Le ciel est tout bleu dans tes yeux

trời vẫn xanh trong màu mắt em


Pairing: Nhà khoa học làm việc tại trạm khí tượng thủy văn Nam cực!Suzume × nhân viên công ty làm việc ở văn phòng chi nhánh Thụy Sĩ!Augenste AU.

༻❈༺

câu chuyện bắt đầu từ một cái chạm mắt vô tình, và trời sao như vỡ òa trong mắt em như bức tranh được vẽ nên bởi Van Gogh

và hai tay khách lạ, rốt cuộc lại chọn thành phố xa lạ này làm nơi trú chân cuối cùng trong chuyến thiên di của tâm hồn.

༻❈༺

- Tuần sau tôi phải về lại Dome Fuji.

Suzume ngồi tựa lưng vào thành giường, thấy bầu trời bên ngoài vẫn là một màu xanh thẫm tăm tối trườn lên những mái nhà ngói đỏ đang ngủ. Ban nãy họ đã quên không kéo rèm, thế nên trăng cứ thế mà tràn vào, nhỏ giọt bàng bạc trên tấm rèm hoa mỏng manh, lên tấm ga giường ẩm ướt mùi hương một cuộc ái ân triền miên vừa mới qua, và lên cả làn da trần trắng như búp bê sứ của Augenste. Những ngón tay anh vẫn còn đang lướt nhẹ trên cánh tay hắn, mân mê chỗ thịt da lộ ra sau tấm chăn mềm bằng một vẻ yêu thương rất mực thành kính, cứ như thể anh đã trút hết lửa tình của mình vào những cú va chạm nồng nàn say đắm ban nãy, để từ đó vẽ đường dẫn đến một cuộc tình cuồng nhiệt sẽ kéo dài cho đến hết đêm thâu, và tất cả những gì bọn họ còn lại giờ đây, có chăng chỉ là những dịu dàng vỗ về, và những đụng chạm hiền lành dưới cái ôm của ánh trăng ấy. Suzume chưa bao giờ nói với Augenste rằng hắn cũng rất thích như thế này, khi mà dục vọng đã được thỏa mãn và tất cả những gì người ta cần trao cho nhau chỉ còn là những ôm ấp, đôi khi còn có thêm vài cái hôn vụn, và cùng chờ cho đêm tàn.

Thật ra, Suzume chưa từng nói với anh là hắn thích gì cả, cũng chưa bao giờ nói hắn ghét gì. Câu chuyện giữa họ chỉ đơn là Augenste mang một cái gì đó ghé lại bên đời hắn, còn Suzume thì im lặng tiếp nhận nó. Không khen, không chê, không bình phẩm. Hắn thích tất cả những gì Augenste đem đến cho hắn, và điều đó thì chỉ có một mình hắn biết.

- Nhanh vậy sao? - Anh cũng xoay người, nhìn thẳng vào mắt Suzume. Anh có một cái kiểu nhìn lãng đãng rất kỳ lạ, khi mà những sắc tố xanh lơ cứ cuộn xoáy lại với nhau trong một đêm đầy sao lấp lánh, cuộn lấy đối phương trong cái dải mây trời lồng lộng đó, khiến họ có cảm giác như thể chính bản thân mình cũng đang tỏa sáng, tựa như là mặt trăng vậy. Mà có phải là ai Augenste cũng sẽ nhìn bằng ánh mắt đó hay không? Suzume không biết được. Nhưng từ cái điểm khởi nguyên trong ký ức hắn có được về anh, Suzume nhớ, hắn đã luôn bị cuốn vào trong ánh xanh lạ lùng ấy. Và chết chìm. Phải, dù chưa bao giờ mở miệng ra để mà thừa nhận, nhưng hắn đã chết chìm trong màu mắt ấy từ lâu như Robert Ross chết chìm trong đôi mắt đẹp của gã Wilde hoang dại, hắn không nhớ cụ thể là từ khi nào, có lẽ là từ cái lúc hắn bâng quơ kể cho anh nghe về trạm nghiên cứu khí tượng nằm tít tận nơi lạnh nhất ở Nam Cực xa xôi, về cái nơi mà trong kiếp người buồn tẻ này, hắn sẽ vùi tuổi xuân của mình lại đó. Suzume nhớ, khi ấy đôi mắt lạ của người đàn ông này đã sáng bừng lên, hoặc là chỉ có hắn cảm thấy thế. Nhưng hắn chắc chắn rằng mình đã thấy những mảng màu, những sắc tố xanh và đen và trắng trong mắt anh ta đổ ập vào nhau, cuộn xoáy, cứ như là đang ngắm tranh của Van Gogh vậy. Hắn không tự dứt mình ra được, còn anh ta thì cứ nhìn xoáy vào hắn đầy tò mò và hứng thú bằng cái ánh mắt đó, chao ôi, sao lại thế nhỉ? Lúc đó Suzume đã không hiểu được, rằng tại sao lại như thế? Tại sao khi ấy hắn lại nghĩ là, hắn sẽ không thể ghét con người này theo cùng cái cách mà hắn vẫn luôn ghét thế giới? - Em cứ nghĩ là anh còn được nghỉ phải cả tháng nữa.

- Một tuần, hay một tháng thì khác gì nhau đâu. - Những ngón tay của Suzume trượt lên khuôn mặt điển trai của Augenste, nhẹ nhàng phác họa lại sườn mặt của người tình. - Cuối tuần này em cũng phải bay về Anh mà.

