Chương 1: Dãy lụa của cát bụi
Hắn ngồi với người thương nhân già nhất trong đoàn dưới bóng của toà tháp đổ nát, xung quanh họ là những gì còn sót lại của vô số công trình cổ xưa. Những bức tường xiêu vẹo nằm chơ vơ bên cạnh các móng nhà, một phần đã bị vùi lấp dưới lớp cát. Một toàn nhà khác chỉ còn lại phân nửa mái vòm, các bức tượng mất đầu đổ xuống rải rác, vài rường cột còn sót lại được những cơn gió làm lộ ra rồi lại bị chính chúng vùi lập trong một nhịp điệu đều đặn và êm dịu. Quang cảnh đổ nát ấy bao phủ cả một vùng rộng lớn, chỉ dấu cho một thành phố hay vương quốc dường như từng trù phú nhưng giờ đây đã tàn lụi. Hắn và người thương nhân đang ngắm nhìn một mảng tường thành lẻ loi trước mặt, tựa như một ngọn đồi nhỏ đứng đơn độc giữa đất trời, vươn cao chịu đựng những trận bão cát dữ dội và cả sự cô quạnh của chốn này.
Rải rác gần vài thương nhân trẻ hơn trong đoàn, họ tụ lại thành từng nhóm đôi ba người bên cạnh những túi hàng hoá đã được dở xuống, hoặc chăm sóc bầy lạc đà đang nhở nhơ tư lự, mắt lim dim mơ ngủ và phe phẩy đuôi xua lũ ruồi nhặng lúc nào cũng vo ve xung quanh. Cũng như người thương nhân già, họ khoác lên mình một tấm áo choàng trắng nặng nề đã bị gió cát làm cho tả tơi và bặc màu. Tất cả bọn họ đều im lặng, đó là sự im lặng nặng nề và trầm mặc của những kẻ đang chìm trong suy tư. Và họ cũng ngắm hoàng hôn, khi Mặt trời dần buông xuống trong lúc toả ra những dãy ánh sáng từ vàng cam đến đỏ quạch, loang ra trên nền trời xanh bị bóng tối nhuộm màu thành xám thẫm.
Vài ngôi sao đã le lói chớp tắt ở những góc xa nhất khi trăng non vừa hiện, trắng muốt và trong suốt như thể một mảnh lụa mỏng được cắt ra và đặt lên tấm khăn choàng đan xen những sắc màu từ dữ dội đến lạnh lẽo.
- Hoàng hôn trên hoang mạc lúc nào cũng kéo dài.- Người thương nhân già cất tiếng, giọng ông ta khào khào và yếu ớt. Khi nói, cái miệng nhăn nheo ông ta chỉ khẽ nhúc nhích một cách mệt mỏi, như thể chỉ việc nói thôi cũng đã tốn quá nhiều công sức rồi và ông ta cần phải tiết kiệm năng lượng.- Nếu cậu là một kẻ du hành từ phương Đông sang phương Tây và phải băng qua chốn này, thì đôi khi cậu sẽ có cảm giác rằng Mặt Trời sẽ không bao giờ lặn xuống. Và dù bóng tối đã bao trùm thế gian, thì ở chân trời luôn có một dãy sáng trắng le lói, nơi mà đêm đen và những vì sao cũng không thể chạm tới được. Mặt Trời ngự trị ở đó, thao thức suốt mọi đêm dài và lạnh lẽo của hoang mạc, kiên nhẫn chờ đợi để lại bùng lên dữ dội, thiêu đốt thế gian thêm một lần nữa trong vô số lần, cho đến khi vạn vật trở thành cát bụi... Rất nhiều thương nhân tin rằng, cát trong hoang mạc chính là những gì còn sót lại của các sinh vật sống đã không thể vượt qua chốn này. Vì vậy chúng tôi luôn mang theo một túi nhỏ, chứa đầy cát ở hoang mạc và trước khi khởi hành, cũng như trong thời điểm hiểm nghèo, tất cả sẽ cầu nguyện với những linh hồn đã từ bỏ xác thịt tại đây, mong họ phù hộ và dẫn lối cho mình...
