. Là công nhân kỹ thuật bậc cao, bố thằng Mẫn luôn rủng rỉnh tiền trong túi. Bố nó cũng thử rồi đâm ra nghiện các loại dịch vụ. Từ tắm nóng lạnh sau ca đến mát xa, karaôkê. Thường là vậy. Dịch vụ là một ngành công nghiệp không sản sinh ra vật chất mà chỉ tiêu tốn vật chất. Nó chuyển hóa tiền bạc của tầng lớp người này sang những người khác. Đừng vội khoe lương cao, bổng hậu, hãy cứ thử qua các loại “dịch vụ” rồi sau hãy nói.
Số tiền hàng tháng bố đưa cho mẹ ít dần. áo quần của thằng Mẫn cũ dần. Bữa sáng trước kia nó đòi phở là có phở, muốn trứng vịt lộn là có trứng, giờ thì cơm rang cũng nhạt mỡ. Mẹ nó có bầu cũng chẳng còn tiền để bồi dưỡng thêm. Bố nó chỉ đưa đủ tiền ăn hàng tháng. Chút tiền ăn ấy rồi cũng không còn. Mẹ nó hỏi mới biết bố nó ham các loại dịch vụ quá nên tiêu tốn sạch lương, thưởng. Bố nó ăn cắp linh kiện vật tư của nhà máy đem bán để có tiền bao các cô trong quán đèn mờ. Bảo vệ nhà máy phát hiện, bố nó bị đuổi việc. Thế là nguồn sống nhà nó chỉ còn trông vào mấy trăm nghìn đồng tiền lương giáo viên bậc tiểu học của mẹ. Khi sinh bé Mận, mẹ nó ốm hậu sản tưởng chết. Bố nó đã không giúp được gì lại còn sinh ra nghiện ngập, rượu chè. Cả ngày bố la cà ngoài quán. Suốt ngày bố nó say. Lúc nào bố về nhà cũng chỉ là để tróc nã vợ con tiền uống rượu. Các thứ đồ đạc trong nhà dần dần đội nón ra đi hết. Mẹ nó khổ lắm. Ăn uống thiếu thốn chả đủ sữa cho con bé Mận bú. Nhiều lần mẹ nhịn đói đi dạy, thiểu lực, ngã khụy xuống ngay trên bục giảng. Bé Mận năm tuổi mà bé loắt choắt. Nó chưa một lần có được manh áo đẹp. ít khi thấy nó cười. Cứ mỗi khi nhìn thấy bố về nhà là nó sợ chết khiếp. Nhiều lần nó chứng kiến cảnh bố mẹ giằng xé nhau, hất đổ mâm cơm đang ăn. Có lần sợ quá, nó chui vào đống rơm trốn rồi thiếp đi, mẹ và anh tìm mãi mới thấy.
Ngày mai là bé Mận tròn sáu tuổi. Thằng Mẫn thương em lắm. Năm mươi nghìn đồng bán cá nằm trong túi áo nó. Nghĩ đến lúc bé Mận mặc cái váy mới cong tay múa, thằng Mẫn lại thấy rộn rực trong lòng. Nó co chân nhảy tưng tưng vào ngõ. Chợt có tiếng quát:
- Thằng kia đứng lại!
Thằng Mẫn giật bắn người nhận ra tiếng bố. Nó ấp úng:
- Bố! Có việc gì ạ?
- Việc gì à? Đưa ngay tiền cho tao!
- Tiền nào ạ?
- Tiền… tiền… mày vừa bán con cá lúc chiều cho bà Nụ hiểu không?
- Nhưng đấy là tiền của con chứ!
- Của mày à?
Bố nó sấn lại túm lấy cổ nó. Thằng Mẫn giẫy giụa. Nó cố giữ chặt túi áo. Bố nó nghiến răng giật tay nó ra. "Xoạc"- vạt áo rách toạc. Thằng Mẫn vẫn nắm chặt tờ giấy bạc. Bố nó thì cố bẻ, cạy mấy ngón tay nó ra.
- A… thằng này láo… Dám cắn tao hả?
- Bốp! - Một cái tát khiến thằng Mẫn loạng choạng, mắt nổ đom đóm. Nó ngã dúi dụi xuống rãnh nước. Tờ năm mươi nghìn rơi ra. Bố nó nhặt tờ bạc giơ lên nhìn rồi cười ha hả. Thằng Mẫn van vỉ:
- Bố ơi! Con xin bố! Bố đừng lấy tiền của con… Tiền ấy con dành mua cho em Mận bộ quần áo mới. Ngày mai là sinh nhật em năm tuổi…
- Sinh nhật với chả sinh nhiệc! Vẽ chuyện, vớ vẩn mãi quen…
Bố nó vừa lẩm bẩm, vừa khật khưỡng đi ra cổng. Thằng Mẫn ngồi thẫn thờ bên vệ đường. Cái tát của bố còn đau ê ẩm nhưng nó không khóc. Nhưng nghĩ đến em gái thì nước mắt nó ứa ra giàn giụa. Thế là ngày mai bé Mận không có quần áo mới rồi.
Thằng Mẫn uể oải chống tay đứng dậy. Nó thất thểu bước về nhà. Nhìn mảnh bát và những hạt cơm vương vãi khắp sân, nó biết bố nó vừa mới về nhà xong. Thằng Mẫn vội đi tìm em. Bé Mận đang ngồi thu lu ở góc thềm vẻ mặt hoảng sợ. Mẹ nó thì đang thái rau lợn dưới bếp. Thằng Mẫn bế em vào nhà. Nó lau nước mắt cho em rồi hỏi:
- Em có đói không?
Con bé gật đầu rồi thỏ thẻ:
- Bố hất đổ nồi cơm rồi anh ạ.
- Anh đi mua bánh mỳ cho em ăn nhé!
- Anh cho em đi với nhé!.
Thằng Mẫn dắt em ra ngoài đầu làng mua cho em cái bánh mỳ một nghìn. May còn sáu nghìn đồng bán mớ cua, cá vụn thằng Mẫn lận ở tay áo xắn lên nên bố nó không biết. Bé Mận ăn hết cái bánh mỳ thì hai mắt díu lại buồn ngủ. Thằng Mẫn bế em lên giường, vỗ vỗ vào lưng dỗ dành nó ngủ. Con bé cứ nắm chặt tay anh. Chờ em ngủ hẳn, thằng Mẫn mới gỡ tay mình ra. Nó lặng lẽ nhìn em gái. Ước mơ mua cho em một bộ quần áo mới đã không thành, nhưng ý chí, quyết tâm bỏ nhà ra đi của thằng Mẫn đã chín. Nó nhè nhẹ xoa má em một cái rồi quả quyết bước ra cửa. Nhưng ra đến sân, giẫm vào những hạt cơm nhem nhép, sực nhớ ra còn năm nghìn đồng trong túi, nó liền quay lại. Ngày mai là sinh nhật của bé Mận.
*
Thằng Mẫn ra đến đầu làng thì trời bắt đầu mưa phùn. Có lẽ là mưa xuân. Đường làng láng ướt. ánh điện nhạt nhòa hắt ra từ những ngôi nhà ven đường. Trời còn lạnh. Thằng Mẫn cố khép vạt áo lại. Cái áo bị bố giật rách toạc không đủ ấm. Thằng Mẫn rảo bước. Chợt có tiếng gọi:
- Mẫn ơi đứng lại… dì bảo!
Thằng Mẫn ngạc nhiên dừng lại. Nó nhận ra bóng dì Miên đang đuổi theo. Thằng Mẫn và dì Miên cùng tuổi, cùng học lớp 5. Hai đứa cứ mày, tao quen rồi. Đây là lần đầu tiên Miên xưng "dì" với nó. Thằng Mẫn ấp úng:
- Dì ạ!
- Định… đi hả Mẫn?
- Vâng… cháu…
- Này cầm lấy! Có tiền mà đi tàu hoả!
Dì Miên vừa nói vừa dúi vào tay thằng Mẫn tờ bạc mười nghìn đồng. Dì Miên cởi cái áo ấm cũ đang mặc khoác lên người thằng Mẫn nói thêm: “Trời vẫn còn lạnh lắm đấy!". Thằng Mẫn “vâng” một tiếng rồi lý nhí: “Chào dì… cháu đi!” Nó biết dì Miên cũng khổ lắm. Ông trẻ bên ngoại mất, dì còn nhỏ mà đã phải lao động, tần tảo như người lớn.
Thằng Mẫn bước qua cái cổng làng có cây đa cổ thụ, rễ rủ loà xòa. Nó nhìn về hướng thành phố xa xa. Một quầng sáng đùng đục hắt lên bầu trời. Nó cũng chưa biết mình sẽ làm việc, kiếm tiền ra sao ở cái nơi đô hội ấy. Nó sẽ làm nghề nhặt rác, đánh giầy, hay bán báo. Làm gì cũng được. Nhưng nhất định nó sẽ phải có tiền để mua cho bé Mận một bộ quần áo mới. ý nghĩ ấy thôi thúc nó đi tới một chân trời xa...
Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương
Nếu bình chọn món ăn tiêu biểu cho ẩm thực Việt Nam, có lẽ sẽ không ít người nghĩ tới món canh rau muống ăn kèm cà dầm tương. Đó không hẳn là do ảnh hưởng của câu ca dao “Anh đi anh nhớ quê nhà/Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương” mà còn bởi món ăn này đã thẩm thấu vào tâm hồn Việt nét quê dân dã mà không nơi nào trên thế giới có được. Chợt nghĩ, chắc không ở đâu trên thế giới có rau muống như Việt Nam. Rau muống là một trong những thứ rau dễ trồng nhất ở xứ Việt. Loại cây này sinh sôi nảy nở nhanh chóng trên mặt ao, mặt ruộng mà chẳng cần chăm bẵm. Sức sống bền bỉ, mạnh mẽ của nó khiến người ta liên tưởng tới chính con người nơi đây. Cà pháo cũng là loại thực phẩm gắn liền với lịch sử đất nước. Cà xuất hiện từ rất sớm, thúng cà nuôi Gióng lớn đánh giặc Ân. Không phải ngẫu nhiên mà Gióng ăn cơm với cà chứ không phải là món khác. Cà là thực phẩm thường xuyên, dường như không thể thiếu trong bữa ăn truyền thống. Ở trong mỗi gia đình Việt xưa, chum cà là hình ảnh quen thuộc và phổ biến nhất. Muốn đánh giá xem một người con gái có đảm hay không, các bà mẹ chồng tương lai thường “vô tình hay hữu ý” mà xem chum cà hay dưa muối. Nhiều Việt kiều ở nước ngoài tâm sự, một trong những thứ khiến họ nhớ Việt Nam là món rau muống với cà. Nếu như thèm phở hay cơm, ở nước ngoài người ta vẫn có thể chế biến được, nhưng rau muống với cà thì không thể, vì thế nỗi nhớ càng thêm khắc khoải. Rau muống xanh non, cuộng nhỏ mềm mà luộc lấy nước thì tuyệt. Nhất là luộc bằng nước mưa, canh sẽ có màu xanh đẹp mắt và vị ngọt tự nhiên. Luộc rau muống khéo là không để cho rau ngả màu, rau phải xanh khi gắp ra đĩa. Rau muống chứa nhiều vitamin A, vì thế nếu luộc rau mà đạy vung nồi thì rau sẽ ngả màu không đẹp. Rau luộc vừa chín tới, không hăng mà vẫn giòn mới đúng tiêu chuẩn. Canh rau luộc mà được vắt thêm ít nước cốt chanh hoặc dầm với sấu chua sẽ là cực phẩm cho ngày hè xứ nhiệt đới. Người Việt truyền thống lấy cà pháo quả trắng vỏ mỏng rửa sạch, ướp muối trong cả chum hay vại lớn để ăn dần. Khi muốn chế biến món cà dầm tương, các bà các mẹ thường cho một ít mỡ vào chảo rồi phi tỏi lên cho thơm nức mũi. Khi mùi hương của tỏi phi đã bay ra khắp chòm xóm thì đó mới là lúc cho tương vào. Tương bần là ngon nhất. Tương bần ngọt thơm đưa lại cảm giác êm dịu cho vị giác. Sau khi cho tương vào chảo, điều quan trọng nhất là phải nêm nếm gia vị cho vừa ăn. Một chút đường, thêm vài lát ớt đỏ đẹp mắt là được. Dầm cà vào nước sốt tương hấp dẫn đó cho ngấm, ăn cùng với canh rau muống là sự kết hợp tuyệt hảo. Cà ăn ngậy và giòn, bùi mà vẫn dai, chua mặn vừa đủ lại ngọt ngọt vị tương, thoang thoảng hương tỏi phi hấp dẫn. Canh rau muống với cà dầm tương là món ăn thuần Việt không nơi nào trên thế giới có được. Dù cho ngày nay văn hóa đông tây đã trở nên gần gũi, thức ăn trở nên phong phú hơn nhưng món ngon này vẫn là lựa chọn yêu thích của những tâm hồn Việt. Mì tôm ơi ẹ tôi đi chợ Giát bán khoai để mua lợn về nuôi nái. Biết mẹ đi chợ thể nào cũng có quà. Mà đi chợ Giát thì chắc chắn quà sẽ nhiều hơn. Suốt buổi sáng hôm ấy, ba anh em tôi nằm vắt vẻo trên cây ổi trơn sành trên bờ ao trước nhà chờ mẹ về. Đúng như dự đoán là sẽ có quà. Mẹ vừa về tới nhà ba anh em đã sà vào cái làn cước để lục lõi. Nào bánh xèo, cam, kẹo ông sư, kẹo chanh những thứ quà mà chỉ đi chợ xa mới mua được, chúng tôi được một bữa tiệc tưng bừng. Có mười lăm cái kẹo chanh mà ăn gần mười ngày mới hết. Nói là ăn nhưng thật ra là mút. Sau khi chia quà xong mẹ bảo tôi vào đun nước sôi để chế mì tôm. Lần đầu tiên trong đời tôi được nghe danh từ MÌ TÔM, nên lạ lẫm lắm, háo hức lắm. Nhìn vào một khối hình chữ nhật được bao bằng giấy cứng, trên bao vẽ mấy con tôm màu đỏ mà mường tượng ra bũa tiệc thơm ngon. Đúng là bữa ăn hôm đó ngon thật. Những sợi mì vàng, dai, thơm, ăn đến đâu hít hà đến đó. Sau giờ ăn ấy, chúng tôi chỉ mong mẹ lại sớm đi chợ Giát bán khoai để mua thứ gì đó và chắc chắn là không quên mì tôm. Vẫn biết rằng nửa vồng khoai mới mua được một giờ ăn trưa của gia đình tôi nhưng ba anh em tôi vẫn cứ nằm trên cây ổi vắt vẻo để ước rằng mẹ sẽ mua mì tôm. Lên cấp ba tôi đi học xa nhà 11 km. Hôm nào học cả ngày thì ở lại trường và giờ ăn trưa là một tô mì tôm. Nhưng không phải mì tôm gói như mẹ tôi mua ở chợ Giát mà là mì tôm ký. Người ta đóng 10kg một bao, sợi mì nát vũn như nét chữ Lào, ăn vừa xẳng, vừa nghe mùi mỡ bò đến phát ngán. Nhưng không còn lựa chọn nào khác nên cũng phải ăn, ăn rất nhiệt tình là đằng khác. Ngày đó bạn bè khao nhau cái quần mới, cái Giấy khen, hay có người yêu cũng bằng mì tôm. Nhờ mì tôm mà chúng tôi những đứa xa trung tâm thị trấn mới vượt qua được thời THPT. Lên thành phố học Đại học, đỡ hơn một chút là được ăn mì Hảo Hỏa nhưng Hảo Hảo thì cũng là mì tôm. Hảo Hảo có mặt trong giờ ăn sáng, ăn khuya. Sinh viên đứa nào cũng có một thùng dự trữ như Quốc gia dự trự lúa vậy. Có tháng bố mẹ gửi tiền vào muộn thì: “Mì tôm ơi! Ta hát khúc ca vời vợi”… Thế rồi cũng trở thành Cử nhân. Nhưng thật ra có rất nhiều Cử nhân mì tôm. Giờ đi làm lại thấy mì tôm gắn bó với mình nhiều hơn nữa. Khi lương chỉ đủ để mua 500 gói mì tôm mỗi tháng nếu không tắm, không giặt, không xỉa tăm và không mặc gì hết chưa kể đến những việc to tát khác. Còn nếu nói như Bác Hồ “Ai pha trà thì đừng rửa mặt/ Ai rửa mặt chớ pha trà” thì trừ tiền tắm, giặt và xỉa tăm ra… số lương cũng chỉ còn mua 100 gói mì tôm là cùng. Vì vậy, chẳng biết từ khi nào tôi và mì đã trở thành tri kỷ ( có lẽ từ hôm mẹ đi chợ Giát), mì tôm nuôi sống tôi và cho tôi những ước mơ, hoài bão lớn lao. Mì tôm cũng là thước đo của đồng lương thời bão giá. Nếu như ngày xưa mẹ tôi chỉ cần nửa vồng khoai là đã mua được cho mỗi đứa con một gói mì tôm thì một gói mì bây giờ đã mua được một sào khoai ngày đó. Một sào khoai đủ để gia đình tôi ăn sáng một năm. Sáng nay ra mua gói mì tôm ăn sáng bà chủ tạp hóa trước nhà đã tăng lên 3.700 đ một gói. Cứ tưởng 3.500 đ như mọi ngày nên không mang thêm 200 đ và thế là đành nhịn đói. Hỏi bà chủ quán thì được trả lời gọn lỏn một câu: xăng dầu tăng giá nên hàng hóa phải tăng. Thế là đành nhăn mặt đi làm. Với tôi được ăn mì tôm cũng là một ước mơ từ nhỏ đến giờ. Những sáng đông lãnh lẽo ,tỉnh giấc co ro trước những cái liếm dài của lưỡi gió mùa đông .Nghĩ chẳng có gì có thể lôi mình ra khỏi chăn lúc này . Nhưng phải dậy thôi, cái hương thơm ngào ngạt cứ dâng lên , tràn kín cả căn phòng , cái vị chua chua cay cay xua đuổi cái lạnh lẽo đi . Mẹ khoan thai gắp từng sợi dài vào bát , những sợi mì bóng ánh lên cái màu vàng đậm của mỡ . Đâu đó trên những sợi mì là màu xanh của hành , một chút hành tạo cảm giác khoan khoái bởi vị bùi bùi , hăng hăng. Tay mẹ thong thả mà đều đặn chan từng môi nước dùng vào bát . Những giọt mỡ loang loáng trên mặt nước trông thật ngon lành . Chợt nhận ra món mỳ tôm ấm áp biết bao . Mỳ tôm là một món ăn "fastfood" của Việt Nam , nếu Mỹ có hamberger , nếu Ý có Pizza , nếu Đức có xúc xích . Mỳ tôm là một món ăn bình dân và phổ biến , thậm chí phải nói là nổi tiếng . Mỳ tôm len lỏi vào tận cùng những ngõ ngách sâu thẳm ở Hà Nội , nhắc đến mỳ tôm ai cũng biết , từ những đứa trẻ đến các cụ già và nhất là với lớp thanh niên . Lớp trẻ , lớp sinh viên lại càng gắn chặt với mỳ tôm . Một món ăn không phân biệt đẳng cấp , người giàu ăn mì tôm như một bữa ăn nhẹ thanh tao , người bình dân ăn mỳ tôm một cách thường xuyên hơn , người nghèo dân dã lại càng được thưởng thức mỳ tôm nhiều hơn. Để có một bát mì thơm ngon không khó nhưng cũng không phải là dễ . Người nấu mì phải biết ước chừng lượng nước phù hợp , sao cho với gói gia vị không quá nhạt hoặc quá mặn . Khi đun cũng phải canh chừng thời gian , không chín quá mì sẽ trương lên , cũng không được sống quá . Nếu có thêm chút rau thì bát mỳ sẽ ngon hơn, cũng không quá kén chọn loại rau nhưng có vẻ như rau cải ăn ngon hơn cả . Bát mì của bạn sẽ đặc biệt hơn nếu có chút thịt bò đã xào hay quả trứng gà . Nếu bạn đã chán ngấy kiểu nấu mì chín rồi thì có cách chế biến khác , bạn đun nước sôi , cho mì tôm cùng gia vị vào bát , đổ nước và úp lên bát một cái đĩa sao cho khít để hơi nóng không bị thoát ra ngoài , sau ba phút , bát mì của bạn sẽ thật thơm ngon . Hãy thử xem , bạn sẽ nhận thấy rõ sự khác biệt , mì nấu kiểu này chín , nhưng vẫn giòn và dai . Ngoài ra cũng có nhiều cách chế biến khác cho bạn chọn lựa như xào , ăn sống . Trẻ em Việt Nam cũng có một món ăn độc đáo là mì tôm đập vụn ăn sống . Mỳ tôm có thể ăn cùng với một số món khác . Nhưng thấy nhiều hơn cả là ăn trong các bữa lẩu , vị ngọt của nước lẩu dùng sẽ làm nền cho cái giòn dai của sợi mỳ . Hay mỳ tôm cũng có thể làm canh chan cho những bữa ăn hàng ngày . Hay mỳ nóng có thể trộn ăn cùng cơm nguội , rất dân dã , bạn đã thử chưa ? Mỳ tôm đã ăn sâu vào tâm hồn người Việt . Một cái hiển nhiên mà ai cũng biết , cũng chẳng phải nói ra .Mì tôm phải chăng đã là một thứ tài sản dân gian vô hình ? Đâu đó trong những quán nhỏ ven đường vẫn vang lên : " Chủ quán ! Cho bát mỳ hai trứng Nói đến Mì Gói thì các bạn ai cũng biết,nhất là những bạn sinh viên nghèo ngày hai buổi chỉ có nó làm bạn chống đau bao tử.Góc phố nhớ cái thời năm 2000.Lúc ấy mì hẵn còn rẻ và không có nhiều loại như bây giờ.Gói mì màu trắng có hình con tôm đỏ được bán với giá 500 đồng.Ai cũng có thể mua về chế biến thành nhiều món .Như mấy anh khoái nhậu thì chỉ cần mở gói mì bẻ ra rắc bột nêm lên trên và thêm trái chanh vắt nước là Ok có thể làm mồi nhậu tới chiều.Sang hơn là xào lên thêm rau cải hay thịt thì tùy hỉ.Và công dụng thường của nó chắc là đổ nước sôi đậy nắp chờ chín là ăn thôi.Góc phố nói đến đề tài này là muốn chia sẻ với các bạn một câu chuyện nhỏ liên quan đến mì gói Khoảng thời gian ấy có một cô bé vừa vào đất Sài Gòn sinh sống.Cuộc sống bương chải vất vả không đủ trả tiền thuê nhà nói gì đến tiền ăn.Những năm ấy để sống được ở sài gòn còn vất vả lắm.Với số tiền ít ỏi có được chẳng mấy chốc đã tiêu pha hết...Rồi một ngày nhìn vào những đồng bạc còn được 2000 đồng..Có thể mua gì,làm gì đây...Thế là trưa một gói mì tôm hết 500,chiều lại tiếp tục..Tối uống nước ngủ cầm hơi..Và tờ 500 cuối cùng ra đi.Ông trời như trêu ngươi cải cảnh của người túng quẫn..Bình đung nước bị cháy thế là nước chưa kịp sôi chỉ hơi âm ấm.Cô bé ấy quá ngốc nên nghĩ rằng đổ vào cũng có thể làm chín mì..và đúng là chín thật.Nhưng khi cầm lên cho vào miệng thì không thể nào nuốt nổi. Đó không là mùi vị của gói mì nữa mà là mùi khét,mùi nhựa cháy hòa quyện cùng gia vị hăng nồng.Có lẽ không thể nuốt nổi nếu bình thường nhưng lúc này đây khi cái bụng đang reo ùn ục.Cái đói đang quằn tấm thân bé nhỏ..Đành thôi ăn để mà Sống...Mà nước mắt nó rơi lã chã ..Khổ thân con quá trời ơi...và không thể ăn khi nghẹn vì đang nấc lên từng hồi nó đẩy gói mì vào góc rồi nằm vật xuống òa khóc nức nở Câu chuyện ấy đã đi theo cô bé suốt quãng đời còn lại mỗi khi nghĩ đến vẫn nghe nghẹn lòng,nước mắt lại rưng rưng + Một miếng khi đói bằng một gói khi no : Vào những năm Bão đến người dân khắp nơi đói khổ mì tôm cũng trở thành Viện Trợ mà mọi người quý hơn vàng, + Thừa nước đục thả câu : Cũng không thiếu những người tranh thủ Đầu Cơ trục lợi...có lẽ họ chưa từng ăn một gói mì tôm trong hoàn cảnh như thế,họ cũng chưa từng nếm nổi đau thương mất mát như người khác, + Cái miệng nó hại cái thân Cuộc sống hiện tại mì tôm cũng không còn rẻ như thế nữa,người ăn cũng kén chọn từng chút ..cái này ngon cái kia dở...phải thế này thế nọ v.v Và một ngày nào đó câu chuyện về gói mì tôm của Góc phố chỉ làm người ta Bĩu Môi... " Quên đi xưa rồi cưng ơi! " Hôm nay vui xin gi thiệu đến mọi người món mì tôm nguội . Tại sao tôi lại thích ăn mì tôm nguội đến như thế . Chẳng phải ai cũng bảo là ăn mì phải nóng hổi , sợi mì phải giòn và dai , hương thơm của bát mì phải ngào ngạt kèm theo vài quả trứng thì bát mì mới đạt . Nhưng với tôi , bát mì nguội ẩn trong đó rất nhiều điều thu vị . Tôi thường xuyên ăn mì vào bữa sáng của mình . với mì ngon không phải sợi mì giòn và dai mà ngon nhất vẫn là nước mì . Mì tôm còn gọi là mì ăn liền và pha chỉ mất 5phút . Tôi không thích thế . Đúng là mình ăn liền nhưng tôi thích ăn mì nguội , mì được pha tối thiểu là 10 phút , còn phải từ 15 phút . Tại sao lại thế vì mì người để càng lâu , nước và gia vị của mì tôm càng ngấm sâu vào trong từng sợi mì , vị thơm ngon ngấm vào sợi mì làm cho mì trường và mềm ra không còn dai , tất nhiên không phải đợi mì nát mới ăn . lúc đó sợi mì ăn sẽ có vị ngọt của nước dung lại mềm và bớt nóng rất dễ nuột . Ăn mì đã thành kinh niên . Phải mất rất lâu tôi mới nhận ra mì nguội lại ăn ngon như thế . mì nguội không có nghĩa là mì lạnh , cũng không có nghĩa là mì pha bằng nước ấm . Mì nguội muốn ngon phải pha bằng nước sôi rồi để nguội , mở nắp ra 15 phút . Lúc ăn sợi mì mang vị ấm , vị ngon , độ mềm …. Ăn mì lúc này mới thấy thấm thía . Thời gian là rất quan trọng với mì nguội . nếu đẻ mì nát rồi ăn còn ngon sao được . Có thể ai đó cho rằng toi dở hơi nên ăn món dở hơi .Nhưng ăn mì thực chất chỉ là để tôi đã dắt mọi người vào câu chuyện . Ăn mì cần phải đời chờ và cũng như thế trong tình yêu cũng cần phải có sự chờ đợi , sự thử lửa thì mới có được một tình yêu cao đẹp . Bữa nay , có thi Nữ sinh y dược , 11 thí sinh thật duyên dáng . ai cũng xinh xắn và đẹp đẽ . tình cờ mình đi xem và cũng thật tình cờ khi tình yêu đơn phương của tôi cũng có mặt và theo dõi . Dù em Thuỳ người tôi chầm ngay từ đầu đã đạt giải hoa khôi đi chăng nữa , thì niềm hạnh phúc của tôi trong buổi tối hôm nay vẫn là được chuyện trò với người con gái tôi yêu . dù cô ấy có là 1 trong số 11 thí sinh hay chăng cô ấy là thí sinh số 12 với tôi cô ấy vẫn là số 1. Với tôi ,được nói chuyện và nhìn cô ấy từ mọi góc độ , được cười cùng cô ấy không cò điều gì hạnh phúc hơn . Và điều đó cũng rất thú vị như khi được thưởng thức bát mì nguội vậy . Dù tôi biết rằng đó là một tình cảm đơn phương . Một trong những điệp khúc được các quan chức nhà nước lặp đi lặp lại trước, trong và cả sau khi xảy ra thiên tai bão lụt đó là kiên quyết không để người dân nào phải đói. Đơn giản vì cái đói luôn chực chờ rình rập các nạn nhân ở các khu vực xảy ra bão lụt thiên tai. Có khi chỉ cần chạy bão chạy lụt 1, 2 ngày là cái đói đã xuất hiện. Trận bão lụt lịch sử vừa qua là một minh chứng. Số người cần được cứu đói khẩn cấp có khi lên tới hàng trăm ngàn. Thế nhưng cách thức cứu đói, nhất là hàng cứu đói cần phải xem lại. Bởi lẽ quanh đi quẩn lại cũng chỉ thấy mì tôm và mì tôm. Mười năm, hai mươi năm về trước cũng thế, bây giờ cũng chẳng khá hơn. Tại sao không có những thứ lương khô khác, mà quẩn quanh chỉ có mì tôm, mì gà. Có người cho là mì tôm tiện lợi, lại nhẹ nhàng dễ vận chuyển. Đồng ý nhẹ nhưng lại cồng kềnh. Còn tiện lợi ư ? Nói tiếng là “mì ăn liền” nhưng có ăn liền được đâu, trừ phi là nhai sống. Vì giữa những vùng bão lụt cô lập, lấy đâu ra điện nước, mà giá như có điện nước đi nữa thì còn bếp, nồi, rồi chén đũa, v.v.… Nhìn hình ảnh những đứa trẻ hốc hác chia nhau gói mì tôm và ăn sống, mới thấy hết được cái bất cập của hàng cứu trợ. Nhìn những lô hàng mì tôm khổng lồ mà ngán. Bão lụt cô lập khoảng năm ba ngày là thấy mì tôm lòi ra cả lỗ mũi. Háo hức nhận hàng cứu trợ, nhưng khi mở ra thấy toàn mì tôm, nhiều người chẳng còn ham nữa! Vậy tại sao không sản xuất những thực phẩm hay lương khô khác và dự trữ trước mùa mưa bão : những thứ có thể ăn được liền và có giá trị dinh dưỡng đảm bảo hơn, mà không cần nấu nướng. Đã qua gần hết thập niên đầu của thế kỉ 21 rồi nhưng cung cách cứu đói và hàng cứu đói cho nạn nhân vẫn không cải tiến được chút nào. Nếu không thay đổi thì vô tình biến mấy nhà sản xuất mì tôm, mì gà trở thành bạn đồng hành của mấy ông thần bão lụt ! Nếu không thay đổi thì vô tình chỉ làm giàu cho những người kinh doanh mặt hàng này trong mùa mưa bão. Cứ thử làm phép tính nhẩm : hàng trăm ngàn thùng mì tôm được chuyển tới vùng thiên tai, với giá ba bốn chục ngàn đồng một thùng, nhân lên thì sẽ thấy số tiền khổng lồ như thế nào. Điều này cũng khiến cho một số người có cảm tưởng những người phát động chiến dịch cứu trợ mì tôm có chân trong các xí nghiệp sản xuất mì tôm không chừng. Thậm chí có người còn cho rằng những người sản xuất mì tôm thường trông chờ có bão lụt, cũng giống như những người bán hòm trông cho có nhiều đám tang. Cứu giúp những người đang gặp cơn đói là một nghĩa cử vô cùng cao quý, nhưng nếu thiếu sự tế nhị, nghĩa cử đó sẽ bị giảm giá trị rất nhiều. Nhìn đồ cứu trợ thiên tai ở các nước Âu Mỹ : toàn lương khô, đồ hộp có giá trị, mà thương đồng bào của ta. Cũng là con người, cũng bị thiên tai hành hạ, thậm chí là nặng nề thê thảm hơn, nhưng khi được cứu đói thì thấy đa phần chỉ là mì tôm, có khi mì còn quá đát nữa. Xin đừng để đồng bào vùng thiên tai bão lụt phải ngậm ngùi chấp nhận sống chung với lời tuyên ngôn : “Mì tôm vạn tuế, mì tôm muôn năm”. Cũng xin đừng để thực trạng này tiếp tục xảy ra : sau khi cơn bão lụt đi qua thì cơn “bão bụng” lại nổi lên hành hạ, chỉ vì ăn mì tôm quá nhiều !!! Mì tôm ạh… Ngày hôm qua là ngày cuối cùng chị chạm mồm vào em với tư cách là một sinh viên đấy! Đời sinh viên đứa nào chả phải gắn bó với mì tôm…Chị thì tuy không phải thấm cái cảnh hết xiền lấy mì tôm nhai tạm nhưng chắc cũng thấm đủ em rồi. Này nhá…Sáng đến lớp chị ăn mì tôm. Ghét nhứt hum nào đi học đúng giờ,chị fải ăn em trong giờ ra chơi. Giờ ra chơi lại có tầm chục phút.Mà với chục phút ấy fải san sẻ ra biết bao nhiêu là thứ việc: chen lấn xô đẩy, đè đầu cưỡi cổ lên nhau để giành giật được mì tôm.Xong rồi phải mang vác em leo mấy chục bậc cầu thang lên lớp.Rồi đợi 2 phút, rồi mới được ăn em. Đến lúc cho được em vào mồm thì thầy chị vào lớp mất rồi. Thế nên là lúc nào chị cũng ăn em trong khổ sở. Lén lén lút lút, toàn fải chui xuống gầm bàn để thưởng thức hương thơm của em. Đấy là chưa kể cái Loan lờ ngồi cạnh chị nó ghét em lắm (vì căn bản là nó đã fải chịu đựng em trong suốt 3 năm cấp III học xa nhà của nó rồi) nên mỗi lần đưa em lên mồm, để hương thơm bay vào mũi nó là cả chị và em đều bị xua như xua ruồi… Trưa chị về nhà, nếu hôm nào cơm nguội thiu hay hết xiền mua thức ăn là thể nào 2 chị em nhà chị cũng lại fải ăn em rồi…Đấy…Cám cảnh sinh viên nghèo mà…Chị cũng thương chị lắm nhưng biết phải làm sao??? Nhưng kể ra thì ăn em cũng ngon ra phết đấy, mì tôm ạh. Nhất là hôm nào trời lành lạnh ý, sao mà cái hương thơm của em nó quyến rũ lạ lùng. Cho thêm bò khô vào thì ngon tuyệt luôn. Có hôm chị ăn tận 2 cốc nhá, trưa về khỏi tốn xiền cơm luôn. Chỉ ghét mỗi cái là bà bán mì bà ý lấy của chị tận…3nghìn rưỡi một cốc mì, thêm bò khô là tận 6 nghìn rưỡi…uầy..Tiếc tiền dã man…Sinh viên nghèo mà toàn thích ăn sang..hiz… Àh…Mà kể ra khi ăn em là phải có không gian (lớp học) và không khí (mấy đứa xí xọn ngồi quanh chị) thì mới ngon cho được. Chứ về nhà mà ăn em là như bò nhai cỏ…ăn ở lớp thấy vừa thơm vừa thích.Xung quanh chị thì toàn lũ ăn tạp (ai dại gì mà kể tên mình ở đây, cho dù sự thật là có tên chị trong đó..hiz hiz…). Mà chị thề là chị luôn phải cố ăn nhanh kẻo nếu ăn chậm thì mấy đứa xung quanh chị nó xin xừ mất!Nó toàn xin húp nước em thôi…Chị lại mắc bệnh ki bo kẹt xỉn… Ăn em lúc thầy đang giảng bài cũng sướng lắm…Đúng là trong gian nan mới thấu hiểu được thế nào là niềm hạnh phúc, dù rất nhỏ nhoi…Cho em vào mồm, rồi fải nhai cho khéo, húp nước sao thật nhẹ nhàng, đừng để thầy phát hiện ra ko là đứt. Chị là là lớp phó học tập, lại là đội trưởng đội cờ đỏ cơ đấy! Tên chị đã chi chít trong sổ đen rồi. Giờ thêm tội ăn quà vặt trong lớp nữa thì chị khổ. Đấy…Hum qua…sau bao nhiêu lâu, chị lại cố ăn em lần cuối. Không ăn em thì làm gì có cơ hội nào để ăn mì tôm sinh viên nữa. Không chen chân mua em thì làm gì có cơ hội nào để vào lớp muộn và ăn uống lén lút đâu (nhân tiện đây phải kể thêm cơ hội được…xả rác bừa bãi :D)… Đến con Ngọc nó còn bảo là hôm nay ăn em thấy thật nghẹn ngào, nuốt chẳng trôi mà… Mì tôm sinh viên ạh..Thế là từ nay chị gút bai em rồi. Chị vĩnh biệt em rồi. Đời chị chắc cũng phải còn vài lần ăn mì tôm (nhất là lúc hết xiền) nhưng mì tôm sinh viên thì hết thật rồi…Thế nên thật là tiếc cho cái đứa nào hôm qua không được ăn em! Cốc mì tôm cuối cùng của đời sinh viên (Chả có ảnh mà up vì ảnh không ở trong máy mình nên up tạm ảnh…người ăn mì vậy. hehe..) Mở ngoặc: xinh đẹp thì cũng phải ăn...hehe.. Xin lỗi các bạn yêu vì tớ không có ảnh của tớ ở đây..AMEN... Cô giáo viên tương lai Lưu Thị H. V, sinh viên năm cuối khoa Ngữ Văn trường ĐH Sư Phạm Hà Nội là ví dụ cay đắng về thế hệ sinh viên thế kỉ 21 với mỗi bữa ăn một gói mì. Bài toán chi tiêu bên hầu bao eo hẹp Là con gái lớn trong một gia đình không khá giả ở miền quê hoa phượng đỏ, cô đã phải gánh trên vai gánh nặng gấp đôi gấp ba bạn bè cùng trang lứa. Đi dạy thêm một tháng 3 triệu đồng, nhưng cô vẫn ăn mì tôm cả tháng trời. Lí giải điều lạ lùng đó, cô chia sẻ: “Mình có một đứa em đang học ĐH Hàng hải và một người mẹ nhiều bệnh tật. Tiền đi làm trong một tháng, mình phải gửi về cho mẹ mua thuốc, cho em đi học, và tiền nhà mỗi tháng của mình nữa. Nếu không ăn mì, mình không biết phải làm sao để chăm lo cho những người thân trong gia đình”. Và thế là ngày nào cũng vậy, cô gái chịu thương chịu khó ấy đi dạy thêm 2 – 3 ca, thường là đi từ sáng sớm, đến giảng đường buổi chiều, và tan học lại tất tả đi dạy. Một gói mì 4 nghìn đồng cho một bữa ăn và một cuộc sống không lúc nào ngơi nghỉ. My – SV năm thứ tư trường ĐH Kinh Tế mỗi ngày chỉ tiêu 10 nghìn đồng cho bữa sáng và bữa trưa. Mẹ cô bị mù hai mắt, bố bỏ đi biệt tích, em gái đang học trung cấp, miệng ăn của ba người trông chờ vào số tiền ít ỏi My đi làm thuê hàng ngày như đóng gạch hoặc may nón. Buổi sáng cô lót dạ bằng một cái bánh mỳ 2000 đồng, còn buổi trưa thì đi xin nước sôi trong bệnh viện Bạch Mai để ăn mỳ tôm. My tâm sự: “Ngày ba gói mì, trưa hai gói, ăn xong đi học, tối về ăn tiếp một gói. Liên tục như vậy đến gần hết một học kì thì người bắt đầu yếu đi trông thấy. Cho đến một hôm toàn thân bỗng nổi mẩn đỏ như bị phát ban, chân tay rã rời không nhấc lên nổi. Bạn bè cùng phòng lo lắng đánh gió, đánh cảm cho mình đủ cách mà không đỡ. Cuối cùng mình mình phải về quê đi khám. Kết quả, cơ thể suy nhược nghiêm trọng, lượng hồng cầu trong máu bị suy giảm, gan bị nhiễm độc. Sau lần ấy, dạ dày của mình cũng bị ảnh hưởng…” “Ăn cho người, mặc cho người” Người xưa có câu: “Ăn cho mình, mặc cho người”, nhưng với những bạn nữ “hơi mập” hiện tại, câu nói đó chỉ đúng một nửa. Nếu phải sở hữu một thân hình tròn mẩy, “eo bánh mì” thì đó thực sự là điều kinh hoàng với các nữ sinh. Thay vì rèn luyện thể dục thể thao, các bạn ấy chọn cách ăn mì tôm giảm