- Phải, nhưng nếu là một tháng nữa thì em sẽ kịp quay lại để gặp anh...

Họ gặp nhau lần đầu tiên vào mùa hè ba năm trước tại bảo tàng Van Gogh. Van Gogh, mãi mãi là Van Gogh. Suzume bắt gặp ánh mắt Augenste khi anh lướt qua gian triển lãm của bức Đêm đầy sao, bóng hình anh chìm lút vào những mảng tối sáng của trần, của sàn, và của những vệt màu huyền diệu của vị danh họa người Hà Lan đó, duy chỉ có đôi mắt anh là nổi bật lên, hiện hữu rõ nét, hòa vào tổng phổ của cảnh đêm mềm mại trước mặt. Cứ như thể một mảng sao trời của Vincent đã rơi xuống vào thời khắc ấy, soạt một cái chảy ào vào trong mắt anh. Lần thứ hai hắn nhìn thấy Augenste là khi anh dừng lại bên bức Cà phê vỉa hè trong đêm. Cũng cùng là một cái sắc xanh ấy, nhưng hun hút hơn, xa vắng hơn, khuất mình sau những rặng màu phác thành dáng vẻ ngôi nhà cao, và lần này thì anh không trông có vẻ như đang hòa làm một với cảnh sắc nữa, mà trông như đang bước ra từ đó, từ quán cà phê La Terrance, với đôi mắt được chấm màu từ bàn tay của cố danh họa. Augenste không bước ra từ trong tranh của Van Gogh, anh là nét hoàn thiện cuối cùng trong tranh của Van Gogh, thổi vào đó thứ linh hồn chưa từng có trước đây, còn Suzume là người duy nhất trông thấy cảnh sắc đặc biệt ấy giữa một phòng tranh vắng bóng con người. Và chỉ thế thôi, hắn đã nghĩ vậy. Chỉ thế thôi, hắn đã lướt qua một người - đàn - ông - có - đôi - mắt - được - vẽ - bởi - Van - Gogh trong viện bảo tàng của chính ông, giống như một tác phẩm chưa từng được công bố, và cũng chỉ thế. Tầm mươi tháng nữa, hoặc dài hơn, mươi năm, Suzume rồi cũng sẽ quên đi anh như cái cách mà con người quên đi một hình ảnh gì đó trong quá khứ, hắn sẽ chỉ còn nhớ về anh với bộ khung là một người có đôi mắt đẹp, nhưng đẹp như thế nào thì hắn không nhớ được. Hoặc cũng có thể là không. Ai biết được chứ.

Thế rồi một tuần sau đó, hắn lại thấy anh lần nữa, cũng dưới một bầu trời sao huyền hoặc của Vincent Van Gogh.

- Lần này thì anh sẽ đi bao lâu?

Augenste nhổm dậy bên cạnh Suzume, lười biếng tựa đầu vào hõm vai hắn, còn đôi tay rắn chắc thì vòng qua ôm chặt lấy eo. Nếu có bao giờ Suzume yêu cầu điều gì ở người tình, thì đó hẳn là lúc này đây, vào những ngày cuối họ gần nhau trước khi hắn quay trở về chốn băng giá xa xôi, nơi bầu trời chẳng mấy khi là màu xanh, hắn sẽ bảo Augenste hãy cứ ôm lấy mình thật chặt, thật lâu hết mức có thể.

Bởi vì ở một nơi như Nam cực, thật là khó để tìm kiếm một hơi ấm lạ lùng như vậy cho riêng mình.

"Cho tôi mượn của em một chút hơi ấm, và tôi sẽ trả lại em màu sắc của những dải cực quang."

- Chín tháng, như thường lệ. - Suzume tự châm cho mình một điếu thuốc, Marlboro trắng, mùi hăng và nồng như châm lửa trong phổi. Suốt mấy năm qua, khói thuốc là thứ hữu dụng nhất để hắn sưởi ấm cơ thể mấy ngày trời đông trời như muốn đổ mưa băng, ban đầu là hút chơi, nhưng dùng nhiều rồi cũng nghiện. - Gần giống như Persephone vậy, tôi quay về với ấm áp vào mùa xuân, sau đó, lại tiếp tục gieo mình vào băng giá. Em hút không?

Augenste gật đầu, môi anh khẽ hé, cứ thế mà ngậm luôn lấy đầu lọc của điếu thuốc hắn vừa đưa đến gần. Những đầu ngón tay hắn như có như không mà lướt qua viền môi anh, nghe lạo xạo trong lòng như một nụ hôn phớt. Anh rướn mình, kề khuôn mặt đẹp đến gần mặt Suzume, để đốm lửa bên môi hắn cũng có thể nhen hồng lên đốm lửa nhỏ của riêng anh. Có đôi khi, Suzume gần như quên mất rằng họ vốn không phải là người yêu. Không phải, chưa tới. Họ có hảo cảm với nhau và bằng một cách nào đó, nhận ra rằng họ cũng hòa hợp lẫn nhau trong một mối quan hệ xác thịt. Bạn giường, đối tác, hay bất cứ cái danh từ nào đang thịnh lên gần đây cho cái kiểu mập mà mập mờ này, hắn không để tâm lắm, hai người vẫn đang rất ổn với kiểu quan hệ này, thế là được. Lý do mà họ vẫn chưa tiến thêm một bước, có lẽ là vì cảm xúc của họ dành cho đối phương cũng chưa được định hình thật rõ ràng, có lẽ là vì thời gian Suzume có thể dành ra cho mối quan hệ này quá ít, có lẽ vì hai người họ đều không thật sự mong muốn có cho mình một người bạn đồng hành theo nghĩa yêu đương. Có lẽ vì nhiều thứ nhưng cũng chẳng thật sự vì cái gì, chưa tới được chỉ đơn giản là vì chưa tới được, giống như quả xanh trên cây, trông thì ngon nhưng vẫn là chưa chín.