- Nhưng chẳng phải các thương nhân đã băng qua hoang mạc cả trăm năm nay rồi sao? Các ông biết cách nhanh và an toàn nhất đúng chứ?
Lão già chậm rãi mỉm cười và lắc đầu, lấy một vốc cát rồi chà sát nó trong hai bàn tay, lão nhìn hắn bằng đôi mắt nặng trĩu thời gian.
- Đôi khi kiến thức chẳng giúp ích gì cả, đôi khi có vài thương nhân trẻ nghĩ mình biết hết tất cả mọi thứ trên đời. Họ cầm theo một tấm bản đồ với la bàn rồi đi theo đúng hướng được vạch ra trên đó. Họ cho rằng mình chỉ mất mười ngày để băng qua hoang mạc, nhưng họ đã đi hai mươi ngày mà vẫn chẳng thấy đâu là điểm kết thúc của những đụn cát. Không hiểu sao mọi dự đoán và tính toán đều trở nên sai lệch, những trạm dừng biến mất, các chỗ nghỉ bỗng nhiên nằm ở vị trí khác. Bản đồ và la bàn trở nên vô dụng, thức ăn cạn dần và những con lạc đà thì sắp chết vì khát. Trong giờ phút đó, họ sẽ lấy cái túi nhỏ lúc nào cũng mang theo và múc đầy cát của hoang mạc, họ sẽ đổ hết số nước dự trữ của mình vào trong đó; tưới đẫm những linh hồn bằng sự sống, thứ quý giá duy nhất mà họ còn lại. Và họ sẽ cầu nguyện để được chỉ lối thoát khỏi chốn này. Họ chờ đợi cho đến khi cát trong túi bị cái nóng làm cho khô kiệt, rồi họ sẽ nâng cao cái túi lên bằng hai tay, trút ngược nó xuống để cát rơi hết ra ngoài. Dòng cát bị gió thổi theo hướng nào thì họ sẽ đi theo hướng đó, vừa bước vừa không ngừng cầu nguyện rằng mình đi đúng hướng...- Dừng lại một chút để lấy hơi, lão già nhồm nhoàm gì đó trong miệng khi vẫn nhìn hắn rồi lại chậm rãi nói tiếp.- Thương nhân chúng tôi luôn tính toán mỗi thương vụ của mình, chi li đến từng đồng xu lẻ; chúng tôi cũng lập kế hoạch cụ thể trước và sau mọi chuyến đi, kỹ càng đến từng vật dụng mang theo bên mình. Nhưng chúng tôi hiểu rằng, có những sự vận động đứng trên mọi hiểu biết của con người và toà tháp cao nhất mà chúng ta có thể xây cũng không là gì so với các vì sao luôn ngự trị trên bầu trời.
Hắn im lặng chiêm nghiệm lời nói của người thương nhân già. Hắn tự hỏi nếu mình đòi thì lão có lấy cái túi cát ra cho hắn xem hay không? Nếu hắn giật lấy cái túi và trút cho cát rơi hết ra ngoài thì liệu lão có nổi giận? Liệu bọn họ có điên lên và giết chết hắn vì hắn đã báng bổ niềm tin của họ? Hay lão sẽ phá ra cười rồi lại múc đầy cát lại như cũ, chẳng phải đây là hoang mạc và hoang mạc thì lúc nào cũng có cát sao. Vì sao cát dưới chân hắn lại không thiêng liêng bằng cát đựng trong một cái túi nào đó? Càng nghĩ hắn càng tin chắc lão sẽ chẳng bực tức gì nếu hắn có làm như thế thật.