cân, vừa nhàn thân mà lại có vẻ hiệu quả(?!). Hải Vân, cử nhân năm cuối lớp Ngữ văn, Đại học Sư Phạm Hà Nội lý giải cho việc trưa ăn mì, tối ăn mì như thế này: “Vòng hai của mình càng ngày càng tệ! Quần áo bó sát của mình bây giờ đều trong trạng thái không thể sử dụng. Ăn mì tôm là lựa chọn tốt nhất của mình trong thời gian này, hi vọng có thể cải thiện tình hình và lấy lại vóc dáng”. Nguyễn Mai, sinh viên năm ba khoa Kế toán, Đại học Bách khoa, vừa đi học vừa đi dạy thêm, ngày nào cũng về nhà lúc 21h – 22h trong trạng thái mệt mỏi. Nhưng tối nào cô cũng làm bạn với bát mì, cô chia sẻ : “Ăn đêm thường rất nhanh mập, nên mình chỉ dám ăn mì tôm, thi thoảng làm cái bánh mì đổi vị, ngoài ra không dám ăn thêm gì khác”. Sở thích có một không hai Bạn bè của Ngọc Linh, sinh viên năm nhất Học viện Báo chí – Tuyên truyền vẫn còn truyền tai nhau câu chuyện cô nàng thích ăn mì tôm, mà lại là mì tôm sống. Người ta thường bảo nhau, nhai mì tôm sống không khác gì bò nhai bã mía, nhưng với cô bạn cá tính này, được ăn mì tôm sống là cả một sở thích để đời. Sáng nào cũng vậy, thay vì ăn một chút đồ ăn nóng hổi hay uống chút sữa, ly café, cô bạn này chỉ chăm chăm ào tới thùng mì tôm dự trữ và ngồi nhai mì tôm rau ráu. Một tháng thì 30 sáng cô nhai mì tôm, không hề chán nản. Cô chia sẻ: “ Ăn nhiều rồi quen, mình không thể không có mì tôm buổi sáng được. Nếu không ăn, mình cảm thấy rất khó chịu”. Và thế là cho đến tận bây giờ, cái điệp khúc buổi sáng – mì tôm, buổi sáng – mì tôm luôn gắn bó thân thiết với cô bạn. Nhóm nam sinh viên lớp Xây dựng dân dụng và công nghiệp của Quang Tuấn – Đại học Xây Dựng còn có sở thích ăn mì tôm rất độc đáo mà mỗi lần nghĩ đến, mọi người không khỏi phì cười. Lúc đêm khuya, nhóm nam sinh này thường rủ nhau dùng sục điện cắm thẳng vào một xô nước to đùng ngay giữa nhà. Khi nước sôi, có bao nhiêu mì tôm là các chàng trai thả hết vào xô nước đã đun, rồi lại mỗi người một bát, một đũa, thi nhau ăn uống và sung sướng với cảnh đời sinh viên cùng ăn, cùng ngủ, cùng học và hát bài ca “ Đã là bạn suốt đời là bạn”. Quang Tuất chia sẻ: “Con trai tụi mình thường không mấy quan trọng chuyện ăn uống, nhưng hễ mấy anh em trong phòng mà thấy đói bụng là rủ nhau chơi trò ăn mì tập thể. Có khi, tụi mình bày trò thi nhau ăn mì, ai phạt sẽ phải mua mì về cho cả phòng ăn lần sau. Ăn mì trở thành truyền thống của phòng mình”. Hương vị béo ngậy, đậm đà của châu chấu rang hòa lẫn vị mằn mặn của vô vàn giọt mưa trong những đêm mẹ trực ca là kỉ niệm nhắc nhớ tôi mỗi khi mùa gặt về… Khi còn nhỏ, chị em tôi thích nhất là những sáng mẹ đi làm về với những chai đầy ắp những con châu chấu tinh nghịch. Mẹ thường phải trực ca đêm 2 lần một tuần. Những hôm đó mà có những trận mưa rào bất chợt thì thể nào mai nhà tôi cũng được nếm món châu châu rang giòn tan của mẹ. Sau những trận mưa, châu chấu bị ướt, nặng cánh, không bay lên được, chúng bay loạng choạng quanh những bóng điện và mặt đất nên mẹ dễ dàng bắt được. Bắt được con nào mẹ cho luôn vào chai và đóng nút lại. Đúng mùa gặt châu chấu nhiều lắm. Có hôm mẹ mang về ba chai thủy tinh đầy những con châu chấu béo tròn, cánh xanh mỡ màng. Hồi đó, nhà tôi chưa có điều kiện kinh tế khá giả như bây giờ. So với những bát canh suông, những nồi đậu phụ kho mặn hay chút tóp mỡ cháy cạnh thì món châu chấu rang béo ngậy, giòn tan như một món ăn “xa xỉ” khiến mâm cơm gia đình thêm rôm rả. Thế nên hôm nào đi làm về, trên tay cầm những chai đựng những con châu chấu sống vẫn còn nhảy tanh tách trong đó, khuôn mặt mẹ cũng rạng rỡ hơn mọi ngày. Chắc mẹ vui khi nhìn thấy những ánh mắt hân hoan và thích thú của chúng tôi, vui vì đây là món khoái khẩu của bố. Bao nhiêu năm khó khăn cũng là bấy nhiêu năm mẹ phải trực ca đêm và bắt những con châu chấu sau những cơn mưa thu bất chợt. Có lẽ vì thế mà trong rất nhiều loại châu chấu, mẹ biết được đâu là những chú châu chấu lúa và châu chấu tre. Mẹ bảo châu chấu lúa đầu nhỏ, bụng nhiều trứng hơn châu chấu tre. Đặc biệt có loại châu chấu sim thân màu xanh, lớp cánh trong hồng phấn, bắp càng to. Châu chấu sim ăn ngon nhất vì nó ít ruột, thịt lại thơm và ăn thì béo ngậy. Tôi thấy mẹ chế biến món châu chấu rang cũng khá đơn giản. Đầu tiên, giội qua nước nóng cho rụng cánh, co chân, sau đó đem ra vặt cánh, râu, chân, rút ruột và bỏ đầu. Tiếp đến, mẹ rắc muối, xóc đều, chừng 5 phút thì rửa lại bằng nước sạch, vớt ra, chờ ráo nước rồi đem chế biến. Ngày đó, người ta sử dụng mỡ để rán chứ chưa có nhiều loại dầu ăn như bây giờ. Mẹ cho một ít mỡ lợn vào chảo đun già. Đổ châu chấu vào và thoăn thoắt đảo cho châu chấu chín đều. Khi thấy một màu vàng nâu bóng bảy và hương thơm đậm nồng, mẹ múc một bát nước trong vại dưa cho món ăn thêm đậm đà. Hai chị em chúng tôi chẳng biết làm gì, cứ quanh quẩn đứng cạnh bên cạnh để giúp mẹ nhưng lại chỉ làm mẹ thêm vướng víu. Đứa em tôi cứ đứng ngóng vào chảo mẹ đang rang và hít lấy hít để, miệng chóp chép như đang nhai những con châu chấu giòn tan. Mẹ bảo lá chanh không chỉ dùng khi chế biến thịt gà, nó còn rất thích hợp với những món côn trùng. Mẹ nói mà nhanh tay nhấc chảo ra và rắc lên đó những lá chanh đã thái chỉ. Cả nhà quây quần bên mâm cơm chiều, tôi nhai chầm chậm, cảm nhận được vị giòn giòn, dai dai, bùi bùi thấm đẫm hương lúa mới. Cái thời đói kém cũng qua lâu rồi, mẹ không còn phải vất vả cố trực thêm ca đêm để lo cho chúng tôi ăn học. Cuộc sống gia đình tôi đã khá giả hơn rất nhiều, tuy nhiên món châu chấu rang vẫn là một món ăn “xa xỉ” đối với hai chị em và bố tôi. Bởi chốn thành thị chật hẹp này chẳng có những ngọn lúa rì rào trong gió. Và, chị em tôi không còn được tung tăng trên triền để mỗi khi mùa gặt về, cũng không có những con châu chấu sim béo tròn, càng xanh óng ả chốn đô thành, chỉ có hương vị đậm đà châu chấu rang thoảng trong con gió thu chớm lạnh, phảng phất những giọt mưa trong đêm mẹ trực ngày xưa… Cuối tuần theo chân thằng bạn về quê ở Hà Tây chơi. Rời đường quốc lộ, hai thằng cứ thế xuôi theo đường đê uốn lượn ôm lấy con sông Đáy nước trong văn vắt nhìn rõ đáy (có phải vì vậy mà gọi là sông Đáy không nhỉ?). Gió sớm đánh võng trên mặt đê, mát rượi. Nắng sớm nhảy múa trên những vạt cỏ ven đê còn đẫm hơi sương, một vài giọt phản chiếu ánh mặt trời long lanh lóng lánh. Nổi bật trên nền cỏ xanh là mấy chú bò, chú bê bụng căng tròn béo mượt lông tơ vàng óng đủng đỉnh ăn hương ăn hoa, gợi khung cảnh thanh bình chắc là cũng chỉ đến thế là cùng mà thôi. Chợt nhớ bài thơ Đi Thuyền Trên Sông Đáy của Bác Hồ lại càng thấy con sông Đáy mới nên thơ làm sao: Dòng sông lặng ngắt như tờ, Sao đưa thuyền chạy, thuyền chờ trăng theo. Bốn bề phong cảnh vắng teo, Chỉ nghe cót két tiếng chèo thuyền nan. Lòng riêng riêng những bàng hoàng, Lo sao khôi phục giang san Tiên Rồng. Thuyền về, trời đã rạng đông, Bao la nhuốm một màu hồng đẹp tươi. Mà sông Đáy có những đoạn hẹp lắm cơ, chỉ cần bắc cầu tre là qua được sông rồi. Của đáng tội là cũng hơi ca mơ run khi phóng xe qua, nhưng mà nhắm mắt rồi cuối cùng cũng qua. Về đến nhà sau màn chào hỏi giới thiệu gần xa cũng là đến bữa. Chiếu trải giữa nhà, chủ khách ngồi xếp bằng xung quanh mâm cơm rau dưa sam sưa. Ối giời ơi! Sam sưa gì! Cơm quê gạo mới vo bằng rá tre để khô hạt gạo vốc từng vốc nhỏ bỏ vào nước sôi đủ nước đủ nôi cạn rồi vùi bếp nồi gang giữ nhiệt ngon thiệt là ngon. Canh cua nấu chua toàn cua cái đồng thịt đỏ hồng hồng mai cua đầy gạch giã bằng cối đá lấy rá lọc xong đun sôi nhỏ lửa vừa khuấy nhẹ tay cho gạch nổi đầy phi ngay hành mỡ để dậy mùi thơm bát canh đủ đầy chua cay mặn ngọt đỏ sắc cà chua tươi vàng váng mỡ húp húp chan chan gật đầu lia lịa. Còn rau muống chẻ từng lọn tóc xoăn trắng xanh tinh khiết bỏ thêm dau diếp húng láng húng chanh cuống hành hoa trắng một bát nước chấm dấm ớt đường tiêu cà xanh muối xổi thôi rồi Lượm ơi! Cá diếc đồng tươi con to con nhỏ con chửa con không đem bỏ vào nồi nước nôi ngập cá đường thắng vàng tươi cà chua nước sốt dưa chua phủ mặt gừng riềng rau răm lại thêm tương Bần ủ ngâm nửa tiếng để cá rắn đanh mới đun nhỏ lửa mặn ngọt cay vừa tê tê đầu lưỡi. Cơm "chỉ" có thế bố mế giàng ơi em xơi 5 bát kễnh cả bụng lên tiện giường ngã kềnh đánh luôn một giấc (Sao mà tham ăn tục uống xấu người xấu cả nết thía không bít). Chiều muộn tỉnh giấc lục tục ra về con cà con kê cảm ơn gia chủ cơm ngon lắm lắm chủ nhà khiêm tốn ngon nghẻ gì đâu gia đình chạy mau mua thức ăn sẵn chợ quê í mà lạ quá lạ quá của nhà làm ra sao mà không nhận quen cẳng quen chân tuần sau cháu lại đến. Nhiều khi thèm một bừa cơm quê nhưng sao mà khó thế! Nếu để viết một bài về miền Trung, tôi nghĩ sẽ có rất nhiều đề tài để bạn lựa chọn. Có thể về sự gian khổ nhưng kiên cường bất khuất của con người nơi đây. Hay một mảnh đất khô cằn sỏi đá, thiên tai khắc nghiệt nhưng chứa trong nó là những giá trị văn hóa vô giá, những danh lam thắng cảnh hùng vĩ lung linh. Hay đơn giản hơn bạn có thể viết về một dòng sông hiền hòa uốn lượn cùng với những kỷ niệm thời ấu thơ của mình. Nếu là người quê biển, tôi nghĩ không có lý gì bạn không tự hào giới thiệu với bạn bè bốn phương về những bãi biển với bờ cát trắng trải dài vô tận được tô điểm từng hàng phi lao xanh ngắt rì rào. Còn tôi, thời gian qua đã lỡ hẹn với các bạn quá nhiều, nên chỉ xin giới thiệu với các bạn một nét văn hóa rất nhỏ của miền Trung. Nhỏ thôi, ít ai chú ý lắm nhưng tôi tin nếu bạn cảm nhận được sẽ hiểu và yêu mến con người miền Trung của tôi hơn. Nhắc đến người miền Trung, người ta thường liên tưởng ngay đến sự gian khổ, lam lũ, làm lụng quần quật quanh năm không đủ cái ăn cái mặc. Nhưng lạ thay, một ai đó khi đã đến với miền Trung, ăn ở với người miền Trung đều cảm nhận được một điều quý giá "người miền Trung vô cùng quý khách". Dù bạn ở xa mới đến, là người thân trở về hay đơn giản chỉ là khách bộ hành, nhưng khi bạn được kết bạn làm quen với một người miền Trung, tôi xin chắc chắn rằng, họ sẽ mời bạn về nhà dùng một bữa cơm gia đình tuy đạm bạc nhưng rất ấm cúng. Đó không chỉ thể hiện lòng hiếu khách mà còn là cách để giới thiệu với bạn bè bốn phương về văn hóa, cuộc sống con người nơi đây. Điều đó sẽ thể hiện qua những món ăn mang đậm văn hóa bản địa và con người miền Trung. Cũng như miền Bắc thích ăn các món nóng như rán, nướng. Hay miền Nam thích đậm đà hương vị nên thích rim, kho. Người miền Trung nơi tôi cũng có một "gu" ẩm thực riêng của mình. Nếu bạn đã từng đến với miền Trung, chắc bạn sẽ rất ngạc nhiên khi thấy bất cứ mâm cơm nào của gia đình nơi đây đều có một món luộc đơn giản. Thịt heo luộc, thịt gà luộc, thịt vịt cũng luộc nốt. Rau muốn luộc, rau cải luộc, su su luộc, trứng luộc... Nói chung đa số các món ăn của người miền Trung đều là món luộc. Vì sao nhỉ? Bạn có cảm nhận được nét văn hóa này như đã cảm nhận người miền Bắc ăn rán, người miền Nam ăn rim. Là một người con của miền Trung nên tôi nghĩ, sở dĩ món luộc là phổ biến thậm chí ưu tiên hàng đầu bởi cách thức chế biến đơn giản, dễ dùng và rất mát. Người miền Trung làm lụng vất vả đến nỗi không có thời gian để chế biến món ăn cầu kỳ. Trưa nắng đi làm về mệt mỏi chỉ cần bắt nồi nước luộc lát thịt, cọng cải để còn tranh thủ thời gian dọn dẹp cửa nhà. Với lại, thời tiết nóng nực, khô rát ở đây thì món luộc là phù hợp nhất. ột đặc điểm nữa, nhỏ thôi nhưng thú vị không kém. Đó là nước luộc các món ăn người ta không bao giờ đổ bỏ đi mà tận dụng một cách hiệu quả, thậm chí là đầy sáng tạo. Luộc thịt heo, lấy nước nấu canh. Luộc thịt gà, vịt lấy nước nấu cháo. Nước rau muống với ít muối hột, vắt lát chanh sẽ được một bát canh ngon tuyệt vời. Bạn nghĩ gì về điều này, bạn thấy người miền Trung tiết kiệm và sáng tạo chưa? Một điều thiếu sót nếu đã nói đến món luộc mà không nhắc đến một thứ nước chấm luôn luôn đi kèm. Nếu một ngày nào đó, bạn cùng ăn cơm với một gia đình miền Trung mà không thấy một chén mắm ớt luôn luôn để trên mâm thì hãy đến gặp tôi, tôi sẽ làm mọi điều bạn yêu cầu. Chén mắm ớt không bao giờ thiếu trong mâm cơm đạm bạc của người miền Trung. Tất nhiên bạn sẽ cho rằng, ơ hay...đã ăn món luộc thì tất nhiên phải có nước mắm. Điều đó là hiển nhiên nhưng bên cạnh nó còn có một ý nghĩa thú vị khác. Một chén mắm đậm đà, chứa biết bao mồ hôi của những người ở biển. Dù trên mâm cơm không có món luộc, thức ăn đều mặn nhưng chén mắm vẫn không bao giờ thiếu. Với người miền Trung chén mắm biểu hiện cho sự mặn nồng của tình cảm, sự gắn kết trong gia đình bởi dù đông hay ít thành viên mỗi mâm cơm chỉ có một chén mắm duy nhất mà thôi. Dẫu vẫn biết để giới thiệu với bạn bè khắp nơi về con người, mảnh đất, văn hóa nơi đây không phải là chuyện dễ. Khi mà vốn sống, sự cảm nhận và chất tinh tế của mình còn quá non trẻ. Nhưng với tình yêu quê hương, lòng tự hào về bà con quê mình, Bi chỉ xin giới thiệu với mọi người một chút văn hóa của người miền Trung qua các món ăn như vậy. Xin hẹn một ngày, một ngày không xa sẽ được tiếp đón các bạn tại nơi đây, chính mảnh đất giàu tình thương này. Nhà ngoại ở khu trũng nhất vùng chiêm trũng. Những ngày gặt hái xong, dì Gái lớn lúc đi chăn trâu thường bắt đầy một ủng vải cua đồng. Những con cua đực đen trũi, cái càng cua như cái kìm sắt, cua cái lặc lè cái bụng vác đầy một ổ trứng. Rồi lúc về qua mương, Gái tiện lội xuống hái lấy mấy nắm rau muống dại. Rau muống dại ngọn không to, không mỏng, chỉ có búp, không có dây, những cái lá hình tam giác ngược chưa kịp mở hết chĩa lên nhọn hoắt. Gái về đến nhà thì trời cũng tối muộn, trăng lấp ló đầu ngọn cây rơm. Gái dắt trâu vào chuồng, rồi quay ra đổ cái ủng lèn chặt cua ra chậu. Rồi rửa, rồi xóc. Gái bảo, cua phải rửa sạch rồi xóc sạch nước thì lúc giã mới không bị bắn. Xóc xong rồi Gái lớn Gái con ngồi xé cua. Cháu lanh chanh chả dám mò lại gần, cái lũ cua đực xé xác làm hai rồi mà vẫn thò càng ra cắp. Đau điếng người. Hai Gái xé cua xong thì Gái lớn cho cua vào cối đá lau khô để giã. Cối phải lau khô, chày cũng phải đủ nặng. Gái phải giã đều tay, ngưng nghỉ giữa chừng cua sẽ chảy nước, giã bị bắn và cua không nhuyễn. Gái lớn không quên lựa vài cái càng cua to để riêng. Trong lúc Gái lớn giã cua thì Gái con và cậu và cháu lấy màu cua. Cầm hai que tăm, nhẹ nhàng gạt hai cục màu trên mai cua ra một cái bát con. Cái này để khi nào canh sắp chín Gái lớn sẽ trút vào nồi, thịt cua nổi màu và nước cua sẽ ngọt. Gái giã cua xong thì cho thịt cua lên một cái rá để lọc cua, Gái cho một chút nước, và khỏa nhè nhẹ. Khỏa mạnh tay quá sẽ không lọc được vỏ cua, canh sẽ sạn, Gái bảo thế. Gái lọc xong thì bưng một nồi nước sóng sánh màu nâu óng vào bếp. Ngoại đã nấu sẵn nồi cơm gạo mới. Gái với rơm nhóm lửa. Gái con và cậu và cháu tíu tít trải chiếu xếp ghế ra sân. Trăng mùa hè sáng trong, gió mát. Cậu và cháu gái chả kém mấy tuổi đuổi nhau vòng quanh. Bà ngoại sợ cháu ngã phải quát cậu, cậu mới ấm ức ngồi yên. Gái lớn mồ hôi nhễ nhại khệ nệ bưng nồi canh ra. Gái ngồi đầu nồi, múc canh ra bát. Gái gạn mấy cái càng cua cho hai cậu cháu mút mát. Canh cua nước trong vắt, gạch cua đóng bánh phập phồng trên những ngọn rau muống xanh xanh. Canh cua rau muống đồng không thơm mà ngọt lự. Rau muống mềm không nát. Cơm gạo mới thơm ngọt.Cà bát muối thái lát thanh thanh. Cơm quê chỉ có vậy. Ông ngoại bà ngoại, Gái lớn, Gái con và cậu và cháu quây quần...Cháu gái và cậu vớt hết gạch cua vẫn thòm thèm... Hai mươi năm. Gái Lớn cũng không còn chăn trâu nữa. Cua đồng cũng bỏ đi rồi. Cháu đi gần hết hai đầu đất nước, vẫn không tìm đâu ra được bát canh ngai ngái gió đồng như ngày ấy. Bát canh cua rau muống đồng vị ngọt thanh thanh cháu vẫn đau đáu đến tận giờ... Có những thứ trên đời tưởng chừng là của bỏ nhưng khi rơi vào tay người biết lại trở thành hữu dụng, hữu duyên. Thú ẩm thực của con người dường có có nhiều câu chuyện đại loại kiểu này. Trong cuộc kiếm tìm thức vị dân dã sau khi đã chán chê cùng sơn hào hải vị, bạn từng tấm tắc trước một mâm cơm quê có rô ron chiên ròn, có đĩa tép (tôm riu) rang đỏ au, có cà dầm tương, đậu phụ luộc chấm ắm tôm, canh cua nấu thả hoa lý… nhưng đã bao giờ được thưởng thức một nồi canh cực kỳ lạ miệng, hay một nồi kho nấu từ búp non của loài khoai hễ đụng vào là ngứa hay chưa? Hỏi nhưng tự biết đa phần con dân ẩm thực là chưa hề trải. Những món đó có từ cây khoai sọ đấy! Nếu chưa hẳn bạn đích thị là kẻ quá thiệt thòi. Củ khoai sọ thì dễ tìm. Chợ tỉnh chợ quê đều có. Vào những quán cơm bình dân khắp chốn cùng nơi, chẳng khó gì cũng có được bát canh khoai sọ nấu sườn, nấu xương, nấu cổ cánh ngan gà gì đấy.. Và có dịp về nơi thôn ổ, chủ nhà bạn ghé chân sẵn sang thết đãi một bữa cơm có món khoai kết chum kết mảng rất dễ ăn này. Nếu không phải là người tôn sung thịt cá, bạn hãy nói chủ nhà nấu bữa canh khoai sọ thuần với rau muống, thêm ít lạc củ giã dập cho vào càng tốt. Ăn vào sẽ thấy rằng dễ chịu hơn so với nấu cùng xương, cùng thịt rất nhiều. Món búp khoai kho, búp khoai sọ nấu canh khó kiếm hơn, thậm chí sẽ chẳng bói đâu ra nếu không đúng dịp. Bạn cũng đừng sốt ruột. Hãy cùng nhẩn nha trong câu chuyện này để thảng hoặc, có dịp tận tay nhóm bếp bắc nồi sẽ biết cách làm. Chẳng cầu kỳ kiểu cách, nhưng không biết thì ngon chẳng thấy đâu, chỉ được phen “ngứa rách mồm” đúng nghĩa! Khoai sọ đến mùa thu hoạch, thường là dịp mùa thu. Người ta đào lên vặt lấy củ rồi mang tãi về dưới gầm giường hoặc nơi thoáng mát trong nhà. Bảo quản cũng đơn giản. Thân khoai đừng bỏ đi, của ngon nằm trong đấy cả. Hãy nhè nhẹ tước bỏ thân khoai, nhựa khoai sọ ngứa vô cùng, hãy tránh đừng gãi nếu chẳng may có một chú kiến bò vào trong áo. Những đọt non chưa nở thành lá, người quê gọi là búp, dài chỉ độ gang tay. Cả ruộng khoai khéo chỉ được vài nồi canh hoặc nồi kho nhỏ. Khỏa nhẹ vào nước sạch cho sạch đất, bùn. Hãy xếp vào nồi và cho lượng nước áng chừng đủ ăn. Có thể đun rồi đấy. Nếu muốn kho hãy cho lượng nước ít hơn. Cái muốn lưu ý tới những chiếc miệng thòm thèm là đừng vội cho đũa vào nồi khoắng. Canh búp khoai sọ hay nồi kho cũng vậy, đụng đũa dang dở là cái ngứa về ngay. Khi búp khoai đã chín, ta nêm mắm muối vừa khẩu vị. Nhưng chưa ăn ngay được. Nướng lấy một quả dọc bằng lửa than hoa sắp tàn hoặc nướng bằng rơm khô. Nhựa dọc khô đi ngoài vỏ. Dầm nát cho vào nồi canh ấy. Ở đời có nhiều loại canh chua nấu từ khế, từ tai chua, từ cái mẻ, bỗng rượu… Đã đủ ngon. Nhưng canh búp khoai nấu dọc, khi chín đơm ra bát, nhìn màu xanh ngả vàng bốc hơi nghi ngút đã thấy mồ hôi rịn khắp chân răng. Hãy thử đưa lên môi, khẽ húp miếng nhỏ. Bạn sẽ tự trách mình bấy tuổi mà sao bây giờ mới được thưởng thức món ăn tuyệt hảo này. Vị chua rất thanh. Hương thơm nhẹ như thoảng qua khứu giác và vòm họng như được đánh bùa, ăn không biết chán. Bao món canh chua khác bỗng lúc này trở nên vô vị. Búp khoai kho cũng thế mà thôi, kể ra khó mà giãi bày hết mỹ ý , mà lại thêm thèm. Chỉ kể lại câu chuyện tuổi thơ đã từng tận mắt: có người ăn cơm gạo đầu mùa với búp khoai sọ kho khô. Những “con chạch” vơi dần. Hôm ấy bà vợ đã vất vả xoa dầu bóp bụng cho chồng. Anh ta chịu cơn no ấm ách ba ngày sau mới hết. Mắm sống - Cơm nguội ăn với sọ dừa non 29/06/2011 10:54 | 18 lượt xem Tự bao giờ chẳng biết, người phương Nam có những vị và cách ăn cho riêng mình - cách ăn, vị ăn chẳng lẫn được với miền nào, vùng nào. Chắc hẳn từ thời khẩn hoang xa xưa, do điều kiện đi lại khó khăn, nơi ăn chốn ở còn hoang sơ… thêm vào đó khí phách hồn người của những người mở cõi luôn muốn có những món ăn mới, lạ… ở những vùng đất còn quá lạ lẫm đối với mình. Và yếu tố quan trọng nhất có lẽ do sản vật chốn phương nam, nơi bước chân của đoàn người mở cõi dừng chân, quá phong phú – phong phú đến độ dư thừa. Cứ sau một vụ chụp đìa, hàng tấn cá đồng, đa phần là cá lóc và cá sặt, được tham gia thị trường qua những con sông, ngọn lạch; số còn lại sau khi đem phơi khô cho những mùa trái gió thì đa phần được đem làm mắm – mắm cá luôn có sẵn trong lu, khạp để dành ăn trong những dịp bất chợt, lỡ bữa chưa kịp chạy chợ. Mắm cá sẵn lu trong bếp được đem ra xé (mắm xé ngon nhất là mắm cá rô, cá sặt, mắm cá lóc mà phải là cá lóc vùng U Minh Hạ...) nhỏ vừa ăn, trộn với ít tỏi ớt đâm dập, cho thêm chút đường, vắt thêm ít nước của trái tắc cho vừa và thơm miệng khi ăn. Ớt hiểm cay bỏng hòa quyện với vị mắm sống. Bên cạnh đĩa mắm có đĩa rau đồng, xoài, chuối chát xanh, vài trái ổi chua cắt lát dùng để ăn kèm... Vị chua, chát, ngọt, cay, thấm dịu cá mắm là tổng hợp của món ăn. Có những buổi mải mê băng đồng với những cánh diều bay no gió quên cả giờ giấc, khi nghe “kiến bò” cồn cào trong bụng, vội chạy về nhà, lao nhanh vào bếp xúc đầy tô cơm nguội và nhất thiết không được quên chặt vội trái dừa nạy lấy vài miếng sọ dừa non và cứ thế ăn với mắm sống xé nhỏ để nghe như hồn sông núi đang tụ về trong mỗi lần và cơm. Có những lần đi làm ruộng mang theo vắt cơm cho buổi lỡ ban trưa. Khi mặt trời đứng bóng, dừng tay ngó quanh: Rau dừa, rau mác, cọng bông súng dưới mương, ngọc ngò, vài trái ớt hiểm... ưng món nào ăn bao nhiêu thì cứ bứt. Dùng tay gói nắm rau đồng, xé mắm, vắt cơm dẻo dùng ăn giữa đồng mà nghe ấm ngọt chân răng. Đã là cư dân vùng sông nước cực nam này mà chưa một lần ăn mắm sống - cơm nguội với sọ dừa non… thì chưa nghe được hồn của đất, của nước nơi mình tồn sinh… Hôm nay, ngồi bên mâm cơm sau 1 ngày tất bật với công việc, trở về căn phòng nhỏ ấm cúng. Ngồi bên mâm cơm nghi nghút con chợt nhớ đến mẹ và nhớ đến bát cơm nguội cùng tô dưa mắm, nhớ cái vị mặn mặn cay cay như nước mắt mẹ chực trào mỗi khi con đi xa. Con không xác định được từ khi nào con đã yêu cái mùi vụi dưa mắm vừa cay vừa mặn ấy. Có lẽ, từ khi con rời xa quê nhà ra đi lập nghiệp. Ngày còn bên mẹ, mỗi khi đi học về nhìn thấy dưa mắm trong mâm cơm, con lại biết là nhà ta đang hụt tiền chợ và mẹ nuốt nước mắt để nhìn chúng con ăn. Nhưng mẹ biết không ? dù biết là vậy nhưng chúng con vẫn ăn không ngon vì trong cái tâm trí trẻ con của chúng con được ăn ngon mới quan trọng, có lẽ con tệ quá phải không mẹ ? Trải qua bao thăng trầm nơi đất khách cuộc sống dần tốt hơn, bữa cơm của con cũng không còn chật vật nữa. Nhưng, con vẫn không quên được cái món ăn đầy kỷ niệm ấy. Mỗi lần con về quê như hiểu ý mẹ liền đi chợ và làm ngay một bát dưa mắm thật to cho con. Cả nhà ai cũng cười và bảo "cái thằng, vừa về tới là đã vòi dưa mắm rồi !". Hôm nay, một mình con bên mâm cơm và con ước mong sao nó chỉ là bát cơm nguội và tô dưa mắm. Chỉ có điều đó mới có thể suởi ấm lòng đứa con của mẹ mỗi khi nhớ đến quê nhà, nhớ đến mẹ đang chờ trông con từng ngày. Mấy ngày nay trời lạnh, mưa nhiều, không khí ẩm ướt nên đủ thứ côn trùng bà chằn sinh sôi nảy nở. Đêm qua "tê" quắc cần câu mà còn nổi hứng lãng mạn bất tử rủ một cô bé đi ngắm trăng trong tiết trời căm căm lạnh. Trăng đâu chả thấy, thấy bầy dơi cứ lượn qua xẹt lại mà phát thèm. Trời lạnh ri mà có dĩa thịt dơi băm nhuyễn xào lăn, xúc với bánh tráng Đại Lộc mà nhâm nhi cốc rượu đế thì còn gì bằng nhỉ? Cũng lâu lét lâu lơ rồi mình chưa ăn lại món khoái khẩu này. Vẫn còn nhớ lần đầu tiên ăn cái con chim không ra chim thú không ra thú mà có vú đó. Sợ và hiếu kỳ. Nhưng ăn vài lần lại đâm nghiện. Cũng như mấy món chuột, rết, châu chấu, dế, rắn, rắn muối... miếng đầu ai cũng nhờn nhợn nhưng phập vào rồi mới thấy mê. Từ cái hồi mới đi học miền Nam về, đêm nào bọn tôi cũng vác gậy, xách lưới, vác súng đi bắt dơi. Quê tôi ít cây ăn quả, dơi chủ yếu treo ngược các tán mít, nhãn, mận. Nếu thấp thì giăng lưới rung cành kiểu gì mỗi đợt cũng dính vài em, cao quá thì súng hơi đó cứ bắn từng phát một. Có đêm cả bọn cũng bọc về được vài chục em dơi kêu lít chít. Làm thịt dơi cũng có cái công phu của riêng nó. Cũng như làm lươn phải tướt bằng tro, mổ ruột bằng dao tre, không để vào nước lạnh thì ăn vào không lo đau bụng; làm vịt phải nhớ bỏ hai cục hôi đi, thịt nó mới thơm; làm dê phải cho hết mùi mồ hôi của nó; thì làm dơi phải bỏ mấy cục xạ bằng đầu ngón tay út trẻ con ra sẽ không còn hôi hám gì nữa. Thịt dơi nướng với than hồng, nhấm tí rượu, đậm hơn thịt gà, xương lại mềm, nhai giập ra ngon hết sẩy, thoang thoảng mùi chim sẻ nữa. Ăn với muối tiêu chanh và nên nhớ kẹp theo cọng ngò hay lá chanh non nhé. Ngoài ra dơi còn có thể làm nhiều món khác nữa như dơi băm xào lăn, cháo dơi, dơi um... Món nào cũng thuộc cao lươn mỹ vị cả. Nhưng tớ thì tớ khoái nhất cái món "huyết dơi". Cũng như tiết dê, tiết ba ba, tiết rắn, tiết chim sẻ... tiết dơi mà pha rượu thì bợm nhậu dù khó tính đến đâu cũng chỉ có vỗ đùi bem bép mà khen tuyệt cú mèo mà thôi. Tiết sau khi cắt từ hai đầu cánh, pha rượu và nên uống liền mới ngon. Để lâu rượu dễ làm "chín" tiết, kém đi mùi vị hảo hảo của nó. Dân bợm nhậu còn kháo nhau, uống rượu tiết dơi còn "hăng" hơn cả tiết dê, rắn với cả ba ba. Tức ông uống mà bà khen ấy mờ. Tớ thì tớ chưa thử bao giờ nhưng cảm giác cứ phừng phừng khí thế nhé! Hê hê... Mới nói tới đây thôi chắc có kẻ đã nuốt nước miếng chèm chẹp rồi. Bản thân người viết cũng thèm nhỏ dãi rồi đây. Lâu nay, bọn bạn chiến hữu đi làm ăn tứ xứ hết nên các món ăn nhậu đầy chất dân dã như vầy cũng thưa dần thưa dần đi. Tết này phải tập hợp lại làm chuyến đi đánh dơi về nhậu đón giao thừa mới được. Cũng phải ôn lại những món nghề của một thời tung ta tung tăng chứ nhỉ?. Cuộc sống quanh ta nhìn thì đơn giản lắm, tưởng đâu thân quen rành ruột hết rồi nhưng vẫn còn đó nhiều điều thú vị cần ta khám phá, trải nghiệm biết bao. Mà thịt dơi cũng là một trong số ấy đó hay sao? Người dân xứ Quảng ai đi xa cũng nhớ về những món ăn dân dã,đơn giản mà đậm chất quê hương của mình...Nói về bánh tráng,thì trong mọi bữa tiệc tùng hay giỗ chạp đều có món bánh tráng nướng. Những người con xa quê lâu ngày về thăm quê thì thường thủ theo vài ký bánh tráng để mang theo ăn vì đặc biệt ở xứ Quảng người dân rất thích ăn bánh tráng cuốn. Bánh tráng được cuốn với nhiều loại nhân khác nhau,như bánh tráng cuốn thịt heo,bánh tráng cuốn cá...v.v... Nhưng tôi vẫn nhớ nhất là món bánh tráng cuốn cá nục mà ngày xưa lúc còn nhỏ mẹ vẫn làm cho tôi ăn,vừa đơn giản,vừa nhanh ăn xổi được lúc đói bụng và nhất là rẻ và có sẵn dễ dùng.Hương vị ấy tôi vẫn không thể quên được dù bây giờ có ăn những món ngon,hấp dẫn hơn rất nhiều nhưng cái hồn quê của món bánh tráng cuốn cá vẫn mãi lưu luyến trong tôi. Hồi ấy mẹ thường đi chợ về là chúng tôi cuống quýt xem mẹ mua gì về ăn,mẹ thường mua sẵn 1 rổ cá nục hấp sẵn và 1 bó rau muống non xanh...Mỗi lần thấy mẹ mua kèm 2 thứ ấy là biết mẹ sắp cho ăn món gì ùi. Chúng tôi thường ăn xổi món ấy vào lúc nữa buổi sáng lúc trước khi ăn trưa khi mẹ đi chợ vừa về.Vì là món khoái khẩu nên chị em tôi không thể kiềm chế được mà nhặt rau muống và làm nước mắm ớt tỏi ăn ngay. Thông thường thì mình mua về tự trụng ( hấp) thì sẽ ngon hơn,vì mình sẽ ướp thêm những gia vị khác nữa chứ không trụng (hấp) với muối không như ở ngoài chợ. Cá hấp ngon thì phải mua loại cá nục suông tươi vừa đánh bắt ở biển lên và được chở ngay về chợ vào lúc sáng sớm,mua loại cá nhỏ bằng ngón tay là ăn ngon nhất,để nguyên cả con không làm đầu và ruột như cá lớn. Mua về cho ướp muối,bọt ngọt,tiêu,tỏi băm,và vài quả ớt xanh đập dập để khi trụng cho cá bán đi mùa tanh và dậy lên mùi thơm của tiêu và tỏi băm. Cá ta có thể trụng,hoặc hấp tùy thích,nhưng theo kinh nghiệm ăn uống thì tôi thấy cá trụng ăn ngon hơn hấp.Hấp hơi cá sẽ bị nức và thịt khô không còn nguyên vẹn như khi ta cho vào nồi nước sôi trụng qua cho chín thì nhìn con cá sẽ hấp dẫn hơn khi da cá không bị trầy xước hay nức ra và màu sắc nhìn tươi hơn nhìn là thấy thèm.. Rau muống nhặt đuôi và nhặt cho bớt lá rồi để nguyên cọng dài Bánh tráng gạo nướng lên hoặc bánh để sống rùi nhúng nước cho bánh mềm và cuốn...con cá nục suông nhỏ vừa đủ cuốn nguyên cả con ăn luôn đầu và xương mà không sợ mắc xương,vừa ngon vừa tiện nữa,he,he.. Món này ngày trước có bánh tráng sắn để cuốn thì hợp hơn nữa..vì chỉ có bánh tráng sắn cuốn cá nục và rau muống là hợp gu nhất thui. Kể tới đây mà thèm quá ùi,bữa nào về Quãng Nam ăn 1 bữa cho đã đời nè.Mình ở Hà Nội nên không thấy bán cá nục suông như vậy, và bánh tráng thì phải cuốn với bánh tráng dày như ở quê thì nhai mới đã v:shapes="_x0000_i1027">,cộng thêm những cọng rau muống non mơn mỡn,cắn nghe giòn rụm trong miệng,và mùi ớt xanh thơm lụng làm không kiềm nỗi sự thềm thuồng.. 