Saburo Sakai những trận không chiến dữ dội nhất lịch sử Thái Bình Dương (phần III)
CHƯƠNG XVII
Vào tháng Chín, tôi được chuyển đến bệnh viện hải quân Sasebo. Sự thay đổi nầy đã làm tôi hân hoan, tôi sẽ được gần nhà hơn, và tôi có thể gặp lại gia đình.
Bấy giờ mùa Hạ nóng bức đã trôi qua, và xe lửa lướt đi trong một bầu không khí ấm áp dễ chịu. Tôi mở rộng các cửa sổ, đẫm mình trong ánh mặt trời và gió dịu nhẹ của mùa Thu. Nước Nhựt chưa bao giờ đẹp hơn trước mắt tôi, với cảnh sắt mùa Thu trên núi, trên đồi, dáng vẻ êm đềm lạ lùng của vùng quê trôi qua. Màu cây xanh thẫm và màu hoa đỏ tía điểm tô dọc theo hai bên thiết lộ.
Ba giờ sau khi rời khỏi Yokosuka, Fujiyama đã ẩn hiện trong tầm mắt. Tôi nhìn ngắm một trong những hòn núi đẹp nhứt của nước Nhựt nầy không biết chán. Tuyết đã tan trên những con đường mòn chạy lượn cong trên đỉnh núi, thoạt ẩn thoạt hiện trong màu sương mù lấp loáng dưới ánh mặt trời, Phú Sĩ Sơn ( Fuji). Nó nhắc tôi nhớ lại Fujiko. Người ấy, quả thật, đã lấy tên núi nầy làm tên lót, nhưng hiện thời đối với tôi đã xa cách ngàn trùng.
Xứ sở êm ả và thanh bình. Chiến tranh không có ở đây, không có trong vòng hàng trăm nông trại, ruộng lúa nằm ngay ngắn, khoáng đạt và thịnh vượng dọc theo hai bên đường sắt. Chiến tranh đâu? Tôi chỉ nhìn thấy những gì mà trước kia tôi đã từng thấy, vả lại có phần đẹp đẽ hơn hồi tôi còn là một chàng thiếu niên.
Má tôi chờ đón tôi ở nhà ga Fukuoka. Nơi đây ce lửa chỉ dừng lại ngắn ngủi,v à hành khách không được phép xuống xe. Tôi nghiêng thân hẳn ra ngoài cửa sổ để vẩy taygọi má tôi. Thấy tôi, mặt má tôi rạng rỡ. Má tôi già hơn trước, ồ già đến nỗi ấy. Bây giờ má tôi chỉ trơ trọi một thân, mấy người con trai của bà đã ra đi hết rồi.
" Con khoẻ mạnh!" Tôi la lớn. " Con vẫn khoẻ mạnh, má! Đừng lo cho con."
Xe lửa chuyển bánh. Má tôi đứng trên sân ga, đôi mắt nhoà lệ.
Các bác sỹ ở Sasebo lại ra lịnh cho tôi nằm dưỡng bịnh một tháng nữa. Thời gian trôi qua chậm chạp, nhưng cuối tuần lễ đầu tiên, tôi đã hoan hĩ vì có má tôi đến thăm với bánh quà mà tôi thích ăn hồi còn nhỏ. Tôi ngần ngại khi nói cho bà biết tôi đã đui ở mắt bên phải. Trước sự kinh ngạc của tôi, bà bình thãn nói: " Có sao đâu, con vẫn là một con người, con trai của má."
Bà đến thăm tôi mỗi cuối tuần. Gặp má tôi thường thật là thích thú, nhưng tôi xin bà đừng đến nữa. Bà đã lớn tuổi, đường xa mệt nhọc, vả lại di chuyển bằng xe lửa càng ngày càng trở nên khó khăn. Các toa xe đều chở đầy ấp dụng cụ chiến tranh, chổ dành cho hành khách bị hạn chế và rất tồi tệ.
Vào tháng 11 một biến cố xảy ra, mà nếu ở hoàn cảnh nào khác tôi sẽ coi đó là một trong những biến cố lớn nhứt của đời tôi. Nhưng ở hoàn cảnh hiện thời biến cố ấy ít có ý nghĩa. Bịnh viện nhận được lịnh thăng cấp Chuẩn úy cho tôi. Con đường dằng dặc khởi từ một tân binh thủy thủ, với kỷ luật tàn nhẫn và hình phạt liên miên, đã đến điểm cuối của nó. Từng bước một, tôi đã leo lên, và bây giờ phần thưởng đã đến tay. Đó là một chiến thắng hụt hẩng, nhưng có sự đền bù của nó. Với thân phận mới, tôi có thể hoàn tất thời gian dưỡng bịnh còn lại tại gia. Tôi chợp ngay lời đề nghị của vị bác sỹ và lập tức rời khỏi bệnh viện đến vùng ngoại ô Fukuoka, nơi má tôi đã đến chung sống với người chị và anh rễ của tôi.
Tháng kế đó là một tháng đầy tuyệt thú. Lần đầu tiên sau 10 năm, tôi được sống gần má tôi trọn 30 ngày. Hầu như mỗi ngày bà để hỏi tôi: " Con nghĩ bao giờ chiến tranh sẽ hết, Saburo?". Tôi biết bà nghĩ đến hai anh trai hiện đang chiến đấuở hải ngoại. Và mỗi lần bà hỏi, tôi chỉ biết nói sự thật: con không biết.
Rồi má tôi nhìn quanh, để chắc không có ai xung quanh, bà khẻ hỏi: "Saburo, nói cho má biết chúng ta có thắng thật không? Những điều họ nói có thật không?" Tôi chỉ có thể đáp: chúng ta phải thắng.
Vài tuần lễ sau khi tôi đến ở nhà người chị, một ông khách từ Đông Kinh đến viếng tôi. Một thông tín viên của nhựt báo Yomiuri Shimbun, một trong những nhựt báo lớn nhứt ở Nhật Bản. Thông tín viên nầy cho biết tờ báo của ông ta muốn thực hiện một cuộc phỏng vấn độc quyền với phi công tài ba nhứt Nhật Bản, vì cả nước đều muốn đọc những lời nói của chính tôi về cuộc chiến ( Khi được gán cho danh hiệu phi công hạ nhiều phi cơ địch nhiều nhứt nước, tôi tự hỏi Ota, Nishizawa hiện thời đã hạ được bao nhiêu chiếc. Tôi chắc họ đã qua mặt tôi.)
Tôi không biết tôi có quyền đáp cuộc phỏng vấn nầy hay không. Tôi có thể phạm kỷ luật nếu tôi nói ra sự thật. Tôi gọi điện cho Sĩ Quan Hành Chánh ở Sasebo và trình bày vấn đề. Ông ta né tránh và nhấn mạnh rằng không có những qui định đặc biệt nào trong vấn đề nầy.
" Tôi không quyền khuyến khích anh tiếp xúc với nhà báo," ông ta kết luận. "Nhưng tôi phải nhắc anh nhớ rằng những lời nói của anh cần được cân nhắc cẩn thận, và anh phải chịu trách nhiệm những gì anh đã nói. Anh cũng phải luôn luôn nhớ rằng ở đây không tán thành mà cũng không ngăn chặn bất kì sỹ quan nào muốn trả lời một cuộc phỏng vấn của báo chí. Hãy cẩn trọng!"
Đó là một lời đáp chắc chắn có tánh cách phủ định. Tôi quay vô phòng và nói cho viên ký giả biết Thượng Cấp của tôi không hài lòng cuộc phỏng vấn mà ông ta yêu cầu. Nhưng ông ta không chịu bỏ cuộc một cách dễ dàng.
" Tôi nghĩ việc nầy không có gì gây phiền phức cho ông", hắn cãi. " Tôi vượt bảy trăm dặm đường từ Đông Kinh đến đây chỉ để tiếp xúc với ông! Xin ông cho tôi hỏi một vài câu thôi! Năm phút là cùng!"
Tôi sớm biết tôi ngu! Khả năng vặn hỏi và mưu mô sắp xếp moi tim của thằng cha nầy qua cuộc phỏng vấn thật kì dị. " Năm phút" của hắn trở thành ba ngày! Mỗi buổi sáng từ khách sạn trú ngụ, hắn lê thân đến nhà tôi ghi chép đủ thứ.
Hắn gợi tôi nói đủ chuyện. Những câu hỏi của hắn đều tránh đề cập đến chiến tranh, cho đến khi tôi khám phá ra rằng những câu chuyện liên quan đến chiến tranh. Hắn sớm nhận ngay niềm lạc quan đã mất hết trong tôi, và những phi công chúng tôi ở Rabaul, mặc dù đạt được nhiều thành quả, nhưng hiện thời đang tham dự vào một trận đánh gian nan ở Guadalcanal, và không nhận được một sự hợp tác nào của các chiến đấu cơ và oanh tạc cơ của Lục Quân Nhật Bản.
" Chúng tôi cần nhiều chiến đấu cơ và những phi công kinh nghiệm hơn", tôi nói với hắn trong lúc nổi nóng nhất thời. " Mỗi chiến đấu cơ đều phải xem xét lại toàn diện sau 150 giờ bay. Ngay cả những phi cơ chưa bắn một phát súng nào và chưa bao giờ nhận một viên đạn nào của địch quân, cũng phải xem xét lại. Hiện thời chúng tôi không thể làm gì hơn được. Một chiếc Zero mang thương tích nhẹ, chúng tôi vẫn coi như còn trong tình trạng khả dụng và chỉ xem xét toàn thể sau 200 giờ bay."
" Ông hiểu rõ hậu quả như thế nào khi một phi công lâm trận với một chiếc phi cơ mà những dụng cụ kiểm soát không đáp ứng mọi đòi hỏi? Chỉ những phi công tài ba nhứt mới mong tồn tại sau khi lâm trận với loại phi cơ như vậy. Nếu những phi công chân ướt chân ráo, được gởi ra hải ngoại để thay thế, họ không có được các căn bản của những phi công mà tôi đã từng bay chung, lúc đó có trời mới giúp được họ sống sót mà thôi. Những phi công hải quân Hoa Kỳ mà chúng tôi đã từng đụng độ ở Guadalcanal là những phi công tài ba, và chiến pháp của họ siêu đẳng chưa từng thấy. Phi cơ của họ thì khỏi nói rồi."
Ông thông tín viên hài lòng hơn nữa. Hắn không thể nào che dấu sự phấn khởi , ngõ lời cảm ơn rối rít và từ giã tôi. Tuy nhiên, sau đó tôi mới nhận thấy mình đã vấp phải một sai lầm quan trọng, khi đem nói hết mọi chuyện với hắn.
Một tuần sau đó, tôi trở lại bệnh viện Sasebo, và ghi tên xin tái khám tổng quát lần cuối cùng. Lần nầy sẽ quyết định việc bổ nhiệm trở lại của tôi. Lời xin được chấp nhận và tôi được sắp xếp một chiếc giường trong bịnh viện để ngủ cho đến khi cuộc khám bịnh nhiều ngày hoàn tất.
Sáng sớm hôm sau, tôi được gọi đến phòng hành chánh của Bộ Tư Lệnh Sasebo. Gương mặt của vị đại tá đỏ gay vì giận dữ.
" Chuẩn úy Sakai," ông hét lên " anh là một thằng ngốc! Tôi vừa nhận được một công điện của Tổng Hành Dinh hải quân ở Đông Kinh, cho biết họ đã cấm đăng toàn thể bài phỏng vấn anh của báo Yomuiri Shimbun. Đi nói hết những chuyện mà anh đã làm, anh có điện không?
" Đông Kinh đã khiển trách tôi nặng nề, với lý do thiếu kiểm soát thuộc cấp. Tôi sẽ không để cho chuyện ngu dại nầy xảy ra nữa. Bây giờ tôi nói cho anh biết, anh không hở một tiếng nào về nhiệm vụ chiến đấu của anh kà không hỏi ý trước với sỹ quan tâm lý chiến. Anh hiểu chớ? Lập lại sự dại dột nầy, không chỉ một mình anh mà chính tôi cũng phải ra toà án quân sự!"
Tôi biết hoàn toàn! Tôi bị bịt miệng, nhưng tôi thông cảm cái thế của ông ta. Đơn giản hơn hết, Sakai, hãy ngậm miệng của mầy lại.
Tôi quay về bệnh viện, gậm nhấm những lời trách mắng vừa nhận lãnh.
Có người gọi tên tôi. Một binh sĩ chạy việc đứng nghiêm ở cửa chào tôi. " Gì đó?" tôi vội hỏi.
" Dạ thưa, chuẩn úy có một ông khách. Một phi công hải quân lớn con, đang chờ chuẩn úy ở phòng khách. Hình như ông ta nói tên là Nishizawa."
" Hả?" Tôi lớn tiếng " Nishizawa, có thật hắn ta không?"
Tôi quên câu chuyện vừa xảy ra và chạy như điên ra phòng khách, chạm vào tên lính chạy việc muốn té lăn cù. Tôi mở cửa phòng và nhìn vô.
Một người đàn ông gọn ghẻ, to lớn, bước lui bước tới trong phòng, miệng ngậm thuốc. Đây rồi! Hắn không thay đổi chút nào.
Hắn ngước nhìn tôi, cười rạng rỡ và thét lên " Sakai!" Tôi la tên hắn "Nishizawa!" chúng tôi ôm choàng lấy nhau, sung sướng không nói nên lời.
Tôi vẫn nắm hắn và xô dang ra xa " Để tôi nhìn anh coi!" Tôi nói. " Ngon lành lắm! Không bị thương à?" tôi hỏi nhanh.
" Không, Saburo," giọng đáp vui vẻ. " Tôi vừa rời Rabaul hồi tháng 11. Không một vết trầy nào hết. Hình như đạn sợ tôi."
Tôi phấn khởi. " Ha! Ha! Chúng tôi đặt tên anh thật thích hợp!" Tôi nói. "Quả thật anh là vị thần hộ mệnh của chúng tôi, lướt xuyên qua cả Lae lẩn Rabaul mà không một vết thương nào. Nishizawa, được gặp lại anh thật là tuyệt thú."
" Anh cho tôi biết những chuyện đã xảy ra sau khi tôi ra đi. Chắc hiện thời anh là phi công hàng đầu của hải quân. Ồ! Tôi có thể tưởng tượng hình ảnh của anh trên không phận Guadalcanal,"
Hắn khoát tay phản đối. " Đưa tôi lên quá nhiều, Saburo," hắn phàn nàn. " Tôi cũng không biết chắc số nạn nhân của tôi. Năm mươi hoặc có lẻ trên chút ít. Nhưng tôi vẫn còn thua anh xa." Hắn mĩm cười. " Có lẽ anh không biết, nhưng anh vẫn còn là phi công số một."
"Bạn điên rồi!" tôi nói. " Tôi hiểu bạn mà. Ngay từ trước đây tôi đã ngại bạn qua mặt tôi rồi. Nhưng, nói tôi biết anh làm gì ở Sasebo?"
" Họ gởi tôi về không đoàn Yokosuka" hắn đáp, mặt tiu nghĩu. " Một huấn luyện viên! Đó là những gì mà họ giao cho tôi, một huấn luyện viên! Saburo, anh có thể tưởng tượng cả ngày tôi chạy vòng quanh với một chiếc phi cơ hai tầng cánh vừa cổ lổ vừa xộc xệch, hò hét mấy tên ngu như bò, dạy cho chúng biết quanh quẹo như thế nào, và làm sao giữ cho quần của chúng đừng ướt mẹp không? Tôi!"
Tôi cười ngất. Hắn nói đúng! Nishizawa mà làm huấn luyện viên sao được!
" Đó", hắn tiếp, " sau một ít lâu ở đó, tôi cảm thấy muốn chết giấc. Vì vậy, tôi đã tình nguyện đi hải ngoại trở lại, họ vừa chịu buông tôi. Tôi nhận lịnh hồi sáng nầy, qua Philippine. Do đó mà tôi phải gặp anh hôm nay. Sáng mai chúng tôi cất cánh."
" Sớm vậy?"
" Tôi muốn như vậy, Saburo," hắn đáp. " Bay quanh Yokosuka chán quá rồi. Tôi muốn chiến đấu. Tôi phải chiến đấu trở lại. Ở đây, ở Nhật Bản, tôi đang bị giết lần mòn."
Tôi hiểu hắn. Thật vậy, tôi hiểu rõ hắn. Nhưng ... có nhiều câu chuyện cần phải nói, những người bạn khác của chúng tôi.
" Tôi ganh tị với anh, Nishizawa. Nhưng nầy, hãy nói cho tôi biết về Rabaul, nói cho tôi nghe về mấy người khác. Đại úy Sasai bây giờ ở đâu? Và Ota, hắn có bay với anh không? Hai phi công bên cánh của tôi, Yonekawa và Hatori? Hãy nói hết chuyện của họ cho tôi nghe đi."
" Cái gì?" hắn nhìn tôi, đôi mắt trống rỗng. Đôi mắt đong đầy nỗi tuyệt vọng ấy. " Thì ra họ không nói với anh..."
" Anh nói gì vậy?" tôi hỏi.
Hắn khoát tay một cách yếu ớt.
" Anh sao vậy, Nishizawa? Mấy người kia được gởi về xứ với anh phải không?"
Hắn quay đi, lưng day về phía tôi. Tiếng nói của hắn đầy xúc động. " Saburo, họ..." hắn đặt một tay lên trán, rồi xoay mau lại " Chết hết rồi!"
Tôi không tin!... Chuyện đó khó thể xảy ra được!
" Anh nói gì?" Tôi hét lên.
" Họ chết hết rồi! Anh và tôi, Saburo, anh và tôi ... chúng ta là hai người duy nhứt còn sống sót."
Không thể là sự thật! Hai đầu gối tôi khuỵu xuống. Tôi dựa vô cạnh bàn, trong lúc đầu óc tôi cố phân tích thãm kịch nầy.
Nishizawa bắt đầu kể. " Đại úy ra đi đầu tiên. Vào ngày 26 tháng 8, chúng tôi thực hiện một phi vụ càn quét ở Guadalcanal. Không phải như trước kia đâu, Saburo. Tôi không thể biết bao nhiêu chiếc Wildcat ở đó, nhưng chúng ùa đến như một giòng suối bất tận. Chúng tôi không có một dịp may nào cả. Đội hình chúng tôi phải phân tán mau đến nỗi không ai nhìn thấy phi cơ của Sasai rơi xuống! Chúng tôi nghĩ rằng có lẻ phi cơ của ông ta hư hại và đã bay phía trước chúng tôi. Nhưng khi trở về Rabaul, ông ta mất tích... Ông ta không bao giờ trở về."
Nishizawa lộ vẻ mệt mõi. " Kế đó là Ota. Đúng một tuần sau đó. Cứ mỗi lần ra đi là mỗi lần chúng tôi mất thêm phi cơ. Guadalcanal hoàn toàn nằm dưới quyền kiểm soát cỉa địch quân. Ota đã ra đi giống như Sasai. Không ai nhìn thấy phi cơ của hắn rơi. Hắn không trở về căn cứ. Rồi khoảng ba hoặc bốn ngày sau đó, Yonekawa và Hatori bị bắn rơi. Cả hai chết cùng ngày. Nhóm 80 phi công thực hiện phi xuất hôm đó, chỉ có tôi, đại tá Saito, trung tá Nakajima và 6 phi công khác trở về."
Tôi chết đứng. Nishizawa lặng yên. Chuyện nầy hình như không thật. Làm sao mà họ có thể chết hết được ?
Bốn trong những người bạn tốt nhứt của tôi. Tất cả đều bị giết trong lúc tôi nằm như chết trong bệnh viện Yokosuka. Tôi hiểu tại sao tôi không nhận được tin tức về sự mất mát nầy. Nakajima và Nishizawa đã dấu tôi, trong thời gian công việc chữa trị đôi mắt của tôi đang diễn tiến.
Khuôn mặt những người đã chết chập chờn trước mắt tôi. Tôi nhớ lại Ota, nụ cười của hắn từ trong phòng lái lúc chúng tôi lộn nhào trên không phận Moresby. Yonekawa và Hatori, hai người luôn luôn bám sát sau đuôi tôi trong các trận không chiến, luôn luôn chăm chăm bảo vệ tánh mạng của tôi. Sasai, ông ta ... Và bây giờ, họ đã ... chết. Tôi khóc nức nở, không xấu hổ, giống như một đứa trẻ khóc. Tôi khóc mùi mẩn, thân thể rủ rượi.
Nishizawa nắm lấy tay tôi, khuyên lơn. " Saburo, đừng khóc nữa!". Tôi ngước nhìn hắn.
" Tôi là một tên khốn nạn!" Hăn nói. " Tôi không thấy họ rơi xuống! Ngay cả khi họ mất tôi cũng không biết. Những bạn thân của chúng ta, Saburo, những bạn thân của chúng ta. Tôi không làm gì để giúp đỡ họ hết!".
Hắn ngồi xuống. " Không, không, điều nầy cũng không đúng. Tôi không thể làm gì được. Phi cơ địch đông vô số, không đếm xuể." Tiếng nói của hắn mòn mõi.
Chúng tôi ngồi lặng yên hồi lâu, nhìn lẫn nhau.
Còn gì để nói nữa đây ?
CHƯƠNG XIX
Tôi rời khỏi bệnh viện hải quân Sasebo vào hạ tuần tháng Giêng. Những tháng dài điều trị đã chấm dứt. Tôi trình diện đơn vị gốc, không đoàn Tainan thuộc không hạm đội II, hiện trú đóng ở Toyohasai, miền trung nước Nhật.
Tôi từng gia nhập không đoàn nầy vào tháng Chín năm 1941 ở Tainan, trên đảo Formosa (tức Đài Loan). Tổng số 150 phi công rời khỏi Tainan trong cuộc thối lui vĩ đại của Nhựt xuyên qua Thái Bình Dương, chỉ còn khoảng 20 người sống sót. Những người sống sót nầy thành lập một không đoàn mới, quân số phần nhiều là phi công mới ra khỏi các quân trường ở Tsuchiura và một số căn cứ không quân khác.
Khi tôi đến Toyohashi, trung tá Tadashi Nakajima đích thân tiếp đón tôi. Cả hai chúng tôi đều không ai nghĩ sẽ gặp lại nhau ở đây, thay vì Rabaul. Nhờ trời, Nakajima vẫn là thượng cấp của tôi. Ông không có vẻ nghi ngờ việc tôi có thể bay lại được hay không.
Ngay ngày hôm sau tôi quay về với tình yêu đầu của tôi, chiếc Zero. Tôi không thể nào diễn tả hết cảm nghĩ thích thú khi tôi trở lên không trung với chiếc chiến đấu cơ ngoan ngoãn. Nó giống như một giấc mơ. Tôi đã bay thử mọi cách, nhào lộn, lướt thẳng đứng, chúi xuống, rơi như cánh lá. Không gian đã khiến tôi ngây ngất.
Trong tư cách một sỹ quan, tôi bắt buộc phải biết qua viễn ảnh mới của toàn thể cuộc chiến. Lính trơn không được phép xem các báo cáo chiến đấu mật, và hải quân chỉ dành đặc ân cho sỹ quan mà thôi. Tôi đến Toyohashi nhiều ngày, nhưng Nakajima không nói một lời nào liên quan đến cụoc rút lui khỏi Guadalcanal của chúng tôi vào ngày 07 tháng Giêng năm 1943, đúng sáu tháng sau ngày Hoa Kỳ đổ bộ. Đài phát thanh đã công bố đây là cuộc rút lui chiến lược, hoặc phải thâu hẹp các tuyến phòng thủ của chúng tôi, nhưng các phúc trình mật cho thấy đó là một cuộc chiến bại choáng váng với những mất mát khủng khiếp.
Cả hai sư đoàn bộ binh đã địch quân đánh tan tành. Hải quân hầu như mất hết một hạm đội thời bình. Nằm phơi thân rĩ sét trong bùn ở Guadalcanal ít ra là hai thiết giáp hạm, một hàng không mẫu hạm, năm tuần dương hạm, mười hai khu trục hạm, tám tiềm thủy đỉnh, hàng mấy trăm chiến đấu cơ và oanh tạc cơ, đó là không kể con số phi công chiến đấu cơ và phi hành đoàn oanh tạc cơ bị chôn vùi theo.
Chúng tôi đã làm gì? Chúng tôi đã tung ra những cú đấm trừng phạt xuyên qua Thái Bình Dương. Chúng tôi đã quét sạch chiến đấu cơ địch hết lượt nầy sang lượt khác. Các cơ quan tuyên truyền Nhựt đã cho biết như vậy. Nhưng các phúc trình mật từ mặt trận cho biết đối phương có những loại phi cơ mới, còn tối tân hơn loại P.39 và P.40.
Và lần đầu tiên tôi biết được sự thật đã xảy ra ở Midway vào cuối tháng Sáu vừa qua. Bốn hàng không mẫu hạm, và gần 300 phi cơ với hầu hết phi công đã mất. Những con số không thể tin được.
Tim tôi như chìm xuống khi tôi nhìn thấy những tân phi công vừa mới được bổ nhiệm đến không đoàn Tainan. Họ là những người nhiệt thành, thừa can đảm! Nhưng sự nhiệt thành và lòng can đảm không dính dáng gì đến tài ba của một phi công. Những người nầy thiếu hẳn sự khéo léo để đương đầu với phi công Hoa Kỳ càng lúc càng gia tăng số lượng đông đảo chưa từng thấy ở Thái Bình Dương.
Những người có khuôn mặt rạng ngời nầy có thể lấp đầy những khoảng trống bỏ lại bởi những người như Sasai và Ota không?
Công cuộc huấn luyện mà họ trải qua ở Toyohashi rất đứng đắn. Từ bình minh cho đến hoàng hôn, các huấn luyện viên chạy theo họ không rời một bước. Những bài học trong lớp cũng như các chuyến bay thực tập liên tục và tất cả những trận đánh trong quá khứ được làm sống lại, nhét vô đầu óc những người mới nầy. Nhưng chúng tôi lại không có đủ thời giờ. Chúng tôi không thể xem xét những lỗi lầm của từng cá nhân một để sữa chữa. Không ngày nào trôi qua mà không có xe cứu thương rú còi inh ỏi chạy xuống phi đạo: một người chúi đầu xuống đất hoặc nhiều người văng ra khỏi những chiếc phi cơ vỡ tan khi cất cánh hoặc đáp xuống.
Không phải tất cả những phi công mới đều yếu kém. Nhiều người đã tỏ ra có triển vọng nối bước những phi công đại tài thế hệ 1939 - 1940. Nhưng đáng buồn là họ không có được dịp bay nhiều, không thâu thập kinh nghiệm chiến đấu nào, trước khi được tung ra đối đầu với phi công Hoa Kỳ.
Khoảng một tháng sau khi Guadalcanal thất thủ, chúng tôi được triệu tập tham dự một phiên họp gồm toàn sỹ quan để nghe tin tức liên quan đến một thảm họa khác. Tin tức nầy được duy trì độ mật trong suốt thời gian còn lại của cuộc chiến, và không bao giờ được tiết lộ ra ngoài công chúng. Phía sau các cánh cửa đóng kín, tôi đã đọc và biết rằng một đoàn cong voa của Nhựt bao gồm 12 quân vận hạm, 8 khu trục hạm và nhiền tàu hổ trợ nhỏ hơn, mưu toan đổ quân lên Lae, căn cứ không quân cũ của tôi. Có ít nhứt 100 chiến đấu cơ và oanh tạc cơ địch đã tấn công đoàn cong voa đang lướt trên mặt biển bao la, đánh chìm tất cả quân vận hạm và khoảng 5 khu trục hạm. Thảm họa nầy lớn hơn thảm hoạ Guadalcanal, vì nó có nghĩa rằng chúng tôi đã bất lực không thể nào chận đứng nổi các cuộc tấn công hiệu quả không thể tưởng của đối phương nhắm vào các lực lượng trên mặt biển của chúng tôi.
Vài ngày sau đó, không đoàn Tainan được lịnh di chuyển cấp tốc đến Rabaul. Trung tá Nakajima hỏi tôi có thể theo ông trở lại Tây Nam Thái Bình Dương được không? Tại sao ông có thể nghĩ là tôi muốn làm khác hơn? Nakajima nói với tôi rằng mặc dù tôi đui mắt bên mặt, ông vẫn xem tôi tài ba hơn bọn phi công mới. Đêm đó, Bộ Chỉ Huy đưa ra một danh sách các phi công được thuyên chuyển đến Rabaul, bao gồm tên tôi.
Nhưng chúng tôi đã thất bại trong việc đối đầu với y sỹ trưởng của bịnh viện Toyohashi. Ông ta nổi nóng khi thấy tên tôi trong bảng danh sách. Ông ta bước ào vô văn phòng của Nakajima và để cơn giận bốc lên trước mặt vị chỉ huy trưởng có vẻ khó chịu. " Anh mất trí rồi!". Ông ta rống lên. " Có phải anh muốn giết người nầy không? Sao anh lại cho phép một tên phi công một mắt ra trận? Tôi không cho phép Sakai thuyên chuyển đến Rabaul!" chúng tôi có thể nghe cuộc cải vả của họ lồng lộng từ phía bên nầy sân bay.
Nakajima cải lại rằng tôi còn tốt hơn bọn phi công mới, rằng hai mắt hoặc một mắt cũng vậy thôi, đâu có ảnh hưởng gì đến sự khéo léo phía sau những dụng cụ trong phòng lái của một chiếc Zero, mà cũng không thành vấn đề đối với kinh nghiệm chiến đấu lâu dài của tôi. Vị y sỹ trưởng không nhượng bộ. Bấy giờ Nakajima nổi nóng. Họ cải qua cải lại mấy tiếng đồng hồ, nhưng cuối cùng vị y sỹ trưởng bước ra khỏi phòng trong vẻ đắc thắng. Ông ta đã thuyết phục được Nakajima thay đổi ý kiến.
Tôi chạy ùa vô phòng của chỉ huy trưởng, van nài ông duy trì ý định. Ông nhìn tôi có vẻ nghi ngờ, ông cố nói, nhưng mặt ông càng lúc càng đỏ bừng. Cuối cùng, ông hét lớn, " Im đi!" và bước ra ngoài, miệng càu nhàu rằng tất cả bọn phi công đều điên hết.
