Chương 2: Ba quy tắc
Lúc ấy hắn ngồi trong lều, ngắm những ngôi sao lịm dần trên nền trời đang mỗi lúc một rực rỡ, khi ánh sáng của bình minh loang theo vầng Dương vừa ló dạng, soi chiếu những đụn cát trắng, khiến chúng lấp lánh như thể lẫn trong đó là vô số hạt thuỷ tinh li ti. Để rồi từ các dãy sáng ấy, hắt lên biết bao sắc màu huyễn hoặc, tựa những gợn sóng cầu vồng nhảy múa trên hoang mạc. Đó là một quang cảnh kỳ diệu, chỉ xảy ra trong khoảnh khắc, khi bầu trời chia sẻ sự tráng lệ của mình với mặt đất; và vũ trụ dường như hạ cố, vươn bàn xuống vạch một con đường, để những kẻ phàm trần có thể tận hưởng ánh sáng vĩnh hằng dù chỉ trong phút chốc.
Dù vô tình hay hữu ý, thì người đàn ông lạ thường ấy cũng đã chọn đúng thời điểm đặc biệt này để xuất hiện trước mặt hắn. Trong một giây, hắn có cảm tưởng như những dãy sáng mỏng manh kia đang bao bọc lấy ông ta, ướp đầy thân thể và quần áo của ông bằng những màu sắc tráng lệ, mà chắc chắn không một loại thuốc nhuộm nào trên thế gian có thể mô phỏng lại được.
Hay có lẽ chính người đàn ông ấy cũng được tạo tác bằng ánh sáng? Hắn ngẩn ngơ với ý nghĩ của mình. Trong giây phút này, chẳng hiểu sao điều đó dường như quá hiển nhiên, như thể mọi cây cổ thụ đều bắt đầu từ một hạt mầm nhỏ bé. Người đàn ông kia được tạo tác bằng ánh sáng và chính bản thân hắn cũng thế, vạn vật được nhào nặn nên bởi Mặt Trời, Mặt Trăng và những vì tinh tú. Còn sự tàn phá thuộc về hư không, những khoảng trống mênh mông trên vũ trụ hay thứ bóng tối vô biên hiện diện trong những điều chưa biết. Nhưng sự tàn phá ấy cũng là một phần của dòng chảy, và chính cái định mênh bị lụi tàn cũng làn nên ý nghĩa sự sống của hắn. Phải rồi, mọi thứ là thế, một sự nhào nặn và huỷ diệt không ngừng cho đến tận cùng thời gian...
Trong lúc hắn đang miên man suy nghĩ, thì người đàn ông đã chậm rãi đi tới trước mặt, với từng bước chân nặng nề khó nhọc, như bị nhấn chìm trong vô số mảnh vải đủ màu rách tả tơi, được quấn lại quanh thân thể. Nhìn từ xa, ông ta tựa một cuộn vải to lớn, chậm chạp lăn qua hết đụn cát này tới đụn cát khác. Còn khi đến gần, hắn thấy một khuôn mặt Đông phương tầm trung niên, khô quắt với những nếp nhăn cằn cỗi trên làn da đen sạm tua tủa râu. Khuôn mặt ấy chìm nghỉm trong những lớp vải dày đã sờn rách được quấn lại qua loa.
Ông ta im lặng nhìn hắn một lúc, nhưng đôi mắt đồng thời cũng bỏ qua hắn. Một cái nhìn chẳng thể hiện bất cứ điều gì cho người đối diện, như thể mọi cảm xúc đều đã tắt ngấm và nguội lạnh trong linh hồn của người đàn ông này. Một cái nhìn chẳng đặt vào đâu mà lúc nào cũng miên man vô định, nó luôn luôn trôi dạt khắp những bến bờ lạ lẫm, để rồi cuối cùng tan biến vào không gian mà chẳng để lại bất kỳ dấu vết gì.
- Cậu có thể vui lòng cho tôi một mẩu bánh mỳ và chút ít nước uống được không?- Ông ta lên tiếng, giọng nói trầm trầm chậm rãi.- Tôi hứa sẽ đáp lại lòng tốt của cậu một cách xứng đáng.
- Được chứ!- Hắn vội vã nói và dịch qua một bên.- Mời ông ngồi.
Vẫn giữ nguyên bộ trang phục cồng kềnh và nặng nề của mình, ông ta chậm rãi ngồi xuống lều trong khi hắn lục tìm trong mớ hành lý. Những người thương nhân đã tặng hắn đủ mọi thứ cho chuyến hành trình, một chiếc lều rộng rãi mà chắc chắn, có thể xếp và gập lại gọn gàng, hai tấm thảm loại tốt, vài chiếc áo choàng để tránh nóng, một thanh kiếm nhẹ, hai con dao găm và không thể thiếu thực phẩm, nước uống đủ dùng cho một tuần lễ. Tất cả đều được gói gọn trong hai bọc lớn, thồ trên lưng một con lạc đà hai bướu mà họ đã hào phóng trao cho hắn, mặc kệ những lời từ chối.
- Cậu là một thương nhân sao?- Người đàn ông hỏi và đưa mắt nhìn quanh cái lều cùng con lạc đà.- Tôi có thể nhận ra qua hình dáng của những nút thắt, người ta nói rằng thương nhân ếm một loại bùa chú bí mật vào mỗi nút thắt của mình, để không một ai khác mở ra được. Còn dây thừng và vải vóc của họ thì bền chắc tới mức không lưỡi dao nào có thể cắt đứt. Nên mọi người truyền tai nhau câu ngạn ngữ "Khi thương nhân đã chất hàng lên, thì chỉ có Thượng Đế và một món lời lớn mới có thể dở hàng xuống được".
Hắn lắc đầu, lôi ra một cái bánh mì tròn cùng tảng thịt khô.
- Không, tôi không phải thương nhân! Nhưng một đoàn thương nhân đã tặng tôi tất cả những hành lý này.- Hắn đặt ổ bánh mỳ, miếng thịt khô cạnh người đàn ông và dúi vào tay ông ta con dao.- Còn nút thắt cũng do họ dạy tôi, nó vô cùng chắc chắn và rất dễ mở nếu biết cách.
Người đàn ông gật gù, ông ta trầm ngâm nhìn thức ăn và con dao trong tay một lúc, rồi dường như đã quên bẵng chúng để lướt theo những suy nghĩ riêng tư của mình.
- Quà tặng từ các thương nhân?- Ông ta mỉm cười.- Tôi nghĩ điều đó còn hiếm hoi hơn tìm được một bông hoa giữa hoang mạc. Cậu hẳn là một chàng trai đặc biệt, vì thương nhân luôn tính toán mọi thứ rất kỹ càng, ngay cả sự hào phóng.
- Tôi không rõ, nhưng họ đã đối xử rất tốt với tôi!- Hắn trả lời để kết thúc câu chuyện, không muốn nhắc lại về những nghi thức đã chứng kiến và đặc biệt là Kiga'stra.
Người đàn ông gật gù, thở ra một hơi.
- Rất lâu về trước tôi từng gặp một thương nhân trẻ, cậu làm tôi nhớ đến anh ta. Chàng trai ấy mang những mũi tên đặc biệt từ phương Đông sang phương Tây bán, chúng được làm bằng một loại thép tốt với sự ổn định phi thường và có thể bay rất xa. Thậm chí anh ta còn trộm được công thức làm ra những mũi tên từ vị Hoàng đế phương Đông, thế là Hoàng Đế đã phái một đội quân hàng trăm người để truy bắt chàng trai ấy.- Vừa nói, người đàn ông vừa cắt thịt khô rồi dùng tay xé nhỏ chúng.- Dù bị truy bắt gắt gao như vậy, nhưng anh ta vẫn tin tưởng mời tôi vào lều khi tôi hỏi xin một mẫu thức ăn. Đó là một chàng trai thông minh mà hồn nhiên, hai đức tính hiếm khi đi chung với nhau; nhưng nếu may mắn sở hữu chúng, ta sẽ có sức quyến rũ lạ thường và thuyết phục được hầu hết mọi người trên đời tin vào mình. Nhưng vấn đề cũng bắt đầu từ đó, người ta dễ dàng đắm chìm trong sức mạnh, để rồi tự đẩy bản thân mình vào thế kẹt. Họ trở nên lơ đãng, chủ quan và yếu đuối...
Ông ta chậm rãi nhai bánh mỳ và thịt khô, bàn tay cằn cỗi xoay xoay con dao một cách thành thục.
- Đêm đó chúng tôi nói chuyện về những mũi tên ở phương Đông, các nút thắt của thương nhân và cả về người con gái mà anh ta yêu. Cô là con rơi của một lãnh chúa quyền quý với người hầu trong lâu đài, anh ta nói với số tiền kiếm được, cuối cùng mình có thể lấy cô làm vợ. Tôi vẫn còn nhớ nụ cười trên môi anh ta lúc đó, một nụ cười hiếm hoi mà có lẽ ta chỉ có thể bắt gặp vài lần trong đời. Nó rực sáng, tràn đầy niềm hạnh phúc bất tận, được thắp lên bởi một tâm hồn nhiệt thành, tin tưởng vào cuộc sống tươi đẹp sắp tới. Sáng sớm hôm sau, chúng tôi chia tay nhau vội vã, vì anh ta còn phải chạy trốn đội quân đã sắp tới gần. Lúc đó, khi nhìn anh ta cưỡi lạc đà khuất dần, tôi đã tin chắc chàng trai ấy sẽ thành công và lấy được người con gái trong mộng. Nhưng vài ngày sau khi đi qua một khu rừng, tôi thấy xác của anh ta treo lủng lẳng trên một cái cây chết khô và đang bị lũ quạ bâu vào xâu xé. Đám lính đã treo cổ chàng trai ấy bằng chính những nút thắt bất khả tháo gỡ của thương nhân, để vĩnh viễn không một ai có thể đem anh ta xuống nữa. Và mọi người qua đường chỉ có thể mặc kệ cái xác, để nó thối rữa dần cho đến khi còn lại một bộ xương khô trơ trọi. Vị Hoàng Đế phương Đông luôn nổi tiếng với những trò trừng phạt kẻ phạm tội, nên có lẽ đây là chủ ý của ông ta ngay từ đầu, để tỏ rõ uy quyền với thần dân của mình. Nhưng hoá ra không phải như vậy...
- Vậy chuyện là thế nào?- Hắn hỏi, đột nhiên thấy tò mò với câu chuyện của người đàn ông.
- Hoá ra anh ta đã quyến rũ hoàng hậu Phương Đông, bằng cách ngủ với hoàng hậu và hối lộ các vị quan trong triều đình, anh ta tiếp cận được Hoàng Đế rồi nhân cơ hội trộm bí quyết rèn thép. Sau đó anh ta bỏ trốn với tất cả những thứ mình lấy được, gồm cả trái tim của hoàng hậu. Thế là hoàng hậu đã phái quân lính thân tín bí mật đi truy sát người tình bội bạc của mình. Và chính hoàng hậu cũng đã nghĩ ra hình phạt đặc biệt dành cho người thương nhân trẻ.
- Vậy còn Hoàng Đế thì sao?
Người đàn ông nhún vai.
- Hoàng Đế chẳng hay biết gì cả, ông ta có quá nhiều cung tần mỹ nữ, quá nhiều người hầu sẵn sàng quỳ mọp dưới chân mình mọi lúc mọi nơi. Một mẩu công thức rèn thép cũng chẳng có nghĩa lý gì khi so với đội quân hàng trăm vạn người được trang bị đầy đủ, lúc nào cũng sẵn sàng đợi lệnh để chinh phạt cả thế gian.
Cả hai im lặng nhìn về phía trước, Mặt Trời lúc này đã bắt đầu thiêu đốt hoang mạc, khiến những đụn cát ở phía sau lấp loáng, phản chiếu thứ ảo giác về những ốc đảo không bao giờ có thật. Người đàn ông ăn một cách từ tốn, thi thoảng chép miệng khe khẽ. Hắn chợt nghĩ dường như tất cả mọi người đi vào hoang mạc đều mang theo một nỗi u sầu nào đó, hoặc giả chính khoảng không rộng lớn ở chốn này khiến những buồn bã sâu kín của con người ta thức giấc, để rồi chúng lại cào xé linh hồn họ bằng những suy tư miên man không dứt.
Chính hắn cũng mang nỗi u sầu to lớn như vậy, hắn mường tượng nó là một cái bóng khổng lồ, che lấp mọi thứ xung quanh mình. Cả cuộc đời hắn đều gói gọn trong cái bóng ấy, to lớn đến mức hắn chẳng thể nào nhận ra hình thù của nó là gì, chỉ biết rằng sự dày đặc và mênh mông đôi khi khiến hắn ngộp thở, bắt hắn phải tỉnh dậy giữa đêm với nỗi sợ hãi làm trái tim như muốn nổ tung trong lồng ngực.
Nhưng hắn sợ điều gì và đâu là nguồn cơn của cái bóng ấy?
- Ông đến từ Phương Đông à?- Hắn lên tiếng, bỗng nhiên muốn trò chuyện chỉ để phá vỡ sự im lặng đang lèn kín tâm khảm mình.
- Đúng vậy, tôi đã đi rất nhiều nơi trong Đế chế của Hoàng Đế.- Người đàn ông nói với một vẻ tự hào đặc biệt, như những người Phương Đông hay tỏ ra kính trọng khi nói về quê hương của mình.- Tôi đã đứng trên những đường phố chật kín người và ngựa xe qua lại, cả trong các cung điện nguy nga tráng lệ nhất, tới những làng chài nghèo nàn, nơi mọi túp lều đều dễ dàng bị các cơn bão quật ngã, để rồi ngay sau đó chúng lại nhanh chóng mọc lên trở lại như chưa từng có chuyện gì xảy ra. Tôi đã đi thuyền qua những đầm lầy mênh mông mọc kín hoa sen vào mùa hè, khi chúng nở rộ và toả ra hương thơm khiến người ta dễ dàng chìm vào giấc ngủ sâu thẳm, thứ u hương ấy quyến rũ tới mức khiến rất nhiều người ngây ngất rồi ngã xuống thuyền chết đuối, bị nhấn chìm bởi những đoá sen thanh khiết. Tôi đã ngang qua chiến trường, thấy hàng nghìn cái xác phơi mình dưới cát bụi, chứng kiến những người nông dân vừa lột từng mảnh giáp trụ trên cơ thể bị xâu xé của người lính tử trận, vừa chắp tay nguyện cầu sự tha thứ và mong họ được yên nghỉ. Phương Đông kỳ diệu và bí ẩn, nơi người ta tin rằng trái tim của con người là hầm mộ sâu kín nhất, cũng là chốn chứa những cạm bẫy hiểm độc nhất...
Nói tới đây người đàn ông mỉm cười như thể chợt nhớ ra một kỷ niệm ngọt ngào nào đó, nụ cười ấy khiến chút ánh sáng thấp thoáng trên đôi mắt mệt mỏi và buồn bã.
- Ông làm gì ở Phương Đông?
- Tôi à? Tôi là nhà ảo thuật, tôi lang thang và biểu diễn ở khắp mọi nơi. Cậu biết nhà ảo thuật chứ? Biến ra cái này và giấu đi cái kia, thu nhỏ vật nọ rồi phóng to thứ khác... Tin hay không tuỳ cậu, nhưng mọi nhà ảo thuật chân chính đều có quyền phép cao siêu, dù vậy chúng tôi chỉ sử dụng sức mạnh của mình để mua vui cho mọi người. Đó là cách đúng đắn nhất để dùng phép thuật, vì những nụ cười và sự trầm trồ thán phục. Những động cơ khác sẽ chỉ để lại đau thương cho thế gian này!
Nói tới đây, nhà ảo thuật quay qua nhìn hắn với vẻ tinh ngịch nhũn nhặn.
- Tôi sẽ biểu diễn một trò ảo thuật nhỏ cho cậu, xem như trả tiền chỗ thức ăn. Xin cậu đừng từ chối, vì tôi cũng cần mài dũa lại kỹ năng của mình. Nhà ảo thuật chỉ có thể trình diễn khi có khán giả, mà trên hoang mạc này cậu lại là người đầu tiên tôi gặp mặt!
Nói tới đây ông ta giơ bàn tay về phía hắn, bằng một động tác đặc biệt, với những cử động uyển chuyển như một con thiên nga đang cúi đầu xuống chuẩn bị rỉa lông. Hắn ngồi im, cảm nhận bàn tay nhà ảo thuật dần dần di chuyển ra phía sau tai mình. Rồi một tiếng búng tay vang lên khiến hắn hơi giật mình, nhà ảo thuật thu bàn tay về và trên đó là một đồng xu lấp lánh ánh vàng.
Hắn ngạc nhiên, bất giác sờ vào tai mình trong khi nhà ảo thuật nở nụ cười mãn nguyện và khẽ cúi đầu. Ông ta để cho đồng xu lăn qua lăn lại giữa những kẻ ngón tay trong khi nhìn ngắm nó một cách thích thú.
- Làm sao mà...