1. Ta nhớ mâm cơm chiều của những ngày con bé dại. Trong ta là hình ảnh Ba mẹ, anh trai và ta ngồi quay quần bên mâm cơm. Dù bận rộn mấy sau một ngày mưu sinh, nhưng ba mẹ luôn giữ thói quen là cùng nhau ngồi vào bàn lúc 6h chiều. Xung quanh mâm cơm chỉ vài con cá rô kho mặn, ít lát cà tím mẹ trồng bên hè, một tô nước cơm to tướng mẹ dành riêng cho anh em ta. Nhà nghèo, ta và anh trai được nuôi bằng thứ nước cơm pha đường ngòn ngọt này thay cho sữa. Sữa là một thứ gì đó quá xa xỉ đối với cả hai anh em. Dẫu vậy cả hai đều khỏe mạnh và lớn lên bằng nhiều thứ quý giá khác. Tiếng nói cười bi bô của ta và anh trai với đủ chuyện đi học ở trường, quây quanh ba mẹ là chuyện về con trâu, đám mạ. Rộn rã mái nhà nhỏ xiêu vẹo, hơi ấm của chái bếp lan tỏa vách nhà. Sau bữa cơm chiều, ta và anh trai được ba kèm tập viết.Giọng Ba trầm ấm, đều đều,…Trong ngọn đèn dầu loe loét, mẹ ngồi đó khâu lại từng mảnh áo sờn vai của ba. Ngoài xa xa tiếng ếch ọp ọp sau cơn mưa. Hạnh phúc nghèo sao mà bình yên đến thế. .Ta nhớ mâm cơm chiều cùng đám bạn cùng trường. Sau một ngày mệt nhoài với đống tập vở, với những bài báo cáo, tiểu luận. Trở về căn gác ọp ẹp, những gương mặt xanh xao vì quá nhiều thứ hỗn độn xung quanh. Học, làm thêm, làm thêm, học,..tiền học phí, tiền cơm, tiền nhà, tiền ăn…bám riết đời sinh viên. Mâm cơm chiều trở nên thưa thớt hơn. Nhưng vẫn còn rộn rã theo từng thớ thịt lát mỏng như tờ giấy, vài miếng đậu hủ chấm tương, vài cọng rau muống luộc vội chưa vớt ra dĩa vơi đi 1 nữa. 3. Nhớ mâm cơm chiều những ngày trọ học nhà bà con, bữa cơm của ta là thời gian sau khi cả nhà người khác dùng xong. Nhiệm vụ là dọn dẹp xong đống thức ăn còn sót lại cùng mớ chén dĩa bừa bộn. Ta mới có mâm cơm chiều với những người mà ta quý vô cùng. Ta quý các chị vì cùng cảnh ngộ, cùng xuất thân từ những miền quê nghèo xa xôi, cùng những tình cảm yêu thương đùm bọc như ruột thịt. Con bé gầy nhom đã mập mạp hơn nhờ vào sự sẻ chia này. Các chị nhường cho ta từng con cá, miếng canh, từng cái chăn, cái áo,….Các chị có thể chờ ta suốt buổi tối sau khi tan học, chỉ để cùng nhau ăn một bữa cơm chứa đựng tình cảm của những người tha phương. Ta như nghẹn lại khi nuốt từng miếng cơm ,chưa kịp cảm nhận được mùi vị thức ăn thì đã nghe đăng đắng trong lòng. Bỗng thấy thèm một miếng cá kho bên tô nước cơm to tướng của mâm cơm chiều sum họp. Ở đó có nụ cười của mẹ, ánh mắt của cha và cả những câu chuyện kể ngây ngô về trường, về lớp. Nhiều lúc, nước mắt nghẹn cả hột cơm…Nhớ gia đình, mâm cơm ở quê chiều nay hình như thiếu đi vị mặn. Mới hay những bữa cơm chiều đâu phải đơn giản chỉ là chuyện ăn để no như một quy luật tất yếu thông thường. Ở đó còn chứa đựng biết bao cử chỉ quan tâm chăm sóc, là nơi cho ta cảm giác sum vầy ấm áp yêu thương sau một ngày tất bật với nhiều nỗi lo toan. 4.Nhớ mâm cơm chiều những ngày có anh bên cạnh. Mỗi cuối tuần, ta và anh lại cùng nhau đi chợ, cùng nhau nấu mâm cơm chiều. Đôi khi chỉ để rủ thêm 5 anh bạn cùng phòng, 3 cô bạn cùng quê hâm nóng lại gian bếp nguội lạnh sau những ngày cơm hàng cháo chợ. Bận rộn với những thứ mà người ta quen gọi là cuộc sống, quen gọi là xô bồ, quen gọi là ồn ào..trở về với mâm cơm cuối tuần.Thấy thân thương, gắn bó biết bao. Những dự định, kế hoạch, hoài bão, ước mơ như được chắp thêm đôi cánh bằng những lời động viên chân thành, những chia sẻ sâu sắc.Những khi cô đơn tự nhiên thèm đến run người một cảm giác gần gũi ấm áp từ những người thân yêu - nhất là những khoảng lặng cuối ngày, đối diện với bữa cơm chiều chông chênh.. 5.Tiếng xe máy xịch xịch..dần dần tắt hẳn. Tiếng kẹt kẹt…két két của cánh cửa lâu rồi chưa tra dầu nhớt. Chân trái đá chân phải. Chồng bước vào nhà. Loạng choạng, lệnh khệnh. Em cũng đã quen với hình ảnh này của chồng. Bao chiều rồi, mâm cơm nào em cũng dọn và chờ chồng về. Từ ngày chồng lên chức Trưởng phòng, thì thời gian chồng dành cho em và con rớt xuống. Về đến nhà là toàn thân chồng một mùi nồng nặc, nào những thứ bia bọt, thức ăn…một đêm chồng có thể nôn cả ra giường. Bé Su nhìn Ba ngơ ngác, khóc ngằn ngặt…Em một tay bồng con một tay bưng bê chậu đựng chiến lược phẩm của chồng. Nước mắt em rơi. Chồng à! Bao nhiêu mâm cơm chiều vắng bóng anh. Em luôn cố làm tròn vai trò làm cha làm mẹ cho Bé Su. Em đi làm về, tất tả chạy đi đón con, ghé chợ mua vội vài thứ còn thiếu. Lật đật trở về nhà trong niềm vui “ À!hôm nay chồng chưa về, mình sẽ nấu 1 món ăn mới học. Chắc anh về sẽ bất ngờ đây’. Kim đồng hồ chỉ con số 11..rồi số 12..rồi số 1..ngày mới đã bắt đầu.Cứ thế… …Một chiều ….Hai chiều.. Rồi nhiều chiều nữa…Vẫn câu “ em à! Nay anh bận tiếp khách rồi. Em và con cứ ăn đi nhé”. Hơn nhiều chiều nữa, mâm cơm nhà mình đã vắng bóng anh. Đôi khi ngẩm nghĩ cuộc sống quanh ta như một hành trình với quá nhiều lựa chọn cho riêng mỗi con người. Và sự lựa chọn nào cũng bắt buộc người ta đứng giữa 2 ranh giới được –mất. Chỉ cần chúng ta biết xác định giới hạn, xác định con đường để mà chúng ta đi là đúng hướng. Đến một lúc nào đó khi ta quay đầu nhìn lại chặng đường phía sau, chúng ta sẽ nhận ra điều gì là cần thiết và quan trọng với bản thân. Vì có những cái chỉ tồn tại duy nhất một lần trong đời, dù có kiếm tìm nó cũng sẽ không bao giờ quay trở lại. Chuyện không nhảm chút nào: Mâm cơm với rau và cá vụn 08/07/2009 20:28 | 26 lượt xem Là giáo viên môn phụ, khi người ta lấy ý kiến về việc dạy thêm, nhiều người cho rằng giáo viên không sống nổi bằng lương nên phải dạy thêm. Thế nhưng, có một bộ phận không nhỏ giáo viên môn phụ vẫn phải sống bằng lương và vẫn phải đóng tiền cho con em học thêm hằng tháng! Vì vậy, bữa cơm gia đình giáo viên môn phụ của chúng tôi thường xuyên là rau và cá vụn. Chúng tôi đang ăn cơm mà có khách đến chơi nhà là cả nỗi kinh hoàng... Những lúc như vậy, tội nghiệp con tôi, chúng cuống cuồng thu dọn bàn ăn chớp nhoáng để khách khỏi nhìn thấy mâm cơm chỉ toàn là rau. Đó là chuyện lúc chưa bị "bão giá”, còn hiện nay mâm cơm của gia đình tôi đến rau cũng phải hạn chế. Đã nhiều năm rồi tôi không dám may cho mình một chiếc áo dài mới. Các giáo viên cùng tổ sử địa với tôi nếu không nhờ chồng thì cũng thế cả. Khổ nhất là cô bạn tôi có chồng bị bệnh nhũn não, mẹ ruột bị bệnh cao huyết áp, hai con còn đi học, nên sau buổi dạy cô thường chạy chợ để kiếm thêm ít đồng, nhưng do không quen mua bán nên thường bị lỗ lã... Còn tôi thì có nghề đánh máy vi tính nhưng lâu lâu các quầy photo mới thuê một lần. Một trang đánh máy vi tính người ta trả 2.000 đồng tiền công, nhưng yêu cầu canh lề thật nhỏ, đánh cỡ chữ 12. Ngồi mỏi cả lưng, ê cả vai mới kiếm được vài chục ngàn đồng. Kiếm tiền khó khăn như vậy nhưng trước cơn bão giá hiện nay, tiêu cái vèo là hết ngay... Đời sống của giáo viên môn phụ chúng tôi khó khăn như vậy nên việc làm thế nào để nâng cao chất lượng giáo dục không phải là mối quan tâm hàng đầu của chúng tôi trong lúc này. Mong ngành giáo dục thông cảm, mong các bậc phụ huynh tha lỗi. Những mái trường chỉ biết có cơm rau Tôi đi với miệt rừng tương đối thường xuyên. Cảnh nghèo se sắt, cảnh hoang rậm bịt bùng, những tưởng sẽ không còn là một chân trời lạ trong mắt tôi nữa. Vậy mà, không hiểu sao, chuyến ngược bắc ải Si Ma Cai, tỉnh Lào Cai này lại ám ảnh đoàn công tác từ thiện chúng tôi đến như vậy. 1. Hàng nghìn bức ảnh được bấm, nhiều giờ máy quay phim hoạt động tích cực. Về xem lại, nhiều nhất vẫn là những đứa trẻ ở truồng, rét tím tái. Sinh thực khí hồn nhiên của chúng phô ra, vương vãi với bùn đất, cỏ cây. Cha mẹ nuôi con như núi rừng nuôi cỏ. Cho đến trước khi cắp sách bước vào lớp một, trẻ em ở nhiều bản làng tôi đã qua, hầu như các cháu không biết đến khái niệm mặc quần, đi dép, đội mũ và tiếng Kinh. Những bàn chân trần nhỏ bé xéo òm ọp trên bùn đất giữa mây mù giăng bủa, giữa giá rét như kim châm phọt máu 10 đầu ngón tay. Đặc biệt là hàng trăm mái lều xiêu vẹo của học trò dựng ven các ngôi trường. 10 trường như nhau cả 10, hầu như suốt tuổi học trò, bữa cơm nào cũng chỉ có cơm và rau cải. Khoảnh vườn trường nào (do học trò tự trồng), bữa cơm nào cũng chỉ có rau cải. Ăn chỉ là để no cái bụng đói, gạo bố mẹ đóng góp, rau cải ngoài núi đồi. Nấu cơm chỉ là nấu một nồi ba mươi cơm trắng; đun sôi nồi nước lã, xắt nhỏ rau cải xanh ra, ném vào quấy đều. Bữa cơm chỉ gồm hai cái nồi, một nồi cơm trắng toát, một nồi canh xanh lét. Trên chiếc bàn học sinh bằng gỗ dài thượt, mỗi mâm chỉ có hai cái bát to đùng, một bát xanh lét rau cải lõng bõng nước; một bát là cơm trắng. Trẻ con hau háu ăn như nong tằm ăn rỗi nó ngốn lá dâu. Và, ai đó bảo, có cơm ăn thay mèn mén muôn thuở (bột ngô đồ lên) là may mắn lắm rồi. Chúng ta coi việc bữa cơm chỉ có nhõn nhòn món rau cải, bữa này qua bữa khác, năm nay qua năm khác, trường này qua trường khác (bữa cơm ấy đi hết tuổi học trò của các cháu) là việc hết sức bình thường? Chúng ta bằng lòng với điều đó? Nỗi đau, ai ngờ lại nằm ở chỗ ấy. 2. Thào Chư Phìn là xã đầu tiên trong toàn huyện Si Ma Cai núi đá xa xôi thực hiện mô hình lớp bán trú dân nuôi. Cảm động lắm, cô nuôi dậy hổ dậy múa hát cho học trò ba bốn tuổi xúng xính quần áo Mông, Thu Lao đến cuối buổi, cô treo trước ngực em nào đó một tấm phù hiệu: Nấu cơm cho các cháu (như thẻ cán bộ). Thế nghĩa là hôm sau đến lượt bố mẹ cháu bé phải thu xếp đến nổi lửa lo bữa cơm bán trú dân nuôi cho đám con của mình và của bà con mình. Taị trường tiểu học, nhà trường thuê một giáo viên vừa làm bảo vệ, vừa nấu cơm phục vụ mấy chục cháu nhà ở xa xôi phải tá túc thiết quân luật tại trường. Lên đến cấp hai (trung học cơ sở) các cháu đã lớn, tự cắt cử nhau ra, lần lượt hai cháu nấu ăn một buổi. Thầy Tiếp, hiệu trưởng bảo, giáo viên chỉ việc giám sát, và họ ý tứ cứ cắt cử một bạn khéo tay nấu cơm tập thể cùng một bạn hơi vụng củi lửa, để các bạn rèn cặp nhau cùng tiến bộ. Gạo nước thì bố mẹ các em đóng góp. Trường xây một cái nhà kho khổng lồ, gạo được phụ huynh nộp cả vào cho Ban khuyến học của xã, trường cần bao nhiêu, cứ vào kho đem lúa đi xát đi nghiền là xong. Có lúc, ban khuyến học xã Thào Chư Phìn giữ gìn đến 13 tấn thóc phục vụ con tàu chữ nghĩa của xã xa xôi tột cùng của miền địa đầu Si Ma Cai (cách tỉnh lị Lào Cai 100 km, hầu hết bà con là người Mông). Con số này ở xã Sín Chéng còn lớn hơn, bởi trường lớp quy mô hơn và bữa ăn tập thể gồm nhiều học sinh hơn. Mô hình đáng tuyên dương này xuất phát từ Thào Chu Phìn, là vì, bắt đầu từ năm 1991, bấy giờ, vận động trẻ con các bản đi học khó quá, bởi nhà các cháu quá xa, leo núi mất cả ngày đường. Trời mưa là đám trẻ núi bỏ học đồng loạt. Có đứa ăn no ngô răng ngựa ở nhà, leo như khỉ vượt dăm ngọn núi đến lớp thì đói meo, gục mặt lả xuống sàn lớp học. Mấy bà mẹ xót con người Mông, người Thu Lao ở bản Lao Pà Chải mới nghĩ cách đem con đến cổng trường học, dựng một cái lều tre bé bằng cái màn tuyn đang mắc ở đó cho con nằm ngủ qua đêm. Sáng chợ phiên bà đi qua, ném vào lều hai bó rau cải với túm gạo, cút dầu hoả. Tự đứa trẻ đi học về, nổi lửa nấu nướng, một mình một lều thực hiện công cuộc trọ học khá tiện ích. Hàng chục cái lều mọc lên khiến cho thầy hiệu trường nhà trường, nhà giáo Giàng Sín Chớ và ông Chủ tịch UBND xã Sùng Sào Mìn giật mình nhận ra cái tình yêu chữ của những người sống sau nách núi ủ mây mù hoang lạnh kia. Lập tức, ý tưởng lập lớp bán trú dân nuôi thay cho manh lều xập xệ thỉnh thoảng được lẳng vào một bọc gạo với mớ rau của phụ huynh học sinh. Ông Mìn giờ nghỉ hưu ở bản Hồ Sáo Chải; ông Chớ giờ làm Phó Chủ nhiệm uỷ ban kiểm tra huyện uỷ Si Ma Cai, tỉnh Lào Cai. Họ được xem như hai ông tổ của mô hình bán trú dân nuôi trong toàn khu vực. 3. Giờ đây, có hàng trăm, hàng nghìn học sinh theo mô hình bán trú dân nuôi kể trên - chỉ tính riêng trên địa bàn huyện nhỏ bé, rợn ngợp núi đó, lẩn khuất trong mây xa núi thẳm Si Ma Cai. Chúng tôi đến thăm các trường tiểu học và THCS, THPT ở các xã: Bản Mế, Thào Chu Phìn, Quan Thần Sán, Sín Chéng, v.v... Hơn chục cái trường chúng tôi đã qua, đã ghi nhận. Có đoàn diễn viên lộng lẫy hơn chục người mang theo loa đài, ánh sáng, máy nổ biểu diễn nghệ thuật phục vụ tại chỗ, hai cái máy quay hiện đại thực hiện một chương trình hết sức quy mô; nhiều nhà báo và cán bộ huyện xã về thăm; vì thế, các nhà trường dọn dẹp phong quang. Nhưng, thu vén thế rồi mà cái nghèo, cái đói vẫn như cái đuôi nhằng nhẵng ma quái của núi rừng chẳng lẫn đi đằng nào được. Những cháu bé ở trường Sín Chéng đi chân đất đi học trong trời lạnh giá, quần áo thủng rách. Gạo, mỳ tôm, quần áo được phát cho những đứa trẻ dựng lều ven trường (do khu nội trú không đủ chỗ). Chiều đến các cháu ra suối tắm, nổi lửa nấu cơm, ngồi học với ngọn đèn dầu, trong căn lều đứng dậy cộc đầu, quay đằng nào lều lung lay đằng ấy. Bạn tôi, một nhà báo từng sống ở dưới chân tháp Eiffel bên Kinh đô ánh sáng quay xong những cảnh ấy, cứ ra sau cánh gà sân khấu dã chiến phục vụ đồng bào ngồi khóc. Cô nghĩ về tương lai của bọn trẻ mà quặn lòng. Quặn lòng hơn cả là những bữa của chúng cứ ăn lặp đi lặp lại hai màu xanh và trắng ở tất cả các nhà trường, ở nhiều thời điểm, với học sinh nhiều lứa tuổi. Và người ta coi đó là một việc hết sức bình thường. Nỗi đau của những bữa cơm hai màu ấy vinh dự đến sau niềm vui các em đã được đến trường, được quản thúc nghĩa tình trong các ký túc xá, được ăn cơm trắng thay vì bột ngô đến hẹn lại lên. Nhưng ngần ấy cũng đã đủ là nỗi đau khó hình dung với người Hà Nội, với thế giới văn minh rồi, tôi nghĩ vậy. Có những đứa trẻ, suốt chín năm đến trường, học giỏi, cháu chỉ lác đác được ăn vài bữa cơm có hạt lạc rang, có tí mỡ tí thịt. Còn lại, bữa nào cũng cơm trắng, rau cải xanh nấu nước suối lõng bõng. Thầy Mai, hiệu trưởng trưởng Sín Chéng bảo: "Bố mẹ các cháu đóng góp mỗi tuần vài cân gạo đã là cố gắng lắm rồi. Nhiều nhà ở bản xa, nghèo đến độ không có một cái gì ngoài đôi chiếc nồi và một chiếc điếu cày cho ông bố đông con hút thuốc lào. Không góp gạo được, học sinh và bố mẹ cháu rất mặc cảm. Cơm và rau. Hôm nay có khách, muốn tìm mua ít lạc rang (đậu phộng) cho các cháu ăn để quay tivi nhưng không ở đâu bán. Vì mình cũng chưa đi mua thế này bao giờ. Trường chúng tôi có vận động mỗi giáo viên, một tháng tự nguyện đóng góp 15.000 đồng tiền lương để cải thiện bữa ăn cho các cháu. Nhưng, chẳng thấm vào đâu, đành chuyến sang hướng: thương các cháu thì để ý đứa nào rách rưới, rét mướt quá mua cho cháu bộ quần áo 45.000 đồng. Các trường ở Bản Mế, Thào Chư Phìn, Quan Thần Sán cũng có nhiều giáo viên xót học trò, tự nguyện mua sắm quần áo, giày dép chống lại cái rét mướt hầu như quanh năm của những đỉnh núi chon von. Nhưng, nỗ lực đó cũng chỉ như muối bỏ bể. 4. Lần nào, đến thăm một khu nội trú, một túp lều trọ học, tôi cũng chú mục vào bữa cơm của các cháu. Không bao giờ gặp một bìa đậu, một con cá mắm hay một cái gì đó mật mỡ mút mát gọi là thịt thà cá mú một tí. Rặt có rau xanh biếc và cơm trắng toát. Những bữa ăn lành lẽ nhưng nhói buốt và ám ảnh. Mỗi cuộc đời chỉ có vài năm thơ ấu học trò. Dẫu ngôi trường có hai ba tầng cao, dẫu kinh phí từ nguồn trái phiếu chính phủ mà cả nước dành cho xây dựng cơ bản rót về nhiều thế hay nhiều nữa mà để bữa ăn các cháu đạm bạc đến cay xót trên diện quá rộng như thế, có nên không? Dăm năm học trò thơ ấu rồi cũng qua đi, chẳng có ai chết héo chết mòn hay chết buồn chết thảm vì ăn cơm chỉ có cơm trắng và rau xanh cả. Song nỗi buồn cho các em, nỗi ám ảnh cho những người chứng kiến cảnh đạm bạc quá ư kia cũng lại cứ còn mãi. Các thầy cô giáo đều thở hắt ra: đau đầu nhất bây giờ là bữa ăn cho các cháu. Không có dự án cải thiện bữa ăn, không ai trích phần trăm cho việc cải thiện bữa ăn học trò (như trích tiền trong xây dựng cơ bản). Thầy cô, học trò cũng trăn trở với bữa ăn, họ đùm túm cưu mang học trò của mình, nhưng như thế làm sao xuể được. Chỉ cần có 1.000 đồng/học sinh/ngày ăn là có thể cải thiện bữa ăn chỉ có rau và cơm lõng bõng của các cháu. Trường nhiều nhất, đông học sinh nhất như trường Sín Chéng cũng chỉ có 80 em nội trú. Một ngày, các giáo viên nơi đây chỉ ao ước có thêm 80.000 đồng để cải thiện bữa ăn cho các cháu. Thế mà nhiều năm qua, mong muốn này vẫn không có cách gì thành hiện thực. Tại bản Sử Pà Phìn, xã Quan Thần Sán, cũng của vùng Si Ma Cai đang nói, trong cuộc trả lời phỏng vấn chúng tôi, ông Ly Seo Páo hồn nhiên bảo: "Bữa đến ông chỉ ăn cơm, không có rau đâu. Đi chợ chỉ dám mua mỗi thuốc lào. Lâu lắm tôi chưa được ăn thịt. Sắp Tết rồi à, tôi ăn thịt có lẽ từ Tết năm ngoái. Chủ tịch xã Ly Xuân Lẩu ngồi cạnh ồ lên: đúng rồi, Tết trước thịt lợn, tôi mang cho ông Páo một đùm. Ai nấy, cán bộ TƯ, cán bộ huyện, xã cùng chết điếng". Nhưng cái nghèo của ông Páo dẫu là sự thật, nhưng chỉ cá biệt thôi. Còn hàng trăm, hàng nghìn học sinh (tính riêng) ở Si Ma Cai mà chúng tôi đã gặp: Bữa ăn chỉ có rau và cơm của họ đã trở nên phổ biến, quá quen thuộc. Quen thuộc đến mức không ai còn phải thắc mắc nữa. Cái dạ dày và sự háu đói của các cháu đã quen với sự đạm bạc đi rồi. Ăn vẫn ngon, vẫn hết veo cả nồi lớn màu xanh lẫn nồi lớn màu trắng. Những năm tháng thơ ấu học trò vẫn có vẻ như an bình dù các em hầu như không biết đến thịt, trứng, sữa hay thứ lương thực, thực phẩm nào khác ngoài cơm trắng và rau cải xanh. Khát khao có 500 đồng (500 VNĐ người ta thường dùng để mua một nhánh hành ở dưới xuôi) hòng cải thiện mỗi bữa ăn cho một học sinh miền núi cứ treo đó. Để rồi, bữa cơm dọn ra, ở tất cả những trường trên Si Ma Cai mà tôi đã gặp, vẫn chỉ có màu xanh của rau cải và màu trắng của cơm tẻ. Nếu so sánh với cái giá 3.000 đồng/lần đánh giày; hàng chục, hàng trăm tỉ đồng trong một vụ bê bối, tham nhũng mà báo chí vẫn liên tục, liên tục đề cập – chúng ta sẽ thấy nỗi đau ngấm vào mình rất ngọt. Và không bất ngờ khi bạn tôi phải ngồi sụt sùi khóc với câu hỏi tương lai của đám trẻ miệt rừng. Cái văn hoá vì cộng đồng, cái lý của lối sống bác ái bật ra từ nỗi ám ảnh ấy, từ phép so sánh ấy./. Đây cũng là sản phẩm của chiều thứ Bảy. Ai dân Miền Tây dứt khóat sẽ rất ghiền món này. Nhớ hồi còn nhỏ, cũng tập tành theo mấy cậu đi câu cá rô. Mà công đọan câu cá cũng gian nan, kỳ công quá đổi lấy một mớ cá rô đồng béo mủm mĩm về cải thiện bữa cơm chiều. Tui bắt đầu lại lan man với hồi ức. Hồi đó, trước khi câu phải làm mồi trước. Là con gái những tui khoái lẽo đẽo theo mấy cậu thọc trứng kiến vàng. Tìm 1 cây sào thiệt dài có treo lủng lẳng cái rổ ở trên đầu cây. Men men theo vô mấy lùm bình bát hay trâm bầu tìm ổ kiến. Ổ kiến vàng dễ biết lắm. Chúng kết lấy lá cây thành thành cái bọng rồi đẻ đầy trứng trong đó. Chỉ chờ thấy ổ, tụi cậu cháu tui thọc cây sào vào ổ, đập đập thân cây sào để trứng kiến rớt vô rổ. Cũng lắm phen kiến vàng cắn nhảy loi choi. Trứng kiến trắng múp, tròn dài như hạt gạo nhưng căng tròn nhìn béo ngậy. Lấy được trứng kiến rồi, cũng chưa đi câu được. Phải đem về, bắc chảo đổ dầu dừa vô rồi thảy mớ trứng kiến vô xào thêm 1 ống vani, 1 chút sáp đèn cầy. Trùi ơi, cái mùi thơm mà tui còn muốn nuốt nứơc miếng chứ huống hồ tụi cá rô hehehe. Câu cá rô cũng có mùa. Mùa cá nhằm những lúc lúa gần trổ đòng đòng. Cá nhiều lắm. Nhiều khi đi trên bờ ruộng, còn nghe tụi nó quẩy lách tách dưới chân lúa, chổ nào lúa thưa còn thấy sống lưng tụi nó nhìn dầy, chắc mập núc. Có mồi rồi, là vác cần câu lên và không quên mang theo cái thùng để rộng cá. Ra ruộng, mỗi đứa chiếm 1 chổ. Lấy cần câu vẹt lúa ra rồi khua nước lốp bốp để "gây sự chú ý" của lũ cá. Sau khi thám thính thấy bọn nó kéo tới mình nhử thêm 1 chút xíu mồi xuống. Ui chao, có nhiêu đó thui mà bọn cá rủ nhau tới như trẩy hội. Nhiều lúc mồi chưa kịp thả xuống mặt nước, bọn cá tham ăn còn nhảy cẩng lên đớp mồi. Chỉ chờ có thế, cậu cháu tui tha hồ mà giựt. Chạng vạng, là cậu cháu ôm thùng cá chạy về cho kịp bữa cơm chiều. Những con cá rô đồng béo núc được chế biến biết bao là món khi thì nấu canh chua, khi thì chiên xù, khi thì kho tiêu...ái cha..sao mà thèm thuồng bữa cơm nghèo khó bên nồi cơm gạo đỏ, cậu cháu tui nhồm nhòam giành nhau vét cơm cháy...... Giờ thì cá rô đầy chợ, những con cá mập ú được nuôi chăm bẳm bự gấp 3, 4 lần những con cá ngày xưa của tụi tui. Lại thèm thuồng quá khứ mà kho 1 tộ cá rô, chấm mút một thời trẻ thơ đã qua chẳng thể nào có lại được...... Nếu nói về tuổi thơ của tôi, tôi sẽ kể bạn nghe rằng thời niên thiếu của tôi là một chuỗi ngày tươi đẹp, đầy đủ và sung túc. Bữa cơm đầy ắp những món thịt, rau tươi đà lạt, tráng miệng bằng những loại trái cây đắt tiền… tôi có thể kể ra nhiều hơn nữa. Nhưng nếu kể như thế thì tôi bịa đặt. Tôi bước qua thời thơ ấu không đầy đủ sung túc nhưng cũng đầy ắp những tình yêu thương. Mà không phải riêng tôi, ai lớn lên với những bữa ăn “nhà nghèo” ấy rồi cũng sẽ nhớ mãi. Nhớ cái món cá bống kho nồi đất mặn mòi vị đồng quê, nhớ nồi canh chua bông súng chúng tôi hì hụp húp trong những buổi trưa hè, mà nhớ nhất là nồi canh tập tàng nấu với cá rô non má nấu trong mùa nước nổi. Hãy chạm vào vòng xe thời gian, tôi sẽ đưa bạn đi về vùng ký ức, nơi có một làng quê hiền hòa nằm bên dòng kênh xáng Phụng Hiệp. Những mái nhà tranh ven sông quanh năm mãi mê nghe sóng nước thì thầm. Những thửa đất màu mỡ người ta trồng vào đó những luống rau xanh um. Mà vùng đất này dù không trồng gì thì cũng có những loại rau thi nhau mà mọc lên, mọc hoang dại không cần ai chăm sóc.Sau nhà tôi cũng thế, Những đám rau diệu, rau sam mọc từng chòm xanh líu ríu. Rau huyết bò xanh non vươn lên bên cạnh những cây bình bát mọc cạnh bờ mương. Cây thuốc dòi với những chiếc lá màu tía cũng sống chan hòa trong vườn nhà. Mùa mưa đến, những loại rau này lại có dịp sinh sôi nảy nở. Thật lạ lùng, những loại cây cỏ mọc tự nhiên lúc nào cũng mang trong mình một sức sống mãnh liệt. Chúng cứ vươn lên sống mà không hề bị sâu rầy tấn công… Tháng 8, khi nước tràn đồng, khi những con cá rô non bắt đầu sinh sôi nảy nở thì cũng là lúc món canh rau tập tàng hiện diện trong những bữa cơm nghèo. Chiều chiều, có khi mưa vẫn còn rả rít, má lại ra sau nhà ngắt những loại rau dại mọc trong vườn: 1 nhúm huyết bò, rau sam, rau dịu trộn lẫn với các loại lá mồng tơi, rau dền đất hay thuốc dòi. Còn gì ngọt bằng những loại rau vườn mới hái nấu với cá rô đồng má đón mua của những chiếc xuồng bán dạo ở bến sông. Bữa cơm gạo mới nấu bằng lò củi thơm phức, một mẻ cá lóc kho tộ đậm đà và nồi canh rau tập tàng ngọt ngào mùi của đất của sông, của quê hương sứ sở. Những bữa cơm chiều ngày ấy là những bữa cơm đầy đủ nhất , sung túc nhất của tôi. Dẫu là rau dại nhưng nồi canh rau tập tàng vẫn còn đó những dư vị thân thương mà có đi tận nơi đâu tôi vẫn nhớ. Nhật ký buổi trưa về cơ quan Chủ quán toát mồ hôi, khách khứa ngạc nhiên trước đòi hỏi quá đáng của vị khách. Mải làm thơ và thay săm, quên cả đói. Lôi điện thoại ra xem giờ, chậc, vèo cái mà đã gần hết giờ Ngọ. Tạt vào một quán phở, gọi đĩa cơm rang ăn cầm hơi đến chiều vậy. Vừa nuốt được hai miếng thì nghe trong góc quán có tiếng chửi rất thô: - Ba mươi nghìn một bát phở bò mà chả có miếng thịt chó nào cả. Chủ quán toát mồ hôi, khách khứa ngạc nhiên trước đòi hỏi quá đáng của vị khách, riêng mình thì cơm suýt phì ra, vài hột nhanh chân đã kịp tọt lên mũi. Quả thật mấy trò chửi bậy không bao giờ đem lại kết quả tốt. Thì đấy, trong khi mình đang khịt mũi tống mấy hột cơm xuống thì ông chủ quán đã trợn mắt: - Muốn ăn thịt chó thì sang hàng thịt chó nhá. Vô văn hóa! Ông kia đỏ mặt: - Bán hàng cắt cổ con người ta còn cãi lý. Còn lên mặt dạy văn hóa cho ai? ... Cứ thế người này đốp trả người kia. Kịp lúc sếp gọi điện giao việc, mình vét nốt đĩa cơm, thanh toán rồi dông thẳng. Rất nhiều người đang kéo đến chỗ bát phở bò gây tranh cãi kia, chẳng biết để làm gì. ... Cửa hầm để xe hiện ra, chợt nhớ lại cuộc đụng độ lúc sáng với "thằng cu thái giám". Chột dạ, biết đâu đó lại là nhân viên mới? Ẹc, nghĩ đến chữ "duyên"... Tủm tỉm cười, suýt quên lấy vé gửi xe. Dựng xe vào một chỗ trống, bất giác đưa mắt tìm xe "thái giám": Không thấy đâu. Cụt cả hứng, đang định... Chậc, thế thì tội lỗi quá. Ngoan ngoãn đi thẳng lên phòng. Không có ai là người lạ, chỉ thấy mấy bà chị già đang tranh thủ giờ nghỉ trưa xếp ghế ra và... lăn quay tập thể, chả còn sót cái ghế nào cho mình đặt nhờ cái mông. Khẽ nhích người ngồi ghé lên bàn, thử quan sát mấy mẹ này trong lúc ngủ... Phát hiện ra sự thật kinh hoàng, đúng như Bác Hồ từng nói: "Ngủ thì ai cũng như lương thiện" , mấy bà phù thủy phòng mình, thường ngày đanh đá chua ngoa, tham ăn tục uống là thế mà khi chìm vào giấc ngủ, khuôn mặt ai nấy đều giãn ra, thanh thản, hiền lành và ngơ ngác đến lạ. Thú thực là nhìn họ rất kém phần đầu gấu so với khi thức. Thật kỳ lạ! Ôi, những gương mặt thánh thiện... nhìn mãi cũng nhàm. Chép miệng đi sang phòng khác đổi gió và cũng là để tránh ánh mắt soi mói của người khác. Mình sang phòng kỹ thuật cho an toàn. Đúng là phòng toàn đàn ông với con trai có khác, không ai ngủ trưa, nhưng tắt đèn tối thui. Tất cả đều đang cắm đầu vào màn hình, tay phím, tay chuột bấm gõ liên hồi. Ra là mấy lão chơi điện tử. Rút ra nhận xét là trò giải trí buổi trưa của chị em lành mạnh hơn của các anh em nhiều. Vỗ vai thằng bạn cùng tuổi, mình háo hức hỏi nó: - Ê cu, thấy nhân viên mới phòng ta chưa? - Rồi, gớm. Thấy gái là mắt sáng lên... - Nó vẫn bấm chuột liên hồi - Chết này... - Thấy thế nào? - Thầng đểu!!! - "Rầm... rầm...", nó tức tối đập mạnh vào bàm phím do vừa phải "bỏ mạng" vì bị thằng bên phòng Marketing "bắn lén". Chắc chắn thằng này quên mất sự có mặt của mình rồi. Chán hẳn, thà về ngắm mấy chị già còn sướng hơn. May quá, vừa kịp hết giờ nghỉ trưa. MÌ TÔM Chẳng nhớ lần đầu tiên được ăn mì tôm là năm nào, nhưng cảm xúc thì vẫn như mới hôm qua và cảm giác thì…nhắc tới là cứ liếm môi liếm mép. Ngày ấy, chú tôi- giám đốc một nông trường cafe – về thăm nhà. Sau khi chia quà bánh cho các cháu xong, chú mang ra mấy gói gì đó là lạ và với vẻ mặt nghiêm túc: -Đây là..mì tôm! Cả nhà, từ già đến trẻ cứ tròn mắt nhìn vào tay chú. Mỗi khi chú đưa lên thì vài chục ánh mắt nhìn lên, chú đặt xuống thì cũng chừng ánh mắt nhìn xuống. Rồi chú cười và giới thiệu cách dùng. Xong, chú cho mỗi nhà …một gói. Ba tôi đọc to hướng dẫn sử dụng trước khi dùng lần nữa. Sau khi nghiên cứu xong xuôi thì mới nấu nước, bỏ mì vào tô và chế nước sôi lên, đậy nặp lại và …cả nhà ngôi canh đúng 3 phút mới mở ra. Giây phút mở nắp ra mới long trọng làm sao, 6 cặp mắt cứ chằm chằm nhìn vào mọi động tác của ba. Và…trời!!! Một tô đầy ắp – vì để lâu quá nên nó nở hết cỡ rồi! Ba lấy đũa gắp chia cho chúng tôi một đứa một ít để cảm nhận thế nào là mì tôm thôi! Chưa bao giờ tôi ăn mì tôm mà ngon đến như thế! Ngon đến tận bây giờ! hững ngày sống trong đói rét, có lẽ người ta mới lại nghĩ đến những gì bình dị đã nuôi sống con người trong thời thơ ấu. Là một người con sinh ra sau chiến tranh, không biết có thể nói là tiếc hay không, khi tôi không còn được biết đến những món bất hủ chỉ được nghe kể lại như Mì không người lái, bột mì hấp, nắp hầm…của thế hệ đi trước, thế nhưng phải nói cái dư vị của một thời khó khăn mà đất nước tất yếu phải trải qua vẫn ít nhiều trôi qua một phần trong ký ức. Thuở ấy cứ sáng sáng, lũ trẻ chúng tôi cứ ước ao một chiếc bánh mì Paté thật lớn, thế nhưng món đó chẳng có đâu, thay vào đó là củ Khoai, cơm nguội, sang lắm là bát cơm rang có mỡ không hành, thêm ít thuốc độc: Mì Chính. Hồi nhỏ tuổi, cứ mỗi lần đi nhổ răng ở bệnh viện Việt Đức về, món tẩm bổ sang nhất mà cả nhà dành dụm cho tôi là một bát cháo hành tía tô có đập vào quả trứng gà thơm phức. Lúc ấy thú thực trẻ con chúng tôi nói dại chỉ ước được ốm, bởi ốm đồng nghĩa là được ăn Phở, ôi những bát Phở lúc đó sao mà ngon đến thế!? Tôi nhớ hồi ấy mỗi lần đi qua quán Phở Sinh trước cổng triển lãm Giảng Võ là mắt cứ dán vào cái nồi đang bốc hơi nóng nghi ngút. Hình như mùi thơm của Nhục Quế, Thảo Quả, tương ớt… đã ngấm cả vào những chiếc cột bằng tre nơi đây, cứ dậy lên một mùi thơm kỳ lạ! Cái thú được húp xì xụp một bát nước canh nóng vào những ngày giá lạnh khiến người ta nghĩ ra đủ thứ để mô phỏng món Phở. Hồi nhà nước bán kèm bột mì vào phần lương thực, bọn trẻ con mê lắm món mì bằng bột cán mỏng nấu với nước dùng nêm muối, sang lắm là một chút mì chính, nước mắm, nếu có thêm vài lá hành thì thật đúng là không còn gì bằng. Mỗi chủ nhật, cả nhà quây quần bên chiếc nồi húp soàn soạt xem phim Cảnh sát lấy vợ của Pháp, ai nấy vui như vào hội. Còn nhớ có lần đọc một cuốn truyện cách mạng, đến đoạn anh nuôi khéo tay nấu một nồi mì sợi nạo từ một thân cây đu đủ với nước mắm kem giúp cho một đơn vị bộ đội đang trong tình trạng cạn kiệt lương thực được một bữa no nê trước giờ vào trận đánh, tôi liền gấp sách lại, nằng nặc đòi mẹ cho đi ăn Phở bằng được. Tháng năm