Do đó, tôi được chỉ định làm huấn luyện viên phi hành ở căn cứ không quân Omura, gần Sasebo.
Không đoàn Tainan đến Rabaul ngày 3 tháng Tư, khoảng một tuần sau, tôi đọc báo cáo tiền tuyến, biết được không đoàn đã thực hiện nhiều phi vụ tấn công quan trọng ở Guadalcanal, vịnh Milne, hải cảng Darwin và nhiều mục tiêu khác. Trong bốn phi vụ, chiến đấu cơ và súng phòng không địch đã hạ 49 chiếc trong tổng số phi cơ của không đoàn.
Hết thảm hoạ nầy đến thảm hoạ khác. Vào ngày 19 tháng Tư, một tin đồn khủng khiếp, được xác nhận không lâu sau đó, lan rộng giữa các sỹ quan. Vào ngày trước đó, đô đốc Isoroku Yamamoto, Tổng Tư Lịnh Hải Quân Hoàng Gia Nhựt đáng kính mến của chúng tôi đã thiệt mạng. Tôi đọc đi đọc lại phúc trình của vụ nầy. Theo đó, đô đốc Yamamoto đáp một trong hai chiếc oanh tạc cơ, với một số chiến đấu cơ hộ tống, trên đường đi thanh sát mặt trận đã bị một số chiến đấu cơ P.38 của Hoa Kỳ lướt xuyên qua vòng đai chiến đấu cơ Zero, bắn rơi cả hai oanh tạc cơ.
Và tôi vẫn ngồi ở Omura, với nhiệm vụ huấn luyện bọn phi công mới. Tôi nhận thấy khó thể giữ sự tin tưởng khi nhìn bọm khoá sinh chạy chập choạng trên phi đạo và lướt lên không. Hải quân thiếu hụt phi công trầm trọng, và các khoá học mở ra hầu như hàng tháng, nhưng vẫn không đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi. Trước khi bị quăng ra mặt trận, có nhiều người chưa rờ đến một chiếc chiến đấu cơ .
Mọi thứ đều cấp bách! Chúng tôi được chỉ thị dạy vội vàng, bỏ qua những điểm chi tiết. Đúng hơn là chỉ dạy họ bay và bắn. Nhiều tháng dằng dặc và buồn chán, tôi cố đào tạo những người được quăng đến tay chúng tôi ở Omura thành những phi công chiến đấu. Phương tiện chúng tôi quá kém cõi, đòi hỏi quá lớn, sinh viên quá nhiều .
Tôi cảm thấy đang chết lần mòn. Xứ sở của chúng tôi lâm vào tình cảnh bối rối, không còn nghi ngờ gì nữa. Công chúng không biết sự thật nầy, cả sinh viên sỹ quan lẫn tân binh cũng không biết. Nhưng các sỹ quan đã nhìn tận mắt các báo cáo, ý thức tầm mức nghiêm trọng của tình thế.
Vào tháng Chín năm 1943, tôi đã xúc động khi hay tin một người bạn thân của tôi, một trong những phi công vĩ đại nhứt của Nhật Bản, trung sỹ Kenji Okabe, đã bị bắn rơi và thiệt mạng ở Bougainville. Hắn là bạn đồng khoá với tôi ở Tenchiura, một "Ace" đã lập được thành tích vô song: bắn hạ bảy phi cơ địch trong một ngày chiến đấu trên không phận Rabaul. Sau thành tích phi thường nầy, đô đốc Ninichi Kusaka, Tư Lịnh Không Hạm Đội II, có yêu cầu Bộ Tư Lịnh Hải Quân ở Đông Kinh ân thưởng một huy chương cho Okabe. Không có gì thay đổi. Đông Kinh đã từ chối dựa trên căn bản " không có tiền lệ" giống như lời từ chối được đưa ra cho đại tá Saito một năm trước đây. Tuy nhiên, đô đốc Kusaka không chịu gạt vấn đề một cách dễ dàng như vậy. Bất cần quyết định của từ Bộ Tư Lịnh ở Đông Kinh, đô đốc đã ban tặng thanh kiếm chỉ huy của ông cho Okabe, trong một buổi lễ danh dự đặt biệt.
Ba ngày sau, Okabe đã bị chết cháy trong chiếc Zero rơi xuống như cây đuốc của hắn.
Vào tháng Tư năm 1944, sau nhiều tháng huấn luyện dài dằng dặt đầy mệt mõi ở Omura, tôi được thuyên chuyển đến không đoàn Yokusuka. Trước chiến tranh, việc được bổ nhiệm về không đoàn Yokosuka là một sự mơ ước, vì đây là đơn vị không quân phòng vệ Hoàng Gia, có nhiệm vụ bảo vệ không phận Đông Kinh. Hiện thời, không đoàn nầy đã đổi khác. Thời gian của những sự bổ nhiệm gọi là mơ ước đã trôi qua hẳn rồi.
Qua những phúc trình mật, tôi đã lượng định cuộc chiến đúng sự thật của nó. Các phúc trình mật là một tiếng thét lớn hơn tiếng thét của đài phát thanh hướng đến đám quần chúng cả tin. Khắp nơi ở Thái Bình Dương, các lực lượng của chúng tôi thối lui liên hồi. Những lực lượng đặc nhiệm mạnh mẽ, những hạm đội đồ sộ không thể tưởng của Hoa Kỳ mặc tình ngao du trên Thái Bình Dương.
Tôi đọc hết phúc trình nầy đến phúc trình khác, và tất cả đều nói đến sự hủy diệt khủng khiếp do các hạm đội đánh mạnh đánh mau nầy gây ra. Không lực của địch quân càng ngày càng nắm quyền bá chủ trên không. Cả mấy trăm chiếc P.38 xuất hiện cùng lúc, tràn ngập chiến đấu cơ của chúng tôi. chiến đấu cơ và oanh tạc cơ loại mới của đối phương hầu như ra mặt hàng ngày, và những câu chuyện của oc Nhựt liên quan đến khả năng của phi công địch báo điểm đen tối cho tương lai. Chúng tôi vẫn còn giữ vững Rabaul, nhưng pháo đài có lần được coi là kiên cố nầy, không còn mảy may đe doạ nào đối với Moresby và các căn cứ khác của đối phương. Người Mỹ đang xử dụng pháo đài nầy để thực tập dội bom.
Ngay sau khi đến Yokosuka, tôi xin nghỉ phép và đáp xe lửa đến Đông Kinh, chỉ mất chín mươt phút. Gia đình chí tôi đã mừng đón tôi như một đứa con xa nhà trở về.
Đêm đó, sau bữa ăn, Hatsuyo bắt đầu trách cứ về việc chậm lập gia đình của tôi. Giọng nàng nghiêm trang một cách đáng buồn cười. Tôi trả đủa ngay. " Tại sao em vẫn một mình, em của anh? Chưa có anh chàng nào đủ điều kiện phải không?"
Chú thím tôi ngừng nói chuyện, quay lại cười chúng tôi. " Anh em bây ồn ào quá!". Chú tôi chế nhiễu.
Tôi cười: " Con không hiểu tại sao Hatsuyo không kiếm ra một ông chồng. Coi cô ta kìa. Đẹp như một minh tinh màn bạc, và có bao nhiêu cô tự phụ đánh đàn dương cầm giỏi hơn?" tôi vừa nói với chú thím vừa nhìn Hatsuyo. " Con tin rằng chú có thể lựa chọn cho cô ta một tấm chồng xứng đáng."
Cả chú thím tôi đều cười, nhưng Hatsuyo xụ mặt. Nàng liếc tôi rồi nhìn đi nơi khác. Anh mắt của nàng xa xôi.
" Anh nói không phải sao, Hatsuyo?"
Nàng không lý gì đến tôi. Tôi giựt mình, nàng giận rồi. Tôi chuyển vấn đề ngay.
" Hatsuyo, dạo dương cầm cho anh nghe đi! Từ khi nghe em dạo đàn đến giờ đã lâu lắm rồi."
Nàng nhìn tôi đầy nghi vấn.
" Có nhớ lần phép đầu tiên của anh không? Em dạo nhạc của ..., để anh nhớ coi... Phải rồi của Mozart. Em có thể dạo lại bản nhạc đó cho anh nghe không?"
Thay cho câu đáp, Hatsuyo bước đến chiếc dương cầm và ngồi xuống.
Tiếng nhạc dứt. Hatsuyo ngồi yên hồi lâu, rồi quay lại nhìn tôi với ánh mắt lạ lùng. Đôi mắt mở lớn và dò hỏi ấy. Nàng dịu dàng nói: " Saburo, em muốn dạo một khúc nhạc khác, đặt biệt cho anh. Hãy lắng nghe. Khúc nhạc ấy sẽ nói với anh những gì mà chính em không thể thốt nên lời."
Nàng có vẻ lạ lùng làm sao! Mặt nàng phơn phớt một màu hồng e thẹn và lảng nhanh đôi mắt nhìn tôi chăm chăm.
Nàng dạo khúc nhạc một chập nữa. Tiếng nhạc trầm bỗng. Tôi nhìn cô gái nầy. Chưa bao giờ tôi thấy nàng như vậy. Ý nghĩa gì khi nàng nói: " Khúc nhạc sẽ nói với anh những gì mà chính em không thể thốt nên lời."
Bỗng nhiên tôi hiểu, tôi đang nhìn Hatsuyo, không nhìn như một cô gái nhỏ, không như một người em họ của tôi, nhưng tôi nhìn nàng như một thiếu nữ! Lần đầu tiên, tôi thật sự " nhìn thấy" nàng, chăm chú trên phím đàn, mười ngón tay nhảy múa, khuôn mặt nghiêm trang, như rót hết tâm hồn vào tiếng nhạc.
Hatsuyo? Và tôi? Chưa hẳn đúng. Nhưng, nàng không còn là một cô bé nữa. Hãy thức tĩnh, Sakai, anh thật ngu muội. Nàng là một thiếu nữ. Nàng đang nói với anh, trong giây phút nầy, rằng nàng yêu anh! Bây giờ tôi hiểu những gì mà nàng định nói. Trong lúc bồng bột, tôi muốn đáp trả. Không thể được, tôi nhủ thầm. Nhưng đó là sự thật. Tôi nhớ lại lúc còn trong bịnh viện, khi nàng choàng tay qua tôi và thổn thức nói rằng nàng tin chắc tôi sẽ được bay trở lại.
Nàng đã yêu tôi lâu hơn tôi tưởng. Vào lúc ấy, trong sâu thẳm của lòng tôi, tôi cũng yêu nàng. Nhưng tôi có thể làm gì được? Tôi từ chối tình yêu của Fujiko bởi lẻ tôi đui mù một nửa, tôi có thể làm khác hơn với tình yêu thầm kín của Hatsuyo không? Không.
Khi tiếng đàn chấm dứt tôi cố giữ bình tĩnh, không hề lộ vẻ gì cho nàng thấy tôi đã cảm thông nỗi lòng của nàng. Tôi ngồi lại một lúc cho phải phép rồi kiếu từ đi nghỉ. Nhưng trãi qua nhiều giờ, tôi không sao chợp mắt được.
Suốt thời gian được bổ nhiệm đến Yokusuka, tôi thường viếng thăm Đông Kinh. Trong 18 tháng vắng mặt của tôi, thủ đô đã thay đổi. Màu sắc và sự vui tươi biến mất. Đường phố ưu sầu, mất hẳn sinh động. Dân chúng cúi đầu bước đi với vẻ trầm tư. Con cái, cha anh, chú bác, thân thuộc của những người nầy đã ra đi, và không bao giờ trở lại.
Những tiệm buôn đã cạn hàng hoá, bán theo khẩu phần hiện là một vấn đề bắt buộc. Dân chúng kiên nhẫn đứng nối đuôi trong gió lạnh, chờ đợi để nhận thức ăn. Tuy nhiên thủ đô vẫn nguyên vẹn, ngoại trừ một cuộc không tập duy nhứt xảy ra vào năm 1942.
Nhưng chiến tranh lấn bước đến Nhật Bản vào tháng Sáu năm 1944, gây ảnh hưởng không tốt đối với công chúng. Vào ngày 15 tháng Sáu, dân chúng Đông Kinh đã xúc động khi nghe tin 20 oanh tạc cơ địch đã bay một mạch từ Trung Hoa đến tấn công một thành phố phía Bắc Kyushu. Cuộc oanh tạc không gây hư hại bao nhiêu. Nhưng trong nhà và trong các cửa tiệm, trong những cơ xưởng và trên đường phố khắp nơi ở Nhựt, ai ai cũng bàn tán đến vụ oanh tạc, nói về việc các chiến đấu cơ của chúng tôi đã thất bại không chận đứng nổi các oanh tạc cơ địch. Tất cả đều có chung những câu hỏi: thành phố nào bị oanh tạc kế đó? Khi nào? Và bao nhiêu oanh tạc cơ? .
Đài phát thanh lại loan đi một tin tức gây lo âu khác. Người Mỹ đã đổ bộ lên Saipan. Chiến tranh đã đến gần quê hương bằng một lối khác nữa. Saipan không mấy. Những tấm bản đồ được mở ra, và người dân Nhựt nhìn thấy hòn đảo nhỏ li ti sát bờ biển Nhật Bản. Và họ nhìn lẫn nhau. Họ đã bắt đầu đặt những câu hỏi, thì thầm, về các tin tức chiến thắng loan đi thường xuyên trên đài phát thanh. Làm sao Nhật Bản có thể nghiền nát chiến hạm, tiêu diệt phi cơ, đánh tan lực lượng của đối phương một khi Saipan đã bị xâm phạm. Đó là một câu hỏi mà ai ai cũng đặt ra, nhưng chỉ một vài người dám đưa ra lời giải đáp.
Tiếp liền tin tức về Saipan, chúng tôi nhận được tin các lực lượng hùng hậu thuộc hạm đội của chúng tôi tiến đến quần đảo Mariana, tham dự vào trận đánh mà mọi người ở Yokosuka đều biết sẽ là một trong những trận đánh quyết định cuộc chiến. Chúng tôi không còn mưu định đổ bộ lên các hòn đảo bên ngoài, chúng tôi đang canh gác ở ngay những cổng bước vào quê hương chúng tôi.
Sáng hôm sau, không đoàn Yokosuka nhận được lịnh di chuyển đến đảo Iwo Jima. Bộ Tư Lịnh Tối Cao của chúng tôi e rằng một khi Saipan được cũng cố, người Mỹ sẽ bước thêm bước nữa, bằng cách tấn công địa điểm chiến lược nầy. Với Iwo Jima trong tay đối phương, toàn thể nước Nhựt sẽ bị uy hiếp.
Sự thật, Iwo Jima không bị xâm chiếm vào mùa hạ năm 1944 là một gây kinh ngạc cho chúng tôi. Phòng thủ trên đảo nầy lúc đó rất yếu kém. Chỉ cần một phần lực lượng đổ bộ lên Saipan, địch quân có thể đặt chân lên các bãi biển Iwo Jima và tẩy sạch sức đối kháng của lực lượng phòng thủ trên đảo dễ dàng. Không hiểu vì lý do nào, cuộc đổ bộ bị trì hoãn nhiều tháng, cho phép Lục Quân và Hải Quân Nhựt đổ người và vũ khí lên hòn đảo chiến lược nhỏ bé nầy.
Khi không đoàn Yokosuka nhận được lịnh thiết lập một mạn lưới bảo vệ không phận hòn đảo. Không đoàn Yokosuka chỉ có vỏn vẹn ba mươi chiến đấu cơ khả dụng. Ba mươi chiến đấu cơ Zero, giống như mấy chiếc Zero mà tôi đã từng bay ở Trung Hoa gần 5 năm trước đây. Chỉ có bao nhiêu đó! Tuy nhiên, cuộc đổ bộ chưa xảy ra. Chúng tôi coi biến cố nầy như một phép lạ.
Trung tá Nakajima đã trở về Yokosuka. Một tháng sau khi ông rời Toyohashi để đến Rabaul, Đông Kinh đã gọi ông về và chỉ định chức vụ chỉ huy trưởng không đoàn Yokosuka. Bây giờ, sau một năm trên đất liền, ông ta lại ra đi nữa. Lần nầy ông sẽ đối diện với một mặt trận bi tráng hơn bất kì mặt trận nào khác trong đời chỉ huy của ông.
Tôi nhận được lịnh trình diện ông trong văn phòng. " Sakai, tại sao anh không đi với tôi lần nầy?" ông hỏi. " Anh biết là tôi nôn nóng muốn bay trở lại với anh đến mức nào không. Tôi bất cần những gì mấy thằng bác sỹ cứ lãi nhải. Hiện thời, đối với tôi, anh vẫn là một phi công xuất chúng. Anh đã chứng tỏ điều nầy mỗi khi tôi thấy anh bay."
" Saburo, tôi cần anh đi với tôi. Gần lắm. Anh sẽ giống như một vị thần hộ mạng đối với những phi công mới nầy. Có anh bay với chúng tôi, tinh thần của họ sẽ lên cao. Họ sẽ theo anh bất cứ nơi nào."
" Trung tá cần phải hỏi tôi nữa sao?" Tôi nói. " Trung tá yêu cầu tôi đi với trung tá phải không? Bao nhiêu lần tôi đã chạy chọt! Bao nhiêu lần tôi đều bị lắc đầu, anh không thể bay được đâu, Sakai, anh nửa đui nửa sáng mà còn bay với bổng gì nữa, Sakai. Dĩ nhiên, tôi muốn đi! Tôi muốn đi với Trung tá. Tôi muốn chiến đấu trở lại!".
Thời gian đã đổi thay. Không một viên y sỹ nào tỏ vẻ phản đối ý định của tôi. Những lời đầu môi để giữ một viên phi công độc nhãn đứng bên ngoài cuộc chiến không còn nữa. Nhật Bản không thể nào lo nghĩ đến những chi tiết nhỏ mọn như vậy nữa. Nhật Bản đang lâm nguy, và một phi công độc nhãn có đầy đủ kinh nghiệm chiến đấu như tôi vẫn phải gánh vác trách nhiệm.
Tôi lại ra đi. Xứ sở đang cần tôi.
Chúng tôi nhận được lịnh đến Iwo Jima tức khắc. Chúng tôi không có cả thì giờ liên lạc với gia đình. Không có những lời từ biệt.
Vào sáng ngày 16 tháng Sáu, chúng tôi cất cánh từ Yokosuka và bay trong đội hình, với tôi dẫn đầu, trực chỉ hòn đảo xa xôi. Nhưng chúng tôi không đến được mục tiêu. Sau 100 dặm bay trong những đám mây dầy đặc sà thấp và những cơn mưa như thác lũ, chúng tôi bắt buộc phải quay về Yokosuka. Mùa mưa của Nhật Bản đã bắt đầu. Nakajima và tôi, cũng như một số phi công kinh nghiệm khác có thể bay đến Iwo Jima dễ dàng, nhưng đa số ba mươi phi công thuộc không đoàn đều là tay mơ. Mưa bão sẽ đánh dạt họ ra khỏi đội hình không biết lúc nào, và điều đó có nghĩa là mạng sống của họ tiêu luôn.
Iwo Jima là một hòn đảo nhỏ cách phía nam Yokosuka 650 dặm. Bề ngang lớn nhứt của hòn đảo chỉ khoảng hai dặm. Trên mặt bản đồ thế giới, Iwo Jima có vẻ như là một hòn đá cuối cùng của một loạt hòn đá trải dài từ Yokosuka đến Guam. Tuy nhiên, các bản đồ thường đưa đến những sai lầm tai hại, và trên đường bay bao la của Thái Bình Dương, khoảng cách giữa mỗi điểm nhỏ có thể được phỏng định chênh lệch một cách khủng khiếp. Quả thật, không rada, ngay cả vô tuyến cũng không có, chúng tôi không dám liều lĩnh, vì như vậy hầu hết phi cơ của chúng tôi có thể đi đời.
Chúng tôi đã từng gặt hái kinh nghiệm bi thãm về vấn đề nầy. Đầu năm 1943, nhiều phi đoàn chiến đấu cơ Lục Quân, được lái bởi những phi công không có một chút kinh nghiệm nào trong các phi vụ vượt đại dương, cất cánh ở Nhật Bản để đến một căn cứ ở phía Nam. Trên đường đi họ chạm trán với tình trạng thời tiết tồi tệ, nhưng họ không chịu quay về. Kết quảm hầu hết phi cơ đều biến mất trên khoảng không trình vô tận của Thái Bình Dương.
Chúng tôi cố lên đường một lần nữa vào sáng ngày 17 tháng Sáu. Lần nầy chúng tôi rời khỏi Yokosuka chưa đầy 100 dặm thì bị các trận bão đẩy bật trở lại, mặc dù theo báo cáo thời tiết ở Iwo Jima và quần đảo Mariana rất tốt đẹp. Chúng tôi nằm lì trong doanh trại, nghe tin tức do đài phát thanh loan đi liên quan đến đoàn quân trú trên đảo Iwo Jima. Theo đó, đối phương đã tung các cuộc không tập trên hòn đảo nầy suốt ngày suốt đêm.
Bốn lần, chúng tôi cất cánh, và bốn lần chúng tôi đều bị các trận bão đẫy bật trở lại. Vào ngày 20 tháng Sáu, khi chúng tôi cố gắng lên đường lần thứ năm, tình trạng thời tiết vẫn hoàn toàn không bảo đảm an toàn cho phi vụ. Tuy nhiên, Nakajima quyết định lướt qua. Chúng tôi để những phi công không kinh nghiệm bay ở cánh và đuôi, rồi tất cả xông vào mưa bão mù mịt.
Không ai trng chúng tôi biết được vào ngày nầy nhiều hạm đội quan trọng của chúng tôi đã chịu đựng một cú đấm thảm khốc do phi cơ và trọng pháo của lực lượng đặc nhiệm đối phương ở quanh quần đảo Mariana tung ra.
Cuối cùng, chúng tôi thoát ra khỏi trận mưa bão. Chúng tôi bay được 650 dặm, và nhiều phút sau đó, đỉnh của ngọn núi lửa trên đảo Iwo Jima hiện ra lờ mờ trên mặt nước, Nakajima bắt đầu đảo một vòng rộng lớn trên phi đạo thứ nhì, thiết lập trên ngọn núi Motoyama, nằm chính giữa hòn đảo. Tôi những tưởng những phi đạo lấm bụi ở Lae là tồi tệ, nhưng phi đạo nầy còn tồi tệ hơn. Đáp xuống sân bay trên một hàng không mẫu hạm có lẽ còn đơn giản hơn đáp xuống phi đạo khủng khiếp ở dưới kia. Hai phía của phi đạo vách đá dựng đứng. Chỉ cần đáp trật một chút, chúng tôi sẽ biến thành trái cầu lửa ngay. Và một hòn đá cao chớn chở chắn ngang cuối phi đạo chờ đợi những phi công không thận trọng.
Nakajima từ chối thử sức các phi công của ông trên phi đạo cấm kị nầy. Ông dẫn cả nhóm trở lại phi đạo thứ nhứt, nằm ở mặtm phía Nam của hòn đảo. Phi đạo nầy rộng và dài. Lần lượt, các chiến đấu cơ hạ cánh.
Đã có hơn 90 phi cơ đậu dọc theo phi đạo, không còn chổ trống nào dành cho các chiến đấu cơ của chúng tôi.
Nakajima đưa tay ra khỏi phòng lái và vẩy ra dấu cho chúng tôi đi theo ông. Một con đường dốc lộng gió dẫn từ phi đạo chánh đến phi đạo phụ dài hơn một dặm. Tôi cảm thấy buồn cười khi chạy cà xốc men theo con đường nầy. Đây là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng, tôi mới biết leo lên sườn núi với một chiến đấu cơ và một dọc ba mươi chiến đấu cơ phía sau.
Một tiểu đoàn bộ binh đã kinh ngạc đến nổi há hốc khi nhìn đoàn cong voa nối đuôi kêu vang rầm trời và quậy bụi mù mịt của chúng tôi. Nhiều người đưa tay chỉ chỏ, cười nghiêng ngữa. Riêng chúng tôi khó thể nào cười nổi. Lái một chiến đấu cơ lên dốc, với một chiếc ở phía trước và một chiếc khác quay cánh quạt vù vù ở phía sau trong khi phải cố gắng đối phó với mấy chỗ lượn cong, hốc búa còn hơn duy trì đội hình bay khít khao trong một đám sương mù dầy đặc.
May mắn thay, chúng tôi đến Iwo Jima trong thời gian các trận đánh lắng dịu tạm thời. Chỉ vào ngày trước đó, hòn đảo đã náo động dưới hàng ngàn quả đại pháo của lực lượng đặc nhiệm đối phương chạy dọc theo bờ biển. Hiện thời đối phương đã quay hướng đến Saipan để dập các pháo đài trên hòn đảo nầy.
Trong ba ngày, chiến tranh buông tha Iwo Jima. Không một người đàn ông lành mạnh nào muốn ở đây. Nó vừa ảm đạm vừa bất an, không cảm thấy dễ chịu như ở Rabaul. Nhưng chúng tôi thích nghi với hoàn cảnh, lợi dụng thời gian yên tĩnh giả tạo để trầm mình trong các suối nước nóng chảy róc rách thường xuyên qua các kẻ đá từ bên nầy đến bên kia phi đạo.
Cuộc chiến chưa bao giờ kì dị hơn đối với chúng tôi. Chúng tôi biết được tin hạm đội của chúng tôi đã tan tác trong trận hải chiến ở quần đảo Mariana. Và tất cả các phi công của hàng không mẫu hạm đều chết rụi không còn một mống. Những lực lượng đổ bộ của địch quân có sức mạnh siêu việt là điều không thể nghi ngờ được. Với sự yểm trợ của hàng nhiều trăm phi cơ, hàng nhiều ngàn đại pháo trên các chiến hạm, những lực lượng nầy chắc chắn sẽ diệt các đơn vị Nhựt trên đảo Saipan đến người cuối cùng.
Các sỹ quan của chúng tôi đã đến hồi tuyệt vọng. Họ biết rõ Saipan cần được giúp đỡ. Nhưng chúng tôi có thể làm gì được? Một cuộc tấn công toàn lực bằng chiến đấu cơ của chúng tôi chỉ hiệu quả nhứt thời, nếu không nói là vô nghĩa. Bởi lẻ Saipan nằm cách phía Nam Iwo Jima đến 600 dặm. Mặt khác, nếu chúng tôi rời Iwo Jima mà không để lại một số chiến đấu cơ khả dụng, lúc đó người Mỹ có thể thừa nước đục thả câu, đập tan hệ thống phòng thủ và quét sạch sức đề kháng yếu ớt trên hòn đảo.
Cuối cùng, quyết định được đưa ra: chiến đấu cơ ở lại, nhưng các oanh tạc cơ sẽ cất cánh tấn công các tàu chiến Hoa Kỳ trên đường chạy đến Saipan. Mỗi cuộc tấn công đều được thực hiện vào ban đêm, các oanh tạc cơ không hộ tống sẽ cất cánh từng nhóm tám hoặc chín chiếc.
Khoảng thời gian giữa mỗi phi vụ oanh tạc cơ đi và về là một khoảng thời gian vô tận. Các phi công của chúng tôi đã thi hành nhiệm vụ mới với lòng dũng cảm tột cùng và đã đạt được một số hiệu quả. Nhưng mà những hiệu quả nầy có nghĩa lý gì? Đó chỉ là cái đập cánh của lũ thiêu thân.
Vào ngày 24 tháng Sáu, sự yên tĩnh giả tạo của Iwo Jima biến mất. Vào khoảng 5 giờ sáng, còi báo động không tập rú lên đinh tai nhức óc. Ra đa sớm phát hiện nhiều nhóm phi cơ địch đông đảo còn cách phía Nam Iwo Jima 60 dặm và đang lướt đến nhanh chóng.
Tất cả chiến đấu cơ trên hòn đảo, hơn 80 chiếc Zero, chạy ra hai phi đạo và cất cánh. Các cơ khí viên mang những chiếc oanh tạc cơ Betty và Jill còn trên mặt đất vô hầm trú ẩn.
Thời gian chờ đợi bấy lâu đã được đền bù. Tôi lại được bay một chiếc Zero chiến đấu, và trong một giây lát đây tôi sẽ biết sự khéo léo của mình còn hay không.
Một đám mây treo lơ lửng 13.000 bộ trên bầu trời. Và các chiến đấu cơ chia làm hai nhóm, 40 chiếc vượt lên trên, và 40 chiếc nhóm của tôi duy trì phía dưới đám mây.
Ngay khi tôi vừa lấy thăng bằng sau khi vượt lên, một chiến đấu cơ địch hùng hổ chúi xuống xuyên qua các đám mây, kéo theo sau một vệt lửa và khói màu đen tật dài. Tôi liếc mắt, nhận ra đó là loại chiến đấu cơ mới, với đôi cánh rộng và mũi bẹt, chiến đấu cơ Grumman F6F Hellcat mới mà tôi đã nghe nói đến nhiều lần. Tôi vung phi cơ ra một vòng thật rộng và nhìn lên... một chiếc Hellcat khác ló khỏi các đám mây, chúi thật thẳng xuống, với vệt khói túa ra phía sau.
Phía sau tia khói của chiếc chiến đấu cơ nầy, hàng chục chiếc Hellcat khác cũng nối đuôi nhau chúi thẳng xuống. Tất cả 40 chiến đấu cơ đều xoay hướng và vượt lên để đối đầu trực tiếp với các phi cơ địch. Bọn phi công Mỹ không một chút lưỡng lự nào, lướt đến tấn công. Rồi phi cơ toả khắp bầu trời, xoay tít từ tầng mây trên cao cho đến mặt biển dưới thấp, khai diễn một trận không chiến kinh tâm động phách. Các đội hình bị cắt nát ra từng mảnh.