Nhưng tại sao hắn lại muốn làm thế? Hắn nghĩ niềm tin của lão là điều nhảm nhí chăng? Hắn muốn thấy lão khổ sở đến thảm hại hay cuồng nộ la hét, chẳng còn cái dáng vẻ tự tin hiểu biết như lúc này nữa. Hay hắn muốn khiêu khích lão, đúng hơn là muốn xem thử đức tin của lão sẽ như thế nào nếu bị thách thức. Nhưng vì sao hắn lại muốn khiêu khích? Có phải câu chuyện của lão kích thích cái gì đó ở bên trong hắn? Một vết thương sâu xa hay một khoảng trống mà hắn vẫn chưa thể lấp đầy. Vào thời điểm mà lão sẽ nắm chặt cái túi cát của mình và thành tâm cầu nguyện thì hắn lại chẳng có gì trong tay. Và dù niềm tin ấy có vô nghĩa thì lão sẽ vẫn tốt đẹp hơn hắn, sẽ được hưởng bình yên và dễ chịu nhiều hơn hắn rất nhiều. Hắn biết như thế và hắn bực tức vì điều đó chăng?
Là lão khiêu khích hắn trước phải không? Lão cố tình hoặc vô ý chạm vào điểm nhạy cảm bên trong hắn. Phải chăng mọi chuyện là như vậy? Hay hắn đã chạm vào điểm nhạy cảm bên trong lão trước, chỉ bằng cách tồn tại mà không tin vào bất kỳ điều gì dưới gầm trời này.
- Tôi thấy cậu đang có rất nhiều suy tư...- Lão già cất tiếng, như thể đọc hết mọi ý nghĩ trong đầu hắn.- Hoang mạc luôn thử thách con người, không chỉ về thể xác mà cả tinh thần. Nó khiến cho những sợ hãi vu vơ trở nên to lớn và dệt những giấc mộng hoang đường thành sự thật, nhưng lúc tới gần thì sự thật đó lại là ảo ảnh...
- Vậy tôi phải làm sao?
- Cứ tiếp tục!- Lão già phẩy tay nhẹ nhàng.- Xem mọi thứ sẽ dẫn tới đâu!
Hắn gật gù nhìn quanh một lúc rồi hỏi.
- Nơi đây là chốn nào?
- Đây từng là một trong nhưng vương quốc vĩ đại nhất từng tồn tại trên mặt đất. Người gọi nơi này là Kalipa-matra, theo ngôn ngữ cổ của người Phương Đông nó có nghĩa là "Dãy lụa của cát bụi".
- Vậy chuyện gì đã xảy ra với nó?
Lão già khẽ nhếch mép rồi quay đầu lại ngước nhìn lên toà tháp sau lưng.
- Đó là một câu chuyện dài, nếu kể ra có thể mất cả đêm. Cậu muốn nghe chứ?
Hắn gật đầu.
- Dù sao tôi cũng chẳng có gì khác hay hơn để làm.
Lão già thở ra một hơi, khẽ khàng nuốt nước bọt. Rồi lão im lặng một lúc lâu, cái im lặng thường xuất hiện trước một câu chuyện dài. Người ta cần thời gian để gợi lại những hồi tưởng, sắp xếp các sự kiện và nghĩ xem nên kể cái gì trước, cái gì sau. Trong khi lão suy nghĩ thì hắn sửa lại tư thế ngồi cho ngay ngắn, trải đôi mắt mình về phía chân trời, nơi vầng Dương vẫn đang toả ra những lưỡi lửa êm dịu. Rồi lão bắt đầu cất giọng, bằng một thứ ngôn ngữ trao chuốt và khác lạ, có lẽ trước đây lão đã kể câu chuyện này rất nhiều lần cho rất nhiều người nghe, mỗi lần lại gọt dũa cho nó thêm đẹp đẽ và bi thương hơn trước. Để đến một lúc nào đó, chính bản thân lão cũng đắm chìm vào nó, say sưa với giọng nói và ngôn từ của mình.