qua lại, thị trường trên những chặng đường đổi mới dần xuất hiện những mặt hàng nhằm đáp ứng nhu cầu của người dân. Sự có mặt của mì tôm, những gói mì ăn sẵn là tất yếu, phù hợp với nhịp độ làm việc và nếp sinh hoạt của từng gia đình. Lúc đầu, loại mì tôm được biết đến là mì Hai Tôm gói giấy màu vỏ bao xi măng in chữ đỏ. Loại mì này một thời được bọn trẻ con coi như một thứ sơn hào hải vị. Mỗi tối học bài xong, trước khi đi ngủ thật hạnh phúc khi được một bát mì nóng hổi thơm đượm. Ai cũng kháo nhau rằng đây là thứ mì hảo hạng có sợi tẩm bơ, thế mới có thể có mùi vị đặc biệt đến thế!!! Mà nghĩ cũng đúng thật! Mỗi lần ăn mì, từng đứa trẻ con thi nhau xì xụp húp cho đến cạn kiệt bát nước, húp trong hân hoan và tiếc nuối khi thứ chất lỏng ấy hết quá nhanh bởi sự háu ăn quá đỗi, khi dư vị thần tiên dường như vẫn chào mời trong cái cổ họng đang ngừng lại trách cái mồm sao không tiếp tục xuỳn xuỵt nữa. Không hiểu sao lúc đó bát mì tôm không người lái giản dị như thế ăn vào lại ngon đến vậy. Người thì bảo là thời ấy ăn uống còn khó khăn, ăn một gói mì tôm 81g lạ miệng trong sự thòm thèm thì cảm thấy ngon là điều tất yếu, người lại bảo mì tôm thời ấy sợi dai hơn, tẩm nhiều bơ hơn. Riêng tôi thì cảm thấy hình như bát mì Hai Tôm thuở nhỏ ăn thơm và ngon hơn thật, hơn cả mì Kim Chi và một loạt loại mì có cái tên rất kêu được tẩm ướp đủ thứ gia vị mới lạ. Đến bây giờ, nhiều người vẫn quả quyết rằng ăn mì tôm phải ăn mì gói giấy màu vỏ bao xi măng mới là sành điệu bởi loại mì này có mùi vị chân thực, đặc trưng, không bị pha phách, tẩm ướp những gia vị có mùi khác lạ. Tôi có ông anh rể nấu ăn rất khéo, lần đầu đến nhà cưa chị tôi cứ khẳng định mãi mì Hai Tôm gói giấy mà nấu với rau cải là hợp nhất. Thứ rau cải mát he đắng quyện với mùi bơ là một sự kết hợp khá hoàn hảo mà sau này một thời sinh viên đã giúp những chàng thanh niên nghèo lang thang qua được bữa đói ban trưa một cách ấn tượng, ngon lành. Cùng thời với mì Hai Tôm còn có mì Hai Cua loại gói trắng chữ xanh cũng rất thơm ngon. Thế nhưng không hiểu sao thứ mì đó chỉ thỉnh thoảng mới thấy ở Hà Nội, nghe nói ở Hải Phòng, Sài Gòn lại có bán rất nhiều. Kí ức một đứa trẻ con thời ấy như gắn liền hẳn với tên tuổi hai loại mì này với những liên tưởng về một cuộc sống ấm no, thanh bình có ông bà, bố mẹ, bạn bè, những tiếng trống khai trường, những trò chơi hào hứng và những buổi tối quây quần hứa hẹn một bát mì ngon lành trước khi trôi vào một giấc mơ đầy hương vị thơ ngây. Từ những sản phẩm trình làng tiêu biểu như thế, mì tôm đã dần đi vào đời sống mọi người một cách tự nhiên, âm thầm nhưng thực ra thật sôi động. Quả thật có lẽ không chỉ đối với tôi, mà nhiều người cũng phải thừa nhận rằng hình như một đó là loại mì thật có nhiều duyên nợ. Đầu tiên đó là thức ăn “Cứu đói cấp thời” của những sinh viên xa nhà trong những ngày hết tiền, trong những đêm học thi vất vả. Có những anh chàng để dành dụm tiền chiêu đãi bạn gái một bữa kem Tràng Tiền mà phải chấp nhận một tháng ăn mì tôm. Sau này nghe họ tâm sự cứ mỗi lần nhìn thấy những gói mì trên giá sách là đã thấy phát sốt, tôi cứ buồn cười mãi! Tình yêu gớm ghê như vậy đấy! Mì tôm còn là thứ có trong hành trang của một số công nhân viên chức ăn uống kiêng khem, tiết kiệm. Có những giáo viên chỉ cần một gói mì tôm suông buổi trưa là đã đủ. Suốt cả học kỳ đều như vắt chanh, họ kiên trì ăn mì tôm như đó là một nhiệm vụ trong cuộc đời phải làm. Hình như cuộc đời tôi có duyên số được quen với nhiều bạn vong niên là những người đàn ông muộn màng và độc thân. Và chính trong lúc giao tiếp với họ, tôi cứ nghĩ rằng phải chăng mì tôm được sinh ra cho những con người này!? Một gói mì tôm úp nước sôi được pha chế rất nhanh và đơn giản. Cứ mỗi lần nhậu say xỉn cho vơi nỗi sầu với chúng bạn về thì đây là thứ chống đói rẻ, dễ ăn và tiện lợi nhất cho những anh chàng phòng không lười biếng. Nhìn họ lọ mọ đun ấm nước, tay run run pha mì tôm một mình trong đêm đông giá buốt, liệu có cô nàng nào chạnh lòng không??? Tôi thì thấy tội cho họ lắm! Bên Trung Quốc, gói mì tôm to hơn hẳn mình. Những tháng đầu sang công tác bên ấy. Thú thực tôi nhiều lúc rất ngại đi ra ngoài ăn. Thế là chỉ một gói mì ăn liền 100g là tôi đã có thể đánh một giấc đến sáng bảnh…Biết tôi hay ăn mì như thế, một giáo sư trường đại học Bắc Kinh mua hẳn cho tôi mỗi lần bốn năm thùng mì Khang Sư Phụ, một loại mì ăn liền ngon có tiếng. Tôi cảm động lắm, ăn mì mà biết ơn người thầy giáo ngoại quốc, nhớ đến quê nhà, nhớ những kỷ niệm gắn liền với gói mì Hai Tôm. Giờ đây, vào siêu thị, người tiêu dùng như lạc vào một rừng thương hiệu mì với đủ các tên gọi từ Hảo Hảo, Mì Gà Nấm, Lẩu Thái, Mì Bò Hành Răm…thơm ngon tinh khiết, bao bì sặc sỡ đủ màu. Có mấy ai mỗi lần bê bát mì nấu tim gan bồ dục hay tái bò…còn nhớ đến những gói mì Hai Tôm, Hai Cua gói giấy giản dị úp suông, những gói mì đã gắn liền với một thời quá xa ấy không? Mì tôm đại chiến Không hiểu sao dạo này mình ăn xài thấy nhiều ghê, mà ngẫm lại thì đâu có xài gì, mì tôm thì ở nhà chất 3 thùng, vậy mà vẫn thấy mình xài nhiều, cứ chờ đến hết tháng thì xin tiền mẹ. Thời buổi kinh tế thị trường khó khăn, không biết ai có suy nghĩ giống như tôi không. Chỉ cần bước ra khỏi cửa là đã phải trả tiền, còn không ra thì không xong. Cuộc sống ngày càng chật vật, xăng lên kéo theo mọi thứ đùng đùng tăng theo, không cần biết giá cả có liên quan hay không, thấy anh em kéo nhau lên, thì tôi cũng lên cho bằng bạn bằng bè. Nước lên điện lên, tiền gửi xe lên… và ngay cả bì bánh tráng trộn 5.000 cũng lên 1.000 cho theo kịp xu hướng thời đại mới. Sinh viên tính đủ mọi đường để qua thời kỳ bão giá, muốn mua cái gì cũng phải tính toán và cân nhắc cho hợp túi tiền và tiết kiệm để tồn tại. Gửi xe đã mất 3.000, cả ngày là 5.000, đĩa cơm 15.000 nhưng cơm thêm thì sẽ là 16.000, ngày 3 bữa thì cũng đã biết bao nhiêu tiền, tôi tính sơ sơ chi phí. Hôm bữa thằng bạn nó nói ăn một ngày có 10.000. Nghe mà không thốt nên lời, bữa nào hỏi bí quyết xem ăn thế nào mà được vậy?...Nếu được sẽ đăng lên cho bà con cùng áp dụng. Xe đạp và xe bus ngày trở nên phương tiện thân thiện, nó giúp tiết kiệm cả khối tiền. Tôi chắc phải ra mua xấp vé xe bus, một vé chỉ có 1.400, chạy một tuyến từ nhà tới trường thì sẽ mất 2.800… được đi xe hơi giá rẻ. Hôm trước nghe thầy giảng, giá xăng lên làm cho cuộc sống của nhân dân dần dần đi vào ổn định, ngày trước còn có bữa thịt bữa rau, nay giờ xăng lên thì mỗi bữa chỉ còn rau. Nghe sao não nề. Cuộc sống ổn định kiểu này thì thành cây tăm mất thôi. Những lúc thế này mới thấy phân chia giàu nghèo ngày càng rõ rệt, người thì đói ăn, mà iphone ra là chỉ có đứng mà xếp hàng mới có. Ipad 1 tạm lắng thì ipad 2 ra lò, sốt sắng không kém. Một cái đó có khi bằng cả tạ gạo. Tiền sinh tiền, không tiền thì sinh ra cái gì…? Công nghệ thì ra vùn vụt, hàng hóa và dịch vụ ào ào, người tiêu dùng như đứng ở thế tiến thoái lưỡng nan, muốn được sử dụng dịch vụ nhưng đắn đo túi tiền, dần dần rơi vào cái vòng luẩn quẩn… Trong sách Dạy con làm giàu có câu tôi nghe thấy hay lắm: Đừng phục vụ cho đồng tiền, mà bắt đồng tiền phục vụ cho mình. Nhưng đọc đến tập 9 vẫn chưa ngộ ra tôi phải làm gì để đồng tiền chạy theo hầu mình. Một anh chạy xe ôm nói ngày trước 30 ngàn đủ đi chợ nhưng giờ không đủ, nay mai xăng lên không biết anh tính sao đây. Đúng là nhiều việc để nghĩ. Ngẫm lại ba mẹ ở quê làm đầu tắt mặt tối để nuôi mình ăn học, thấy thương ba mẹ quá. Cố gắng phấn đấu, cố gắng, cố gắng,… tiền tiền tiền tiền… Không hiểu sao dạo này mình ăn xài thấy nhiều ghê, mà ngẫm lại thì đâu có xài gì, mì tôm thì ở nhà chất 3 thùng, vậy mà vẫn thấy mình xài nhiều, cứ chờ đến hết tháng thì xin tiền mẹ. Ai có quan điểm giống tôi, thì cách vượt qua thời kỳ này thế nào? Nếu ai có thể chế tạo ra những viên kẹo ngậm mà no cả ngày, vẫn đủ dinh dưỡng, hay là xe chạy bằng nước, chạy bằng điện nhưng phải bền, giá thành rẻ…thì tuyệt vời quá. Thế giới đỡ phải chiến tranh chỉ vì mấy mỏ dầu, hành tinh sẽ xanh sạch đẹp hơn. Không nghĩ chỉ xa, nếu được vậy thì mỗi người dân Việt Nam sẽ đỡ khổ biết bao nhiêu. Năm nay chỉ số phát triển kinh tế sẽ tăng, nhưng đồng thời lạm phát cũng sẽ tăng, nếu tăng sẽ như thế nào? Và ai sẽ là người chịu hậu quả của nó… Mới đây nghe TP HCM chi 400 tỷ đồng cho bình ổn giá thị trường, sao con số nó đẹp thế nhỉ, 20 triệu đô liệu đã đủ… Nghĩ lại ở quê cuộc sống có lẽ không bị chịu tác động nhiều, đi làm chạy một tý là đã tới nơi, không quan tâm chuyện xăng xe, đồ ăn thì khỏi nói, vừa ngon vừa rẻ…Không khí lại trong lành, lạnh lạnh, không nóng và bức như Sài Gòn này. Nhưng cuộc sống là vậy, môi trường cạnh tranh càng nhiều, càng phức tạp bao nhiêu, tôi nghĩ sẽ học hỏi được nhiều hơn. Chúng ta đã ăn phở tái, bún giò, miến ngan… từ xa xưa (từ thuở Hà Nội - băm sáu phố phường, Huế - thần kinh) nhưng ăn mì ăn liền thì mới chừng mấy chục năm nay. Mì ăn liền là một thực phẩm khô, chiên trước với dầu cọ, vô gói (từ 60 - 80g), ăn liền sau 3 - 5 phút dội nước sôi lên. Mì ăn liền ra đời muộn mà có sức lan tỏa, “chiếm lĩnh thị trường” mạnh, nhanh, đến sớm rộng khắp. Có thể nói, ngày nay gói mì ăn liền đã đến với từng nhà, kết bạn với từng người. Có thế, nước ta mới mỗi năm sản xuất tới 6 tỉ gói mì với đủ các thương hiệu (Hảo Hảo, Miliket, 3 Miền, Tiến Vua, Bò Rau Thơm, Gấu Đỏ… Mì lâu đời nhất là mì Colusa gói giấy vẫn còn được ưa chuộng). Có những con số của năm 2005, tôi đọc được trên báo: Trung Quốc, ăn nhiều mì tôm nhất thế giới với 44, 3 tỉ gói / năm 2005, Indonesia thứ hai với 12, 4 tỉ gói / năm 2005, Nhật thứ ba – 5, 4 tỉ gói / năm 2005. Tiêu thụ mì ăn liền nhiều nhất, tính theo đầu người: Hàn Quốc 69 gói / người / năm, Indonesia 55 gói / người / năm, Nhật 42 gói / người / năm. Nó nhờ vào đâu vậy? - Chắc trước hết, nó nhờ vào cái giá rẻ : Trừ gói mì 5000đ – 6000đ dành cho người chuộng món ngon, gói mì phổ thông ba bốn ngàn đồng / gói, rẻ hơn cả đĩa bánh xèo rải rau giá búp, chén bánh bèo rắc tôm bột của mấy bà bán dạo xóm cho người nhàn rỗi vừa ngủ giấc trưa dậy. Đó là nói thời giá bữa nay, chứ hồi cách đây vài năm, mì ăn liền chỉ 500đ / gói thôi. Ít thấy có món vừa rẻ vừa ngon, theo nghĩa “tiền nào của nấy”, như gói mì. Ăn phở bò, bún giò thì “dội” lắm, lâu lâu mới dám cải thiện một bữa. Ăn bún cá, bún riêu cua giá cũng gấp rưỡi, gấp đôi gói mì tôm, mì thịt bằm ăn liền. Ăn bánh xèo, bánh bèo, ổ bánh mì cặp thịt “bình dân” đấy, nhưng bị thiếu nước, khô khan, khó nuốt, nhất là đối với người già ăn ít, có tật ăn hay mắc nghẹn. Sau cùng, nhiều người đã chọn “giải pháp” ăn gói mì, vừa rẻ vừa có cả cái lẫn nước, dễ nuốt trôi. Ăn xong tô mì tôm (cách gọi chung cho các loại mì), anh công nhân, chị cán bộ, bác nông dân yên tâm rằng mình đã nạp đủ “năng lượng” cho một buổi mai làm việc, từ sáng tới trưa. Nói, nhờ giá rẻ mà mì ăn liền tiêu thụ mạnh, “chiếm lĩnh thị trường” nhanh, chưa chắc trúng! Vì có những nước giàu vẫn ăn nhiều mì tôm kia mà. - Ưu điểm thứ hai của gói mì tôm dễ thấy, là tiện lợi . Trước hết, tiện cho việc để dành, để trên bàn ăn, đậy rổ lại, hoặc cất trong chạn là tốt, miễn sao đừng để chú chuột đục khoét. Vì chuột mà đục khoét gói mì, chẳng khác gì ông Tám Khừng quê tôi, gặp cỗ giỗ được cho ngồi vào mâm. Mà cũng tiện cho việc chế biến, người bận rộn công việc, với gói mì tôm và chút nước sôi trong phích là có ngay bữa ăn, ăn lẹ. Bởi khỏi phải chế biến lâu lắc, ăn lẹ để còn công việc, gói mì tôm mới được đặt tên là “mì ăn liền” (nhưng cái tên này người ta ít gọi hơn cái tên mì tôm đã quen miệng, quen miệng đến mức gói mì chay cũng bị gọi là mì tôm chay). Trong đời, tôi đã gặp nhiều cảnh ăn mì ăn liền cảm động lắm. Cái hôm máy bay trực thăng sà xuống tới đọt tre, thả hàng cứu trợ xuống “ốc đảo” quê tôi (vùng đang bị thiên tai lũ lụt bao vây), tức thì từ trong các nhà ngập lũ sâu, bà con đã ào ra, bơi theo dòng nước cuộn chảy, vớt những thùng mì tôm bọc trong giấy nhựa. Và từ bữa đó, bà con làng tôi đã ăn mì tôm cầm hơi, suốt những ngày bão lũ gian nan, cơ cực. Khối cô cậu sinh viên, học sinh nghèo trọ học xa gia đình, vừa mua sách học vừa “kế hoạch” túi tiền, mua chục gói mì tôm để dành “ăn dặm”, vì nhiều bữa phải mì tôm thay canh, mì tôm bữa sáng đến trường, bữa tối thức khuya học bài. Khối anh chị công nhân nhà máy, ông bà cán bộ hưu trí (từng làm nhân viên cho lãnh đạo), đến kỳ lĩnh lương, liền ưu tiên dắt nhau ra siêu thị, mua một thùng mì tôm ôm về, bảo đã làm xong “kế hoạch tiền lương”. Một bà chủ quán trong khu dân cư nghèo đã có lần kể cho tôi nghe, những ngày giáp Tết, quán bà bán mì tôm chạy lắm, nhà nào cũng mua mì tôm ăn Tết, có nhà mua tới mấy thùng. Hình như đoán trước được, tôi sẽ có câu hỏi, tại sao, bà giải thích luôn: “Bởi tại cái gu của dân vùng này và cũng vì, bà con sợ ngày Tết quán xá nghỉ, mà lo trước còn hơn”. Không ít người phong lưu, thích ăn ngon, phải bữa mì tôm, người ta đã “gia công” cho gói mì: cho thêm thịt ướp, chả giò, nhánh rau thơm, tiêu bột, củ hành ngâm chua, dội nước lèo nấu xương heo, sụn bò… Thế là thực khách có được một tô mì tôm hảo hảo, khác xa cái hương vị ban đầu của nó. Hương vị thuở ban đầu của tô mì ăn liền, nếu là mì tôm thì có chút hương vị tôm, mì thịt bằm chút hương vị thịt, mì bò bip – tết tí xíu hương vị thịt bò. Ngoài cái hương vị thịt hay tôm, theo tên gọi của gói mì, còn có cái hương vị rau thơm, cà rốt (hoặc khoai tây, đậu Hà Lan), muối, bột ngọt có trong bì gia vị của mỗi gói mì… Mì chay có hương vị nhiều loại rau: ngò thơm, cà rốt, khoai tây… và mùi thơm nấm (thay cho hương vị thịt, tôm, cua). Đem mì tôm so sánh với bánh bèo, bánh xèo mới thấy cái “bất công” trong sự “đối đãi” của con người. Gói mì tôm (ba, bốn ngàn đồng) lại được sản xuất trong nhà máy công nghệ với dây chuyền sản xuất tiên tiến, có thương hiệu mĩ miều, bao bì láng bóng rực rỡ, được đóng thùng lịch sự, sang trọng; trong khi đó cái bánh chưn, chồng bánh xèo, đĩa bánh bèo…(cùng giá) lại chế biến trên lò than, bếp củi lọ lem, tới khi có cái bánh rồi, cũng chẳng gì hơn, vì bị thảy ra mâm, ra mẹt. May mà gặp người ăn tinh đời, có bụng tốt còn biết, đây là: “Món ăn dân dã”… để mà thương nhau. Mì ăn liền chắc không bị cuộc cạnh tranh ráo riết, mặc dù ngày nay có xuất hiện gói phở ăn liền, miến ăn liền, cháo ăn liền… Tôi nghĩ, những gói sau này chỉ làm đa dạng, phong phú thêm cho gói mì ăn liền đang phục vụ cuộc sống hối hả thời nay. Thử hỏi, ở trong nước mình, món ăn nào có tính phổ cập, “phủ sóng” toàn miền, toàn cõi, toàn quốc? Phở chăng? -Nhiều thị trấn không có quán phở tái, nạm. Bún bò giò heo chăng? –Cũng không. Cháo lòng, bánh hỏi thuộc “gu” của dân Bình Định, nhưng nơi khác thì cũng chẳng có “biệt nhãn”gì. Cao lầu vẫn “cố thủ” ở thành phố Hội An – Quảng Nam, Don “an phận thủ thường” ở thành phố Quảng Ngãi… Thưa, chỉ có gói mì ăn liền. Kí túc xá những ngày giáp tết buồn xo, mặt đứa nào đứa nấy cứ như bọn ma đói vật vờ. Tết đến nơi rồi, ở quê bố mẹ còn bao nhiều thứ để tiêu, chả đứa nào dám hé răng xin tiền. Chỉ còn tiền để dành về quê thì không đứa nào dám đụng đến, dù có đói. Hương, Nhung, Chi đang ngồi trên tầng 3 kí túc, ủ rũ như lũ chim. Chợt thấy bóng ai như chị Thương đi dưới sân trường. Tay ôm một thùng gì vừa to vừa nặng. Hương mắt to nhìn rõ đó là thùng mỳ tôm liền gọi thật to: - Chị Thương ơiiiiiiiiiiiiii…… Thương ngẩng mặt lên cười thật tươi. Ba đứa chạy như chim bay xuống sân trường ôm chầm lấy chị. Chị Thương là chị học khóa trên của mấy đứa nhưng ở chung phòng chúng nó mấy năm liền. Đời sinh viên có trải qua mới thấu được tình cảm anh chị em ở đó. Mọi người coi nhau như chị em thân thích trong nhà nên có gì ăn cũng chia cho nhau. Có khi hết tiền, cả phòng đun nước sôi rồi mỗi đứa một gói mỳ úp. Thường thì sinh viên chỉ mua những loại mỳ rẻ tiền như mỳ miliket, mỳ Gấu đỏ và một số loại mỳ có giá 2500đ. Nhưng thường thì mọi người trong ký túc hay mua mỳ gấu đỏ nhiều hơn vì mua một gói mỳ, ta sẽ ủng hộ được trẻ em ung thư 10 đồng. Dù đói, dù không có tiền nhưng truyền thống “lá lành đùm lá rách, lá rách đùm lá rách hơn” vẫn rất sôi nổi. MÙA MƯA NHỚ MÓN MẮM Mắm là một trong những món ăn khiến bạn nhớ mãi, không chỉ vì hương vị thơm ngon mà còn vì những kỷ niệm về những người thân yêu gắn liền với nó. Tôi hâm mộ những món ăn liên quan đến mắm. Từ nhỏ, những buổi cơm có mắm luôn làm tôi no lặc lè đến độ ăn xong là ngồi ì ra thở hổn hển. Nhưng cái thứ mắm khó tính và đỏng đảnh đó không phải ai nấu cũng ngon. Mắm ngày xưa Những chiều mưa quạnh hiu, u tịch thật buồn. Sự ẩm ướt và se lạnh làm con người mềm rũ, lười biếng và miệng nhạt phèo. Tôi và mấy anh em họ chạy về nhà sau một buổi rượt bắt nảy lửa, tắm mưa dầm dề. Cả lũ vừa lạnh, vừa đói đến rũ người, tay chân run lẩy bẩy. Thời đó làm gì có bánh ngọt, snack bán sẵn để ăn ngay. Thấy đám em đói thật thảm hại, chị tôi xắn tay nhóm bếp lò dầu. Chị múc một ít tóp mỡ trong cái lọ sành mẻ miệng cho vào quánh nhỏ, đun nóng. Tiếp đến chị cho vào lưng chén nước mắm sống, vài muỗng đường, tiêu. Tay chị khuấy đều không ngừng. Mươi phút sau, cái quánh đơn điệu với hỗn hợp dẻo quẹo màu nâu đậm được dọn lên cùng nồi cơm nguội, trái dưa leo cắt khoanh. Tôi thất vọng ra mặt trong khi mấy đứa khác nhào ngay vào ăn ngấu nghiến. Chị bảo: "Mắm quẹt kho, cơm nhà nghèo, ăn chống đói đi cưng". Tôi lấy đũa gắp miếng dưa leo, quẹt cái xẹt vào món mắm kho quẹt của chị rồi ăn cùng miếng cơm. Trời đất! Ngon dễ sợ. Hương nước mắm cô đặc quyện cùng sự nồng ấm của tiêu đen, vị mặn ngọt ngọt kết hợp với vị béo ngậy của tóp mỡ thấm vào từng hạt cơm nguội. Tương phản với vị đậm đà ấy là cái giòn giòn thanh mát của dưa leo. Lúc đó, tôi cảm thấy món mắm kho quẹt còn ngon hơn cả những món sơn hào hải vị mà ba má đã cho tôi ăn. Người tôi tỉnh hẳn, cái lạnh tan đi. Tôi cũng xông vào giành ăn với đám anh em họ để rồi no ứ hự sau khi "hạ gục" bốn chén cơm to đùng. Cứ thế, mỗi dịp hè về chơi nhà bác, tôi lại đợi thật đói rồi chờ ăn cơm nguội với mắm kho quẹt của chị. Rồi đến một ngày, vị mắm kho quẹt kia cùng chị đi xa, về phía bên kia cuộc đời vì một chuyện tình dang dở và những phút rối bời. Sau này, tôi cũng tự làm mắm kho quẹt trong những ngày mưa, nhưng chẳng bằng chị ngày xưa. Mắm dì Chín Chị tôi có món mắm kho quẹt, còn "tuyệt chiêu" của dì Chín, người bà con ở cùng nhà tôi, là món mắm lóc chưng hột vịt muối. Chiến tranh đã cướp đi của dì một người chồng và đứa con duy nhất. Từ đó, dì sống cô quạnh, lặng lẽ. Dì người gốc Long An, ăn nói rổn rảng, tay chân mau lẹ, làm gì cũng nhanh nhẹn. Thế nhưng mỗi lần làm món này, dì lại chầm chậm, tỉ mẩn từng chút một. Dì bảo: "Mắm lóc phải chọn loại nạc, không xương, vị đậm đà, màu cam đỏ tươi rói, không nhợt nhạt hay ỉu xìu". Dì không bao giờ mua mắm xay sẵn mà chọn mắm nguyên về tự tay trộn đến khi dẻo mịn. Thịt cũng băm thật nhuyễn. Trộn đều thịt, mắm với hành tím băm nhỏ, trứng vịt đánh tan, thêm ít đường cho dịu vị, chút tiêu và ớt băm cay nồng. Dì cho mắm đã trộn vào tô, tém bằng mặt, thêm một cái lòng đỏ hột vịt muối lên trên rồi mang hấp lửa liu riu.Dì canh chừng lửa cẩn thận để không cạn nồi. Được một lúc, dì dùng tăm xăm thấy hơi ráo, khi đó mắm đã chín. Dì đánh tan một lòng đỏ trứng vịt, phết lên mặt mắm chưng rồi hấp tiếp một lúc nữa. Mắm hấp xong có lớp mặt màu vàng cam hấp dẫn, nhìn thôi cũng phát thèm. Món mắm chưng này không thể thiếu dưa leo cắt lát, rau sống, rau xà lách. Vị mắm thơm, mặn song hành cùng vị thịt chắc ngọt và độ xốp dẻo của trứng ăn với cơm nóng thì không gì ngon bằng. Tôi nhanh tay xắn miếng mắm có cái lòng đỏ trứng vịt muối ngự bên trên. Nó mới béo ngậy và đậm đà làm sao! Tôi vừa ăn vừa du hành về những ký ức mà dì vẫn kể đi kể lại như thước phim được tua ngược. Đó là ký ức về những bữa cơm nóng của cả gia đình với chén mắm chưng, món ăn mà chồng và bé Lộc, con dì, vẫn ưa thích. Ngoài hiên, mưa rả rích rơi, mắt dì nhìn xa xăm, buồn buồn khi nhắc về những ngày hạnh phúc. Quả thật, dưới bàn tay của dì, ai từng thưởng thức món mắm cũng đều tấm tắc khen ngon. Mắm cầu kỳ Nhiều người cho rằng lẩu mắm là món dân dã và dễ làm. Tôi không nghĩ như vậy. Món ăn này thật sự rắc rối và phức tạp, đặc biệt là qua bàn tay của bà ngoại tôi. Người ta thường nấu lẩu mắm với mắm cá linh và cá sặc, còn ngoại có công thức riêng của mình. Bà kết hợp mắm cá linh hay cá sặc với cá lóc. Bởi lẽ mắm cá sặc khi nấu nước rất đục, mắm cá linh có màu không đẹp. Do đó, phải thêm mắm cá lóc xay mịn để tạo vị thơm đậm nhưng thanh, màu mắm ửng đỏ mới ngon. Mắm phải ninh cho nhừ rồi lược qua rây, tán cho kiệt xác, không còn xương. Sau đó, xào thơm hành tím, sả, ớt băm rồi cho thịt ba rọi ít mỡ đã cắt lát vào xào săn. Tiếp đến, từ từ chế nước cốt mắm vào đun sôi. Nếu mắm đặc, cho thêm nước dừa tươi vào sẽ giúp mắm ngọt đậm đà hơn. Kế đó, cho mực nang khía bông cắt miếng vào. Mực phải dày nhưng không dai. Bà còn cho thêm tôm vào. Những con tôm to được bà cắt bỏ râu, chân, chẻ sống lưng rút chỉ đen cẩn thận. Mấy khoanh cá lóc dày với sớ thịt trắng phau tươi rói cũng được cho vào. Khi mực, tôm và cá chín, cho tiếp cà tím vào, bà bảo: "Cà tím phải cho vào sau cùng, vì nấu lâu, cà sẽ bị nát thấm vị mặn của mắm, không ngon". Món này chỉ cần nêm ít muối, đường là được. Đôi khi, bà còn cho cả thịt quay vào. Bún dùng cho món lẩu mắm phải là bún sợi to, được trụng cho mềm. Rau sống phải đủ loại như rau muống bào, rau chuối, kèo nèo, bông súng, giá hẹ... Phải nói rằng đó làm một tập hợp các nguyên liệu, khi dùng chung tạo nên hương vị rất riêng, hấp dẫn và ngon miệng. Nhìn nồi lẩu mắm với màu của mắm, màu trắng sữa của mực, cá, màu đỏ au của phần da heo quay giòn rụm, màu cam tươi tắn của tôm, màu xanh của rau sống, chưa ăn đã thèm. Với tôi, mắm không chỉ là món ăn bình thường khi đói lòng mà còn là kỷ niệm. Bởi mỗi món gắn liền với những người thân yêu, những ký ức về thời thơ ấu được mọi người chăm chút, yêu thương. Mỗi lần được mẹ nấu cho món lẩu mắm, tôi lại nhớ đến bà. Những ngày hè về quê, lúc chiều chạng vạng, bà lại lui cui bên bếp lửa đỏ rực, hương mắm thơm lừng như muốn át đi hơi đất bốc lên sau cơn mưa, mùi ngai ngái của cỏ cây quanh nhà... Bà không còn nữa, nhưng món mắm của bà đã truyền cho mẹ để trói chân cha con tôi bằng bữa cơm ấm áp. Bạn có thể thử và tôi chắc rằng bạn sẽ mê những món mắm quê nhà. MƯA ĐỒNG THÁP MƯỜI Mỗi ngày cứ đến 5 giờ sáng là kẻng báo thức đã vang lên. Ngoài sân trời còn tối mịt.Tất cả tù choàng thức dậy sau một giấc ngủ như mê, đầy mệt mỏi,bởi lao động quá nặng nề trong việc cuốc đất đào kinh mà thời gian nghỉ quá ngắn.Có những ngày nắng gay gắt, gặp phải thế đất gò, cứng như sắt, toán đào kinh về tới trại thì trăng đã lên. Nhảy ùm xuống kinh tắm vội vàng, vô tới chỗ nằm là căng mùng ra ngủ,chẳng kịp nói với người nằm cạnh bên một câu nào. Gặp hôm mưa dầm ra lãnh lô đất nước lên tới gối, be bờ tát nước xong có khi gần hết buổi sáng. Làm việc với hết sức con người mà mỗi ngày lãnh 2 ca cơm trắng với 1 phần canh lưng chén (thường là rau ,bí luộc với muối và chút mỡ heo) Ðào kinh 2 thước tới, 2 thước ngang, sâu 1 thước rưởi , đáy 1 thước, triên bờ bảy ba. Hai con kinh song song, phần giữa sẽ đắp thành con lộ, bờ đê hai bên bờ kinh sẽ trồng chuối và trồng khóm .Chương trình còn là xả phèn đất Đồng Tháp bẳng cách đào những con kinh nhỏ xẻ dọc ngang cho nước chảy ra con kinh lớn mà lao động chính là lực lượng tù của trại cải tạo Mỹ Phước Tây. Không biết người ngồi trên đã nghiên cứu kỹ chưa chứ theo cách đào kinh nầy thì sức khoẻ của tù ngày sẽ kiệt dần vì chế độ ăn uống quá kém mà việc làm lại quá nặng nhọc, mà mỏ phèn của Đồng Tháp Mười thì quá lớn ..!Hơn 5 giờ sáng đã xuất trại, lội ruộng băng đồng trung bình mỗi ngày hơn 6 km mới tới nơi . Ði và về đã muốn hết hơi chứ đừng nói chi đến việc đào kinh.Tuần lễ đầu tiên mới chuyển từ trại cải tạo Hoà Đồng lên đây, tôi cảm thấy toàn thể xương trong người như rệu rã, bắp thịt bắp tay mỏi nhức như dần. Không có ngày nào tôi đào xong phần đất, thường đều phải nhờ anh em trong toán phụ tiếp, một điều làm cho tôi hết sức ái ngại,bởi bạn bè đã mệt mỏi sau phần đất của mình nay phải bỏ công đào giúp. Cả toán phải xong ,sau khi tên "chịu trách" kỉểm tra thấy đạt thì toán mới được tập trung chờ điểm danh ra về, nên dù không muốn anh em cũng phải phụ nhau để được về sớm. Nhiều khi vì mệt mỏi quá, không ai phụ ai nên trăng đã lên mà tôi vẫn còn nguyên cả lớp đất cao khoảng hơn 4 tấc. Anh em tù thường gọi đùa là còn đứng trên bục thuyết trình vì mọi người tù xuống đến lớp đất đáy mà mình còn đứng trên cao . Quần xà lỏn, áo rách vá chầm, mặt mày đầy bùn đất, khi nào xong ra vũng khoát nước rửa mặt Rửa xong lên tôi mới thấy nhẹ người, một ngày lao động với tôi mới thực sự là hết. Ngoài cái khổ về lao động vất vả, còn một nỗi khổ khác mà hầu hết đám sĩ quan trẻ tụi tôi phải cắn răng chịu đựng là việc ăn ở chung chạ với đủ thành phần trong xã hội , từ hạ sĩ quan, binh sĩ đến trộm cắp, chiêu hồi. Nằm cạnh người biết điều còn đỡ, rủi ro nằm bên tên lưu manh thì thật là khổ tâm. Vui thì nó cười nói, buồn thì chửi xiên chửi xéo: "Đồ cái thứ quen thói ngồi mát ăn bát vàng, đồ cái thứ chỉ tay năm ngón, bây giờ cho ...chết mẹ tụi bây luôn ". Chưa kể đồ đạc hở ra bị mất cắp, nếu nóng trả lời lại đêm ngủ nó giả đò mê mớ quơ chân đá vô sườn vô lưng. Trại nầy trước khi tụi tôi đến chỉ có vài sĩ quan còn lại đa số là tù hình sự. Trại cải tạo Mỹ PhướcTây nằm trên trục lộ Cai Lậy- Kiến Tường, trước đây là căn cứ pháo binh của quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Phía sau trại là phố chợ của khu trù mật Mỹ Phước Tây. Trước và bên hông trại là hai dòng kinh Dương văn Dương. Mấy tháng đầu, tôi ở trong nhóm do chú Tư Hiếu làm nhóm trưởng. Chú là người có cấp bậc cao nhất của nhóm nầy, thượng sĩ ,thuộc chi khu Cái Bè, tính đằm thắm rất dễ chịu, hiểu đời. Tụi tôi khoảng 10 ngưởi đều là sĩ quan từ trại cải tạo Hoà Đồng lên nhập vào nhóm nầy. Một gian nhà cột tràm lợp đưng , vách chầm lá, khoảng 50 mét vuông. Ðã có sẵn trên 40 tù với 6 em Phục quốc đang bị còng chân chung một thanh sắt. Phòng quá chật , nền đất. Tôi phải nằm chung mùng với Thiếu úy Tài, trung đội trưởng thám báo tiểu khu Gò Công, cạnh Tư què nhỏ hơn tôi khoảng 5 tuổi can tội trộm . Những buổi lao động về trễ, nhìn thấy ánh trăng lấp ló trên trời tôi mới thấy thấm thía câu "Một nắng hai sương" mà trước đây tôi chỉ hiểu lờ mờ. Bây giờ chạm thực tế mới hiểu rõ: sáng đi sương còn mờ mịt, tối về sương rơi ướt tóc ...Nhóm sĩ quan Gò Công chuyển lên trại nầy khoảng trên một trăm.Cùng chung cảnh khổ nên dễ kết thân với nhau, nhưng hầu hết anh em đều không quen với việc lao động, nên sức khoẻ đều sút kém trông thấy rõ. Trại chia ra làm 3 hệ, mỗi hệ chia thành từng nhóm ở chung nhau, hệ quân đội, hệ cảnh sát và hệ hành chánh. Một dãy ngang, hai dãy dọc, chính giữa là nhà bếp và trại tù nữ. Sát bộ chỉ huy là dãy nhà nhỏ dành cho những người bệnh dễ lây như lao, cùi... Chức sắc trong nhóm có 3 cấp : nhóm trưởng, nhóm phó, thư ký nhóm do anh em bầu lên . Cũng có khi do trại chỉ định ( thực ra do Bảy Quế chỉ định). Khi ra lao động thì do một số quân đội và cán bộ Việt Cộng bị nhốt về các tội tham ô , hủ hóa hay chiêu hồi dẫn đi , có võ trang súng ống đầy đủ đi kèm. Thường là súng trường CKC, thỉnh thoảng mới thấy có súng AK. Những tên tù chức sắc nầy được gọi là chịu trách. Thường những tên chịu trách nấy rất sắt máu và hắc ám hơn cán bộ trại bởi họ muốn lập công chuộc tội để được tha về sớm . Trưởng bên tù Nam là Bảy Quế, một tên Việt Cộng bị ghép tội phản gián. Tên nầy ốm cao, người miền nam, chịu trách điểm danh xuất trại cũng như điểm danh vào buồng buổi tối, có quyền đề nghị biệt giam và cũng thường ngồi chủ trì các buổi họp kiểm điểm ở đội .Bên nữ là Bà Hai Cốt cũng can tội gián điệp ( Sau ngày sập tiệm, báo Sài Gòn ...lóng cóng có đăng một tiểu thuyết gián điệp mà Bảy Quế và bà Hai Cốt là 2 nhân vật chánh.) Tù Việt Cộng ít khi được ở yên. Ở trong nhóm nầy vừa tạm ổn, tương đối vừa mới hiểu rõ tính tình nhau là chuyển đổi qua nhóm khác. Bởi vậy trong tù có câu ..." Thứ nhất tự khai, thứ hai đổi nhóm ...”