Như chớp, tôi xoay trôn ốc và lăn tròn đến sát đuôi một chiếc Hellcat, và ấn cò súng ngay khi chiếc phi cơ lọt vào tầm nhắm. Tôi lăn ra xa và nhận thấy những viên đạn của tôi đều bay trong không khí. Tôi xoay nửa vòng hình trôn ốc, lướt đến thật sát, cố tâm rót đạn vô bụng của đối thủ. Viên phi công địch mưu tranh tài xoay vòng tròn với tôi. Tôi chỉ chờ có vậy. Cạnh sườn của hắn nằm gọn trong tầm nhắm, và tôi quất ngay một loạt đại bác thứ hai, đạn chạm dọc theo thân phi cơ. Hai giây kế đó, những đám khói đen dầy đặc tuông ra và chiếc phi cơ chúi như gió lốc xuống biển.
Khắp nơi, tôi nhìn thấy nhiều chiến đấu cơ kéo những vệt khói dài bốc cháy và nổ tung. Lúc tôi đang nhìn, nhiều vệt đạn rót từ phía dưới lên cánh tôi. Tôi cấp tốc gạt cần lái sang trái, lăn tròn một vòng, tôi đã ở sau đuôi đối thủ và ấn cò súng. Trật. Hắn chúi xuống, mau hơn loạt đạn thứ hai của tôi.
Tôi vừa nguyền rủa sự lơ đãng vừa chửi bới con mắt đui mù của mình. Bởi con mắt nầy đã khiến tôi hầu như không nhìn thấy một phía. Nhanh chóng, tôi tháo hết dây dù buộc quanh thân, do đó tôi có thể xoay trở dễ dàng trên ghế ngồi để nhìn mọi hướng.
Ít nhất cũng có nữa tá Hellcat đang ở sau đuôi tôi, sẵn sàng trong vị thế khai hoả. Các họng súng trên đôi cánh của một chiếc bắt đầu rực lửa, một chiếc khác vừa lăn tròn vừa bắn, nhưng tất cả đều không trúng. Sáu chiến đấu cơ địch lướt qua hai bên cánh tôi và vừa vượt lên vừa xoay về phía phải.
Lần nầy không dễ dàng như vậy được! Không! Tôi gia tăng tốc lực khẩn cấp và lộn ngược về bên phải, xoay theo sáu chiến đấu cơ. Tôi liếc nhìn sau lưng, không có bóng dáng chiếc phi cơ nào khác. Khoảng cách giữa tôi và chiếc phi cơ địch gần nhứt thâu hẹp một cách nhanh chóng. Còn cách 50 thước, tôi khai hoả, nhìn thấy những viên đại bác chạm vô thân phi cơ và biến mất trong phòng lái. lửa sáng loà và khói xuất hiện sau kiếng che gió, một giây kế đó, chiếc Hellcat bay lồng lộn, một bên cánh trề hẳn xuống và một bựng khói tuôn ra càng lúc càng cuồng cuộn.
Nhưng có thêm chiến đấu cơ địch sau đuôi tôi. bỗng nhiên tôi không muốn dây dưa với chúng nữa. Nỗi mệt mõi bao trùm lấy tôi, giống như một chiếc khăn choàng kín mít. Những ngày trước đây ở Lae, tôi sẽ không bỏ phí một giây phút nào để đảo chiếc Zero lại và mặt đâu mặt với đối phương. Nhưng hiện thời, tôi cảm thấy năng lực của tôi hầu như đã bị hút cạn. Tôi không muốn chiến đấu nữa.
Tôi chúi xuống, bay về phía Bắc với hết tốc lực. Mấy chiếc Hellcat quay lại. Bấy giờ, tôi bỗng cảm thấy hàng trăm trận không chiến mà tôi từng tham dự là một cái gì đáng chán ghét nhứt.
Tôi liếc nhìn xuống bên phải và há hốc miệng. Một chiếc Hellcat lộn nhào dữ dội, cố để thoát khỏi một chiếc Zero đeo dính theo bên đuôi, khoảng cách không hơn 50 thước. Chiếc Zero vừa rượt vừa bắn. Ngay lúc ấy một chiếc Hellcat khác đuổi theo chiếc Zero. Lúc tôi còn đang nhìn diễn biến, một chiếc Zero nữa chúi từ trên cao và lộn vòng lại phía sau chiếc Hellcat thứ hai. Rồi hết chiếc nầy đến chiếc khác nhảy vào vòng đua, kéo thành hàng dài như một con trường xà. Hình như kể từ chiếc Zero thứ hai, chiếc nào chiếc nấy cứ nhắm mắt nhắm mũi rượt đuổi, không biết rằng phía sau mình còn có kẻ rượt theo nữa. Và phi cơ nào cũng khai hoả vào mục tiêu trước mặt. Hellcat, Zero, Hellcat, Zero, Hellcat, Zero. Thật lạ lùng, không một phi cơ nào, cả Nhựt lẫn Mỹ, lưu ý đến việc bảo vệ yếu điểm phía sau của họ.
Chiến đấu cơ dẫn đầu, chiếc Hellcat, bổng chúi nhủi dữ dội sau khi nhả ra khói đen, rồi đâm đầu xuống biển. Hầu như cùng lúc, chiếc Zero truy đuổi cũng nổ tung, biến thành trái cầu lửa. Chiếc Hellcat thứ nhì, bay ở hàng thứ ba, vừa tung cú ra đấm chết người, chỉ sống sót khoảng hai giây, đạn đại bác từ chiếc Zero thứ hai, bay ở hàng thứ tư, xé vứt một bên cánh của nó. Khi cái cánh vừa lìa khỏi thân chiếc Hellcat, một bựng lửa túa ra làm loà cả mắt, đánh dấu sự nổ tung của chiếc Zero thứ hai. Và khi chiếc Hellcat lãng ra xa khỏi tiếng nổ do nó vừa tạo ra, những viên đạn đại bác của chiếc Zero thứ ba xé nát phòng lái của nó ra làm muôn mảnh.
Khi năm chiến đấu cơ đâm đầu xuống biển hết, chiếc Zero cuối cùng lộn nhào để xoay hướng và bay đi. Đó là kẻ sống sót duy nhứt của cuộc hổn chiến kinh tâm.
Tôi lượn chầm chậm, phía Bắc Iwo Jima, hít thở không khí. Cơn choáng váng tan biến, tôi quày lại khu vực chiến đấu. Trận chiến đã kết thúc. Vẫn còn nhiều chiếc Zero vừa Hellcat trên bầu trời, nhưng hai phía bay thành từng nhóm riêng rẽ và cách rời hẳn nhau.
Phía trước và bên phải, tôi thấy 15 chiến đấu cơ Zero thấp thoáng trong đội hình. Tôi bay đến để kết hợp. Từ phía dưới, tôi lướt lên ...
Hellcat! Bây giờ tôi mới biết tại sao bác sĩ đã khăng khăng phản đối việc tôi chiến đấu trở lại. Chỉ còn một mắt, tầm nhìn xa của tôi quả yếu kém, những chi tiết nhỏ trên thân phi cơ tôi không sao nhìn thấy. Cho đến khi những ngôi sao màu trắng nổi bật hai bên cánh của các chiếc phi cơ trở thành rõ rệt, tôi mới biết mình sai lầm. Tôi không phí một giây nào trong việc chận đứng nỗi sợ hãi đang bao trùm lấy mình. Tôi lộn về phía trái, xoay thật ngặt và chúi thẳng xuống, hy vọng mấy chiếc không phát hiện tôi.
Đâu được may mắn như vậy. Đội hình Hellcat vỡ ra và cuộc truy đuổi khai diễn. Tôi có thể làm gì? Không còn một cơ hội nào nữa.
Không, vẫn còn một lối thoát, một cơ hội mong manh. Tôi hầu như bay ngay trên Iwo Jima. Nếu tôi cứ chạy quanh quẩn, một việc không dễ, chờ cho đến khi xăng của các chiến đấu cơ địch cạn dần và bắt buộc phải quay về căn cứ.
Bấy giờ tôi lượng định tốc lực của những chiến đấu cơ mới nầy. Chỉ trong mấy giây chúng đã tiến sát. Nhanh quá đổi! Không thể chạy được...
Tôi xoay ngược lại thật mau, và doạ các phi công địch bằng cách từ phía dưới vượt lên, xoay một vòng hình trôn ốc.
Tôi kinh ngạc, phi cơ địch không phân tán. Chiến đấu cơ dẫn đầu đáp trả bằng cách xoay hình trôn giống như tôi. Tôi lại xoay nữa, lần nầy thâu hẹp đường bán kính hơn. Đối thủ không nhường tôi một bước nào.
Một chiếc Airacobra hoặc một chiếc P.40 sẽ thua cuộc nếu thi tài với tôi bằng lối nầy, ngay cả loại chiến đấu cơ Wildcat có thể giữ vòng xoay khá lâu cũng không thể chống lại một chiếc Zero. Nhưng những chiếc Hellcat nầy, một loại phi cơ nhanh nhẹn nhứt của địch quân mà tôi mới thấy lần đầu. Và tôi đã lọt vô bẩy. Mười lăm chiến đấu cơ địch lần lượt điền vào vòng xoay. Giây phút kế đó, tôi nhận thấy mình đang xoay chính giữa một sợi dây không lồ do mười chiếc Hellcat tạo thành. Bất cứ phía nào tôi cũng đều thấy những cái cánh rộng lớn với những ngôi sao màu trắng. Nếu có một viên phi công nào bị vây trên trời, viên phi công ấy chính là tôi.
Tôi có rất ít thì giờ để suy ngẫm về sự bất hạnh của mình. Bốn chiếc Hellcat phá vỡ vòng xoay đâm chúi vô tôi. Chúng quá nôn nóng. Tôi lăn tròn và thoát dễ dàng.
Nhưng tôi đã phơi lưng cho nhiều chiến đấu cơ khác. Một nhóm bốn chiếc thứ nhì tách ra khỏi vòng vây, ngay phía sau tôi.
Tôi chạy! Gia tăng hết tốc lực để thoát ra khỏi tầm súng đối phương. Tôi hành động kịp lúc. Bốn chiến đấu cơ đầu tiên, sau khi chúi xuống vồ hụt tôi, đang vượt lên để tiếp tục vồ nữa.
Tôi ấm chân phải lên bàn đạp bẻ lái, đảo chiếc Zero sang trái. Kế đó là cần điều khiển, gạt sang bên trái, lăn tròn nhiều vòng. Những tia đạn loé sáng dưới cánh phải tôi, tiếp liền theo một chiếc Hellcat bay vượt qua.
Tôi giải toả cú lộn nhào bằng cách xoay một vòng thật ngặt. Một chiếc Hellcat khác ở cách phía sau tôi 700 thước, mọi họng súng hai bên cánh đều rực lửa. Một điều tôi chưa biết trước đó, bây giờ tôi đã biết. Những tên phi công địch còn tệ hơn mấy tên phi công thiếu kinh nghiệm của tôi ... và điều nầy có thể là yếu tố cứu mạng sống của tôi.
Chiếc Hellcat cứ tiến sát mãi, vừa bay vừa rãi đạn như mưa, nhưng cách phi cơ tôi quá xa. Tôi xoay hướng một lần nữa và vẫn chạy dài. Chiếc Hellcat tiến sát nhanh chóng. Khi chiếc phi cơ còn cách phía sau tôi 300 thước, tôi lăn về phía trái. Chiếc Hellcat vượt ngang phía dưới tôi, vẫn khai hoả trong không khí.
Tôi đã mất phong độ. Tại sao lại chạy dài trước một tên phi công vụng về như vậy. Không suy nghĩ, tôi lăn trở lại và ở sau đuôi hắn. Từ khoảng cách 50 thước, tôi rót vội một viên đại bác.
Phí đạn. Ngay lúc ấy một chiếc Hellcat khác đã đến sau đuôi tôi và đang khai hoả. Một lần nữa, tôi lăn về phía trái, cách nầy thì tôi không bao giờ thất bại. Chiếc Hellcat vượt qua , tiếp theo đó là hai chiếc khác.
Một nhóm bốn chiếc nữa hầu như ở ngay trên đầu tôi sẵn sàng nhào xuống. Thỉnh thoảng, bạn cũng nên tấn công để tự vệ chớ! Tôi vượt thẳng đứng lên, ngay phía dưới bốn chiếc chiến đấu cơ. Mấy tên phi công lắc cánh qua lại cố tìm tôi. Tôi không có thì giờ để phá rầy họ. Ba chiếc Hellcat khác đâm thẳng vô tôi từ bên phải. Tôi né tránh những làn đạn thổi tới, bằng cách lăn về phải và chỉ thoát trong đường tơ kẻ tóc.
Mười lăm chiến đấu cơ lập vòng vây trở lại. Bất kì âm mưu thoát thân nào của tôi cũng đều đưa lưng cho nhiều chiếc Hellcat cắt ngang từ nhiều hướng khác nhau. Tôi xoay vòng chính giữa, suy nghĩ tìm lối thoát.
Đối phương không cho phép tôi suy nghĩ. Các chiến đấu cơ tách ra khỏi vòng vây, hết chiếc nầy đến chiếc khác, vừa lướt đến tôi vừa khai hoả.
Tôi không nhớ đã bị tấn công mấy lần mà cũng không nhớ mình đã lăn tròn bao nhiêu vòng. Mồ hôi đẫm ướt thân tôi, thấm ướt cả áo lót. Mồ hôi cũng đọng thành hột trên trán tôi và bắt đầu lăn dài xuống mặt. Tôi chửi thề khi mắt trái tôi xót xa như muối xát. Tôi không có thì giờ để đưa tay lên dụi. Tôi mệt nhoài, không biết làm sao thoát khỏi vòng vây. Nhưng rõ ràng mấy tên phi công nầy không tốt hơn phi cơ của họ. Một tiếng nói vang lên trong đầu tôi, lập đi lập lại ... tốc lực ... gia tăng tốc lực ... cứ lăn tròn ... lăn tròn không ngừng nghỉ.
Cánh tay phải tôi bắt đầu tê cứng khi giữ cho chiếc phi cơ lăn liên hồi về phía trái để tránh những làn đạn địch. Nếu tôi gượng lại, không lăn nữa, mạng tôi đi đời tức khắc. Nhưng tôi có thể lăn như thế nầy bao lâu ?
Tôi phải lăn tròn! Bao lâu mà mấy chiếc Hellcat còn giữ nguyên vòng vây, chúng chỉ có thể nhảy xổ vô tôi từng chiếc một. Né tránh đạn của chỉ một chiếc thì tôi không sợ. Tầm gần, nhưng ít ra nó phải nhắm trúng tôi cái đã. Những viên đạn được bắn ra từ khoảng cách một trăm thước tôi có thể né tránh dễ dàng.
Tôi chỉ cần giữ khoảng cách với mấy chiến đấu cơ địch, lúc ấy đang lần lượt từng chiếc một tách khỏi vòng vây, vừa chúi xuống vừa khai hoả vô tôi.
Tôi lăn tròn. Gia tăng hết tốc lực.
Gạt cần điều khiển qua trái. Lăn tròn liên tục. Mặt biển và chân trời xoay tít. Những tia đạn loé sáng, bùng nổ. Luôn luôn dưới cánh tôi. Gia tăng tốc lực. Lăn qua trái. Lăn nữa. Cánh tay của tôi! Tôi không còn nghe một cảm giác nào cả.
Nếu có một viên phi công Hellcat nào chọn một hướng tấn công khác hoặc tập trung đường nhắm cẩn thận trên mục tiêu, chắc chắn tôi không còn ở trên không. Bọn họ chỉ giữ nguyên lối tấn công cũ, rượt theo vòng lăn của tôi, tôi cũng lãnh đủ.
Bọn phi công kì lạ. Ngoại trừ một vài viên phi công đại tài, hầu như 99 phần trăm phi công địch giữ nguyên công thức mà họ đã được dại trong trường. Họ được dạy như thế nào họ làm theo như thế đó, không bao giờ suy xét để thích ứng với tình thế cấp thời khi chiến đấu, nơi mà giữa sống và chết chỉ cách nhau trong đường tơ kẻ tóc.
Do đó, cuộc thử thách nầu là cuộc thử thách chịu đựng giữa cánh tay của tôi, và khả năng xăng nhớt của chiến đấu cơ Hellcat. Những chiếc phi cơ nầy vẫn còn phải bay về các hàng không mẫu hạm.
Tôi liếc nhìn đồng hồ đo tốc độ. Gần 350 dặm một giờ. Đó là tốc độ mà một chiếc Zero có thể đạt được dễ dàng.
Cánh tôi cần chịu đựng thêm nữa. Chiến đấu cơ Zero cũng cần có giới hạn của nó. Tôi ngại đôi cánh. Chúng đang oằn xuống dưới các vòng lăn tròn tránh né liên tục và dữ dội, có thể gảy rời ra khỏi chiếc phi cơ. Nhưng việc nầy nằm ngoài tầm tay đối phó của tôi. Tôi chỉ có thể tiếp tục bay. Tôi bắt buộc phải lăn tròn để tránh né hoặc chết.
Lăn tròn. Lăn tròn. Tôi không nghe gì hết. Tiếng động cơ của chiếc Zero, tiếng gầm thét của mười lăm chiếc Hellcat, tiếng rít của đạn đại liên 50 ly, tất cả đều biến mất.
Mắt trái tôi đau nhức. Mồ hôi đổ như tắm. Tôi không thể đưa tay lên lau. "Bỏ hết". Gạt cần điều khiển. Đá bàn đạp lái. Né đạn địch.
Máy tính độ cao xuống tận cùng. Đại dương ở ngay phía dưới phi cơ của tôi. Hiện thời tôi không thể nào dời đổi độ thấp hơn nữa. Các chiếc Hellcat không thể chúi xuống vì phía dưới là mặt biển. Nhưng chúng sẽ tìm ra một cách khác. Tôi chỉ có một vài giây. Tôi nắm chặt cần điều khiển với tay trái, gạt về phải thật mạnh. Đau đớn cùng khắp. Đau đớn đến tê liệt. Tôi đảo về trái.
Những vệt đạn rót xuống. Những tia nước bắn lên từ mặt biển, trãi ra và sủi bọt. Bao giờ đối thủ bỏ cuộc? Chiến đấu cơ Hellcat cũng phải hết xăng chớ! Nhưng tôi không thể nào lăn tròn một cách hiệu quả mãi. Hai tay tôi dần dần tê liệt. Tôi đang mất cảm giác.
Phân nữa số phi cơ địch tạo thành một chướng ngại vật trên đầu tôi, trong khi những chiếc khác lướt đến, tập trung hoả lực vào tôi. Loại chiến đấu cơ Hellcat quá nhanh. Trong vòng một vài giây, phi cơ của tôi đã nằm trong tầm súng. Tôi lăn tròn sang phải , chiếc Zero lay động dữ dội qua mỗi lần lăn tròn, bỏ lại những tia nước sủi bọt trên mặt biển do đạn địch tạo ra.
Đối phương không chịu bỏ cuộc. Bây giờ các chiến đấu cơ địch đang chúi xuống chận đầu tôi trong khi những chiếc còn lại khai hoả. Không có lối thoát. Nếu tôi cứ tiếp tục bay thấp thì cái chết chỉ còn là vấn đề của phút giây. Tại sao chờ chết trong sự trốn chạy như một tên hèn nhát?
Tôi kéo cần điều khiển ngược lại, hai tay hầu như sát vô bụng. Chiếc Zero giật nẩy và vượt lên, phía trước tôi là một chiếc Hellcat , chỉ cách 100 thước với tên phi công kinh hoảng của nó. Chiếc phi cơ đảo thật mau để né tránh. Tôi ấn cò súng. Chiếc Hellcat lăn tròn, vượt lên và bay mất.
Những chiếc Hellcat khác rối loạn. Tôi vượt lên và chạy nữa. Mấy tên phi công ngu ngốc rượt theo và khai hoả từ khoảng cách 500 thước. Phí đạn vô ích, phí đạn vô ích, tôi thét lên. Nhưng, bọn nầy nhanh quá đổi! Những tia đạn loé sáng bên cánh tôi, và tôi lại lăn tròn một cách tuyệt vọng.
Xuống thấp nữa, Iwo thình lình xuất hiện ở phía dưới. Tôi lắc đôi cánh, hy vọng các xạ thủ dưới mặt đất nhìn thấy những dấu hiệu màu đỏ kẻ trên cánh phi cơ. Đó là một sai lầm, hành động nầy khiến tôi chậm lại, và những chiếc Hellcat đã ở ngay phía trên tôi.
Súng cao xạ ở đâu? Bắn đi, lũ ngu xuẩn, bắn đi!
Iwo nổi lửa. Những tia đạn chớp loé khắp hòn đảo. Mọi loại súng đều khai hoả. Tiếng nổ làm rung chuyển chiếc Zero. Những bựng khói do đạn cao xạ tạo ra xuất hiện trên không, giữa các chiếc Hellcat. Đối phương quay lại thật mau và chúi xuống để thoát khỏi tầm súng.
Tôi vẫn duy trì tốc độ tối đa. Tôi đang sợ hãi. Tôi cứ nhìn về phía sau sợ đối phương quay lại, sợ những tia đạn từ dưới đất rót vô phòng lái, xuyên thủng thân phi cơ, ghim vô thân tôi.
Tôi lướt ngang qua Iwo, ấn mạnh ga, thúc giục chiếc phi cơ bay mau hơn. Mau hơn, mau hơn! Phía Nam Iwo xuất hiện ở chân trời... ở đó có một đám mây! Một đám mây dày đặc chồng chất nhiều lớp vĩ đại, bay là đà trên mặt nước. Tôi bất cần lưu ý đến sự vận chuyển của không khí. Tôi chỉ muốn thoát thân. Với hết tốc lực , tôi chui vô đám mây.
Hình như có một bàn tay khổng lồ tóm lấy chiếc Zero và đu đưa nó qua lại một cách dữ dội. Tôi thấy gì khác hơn là những màu tím thẫm chợt loé chợt tắt. Tôi đã mất kiểm soát. Chiếc Zero chúi nhũi và giựt lại, liên tục. Thế rồi tôi qua khỏi đám mây, nhưng cơn bão bên trong đám mây quay chiếc Zero ra ngoài khiến nó lảo đảo dữ dội. Tôi ngã sấp về phía trước. Sau đó, tôi lấy lại cao độ khoảng 16.000 bộ. Xa về phía Nam, tôi nhìn thấy thấp thoáng bóng dáng 15 chiếc Hellcat. Chúng đang bay về các hàng không mẫu hạm. Khó thể tin rằng mối hiểm nguy đã vượt qua, và tôi vẫn còn sống sót. Tôi muốn rời khỏi không trung lập tức. Tôi muốn được đứng trên mặt đất cứng rắn phía dưới.
Tôi đáp xuống phi đạo chánh của Iwo. Tôi ngồi trong phòng lái một vài phút, sức cùng lực kiệt, sau đó leo xuống chiếc phi cơ một cách mệt nhọc. Tất cả các chiến đấu cơ khác đã đáp xuống từ lâu. Một đám phi công và thợ máy chạy ùa ra phi cơ của tôi, la lên vui mừng. Nakajima cũng có mặt. Ông ôm choàng lấy tôi, la lớn với nỗi hân hoan. " Anh mới làm nổi việc đó, Sakai. Một chống mười lăm... anh quả thật phi thường!" Tôi chỉ có thể tựa vô chiếc phi cơ và miệng càu nhàu nguyền rủa con mắt đui mù của mình. Mạng sống của tôi suýt đi đời vì nó.
Một cơ khí viên chạy đến tôi, chào và nói: " Thưa Chuẩn úy, phi cơ của chuẩn uý. Nó ... nó không... tôi không thể tin nỗi ... nó không có một vết đạn nào cả!"
Tôi cũng không thể tin nỗi. Tôi xem xét lại chiếc phi cơ từ đầu đến cuối. Tên cơ khí viên nói đúng. Không có một viên đạn nào trúng phi cơ của tôi.
Sau đó, tôi trở về doanh trại, tôi biết được nhóm chiến đấu cơ Zero đầu tiên, bay phía trên các đám mây, đã đánh nhau với đối phương một cách dễ dàng hơn nhóm của tôi. Nhóm Zero nầy đã có được ưu thế từ trên cao bổ nhào xuống, khiến bọn phi công Hoa Kỳ trở tay không kịp. Trung sỹ Kinsuke Muto, ngôi sao sáng của phi đoàn Yokosuka, đã hạ một lúc bốn chiếc Hellcat. Các phi công khác cũng ghi điểm chiến thắng. Nhưng đổi lại, gần 40 hầu như phân nữa tổng số chiến đấu cơ của chúng tôi bị bắn rơi.
CHƯƠNG XX
Ngày hôm sau, tôi bị bịnh tháo dạ trầm trọng. Tình trạng thể xác như vậy, tình trạng tinh thần của tôi cũng không hơn gì. Mất bốn mươi phi cơ vừa phi công chỉ trong một phi vụ khiến tôi choáng váng. Cuộc chiến đã xoay đủ một vòng của nó rồi.
Cơn bịnh tháo dạ đã tàn phá năng lực của tôi và đè bẹp tôi trên giường một tuần lễ. Sức khoẻ của tôi phục hồi chậm chạp.
Buổi chiều ngày 2 tháng Bảy, niềm phấn khởi lan tràn khắp doanh trại. Các liên lạc viên chạy lui chạy tới từ phòng truyền tin đến Bộ chỉ huy. Tôi chận một người để hỏi và được biết các hiệu thính viên của chúng tôi vừa chặn bắt được một số công điện chuyển đi tới tấp của đối phương. Mặc dù đa số đều được mã hoá, không thể nào đoán giải nổi, nhưng chúng tôi cũng biết những công điện nầy đã được chuyển đi từ các đơn vị địch không xa hòn đảo mấy.
Một cuộc tấn công sắp xảy ra. Điều nầy rõ rệt, và sẽ xảy ra rất sớm. Tất cả phi công trình diện Bộ chỉ huy để nhận lịnh. Tôi không được phép bay. Vị chỉ huy trưởng cảm thấy tôi còn yếu sức, khó thể nắm vững chiếc chiến đấu cơ của mình.
Sáng hôm sau, tất cả phi công ra sân bay vào lúc bốn giờ. Nhiều trinh sát cơ cất cánh tức khắc để dò tìm tung tích địch quân trên đại dương. Không có việc gì xảy ra trong suốt giờ kế đó. Tôi trở về phòng để ngủ thêm. Vào lúc sáu giờ, tiếng tù và nổi lên, phá tan sự yên tĩnh của hòn đảo, cho biết một cuộc tấn công của địch quân sắp xảy ra. Binh sỹ chạy ngang qua sân bay để đến các ụ súng, và bốn mươi chiến đấu cơ lướt ra các phi đạo để cất cánh nghinh chiến. Tôi bước ra sân bên ngoài doanh trại để coi diễn tiến.
Xa về phía Nam, có ít nhất 50 phi cơ xuất hiện, hướng thẳng về phía chúng tôi. Hellcat. Bốn mươi chiến đấu cơ Nhựt đang bay quần trên đầu, đã đổi hướng để mặt đâu mặt với các chiến đấu cơ địch.
Tôi chỉ nhìn trận không chiến dữ dội được một vài phút, tai tôi bỗng nghe một âm thanh khác ... những chiếc phi cơ đang chúi xuống. Tôi quay đầu và nhìn thấy một phi đội oanh tạc cơ Avenger, chia làm bốn loạt, lướt xuống phi đạo chánh. Cuộc tấn công của phi đội nầy thật đúng lúc, bốn mươi chiến đấu cơ của chúng tôi đã bị nhóm Hellcat lôi vào trận đánh nhường lại hòn đảo hoàn toàn trống trãi cho các oanh tạc cơ.
Khi tôi quay đầu chạy vô doanh trại, bom rớt nổ làm rung chuyển mặt đất dưới chân tôi. Tôi ngã chúi xuống, vùi mặt vô tro than của núi lửa. Tôi cố gắng trườn đi nhừam tránh xa những mảnh bom rít vang trong không khí. Tiếng nổ liên tục cả mấy phút. Các oanh tạc cơ lướt về phía Nam.
Tôi đứng dậy, nhìn những cột khói và bụi bốc mọc lên trên sân bay. Một cuộc oanh tạc khác. Một phi đội Avenger thứ nhì lướt xuyên qua các cột khói dày đặc, chúi thẳng xuống sân bay. Các oanh tạc cơ hầu như ở ngay trên đầu tôi. Tôi quay mình và chạy bán sống bán chết , phi thân vô phía sau một hồ chứa nước mưa vĩ đại, nằm đằng sau doanh trại. Cùng lúc đó, tôi nhìn thấy những trái bom rớt ra từ bụng oanh tạc cơ... Tôi nhìn trừng trừng như bị thôi miên... những trái bom lớn dần, phồng lên như chớp, chúi xuống mặt đất. Miệng tôi đầy bụi.
Những tiếng nổ vang dội đập vô đôi tai tôi. Tôi mở mắt, chỉ thấy đất cát và khói bốc cao khỏi mặt đất. Tôi không bị một thương tích nào, ngoại trừ mấy chổ xây xát lúc ngã chúi xuống. Thính giác tôi phục hồi dần dần. Tôi nghe tiếng răng rắc của dãy doanh trại đang sụp đổ, và vừa thét lên vừa vội vã thoát thân khi hồ chứa nước nghiêng qua một bên.
Trận không chiến vẫn còn tiếp tục. Tôi lắng nghe tiếng động cơ máy bay, tiếng đại bác, tiếng đại liên vang rền. Tôi chạy đến Bộ chỉ huy, nhưng khựng lại và vọt vô một hầm trú ẩn khi nhìn thấy đợt oanh tạc cơ thứ ba đang lướt xuống. Lần nầy đối phương nhắm hơi yếu. Bom rớt hết phía bên kia phi đạo. Tôi chạy đến Bộ chỉ huy, một căn lều vải, vẫn còn nguyên vẹn. Gặp Nakajima, tôi nói với ông rằng tôi muốn bay. " Tất cả phi cơ khả dụng đều rời khỏi mặt đất hết rồi, Sakai", ông đáp một cách rầu rĩ.
