rung xa nu
Tác giả
Nguyên Ngọc, Nguyễn Trung Thành là bút danh của Nguyễn Văn Báu. Sinh năm 1932 tại Quảng Nam. Lăn lộn nhiều năm trên chiến trường ác liệt cả trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và Chống Mĩ.
Tác phẩm: "Đất nước đứng lên" (1956), "Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc" (1969), "Đất Quảng" (1973 - 1974),...
Hơi hướng Tây Nguyên, màu sắc tráng lệ, khuynh hướng sử thi... tạo nên cốt cách và vẻ đẹp văn chương của Nguyên Ngọc - Nguyễn Trung Thành.
Xuất xứ
Truyện "Rừng xà nu" được Nguyễn Trung Thành viết năm 1965, xuất hiện lần đầu trên Tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng miền trung Trung Bộ, số 2 năm 1965 - năm 1969, in trong tập truyện ký "Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc".
Tóm tắt truyện
Sau 3 năm đi "lực lượng", Tnú về thăm làng. Bé Heng gặp anh ở con nước lớn dẫn anh về. Con đường cũ, hai cái dốc, rừng lách chằng chịt hố chông, hầm chông, giàn thò sắc lạnh. Mặt trời chưa tắt thì anh về đến làng. Cụ Mết già làng và bà con dân làng reo lên mừng rỡ. Cụ Mết đưa anh về nhà ăn cơm. Từ nhà ưng vang lên một hồi, ba tiếng mõ dài, cả lũ làng cầm đuốc kéo tới nhà cụ Mết gặp Tnú. Có ông bà già. Nhiều trai tráng và lũ con gái. Đông nhất là lũ trẻ con. Có cả cô Dít, em gái Mai, nay là bí thư chi bộ kiêm chính trị viên xã hội. Ai cũng muốn ngồi gần anh Tnú. Dít thay mặt lũ làng xem giấy có chữ ký chỉ huy cho phép Tnú về thăm làng một đêm. Quanh bếp lửa rộn lên: "Tốt lắm rồi!" "Một đêm thôi, mai lại đi rồi, ít quá, tiếc quá!". Rồi cụ Mết kể lại cuộc đời Tnú cho lũ làng nghe. Tiếng nói rất trầm. "Anh Tnú đó, nó đi Giải phóng quân đánh giặc... Đời nó khổ, nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta". Anh Xút bị giặc treo cổ, bà Nhan bị giặc chặt đầu, nó và em Mai đi vào rừng nuôi anh Quyết cán bộ. Anh dạy nó học chữ. Nó học chữ thì hay quên nhưng đi rừng làm liên lạc thì đầu nó sáng lạ lùng. Nó vượt thác, xé rừng mà đi, lọt tất cả vòng vây của giặc. Một lần Tnú vượt thác Đắc nông thì bị giặc bắt, bị tra tấn, bị đầy đi Kông Tum. Ba năm sau, Tnú vượt ngục trốn về, lưng đầy thương tích. Tnú đọc thư tuyệt mệnh của anh Quyết gửi cho dân làng Xô Man trước khi anh tử thương. Tnú đi bộ lên núi Ngọc Linh đem về một gùi đá mài. Đêm đêm làng Xô Man thức mài vũ khí. Thằng Dục chỉ huy đồn Đắc Hà đưa lũ ác ôn về vây ráp làng. Tiếng kêu khóc vang dậy. Cụ Mết và trai tráng lánh vào rừng, bí mật bám theo giặc. Bọn giặc đã giết chết mẹ con Mai. Tay không ra cứu vợ con, Tnú bị giặc bắt. Chúng lấy nhựa xà nu đốt cháy 10 ngón tay anh. cụ Mết và lũ thanh niên từ rừng xông ra, dùng mác, và rựa chém chết tất cả 10 tên ác ôn. Thằng Dục ác ôn và xác lũ lính ngổn ngang quanh đống lửa trên nhà ưng. Từ đó, làng Xô Man ào ào rung động. Và lửa cháy khắp rừng. Sau đó, Tnú ra đi tìm cách mạng..."
Cụ Mết ngừng kể, rồi hỏi Tnú đã giết được mấy thằng Diệm, mấy thằng Mĩ rồi? Anh kể chuyện đánh đồn, xông xuống hầm ngầm dùng tay bóp chết thằng chỉ huy... thằng Dục, "đúng chớ... chúng nó đứa nào cũng là thằng Dục!". Mưa rơi nặng hạt. Không ai nhận thấy đêm đã khuya. Sáng hôm sau cụ Mết và Dít tiễn Tnú lên đường. Ba người đứng nhìn những rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời...
Chủ đề
Ca ngợi tinh thần quật khởi, chí khí cách mạng và sức sống mãnh liệt của đồng bào các dân tộc và núi rừng Tây Nguyên trong cuộc đấu tranh vũ trang chống kẻ thù khát máu Mĩ - Diệm.
Hình tượng rừng xà nu
Rừng xà nu vừa là cảnh sắc hùng vĩ vừa mang ý nghĩa tượng trưng. Mở đầu tác phầm là hình ảnh rừng xà nu cùng bá Heng đón Tnú đi bộ đội về thăm làng; phần cuối cũng là rừng xà nu trùng điệp tiễn người anh hùng của quê hương đi tìm Mĩ, Diệm để diệt.
Cây xà nu ham ánh sáng và khí trời, nó vươn lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng... như Tnú, Mai, Dít, cụ Nết, bé Heng và dân làng Xô Man sống và chiến đấu vì khát vọng tự do.
Nó cùng với dân làng Xô Man chung chịu gian nan và hy sinh. Anh Xút bị giặc treo cổ lên cây vả đầu làng, bà Nhan bị giặc đốt cháy 10 đầu ngón tay, mẹ con Mai bị giặc đập chết... Rừng xà nu cũng bị đại bác giặc bắn suốt đêm ngày, hàng vạn cây không cây nào không bị thương, có những cây non trúng đạn, chất dầu còn loãng, vết thương cứ loét mãi ra rồi chết.
Rừng xà nu mang sức sống mãnh liệt và khí phách lẫm liệt như lũ làng. Cạnh một cây xà nu bị bắn gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình mũi tên lao thẳng lên bầu trời. Đã hai ba năm nay, trong mưa bom bão đạn, "rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng".
Giặc định dùng nhựa xà nu, lửa xà nu dìm dân làng Xô Man vào biển máu, nhưng chính lũ ác ôn do thằng Dục cầm đầu đã bị cụ Mết và trai làng chém chết, xác chúng ngổn ngang quanh đống lửa xà nu.
Rừng xà nu trùng điệp, hút tầm mắt chạy đến chân trời là biểu tượng cho thế trận chiến tranh nhân dân, người người lớp lớp. Nguyễn Trung Thành đã tạo nên những hình ảnh ẩn dụ, nhưng liên tưởng kỳ vĩ để miêu tả rừng xà nu hùng vĩ với tất cả lòng yêu mến tự hào.
Nguyễn Trung Thành sau này có viết: "Hồi tháng năm năm 1962, hành quân từ miền Bắc vào (...) chiến trường của mình là khu rừng bát ngát phía tây Thừa Thiên giáp Lào. Đó là một khu rừng xanh tít tắp tận chân trời. Tôi yêu cây rừng xà nu ngay từ đó. Ấy là một loại cây hùng vĩ và cao thượng man dại và trong sạch, mỗi cây cao vút, vạm vỡ ứa nhựa, tán lá vừa thanh nhã vừa rắn rỏi..." (Về một truyện ngắn - Rừng xà nu).