- Thế ra em không phải là Hades. - Augenste nghiêng đầu, trong giọng nói có hàm chưa một chút ý tứ trêu chọc. - Vậy thì em là gì của anh?

Augenste hỏi hắn, em là gì của anh?

Là gì nhỉ?

Suzume suy nghĩ, tìm trong ký ức một từ ngữ nào phù hợp để trả lời, nhưng loanh quanh luẩn quẩn mãi cũng không nghĩ ra. Hắn thích cái cách mà người ta san sẻ nhiệt lượng cơ thể cho nhau trên những mảng da trần, nhưng hắn không ưa loài người. Suzume không ưa loài người, và vận mệnh sắp đặt cho hắn gặp Augenste. Hắn không ghét anh, thậm chí có thể dùng từ thích; có lẽ là vì đôi mắt được chấm màu bởi Van Gogh, hoặc cũng có lẽ là vì nhiều thứ khác; đủ để hắn không thấy phản cảm khi anh chạm tay lên da hắn, thoải mái tô điểm vào tâm trí hắn những mảng màu vàng rực lấp lánh như trăng và sao. Nhưng sâu xa hơn nữa thì thế nào? Suzume không biết được. Đêm ấy, hắn đành khất lại Augenste một lời hồi đáp.

Trạm khí tượng thủy văn Dome Fuji, lạnh lẽo và trắng xóa, phần lớn thời gian đều chìm trong bóng tối ngỡ chừng không bao giờ kết thúc.

Từ cửa sổ nhìn ra, Suzume chỉ có thể thấy một mảng băng giá trải dài, được thắp lên chút vọng ảnh mờ mịt nhờ ánh đèn huỳnh quang đang sáng tỏ trong phòng hắn. Bây giờ chỉ mới có mười giờ sáng, hoặc mười giờ đêm, ai mà nhớ được. Bầu trời mùa đông lúc nào cũng chìm trong cái sắc tố ảm đạm chán ngắt, còn Suzume thì đôi khi lại mải mê với mớ số liệu đến mức quên hết cả thời gian, thành thử đôi khi hắn chẳng phân biệt nổi đêm hay ngày. Mắt hắn như bị đầy ứ bởi tuyết và bóng tối, bởi giá lạnh và khô hạn, trong một thoáng đồng tử như muốn nứt ra, tầm nhìn nhòe đi và cuối cùng là mọi thứ biến mất hẳn.

Hay ít nhất là hắn cũng tự mong thế, để khỏi phải mỗi lần mở mắt ra, tất cả những gì chào đón hắn chỉ là một màu xám buồn bã ủ ê.

Suzume nhận ra hắn bắt đầu nhớ nhà.

Nói thế cũng chẳng phải, hắn đã bán căn nhà của mình ở Tokyo và chẳng mấy khi quay về nơi đó nữa. Không có quá nhiều lưu luyến, kỷ niệm cũng chẳng có gì đáng để kể lại, thành phố đấy mắc kẹt trong đời hắn như cái mỏ neo đứt dây của con tàu, rơi tòm xuống đáy nước mà chẳng níu giữ được gì nữa cả. Quê nhà, hắn nghĩ, là khái niệm được tạo ra cho những mảnh đất mà ta thật lòng muốn quay về mới phải. Những mảnh đất mà, dù cho có đi tới điểm tận cùng của thế giới, nơi hai mươi tư múi giờ cùng nhau hội tụ lại một điểm, thì hắn vẫn biết được nó nằm ở đâu bên bờ kia đại dương. Thế nhưng Tokyo thì không vậy. Nó không nằm trong bất kỳ trường lực nào mà hắn đặt ra cho từ "quê hương". Thế nhưng nếu là Suzume bốn năm về trước, hẳn hắn cũng không hề có ý định bỏ rơi thành phố đó lại khỏi đời mình. Từ lúc nào mà mọi thứ lại thành ra vậy?

Dường như, là khi hắn bắt đầu thân thiết hơn với Augenste.

Sau cái sự kiện dẫn đến đêm đầu tiên của hai người họ, Suzume không còn về Tokyo trong những dịp nghỉ dài của mình nữa, từ cái thuở hắn còn là nhân viên tập sự làm sáu tháng nghỉ sáu tháng (thật ra hắn chỉ chuyển từ công việc nghiên cứu trực tiếp sang bàn giấy, nên cũng chẳng tính là nghỉ), cho đến lúc người ta quyết định là hắn đã có đủ bản lĩnh để neo mình lại nơi băng giá khắc nghiệt đó, hắn bắt đầu đổi địa điểm đáp máy bay của mình sang sân bay Genève. Ở nơi đó có bầu trời sao cho hắn, và nét nhúng cọ bí mật của Van Gogh vào đôi mắt một người nọ, thứ tuyệt tác chỉ mới mình hắn là phát hiện ra được.

Thế thì nhớ nhà trong ý nghĩ kia của hắn, rốt cuộc là gì?