- Thật ra đây là đồng xu của cậu.- Nhà ảo thuật ôn tồn nói rồi thả đồng xu vào tay hắn.- Một đồng xu mà rất lâu về trước cậu đã làm rơi rồi quên mất... Chuyện như vậy luôn xảy ra mà đúng không? Những đồng xu đặc biệt dễ biến mất, chúng lăn vào khe hẹp, hay rơi xuống miệng cống. Thậm chí đôi khi ta còn không nhận ra là chúng đã biến mất nữa kìa! Những đồng xu tráo trở, âm thầm phản bội chủ nhân của mình.- Nói tới đây ông ta chép miệng.- Khi nãy tôi chỉ vươn tay về quá khứ và lấy một đồng xu cậu đã lãng quên thôi, chẳng có gì to tát cả, chung quy ngay từ đầu đồng xu đã thuộc về cậu rồi.
Hắn nghiêng đầu nhìn đồng xu, tự hỏi mình đã đánh mất nó trong trường hợp nào.
- Sự lãng quên chính là phép thuật kỳ diệu nhất!- Nhà ảo thuật tiếp tục mạch suy nghĩ của mình.- Nó biến những thứ từng to lớn trở thành bé nhỏ và rồi cuối cùng tất cả đều hoá hư không. Qua năm tháng, phần lớn mọi việc cậu từng trải qua cũng nhạt nhoà dần, đầu tiên là những chi tiết, rồi sự kiện, con người và cuối cùng là cảm xúc. Có rất nhiều trò ảo thuật dựa vào sự lãng quên, dù gì sự lãng quên cũng nằm trong ba quy tắc cơ bản của nhà ảo thuật...
- Ba quy tắc đó là gì?
Nhà ảo thuật giơ nắm tay ra trước mặt hắn rồi xoè ngón trỏ ra.
- "Không bao giờ được lưu lại một nơi quá lâu". Vì phép thuật sẽ dần mất tác dụng khi người ta không còn sự ngạc nhiên thích thú nữa, nếu cậu diễn mãi một trò với cùng một người, cuối cùng hắn sẽ chán ngấy và trò ảo thuật cũng mất hiệu nghiệm. Thứ hai...- nhà ảo thuật xoè ngón giữa ra.- "Không bao giờ để cho người bình thường nhìn trực tiếp vào phép màu khi nó đang diễn ra". Mọi sự biến hoá cần phải được che đậy kỹ càng và khéo léo trước đôi mắt của người thường. Bởi lúc phép màu diễn ra, nó luôn đi cùng những sức mạnh thần bí, có thể khiến người ta phát điên vì buồn bã hoặc vui sướng. Nên cả sự phấn khởi và nỗi thất vọng đều cần được kềm chế, để có được một tâm hồn an định.- Ông ta xoè nốt ngón tay cái ra.- "Thứ ba, luôn luôn lãng quên những thứ mình đã bỏ vào bên trong hộp"!
Hắn chau mày.
- Nghĩa là sao?
- Luật lệ thứ ba liên quan đến các trò ảo thuật dạng "Biến mất – xuất hiện", một trong những trò cổ xưa nhất và cũng nổi tiếng nhất.- Ông ta chép miệng, chậm rãi xoa hai bàn tay vào nhau.- Tôi tin rằng cậu cũng đã từng nghe về nó rồi, nhà ảo thuật bỏ một vật gì đó vào trong hộp, ếm lên thứ bùa phép bí ẩn. Tiếp theo nhà ảo thuật mở hộp ra, khán giả há hốc mồm ngạc nhiên vì bên trong hoàn toàn chẳng có gì cả. Chỉ là một cái hộp rỗng không hơn không kém. Rồi cái hộp lại được đóng kín một, nhà ảo thuật lại trổ tài bùa phép của mình. Và khi mở hộp ra lần nữa thì vật vừa biến mất đã xuất hiện một cách kỳ diệu.- Nhà ảo thuật nhếch mép cười thích thú.- Chỉ đơn giản vậy thôi, nhưng những trò kiểu này luôn luôn khiến khán giả thích thú một cách đặc biệt.
Hít vào một hơi, nhà ảo thuật chậm rãi thở ra, khiến hai cánh mũi to bè dày dặn sương gió khe khẽ rung.
- Để làm trò này, nhà ảo thuật sẽ giấu những gì cần giấu vào trong trái tim họ.- Vừa nói ông ta vừa đặt bàn tay lên ngực mình.- Bởi lẽ trái tim là chốn sâu xa khó lường nhất. Có thể cậu không tin, nhưng một con kiến hay một toà lâu đài cũng chẳng khác gì nhau khi nằm trong trái tim con người đâu. Đó là nơi mà mọi chiều kích hay xét đoán đều trở nên vô nghĩa, một khoảng không gian bao la và dường như không có điểm tận cùng... Rộng lớn hơn mọi hoang mạc và sâu xa hơn mọi đại dương trên thế gian. Thế nên khi cậu thấy nhà ảo thuật bỏ gì đó vào hộp, dù là một món đồ nhỏ bé hay cả một con người, thì sự thật là hắn đang bỏ chúng vào trong trái tim mình, che giấu chúng khỏi đôi mắt của khán giả. Vậy nên, ý nghĩa sâu xa của quy tắc thứ ba là nhà ảo thuật chỉ được bỏ một thứ vào trong hộp khi đã sẵn sàng vứt nó đi.
- Vậy làm sao để họ trả lại cái mà mình đã cất giấu?
Nhà ảo thuật mỉm cười.
- Mọi thứ đơn giản mà! Cách thức cũng hệt như khi cậu cố gắng vượt qua điều đã làm mình đau khổ thôi. Để lấy thứ đã được giấu vào trong trái tim thì người ta buộc phải quên nó đi. Cậu giấu một cái đồng hồ, cậu phải quên cái đồng hồ. Cậu giấu một con hổ, cậu phải quên con hổ. Điều này cũng giống như việc tôi lấy đồng xu khi nãy vậy, giả sử cậu có một đồng xu trong túi và cậu lúc nào cũng nhớ việc đồng xu ấy nằm trong túi mình, thì tôi sẽ không bao giờ lấy nó được. Tôi chỉ có thể lấy lại những gì đã bị lãng quên mà thôi, bởi lẽ sự lãng quên khiến cho các cảm xúc cũ kỹ tươi mới thêm một lần nữa, đó mới là phép màu thật sự mà mọi nhà ảo thuật đều hướng tới! Đánh thức thứ ngủ quên trong tâm khảm con người, làm chúng bừng tỉnh với vẻ rạng rỡ.
- Vậy quy tắc thứ ba đặt ra là để nhà ảo thuật không bao giờ làm biến mất vĩnh viễn bất kỳ điều gì phải không?
- Đúng vậy! Khiến một cái gì đó biến mất vĩnh viễn sẽ gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới thực tại, rất nhiều thứ sẽ sụp đổ và rất nhiều thứ khác được dựng lên chỉ để thay thế điều đã biến mất, nhưng sự thay thế luôn khập khiễng, thiếu hụt hoặc dư thừa... Bởi lẽ, vũ trụ là một khối toàn thể, mọi nhiễu động vi tế đều tựa như một vệt sóng loang trên mặt hồ, cuối cùng sẽ chạm đến những điểm xa xôi và sâu kín nhất mà không có cách nào ngăn trở hay cứu vãn được. Chính vì vậy, nhà ảo thuật sẽ phải chịu sự đày đoạ khủng khiếp, gần như là nguyền rủa nếu phạm phải quy tắc thứ ba.
- Ông từng thấy nhà ảo thuật nào vi phạm các quy tắc chưa?
- Tôi đã thấy rồi...- Người đàn ông từ tốn trả lời.- Người đó đang ngồi trước mặt cậu đây! Tôi đã vi phạm quy tắc thứ ba, vì tôi không quên được một người nên tới bây giờ người đó vẫn còn mắc kẹt trong trái tim tôi.
Hắn im lặng, nhìn nhà ảo thuật một lượt thật kỹ càng, rồi bỗng nhiên hắn chú mục vào đôi mắt lúc nào cũng xa xăm và tràn ngập suy tư của ông ta. Một đôi mắt sâu thẳm như hai miệng giếng, nhưng đó lại là hai miệng giếng cạn khô, lèn chặt vô số nỗi cô đơn và buồn bã trên đời.
- Đó là người ông yêu phải không? Cái người mà ông không quên được...
Nhà ảo thuật không trả lời, thay vào đó ông ta thở ra một hơi rồi lại đưa mắt nhìn xă xăm.
Và rồi nhà ảo thuật bắt đầu kể câu chuyện của mình, câu chuyện mà có lẽ ông đã muốn kể ra từ lâu, ngay khi bắt đầu cuộc hành trình băng qua hoang mạc. Câu chuyện đã chất chứa trong tâm khảm suốt bao ngày tháng, tựa một khối đá dần lớn lên, đè nặng trong lồng ngực, thít chặt cho đến khi từng hơi thở và suy tưởng của ông vỡ vụn thành vô số mảnh u buồn và đau thương. Câu chuyện mà trong mỗi giây phút trôi qua, ông không ngừng lập đi lập lại, tự kể cho chính bản thân mình, liên tục nghiền ngẫm để rồi cuối cùng bản ngã ông cũng thất lạc bên trong nó. Rồi ông bước đi như một kẻ mộng du, với đôi mắt trống rỗng, lướt qua vạn vật tựa xung quanh mình chỉ là những hoang tàn, đổ nát tiếp nối nhau cho đến tận cùng thế giới.
"...rất nhiều năm về trước, tôi từng đến Mỹ Đô để biểu diễn những trò ảo thuật của mình trên các con phố sầm uất ở đó. Trung tâm của thành phố là Vương cung nguy nga, rực rỡ; nơi vị Hoàng Đế vĩ đại của phương Đông mỗi ngày tiếp kiến sứ thần, xử lý các tấu chương, điều động binh mã và ra các bộ luật. Vương cung cũng là nơi mà Ngài sinh sống, bên trong những vòng tường được canh gác cẩn mật là vô số cơ quan bảo vệ, với những cái bẫy chết người được giăng khắp chốn, cùng một hệ thống lâu đài, nhà cửa, thành quách đan vào nhau như mê cung, bằng hằng ha sa số những đường ngang ngõ tắc, cửa bí mật, hầm trú ẩn, những khu vườn, khung cảnh huyễn hoặc tạo thành vô số mê lộ phức tạp. Nhiều người đồn đại rằng có những người hầu mới vào cung làm việc, đã đi lạc để rồi cuối cùng chết vì đói, xác của họ chỉ được phát hiện ra khi mùi hôi thối bắt đầu bốc lên nồng nặc trong không khí.
Tại các tửu quán thực khách nói rằng, mỗi đêm Hoàng Đế sẽ ngủ trong một căn phòng khác nhau và có hơn một ngàn căn phòng mà Ngài có thể vào ngủ nằm rải rác khắp Vương cung, tất cả đều được trang trí nguy nga tráng lệ, với những người hầu luôn túc trực, sẵn sàng phục vụ dù Hoàng Đế có ghé qua hay không. Chờ đợi ở mỗi căn phòng là một trong số hàng ngàn phi tần, mỹ nữ đến từ khắp Đế chế. Chính vì vậy, có những phi tần được tuyển vào hậu cung từ năm mười hai tuổi và cho đến ngày qua đời ở tuổi sáu mươi vẫn chưa bao giờ nhìn thấy Hoàng Đế.
Vào thời gian tôi tới Mỹ Đô, Vương quốc vừa trải qua một biến cố lớn, bắt nguồn từ tham vọng và tài trí vô biên của vị Hoàng Đế lúc bấy giờ. Hàng ngàn năm qua, nhằm tránh việc phản loạn từ trong chính Hoàng tộc, các đời Hoàng Đế đã phong đất cho những người trong dòng tộc, trọng thần của triều đình. Họ được tiếp quản các vùng biên ải rộng lớn, đa phần cằn cỗi và hay bị quấy nhiễu bởi các bộ tộc ngoại lai. Họ có thể được coi như một vị vua với đất nước của riêng mình, chỉ có nhiệm vụ giữ vững biên cương và đóng thuế hàng năm cho Đế chế. Sự trung thành của các đất nước này dựa trên quan hệ huyết thống và những bản giao ước có từ ngàn xưa, rằng Hoàng Đế là một hình tượng bất khả xâm phạm và sánh ngang với thần thánh, cả thiên hạ phải thuần phục Ngài một cách tuyệt đối.
Nhưng sự phân chia này dẫn đến quyền lực của Hoàng Đế bị suy yếu dần qua thời gian, khi các đất nước xung quanh bắt đầu phát triển và lớn mạnh, đổi lại là một nền hoà bình kéo dài do sự kềm chế lẫn nhau giữa họ với Hoàng Đế ở trung tâm của tất cả. Nhưng khi vừa lên ngôi, vị Hoàng Đế đương nhiệm đã thay đổi mọi thứ, Ngài loại bỏ và phế truất dần những dòng tộc danh tiếng bằng các thủ đoạn tàn bạo, thâu tóm quyền lực, đất đai cho bản thân mình và khiến những đất nước vệ tinh lụn bại sau hàng trăm năm tự chủ. Vì tham vọng này, Hoàng Đế xử tử tất cả anh em và bà con xa của mình, cũng như bắt mọi người liên quan đến họ, bao gồm cả môn khách cùng người hầu, phải chịu cảnh lưu đày đến những vùng đất hoang vu khắc nghiệt nhất Đế Chế.
Từ đống tro tàn của những kẻ đã chết, Đế Chế đã trỗi dậy, xây dựng sự hùng mạnh bằng xương máu của hàng vạn người đổ xuống. Và Hoàng Đế trở thành vị Quân chủ quyền lực nhất mà người ta từng biết tới, với uy danh mang đến cả niềm hân hoan lẫn nỗi khiếp đảm cho người dân. Chính vì vậy trên khắp Đế chế, những lời ca ngợi ngợi Ngài cũng nhiều và dữ dội hệt như những lời phỉ nhổ Ngài vậy.
Với rất nhiều thần dân của Đế Chế, Ngài là vị Hoàng Đế vĩ đại nhất trong lịch sử Phương Đông, người mà bằng cả tài ngoại giao lẫn các thủ đoạn bạo lực, đã mở rộng tầm ảnh hưởng của Đế chế đến tận bến bờ xa xôi nhất, từ các bộ lạc hoang sơ trên dãy Mãnh Sơn hùng vĩ, cho tới những công quốc cằn cỗi nằm bên rìa hoàng mạc. Vương triều của Ngài đã đàn áp không thương tiếc những người dám nổi loạn, xử tử vô số kẻ khác vì liên quan đến các mưu đồ lật đổ, cũng như đẩy lùi hàng trăm bộ lạc du mục hùng mạnh lên tận vùng cực Bắc lạnh lẽo.
Và ở trung tâm của vương triều là Mỹ Đô, trái tim của Phương Đông, nơi đổ về của mọi của cải, sản vật và chốn lui tới thường xuyên của những học giả, nghệ sỹ từ khắp Đế chế. Thành phố vừa có bến cảng sầm uất trên dòng Ngọc Giang, con sông lớn đến mức mà người ta nói phải mất trọn một buổi sáng để đi thuyền từ bờ bên này qua bờ bên kia, cùng những con đường huyết mạch đem hàng hoá từ khắp Đế chế tập kết về. Với hàng chục tiêu cục lớn nhỏ cùng hoạt động, bảo vệ cho hàng nghìn chuyến hàng liên tục di chuyển mỗi ngày bằng cả đường bộ lẫn đường thuỷ. Bởi quyền lực và sức ảnh hưởng của Đế chế đã khiến thương nghiệp phát triển hơn bao giờ hết, thu hút mọi thương nhân trên thế giới đến để giao dịch.
Trong Mỹ Đô, mỗi con phố lại bán một mặt hàng chuyên biệt khác nhau. Có những con phố sực nức mùi hương của hàng ngàn loại thuốc, được bào chế từ các nguyên liệu kỳ bí mà đôi khi để khai thác chúng, người ta phải đặt cược tính mạng của mình. Tại một con phố khác, hàng quán chuyên bày bán những sản phẩm gốm sứ được tráng men đủ màu rực rỡ, với các hình ảnh trang trí tinh xảo, mà chắc chắn không thể tìm được ở bất cứ nơi nào trên thế giới. Một con phố nữa treo đầy những chiếc đèn lồng đẹp đẽ, những con rối, búp bê bằng giấy bồi nhìn không khác gì người thật. Con phố tiếp theo thì bị lèn kín bởi những xấp lụa loại thượng hạng và những bộ quần áo được dệt tỉ mỉ. Và có hàng trăm con phố như vậy ở Mỹ Đô, lúc nào cũng đông nghịt người xe, chen chúc mua bán trao đổi từ những vật dụng bình thường nhất cho tới các thứ báu vật quý giá có một không hai.
Khắp nơi trong Mỹ Đô là những nhà trọ, tửu điếm chứa đầy các thương nhân, học giả, thợ thủ công hội tụ về, họ cùng nhau trò chuyện, bàn bạc về đủ mọi vấn đề trên thế gian. Có những người tới Mỹ Đô để tìm mối buôn bán, người khác thì đến vì muốn có một công việc tốt, cũng lắm kẻ lang thang chỉ thèm một lần tận hưởng sự sầm uất ở chốn này, cũng như ngắm các bức tường rực rỡ của Vương Cung từ xa.