Những dũng sĩ làng Xô Man
- Cụ Mết, già làng râu dài tới ngực mà vẫn đen bóng, ngực căng như một cây xà nu lớn. Cụ là một thủ lĩnh quân sự, linh hồn của cuộc chiến đấu và chiến thắng. Chính dưới lưỡi mác sáng loáng của cụ là xác thằng Dục ác ôn. Chính sau tiếng hô của cụ: "Chém! Chém hết" là những lưỡi mác của trai làng vung lên và xác lũ giặc ngổn ngang trên nhà ưng! Chính cụ đã khẳng định một chân lý cách mạng để đi tới tự do: "Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo". Sau chiến công đầu vị già làng đã truyền hịch:
"Đốt lửa lên! Tất cả người già, người trẻ, người đàn ông, người đàn bà, mỗi người phải tìm lấy một cây giáo, một cây mác, một cây dụ, một cây rựa. Ai không có thì vót chông, năm trăm cây chông. Đốt lửa lên!"
Tiếng hịch ấy đã vang dội núi rừng. Và lửa cháy khắp rừng. Cụ Mết mang tầm vóc và khí phách như một anh hùng bộ tộc xa xưa trong trường ca Tây Nguyên. Khuynh hướng sử thi bao trùm nhân vật xuất chúng này để ta yêu mến và khâm phục.
Mai và Dít tiêu biểu cho những người con gái Tây Nguyên thời đánh Mĩ. Bà Nhan bị giặc chặt đầu đã có Mai vào rừng bảo vệ anh Quyết cán bộ. Mai là hiện thân của lòng trung thành với cách mạng, cần mẫn, hiền dịu, sáng dạ, bất khuất hiên ngang trước súng đạn quân thù. Dít lớn lên, lại đi tiếp con đường của chị. Đi tiếp tế cho du kích, bị giặc bắt, phải làm bia đạn, sau mỗi viên đạn nổ "đôi mắt nó vẫn nhìn bọn giặc bình thản lạ lùng". Ba năm sau ngày chị hy sinh, Dít đã trưởng thành, trở thành một bí thư chi bộ, một chính trị viên xã đội lãnh đạo cuộc chiến đấu của dân làng Xô Man. Trong mỗi quan hệ mới với Tnú, cô Dít với tư cách lãnh đạo đã nghiêm trang trong thủ tục hỏi giấy tờ người lính từ mặt trận về thăm làng: "Không có giấy, trốn về thì không được. Ủy ban phải bắt thôi". Là cô gái, là em chị Mai, cô Dít đã nhìn Tnú bằng "đôi mắt mở to, bình thản, trong suốt" chan chứa yêu thương và như cô đã nói với Tnú: "Bọn em miệng đứa nào cũng nhắc anh mãi". Mai và Dít đều mang vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam trong thời đại mới: "Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang"...
- Tnú là một anh hùng đích thực. Cụ Mết rất tự hào nói về anh:
"Nó là người Strá mình - Cha mẹ nó chết sớm, làng Xô Man này nuôi nó. Đời nó khổ, nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta". Yêu cách mạng và khao khát tự do. Tnú đã vào rừng bảo vệ, tiếp tế cho cán bộ hoạt động bí mật. Tnú học chữ để mai sau thay anh Quyết làm cán bộ. Dũng cảm và mưu trí lúc vượt thác, lúc cắt rừng đi liên lạc. Trung thành và bất khuất. Nuốt thư bí mật khi bị địch bắt. Giặc tra tấn bắt khai ai là cộng sản, Tnú đặt tay lên bụng mình, nói: "Ở đây này". Tnú sống với niềm tin: "Cán bộ là Đảng. Đảng còn, núi nước này còn". Tnú vượt ngục trở về làng, độc thư tuyệt mệnh của anh Quyết cho lũ làng nghe rồi anh đi lên núi Ngọc Linh lấy một gùi đá mài đem về để dân làng Xô Man mài giáo, mác, dụ, rựa, chuẩn bị khởi nghĩa. Cuộc chiến đấu mới bắt đầu thì vợ con anh bị giặc đập chết. Cứu mẹ con Mai không được, anh bị giặc bắt trói bằng dây rừng, bị giặc đốt mười ngón tay bằng nhựa xà nu thành mười ngọn đuốc. Anh nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở bụng, nhưng lẫm liệt, khí phách: hiên ngang. Tnú không thèm kêu van!
Tnú là một dũng sĩ kiên quyết đánh địch đến cùng. Núi rừng đã đốt lửa lên rồi! Mười ngón tay, ngón nào cũng cụt một đốt, nhưng còn hai đốt vẫn cầm giáo, bắn súng được, anh đã lên đường đi tìm cách mạng, gia nhập Giải phóng quân, đi tìm những thằng Dục ác ôn để trả thù cho mẹ con Mai, cho lũ làng. Tnú đã chiến đấu dũng cảm, đã xung phong xuống hầm ngầm, dùng tay bóp chết tên chỉ huy, cũng là một thằng Dục khát máu. Anh nhớ làng, anh xin phép về thăm làng một đêm rồi anh lại ra đi chiến đấu!
Nguyễn Trung Thành, với khuynh hướng sử thi đã khắc họa Tnú mang bao phẩm chất anh hùng lẫm liệt. Tnú đi tiếp trong "Đất nước đứng lên". Màu sắc núi rừng và hơi hướng Tây Nguyên như ánh hào quang tỏa chiếu dũng sĩ Tnú.
Kết luận
Hình tượng rừng xà nu, hình ảnh những dũng sĩ anh hùng trong truyện "Rừng xà nu" là hình ảnh đất nước và con người Việt Nam kiên cường, bất khuất trong thời đại Hồ Chí Minh vừa đậm đà hơi hướng và cảnh quan hùng vĩ Tây Nguyên. Tác phẩm dào dạt cảm hứng sử thi hào hùng. Những anh hùng dũng sĩ như cụ Mết, Tnú, Mai, Dít,... đại diện cho cộng đồng, chiến đấu và hy sinh vì sự sống còn của cộng đồng, gắn bó với lịch sử cộng đồng, được khắc họa bằng những hình ảnh chói lọi, với một giọng văn hào hùng, say mê, trang trọng, tạo nên những trang văn tráng lệ mang âm hưởng anh hùng ca.
Truyện "Rừng xà nu" thể hiện nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn của Nguyễn Trung Thành vừa trang nghiêm thần kỳ, vừa đầy chất thơ tráng lệ./.
Đề bài | Bài giải | ý kiến bạn đọc
Đề bài
Hình tượng cây xà nu trong truyện ngắn "Rừng xà nu" của Nguyễn Trung Thành (Nguyên Ngọc)
Bài giải chi tiết | Viết cách giải khác của bạn
Nhà văn Nguyên Ngọc (Nguyễn Trung Thành) có duyên với Tây Nguyên. Cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, Nguyên Ngọc đã sống và chiến đấu ở mảnh đất hùng vĩ này. Hai tác phẩm hay nhất của Nguyên Ngọc đều viết về Tây Nguyên là "Đất nước đứng lên" và "Rừng xà nu".