Tôi chỉ một chiếc Zero đang đậu ở cuối phi đạo. "Máy nó hư rồi!". Vị chỉ huy nói. " Nhưng bây giờ có lẽ xử dụng được. Bọn thợ máy đã sửa chữa mấy giờ trước đây." Ông nhìn lên. " Được, cứ đi!"
Tôi vội vã chào và chạy ra khỏi lều vải. "Sakai!" Nakajima gọi, tôi quay lại. "Hãy thận trọng, Sakai. Bây giờ không phải như ở Lae ... hãy thận trọng!."
Nhưng, khi tôi cất cánh, trận chiến đã kết thúc. Những chiếc Hellcat rời khỏi nhóm chiến đấu Zero để hộ tống các phi đội oanh tạc cơ trở về. Tôi không thể làm gì hơn là quay về phi trường Iwo với những chiếc Zero còn lại.
Tổng số chiến đấu cơ Nhựt cất cánh nghinh chiến với chiến đấu cơ Hoa Kỳ đã bị bắn rơi một nữa. Hai mươi chiếc. Trong hai trận đánh, đối phương dã hạ tất cả 60 chiếc trong tổng số 80 chiếc chiến đấu cơ Zero của chúng tôi. Một con số không thể tin nỗi.
Người Mỹ chưa chán chúng tôi. Một lần nữa, tất cả chiến đấu cơ còn lại trên đảo cất cánh. Kết quả tồi tệ hơn dự tính của chúng tôi. Chỉ còn 9 chiếc Zero trở về để đáp xuống Iwo.
Lần nầy cuộc tấn công của đối phương cũng lập lại y như lần trước. Các cơ sở tan nát, phi đạo đầy dấu bom. Chỉ còn lại 8 oanh tạc cơ được hầm trú ẩn bao che. Hầu hết oanh tạc cơ và chiến đấu cơ khác đang được sửa chữa hoặc dấu trong hầm trú ẩn đều bị hủy diệt.
Sau khi đáp xuống, chúng tôi bước nặng nhọc đến Bộ chỉ huy. Không ai còn nghị lực và tinh thần để bàn tán. Chúng tôi lê thân trên mặt đất, mệt mõi và tuyệt vọng, đưa mắt nhìn binh sỹ chạy tới chạu lui trên phi đạo cố gắng lấp những lổ bom, dập tắt lửa đang còn hoành hoành trên mất ngôi nhà gần đó.
Mấy phút sau, trung tá Nakajima chậm rãi bước vô Bộ chỉ huy. Chúng tôi đứng nghiêm. Nakajima khoát tay, biểu chúng tôi ngồi xuống. Ông có vẻ khích động, giọng nói nhỏ và do dự. Ông nói với chúng tôi rằng các sỹ quan tham mưu đã thảo luận suốt đêm, và tất cả đều đồng ý với phương cách chống lại người Mỹ mà chúng tôi sẽ phải thực hiện trong tương lai. Một nhóm sỹ quan nhấn mạnh rằng nếu chúng tôi cứ tiếp tục ngăn chặn các cuộc tấn công của đối phương, một vài ngày nữa chúng tôi sẽ không còn một chiếc máy bay nào. Do đó, chỉ còn một hành động duy nhứtmà chúng tôi phải làm là dốc toàn lực đánh trả đối phương. Một trong những trinh sát cơ của chúng tôi đã phát hiện một lực lượng đặc nhiệm Hoa Kỳ cách phía Đông Nam của hòn đảo 450 dặm, và chúng tôi có thể tấn công lực lượng nầy.
Nhóm sỹ quan tham mưu thứ nhì đồng ý kế hoạch tấn công trên nguyên tắc. "Nhưng" họ lý luận, "chỉ với 9 chiến đấu cơ và 8 oanh tạc cơ một máy, chúng ta có thể nào chống lại lực lượng đặc nhiệm của đối phương hay không? Các hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ có thể tung hàng nhiều trăm phi cơ nghinh chiến cùng một lúc!" Nên biết lực lượng mà chúng tôi tấn công là lực lượng đã quát sạch tất cả các phi cơ thuộc các hàng không mẫu hạm Nhựt ở quần đảo Mariana vào ngày 20 tháng Sáu.
Cuộc thảo luận, Nakajima nói, cuối cùng đã đưa ra kết luận khi chỉ huy căn cứ Iwo, đại tá Kanzo Miura, chấp nhận kế hoạch đánh trả hạm đội Hoa Kỳ. Miura định ngày phát xuất của chúng tôi là trưa ngày 4 tháng Bảy, đúng ngày lễ kỷ niệm Độc Lập của Hoa Kỳ.
Chúng tôi không bao giờ thực hiện được kế hoạch dự trù. Các phi công Hoa Kỳ đã hung hăng trở lại Iwo vào sáng ngày 4 và xé nát các cơ sở của hòn đảo thành manh múm. Chúng tôi không sao cất cánh nổi. Các phi đạo đều tê liệt. Sau cuộc không kích chúng tôi ngồi quanh Bộ chỉ huy, trong khi các sỹ quan tham mưu thảo luận bên trong. Đại tá Miura ( sau nầy chúng tôi biết được vẫn không thay đổi kế hoạch). " Chúng ta đang kiệt quệ dần," ông nói với Bộ tham mưu của ông, " sự kết thúc đã nhìn thấy rõ rệt nếu chúng ta cứ tiếp tục nằm trong thế thủ. Chúng ta sẽ làm gì? Ngồi đây để nhìn chiếc phi cơ cuối cùng bị bắn rơi trong khi hạm đội của đối phương vẫn còn nguyên vẹn? Không! Chúng ta sẽ tấn công, ngay hôm nay! Ngay khi các phi đạo được sữa chữa, tôi muốn tất cả các phi cơ rời khỏi mặt đất."
Trung tá Nakajima đã kể lại chi tiết của buổi họp cho chúng tôi nghe. Ông kết luận: "Tôi ý thức nhiệm vụ mà chúng ta sắp thực hiện. Không có cách nào khác hơn: các bạn sẽ bay để chết. Nhưng," tới đây ông do dự, " quyết định đã được đưa ra. Các bạn sẽ phải đi."
Ông nhìn đôi mắt cỉa mỗi người. " Và có lẽ may mắn vẫn theo một bên các bạn."
Vị trung tá rút ra một tờ giấy trong túi áo và đọc tên những phi công được chọn để thực hiện phi vụ nầy, một phi vụ không có lượt về, hình như vậy.
Không hề có một sự phấn khởi nào được nhìn thấy giữa nhóm phi công. Mỗi người nghe đọc tên đã đứng dậy và đưa tay chào. Tên tôi đứng hàng thứ chín trong sanh sách. Tôi sẽ cầm đầu nhóm phi cơ thứ nhứt, gồm 9 chiến đấu cơ Zero. Muto, phi công ưu tú của không đoàn, cầm đầu nhóm thứ hai. Nakajima chỉ định một vị đại úy cầm đầu cả phi đội.
Nakajima bước đến tôi, "hiển nhiên là không mấy vui vẽ". Ông đặt tay lên vai tôi. " Tôi rất buồn phải để anh đi hôm nay, người bạn thân lâu năm của tôi.". Ông ấp úng nói. " Nhưng, tôi không thể nào làm khác hơn, Sakai ... Tôi ... chúc anh gặp may mắn." Tôi lặng thinh. Tôi đưa tay ra. Chúng tôi nắm lấy tay nhau trong lặng yên, rồi Nakajima quay lưng và bước đi.
Chúng tôi giải tán, không ai nói tiếng nào. Các phi công được chọn thực hiện nhiệm vụ bỏ lại hết các vật dụng tuỳ thân. Tôi nhìn một vài thứ mà tôi mang theo đến Iwo. Những vật dụng để lại nầy sẽ được gởi về cho gia đình. Má tôi sẽ phản ứng ra sao khi người ta trao cho bà những thứ nầy và kể cho bà nghe câu chuyện đã xảy ra?
Thì giờ trôi qua quá mau. Thật mĩa mai, tôi nghĩ, chỉ một đôi ngày trước đây, tôi giành giựt mạng sống với 15 chiếc Hellcat.
Muto bước vô căn lều của tôi và hỏi tôi có ý kiến gì về nhiệm vụ nầy không. Tôi nhìn hắn hồi lâu. " Muto, tôi... tôi không biết. Ý kiến gì? Có ý kiến nào tôi đâu. Khi chúng ta bay đến chiến hạm địch vào trưa nay, chiến đấu cơ địch sẽ bu lấy chúng ta. Tất cả những gì mà tôi có thể nói là ... chúng ta đã nhận lịnh. Chúng ta sẽ đi. Chỉ có thế thôi."
Tôi cảm thấy buồn cho viên phi công trẻ tuổi nầy. Cá nhân tôi không còn lợi ích mấy cho xứ sở nữa. Những khó khăn mà tôi đã trãi qua trong việc né tránh bọn phi công Mỹ thiếu kinh nghiệm, cho tôi sự xác tín rằng đời sống nửa đui nửa sáng của tôi có kéo dài cũng chỉ kéo dài một ngày một bửa. Nhưng Muto ... hắn là sự phối họp của Nishizawa, Ota và Sasai. Một phi công tài ba sáng chói. Hắn không thuộc lớp người của chúng tôi. Quẳng hắn vô một nhiệm vụ vô vọng như thế này quả là ngu xuẩn. Hắn có thể làm hơn nữa trong việc bảo vệ xứ sở. Và hiện thời ... hoang phí biết bao.
Dĩ nhiên Muto không biết tôi đang suy nghĩ gì. Hắn cười sau lời nói của tôi. "Đúng lắm, Sakai. Tôi biết. Nếu Thượng Đế vui vẽ..." hắn nhún vai. " Nói cách khác, xin Thượng Đế hãy để cho chúng ta ít ra là được chết chung với nhau, như những người bạn."
Một giờ sau, tất cả các phi công được chọn lựa thực hiện nhiệm vụ tấn công xếp hàng ngay ngắn trước Bộ chỉ huy. Phía sau căn lều, là một cây cột cao có treo một lá cờ đuôi nheo màu trắng rộng lớn. Trên nền trắng của lá cờ có kẻ một hàng chữ cổ: " Namu Ha****an Daibosatsu". Có nghĩa là: " Chúng tôi tin tưởng vào vị thần Chiến Trang quảng đại.". Đây là lá cờ phỏng theo hiệu kỳ của một chiến tướng Nhựt ở thế kỷ 16, trong thời kỳ xảy ra hàng loạt nội chiến liên tục khiến cho nước Nhựt rối loạn cùng cực.
Khi còn ở Lae, chúng tôi không bao giờ chống đở tinh thần bằng những "cây nạn" tâm lý như thế nầy. Đối với tôi, sự phô trương có vẻ kinh tởm nầy là dấy hiệu của sự yếu đuối, không có ý nghĩa gì khác hơn. Nó chứng tỏ đầu óc thoái hoá của các sỹ quan chúng tôi, những kẻ cố làm nổi bật họ lên bằng ánh lửa và sự dũng mãnh của những thời xa xưa, thời mà hầu hết các cuộc chiến đều được quyết định bởi tài ba và lòng dũng cảm cá nhân.
Nhưng đó chỉ là thời xa xưa. Tôi không phải là một sỹ quan tham mưu, tôi không tham dự vào bất kì việc soạn thảo kế hoạch mặt trận nào, tôi cũng không phải là một chiến lược gia tập sự, nhưng tôi biết chắc chắn những gì mà các sỹ quan của tôi đang làm không còn phù hợp nữa. Các sỹ quan của chúng tôi đang làm công việc của một loại phù thủy mới. Họ khua chiêng đánh trống để cổ vỏ lòng yêu nước, để cố thuyết phục không chỉ riêng thuộc cấp mà còn chính họ nữa. Điều nầy giống như chúng tôi bù đắp những thiệt hại khủng khiếp bằng cách phô trương và đe doạ: "bọn Mỹ khốn nạn".
Tại sao những người nầy lại từ chối công nhận sự thật? Làm cách nào để họ ý thức rằng loại chiến đấu cơ Zero của chúng tôi, mà từ lâu họ đinh ninh là tốt nhứt thế giới, bấy giờ lỗi thời về mọi phương diện so với loại chiến đấu cơ Hellcat, cũng như nhiều loại phi cơ mới khác của đối phương mà tôi chưa thấy qua.
Tôi nhìn lá cờ. Nó hiện diện ở đó biết bao ngày rồi, nhưng hôm nay, lần đầu tiên, tôi mới thực sự nhìn thấy nó. Có thể nào chúng tôi đặt niềm tin của mình vào một vật tượng trưng sức mạnh siêu phàm nầy? Nó giúp chúng tôi gặt hái chiến thắng? Nó sẽ chận đứng những tia đạn do mấy chiếc Hellcat bắn ra?
Là một phi công chiến đấu, tôi nhận thấy tốt hơn hết là tin vào sức mạnh và sự khéo léo của chính mình để thoát khỏi cái chết chỉ xảy ra trong đường tơ kẻ tóc. Tôi chỉ có thể tin vào các phi công bên cánh của tôi, và nhận sự hổ trợ của các đồng đội khác. Nếu tôi lâm trận bằng cách chỉ la lớn những câu cổ lổ ấy, tôi đã chết mục xương từ lâu rồi.
Nhưng tất cả đã biến đổi ở hiện tại. Sự khéo léo, tài ba đã từng cứu tôi nhiều lần trở thành vô nghĩa... Không một người nào trong số 17 phi công đang đứng nghiêm trước Bộ chỉ huy có được một mảy may hy vọng nào nhìn thấy lại bạn bè.
Tôi yêu xứ sở của tôi tha thiết, và tôi sẽ không bao giờ ngần ngại một phút giây nào khi phải đổi mạng sống để bảo vệ quê hương. Nhưng giữa việc bảo vệ quê hương đến hơi thở cuối cùng và việc hoang phí mạng sống khác nhau xa lắm.
" Namu Ami Dabutsu!", " Nam Mô A Di Đà Phật". Đó là lời thì thầm của những người hấp hối để tìm sự khuây khoả và yên ổn tâm hồn khi sắp ra đi. Tôi tin vào nước Nhựt, tôi không tin cái gọi là vị thần chiến tranh khoan dung, quảng đại. Tôi muốn chết cho xứ sở của tôi nhưng chỉ chết với niềm tin của mình, truyền thống Samurai, như là một con người, như là một chiến sĩ.
Sự suy tư đã xoa dịu nổi tức giận trong lòng tôi. Và vào lúc địa tá Miura bước ra khỏi căn lều, tôi hoàn toàn thoải mái. Vị đại tá leo lên một cái bục xếp bằng những thùng đựng bia. Chầm chậm, ông nhìn khắp lượt, có vẻ buồn bã, như nhìn mặt chúng tôi lần cuối cùng.
" Các bạn sẽ đánh trả đối phương," ông cất tiếng, " Những trận đánh tự vệ chấm dứt từ đây trở về sau. Các bạn là những phi công chọn lọc của phi đoàn Yokosuka, những phi công danh tiếng nhứt của Nhật Bản. Tôi tin rằng hàng động của các bạn hôm nay sẽ gây thêm tên tuổi và truyền thống vẻ vang của không đoàn."
Ông lưỡng lự một lúc. " Để cho danh dự vốn sẵn có của các bạn trở nên bất diệt, các bạn phải chấp nhận nhiệm vụ mà sĩ quan chỉ huy của các bạn đã giao phó cho các bạn. Các bạn không thể, tôi lập lại, các bạn không thể hy vọng tồn tại. Trong đầu óc của các bạn chỉ có hai tiếng "tấn công". Hôm nay, các bạn sẽ đâu mặt với một lực lượng địch được bảo vệ, dĩ nhiên hàng nhiều trăm chiến đấu cơ .
" Do đó, tấn công cá nhân phải được quên đi. Các bạn không thể tấn công vô các mục tiêu từng người một. Các bạn phải luôn luôn kết hợp thành một nhóm duy nhứt. Các bạn phải đánh mở đường xuyên qua những phi cơ nghinh chiến của địch quân và..." Đại tá Miura đứng thật thẳng. " Các bạn phải chúi xuống các hàng không mẫu hạm của địch quân cùng một lúc. Chúi xuống, cùng với thủy lôi, đời sống và linh hồn của các bạn."
Tại tôi lùng bùng. Ông ta đang nói gì? Tôi có nghe đúng không? "... một cuộc tấn công thông thường sẽ là vô ích. Ngay nếu các bạn thành công trong việc thoát khỏi màn lưới chiến đấu cơ của Hoa Kỳ, các bạn cũng sẽ bị bắn rơi trên đường trở về hòn đảo nầy. Cái chết của các bạn không lợi ích gì cho xứ sở. Đời sống của các bạn sẽ bị hoang phí đi. Chúng ta không thể cho phép việc nầy xảy ra."
Tiếng nói của ông là chúng tôi chấn động. " Khi tiến đến mục tiêu, các phi công chiến đấu cơ sẽ né tránh đánh nhau với phi cơ địch. Không có phi công oanh tạc phóng thủy lôi của họ từ trên không xuống. Những gì xảy ra không cần biết, các bạn cứ giữ phi cơ của các bạn chung nhóm. Cánh sát cánh! Không một trở ngại nào có thể chận đứng các bạn thi hành nhiệm vụ. Các bạn phải làm sao bổ nhào xuống cùng lúc, để gặt hái sự hữu hiệu. Tôi biết những gì mà tôi nói với các bạn không phải dễ làm, nếu không nói là khó thể làm được. Nhưng tôi tin các bạn có thể làm được, và các bạn sẽ phải làm. Đó là, mọi người trong các bạn, cùng chúi xuống một hàng không mẫu hạm địch và đánh chìm nó."
Ông ta nhìn chúng tôi một lát rồi nói mau. " Các bạn đã nhận lịnh xong."
Tôi đứng như trời trồng! Trước đây, chúng tôi đã từng được giao phó những nhiệm vụ ít có cơ may sống sót để trở về. Nhưng ít ra tôi có cơ hội tranh đấu cho sự sống còn của mình! Rõ ràng, đây là lần đầu tiên, một phi công Nhựt nhận được lịnh tạo ra một cuộc tấn công tự sát.
Trong hải quân của chúng tôi đã có một qui luật bất thành văn. Theo đó, viên phi công có thể bổ nhào xuống một chiến hạm địch một khi chiếc phi cơ của hắn què quặt trên biển cả bao la, không thể nào trở về căn cứ được. Không chỉ có phi công Nhựt, nhưng phi công Hoa Kỳ, Anh, Đức ... cũng làm như vậy ... và sẽ luôn luôn làm như vậy bao lâu mà con người còn bay và còn chiến đấu. Nhưng chưa từng có một vị Chỉ Huy Trưởng không quân Nhựt nào nói với các phi công của ông ta: " Hãy ra đi và chết!".
( Bốn tháng sau đó, Phi Đội Tấn Công Đặc Biệt Thần Phong lừng danh được tổ chức bởi Phó Đô Đốc Onishi ở Philippine. Trước khi tung ra các phi cơ tự sát, Onishi đã hội ý với các phi công dưới quyền để nhận một sự đảm bảo hoàn toàn rằng họ sẽ hy sinh mạng sống để bảo vệ xứ sở. Các cuộc tấn công Kamikaze trước khi được tung ra phải trải qua nhiều sự sắp xếp phức tạp, nhứt là những phi cơ thi hành nhiệm vụ nầy đều còn trong tình trạng khả dụng và chất đầy bom cũng như được các chiến đấu cơ hộ tống đến mục tiêu. Các phi công chiến đấu cơ hộ tống nhận chỉ thịd đặc biệt quay về căn cứ để báo cáo những kết quả cuộc tấn công do chính mắt họ nhìn thấy. Ở Iwo, việc nầy hoàn toàn khác hẳn. Ngay cả những chiếc Zero không mang bom khi thi hành nhiệm vụ hầu như đã đến kỳ phế thải. Đại tá Miura, người ban tử lịnh cho chúng tôi, đã chết vì nhiệm vụ, trong khi Phó Đô Đốc Onishi cam tâm mổ bụng sau cuộc đầu hàng của Nhật Bản)
Những lời nói của Miura đã gây sự xúc động dữ dội cho các phi công đứng tập họp. Trường hợp những người hy sinh đời sống của họ với sự cân nhắc, thì lời nói, dáng vẻ, sự dũng cảm phi thường cũng như kinh nghiệm chiến đấu của đại tá Miura sẽ gây phấn khởi tinh thần cho họ. Nhưng hiện tại lại khác hẳn. Hiện tại, họ biết rằng họ sẽ ra đi không bao giờ trở lại, những người ên không trung lần cuối.
Tư tưởng tôi hổn độn. Tôi không phẩn nộ mà cũng không tuyệt vọng. Tim tôi, trí óc tôi có thể nói là đã đông lạnh. Tôi nhớ lại câu: " Một Samurai đã sống một đời sống như vậy, hắn phải luôn luôn chuẩn bị để chết."
Tuy nhiên, giáo điều Samurai không bao giờ đòi hỏi một người chuẩn bị liên tục để tự hủy. Có sự khác biệt rất xa giữa sự tự hủy và việc bước vào cuộc chiến đấu với một ý chí chấp nhận tất cả mọi thách thức và gian nan. Trường hợp sau nầy, cái chết được chấp nhận và, có thể, không hối tiếc. Con người sống với chiếc đầu ngẩng cao, hắn có thể chết với dáng vẻ ấy. Hắn không chôn vùi danh dự của chính mình cũng như xứ sở, và hắn mãn nguyện khi trao cho xứ sở tất cả những gì tốt đẹp nhứt mà hắn có. Bất chấp dầu sôi lửa bỏng, bất chấp kẻ thù vượt trội, hắn vẫn chiến đấu khi cần thiết, hắn tấn công khi bị áp lực. Tất cả những điều nầy đã hình thành đời sống của một chiến sĩ.
Nhưng làm sao một người có thể giữ được trầm tĩnh và khách quan để ra đi tự hủy trong vòng một đôi giờ?
Tuy nhiên, lịnh vừa ban ra nhắc nhở chúng tôi biết rằng chúng tôi vẫn còn ở trong hải quân, nơi mà lịnh vẫn là lịnh.
Một sự yên lặng trùm lấp khi đại tá Miura dứt lời. Chúng tôi đưa tay chào. Ông ta quay lưng, và các phi công tụ tập thành nhiều nhóm nhỏ.
Tôi nói với hai phi công bên cánh của tôi: " Các bạn đã thấu hiểu lịnh của đại tá?" Họ gật đầu. "Tôi tin các bạn đã sẵn sàng chuẩn bị cho những gì mà chúng ta phải làm. Đây là những chỉ thị của tôi: phải sát cánh với phi cơ của tôi cho đến khi chúng ta đến mục tiêu. Không bao giờ được phá vỡ đội hình. Những gì xảy ra không cần biết, cứ đeo dính phi cơ của tôi."
Muto và hai phi công bên cánh đến nhập bọn với chúng tôi. Muto nhe răng cười và nói đùa: "Nầy, còn một vài giờ nữa chúng ta đi chết, chúng ta phải nhìn mặt nha cái đã. Tôi muốn nhớ mấy khuôn mặt quen thuộc một cách chắc ăn." Hắn đã phá vỡ sự căng thẳng, chúng tôi cười và ngồi bẹp trên mặt đất. Muto không ngớt cười đùa. Tuy nhiên, một vài phút sau, tiếng cười trở nên gượng gạo và những lời nói đùa trở nên gượng gạo.
Nhiều phi công không có tên trong danh sách thi hành nhiệm vụ đến gặp chúng tôi. Họ mang cho chúng tôi thuốc hút, kẹo và nước ngọt. Dĩ nhiên, họ muốn làm cho chúng tôi vui vẽ, họ nói rằng họ rất tiếc đã không được chọn để ra đi với chúng tôi. Nhưng đôi mắt mở rộng và buồn bã ấy đã nói thêm những lời mà họ không thể nói được. Muto thôi đùa giỡn. Hắn ngồi lặng lẽ, suy tư. Nỗi căng thẳng vừa vở lại hiện ra.
Đã đến giờ cất cánh lần cuối cùng.
Ba phi công khác bước ra khỏi căn lều, và tất cả chúng tôi đi ra các chiến đấu cơ. Đứng bên cạnh phi cơ, tôi nhìn túi dù của mình. Thế rồi, khi một người quăng túi dù của hắn xuống đất, chín phi công khác đều làm theo.
Phi cơ của tôi máy móc không được tốt vì đã bay chiến đấu ròng rã hay ngày, và năng lực thiết yếu đòi hỏi của các trận không chiến làm cho động cơ của nó gần cháy. Thông thường tôi không bao giờ gượng gạo cất cánh với một chiếc phi cơ trong tình trạng nầy. Nhưng hiện thời ? Tôi lấ làm khó nghĩ. Tôi nhìn các chiến đấu cơ khác. Cơ khí viên đang sửa chữa ít nhứt 4 trong số 8 chiếc phi cơ sắp sửa thực hiện nhiệm vụ. Không phải một mình tôi gặp khó khăn.
Nhưng ai lại đi đòi hỏi một chiếc phi cơ hoàn hảo trong nhiệm vụ nầy? hãy nhớ, Sakai, đây là phi xuất một chiều. Anh chỉ cần nó lết được 450 dặm, không phải 900 dặm. Anh không trở về từ nhiệm vụ nầy đâu.
Tám oanh tạc cơ chạy ra phi đạo. Chiếc Zero đầu tiên nằm trong vị thế cất cánh. Tôi chạy chầm chậm theo sau, tiếp đó là hai phi công bên cánh của tôi.
Dọc theo hai bên phi đạo, các cơ khí viên và phi công khác đứng nghiêm chỉnh đầu trần, vẩy khăn khi chúng tôi lướt trên phi đạo và cất cánh. Chúng tôi bay dọc theo đội hình chữ V, và xoay hướng trực chỉ về phía hạm đội của địch quân.
Tôi quay đầu, Iwo là một chấm nhỏ ở chân trời, càng lúc càng nhỏ hơn, cho đến khi nó chỉ còn là một mũi kim trên mặt đại dương bao la.
Tôi nhìn lại một lần nữa, khó thể thấy Iwo ở đâu. Chân trời lờ mờ và gợn sóng trước mắt tôi. Tôi cảm thấy váng vất.
Khuôn mặt của má tôi thấp thoáng khắp nơi trên bầu trời. Một ảo ảnh, nhưng rõ rệt quá đổi. Bà mỉm cười với tôi. Bà không biết rằng tôi sắp chết bằng cách tự giết mình. Tôi nhìn mặt má tôi trừng trừng. Ảo ảnh tan dần và biến mất.
Một nỗi cô đơn vây phủ lấy tôi. Tôi như tan biến hẳn trong biển cả vô tận. Khắp nơi chỉ là trời nước mênh mông.
Tôi nhìn những chiến đấu cơ bay phía trước tôi, các oanh tạc cơ bay phía trước nữa và thấp hơn một chút. Chúng hình như không chuyển động, đứng một chỗ giữa không gian, lung lay nhè nhẹ, lên xuống rập rình trên một tấm đệm không khí căng phồng. Mọi thứ có thật không?
Tôi lắc đầu để xua đuổi sự mù mịt trước mắt. Nhạc! Hãy lắng nghe! Tiếng dương cầm. "Khúc nhạc dưới trăng"... Hatsuyo một lần đã đàn cho tôi nghe.
Hatsuyo! Khuôn mặt nàng hiện ra... một ảo ảnh? Tiếng nhạc lúc đầu phảng phất, rồi dần dần lớn hơn, phá vỡ hai lỗ tai tôi.
Tôi chưa bao giờ nói với nàng. "Hatsuyo, anh yêu em". Tôi hét lớn. Không ai hết. Chỉ một mình tôi. Tôi nghĩ về nàng... tôi xoay lại nhìn Iwo Jima. Tôi chỉ thấy biển cả vô tận.
Tiếng nhạc biến mất. Bầu trời trong sáng trở lại. Động cơ máy bay đập mạnh vào tai tôi. Mấy chiếc Zero giữ vững đội hình hoàn hảo, chuẩn xác, cùng nhau lướt về phía định mạng của máu và lửa.
Niềm cô đơn cũng tan hẳn. Anh quá bi ai, Sakai. Anh là một phi công. Một Samurai. Nhiệm vụ ... hãy làm những gì mà anh phải làm!
Tôi cố gắng sắp xếp kế hoạch cho những phút giây cuối cùng trong không gian, phương pháp nào để chúi xuống một hàng không mẫu hạm hữu hiệu nhứt. Chổ nào yếu nhứt trên chiếc tàu? Ống khói! Chui xuống ống khói. Ba chiến đấu cơ hè nhau đâm vô vỏ mỏng ở ngay mực nước? Hy vọng trên sàn tàu có nhiều dãy phi cơ, bình của chúng chứa đầy xăng, bên trong chứa đầy bom. Chúi xuống những chiếc phi cơ, bom sẽ nổ, xăng sẽ cháy, biến chiếc tàu thành một địa ngục với hàng ngàn người đẫm trong máu, vang dậy tiếng la hét và ngập tràn sự kinh khiếp.
Đại dương trôi lướt phía dưới tôi. Chớp mắt, nhiều phút trôi qua và tôi nhìn thấy, xa về bên phải, một cột khói lã theo chiều gió, trôi chầm chậm trên mặt nước. Đó là hòn đảo Pagan, nổi trên mặt biển khoảng 90 thước, với một nhóm núi lửa ngầm, toả hơi nghi ngút qua sức nóng lan rộng và luồn sâu dưới nước. Nó nhắc tôi, nhớ lại những hình ảnh trong kinh Phật mà tôi từng coi qua lúc còn nhỏ. Mỉa mau thay, mảnh đất cuối cùng mà tôi được nhìn thấy là một mảnh đất lờ mờ, sôi sụt, bốc lửa và gớm ghê.
Bốn mươi phút sau, nhiều đám mây đen xuất hiện ở chân trời, phía trước chúng tôi, cách mặt nước hàng ngàn bộ. Những đám mây ấy đang trút cuồng phong và mưa lủ xuống mặt biển phía dưới. Tôi nhìn bản đồ. Lực lượng đặc nhiệm của địch quân, do trinh sát cơ chỉ điểm, nằm ở một nơi nào đó dưới cơn mưa bão dữ dội nầy.