- Như mọi câu chuyện thần kỳ và khủng khiếp khác, chuyện về sự khởi sinh rồi suy tàn của Kalipa-matra chứa đầy những tin tưởng, hy vọng cũng như suy đồi và tàn bạo. Dĩ nhiên nó cũng là một câu chuyện về tình yêu, sự sống và cái chết. Tuy đã xảy ra cách đây hai trăm năm nhưng mọi tiết của nó vẫn không có gì đổi khác so với ngày nay; bởi vì con người dường như chẳng bao giờ đổi thay, chẳng bao giờ tốt đẹp hay xấu xa hơn trước. Những bị kịch và hài kịch cũng chẳng bao giờ mới mẻ hoặc cũ kỹ, mà luôn lặp lại như bốn mùa tuần tự đổi thay. Sự sai biệt cũng không gì hơn ngoài việc có những thứ xảy ra quá sớm, vài thứ khác lại đến quá muộn màng. Câu chuyện về Kalipa-matra được bắt đầu với những đoàn lữ hành băng ngang qua hoang mạc giống như chúng tôi đây, họ cũng mặc trang phục như chúng tôi đang mặc và cưỡi những con lạc đà thồ đầy hàng như tổ tiên mình hàng nghìn năm trước...
"...trước kia, giữa hoang mạc từng có một cái giếng cổ, chẳng ai rõ kẻ nào là người đào nó, hay vì sao họ biết có thể tìm ra nước dưới lớp cát bỏng rát ở chốn này. Đó là một cái giếng đơn sơ, thành giếng đắp bằng bùn và đất sét, phủ bên ngoài một lớp bụi nâu vàng cũ kỹ; quanh đó là ba cây cọ già nua, với những tán lá to lớn và lúc nào cũng xanh mát. Giếng rất sâu, sâu đến nỗi người ta phải chập ba cuộn dây lớn lại, mỗi cuộn dài tới một trăm sải tay mới có thể chạm đến nơi có nước; nước được múc lên từ giếng lúc nào cũng trong lành và mát lạnh, cái lạnh ấy có thể khiến làn da khô rát vì nắng gió trở nên tê dại, đôi khi những người ta bị sốc nhiệt vì vội vã uống hay tát nước lên mặt sau một chuyến hành trình dài mệt mỏi. Thậm chí có người đã lên cơn sốt và qua đời chỉ sau một đêm. Những thương nhân so sánh nước ở đây với thứ nước chảy ra từ các khe đá trên núi cao, hoặc nước từ những mạch ngầm trong lòng các hang động đá vôi, được ủ hàng nghìn năm trong bóng tối.
Qua thời gian, cái giếng trở nên nổi tiếng với các thương nhân phải băng qua hoang mạc, bởi lẻ đây là điểm tiếp nước duy nhất trong chặng hành trình dài và nguy hiểm này. Mọi đoàn lữ hành đều ghé lại, họ cột lạc đà bên gốc cây cọ, trải thảm dưới tán của chúng. Các thương nhân ngồi cạnh nhau nghỉ ngơi, chuyền tay từng vốc nước mát lạnh; mỗi người cẩn trọng uống từng ngụm nhỏ với sự biết ơn và lòng kính sợ, bởi hơn ai hết họ hiểu rằng phước lành giữa cơn bĩ cực cũng có thể là tai hoạ đang ẩn mình.
Thương nhân rất quan trọng nơi mình ngồi xuống, đối với họ bất cứ nơi nào được chọn để ngồi đều trở thành một gian hàng, một điểm trao đổi thông tin... Nên họ luôn để dành những tấm thảm quý giá nhất cho bản thân. Chúng là một phần con người của họ, sự nối dài của tâm hồn và thể xác để kết nối và mời gọi người khác. Mỗi tấm thảm là một tác phẩm được chế tác cực kỳ công phu và tinh xảo. Trên thảm điểm xuyết những hoa văn kỳ ảo, những biểu tượng thần bí, những khung cảnh tráng lệ trong thần thoại được miêu tả sinh động, những hình ảnh về thú vật, con người, thần thánh và quỷ dữ. Chúng mang những màu sắc rực rỡ, đôi khi còn điểm thêm các sợi chỉ bằng vàng và bạc lấp lánh. Khi các thương nhân gặp nhau, sau những lời chào hỏi cũng như trong lúc trò chuyện, họ luôn chú ý tới tấm thảm của người đối diện; qua đó phán đoán về tính cách, quan điểm, đức tin và quan trọng nhất là tình trạng tài sản của người đó.