Nhưng tầng lớp ưu tú và đặc biết nhất của Mỹ Đô, cũng như đại diện cho tinh hoa của phương Đông chính là các văn nhân, biện sỹ. Họ đến từ khắp nơi trên Đế chế, giảng dạy về hiểu biết của mình và tìm cơ hội trở thành quan lại trong triều đình, bằng cách tham gia các cuộc tranh luận ở những ngôi trường được mở khắp nơi trong kinh đô, dưới sự bảo trợ của triều đình. Cứ mỗi năm một lần, các quan lại sẽ chọn ra mười văn nhân nổi bật nhất từ các cuộc tranh luận ở trường học. Họ được mời vào Vương Cung và lần lượt từng người một tiếp kiến riêng với Hoàng Đế, một vinh dự đặc biệt mà chỉ sứ thần của các nước lớn mới có được. Điều này nói lên tầm quan trọng của giới văn nhân trong mắt Hoàng Đế, cũng là nét đặc biệt của riêng Ngài khi so với những người trị vì tiền nhiệm. Các văn nhân đều biết Hoàng Đế cần người tài, Ngài muốn thâu tóm mọi kiến thức của thế gian, để từ đó tạo ra một Đế chế hùng mạnh nhất mà con người từng biết đến, không chỉ thống trị Phương Đông mà sẽ khiến nhân loại phải quy phục.
Nếu đã từng thấy những văn nhân, biện sỹ Phương Đông thì người ta sẽ hiểu họ là một kiểu người vô cùng đặc trưng bởi dáng vẻ, cử chỉ và cách ăn mặc của mình. Tự xem bản thân như tầng lớp tinh hoa, thâu giữ và phát huy mọi cái đẹp trên thế gian và thường xuất thân từ những gia tộc giàu có, nên bề ngoài của họ cũng được đặc biệt chú trọng. Họ luôn khoác lên mình những chiếc áo choàng dài bên ngoài lớp áo lót trang nhã, với hai ống tay áo rộng, được xếp nếp cẩn thận chỉ để lộ mười ngón tay thon thả và trắng trẻo vì không phải lao động nặng nhọc bao giờ. Những chiếc áo choàng có tà dài chạm đất nên mặc nó ta không thể đi nhanh, điều này tạo nên phóng thái thong thả của văn nhân. Chúng thường mang màu sắc đơn giản như: đỏ sẫm, tím than, đen tuyền, nâu vàng hay trắng xám. Trên ống tay áo hoặc sau lưng thường sẽ thêu những chữ triện hoặc huy hiệu, hoa văn trang trí đặc trưng cho dòng tộc mà họ sinh ra, đôi khi chúng cũng mang một ý nghĩa đặc biệt, nói lên quan điểm và tư duy của họ về thế giới này. Những chiếc áo ấy được dệt từ thứ lụa cao cấp nhất, điểm các đường may kết bằng vàng và bạc rực rỡ, để chúng lấp lánh theo từng cử chỉ nhẹ nhàng và điềm đạm của họ.
Giống như tất cả đàn ông Phương Đông khác trong Đế chế, họ nuôi một mái tóc dài từ nhỏ, được búi lên cẩn thận và cố định bằng một chiếc trâm cài. Trâm cài tóc của các văn nhân, biện sỹ thường được làm từ vàng, ngọc quý hoặc ngà voi. Chúng được các nghệ nhân tài hoa chế tác, chạm khắc tinh xảo và mang hình dạng của những linh vật trong truyền thuyết. Họ dùng chúng để cố định mái tóc suôn mềm và được chăm sóc kỹ càng của mình, mái tóc lúc nào cũng thoang thoảng hương hoa hoặc mùi của các loài thảo mộc êm dịu.
Họ chú trọng bề ngoại và dáng vẻ của bản thân hơn bất kỳ ai, không phải để quyến rũ hay làm xiêu lòng người khác, mà để chứng tỏ mình đã vượt lên tất cả những ô trọc của cõi đời, chạm tới cái tận thiện, tận mỹ. Nhưng liệu cái gì là tận thiện, tận mỹ? Và liệu con người có bao giờ nắm bắt được nó không? Họ luôn tranh cãi những việc như thế. Có những người muốn quy phục tất cả bằng kỷ cương, người khác lại nói tự do tuyệt đối chính là cách cai trị tốt nhất, một người nữa cãi lại rằng để tốt cho mọi người thì đầu tiên phải nghĩ cho bản thân... Chẳng bao giờ họ đồng ý với nhau, lúc nào cũng tìm cách bác bỏ người khác. Và dù có nói hay nghe gì đi nữa thì họ cũng đặt lòng tin tuyệt đối vào thứ mình rao giảng, luôn luôn cho điều bản thân nghĩ là đúng. Họ thuyết giảng, tranh cãi, viết lách hay thậm chí sẵn sàng chết vì đức tin của mình, vị thần duy nhất mà họ tôn thờ là chân lý, với sự mù quáng được kết tinh bằng thứ trí tuệ thuần khiết mà đôi khi còn chưa nhuốm chút bụi bặm trần gian nào. Vậy nên theo một cách nào đó, các văn nhân, biện sỹ vừa là kẻ thông minh nhất, cũng vừa là người ngây thơ nhất trên cõi đời.
Mỗi khi di chuyển, họ luôn bước thong thả và nhẹ nhàng, như thể cả thế giới có sụp đổ ngay trước mắt cũng chẳng làm họ bận tâm. Từng động tác, dù là nhỏ nhất luôn được thực hiện một cách thư thái và đẹp đẽ, dù là việc nâng một tách trà hay lau một giọt mồ hôi, có cảm tưởng như đối với họ, cả thế gian này là một sân khấu và từ ngày được sinh ra, họ đã dồn hết tâm sức của mình cho một cuộc biểu diễn vĩ đại, theo một kịch bản mà chỉ có riêng mình họ biết là nó sẽ dẫn tới đâu. Cuộc biểu diễn ấy không có một giây phút nghỉ ngơi và cũng chẳng bao giờ kết thúc, có lẽ nó theo họ cả vào trong giấc ngủ, đến mức ngay cả những cơn mơ mỗi đêm hẳn cũng đạm nhã và thư thái hệt như cuộc đời mà họ luôn sống.
Họ đã bắt đầu cuộc biểu diễn của mình từ bao giờ? Hay đúng hơn, khoảnh khắc nào trong cuộc đời đã khiến họ quyết định trở thành một văn nhân?
Nếu hỏi như thế thì họ sẽ khẽ mỉm cười, hơi để lộ hàm răng trắng đều như ngọc sau đôi môi tươi thắm, rồi cất tiếng bằng giọng êm ái như nước suối luồn qua khe đá, hoặc hào hùng tựa gió lùa vào hang sâu, rằng từ khi sinh ra họ đã biết mình mang trọng trách ấy, trọng trách truyền bá cho con người cái trật tự vĩnh hằng của vũ trụ. Và họ tìm Hoàng Đế là để giúp Ngài, giúp cho mọi người đạt được hạnh phúc miên viễn.
Rồi ta sẽ nhận ra rằng đôi khi chính họ cũng không hiểu điều bản thân đang nói là gì, rằng họ chỉ đơn giản lập lại những thứ ai đó đã nói với mình trước kia. Có thể sứ mệnh của họ rốt cuộc chỉ là một thứ ảo giác không hơn, được truyền từ đời này sang đời khác, những ý niệm bị đông cứng và được đem trưng bày, quảng bá khắp nơi cho đến khi cũ mòn, sáo rỗng. Để rồi từ đó, phía sau những tranh cãi biện luận, ta thấy rằng họ giống nhau đến đau lòng và dù có che đậy bằng bao nhiêu lý thuyết hay huy hiệu thì sự giống nhau ấy vẫn hằn lên trong sâu thẳm tâm trí họ, khiến họ càng phải chứng tỏ sự khác biệt của mình với thế gian, để rồi tự đẩy bản thân vào nỗi cô đơn bất tận.
Một cuộc đoạ đày chẳng bao giờ ngưng dứt.
Nhưng dù vậy, ta vẫn ghen tức với họ. Bởi họ luôn nói với một sự tin tưởng tuyệt đối, như thể điều đó hiển nhiên đến mức đã được khắc ghi vào những quy luật cơ bản nhất cấu thành nên thế giới. Và khi nhìn vào đôi mắt mở to nhiệt thành của họ lúc ấy, ta sẽ thấy lâng lâng như thể mình được nâng lên, đồng thời tuyệt vọng như thể mình đang bị dìm xuống cùng một lúc. Giống như khi ta ngước mặt lên trời và nhìn những vì sao vậy, ánh sáng thường hằng và rực rỡ của nó che mờ đi sự tồn tại lẻ loi của mình, khiến ta cảm thấy lạc lối và tuyệt vọng. Cái cảm giác ấy cũng tương tự như khi đối diện với một văn nhân, rằng hoá ra ta không tuyệt vọng vì cái hiểu biết của họ, ta tuyệt vòng vì nhận ra cái mà con người sẽ mãi mãi không biết về nhau, cái đó lúc nào cũng thể hiện rõ ràng trong con người họ..."
- Tôi hiểu cảm giác đó!- Hắn lên tiếng cắt ngang lời nhà ảo thuật.- Tôi cũng từng có lúc...
Nói tới đây hắn mím chặt môi và thở dài. Bỗng nhiên hắn không muốn nói nữa, mà cũng chẳng biết phải nói tiếp thế nào. Liệu cái nhà ảo thuật mô tả có phải là điều hắn từng cảm thấy? Trong một khoảnh khắc hắn đã thấy chúng tương đồng, nhưng ngay khi vừa mở miệng định nói thì sự tương đồng ấy biến mất. Không, đó là hai câu chuyện khác nhau của hai con người chẳng liên quan gì nhau và mọi thứ trên đời đều sai biệt như thế, với những sứt sẹo cũng những bồi đắp độc nhất của mỗi bản thể. Quá trình ấy chẳng bao giờ ngừng dứt cho đến khi ta kiệt sức và bỏ lại tất cả để chìm trong giấc ngủ vĩnh hằng...
Thế là cái ham muốn tỏ bày của hắn lụi tàn, tựa một làn khói loãng tan vào khoảng trời mênh mông. Có phải hắn đã đi đến chỗ tận cùng của ngôn lời, rằng từ đây mọi nỗi niềm sẽ vĩnh viễn bị chốn giấu bởi sự im lặng và hắn chỉ có thể lầm lũi bước đi, giữa hoang mạc của từ ngữ, cảm nhận vô vàn ý niệm lướt qua tâm trí, tựa từng cơn gió thảng thốt thổi tới rồi nhanh chóng trôi đi, bỏ lại hắn lạc lối và mệt mỏi.
Hắn bỗng nghĩ đến Kiga'stra, hắn yêu nàng da diết và hắn nghĩ nàng cũng biết điều đó. Chính vì vậy mà nàng mới múa điệu vũ ấy khi cả hai trò chuyện với nhau, nàng hiểu được nỗi hân hoan và sự đau buồn vô hạn của hắn vì nhận ra mình đã yêu. Nhưng rồi nàng đã chết, để hoàn thành nghi lễ của mình, cái sứ mệnh mà có lẽ cả cuộc đời nàng đã hướng tới. Dù có hắn hay không thì cũng chẳng có gì khác biệt, nàng sẽ hoàn thành điệu vũ rồi đâm thẳng con dao vào bụng mình...
- Nếu muốn quên một cái gì đó, cậu buộc phải biết nó là gì...- Nhà ảo thuật thì thầm, rồi trước sự ngạc nhiên của hắn ông lặng lẽ mỉm cười.- Các ảo thuật gia luôn chú ý tới khán giả xung quanh mình, lâu dần nó trở thành thói quen. Chúng tôi dò xét cả niềm vui lẫn nỗi buồn, chúng tôi thấy những rung động nhỏ nhất trên khuôn mặt mọi người, hệt như muôn vàn đợt sóng li ti lay chuyển mặt hồ vậy. Dù là một con cá đớp bóng, một chiếc lá rơi, một viên sỏi nhỏ ném xuống...
- Vậy có nghĩa là sao?
- Có nghĩa là cậu phải tìm hiểu cái mà cậu muốn quên, phải đi đến tận cùng con đường thì mới có thể từ bỏ nó!
- Nhưng làm sao biết đâu là tận cùng?
Nhà ảo thuật không trả lời, hắn chợt nghĩ có lẽ ông ta cũng không biết câu trả lời. Nhà ảo thuật cũng đang lạc lối như hắn, lang thang giữa vô vàn ý niệm mơ hồ. Trong khi hắn miên man suy nghĩ thì ông ta đã đứng dậy vươn vai, rồi thong thả đi lại quanh lều dưới ánh nắng gay gắt. Lấy một hơi dài, nhà ảo thuật tiếp tục câu chuyện của mình.
"Chuyện bắt đầu khi tôi biểu diễn ảo thuật cạnh một trường học, chốn lui tới của biết bao văn nhân, biện sỹ, thuyết khách... Tôi đặc biệt ưa thích loại khán giả như vậy, bởi lẽ họ là những người tò mò nhất và luôn sẵn sàng vung rất nhiều tiền để tán thưởng sự mới lạ. Không tính toán như thương nhân, không phóng túng như giới giang hồ, không tằn tiện như nông dân, không buông thả như hoàng tộc, vừa dễ dãi lại vừa khắc nghiệt, đó là các văn nhân, biện sỹ.
Hôm ấy là một buổi sáng mùa hạ, trên những tán cây lũ ve sầu đã bắt đầu cất tiếng và ánh nắng rọi xuống vô số con kênh, mặt hồ xanh mướt xung quanh kinh đô, khiến chúng lấp loánh như thể hàng vạn viên pha lê đang trôi bồng bềnh trên dòng nước. Từ lúc tinh mơ tôi đã đến chỗ biểu diễn của mình, dưới tán một cây cổ thụ mọc bên bờ hồ cạnh trường học, sắp xếp những dụng cụ ảo thuật trong khi cất tiếng mời gọi khách qua đường dừng chân. Và như thường lệ, chẳng bao lâu tôi đã thấy một đám đông tụ tập xung quanh mình, háo hức chờ đón màn diễn sắp tới.
Ngày hôm ấy, tôi đặc biệt chú ý tới một chàng trai trẻ, có lẽ chỉ mới ngoài hai mươi. Cậu ta có khuôn mặt đặc biệt thanh tú và diễm lệ, với những đường nét mong manh khiến người ta chỉ muốn nâng niu. Một đôi môi mọng nhưng mềm và hơi trễ xuống, ngả màu hồng tái mỏi mệt. Mái tóc dày và đen, mềm mượt như lụa, sống mũi thẳng tắp. Trung tâm của khuôn mặt ấy chính là đôi mắt u sầu, lúc nào cũng long lanh như chỉ chực nhỏ lệ khóc thương cho thế gian này. Nhưng thỉnh thoảng, hai tròng mắt đen tuyền của cậu ta lại lấp lánh những ánh sáng đẹp đẽ, tựa một đốm lửa bất chợt bùng lên khi ta đi giữa hang động tăm tối vậy. Đối với một văn nhân, khuôn mặt như vậy hàm chứa quá nhiều sự mơ hồ và không chắc chắn, nét đẹp mỏng manh ấy có lẽ khiến người ta dễ xiêu lòng hơn là tin tưởng. Cùng chính vì lẽ đó mà cậu ta nổi bật hơn hẳn những người xung quanh vốn cùng tầng lớp với mình.
Chàng trai trẻ ấy khoác lên mình chiếc áo choàng màu trắng trang nhã, với những sợi chỉ vàng thêu một con Ngọc lân trước ngực và sau lưng. Ngọc lân ở Phương Đông là biểu tượng của sự thông tuệ, người ta nói chúng là giống loài được hoài thai ở trung tâm của Trái Đất, sinh ra từ những tầng đá cổ xưa nhất, thuở mới vừa khai thiên lập địa. Sau khi ra đời, Ngọc Lân ngủ sâu trong lòng đất, chịu năm vạn năm dung nham và năm vạn năm băng giá. Những con Ngọc Lân trong giấc ngủ của mình sẽ lắng nghe mọi âm thanh của thế gian, từ những rung chuyển dữ dội khi một trận bão ập vào bờ biển, cho tới tiếng con bướm đậu trên nụ hoa mới nở. Nó thính nhạy tới nỗi có thể nghe được tiếng các vì sao trượt trên bầu trời, hay cái dòng chảy thường hằng chi phối vũ trụ và cả những nhiễu động ở chốn tận cùng sâu thẳm nhất của tâm khảm vạn vật. Chính vì vậy mà Ngọc Lân nắm giữa mọi kiến thức trong vũ trụ, có thể nhận biết sự thật và giả dối. Trải qua hàng vạn năm ngủ trong dung nham và băng lạnh, Ngọc Lân đạt được sự bất tử và chạm tới trí tuệ toàn hảo. Nó sẽ trồi lên vào ngày nhật thực toàn phần, đúng khoảnh khắc cả thể giới hoàn toàn chìm trong đêm tối. Rồi như con sâu phá kén thành bướm, Ngọc Lân sẽ trải rộng đôi cánh của mình, một bên kết bằng băng, bên kia được nhào nặn bằng lửa, ngay lập tức bay thẳng vào cái bóng khổng lồ đang che lấp Mặt Trời, nơi mà người Phương Đông tin rằng là cầu nối dẫn từ thế giới của người thường sang thế giới của thần linh.
Nên biểu tượng Ngọc Lân thuộc về những nhà tiên tri, người nghiên cứu huyền thuật hoặc kẻ muốn đạt đến sự bất tử thông qua việc tìm hiểu và pha trộn vô số loại thảo mộc thành một phương thuốc đặc biệt. Đó là một biểu tượng hiếm khi xuất hiện trong giới biện sỹ, những người luôn sử dụng lý luận để giải thích cách thế giới vận động.
Chính sự kết hợp giữa một khuôn mặt thanh tú và biểu tượng kỳ lạ kia đã thu hút sự chú ý của tôi, khiến tôi chăm chú quan sát biểu cảm của chàng trai ấy trong suốt buổi biểu diễn của mình.
Thuở ấy tôi có một màn diễn vô cùng đặc sắc và hấp dẫn, có thể khiến tất cả mọi người chăm chú theo dõi từ đầu đến cuối. Đầu tiên tôi ngắt một nụ hoa trong bức tranh vẽ những cành hồng rực rỡ được cắm vào chiếc bình tráng men xanh ngọc. Tôi vươn tay vào trang giấy rồi đem bông hoa ra ngoài đời thực, sau đó nâng nó lên bằng hai tay, thổi một hơi nhẹ và những cánh hoa biến thành một đàn bướm rập rờn. Từ đàn bướm đang nhảy múa, tôi với tay chụp một con búp bê gỗ có khuôn mặt yêu kiều và đôi mắt bằng pha lê màu lam, đôi mắt có thể cướp linh hồn ai nhìn vào đó quá lâu. Con búp bê mặc bộ quần áo sặc sỡ như thể được kết lại từ những mảnh cánh rực rỡ đủ màu, bộ quần áo sẽ biến đổi khi con búp bê bắt đầu cử động, những màu sắc nhảy múa trên thân thể nó. Con búp bê trượt khỏi bàn tay tôi và cúi chào khán giả. Rồi nó sẽ kể một câu chuyện cổ của Phương Đông, về một người đàn ông già nua, vào giây phút hấp hối đã chìm vào giấc ngủ để rồi giật mình tỉnh dậy thấy mình vẫn còn là một đứa trẻ. Thế là đứa trẻ hay người đàn ông già nua kia không còn biết đâu là mơ đâu là tỉnh. Liệu ông ta nên vui khi đã thoát khỏi cái chết hay nên buồn vì mọi khổ đau vẫn còn ở phía trước, chờ đợi mình nếm trải thêm một lần nữa?
Kể chuyện xong, con búp bê chui vào bên trong chiếc khăn đội đầu của tôi, giống như đứa trẻ tìm về cái giường của mình sau một ngày vui chơi thoả thích. Rồi khi tôi mở khăn ra một lần nữa thì con búp bê đã biến mất, chỉ còn lại một hạt giống nhỏ xíu ẩn mình giữa các nếp gấp của mảnh vải. Tiếp theo tôi đặt hạt giống vào một cái chậu nhỏ, nó nảy mầm ngay lập tức và lớn nhanh như thổi, rồi từ đó nở ra một nụ hồng rực rỡ. Để rồi, tôi ngắt một nụ hồng từ chậu hoa mới nở, đặt nó vào bức tranh như ban đầu. Cuối cùng để kết thúc mọi thứ, tôi sẽ thắp lên một ngọn lửa từ những đầu ngón tay của mình và đốt cháy bức tranh cho tới khi nó chỉ còn là những mẩu tro tàn xám xịt.
Các văn nhân, biện sỹ luôn thích màn biểu diễn của tôi, không phải chỉ vì phép màu và sự mới lạ. Mà họ cảm nhận được câu chuyện ẩn bên trong những lần biến hoá, sự nhỏ nhoi và mơ hồ của mỗi cá thể trước cái vĩ đại và liên tục của vũ trụ. Nó khơi gợi câu hỏi luôn nhức nhối trong tâm trí họ một cách hết sức tinh tế. Bởi lẽ rốt cuộc điều khiến người ta say mê chẳng phải là những thứ sẽ phai tàn theo thời gian, hay các phép màu rực rỡ qua đi nhanh chóng. Mọi trò vui nói cho cùng cũng chỉ là tấm rèm che giấu nỗi cô đơn, ẩn mình trong căn phòng tăm tối của trái tim; tận sâu nơi tâm khảm con người luôn mơ về những lý tưởng, hay các ý niệm cao đại, về một sự trường cửu của linh hồn trước vô vàn các biến đổi tất yếu. Và đối với những tầng lớp tinh hoa ở Phương Đông, cuộc sống chính là một sự truy cầu bất tận, nhằm thấu hiểu vạn vật và qua đó đạt được sự trường cửu ấy dù chỉ là trong khoảnh khắc.
Quay trở lại với chàng trai trẻ mà tôi đã chú ý lúc đầu, khi tôi đốt bức tranh dường như anh ta đã ứa nước mắt, nhưng cũng vội vàng quay đi và lùi lại phía sau, ẩn mình trong đám đông đang trầm trồ tán thưởng. Đó là một phản ứng kỳ lạ mà trước nay tôi chưa chứng kiến bao giờ. Tôi đã từng thấy người ta bật cười, ngạc nhiên, thích thú, sợ hãi hoặc đôi khi là nhăn nhó khó chịu; nhưng chưa một ai rơi nước mắt vì trò ảo thuật của tôi, cảm xúc ấy có phần lạ lùng khi đặt vào những màn diễn tinh tế, với các trò biến hoá nhẹ nhàng. Cũng vì vậy mà tôi ngẩn người ra một lúc, quên cả việc lấy tiền của những khán giả xung quanh.
Sự việc kỳ lạ ấy cứ đeo đẳng trong tâm trí tôi suốt cả ngày, một phần do dung mạo và phong thái đặc biệt của chàng trai lạ lùng kia. Ngay cả lúc ngồi trong quán ăn, giữa những thực khách đang ồn ào cười nói và âm thanh những ly tách va chạm với nhau, tiếng bước chân vội vã, tiếng xào nấu rin rít. Đầu óc tôi vẫn không thể dứt khỏi đôi mắt rưng rưng và dường như chực khóc dang run rẩy trong ký ức. Nó khiến trái tim tôi như bị bóp nghẹt và từng hơi thở trở nên khó nhọc, bởi lồng ngực đang bị một khối đá khổng lồ lèn chặt. Một khối đá vô hình, qua mỗi khoảnh khắc lại trở nên to lớn hơn, cho tới khi che lấp tất cả. Những món ăn bỗng thành vô vị, thứ rượu ngon nhất không hiểu sao lại nhạt tựa nước lã, và dường như mọi khung cảnh trước mắt đều hoá thành vô nghĩa, những đống đổ nát hoang tàng sẽ bị thời gian vùi lấp vào quên lãng. Và rồi tôi lại quay lại đúng khoảnh khắc ấy, khi cái nhìn của cả hai gặp nhau; tôi được trả lời những thắc mắc mà mình chưa từng nghĩ tới, nhưng cũng làm bùng lên rất nhiều câu hỏi mà mình chưa bao giờ đặt ra...
Những xúc cảm này hoàn toàn tươi mới và lạ lẫm, chúng cũng mạnh mẽ tới mức khiến tôi thấy sợ hãi, vì lo rằng sẽ đánh mất bản thân vào một mối si mê mà chẳng bao giờ được hồi đáp. Tôi chợt hiểu rằng từ nay mình không bao giờ biểu diễn ảo thuật như cũ nữa, cũng như tôi sẽ không bao giờ hít thở hay suy nghĩ theo cùng một cách với trước kia. Mọi thứ đã khép lại vĩnh viễn, ngay cả cái thế giới nơi tôi sống, với những giấc mơ hoang đường và các cơn ác mộng khủng khiếp cũng đã bị huỷ hoại bởi khoảnh khắc ấy. Vì từ nay tôi sẽ bước vào nơi chốn vô định, với niềm hân hoan bất tận cùng nỗi sợ hãi không bờ bên, một thế giới phủ đầy sương mù quạnh quẽ, tịch liêu. Nơi chỉ có mình tôi cố gắng đuổi theo một bóng hình mà tới lúc đó vẫn là bí ẩn. Và dù đã cố gắng cưỡng lại cái ham muốn đang trào dâng mạnh mẽ trong mình, những đến buổi chiều của ngày hôm ấy tôi cũng đành buông xuôi, sau khi đã uống sạch năm vò rượu thượng hạng mà vẫn hoàn toàn tỉnh táo.
Thở ra một hơi dài, tôi liếc nhìn lại một lần nữa những ly bát bị xô đổ la liệt trên bàn của mình, một dòng rượu tựa khe suối ngoằn ngoèo vắt qua khoảng đất trống, đang nhỏ từng giọt xuống đất. Tôi trầm ngâm rồi nhắm mắt lại, đắm mình trong nỗi u sầu rộng lớn, tựa một mặt hồ mênh mông không đáy, tĩnh lặng tới mức âm thanh của mỗi hơi thở cũng ồn ào như một trận cuồng phong. Ở đó các ý nghĩ của tôi thét gào tựa vô số đợt sóng ngầm, cuộn xoáy muôn cát bụi dưới đáy sâu, cho đến khi mặt nước trở nên đục ngầu và đen tuyền. Rồi tôi nghĩ đến giấc ngủ hàng vạn năm của con Ngọc Lân, hẳn đây cũng là điều nó cảm thụ, không chỉ những nhiễu động của thế gian mà còn là dòng chảy nội tại bên trong bản thể, những dằn xé liên miên khiến mỗi khoảnh khắc trở thành trường cửu, không phải cái trường cửu giải thoát mà một trường cửu đày đoạ đày và khổ ải.
Chẳng biết làm gì hơn, tôi đứng dậy thất thểu bước, dưới ánh hoàng hôn đang nhuộm con phố những dãy màu đỏ quạch tựa máu. Ngay lúc đó như thể định mệnh sắp đặt, một hình bóng ẩn hiện xa xa phía trước, bị che khuất bởi đám đông đang qua lại, nô nức trò chuyện và mua bán. Tôi thoáng thấy những sợi chỉ vàng lấp lánh trên bộ áo choàng trắng tinh tươm, mái tóc đen dày, rung động mềm mại tựa một bức màn nhung êm dịu.
Và rồi tôi bước đi theo hình bóng ấy, tựa kẻ mộng du bước theo con đường mà thánh thần đã sắp đặt cho mình. Chẳng dám thu ngắn khoảng cách bởi sợ mình lầm lẫn, hoặc khiến cho chàng trai ấy giật mình tránh xa. Tôi chen chúc với vô số người trên phố để đuổi theo giấc mơ của mình, rẽ vào những con đường đan xen tựa bàn cờ, đi dưới những mái hiên phủ ngói nặng nề, những tán cây nghiêng ngả trong cơn gió chiều; giữa vô số âm thanh rộn rã và vui tươi, tiếng nói cười thích thú và cả lời ai oán khóc than; lướt qua các vùng ngập nắng và những con hẻm chật chội, nơi ánh sáng bị chặn lại bởi các ngôi nhà chật hẹp mọc lên san sát nhau, chỉ còn sót một vài vệt mờ nhạt đỏ sẫm hoặc cam trầm...
Chẳng mấy chốc chúng tôi đã ra khỏi thành và men theo một con đường nhỏ, hai bên um tùm những cỏ dại và cây bụi rạp mình như thể cúi chào vầng Dương sắp biến mất. Tới lúc này thì tôi đã chắc chắn, chàng trai trước mặt là người đã khiến mình day dứt cả ngà nay, cái dáng đi thong thả nhẹ nhàng của các văn nhân và bộ trang phục đặc biệt ấy chẳng lẫn vào đâu được. Đi sau anh ta, theo đúng thông lệ của giới văn nhân; còn có một người hầu, lặng lẽ khoanh tay cúi đầu xuống đất, lầm lũi từng bước một.
Họ đi về phía một ngôi làng nhỏ, lô nhô các mái nhà bằng gỗ lợp rơm rải rác bên bờ Ngọc Giang, nơi mà phía bên kia, những đám mây to lớn vừa mệt mỏi tụ lại thành một dãy kéo dài và dường như muốn che lấp cả bầu trời.
Trong làng là những con đường đất cằn cỗi, nhớp nháp đầy sình lầy và cỏ dại. Vài ngôi nhà mở toang cửa, thấp thoáng bóng dáng hai ba đứa trẻ đang chơi đùa, hoặc chỉ đơn thuần là ngẩn ngơ nhìn về phía trước. Vài cuộn khói loãng bốc lên từ đằng sau mái hiên, bên cạnh cái kho chất đầy củi khô hoặc chỏng chơ vài vật dụng cũ kỹ; không gian thoang thoảng mùi cỏ ẩm cháy sém, ai đó vừa nhóm một đống lửa nhỏ, trầm mặc nhìn nó bay lên, như thể làn khói mang theo lời cầu nguyện khẽ khàng đến tận cõi toàn mỹ của thánh thần. Đôi khi, một người lớn đi ngang qua, họ ngoáy lại nhìn chúng tôi với vẻ nghi ngại rồi lại bước tiếp. Đa phần quần áo của bọn họ đều rách rưới và sơ sài, khuôn mặt u buồn như đêm tối.
Quanh các thành phố lớn ở Phương Đông luôn có những ngôi làng như thế, chúng mọc lên một cách tự nhiên, tồn tại lay lắt qua ngày, sống bám vào sự giàu sang của thành phố tựa những con vật ký sinh dai dẳng. Dân cư trong các ngôi làng này đa phần là những người từng sống trong thành phố, nhưng rồi mất nhà cửa vì một lý do nào đó. Có thể do phạm tội hoặc bị vu oan, đôi khi vì nợ nần hay khánh kiệt bởi các quan lại bắt chẹt. Cũng có những người trước kia là nông dân ở nơi khác, nhưng mất hết ruộng đất trong các cuộc chiến tranh, thanh trừng của triều đình. Mỗi khi Hoàng Đế mới lên ngôi thường ra tay thảm sát để dọn sạch vây cánh đời trước, các binh lính được lệnh phải tiêu diệt triệt để, xử lý cả hàng xóm láng giềng của kẻ chống đối, làm liên luy tới rất nhiều người vô tội.
Thế nên trong Đế chế lúc nào cũng có một số lượng dân vô gia cư nhất định, họ đến các thành phố để tìm công việc, dần dần tụ tập lại với nhau thành cộng đồng. Họ ăn xin hoặc làm những việc tay chân thấp hèn. Những người như thế không thể ở lại trong thành phố, bởi họ không có đủ tiền và cũng chẳng được ai tiếp đón. Vì qua trang phục cũng như dáng vẻ, người ta biết được rằng họ là loại người nghèo khổ và còn có thể còn bị truy nã. Chứa chấp các thành phần như vậy là việc làm nguy hiểm. Bởi vì luật lệ của Đế Quốc vô cùng tàn khốc và khắc nghiệt, đặc biệt với các tội thông đồng kẻ gian, chứa chấp quân phản loạn nên đa phần mọi người đều sợ hãi và ghét bỏ những giống dân như vậy.
Các viên quan phụ trách điều tra, xử án của triều đình còn nghĩ ra rất nhiều phương pháp để tra tấn và hành hình người khác. Từ việc lóc từng miếng thịt, bẻ gãy hết xương trên người, đốt lưỡi cho tới lột da. Người ta còn chế tạo các cỗ máy với cơ chế vô cùng tinh vi cốt để hành hạ phạm nhân. Và thường biểu diễn công năng của chúng trước dân chúng để răn đe và giải trí cho họ.
Khi tôi đang nghĩ vẩn vơ thì chàng trai trẻ dừng lại trước một bến sông đìu hiu, chậm rãi chắp hai tay ra sau lưng, ngắm nhìn vô số gợn nước đan chồng lên nhau trong ánh tà dương yếu ớt và huyễn hoặc. Người hậu cận lúc này mới chú ý thấy tôi đang ngẩn ngơ đứng cách họ một quãng, ngay khi ấy tôi đã nhận ra dưới bộ trang phục đàn ông kia là một cô gái trẻ đang cải trang. So với sự thanh tú và mềm mại của chàng trai, thì cô gái lại mang vẻ đẹp nghiêm trang và khắc khổ, tuy có vóc dáng gọn gàng và cân đối của những người trẻ tuổi, nhưng nét mặt cô lại u sầu như một kẻ trung niên. Đó là biểu cảm của kẻ đã trải qua những đau khổ to lớn, sâu sắc đến nỗi chúng đã hằn lên da thịt và trở thành một phần của con người mình. Điều đó cũng khiến cô có sức hấp dẫn riêng, hệt như việc người ta sẽ say mê khi đứng trước những thành quách hoang phế, điêu tàn vậy.
- Thiếu chủ rất vui vì có thể nói chuyện riêng với Ngài!- Cô gái cất tiếng, chất giọng lạnh lẽo và trống rỗng.