Chúng tôi đã ở trong vòng bán kính tuần thám của phi cơ địch, và ra đa trên các chiến hạm chắc chắn đã phát hiện chúng tôi.
Tám oanh tạc cơ chúi mũi xuống, chiến đấu cơ chúng tôi theo sát phía sau. Ở 16.000 bộ, chúng tôi rớt vô một đám mây dày đặc, trở thành kẻ đui mù trong nhiều giây, rồi lướt xuyên qua và tiếp tục chúi xuống.
Ở cao độ 13.000 bộ, một vật gì nhá sáng trên bầu trời, xa về phía trước, và trên chúng tôi nhiều ngàn bộ. Hiện tượng nầy lập đi lập lại nhiều lần. Đó có thể là do cánh của một chiếc phi cơ phản chiếu ánh sáng mặt trời.
Tôi nhìn thấy chiến đấu cơ đầu tiên. Một chiếc Hellcat, với thân và đôi cánh rộng không thể lầm lẫn được, lướt xuống, xuyên qua những đám mây. Một chiếc khác, và nhiều chiếc nữa. Bao nhiêu chiếc? Để coi! Vẫn lướt xuống xuyên qua những đám mây, chiếc nầy đến chiếc khác, một dọc dài các chiến đấu cơ hình như vô tận. Tôi bắn một loạt để báo cho các phi công khác. Phi đôi trưởng và Muto lắc cánh đáp nhận. Ra đa cỉa Hoa Kỳ đã chỉ điểm vị trí của chúng tôi một cách chính xác. Nhóm chiến đấu cơ địch chúi khỏi các đám mây cách phía trước chúng tôi không đầy một dặm, và cách phía trên chúng tôi chỉ nữa dặm.
Tôi bắt đầu đếm, và chỉ đếm con số mười bảy. Đối phương đã nhìn thấy chúng tôi! chiếc phi cơ thứ mười bảy, tức chiếc mà tôi có thể đếm, bất ngờ lăn tròn về phía trái và chúi xuống. Lập tức, những chiếc còn lại vung ra hai bên và lướt xuống chúng tôi.
Lời nói của Miura văng vẳng bên tai tôi: " Không chấp nhận chiến đấu... giữ vững các phi cơ bạn chung nhóm."
Lời nói thật minh bạch. Nhưng làm sao đây? Hãy nhìn những chiến đấu cơ đang lướt đến. Bóng dáng của những chiếc Hellcat thấp thoáng khắp mọi nơi, nhiều chiếc đã lấy thăng bằng sau khi chúi xuống để từ phía dưới đánh ngược lên phi cơ của chúng tôi. Một nhóm hai mươi chiếc Hellcat thứ nhìn hung hăng vồ ba chiếc Zero của Muto. Còn nhóm khác nữa, hơn ba mươi chiếc, bổ nhào xuống rồi lấy thăng bằng và vượt lên nhanh chóng, tấn công các oanh tạc cơ đang bay phía dưới.
Tôi nín thở khi nhóm Hellcat chỉa mũi vô các oanh tạc cơ. Hai tiếng nổ làm mở cả không gian phát ra, chiếc oanh tạc cơ thứ nhứt và thứ nhì biến mất. Thủy lôi mang dưới bụng đã xé nát hai chiếc phi cơ làm muôn ngàn mảnh nhỏ li ti.
Bấy giờ những chiếc Hellcat đang nằm trong tầm hoả lực của ba chiếc Zero do Muto cầm đầu, nhưng cả ba đã tránh né bằng cách lộn nhào theo hình thắt nút dây. Tôi đấm tay vô cửa kiếng một cách bất lực. Muto đã có trong tay một tử điểm. Hắn có thể lăn về bên phải và đẩy hai chiến đấu cơ địch rời khỏi không trung mà không cần một cố gắng nào, nhưng hắn không làm.
Một nhóm Hellcat khác lướt đến ba chiếc Zero của tôi. Tôi kéo cần điều khiển lại phía sau, vọt tới và xoay trôn ốc thật ngặt với hai phi công bên cánh đeo dính sau đuôi tôi. Chúng tôi lấy thăng bằng để nhìn thấy nhiều chiếc Hellcat khác xông tới với các họng súng ở hai bên cánh rực lửa.
Tôi lăn tròn. Thật nhanh. Thêm nhiều chiến đấu cơ xông tới nữa. Lăn tròn nữa. Hai lần. Lăn tròn qua trái. Lấy thăng bằng. Nhiều đối thủ lại xông tới, có tất cả bao nhiêu?
" ... Không chấp nhận chiến đấu..."
Bạn có thể y lịnh mãi được không? Tôi không thể. Không, ngay bây giờ. Với bầu trời dầy đặc chiến đấu cơ địch, tôi tránh né như vậy đã đủ lắm rồi.
Tôi xoay như chớp, chỉa mũi vô một chiếc Hellcat đang chúi xuống. Những viên đạn của tôi đẩy bật nó ra lập tức. Chiếc phi cơ lảo đảo dữ dội rồi chúi xuống biển, kéo theo một vệt khói càng lúc càng mau.
Không có thời giờ để nhìn theo nạn nhân, tôi nhấn bàn đạp bẻ lái, kéo cần điều khiển thật mạnh. Đúng lúc. Một chiếc Hellcat lướt vụt qua chiếc Zero của tôi, tiếp theo là những chiếc khác và nhiều chiếc khác nữa.
Tôi không có thời giờ để nhả bình xăng phụ dưới bụng. Thế rồi chiếc phi cơ địch cuối cùng lướt qua, chúi thẳng xuống biển, và bắt đầu lấy thăng bằng để quày lại. Tôi nhả bình xăng phụ và đảo ngược. Các phi cơ bên cánh vẫn còn với tôi. Nhờ trời, họ ngoan ngoản thi hành đúng các chỉ thị của tôi, bám sát một bên tôi, đua tài xoay trở với tôi.
Mình mẩy tôi ướt đẩm. Tôi định đưa tay lau mặt. Không kịp. Cả 16 chiến đấu cơ địch lại lướt lên cùng một lúc nhảy xổ vô ba chiến đấu cơ của tôi.
Một lần nữa, tôi lại chúi, lộn, đảo và lăn. Cần điều khiển lên, xuống, giữa, phải, trái. Đá bàn đạp lái. Loé sáng, những lằn đạn. Trật, và trật nữa. Bọn phi công Mỹ nhắm yếu.
Tôi liếc nhìn nhóm oanh tạc cơ. Đó là một lò sát sinh? Uể oải, chậm chạp, với những trái thủy lôi trong bụng, trôi lờ đờ trong không khí, không được chiến đấu cơ bảo vệ vì mắc bận đánh trối chết với lũ Hellcat. Một trái cầu lửa biến mất trong một tia chớp hừng hực. Một oanh tạc cơ nữa nổ tung... Không đầy một phút, cả bảy oanh tạc cơ đều đi đời. Ngay cả một cái thân hoặc một cái cánh nguyên vẹn cũng không nhìn thấy.
Tình trạng của mấy chiếc Zero cũng không lấy gì làm tốt hơn. Tôi nhìn thấy hai chiếc bao trùm trong lửa đỏ, lăn lộn liên hồi. Không viên phi công nào cố nhảy ra khỏi phi cơ. Họ ở lại và chết cháy.
Tôi không nhìn thấy một chiếc Hellcat nào gặp rắc rối, ngoại trừ chiếc bị tôi bắn rơi. Chúng tôi hầu như không thể nào né tránh chiến đấu, bởi đối phương quá nhiều và cứ bu theo chúng tôi. Chiến đấu cơ Hellcat nhanh nhẹn hơn chiến đấu cơ của chúng tôi, tốc lực cũng mau hơn nhiều. Chỉ nhờ sự thiếu kinh nghiệm của bọn phi công địch đã cứu chúng tôi. Nếu họ có kinh nghiệm hơn chút nữa, mỗi chiếc Zero sẽ bị hạ không đầy một phút. Hiện thời chỉ nhóm của tôi còn hiện diện trên bầu trời. Những chiếc Hellcat đã quét sạch các phi cơ Nhựt khác, bấy giờ bau đến kết hợp với 16 chiến đấu cơ đang tấn công nhóm của tôi.
Những chiếc cánh màu xanh và ngôi sao màu trắng chiếu lấp lánh với các họng súng đều rực lửa, ở trên và ở dưới, bên phải và bên trái chúng tôi. Đâu đâu cũng có bóng dáng Hellcat.
Những chiếc Hellcat nầy nhắc nhở tôi nhớ hồi ở Lae, lúc 12 chiến đấu cơ của chúng tôi cố hạ một oanh tạc cơ đơn độc. Chúng tôi đã xé nát đội hình để tấn công đối thủ một cách nôn nóng. Hiện thời mấy chiếc Hellcat cũng làm giống như vậy. Chúng tôi trở nên hổn loạn, cố tránh né hoả lực và đụng chạm với đồng bọn hơn là với chúng tôi. Chúng tôi bay chính giữa một nhóm Hellcat đông đảo khủng khiếp, và mặc dù đối phương lâm vào tình cảnh hổn loạn, chúng tôi cũng không thể nào tìm thấy lối thoát. Chúng tôi đã ở cách Iwo Jima 400 dặm, và vẫn còn cách các hàng không mẫu hạm của Hoa Kỳ đâu khoảng 50 dặm. Lực lượng nầy chúng tôi vẫn chưa nhìn thấy và không thể nào đảo mắt tìm kiếm. Cho dù chúng tôi có nhìn thấy đi nữa, làm sao chúng tôi lướt qua khỏi 60 chiếc Hellcat, chiếc nào cũng bay mau hơn chúng tôi?
Một cơ may nhỏ đã đến với chúng tôi. Cuộc không chiến di động về phía một đám mây dày đặc treo lơ lững trên mặt biển.
Một chiếc Hellcat bỗng tách khỏi vòng vây, bỏ lại một khoảng trống. Tôi lăn tròn và đẩy cần điều khiển về phía trước, chúi hết tốc lực vô đám mây. Tôi liếc lại phía sau. Hai phi cơ bên cánh vẫn đeo dính tôi. Trong nhiều phút, tôi không nhìn thấy gì hết. Thế rồi phi cơ chúng tôi lướt ra khỏi đám mây. Tôi nhìn hai chiếc Zero, xa phía dưới phi cơ của tôi, đang xoay tít dữ dội, nhưng trong một vài giây, chúng tôi lấy lại thăng bằng, và vượt lên.
Bầu trời không còn bóng dáng một chiếc Hellcat nào. Chúng tôi bay trong đội hình chữ V và xoay trở về hướng Nam. Chúng tôi thở phào thoát nạn, nhưng tương lai đen tối đang chờ đợi.
Những đám mây dầy đặc hơn khi chúng tôi tiến gần đến hạm đội địch. Mây trở nên dầy đặc hơn nữa, bay là là cách mặt biển không đầy 700 bộ.
Một cơn mưa mù mịt đổ xuống, mạnh đến nổi nhiều lần ba chiếc Zero lâm hiểm. Mưa quật vô cánh phi cơ như một giòng thác. Chúng tôi vẫn phải lướt tới. Mây càng lúc càng sà thấp xuống mặt biển. Chúng tôi chúi xuống dần chỉ còn cách mặt nước 60 bộ, quét cánh trên đầu những cơn sóng dâng cao.
Bão nổi lên dữ dội hơn. Tiếng gió át cả tiếng động cơ máy bay. Mưa quật mạnh khủng khiếp trên cánh và trên thân.
Chúng tôi không thể bay thấp hơn. Hiện thời chúng tôi trở nên mù hẳn. Tôi chỉ nhìn thấy mà mưa bao quanh. Không nhìn thấy mặt nước, nhưng chúng tôi biết rằng chỉ cần bước thêm bước nữa, tất cả chúng tôi sẽ biến mất trong biển cả. Ba mươi phút trôi qua. Bão vẫn không giảm. Theo bản đồ, tôi phỏng định phi cơ đang hướng thẳng đến lực lượng đặc nhiệm của đối phương. Ngay cả một hạm đội đồ sộ như vậy mà chúng tôi cũng không thể nào tìm thấy.
Bầu trời càng lúc càng u tối. Đã bảy giờ chiều có hơn. Tôi lo lắng. Cho dù chúng tôi lướt khỏi giông bão, trời đang tối nhanh chóng sẽ khiến chúng tôi không thể nhìn thấy hạm đội địch...
Tôi liếc nhìn hai chiến đấu cơ bám sát một bên đuôi. Hai phi công trẻ nầy sẽ ra sao? Họ ngoan ngoãn theo tôi, sẵn sàng chấp nhận bất cứ những gì mà tôi đã chọn. Nếu tôi chúi xuống biển, họ cũng sẽ chúi theo tôi.
Làm gì đây? Tôi soát lại la bàn và đảo một vòng thật rộng. Hai chiến đấu cơ vẫn theo sát phía sau tôi. Tôi không định chắc được vị trí của mình, bởi lẽ chúng tôi đã quần thảo với địch quân, chúi vô mây, và sau đó bay thẳng xuyên qua mưa bão. Tôi có thể ở bất cứ một nơi nào đó trên mặt biển ... ngay cả một vòng 180o vừa rồi có thể đưa chúng tôi về hướng Nam thay vì về Iwo Jima như dự định. Nhưng tôi phải trở về, tôi phải cố gắng!
Lời nói cương quyết của đại tá Miura lại vang đến bên tai tôi "... cả nhóm phải chúi xuống các hàng không mẫu hạm địch!"
Tôi hầu như muốn quày phi cơ trở lại để tìm kiếm chiến hạm địch. Tôi vẫn là một sỹ quan hải quân Hoàng Gia, nơi mà mạng lịnh vẫn là cái gì tuyệt đối. Chưa từng nghe nói đến có người đặt câu hỏi, đúng hoặc sai, trước những mạng lịnh được ban ra. Cho dù tôi trở về Iwo Jima được, làm sao tôi có thể đối diện với vị chỉ huy trưởng vừa giao nhiệm vụ cho tôi?
Tất cả là một sự dằng co cùng cực trong tôi. Cho đến nhiều năm sau nầy tôi mới hiểu hành động của mình là một hành động có ý thức. Nhưng ngay lúc đó, qua nhiều năm chịu đựng thứ kỷ luật cứng rắn và tàn nhẫn, sự dằng co của tôi không thể nào tả xiết. Qua những giây phút khủng khiếp trong phòng lái của chiếc Zero nầy, tôi đã chiến đấu và đã thành công trong việc phá vỡ hệ thống chỉ huy và truyền thống của hải quân.
Cho dù cả ba chúng tôi tìm thấy chiến hạm, cho dù chúng tôi vượt khỏi chiến đấu cơ Hoa Kỳ, cho dù chúng tôi chúi xuống chính xác, chúng tôi sẽ đạt được kết quả gì với ba chiếc phi cơ nhỏ nhoi, không mang bom, chỉ có một số đạn đại bác và đại liên? Hai phi công trẻ tuổi bay theo tôi đã giao phó tính mạng của họ trong tay tôi, họ đã chứng tỏ tài ba tránh né phi thường của họ trong cuộc đụng độ vừa qua. Họ đã không lùi bước khi bay xuyên qua một cơn mưa bão. Mạng sống của họ phải dành một nơi tốt hơn là đâm đầu xuống biển. Họ thuộc về xứ sở, họ phải có dịp may để bay và chiến đấu cơ trở lại. Do đó mà quyết định của tôi đã được tạo ra.
Tôi quay về Iwo Jima. Đại dương đã biến mất trong màn đêm. Tôi tuyệt đối không nhìn thấy một vật gì phía dưới. Tôi chỉ nhìn thấy những vì sao chiếu lấp lánh trên bầy trời. Gần một giờ trôi qua, chúng tôi vẫn lướt tới. Giây phút của định mạng. Nếu tôi bay đúng hướng, bấy giờ Iwo Jima sẽ ở phía dưới tôi. Nếu không ... tôi chưa bao giờ cảm thấy nỗi lạnh lẽo nào như nỗi lạnh lẽo của đại dương ôm choàng lấy khi chiếc Zero đâm đầu xuống. Nhiều phút nữa trôi qua. Tôi hướng mắt về phía chân trời, hy vọng nhìn thấy một vật gì, một chấm màn đêm nổi bật lên bầu trời đầy sao. Vật gì đó đã thấy kia rồi. Nó đen và to lớn khác thường. Iwo Jima! Chúng tôi đã trở về! Tôi chúi mũi xuống, Shiga và Shirai tiếp theo sau. Iwo bao trùm trong bóng tối khi chúng tôi đảo phía trên. Thế rồi bốn ánh sáng leo lét xuất hiện. Nhưng đó là những ngọn lửa huyền diệu, kì bí đối với tôi. Những ngọn đèn hiệu dọc theo hai phi đạo chánh. Chúng chớp tắt, báo hiệu cho phi cơ đáp xuống. Những người trên đảo đã nhận ra tiếng động cơ của chúng tôi. Một cảm giác nhẹ nhóm tràn ngập trong tôi. Tôi hầu như mềm lã, sự căng thẳng trong suốt ba giờ bay trở về đã bất thần chùng lại.Bốn ngọn đèn không soi rõ phi đạo. Thường thường chúng tôi xử dụng 20 ngọn, nhưng 16 ngọn đã bị bom phá hủy. Bốn ngọn hay bốn mươi ngọn đèn, đối với tôi cũng vậy thôi. Sau những gì mà chúng tôi đã bỏ lại sau lưng, tôi cảm thấy có thể đáp xuống trong bóng tối. Thế rồi tôi đáp xuống, lướt trên sân bay với hai chiến đấu cơ liên tiếp theo sau. Đèn tắt. Một đám đông phi công và cơ khí viên chạy ra phi cơ của chúng tôi. Khi họ tới, tôi nhìn họ một thoáng. Tôi cảm thấy không được tự nhiên khi đối diện với họ. Tôi nhảy xuống đất và bước đến Bộ Chỉ Huy. Đám đông không ai cố giữ tôi lại. Mọi người đều biết cảm nghĩ của tôi, họ tránh sang một bên khi tôi bước ngang qua phi trường với hai phi công bên cánh theo sau. Trong bóng tối, tôi đụng phải một người. Tôi thụt lùi. " Ai đó?" Tôi hỏi lớn. Không có tiếng trả lời. Tôi bước lại người tôi vừa đụng, hắn ngồi bệt trên mặt đất. Tôi có thể nhận ra bộ đồng phục phi công. Tôi cúi xuống nhìn mặt hắn.
" Muto!"
Viên phi công ngồi cú rủ, đầu gục trên đôi tay.
" Muto, anh bị thương hả?"
Muto ngước nhìn tôi. " Không," hắn thẩn thờ đáp. " Tôi không bị thương."
Hắn đứng dậy và nhìn Shiga và Shirai một cách lạ lùng. " Anh ... anh cũng mang về cả hai phi công bên cánh của anh!" Hắn thở hổn hển.
Hắn nhìn xuống đất, bật khóc. " Sakai ... bạn hãy chửi rủa vào mặt tôi đi. Hảy phỉ nhổ tôi đi!"
Nước mắt hắn đầm đìa trên mặt hắn. " Tôi bắt buộc phải quay về," hắn hét lên trong sự đau lòng. "Một mình !".
Tôi nắm vai hắn. " Tôi biết cảm nghĩ của anh, Muto. Nhưng bây giờ không thể làm gì hơn nữa. Quá muộn. Tất cả đã trôi qua. Đó là quá khứ."
Tôi lay vai hắn nhè nhẹ, và chỉ Bộ chỉ huy: " Muto, chúng ta cùng vô trong đó."
Hắn gật đầu. Chúng tôi không nhìn nhau. Và rồi có một gì chận lấy tim tôi. Cơn thịnh nộ trước những gì xảy ra trong cái ngày khủng khiếp nầy đã nguội lạnh trong tôi bỗng nhiên nổi dậy. Tôi nghĩ những giọt nước mắt của viên phi công trẻ tuổi đầy hứa hẹn nầy là những giọt nước mắt lo sợ. Lo sợ sẽ là một tên hèn nhát trước một nhiệm vụ ngu xuẩn. Tôi thề rằng, bất kể vấn đề gì xảy ra, nếu một tên sỹ quan nào trút giận lên mình viên phi công trẻ nầy, tôi sẽ hạ gục hắn. Tôi sẽ nhồi hắn thành bột.
Đại tá Miura ngồi trơ sau bàn làm việc. Ông lắng nghe chăm chú khi tôi trình bày những gì xảy ra. Ông nhìn tôi chăm chú rồi bình thãn nói: " Cảm ơn anh, Sakai!". Chỉ mấy tiếng vậy thôi. Tới phiên Muto trình bày. Dĩ nhiên, những gì hắn trình bày đều xác nhận những lời tôi vừa nói, cũng chỉ có bốn tiếng. " Cảm ơn anh, Muto!"
Chúng tôi chào cáo từ. Đại tá Miura vẫn ngồi bất động, gương mặt u tối, đôi mắt bi thiết.
Tôi cảm thấy buồn cho ông ta, người đã ra lịnh cho thuộc cấp thi hành một nhiệm vụ thất bại trước khi bắt đầu. Nhưng phải ra lịnh, bởi vì ông ta không còn cách nào khác để chọn, bởi vì đó là cách tốt nhất cho xứ sở của ông.
Khi chúng tôi bước ra khỏi bộ chỉ huy, một người chạy theo chúng tôi. Đó là trung tá Nakajima. Ông đưa hay tay nắm lấy vai tôi, khuôn mặt rạng rỡ. " Sakai!" ông kêu lên. " Tôi hết mong anh trở về!"
Tôi muốn nói, nhưng Nakajima chận lời:
" Anh không cần biện hộ. Tôi đã biết anh quá nhiều, ông bạn của tôi? Ai ở trên hòn đảo nầy cũng biết những gì đã xảy ra hôm nay, do đó, việc duy nhứt của anh là trở về. Đừng nhăn nhó nữa! chúng ta sẽ còn nhiều cơ hội, chúng ta vẫn còn có thể đánh nữa mà! Anh về được đây là hay lắm rồi !". Những lời của Nakajima làm tan băng giá trong tim tôi. Tôi không còn cô độc. Nhưng những lời tử tế của ông cũng không thể nào đẩy lui hoàn toàn cơn phẩn nộ trong lòng tôi. Các phi công khác chạy đến với chúng tôi, tay mang lề mề thuốc hút, kẹo bánh và những thức ăn khác. Chúng tôi chỉ nói cám ơn và từ chối. Tôi không sao nuốt nổi một miếng nào vô họng. Một giờ sau, một liên lạc viên chạy vô phòng tôi: " Một công điện vừa nhận được từ phía Nam Iwo," hắn la lớn. " Một trong những oanh tạc cơ vừa đáp xuống đó. Phi hành đoàn an toàn !" Viên phi công tuông hết thủy lôi và quày phi cơ chạy về. Hắn biết rằng dẫu hắn có cố gắng một ngàn năm đi nữa hẵn cũng không thể nào chui lọt bức tường lửa do những chiếc Hellcat tạo ra. Tin tức hầu như xoá hết sự căng thẳng.Nó cho thấy rằng không phải chỉ có tôi và Muto đã chặt đứt " sợi dây xích rắn chắc" của truyền thống và mạng lịnh.
CHƯƠNG XXII
Lực lượng đặc nhiệm của Hoa Kỳ không cho chúng tôi nghiền ngẫm vận xấu của mình. Từ nhiệm vụ không may trở về vào ngày hôm trước, ngay hôm sau chúng tôi được 16 chiến hạm địch tiến sát vô hòn đảo nổi đại pháo chào mừng.
Tách khỏi thành phần chánh của hạm đội, tám tuần dương hạm và tám khu trục hạm nhàn nhã hướng đến hòn đảo. Sau một vài quả đạn thăm dò, mười sáu chiến hạm di chuyển vào tầm trực xạ. Suốt hai ngày, chúng tôi sống chui rút như chuột, cố vù mình xuống bụi cát của núi lửa Iwo Jima càng sâu càng tốt. Suốt 48 tiếng đồng hồ, mười sáu chiến hạm chậm rãi chạy lui chạy tới, hai bên hong tím thẩm ánh lửa loà sáng, tuông ra những khối sắt thép gào, làm rung chuyển từ đầu đến cuối hòn đảo. Chưa bao giờ tôi cảm thấy mình bất lực và nhỏ nhoi như tôi đã cảm thấy trong hai ngày nầy. Chúng tôi bó tay, không biết cách nào để chống trả.
Mọi thứ trên hòn đảo đều bị xé nát thành manh múm. Không một ngôi nhà nào còn đứng vững. Không một căn lều nào thoát khỏi. Cả bốn chiến đấu cơ trở vừa về từ phi xuất cuối cùng cũng bị đạn đại bác nghiền nát. Nhiều trăm binh sỹ bộ binh và hải quân thiệt mạng. Con số bị thương gấp đôi. Iwo nằm bất tỉnh. Mọi người đều ù tai nhức óc dưới hàng nhiều ngàn quả đạn đại pháo rớt không ngưng nghỉ lên hòn đảo nhỏ bé. Binh sĩ thuộc tiểu đoàn phòng thủ trở nên đần độn, ngù ngờ bởi cuộc pháo kích khủng khiếp mà họ đã chịu đựng. Đầu óc họ rối loạn, họ ăn nói không đâu vô đâu. Nhưng nhóm phi công nhỏ nhoi còn tồn tại đã gây sửng sốt không kém gì trận mưa pháo. Nhỏ nhoi, nhưng nhóm phi công không có phi cơ chúng tôi quyết tâm bảo vệ hòn đảo, chống lại cuộc đổ bộ mà mọi người đều tin tưởng sẽ xảy ra không chóng thì chầy. Chúng tôi tổ chức thành " Đại đội Thủy quân Iwo Jima" thề nguyền đâu lưng với những binh sĩ bộ binh còn sống sót chiến đấu cho đến người cuối cùng. Chúng tôi nhận võ khí và đạn dược. Chắc chắn chúng tôi sẽ bị tiêu diệt cấp kỳ. Nếu người Mỹ chiếm Saipan (việc nầy hình như đã xảy ra rồi), nếu họ nắm ưu thế tuyệt đối trên không, nếu các tàu chiến của họ khinh thường hạm đội của chúng tôi, chạy qua chạy lại sát Iwo Jima một cách ngạo mạn, thử hỏi họ không thể nào nuốt trôi hệ thống phòng thủ le que của chúng tôi hay không? Truyền tin Iwo Jima kêu gọi Yokosuka gởi viện binh liên hồi. Chúng tôi xin thêm chiến đấu cơ. Chúng tôi xin bất cứ thứ gì mà chúng tôi có thể bay được! Yokosuka không có gì cả. Ba mươi chiến đấu cơ Zero theo chúng tôi đến Iwo Jima là những chiến đấu cơ khả dụng cuối cùng. Không cơ hơn nữa! Rối loạn đang ngự trị tại Bộ Tư Lịnh Tối Cao ở Đông Kinh. Tiếng la hân hoan, tiếng thét vui mừng đánh thức chúng tôi vào một buổi sáng, không lâu sau cuộc oanh kích tàn khốc. Hải quân không quên chúng tôi. Nhiều quân vận hạm xuất hiện ở chân trời, hướng về hòn đảo. Chúng tôi chạy xuống bờ biển vừa cười vừa la vừa nhìn các quân vận hạm phụt lên những tia lửa và nước, chìm ngay trước mắt chúng tôi. tiềm thủy đỉnh Mỹ đã tiên đoán một cuộc di chuyển như vậy và chờ đợi để ra tay. Thảm hoạ cuối cùng nầy là thảm họa quyết định. Nó trở thành hiển nhiên rằng chúng tôi đang hoi hóp, rằng trong vòng một hoặc hai giờ sau cuộc đổ bộ, người Mỹ sẽ kiểm soát Iwo. Chúng tôi cảm thấy chỉ còn sống sót một đôi ngày. Người Mỹ không đến. Hết giờ nầy sang giờ khác, các quan sát viên trên những vọng canh từ đầu đảo đến cuối đảo chăm chăm nhìn ra biển, tìm kiếm hạm đội đổ bộ. Hết lần nầy đến lần khác, một quan sát viên vì quá căng thẳng tưởng như nhìn thấy một vật gì đó trên mặt biển nên vội vã báo động. Chuông, tù và, trống hay bất cứ thứ gì có thể gây ra tiếng động, đã phá tan sự yên tĩnh của hòn đảo với một âm thanh khiếp hãi. Chúng tôi lăn khỏi giường, mặt mày đanh lại, ghìm võ khí, sẵn sàng chiến đấu. Nhưng không có gì xảy ra. Dĩ nhiên, chúng tôi không biết người Mỹ đã quay hướng sang Philippine, và cho mãi đến tám tháng sau họ mới quày lại Iwo Jima. Trong suốt tám tháng nầy, đại tướng Tadamachi Kuribayashi đã đặt chân lên hòn đảo, mang theo 17.500 binh sĩ bộ binh và gần 6.000 binh sĩ hải quân. Ông biến Iwo Jima thành một pháo đài kiên cố, với những công sự nổi và hệ thống phòng thủ ngầm mạnh mẽ. Ông đổ binh sĩ cho đến khi hòn đảo không còn chổ để chứa.
( Sau nầy, nhiều nhân vật lảnh đạo quân sự Nhật Bản cho rằng cuộc chiến sẽ kết thúc sớm hơn nếu người Mỹ tấn công Iwo Jima vào tháng Bảy năm 1944, thay vì chần chờ cho đến Tám tháng sau. Theo những nhân vật nầy, cuộc đổ bộ ở Philippine là một cuộc đổ bộ vĩ đại và đắc giá, rất thành công đối với người Mỹ, nhưng lại là một mặt trận vô nghĩa, gây trì trệ sự chiến bại đã nhìn thấy trước mắt của Nhật Bản ). Cuối cùng, cuộc đổ bộ được phỏng đoán từ lâu đã đến vào ngày 19 tháng Hai năm 1945, qui tụ một sức mạnh quân sự vĩ đại. Theo hải quân Hoa Kỳ, lực lượng của cuộc đổ bộ gồm 495 chiến hạm, trong đó có 17 hàng không mẫu hạm. Tin tức chánh thức của chính phủ Hoa Kỳ cho biết thêm về con số phi cơ không thể tưởng tượng đã yểm trợ cho cuộc đổ quân lên Iwo Jima: 1170 chiến đấu cơ và oanh tạc cơ.