Truyện "Rừng xà nu" viết về những anh hùng ở làng Xô Man trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Là tác phẩm tiêu biểu cho khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn của văn học Việt Nam giai đoạn 1954-1975. Cảm hứng của nhà văn về nhân vật anh hùng gắn liền với cảm hứng về đất nước hùng vĩ mà cụ thể là hình tượng cây xà nu của Tây Nguyên.
Nhà văn đã chọn một loại cây họ thông, gỗ và nhựa đều rất quý, có sức sống mãnh liệt và dẻo dai rất gần gũi với đời sống người dân Tây Nguyên để tượng trưng cho phẩm chất và sức mạnh tinh thần bất khuất của dân làng Xô Man và các dân tộc Tây Nguyên.
Truyện được mở đầu và kết thúc bằng hình ảnh rừng xà nu. Suốt trong quá trình kể chuyện, hình ảnh rừng xà nu được nhắc đi nhắc lại như một điệp khúc, gần 20 lần nhà văn nói đến rừng xà nu, cây xà nu, nhựa xà nu, ngọn xà nu, đồi xà nu, khói xà nu, lửa xà nu, dầu xà nu. Hình tượng cây xà nu mang ý nghĩa tượng trưng, nó nói lên sức sống bền vững, quật khởi của dân làng Xô Man, của Tây Nguyên bất khuất. Chất sử thi của thiên truyện sẽ không trở thành giọng điệu chính của tác phẩm nếu thiếu đi hình tượng cây xà nu được khai thác từ nhiều góc độ, được lặp đi lặp lại nhiều lần như vậy, nhất là các hình ảnh "đồi xà nu" (4 lần), "rừng xà nu" (5 lần), với "hàng vạn cây" "ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho làng".
"Làng ở trong tầm đại bác của đồn giặc... Hầu hết đạn đại bác đều rơi vào ngọn đồi xà nu cạnh con nước lớn. Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão. Ở chỗ vết thương, nhựa úa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quyện lại thành từng cục máu lớn". Hình ảnh cây xà nu mở đầu truyện đã cho thấy cuộc đấu tranh quyết liệt của dân làng. Bằng nghệ thuật nhân hoá, tác giả nói lên được nỗi đau thương mất mát của dân làng Xô Man và tố cáo tội ác của kẻ thù. Mỗi cây xà nu ngã xuống, ta thấy thương tâm như một người dân làng Xô Man ngã xuống.
Nhưng hình tượng cây xà nu cũng tượng trưng cho sức sống dẻo dai,mãnh liệt của dân làng Xô Man, của con người Tây Nguyên. "Trong rừng ít có loại cây sinh sôi nảy nở khoẻ như vậy. Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời. Cũng có ít loại cây ham ánh sáng mặt trời đến thế."
"Có những cây mới nhú khỏi mặt đất, nhọn hoắt như những mũi lê". Rừng xà nu mang ý nghĩa biểu tượng cho con người. "Đặt trong hệ thống chủ đề, trong mạch truyện, những cây xà nu này mang tính biểu tượng cho những Mai, Dít, Tnú, Heng, thế hệ trẻ của làng Xô Man bất khuất, gắn bó với cách mạng". Chỉ đơn giản một chi tiết này, thấy cây xà nu giống người biết mấy! "Nhưng cũng có những cây vượt lên đựơc đầu người, cành lá sum sê như những con chim đã đủ lông mao, lông vũ. Đạn đại bác không giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành như trên một thân thể cường tráng". Hình ảnh đó giống Tnú biết bao, Tnú bị bọn giặc chém nhiều nhát sau lưng, trên tấm lưng chưa rộng bằng bề ngang cái xà lét mẹ để lại đó ứa một vệt máu đậm, từ sáng đến chiều thì đặc quện, tím thẫm như "nhựa xà nu". Nhưng sau khi ở tù vượt ngục trở về, những vết thương đã lành lặn, Tnú khoẻ mạnh, cường tráng, rồi trở thành một chiến sĩ kiên cường.
Cái chết của những cây xà nu giống cái chết của mẹ con Mai biết bao. "Có những cây con vừa lớn ngang tầm ngực người lại bị đại bác chặt đứt làm đôi. Ở những cây đó, nhựa còn trong, chất dầu còn loãng; vết thương không lành được, cứ loét mãi ra, năm mười hôm thì cây chết".
Và đây, Dít giống một cây xà nu non lao thẳng lên trời bất khuất. Dít nhỏ như lanh lẹ, cứ sẩm tối lại bò theo máng nước đem gạo ra từng cho cụ Mết và thanh niên. Chúng bắt đựơc con bé. Chúng để con bé đứng ở giữa sân, lên đạn tôm-xông rồi từ từ bắn từng viên một. Không bắn trúng, đạn chỉ sượt qua tai, sém tóc, váy nó rách tượt từng mảng. Nó khóc thét lên, nhưng rồi đến viên thứ mười, nó chùi nước mắt, từ đó nó im bặt. Nó đứng lặng giữa bọn lính, cứ mỗi viên đạn nổ, cái thân hình mảnh dẻ của nó lại quật lên một cái nhưng đôi mắt nó thì vẫn nhìn bọn giặc bình thản lạ lùng.
Hình ảnh những cây xà nu vững chắc, không chịu ngã trước giông bão, bom đạn của kẻ thù "ưỡn tấm ngực lớn của mình che chở cho làng" gợi cho ta nghĩ đến hình ảnh cụ Mết, con người tiêu biểu cho sức sống quật khởi của làng Xô Man, người nuôi giữ ngọn lửa khát vọng tự do, gắn bó với Đảng. Chính cụ Mết cũng đã nói với Tnú: "Không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta..." Cụ còn nói với dân làng: "Nghe rõ chưa các con, rõ chưa Nhớ lấy, ghi lấy. Sau này tau chết rồi, bay còn sống phải nói lại với con cháu: Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo!". Và khi cuộc khởi nghĩa bùng nổ, nguyên nhân trực tiếp chính là do ngọn lửa xà nu cháy trên mười đầu ngón tay Tnú. Cả làng Xô Man bị kích động, những ngọn đuốc xà nu bùng cháy khắp rừng "Đứng trên đồi xà nu gần con nước lớn. Suốt đêm nghe cả rừng Xô Man ào ào rung động. Và lửa cháy khắp rừng..."
Viết về Tây Nguyên, Nguyên Ngọc (Nguyễn Trung Thành) muốn gắn chặt đất nước với con người. Viết về anh hùng Đinh Núp, tác giả gọi tên tiểu thuyết của mình là "Đất nước đứng lên". Viết về cuộc khởi nghĩa của dân làng Xô Man trong cuộc kháng chiến chống Mĩ lại lấy tên là "Rừng xà nu"... Hình tượng cây xà nu là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Trung Thành. Với bút pháp tượng trưng, tư tưởng chủ đề của truyện "Rừng xà nu" thêm sâu sắc. Chính nhờ hình tượng cây xà nu mà những nhân vật anh hùng thêm bất tử.
Đề bài | Bài giải | ý kiến bạn đọc
Đề bài
Phân tích nhân vật Tnú trong truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành.