Trong một thoáng, Suzume nhớ đến đoạn thư điện tử mà Augenste đã gửi cho hắn sáng nay. Trong đó, hắn nhớ gần như thuộc lòng, anh đã nói rằng: Giá như em có thể đóng gói một chút sắc xuân Luân Đôn hoa cỏ nở rợp cả bóng sương mù để mà gửi đến cho anh.

Hắn mở tung cửa sổ, thấy trên nền trời, Nam cực quang nhảy múa một điệu vũ sắc màu huyền diệu, xanh và vàng và tím xanh và vàng và tím. Từ nơi này, hắn không thể nhìn thấy mùa xuân đậu lại trên những ngón tay Augenste khi anh gõ xuống những dòng đó.

Thế đổi cho tôi đi. Hắn gõ vào mục trả lời. Gửi cho tôi một chút bầu trời sao của mùa xuân trong mắt em, và tôi sẽ đổi lại cho em một mẩu cực quang trên tay tôi.

༻❈༺

Quán cà phê đó cũng có tên là La Terrance.

Nó náu mình vào một đoạn vắng vẻ của phố Vallin chạy ra sông Rhône, rúc thân vào một góc phố tối giữa đông đảo những người qua kẻ lại. Suzume bước vào đấy theo một cảm thức rất đỗi tình cờ, không hề có tính toán trước, chỉ đơn giản là khi đi ngang qua đó, hắn chợt muốn một cốc cà phê. Chỉ có duy nhất một mình ông chủ đang ngồi trong quán La Terrasse, tóc bạc phơ và chăm chú đọc Jack Kerouac, bên cạnh ông, tam tấu Archduke ngân lên theo nhịp điệu của cung Rê trưởng từ chiếc máy quay đĩa đài hoa loa kèn. Thời gian như đứng sững lại trong quán, cũng giống như cách mà nó đã đứng sững lại trong tranh của Van Gogh.

- Tam tấu Triệu Đô đấy. - Ông chủ nói với hắn khi bưng tách cà phê nóng hổi ra. - Đĩa này thu từ tận 1941, nhưng âm thanh vẫn không xỉn đi chút nào.

Suzume gật đầu, ông cũng không nói thêm câu nào nữa, cả hai lui về những góc riêng tư trong tâm hồn mình, như những cánh chim thiên di tìm về chốn náu thân mới. Nhìn cách bài trí tối giản tan lẫn vào ánh đèn vàng của quán, Suzume chợt nghĩ có khi nơi này là một bờ rìa, một địa điểm lạ lùng mà thi thoảng, ta sẽ trôi tuột về nơi đó khỏi những dòng người vội vã lướt đi trên những con phố dốc, khỏi miên viễn những đàn ông, đàn bà, người già và trẻ con. Không có một quán cà phê nào vắng người ở nội thành Genève. Dù là ở bờ đông hay bờ tây sông Rhône, chỉ cần có một cái quán tồn tại và chịu mở cửa thâu đêm đón tiếp những kẻ vãng lai, nó sẽ luôn luôn đông khách. Những kẻ du đãng, hay còn được gọi với cái tên khác thơ mộng hơn là bohème, tụ lại với nhau trong những quán cà phê, nốc rượu ừng ực như nước lã, và mang đủ thứ chuyện văn chương nghệ thuật, từ Socrates cho đến Voltaire, từ Victor Hugo cho đến Molière, tất thảy những cái tên nổi tiếng đều được đặt gọn lên trên cái bàn gỗ hồ đào dài ngoằng, nơi bọn họ chẳng cần biết anh là ai tôi là ai, cứ thế lạc lối qua lưng chừng tháng năm. Dĩ nhiên, với một kẻ sớm đã quen với sự tĩnh lặng tuyệt đối trên những trạm khí tượng nằm ở hốc tận cùng của thế giới, Suzume chẳng đời nào để bước chân mình lạc vào những nơi như thế. Hoặc giả là có, thì hắn cũng quay đi ngay. Hắn không chịu được sự tụ tập, thời của những cuộc gặp gỡ, theo ngôn ngữ của Patrick Modiano, chưa bao giờ là một thời huy hoàng trong đời hắn. Có nhiều biến động trong quá khứ đã khiến cho Suzume cứ mải miết đẩy bản thân ra xa khỏi quỹ đạo của xã hội, náu mình vào bóng tối để trở thành một thằng người gần hệt như nguyên mẫu trong tiểu thuyết của Dostoyevsky, hắn từ chối những mối liên kết, hắn bỏ xứ mà đi đến tận Nam Cực xa xôi, trong cái đài khí tượng quanh năm chỉ có băng với tuyết, vì chẳng muốn gần gũi với bất kỳ ai. Thế nên hắn mới nghĩ quán cà phê này là một vùng rìa, một nơi trũng xuống không dẫn đến đâu cả của Genève, dù rằng cà phê rất ngon và không gian thì ấm cúng, nó được tạo ra với sứ mệnh làm nơi ẩn náu cho một kẻ nào đó chán ngấy cuộc đời, giống như hắn.

Hoặc có khi, nó cũng được tạo ra cho những bất ngờ.