Tôi mỉm cười nhợt nhạt, nhưng nụ cười vừa nở ra đến lưng chừng thì đông cứng lại vì ngượng ngùng. Hoá ra anh ta đã biết tôi đi theo mình từ lâu, ý nghĩ ấy khiến khuôn mặt tôi nóng bừng lên và thân thể trở nên luống cuống một cách kỳ quặc. Để tự trấn tĩnh bản thân, hai bàn tay tôi vô thức vần vò những ngọn cỏ đang lay động xung quanh mình.
- Tôi đã muốn nói chuyện với Ngài ngay sau khi xem xong buổi biểu diễn lúc sáng, nhưng lại sợ làm phiền công việc của Ngài.- Chàng trai thong thả nói rồi chậm rãi quay lại.
Lúc đó tôi chỉ muốn gào lên rằng mình sẵn sàng đánh đổi cả tính mạng chỉ để được nói chuyện với anh ta, nhưng thay vào đó, tôi chỉ mím chặt môi trong khi đang mỉm cười, cảm thấy từng mạch máu đều rần rật trong khắp cơ thể, dồn dập bơm về tim khiến nó đập như điên dại và dường sắp nổ tung vì áp lực.
- Tôi... tôi cũng vậy!- Khó khăn lắm tôi mới lắp bắp được vài tiếng.
- Đó là một màn biểu diễn đầy ý nghĩa.- Chàng trai trẻ mỉm cười, đầu hơi nghiêng qua một bên trong khi nhìn thẳng vào tôi, cái nhìn đầy mị lực khiến tôi phải cúi gầm xuống mặt đất. Giọng nói của anh ta êm dịu một cách đặc biệt và dường như còn luẩn khuất sắc màu của sự thơ ngây, trong sạch.- Nó không chỉ khiến người ta vui, mà còn làm họ phải suy ngẫm về ý nghĩa của cuộc đời, để rồi sau đó sẽ buồn bã ưu tư. Vì mọi thứ là một vòng tròn khép kín, không có gì bên ngoài nó cả; luôn luôn là thế, giống như một tấm lưới bao trùm vạn vật, cả sự sống lẫn cái chết đều bị vướng trong nó. Tôi nghĩ nỗi u sầu của con người đa phần bắt nguồn từ sự mắc kẹt này, người ta yêu nhau và giết nhau cũng chỉ vì vậy... Nhưng nếu đi đến tận cùng của nỗi ưu tư, khi bông hoa bị lấy ra được trả về, vẫn thơm ngào ngạt, vẫn rực rỡ sắc màu đù đó đã là một bông hoa khác thì...
Chàng trai bỏ lửng câu nói, nhẹ nhàng thở ra một hơi. Anh tả thong thả tiến lại gần tôi, nụ cười trên môi tắt dần, tựa những vệt sáng cuối cùng còn sót lại đang lịm đi, khi vầng Dường đã biến mất phía sau đường chân trời tĩnh lặng.
- Tôi vẫn chưa biết được tên của Ngài...- Anh ta thì thầm, chắp hai bàn tay lại và vái tôi như cách những người Phương Đông vẫn thường làm.- Tôi là Mộc Uyển Châu, chữ Uyển của thanh tao, đẹp đẽ. Tự Ngọc Điển. Tôi đến từ Phương Nam. Còn đây là Mục Quang, người hầu của tôi từ nhỏ. Chúng tôi đã lưu lại Mỹ Đô được nửa năm nay, trước đó thì vân du khắp chốn, vừa biện giảng vừa đi tìm những cái hay, cái đẹp trong trời đất, cũng là để chu toàn cho cái học vốn dĩ còn hạn hẹp của mình...
Ngọc Điển nói với giọng du dương, lên xuống một cách thuần thục. Một bài phát biểu điển hình mà mọi văn nhân, biện sỹ đều sẽ thao thao bất tuyệt với những người mới quen. Rằng họ thấy bản thân nhỏ bé trước những bí ẩn của vũ trụ như thế nào, muốn một lòng phò trợ cho Hoàng Đế, mang đến hoà bình cho muôn dân ra sao.
- Hẳn là Ngài đã đi rất nhiều nơi để biểu diễn những trò ảo thuật của mình, từ nhỏ tôi đã được nghe mẹ kể về những đoàn nghệ sỹ lang thang. Tôi rất thích họ, đặc biệt là những đoàn kịch và các nhà ảo thuật. Họ có khả năng biến hoá phi thường thành bất kỳ ai, từ một vị tướng tài năng cho tới một kẻ ăn mày hèn hạ...- Ngọc Điển nói sau khi nghe tôi giới thiệu, anh ta phóng tầm mắt nhìn những gian nhà tranh xơ xác, nơi một vài ánh đèn đã được thắp lên, le lói giữa bức màn xam xám của chạng vạng.- Họ làm vô số điều kỳ diệu, giữ thăng bằng trên một lưỡi dao, dạy những con thú nói chuyện, tung hứng các quả cầu thuỷ tinh... Nhưng lúc còn nhỏ tôi chỉ có thể đứng trong nhà nhìn những đoàn nghệ sỹ biểu diễn, cha tôi cho rằng họ bẩn thỉu, đáng ngờ và là phường vô lại, tôi thì không nghĩ như vậy, ai cũng có giá trị dưới gầm trời này và vũ trụ không thừa hoặc thiếu điều gì cả....- Dừng một chút, Ngọc Điển lại đổi qua chủ đề khác.- Người ta nói sớm muộn gì mọi thành trì trên thế gian đều sẽ về tay của Hoàng Đế, tất cả văn nhân, biện sỹ khi tới kinh đô đều tin chắc điều đó và nhiệm vụ của họ là tìm ra cách thức để hiện thức hoá nó nhanh nhất có thể. Nhưng chỉ cần đi ra khỏi kinh thành đủ xa, băng qua dãy Mãnh Sơn thì sẽ chẳng còn ai nghĩ như vậy nữa. Tôi biết có những vùng núi mà các bộ tộc hoang dã vẫn còn nắm giữ và ở sa mạc phía Tây, man dân du mục vẫn luôn hùng mạnh. Ngoài ra các khu rừng phương Nam lúc nào cũng tràn ngập các giống yêu quái và thần thú, mỗi ngày đều có người mất tích hay bị xé xác bởi chúng... Nhưng các văn nhân, biện sỹ chẳng buồn quan tâm đến thực tế đó, họ chỉ muốn làm vui lòng Hoàng Đế, sau đó nhận một chức quan và sống cuộc đời sung túc.
Mục Quang bặm môi gật gù khi chủ nhân của mình đang nói. Mục Quang có lẽ không phải là tên thật của cô ta, nhưng tại sao một người phụ nữ lại phải cải trang thành đàn ông? Tôi lùi lại một bước, thâu cả hai vào tầm mắt mình, Ngọc Điển đang chìm trong trầm tư, nhưng trong một thoáng anh ta liếc nhìn Mục Quang, cái nhìn kín đáo và ý nhị nhưng ý nghĩ của nó thì thật rõ ràng, rằng họ thuộc về nhau, theo nghĩa đơn giản và sâu xa nhất của từ đó..."
Kể tới đây nhà ảo thuật dừng lại và hỏi xin hắn một ngụm nước. Lúc này Mặt Trời đã lên đến đỉnh đầu của hoang mạc, bóng của cái lều trở nên đặc quánh và đen tuyền, với những đường viền sắc lẻm như một lưỡi dao cắt qua thứ ánh sáng chói loà đang trải trên biển cát. Có lẽ đã là giữa trưa, hắn chẳng có cách nào biết được bao nhiêu thời gian đã trôi qua trên hoang mạc, chỉ có bình minh và hoàng hôn là hai chỉ dấu duy nhất, nhắc nhở những lữ khách dừng chân nghỉ ngơi hay réo gọi họ đứng dậy bước tiếp trong chuyến hành trình bất tận.
Rốt cuộc đâu mới là điểm tận cùng của hoang mạc và hắn đang hướng về chốn nào? Nếu ngày mai không còn hoang mạc nữa thì hắn sẽ làm gì tiếp theo? Không còn cái nóng như muốn nung chảy da thịt, không còn sự lạnh lẽo thấu xương khi màn đêm ngắn ngủi ập xuống, không còn giấc ngủ lúc nào cùng hầm hập trong những cơn sốt, trộn với cơn mê sảng đặc quánh vần vò tâm trí, khiến mỗi buổi sáng thức dậy, hắn cảm tưởng như mình đã sống qua hàng trăm kiếp chỉ trong một đêm. Những kiếp sống hỗn loạn, đan xen vào nhau thành một cơn mệt mỏi triền miên, khiến ban ngày đầu óc hắn lúc nào cũng lâng lâng như thể đang ở giữa một cơn say. Cơn say được kết tụ từ vô số ý niệm viển vong và hư ảo, chúng hình thành trong suốt cuộc đời hắn, vùi mình ngủ sâu bên dưới mặt hồ vô thức, để rồi tất cả cùng trỗi dậy, bị sự cô quạnh và hoang vu của chốn này đánh thức. Và rồi tất cả những con quái vật ấy bắt đầu tru, những tiếng thét gào đau đớn và giận dữ, khiến mắt hắn hoa lên và thân thể bãi hoải rã rời. Hắn chỉ mới ở trong hoang mạc được sáu ngày, còn bao nhiêu ngày nữa cho đến khi chuyến du hành này kết thúc?
- Tại sao ông lại đi vào hoang mạc?- Hắn quay qua hỏi nhà ảo thuật, giờ đã nằm dài trong lều duỗi chân một cách thoải mái.
- Tôi chỉ đơn giản là muốn đi khỏi Đế chế, càng xa càng tốt.- Nhà ảo thuật trả lời trong khi nhắm mắt lại. Ông ta im lặng suy ngẫm một lúc rồi nói thêm.- Đến vùng núi đá ở chân trời phía Bắc, rồi từ đó tiến vào biển Cấm, người ta nói đó là nơi tận cùng thế giới, chỗ những dòng triều kết lại thành một nút thắt, nút thắt của thế giới...
- Rồi ông sẽ làm gì?- Hắn thì thầm.
- Từ nhỏ, mẹ đã kể cho tôi nghe câu chuyện về Hỗn Đế tạo ra vũ trụ, một truyền thuyết xa xưa của phương Đông. Hỗn Đế nuôi tằm trong Mộng viên, trong Mộng viên toàn là cây Mộng, cây Mộng mọc ra lá Mộng, tằm ăn lá Mộng mà lớn lên, rồi tạo thành kén Mộng. Hỗn Đế buổi sáng trồng cây trong vườn, tới trưa ngủ một giấc, trong giấc ngủ Ngài mơ thấy thế gian, thấy trời đất, ngày đêm, thần tiên, quỷ quái, yêu ma; thấy cây cối, muôn thú, nhân gian hữu sự. Khi tỉnh dậy thì kén Mộng đã phủ dày đặc, trên thân cây trơ trọi không còn một lá vì đã bị tằm ăn sạch. Ngài thu kén Mộng lại, tất cả có tám vạn sáu ngàn bốn trăm kén Mộng, mỗi kén đều lớn như Mặt Trời, từ đó se thành chỉ Mộng. Rồi Hỗn Đế mới lấy chỉ Mộng mà dệt nên vạn vật giống như trong giấc mơ, nên rốt cuộc là mộng chồng lên mộng mà thành... Vạn vật đều nằm trên tấm lụa của Hỗn Đế, nên mọi sự đều liên đới với nhau, ai cũng duyên với nhau dù không hề quen biết, muôn vật vì nhau mà thành rồi cũng vì nhau mà diệt, chẳng qua có kẻ đứng cạnh nhau có người đứng cách nhau trên tấm lụa trời nên mới có sự khác biệt trong đời sống thường ngày. Nhưng chỉ Mộng không nhuộm nên mang màu trắng tinh tuyền, Hỗn Đế dệt nên hoa văn tuyệt xảo nhưng chẳng ai ngoài Ngài có thể thấy được, phân biệt được đâu là vật đâu là người, đâu là giả đâu là thật. Cũng vì vậy mà người trần không thể biết được thiên ý, mãi mãi sống trong lo lắng, chẳng mấy khi được hưởng bình yên vì không rõ mình ở đâu trên tấm lụa trời... Nhiều ngươi tin rằng Hỗn Đế đang ở nơi tận cùng thế giới, vẫn tiếp tục dệt lụa trời, kết nên duyên nợ của muôn vật. Tôi muốn tới đó và cầu xin Ngài cắt đứt duyên nợ của tôi...
Giọng của nhà ảo thuật nhỏ dần rồi tắt ngúm, dường như chính ông ta cũng không tin vào câu chuyện ấy, mà chỉ bấu víu vào đó để có thể tồn tại, lay lắt giữa cuộc đời với chút hơi sức còn sót lại từ một tâm hồn đã chất đầy những vết thương. Ông ta cần một lý do cho chuyến du hành vô định của mình, một cuộc chạy trốn những lỗi lầm đã phạm phải trong quá khứ.
- Vậy còn cậu thì sao? Tại sao cậu lại đi vào hoang mạc?
- Tôi không biết...- Hắn lắc đầu.- Khi tôi nhớ được thì thấy mình đã ở đây. Cảm giác như là... như là.- Hắn ngập ngừng.- Như là bị vứt vào câu chuyện của ai đó vậy!
- Thỉnh thoảng tôi cũng có cảm giác như vậy. Như mình là câu chuyện của ai đó. Nên đôi khi tôi cầu nguyện...
- Cầu nguyện điều gì?
Nhà ảo thuật giơ thẳng tay và chỉ lên nóc lều.
- Cầu nguyện với ai đó rằng mình sẽ có một câu chuyện tốt.
- Ông cầu nguyện như thế nào?
- Như đứa trẻ nói chuyện với cha mẹ nó vậy!
- Lời cầu nguyện có hiệu nghiệm không?
Nhà ảo thuật mở mắt ra, ông ta ngồi dậy nhìn hắn và mỉm cười trìu mến.
- Tôi chưa bao giờ nghĩ tới việc nó có hiệu nghiệm hay không, đôi khi tôi chỉ muốn trò chuyện.
Bất giác hắn cũng mỉm cười với khuôn mặt dịu dàng và hiền hậu của ông ta lúc này. Không hiểu sao hắn lại có cảm giác dễ chịu, dù vẫn thấy mơ hồ với những điều nhà ảo thuật vừa nói. Dường như một điều gì đó vừa được trao gửi, cái thông điệp nằm bên ngoài ngôn từ, thoảng hoặc tựa một cơn gió nhẹ lướt qua những kẽ ngón tay, chỉ để lại một cái rùng mình khẽ khàng nhưng lại chạm đến một chốn sâu thẳm nào đó trong tâm trí.
Rồi sau đó, bằng sự thong thả và chậm rãi nhà ảo thuật lại tiếp tục kể câu chuyện của mình.
"...buổi chiều hôm ấy, Ngọc Điển đã kể cho tôi nghe về rất nhiều điều trên khắp Đế chế. Dù tôi cũng là một kẻ du hành, nhưng quả thật những điều Ngọc Điển chứng kiến cũng như hiểu biết của anh ta vượt trên tôi rất nhiều. Bởi lẽ các nhà ảo thuật thường sẽ dừng chân ở các thị trấn lớn hoặc các thành quách giàu có, trên đường đi đôi lúc sẽ gặp cảnh khó khăn, nhưng đó không phải là điều mà chúng tôi nhắm đến. Tôi sẽ luôn chọn con đường dễ dàng nhất trong tất cả các con đường để đạt được mục tiêu của mình, nhưng Ngọc Điển thì khác, anh ta muốn thu nhập mọi điều xảy ra trên thế gian để có thể tìm ra câu trả lời cho bản thân.
- Càng chứng kiến cách thế gian này vận động tôi lại thấy nó càng xa rời tầm tay mình, vạn vật là tầng tầng lớp lớp những đan cài liên miên không dứt, còn đời sống con người chỉ tựa vài thoáng chốc trôi qua. Với đứa trẻ thơ thì giấc ngủ trưa đã là dài, với người nông dân thì một vụ mùa đã coi như lâu, nhưng với kẻ ôm mộng thấu hiểu thế gian, với bậc đế vương muốn quy phục thiên hạ, đem tài trí của mình để tỏ thấu trời xanh thì đời người chỉ như chớp mắt. Bởi cái biến hoá của vũ trụ là vô cùng, mà đời sống của ta lại giới hạn. Chẳng mấy chốc tóc đã bạc, chẳng mấy chốc mắt đã mờ; sức lực kiệt cùng mà giang sơn còn tản mác, đó cũng là lẽ thường ở đời.- Ngọc Điển ngước mặt nhìn vầng trăng non mới ló dạng rồi thở dài một hơi.- Hoàng Đế tài trí hơn người, nhưng sao so được với cái rộng lớn và trường cửu của trời đất? Thế gian cũng giống như màn ảo thuật của ngài, vạn sự thay đổi, mây trôi nước chảy, sông núi đổi dời... Tôi cho rằng Hoàng Đế cũng đã nghĩ về việc này.
- Vây giải pháp của anh là gì?
Ngọc Điển nhìn vào mắt tôi.
- Hoàng Đế cần vượt qua những giới hạn của người trần mắt thịt. Giống như con Ngọc Lân sải cánh bay đến chốn tận cùng. Hoàng Đế phải đạt đến sự bất tử!
- Nhưng làm sao mà...