( Tổng số 75.144 binh sĩ chiến đấu Hoa Kỳ đã tham dự vào mặt trận gay go nhứt của toàn thể cuộc chiến nầy. Khi các trận đánh trên hòn đảo chấm dứt, 5.324 binh sĩ Hoa Kỳ thiệt mạng và 16.000 bị thương. Cho mãi đến ngày 16 tháng Ba, Hoa Kỳ mới công bố đã kiểm soát được hòn đảo hoàn toàn, khi tên quân phòng thủ cuối cùng của Nhật Bản bị giết ) Sau nhiều lần báo động đổ bộ hụt, một công điện từ Yokosuka đã gây kinh ngạc cho chúng tôi. Bộ Tư Lịnh Yokosuka thông báo cho chúng tôi biết tất cả sĩ quan tham mưu và phi công được rút về Nhựt bằng phi cơ đưa tin. Những phi cơ nầy đang trên đường đến Iwo Jima. Việc bất ngờ nầy đã gây hưng phấn cho bọn phi công chúng tôi. Chúng tôi đã chuẩn bị chiến đấu đến hơi thở cuối cùng trên mặt đất ... và bây giờ mạng sống của chúng tôi được phục hồi. Chúng tôi buông súng và chạy ùa ra phi trường chánh tiếp tay với các cơ khí viên và bộ binh để lấp hàng nhiều trăm lổ hủng do đạn đại pháo địch gây ra. Chúng tôi không bao giờ hy vọng một phép lạ xảy ra do đó không ai nghỉ đến việc sửa chữa phi đạo sau cuộc pháo kích ngày 4 tháng Bảy. Tôi nằm trong số những phi công biến thành cu li, làm việc sốt sắng và hăng say. Dĩ nhiên, không phải tất cả mọi người đều vui vẽ. Còn những người phải ở lại. Chẳng hạn như các nhân viên bảo trì cũng như đơn vị bộ binh phòng ngự. Những người nầy, không ai thốt một lời phản kháng quyết định bỏ họ ở lại, nhưng có thể nhìn thấy sự đố kỹ thuật và phẩn uất trên nét mặt của họ. Quá trưa ngày hôm đó, những chiếc phi cơ đưa tin đầu tiên đáp xuống. Đó là những oanh tạc cơ phế thải, lần lượt sà sát mặt nước để tránh ra đa trên các chiến hạm địch quanh quẩn trong khu vực, khám phá. Thật may cho chúng tôi, trong suốt thời gian phi cơ đáp xuống và cất cánh, không có một chiến đấu cơ nào của Hoa Kỳ xuất hiện. Có tất cả 7 oanh tạc cơ hai máy đến chở những người được chọn để trở về Nhựt. Ngay cả hệ thống quân giai chặt chẽ đã từng áp dụng cũng trở thành vô hiệu trong tình cảnh tuyệt vọng của chúng tôi ở đây. Mỗi người được di tản lần lượt lên phi cơ theo thứ tự xếp hàng. Nhóm của tôi gồm 11 hạ sĩ quan và binh sĩ phải ở lại vì không đủ chổ. Chúng tôi nhìn đăm đăm theo chiếc phi cơ cuối cùng lướt trên không trung trực chỉ về Nhựt. Ngày hôm sau, một phi cơ duy nhứt quày lại hòn đảo để đón chúng tôi. Tôi mất tin tưởng khi nhìn thấy chiếc phi cơ lảo đảo trên phi đạo. Không chỉ là một chiếc phi cơ phế thải, nhưng còn tồi tệ đến nổi khó thể tưởng nó có thể bay được. Với 11 người chúng tôi chất lên, chiếc phi cơ xiêng xẹo chạy ra phi đạo. Nó không thể nào đạt đủ tốc lực để cất cánh, và một động cơ bốc khói từng cuộn. Viên phi công phải quay lại, và các cơ khí viên bắt tay sửa chữa ròng rã hai tiếng đồng hồ. Hai giờ bằng hai tuần đối với chúng tôi. Chúng tôi cứ dõi mắt lên trời, lo ngại chiến đấu cơ Hellcat xuất hiện rót đạn vô chiếc oanh tạc cơ già nua. Chỉ cần một chiếc Hellcat cũng đủ chôn chân chúng tôi trên hòn đảo. Cuối cùng công việc sửa chữa hoàn tất. Khi chúng tôi bước lên phi cơ, nhân viên dưới mặt đất nhìn theo với đầy tuyệt vọng cho đến nỗi tôi phải quay lại nói với họ: " Chúng tôi sẽ sớm trở lại. Và sẽ trở lại sớm, với những chiến đấu cơ mới!" Không ai trong số những người ở lại dám mơ tưởng rằng Iwo Jima sẽ được địch quân bỏ quên gần tám thàng ròng rã. Khi chúng tôi bay được mười phút, chiếc phi cơ lắc lư mạnh mẽ. Tôi nhìn ra cửa sổ. Động cơ bên phải của chiếc phi cơ càng lúc càng lung lay dữ dội. Đóng sắt vụn nầy làm sao nuốt trôi 650 dặm để đưa chúng tôi về Nhựt ?Phi công phụ, một thanh niên khoảng hai mươi tuổi, bước vô phòng lái, " Chuẩn úy Sakai? Thưa chuẩn úy, chuẩn úy có thể bước vô phòng lái để giúp chúng tôi không?" Mặt hắn tái xanh và run còn hơn chiếc phi cơ. Đoán biết hắn muốn gì, tôi đáp trước khi hắn dứt lời. " Quày lại! Với động cơ như vậy chúng ta không thể về tới Nhựt đâu. Các anh phải quày phi cơ lại để sửa chữa nữa." Phi hành đoàn vâng lời lập tức. Trở lại Iwo, lui cui sửa chữa, và phi cơ lại cất cánh. Một giờ sau, chúng tôi chui vô một trận mưa bão cuồng nộ. Mưa đập liên hồi và mạnh mẽ trên thân chiếc phi cơ. Phi cơ dột nát, nước chảy xuống giống như một cái rây. Viên phi công phụ lại quày ra và yêu cầu tôibc vô phònglái. Viên phi công trưởng khoảng hai mươi hai tuổi, hỏi tôi:
" Thưa chuẩn úy, chúng ta nên bay phía trên hay phía dưới lớp mây?"
" Phía dưới!" Tôi ra lịnh.
Mưa bão vẫn tiếp tục, mù mịt đến nỗi nhiều lần mắt chúng tôi như bị bịt kín. Cơn bão nầy dữ dội hơn cơn bão mà tôi đã gặp mấy ngày trước đây, lúc tôi còn cố tìm kiếm lực lượng đặc nhiệm Hoa Kỳ ở gần Saipan. Chiếc oanh tạc cơ trồi lên hụp xuống, và rơi thấp dần cho đến khi bay hớt trên đầu ngọn sóng. Trong cơn tuyệt vọng, hắn quay khuôn mặt xanh xám sang tôi và hỏi một câu thật bi ai. " Bây giờ, chúng ta ở đâu, thưa chuẩn úy." Đó là một câu hỏi đần độn nhứt mà tôi được nghe từ miệng một viên phi công. Tôi sửng sốt mất một vài giây, không thốt nên lời. " Xuống đi! Tôi lái cho!". Tôi hét. Hắn không phí thời giờ, rời khỏi ghế ngồi trao tay lái cho tôi. Gần chín mươi phút tôi bay như kẻ đui mù, cố đưa chiếc phi cơ què quặt ra khỏi cơn mưa bão. Cuối cùng, bán đảo quen thuộc phía Nam vịnh Đông Kinh hiện ra trong tầm mắt. Tiếng kêu mừng rỡ của phi hành đoàn và hành khách làm rung chuyển chiếc oanh tạc cơ. Chúng tôi đáp xuống căn cứ oanh tạc cơ Kisarazu, nằm phía bên kia vịnh, đối diện Yokosuka. Tôi đảo mắt quanh phi trường rộng lớn. Nhật Bản! Tôi lại đặt chân lên quê hương! Đã bao lần tôi tưởng không bao giờ nhìn thấy lại xứ sở. Chỉ một đôi giờ bay mà giữa đây và Iwo Jima khác biệt biết bao! Đối với tôi, và mười người khác vừa rời bỏ đóng tro than của núi Hades trên đảo Iwo lại sau lưng, nước ngọt ngào và trong lành ở Nhật Bản là vật qúi nhứt trên thế gian nầy. Nước ở đây không có mùi tro than dễ sợ như những mưa hứng ở Iwo Jima. Tất cả chúng tôi chạy băng qua sân bay để đến một tháp chứa nước. Chúng tôi mở bòi cho nước mát lạnh bắn tung lên. Tôi uống lấy uống để, thưởng thức cảm giác và mùi vị cùng tận của nước ngọt chảy xuống cổ họng mình.Nhưng Iwo Jima quá gần phía sau tôi. Muto và tôi đã cùng chung ý nghĩ, nên bỗng nhiên chúng tôi không thể nào uống thêm được nữa. cả hai cùng nghỉ đến những đồng đội, những người đã chết chỉ một đôi ngày trước đây do thương tích của đạn pháo gây ra, kêu gào trong cơn hấp hối: " Nước ! Nước". Họ xin nước chúng tôi, nhưng không ai còn một giọt nào cả. Một tháng sau khi tôi trở về Yokosuka, tôi được thăng cấp Thiếu úy. Sau mười một năm, tôi tiếnlên địa vị của một sỹ quan chánh thức. Đó là một thành tích vượt bực trong binh chủng hải quân. Có nhiều quân nhân tham dự trận tấn công tiềm thủy đỉnh vô Trân Châu Cảng đã được thăng đến hai cấp, và trong số đó có người bước ngay lên hàng ngũ sĩ quan, mười năm sau khi họ nhập ngũ. Tuy nhiên, việc thăng thưởng của họ giữ đúng truyền thống của hải quân: thăng cấp sau khi qua đời. Tôi là binh sĩ đầu tiên bước lên cấp bậc sĩ quan chánh thức trong vòng 11 năm mà vẫn còn sống sót. Muto và tôi được tái bổ nhiệm phục vụ ở Liên Không Đoàn Yokosuka. Chúng tôi không bị gởi trở lại Iwo Jima. Bộ Tư Lịnh Tốc Cao bắt buộc phải bỏ trống không phận hòn đảo trong nhiều tháng sắp tới vì lý do thiếu phi công và phi cơ. Hiện thời cuộc đổ bộ của địch quân ở Philippine đã nhìn thấy rõ rệt, do đó bao nhiêu phi công và phi cơ đều đổ sang để bao che cho lực lượng Nhựt trên quần đảo nầy. Chúng tôi có gặp trung tá Nakajima khi ông lên đường nhận nhiệm vụ mới ở Cebu ( Philippine). Nhiệm vụ mới của tôi là một sự thay đổi đáng phấn khởi so với những cú đấm bi thảm mà chúng tôi chịu đựng ở Iwo Jima. Nhiệm vụ nầy bao gồm công việc huấn luyện tân phi công và thí nghiệm phi cơ. Bộ Tư Lịnh Tối Cao ra lịnh sản xuất hàng loạt chiến đấu cơ mới để thay thế loại chiến đấu cơ Zero. Ngay cả những sĩ quan cố chấp nhứt cũng không thể nào phủ nhận loại chiến đấu cơ Zero, có lần được xem làm mạnh mẽ, hiện thời đã mất khả năng của chúng. Họ cũng phải công nhận các loại chiến đấu cơ mới của đối phương trên chân các loại chiến đấu cơ cũ của chúng tôi nhiều. Ở quần đảo Mariana và ở các cuộc đụng độ hải không khác, chiến đấu cơ Grumman F6F Hellcat đã chứng tỏ ưu thế đáng nể về mọi mặt. Nhiều báo cáo từ Nam Thái Bình Dương cho biết loại chiến đấu cơ mới Lockheed P.38 Lightning có những cải tiến lớn, vượt hẳn loại chiến đấu cơ cùng loại đã lâm trận hồi cuối năm 1942. Loại P.38 mới nầy có tốc lực nhanh, bay cao hơn chiến đấu cơ Zero rất xa, nhứt là khả năng chúi xuống và vượt lên cũng mau lẹ hơn. Phi công P.38 bay ở cao độ như vậy có thể chọn lựa thời gian và không gian để đánh ... với kết quả đầy bi thảm cho phi công của chúng tôi. Cũng không thể hồ nghi khả năng loại chiến đấu cơ Change Vought F4U Corsair của Thủy Quân Lục Chiến và Hải Quân Hoa Kỳ, hầu hết đều hoạt động từ các căn cứ trên đất liền. Nhanh nhẹn không bằng loại Hellcat, tuy nhiên loại Corsair có tốc lực nhanh hơn loại Zero nhiều, và có tốc độ bổ nhào khủng khiếp. Các phi công Lục quân của chúng tôi ở Miến Điện đã báo cáo đụng độ với nhiều loại phi cơ mới của địch quân, như loại North American P.51 Mustang, vượt trội chiến đấu cơ Zero về tầm hoạt động xa. P.51 Mustang ra mắt lần đầu tiên khi hộ tống các oanh tạc cơ B.24 Liberator bốn máy dội bom lãnh thổ nhựt hồi tháng 11 năm 1943. Và điều hiển nhiên Nhật Bản hoàn toàn không chuẩn bị để ứng phó với siêu pháo đài bay B.29 lần đầu tiên xuất phát từ các phi trường ở Trung Hoa bay đến thành phố Kyushu. Những chiến đấu cơ Hayabusa của Lục quân đã bó tay trước loại oanh tạc cơ bay mau, trang bị hùng hậu và bọc thiết giáp nầy. Nếu loại oanh tạc cơ B.17 đã từng là một đối thủ phi thường thì loại oanh tạc cơ B.29 nầy là một đối thủ không thể nào thắng nổi. Những ý niệm phòng thủ thích nghi của Bộ Tư Lịnh Tối Cao Nhựt được đưa ra quá muộn, và cũng quá khiếm khuyết. Đa số chiến đấu cơ của chúng tôi là loại Zero, tỏ ra hữu hiệu trong thế công vào những ngày đầu của cuộc chiến, nhưng tỏ ra vô dụng khi chống lại loại oanh tạc cơ B.29. Hầu hết phi công oanh tạc cơ Nhựt vẫn còn bay loại Mitsubishi Betty, hiện thời quá cũ kĩ, quá chậm chạp, và chỉ còn lại đặc điểm duy nhứt là biến thành ngọn đuốc trước hoả lực của đối phương. Sự thất thủ của Saipan đã thúc đẩy việc phá vỡ bất ngờ những mạng nhện nằm trong kế hoạch của Nhật Bản, Bộ Tư Lịnh Tối Cao kêu gào chiến đấu cơ mới, vượt trội hơn loại chiến đấu cơ Zero. Vào Tháng Mười Một, tôi bắt đầu bay thử hai loại chiến đấu cơ mới. Đầu tiên là loại Shiden (Tia chớp), người Mỹ gọi là George, nặng nề và tầm hoạt động kém hơn loại Zero, nhưng tốc lực mau hơn và được trang bị đến bốn khẩu đại bác 20 ly. Shiden kiến trúc vững chắc, võ bọc sắt an toàn cho phi công. Tôi đã phải kinh ngạc về sự nhanh nhẹn trong thân thể nặng nề của loại phi cơ nầy. Không may, đặc tính của chiến đấu cơ Shiden là hay dỡ chứng đòi hỏi phải có một phi công đầy đủ kinh nghiệm. Nhiều người đã có dịp bay thử với Shiden, nhưng không có dịp sống sót để lâm trận với nó. Loại chiến đấu cơ mới thứ hai là Raiden (Sấm sét), người Mỹ gọi là Jack, trù tính chống lại oanh tạc cơ hạng nặng như B.29 chẳng hạn. Vì mục đích nầy, Raiden được chế tạo rất hoàn hảo, và nhiều phi công Nhựt so sánh nó với loại chiến đấu cơ to lớn Focke Wulf Fw 190 của Đức. Bốn đại bác 20 ly đem tới cho Raiden một quả đấm hiệu quả trong việc chống lại các oanh tạc cơ, và với tốc lực hơn 400 dặm một giờ, được coi là phi thường lúc đó, nó vượt xa loại Zero. Ngay với trang bị và thân bọc thép dày của Raiden, loại chiến đấu cơ Zero đã không bì kịp rồi. Raiden rất thích hợp để tấn công oanh tạc cơ, nhưng giống như loại Shiden, nó đòi hỏi tài ba của người lái. Bởi lẻ chỉ chú trọng đến tốc lực và trang bị, nên sự xoay trở lanh lẹ của Raiden rất yếu, so với loại Zero trên phương diện nầy, Raiden giống như một chiếc xe hơi. Chúng tôi chịu đựng sự mất mát đáng sợ trong khi huấn luyện. Sau nầy, khi những chiếc Hellcat và Mustang gầm thét trên không phận Nhật Bản, những phi công lái Raiden đụng độ với đối phương mới nhận thấy sự xoay trở yếu kém của nó, nhưng tất cả đều quá muộn. Nhiệm vụ thí nghiệm phi cơ đã cho tôi cơ hội thăm viếng gia đình người chú họ một lần nữa. Tôi rời Yokosuka vào một sáng sớm Chủ Nhựt để đến nhà chú tôi, lộ trình đi ngang qua Đông Kinh.
Trong thời gian tôi vắng mặt, thủ đô sa sút hơn. Mặc dù từ năm 1942 không có trận oanh tạc nào xảy ra, nhưng phố xá có vẻ buồn tẻ và mất sinh khí. Hầu hết các tiệm buôn đều đóng cửa. Việc nầy có ý nghĩa rõ rệt. Không có hàng để bán và các chủ nhân vắng mặt, họ vô làm việc trong các cơ xưởng chiến tranh. Một vài tiệm buôn gượng gạo mở cửa, nhưng không còn sắc thái rộn rịp như tôi đã từng thấy trước đây, chỉ lèo tèo vài món hàng meo móc. Sự phong toả của Đồng Minh đã làm cho cái bụng của Nhật Bản thắt lại. Tôi không ngớt đi qua những đám đông công nhân đang phá hủy nhà cửa dọc theo hai bên đường. Hàng mấy trăm người làm công việc nầy, nhằm dọn những khoảng trống để lửa không bắt qua, phòng ngừa trước các cuộc oanh tạc. Nhiều gia đình bắt buộc ra khỏi nhà, đứng thành từng nhóm nhỏ trên đường, đưa mắt buồn bã nhìn người ta xé nát căn nhà của mình ra mảnh vụn.
Tôi đã từng chứng kiến các trận oanh tạc. Đối với tôi công tác phá hủy nầy là một cố gắng đáng thương hại, một nổ lực hoang phí, ít có hiệu quả trong việc chống lại loại bom cháy. Hầu hết dân chúng đi trên đường đều mặc đồng phục làm việc, hoặc loại quần án căn bản của thời chiến, na ná như quân phục. Tôi không nhìn thấy một người đàn bà nào mặc y phục "Ngày Chúa Nhựt", những chiếc Kimono màu sặc sỡ thời tiền chiến. Thay vào đó, họ mặc áo "Monpe" màu nâu sậm, và quần vải trơn rộng thùng thình.Mỗi góc phố đều có đàn bà và trẻ con nối đuôi dài ngoằn, kiên nhẫn chờ đợi mau thức ăn. Mặt mày họ gầy tóp và lạnh lùng, chứng minh hùng hồn tình trạng thiếu thực phẩm đang đè nặng trên đời sống dân chúng. Không phải mọi thứ đều đổi thay. Mấy chiếc loa phóng thanh đặt ở mỗi góc phố vẫn còn xỉa xói vô tai những lời hò hét, ca ngợi các chiến thắng tưởng tượng. Bích chơpng tràn ngập thành phố, kêu gọi dân chúng sản xuất mạnh mẽ hơn, chịu đựng thiếu thốn nhiều hơn, cho đến khi Nhật Bản hạ gục đối phương.
Tôi cảm thấy bịnh hoạn. Chưa bao giờ tôi tưởng tượng mình sẽ được nhìn thấy nỗi khổ tận cùng hằn sâu trên gương mặt của dân chúng Nhựt đến mức ấy.
Tôi chờ nhiều phút trước cửa nhà chú tôi. Có người đang dạo dương cầm ... người đólà Hatsuyo chớ không ai khác. Tôi lắng nghe trong giây lát, khúc nhạc đầu tiên của nhiều tháng trước đây. Tiếng nhạc ngưng lại khi tôi gõ cửa. Tôi nghe tiếng chân của Hatsuyo chạy. Nụ cười của nàng rạng rỡ như một tia nắng ban mai. "Saburo! Ồ, gặp lại anh thật tuyệt dịu!" Nàng kêu lên. Nàng nhìn tôi chăm chú hồi lâu. "Tất cả gia đình đều cầu nguyện cho anh trở về, Saburo," giọng nàng êm ái. "Mọi người hầu như đều gặp mau mắn. Anh trở về rồi đây, và đã trở thành một sỹ quan."
Ngôi nhà quen thuộc không có gì đổi khác. Đối với tôi, vẫn là ngôi nhà đẹp hơn bất kì ngôi nhà nào khác, bởi ngôi nhà nầy là của Hatsuyo. "Em càng ngày càng đẹp," tôi nói "một vật mỹ lệ nhứt mà anh được thấy trong nhiều tháng nay. Nhưng tại sao em ăn mặc như vậy? Em là anh choá cả mắt," tôi tỏ vẻ lạ lùng. Nàng mặc một chiếc áo Kimono trang nhã, thẳng nếp và gọn ghẻ trên thân hình mảnh khảnh của nàng.
Nàng cười dòn tan. "Saburo, thỉnh thoảng anh giống như một gã ngù ngờ! Anh không biết đây là một trường hợp đặt biệt hay sao? Em mặc áo nầy là mặc cho anh. Em kiên nhẫn chờ đợi để được mặc nó khi tiếp đón một tân sĩ quan!" Nàng cười. " Đây, hãy nhìn hai cái tay áo nầy?" Hai tay áo bị cắt cụt phân nữa!
" Chính phủ ra lịnh cho chúng em cắt ngắn tay áo," nàng cười thích thú, xoay vòng quanh, hai bàn tay đưa về phía trước. "Anh không biết hả," nàng thì thầm với dáng vẻ nghiêm trọng, "tay áo dàu không thích hợp với tình trạng nguy cấp hiện thời."
Tôi mỉm cười. "Hatsuyo, mọi người đi đâu hết rồi?" tôi hỏi. "Chú thím không có ở nhà hả?"
Nàng lắc đầu. " Chỉ một mình em ở nhà để đón anh, Saburo. Ba em không có ngày nghỉ. Ông tình nguyện tham gia vào công việc bảo vệ quê hương. Ông gia nhập vào Quân Đoàn Trù Bị Lục Quân và hiện đang tập tành ở một ngôi trường trung học gần đây. Đêm nay Michio sẽ làm việc phụ trội trong cơ xưởng."
Mặt nàng trở nên u ám. "Má em cũng đi khỏi, Saburo. Bà định mua một cái gì đặt biệt để tiếp đãi anh ở ... ở chợ đen."
Tôi nhìn Hatsuyo. Nếu thím tôi làm như vậy, bà sẽ gặp rắc rối với cảnh sát. "Tại sao thím lại làm như vậy? Tôi lo nghĩt. "Thím không biết việc gì có thể xảy ra cho thím hay sao?"
"Em biết, em biết, Saburo". Nhưng bà cứ muốn được tiếp đón anh một cách vui vẻ.
Tôi lắc đầu. "Hy vọng mọi việc đều êm xuôi. Khi gọi giây nói cho thím, anh có cho thím biết hiện thời không một quân nhân nào đến thăm một gia đình dân sự lại không mang theo phần ăn của mình bao giờ". Tôi chỉ cho Hatsuyo thấy cái hộp thức ăn tôi mang theo, cũng như nhiều tặng phẩm khác mà tôi đã mua trong hợp tác xã quân đội Yokosuka.
Hatsuyo bối rối. " Cám ơn anh, Saburo, và em ... cám ơn anh"
Nàng nói lãng sang vấn đề khác. "Hãy đến ngôi đây, Saburo. Rồi, bây giờ anh kể cho em nghe mọi chuyện từ ngày anh ra đi. Những gì đã xảy ra ở Iwo Jima? Gia đình không nghe đài phát thanh đề cập đến, chỉ toàn là tin tức về cuộc chiến đấu khủng khiếp ở Saipan." Tôi bối rối. Chúng tôi có nhận được nghiêm lịnh không được tiết lộ những gì đã xảy ra ở Iwo Jima. Thảm họa mà lực lượng chúng tôi chịu đựng ở đó được xếp vào hàng tối mật, và không ai bên ngoài quân đội được biết đến sự thật xảy ra. Tôi xoay vấn đề, kể về chuyện những chiến đấu cơ mới mà tôi đã bay thử. "Nếu chúng ta có đủ những chiến đấu cơ mới nầy, chúng ta có thể lật ngược tình thế," tôi nói " Với tốc độ phi thường, võ trang hùng hậu, loại phi cơ mới đủ sức tiêu diệt bất kì loại phi cơ nào của địch quân." Tôi nói dối, tôi ý thức được điều nầy. nếu cuộc huấn luyện cứ giữ một mực, với các khoá sinh đâm đầu xuống đất hàng ngày, chúng tôi chỉ có một vài phi cơ may mắn lên được trên không cho tới lúc chiến đấu.
Sau nửa giờ nói chuyện quanh quẩn mọi vấn đề, có một vấn đề cần thiết nhứt mà tôi chưa nói. Tôi liếc nhìn dáng ngồi nghiêng của nàng, nhìn điệu bộ khi nàng nói, đôi mắt ngời sáng khi nàng thích thú, đôi má lúm đồng tiền khi nàng cười.
Tôi muốn nói với Hatsuyo, nói một mạch không cần suy nghỉ. Tôi yêu nàng. Tôi muốn nàng biết tất cả mọi suy nghỉ của tôi. Hai tháng qua, nhưng đối với tôi hình như chỉ một đôi phút đây thôi, khi tôi quay đầu lại và nhìn thấy Iwo Jima tan biến dần ở chân trời thì hình ảnh của nàng hiện đến. Lúc ấy tôi nguyện với lòng rằng, nếu có một phép lạ nào đó mà tôi còn sống sót, tôi sẽ kể cho nàng nghe tất cả những cảm nghỉ của mình. Bây giờ ... tôi không thể nói! Không có gì thay đổi cả! Tôi vẫn là một phi công cd, cho dù tôi đã bước lên hàng ngũ sĩ quan. Tôi biết, tôi sẽ bay chiến đấu trở lại, và những chiếc Zero bùng cháy mà tôi đã nhìn thấy rơi xuống trước họng súng của những chiến đấu cơ Hellcat vẫn còn in đậm trong tâm trí của tôi. Tôi biết, chúng tôi phải đương đầu với những đối thủ vượt trội. Nếu chiến đấu trở lại, tôi sẽ đâm đầu xuống đất và chết cháy. Không biết giây phút nào.
Bỗng nhiên Hatsuyo làm tôi bừng tĩnh. " Saburo," nàng dịu dàng nói, "Anh có biết Fujiko đã lấy chồng rồi không?"
Tôi không biết. " Sau khi mọi chuyện êm lắng," nàng nói tiếp, "Fujiko kết hôn với một phi công. Một phi công. Giống như anh." Nàng thêm, giọng châm chọc.
Tôi muốn nói, nhưng nàng tiếp. "Saburo, tại sao anh chưa chịu lập gia đình? Anh không còn trẻ nữa, anh biết rồi. Anh đã hai mươi bảy tuổi đầu. Anh đã nên người. Anh đã là một sĩ quan. Anh nên lo việc hôn nhân."
" Nhưng anh đã nói với em, Hatsuyo, anh không quen biết một cô gái nào hợp với anh cả."
" Anh không yêu Fujiko?"
Tôi không biết nói sao. Một nỗi im lặng nặng nề vây lấy chúng tôi. Hatsuyo bước đến vặn nút chiếc máy phát thanh, bắt giờ nhạc êm dịu buổi trưa. Âm nhạc phá tan không khí nặng nề. Nàng quay lại và ngồi xuống bên tôi. "Được rồi," nàng nói, "dĩ nhiên, Saburo, anh cần phải tìm một người vợ thích hợp với anh mọi mặt."
Hatsuyo đang làm tôi bối rối. Nàng không chịu nhìn nơi khác, mắt của nàng cứ nhìn tôi đăm đăm. Tôi trở nên luống cuống, định nói nhưng miệng cứ ấp úng mãi
Tôi đứng ngay dậy và bước đến cửasổ, đưa mắt nhìn ra ngoài. Vườn hoa xinh xắn biến mất, thay vào đó là những gốc rau.
" Còn nhiều người đẹp hơn Fujiko nữa, Saburo," Hatsuyo nói. Nàng đã đến bước đến phía sau tôi, và hiện tại hầu như thân thể nàng chạm vào tôi.
" Hatsuyo!" Tôi la lớn. "Anh không muốn nói đến chuyện nầy nữa!" Cơn thịnh nộ của tôi khiến nàng hoảng hốt. " Chúng ta đã nói đi nói lại bao nhiêu lần rồi. Nhưng thực tế không hề thay đổi. Không có gì thay đổi hết. Anh vẫn là một phi công, em biết chớ? Mỗi lần anh cất cánh là có thể anh không bao giờ trở về. Mỗi lần! Điều đó chắc chắn xảy ra, không chóng thì chầy. Không chóng thì chầy!"