Chiếc chuông nhỏ của La Terrance reo lên lanh lảnh khi có ai đó đẩy cửa vào. Người đó tiến đến chỗ chiếc bàn thứ hai bên trái, gọi một cốc cà phê, ngay trên đầu là bức Đêm đầy sao in cỡ nhỏ, được lồng trong khung ảnh mạ bạc. Dù là tranh in, nhưng chất lượng màu sắc cũng không sai biệt lắm, những mảng màu xanh sẫm và nhạt hòa lại với nhau, cuộn xoắn, và chảy xuống màu mắt cũng thăm thẳm một màu xanh của người nọ. Cũng trùng hợp thật. Suzume cứ nhìn mãi về phía ấy, gần như không dứt được mắt khỏi cái bảng màu huyền ảo kia, chuyên chú như cái lần đầu tiên hắn được nhìn thấy cực quang lộng lẫy trải lên bầu trời những dải lụa mềm đủ màu, tạo nên màn trình diễn trác tuyệt của ánh sáng và màu sắc.

Cứ như vậy, Augenste ngồi bên dưới bầu trời sao thu nhỏ, chú tâm vào công việc riêng của mình, đôi khi tán gẫu có vẻ thân tình với ông chủ tiệm. Còn Suzume cũng ngồi lặng lẽ trong xó riêng, nghe hết chiếc đĩa than thâu nhạc Beethoven rồi về.

Cũng nhờ đó mà hắn biết tên anh ta là Augenste Cereja.

Suốt nửa tháng sau đó, Suzume cứ quay lại quán cà phê này luôn. Cứ mỗi một năm cắm cọc ở tít tận cực Nam của bán cầu, hắn lại có cho mình một kỳ nghỉ dài tầm ba tháng, "thay ca" cho một ông lão sắp sửa về hưu. Mỗi lần như thế, hắn đều quay về căn nhà tạm của mình ở Tokyo, sống cho xong ba tháng vô nghĩa của cuộc đời rồi lại quay về miền đất băng giá đó, tiếp tục sống tiếp một cuộc đời đỡ vô nghĩa hơn, nhưng cũng lặng lẽ và cô độc như vậy. Nhưng năm nay thì khác, một vài dự án của Tổ chức Khí tượng Thế giới đã bứng hắn đến tận đây, tiêu tốn ba tháng thảnh thơi của mình để giải quyết chút ít giấy tờ với mấy đồng nghiệp bên châu Âu. Hắn thuê một khách sạn nhỏ trên đường Varembé, hiếm khi nào rời khỏi đó trừ phi có việc, nhưng bây giờ thì khác. Cũng không rõ là do sức mạnh của thói quen hay gì đó, mà trăm lần như một Suzume đều ngồi đúng ở góc đó, bên dưới chậu hoa dạ yến thảo tim tím treo trên tường, nghe khi thì Schumann, khi thì Liszt, hay Mozart và Beethoven, chủ tiệm có cả chồng những chiếc đĩa than cổ quý hiếm, không phải tất cả đều hợp gu hắn, nhưng đối với âm nhạc mà nói, Suzume cũng không có ý kén chọn nhiều lắm. Đối diện hắn, ở dãy bàn bên kia, Augenste vẫn thủy chung ngồi lặng lẽ dưới bầu trời sao thu nhỏ của Van Gogh, chưa một lần ngó về phía này. Hoặc cũng có thể là có, nhưng lúc ấy Suzume đã đưa mắt đi chỗ khác mất rồi.

Ngày hôm ấy, ông chủ quán đã tháo khung tranh xuống, chắc là định thay đổi hay bảo dưỡng gì đó, và Augenste thì vẫn cứ ngồi đó, dù thiếu vắng đi trời sao trên đầu. Có lẽ việc khuyết thiếu đi một chi tiết nhỏ quen thuộc trong bức tranh phong cảnh thường thấy sẽ kích thích trí tưởng tượng của ta bùng nổ mạnh mẽ, Suzume cũng vậy. Hắn tưởng tượng ra khung cảnh ấy trong đầu, bèn lập tức cầm lên chiếc bút chì than đã bị vót còn mẩu ngắn cũn, nhưng vẫn chắc chắn, và bắt đầu ký họa lên một quyển sổ agenda nhỏ. Quyển sổ này Suzume luôn mang theo mình, mặt trước là để ghi lại những tên người, những số điện thoại, những địa chỉ rỗng tuếch vô nghĩa, để níu kéo một cách hời hợt cái dư âm của một mối quan hệ biết trước là chẳng thể dài quá vài tháng, còn nếu giở từ mặt sau, người ta sẽ thấy được mấy bức tranh ký họa bằng chì đầy ngẫu hứng của hắn. Số lượng tranh cũng lên hơn mười bức rồi, toàn những khung cảnh đâu đâu được hắn thêm thắt vào một chút trí tưởng tượng. Một con tàu chở dầu băng ngang qua biển Nam Băng Dương, với làn khói bốc lên là một khoảng mây trời cuộn xoáy, hòa làm một cùng với bầu trời được thể hiện bằng nét chì xám xịt phía trên. Một con cá voi tung mình lên ngoài khơi xa. Hải cẩu mẹ ôm lấy đứa con của mình. Hay khung cảnh buồn tẻ nhìn từ cửa sổ nhà hắn ở Tokyo. Và bây giờ đây, Suzume lại sắp bổ sung vào bộ sưu tập của hắn một bức tranh vẽ một người đàn ông nọ, chăm chú làm gì đó trên chiếc máy tính xách tay, trần nhà trên đầu biến mất, và bầu trời sao rộng lớn soi mình xuống bên vai anh. Có lẽ do quá mải mê vào việc tái hiện lại một hình ảnh trên trang giấy, mà Suzume đã quên đi mất việc ngụy trang cho ánh mắt của mình. Những cái nhìn. Có lẽ vì thế mà khi lại ngẩng lên một lần nữa để quan sát dáng quai hàm của Augenste, hắn bắt gặp một ánh mắt như được vẽ nên bới Van Gogh cũng đang nhìn về phía này.