Ngọc Điển không trả lời vội, anh ta im lặng một lúc chìm đắm trong những suy nghĩ riêng tư và rồi tôi để ý thấy Ngọc Điển lại kín đáo liếc nhìn Mục Quang, người nãy giờ tựa lưng vào một gốc cây ven bờ sông, dường như chẳng để tâm đến câu chuyện mà chủ của mình đang kể.
- Tôi đã từng nghe kể rằng, trong lòng dãy Mãnh Sơn giữa mây mù và tuyết phủ, có một hang động rộng lớn từ thuở Hỗn Đế mới khai thiên lập địa, nó dẫn sâu vào lòng núi. Điểm tận cùng của hang động là một cái hồ dung nham rộng lớn đã hàng chục vạn năm tuổi, lúc nào cũng sôi sùng sục, hơi nóng từ nó có thể khiến những thứ sắt thép cứng nhất tan rã chỉ trong khoảnh khắc. Tương truyền đó là nơi mà con Ngọc Lân trong truyền thuyết nằm ngủ, giữa lửa nóng và băng lạnh, trong lúc chờ đợi bản thân đạt đến sự bất tử. Ở đó, có nhưng vị đạo sĩ suốt cuộc đời cầu nguyện và canh giữ giấc ngủ cho thần thú, nhờ đó mà được ban tặng sự bất tử. Người ta nói rằng sức nóng của dung nham trọng hồ bốc lên cao, khiến lớp băng đã hàng chục vạn năm tuổi trên trần tan chảy dần. Cứ mỗi một nghìn năm, một giọt nước từ khối băng thiên cổ sẽ rơi xuống, Ngọc Lân hớp lấy giọt nước ấy trước khi nó bốc hơi rồi lại chìm vào giấc ngủ. Lúc Ngọc Lân hớp đủ một ngàn giọt nước thì mười vạn năm cũng trôi qua và nó sẽ tỉnh giấc sải cánh bay thẳng vào cõi toàn bích. Dĩ nhiên, người trần không thể nào uống được giọt nước của Ngọc Lân. Nhưng các đạo sĩ ở đó sau rất nhiều quan sát đã nghĩ ra một cách, họ lấy nước mắt của thần thú và luyện thành một phương thuốc. Nhưng vì nó có tác dụng quá mạnh, nên phải phân ra thành mười viên đan dược, mỗi viên uống cách nhau một tuần trăng. Từ khi nghe được câu chuyện đó, tôi đã lên đến tận đỉnh Mãnh Sơn, rồi vào bên trong hang động thiên cổ và thuyết phục các vị Đạo sĩ ở đó ban cho mình phương thuốc trường sinh để dâng lên cho Hoàng Đế.
Ngọc Điển kết thúc câu chuyện với một cái phẩy tay nhẹ nhàng, khiến vạt áo trắng bay phất phơ trong màn đêm.
- Sao anh không dùng phương thuốc để được bất tử?
- Tôi không có ham muốn đó.- Ngọc Điển mỉm cười buồn bã.- Hơn nữa các vị đạo sỹ đã nói, chỉ có người xứng đáng mới có thể dùng thuốc. Kẻ tầm thường mà uống vào thì cơ thể sẽ bị huỷ hoại, thổ huyết mà chết. Tôi nghĩ chỉ có Hoàng Đế mới xứng đáng uống đan dược, ngoài ra không một ai trên đời có thể...
Tôi im lặng, câu chuyện đã vượt quá sức tưởng tượng của tôi. Thông thường những văn nhân, biện sỹ ít khi tin vào thần thoại, lại càng không tìm hiểu phương cách để bất tử. Đối với họ, những điều đó chống lại sự vẹn toàn của vũ trụ hoặc tệ hơn, là những chuyện nhảm nhí bịa đặt để loè bịp kẻ nhẹ dạ, cả tin. Trong xã hội Phương Đông, giữa văn nhân và đạo sỹ luôn xảy ra tranh chấp; nếu văn nhân chỉ trích đạo sỹ là kẻ sống giả dối, rao giảng những sự hư ảo phi lý; thì các đạo sỹ sẽ trả lời rằng văn nhân thuộc kiểu người đầu óc hạn hẹp, tư duy giản đơn muốn chế ngự trời đất bằng luật lệ hà khắc của con người. Cuộc tranh chấp ấy đã diễn ra dai dẳng trong suốt hàng nghìn năm qua, bất kể triều đại và Hoàng Đế nào. Thông thường vào thời loạn các đạo sỹ sẽ được tôn sùng, còn giữa thời bình thì giới văn nhân lại phát triển.
Nhưng Ngọc Điển lại là một văn nhân thấm nhuần sự thần bí của giới Đạo sỹ, một sự kết hợp lạ lùng và có lẽ đã mang lại cho anh ta không ít sự ghét bỏ, ghẻ lạnh. Từ biểu tương Ngọc Lân trên áo, cho tới đôi mắt long lanh, mềm yếu; Ngọc Điển luôn nổi bật so với các văn nhân khác, sự nổi bật đó có thể đem lại cảm giác thích thú nhưng hẳn cũng khiến không ít người khó chịu.
- Anh nghĩ Hoàng Đế sẽ tin vào câu chuyện này?- Tôi hỏi khi nghĩ tới tài trí và tính khí đa nghi của Hoàng Đế, chỉ cần một cái chau mày của Ngài thì hàng nghìn người đã phải bỏ mạng. Và có rất nhiều văn nhân đã bị xử tử ngay sau khi tiếp kiến Hoàng Đế.
- Tôi không chắc. Nhưng tôi chẳng còn câu chuyện nào khác để kể, câu chuyện này là cả cuộc đời tôi!
Ngọc Điển khẳng đinh chắc nịch và tiếp theo là thêm một cái liếc nhìn kín đáo về phía Mục Quang, ngay lập tức cái liếc nhìn ấy khiến câu chuyện của anh trở nên giả dối và khiên cưỡng một cách lạ lùng, dù bản thân tôi không nhận biết được đâu là điểm vô lý của nó, nhưng cảm giác ấy thật rõ ràng. Bởi lẽ là một nhà ảo thuật, tôi đã quen quan sát từng cử chỉ nhỏ nhất của con người, để từ đó cảm nhận được sự thật ẩn giấu bên trong. Nhưng không hiểu sao, mỗi lần chứng kiến cái liếc nhìn ấy, lồng ngực tôi lại nhói lên, như thể trái tim vừa bị một mũi kim găm vào vậy. Và cũng chính vì cảm xúc ấy, mà tôi trở nên nghi ngờ khả năng phán đoán của bản thân. Bởi lẽ rất có thể những khát khao thầm kín đã làm cho tôi mù quáng.
Sau câu chuyện dài, Ngọc Điển mời tôi về quán trọ mà mình đang dừng chân, bởi anh ta muốn cả hai được trò chuyện với nhau nhiều hơn. Dĩ nhiên là tôi đồng ý ngay lập tức.
Trong những ngày tiếp theo, Ngọc Điển và tôi đã nói với nhau rất nhiều chuyện. Từ những vùng đất mà cả hai đã lui tới, những cảnh sống đã chứng kiến, cho tới những câu chuyện ấu thơ, hay các suy nghĩ, lo lắng trong đời. Tôi kể cho anh ta nghe những giai thoại nhỏ trong các chuyến lang thang của mình, đáp lại Ngọc Điển thuật lại các câu chuyện mà mình đã nghe được ở khắp mọi nơi, các truyền thuyết xa xưa. Trong các câu chuyện, Ngọc Điển nhắc tới rất nhiều vở kịch được phát triển từ các truyền thuyết kể dân gian, anh ta hứng thú với lĩnh vực này một cách đặc biệt và có thể thao thao bất tuyệt cả giờ đồng hồ với chúng. Đối với Ngọc Điển các vở kịch ấy hàm chứa tri thức của cổ nhân truyền lại cho đời sau. Nhưng vì một lý do nào đó mà Ngọc Điển không bao giờ kể về gia đình hay quá khứ của mình. Suốt thời gian ấy, Mục Quang lúc nào cũng kề cận bên Ngọc Điển, chăm chú lắng nghe và không lên tiếng một lần nào ngoại trừ những lúc chủ nhận ra lệnh.
Không biết bao nhiều lần tôi đã thầm đoán quan hệ của họ, có thể cô đã trót phải lòng Ngọc Điển nên giả làm đàn ông để đi theo anh. Vì ở Phương Đông, khi nam nữ chưa kết hôn thì họ không thể đi cạnh nhau. Có thể Ngọc Điển đã bắt cô phải làm như vậy, vì anh chưa muốn lập gia đình. Nhưng rõ ràng, Ngọc Điển dành tình cảm rất lớn cho Mục Quang qua cách mà anh nhìn cô. Cái nhìn đầy tha thiết nhưng cũng chất chứa một nỗi bi phẫn, chịu đựng to lớn; nó vừa hàm chứa sự yêu thương, nhưng đôi khi cũng loé lên những ánh uất hận.
Chính ánh nhìn ấy đã làm tôi do dự và khiến mọi giả thuyết trở nên phi lý. Ngọc Điển như bất kỳ văn nhân nào, đã đóng tron vai diễn của mình một cách hoàn hảo; nhưng chính trong lúc nhìn Mục Quang anh ta đã để lộ sơ suất, cái nhìn đó vừa soi tỏ con người Mục Quang nhưng cũng hiển lộ bản ngã của Ngọc Điển, những khát khao thầm kín và nỗi đau vô bờ anh đang dung chứa...
Nỗi khát khao ấy đã được Ngọc Điển bày tỏ trong một đêm khi chúng tôi uống rượu với nhau, trên một chiếc thuyền trôi nữa giữa mặt hồ phẳng lặng, chất đầy ánh trăng bạc và ở phía xa xa là những dãy phố rực rỡ sắc màu của Mỹ Đô. Trên thuyền lúc ấy chỉ có tôi và Ngọc Điển, bởi Mục Quang không biết bơi, hai chúng tôi lặng lẽ đối ẩm và trò chuyện trong khi ngắm trăng.
- Mười ngày nữa tôi sẽ vào Vương Cung tiếp kiến Hoàng Đế...- Ngọc Điển nói khi cả hai vừa dốc cạn một ly rượu, anh ngước lên nhìn những vì sao đang vây quanh mặt Trăng tựa một đàn gà con quấn quít bên mẹ.- Đó là một chuyến hành trình dài và đầy những rủi ro.
- Tôi nghe nói những văn nhân chỉ được thông báo trước một ngày, làm sao anh có thể chắc chắn mình sẽ được tiếp kiến?
- Mọi chuyện đã được lo liệu cả rồi...- Ngọc Điển thong thả nói trong khi rót rượu cho cả hai.- Có những lối tắt ở khắp mọi nơi trong Đế chế, chỉ cần ta trả phí qua cửa, Ngài hiểu không?
Tôi gật đầu, mím chặt môi và nhìn bàn tay thon thả của Ngọc Điển, chỉ muốn nắm chặt lấy nó và kéo anh đi thật xa khỏi chốn này, từ bỏ tất cả mọi thứ. Rồi bất giác tôi thầm tự cười mình, cái mơ ước ấy cũng viển vong như bóng của vầng trăng đang nổi trôi bồng bềnh trên mặt hồ vậy, chỉ là dư ảnh vô thực chẳng thể nào chạm tới. Đúng lúc ấy, Ngọc Điển vươn người về phía tôi, gần đến nỗi hương thơm thanh khiết từ da thịt anh ta khiến tôi lâng lâng ngây ngất. Trong phút chốc, cả thân người tôi đông cứng lại, một cú rùng mình từ sâu thẳm bùng lên và râm ran khắp da thịt. Tôi thầm nuốt nước bọt.
- Nếu tôi không trở về, mà rất có thể là như vậy...- Ngọc Điển thì thầm.- Mong Ngài hãy chu toàn Mục Quang, rất có thể Hoàng Đế sẽ phái người truy sát Mục Quang, vì Hoàng Đế luôn hành sự như vậy, giết tất cả những kẻ có liên quan. Mong Ngài hãy đưa Mục Quang trốn đi nơi khác. Tôi biết đây là một yêu cầu quá đáng, bởi lẽ chúng ta chỉ mới quen nhau và rất có thể yêu cầu của tôi sẽ khiến Ngài gặp nguy hiểm. Nhưng tôi chỉ biết nhờ cậy Ngài, Mục Quang là người duy nhất mà tôi còn trên đời này.- Nói tới đây, giọng Ngọc Điển run run và như muốn vỡ ra, anh ta ngước lên nhìn tôi, đôi mắt rưng rưng lệ khiến gương mặt kiều diễm càng trở nên đẹp đẽ.- Chỉ cần Ngài đồng ý tôi sẵn sàng làm tất cả mọi việc, bất kể là gì đi nữa!
Tôi cắn môi, đôi mắt và dáng vẻ cầu xin của Ngọc Điển khiến những dục vọng trong tôi dâng lên một cách điên cuồng không cách nào kiểm soát nổi, chúng tựa làn hơi nóng hầm hập bốc thẳng lên đỉnh đầu, khiến mọi ý nghĩ trở nên hỗn loạn. Phải rồi, đây là khoảnh khắc mà tôi luôn mở tưởng đến, giấc mơ ấy sâu xa tới nỗi tôi còn không dám tự thừa nhận với chính mình. Và ngay lập tức, tôi hiểu rằng Ngọc Điển nhận ra nỗi khao khát này từ lâu, anh đã nhìn thấu tâm can tôi, có lẽ ngay lần đầu tiên ánh mắt của cả hai chạm nhau, vì vậy nên lời cầu xin của anh chẳng thể bị khước từ. Chính sự thấu suốt ấy khiến tôi cảm thấy đau đớn, khốn khổ đến tận cùng; anh đã lột trần linh hồn tôi, để rồi dẫm đạp nó chẳng chút thương tiếc bằng sự dâng hiến của mình, chỉ để hoàn thành mong muốn bản thân. Ngay từ đầu và mãi mãi về sau, tôi cũng chẳng là gì trong mắt anh ngoài một công cụ để đạt được mong muốn ấy. Bao nhiêu xúc cảm lẫn lộn dồn nén vào một khoảnh khắc duy nhất, tranh đấu hỗn loạn không ngừng. Để rồi cuối cùng tôi đi đến một quyết định còn ghê gớm hơn, nhưng cũng rất đỗi tầm thường với những kẻ đang chìm trong cơn si mê tột độ. Rằng thay vì có được cơ hội chiếm đoạt thân xác của người mình yêu, tôi sẽ chiếm đoạt linh hồn người đó, dù chỉ là sự chiếm đoạt nhỏ nhoi vô nghĩa, tôi phải khiến cho Ngọc Điển mang ơn mình mãi mãi.
- Anh cứ yên lòng.- Tôi thì thầm một cách khó khăn.- Tôi sẽ bảo vệ Mục Quang bằng mọi giá mà chẳng cần đổi lại bất cứ điều gì. Tôi sẽ làm mọi thứ có thể!
Ngọc Điển im lặng, anh khẽ khàng nuốt nước bọt rồi chậm rãi nhắm mắt lại khiến hai hàng lệ chảy dài trên má.
- Xin cảm tạ Ngài.
Tôi mỉm cười yếu ớt, rồi vội vàng đẩy anh ta ra, như thể sợ sự gần gũi của da thịt sẽ làm vấy bẩn lòng tốt của mình. Sau khi những cơn xáo động trong lòng qua đi và cả hai đã bình tâm lại, tôi quyết định phải giải toả được thắc mắc trong lòng mình bấy lâu.
- Giữa anh và Mục Quang thật ra là quan hệ gì? Tôi biết Mục Quang là phụ nữ, tôi cũng biết anh còn gì đó không nói cho tôi nghe, trong những câu chuyện kể luôn có các lỗ hỏng. Và tôi hiểu ánh mắt khi anh liếc nhìn Mục Quang có nghĩa là gì.- Nói tới đây, cổ họng tôi bỗng nghẹn ứ, cảm xúc lại dâng khiến cho ngôn từ bị chặn lại. Tôi vội quay đi, nhìn chằm chằm vào ánh trăng uốn lượn trên mặt hồ óng ánh.- Nếu anh muốn tôi cứu Mục Quang thì phải cho tôi biết sự thật!
Ngọc Điển im lặng một lúc lâu, khuôn mặt anh ta đông cứng lại, bờ vai mỏng căng lên sau lớp áo lụa đang bay phất phơ trong gió. Rồi Ngọc Điển nhắm mắt lại, khẽ thở dài một hơi, anh ta với lấy bình rượu vẫn còn một nửa rồi vung tay vứt nó xuống hồ.