. Tôi chuyển qua nhóm 20, nhóm trưởng tên Đẹp là trung sĩ cảnh sát , nhóm phó là Khanh thượng sĩ quân cảnh tư pháp . Hai tên nầy sống có vẻ cách biệt với anh em trong đội, thường thích tỏ ra vẻ mình là cấp chỉ huy , và có vẻ không ưa gì đám sĩ quan từ Gò Công lên. Tôi biết trong hoàn cảnh nào tôi cũng phải cố gắng thích ứng để sống. Trong nhóm nầy cũng có vài sĩ quan Gò Công nhưng chỉ có một người bạn là Võ Văn Trầm, khóa 2 CTCT Đà Lạt, thuộc Sư Đoàn 9 là tương đối thân thiết với tôi. Ra lao động chúng tôi vẫn thường đào đất 2 lô tiếp giáp nhau. Trầm có sức hơn tôi nhưng để hoàn thành phần kinh cũng phải hết sức vất vả . Buổi sáng các đội tập trung ngoài sân trại. Trong lúc chờ đợi điểm danh xuất trại, một số anh em tìm những tảng đá xanh mài lưỡi len cho bén Âm thanh rền vang trong cảnh trời còn tối đen. Bang, Đại úy phân chi khu trưởng xã Long Thuận thường chỉ cảnh mài len cười nói : - Coi kiếm sĩ mài gươm dưới ...mây kìa. Hôm nay đào kinh tận giáp hạt nên Bảy Quế cho xuất trại sớm.Trên 600 tù tay cầm len tay xách bị đựng cơm nước đi thành một dọc dài trên con lộ cặp bờ kinh trên đường liên lộ đến Kiến Tường. Ngang qua trại tù Vườn Đào ( tù nhân trại nầy toàn là sĩ quan, có một nữ sĩ quan là Trung Úy Nguyệt )tôi nhìn thấy anh em trong trại này còn trên sân chưa ra lao động. Gió buổi sáng mang chút sương đêm còn sót lại, cảm giác lành lạnh nhưng rất dễ chịu. Thỉnh thoảng có vài bạn tù băng vội xuống ruộng bên đường hái rau diệu, rau má hoặc rau dền, hay tấp vào quán bên đường mua nải chuối, gói xôi ... Có tốp đi trong im lặng cũng có tốp cười nói râm ran - Ê Mỏng, hôm nay chắc trời sẽ mưa lớn. Thằng Trầm đi bên cạnh nói với tôi -Tao khoái trời mưa, mưa cho thiệt lớn, đỡ phải đào đất. Thật vậy, mưa có lạnh lẽo và ướt át thật nhưng nước ngập tràn thấy đường đâu mà đào với đắp.Tìm bờ đất cao ngồi rút mình dưới cái nón lá mỏng manh trông như một cây núm dại. Thấy bầu trời còn nhiều mây đen, liệu mưa khó dứt hột là Bảy Quế cho thu quân.Phần lớn cho thu quân khi trời mưa là do đám vệ binh sợ tù trốn trại. Trời dần sáng tỏ. Khi tới gần giáp hạt,thỉnh thoảng trên đường liên tỉnh có chuyến xe đò Sài Gòn Kiến Tường chạy ngang qua ...Rất nhiều khi tôi kịp nhìn thấy ánh mắt thật buồn của một cô gái nào đó ngồi bên cửa xe. Tôi nhớ tới những ngày công tác tại quận Phú Lộc, chiều buồn ngồi một mình trong quán bên đường nhìn xe cộ tấp nập qua lại với tốc lực thật vội vã từ Sài Gòn về Bạc Liêu hay Cà Mau,bên chai bia, gói thuốc lá mà nhớ tới Sài Gòn. Nhớ đến con đường Cường Để mỗi khi mùa hè đến, cổng trường rực rỡ xác hồng hoa phượng. Cô bé mắt nâu vén gọn vạt áo dài ngồi gọn vào yên sau chiếc xe Honda dame màu xanh, vòng tay ôm thật sát.Quận Phú Lộc này tôi đến công tác có một tuần lễ, nhưng những người lính và dân ở đây còn để lại trong lòng tôi nhiều cảm tình đẹp. Nhất là Thiếu Tá Phát, vị quận trưiởng đẹp trai,mà tôi cũng vừa hay tin đã tự sát trong ngày tháng tư đen ...Bây giờ nhìn chiếc xe đò chạy ngang ,tôi có một ước muốn thật tầm thường là được ngồi trên chiếc xe đò để về Sài Gòn,một việc còn khó hơn là bắc cầu qua biển nối Gò Công với Vũng Tàu ...Bây giờ trước mặt là một cánh đồng đưng mênh mông cạnh những thửa đất hoang ngập đầy nước và cây điên điển. Trời tháng mười hoa điên điển nở vàng . màu vàng thật đậm... xa trông cũng đẹp mắt lắm. -Ê Trầm, cố gắng đào lẹ, phụ tao hái bông điên điển chiều về nấu canh chua ăn. - Để coi trúng lô đất nào, gặp chỗ nhiều nước quá,tao mầy làm trâu nằm vũng chứ làm sao mà xong sớm được . Thằng Trầm nói xong ngước nhìn trời, nó chỉ đám mây đen đang từ hướng Nam kéo tới . -Tao cá với mầy là hôm nay mưa lớn lắm , lo mà tìm chỗ trú mưa chứ đào đục gì mà đào . Bảy Quế vừa căng dây cậm tiêu chia lô vừa nhìn trời rồi lầm bầm: - Hôm nay chắc trời mưa suốt ngày . Tôi và Trầm đứng nhìn lô đất mới lãnh , nước lên tới đầu gối, đỉa trâu lội lều bều. Trầm ngó mặt lên trời cười ngất : -Hôm nay cúm núm kêu rồi Mỏng ơi !( Cúm núm kêu lúc trời giáp tối ) Hút một điếu thuốc rồi tính sau. Trầm móc bao nylon đựng thuốc rê ra vấn một điếu rồi thảy chuyền cho tôi . -Đắp bờ tát cạn nước cũng trưa trật rồi, chỉ còn mong mưa tới sớm .Lao động là vinh quang mà Mỏng. Tôi nói nhỏ vừa đủ cho Trầm nghe : -Nhưng mà không lao động là ...vinh râu mà Trầm, Kệ, tới đâu tới, hút thuốc uống nước ...rồi ngồi cầu mưa. Tôi trả lời với Trầm mà mắt nhìn quanh, bạn tù mọi người cũng đều lo lắng nhìn lô đất. Có nhiều người cùng nhau hợp tác, bắt đầu be bờ tát nước . Trầm bắt đầu cầm len khui hộc, nó xắn ngầm từng tảng đất thật to. Tôi nhìn cục đất mà thấy ngán ngược. Ðặt len nằm trên bờ, tôi xắn quần, bắt đầu ôm đất đắp bờ. Dù đang lao động nặng nhưng vì buổi sáng hôm nay mây âm u,gió lại lành lạnh,gần nửa thân mình ngâm dưới nước nên tôi cảm thấy trong người ớn lạnh.Cho tới gần 10 giờ thì bờ bao cũng đã đắp xong. Trầm buông len,giơ chân lên khỏi mặt nước, cả chục con đỉa trâu bám đầy ống quyển mập căng đầy máu. Nó kéo từ con ra khỏi da, máu chảy đỏ nước.Trầm nhìn quanh,thấy chẳng có chỗ nào để giết đỉa, đành quăng ra xa mà coi bộ ấm ức lắm. Nó móc túi lấy chút thuốc rê quẹt lên vết đỉa cắn để cầm máu , miệng lầm bầm chửi thề. Tôi cũng chẳng khá hơn gì nó, chốc chốc thò tay xuống nước là kéo ra một chú đỉa... Dưới mắt tôi ở đây đìa đúng là...lềnh như bánh canh. Trầm phụ tôi tát nước và kiểm soát lại các nơi rò rỉ . - Nghỉ chút Mỏng, kiếm cái gì ăn, tao thấy đói rồi . Thằng Trầm khoát nước rửa tay, lên bờ móc thuốc vấn hút và đi lần đến chị gánh hàng. Nó mua 2 gói xôi tìm bờ cao ngồi rồi vẫy tay gọi tôi . Tôi đi lần tới, Trầm vừa ăn vừa phân công : -Tao xắn đất ngầm, mầy dùng thùng đạn tát nước cho nhanh, khi nào cạn nước thì phụ đào với tao. Trong không khí lành lạnh, trên 600 tù trải dài một khoảng tầm xa nhìn mút mắt. Nhiều lô đã tát nước xong, đất được len vụt lên bờ đều đặn, mỗi cục đất với hình dáng và trọng lượng gần giống như nhau,liên tục bay bay lên bờ . Những giọt mưa đầu tiên bắt đầu rơi .Thằng Trầm cười cười nhìn tôi: - Ê, khoẻ rồi Mỏng à ...Coi trước chỗ nào có lùm cây cao để đụt mưa, tao nhìn đám mây nầy thấy mưa tới chiều chưa dứt. Mầy nhớ bọc thuốc hút lại cho kỹ, lạnh mà không có thuốc hút là buồn lắm đó . Tôi nhìn quanh, cả cánh đồng đưng chẳng có cây nào có tàn cao đủ để núp mưa. Nhìn xa , ngoài đường lộ thỉnh thoảng có xe đò chạy qua, cũng có những bàn tay như vẫy chào. Nhìn lên bầu trời thì mây đen vần vũ, hạt mưa đã bắt đầu nặng hạt. Rất nhiều anh em tù bỏ lô đất lên bờ đứng hút thuốc. Gió bắt đầu thổi mạnh và cơn mưa cũng trút giọt ào ào . Mình mẩy ướt nhem, tôi và Trầm xách bị cơm chạy núp mình vào một đám đưng gần kề che sụp nón lá nép mình tránh mưa. Mưa thật nặng hạt, chốc chốc hai đứa rút chân lên lấy tay gỡ bớt đỉa , đỉa trâu no máu con nào con nấy mập ú . Thằng Trầm càu nhàu : -Lao động là vinh quang, tụi mầy không làm mà cứ theo hút máu tao hoài , chết nè con . Thằng Trầm dùng thân cây đưng lộn ngược con đỉa ra , máu đỏ ướt cả tay nó . Trời đã trưa mà mưa không dứt hột. Bụng đói mà không biết làm sao ăn. Gió lộng tư bề, tôi cảm thấy lạnh, cái lạnh không bình thường như mọi khi gặp trời mưa. Trong người tôi hình như có tới hai luồng lạnh, một từ trong xương lạnh ra, một từ ngoài lạnh vào . -Ê Trầm, hình như tao bị cảm, tao thấy lạnh quá,không làm sao chịu nổi. Tôi vừa răng đánh bù cạp vừa nói với Trầm. Nó nhìn tôi bằng cặp mắt ái ngại : -Giữa đồng không mông quạnh như vậy thì làm sao có chỗ khô ráo mà tránh mưa tránh gió. Mầy thử lựa chỗ nào nước cao ra đó trầm mình xuống nước , ló đầu lên che nón lá kỹ lại coi có đỡ lạnh hơn không. Dân quê mình ra đồng làm ruộng gặp mưa to gió lớn vẫn chống lạnh bằng cách nầy . Tôi đảo mắt nhìn qua một lượt, mấy cây điên điển nở hoa vàng đang lả mình theo từng cơn gió giật. Có nhiều khóm chỉ còn ló thật ngắn chút đọt. Trong lòng thấy ngao ngán ,tôi lách đám đưng lội chậm chậm về hướng bụi điên điển. Tôi từ từ ngồi xuống nước ,chỉ để ló từ cổ trở lên. Quả nhiên thấy ấm hẳn lại. Thằng Trầm nhìn vẻ mặt dễ chịu của tôi ,nó cười lặc khặc: -Ấm chưa Mỏng ?Chừng nào lạnh hết chịu nổi tao cũng xuống với mầy ... Tầm mắt tôi chỉ cách mặt nước khoảng gang tay, hạt mưa xéo mạnh vào mặt nước,rải đều chập chũm. Tiếng mưa rơi, tiếng gió từng cơn, tiếng đưng quằn ngã theo gió vang vang bên tai tôi. Lòng tôi thật buồn, tội cho cái thân tù ... Chốc chốc lại phải lấy tay rà khắp người để kiểm soát đỉa, bởi vẫn thường bị mấy con đỉa lẻn vào ..".bộ chỉ huy" để hút máu .Mấy con đỉa này tù bắt được thường đề quyết là đỉa ...cái Tôi co ro ngồi dưới nước, tuy có ấm hơn ngồi trên bờ nhưng vẫn cảm thấy lạnh lắm. Gió xoáy thổi vào mặt bật tung nón lá ... Mắt tôi mờ lại trước những giọt mưa . Những chùm hoa vàng điên điển, trước tôi còn thấy rõ, dần dần mập mờ nghiêng ngả theo từng cơn sóng nước ...Mẹ của tôi bây giờ đang ăn cơm trưa ? Mâm cơm không biết còn được mấy món hay là chỉ trơ một dĩa rau luộc, không biết có thêm được trứng vịt luộc dầm nước mắm không ? Với đồng lương dạy học của chị, vừa nuôi ba nuôi mẹ lại cưu mang thêm đứa em tội tù ...Mỗi lần gặp Mẹ bên hàng rào kẽm gai , bên bờ ruộng chỗ cho thăm nuôi phía sau trại , lần nào tôi cũng phải hết sức cố gắng cho nước mắt khỏi tuôn trào. Bao lần tôi nói mẹ tìm người gửi chứ đi thăm đường xá xa xôi quá, sức khoẻ Mẹ bị suy giảm làm sao con an tâm sống được...Mẹ ừ mẹ hử. Tay mẹ lần xoa bóp tay con, mẹ vuốt tóc, mắt mẹ đỏ hoe... Rồi vắng một tuần lại cũng thấy mẹ lên thăm ... Mẹ đâu biết rằng khi con từ giã mẹ trở vào nhóm là phải vội vàng lên trình diện ban chịu trách để đi lao động ngay. Ðó là quy luật dành riêng cho người có thăm nuôi trong ngày chúa nhật. Tùy theo mùa nên công việc có khác nhau , khi thì một thúng lúa giống lội trên 6 cây số đường ruộng, khi thì 5 cây chuối cây giống cao khoảng hơn thước . Khi thì một bó đầu khóm giống. Thúng lúa giống một giạ tuy có nặng nề, vậy mà dễ di chuyển vì khi thấy mệt ,tù cứ để xuống nghỉ . Thời gian di chuyển không bắt buộc nhưng tù nào cũng muốn xong về sớm đề sắp xếp đồ thăm nuôi . 5 cây chuối mới là nan giải , thường tù dùng dây kết lại làm bè ,dòng theo bờ kinh mà kéo. Tới khúc lộ ôm từng cây băng qua,ra tới nơi đào lỗ trồng 5 cây xong mới được về. Tên chịu trách còn đến xem từng cây coi có bị bầm dập gì không . Ðầu khóm giống càng khổ hơn , nó không nặng nhưng gai góc , nếu vác vai thì gai đâm cổ .Cách nào thì cũng bị gai quào xước cả người. Mới mười tám tháng xa nhà mà lòng tôi đã thấy nhớ lắm.Lúc ở đơn vị, dù là đơn vị tổng trừ bị luôn phải rày đây mai đó, nhưng mỗi khi thấy nhớ nhà thì dù cho cấm trại 200% đi nữa, tôi muốn về là tôi về . Không có đơn vị trưởng hay quân cảnh nào cản ngăn tôi được ...Bây giờ mẹ tôi ngồi đó, rất muốn ôm hôn mẹ mà không làm sao hôn được ... Nước mất ... là mất tất cả, tôi bây giờ là thằng hàng binh, nhục ơi là nhục, đánh đấm kiểu nào mà phải buông súng đầu hàng ...Không trăm lần không, ngàn lần không, cá nhân tôi không đầu hàng mà tôi ở trong tập thể đầu hàng ...Ngày còn ở trại cải tạo Huyện Tây, mỗi nửa tháng được cho thăm nuôi một lần, tù bên trong nhìn rõ thân nhân từ ngoài đường di chuyển về hướng cổng trại. Ðã có lần máu tôi chợt nóng lên, mắt tôi nhìn như tóe lửa, khi nhìn thấy cảnh mẹ tôi hai tay xách đầy hai giỏ nặng lầm lũi bước vào cổng trại bị một thằng võ trang dùng mũi súng gạt ngang làm mẹ hoảng hốt mất đà suýt té...Hai tay tôi nắm chặt lại... Mẹ ơi, con trai mẹ hèn quá, mẹ ơi hoàn cảnh nào đã biến con trai mẹ thành thằng hèn ...Mẹ ơi ! chắc Mẹ vẫn biết thằng con trai út của mẹ có một trí nhớ rất tốt, cả đờI nó sẽ không bao giờ quên hình ảnh mẹ mình lảo đảo trước sắt thép của kẻ thù ... Mưa vẫn trải đều hột, chưa có dấu hiệu gì sắp ngớt . Bầu trời vẫn một màu đen kịt, thỉnh thoảng chớp nháng sáng trời ... Sấm động gầm gừ rền vang ... Gió vẫn xoáy lốc từng cơn -Mưa quá làm sao hút thuốc Mỏng, mầy đói bụng chưa ? Tôi trở về với thực tại. Trầm đã ngâm mình xuống nước không biết lúc nào và đang ngồi phía sau tôi . Thấy tôi ngoái đầu nhìn lạI, nó nhe răng cười khục khặc, da mặt nó đã tái xanh dù nắng gió đồng Tháp Mười đã biến tù thành ... Ông táo Tàu từ lâu .Người tôi run lên từng đợt,tôi vuốt mặt mấy cái: - Lạnh quá Trầm ơi, tao chịu hết muốn nổi rồi, chút về mấy cạo gió giùm tao nha Trầm ...Đói bụng quá mà mưa như vầy làm sao mà ăn. Tao cũng thèm thuốc lắm rồi ...Mưa điệu nầy tới chiều chưa dứt ...mà tại sao lần nầy tụi chịu trách cho thu quân trễ quá vậy? Mắt tôi lại thấy nặng, đã lạnh, đói lại còn buồn ngủ nữa ...Tôi bỗng như thấy lại hình ảnh một buổi trưa tại trại Huyện Tây... Buổi sáng mẹ đã vào thăm, buổi chiều tôi yên chí nằm trong phòng, và để rồi rất ngạc nhiên khi được gọi tên ra thăm nuôi ...Tôi mặc vội bộ bà ba đen Xây Dựng Nông Thôn đi vội ra cổng trai ... Mắt tôi mở to đầy ngạc nhiên lẫn thích thú .." Mắt Nâu" ! Trời ơi Mắt Nâu của tôi lặn lội từ sài Gòn xuống thăm tôi.. đi chung với mắt nâu còn có Khưu thị Tuyết Mai cũng bạn chung lớp năm Nhiệm ý ban Việt. ... Theo phản ứng tự nhiên tôi chồm tới định nắm tay ... nhưng tôi kịp "thắng" lại , vì tôi đã tự biết tôi là ai. Tôi đâu còn là sĩ quan ở trại Nguyễn Bỉnh Khiêm gần đài phát thanh Sài Gòn nữa mà mừng mà vui khi thấy Mắt Nâu vào trại thăm tôi, như những ngày còn trong đơn vị ... Mà ở đây là trại cải tạo, một lối nói văn vẻ thay cho trại tù hay khám đường .... -Ê, Bảy Quế đang nói gì với mấy nhóm trưởng kìa Mỏng , không chừng thu quân đó mầy ... Tôi đang mơ màng nhớ lại những hình ảnh đã qua thì giọng thằng Trầm đưa tôi về thực tại ...Hai hàm răng tôi đánh vào nhau nghe cồm cộp, tiếng nói run run đứt khoảng -Về là phải rồi ...mưa như vầy mà còn đào gì nữa. Tôi đứng thẳng người lên, cơn gió xoáy ngang làm tôi lảo đảo suýt té. Ngồi lâu cẳng chân bị tê . Gió mưa đập vào người làm tôi run lên . -Rán đi Mỏng, chắc về thiệt ..Mầy lấy tấm nylon của tao quấn đỡ, về tao cạo gió cho mấy . Thằng Trầm an ủi tôi . Chú Tư Hiếu nhóm trưởng khoát tay ra hiệu tập họp, tôi run rẩy chạy lúp xúp theo Trầm về vị trí xếp hàng...Anh em bạn tù người nào cũng loi ngoi như chuột lột, mặt mày xanh xao, đứng co ro run rẩy. Bảy Quế điển danh xong toán nào là cho toán đó về...Anh em rẽ nước băng đồng ... Mưa vẫn không ngớt hột. Chúng tôi vừa đói vừa lạnh. Nước lên ngang rún , phải lội hơn cây số mới ra tới bờ lộ cái , anh em lúp xúp chạy cho đỡ lạnh -Rán chạy lẹ Mỏng , tới quán mua mấy củ mì ăn đỡ đói với hút điếu thuốc cho ấm lòng ...Thằng Trầm giọng run run nói với tôi . Rồi đám tù cũng về tới trước cổng trại , không có anh em nào xuống kinh tắm như thường lệ mà tự động xếp hàng chờ điểm số để nhập trại. Gió vẫn vụt vù thổi, chớp vẫn nháng sáng trời ... Bây giờ cũng đã hơn 2 giờ trưa ...Tôi thấy trong người khó chịu ... Vào phòng thay áo quần khô xong tôi vạch lưng cho Trầm cạo gió . Nó xin chút dầu lửa và dùng cái muỗng cạo lưng cho tôi .. -Mầy bị trúng gió rồi Mỏng , mới cạo sơ mà đã thấy tím bầm ... Tôi cũng không màng ăn cơm chiều, trùm mền nằm thiếp luôn cho tới kẻng điểm danh tối mới ráng ngồi dậy, thấy nặng đầu và mình mẩy nóng hực. Tôi đứng lên lảo đảo suýt ngã .. - Anh Đẹp báo cáo dùm , tôi nóng quá , chóng mặt không ra điểm số được.Tôi gượng nói với Đẹp trưởng nhóm, xong nằm ngã ra thở dốc... Tôi nằm mê man cả hai ngày, chỉ uống chút nước do người bạn tù nào đó cũng bệnh nghỉ ở nhà như tôi. Mấy viên thuốc ABC tôi mang theo, tôi cố gắng uống mỗi ngày 4 viên.Buổi tan tầm thằng Trầm đi lao động về nấu cho tôi soong cháo, nhưng tôi cũng chỉ ăn được vài muỗng vì miệng mồm đắng nghét . Thằng Trầm an ủi tôi : - Mầy phải rán uống thuốc và ăn nhiều cháo mới có sức mà hết bệnh được .. Miệng đắng quá, tao thèm uống nước chanh quá Trầm ơi, tay chân tao như rã rời cử động hết muốn nổi...Tôi gượng cười :” Không biết tao qua khỏi con trăng nầy không”. Tôi thiếp đi nhiều hơn tỉnh ...Nhiều đêm thức giấc tôi nhớ mẹ vô cùng. Từ nhỏ sống cạnh kề mẹ, tôi ít khi bệnh.Vào quân trường cũng thế,ai sao tôi vậy. Chín tháng quân trường ,ngay cả trong thời huấn nhục tôi chưa từng bị xỉu. Cũng từng dầm mưa dãi nắng khi ra đơn vị , cũng ngủ bờ ngủ bụi ... . Nhất là trên con đường máu 7B di tản từ Pleiku về đến Bình Tuy, biết bao nhiêu là gian hiểm tôi đều vượt qua được ...Không lẽ trong cảnh tù đày như vầy ... Tôi không dám nghĩ tiếp,nhưng có lẽ vì quá tủi thân, nước mắt tuôn trào ướt cả má ...Nhiều lúc tôi nghĩ quẩn , phải chi mình chết bờ chết bụi trên con lộ 7B cho rồi đở phải cực thân như bây giờ. Rổi tôi cũng lại nghĩ : sông có khúc ,ngườI có lúc,mình phải ráng sống , sống để có ngày nhìn thấy toàn dân đứng lên xé nát lá cờ sao. Tình trạng nầy kéo dài mươi ngày tôi mới dấn tỉnh ... Trầm đi lao động về cùng với thằng Quang phục quốc vẫn nấu và mang đến chỗ nằm cho tôi từng chén cháo.Tôi ăn được nửa chén , rồi một chén ... Những buổi lao động gặp đất mềm tụi nó đào xong sớm, rảnh tay bắt con cá con tôm, ngang đồng nhổ nắm rau đắng đất về nấu cháo cho tôi. Trong hoàn cảnh không có người thân mà được bạn tù chăm sóc, lòng tôi cảm kích lắm.Tôi cũng tự mình cố gắng đi ra đi vào, phơi nắng buổi sáng. Gần một tháng trời mới tương đối bình phục. Thằng Trầm hôm đó về sớm nấu cho tôi một soong nước, ra phía sau pha nước cho tôi tắm. Ðã lâu mới cởi áo quần, tôi thầy người tôi toàn là xương. Tắm mát mẻ, hòm đất đóng lâu ngày phải kỳ cọ thật lâu.Buổi tối thằng Trầm pha gô nước trà có mấy miếng kẹo đậu phọng, mời một số bạn bè trong nhóm đến uống trà mừng tôi hết bệnh ... Tuy trong mình thấy nhẹ nhàng nhưng tôi cảm thấy còn yếu lắm bởi ăn cháo suốt gần cả tháng ... Tôi chuyển qua nhiều trại tù, riêng trại Mỹ Phước Tây tôi ở gần 12 tháng .Một thời gian rất ngắn so với tuổi tù của tôi, nhưng tôi nhớ trại nầy nhiều nhất. Mỹ Phước Tây trong lòng tôi vẫn là ... địa ngục trần gian , bởi chế độ lao động quá nặng nề và cai tù đánh đập tù quá tàn nhẫn .. Anh Thiếu Tá Huề kiệt sức chết ở đây , anh Đại úy Lành ( giáo phái Hoà hảo ) bị tụi cán bộ dàn cảnh bắn chết phía sau trại , anh Trung Sĩ Gương cảnh sát bị võ trang nhắm thử súng bắn chết trong lúc lao động đào kinh.Còn biết bao nhiêu anh em tù bị chết vì mìn bẫy trong lúc cuốc đất trồng hoa màu ... Bao nhiêu anh em vượt trai bị bắt lại bị đánh mềm như bột ,thất khiếu đều ra máu còn bị trói ké bỏ nằm dưới cột cờ , bắt anh em tù đều phải lên coi ...Ba người bạn cùng nhóm : Sàng , Bi và Nguyễn Thanh Quang ( trung úy Không Quân ) và Đại úy Triệu tỉnh đoàn trưởng Tỉnh đoàn xây dựng nông thôn Gò Công vượt thoát được. Bây giờ nơi đất tạm dung, mỗi khi tan ca về gặp phải trời mưa, lòng tôi lại bùi ngùi nhớ tới những cơn mưa Đồng Tháp. Trầm qua Mỹ theo diện HO 15 bây giờ ở đâu, Đại úy Triệu vượt thoát tới bến bờ tự do hình như đã qua đời vì bệnh. Còn Quang, Sàng ,Bi bây giờ các bạn ở đâu ... Trái đất hy vọng vẫn tròn, có như vậy mình mới mong có cơ duyên gặp lại những người bạn đồng cảnh ngộ ngày xưa. Nếu không có ngày tháng Tư đen, tôi sẽ không bao giờ hiểu được sự thâm ác của người Cộng Sản. Một ngày nào đó tôi sẽ về thăm lại quê hương , tôi sẽ tìm thăm lại con lộ 7B mà tôi đã bước chân đi qua. Một đoạn đường đầy máu và nước mắt,, người chết đi cũng chưa hiểu tại sao phải bỏ quân đoàn 2. Xác người chết bị đạn hất tung hai ba lần như trong một bản nhạc của người họ Trịnh đã viết. Tôi sẽ thăm lại Đồng Tháp Mười,thăm những con kênh xẻ ngang dọc như bàn cờ mà ở đó ngày ngày tôi đều bị đĩa hút máu và phải lao động khổ sai, tai phải luôn nghe những lời chửi mắng của bọn chịu trách, cai tù. Tôi có thực hiện được điều mà lòng tôi mong muốn ? Tôi phải tin tưởng cờ vàng rồi sẽ bay trên suốt dải đất quê hương ...vào một ngày không xa lắm Hồi nhỏ, nhà nghèo quá đỗi. Mỗi ngày ba phải còng lưng trên chiếc xích lô làm thân gà trống nuôi đàn con năm đứa. Gia đì nh vào thời điểm ấy rất chi là hoàn cảnh mình không tiện kể. Chỉ nhớ mỗi cái chảo nhôm nhỏ móp méo được ba chế vô miếng nước mắm, một ít đường và bột ngọt rồi kho cạn lại làm món mặn ăn với cơm. Năm chị em chúng tôi mỗi đứa một tô cơm trắng, năm cái muỗng quẹt lấy quẹt để. Món nước mắm kho khô kẹo kẹo mới ngon làm sao. Vừa ăn vừa hít hà, có đứa buông tô cơm, lấy tay quẹt mồ hôi hột ngang trán, có đứa kéo áo lau mũi... Đó là món ăn đơn giản và ngon lành nhất đối với gia đình chúng tôi khi bé. Kho nước mắm với chút đường, chút bột ngọt, chút tiêu xay và vài miếng tép mỡ là đã ngon đáo để. Hồi đó dùng bếp củi nên sau khi nấu cơm chín, ba tận dụng chút than còn sót lại để bắc chảo nước mắm lên kho. Chỉ cần cầm chén chạy ra quán tạp hóa đầu ngõ mua một chén nước mắm đầy, vừa bưng về vừa chấm ngón tay vào nếm thử. Vị mằn mặn của muối và mùi nước mắm không được thơm như các loại nước mắm bây giờ. Bắc chảo lên bếp than, ba tôi đổ nửa chén nước mắm vào, cho ít đường, ít bột ngọt, ít tiêu… Hôm nào mỡ nước gần hết, ba tôi nghiêng lọ vét vài miếng tép mỡ vàng rộm cho vô chảo kho quẹt. Lửa than vừa tàn lụi cũng là lúc chảo kho quẹt sánh lại, chung quanh rìa chảo lớp nước mắm bốc hơi bám vào đặc cứng, ở giữa chảo nước mắm sủi bọt tạo thành những ván rỗ tròn. Mùi nước mắm kho bay khắp gian bếp nhỏ. Ở đó, trên bộ vạt tre ọp ẹp được đặt cạnh bếp, năm chị em chúng tôi mỗi đứa tay bưng một tô cơm trắng, tay kia cầm một chiếc muỗng và…chờ. Vào những ngày mưa dầm, mưa lê thê. Một bữa cơm trắng, cá kho đối với ba là cả vấn đề nan giải vì năm đứa con nheo nhóc ở tuổi ăn tuổi học. Mẹ tôi đi biệt không về nữa. Ba đợi chờ mòn mỏi rồi cũng thôi. Hôm nào gặp mối lớn thì trưa ba về sớm, bên hông xe treo tòn teng con cá hồng biển còn duy nhất phần đầu và bộ xương. Đó là món ăn sang trọng nhất chúng tôi có được. Cá hồng biển nấu canh ngót, nồi canh “giàu có” mênh mông như đại dương. Ba vừa quệt mồ hôi trán vừa cười: “Ba tập cho mấy đứa biết thế nào là canh đại dương, hồi đó đi bộ đội bên Campuchia ba ăn canh đại dương còn mênh mông hơn như vậy”. Rồi chao trắng dầm ớt cay, rồi trứng vịt muối luộc, trứng chiên mặn, có hôm chỉ là chén muối sả được đâm chung với ớt, vắt miếng chanh cho chua chua rồi trộn đều, món này ăn cũng bắt cơm lắm…Những bữa cơm tuềnh toàng ngày bé đã nuôi dưỡng tâm hồn tôi đến tận bây giờ. Và nhờ thế, “kho tàng” về các món ăn dân giã đã luôn đầy ăm ắp trong tâm hồn người làm bếp như tôi. Bây giờ kho quẹt "lên sàn" rồi. Vào nhà hàng, quán ăn gọi một dĩa cơm cháy và kho quẹt coi như là mình sành ăn, biết chọn món "đặc sản" đặc sệt chất quê. Kho quẹt bây giờ được kho bằng thịt ba chỉ cắt nhỏ và tôm khô, rưới miếng mỡ nước, rắc chút tiêu sọ được đập dập và một tép tỏi nguyên, vài trái ớt hiểm, vài cọng rau răm. Gọi kèm theo kho quẹt một dĩa rau củ luộc gồm có bầu, bí, khổ qua, củ cải, củ su hào, rau lang, rau muống luộc chín. Cứ hăm hở quẹt vào cái tộ sứ được tráng men kỹ lưỡng mà chạnh lòng nhớ ngày xưa bưng chén ra tiệm mua vài trăm đồng nước mắm…. Có thể vì mình đã lớn lên từ những giọt mồ hôi của ba, lớn lên từ những bữa cơm cháy, kho quẹt mà dư vị của nó đã ăn sâu vào huyết quản, cho nên cuộc sống sau này có đủ đầy mình vẫn thấy thèm, thấy nhớ cái chảo nhôm móp méo, sứt quai được chế nước mắm kho cạn rồi múc một tô cơm trắng, ngồi bệt xuống ngạch cửa và...quẹt. Người bạn lớn 11/04/2009 15:34 | 272 lượt xem style='orphans: auto;text-align:start;widows: auto;-webkit-text-size-adjust: auto; -webkit-text-stroke-width: 0px;word-spacing:0px' v:shapes="_x0000_i1029"> Sáng thứ bảy dậy muộn. Trời ơi thấy đã quá, mấy tuần rồi mới có ngày dậy muộn, lại còn muộn đến 45ph cơ đấy! No con mắt rồi thì phải làm sao cho no cái bụng, mon men bò dậy tới cầu thang, định chạy ù xuống nhỏng nhẽo với mẹ một hồi trước khi ăn sáng, lại nghe um sùm dưới nhà, bao nhiêu tiếng ngỗn ngang làm náo loạn từ trong ra ngòai, thấy thấp thóang ánh mắt nảy lửa và buồn bã, đôi chân bẻn lẻn bước từng bậc thật chậm rãi, tai lắng nghe rõ ràng rành mạch để trái tim nhoi nhói đau đau... Có một ngày cuối tuần mình hạnh phúc nôn nao trong dạ lắm để đón chờ một buổi nghỉ ngơi nhẹ nhàng, nhưng hôm nay cũng là một ngày cuối tuần, cái nhẹ nhàng mong muốn không gõ cửa, thấy hụt hẫng phần nào nhiệt huyết... Anh Hai chạy thật nhanh ra con hẻm, mẹ ngồi nhìn theo vừa giận vừa buồn lắm. Buổi sáng hôm nay khởi đầu bằng không khí ảm đạm. Mình nhìn mẹ mãi đến một hồi lâu, trong đôi mắt long lanh ấy có phải đang chứa những giọt lệ chập chừng rơi khỏi? Lặng đi, khóat tấm áo khóat rồi lủi thủi đi chợ. Bữa cơm gia đình vỏn vẹn với ba cái chén và ba đôi đũa, thiếu vắng mất hai cặp chén đũa của ba và anh Hai, trưa nay chỉ có mấy mẹ con ăn với nhau. Trong cái hắc hiu oi bức của tiết trời tháng Tư, dù nơi mình ở có là nơi náo nhiệt với tất bậc xe cộ thì buổi trưa, nơi đây vẫn im lìm và lặng lẽ lắm. Trưa nay mẹ không ngủ trong giấc trưa ngắn ngủi, mẹ giành phần nói chuyện với con gái, về cái thuở chắc chiu lận đận của ngày xưa... Mẹ nhắc hòai những tháng năm gia đình cực khổ với mấy anh chị em, nhưng hôm nay mẹ nói nhiều hơn về "thằng Minh, anh mày". "Thằng Minh, hồi nhỏ cực khổ mà dễ thương lắm. Mới có mấy tuổi đầu chứ mấy, mỗi ngày đi học chỉ có duy nhất 2000đ cho hai buổi sáng chiều, vậy mà tới cuối tuần vẫn còn đựơc 7000đ đưa mẹ đi chợ. Hồi đó nhà mình khó khăn lắm, mẹ làm đủ nghề từ việc của đàn ông đến chuyện đàn bà, còn ba mày làm cho công ty lương thực, làm quần quậc mà không đủ ăn, bửa cơm chỉ mắm kho quẹt với nước tương thôi mà ấm cúng, thứ bảy chủ nhật nào thằng Minh cũng đưa mẹ bảy tám ngàn đi chợ, mẹ kêu nó ra chợ mua bó rau vài trứng hột vịt về luộc ăn đỡ, vậy mà nó đi ra chợ còn mua được một miếng thịt, lọn rau, củ cải và dăm ba trứng vịt, người ta vừa bán vừa cho, ai cũng thương nó hết, nó có biết mua một món đồ chơi là gì đâu, mà cái tuổi của nó lúc đó thiếu ăn, ốm nhôm ốm nhách. Rồi có mày, mẹ đẻ mày nó vô bệnh viện nuôi đẻ cho mẹ. Suốt đêm nó ngủ lại bệnh viện canh chừng mẹ, nửa đêm mẹ có đói nó cầm cà mênh cơm đi mua cháo. Nhỏ mà giỏi lắm, ba mày đi làm ca đêm, 2 - 3 giờ sáng chưa về, nó lặn lội đi bộ từ nhà qua chỗ làm của ba mày kêu ba mày về, đường hồi đó có đèn đuốc gì đâu, tối đen như mực mà nó dám đi, cái thằng! ... " ' v:shapes="_x0000_i1030"> Lớn lên, đôi tai mình luôn được nghe về cái thời thơ ấu của hai anh em đầy khó nhọc, đến nỗi trái tim khắc ghi rất kỹ những hình ảnh và lời nói đó, có đi đâu cũng nhớ cũng thương mà muốn quay về ngay. Anh Hai trong ký ức tuổi thơ không hề có hình ảnh chơi đùa hay thân thiện. Anh nghiêm khắc và hay nhăn nhó. Hồi đó mình nghịch phá đến chọc ghẹo, anh Hai chỉ nhăn nhăn rồi gằng giọng hăm he, vậy mà sợ, sợ lắm! Mang nỗi sợ và nể nan theo bên mình để lớn khôn, nhưng không ít lần mình cả gan nói anh Hai "nhăn như khỉ", nói xong là chỉ biết co cẳng chạy thật lẹ, quên ngỏanh mặt lại phía sau đâu ai đuổi theo. Nhớ cái thuở ham chơi không lo không nghĩ, ăn uống kiêm khem vì thiếu thốn mà mình còn tật kén ăn khó chữa, bất kỳ bữa cơm nào của gia đình, mình vẫn được phần ngon nhất, như với hai trứng vịt luộc dằm nước tương, phần trứng "hấp dẫn" ba mẹ và anh hai gắp bỏ cho mình, phần rau luộc và nước tương đã dằm trứng thì cả ba người chấm lấy chấm để xem phần là ngon, vậy mà vui lắm, hồi đó có tiếng cười hả hê trong sáng của đứa con nít chưa đủ lớn để biết nhường biết nhịn anh mình, có cái hờn dỗi vô tư của người anh bị chọc quê, có tiếng cười hạnh phúc với ấm cúng tình thương của ba mẹ... Kỉ niệm dạt dào quá! Thời phổ thông của anh Hai trong sáng với tình bạn chớm nở, mối tình đầu anh Hai khờ dại không che dấu được mắt đứa em ngỗ nghịch để bị trêu ghẹo mỗi chiều đi học về. Những lá thư bị em đưa cho mẹ, vậy mà anh có giận đánh em đâu... Lớn lên với cực khổ, dù gia đình đã "có ăn" hơn nhưng trong những đêm thức khuya học bài tốt nghiệp, anh Hai vẫn bắt bếp làm món mắm kho quẹt để ăn với cơm nguội. Mình còn nhớ rõ lắm mà những đêm "khó ngủ" với mùi thơm quyến rũ của mắm kho quẹt, có đứa em mon men bò ra khỏi mùng đòi anh Hai làm cho em ăn với... Ôm tô cơm nguội với mắm quẹt hai anh em cười khúc khích trong đêm, anh Hai nói mắm kho quẹt phải kho bằng nước mắm, chút xíu bột ngọt cho giã mặn, "ăn sang" thì cho thêm chút tốp mỡ, kho cho sệt sệt và bỏ chút tiêu vậy là ngon số một, mắm kho quẹt ăn với cơm nóng không bằng cơm nguội đâu, ngon nhất là cơm đã nguội lạnh, ăn với mắm kho quẹt "nóng hổi" vừa làm xong là "hết xảy"... Anh Hai đâu biết rằng những lúc huyên thuyên như vậy nhỏ em chăm chú nhìn anh với hâng hoan sự nể phục đâu... Có những mùa Hè trời lọng gió, anh Hai lôi tập sách cũ ra làm diều giấy, có chuốc tre tỉ mỉ đến công phu. Có những chiều hai anh em lọc cọc trên chiếc xe đạp cũ, nhỏ em ngồi sau cầm trên tay hai con diều giấy lớn nhỏ mà anh hai đã làm riêng cho em tập thả. Và có những phút giây buồn bả em gái dõi theo anh đang ham vui cùng đám bạn, cuốn theo con diều đang bay trên lòng lọng gió kia... style='orphans: auto;text-align:start;widows: auto;-webkit-text-size-adjust: auto; -webkit-text-stroke-width: 0px;word-spacing:0px' v:shapes="_x0000_i1033"> "Nhỏ em" của anh Hai có lần trộm cuốn tập nhạc của anh Hai về ư a hát theo mỗi trưa hè không ngủ, những bản tình ca người lớn mà em chưa bao giờ thuộc, những mong manh tuổi học trò em tìm thấy được trong quyển tập nhạc ấy là "xe đạp ơi" và "cô bé có chiếc răng khểnh". Chỉ biết thích thú vì nó là âm nhạc, chứ lúc đó ai mà hiểu cái gì đâu cơ chứ! Lớn hơn lên, cũng cái thời anh Hai đã đi qua, em cũng làm cho mình một cuốn tập nhạc riêng vẫn với "xe đạp ơi" và "cô bé có chiếc răng khểnh", nhưng nhỏ em của Hai còn biết điệu thêm những chiếc lá thuộc bài ép khô trong vỡ như Hai đã chỉ:"Ép lá thuộc bài trong tập học bài mau thuộc lắm!". Khờ dại, mính tin những gì Hai nói không một chút nghi ngờ, để lâu lâu có nhỏ bạn không thuộc bài mình... ngắt ra cho một miếng... Tuổi thơ là một trang vỡ đẹp, ghi lại biết bao điều mà cuộc đời không thể quên được. Anh Hai đã luôn là một người bạn bên mình dù có hay cau có không vui, cách sống có trách nhiệm không ai phải bảo ban đã theo đó mà hình thành từ nhỏ. Không ai nói, chính anh Hai luôn là niềm tự hào và làm động lực cho ba mẹ. Người ta hay nói:"Con gái đầu lòng thì gia đình làm ăn phát đạt, con trai đầu lòng thì gia đình hạnh phúc". Ba mẹ vẫn luôn ước ao cho sự nghiệp ổn định để nuôi dạy chúng con tốt hơn, nhưng sự ra đời của anh Hai đã đem đến một niềm hạnh phúc mà không phải ai cũng có, một sự an tâm tin tưởng, một sự hy vọng mà chưa bao giờ ba mẹ phải lo lắng... Mẹ đã nhớ lại nhiều hơn những gì mẹ đã kể, trong đáy mắt long lanh ấy thấp thóang niềm tự hào xen lẫn buồn vui... Thóang chút đã chiều về, anh Hai về trong mệt mỏi, bẻn lẻn ngồi gần mẹ như nói lời xin lỗi vỗ về. Trong phút chốc, thóang thấy mẹ cười ngượng nghịu như cô cái thanh xuân... Rốt cuộc, mẹ vẫn là mẹ, không giận nỗi một ngày, còn anh Hai thì đã luôn là "người bạn lớn" trong suốt cuộc đời mình... Ăn cá rô đồng, nhớ mưa Thời thơ ấu, có những buổi chiều hè dầm mình tắm mưa, vô nhà rồi mà môi còn tím tái, người rét run vì thấm lạnh. Lên bàn ăn, mẹ dẻ cho miếng cá rô kho tộ vào chén cơm nóng hổi. Miếng cá ngọt mềm, béo ngậy, quyện cùng mùi thơm gạo mới. Vị ngon còn nhớ đến bây giờ. Hàng năm, cứ vào ngày đầu tháng tư âm lịch là ngày hội cá rô. Những cơn mưa đầu mùa vừa tưới mát cho ngọn cỏ, bờ ruộng. Lúc này, nhà nông chịu khó đội mưa ra bờ ao, bờ ruộng, tha hồ mà bắt cá rô đang cố vượt bờ để đi hội. Nước mắm Vạn Vân, cá rô đầm Sét Đầm Sét ngày xa xưa là cánh đồng chiêm trũng, ao hồ dày đặc, diện tích lên đến 200 mẫu tây; nay là xã Thịnh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội. Vào thời Hậu Lê, thế kỷ 17, làng Sét được nối liền với kinh thành Thăng Long. Từ đó chợ Sét trở nên sầm uất với đặc sản cá tôm cung cấp cho kinh thành và những vùng lân cận. Cá rô đầm Sét vừa lớn lại rất béo, xương mềm, thịt ngọt đậm nên trở thành đặc sản tiến vua. Cá rô được chế biến thành nhiều món ăn. Món canh cải bẹ xanh nấu cá rô là món không thể thiếu khi tới mùa cá. Lựa chừng chục con béo ú, làm sạch, luộc chín, gỡ lấy thịt ướp nước mắm, tiêu để cho thấm. Xương và đầu cá giã nhỏ cho vào nồi nước luộc cá, nấu vài dạo, hớt kỹ bọt rồi gạn bỏ xương. Cho cải vào nấu vừa sôi, nêm mắm muối cho vừa ăn, cho thịt cá đã ướp vào là nhấc xuống ngay. Đập vài miếng gừng tươi cho vào canh. Vị gừng sẽ làm mất mùi tanh của cá, hoà cùng mùi the nồng của cải làm tăng thêm hương vị. Đối với nhà nghèo, cá rô khô dự trữ là món ăn luôn được chuẩn bị trước cho mùa đông, tháng rét. Vào giữa hè khoảng tháng 5, 6 âm lịch, trời nắng như đổ lửa xuống mặt ruộng xăm xắp nước. Cá tôm chết đầy ruộng, hớt cá rô non vừa lớn, đem về phơi khô để dành. Những cơn mưa phùn theo gió bấc về lạnh thấu ruột gan, cũng là lúc mang cá khô dự trữ ra ăn. Đem cá chần qua nước sôi cho mềm, xếp vào tô sành, cho hành, mỡ, tiêu, tương, đặt vào trong nồi cơm vừa sôi hấp. Cơm vừa chín tới, tô cá cũng vừa được. Trời lạnh buốt, xới chén cơm nghi ngút khói ăn với cá khô đã ngấm tương mặn, tiêu ấm, hành thơm. Hạt gạo dẻo quến với mỡ cá, mỡ nước béo đậm, cá vừa dai, vừa mềm, càng ăn càng không muốn ngưng đũa. Vùng đầm Sét còn món cá rô cơm nếp, chưa thử món này thì không thể thấy hết ý nghĩa của câu "cá rô đầm Sét". Cá rô lựa con lớn, mập tròn, làm sạch, luộc chín. Gỡ thịt cá cho lên chảo thêm mắm muối, gia vị chà thành ruốc cá. Xương và đầu cá lại đem giã nhỏ lọc với nước luộc, nấu sôi hớt bọt thật kỹ. Nếp cái hoa vàng mới gặt cho vào nước luộc cá, đồ chín thành xôi. Đơm xôi ra đĩa, rắc ruốc cá rô vàng ươm béo ngậy lên mặt, cứ nhẩn nha ăn từng chút, từng chút mới thưởng thức hết vị béo của mỡ cá, mùi thơm của nếp được tăng thêm bởi vị ngọt đậm của nước luộc cá, khó có món ăn quê mùa dân dã nào sánh bằng. Cá rô: vua cá đồng miền Nam Miền Nam ao, hồ, sông, rạch chằng chịt, ruộng cò bay thẳng cánh là nơi tôm cá nhiều vô kể. Cá nước ngọt Nam bộ ngon và nhiều chủng loại, nào là cá lóc thịt ngon nức tiếng với bao nhiêu món ăn chế biến từ lóc có thể liệt vào hàng mỹ vị. Cá sặc lò tho lớn cỡ bàn tay là món kho tương tuyệt hảo nhưng khô sặc nướng trộn gỏi thì khó thứ nào qua. Trê trắng, trê vàng thịt thơm béo ngậy, nướng, chiên dầm mắm gừng có một hương vị đặc trưng riêng. Nhưng cá rô lại được dân vùng đất phương Nam tôn là vua của cá đồng vì cá dai mà mềm, thịt ngọt đậm thơm lừng và nhất là vị béo rất riêng của nó. Đồng bằng Nam bộ nổi tiếng có món cá rô bí chiên xù. Ngày xưa, đó là một trong những món ăn mùa lũ. Cá rô non theo nước đi từng đàn, người ta có thể bắt bằng đăng, đó, hay lưới bén. Lúc này, cá chỉ mới lớn to cỡ ngón tay cái. Cá rô non (rô bí) mới bắt về để nguyên con, rửa sạch bằng nước muối, cứ thế cho vào chảo mỡ đang sôi. Cá chín vàng ươm, giòn luôn cả xương, ăn với nước mắm chanh tỏi ớt hoặc nước mắm gừng, nhai rau ráu thật đã miệng. Cá rô mề (cá lớn to cỡ ba ngón tay trở lên) thì kho tộ là ngon nhất. Cá sau khi làm sạch, bỏ vào cái tô bằng sành (loại sành nung già) hoặc cái gọ (miền Trung), ướp với một chút nước mắm ngon, đường, tiêu, chút nước màu dừa, một ít tóp mỡ hoặc dầu ăn, để khoảng nửa giờ cho thấm hết gia vị mới bắt đầu kho. Cá kho tộ thường dùng ngọn lửa riu, không dùng lửa to ngọn. Khi cá đã thấm đều, mềm, thơm, nước cá sền sệt, rắc thêm một lần tiêu hột trước khi nhấc xuống. Cá thơm phưng phức mùi tiêu, sôi lụp bụp trong tộ đất khiến người ăn phải vội vã dẻ miếng cá, ăn cho kịp với cái nóng sốt, thưởng thức cho hết vị ngọt đậm đà, beo béo của cá kho
Ông bà xưa có câu "con cá rô b ắt tội cho cơm!" là thế. Ngoài ra, cá rô đồng nấu canh chua với bông so đũa, hoặc điên điển cũng là món ngon, nhưng cá rô nhiều xương coi chừng khó nuốt. Nấu canh với khổ qua có đặc trưng riêng. Lựa con cá rô mề thật to, làm sạch đem luộc chín, gạn bỏ xương. Khổ qua xắt mỏng cho vào nồi nước luộc cá nấu vừa chín là cho thịt cá vào, nêm nếm. Vị ngọt béo của cá cộng với vị đắng của trái khổ qua làm thành hương vị thật khó quên. Tuổi thơ ở ruộng đồng có cái thú đi thả lưới đêm. Sau những cơn mưa đầu mùa, ruộng lúa ngập nước tràn bờ. Họ hàng cá rô rủ nhau theo dòng nước, ngược tìm chỗ đẻ. Người đi soi cá chỉ cần canh bờ nước biết nơi cá nhảy để bắt cá hay theo lạch nước mà giăng lưới bén. Đến nửa đêm, tấp vào căn chòi rơm gần đó, bắc nồi cháo trắng, quơ vội mớ rau răm, bụi hành ở đầu bờ cho vị cháo thêm đậm. Sẵn bếp than còn đượm, quăng đại mấy con rô mề no bụng trứng. Khi mỡ cá bốc mùi thơm ngậy thì nồi cháo đã ngọt. Húp tô cháo hành xua tan cái lạnh, gỡ miếng cá nướng trui đưa cay với vài ly rượu đế mới thấy đời sung sướng dường bao, trời rạng lúc nào không biết. Lại khoác áo tơi đi gỡ lưới, về cho kịp phiên chợ sớm. Người quê dần dà về thành phố. Lâu lâu nhớ đồng, lại tìm kiếm trong các nhà hàng thấy có món cá rô nướng mọi nhưng hương vị đã mất đi nhiều. Nồi thịt kho ký ức 05/02/2013 00:16 | 1 lượt xem Hàng năm cứ mỗi độ xuân về, tôi vẫn thường nhớ mãi kỷ niệm về gia đình; cha mẹ và các em trong những ngày giáp tết. Mẹ tôi nay đã già rồi, không còn được khỏe khoắn như ngày nào anh em tôi răng còn chưa mọc đủ. Người lụi cụi, loay hoay quét tước, dọn dẹp nhà cửa chuẩn bị đón xuân. Dù khó khăn cỡ nào, mẹ vẫn lo đầy đủ cơm nước cúng kiến, đưa rước tổ tiên, ông bà. Trong đó, dứt khoát không thể thiếu món thịt kho dưa giá. Năm rồi, Phượng Chi – em kế tôi thay mẹ đảm đương việc này. Em tranh thủ đi chợ sớm chọn mua bốn ký thịt đùi thật ngon luôn giò chặt khúc cỡ hai đốt tay người lớn cùng hai chục hột vịt quả lớn nhất về kho một nồi thật to ăn tết. Đặc biệt, em dùng rặt sáu, bảy trái dừa xiêm ( chứ không sử dụng nước ) Đây là bí quyết giúp nước nồi thịt thơm ngon một cách lạ lùng, có lẽ tiết ra từ vị ngọt tinh chất thanh khiết của dừa. Bên cạnh đó, em ngâm thêm một hủ sành giá đỗ và hẹ cắt đoạn với giấm nuôi. Chi còn khéo léo bào những sợi cà rốt trộn chung vào tạo thành hỗn hợp có ba màu : trắng, xanh, cam trông thật bắt mắt! Khâu ướp thịt cũng khá điệu nghệ. Tẩm ít ớt, đường, muối, bột nêm, một ống màu ngũ vị hương và quan trọng nhất là không dùng nước mắm. Đun sôi nước dừa, cho thịt, trứng lột vỏ vào và siêng vớt bọt. Để lửa riu độ hơn ba tiếng cho sắc. Chất nước vàng trong, không cặn, tươm ra trông rất ngon. Nồi thịt hoàn tất tuy đơn giản nhưng khi ăn chung với dưa giá thật ngon. Mẹ tôi dọn lên bàn thờ cúng gia tiên và khi xong bày ra cho cả nhà cùng thưởng thức. Người sắp riêng hai dĩa lớn dầm trứng : một để nguyên và một bỏ ớt cay cho hợp khẩu vị mỗi người. Cha con tôi luôn tắm tắt khen ngon. Không khí tết quây quần, sum họp trong bữa cơm ngày xuân quả rất ấm cúng và tràn đầy kỷ niệm. Nó như gắn bó tình cảm mọi người lại với nhau và đọng lại trong tôi một ký ức đẹp, không bao giờ quên được. Đây cũng chính là động lực mãi thôi thúc tôi trên đường đời và sự nghiệp. Bóng đêm giăng lờ mờ. Cánh đồng lúa trải rộng thăm thẳm. Bờ ruộng loằng ngằng một màu trắng phếch. Ngọc, áo quần lấm lem bùn sình, đầu cúi xuống đường, chân bước đi lụi đụi. Vừa đi, Ngọc vừa nhìn trời. Cô nhìn đau đáu vào bóng đêm, miệng lầm bầm: - Mưa thử một đám cho khỏe chút coi! Mấy ngày nay, ngày nào cũng vậy, Ngọc hay cầu trời mưa. Trời lại không linh thiêng. Ông chẳng chịu mưa. Đám cà chua khô héo, đất nứt nẻ. Một ngàn chiếc gàu dai múc nước đổ xuống lênh láng. Ngày sau, đám cà chua vẫn không còn chút nước tưới. Chiều nào cũng vậy, Ngọc và anh Hai lại lủi thủi ra bờ kênh. Hai anh em nó đứng lên, ngồi xuống, trông đợi con nước lớn. Chuyện nước lớn nước ròng hai anh em Ngọc thuộc làu như lòng bàn tay. Giờ đây không cần nghe con bìm bịp kêu, Ngọc chỉ cần ngóng gió, cô cũng biết con nước đang lớn. Bóng đêm, trăng đã lặng, sao cũng mờ. Hai anh em Ngọc, đứa thì ở bờ bên kia, đứa lại ở bờ bên đây. Mỗi đứa, hai tay cầm hai sợ dây nối liền với chiếc gàu. Chiếc gàu đung đưa. Nước múc tận dưới kênh, trút xuống dòng mương máng đều đều. Ngọc mắt nhắm nghiền. Có lẽ, con bé đã thạo nghề tát nước gàu dai. Khi vứt gàu xuống nước, tay trái nó nhấc đáy gàu lên, tay phải nó thả lỏng miệng gàu chìm xuống nước. Khi múc nước lên thì ngược lại, tay trái nó thả lỏng đáy, tay phải nó ra sức giật mạnh gàu nước lên khỏi bờ kênh. Sau đó, tay phải nó hạ xuống, tay trái nó đưa lên, nước đổ ào ạt xuống dòng kênh máng. Dù tát nước gàu dai nhiều công đoạn như vậy, nhưng đêm nào hai anh em Ngọc cũng tát trên ngàn gàu. Mỗi gàu chứa khoảng hai chục lít nước chứ đâu ít. Vậy mà, một ngàn gàu chỉ đủ tưới cho đám cà có một ngày. Cho nên, Ngọc hay nghĩ quẩn. Cô trông đợi đám cà chết khuất đi cho xong. Chỉ có như vậy, Ngọc mới ngủ sớm được vài đêm. Thế nhưng, đám cà vẫn đủ nước đủ phân. Tuổi thọ chúng vẫn ngon lành. Chúng tồn tại hơn ba tháng mới lụi tàn. Nhờ vậy, gia đình Ngọc thoát cảnh túng thiếu mùa khô năm đó. Xóm làng bàn ra tán vào. Họ nói gia đình Ngọc trúng thời vụ xen canh. Ngọc chẳng hiểu xen canh hay thâm canh gì cả. Cô chỉ thấy ruộng nhà mình mùa khô không trồng lúa, lại trồng hoa màu. Mỗi năm, nhà Ngọc trồng mỗi loại hoa màu khác nhau, năm trồng cà chua, năm trồng dưa leo, năm trồng đậu đũa. Ngọc thấy trồng bất cứ loại hoa màu nào chúng đều cần nước. Cô cũng tát gàu sồng sao đêm sao hôm. Tuổi thơ anh em Ngọc rất cơ cực. Đám con nít tay lấm chân bùn quanh năm. Dù gì, anh em Ngọc vẫn sống phơi phới. Đám trẻ trong xóm làm gì, anh em Ngọc đều làm chuyện đó. Mùa nắng, hai anh em đi kéo lưới dọc theo kênh máng. Cá lồng tông, cá trắng, cá sặc, tép bạc, tôm sú… đầy một giỏ đệm. Về nhà, mẹ Ngọc kho một nồi. Cả nhà quây quần bên mâm cơm chỉ độc nhất món đó. Mùa mưa, hai anh em Ngọc lại đi soi. Đêm xuống, tiếng huềnh hoang, tiếng ểnh ương, tiếng bù tọt, chúng kêu rền vang. Ngọc tay này cầm đèn măng-sông, tay kia nắm chặt miệng bao bố. Anh Ngọc thì tay cầm chỉa. Mắt lại láo lia theo ánh đèn. Con ếch ngồi như thần thừ, mắt nheo nheo nhìn đèn. Ngọc la chói lói. Anh Ngọc phóng chỉa. Con ếch giãy dụa. Nó nhảy lung tung trong bao bố. Hai em Ngọc lại lăm le tiến đến con cá lóc đang nổi lờ đờ trên mặt nước. Xóm làng Ngọc, người nào cũng sống như vậy. Họ ra đồng làm quần quật suốt ngày. Ngọc thấy họ vẫn tỉnh bơ. Người già cũng như con nít, ít ai đau bệnh. Vậy mà càng lớn, anh em Ngọc lại càng ngao ngán. Chúng rất sợ ra đồng gặt lúa, nhổ cỏ. Cho nên, anh em Ngọc cùng tìm cách thoát khỏi ruộng đồng. Ngày cũng như đêm, cả hai đứa đều tranh thủ học. Trong khi ở xứ đó, Ngọc muốn đi học lại rất khó. Cô phải qua cánh đồng, đến thị trấn mới có trường để học. Ngày nào cũng như ngày nấy, đến trường, anh em Ngọc phải chạy cho kịp giờ. Đến trường, anh em Ngọc lại lén lút. Bởi vì, Ngọc rất ái ngại, cô sợ chòm xóm biết mình đi học. Họ sẽ chê cười ba mẹ cho con cái làm chuyện tào lao. Học hành chi cũng nhuộm bùn, nhuộm phèn. Còn đến lớp học, anh em lại bị đám bạn trêu chọc. Chúng bảo cua ốc đến trường. Anh em Ngọc không chút nề hà. Cả hai vẫn cặm cụi học. Ngọc càng học hành lang bang, anh Ngọc càng học giỏi. Dù Ngọc là nông dân chính hiệu, nhưng mẹ Ngọc lại khác. Bà được sinh ra trong một gia đình trí thức. Thế nhưng, cuộc đời mẹ Ngọc lại đi từ khổ cực này đến cùng cực khác. Tuổi thơ sống thiệt thòi, tuổi trẻ lại cơ cực. Bởi vì, mẹ Ngọc là chị lớn trong một gia đình đông con. Bà phải giã từ lớp học sớm để trông nom các em. Không học hành đến nơi đến chốn, mẹ Ngọc lại là người không nghề không nghiệp. Thế là, số phận và tương lai mẹ Ngọc chỉ có đánh đổi bấy nhiêu. Để rồi, chính quan điểm của người đời và giai cấp của gia đình, mẹ Ngọc trở thành người đơn thân độc mã. Bà trở thành người không có người thân và bị gia đình lãng quên. Ngọc trưởng thành. Tuổi mười sáu, Ngọc xinh tươi vành vạnh như trăng rằm. Cô không hề hay biết. Cho nên, đến trường cũng như ra đồng, Ngọc ăn mặc rất luộm thuộm. Áo quần của mẹ đã có tuổi hàng chục năm. Ngọc cắt nhỏ lại cho mình. Mặc vào, Ngọc vẫn tự tin đi khắp nơi. Một vài người khen ngợi Ngọc xinh xắn. Ngọc không cần thiết. Vì Ngọc cũng từng nghe một số người to nhỏ, người ta bảo mẹ Ngọc ngày xưa còn hơn thế nữa. Mái tóc dài chấm gót. Nét mặt mặn mà sắc sảo. Mắt đen láy đượm buồn. Hai tay lại nắm chặt giấc mơ. Một giấc mơ tươi đẹp như bao cô gái khác. Vậy mà, mẹ Ngọc giờ đây chỉ là người đàn bà lam lũ, cằn cỗi. Mái tóc không còn một sợi đen. Chân tay lấm lem bùn phèn quanh năm. Chính vì vậy, Ngọc có xấu có đẹp, cô không cần thiết. Vì đối với Ngọc, người đẹp và người xấu đều khổ như nhau. Người xấu có cái khổ riêng. Người đẹp lại có cái khổ khác. Điển hình như ở xóm Ngọc, người đẹp thiếu gì. Thế nhưng, Ngọc vẫn thấy họ chân lấm tay bùn quanh năm. Có điều, Ngọc vẫn may mắn. Ngọc được đến trường lớp học đàng hoàng. Cô thấy mình hơn hẳn bạn bè cùng trang lứa trong xóm. Họ làm gì có thầy cô như Ngọc. Mặc dù không giống y chang mẹ, nhưng Ngọc vẫn thừa hưởng được ở bà nhiều đức tính, một người phụ nữ rất chăm lao động. Tờ mờ, mẹ Ngọc đã có mặt ngoài đồng. Trời chạng vạng tối, mẹ Ngọc còn phải tưới cho xong đám hành. Đám hành mênh mông giữa đồng trơ trọị, đất nứt nẻ. Cũng tại gia đình Ngọc đèo bòng, đất ruộng ai lại chuyển sang làm rẫy cố định. Hành thiếu nước, nó sẽ héo úa ngay. Cho nên, mẹ Ngọc rất lo lắng. Bà không dám bỏ tưới cữ nào. Mương nước cạn diệu vợi, mẹ Ngọc lấy sức quăng thùng xuống. Hai tay ra kéo lên chỉ được nửa thùng. Ngọc nhìn mẹ vất vả. Cô xót xa. Thế nhưng, Ngọc nghĩ đi nghĩ lại. Xóm mình có ai sung sướng đâu. Cũng giống như mẹ, Ngọc phải tảo tần quanh năm. Chính vì vậy, gia đình Ngọc có đủ miếng ăn. Mẹ Ngọc lại là người phụ nữ biết hy sinh. Bao nhiêu mồ hôi nước mắt trong cuộc sống mẹ đổ dồn cho chồng, cho con. Vậy mà, Ngọc vẫn thấy chán. Đôi lúc, cô thấy thiếu thiếu cái gì đó. Ngọc lại không tìm ra nguyên nhân. Mẹ Ngọc vẫn cứ thế. Bà rất thương con. Ngọc lại có suy nghĩ khác. Cô thấy mẹ mình không hiểu con cái. Nuôi dưỡng con, mẹ Ngọc chỉ mong sao cho chúng ăn no, ngủ yên. Con cái khỏe mạnh, mẹ Ngọc cười tíu tít suốt ngày. Anh em Ngọc lại không sống theo mong mỏi của mẹ. Anh Ngọc chính là kẻ đầu đảng. Tốt nghiệp trung học phổ thông, anh Ngọc âm thầm vào đại học. Anh thi gì, học gì, cả nhà không hề hay biết. Mà nếu anh Ngọc có nói ra, gia đình cũng chẳng để ý. Gia đình Ngọc là vậy. Mấy chuyện ấy ai để ý làm gì? Trong khi đó, gia đình Ngọc có đến trăm chuyện ngàn thứ để lo. Nắng ít mưa nhiều. Sâu rầy không có cách diệt trừ. Mùa màng thất thu. Ruộng rẫy khô cháy… Bấy nhiêu đó, cả nhà Ngọc lo còn không xuể. Năm đó, cả trường anh Ngọc chỉ có hai người vào đại học. Cho nên mỗi khi Ngọc ra đường, Ngọc đi đến đâu cũng nghe người ta đồn đại chuyện nhà mình. Người con trai lớn vừa đậu đại học. Ngọc thích thú. Bỗng dưng, Ngọc thấy ngưỡng mộ anh Hai mình vô cùng. Thế là, Ngọc cũng âm thầm nuôi dưỡng giấc mộng. Ngọc quyết tâm hai năm nữa cô cũng phải vào được đại học như anh Hai. Thế nhưng, ba ngày sau, Ngọc bỏ ý định ấy ngay. Ngọc chới với. Cô sống trong nỗi đau đớn tột cùng. Xóm làng lại xầm xì chuyện khác. Một chuyện động trời động đất không ai ngờ. Anh Ngọc đã đánh đổi cả sinh mạng mình để được tiếp tục học. Ngọc khóc lóc than ngày trách đêm. Anh Ngọc đã đạp phá lên tất cả mong mỏi quá ư bình thường của mẹ. Nhà Ngọc phải lâm vào cảnh sống không yên, chết không được. Mấy ngày cả nhà Ngọc không ai dám ra đường. Vì đi đến đâu, người ta nhìn theo đến đó. Đau khổ một, gia đình Ngọc sống trong tủi nhục mười. Anh Ngọc kết thúc cuộc đời ở ngưỡng cửa đại học. Độ tuổi hừng rực sức sống. Anh Ngọc ra đi mang theo bao giấc mơ, những giấc mơ đối với gia đình Ngọc, toàn là chuyện viển vông. Xóm làng, ai nhắc đến cũng thương tiếc chen lẫn chê trách. Họ bảo anh Ngọc có tài canh điền, cày giỏi, gặt lúa cũng giỏi, thanh niên cả xóm chỉ đếm trên đầu ngón tay. Sống làm ruộng còn hơn chết chẳng làm được gì? Ngọc nghe mà lòng tê buốt. Cô lại tủi nhục. Ngọc thấy mơ mộng lắm điều, cuối cùng, tất cả cũng chỉ là bùn sình. Anh Ngọc chết chôn giữa ruộng. Khi đồng khô cỏ cháy, Ngọc rất bứt rứt. Lúc ruộng nước lênh láng, nước mắt Ngọc lại đầm đìa. Chính vì vậy, Ngọc hay kêu gào than trách. Ngọc trách anh mình. Nằm sâu dưới lòng đất, anh còn đang trong cơn đói cồn cào. Vậy mà, anh mơ anh mộng những chuyện không đâu. Ngọc hình dung ra tờ giấy báo nhập học. Ngọc nhớ như in dòng chữ tiền học phí. Ngọc ngồi xuống võng. Hai chân đánh đung đưa. Chiếc võng lao hày hạy. Ngọc bải hoải. Cô nghĩ đến tiền học phí. Cái quái quỷ gì mà lớn lao như vậy? Trong khi đó, gia đình lại nghèo. Quanh năm suốt tháng, Ngọc thèm miếng thịt với cơm vẫn không có. Ngọc thấy anh mình quá nông nổi. Học hành chi cho lắm chứ? Học không xong thì ở nhà làm ruộng. Làm ruộng, đóng thuế vẫn nhẹ hơn đóng học phí kia mà! Lúa gạo làm ra bồ nào hết bồ nấy. Học ra trường, đôi lúc phải thất nghiệp. Sống cảnh long đong ấy, chẳng lẽ anh Ngọc lại vác xác trở về đây làm ruộng? Nếu như vậy, xóm làng này sẽ có một trận cười hả hê. Ngọc trách cứ anh mình. Hai năm sau, ai trách Ngọc? Ngọc cũng chính là đứa con ngỗ nghịch. Cô cũng không vâng lời mẹ. Mẹ khuyên nhủ cách nào Ngọc cũng im lặng. Mẹ Ngọc vẫn kêu ca. Chuyện đồng áng, ông bà Ngọc gắn bó bao đời vẫn sống được. Con gái lớn phải gả chồng. Mười chín hai mươi tuổi đầu, Ngọc thuộc loại hũ mắm treo đầu giường. Ngọc vẫn tỉnh bơ. Chuyện chồng con, Ngọc không hiểu gì cả. Mẹ Ngọc chạy đôn chạy đáo. Bà cậy nhờ mai mối, nhờ người giới thiệu xóm trên xóm dưới. Lẽ ra, Ngọc chưa đến nỗi nào. Mẹ Ngọc không phải lo lắng như vậy. Vì đối với trai làng, Ngọc được xếp vào hàng gạo cội. Ngọc ra đồng vẫn có lắm thằng chọc ghẹo. Ngọc đến trường cũng có nhiều đứa trêu chọc. Dù mang tiếng đi học, nhưng Ngọc rất giỏi chuyện đồng áng. Con gái ở đồng, Ngọc lại trắng da dày tóc. Trai tráng xứ nào chẳng khoái. Ngược lại, Ngọc ghét cay ghét đắng đám con trai trong làng. Ngọc thấy chàng trai nào cũng khó ưa. Anh thì đi đứng lủng đủng, nói năng lại vô duyên. Anh thì cao lêu nghêu, da dẻ lại đen đúa. Thế là, Ngọc nuôi dưỡng giấc mơ vào đại học. Ngọc nghĩ ngợi. Chẳng lẽ, đời Ngọc chỉ biết ruộng đồng thôi sao? Ngày này tháng nọ, Ngọc chỉ nhìn thấy hình ảnh đám trai làng xứ mình? Cuối cùng, Ngọc cũng lên được thành phố. Năm đầu, Ngọc chẳng học hành gì cả. Cô làm đủ mọi thứ nghề với bao nỗi đắng cay. Trong đó, những công việc lao động bần hèn nhất xã hội Ngọc cũng không hề câu nệ. Năm sau, Ngọc trúng tuyển vào đại học kinh tế. Tiền bạc ki cóp cả năm trước, Ngọc đổ vào chuyện học phí. Những ngày đầu đến giảng đường, Ngọc thấy mình cũng như ai. Dần dần về sau, Ngọc đuối sức. Nhiều lúc, cô cứ ngỡ mình đang sống trong những giờ phút tận cùng của cuộc đời. Ký ức quê nhà, Ngọc không ngớt nguôi ngoai. Ngọc mơ màng thấy đủ chuyện. Cô có cảm giác đất trời nông thôn ưu đãi hơn trời đất của thành thị. Dần dà, Ngọc ngán ngẩm cảnh sống ở thành thị. Mỗi thứ đều tính bằng tiền, chứ không như quê hương xứ sở mình, Ngọc thèm ăn rau, ra đồng vào vườn hái cả rổ. Còn ở trên đây, Ngọc xối một ca nước. Cô phải trả tiền ngay. Một hôm, Ngọc ra chợ về. Tài sản cả giỏ chỉ có mười bịch mì gói. Vậy mà đám bạn cùng phòng xúm nhau nài nỉ Ngọc bán lại. Chẳng mấy chốc, mười gói mì của Ngọc sang tay đám bạn. Ngọc ngồi bực mình bực mẩy. Thế nhưng, trong phút chốc, Ngọc đã nghĩ ra một cách kiếm tiền khá hay. Cô nghĩ có người mua thì phải có người bán. Ngọc chạy ngay ra chợ. Cô hổn hển mang về một thùng mì gói. Hai ngày, đám bạn lại xúm nhau mua ráo trọi. Tiếng đồn đại ngày một xa. Cả ký túc sá đều biết phòng Ngọc có bán mì gói, trứng gà, trứng vịt, bánh trái… Nhờ vậy, Ngọc có thu nhập đều đều mỗi ngày. Vừa học vừa có thu nhập, Ngọc ra trường hồi nào cô chẳng hay. Ra trường, Ngọc lại bắt đầu cuộc đời lênh đênh. Đầu tháng, Ngọc làm kế toán cho công ty này. Cuối tháng, Ngọc lại chuyển đến làm tạp vụ cho công ty kia. Đôi khi, một tháng chỉ có bốn tuần lễ, Ngọc phải ra vào đến năm, bảy công ty. Những công ty Ngọc tìm đến đa số nhân viên ở đó đang tìm lối thoát. Nhiều lúc, Ngọc ao ước được sống trong ký túc xá. Cô sẽ buôn bán đắp đổi qua ngày. Sống lây lất như vậy, Ngọc sẽ có thời đi tìm việc chín chắn. Việc gì cũng được, Ngọc không cần thiết phải làm đúng chuyên môn. Ngọc sung sướng cầm được tháng lương đầu tiên. Thế nhưng, tháng thứ hai cô lại thất nghiệp. Thế là, Ngọc chạy loanh quanh tìm việc. Cô tìm kiếm việc làm với mọi cách. Báo mua về vung vãi khắp phòng. Trang báo tìm kiếm việc làm bèo nhèo. Ngọc thấy vô vọng. Cô chuyển sang đọc báo. Những thông tin cũ rích làm Ngọc thích thú. Thời gian sau, Ngọc quên ngó ngàng đến những báo tìm việc. Cô sốt sắng bắt tay vào công việc viết lách. Toàn là những bài viết tầm phào, Ngọc vẫn tự tin gửi khắp nơi. Đọc báo nào, Ngọc đều viết bài cho báo nấy. Số lượng bài vở gửi đến các tòa soạn, Ngọc không còn đếm xuể. Cô vẫn cứ viết. Cho đến một ngày, Ngọc được mời lên tòa soạn. Cô ngồi run lẩy bẩy, mồ hôi toát ướt khắp người. Ngọc cầm lấy bài viết của mình mang về sửa chữa. Ngày hôm sau, Ngọc gửi lại đúng theo yêu cầu của biên tập. Bài viết xuất hiện trên trang báo. Ngọc mừng quýnh quáng. Cô tiếp tục viết bài khác. Bài này được đăng rồi đến bài kia. Ngọc quên ngay chuyện đi tìm việc. Những con số của tháng ngày dưới mái trường đại học, chúng đã biến mất nhường chỗ cho chữ nghĩa. Giờ đây, Ngọc chỉ loay hoay với câu cú. Những từ ngữ như hạch toán, định khoản, chứng từ… Ngọc lại thấy lạ lẫm. Cuộc đời cứ bôn ba khắp nơi. Ngọc thường xuyên đi đây đi đó. Thế nhưng, cô thấy không nơi nào bằng xứ sở mình. Sống giữa lòng thành phố, Ngọc lại khát khao mùi khói đốt đồng, một làn khói chỉ xuất hiện vào cuối mùa vụ. Màn khói dày đặc, hòa lẫn trong hương cốm lúa mới. Càng nghĩ ngợi, Ngọc càng nhớ đến xóm làng. Ruộng lúa nhà mình đang vào mùa thu hoạch. Những đêm trăng tát nước gàu dai. Tiếng huềnh hoang kêu trong mưa, bầy cá trắng lượn lờ dưới dòng mương máng… Nhớ đến đây, bỗng dưng miệng Ngọc ngòn ngọt vị cua đồng nướng lửa rơm. Ngọc không chút đắn đo. Ngọc quyết định mờ mờ sáng ngày mai, cô sẽ về thăm quê mình. Ngọc nằm trông đợi thời gian qua nhanh. Suốt một đêm dài, Ngọc cứ chập chờn. Trong cơn ngủ miên man, Ngọc mơ về quê nhà. Ngọc nghe tiếng gà gáy đánh thức canh năm. Ngọc choàng tỉnh giấc, chiếc điện thoại di động bên cạnh đổ chuông inh ỏi. Ngọc cầm lấy đặt vào tai. Đầu dây bên kia, giọng sếp rời rạc: "Vào tòa soạn ngay để đi công tác khẩn cấp". Hũ mắm tép ấm lòng những ngày đông Đã xa rồi cái thủa đi cất vó tôm, vó tép nhưng mỗi khi gió lạnh tràn về trong lòng tôi lại rộn lên những cảm xúc khó tả, thấy thương quá nhớ quá món mắm tép quê nhà. Ký ức một thời rong ruổi bắt tép bên những con mương đầu làng vẫn còn nguyên vẹn trong tôi. Vào mùa mưa, cả đám trẻ con xóm bãi kéo nhau ra những con mương đồng làng thả vó tép. Những cái vó nhỏ xíu, với tấm vải màn được buộc khéo léo với khung bằng thanh tre. Đơn giản vậy thôi nhưng lại là dụng cụ hữu hiệu để bắt tôm, bắt tép. Mồi để nhử tép phải là cám được rang chín. Tôi hay ra ngoài bờ dậu hái thêm một ít lá cúc tần đem rang với cám, thính sẽ dậy mùi hơn. Xong đâu đấy, mấy chị em tôi háo hức đứa vác gậy, đứa mang vó, đứa cầm rổ rá hành quân đi cất vó. Sau những trận mưa rào cuối hè là chúng tôi cất được nhiều tép nhất. Những con mương nước lặng, đùng đục là nơi được chọn. Có hôm trở trời, tôm tép còn nổi lờ lờ trên mặt nước, chỉ cần chịu khó một chút là đã có ngay mớ tép tươi. Những con tép nhảy tanh tách trong rá nhìn rất vui mắt. Từ mớ tép mà chúng tôi cất được, mẹ cẩn thận nhặt từng cọng rong, hạt sạn lẫn. Tép được chọn làm mắm thường chỉ là những con tép riu, loại bé nhất trong các loại tép nhưng phải còn tươi. Tép sẽ được đãi đi đãi lại cho đến khi tép trắng hồng, trong suốt mới cho vào cối đá giã. Như vậy mắm mới nhuyễn, quánh dẻo và mắm khi chín cũng thơm hơn. Làm mắm có hai công đoạn, giã mắm và rang thính. Sau đó đem trộn chúng lại với nhau rồi đem ủ. Thính được làm từ gạo, gạo càng thơm, càng dẻo thì mắm càng ngon. Khi rang thính phải đảo đều tay, để lửa không quá to mà cũng không được quá nhỏ chỉ vừa lom dom. Những hạt gạo vàng rộm trong chảo nở đều như những bông cau, khi chín tới đem ra giã thành thính. Xong đâu đấy, mẹ chuẩn bị một cái hũ, cứ một lớp tép lại bỏ vào một lớp thính. Đến hết thì đem nút chặt bằng lá chuối khô để sát cạnh bếp đun. Mắm để cạnh bếp thì nhờ hơi nóng mắm nhanh chín. Bọn trẻ con chúng tôi, suốt cả tháng trời cứ háo hức chờ lúc mẹ mở nút lá chuối. Khi ấy, ba gian nhà sẽ sực nức mùi vị ngọt ngào, thơm lạ lùng. Những buổi chiều đi học về, đói quá chạy ù vào bếp lấy bát cơm nguội ăn với mắm thì tuyệt hảo. Bữa cơm mùa đông, chỉ cần mẹ xới lưng cơm khói còn nghi ngút rồi rưới đều từng thìa mắm tươi hồng, đặc sánh thì tôi ăn chẳng biết no. Nhà nào sang hơn thì món mắm chưng thịt được xem là món ăn khoái khẩu. Chỉ cần một ít thịt ba chỉ băm nhỏ, một ít tiêu, ớt cho vào chưng, ăn với cơm nóng vào những ngày đông thì không thứ cao lương mỹ vị nào bằng. Đi qua những mùa đông, nuôi dưỡng tuổi thơ tôi là những bát cơm mắm tép của mẹ. Nhiều lúc thoảng nghe những cơn gió lạnh tràn về lại thấy nhớ quá dáng mẹ bên bếp lửa bập bùng. Của ngon vật lạ, mâm cao cỗ đầy rồi cũng qua đi nhưng món mắm tép thì vẫn cứ vướng vất trong tiềm thức. Nhận ra rằng, dù đi bất cứ nơi nào thì quê hương vẫn để lại trong lòng mỗi người con những thứ hiện hữu thân thương nhất. Có nhiều món ăn dân dã, đồng quê nhưng khó có món nào gợi nhớ nhiều kỷ niệm một thời nghèo khó, mộc mạc, chân chất như món kho quẹt. Đây là món ăn mà người ta gán cho nó chữ “nghèo” vì người dân quê thường hay làm vào những dịp trong nhà thiếu miếng thịt, con cá, cốt quấy quá cho qua bữa. Món này dễ làm vì đơn giản và vật liệu luôn có sẵn. Chỉ cần một cái ơ bằng đất nung, lưng chén nước mắm, ít