Bài giải chi tiết | Viết cách giải khác của bạn
Gợi ý làm bài:
Tnú là nhân vật chính trong truỵên ngắn Rừng xà nu. Dù tác phẩm là câu chuyện được kể trong đêm, nhưng "Rừng xà nu" là truyện của một đời. Trong câu chuyện ấy, Tnú được kể từ khi còn tấm bé cho tới ngày anh trưởng thành, là chiến sĩ Giải phóng quân, hơn nữa, còn là niềm tự hào của dân làng Xô Man. Khi phân tích nhân vật này, cần lưu ý các điểm sau:
1.Tnú đựơc nhà văn Nguyễn Trunh Thành khắc hoạ ở hai giai đoạn:
- Ở giai đoạn thứ nhất, tưởng ứng với cuộc đời của Tnú từ khi còn nhỏ tới lúc làm liên lạc cho anh Quyết và có vợ. Ở giai đoạn này, tác giả tập trung giới thiệu Tnú là chàng trai dân tộc chính trực, thẳng thắn, giàu lòng yêu nước, yêu làng, trung thành với cách mạng, gan góc, táo bạo. Anh căm thù giặc sâu sắc, có tình yêu trong sáng, thuỷ chung.
- Giai đoạn thứ hai, ngắn hơn, từ lúc có vợ con Tnú bị giặc giết chết, anh vùng lên trả thù. Nhưng giai đoạn này đã đuợc nàh văn tập trung kắhc hoạ khác công phu, với những trang viết mang đậm chất sử thi, đặc biệt là sư khắc hoạ hình ảnh đôi bàn tay cháy đỏ thành ngọn đuốc của Tnú. Hình tượng ấy biểu hiện ý chí căm thù giặc, quyết tâm vùng lên chống lại kẻ thù của dân làng Xô Man nói riêng, người Tây Nguyên nói chung.
2.Hình tượng Tnú cùng với những bước trưởng thành của nhân vật này cũng là về con người Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến:
Họ đi từ sự non nớt ban đầu, từ trong bóng tối đến ánh sáng quật khởi một cách tự giác. Do đó, câu chuyện về Tnú, câu chuyện về làng Xô Man ở Rừng xà nu cũng là câu chyện của nhân dân miền Nam một thời khốc liệt và ngoan cường. Vì thế, như chính tác giả nói, câu chuyện chỉ được kể trong một đêm, nhưng cái đêm dài như cả một đời và "Rừng xà nu" là truyện của một đời.
Bài làm tham khảo
Bàn tay Tnú và cây xà nu
Truyện ngắn đó của Nguyễn Trung Thành, Rừng xà nu, tôi đọc từ ngày nó mới in lần đầu, khoảng cũng mười năm rồi. Về sau nghĩ lại, thấy hiện lên rõ nhất là hình ảnh bàn tay Tnú và những trang mở đầu cùng đoạn kết diễn tả cây xà nu. Cái cây và bàn tay đó là hai điểm tựa cho việc nhớ lại tất cả những câu chuyện kể lại điểm sáng lớn thu hút các điểm sáng nhỏ nhấp nháy trong óc liên tưởng...
Quả thực nhìn bàn tay, tạm đoán đựoc lý lịch một con người. Có bàn tay trẻ thơ bụ bẫm, năm ngón xoè ra như năm cánh hoa, ấp vú mẹ. Có cái bắt tay giao tiếp bạn bè, hờ hững lạnh nhạt hoặc siết chặt đằm thắm. Rồi tay tìm tay tình tự. Có bàn tay vạm vỡ, chai sần, gân nổi chằng chịt của người chài luới, cày cuốc, làm thợ, nói lên một lời lam lũ. Có bàn tay thon dài tháp bút đánh đàn, nặn tượng. Tay nuôi người và tay cầm dao, cầm súngbảo vệ người. Cả bàn tay nhàm rỗi được giũa mòng thêu son, đeo ngọc. Tôi nghĩ đêế bàn tay thê thảm của một người đàn bà thời chiến quốc tàn bạo, đã bị Thái tử Đan chặt đứt để dâng lên Kinh Kha, đáp lại cái ân giúp mình tranh bá đồ vương, sẵn sàng cho đi cái không thể cho đuợc. Tôi lại nghĩ đến hai ba chục trang sách trong một cuốc truyện của Xtêphan Xwai, chỉ đặc tả toàn những bàn tay đặt tiền, thu tiền, vay tiền, trả tiền trên một chiếu bạc, những bàn tay béo múp và khẳng khiu, run rẩy và bình tĩnh, bàn tay vồ chộp và thong thả đưa ra rút về, mỗi bàn tay là một tâm trạng, một số phận đam mê tội lỗi. Tôi nghĩ đến bàn tay suốt ngày rửa xà phòng, rất sạch và thơm, nhưng chính nó vừa trao bản danh sách những người kháng chiến cho phát xít Giétxtaphô lùng bắt, bàn tay tên tư sản Pháp gian, trong cuốn thất thủ Pari của I. Êrenbua. Điện ảnh đưa lên màn bạc bàn tay uất ức của người da đen Ôtenlô. Bây giờ thêm bàn tay căm thù của Tnú.
Thoạt đầu là "hai bàn tay anh lúc ấy còn lành lặn", bàn tay chú bé Tnú dắt cô bé Mai lên rẫy trồng tỉa, xách xà lét giấu vài lon gạo đii nuôi cán bộ Quyết trốn ở rừng; bàn tay cầm viên phấn bằng đá trắng, lấy từ núi Ngọc Linh về, viết lên bảng đen đan bằng nứa hun khói xà nu, để học chữ y dài, chữ o thêm móc thành a; bàn tay cầm đá đập vào đầu vì học dốt; bàn tay mang công văn đi làm liên lạc; hai bàn tay mà Mai đã cầm lấy, ở gốc cây to đầu rừng lách, khi Tnú thoát ngục Kon Tum, bàn tay duyên nợ Mai vừa cầm vừa "ứa nước mắt khóc, không phải vì như một đứa trẻ nữa mà như một người con gái đã lớn, vừa xấu hổ vừa thương yêu".
Bàn tay nguyên vẹn đó không còn. Cụ Mết có bàn tay nặng trịch nắm chặt như kìm sắt, hỏi: "Mười ngón tay mày vẫn cụt thế à? Không mọc ra được nữa à!... Ừ!...". Câu hỏi đó rất đột ngột, như người sực tỉnh, chợt nhớ đến một điều hệ trọng. Ông cụ hỏi và tự trả lời. Sự thật đau đớn không tin là thật, cụ ngạc nhiên sao ngón tay lại cụt, cụt rồi sao không mọc lại? Một tiếng "ừ" cam chịu và đe doạ. Cụ giận dữ nói tiếp: "...Được! Ngón tay còn một hai đốt cũng bắn súng đuợc. Mày có đi qua chỗ Rừng xà nu gần con nước lớn không? Nó vẫn sốgn đấy". Đúng thế, con người, thiên nhiên, đất nước vẫn sống, vượt lên mọi đoạ đày, chém giết.