Tôi bực bội và phiền não. Tại sao nàng cứ nói đi nói lại về chuyện hôn nhân? Tôi thấy tôi đáng ghét, do những lời lẽ mà tôi đã thốt ra. Tôi thấy tôi đáng ghét, vì không dám nói ra cảm nghỉ của mình cho nàng nghe.
" Hiện tại không có một phi công nào mà không chuẩn bị để chết, Hatsuyo," tôi giải thích. " May mắn cỷa chúng anh được đặt ra ngoài. Tài ba vô dụng. Việc nầy..."
" Anh nói giống như trẻ con. Saburo," Đôi mắt nàng bừng lên nỗi giận dỗi. Tiếng nàng trầm xuống đến nổi tôi phải cố lắng nghe. " Anh cứ nói vòng quanh, và anh không biết những gì anh đang nói. Anh không biết trái tim của một cô gái."
Nàng giơ tay lên trong một dáng điệu giận dữ. " Anh nói về chuyện bay bổng, anh về chuyện chết chóc, Saburo. Anh không biết nói gì khác hơn. Anh không biết nói về sự sống còn." Nàng bước đến tắt chiếc máy thâu thanh với một cử động giận dữ. Không thèm để ý đến tôi, nàng ngồi trước chiếc dương cầm, mấy ngón tay uể oải trên phím đàn. Tôi câm miệng. Nhiều phút trôi qua, tôi đứng chôn chân một chổ, không nói một lời. Cuối cùng, tôi lên tiếng. " Hatsuyo, anh ... anh không biết. Có lẽ, nếu ... Đó là lỗi của anh. Anh có thể làm gì được một khi chúng ta đang ở vào thời chiến?" Tôi nói lớn. " Tại sao em cứ nói mãi vấn đề nầy?".
" Gặp em trong ngôi nhà nầy, như vậy đã là quá đủ đối với anh rồi." Tôi tiếp. " Anh muốn ... ồ, anh không biết," tôi ấp úng. "Tất cả những gì anh muốn biết, tất cả những gì mà anh ao ước là được thấy em vẫn còn sống sót và hạnh phúc."
Nàng đập mạnh đôi tay lên phím đàn và quay lại. "Em không muốn sống nữa! sống để làm gì và ... và..." Nàng đặt tay lên ngực: "trống rỗng ở đây? Không một ai trong chúng ta, ngay cả một phi công, ngay cả những người trong ngôi nhà nầy có thể nhìn thấy trước sự sống còn. Anh không hiểu như vậy sao, Saburo?"
Cơn giận của nàng khiến tôi giật mình. "Một người đàn bà chỉ hạnh phúc," nàng nói thẳng, " một khi nàng được sống với người đàn ông mà nàng yêu thương. Cho dù, cho dù chỉ một đôi ngày cũng được." Nàng quay khuôn mặt bi thiết đi, dồn hết giận dữ lên chiếc dương cầm. Tôi đứng như trời trồng, không biết nói hoặc làm gì.
CHƯƠNG XXII
Vào ngày 30 tháng Mười, mười ngày sau các bính sĩ đầu tiên của Hoa Kỳ tràn lên bãi biển Philippine, Bộ Tư Lịnh Tối Cao Hoàng Gia đưa ra thông cáo lịch sử nầy:
" Đơn vị Shikishima, thuộc không đoàn Tấn Công Đặt Biệt, vào lúc 10 giờ 45 phút ngày 25 tháng Mười năm 1944 đã thành công trong một cuộc tấn công bất ngờ chống lại lực lượng đặc nhiệm đối phương, trong đó có 4 hàng không mẫu hạm, cách Đông Bắc đảo Suluan, thuộc quần đảo Phi Luật Tân, ba mươi hải lý. Hai phi cơ tấn công đặc biệt đã đâm nhào xuống một hàng không mẫu hạm địch, gây nhiều đám cháy và tiếng nổ lớn, và có lẽ chiếc tàu đã chìm. Một phi cơ thứ ba đã chúi xuống một hàng không mẫu hạm khác, gây một đám cháy khổng lồ. Một phi cơ thứ tư khác cũng chúi xuống một hàng không mẫu hạm, gây ra một tiếng nổ dữ dội và chiếc tàu đã chìm ngay sau đó."
Tiếng sấm của của những ngọn Thần Phong đã bắt đầu. Nhiệm vụ tự sát đầu tiên do trung úy Yukio Seki thực hiện. Yukio cầm đầu 5 chiến đấu cơ Zero, mỗi chiếc mang một trái bom 550 cân Anh. Seki là một phi công oanh tạc cơ có khoảng 300 giờ bay, bốn phi công khác cũng không hơn hắn mấy. Tuy nhiên, chỉ có một trong năm chiếc không chúi trúng mục tiêu.
Bốn chiếc Zero bay theo hộ tống năm chiến đấu cơ tự sát. Sau đó tôi biết được người cầm đầu nhóm hộ tống là người bạn Hiroyoshi Nishizawa của tôi, hiện thời là một chuẩn úy. Nishizawa đã khéo léo né tránh sự ngăn chặn của hơn hai mươi chiếc Hellcat, đưa năm phi cơ Thần Phong xuyên qua những trận cuồng phong để tiến đến hạm đội địch quân.
Sau khi năm phi cơ Thần Phong đã chúi xuống, Nishizawa trở về sân bay Mabalacat ở Cebu, và báo cáo kết quả phi thường của nhiệm vụ.
Trong binh chủng hải quân, nơi nào các phi công cũng bàn về cuộc tấn công chưa từng có trước đây. Và cuộc tấn công đã đạt đến một kết quả rực rỡ nầy, trái ngược hẳn những mất mát đầy bi thảm trong cuộc tấn công của chúng tôi ở Iwo Jima. Trong tư cách một phi công chiến đấu, tôi không tán thành nhiệm vụ tự sát, nhưng hiện tại không thể phủ nhận hiệu quả của cú đấm kinh khiếp đã giáng xuống hạm đội Hoa Kỳ ở Philippine. Thật ra, ở hiện tại, tôi ý thức rằng việc bổ nhào xuống để tự sát có vẻ là phương pháp duy nhứt của chúng tôi để đánh trả lại tàu chiến Hoa Kỳ.
Từ ngày đó trở về sau, danh từ Kamikaze nằm trên đầu môi của chúng tôi. Chúng tôi biết mỗi lần Kamikaze cất cánh là mỗi lần đi vào cõi chết. Nhiều Kamikaze không thể nào tiến đến các mục tiêu, vì bị phi cơ nghinh chiến của đối phương bắn hạ hoặc bị những bức tường hoả lực phòng không kiên cố do các chiến hạm địch tạo ra ngăn chận.
Nhưng luôn có những Kamikaze vượt thoát để rồi nhào xuống chiến hạm địch giống như những hồn ma phục thù, có nhiều chiếc tiến đến mục tiêu với đôi cánh rách te tua hoặc bao trùm trong lửa đỏ. Thỉnh thoảng từng chiếc một, hai chiếc, hoặc cả nhóm từ sáu đến mười sáu chiếc Kamikaze lướt lên không trung cho lần đi cuối cùng.
Thần Phong đã cho chúng tôi một sức mạnh mới đầy kinh khiếp. Hiệu quả được nhìn thấy qua một một số chiến hạm và quân vận hạm địch, có lần là những mục tiêu khó xâm nhập vì được hoả lực bao che mạnh mẽ, hổn loạn trong cảnh xăng cháy, bom nổ và tiếng người la hét.
Những Kamikaze đã cào các hàng không mẫu hạm từ mũi đến lái, đánh chìm nhiều hơn bất kì loại vũ khí nào mà chúng tôi đã từng sử dụng để tấn công loại tàu nầy. Còn loại tuần dương hạm và khu trục hạm, mỗi lần Kamikaze chúi trúng thì đó như là một hồi chuông báo tử được giống lên.
Đối với địch quân, họ coi sự tự sát của phi công Nhựt là bị ép buộc. Dĩ nhiên người Mỹ hoặc bất kì người nào thuộc thế giới Tây Phương không thể hiểu biết đầy đủ vấn đề nầy. Họ cho rằng mạng sống của binh sĩ Nhựt bị quăng ra một cách rẽ rúng. Trái ngược hẳn, các phi công Kamikaze đã tình nguyện hàng loạt để thực hiện các nhiệm vụ một chiều của họ.
Nhiệm vụ nầy không thể gọi là tự sát! Những phi công , trẻ có già có, họ đã không chết một cách vô ích. Mỗi phi cơ chúi trúng mỗi chiến hạm địch một cú đấm mà phi công đã dành cho quê hương của họ. Mỗi trái bom Kamikaze rơi trúng các bồn chứa xăng của một hàng không mẫu hạm khổng lồ, sẽ có nhiều kẻ thù bị giết, triệt hạ nhiều phi cơ bay đến thả bom và bắn phá trên mảnh đất quê hương của họ.
Những người nầy có niềm tin. Họ tin vào nước Nhựt, họ đánh kẻ thù bằng chính mạng sống của họ, cho nước Nhựt. Đó là một cái giá rẽ, một người đánh đổi lấy mạng sống của hàng mấy trăm người đôi khi cả hàng mấy ngàn người. Xứ sở của chúng tôi không thể nào dựa vào sức mạnh của những chiến thuật thông thường hiện tại.
Tuy nhiên, một lần nữa, Thần Phong là một trường hợp quá ít ỏi, quá muộn màng. Ngay cả những thành quả vĩ đại được gặt hái bởi các phi vụ Kamikaze cũng không thể nào chận đứng cú đấm tập trung khủng khiếp của người Mỹ. Họ quá mạnh, quá nhiều, quá tiến bộ. Họ có quá nhiều chiến hạm, quá nhiều phi cơ, súng ống và nhân lực.
Dĩ nhiên, những phi công Nhựt thực hiện phi vụ của họ đều ý thức được việc nầy. Chắc chắn có nhiều phi công Thần Phong ra đi với thừa nhận tình thế tuyệt vọng của Nhật Bản trong cuộc chiến. Nhưng họ không co đầu rụt cổ, không do dự. Họ bay và chết cho xứ sở của họ.
Có những điềm xấu báo trước cho dân tộc chúng tôi. Một trong chiếc B.29 vĩ đại bay ù ù trên không phận Đông Kinh lần đầu tiên vào ngày 1 tháng 11 năm 1944, xuất phát từ các căn cứ mới trên đảo Saipan. Giờ phút hãi hùng của dân chúng ở kinh đô hầu như đã nằm trong tầm tay, vì điều hiển nhiên chiếc oanh tạc cơ đáng sợ đó chỉ là một phi cơ do thám lót đường cho những chiếc khác nối bước trong tương lai gần. Chiếc Siêu pháo đài bay đã lướt một cách nhởn nhơ, xa tít trên không phận Đông Kinh, và các chiến đấu cơ của Lục Quân cũng Hải Quân cuống cuồng nhảy lên để chận bắt kẻ xâm nhập. Nhưng tất cả đều không thể nào tiến sát để bắn ra một phát đạn.
Vào ngày 5 tháng 11, và một lần nữa vào ngày 7, một chiếc B.29 đơn thân độc mã từ Saipan đến viếng thăm thủ đô Đông Kinh. Lần thứ hai và thứ ba nầy, các chiến đấu cơ Nhựt đều ùa lên không, và cố đạt đến cao độ cho bằng phi cơ địch một cách vô ích. Bộ Tư Lịnh Tối Cao nổi nóng, chửi bọn phi công vụng về và ngu xuẩn. "Chỉ có một chiếc phi cơ địch mà không làm nên trò trống gi cả." Họ thét.
Họ không hiểu sự khó khăn trong việc ngăn chặn các Siêu pháo đài bay ở cao độ đó. Một việc nữa, chỉ trong vòng một vài phút giữa thời gian nhận báo động và cất cánh không thể cho phép chiến đấu cơ lên đến nơi thì oanh tạc cơ địch đã bay mất. Cho dù có tiến lên kịp đi nữa, phi công Nhựt cũng không chắc có thể đuổi kịp tốc lực đáng kinh sợ của chiếc B.29.
Vào tháng Mười Hai, những cú đấm chờ đợi từ lâu đã đến. Đông Kinh, Osaka, Nagoya, Yokohama và nhiều thành phố lớn khác của xứ sở chúng tôi nằm khoanh dưới những đợt tấn công khủng khiếp của các oanh tạc cơ Hoa Kỳ. Chúng san bằng các cơ xưởng chế tạo máy bay, và hủy diệt lần lượt mọi cơ xưởng khác.
Những cuộc không tập khủng khiếp trên các thành phố lớn của Nhật Bản đã được lịch sử dành cho những chương vĩ đại nhứt. Đó là một câu chuyện mà cả thế giới đều biết rõ.
Các siêu pháo đài bay đều xuất hiện trong đêm, và hầu hết phi công Nhựt chỉ biết ngồi bó gối trên mặt đất, miệng không ngớt nguyền rủa sự yếu kém khả năng hoạt động đêm của chiến đấu cơ Nhựt và sự khiếm khuyết huấn luyện dạ chiến của họ. Phi cơ địch chỉ bị hoả lực phòng không phá rầy mà thôi.
Khắp nơi, chúng tôi đang thua. Mọi nơi, chúng tôi bị đối phương bắt buộc phải thối lui, phải triệt thoái. Các đơn vị không quân của chúng tôi bị cắt ra từng mảnh, phi cơ của chúng tôi rơi như lá rụng, phi công của chúng tôi không chết một người, hai người hoặc ba người lẻ tẻ, họ chết hàng mấy chục trở lên. Vào giữa tháng Hai, năng lực phòng thủ Philippine của chúng tôi hấp hối. Mọi phi cơ Nhựt trên quần đảo đều biến mất, nếu không bị chiến đấu cơ Mỹ đẩy rớt xuống đất, thì cũng bị các cuộc tấn công Kamikaze thiêu rụi hết. Các cuộc tấn công nầy cứ tiếp tục cho đến khi không còn chiếc phi cơ nào để tiếp tục.
Vào ngày 20 tháng Giêng năm 1945, hải quân Hoàng Gia thành lập một không đoàn chiến đấu cơ mới, không đoàn cuối cùng của cuộc chiến, ở Matsuyama, trên đảo Shikoku. Khi thuyên chuyển đến căn cứ không quân mới, tôi gặp trung tá Nakajima, ông được chỉ định vào chức vụ chỉ huy phó không đoàn. Ông rút khỏi Philippine với mười lăm phi công chiến đấu cơ khác để lập nền tảng cho không đoàn mới. Đây là không đoàn bao gồm những tay chiến đấu tài ba. Chỉ huy trưởng không đoàn là đại tá Minoru Genda, được xem như là một trong những chiến lược gia hải quân sáng chói nhứt của Nhật Bản.
Nakajima là người duy nhứt mà tôi quen biết nhiều. Một hôm có dịp tôi vô văn phòng của ông với ý định nhắc nhở lại những người đã từng chiến đấu với chúng tôi trong quá khứ. Tôi đã lặng người khi ông cho tôi biết tin tức về cái chết của Nishizawa.
"Hắn đã mất", Nakajima nói, "trong một trường hợp đáng tiếc xảy ra vào ngày 26 tháng Mười, ngay sau ngày cuộc tấn công Thần Phong đầu tiên."
"Nishizawa đã tình nguyện tham dự phi vụ Thần Phong vào ngày kế đó, sau khi hộ tống năm chiến đấu cơ Zero chúi xuống chiến hạm địch trở về. Hắn nói với tôi rằng hắn sẽ chết sớm. Việc nầy thật lạ lùng," Nakajima nghĩ ngợi, "nhưng Nishizawa nhấn mạnh rằng hắn có một linh cảm. Hắn cảm thấy đời sống của mình chỉ còn một đôi ngày nữa mà thôi."
"Tôi không cho hắn đi. Một phi công tài ba như vậy, để hắn chiến đấu sẽ có ích cho xứ sở hơn là để hắn chúi xuống một hàng không mẫu hạm. Nhưng hắn cứ nằng nặc xin đi cho được
"Nhưng, vào ngày chiếc chiến đấu cơ của Nishizawa chuẩn bị sẵn sàng thì hắn được lịnh lái một chiếc vận tải cơ DC3 cũ kỹ và không võ trang, trên đó có một số phi công khác, đến phi trường Clark để nhận một số chiến đấu cơ Zero. Chiếc vận tải cơ cất cánh vào sáng sớm ngày 26 tháng Mười từ Mabalacat và mất tích luôn.
"Phi cơ của hắn có lẽ bị chiến đấu cơ Hellcat hoạt động trong khu vực đó bắn hạ. Hình như hắn rớt ở một nơi nào đó ở Cebu. Tôi vẫn không thể nào tin nỗi, Saburo, một phi công vĩ đại như vậy lại chết như vậy, bất lực, không thể nào bắn được một phát súng tự vệ..." không còn gì để nói. Như vậy là Nishizawa cũng ra đi. Vị thần sát tinh của các phi cơ địch ở Lae và Rabaul đã đi chung đường với Sasai, Ota và những người khác.
"Ngay cả trong tình trạng chiến đấu ở Philippine gian nan hơn trước đây cũng không thể phá nổi những chiến thắng trên không của hắn." Nakajima nói, và ông tin rằng Nishizawa đã hạ hơn 100 phi cơ địch trong các trận không chiến. Điều nầy không thể nghi ngờ, cả tôi lẫn Nakajima hay bất kì người nào đã từng biết và chiến đấu với Nishizawa đều phải công nhận hắn là một "Ace" vĩ đại nhứt của Nhật Bản, một phi công có khả năng và tài ba vô tiền khoáng hậu. Vậy mà hắn đã thiệt mạng trong một vận tải cơ không võ trang! Tin tức về cái chết của hắn đã gây cho tôi một sự xúc động kì dị. Tôi trở về chổ trú khu, lấy giấy và viết ra. Ít nhứt, tôi nghĩ, trước khi chết tôi phải bày tỏ với Hatsuyo những gì mà tôi muốn nói, những gì mà tôi cảm thấy nàng cũng muốn biết.
"Anh đã được chỉ định vào nhiệm vụ chiến đấu trở lại," tôi viết. "Từ đây trở về sau, Nhật Bản sẽ phải chống chọi lại với một kẻ thù vượt trội mọi mặt. Hôm nay, anh vừa nghe tin người bạn rất thân của anh, Hiroyoshi Nishizawa, đã bị thiệt mạng ở Philippine. Nishizawa là phi công vĩ đại nhứt của xứ sở chúng ta. Anh cảm thấy nếu một người như vậy mà không thể sống sót được thì đối với anh, bất lợi về mất một mắt, chắc chắn anh sẽ nối bước theo hắn không lâu.
"Có lẽ đây là bức thơ cuối cùng anh viết cho em. Thật là ngại ngùng, Hatsuyo, nhưng mà anh không thể nào chờ đợi lâu hơn nữa để bày tỏ những gì mà anh muốn nói từ lâu.
"Lần nói chuyện cuối cùng vừa rồi, em đã nói rằng anh không hiểu trái tim của một người đàn bà. Em đã sai lầm, Hatsuyo. Sai lầm quá đỗi.
"Em có nhớ lại những ngày thơ ấu của chúng ta không? Những ngày huyền diệu, tràn ngập tiếng cười đùa ấy? Anh và em đã sống như tình ruột thịt, và ngay cả thời gian sau nầy chúng ta vẫn còn cảm thấy như vậy.
"Những gì mà anh muốn nói với em từ lâu, Hatsuyo, là trong tim anh, em chính là người anh yêu mến nhứt trên quả đất nầy. Bây giờ, anh biết, anh đã coi em như một người mà anh đặt tình yêu duy nhứt vào đó. Có lẽ nói như vậy thật bậy, có lẽ điều nầy anh nói ra không phải lối nhưng anh tin rằng hình ảnh của em không lúc nào vắng bóng trong tim anh. Trước đây anh không biết, nhưng anh đã biết điều đó trong những tháng cuối cùng nầy.
"Anh đã yêu em từ lâu, Hatsuyo, và yêu em sâu đậm. Lúc ấy anh đã chôn dấu tình cảm thật sự của anh. Anh yêu em! Anh đã chờ đợi để thốt ra những lời nầy từ lâu lắm rồi. Chiến tranh đã dựng lên một hàng rào vĩ đại ngăn cách chúng ta. Anh ý thức rằng tình cảm của anh không bao giờ bày tỏ được, rằng tình yêu nầy sẽ chôn kín mãi mãi tronglòng.
"Hơn tất cả, chúng ta là anh em bà con. Có lẽ đó là điều tốt nhứt để đặt cuộc hôn nhân nằm phía bên kia tầm tay của chúng ta. Nhưng bây giờ, anh đã nói ra những gì cần nói. Và bây giờ, tình yêu của anh, đó là vật duy nhứt mà anh dành cho sự cầu nguyện. Mong em sống dài lâu, mong hạnh phúc sẽ thuộc về em mãi mãi."
Sáng hôm sau công việc huấn luyện chiến đấu của chúng tôi bắt đầu phấn khởi. Các phi công la hét ồn ào, khi họ nhìn thấy hàng mấy chục chiến đấu cơ loại mới bóng mượt đáp xuống phi trường. Shiden. Loại chiến đấu cơ mà tôi đã từng bay thử không lâu trước đây. Bọn phi công mừng quýnh khi đưa các chiến đấu cơ mới nầy rời khỏi mặt đất. Tốc lực cao! Bốn đại bác! Bọc sắt! Lướt lên dữ dội! Chúi xuống như chớp!
Tinh thần của mọi người lên cao trở lại. Đa số các phi công trong tân không đoàn đã từng tham dự nhiều trận đánh và nhiều người đã hạ trên mười phi cơ địch. Chúng tôi là thành phần ưu tú của toàn thể các đơn vị không quận thuộc hải quân Hoàng Gia, điều nầy đã giải thích tại sao chúng tôi được cung cấp những phi cơ mới. Mặc dù rất cần những người tình nguyện trong các đơn vị Thần Phong, các phi công của không đoàn mới nầy hợp lại được xem là vũ khí trên không mạnh mẽ nhứt của Nhật Bản từ trước đến nay, và trung tá Nakajima đã bác bỏ tất cả những lời thỉnh cầu chuyển sang các đơn vị Thần Phong.
Hơn mười ngày trôi qua, bức thơ tôi gởi cho Hatsuyo không thấy hồi âm. Tôi không hiểu tại sao nàng không trả lời tôi. Nhưng tôi không thể để cho tình cảm chi phối nhiệm vụ, nhứt là ở hiện tại. Vào ngày thứ mười hai sau khi tôi gởi bức thơ, lúc tôi rời khỏi lớp học mà tôi vừa giảng dạy về các kỹ thuật không chiến, một liwn lạc viên chạy đến báo cho tôi biết các hai người khách đang chờ đợi tôi. Tôi ra phòng khách ngay lập tức.
Tôi nhận thấy Hatsuyo và thím tôi đang chờ. Ngay khi tôi bước vô phòng, Hatsuyo đứng bật dậy. "Em đến đây, Saburo," nàng dịu dàng nói. "Em đến đây để bàn về cuộc hôn nhân của chúng ta."
Tôi đứng bất động, không nói nên lời. "Nếu anh chuẩn bị để chết, Saburo, em cũng sẽ chuẩn bị như anh. Nếu chúng ta chỉ được một đôi ngày hoặc một đôi tuần bên nhau, ít ra chúng ta cũng sẽ có khoảng thời gian ấy trong tay khi chết. Đó là ý muốn của Thượng Đế dành cho chúng ta."
"Hatsuyo!" Tôi kêu lên. Chuyện nầy khó thể tin là sự thật. Tất cả hoàn toàn kỳ diệu đối với tôi.
Thím tôi cũng góp lời để tác hợp chúng tôi.
Tôi sung sướng đến phát điên lên. Nhưng trước khi chúng tôi bàn xa hơn về hơn về hôn lễ, tôi cần phải viết thơ cho má tôi để yêu cầu người ưng thuận. Trong thơ hồi đáp, má tôi cho biết bà rất tán thành nhưng không thể tham dự hôn lễ. Đường hoả xa Kyushu hoàn toàn gián đoạn. Bà yêu cầu thím tôi lo liệu mọi chi tiết cần thiết.
Hatsuyo và tôi kết hôn vào buổi chiều ngày 11 tháng Hai năm 1945, ngày Quốc Khánh của Nhật Bản. Hôn lễ cử hành đơn giản. Không một phi công nào tham dự, vì xế trưa hôm đó có báo động không tập.
Tuần trăng mật dĩ nhiên bị gạt ra ngoài vì hoàn cảnh hiện tại. Chủ Nhựt kế đó, chúng tôi mời 50 phi công của không đoàn tham dự một bữa tiệc để đền bù sự vắng mặt của họ vào đêm hôn lễ của chúng tôi. Buổi tiệc kéo dài quá nửa đêm. Đó là những giờ phút sung sướng nhứt mà tôi chưa từng biết trước đây. Tất cả những hạnh phúc của quá khứ như bị hạnh phúc của hiện tại che mờ hết.
Mắt tôi không lúc nào rời khỏi Hatsuyo. Nàng là một giấc mơ có thật, một nữ hoàng trong những câu chuyện thần tiên, xinh đẹp, rực rỡ. Nàng là vợ tôi.
CHƯƠNG XXIII
Vào tháng Ba năm 1945, lần đầu tiên và cũng là lần duy nhứt trong lịch sử của hải quân Nhựt, hai phi công chiến đấu hải quân được tuyên dương công trạng đặc biệt. Bộ Tham Mưu của Hoàng Gia đã đưa ra hành động như vậy có lẽ do ảnh hưởng tình hình quân sự khủng hoảng. Tuyên dương công trạng cho tôi và trung sỹ Shoichi Sugita, cả hai đều thuộc không đoàn Matsuyam, với ý định thúc đẩy tinh thần suy nhược của đa số phi công lúc bấy giờ.
Sugita, hai mươi bốn tuổi, phi công sáng chói. Hầu hết các hoạt động chiến đấu của hắn đều ở Truk và Philippine, Sugita đã hạ tất cả 120 phi cơ địch.
Tuy nhiên, con số đó chủ có tánh cách phỏng định. Riêng tôi, tôi tin tưởng tổng số phi cơ mà Sugita bắn hạ khoảng 80 chiếc. Sugita công nhận có nhiều chiến thắng đáng ngờ vực và không được xác định, bởi lẽ có những hoàn cảnh chiến đấu khó thể đưa ra sự kiểm soát đúng mức. Hầu hết các cuộc không chiến xảy ra gần đây, Sugita đều không có thời giờ để nhìn một chiếc phi cơ bốc cháy, tan vỡ hoặc phi công có nhảy dù ra ngoài hay không. Thật sự, chiến đấu cơ của chúng tôi không được trang bị máy chụp hình nên khó thể lấy đó làm căn cứ để xác nhận mục tiêu bị hủy diệt.
Khi một quốc gia đang thắng thế, mọi chiến công đều được soát lại một cách cẩn thận, như chúng tôi đã từng làm trong các cuộc không chiến dễ dàng của chúng tôi ở Moresby. Nhưng khi tình hình trở nên tồi tệ, qua một loạt chiến đấu trong thế thủ chống lại một đối phương vượt trội, sự chính xác không còn được lưu ý nữa. Tuy nhiên, không ai có thể hồ nghi tài ba trên không của Sugita. Sau khi quan sát lúc Sugita chiến đấu, tôi cảm thấy hắn không thua gì Nishizawa.
Sugita đã chứng tỏ tài ba siêu việt của hắn vào ngày 19 tháng Ba khi không đoàn Matsuyama nghênh chiến những phi cơ phát xuất từ các hàng không mẫu hạm địch tấn công căn cứ hải quân Kure. Mọi người trên mặt đất đã la hét vang dội khi nhìn Sugita hạ hết chiếc Hellcat nầy đến chiếc Hellcat khác. Lúc ấy tôi đứng trên đài kiểm soát để theo dõi trận không chiến ngoạn mục nầy. Đó là lần đầu tiên chiến đấu cơ mới Shiden xuất trận. Hiển nhiên loại phi cơ nầy trên chân Hellcat về tốc độ vượt lên, cũng như về hoả lực.
Một giờ sau Sugita đáp xuống. Hắn không ngớt lời ca ngợi chiếc phi cơ của hắn. Hắn ghi thêm bốn điểm được xác nhận bởi các phi công khác và có lẽ thêm ba điểm nữa, nhưng không được xác nhận. Sugita cho biết chỉ vì hết đạn nên phải quay về.
Cả ngày đó chỉ có Không Đoàn Matsuyama nhóm lên được một tia lửa hi vọng. Khắp nơi trên lãnh thổ Nhật Bản, các phi công của chúng tôi không đạt được một chiến thắng nào. Thật vậy, các chiếc Hellcat đã dập tắt tất cả những nơi chống đối khác, và chiến thắng của chúng tôi có vẻ như là sự thiệt hại duy nhứt của đối phương. Sau nầy chúng tôi có nhận được các báo cáo không chiến của người Mỹ, trong đó cho thấy họ đã tỏ ra kinh ngạc về khả năng cao độ của chiến đấu cơ Shiden. Phi công Hoa Kỳ đã xao xuyến trước khả năng chịu đựng đạn đại liên của loại chiến đấu cơ mới nầy.
Tuy nhiên, trong vòng một tháng, thảm hoạ giáng xuống không đoàn của chúng tôi. Phi công vĩ đại nhứt vẫn còn sống sót ở Nhật Bản, Soichi Sugita, bị thiệt mạng. Không đoàn Matsuyama được chuyển đến Kanoya, ở miền Nam Kyushu, để chống lại phi công Hoa Kỳ không yểm cho cuộc đổ bộ Okinawa. Vào ngày 7 tháng Tư, không có dấu hiệu nào báo trước, một khối lượng chiến đấu cơ đông đảo của địch quân ào xuống phi trường của chúng tôi. Chúng tôi chỉ liếc thấy phi cơ địch ở cao độ 12.000 bộ khi chúng gầm thét bổ nhào xuống. Chúng tôi bị chôn chân trên mặt đất. Nhóm phi cơ địch chắc chắn xuất phát từ các hàng không mẫu hạm hoạt động ở trong hải phận Okinawa. Chúng tôi không có rada ở Kanoya, và khi còi báo động hụ thì chiến đấu cơ địch đã xuống tới nơi rồi.