- Tôi sẽ nói cho Ngài biết tất cả.- Ngọc Điển mở mắt ra và dường như khuôn mặt anh ta cũng thay đổi theo hành động đó, tựa như người diễn viên lột mặt nạ của mình ra vậy. Vẫn là những đường nét ấy, nhưng giờ đã mang một biểu cảm khác, chất đầy những nỗi niềm và buồn đau, khiến trong phút chốc Ngọc Điển như già đi cả chục tuổi. Nhưng lạ lùng thay, chính sự mệt mỏi và khắc khổ lại khiến Ngọc Điển càng trở nên xinh đẹp hơn. Rồi bằng một giọng trầm và u tịch Ngọc Điển bắt đầu kể.- Đúng như ngài nói, Mục Quang là một cô gái, tên của cô ấy là Mục Huyền Liên, tiểu thư của một thế tộc giàu có bậc nhất phương Nam. Họ là công thần của Tiên đế đời trược, đã phò trợ Tiên Đế trong cuộc tàn sát đẫm máu vào bốn mươi năm trước. Chính vì vậy mà họ được ban cho nhiều điền sản đi kèm với tước hiệu của mình. Họ kiểm soát toàn bộ các thương đoàn lớn ở phương Nam, nơi nổi tiếng với những sản phẩm nông nghiệp, các loại cây và thú quý hiếm. Qua năm tháng, họ Mục ngày càng có sức ảnh hưởng, họ tận dụng cả tiền bạc lẫn quyền lực để mở rộng địa bàn, với các mỏ quặng kim loại lớn, các xưởng gỗ khổng lồ, những đoàn thuyền đánh cá có thể lênh đênh hàng chục ngày trên biển, đủ sức bắt được cả Thần ngư trong truyền thuyết. Ngay cả trong thời kỳ đầu khi Hoàng Đế hiện tại lên ngôi thì họ Mục vẫn giữ được những đặc quyền to lớn của mình. Vì vào khoảng thời gian ấy, ngay cả uy quyền của Hoàng Đế cũng chưa thể chạm tới vị trí của họ Mục. Tôi gặp Mục Huyền Liên lần đầu tiên cũng vào khoảng thời gian này, tôi là một đứa trẻ sinh ra trong đoàn kịch lang thang, không bao giờ biết cha mình là ai. Tôi được mẹ nuôi lớn, bà có nét đẹp diễm lệ và u buồn, luôn đóng vai nữ hoàng bất hạnh hay lệnh bà cô đơn. Mọi người đều nói tôi có gương mặt và dáng vẻ của mẹ, thanh tú nhưng cô độc. Ở ngoài đời thực lúc nào mẹ cũng có tình nhân vây quanh, hết người này đến người khác, dù vậy chẳng một ai muốn ở lại...- Ngọc Điển thở dài một hơi, nhìn tôi và mỉm cười một cách yếu ớt.- Chúng tôi đi tới những thành phố giàu có nhất, ban ngày thì biểu diễn ở các địa điểm đông đúc để kiếm tiền, tối đến lại ra khỏi thành và tìm chỗ nghỉ chân ở những ngôi làng vô danh xung quanh. Cũng chính vì vậy mà vào buổi chiều hôm ấy, tôi đã dẫn Ngài đến ngôi làng bên dòng Ngọc Giang. Những buổi hoàng hôn dài đằng đẵng luôn gợi cho tôi nhiều ký ức, chúng tôi đốt những đống lửa nhỏ, dựng vài căn lều chắp vá từ những mảnh vải vụn. Từng người một bắt đầu cởi các bộ trang phục lộng lẫy ra, để lộ thân thể ốm yếu và mệt mỏi; những lớp son phấn bị gột rửa, trả lại làn da thô ráp sần sùi vì nắng gió. Ai cũng ốm yếu và mệt mỏi, ai cũng cô đơn và buồn bã; họ ngẩn ngơ như thể chưa kịp hoàng hồn, thoát khỏi những vai diễn hào nhoáng của mình. Từ nhỏ tôi đã tham gi diễn kịch với mẹ, đóng vai những đứa trẻ quyền quý hay hoàng tử con vua. Một thời gian sau mẹ tôi mất, rồi tôi nhận chính những vai diễn mà bà đã để lại. Tôi hoá thân thành những công chúa, phu nhân, hoàng hậu bởi nét đẹp tôi có cũng chính là nét đẹp của mẹ. Đôi khi, tôi cảm thấy vai diễn trên sân khấu còn xác thực hơn cả cuộc đời mình đang sống, cái cuộc đời vụn vỡ đầy những mảng màu nham nhở và xấu xí...
Tôi im lặng, không biết phải phản ứng thế nào với câu chuyện của Ngọc Điển, nó là một bước ngoặc quá lớn đối với tôi lúc này.
- Vậy câu chuyện hôm trước anh kể bên bờ sông...- Tôi nói nhỏ.
- Là nói dối thôi.- Ngọc Điển nhẹ nhàng gật đầu.- Tôi mới là người diễn kịch trên phố, trước phủ của nhà họ Mục, còn Huyền Liên chỉ đứng nhìn từ xa. Đôi khi, xe ngựa chở cô ấy dừng lại và Huyền Liền vén rèm xem chúng tôi diễn. Vài lần tôi liếc trộm cô ấy khi không ai chú ý, hẳn Ngài đã nhận ra ánh mắt ấy, đó là khoảnh khắc duy nhất tôi không thể tập trung vào vai diễn của mình, sự xao lãng khiến tôi day dứt hằng đêm, đến mức trở nên ngây ngốc vì nỗi tuyệt vọng. Để rồi tôi hiểu rằng mình chẳng còn cách nào khác, ngoài tuân phục thứ xúc cảm cuồng dại ấy. Rồi một đêm từ bên ngoài thành, tôi thấy khói lửa bốc lên từ phủ nhà họ Mục. Đêm đó, Hoàng Đế đã phái sát thủ tới tàn sát tất cả mọi người trong phủ. Cuối cùng Ngài đã quyết định ra tay, trừ đi mối hoạ tiềm ẩn, đe doạ đến quyền lực tuyệt đối của mình. Dường như họ đã bị phản bội bởi một người thân thích, kẻ mà sau này cũng bị giết để bịt đầu mối. Chỉ duy nhất Mục Huyền Liên trốn thoát được, cô đã chui xuống cống, bò hàng giờ đồng hồ cho tới khi ra được bên ngoài, cũng là nơi mà đoàn kịch đang nghỉ chân. Tôi phát hiện ra cô khi đang lang thang, suy tưởng về sự si mê không lối thoát của mình. Tôi thấy cô nằm dưới một trảng cỏ dại, ngất đi vì mệt mỏi, trang phục rách nát và bẩn thỉu, nồng nặc mùi hôi thối của phân và nước tiểu. Thế là tôi mang Huyền Liên về, chăm sóc cho cô, tôi nói dối mọi người trong đoàn rằng Huyền Liên là một cô gái bị bán làm nô lệ nhưng đã trốn thoát được. Một khoảng thời gian dài cô như người mất hồn, không ngủ, không ăn, không nói bất kỳ lời nào. Thời gian ấy tôi đã chăm sóc cho Huyền Liên, mang cô theo trong hành trình rong ruổi của mình, chia sẻ mọi thứ mà tôi có. Một khoảng thời gian đẹp đẽ...
Ngọc Điển cúi mặt, mái tóc đong đưa theo những cử chỉ khẽ khàng của cơ thể.
- Tới một ngày kia Huyền Liên bỗng lên tiếng, cô nói với tôi về kế hoạch báo thù của mình, kế hoạch giết Hoàng Đế và chỉ có tôi mới có thể biến nó thành hiện thực. Huyền Liên cầu xin tôi, hệt như tôi vừa cầu xin Ngài, rằng cô sẽ làm mọi thứ nếu tôi chấp nhận thực hiện kế hoạch.- Dừng lại một chút, Ngọc Điển nhếch mép, tạo ra một tiếng cười khô khốc.- Tôi là ai mà có thể từ chối được chứ? Ngài hiểu điều đó không?
Hít vào một hơi, tôi lắng nghe âm thanh một con cá đớp nước ở đâu đó ngoài kia, khoảng mà ánh trăng chẳng thể nào với tới.
- Tôi hiểu!
- Có hai cách để một người bình thường có thể tiếp cận Hoàng Đế. Một là trở thành cung nữ, nhưng Huyền Liên đã quá tuổi để tiến cung, Vương cung chỉ chấp nhận các thiếu nữ dưới mười lăm tuổi vào phục vụ. Cách thứ hai là trở thành một văn nhân, dù vậy văn nhân bắt buộc phải là nam giới, nên Huyền Liên cần tôi tham gia kế hoạch này. Ngoài ra thì cô ấy cũng nói rằng tôi là người duy nhất mà mình tin tưởng trên đời... Thế là cô bắt đầu truyền dạy cho tôi kiến thức của mình, để tôi có thể biến thành một văn nhân; từ cách đi đứng, giọng điệu, thậm chí là cả lối suy nghĩ. Và cô muốn tôi hoàn toàn nhập tâm vào vai diễn ấy, bất kể là đang ở đâu hay làm gì, tôi phải quên đi con người trước kia của mình, quên cả quá khứ lẫn tương lai, để có thể trở thành Ngọc Điển, một văn nhân đích thực. Chúng tôi bí mật đào những kho báu mà trước kia họ Mục đã chôn giấu quanh các điển sản của mình, phòng khi có bất trắc. Rồi dùng số tiền đó để mua trang phục, cũng như chi phí cho việc đi lại, ăn ở. Trong đó phần lớn nhất vẫn là hối lộ cho các quan lại ở Mỹ Đô để có thể tiếp kiến Hoàng Đế. Nhưng ngay cả khi đã tiếp cận được thì cũng không thể ra tay. Xung quanh Hoàng Đế lúc nào cũng có cả chục người bảo vệ, ai cũng trải qua một khoá huấn luyện khắc nghiệt, tinh thông mọi loại võ thuật và binh khí. Cách duy nhất khả dĩ là hạ độc, dù vậy những thứ Hoàng Đế ăn uống hằng ngày đều được kiểm tra kỹ lưỡng, lúc nào cũng có người thử độc xung quanh Vương cung, kẻ sẽ nếm thử mọi thứ trước khi Hoàng Đế dùng. Nên chỉ có thể hạ độc thành công nếu lấy được lòng tin của Hoàng Đế, khiến Ngài tự mình uống thuốc độc.- Càng về sau, Ngọc Điển càng hạ giọng xuống, như thể sợ ai đó nghe lén.
- Nên mới có câu chuyện về cách trường sinh bất tử?
- Nhưng câu chuyện đó không thể kể cho Hoàng Đế ngay trong lần đầu tiếp kiến, vì Ngài rất thông minh và đa nghi nên sẽ nhận ra ngay sự lừa dối. Tôi cần phải thu hút Hoàng Đế theo phương cách mà tất cả các văn nhân đều làm, chỉ cho Ngài làm thế nào để đoạt được thiên hạ, khiến dân chúng quy phục. Rồi khi đã làm cho Hoàng Đế hoàn toàn tin tưởng, tôi sẽ nói về đan dược trường sinh. Kế hoạch này sẽ mất rất nhiều thời gian để thực hiện, có khi tốn cả chục năm trời.
- Có phải mấy ngày qua anh đã thử thuyết phục tôi tin vào câu chuyện đó?
Ngọc Điển gật đầu.
- Nhưng dù thành công hay thất bại thì cũng sẽ là một đi không trở lại...
- Vậy là anh sẵn sàng chết vì Mục Huyền Liên?
Ngọc Điển im lặng, nhưng cả tôi và anh ta đều không cần thêm bất kỳ sự xác nhận nào nữa.
Rồi sau đó, Ngọc Điển cất tiếng hát, với chất giọng mềm mại và uyển chuyển của một người phụ nữ. Anh biểu diễn một ca khúc trong vở kịch nổi tiếng của Phương Đông, ca khúc ấy nói về tâm trạng của người tỳ thiếp xinh đẹp. Nàng lo lắng cho chồng, vốn là một vị tướng già uy danh lẫy lừng, đang chinh chiến ở sa trường. Nàng thì thầm những giấc mơ của mình hằng đêm, khi nằm trên chiếc giường lạnh lẽo và than thở về sự cám dỗ từ đứa con út, kẻ luôn thèm muốn người mẹ kế trẻ trung xinh đẹp.
Khi ngân đến nốt cuối cùng, giọng Ngọc Điển lạc đi, răng anh nghiến chặt và khuôn mặt nhăn nhó với vẻ buồn thương tột độ. Chứng kiến khoảnh khắc tôi thấy mắt mình cay xè, rồi vội vã lau một giọt lệ vừa mới ứa ra trên khoé mắt.
- Đây là bài hát mà mẹ tôi thích nhất.- Ngọc Điển nói, sau một khoảng im lặng kéo dài.- Ngay cả khi nằm trên giường bệnh và không thể nói được, bà vẫn ngâm nga giai điệu của nó. Tôi từng rất ghét bài hát này, nhưng từ khi nhìn thấy Mục Huyền Liên... Thật ra tôi cũng từng ghét mẹ, ngay cả khi bà đã qua đời, vì mẹ luôn quan tâm đến người tình của mình nhiều hơn tôi. Nhưng rồi khi yêu, hoá ra tôi cũng y hệt như bà.
- Điều đó làm anh đau khổ?
- Điều đó làm tôi hiểu bản thân mình hơn và hiểu cả mẹ!
Chúng tôi cùng nhau mỉm cười, một nụ cười có cả vui vẻ lẫn đắng cay và chua xót. Rồi Ngọc Điển nói đã đến lúc phải về, anh chèo thuyền đưa tôi vào bờ, nơi Mục Quang vẫn đang đứng chờ với vẻ mặt trầm tư muôn thuở.
Đêm ấy tôi đã thao thức tới tận bình minh vì câu chuyện của Ngọc Điển, cùng một lúc cả nỗi đau khổ lẫn niềm hân hoan đều dày vò tâm can tôi, khiến nó nổi lên một trân cuồng phong dữ dội, liên tục tranh đấu giữa những ý nghĩ u ám nhưng thực tế và các ham muốn đẹp đẽ dù rất đỗi xa vời. Sự dằn xé khiến tôi mệt nhoài và kiệt sức, nhưng đồng thời tâm trí cũng hết sức tỉnh táo và cẳng thẳng, mãi tới khi tia nắng đầu tiên lùa qua ô cửa sổ thì tôi mới thiếp đi, đắm chìm trong giấc ngủ bị lấp đầy bởi những giấc mộng hoang đường, cho đến tận chiều muộn mới giật mình tỉnh giấc.
Hai ngày tiếp theo, tôi tựa một kẻ ngẩn ngơ, khi mọi nghĩ suy chỉ xoay quanh câu chuyện mà Ngọc Điển đã kể. Dù biết rằng chẳng có cách nào khuyên giải hay ngăn cản Ngọc Điển, nhưng tôi vẫn không thể nào xua đi mong muốn phá hỏng kế hoạch này. Mặc kệ những lời hứa với Ngọc Điển, hay ý kiến của anh ta như thế nào, đối với tôi sự tồn tại của con người ấy quan trọng hơn tất thảy. Và tôi sẽ sàng trở thành một kẻ bội bạc, phản phúc chỉ để giữ cho Ngọc Điển được sống. Bởi trầm luân giữa những suy tư, nên tôi chẳng còn thiết tha gì nữa, ngay cả xác thân cũng chẳng còn cảm giác, lúc nào cũng tựa như đang bồng bềnh giữa một mặt hồ mênh mông, tĩnh lặng và cô quạnh. Những món ăn ngon nhất cũng chẳng làm tôi thấy đói, những ly rượu thơm nhất cũng chẳng làm tôi muốn thử; tôi đã trôi dạt đi rất xa, xa khỏi cái bản ngã mà mình từng biết đến và cũng xa hơn cả những tình cảm mà tôi đã trao gửi cho Ngọc Điển một cách thầm kín. Giờ tôi chẳng còn gì nữa, ngay cả nỗi tuyệt vọng cũng đã bị huỷ hoại, bởi không chỉ là Ngọc Điển sẽ chẳng bao giờ đoái hài tới tôi, mà anh ta sẵn sàng gạt bỏ đi sự tồn tại tôi để có thể hiện thức hoá mong muốn của Mục Quang.
Trong những chuỗi ngày ấy, tôi và Ngọc Điển không trò chuyện với nhau lần nao, có chăng chỉ là vài câu ngọt nhạt tầm thường. Nhưng những gì không nói ra thành lời, thì chúng tôi đã gửi hết qua ánh mắt và cử chỉ. Anh hiểu cách tôi nhìn anh và tôi cũng hiểu những tâm sự trong lòng anh, sự thấu hiếu ấy như lột trần cả hai dưới ánh Mặt Trời vừa đau đớn ê chề, nhưng không hiểu sao cùng tràn ngập niềm vui dâng hiến.
Vào buổi tối ngày thứ tư, khi tôi đang thở thẩn đi dạo quanh cái hồ mà mấy đêm trước đã cùng ngồi trên thuyền uống rượu với Ngọc Điển, thì bỗng nhiên tôi cảm thấy một lưỡi dao lạnh toát đã kề sát vào cổ mình từ phía sau.
- Đừng cử động!- Ai đó thì thầm vào tai tôi. Hởi thở của kẻ đó phả vào gáy khiến tôi rùng mình.
- Người là ai?
- Ông đoán xem?- Giọng phụ nữ xa lạ vang lên.
Tôi chau mày, rồi chợt tỉnh ra.
- Mục Quang?
- Ông lúc nào cũng nhạy cảm tới phiền phức.- Mục Huyền Liên khinh khỉnh xác nhận.- Mọi nhà ảo thuật đều đánh hơi giỏi như lũ chó sói à? Hay ông là một trường hợp đặc biệt?
- Con người luôn nhạy cảm với những gì họ thật sự quan tâm. Cậu không nghĩ vậy sao?