Thời gian nằm yên trên trục xoay.

Đúng lúc này, điện thoại của Suzume vang lên. Hắn vội bắt máy, cuốn sổ đặt bừa lên bàn. Bên trụ sở gọi đến, có một vài phát sinh trong dữ liệu thu được ở trạm cần hắn đến xem gấp, Suzume gần như đã buột ra một tiếng chửi thề, phía bên kia đầu dây, gã đồng nghiệp người Nga tựa như vừa khẽ nhún vai, tôi biết làm sao được chứ, gã nói vậy. Và cứ thế, Suzume rời khỏi La Terrance, bỏ dở một khắc hội ngộ ánh mắt, như thể bỏ dở ánh sáng cuối cùng của một dải tinh vân vừa chết trên ngân hà.

Hoặc chỉ có hắn là nghĩ vậy thôi.

Mười một giờ tối ngày hôm ấy, điện thoại của Suzume đổ chuông.

Thoạt tiên, hắn những muốn lờ đi. Những gì cần nói, những gì cần làm, những gì cần lưu ý, hắn đã tường tận viết đầy vào hai mẩu giấy ghi chú màu vàng, với cái mong ước nhỏ nhoi là sẽ không có thêm một ai phiền tới hắn vào tối nay nữa. Suzume tự chôn mình vào mớ đệm êm của chiếc ghế bành màu be, dán mắt vào một cuốn tiểu thuyết ngẫu nhiên mua được ở quầy sách cũ. Nhưng có vẻ làm thế cũng chẳng ích gì, chuông vẫn cứ đổ từng hồi mãi không thôi. Sao lại dai dẳng thế nhỉ? Hay là ở đầu bên kia, có ai đó đã quên gác máy? Nhưng dù có là gì đi nữa, thì Suzume cũng đã đến bên chiếc điện thoại rồi. Hắn suy nghĩ một chút trước khi gạt ngang biểu tượng màu xanh lá, rồi áp điện thoại lên tai bằng vẻ chán chường nhất có thể.

"Anh Amamiya Suzume?"

Hắn nhận ra giọng nói ấy ngay lập tức.

- Phải, tôi đây. - Dù vẫn hơi gờn gợn một chút bực bội trong giọng, nhưng tại giây phút đó, Suzume phải thừa nhận là hắn không còn thấy khó chịu như ban nãy nữa. - Còn anh là?

"Anh để quên cuốn sổ của mình ở quán cà phê La Terrance." Suzume nuốt từng từ một của Augenste xuống, nghe họng mình khô khốc. Anh vẫn cứ tiếp tục nói với hắn bằng cái thứ tiếng Anh chuẩn Luân Đôn, kiểu cách và lịch thiệp đến mức khiến hắn hơi gai người. "Anh có để lại số điện thoại và địa chỉ ở bìa lót, anh có muốn tôi mang thẳng đến khách sạn cho anh luôn không?"

Trong một ngày đột nhiên nhàn rỗi đến ngớ ngẩn, Suzume đã tự viết tên, số điện thoại và địa chỉ khách sạn mình đang ở, số 19 đường Varembé, lên mặt trước cuốn sổ, cho đúng với thứ thủ tục buồn tẻ mà người ta vẫn hay làm với mấy cuốn sổ ghi chú. Trong trường hợp thất lạc, xin hãy trả cuốn sổ này về cho .... ở địa chỉ ..... Số điện thoại là .... hay bất cứ cái gì đại loại thế. Có lẽ lúc ấy hắn cũng thật sự mong là sẽ tìm lại được cuốn sổ, vì những bức tranh, chắc là vậy. Lúc ấy hình như hắn đang vẽ dở một con mèo Xiêm béo ú hay nằm cuộn tròn trên quầy pha chế dưới sảnh khách sạn, và hắn muốn hoàn thành bức tranh đó, dù chỉ là những nét phác thảo cong vênh của một kẻ chưa từng học cho nên hồn một tiết mỹ thuật nào thuở còn cắp sách đến trường. Nhưng giờ thì khác rồi, cô nhân viên pha chế, cũng là chủ của con mèo đã nghỉ việc, nó cũng không còn nằm phơi nắng trên mặt kính chịu lực của quầy nước nữa, Suzume cũng hết lý do để lưu luyến. Chỉ là, hắn đã quên xé tờ giấy ghi tên và địa chỉ của mình đi.

Kỳ thực, Suzume không cần người ta trả sổ lại cho mình. Những tên người và số điện thoại hắn ghi trên đó, phần lớn giờ đây chẳng còn liên quan đến cuộc đời hắn nữa. Họ chỉ lướt qua một đôi lần, vì công việc, chỉ thế thôi. Hết việc rồi thì cũng hết duyên, và hắn thì không có hy vọng một ai đó cũ kĩ sẽ tìm ra được mình dưới gầm trời này vì những thông tin liên lạc cũng cũ kĩ nốt. Một ai đó mới toanh thì lại càng không.

Lẽ ra Suzume nên dập máy, lẽ ra nên tháo luôn cả sim điện thoại, bẻ gãy và vứt vào sọt rác, hoặc nhẹ nhàng hơn là chặn phứt cái số vừa gọi đến. Nhưng lần này thì khác.

Lần này thì khác.