Trên phi trường, lá cờ chỉ huy chiến đấu phất: "Đi và đánh". Nhiều phi công chạy ra phi cơ của họ. Nhưng đại tá Genda thét chúng tôi dừng lại và chạy vô các hầm trú ẩn. Hiển nhiên là quá muộn, không thể nào cất cánh được nữa. Nhưng Sugita, Shoji Matsumara và một phi công khác không nghe tiếng Genda. Ba người nầy đã nhìn thấy chiến đấu cơ trước khi có còi báo động nên đã chạy ra phi của họ rồi. Ngay lúc các chiếc Corsair và Hellcat sà thấp trên phi trường, Sugita và phi công bên cánh của hắn, với Matsumara phía sau, đang chạy đến vị trí cất cánh. Hai chiến đấu cơ địch chúi xuống từ bên phải và từ phía sau. Viên phi công bên cánh của Sugita cất cánh đầu tiên. Khi các bánh xe của chiếc chiến đấu cơ Saiden vừa rời khỏi mặt đất, một chiếc Corsair thổi ngay một loạt đạn. Dưới hoả lực của sáu khẩu đại liên, chiếc Shiden lảo đảo dữ dội, lộn nhào liên hồi, và đâm đầu xuống đất với một tiếng nổ khủng khiếp.
Mấy phút sau, một phi công địch khác lướt xuống với các họng súng rực lửa. Tôi khủng khiếp nhìn những viên đạn tung bụi dọc phi đạo và rót vô chiếc chiến đấu cơ còn đang di chuyển của Sugita. Sugita không thể nào tránh né nổi vì phi cơ của hắn vẫn còn ở trên mặt đất.
Đạn trúng vào các bình chứa xăng của chiếc Shiden khiến nó phát nổ và biến thành một trái cầu lửa. Lửa và khói cuồn cuộn tuông về phía sau chiếc phi cơ vẫn còn chạy trên phi đạo. Không có chuyển động nào bên trong phòng lái. Tôi không thể tin vào mắt của mình. Viên phi công vĩ đại nhứt của Nhật Bản đã chết trước mắt tôi.
Sự hủy diệt chiếc phi cơ của Sugita đã cứu mạng sống của Matsumara. Những cuộn khói dày đặc của chiếc phi cơ bốc cháy đã bao che cho phi cơ của Matsumara, khiến chiến đấu cơ địch không nhìn thấy. (Sau chiến tranh Shoji Matsumara là một phi công phản lực cơ F.86 Sabre trong tân không lực Nhật Bản. Hắn chấm dứt các phi vụ thời chiến với việc bắn hạ 6 chiếc Hellcat và Corsair trong những ngày chiến đấu cuối cùng)
Đây là những ngày khủng khiếp. Các phi công đại tài nhứt của Nhật Bản lần lượt ra đi dưới hoả lực của đối phương. Hai tháng sau cái chết của Sugita, Kinsuke Muto, người đã chiến đấu với tôi ở Iwo Jima, cũng đã thiệt mạng với hơn 35 điểm chiến thắng.
Chúng tôi không thể giữ sự xúc động trước cái chết của Muto lâu dài, khi xảy ra cái chết của một trong những "Ace" vĩ đại nhứt của chúng tôi, một cái chết khiến tất cả các phi công sửng sờ. Đại úy Naoshi Kanno, thuộc không đoàn Kanoya, đối diện định mạng gần Yaku Shima trong một chiến đấu cơ cuộn tròn lửa đỏ. Kanno nổi danh nhờ vào các thành quả chưa từng thấy trong việc chống lại loại oanh tạc cơ B.17 ở Nam Thái Bình Dương, với ít nhất 12 chiếc loại nầy bị bắn hạ trong tổng số 52 chiến thắng được xác nhận của ông. Ông là phi công đầu tiên tấn công trực diện bằng cách vừa lăn tròn vừa chúi xuống các pháo đài bay. Sau đó không lực Đức mới khám phá lối tấn công của ông và mang ra áp dụng.
Do đó, hiện thời bảng danh sách bao gồm các tên: Sasai, Ota, Nishizawa và những người khác được ghi thêm những tên tuổi lớn, Kanno, Muto và Sugita.
Bấy giờ tôi không được phép thực hiện các phi vụ chiến đấu trong thời gian ở Matsumara, là một "Ace" còn sống sót dẫn đầu tất cả các phi công khác. Những lời thỉnh cầu được lâm chiến với chiến đấu cơ Shiden của tôi luôn luôn bị đại tá Genda từ chối để rồi, cuối cùng ông ra lịnh cho tôi và Hatsuyo trở về Yokosuka. Vào tháng Tư, với sự chán nản vì mạng lịnh đặt tôi ra ngoài không trung, tôi trở về căn cứ mà tôi đã từng phục vụ trước đây.
Trở về Yokosuka, chúng tôi trãi qua bốn mươi giờ mệt mõi và mất ngủ trên xe lửa. Chúng tôi phải ngừng lại hơn hai mươi lần để đổi xa, bên ngoài các đô thị lúc ấy đang nhận sự trừng phạt nặng nề của oanh tạc cơ và chiến đấu cơ địch. Chúng tôi lướt qua những khung cảnh hoang tàn, đổ nát, dọc theo thiết lộ.
Nhưng chúng tôi đã kinh ngạc khi nhìn thấy thành phố hải quân to lớn Yokosukua vẫn còn nguyên vẹn. Thật lạ lùng, người Mỹ đã tránh né Yokosuka, trong khi hơn 100 thành phố khác bị họ thiêu rụi và san bằng, nhiều nơi không có giá trị chiến lược nếu được so với thành phố được xem là pháo đài hải quân nầy. Có lẽ Yokosuka không còn một chiến hạm hoặc hàng không mẫu hạm nào để làm mục tiêu cho phi cơ địch dội bom. Tôi chỉ thấy loại ca nô nhỏ chạy ngang chạy dọc trong hải cảng vĩ đại để diễn tập. Đây là những chiếc ca nô giống như loại phi cơ Kamikaze. Mỗi chiếc đều chất đầy chất nổ với nhiệm vụ đâm đầu vô chiến hạm địch để cùng hủy diệt. Một lần nữa Nhật Bản phải trả một cái giá rất đắt. Nhưng có bao nhiêu người Nhựt lái loại ca nô nhỏ bé nầy?
Hải quân cấp cho chúng tôi một căn nhà ba phòng gần phi trường Oppama, ở phía Bắc Yokosuka. Đời sống của chúng tôi thiếu thốn mọi bề. Hatsuyo đã xoay sở hết cách trên số thực phẩm yếu kém của chúng tôi. Thức ăn dành cho sĩ quan và binh sĩ không khác gì nhau. Tất cả hợp tác xã và các trung tâm trao đổi độc lập khác trống rỗng hàng hoá từ lâu. Hầu hết các tiệm buôn trong thành phố đều đóng cửa. Mặc dù thoát khỏi các cuộc không tập nghiền nát như đã xảy ra ở các thành phố khác, Yokosuka cũng ảm đảm và suy nhược. Nhiều người có vẻ đói ăn bước nặng nhọc trên đường phố.
Oanh tạc cơ B.29 vẫn tiếp tục đến xứ sở chúng tôi, số lượng đông đảo hơn, mang bom nhiều hơn.
Khắp nước Nhựt rúng động bởi các cuộc không tập Đông Kinh đã xảy ra vào đêm 10 tháng Ba. Hơn 19 dặm vuông của thành phố bị san bằng. Theo tin tức, có hơn 130.000 người thiệt mạng.
Nguyên thủy, Lục Quân lãnh trách nhiệm nhăn chặn các oanh tạc cơ địch, nhưng không bao giờ hoàn tất nhiệm vụ. Hiện tại, trách nhiệm bảo vệ quê hương nằm hoàn toàn trong tay hải quân. Mỗi ngày chiến đấu cơ của chúng tôi đều đụng độ với oanh tạc cơ B.29, và mỗi ngày hiệu năng mỗi giảm đi. Phi công chúng tôi đã tận lực, nhưng tận lực chưa đủ để chống các siêu pháo đài bay. Từ Atsugi gần Yokosuka, các chiến đấu cơ Raiden cất cánh thực hiện nhiều phi vụ nghinh chiến pháo đài bay B.29 với vài kết quả khả quan trong một giai đoạn ngắn. Sau đó, địch quân tung chiến đấu cơ Mustang đông đảo trong các cuộc không kích vào ban ngày. Chiến đấu cơ Raiden bó tay trước những chiếc Mustang vượt trội nhiều mặt. Hầu như mỗi ngày đều có chiến đấu cơ mới của chúng tôi bị cháy, cánh đứt lìa, phi công thiệt mạng.
Trong cuộc tàn sát khủng khiếp nầy, một phi công sáng chói xuất hiện, một người có khả năng bay siêu việt. Trung úy Teimei Akamatsu, một phi công khác biệt hẳn với các đồng đội, khác biệt có thể nói như đêm với ngày. Một phi công chiến đấu không cần sách vở, một loại anh hùng rơm, ồn ào và luôn luôn vui vẻ. Akamatsu gia nhập hải quân trước tôi gần mười năm, nhưng thăng cấp chậm chạp nếu so với những phi công khác có cùng một thời gian phục vụ. Thật ra, hắn bị giáng cấp nhiều lần, và bị đe doạ cho giải ngũ vì lý do hạnh kiểm. Hắn ta vẫn không cải hoá, nhưng phải công nhận đó là một thiên tài trên không, và do đó, hải quân phải miễn cưỡng xử dụng hắn.
Hạnh kiểm của Akamatsu đã làm cho các sĩ quan thượng cấp của hắn muốn chết giấc. Trong các phi vụ, thay vì chờ đợi và nghe thuyết trình như những người khác, hắn nằm lì trong nhà điếm với một hệ thống thông báo riêng, và thường chạy như giông như gió ra sân bay trong một chiếc xe hơi cũ kỹ, một tay cầm lái, một tay cầm chai rượu. Trên không trung, hắn cũng làm loạn như ở dưới mặt đất, và đó là phi công duy nhứt đạt chiến thắng khi đụng độ với cả hai loại chiến đấu cơ Mustang và Hellcat. Với chiến đấu cơ Raiden trong tay, Akamatsu đã bắn rơi có hơn 10 chiếc cả hai loại phi cơ địch được coi là tuyệt hảo nầy, một chiến công khác khó thể với tới.
Akamatsu chiến đấu liên tục hơn sáu năm ở Trung Hoa, rồi sau đó chiến đấu khắp nơi trong khu vực Thái Bình Dương, và thường thường trở về căn cứ với chiếc phi cơ bị bắn tả tơi, vừa cười vừa la hét vang dội.
Chính Akamatsu cũng không biết hắn đã bắn hạ được bao nhiêu phi cơ tất cả. Khi nhậu say, hắn đấm tay lên bàn và rống lớn rằng mình đã thổi bay xuống đất ít nhứt 350 phi cơ Đồng Minh. Hắn không bao giờ khoe khoang như thế khi còn tỉnh táo. Nhiều phi công khác từng chiến đấu với hắn và còn sống sót sau cuộc chiến đã điều chỉnh con số nầy xuống khoảng 50.
Tôi thường thấy Akamatsu đáp xuống Oppama vì thiếu xăng, không bay về tới Atsugi. Mọi người trên mặt đất lấy làm phấn khởi khi nhìn thấy hắn bước xuống phi cơ, dí mũi của hắn vô mấy lỗ đạn, và luôn luôn nhe răng cười. Thấy tôi hắn thét và chỉa nhiều ngón tay lên, cho biết con số phi cơ mà hắn đã hạ trong ngày hôm đó.
Đã hơn một lần Akamatsu cất cánh thực hiện một phi vụ gồm từ năm đến tám chiến đấu cơ, và hắn là phi công duy nhứt còn sống sót sau các trận đánh. Các chiến đấu cơ Mustang là những con mồi mà hắn khoái nhứt, và hắn tỏ ra kính nể chiến đấu cơ Hoa Kỳ thật lòng. Akamatsu sống sót sau chiến tranh, hiện thời hắn làm chủ một nhà ăn nhỏ ở Kochi, thành phố sinh quán của hắn trên đảo Shikoku ( lúc nầy là năm 1956, vài năm sau Akamatsu chết vì bệnh ung thư gan) Căn cứ không quân Oppama là một phi trường thử phi cơ chánh. Tôi không có cơ hội để chiến đấu trở lại, vì vị chỉ huy trưởng căn cứ cho rằng kinh nghiệm lâu năm của tôi có ích lợi trong việc thử nghiệm các loại phi cơ mới hơn. Tuy nhiên, tôi biết rằng chiến đấu nữa chỉ là vấn đề của thời gian. Bất kì ai có thể bay được, bất kì phi cơ nào cất cánh được đều sẽ quăng ra để chống lại hạm đội đổ bộ của địch quân.
Vào tháng Sáu, tôi được lịnh trình diện căn cứ Nagoya để bay thử loại chiến đấu cơ mới. Đó là chiến đấu cơ Reppu, có tốc lực mau hơn bất kì loại phi cơ nào mà tôi đã từng bay thử trước đây. Với một động cơ cực mạnh và nhiều phương diện khác, có thể nói Reppu vượt xa mọi loại phi cơ của Nhật Bản lẫn Hoa Kỳ, và theo các kỹ sư chế tạo, nó sẽ chiến đấu hữu hiệu dầu ở cao độ 40.000 bộ.
Tuy nhiên, các cơ xưởng Mitsubishi, sản xuất chiến đấu cơ Reppu, biến thành đống gạch vụn trước khi công việc sản xuất xúc tiến mạnh. Chỉ hoàn tất được 7 chiếc. Sau chiến tranh, phi công Hoa Kỳ có bay thử loại phi cơ nầy và họ đã tỏ vẻ kinh ngạc với sự nhanh nhẹn của nó.
Trước khi đi Nagoya, Hatsuyo khăng khăng bắt tôi phải hứa mua cho nàng một lưỡi dao găm nhỏ. Thành phố nầy nổi tiếng là nhờ có dao găm và kiếm tốt. Khi tôi trở về Hatsuyo lặng lẽ ngắm nghía lưỡi dao mà tôi vừa trao, rờ rẫm bề lưỡi một cách cẩn thận. "Saburo, nó không bén." Nàng nhìn tôi. "Ngày mai, anh có thể đem con dao đi Oppama mài cho bén hơn không?'
Thái độ trang nghiêm của nàng khiến tôi giựt mình. Tôi hỏi: "Em muốn dùng con dao nầy để làm gì?"
Nàng nắm lấy tay tôi và nhìn thẳng vô mắt tôi. "Anh là đời sống của em, Saburo" nàng dịu dàng nói. "Đối với em, anh là mọi thứ trên quả đất nầy. Chỉ một việc duy nhứt mà em sẽ làm một khi anh chết..."
Nàng không nói thêm nữa, và tôi đã hiểu nàng muốn nói gì. Ngày hôm sau tôi mài lưỡi dao trên một cục đá bùn cho đến khi nó sắc như một lưỡi dao cạo. Đêm đó, Hatsuyo thử lưỡi dao bằng cách cắt nhè nhẹ trên giấy lụa. "Tốt lắm rồi," nàng phê bình, rồi nhét dướt giây lưng kimono của nàng. Chúng tôi không bao giờ bàn lại vấn đề nầy. Khắp cả nước Nhựt chịu đựng nỗi thống khổ còn hơn sự đau đớn và khủng khiếp của các trận oanh tạc. Quốc gia đã phân tán, các đô thị nằm suy nhược, hoi hóp như một bị một bàn chân khổng lồ dẫm lên. Ngày cuối cùng sắp xảy ra, không ai hồ nghi điều nầy, và cuộc chiến đấu sắp di chuyển đến đất nước của chúng tôi. Không thể nào có chuyện đầu hàng. Chúng tôi sẽ chiến đấu đến người cuối cùng. Vào ngày 6 tháng Tám, các tin tức về một trái bom vĩ đại và khủng khiếp được thả xuống Hiroshima, sau nầy mới được biết đó là một trái bom nguyên tử, đã khiến cho tất cả các phi công ở Oppama sửng sờ. Rồi đến quả đấm của Nga Sô qua cuộc đổ bộ ở Mãn Châu, hầu như liền tiếp ngay sau trái bom nguyên tử. Kế nữa là trái bom nguyên tử thứ hai được thả xuống Nagasaki. Đầu óc của tôi mờ mịt trước sự tàn phá không tưởng do người Mỹ gây ra. Tất cả đã vượt quá giới hạn của niềm tin. Tất cả không thể là sự thật, nhưng đó là sự thật. Lúc 3 giờ trưa ngày 13 tháng Tám, tất cả sĩ quan ở căn cứ Oppama được triệu tập vội vã đến tham dự một buổi họp mật trong văn phòng của Chỉ Huy Trưởng. Vị sĩ quan chỉ huy trưởng của chúng tôi có vẻ xanh xao và xúc động. Ông hầu như không thể đứng được nên phải dựa vào bàn giấy. Ông cất tiếng một cách yếu ớt, giọng nói ngập ngừng.
" Những gì tôi muốn nói với các bạn có tầm mức quan trọng tột cùng," ông bắt đầu, "và tuyệt đối giữ bí mật. Tôi tin cậy vào sự ngay thẳng của các bạn, với tư cách là những sĩ quan của hải quân Hoàng Gia, trong việc giữ kín tin tức nầy một cách nghiêm nhặt."
" Nhật Bản," tới đây giọng ông xúc động, "đã quyết định chấp nhận các điều kiện của kẻ thù. Chúng ta sẽ tuân theo tuyên ngôn Postdam."
Ông nhìn chúng tôi với đôi mắt trống rỗng. "Lịnh đầu hàng có thể được công bố bất cứ lúc nào. Tôi muốn tất cả sĩ quan tận lực hợp tác với tôi. Trật tự phải được duy trì tại căn cứ nầy. Có thể, những người nóng tánh sẽ từ chối chấp nhận quyết định đầu hàng. Chúng ta không thể nào để cho binh sỹ của chúng ta vi phạm bất cứ tình trạng nào mà quốc gia chúng ta đã chấp nhận. Hãy nhớ, và không bao giờ được quên, rằng mạng lịnh của Thiên Hoàng là tối thượng."
Giống như một trái bom nổ giữa chúng tôi, và không một người nào động đậy. Chúng tôi đứng như trời trồng, không thể tin nỗi. Chúng tôi biết ngày cuối cùng sẽ đến, nhưng chúng tôi không ngờ nó sẽ đến như thế nầy. Nhiều người bước chậm chạp trong căn phòng, sửng sốt, nhiều người nhìn phía trước hoặc nhìn xuống sàn nhà, ngờ nghệch. Một số la hét, một số khác nguyền rủa.
Tôi không đủ sức suy nghĩ hoặc thốt nên lời. Tôi bước ra ngoài, trong sương mù, băng ngang qua sân bay, mắt nhìn thẳng. Tôi muốn được gần chiếc phi cơ của tôi, và tôi đứng dựa vô chiếc Zero một cách suy nhược.
Một người bạn thân của tôi, thiếu úy Jiro Kawachi, bước đến bên tôi. Trong nhiều phút, chúng tôi đứng lặng yên.
Đã vượt qua rồi.
Chúng tôi đã thua.
Nhật Bản sắp "đầu hàng" .
"Saburo". Tôi nhìn lên. "Saburo, việc nầy... việc nầy đúng là kết thúc rồi," Kawachi nói. "Chúng ta còn ít thời giờ. Chúng ta nên chiến đấu với nhau một lần nữa. Một cuộc chiến đấu cuối cùng."
Hắn đưa chân đã phớt trên mặt đất. "Chúng ta không thể nào buông tay như vậy. Chúng ta phải gắng sức, một lần nữa."
Tôi gật đầu. Hắn nói đúng. Chúng tôi ra lịnh cho nhân viên bảo trì chuyển hai chiếc Zero ra ngoài phi đạo, chuẩn bị cất cánh. Chúng tôi biết các pháo đài bay sẽ đến oanh tạc đêm nay. Thời tiết có vẻ đầy hứa hẹn.
Kawachi và tôi giữ kín kế hoạch, không nói cho phi công nào khác biết. Sau khi kiểm soát hai chiến đấu cơ , chúng tôi đi vô đài kiểm soát và ngồi chờ. Nhiều giờ trôi qua, chúng tôi không nói một tiếng nào. Chúng tôi đang nghĩ ngợi, hình ảnh những năm dài dằng dặc ở Trung Hoa lần lượt hiện đến. Buổi chiều trôi qua, và chúng tôi vẫn ngồi chờ, hầu như xoá nhoà trong bóng tối. Gần nửa đêm, chiếc loa trên đài kiểm soát vang tiếng: "Báo động! Báo động! Một chiếc B.29 hiện đang bay về phía khu vực Yokosuka - Đông Kinh."Chúng tôi nhảy tưng lên, và chạy băng qua phi đạo đến phi cơ. Căn cứ bao trùm trong bóng đêm, không một ánh đèn. Những vì sao lấp lánh trên bầu trời đủ soi đường cho chúng tôi. Chúng tôi bước đến hai chiếc Zero, nhận thấy không phải chúng tôi là hai phi công duy nhứt thực hiện phi vụ cuối cùng. Ít nhứt cũng có tám chiến đấu cơ khác được xếp thành hàng bên cạnh phi đạo, xăng nhớt và võ trang đầy đủ. Ngại với một con mắt sẽ không nhìn rõ trong đêm, tôi yêu cầu Kawachi hướng dẫn tôi rời khỏi mặt đất. Chúng tôi cất cánh lập tức, không nói với nhau một tiếng nào nữa. Chúng tôi biết nếu chần chờ, vị chỉ huy trưởng có thể cản trở chúng tôi. Ngay khi đã lên không, tôi bay sát phi cơ của Kawachi. Tám chiến đấu cơ Zero khác cũng đã cất cánh, bay thành hai hàng phía sau chúng tôi. Chúng tôi vượt thẳng lên, rồi lượn vòng ở cao độ 10.000 bộ trên vịnh Đông Kinh. Trong nhiều phút, chúng tôi không nhìn thấy phi cơ nào khác trên bầu trời. Bỗng nhiên, súng đại bác của Kawachi lên tiếng, và tôi nhìn ra chiếc oanh tạc cơ to lớn đang bay ở phía Bắc. Tôi vượt lên song song với Kawachi và khai hoả. Mỗi chúng tôi hiện thời có bốn khẩu đại bác và chúng tôi cần tập trung để chống lại chiếc phi cơ kinh khiếp nầy. Tôi chưa từng thấy chiếc oanh tạc cơ nào khổng lồ như vậy. Khi vừa xoay vừa bắn đủ một vòng, tôi thấy tám chiến đấu cơ khác ồ ạt xông tới chiếc siêu pháo đài bay. Chúng tôi giống như mấy con muỗi bu quanh một con bò mộng. Làm sao chúng tôi có thể hy vọng hạ được một chiếc phi cơ có kích thước quá sức tưởng tượng như vậy? Tôi lại lướt đến, và vừa vượt lên vừa rót đạn dưới hông của chiếc B.29. hoả lực đáp trả thật khủng khiếp. Những giòng đạn rót từ các pháo tháp to lớn trên chiếc B.29 và tôi cảm thấy chiếc chiến đấu cơ rùng mình nhiều lần khi các xạ thủ địch nhắm trúng. Bỗng nhiên chiếc Siêu pháo đài bay quay đầu bay về phía Nam. Hiển nhiên, chúng tôi đã gây thương tích cho đối thủ. Hai chúng tôi gia tăng tốc độ khẩn cấp, mở cuộc truy đuổi, bỏ hẳn tám chiến đấu cơ khác lại phía sau. Kawachi hơi chúi xuống, cắt thẳng vào vòng xoay rộng lớn của chiếc B.29, với tôi bay phía sau. Lần nầy mục tiêu đã rõ rệt, cả tôi lẫn Kawachi đều ấn cò súng và nhìn theo những vệt đạn soi thủng vô cửa kiếng dọc theo mũi của chiếc oanh tạc cơ. Bỗng nhiên tốc độ của phi cơ địch khựng lại và chúi xuống. Chúng tôi xoay lại và rót đạn đại bác theo chiếc phi cơ què quặt. Chiếc oanh tạc cơ khổng lồ chúi xuống thật mau nhưng không nhìn thấy khói và lửa bốc ra. Nó không có vẻ gì bị hư hạ, nhưng vẫn tiếp tục mất độ cao một cách nhanh chóng, mũi hướng xuống mặt biển. Tôi cứ bay chúi theo sau đối thủ. Đảo Oshima thình lình xuất hiện thình lình xuất hiện trong đêm tối. Chúng tôi đang ở cách phía Nam Yokosuka 50 dặm. Chúng tôi lấy thăng bằng và vượt lên cao độ 1.500 bộ. Một ngọn núi lửa trên hòn đảo nổi khỏi mặt nước 1.000 bộ. Chúng tôi không dám liều lĩnh thêm vì ngại đụng chạm trong đêm tối, nhưng tôi có thể nhìn thấy chiếc oanh tạc cơ rơi xuống khá rõ ràng. Một cột nước trắng xoá nổi bật trên mặt biển, cách bờ biển phía Nam Oshima nhiều dặm. Không đầy một phút, chiếc B.29 biến mất. Trở về phi trường, chúng tôi đối diện với cơn thịnh nộ của vị chỉ huy trưởng, nhưng sau đó ông đã dằn xuống. "Tôi không trách các anh được," ông nói "nhưng chúng ta không thể để cho những gì xảy ra đêm nay tái diễn nữa. Từ bây giờ về sau, tất cả phi cơ đều phải ở trên mặt đất." Ông cho tôi biết ở phi trường Atsugi đang xảy ra những vụ bạo động dữ dội, gần như là một cuộc nổi loạn. Đó là căn cứ chiến đấu cơ Raiden, đơn vị của trung úy Akamatsu. Nhóm phi công ở đây không chấp nhận ý kiến đầu hàng, và họ định đưa tất cả phi cơ của họ lên không. Họ mất trí, bất chấp các sĩ quan, nhứt quyết không đầu hàng và sẽ chiến đấu cho đến hơi thở cuối cùng. Lực lượng tăng viện được đưa đến để dập tắt cuộc nổi loạn, và trật tự chỉ được vãn hồi sau khi cuộc đầu hàng được công bố nhiều ngày. Sự hủy diệt của chiếc oanh tạc cơ địch được giữ bí mật nhiều năm, và không có hồ sơ nào ghi lại chuyến bay đêm đó của chúng tôi. Và dĩ nhiên, không có phi công nào tự nhận đã hạ được chiếc B.29. Đây là tiết lộ đầu tiên của tôi liên quan đến trận không chiến cuối cùng nầy. Chúng tôi không mảy may cảm thấy vui mừng lúc hạ được chiếc oanh tạc cơ ghê gớm đó. Lúc ấy không có việc gì đáng lưu tâm ngoại trừ việc chúng tôi sắp sửa giao nộp xứ sở, dân chúng tôi cho kẻ thù. Nhiều binh sĩ khác đã lộ vẽ sửng sốt, nếu không nói là xúc động, khi buổi bình minh lịch sử của ngày 15 tháng Tám năm 1945 hiện đến. Chiến tranh đã kết thúc. Trong mọi văn phòng, các sĩ quan cao cấp thiêu hủy hồ sơ và tài liệu. Binh sĩ đi vòng quanh, ngồi trên nền nhà hoặc trên mặt đất phía bên ngoài, như ngây như dại. Đúng trưa hôm đó, chúng tôi nghe Thiên Hoàng đích thân ban lịnh đầu hàng xuống các lực lượng võ trang Nhật Bản. Hai ngàn quân dân các cấp ở căn cứ Oppama đứng nghiêm chỉnh trên phi trường. Hầu hết chúng tôi chưa bao giờ được nghe tiếng nói của Thiên Hoàng. Nhiều người đã bật khóc. Bỗng nhiên tôi nhớ đến Hatsuyo! Nàng sẽ nghĩ gì? Nếu nàng nghe được tiếng nói được truyền thanh của Thiên Hoàng, nàng sẽ nghĩ rằng tôi đã chết và ...
Tôi không nghe thêm nữa, tôi chạy khỏi chổ đứng. Không có một chiếc xe hơi nào. Tôi chụp ngay một chiếc xe đạp và đạp như giông như gió về ngôi nhà nhỏ bé của tôi. Chỉ trong một vài phút tôi về đến nơi. Tôi nhảy khỏi xe đạp ngay trước khi nó ngừng lại. Tôi tung cửa la gọi Hatsuyo. Nàng chạy ra khỏi phòng và nhào vô đôi tay tôi. Chúng tôi ghì chặt nhau trong nhiều phút, không thể thốt nên lời.
Cuối cùng, nàng ngước đầu lên. " Có phải đúng là anh không, Saburo?" Nàng thì thầm. Tôi gật đầu.
" Ô! Anh yêu," nàng kêu lên. " Khi em nghe, em đã khóc như một đứa trẻ. Có thật chấm dứt rồi không? Đánh nhau ... những trận bom, tất cả không còn nữa?"
Tôi gật đầu nhè nhẹ.
" Em không cần biết cái gì đã xảy ra, Saburo. Em không chú ý! Anh yêu, anh đã thắng tất cả các trận đánh của anh, cho dù Nhật Bản đã thua".
Một ánh sáng bừng lên trong đôi mắt của nàng khi nàng nhìn tôi. " Anh, anh sẽ không bao giờ chiến đấu lại nữa!" nàng thì thầm. " Hiện thời tất cả đã vượt qua hết rồi! Không bao giờ, không bao giờ!"
Bỗng nhiên nàng lùi lại và rút con dao găm dưới giây lưng.
" Em sẽ không bao giờ cần tới thứ nầy nữa!" nàng vừa kêu lên vừa liệng con dao xuống nền nhà.
Con dao găm lăn long lốc ngang qua nền phòng và ngừng lại trong một góc.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top