bột ngọt, tỏi, mỡ… là có thể bắt đầu chế biến. Món kho quẹt thích hợp nhất với các loại rau luộc dân dã “cây nhà lá vườn”. Hái đầy rổ những lọai rau sẵn có trong vườn , sau nhà, bờ ruộng.. rửa sạch, cho vào nồi nước sôi luộc vừa chín tới, vớt ra để vào trong đĩa một màu xanh thiên nhiên nhìn rất bắt mắt. Gắp ít cọng rau, chấm nhẹ vào ơ kho quẹt, đưa lên miệng, ăn cùng cơm nóng, để tận hưởng trọn vẹn vị thanh, bùi của rau, hòa quyện cùng vị mằn mặn, ngòn ngọt của thứ nước chấm vàng sệt kia, một cảm giác ngất ngây, đủ sức lôi cuốn những người sành ăn khó tính nhất. Một trái bầu luộc cũng có thể “cõng” hết cả ơ kho quẹt đấy. Ở miền Tây, nước mắm kho quẹt thường được làm bằng cá linh đánh bắt được từ mùa lũ trước, ướp muối, ủ rục trong khạp da bò. Trước đây, mỗi khi mùa lũ về, cá linh bắt được hằng hà sa số, ăn không hết, phải ủ làm nước mắm dự trữ, với tỉ lệ cá nhiều hơn muối thì những giọt nước mắm nhĩ đặc quánh, vàng óng như mật ong, chứa hàm lượng đạm rất cao là điều hiển nhiên. Món kho quẹt chính là tinh túy của hàng trăm, hàng ngàn con cá linh, nên là một món ăn nhiều chất bổ dưỡng. Ai đã từng có tuổi thơ sống ở miền quê sông nước miền Tây chắc chắn sẽ biết đến và khó quên được món ăn thấm đượm tình quê trên từng gai lưỡi này, dù có dịp ăn nhiều món sang trọng. Làm sao quên được những buổi chiều nhập nhoạng, cả nhà quây quần bên mâm cơm đạm bạc, bên chiếc ơ đen xì lọ nghẹ, bên đĩa rau xanh, những âm thanh “quẹt quẹt” vui tai của chiếc đũa tre cạ vào đáy ơ, tiếng hít hà sảng khoái khi đầu đũa chạm vào môi… Tuy là món ăn bình dân, rẻ tiền nhất nhưng lại biểu hiện sự đầm ấm, đoàn kết, thương yêu trong cảnh nghèo khó của một gia đình thôn quê. Khi đời sống nâng cao, nhiều người cảm thấy thừa thãi thịt cá, lại tìm đến những món “độc” cho đỡ ngán. Và món kho quẹt này lại đàng hoàng nằm trong thực đơn của những nhà hàng sang trọng, với tên gọi “Rau tập tàng chấm kho quẹt” và giá cũng “ngoi” lên ngang hàng như nhiều món đắt tiền khác. Cách chế biến vẫn theo lối “cổ truyền”, chỉ có điều, thay vì kho trực tiếp trong cái ơ đất trên bếp củi, các nhà hàng thường kho trên bếp ga. Làm như vậy, vừa mau lẹ, vừa khỏi phải mất vệ sinh vì lọ nghẹ (lọ nồi). Nhưng điều đó đã vô tình làm mất đi phần nào chất dân dã, độc đáo của món ăn này. Nghĩ cũng ngộ, ngồi giữa không gian nhà hàng máy lạnh, ăn món này cũng có cái thú vị riêng của nó. Nhiều người bỏ quê, lên thành phố lập nghiệp, lo chuyện cơm áo, gạo tiền tất bật, bất chợt một ngày nào đó đi tiệc tùng, vô tình gặp lại món ăn ngày thơ ấu của mình giữa các món ăn Tây, Tàu, chắc không khỏi những giây phút hoài niệm, xen lẫn thích thú! Theo Thế Giới Mới ết một lần, cùng hai lần đám giỗ, cậu lại ra nhà người anh cùng cha khác mẹ với mình. Lành như củ khoai, lành như đất, lành như một người kém trí, như cái tên Út Khờ. Đi lần nào cũng quên vài thứ, không quên mang dép thì cũng quên đội nón, nhưng có thứ cậu không bao giờ quên mang tới nhà anh chị cậu, là bánh. Giỗ này cậu đem bánh bột đậu, giỗ sau cậu góp cốm ngào đường, tết thường có bánh kẹp cuốn, bánh bông lan, bột đậu. Những thứ bánh trái quê mùa, nằm vơ vất trên bàn thờ, giữa những món đồ cúng đẹp đẽ khác. Vơ vất như thân phận của cậu : con riêng của ông nội với người đàn bà khác. Anh chị và đám cháu không mê bánh nhà quê đó. Chỉ con nhỏ giúp việc nhà anh cậu là đón mừng nhiệt tình. Ăn một cái bánh nghe ngon nhức cả ký ức. Bánh của cậu gợi nhớ má nó đang nằm ho ở cái quê mị cà tha nào đó. Nó biết để có mớ bánh này, mợ (cũng hiền hậu thiệt thà y như cậu) đã phải nhồi bột đánh trứng từ hôm qua. Bột trứng dẻo nhẹo, cầm bàn chụp đánh mỏi nhừ tay, thì bột mới dậy, nở bung trong diệm, rồi được đem đi nướng. Than rực dưới đáy khuôn bánh, rải ủ đều trên cái nắp bằng gang nửa, cho hai mặt bánh vàng đều. Những mẻ bánh đầu hoặc khét quá hoặc chưa được vàng ươm như ý, mợ để lại nhà. Mớ bánh cậu mang đi phải là mớ bánh đẹp nhất, nuột nhất sau khi mợ trăn trở lửa trên lửa dưới. Mợ còn cắt giấy màu thành những sợi mảnh, rải vào keo bánh vừa để hút ẩm vừa trang trí cho đẹp. Cậu mợ không biết rằng ra khỏi xóm làng rồi, vẻ đẹp ấy trở nên lạc lõng, bơ vơ. Chị dâu cậu thường càm ràm, đã nói đem bánh trái ra chi mắc công, có ai ăn đâu… Cậu hiền lắm, nói mười hiểu hai, cười cười, cúng ba má mà đi tay không, coi sao được chị. Má con nhỏ giúp việc cũng thường nói vậy, khi lụi hụi chuẩn bị bột, nhân, lá để làm bánh này nọ đi cúng quảy ở nhà họ hàng. Cái hồi người ta chưa bán bột làm sẵn, má nó còn phải ngâm gạo nếp qua đêm, có khi ngâm với khóm cho gạo mau mềm, để xây làm bột. Làm bánh, nói gọn lỏn vậy mà có bao nhiêu chuyện lắt nhắt phải lo, đến nỗi tàu lá đem ra phơi nắng cho vừa héo để gói bánh, trẻ con cũng không phụ được, vì không biết cỡ nào mới vừa. Má nó lo toan hết. Chị em nó mười, mười hai tuổi đã được má dạy làm bánh, thành con gái rồi má nó vẫn lo “mấy đứa làm chưa khéo…”. Chị nó lấy chồng năm rồi, chuẩn bị cho đám gã, má nướng bánh bột đậu, bánh kẹp từ năm ngày trước. Một cái đám ở quê thường được nhắc nhớ bởi những món ăn ngon. Bây giờ người ta vẫn nhắc món bánh bò bông má nó làm hôm gã chị. Mịn và xốp, và những múi bánh như cánh hoa nở đều đặn, tươi tắn. Làm ra một món ăn ngon, hay một cái bánh ngon, thì đến lửa nhỏ lửa lớn mình cũng phải chăm chút nữa. Má con nhỏ giúp việc không nói vậy, nhưng nó tự học từ cái cách bà nắn nót rút bớt cây củi ra khỏi bếp, hoặc thêm vào mấy cục than. Hồi đó, mỗi lần má con nhỏ làm bánh là cả một cuộc hội hè. Ngoài những thứ bánh được gọi là sang chỉ có ở những giỗ, chạp, hay dịp tảo mộ, còn có những tiệc tùng đơn sơ hơn, ít tốn kém hơn, mà vẫn thấm đẫm hương vị. Xay lá mơ tam thể với bột, đắp vào lá mít hấp lên chan nước cốt dừa, vậy là con nhỏ được ăn bánh rau mơ. Bột trắng cán bằng chai, xong xắt sợi thả vào xoong nước đường, bột chín nổi lên mặt nước vậy là thành bánh canh ngọt cho đám nhỏ sì sụp. Hôm nào có cá lóc thì má nó nấu bánh canh mặn. Rồi thì bánh chuối hấp, chuối chiên, bánh cam nhân đậu… Bột bánh ít thừa ra từ lần làm bánh trước, má nó đem treo giàn bếp, hôm nào mưa dầm bà đem chiên lên, chị em nó lại được gặm món bánh tổ nóng hổi. Con nhỏ giúp việc, lần đầu tới nhà chủ, nó khoe nó biết làm nhiều loại bánh, kể cả mấy loại bánh ngon hết xẩy như kẹp cuốn, tai yến, tàng ong… tất nhiên là không ngon bằng má nó làm. Nhưng bà chủ phủi đi, nhà bà không làm bánh bao giờ, muốn thì bước ra cửa, thiếu cha gì món ngon, ì ạch làm gì cực thân. Bà cũng từng nói với thằng em chồng khờ khạo của mình câu đó. Và cậu Út hiền lắm, nói mười hiểu ba, lại nhoẻn cười bảo, nhưng vui lắm, chị. Con nhỏ giúp việc cũng từng nghe câu nói đó từ người mẹ của mình. Cực mà vui. Chỉ là không biết giải thích làm sao với người khác niềm vui sướng khi lấy từ khuôn gang nóng rực ra những cái bánh thơm lừng, ngui ngút khói. Mẻ bánh đầu đời đó, con nhỏ vẫn còn nhớ, những hạt đậu phộng rang nó ấn vào giữa cái bánh như một nhụy hoa, nhưng bánh nướng xong thì đậu rơi mất, bánh bột đậu trở thành bánh bột. Má nó nói phải học từ chuyện nhỏ xíu vậy, mới làm được cái bánh vừa đẹp vừa ngon. Ta chỉ cần ví cảm giác đó với cảm giác cô nghệ sỹ múa ba lê vừa hoàn thành một cú xoay khó. Kinh điển, với chỉ chừng ấy động tác, nhưng từ đời này sang đời khác, từ thế kỷ này sang thế kỷ khác, người nghệ sỹ vẫn đổ mồ hôi để cố hoàn thiện nó. Nhưng cậu hiền đến ngớ ngẩn, nên chỉ có thể nói cực mà vui, để nhận được từ con nhỏ giúp việc một cái gật đầu đồng tình, đúng đó, vui. Người chợ thì nhăn mặt ngán ngẩm, nói gần nói xa mà không dẹp được vụ bánh trái quê mùa này. Cũng phải, dẹp cả một nền văn hóa thảo thơm đồng bãi, đâu có dễ… Ăn thịt cá mãi cũng ngán. Vào nhà hàng, gọi dĩa rau luộc chấm mắm khô quẹt ăn thay đổi khẩu vị cũng thấy đã gì đâu. Chỉ tiếc là mắm khô quẹt của nhà hàng làm tiết kiệm nguyên liệu hay sao mà ăn không thấy đậm đà như chính tay mình thực hiện. Nguyên liệu: Tôm khô, mỡ thắng, đường, nước mắm loại ngon, xả bằm, ớt, tiêu, cù hành, tỏi và đương nhiên là một số loại rau quả như: Bầu, bắp cải, bông cải xanh, trắng ...vv Khâu thực hiện: Cho 4 người ăn Trước tiên , cho nồi nước sôi lên. Nhắc ra, cho 2 nắm tôm khô vào ngâm. Kế tiếp, băm nhỏ hành củ và tỏi (5 hay 6 tép tỏi và cũng chừng đó củ hành). Bắc chiếc nồi đất lên cho vào 3 muỗng mỡ. Đợi mỡ sôi cho hành và tỏi băm vào đảo đều chừng 4hay 5 phút rồi cho xả băm vào ( mua sẵn chừng 1000 đ ) Đảo đều cho xả hơi cháy thì cho 2 muỗng canh nước mắm vào. Đợi nước mắm sôi lên thì cho tôm khô, tóp mỡ vô. Đợi sôi vài chặp cho vào 4 muỗng đường. Lúc này, để lửa liu riu rồi cho ớt vào. Khi thấy hỗn hợp hơi sệt cho tiêu hột giã cỡ đầu tăm( khoảng 1 muỗng) vào đảo đều rồi nhắc ra. Rau luộc: Nên nấu nước sôi cho thêm muối, bột ngọt. Mỗi lần chỉ luộc 1 thứ. Không nên luộc quá lâu mà rau nhũn đi mất ngon. Chúc các bạn thành công và có một món ngon thay đổi khẩu vị. Cam đoan là nồi cơm sẽ sạch bóng Quả dưa vẹo vọ : Về nhà như một đứa trẻ, lục cơm nguội trong cái nồi nguội lạnh trong bếp, thấy vài miếng tóp mỡ ai đó rán còn lại, mới tất tả như gặp lại người quen lâu ngày, pha một bát nước mắm ớt hạt tiêu, nhất quyết là phải cho một chút cái gọi là thuốc độc trong thời bao cấp: mì chính, ăn ngon không thể tưởng tượng nổi. Ngồi nghĩ lại những ngày trước, mặc tay mẹ xua xua ra khỏi gian bếp, đứa bé con giả bộ quay đi nhưng mắt vẫn dán vào chảo mỡ đang sôi sùng sục, nơi đó có những miếng trăng trắng, rồi đây sẽ chuyển vàng, thơm đến tận bây giờ, chứa trong mình nhiều ý nghĩa, ít nhất là cái thèm thuồng của một thời kỳ đói khổ, là cái nguyên do để ăn một lúc vài ba bát cơm. Tóp mỡ rán nóng, giòn tan, ngậy tột đỉnh, cắn nghe cái ứa cả khoang miệng, lát nữa được chấm vào cái bát đựng thứ nước mắm rẻ tiền bán ở những cửa hàng thực phẩm thời ấy, nặng mùi, khắm lặm, chừng ấy thôi là đủ để một ông hàng xóm ghen tị, hậm hực ngó vào kết tội là hưởng thụ, là xa xỉ. Tóp mỡ bỏ lọ, bọc vào giấy báo, gói vào nylon, đến bữa rang với muối hạt, xào với dưa, nấu canh dưa, rim với thịt, xào cà chua, hay sang trọng hơn nếu úp với mì tôm và thật nhiều cách nấu nướng có thể kể ra một dãy, sinh động, ngọt ngào và dài dằng dặc, đằng đẵng như xếp hàng, như nỗi mong chờ một miếng thịt, thật hiếm và quí lạ. Tóp mỡ với văn nhân, ấy là kỷ niệm hồi nhỏ được chứng kiến bữa rượu chén tạc chén thù đến ba giờ đêm của ông ngoại và cụ Đào Duy Anh ở khu Tập thể Hàng Chuối, trong cái bát sắt, cạnh đĩa rau xào, đưa đẩy những chén rượu được ngâm từ thang thuốc biếu đến mấy mươi lần cho đến khi nhạt thếch, lại giúp đỡ được câu chuyện Trần - Lý, Tấn - Tần đậm đà, thú vị. Chiều nay, về nhà như một đứa trẻ, trong bữa cơm nóng sốt, vui vẻ với gia đình, lại thấy những miếng tóp mỡ, được chấm trong bát nước mắm ngon tròn vị của thời kỳ đổi mới, cay xè ớt hạt tiêu của hàn huyên, ôn lại một thời kỳ đất nước còn khó khăn gian khổ. Năm đi hối hả không tiền thưởng, không tuyết mà lạnh kịch liệt, của cái xối xả lòng người đang đau đáu đón năm Nhâm Thìn hoe vàng nỗi nhớ một thời bao cấp. Đi dọc đường phố thiếu nhân văn, người người xé truyện vứt lả tả, buồn xo và ái ngại, và ở một góc, đúng ra là phố Phái, ai cũng thấy có con bé đầu trần, chân đất, cùng với gói diêm vẫn lang thang với mái tóc hoe vàng. Hans Christian Andersen cho đứa bé ấy đi đôi giày quá rộng, vốn là của mẹ, một chiếc đã bị cuốn theo bánh cỗ xe song mã lướt nhanh khi em băng qua phố, chiếc kia thì một thằng bé lấy đi. Đôi giày ấy từ chối giấc mê đẹp như trong tranh của Tấm Cám, không có ông vua thử giày, cũng không có cánh buồm thắm đỏ. “Giờ thì là Noel, các cửa sổ đã sáng đèn và mùi ngỗng quay thơm lừng tỏa ra, con bé vẫn biết hôm nay là giao thừa nhưng không dám về nhà, chắc bố sẽ đánh đòn vì cả ngày chưa bán được lấy một xu, với lại ở nhà nào có hơn gì, nó chỉ có mỗi cái mái dột nát mặc cho gió rít. Cuộn người trong góc giữa hai ngôi nhà nhưng tay chân vẫn đóng băng vì lạnh, em chợt nghĩ biết đâu bật diêm lên sẽ tốt hơn, chí ít cũng có thể sưởi ấm những ngón tay. Que thứ nhất bật lên, hơ tay trên ngọn lửa ấm áp sáng bừng như cây nến nhỏ, em tưởng mình đang ngồi trước chiếc lò sưởi sắt to với chân đế và tháp trang trí bằng đồng. Lửa vụt tắt, lò sưởi biến mất, chỉ còn lại trong tay em là nửa que diêm cháy dở đến bẽ bàng”. “Cô bé bật que diêm thứ hai, bức tường trước mặt bỗng trở nên trong suốt, bé nhìn thấy trong nhà là một bàn ăn phủ khăn trắng như tuyết với con ngỗng quay nhồi táo và mận khô đang bốc hơi nghi ngút. Và lạ kỳ chưa! con ngỗng bỗng từ trên đĩa nhảy xuống, lạch bạch tiến về phía em với dĩa và dao cắm ở ngực. Bỗng que diêm phụt tắt, chẳng còn gì ngoài bức tường dày tối tăm, ẩm ướt và lạnh lẽo ngay trước mặt”. “Bé bật một que diêm nữa, và thấy mình đang ngồi dưới cây thông Noel trang hoàng dây nến và tranh rực rỡ. Với tay về phía cây thông, que diêm tắt lịm, em thấy ánh nến bay lên cao, cao mãi trông như những vì sao. Rồi một vì sao rơi xuống, "Ai đó đang từ giã cõi đời.", em bé nghĩ vì nhớ đến lời bà, người duy nhất yêu quý mình trên cõi đời này”. Cô bé bật que diêm thứ tư, ánh sáng bỗng bao trùm, giữa vầng sáng, chợt có người đàn ông đang đứng đó, mắt dài mũi lõ, tay vẫy vẫy đón em về phía cổng chào có ánh đèn Neon xanh đỏ. Tay giơ cao que diêm chưa cháy hết, cô bé đi thẳng vào nơi dạ tiệc, của quay cuồng và thác loạn, nơi có rất nhiều diêm, và những người đàn ông trong phòng tối, đốt hết que diêm này đến que diêm khác, cứ sáng lên như vầng dương rồi vụt tắt trong đêm giá băng. Cô bé thấy mình nhuộm tóc nâu, đứng trên sân khấu lộng lẫy bà hoàng, giữa tiếng tung hô sắc đẹp, và thấy mình không mặc quần áo tự bao giờ, phô bày giữa muôn ngàn ánh diêm mười đô thèm muốn. “Noel lạnh buốt tuổi thơ, chợt cô bé lại thấy bà đang đứng đó, mỉm cười hiền hậu và âu yếm. "Bà ơi!", em khóc nấc lên, "Bà mang cháu đi cùng nhé! Cháu biết bà sẽ rời bỏ cháu khi que diêm cháy hết, bà sẽ biến mất như chiếc lò sưởi ấm áp kia, như chú ngỗng quay và cây thông rực rỡ". Em vội vàng cho cả gói diêm vào ngọn lửa, ánh sáng bừng lên còn hơn cả vầng dương và bà trông như chưa đẹp lão, cao lớn đến thế bao giờ. Bà ôm em trong vòng tay rồi cả hai cùng bay lên, trong ánh sáng và niềm hân hoan, xa dần mãi mặt đất, đến với Chúa, đến nơi không còn đói khát và nỗi khổ đau”. Rạng sáng hôm sau, người ta thấy cô bé như búp bê bị vứt ra ngoài đường, má ửng hồng, nụ cười nở trên môi, xung quanh nguội lạnh những que diêm, đã cháy tàn, rớt lại sau tiếng cười của những người đàn ông xa lạ, đêm trước đốt lên xăm soi vào cơ thể mình. Em đã chết cóng, đã bao mùa Noel, tay nắm chặt những que diêm mơ ước, của hạnh phúc và giàu sang, ngay chính trên cơ thể mình. GTT - Ai cũng nói tôi là một người phụ nữ hiện đại: làm việc cho công ty nước ngoài, ở nhà có người giúp việc, mỗi tuần chỉ cần điện thoại là nhân viên siêu thị đem đồ ăn đến tận nơi... Vậy mà, trong mỗi giấc mơ của tôi thường có hình ảnh một khu chợ nước ướt lép nhép, cá lóc rộng trong mâm, ếch nhảy chồm chỗm và các loại rau tươi xanh mát mắt. Tôi biết mình khát khao chợ. Một lần, tôi từ công ty ghé vô chợ Cũ gần đường Hàm Nghi, bỗng nghe lòng xốn xang khi thấy một chiếc thúng bên vệ đường chứa đầy những con tép muỗi – thứ tép nhỏ bằng đầu que tăm, lẫn với một ít cá và rong, nhảy xom xom. Tôi mua liền nửa ký. Tôi mua cho ký ức của mình, của những ngày mưa ngồi chồm hổm bên bếp lửa chờ lứa tép chiên bột ra, cuốn rau sống, chấm mắm chua ngọt. Tôi bấu víu lấy cảm xúc của những buổi chiều nhảy chân sáo ngoài đường về, lục cơm nguội ăn với tép riu rim khế. Tôi cười lỏn lẻn với hai vợ chồng chị bán tép và mua mà không trả giá. Thỉnh thoảng tôi nhớ món chả nhái mà bây giờ phải may mắn lắm mới gặp nhái ngoài chợ. Nhìn nhỏ xíu, roi roi thế thôi nhưng băm nhuyễn cả xương, sau đó cho vào cối đá quết cho dẻo, cho thêm ít ớt, hành củ, nước mắm, lá chanh mà xem, chiên thơm nức làng nức xóm. Không đi chợ mà cứ vô siêu thị thì bao giờ mới có chả nhái tươi ăn? Tôi cũng nhớ con rạm hay con cáy. Cua đồng vô siêu thị cũng có nhưng rạm sống thì không. Rạm rim cũng có bán nhưng tôi muốn nhìn thấy một chiếc thau móp méo, phủ một ít lá cỏ, còn bọn rạm vàng ươm, mập ú thì chạy lăng xăng trong ấy. Tôi sẽ mua về, lựa toàn con cái nhé! Tất cả chân rạm đem giã nhuyễn lọc nước nấu canh rau đay, mướp, còn thân rạm đầy thịt và gạch son thì đem kho rim, ram cho thật giòn lên, trước khi nhắc xuống cho tí lá chanh thái chỉ vào. Nếu không có rạm thì cáy. Con cáy chứ không phải con cua. Cáy nhỏ hơn cua nhiều, con đực chân đỏ, con cái màu xám. Mùa cáy rộ, con nào bụng cũng ôm trứng, trứng cáy nấu canh chua chua ngọt ngọt, mình cáy rim mặn, rắc tiêu thơm phưng phức. Tôi nhớ những ngày còn nhỏ, thay cha mẹ nuôi em, tiền chợ chỉ đủ mua một ký cáy, làm hai món ăn cả ngày. Thế mà đám em đứa nào cũng mau lớn, cũng cao ráo, chắc nhờ canxi rạm cáy ngày xưa. Tôi đi siêu thị theo lịch, đều đều như lịch họp giao ban, được lập trình và không thay đổi. Nhưng tôi vẫn mơ về những ngôi chợ ngày xưa, bán rổ khổ qua đèo, trái gấc chín đỏ móp méo nằm kế bên con gà bị trói thúc ké hay chùm trái trường đỏ rực mà chua lét. Tôi muốn mua ít rau ngổ dại về luộc chấm mắm nêm, mua củ chuối về nấu ốc hay mua chùm đậu nành luộc vừa đi vừa bứt ăn. Tôi nhớ mấy bà bán “fastfood” ngày xưa: nguyên cái chân bò luộc đem về xắt mỏng chấm tương bắc; nậm sữa heo luộc đem về xắt nhỏ rim nước mắm tiêu hay món chả cá chiên thơm lừng góc chợ. Tôi nhớ ngày bố còn sống, ông thích nhất là đậu hũ nên mỗi khi đi chợ tôi mua cho ông một bìa đậu chiên thơm mềm cho ông chấm muối. Mấy bữa nay mưa rơi vài hột, tôi thèm ăn khô. Mà phải là khô cá chuồn. Ngày xưa mẹ tôi mua nguyên thùng từ hợp tác xã, đầu, lòng nuôi heo. Khô cá chuồn muối xổi, mềm mềm, ướt ướt, chiên ngào mắm với giấm ăn dần. Tôi nhớ mắm ruột. Phải chính xác là ruột cá lóc trộn với đu đủ bào, ngày xưa bán bởi mấy bà dưới quê bưng lên. Mắm đó giã thêm chút tỏi ớt ăn cơm nguội ngon chết người. Tôi cũng nhớ món đầu tôm càng kho tàu (mình xuất khẩu rồi, mà hồi xưa tôi toàn chê bọn nước ngoài dại dột, chừa lại cái đầu đầy gạch béo ngậy). Tôi nhớ cả mấy ông mặc đồ bộ đội, đội nón cối vải, chuyên ngồi bán đá mài dao hay hàn thau nồi bể, quai chảo sứt. Bây giờ nồi bể thì bỏ đi, giao tiếp cộng đồng cao nhất là bán “ve chai” chứ hàn làm chi? Hiện đại thế mà suốt ngày tôi mơ đi chợ ướt lép nhép, ngày mưa kiếm miếng mít non về làm gỏi xúc bánh tráng mè. Trời nắng gay gắt ngồi văn phòng máy lạnh, mơ ra ngoài mua bó sâm đất hay rau sam chiều về nấu canh tôm ăn cho mát. Thật ra những điều tôi khát khao vẫn còn đó, vẫn có thể tìm thấy ở chợ tùy theo vùng miền nhưng không có thời gian để mà đi chợ, để cảm cái mùi chợ truyền thống nên cứ coi là trong quá khứ. Vì cứ còn trong ký ức nên mỗi khi nằm ngủ lại chiêm bao, thèm một con cá chày nấu mẳn, thèm mớ rươi xào củ niễng mà thèm nhất là ánh mắt bố háo hức với bìa đậu mềm mại nóng hổi tôi đem ở chợ về. Ở Nam bộ khi thắt ngặt thức ăn, người ta dở khạp mắm lấy dưa ra chế biến món ăn, thật giản dị mà thắm đậm tình quê, tình người biết bao! Còn người ăn chay, thì có dưa muối. Dưa mắm, dưa muối đều là món ăn đạm bạc của người lao động dân dã, mà hầu hết ở chợ quê phương Nam đều có bày bán. Dưa mắm - dưa muối cơ bản được làm bằng dưa leo, đu đủ, dưa gang... Nếu người ăn mặn thì trưng dụng nước của các loại mắm tiết ra rồi lấy vật liệu dưa leo, đu đủ, dưa gang, ngâm vô để khoản 20 ngày cho thấm đều là lấy ra dùng được. Còn người ăn chay cũng dùng vật liệu: Dưa leo, đu đủ, dưa gang ngâm với nước vôi một ngày một đêm cho gìn rồi vớt ra, rửa sạch để ráo. Sau đó, ngâm nước muối cho thật mặn rồi nhận dưa leo, đu dủ, dưa gang vào khạp muối cho thâm, khoảng 15 ngày là vớt ra ăn được. Dưa mắm hoặc dưa muối sau khi vớt ra rửa sạch, xắt nhỏ từng miếng, ướp thêm gia vị, bột ngọt, tỏi, chanh, ớt... trộn đều cho thật thấm ăn mới "bắt miệng" Còn người ăn mặn, có thể cầu kỳ một chút thì tăng cường thịt ba rọi luột xắt lát mỏng, tôm hoặc tép luột trộn vào. Có thể phi mỡ tỏi cho thơm cháy vào để nâng cấp đỉa dưa mắm. Sau những giờ phút lao động vất ngoài đồng áng, bụng đói cồn cào, về nhà lục nồi cơm nguội, ăn với dưa mắm làm sẳn là nhất trần đời ! Mỗi buổi sáng điểm tâm, ăn cháo đậu đen hay cháo trắng với dưa mắm là " hợp gu" nhất. Đôi khi người ta an dưa mắm với bắp nấu, vùa cạp vừa ăn. Ngày nhỏ ở nông thôn, gia đình đông anh em, mẹ tôi thường dự trữ dưa mắm để ăn lâu dài. Lâu ngày, thấy ngán, ra sau vườn, hái đọt rau lang đem luột chín chấm với nước tương ngon lành, cần chi cá, thịt. Nhiều hộ chuyên sống bằng nghề làm dưa mắn - dưa muối dự trữ để bán có thu nhập cao. Nhà có diên tích rộng họ dung chứa hàng chục khạp mái dầm to tướng làm dưa đem bán chợ quanh năm, cuộc sống khoẻ re.Ngày nay món dưa mắm vẫn tồn tại bên mâm cơm của nhiều hộ giàu có, nhưng được thêm hương vị, có tôm trộn thịt xé phay, rắc thêm đậu phộng thơm ngát. Tuy vậy, người lao động vẫn còn giữ được truyền thống món dưa mắn quen thuộc dân dã một thời, đậm đà bàn sắc văn hoá ẩm thực đất phương Nam. Dưa mắm dưa muối tuy là hai món ăn bình dị, nhưng thiếu nó như thiếu chút hồn quê. Cái món này nhớ mỗi lần ăn xong là khát nước hoài luôn, nhưng mà hông sao, có mấy lu nước mưa ngoài sau nhà, tha hồ mà uống, nước mưa nhà lá ngọt mát lành, hương vị rất riêng không sao tả được, giờ uống nước ở đâu cũng hông bằng nước mưa quê minh . Bồng Bồng chấm mắm kho | Saturday, August 29, 2009 11:29:11 AM Kể từ khi khăn gói lên đường thực hiện Nam tiến, chinh phục vùng đất phương Nam, những cư dân đầu tiên của Nam bộ lúc bấy giờ phải chịu nhiều gian lao vất vả, phải đối mặt với thổ dân, với thú dữ, với rừng thiêng nước độc để bảo vệ mình và bảo vệ thành quả lao động của chính mình. Nhất cử nhất động của ngoại cảnh, cư dân phải đặt trong tình trạng sẵn sàng đối phó: Tới đây xứ sở lạ lùng Chim kêu phải sợ, cá vùng phải lo! Cuộc sống ban đầu của người dân Việt đi mở đất phương Nam là thế đó. Chưa hết, về cái ăn thì hết sức chật vật, mọi nhu cầu về ăn uống đều tuỳ thuộc vào sức lao động và điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt, mọi sự cải tạo thiên nhiên lúc ấy hầu như chưa có hiệu quả đáng kể. Chẳng hạn như khi cư dân bắt được nhiều cá ăn không hết thì nảy sinh ra làm mắm để dành. Đến mùa nghịch, cá tôm khan hiếm thì đem mắm ra kho, tìm những loại rau dại có thể ăn được như đọt bần, đọt choại, đọt sộp… để ăn. Đặc biệt là cư dân biết dùng bồng bồng ăn với mắm kho, một loại rau được đưa vào văn học dân gian ở Nam bộ: Bồng bồng chấm với mắm kho Cơm ăn mươi bát chưa no, còn thèm. Bồng bồng là loại rau gì mà ăn với mắm kho hấp dẫn đến thế? Có lẽ gọi bồng bồng là một loại rau dại thì đúng hơn, thường mọc hoang ở những nơi ruộng liền, đất có nhiều phèn mặn, cùng với các loại rau cỏ dại khác như rau choé, đồng tiền. Nó là nỗi lo của người nông dân khi gieo trồng, vì chúng phát triển mạnh thì sẽ rút hết các chất dinh dưỡng nuôi cây lúa làm lúa bị thất mùa. Vì thế chúng luôn bị nông dân tìm cách diệt trừ như nhổ bỏ hoặc phun thuốc diệt cỏ. ồng bồng là loại cây phân nhánh, lúc cây mới mọc thì thẳng thân xốp, lên cao khoảng 15-20cm cây bắt đầu phân nhánh có nhiều cành nom như cây ớt, khi trưởng thành cây có nhiều trái mọc chỉ thiên, thân trái trông giống như trái tiêu ớt, nhưng ngắn và to hơn. Bồng bồng ăn với mắm kho là loại bồng bồng còn thời kỳ mọc thẳng chưa phân nhánh thân còn non mềm. Trước hết người ta nhổ cây bồng bồng, cắt bỏ gốc và rễ, lặt bỏ lá ở phía trên thân, lấy một đoạn thân mềm từ phía gốc tuỳ theo cây tốt xấu khoảng 7-10cm, rửa thật sạch để ráo nước vì phần gốc nằm dưới nước lâu ngày có khi bị đóng váng phèn. Cắt thân cây ra từng đoạn ngắn chừng 5cm. Dùng tay bóp dập thân cây. Thân cây bồng bồng xốp nên cũng dễ bóp, rồi cho vào tô rưới giấm thêm một ít đường cát, và trộn đều lên. Chuẩn bị một nồi mắm kho đặc sắc, còn nóng, có kho lẫn tôm đất hoặc tôm bạc, thịt ba chỉ, mực tươi, cá chú, cà nâu, đậu bắp, có thêm nước cất dừa vắt kẹo, nêm cho vừa ăn, đừng để mặn quá không ngon. Thân bồng bồng có vị hơi đắng, hút các chất chua ngọt của giấm và đường, khi chấm vào mắm kho thì hấp thụ thêm chất mặn, ngọt, béo của mắm, bột ngọt, thịt, cá thì thật là hấp dẫn. Bồng bồng chấm mắm kho ăn với cơm nóng hoặc ăn với bún thì khỏi phải chê. Còn nếu chấm bồng bồng đã được bóp giấm vào mắm kho để trong lẩu có than nóng hoặc nồi để trên bếp ga, bếp điện mà nhậu lai rai với rượu mạnh thì hết ý.Tự bao giờ, người Nam bộ cho dù đi đâu, đến làm khách nhà bạn bè hay chỉ mới đến lần đầu, khi chủ nhà mời cơm, thấy có món canh chua mà thiếu dĩa muối ớt, khách không ngần ngại, cứ đi thẳng vào nhà bếp, làm một dĩa muối ớt mang lên. Chủ nhà không phiền trách mà tự trách mình sơ ý, xem như lỗi ấy thuộc về mình. Anh Mười Đại, một người quen với tôi ở Chợ Mới An Giang, là người nổi tiếng ăn uống khó tính, luôn trung thành gần như tuyệt đối với lối ăn dân dã, một thói quen từ thời tuổi thơ với đồng quê thôn dã, lúc giàu sang ăn đủ món ngon vật lạ của người, còn món dân dã của mình thì không chấp nhận bị cách tân, bị sang trọng hoá. Mỗi lần vào hàng, quán, gọi món canh chua, anh Mười căn dặn bồi bàn nói với nhà bếp là không được nêm đường, nêm hành tỏi phi và muối ớt phải là muối hột. Có lần một đầu bếp phải làm lại đến tô canh thứ hai mà vẫn không đúng theo yêu cầu của anh vì anh đầu bếp này đã quen tay, đến nỗi anh Mười phải vào bếp ngồi canh chừng, nhắc nhở mới xong. Có một điều rất giống nhau của tất cả chúng tôi, những đứa con sinh ra và lớn lên trên làng quê Nam bộ là từ trong vị cay của ớt, vị mặn của muối còn có hương vị của tuổi thơ, đồng đất. Thú vui đáng nhớ nhất hồi còn nhỏ của tôi là được suốt ngày lang thang trên đồng ruộng cùng với đám bạn chăn trâu, mỗi đứa đều sở hữu một cái nạng giàn thun (ná) và năm mười cần bẩy. Bắn được con trao trảo, cu đất, cu xanh, hay bẫy được con chim cuốc, cúm núm, ốc cao là đem lên bờ đìa vặt lông nướng mọi, thịt chim tươm mỡ thơm lừng, kinh nghiệm đời sống mục đồng, đứa nào cũng thủ sẵn trong túi áo một nhúm muối hột với mớ ớt hiểm xanh gói trong mảnh lá chuối khô (lá chuối khô chống thấm và ẩm rất hay). Thịt chim còn nóng hổi xé ra ăn với muối và ớt hiểm, vừa ăn vừa quệt mép, mặt mày lấm lem như những anh hề, cay chảy ròng nước mắt mà ngon cũng thấu tận ruột gan. Song, vẫn không ngon bằng gà nướng đất sét đâu. Nhưng muốn cho "tới ngon" phải là con gà bắt trộm... của nhà mình, ôm chạy một mạch ra đồng, đứa moi đất sét đứa nhổ rơm rạ, xát bùn lên lông con gà rồi nắn trong cục đất sét to như trái dưa hấu, phủ rơm rạ lên mà đốt, đốt cho đến khi cục đất sét khô trắng lại, có những đường nứt nẻ, gõ nhẹ mấy cái, cục đất bể ra từng mảnh, bao nhiêu lông lá dính theo đất, lộ nguyên con gà chín căng da bốc hơi thơm phức, đem đặt lên tàu lá chuối tươi, muối ớt bày sẵn, chưa ăn đã nghe ngon, cả lũ nuốt nước bọt nghe ừng ực.. Anh Hai Trung Kiên, một người quen ở Bạc Liêu, từng chiến đấu và sống sót trên cánh đồng chó ngáp qua cuộc chiến tranh đánh Mỹ, đã dạy tôi một "kinh nghiệm xương máu" khi phải sống hoặc đi qua những cánh đồng như thế là mang theo muối ớt! Anh nói, khi băng đồng, có muối ớt, nhất định sẽ bất ngờ có được bữa ăn ngon, chẳng hạn như vào mùa đốt đồng, giữa cái khoảng trời còn nghi ngút khói, bất chợt nghe thoảng thơm mùi ốc nướng, cứ đi ngược hướng gió là ta sẽ bắt gặp cái bờ giồng có lớp tro còn ấm. Con ốc bươu cháy trong bờ giồng, ngon lắm. Nhưng với con ốc có thiếu chút gia vị cũng chẳng sao, còn với những món khác, thiếu hột muối, trái ớt thì nan giải vô cùng. Sau trận cháy, đồng hoang vắng trở lại, ngay dưới lớp tàn tro còn ấm nóng ấy là cả một... đồng rắn nướng. Nào là rắn nước, rắn hổ sậy, nhưng chiếm đại đa số là rắn bông súng, chúng còng queo tươm mỡ, dính đầy tro. Rắn cái con nào cũng bị nổ ngang bụng, lòi đùm trứng vàng ươm nằm phơi ra ngoài. Trước hết nên ưu tiên ăn một bụng trứng rắn, rồi hôm sau trở lại ăn phần thịt rắn, mặc dù nó nằm qua đêm trên đồng nhưng đã có lớp tro bảo vệ, vuốt cho sạch rồi bẻ từng khúc, từng khúc một ăn với muối ớt, thịt rắn nướng lèo vừa ngọt vừa thơm, nhưng sự lợi hại của muối ớt lúc này là độ mặn, độ cay của nó đánh tan đi cái cảm giác lạnh miệng mà nếu là nước mắm hay một thức chấm nào khác không thể nào có được vai trò đó. Thứ gia vị rất đỗi bình thường này khi đặt đúng trước một món ăn như là không thể thiếu, vì bởi nó còn là một câu chuyện kể thú vị về cuộc sống, về một góc riêng nào đó trong ký ức của mỗi người. Dây bí đỏ vốn quen thuộc với người dân quê, được