- Ngày mai tám giờ tối. - Hắn nói mà chẳng cần nhìn lại đồng hồ. - Tôi sẽ quay lại La Terrance.

Khởi điểm cho câu chuyện của họ, vì nhiều lý do, nhưng cũng chẳng vì gì cả.


༻❈༺

Augenste, em sẽ không bao giờ đọc được những dòng này, bởi chúng là những suy nghĩ bí mật của riêng tôi. Rồi em sẽ được biết sớm thôi, nhưng là theo một phương thức khác, không phải là những dòng chữ vô tri này.

Thành phố nơi chúng ta cứ ngày càng tiệm cận lại gần nhau hơn vốn chẳng phải là khởi thủy của tôi, hay là em. Thuở ban sơ nhất của sự hiện hữu, nó vốn chỉ được xây dựng cho vài ngàn người, có khi còn ít hơn thế. Thế nhưng giờ đây ta có tận vài triệu. Cứ cho là thời gian đã khiến sự sống sinh sôi nảy nở thêm, nhưng cũng phải trăm ngàn trong số đó là những bầy chim di trú. Họ đi đến nơi này từ một phương xa, vì nhiều lý do mà bám trụ lại đó như loài địa y bám vào vỏ cây, giống như em vậy. Ừ, chỉ giống em thôi, còn tôi thì khác. Tôi không phải là một loài chim di trú. Người ta chỉ dùng được từ di trú để chỉ việc rời bỏ một quê nhà để đến một miền đất khác an ổn hơn. Tôi không có quê nhà, chưa từng có, hay ít nhất là kiểu quê nhà được hiểu theo khái niệm của riêng tôi. Cả đời tôi là những cuộc lãng du từ nơi này sang nơi khác, trong chính đất nước nơi tôi từng sống, hay khi đã vươn cánh chạm đến bầu trời hải ngoại. Tôi không có quê nhà, không có nơi để ngóng đến từ bên này đại dương, thế nên thành phố đó với tôi chẳng qua cũng chỉ là một điểm dừng trong vô số điểm dừng khác của loài chim không nhà.

Thế nhưng nỗi nhớ của tôi, lại neo mình lại nơi đó.

Ngày trước em đã từng hỏi, nếu như không phải là Hades, thì em là gì của tôi? Tôi đã nghĩ nhiều về điều đó, Nam cực quang và cái vắng lặng buồn hiu trắng tinh của miền đất giá buốt này khiến cho người ta có thời gian để thấu suốt hơn nhiều điều. Tôi không liên tưởng được hình ảnh của em với Hades. Không, em không giống thế.

Em là người tôi tự nguyện yêu thương, không vì một lý do nào cả, như cách mà Persephone yêu mùa xuân. Tôi nhận ra điều này khi tôi bắt đầu nghĩ tới, từ những ngày lạnh nhất, da dẻ bong hết cả ra và tôi thấy mình nhớ đến mỏi mòn cái nhiệt lượng ấm áp khi có em bên cạnh.

Augenste, em là mùa xuân của tôi, mùa xuân vĩnh hằng, giống như mùa xuân đậu lại trên cây hoa hạnh nhân của Vincent Van Gogh. Em là điểm kết thúc mùa đông, và là mốc khởi đầu mùa xuân vô tận của riêng tôi.

༻❈༺

Việc đầu tiên Augenste làm khi đáp xuống chuyến bay muộn đến Genève là ngay lập tức có mặt tại quán cà phê La Terrance. Lúc anh đến, quán đông khách hơn thường lệ, cái bàn mà anh hay ngồi, cái bàn mà gần đó có treo bức Đêm đầy sao, đã bị ai đó ngồi trước mất. Có gì đó trong Augenste thoáng khó chịu. Là gì nhỉ? Bình thường anh không phải là người ngại thay đổi đến mức chỉ muốn ngồi rịt tại một vị trí không đổi trong một quán cà phê nào đó, nhưng hôm nay thì không. Vì sao vậy? Augenste có cho mình câu trả lời ngay tắp lự, là vì mỗi khi bước vào La Terrance, góc bàn đó chính là nơi mà Suzume sẽ nhìn đến trước tiên.

Lần nào cũng vậy, cứ vào đúng quãng tám giờ, hắn sẽ đẩy cánh cửa quán La Terrance, và nhìn về phía góc bàn ấy trước tiên.

Mặc dù anh biết, Suzume vẫn chưa thể về Thụy Sĩ mùa này được, nhưng cứ mỗi lần đặt chân đến đây, điều đầu tiên anh làm vẫn luôn là canh giờ để đến quán. Augenste chợt nhớ đến bức ảnh cực quang hắn gửi kèm theo thư điện tử cho anh hôm nọ. Gửi cho tôi một chút bầu trời sao của mùa xuân trong mắt em, và tôi sẽ đổi lại cho em một mẩu cực quang trên tay tôi, Suzume đã nói với anh vậy đấy. Kỳ thực, Augenste đã mong hắn sẽ gửi cho anh một cái gì đó khác, một cái gì đó liên quan đến bàn tay của hắn, hoặc may mắn hơn, là đôi mắt. Anh muốn hắn gửi cho anh một cái gì đó để hiện thực hóa những suy tưởng của anh về người tình nửa đêm bí ẩn này, nhưng Suzume chưa bao giờ cho phép người ta cố định hắn lại bất cứ một địa điểm, một chiều không gian nào. Dù bọn họ đã qua lại với nhau ngót cũng ba năm, nhưng Augenste cứ luôn có cái cảm giác rằng, một khi Suzume muốn đột ngột biến mất, anh sẽ không thể cản được, và ý nghĩ đó khiến anh khó chịu vô cùng.