Cây xà nu ở Xô Man mọc thành rừng "ươn tấm ngực lớn che chở cho làng". Nhựa nó "thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt", nó "sinh sôi nảy nở khoẻ... một cây mới ngã gục, đã có bốn năm cây mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời" như thế hệ trẻ Dít, Heng nối tiếp Tnú, Mai, lớp người này đã từng thay thế Quyết. Xà nu đốt lên làm ngon lửa thổi cơm, xông khói sưởi ấm, len luốc cả lũ trẻ không áo mặc, làm đuốc soi cho Dít giã gạo, cháy giần giật trong gió, trong mưa soi đưòng cho cụ Mết dẫn dân làng vào rừng lấy giáo mác, vụ rựa giấu kỹ đem ra nổi dậy. Cây mọc bên con nước lớn, bên con suối nhỏ, cây ham ánh nắng còn Tnú ham tự do, đi đâu cũng nhớ trở về làng. Đạn đại bác rót thành lệ mỗi ngày, sát thương hàng vạn cây. Cây bị chặt đứt ngang thân, đổ xuống ào ào, chết lập tức tại trận, giữa tuổi xanh cây. Như Mai chết đang sinh nở. Cây bị thương úa nhựa tràn trề như máu xối. Máu đổ bao giờ cũng gây một cảm giác thiêng liêng, máu chả là sự sống đang bị rời đi từng giọt từng giây, là giao điểm tiếp cận cáu hư vô vĩnh cửu. Nhựa xà nu "bầm đen lại và đặc quyện lại thành từng cục máu lớn", cục máu không tan như một di hận đòi trả thù. Nhưng có thân cây, có bàn tay vượt qua thử thách, lành lại vêt thương, lên da non, cường tráng như cũ.
Bàn tay Tnú là bàn tay tín nghĩa, không biết bội phản. Cũng là một bàn tay chỉ đường. "Lưng Tnú ngang dọc những vết dao chém - Cộng sản đâu, chỉ ra! Tnú nói nhỏ : - Cởi trói đã, tay mới chỉ được. Chúng nói cởi trói tay, Tnú để bàn tay ấy lên bụng mình: - Ở đây này!". Lại thêm những nhát dao băm lên lưng Tnú, máu ứa đông lại, tím thâm như nhựa xà nu. Chất nhựa, chất dầu xà nu xưa nay vẫn giúp ích cho dân làng. Con người trông cây, cây phục vụ cuộc đời. Lẽ tự nhiên thuận trời thuận đất là như vậy. Nhưng có sự can thiệp của lực lượng phản động, quy luật bị đảo ngược. Cuộc sống thoái hoá. Vật và người đối lập nhau, loại trừ nhau. Nguyên tử làm ra điện cũng làm ra bom ném đầu đất Nhật. Một nửa thế giới thiếu ăn nhưng thóc gạo, thịt bò tươi vẫn bị đổ xuống biển, chôn xuống đất, để giữ mức lãi cao. Thằng Dục tẩm dầu xà nu vào giẻ rồi quấn lên mười đầu ngón tay Tnú, mười điểm chót vót, bén nhậy nhất của hệ thần kinh. Dầu xà nù bắt lửa rất nhanh. Nó châm đốt dần từng ngón tay Tnú, như muốn thong thả nhấm nháp cái thích thú đao phủ đó. "Mười ngóng tay đã thành mười ngón đuốc". Dầu xà nu rất thơm nay khét lẹt mùi thịt cháy. Thằng Đục không phải là người Mỹ, dầu xà nu không phải là xăng dầu nhập cảng, kẻ thù thâm hiểm hằng giấu bàn tay diệt chủng, dùng người của chúng ta giết chúng ta.
Bản năng yêu thương đã khiến Tnú xông ra cứu vợ con. Nhưng vợ con vẫn chết, còn mình bị tra tấn. Vì như cụ Mết nói: "... mày chỉ có hai bàn tay trắng, chúng nó trói mày lại... tao không nhảy ra cứu máy. Tau cũng chỉ có hai bàn tay không". Những bàn tay trắng, những bàn tay không đó, có lý trí hướng dẫn, được tổ chức lại, sẽ làm nổi cơ đồ. Cụ Mết đi gọi thanh niên, đi tìm vũ khí. Câu chuyện dẫn tới đỉnh điểm với chân lý giản dị, sáng chói: "Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo!".
Lửa đã tắt trên mười đầu ngón tay Tnú. Nhưng mười ngọn đuốc thịt da đó đã kịp làm nổi châm ngọn lửa nổi dậy. Sau tiếng thét của Tnú, dân làng bột phát giết sạch mười tên giặc... Rồi vết thương lành lại. Mỗi ngón tay cụt một đốt. Còn lại hai đốt vẫn có thể cầm giáo, bắn súng. Như cây xà nu bị mảnh đạn ứa nhựa tím bầm còn vương cánh đứng đó. Bàn tay không như cũ, nhận thức không thể như cũ. Tnú đã trả giá đắt nhưng có một kinh nghiệm lớn: "Chúng nó đứa nào cũng là thằng Dục". Và tình cảnh anh cũng đứng ngang tầm kinh nghiệm đó. Căm thù trong anh cháy giần giật như nhựa xà nu bén nhạy. Có súng, anh không bắn. Có dao, anh không đâm. Những thằng Dục mở mắt trắng dã nhìn tang chứng tội ác hiển hiện của chúng, nhìn bàn tay quả báo, bàn tay cụt mười ngón đang xoè ra bóp cổ chúng, không ngờ sự trừng phạt lại đến nhanh chóng và ghê gớm như vậy.
Cụ Mết "lại đặt bàn tay nặng như sắt lên vai Tnú: " - Được! Hà hà...". Tiếng cười át tiếng đại bác từ đồn giặc vẫn bắn vào đồi xà nu.
"Tnú ra đi".
Bài giải của bạn: huyena14 10:14:10 Ngày 04-07-2008
Mỗi nhà văn thường có một vùng đất riêng, với Nguyễn Trung Thành đó là Tây Nguyên. Ông đã có rất nhiều những tác phẩm viết về mảng đề tài này, đặc biệt là hình ảnh của những con người kiên cường bất khuất nơi núi rung Tây Nguyên.Một trong những tác phẩm nổi bật nhất trong sáng tác của Nguyễn Trung Thành là truyện ngắn "Rùng xà nu", tác phẩm là câu chuyện về dân làng Xô Man trong kháng chiến chống Mĩ.Trong số những con người hiên ngang bất khuất của làng Xô Man nổi bật lên là hình ảnh Tnú.Câu chuyện về cuộc đời anh đã được tái hiện cụ thể qua lời kể của già làng bên bếp lửa nhà ưng.
Nhìn lại chặng đường đời của Tnú, chúng ta có thể dễ dàng thấy hiện lên hình ảnh một Tnú trước và sau khi đúng lên cầm vũ khí.Trước khi cầm vũ khí, ngày từ khi còn nhỏ Tnú đã là cậu bé gan góc, dũng cảm biểu lộ một tính cách táo bạo mạnh mẽ.Tnú thay người già làm liên lạc, nuôi giấu cán bộ, nhanh nhẹn luồn rừng đưa thư, vượt qua suối lũ một cách dũng cảm.Cậu thất sáng dạ khi biết rằng bọn Mĩ nguỵ ít khi phục kích ở chỗ nứơc chảy xiết.Nguời đọc cảm thấy một cái gì thật đáng yêu ở sự quan tâm học chữ không chịu thua kém ai của Tnú.Cậu bé này dám lấy đá đập vào đầu mình khi học cái chữ không sáng tạo bằng Mai.Và đặc biệt sự gan dạ dũng cảm của Tnú khi bị giặc bắt, chú bé nhỏ tuổi này đã chỉ vào bụng mình và nói: "Cộng sản ở đây này".Mặc cho những vết dao chém dọc ngang trên tấm lưng bé nhỏ Tnú vẫn không khai báo, vẫn gan dạ kiên cường.Trước những trận đòn roi tra tấn dã man của kẻ thù, Tnú thật may mắn khi được học cái chữ và được giác ngộ cách mạng từ rất sớm.