- Lũ ảo thuật không chỉ giỏi đánh hơi mà còn giỏi diễn kịch nữa.- Mục Quang nói giọng mỉa mai.- Tôi biết là Ngọc Điển đã kể cho ông nghe hết mọi chuyện, không cần phải giả vờ làm gì!
Hít một hơi, tôi suy nghĩ thật nhanh. Nếu cô ta đã biết về cuộc nói chuyện hôm trước thì tôi cần phải nghĩ ra cách đối đáp để toàn mạng. Nhưng rồi ham muốn với Ngọc Điển trỗi dậy, khiến tôi không kềm được và lên tiếng bằng giọng tức tối.
- Anh ta nói cho cô biết à?
- Không! Anh ta không kể và tôi không hỏi.- Dừng một chút, Mục Huyền Liên nói với giọng buồn bã.- Nhưng tôi luôn nhận ra, tôi luôn nhận ra anh ta nghĩ gì. Tôi biết hết tất cả...
Câu nói đó khiến lòng tôi dịu lại. Tôi ngước lên nhìn những tầng tầng lớp lớp các dãy mây xám xịt đang vắt ngang qua bầu trời, tựa một bức màn dày bao phủ và che đậy tất cả.
- Anh ta muốn tôi chu toàn cho cô, sau khi anh ta vào Vương cung.
- Tôi biết điều đó! Ngọc Điển luôn như thế...
Tôi cảm thấy lưỡi dao trên cổ mình buông lỏng ra trong một giây, nhưng ngay lập tức siết chặt vào.
- Vậy cô định sẽ làm gì? Ngọc Điển vào Vương cung tiếp kiến Hoàng Đế, còn cô thì sao?
- Chúng tôi đã nghĩ tới rất nhiều thứ, từng chi tiết một cho kế hoạch. Tôi nghĩ về nó mỗi đêm, trong từng giấc mơ của mình. Tôi nghĩ về nó trong lúc ăn uống, khi đi lang thang.- Mục Huyền Liên thì thầm.- Nhưng tôi chưa bao giờ nghĩ về sau đó, chưa từng có sau đó... Dù thất bại hay thành công, thì cuộc đời của tôi chấm dứt vào khoảnh khắc mà Ngọc Điển bước qua cổng của Vương Cung, mọi ý nghĩa của sự tồn tại đều sẽ biến mất. Và thế gian này chỉ còn là một nơi chốn trống rỗng, không niềm vui mà cũng chẳng có nỗi buồn.
- Cô yêu Ngọc Điển phải không?
- Tôi không còn chỗ cho tình yêu nữa rồi, chỗ dành cho nó đã bị lấp đầy bởi nỗi hận thù, tôi phải báo thù và đó là tất cả!
- Người ta nói rằng trái tim con người là một chốn vô tận...
- Điều đó có thể đúng với ông, một nhà ảo thuật. Còn tôi thì không, tôi không thể làm mọi thứ đột ngột biến mất và xuất hiện, tôi không có phép thuật để lãng quên hay chốn vùi những chuyện đã từng xảy ra.- Mục Huyền Liên trầm ngâm một chút rồi nói thêm.- Có lẽ trước kia trái tim tôi đã từng là một chốn vô tận, đôi khi tôi vẫn có những giấc mơ, tôi thấy mình là một đứa bé lang thang trong khu vườn rộng lớn của Mục gia, lướt tay qua những đoá hoa đang nở rộ, lúc đó có một hương thởm luẩn khuất trong không khí mà chẳng bao giờ tôi nhớ được là gì... Nhưng ngay cả thế thì cũng đã quá muộn rồi, tôi không còn gì khác ngoài sự căm hận. Sau khi Ngọc Điển vào Vương cung, tôi sẽ lấy cái chết để báo đáp!
Thở dài một hơi, tôi đã nghĩ rằng Mục Huyền Liên sẽ nói như thế. Có lẽ sự an bài này là chẳng cách nào tháo gỡ được, những sợi chỉ mà Hỗn Đế đã đang kết trên tấm lụa trời luôn vượt quá ảo vọng của phàm nhân, khiến con người mãi mãi mắc kẹt trong đau thương và sầu khổ.
- Nhưng Ngọc Điển không muốn cô chết, anh ta đã nhờ tôi chăm sóc cô...
- Tôi biết, nhưng tôi chẳng còn thiết tha cuộc sống này nữa.
- Tôi không muốn Ngọc Điển phải chết!
- Nhưng ông lại chẳng thể làm bất cứ điều gì. Chắc chắn Ngọc Điển sẽ không nghe lời khuyên ngăn của ông.
- Cô cũng không thể giết tôi. Vì Ngọc Điển sẽ nhận ra ngay là ai làm!
- Ông không thể nào biết chắc được.
- Tôi biết chắc như cô biết việc anh ta sẽ không nghe lời khuyên ngăn của tôi vậy.
Mục Huyền Liên bật cười, giọng cười rùng rợn và khủng khiếp tựa hàng trăm cái ly bị vỡ cùng một lúc, nhưng kéo dài và não nề hơn. Cô vung tay vứt con dao của mình ra giữa hồ và quay bước bỏ đi lẫn vào giữa đêm đen, mang theo cả nụ cười vẫn còn vang vọng.
Tôi thẩn thờ nhìn ra mặt hồ, mãi đằng xa là những dãy ánh sáng rực rỡ của các con phố của Mỹ Đô, những cái bóng đủ màu của chúng hắt xuống mặt nước và dần tan đi, bị chấn chìm bởi vô số vệt sóng loang nhỏ bé. Một cơn gió bất chợt lùa qua các tán cây, khiến lũ chim đang ngủ trên cành giật mình và đồng loạt vỗ cánh. Ngay cả khi bầy chim đã bay rất xa, còn cơn gió thì tắt ngấm giữa thinh không rộng lớn, tôi tưởng chừng mình vẫn còn nghe thấy giọng cười của Mục Huyền Liên, văng văng từ chốn xa xôi nào đó ở tận cùng thế giới..."
Kể tới đây nhà ảo thuật bặm môi lại và trâm ngâm, đôi mắt đông cứng giữa hoang mạc, nơi hoàng hôn đang dần phủ xuống, một lần nữa ông lại có vẻ như đã quên mất câu chuyện của chính mình, đắm chìm vào những suy tư bất tận.
Hắn im lặng chờ đợi, nhưng nỗi sốt ruột khiến hắn nhấp nhỏm không yên trong chiếc lều nhỏ của mình. Hắn cần phải biết đoạn kết của câu chuyện, rằng nhà ảo thuật đã làm gì trước tình huống nan giải ấy, hay kế hoạch ám sát Hoàng Đế đã diễn ra thế nào, có thành công hay không? Hắn lờ mờ hiểu rằng kết cục của câu chuyện này sẽ giải đáp phần nào những vướng mắc của bản thân mình, lý giải nỗi đau đớn và tiếc thương của hắn trước Kiga'stra, cái gánh nặng vô tận ngày một chất chồng thêm trong trái tim hắn qua từng giấc ngủ.
Và sâu xa hơn nữa, có lẽ nó sẽ giải đáp cho câu hỏi đầu tiên của hắn. Rằng chuyến hành trình có ý nghĩa gì? Tại sao hắn lại có mặt ở đây, giữa chốn vô tận này. Điều mà hắn thấy thiếu sót khi nhìn lên bầu trời, rằng giữa bao nhiêu ánh sáng rực rỡ kia, vẫn còn vô số những khoảng trống và hắn cảm thấy trong những khoảng trống ấy có con người thật của hắn, cái còn chưa đưa nêu tên và cũng chẳng ai đoái hoài dến. Nơi mà bóng tối ngự trị hằng đêm, chúng phản chiếu chính những trống trải trong bản ngã của hắn.
- Vậy chuyện gì đã xảy ra?- Rốt cuộc hắn cũng hỏi.
Nhà ảo thuật nhìn hắn, ông hấp háy đôi mắt già nua và mệt mỏi của mình rồi đứng dậy bước ra khỏi lều, ngước đầu lên nhìn Hoàng hôn rực rỡ.
- Lúc đó tôi nhận ra là mình chỉ có hai lựa chọn.- Nhà ảo thuật nói trong khi mắt vẫn hướng về chân trời phía Tây.- Một là làm theo lời Ngọc Điển, ngăn Mục Huyền Liên tự sát. Hai là giữ cho Ngọc Điển sống bằng mọi giá, mặc kệ việc anh ta muốn làm gì. Cả hai lựa chọn đều đó chỉ thực hiện được bằng cách giấu họ đi. Nếu tôi giam Mục Huyền Liên trong trái tim mình, ở đó cô ta không thể tự sát và quân đội của Hoang Đế cũng không bao giờ tìm ra. Hoặc tôi sẽ làm như vậy với Ngọc Điển, trong trái tim tôi anh ta không thể đi thuyết phục và ám sát Hoàng Đế. Và một khi đã giam họ vào trong trái tim, thì tôi cũng không còn đường lui. Nếu tôi thả Mục Huyền Liên ra, chắc chắn cô ấy sẽ tự sát vì không còn thiết sống nữa; còn nếu thả Ngọc Điển thì anh ta sẽ lại đi tìm Mục Huyền Liên và họ lại cùng lên kế hoạch trả thù. Cả hai lựa chọn đều khiến tôi phải mang gáng nặng trong tim chẳng biết là tới khi nào, cái gánh nặng sẽ làm tôi trằn trọc trong từng giấc ngủ, thân xác bị vắt kiệt dần cho đến khi cùn mòn, chỉ còn lại một cái vỏ rỗng trơ trọi. Ngoài ra giữ một người càng lâu trong tim thì sẽ càng khó giải thoát cho họ. Ta sẽ không thể quên khi người đó đã hoà lẫn vào trong linh hồn mình, trở thành một phần bản thể, tựa như một khối u ngày một lớn hơn, che lấp mọi cơ quan khác. Khi cắt bỏ nó đi thì ta cũng chẳng còn gì sót lại... Nhưng dù gánh nặng ấy lớn thế nào và khó khăn ra sao, thì cậu cũng phải hiểu là tôi sẵn sàng chấp nhận.
- Vậy ông đã lựa chọn gì?- Hắn đứng lên và cũng bước ra khỏi lều, đứng cạnh nhà ảo thuật.
- Nếu là cậu thì cậu sẽ chọn gì?- Nhà ảo thuật quay qua nhìn hắn.- Giả sử cậu rơi vào câu chuyện của tôi, thì cậu sẽ thực hiện mong muốn của người mình yêu hay cậu sẽ nhất quyết giữ cho người đó sống?
Hắn chau mày, dù câu hỏi của nhà ảo thuật chỉ là một giả định. Nhưng việc lựa chọn như thế nào cũng sẽ phản ánh chính tâm hồn hắn, khơi gợi lên những dục vọng và mong muốn ẩn sâu trong bản ngã. Liệu hắn sẽ chọn gì nếu đó là Kiga'stra? Hắn sẽ để nàng hiến dâng cho nghi thức của những người thương nhân, hay sẽ vĩnh viễn giấu nàng vào trái tim mình.
- Tôi không biết!- Hắn thì thầm.- Tôi thật sự không biết.
Nhà ảo thuật mỉm cười, ông ta chép miệng giọng buồn bã.
- Khi tôi nói với cậu rằng mình đã vi phạm quy tắc thứ ba, thì cậu liền hỏi có phải tôi đã giam người mình yêu mình hay không. Nên tôi nghĩ trong thâm tâm cậu đã chọn phương án thứ hai rồi, cậu sẽ giữ cho người mình yêu được sống, bất kể phải trả giá thế nào. Tới giây phút quyết định, lựa chọn ấy sẽ trở nên rõ ràng trong tâm trí cậu.- Nhà ảo thuật thở dài với vẻ cam chịu.- Tôi cho rằng khi con trẻ, người ta sẽ tìm cách giữ tình yêu của mình bằng mọi giá; sau đó khi già hơn một chút, họ muốn để cho tình yêu ấy được tự do lựa chọn. Nhưng rồi sau đó nữa, sau đó nữa...
Nhà ảo thuật ngập ngừng rồi im lặng ngẫm nghĩ một lúc lâu.
- Sau đó nữa thì không còn tình yêu nào cả, hay đúng hơn con người chưa từng biết tình yêu là gì.- Nhà ảo thuật nhắm mắt thì thầm.- Chỉ có những ham muốn, mong chờ và hy vọng; chúng giống như một vườn hoa vậy, rất rực rỡ nhưng rồi cũng có lúc lụi tàn. Cuối cùng chỉ còn lại sự tĩnh lặng, trải dài mênh mông... Đã rất lâu rồi tôi không còn nằm mơ nữa, giấc ngủ của tôi đặc quánh và đen kịt bởi những ưu tư. Thứ bóng tối ấy còn sâu thẳm hơn cả cái chết, vì nó là nỗi tuyệt vọng mãi mãi bị giam cầm, không thể kết thúc mà cũng không thể chuyển hoá. Tôi đang trải qua sự trừng phạt khủng khiếp vì đã dám vi phạm quy tắc của nhà ảo thuật, tệ hơn nữa là sự đoạ đày của bản ngã, trước một tình yêu không lối thoát. Nhưng gần đây, tôi thấy một tia sáng nhỏ giữa thứ bóng tối vô bờ ấy. Nó ở rất xa phía trước, rồi tôi với tay ra.- Nói tới đây, nhà ảo thuật cũng giơ tay lên trong khi mắt đang nhắm nghiền, như muốn chạm vào một vật vô hình đang lơ lửng trước mặt.- Và tôi hiểu rằng, trong giấc ngủ mình cũng đang du hành, đi về phía ánh sáng ấy. Có thể đó là tình yêu, cũng có thể nó là một điều gì khác. Nhưng tôi vẫn luôn bước đi...
- Vậy đó là lý do ông băng qua hoang mạc?
Nhà ảo thuật không trả lời câu hỏi của hắn, ông mở mắt ra và nhún vai.
- Nếu cậu cho phép thì tôi cần nghỉ ngơi, kể một câu chuyện dài làm tôi mệt mỏi. Có lẽ tôi sẽ vào lều và ngủ một chút.
- Khoan đã! Rốt cuộc thì ông đang giữ ai trong trái tim mình?
Nhưng một lần nữa, nhà ảo thuật lại không trả lời. Ông ta im lặng nằm xuống lều và nhắm mắt lại, rồi chẳng bao lâu sau đã chìm vào giấc ngủ.
Nhà ảo thuật ngủ rất say, ông ta nằm ngay ngắn, khuôn mặt hướng thẳng lên trần lều và suốt cả đêm không một lần trở mình. Từng hơi thở đều đặn của ông vang lên khe khẽ, cánh mũi phập phồng chậm rãi. Không hiểu sao khuôn mặt khi ngủ của nhà ảo thuật lại bình thản một cách lạ lùng, chẳng có gì là giống với dáng vẻ của một kẻ đang bị trừng phạt. Những nếp nhăn già nua giãn ra, nhạt dần và biến mất, đôi mắt khép hờ thư thái, khuôn miệng thả lỏng, hở ra một khoảng nhỏ để lộ hàm răng trắng đều.
Chính vẻ mặt ấy đã khiến hắn băn khoăn, tự hỏi vì sao ông ta có thể thoải mái như vậy trước những điều khủng khiếp đã trải qua. Để rồi suốt cả đêm hắn trằn trọc nghĩ về câu chuyện của nhà ảo thuật, về cả Hỗn Đế, Ngọc Lân lẫn câu chuyện về phương thuốc trường sinh bất tử. Những ý nghĩ ấy lại gợi nhắc tới Kiga'stra, câu chuyện và cái chết của nàng. Bằng cách nào đó tất cả đều là tiếp nối mà cũng là khởi nguyên của nhau, trong vòng xoay bất tận của cuộc đời này, ngổn ngang bên dưới sự thường hằng của vũ trụ.
Cuối cùng như đã chịu thua, hắn nhắm mắt lại và cầu nguyện. Lời cầu nguyện đầu tiên run rẩy và ngắt quảng, hắn chẳng biết mình đang cầu xin với ai hay sẽ xin điều gì. Hắn chỉ đơn giản là muốn trò chuyện, như đứa trẻ bập bè những câu chữ đầu tiên cho mẹ của mình.
Sáng hôm sau, khi hắn tỉnh dậy thì nhà ảo thuật đã đi mất từ bao giờ, hắn ngồi dậy ngẩn ngơ nhìn quanh hoang mạc rộng lớn, tự hỏi con người ấy đang hướng về đâu giữa coi mênh mông bất tận này.
Trong những ngày tiếp theo, đôi khi hắn nghĩ đến nhà ảo thuật và câu chuyện kỳ lạ của ông ta. Rồi hắn lục trong hành lý của, tìm đồng xu mà nhà ảo thuật đã tặng cho mình vào hôm trước. Hắn lộn tung hai bọc hành lý, mò hết trong các túi của những bộ quần áo nhưng vẫn chẳng thấy nó đâu. Đúng như nhà ảo thuật nói, những đồng xu luôn luôn biến mất một cách bí ẩn, sự phản trắc âm thầm và êm ái cũng là cách thúc phản bội duy nhất mà người ta có thể mong cầu trong cuộc đời của mình...
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top