Cái tên Kalipa-matra cũng bắt nguồn từ đây, nơi những đoàn lữ hành trải thảm giữa hoang mạc và ngồi nghỉ ngơi, trò chuyện bên đống lửa. Đó chính là "Tấm thảm của cát bụi", tấm thảm của hoang mạc vĩ đại. Ngồi trên thảm các thương nhân chia cho nhau lương thực, trao đổi tin tức hằng ngày, truyền đạt kinh nghiệm từ những thương vụ đã trải qua; họ than vãn về con cái, nói về đức tin và quê hương của mình; họ kể những câu chuyện nghe được hoặc đã chứng kiến, họ bịa đặt cũng nhiều như họ đã thú tội vậy; rồi họ cũng lẫn lộn những lời bịa đặt và thú tội của chính mình, để rồi trở thành một kẻ vừa ngây thơ mà cũng vừa gian xảo như tất cả những thương nhân trên cõi đời.
Qua thời gian, nơi này lại càng đông đúc hơn. Rất nhiều thương nhân đã kết luận rằng, một cuộc gặp gỡ giữa hoang mạc còn đáng giá hơn cái thương vụ mà mình đang theo đuổi, bởi lẽ ở đây họ tiếp xúc với rất nhiều người khác nhau, đến từ khắp nơi trên thế giới. Thế nên nhiều đoàn lữ hành đã đi vào hoang mạc chỉ để đến được chốn này, họ trao đổi hàng hoá, nghe ngóng mọi chuyện, tìm những mối quan hệ mới và tạo ra các thương vụ đầy hứa hẹn.
Dần dần họ nhận ra rằng mình đã luôn khát khao một nơi chốn như ở đây, Kalipa-matra nằm ngoài vòng vây quyền lực của giới quý tộc và các chức sắc tôn giáo. Nơi này không bị dòm ngó bởi đôi mắt của một nhà vua anh minh hay một kẻ độc tài, vì đối với các thương nhân cả hai điều đó đều nguy hại như nhau, cũng như mọi sự công bình và vô lý của thế gian tuỳ thời điểm đều có thể gây hại hoặc làm lợi cho những vụ mua bán. Ở đây họ cũng không bị phán xét bởi các chức sắc tôn giáo, những kẻ luôn canh chừng giới thương nhân như con chó săn canh chừng loài lang soi, không cho chúng động vào bầy cừu của mình. Các thương nhân bắt đầu lan truyền tin tức về Kalipa-matra một cách kín đáo nhưng nhanh chóng, họ ý thức được rằng chốn này chỉ thật sự có giá trị khi nó được giữ bí mật, tránh xa tầm ảnh hưởng của cả hai chính quyền, thế tục lẫn tinh thần.
Chẳng mấy chốc, một đoàn lữ hành nghĩ đến chuyện ăn ở lâu dài tại hoang mạc đã dựng lên hai cái chòi cạnh giếng, rồi ngay lập tức ba cái chòi khác mọc lên. Người ta căng lều bạt, bày hàng hoá ra rồi ngồi giữa chúng, hồ hởi mời gọi với những nụ cười không tắt trên đôi môi. Họ lưu lại hàng tháng trời, say sưa với chốn này như gã tình nhân say sưa nằm trên chiếc giường của người thiếu nữ mà hắn hằng thèm khát. Khu chợ đã được hình thành như thế, một nơi mà kẻ mua lẫn người bán đều là thương nhân. Khắp nơi trong chợ là những bộ râu lâu ngày không được cắt tỉa, bờm xờm và bẩn thỉu; những thân thể không được tắm rửa, bốc mùi trong cái hơi nóng tàn độc của hoang mạc luôn luôn hun đúc. Không khí nồng nặc thứ mùi như mùi của những con cá bị ươn trong lúc phơi khô, bám vào mọi thứ xung quanh, ám lên cả lều trại. Nhưng chẳng ai buồn bận tâm đến điều đó, họ quên cả ngày đêm, quên luôn giờ giấc. Họ si mê thứ tự do mới mẻ này, như con chim bị nhốt lâu ngay trong lồng bỗng nhiên được thoát khỏi cái chuồng đã giam hãm mình.