Khi thoát ngục Kon tum trở về, Tnú đã là một chàng trai cường tráng, hiểu biết được tôi luyện qua nhiều thử thách.Giờ đây Tnú giống như một cây xà nu trưởng thành, vạm vỡ, căng đầy nhựa sống và ham ánh sáng.Theo lời dạy của anh Quyết ngày nào, Tnú thay anh làm cán bộ và một lần nữa anh đã đi 3 ngày đường lên núi Ngọc Linh nhưng không phải là lấy đá để làm phấn mà là để mài giáo mác chuẩn bị cho cuộc nổi dậy.
Không chỉ nhìn thấy rõ con đường để đi, Tnú còn có một cuộc sống hạnh phúc với tình yêu của Mai, với đứa con mới chào đời.Nhưng quãng thời gian hạnh phúc ấy thật ngắn ngủi, giặc đã cầm súng kéo về, buôn làng còn chưa kịp cầm vũ khí. Tnú và thanh niên trong làng phải trốn vào rừng để rồi một mình Tnú lại xông ra mong che chở cho mẹ con Mai trước đòn roi của kẻ thù, nhưng cả 2 đều ko sống được.Cảnh tượng về cái chết đau thương trong đêm ấy cứ trở đi trở lại trong lời kể của già làng và dòng hồi ức đau đớn của anh.Không những không cứu được vợ con, Tnú còn bị kẻ thù đốt cháy mười đầu ngón tay "Mỗi ngón chỉ còn hai đốt....không mọc lại được".Nỗi đau thương này là minh chứng hùng hồn cho câu nói vừa giản dị vừa sâu sắc của cụ Mết: "Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo".
Đặc biệt là hình ảnh của Tnú sau khi cầm vũ khí chiến đấu thật đẹp và lớn lao biết bao.Hình ảnh Tnú hiện lên như những anh hùnh thời nào trong các khan, trong các trường ca Tây Nguyên.Khi đốt cháy 2 bàn tay của Tnú kẻ thù muốn dập tắt ý chí phản kháng, muốn tiêu diệt khát vọng chiến đấu của người dân Xô Man.Chúng muốn người dân nơi đây mãi mãi xuôi tay trong kiếp nô lệ thấp hèn dướ lưỡi gươm và nòng súng tàn bạo của chúng.Nhưng Tnú và người dân làng Xô Man khoong cam chịu khuất phục, mà ngược lại họ đã phản kháng quyết liệt.Họ đã biết vượt lên đau thương để vùng lên cầm vũ khí tự giải phóng mình .Lửa đã thiêu cháy mười đầu ngón tay Tnú, lửa bùng cháy trên mười đầu ngón tay tẩm nhựa xà nu.Nhưng Tnú không thấy đau đớn, anh chỉ thấy lửa cháy ở trong lòng- ngọn lửa chiến đấu sẽ thiêu cháy kẻ thù.Và một tiếng hét căm hờn, phẫn uất đã vang vọng khắp núi rừng Xô man, tiếng het ấy như khơi dậy cao đọ lòng căm thù giặc của cả buôn làng.Xác mười tên giặc đã chết nằm ngổn ngang trên mặt đất. Đêm ấy lửa cháy suốt trong bếp lửa nhà ưng.Nhà văn Nguyễn Trung Thành đã miêu tả cái đêm nổi dậy ấy thật hào hùng, sôi động : "Tiếng chiêng nổi lên, đứng trên đồi xà nu gần con nước lớn suốt đêm nghe cả rừng Xôman âo ào rung động và lửa cháy khắp rừng.Cái đêm nổi dậy ấy đâu chỉ là của dân làng Xôman mà là sự lớn dậy phi thường của cả 1 cộng đồng, dân tộc.Dường như trong đêm ấy đang sống lại cái không khí linh thiêng hào hùng của những thiên sử thi Tây Nguyên".
Một điều không thể thiếu khi nhắc tới cuộc đời của Tnú đó chính là hình ảnh hai bàn tay của anh. Đôi bàn tay bị đót cháy của Tnú đã nhóm lên ngọn lửa căm thù giặc sâu sắ của dân làng Xôman, nó còn soi sáng cuộc đời anh.Anh đã thay mặt người dân làng Xôman lên đường theo kháng chiến đi tìm những thằng Dục khác.Bởi lẽ không phải ngẫu nhiên tác giả lại để cho Tnú kể với dân làng mình sự đối đầu của anh với kẻ thù sau này: "Tôi nói: này tao có súng đây, tao có cả dao găm đây nhưng tao không giết mày súng, tao không đâm mày bằng dao nghe chưa Dục.Tao giết mày bằng mười ngón tay cụt này thôi, tao bóp cổ mày thôi".Nhà văn đã cố tình tô đậm hình ảnh đôi bàn tay Tnú- đôi bàn tay có cả một lịch sử, một số phận.
Lúc còn nhỏ, đôi bàn tay ấy kiên trì học từng nét chữ của anh Quyết, cần cù làm nương phát rẫy. Đôi bàn tay dám lấy đá đập vào đầu mình vì học cái chứ không sáng dạ bằng Mai.Và đôi bàn tay ấy dám chỉ vào bụng mình mà nói với quân giặc "Cộng sản ở đây này" khẳng định lòng trung thành vớ cách mạng.Lớn lên đôi bàn tay xúc động nắm lấy bàn tay người con gái anh yêu thương và cũng đôi bàn tay ấy xé tấm đồ làm nịu cho đứa con thơ dại.Lửa đốt cháy mười đầu ngón tay để rồi mãi mãi chỉ còn hai đốt không bao giờ mọc lại được.....cho nên Tnú muốn dung đôi bàn tay ấy để giết chết kẻ thù.Bao uất hận căm hờn đã dồn lên đôi bàn tay kia, nó đã trở thành biểu tượng cho ý chí bất khuất , cho sức sông mãnh liệt của Tnú và người dân làng Xôman.Kẻ thù tàn ác có thể đốt cháy đôi bàn tay nhưng không thể tiêu diệt được sức mạnh phi thường, tiềm ẩn trong con người họ. Đó là ý chí chiến đấu và khát vọng chiến thắng. Đó là một dân tộc kiên cường dũng cảm như những khu rừng xà nu hàng vạn cây không cso cây nào bị thương mà vẫn xanh tươi bát ngát trải xa tít tắp tận chân trời.