Trong email mới nhất Suzume gửi cho anh, hắn đã nói rằng hắn nhớ nhà.

Augenste này, đột nhiên tôi lại nhớ nhà quá. Chỉ thế thôi. Augenste gần như có thể nghe được chất giọng trầm trầm, với cái kiểu phát âm lơ lớ đặc trưng của người Nhật phát ra từ đôi môi Suzume lặp lại câu nói đó, tôi nhớ nhà. Một câu nói bình thường đến không thể bình thường hơn của một kẻ xa xứ sống ở nơi tận cùng phía Nam của thế giới, nhưng qua lời của Suzume, thì dường như nó còn mang một hàm nghĩa đặc biệt hơn. Có lẽ là bởi vì Suzume chưa bao giờ chủ động nhắc đến nhà trong cuộc trò chuyện giữa hai người. Có lẽ là bởi từ lâu hắn đã luôn xem mình như một kẻ vãng lai qua thế giới này, nghỉ chân lại vô số vùng đất, nhưng lại chẳng thật sự thuộc về một nơi nào. Hắn từng nói rằng, nếu xét theo cái cách hiểu riêng của hắn về thế giới, thì Suzume không có nhà. Thế thì bây giờ, hắn đang nhớ nhung điều gì?

Augenste không biết được, có lẽ anh sẽ phải hỏi lại Suzume điều này khi họ gặp nhau sau ba tháng nữa.

Anh ngồi xuống bên một góc bàn khác, tự thấy thiếu đi một quãng thoải mái êm ấm, và mở điện thoại lên kiểm tra hộp thư. Anh nhấn vào chiếc email cuối cùng mình gửi cho Suzume, thấy ở cuối đoạn, dòng chữ em muốn gặp anh nổi lên, lững lờ trên khoảng nền trắng tinh và những dòng chữ đen nhỏ xíu chi chít mà anh đã chẳng còn nhìn rõ hình thù. Email này đã được anh gửi từ hai ngày trước, đến bây giờ vẫn chưa thấy Suzume hồi âm trở lại.

Em muốn gặp anh. Gặp anh. Và gặp anh.

Đó là một sự thông báo cho một câu chuyện mới mà Augenste đã luôn nghĩ đến từ cái ngày anh hỏi Suzume rằng, em là gì của anh. Một câu chuyện mà anh đã cần chút thời gian để định hình, sắp xếp lại câu cú, kiểm tra qua từng dấu câu hay ngắt đoạn, để rồi cuối cùng khi đã hiểu hết được tầng ý nghĩa sâu thẳm nhất, lại để lỡ mất giây phút có thể thẳng thắn mà nói ra.

Không sao cả, anh nghĩ, mình sẽ đợi thêm chín tháng nữa, để khi nhìn thấy bóng Suzume một lần nữa bước vào quán La Terrance, mình sẽ nói cho anh nghe tất cả.

Vì thế, Augenste muốn gặp hắn. Gặp hắn. Và gặp hắn.

Chín tháng còn ba, thời gian với Augenste lúc này ì ạch chẳng khác gì một cỗ xe gần chết máy. Mỗi ngày anh đều ngồi dưới bầu trời sao trong bức tranh treo trên tường La Terrance, chờ đợi một người mà anh biết rằng vẫn chưa thể đến. Hắn chưa thể đến vào hôm qua. Hắn chưa thể đến vào ngày mai. Hắn chưa thể đến vào hôm nay. Cũng có lẽ là sẽ không đến nữa. Anh cứ chờ vậy.


Người thanh niên ấy cứ đứng lặng lẽ trước cánh cửa gỗ hồi lâu. Tóc đen cắt gọn. Mắt đen có chút mỏi mệt sau hàng đống thứ vừa phải giải quyết để mà hoàn tất thủ tục chuyển bộ phận công tác. Suzume sẽ về làm việc cố định tại trụ sở của WMO ở Genève, mua một căn nhà nhỏ và không rời đi nữa. Hắn tiếp tục nghĩ về câu chuyện sắp được kể ra, về định nghĩa thật sự của nhà.

Đã đến lúc hắn nên biết về một nơi để neo mình lại. Một bến bờ. Một hơi ấm. Một cách thức để hiện hóa. Tất cả những từ ngữ đó đều quy về chung một điểm, là đôi mắt xanh như được Van Gogh chấm màu lên của Augenste.

Suzume sẽ bước vào, tìm thấy Augenste ở đúng cái góc cũ kĩ nơi hắn luôn tìm thấy anh, hoặc là ở một góc nào đó khác. Hắn không biết rằng những ngày không có sự hiện diện của mình trên đất Genève này, Augenste có còn thường xuyên ghé lại quán hay không. Nhưng cứ bước vào đã. Nếu hắn gặp may, Augenste sẽ đang đợi ở đó. Và hắn sẽ bước lại, anh ngước lên nhìn hắn một cách đầy bất ngờ. Cũng sẽ nhanh thôi trước khi mọi thứ lại trở nên quen thuộc. Hắn sẽ mỉm cười vào nói, chào em.

Khi đồng hồ điểm đúng tám giờ tối, hắn đẩy cửa bước vào. Mùa xuân trượt xuống trên đầu vai, soạt một cái hóa thành vĩnh cửu.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top