Những câu chuyện biến thành những cuộc trao, những cuộc trao đổi biến thành những cuộc mua bán, những cuộc mua bán lại biến thành những thương vụ. Cứ thế, cứ thế quy mô của Kalipa-matra tăng lên chóng mặt.
Mọi thứ diễn ra rất tự nhiên, như thể nước bị kéo về chỗ trũng dần trở thành ao hồ. Những thương nhân lưu lại quá lâu đã hết sạch lương thực, thế là họ phải trao đổi với người khác. Rồi sau đó, có vài người nghĩ tới chuyện phục vụ cho nhu cầu ăn uống hằng ngày đang mỗi lúc một tăng tại Kalipa-matra. Họ chất đầy lương thực, thực phẩm lên lưng mười con lạc đà rồi dấn thân vào hoang mạc, bán chúng với giá cắt cổ ở chợ, nhưng vì nhu cầu quá cao, nên chỉ năm ngày là tất cả đã hết sạch.
Thế là họ tính đến việc dựng một quán ăn kiên cố và buôn bán hẳn hoi ở đây với thực phẩm luôn được tiếp tế đều đặn mỗi mười ngày. Vài ngôi nhà bắt đầu mọc lên một cách chậm chạp và khó khăn, vì tất cả nguyên vật liệu đều phải được thồ trên lưng lạc đà và mất mười ngày mới tới được điểm tập kết, khiến chi phí xây một ngôi nhà nhỏ đội lên gấp hai mươi lần bình thường, ngang với chi phí của một lâu đài nhỏ. Đó là chưa kể họ phải đảm bảo sự liên tục của các chuyến hàng chuyển nhu yếu phẩm sau khi đã xây dựng xong quán ăn. Nhưng tất cả mọi người đều tin chắc mình có thể lấy lại vốn nhanh chóng, vì thương nhân trên khắp thế giới đang kháo nhau về Kalipa-matra và họ sẽ kéo tới ngày một đông hơn, mang theo vô số hàng hoá cùng của cái của thế gian.
Đó là một vụ đầu tư đòi hỏi vốn liếng lớn, nhưng cũng là một vụ đầu tư mà không ai nghĩ rằng sẽ thất bại!
Trong vòng nửa năm, năm lữ quán đã mọc lên. Ban đầu, các lữ quán chỉ bán lương khô hoặc các món đơn giản với giá đắt gắp mười lần bình thường, nhưng rất nhanh chóng người ta chuyển cả củi và dầu tới để nấu nướng, xây hẳn một cái lò bánh mỳ và chẳng mấy chốc các thùng rượu đã chất đầy hầm chứa. Thời ấy, những thương nhân nghèo hoặc trung lưu vẫn bằng lòng với thứ lương khô đạm bạc, được bán ở cửa sau của lữ quán. Nơi người ta chìa tiền vào một ô cửa lùa và nhận được một miếng thịt bò muối cứng ngắc hoặc vài mẫu bánh mỳ khô. Chỉ có những người giàu có và thế lực nhất mới dám vào quán ngồi ăn, vì giá của mỗi món trên thực đơn được tính bằng vàng, còn rượu thậm chí không được định giá cụ thể mà phải thoả thuận riêng cho từng thùng một và thực khách phải mua đứt cả thùng nếu muốn uống rượu. Nhưng ngay cả thế, các bàn ăn luôn chật ních người và mỗi bữa ăn đều ê hề rượu thịt đến mức thừa mứa. Vài thương nhân giàu có đôi khi vào quán trong cơn hân hoan, gọi hết tất cả các món trên thực đơn, mua ba bốn thùng rượu lớn rồi mời tất cả mọi người vào ăn với mình dù họ là ai. Bởi người ta không chỉ gọi món để thoả mãn bao tử của mình, không chỉ mua rượu để giải khát và say sưa, họ còn muốn sự kính sợ cũng như nể phục từ bạn bè và những kẻ xa lạ. Các thương nhân vung tiền mua địa vị cùng sự tôn trọng của người khác, thứ mà họ luôn thèm khát bấy lâu, bù đắp cho cái mặc cảm thấp hèn đã luôn đè nặng trong suốt cuộc đời. Bởi ở ngoài kia, dù giàu có đến mức nào đi nữa thì người ta vẫn nhìn tầng lớp thương nhân bằng ánh mắt khinh thường; vì hàng trăm năm qua triều đình coi họ là bọn trộm cướp xảo quyệt, còn giáo hội răn đe họ là tay sai của quỷ dữ.