trồng khắp nơi nhất là vùng ven bãi sông, bờ ruộng, nương đồi. Ra giêng, bông bí đã nở vàng. Mỗi mùa bông bí nở, trai gái bắt đầu những cuộc hẹn hò, khởi đầu mối tình duyên sâu nặng, thành vợ thành chồng: “Mẹ mong gả thiếp về vườn Ăn bông bí luộc, dưa hường nấu canh”. Bông bí luộc, dưa hường nấu canh… những món ăn tưởng như đơn giản ấy lại không thể thiếu trong bữa cơm gia đình đầm ấm, nhất là ở vùng nông thôn. Theo kinh nghiệm dân gian, bí đỏ đóng vai trò khá quan trọng cho việc phát triển thị giác, điều hòa hệ miễn dịch, tăng trưởng xương, nhuận trường, bảo vệ da, bồi dưỡng thần kinh. Vì vậy, bí đỏ được coi như một món ăn “trường sinh bất lão” bên cạnh các món cao lương mỹ vị khác. Mỗi khi đến mùa bí đỏ, mẹ tôi thường chọn những trái tròn, mập, vỏ cứng, có màu vàng cam đậm đem cất trong buồng dưới nền đất cho mát để dành mùa đông. Cứ độ tháng 8, tháng 9 âm lịch, dải đất miền Trung lại gồng mình chịu đựng những cơn mưa dài ngày, những đợt lụt lớn. Trong cái thời tiết khắc nghiệt, thức ăn khan hiếm ấy, bấy giờ chỉ cần một nắm đậu phụng, ít đường là có được một tô canh bí đỏ ấm áp, đậm đà. Thật ra dây bí đỏ từ quả, lá, hoa, hạt đều có thể chế biến thành các món ăn ngon. Đọt bí dùng để xào hay nấu canh, hạt bí rang cũng là một món ăn rất thú vị cho cánh đàn ông khi “trà dư tửu hậu” hay chị em phụ nữ “lai rai câu chuyện”. Đặc biệt có nhiều món ăn khá độc đáo từ bông bí. Do bông bí có số lượng ít nên người ta thường hái cùng với đọt bí còn non. Chỉ một thoáng dạo quanh vườn hay trên nương rẫy đã có được một rổ rau bông bí còn vương vài giọt sương mai. Bông bí đem về xẻ một đường để moi tim ở giữa vứt đi, tước cạnh chung quanh bông và lớp da nhám ngoài cuống, sau đó rửa sạch để ráo. Bông bí luộc vài phút trong nồi nước sôi là đủ chín; vớt ra để nguội, vắt bớt nước nhưng không được khô quá. Bông bí luộc chấm nước kho cá, kho thịt hay chấm nước tương dầm ớt ăn với cơm nóng tuyệt không gì bằng! Nhai từng cọng bông bí luộc người ăn cảm nhận được cái vị ngòn ngọt, một chút bùi bùi, phần tiếp giáp giữa cuống và bông có cảm giác dai dai. Ngoài ra, bông bí còn dùng để nấu canh, xào tỏi, xào thịt bò, xào nghêu,… Khi xào bông bí phải canh cho vừa đủ chín mới còn giữ được độ giòn. Cầu kỳ hơn là đưa vào lòng bông bí thịt heo bằm nhuyễn đã trộn với các loại gia vị, cột túm lại đem hấp. Lúc ăn cắt thành từng khúc đặt ra đĩa, người ăn sẽ thưởng thức cái hương vị vừa thơm vừa béo rất là lạ. Lại một mùa bông bí chớm nở, trong cái nắng của ngày giêng hai, những bông bí màu vàng lung linh như mời gọi bàn tay thôn nữ đến hái về: “Ai chèo ghe bí qua sông Đạo nghĩa vợ chồng nặng lắm anh ơi!” Một bửa nọ Tiến tui vào siêu thị Cộng Hòa, mừng húm khi thấy siêu thị có bán món Ba Khía trộn, nhìn thấy những con Ba Khía to bằng 3 ngón tay, mập ú, xếp đều trên khay inox. Hấp dẫn quá, nhớ nhà quá…Tiến tui mua ngay một trăm gram về ăn cho đỡ nhớ quê…cho đã thèm. Lòng đầy háo hức, về nhà là mở bịch ra xử liền tức khắc cho đã, bẻ ngay một cái ngoe Ba Khía ra, chưa ăn vội, phải thưởng thức bằng khứu giác trước đã…Tiến tui đưa cái ngoe Ba Khía ngang mũi…Tiến tui chợt rùng mình khi nghe một hương vị lạ hoắc xộc lên mũi mình. thất vọng hết 50% rồi…. Té ra người ta đã ướp chất bảo quản vô cho Ba Khía chậm phân hũy, cho nên làm mất đi mùi đặc trưng của Ba Khía mà tui được ăn ngày nào. Khi tui cắn cái ngoe Ba Khía vào miệng thì…hởi ôi, 50% hy vọng còn lại cũng theo mây theo gió luôn. Thịt Ba Khía bở rẹt, bủn xì…chắc là người ta để Ba Khía trong tủ đông lâu lắm rồi thì phải…Tui thất vọng hoàn toàn, và chán chường cho ngay bịch Ba Khía vào thùng rác…thở dài tiếc nuối. Có ai đã từng được ăn Ba Khía ở miền Tây quê tui, mua tại lò, tại chợ, lúc người ta muối con Ba Khía vừa “chín” hoặc ăn ngay mùa Ba Khía hội như tui thì mới hiểu, mới thông cảm được lý do tại vì sao tui phải quăng bịch Ba Khía “made in siêu thị” ấy vào sọt rác… Ngày xưa, khi tui còn nhỏ xíu, không nhớ là khi nào…nhưng chắc có lẽ là khi tui bắt đầu biết ăn cơm thì tui cũng đã quen với món cơm nguội ăn bốc với Ba Khía trộn tỏi ớt của ngoại tui rồi. Ngày đó ở quê tui nhà nào nghèo lắm mới ăn cơm với Ba Khía, vì nó rẻ tiền, và không ngon (so với thịt cá thời ấy). Hôm nào tui không đi bắt cá, hay không đi kéo lưới được thì y như rằng ngày hôm sau ngoại tui cho cả nhà ăn món Ba Khía trộn. cũng đồng nghĩa rằng ngày đó mọi người đều phải bị uống nước no bụng luôn…vì Ba Khía mặn quá mà… Nhớ lại ngày ấy, mỗi khi tui ngồi xem ngoại trộn Ba Khía, ngoại tui hãy kể rằng: Ba Khía thật ra không phải bắt ở quê mình mà người ta bắt nó tận Rạch Gốc, Bạc Liêu lận… Ba Khía cùng họ với Cua, (mà sau này lớn lên đi học tui mới biết nó thuộc loài Giáp Xác-nghe cho có vẻ khoa học í mà). Nó thường đeo bám trên các thân cây Mắm, cây Đước, hay trên các bẹ dừa nước…hình dáng nó như con Còng, nhưng bự gấp đôi con Còng. Ban ngày nó chui trong hang nhưng ban đêm là chúng dạn dĩ bò ra ngoài đi kiếm ăn ngoài bải bùn hay dưới bụi rể mắm, rể Đước…cho nên người ta đi bắc Ba Khía toàn đi ban đêm. Ngoại nói khoảng tháng bảy, tháng tám âm lịch là mùa Ba Khía hội, là mùa Ba Khía giao phối, đẽ trứng cho nên chúng kéo về từng đám, bám đầy trên thân cây mắm, bò lên khênh trên bãi sình, chúng lo say mê chuyện “ái ân”mà không cánh giác với mối nguy hiểm với con người…Người ta canh me mùa Ba Khía hội chỉ duy nhất một năm một lần như thề để thu hoạch Ba Khía. Người ta không bắt từng con nữa mà phải mang bao tay hốt từng năm Ba Khía cho vào lu vào khạp. Ngoại giải thích rằng khoảng tháng mười âm lịch là do thời tiết khô hạn Ba Khía không có thức ăn, cho nên bắt Ba Khía mùa nảy chỉ toàn là vỏ chứ thịt Ba Khía không bi nhiêu hết. Sang mùa mưa, độ tháng tư, tháng sáu…cây trái ra hoa kết quả, có nhiều thức ăn nên con Ba Khía cũng bắt đầu mập lên. Đến tháng tám là Ba Khía đẽ trứng thì thu hoạch Ba Khía tốt nhất và thịt Ba Khía sẽ ngon nhất. Ngoại còn nói rằng sở dĩ con Ba Khía ngon là vì nó ăn trái Mắm đen, nếu bắt Ba Khía ở vùng không có nhiều cây Mắm thì Ba Khía cũng không ngon, không có vị đặc trưng. Sau khi bắt Ba Khía về người ta rữa sạch bùn đất trên thân chúng rồi ngâm chúng vào khạp nước muối. người ta pha nước muối sao cho khi thả hột cơm nguội vô, thấy hột cơm nguội nổi lên trên, không bị chìm xuống là vừa. Con Ba Khía ngâm trong nước muối khoảng 5 ngày là ăn được, vừa độ thơm ngon. Chứ nếu để lâu khoảng 10 ngày hơn thì thịt Ba Khía sẽ bũn ra, ăn không ngon nữa. Khi mang ra chợ bán, người ta xếp cứ một lớp Ba Khía một lớp muối hột, cho đến đầy hết mặt thau. Để vừa giữ cho Ba Khía không hư mà cũng vừa làm cho con Ba Khía đen nổi bật hơn lên trên nền muối trắng nữa. (cũng là một kiểu tạo hiệu quả trưng bài sản phẩm thới đó í mà) Ngày xưa ngoại tui hay mua đúng 150 gờ-ram Ba Khía là đủ cho cả nhà tui 4 người ăn, ngoại còn nói vui rằng Ba Khía nói theo từ ngữ của thời ấy cũng có nghĩa là 150 gờ-ram (tính theo cái cân đòn xách tay thời đó, khi cân người ta dời trái cân từ trong ra ngoài thì cứ 2 khía = 100gram, thì ba khía tức là 150 gram là đúng quá rồi). Không biết thời bây giờ người ta chế biến món Ba Khía theo kiểu gì, nhưng với ngoại tui ngày xưa sau khi mua về ngoại tui “khử trùng” chúng bằng cách ngâm chúng vào nước cơm sôi. (Ngày đó làm gì có nồi cơm điện như bây giờ, người ta nấu cơm phải chắt lấy nước cơm sôi ra bớt sau đó mới hong lữa riu riu cho cơm chín bằng hơi. Cái thứ nước cơm sệt sệt ấy mà bỏ đường cát vô, dằn thêm một chút xíu muối nữa là trở thành một thứ nước uống ngon và bổ dưỡng cực kỳ không thua gì sữa Cô Gái Hà Lan đâu nha). Ngoại dạy tui rằng, người ta lấy nước sôi trụn Ba Khía cũng được nhưng sẽ làm cho nước ngọt trong con Ba Khía thấm ra theo nước sôi hết, còn nếu trụn Ba Khía bằng nước cơm thì vẫn giữ được nước ngọt của con Ba Khía, nước cơm sệt sệt còn làm cho nước trộn Ba Khía ngon hơn, tỏi ớt sẽ dính chặt trên thịt Ba Khía chứ không trôi tuột xuống đáy tô, khi ăn Ba Khía thì chắc sẽ đậm đà hương vị hơn. Sau khi trụn Ba Khía bằng nước cơm, ngoại tui mới tách thân Ba Khía ra khỏi cái mu (mai), xé thịt Ba Khía ra từng mảnh, trộn chung với tỏi ớt giã nhuyễn, nặn vô chút nước cốt chanh, thêm chút đường cát trắng (mà phải đường cát trắng mới ngon chứ xài đường thùng hay đường thẻ là có nước đem đổ tô Ba Khía trộn luôn chứ ăn cũng không ra gì hết) Trộn đều tất cả tô Ba Khía lên, để một chút cho Ba Khía thấm gia vị…Rồi chư hết, khi ăn nhất định phải có đầy đủ “phụ tùng” kèm theo thì ăn mó Ba Khía mới “bắc”, đó là dưa leo, chuối chát, rau thơm rau răm, rau dừa, bông lục bình… Nhưng với riêng tui như đã nói ở trên, nhớ nhất, kỹ niệm nhất trong đời tui không có gì ngon cho bằng ăn Ba Khía với cơm nguội. Sáng thức dậy là Tiến tui mở ngay cái Gạc-Măng Rê ra, Bưng nồi cơm nguội, lật ngữa nắp nồi lên, đặt tô Ba Khía trộn của ngoại lên trên nắp nồi cơm, rồi bê cả cái nồi cơm có cái tô Ba Khía ở trên ra bộ ván trước hiên nhà…Rồi cứ thế một tay bốc cơm, tay kia bốc Ba Khía trộn…rồi từ từ mà nồi cơm bị vét sạch tới hết dề cơm cháy luôn hồi nào hổng hay….tô Ba Khía cũng chỉ còn lại chút nước trộn mà thôi…nó mà không mặn thì chắc tui cũng húp sạch nó luôn rồi không chừng … thiệt là đã đời…. rồi tiếp sau đó là màn uống nước mưa cho tới chiều luôn…lần nào ăn Ba Khía cũng vậy hết á. Đã hơn chục năm rồi tui chưa được ăn lại món Ba Khía y như ngoại tui trộn cho cả nhà tui ăn ngày ấy, nhưng hương vị đó tui nhớ mãi, cho nên khi chỉ thoáng nghe qua cái mùi Ba Khía mua siêu thị về là tui hết muốn ăn là vậy. Ba Khía quê tui bây giờ cũng it thấy bán ở chợ bình dân mà chỉ thấy nhiều trong các nhà hàng đặc sản. Bây giờ người nhà nghèo ở quê tui người ta toàn ăn thịt ăn cá, ngược lại nhà giàu người ta mới tìm ăn món Ba Khía trộn với dưa leo, chuối chát …oái oăm vậy đó. Cũng dể hiểu thôi, Ngày nay do con người ta khai phá rừng, chặt bỏ cây mắm, khai thác rừng Đước, rồi do nước thải công nghiệp, thuốc trừ sâu, thuốc bảo vệ thực vật…con người ta lấn biển cất nhà lầu, khách sạn…môi trường sống thu hẹp dần nên con Ba Khía hết đường sinh sôi nảy nở, số lượng ít dần theo từng năm, còn nữa, không còn trái Mắm để ăn nên thịt con Ba Khía cũng không còn ngon, không còn đậm đà như trước nữa…món Ba Khía trộn của ngoại tui ngày nào giờ coi như trở thành…bất hủ. Ôi nghĩ mà thương mà nhớ…nhưng cũng thấy tiếc vô cùng…Ba Khía ơi…!!! gười viết bài thuở nhỏ từng sống ven sông Bạc Liêu nên tận mắt chứng kiến cái sự nhiều cá chốt của xứ này. Ngày xưa cá chốt không phải là đặc sản như bây giờ mà nó là vấn nạn, là nỗi phiền phức của cư dân vùng sông nước Người viết bài thuở nhỏ từng sống ven sông Bạc Liêu nên tận mắt chứng kiến cái sự nhiều cá chốt của xứ này. Ngày xưa cá chốt không phải là đặc sản như bây giờ mà nó là vấn nạn, là nỗi phiền phức của cư dân vùng sông nước Hồi ấy, bất kể tháng nào trong năm dưới sông Bạc Liêu cũng nhiều cá chốt. Vào những đêm trăng sáng, ta cầm một nắm đất ném xuống sông, lập tức cá chốt nổi đầu đen đặc quậy trắng mặt sông cỡ chiếc chiếu trải giường. Từ tai hoạ Cư dân của cái làng ven sông quê tôi đi chài tôm, cá trên sông sợ nhất là cá chốt, bữa nào gặp vận xui, chài đúng ngay bầy cá chốt là chỉ còn nước ngồi khóc. Phải cuốn chài quay về nhà treo chớp chài lên cây rồi xúm lại bẻ gai cá chốt mà gỡ. Cá chốt có ba ngạnh sắc bén đâm đau như ong đốt. Phải bẻ gai mới gỡ chúng ra khỏi chài. Có khi gỡ cả tiếng đồng hồ mới xong vì có 5 – 7kg cá chốt dính vào chài. Mùa sa mưa, cá chốt từ sông Bạc Liêu theo kênh rạch lên đồng đẻ trứng. Đến tháng 7 – 8 âm lịch, vào những sáng tinh mơ ta ra đồng thấy cá chốt con nổi lừ đầu ở khắp ao đìa, đồng ruộng. Đó cũng là thời điểm nhà nông ra đồng cấy lúa, thế là nỗi ám ảnh của nhà nông bắt đầu: một chút là giẫm phải gai cá chốt, chốc sau chọc tay xuống đất cấy lúa là dính gai cá chốt… Đến tháng 10 âm lịch dứt mưa nước rút, gió chướng thổi về bay bay những bông so đũa nở trắng bờ kinh là cá chốt trên đồng rút xuống cư ngụ ở sông Bạc Liêu và các chi lưu của nó. Nhiều người ở chợ Bạc Liêu bước vào vụ đặc bôn. Đó là một thứ công cụ đánh bắt bằng tre, lợp lá dừa nước, tròn như ống cống. Nước ròng dân đặc bôn chèo xuồng ra, đặt bôn trên bãi và cho vào một ít cám rang để dụ cá. Đến mãn con nước lớn thì họ dỡ bôn. Có khi cá chốt vào đông bôn dỡ lên không nổi. Còn ở quê thì người ta bắt cá chốt bằng cách dùng đăng tre, chọn con nước lớn rồi kéo đăng ngang cửa một nhánh rạch. Sau đó chờ nước ròng, cạn lòng lạch thì bắt cá. Có những nhánh rạch đăng trúng, bắt cả xuồng cá chốt. Một cách bắt cá chốt khác nữa là chất chà. Tôi nhớ khoảng thập niên 80 của thế kỷ 20, người dân xã Vĩnh Trạch, thị xã Bạc Liêu chất chà trên rạch, mỗi lần dỡ chà thu đến vài tấn cá chốt. Cả xóm xúm xít lại làm mắm chứ bán rẻ như cho. tới đặc sản Ngày nay cá chốt còn không nhiều. Nghề đặt bôn, chất chà,… cũng mất đi theo sự ít đi của cá chốt. Tuy nhiên, người ta cũng phát triển nhiều cách đánh bắt mới nên chợ Bạc Liêu lúc nào cũng có bán cá chốt. Và giá cả thì cũng rất đắt đỏ, đến 60 – 70 ngàn đồng/kg. Bây giờ người ta xem cá chốt là đặc sản, có vị trí chễm chệ trong các nhà hàng sang trọng. Vậy đó mà ngày xưa ở quê tôi cái gì rẻ nhất, kém giá trị nhất được người ta gọi: “rẻ như cá chốt…”, cá chốt bán ít ai mua, dân thị thành quan niệm rằng cá chốt là loại ăn tạp, lại sống dưới sông nên thịt nó dơ, không dám ăn. Và vì thế cá chốt chỉ dành cho hạng nông dân cùng đinh. Ai đã từng sống trong ruộng đồng của vùng bán đảo Cà Mau hẳn sẽ không thể nào quên món cá chốt kho sả. Nhắc cá chốt kho sả tôi chợt nhớ thuở bé thơ. Vào mùa sa mưa, bọn trẻ chúng tôi đi bắt cá lên, đó là những con cá chốt to cỡ ngón chân cái, bụng to đầy trứng. Má tôi bằm sả, ớt cho vào nồi cá chốt kho, thế là dậy lên cái mùi cá quyện mùi sả kích thích vị giác. Bữa cơm dọn ra, chỉ có cái ơ cá chốt kho sả. Vậy mà chúng tôi chan nước cơm ăn đến 6 – 7 chén. Ăn xong người dã mồ hôi thấy khoẻ khoắn vô cùng. Đã ăn thì nhớ hoài cái mùi sả, cái vị béo của thịt cá chốt và cái vị vừa béo vừa bùi của trứng cá chốt. Khi gió chướng thổi, ở quê tôi có một cách ăn cá chốt rất ngon. Lúc này cá chốt rất mập, bụng nó màu vàng, lúc này cũng là thời điểm bông so đũa nở rộ, thế là nông dân quê tôi dùng cơm mẻ làm chất chua để nấu canh chua cá chốt và bông so đũa. Nồi canh chua ấy ăn cơm cũng được, nhậu rượu cũng được, ăn vào sẽ thấy cái tài nghệ của người nông dân khi phối hợp giữa cá chốt và bông so đũa. Nó nhuần nhuyễn đến mức làm cho người ta nghĩ trời sinh ra cá chốt và bông so đũa là để nấu canh chua. Nếu bạn không sợ bị người ta xem là dân quê mùa, có đến Bạc Liêu, dù chưa quen, tôi vẫn có thể mời bạn một bữa cơm cá chốt kho sả, canh bông so đũa… Ẩm thực Nam bộ - đau đáu hương vị cội nguồn “Món ăn, xét bề ngoài, chỉ là cái đích của sự thỏa mãn vật dục. Nhưng đi sâu, ta vô cùng ngạc nhiên thấy nó biểu hiện trình độ văn hóa vật chất thì rất ít, nhưng biểu hiện trình độ văn hóa tinh thần của dân tộc thì rất nhiều” (Đại văn hào Balzac). Món ăn của người Việt đặc sắc, nổi tiếng đến nỗi ông Philips Kosler, cha đẻ của Marketing hiện đại khuyên là nên lấy “ẩm thực” làm đột phá khẩu trong chiến dịch truyền bá thương hiệu Việt trên toàn thế giới . Ẩm thực dân gian, cách thức ăn uống của từng vùng, từng làng xóm được bắt rễ sâu xa từ truyền thống lịch sử, truyền thống văn hóa dân tộc của địa phương. Và là một nội dung quan trọng góp phần tạo nên bản sắc văn hóa, phong vị dân tộc, phong vị quê hương, tác động rất lớn vào tâm tư tình cảm, vào cách ứng xử của mỗi con người.Món ăn Nam Bộ đặc sắc ở chỗ nó được tạo ra, mang sắc thái riêng, hương vị ngọt ngào riêng bởi hơi đất miệt vườn mênh mông, vị ngọt sông rạch ào ạt dâng tràn mùa lũ, khí trời lồng lộng gió biển Tây Nam, cái uy nghi thâm u của lớp lớp rừng già đồi núi nơi đây. Đó chính là “nguyên liệu” đầu tiên, chỉ có cho ẩm thực vùng châu thổ này, nơi đã trở thành “đất lành chim đậu”, mưa thuận gió hòa, ngày càng trù phú, phồn thịnh: “Ruộng đồng mặc sức chim bay/ Biển hồ lai láng mặc bầy cá đua”. Và vì vậy không thể có “gạo Chợ Đào” thứ hai, món lẩu mắm giữa “Hà Thành” do chính tay người An Giang nấu cũng không dễ qua được “hàng chính gốc”… Mê Kông lại là con sông giàu cá tôm đứng hàng thứ 2 trên thế giới, chỉ sau sông Amazon của Nam Mỹ. Vùng hạ lưu sông Mê Kông thuộc Việt Nam có hơn 1.200 loài thuỷ sản, trong đó hơn 60 loài có giá trị kinh tế, tập trung ở hai họ cá Chép (Cyprinidae) và cá Tra (Pangaciidae), sản lượng ước tính có đến 2 triệu tấn/năm. “Xóm trên giăng lưới /xóm dưới bủa câu”. Trong thực tế, khu vực này đóng góp đến 85% tổng sản lượng thuỷ sản nội địa khai thác được của cả nước. Cho đến hiện nay, dù có phần thua sút so với trước đây, năng lực cung ứng cá nước ngọt của vùng châu thổ vẫn là “số zách”, khó nơi nào bì kịp . Có người nhận xét rằng, ẩm thực Nam bộ như một cô gái thôn quê, không cần trang điểm vẫn đẹp. Anh Bảy, một nhà báo lâu năm kể khi về Sóc Trăng, nhà văn hóa Sơn Nam đã nói về món cá rô kho tiêu, “món ruột” của đồng bằng Nam bộ như thế này: cá rô là chúa của cá đồng, nước mắm là tinh túy của đại dương, rắc chút tiêu là lấy hương của đồi núi… Chỉ một món ăn dân dã mà gom cả hương hoa đất trời, thể hiện văn hóa của một xứ sở. Trên mảnh đất tận cùng phương Nam này, con người đã tận dụng tự nhiên, thỏa chí sáng tạo ra những món ăn độc đáo thể hiện cái cốt cách, dấu ấn của những người một thời đi mở cõi - đó là bản sắc của khẩn hoang, phóng khoáng, không cầu kỳ câu nệ . Ẩm thực Nam bộ (và Việt Nam) ẩn chứa sức mạnh văn hóa nặng lắm. Nó không chỉ liên kết không gian, thời gian; truyền thống, hiện đại mà cả tâm linh, tư tưởng con người nữa. Trong khuôn khổ chương trình “Mê Kông – Dòng sông kết nối các nền văn hóa” tổ chức tại Washington vừa qua, nghệ nhân Nguyễn Thị Xiềm, 67 tuổi (Trà Nóc - Bình Thủy) đã biểu diễn đổ bánh xèo, gói bánh tét, bánh ít trần... được công chúng, nhất là Việt kiều xuýt xoa tán thưởng… Cái ngon chưa nói nhưng việc bà tự tay chọn gạo xay bột, kiếm dây cột bánh đã đánh thức cả miền ký ức xa xăm của người Việt xa xứ, làm sống dậy tình dân tộc, nghĩa đồng bào. Chả nói đâu xa, mới gần đây, ngồi trong quán cà phê giữa đất Cần Thơ, trời mưa lất phất, một đồng nghiệp đã bần thần “ăn bánh tét bà Mười tự nhiên thấy nhớ ngoại quá. Ngày xưa ngoại em hay nấu như vậy”. Chiếc bánh bình thường nhẹ hều mà sao có lúc oằn nặng suy tư, tình cảm đến vậy ! Thưởng thức miếng bánh mà vụt òa trong tâm thức họ là hình ảnh dòng sông bến nước thủa ấu thơ, là mẹ già lam lũ cặm cụi bên nồi bánh tét khi xưa, là khói rơm đốt đồng thơm thơm bay tỏa chiều tà, là hương vị quê hương có cây cầu khỉ có buổi tát đìa, như chùm khế ngọt, như cánh cò bay… “Tình yêu đất nước là sự thương nhớ, thèm thuồng món ăn mà cha mẹ cho ăn lúc mình nhỏ tuổi". Theo thời gian những món ăn mộc mạc, đơn sơ đó; những hương vị đậm đà đó vẫn in chặt, quyện vào tâm thức dù họ có rời xa đến đâu. Và thật lạ, càng xa lại càng đau đáu đến rã rời nỗi nhớ quê. Ra vậy, dưới lớp áo sặc sỡ của văn hóa ẩm thực là cái cốt lõi đạo lý tình người của dân tộc Việt chúng ta. Nhà văn Vũ Bằng đã dẫn trong lời nói đầu tập sách Miếng ngon Hà Nội như vầy “Tại kinh đô Trương Hàn thấy lá ngô rụng giếng thu thì sực nhớ đến rau thuần, cá lư và muốn treo ấn trở về quê cũ”. Bản thân ông cũng cồn cào da diết, quay quắt trong nỗi nhớ Hà Nội hàng mấy chục năm trời mà mượn văn chương gởi tình cho nơi xa, mà tạo nên thiên tùy bút tuyệt phẩm dài hơn hai trăm trang. Câu chuyện ăn uống được thăng hoa thành văn hóa ẩm thực cả một vùng miền. Chị bạn lại nói ăn giống như thở, khi thiếu mới thấy không chịu đựng nổi. Chị đã mua một trái chuối nướng ở Bangkok giá 8000 đồng Việt Nam vì quá nhớ thức ăn Việt. Chuối nướng là món ăn của trẻ con đã thành một niềm thương nỗi nhớ giằng xé tâm can khi đi xa nhà vậy đó! Lại nhớ, mấy năm trước có kẻ hoài hương bồn chồn lang thang lê gót đi tìm tiếng lanh canh của chiếc cóng tre múc nước chấm bên mẹt bún chả đầu Ô Quan Chưởng, mùi thơm gánh xôi xéo đậu xanh rưới mỡ hành phi vàng ươm đầu phố Nguyễn Du khi hương hoa sữa còn đậm đặc quanh hồ Thiền Quang… Mỗi món ăn là một hương vị, một niềm vui, một gợi nhớ và tất cả những thứ đó hội lại thành một quá khứ thân thương. Món ăn làm khổ người đi xa nhiều hơn bạn từng nghĩ. “Phong sương mấy độ qua đường phố/ Hạt bụi nghiêng mình nhớ đất quê” (Vô đề-Sơn Nam). Cái thời chúng ta ăn để no đã qua rồi và thế giới càng hiện đại người ta lại càng muốn gần với thiên nhiên hơn và coi đó chính là chất lượng của cuộc sống hôm nay. Chương trình "Ẩm thực khẩn hoang Nam bộ" tạo ra cả một trào lưu ẩm thực hướng về cội nguồn chốn quê, thủa xa xưa khẩn hoang giữa thời hội nhập. Những món ăn mộc mạc, “hương đồng cỏ nội” như cá lóc nướng trui, rắn nướng lèo, mắm kho, mắm sống, chuột đồng rô ti, lươn hấp trái bầu, ếch xào lăn, cá rô kho tộ, cá bống dừa kho tiêu, canh chua cá lóc, hủ tiếu Mỹ Tho, tôm lụi Bạc Liêu, nấm tràm Phú Quốc... vẫn lên ngôi, trở thành đặc sản; vẫn khuấy động thực khách ngay chốn phồn hoa đô hội. Và họ còn chọn cách thưởng thức nó theo kiểu dân dã nhất mà mọi người có thể. Kể sơ cách nướng (chưa động gì tới chất liệu nghe) cũng muốn kêu… “ba xị” rồi (nướng than hồng, nướng trui, nướng mọi, nướng lu, nướng rơm, nướng đất sét, nướng ống tre…). Món lẩu mắm Châu Đốc, “kỳ thú phương Nam” sành điệu phải đủ hai mươi mấy thứ rau đồng nội như cù nèo, tai tượng, càng cua, bông so đũa, bông điên điển... Món “Cá cơm đệ nhất nem” mà nghe nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Hữu Hiệp (An Giang) kể lại dứt khoát thực khách phải “đùng đùng nổi giận” đi lùng bằng được: cá cơm rửa sạch vảy ngâm nước muối cho đến khi thịt cá tét làm hai thì vớt ra, gỡ bỏ xương, ngâm trong nước dừa tươi. Lại vớt ra cho ráo, đổ thịt cá lược qua vải xô, vắt khô, quết nhuyễn với tỏi nướng, ướp đủ gia vị (muối, đường, mỡ, tiêu, nước củ riềng, thính…). Nắn thành viên, gói vòng trong bằng lá chùm ruột non, rồi lá vông nem, ngoài cùng mới quấn lá chuối, cột lại theo hình chữ thập… Khi cần cầu kỳ, “ăn cho đáng mới ăn” thì ẩm thực Nam bộ cũng đâu thiếu món khiến thực khách nghe qua đã “lên ruột”, bắt thèm. Như tự nhiên vậy, như tri ân người mở cõi, ẩm thực Nam bộ vẫn luôn chứa đựng cả một thế giới sản vật chan hòa chất liệu, màu sắc, vẫn mang trong mình hơi thở của vườn rộng sông dài. “Thú quê thuần hức bén mùi” (Truyện Kiều), cụ Nguyễn Du đã chỉ ra cái giá trị nguồn cội của ẩm thực. Nó thấm vào máu thịt ta từ lúc nào không hay, khi xa mới cồn cào lan tỏa, mới dằng dặc nỗi nhớ; bàng bạc phiêu diêu trong tâm tưởng, khó mà phân chia, cắt lìa được lắm. Và các mẹ, các chị nhiều khi vô tình không nhận ra hôm nay đang lụi cụi bên bếp chính là lúc họ đang dệt nỗi nhớ khôn nguôi về gia đình, về cội nguồn cho người thân họ ngày mai.Nhớ ngày xưa, ở những vùng quê Nam Bộ, nhà ai cũng làm vài khạp mắm để ăn dần. Con mắm làm vừa lòng thực khách bởi mùi thơm nồng, vị mặn đậm đà. Đất Nam Bộ sông rạch nhiều, cá tôm theo đó cũng đầy ắp. Vào mùa nước nổi mỗi lần cất vó lên thu hoạch được vài ba chục ký cá là chuyện thường. Tôi nhớ cha tôi thường “phản ứng” ngay mỗi khi vó trúng đậm như vậy: “Cá tôm như vầy ăn đời nào cho hết, mẹ con bà coi đem mần mắm bớt đi”. Chỉ vào mùa nước nổi hay nước rong cá mới nhiều đến thế. Qua mùa khô thì cá tôm ít dần. Bởi thế phải “thủ” phòng khi “cực ăn”. Mẹ cùng với mấy anh em tôi lựa ra vài thúng cá chốt (có năm thì cá rô, cá sặt, cá mè vinh,.. tùy con nước) rồi làm cá thật sạch. Mẹ tôi đem cá đi muối mặn, ủ khoảng 10 ngày. Sau đó mẹ tôi tách riêng cá và nước muối cá ra. Mẹ đem cá đi thính. Thính thực chất là gạo đem rang cho thật vàng rồi bỏ vào cối đá xay bột để xay ra. Tiếp theo mẹ tôi đem cá đi chao đường. Đường mía đem nấu tới nhựa, để nguội, đem trét lên từng con cá. Làm xong các bước đó thì mẹ sai hai anh em tôi vần mấy cái khạp da bò lại cho mẹ, chúng tôi hiểu ngay là mẹ chuẩn bị nhận mắm. Anh hai leo lên cây cau trước nhà bẻ cho mẹ vài cái mo cau. Mẹ tôi xếp cá vào khạp, nén thật chặt, thậm chí mẹ còn cho hai anh em tôi rửa chân thật sạch rồi leo lên nhún, sau đó lấy mo cau chèn lên. Nhờ vậy mà khi lớn lên tôi mới hiểu câu thành ngữ “như ém mắm” là gì. Xong rồi mẹ tôi lấy cây sống dừa đã róc sạch gài thật chặt. Anh em tôi chạy đi chặt cho mẹ một khúc cây có nạng (giống số 1) để mẹ ghìm sát mo cau xuống, cây này được gọi là cây cổng. Phần nước muối ban đầu được mẹ đem nấu thật sôi, để nguội và tưới lên khạp mắm. Năm sáu tháng sau là có thể giở mắm và ăn được.Từ con mắm, các bà nội trợ Nam Bộ biến tấu ra hàng chục món ăn dân dã nhưng lại rất đậm đà. Mắm lớn thì chưng nguyên con, mắm nhỏ thì bằm ra, trộn với hột vịt và một ít thịt ba rọi đem chưng. Lại còn một số món khác như: mắm trộn đu đủ, mắm kho, mắm nấu canh rau choại, lẩu mắm,... Về rau ăn kèm, có lẽ “đúng bài” hơn cả là bông súng cùng với một số loại khác: bông lục bình, rau choại, cù nèo, rau nhúc... Hầu như để ăn một món mắm bình dân, dân quê không cần phải đi chợ: rau có ở sau vườn, mắm trong khạp, cá trong đìa, dưới sông. Tất cả chứng tỏ sự hào sảng và lòng thịnh tình mà thiên nhiên ban phát cho người dân Nam Bộ. Nhớ hồi bà ngoại còn sống, ông ngoại thường chọc bà ngoại: Con cá làm nên con mắm Vợ chồng già thương lắm bà ơi! Bà ngoại quay sang nựng mặt cháu mà đối lại: Con cá làm nên con khô Hai vợ chồng già... ưa không vô! Ông bà cùng cười vui vẻ. Có như vậy mà từ con mắm đậm đà hương vị, ông bà ta đã gửi gắm biết bao điều. Con mắm như là biểu hiện cho sự đầm ấm của gia đình: Giàu thì thịt cá bĩ bàng Nghèo thì cơm mắm lại càng thấm lâu Có thể nói, mắm là một món ăn “khó nuốt”, nhưng ăn quen rồi thì nhớ mãi không quên. Vì vậy mà người ta mới ví von với tình nghĩa vợ chồng khi đã nên duyên giai ngẫu: Nước chanh giấy hòa vào mắm mực Rau mũi viết lộn trộn giấm son Bốn mùi hiệp lại càng ngon Như qua với bậu chẳng còn cách xa Hay đó là lời nhắn nhủ chân tình nhưng cũng rất đậm sâu: Mắm cua chắm với đọt vừng Họ xa mặc họ, ta đừng bỏ nhau Gia đình có con gái lớn thường được so sánh như... “hũ mắm treo đầu giường”. Bởi vậy với các cô gái “kén cá chọn canh”, dân gian thường khuyên bảo: Liệu cơm mà gắp mắm ra Liệu cửa liệu nhà em có chồng đi Bởi ngày xưa, ông bà ta quan niệm rằng: Trai ba mươi tuổi đang xinh Gái ba mươi tuổi như chình mắm nêm Dầu vậy con mắm cũng có giá của con mắm, thậm chí là cao giá nữa kia. Chàng trai ngại ngùng vì cảm thấy mình “vắn tay với chẳng tới kèo”, thật tội nghiệp: Anh than cha mẹ anh nghèo Đũa tre yếu ớt không dám quèo con mắm nhum Thế ra mới biết mắm cũng có thứ cao sang. Hũ mắm để càng lâu thì càng đậm đà hương vị. Dân gian an ủi các cô gái đã qua tuổi xuân: Mắm ruốc trộn lẫn mắm nêm Ban ngày kêu chị ban đêm kêu mình Mắm đồng quê, thô kệch quê mùa mà vương vấn lòng lữ khách, nếm một lần đã vương ăn một lần thấy nhớ. Thế nhưng cũng dĩa mắm ấy, dân gian lại có ý chê trách những kẻ lòng dạ đèo bòng: Đói cơm lạt mắm tèm hem No cơm mặn mắm lại đòi nọ kia Khổ thân chàng trai nào mà cưới phải cô vợ hậu đậu thì tan cửa nát nhà như chơi: Em còn bánh đúc bẻ ba Mắm tôm quệt ngược, cửa nhà anh tan Đạo làm chồng “phu tử tòng tử”, người phụ nữ nào mà có ý vượt ra khỏi vòng lễ giáo thì bị thiên hạ mỉa mai nghiêm khắc: Con ơi ở lại với bà Má đi làm mắm tháng ba má về Má về có mắm con ăn Có khô con nướng, có em con bồng Gắn bó với con mắm như một dấu ấn của đời sống ruộng đồng thì dân gian mới dành cho loại thức ăn này một tình cảm ưu ái. Mỗi khi tan buổi đồng trưa, đã thấm mệt sau khi đã phác xong một công cỏ ống, cấy một công lúa mùa, cha mẹ cùng hai anh em tôi lấy mấy nắm cơm nguội cùng một ít mắm sặt gói trong lá chuối ra ăn. Thế là xong bữa trưa của gần cả gia đình. Đơn giản như củ khoai, trái khóm! Con mắm vừa miệng con người bởi dư vị mặn mà và còn vừa lòng những người nông dân bởi ân tình dung dị. Với bọn trẻ nghèo như chúng tôi khi xưa thì những món chế biến từ mắm là những món ăn tuyệt vời nhất mà đến tận bây giờ tôi còn nhớ khôn nguôi. Bây giờ kinh tế đã khá hơn, được ăn những lẩu mắm đắt tiền nhưng tôi không thể nào quên hũ mắm của mẹ. Nó mới nồng nàn và ấm áp làm sao! Con mắm quê hương đã nuôi anh em tôi khôn lớn, đã tiếp bước đưa chúng tôi vào đời. Quê tôi bây giờ cá không còn nhiều để làm mắm, mấy cái khạp cũng úp sau trái nhà nhưng dấu ấn một thời “cá thúng tôm nia” vẫn còn ghi khắc. Nhớ con mắm sặt quê nhà, nhớ con rạch Bến Bàu âm thầm nuôi dưỡng cá tôm, chúng tôi càng thấy mình nặng nợ với quê hương biết mấy.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top