Xây dựng thành công nhân vật Tnú, nhà văn đã khắc hoạ được hình ảnh tiêu biểu của con người mang đạm dòng máu, tính cách của núi rừng Tây Nguyên.Và qua hình tượng Tnú, Nguyễn Trung Thành còn gợi ra được số phận và phẩm chất của cả cộng đồng trong cuộc chiến đấu bảo vệ buôn làng thân yêu. Đó là tình cảm gắn bó thiết tha sâu nặng với quê hương đất nước, với núi rừng Tây Nguyên, căm thù giặc sâu sắc một lòng một dạ đi theo cách mạng, không ngại khó khăn, gian khổ, hi sinh, tin tưởng tuyệt đối vào sự thắng lợi của cách mạng.Có thể nói qua thiên truyện ngắn xuất sắc này của Nguyễn Trung Thành, người đọc càng them hiểu và thêm trân trọng con người Tây Nguyên vớ biết bao phẩm chất thật đẹp, thật cao quý.
Bài giải của bạn: cauconcoc 02:39:40 Ngày 23-03-2009
Dàn bài:
I. Mở Bài
-Đôi nét về phong cách sáng tác của tác giả (ở đây là Nguyễn Trung Thành hoạt động chủ yếu trong văn xuôi viết về Tây Nguyên)
-Nhắc đến yêu cầu đề (nêu được hướng ta sẽ phân tích, ở đây là hình tượng nhân vật Tnú)
II. Thân Bài
A/ Khi Tnú còn nhỏ
- Bản tính gan lì, táo bạo (học chữ, xé rừng mà đi, vượt thác)
- Thông minh (lựa chỗ ít bị phục kích, nuốt thư khi bị bắt)
- Kiên cường, luôn hướng về cách mạng. (bị tra tấn nhưng không khai, trốn tù về làng)
B/ Khi Tnú trưởng thành
- Gan lì (khi bị đốt tay không kêu van)
- Trung thành với Cách mạng (không xông ra ngay cứu vợ con)
- Giàu tình yêu thương (xông ra cứu vợ con, đi bộ đội lúc nào cũng nhớ về làng)
- Là người có tính kỉ luật (cấp trên cho về thăm làng 1 đêm, sáng ra đi ngay)
C/ Đánh giá nhân vật, nâng cao
- Là hình tượng tiêu biểu cho cả làng Xô Man, nhân dân Tây Nguyên.
- Là thành công của tác giả trong xây dựng nhân vật
III. Kết Bài
- Tổng kết lại về Tnú và tác phẩm
Bài Làm
Làng văn xuôi Việt Nam hiện đại có lẽ không ai gắn bó với Tây Nguyên bằng Nguyễn Trung Thành - bút danh khác là Nguyên Ngọc. Ông có mặt ở Tây Nguyên qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và Đế quốc Mĩ. Có lẽ chính sự gắn bó này đã khiến Nguyễn Trung Thành trở thành nhà văn tiên phong đưa Tây Nguyên đến với văn chương hiện đại và đưa văn chương đến Tây Nguyên. Trong các tác phẩm của ông, nổi trội hơn cả là truyện ngắn "Rừng xà nu" kể về dân làng Xô Man trong kháng chiến chống Mĩ. Nổi bật lên là hình ảnh Tnú. Câu chuyện về cuộc đời anh đã được tái hiện cụ thể qua lời kể của cụ Mết - già làng - bên bếp lửa nhà ưng trong một đêm anh được phép về thăm làng sau ba năm đi bộ đội.
"Rừng xà nu" là truyện ngắn viết năm 1965, xuất bản lần đầu tiên trong Tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng trung Trung bộ số 2 năm 1965. Sau in lại trong tập "Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc". Đây là tác phẩm xuất sắc trong việc xây dựng hình tượng cho sức sống dẻo dai, tinh thần bất khuất của nhân dân Tây Nguyên thông qua nhân vật Tnú.
Tnú là một người dân làng Xô Man với hoàn cảnh đặc biệt: mồ côi cha mẹ từ nhỏ, được người làng Xô Man nuôi nấng, đùm bọc, tuy nghèo khổ nhưng tâm hồn Tnú rất trong sáng. Cụ Mết từng nói: "Nó là người Strá mình. Cha mẹ nó chết sớm, làng Xô Man này nuôi nó. Đời nó khổ nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta. Số phận Tnú cũng rất đáng thương khi vợ con anh bị giặc giết hại ngay trước mắt, bản thân Tnú cũng hai lần bị giặc bắt, tra tấn, hành hạ. Đó cũng là số phận chung của người làng Xô Man và của cả Tây Nguyên sống dưới thời Mĩ-Diệm. Cụ Mết kể: "Từ ngày thằng Mĩ-Diệm đến rừng núi này, không bữa nào nó không đi lùng, không đêm nào chó của nó và súng của nó không sủa vang cả rừng". Chúng đàn áp, khủng bố, gây ra biết bao cảnh đau thương cho dân làng. "Nó treo cổ anh Xút lên cây vả đầu làng", "nó giết bà Nhan, chặt đầu cột tóc treo đầu súng". Chúng tra tấn mẹ con Mai đến chết. Tất cả cũng chỉ là vì mục đích dập tắt ngọn lửa cách mạng đang bùng cháy trong mỗi con người làng Xô Man, nhất là Tnú.
Tnú không dễ dàng bị khuất phục. Ngay từ lúc còn nhỏ, Tnú đã tỏ ra bản lĩnh, gan góc. Khi học chữ với Mai, Tnú học chậm, thua Mai. Tnú tức giận "đập bể cái bảng nứa trước mặt Mai và anh Quyết. Cầm một hòn đá, tự đập vào đầu, máu chảy ròng ròng". Mặc dừ chứng kiến cảnh dân làng bị giết hại dã man nhưng Tnú không hề sợ hãi mà còn tiếp bước những người đi trước phục vụ cách mạng. Tnú thay người già làm liên lạc, nuôi giấu cán bộ, nhanh nhẹn luồn rừng đưa thư, vượt qua suối lũ một cách dũng cảm. Tnú thật sáng dạ khi biết rằng bọn Mĩ ít khi phục kích ở chỗ nước chảy xiết nên "cứ lựa chỗ thác mạnh mà bơi ngang". Khi bị phục kích, Tnú nhanh trí nuốt lá thư bảo vệ bí mật cho cách mạng. Trở về sau ba năm bị giặc bắt, Tnú đã là một chàng trai cường tráng, được tôi luyện qua nhiều thử thách. Giờ đây Tnú giống như một cây xà nu trưởng thành, vạm vỡ, căng đầy nhựa sống và ham ánh sáng. Theo lời dạy của anh Quyết ngày nào, Tnú thay anh làm cán bộ lãnh đạo dân làng chuẩn bị vũ khí đứng lên chống giặc.
Hình ảnh Tnú hiện lên thật đẹp, thật kiên cường qua những lần chiến đấu với kẻ thù. Khi bị bắt, Tnú chẳng hề tỏ ra lo sợ mà chỉ băn khoăn khĩ đến việc chung, nếu anh chết thì "Ai sẽ lãnh đạo dân làng Xô Man đánh giặc?". Anh tiếc rằng "không sống được đến ngày cầm vũ khí đứng dậy với dân làng"... Bọn giặc tra tấn Tnú rất tàn độc, chúng đốt mười ngón tay Tnú bằng giẻ tẩm nhựa xà nu. Nhưng Tnú không hề kêu lên, Tnú nhớ lời anh Quyết: "Người Cộng sản không thèm van xin..." Tnú không thấy đau đớn, anh chỉ thấy lửa cháy ở trong lòng - ngọn lửa chiến đấu mãnh liệt thiêu cháy kẻ thù. Và một tiếng hét căm hờn, phẫn uất đã vang vọng khắp núi rừng Xô man, tiếng hét ấy như khơi dậy cao độ lòng căm thù giặc của cả buôn làng. Xác mười tên giặc đã chết nằm ngổn ngang trên mặt đất.
Tnú còn một lòng trung thành với Cách mạng, luôn hướng về Đảng, vể tự do dân tộc. Bọn giặc tra tấn mẹ con Mai dã man nhưng Tnú không xông ra ngay vì không muốn mắc mưu thằng Dục, không muốn phong trào cách mạng ở buôn làng không có người lãnh đạo để rồi tan rã. Tnú cắn răng chịu đựng, cố vượt qua nỗi bi kịch cá nhân mình, đặt lợi ích của cộng đồng lên trên hết dù anh rất yêu thương vợ con. "Ở chỗ hai con mắt anh bây gời là hai cục lửa lớn".
Một con người gan góc ấy tưởng chừng đã chai lì cảm xúc, nhưng Tnú lại là một người giàu tình thương. Khi bản năng yêu thương đã đạt mức tột cùng, nó cho Tnú cam đảm "nhảy xổ vào giữa bọn lính" mặc cho "tiếng lên đạn lách cách quanh anh". Hai cánh tay như hai cánh lim rộng của anh ôm chặt lấy mẹ con Mai, Tnú ấy thân mình bảo vệ cho vợ con. Nhưng rồi Tnú cũng không cứu sống được vợ con mình. Đó chính là nỗi bi kịch của bạn thân Tnú. Đó là một phần động lực để Tnú cầm súng lên đường với mỗi ngón tay chỉ còn hai đốt trả thù cho vợ con, cho quê hương, bản làng mà anh yêu quý.
Ba năm đi giải phóng quân, Tnú lúc nào cũng nhớ về bản làng. Tnú nhớ thằng bé Heng, "ngày anh ra đi, nó chỉ mới đứng đến ngang bụng anh" mà nay nó đã "vác một khẩu súng trường Mát. Ra vẻ một người lính thực sự". Tnú nhớ về một cụ Mết "ngực căng như cây xà nu lớn" qua bao năm vẫn "quắc thước như xưa". Tnú nhớ về cô bé Dít ngày nào nay đã làm Bí thư Chi bộ... Hình ảnh mỗi người làng Xô Man đều in đậm trong Tnú, đó là tình yêu quê hương, tình yêu buôn làng tha thiết. Tnú chấp nhận mọi khổ đau, bất chấp mạng sống của mình bảo vệ làng, để dân làng thấy được lẽ phải, để buôn làng sống trong ấm no, tự do. Ngày về làng gặp Dít, Tnú "không ngờ Dít lớn lên lại giống Mai đến thế". Hình ảnh người vợ đã ngã xuống mãi trong lòng Tnú và chắc hẳn rằng Tnú sẽ còn mang theo nó đến hết cuộc đời mình.
Tnú còn là một người chấp hành kỉ luật rất nghiêm. Dù xa làng bao năm, nhưng Tnú không bao giờ tự ý bỏ về thăm làng. Cấp trên chỉ cho về phép một đêm nhưng trong sự lưu luyến của dân làng, sáng hôm sau Tnú lại lên đường trở về đơn vị.
Là hình ảnh đại diện cho dân làng Xô Man, cho người Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ. Ta có thể thấy ở Tnú hội tụ đủ những tố chất của một anh hùng dân tộc: gan góc, táo bạo, dũng cảm và giàu lòng yêu thương. Nguyễn Trung Thành đã rất thành công trong việc xây dựng hình tượng hình ảnh người anh hùng lí tưởng. Tnú như một cây xà nu chắc khoẻ, dẻo dai. Vừa là nguyên mẫu mang những vẻ đẹp ngoài đời, nhưng Tnú cũng vừa mang những vẻ đẹp của một anh hùng sử thi Tây Nguyên như Đăm Săn, Chi Bri - Chi Brít. Cũng qua tác phẩm và hình ảnh Tnú, tác giả đã nêu lên một chân lí tất yếu thông qua lời phát ngôn của cụ Mết "chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo". Đó chính là tư tưởng chủ đạo trong đường lối cách mạng của Đảng, của dân tộc ta.
Bằng hình tượng nhân vật Tnú, nhà văn đã khắc hoạ được hình ảnh tiêu biểu của dòng máu, tính cách núi rừng Tây Nguyên. Qua đó, Nguyễn Trung Thành còn gợi ra được số phận và phẩm chất của cả cộng đồng trong cuộc chiến đấu bảo vệ buôn làng thân yêu. Đó là tình cảm gắn bó thiết tha sâu nặng với quê hương đất nước, với núi rừng Tây Nguyên, căm thù giặc sâu sắc, một lòng một dạ đi theo cách mạng, không ngại khó khăn, gian khổ, tin tưởng tuyệt đối vào sự thắng lợi của cách mạng. Có thể nói qua thiên truyện ngắn xuất sắc này của Nguyễn Trung Thành, người đọc càng thêm hiểu và thêm trân trọng Tây Nguyên vốn được koi là vùng đất "rừng thiêng nước độc" với biết bao phẩm chất thật đẹp, thật cao quý. Họ cũng chính là hình ảnh đẹp đẽ, tiêu biểu cho con người Việt Nam thời chống Mĩ
Đề bài | Bài giải | ý kiến bạn đọc
Đề bài
Hãy bình luận ngắn về tên bài Rừng xà nu
Bài giải chi tiết | Viết cách giải khác của bạn
Xà nu là một loại cây họ thông mọc ở một vùng đất đặc trưng: nơi ở của đồng bào Tây Nguyên. Cây xà nu lực lưỡng có sức sống mãnh liệt, dẻo dai. Cả khu rừng gợi cho người ta cảm giác về sự vĩ đại về sức sống quật khởi, về tiềm năng sống, về một tư thế, một khát vọng với ánh nắng mặt trời. Hình ảnh thật của rừng xà nu được ẩn giấu bằng việc đối chiếu những cuộc đời của người Xôman đã khiến cho Rừng xà nu trở thành một biểu tượng. Nó là Tây Nguyên, là dân tộc Việt Nam, là toàn thể nhân dân Việt Nam trước một thời điểm lịch sử vô cùng trọng đại: Năm 1965, đế quốc Mĩ quyết định đổ quân vào miền Nam hòng dập tắt sự nghiệp giải phóng dân tộc sự nghiệp chống Mĩ - ngụy của nhân dân miền Nam. Rừng xà nu ngàn đời vẫn vậy. Những năm 60 kẻ thù đã hung hãn dùng vũ khí dùng đại bác nhưng không tiêu diệt được rừng thậm chí rừng còn mọc lên lớp lớp bao nhiêu lá cây con. Vậy thì theo lôgic sự tàn bạo của kẻ thù chỉ làm Rừng xà nu thêm dày đặc và thêm sức sống mãnh liệt. Nói Rừng xà nu nhưng là để nói về cuộc chiến đấu trước mắt của dân tộc vì thế tên truyện có nghĩa khái quát cao và mang đậm tính sử thi.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top