Trên bàn ăn, giữa các cuộc vui vì một thương vụ thành công hay trong khi thì thầm bí mật chuẩn bị cho một âm mưu ghê gớm, các thương nhân thưởng thức những bữa ăn ngon lành nhất. Những món ăn chế biến cầu kỳ, những dẻ xương sườn ngon lành, những tảng thịt với các vân mỡ đẹp như vân trên đá quý; vô số loại phô mai, xúc xích được tẩm ướp các hương liệu đắt tiền, món trứng cá quý giá đến từ những dòng sông ở phía Tây, hàng thứ trăm gia vị từ những hòn đảo Nhiệt đới ở vùng biển phương Nam, những loại nấm đắt đỏ chỉ xuất hiện theo mùa, những lọ mật ong thượng hạng, những viên kẹo kỳ diệu với các mùi vị mà con người chỉ có thể hình dung ra trong mơ. Sữa chua từ dê núi được phết vào bánh mỳ làm bằng loại lúa mạch chỉ dành riêng cho quý tộc, chà là ngọt lịm cùng hàng chục loại trái cây khô khác để ăn kèm, các thứ rượu thơm lừng đã ủ hàng chục năm được vận chuyển tới từ các vùng xa xôi nhất...
Ở Kalipa-matra họ pha sữa bò rừng với rượu mạnh, rồi trộn chúng cùng lòng đỏ trứng đã ướp mật ong trong mười ngày, thêm những loại thảo mộc và bột gia vị bí ẩn của Phương đông. Đánh hỗn hợp ấy lên rồi đun sôi cho đến khi một đám mây bọt màu nâu sữa thơm lừng và ngọt ngào xuất hiện. Rót chất lỏng đẹp đẽ ấy ra một cái vại, rắc thêm một ít trái cây khô cùng hạt vừng giã nhuyễn lên bề mặt. Và đó là Mynai "thức uống của linh hồn" như các thương nhân vẫn gọi, thứ đặc sản của Kalipa-matra, cũng là thức uống đắt đỏ nhất trên thế gian. Không chỉ vì những nguyên liệu quý hiếm và công thức phức tạp của nó, mà còn bởi vì chỉ có thể uống Mynai tại chính Kalipa-matra, sau chuyến trên hoang mạc kéo dài mười ngày. Trong các lữ quán thời bấy giờ, một vại Mynai chính xác bằng một vại vàng ròng.
Lương thực, thực phẩm được chuyển tới càng lúc càng nhiều nhưng chẳng bao giờ là đủ. Các lữ quán được mở rộng với tốc độ chóng mặt, từ quán ăn chúng biến thành nhà trọ với các dãy phòng đẹp đẽ và kín đáo rồi dần dần kiêm luôn cả nhà chứa như một như cầu hết sức tự nhiên của con người. Gái điếm được phục sức và ăn mặc lộng lẫy như những công chúa của các vương quốc, họ thường giấu sống mũi và đôi môi khêu gợi sau tấm mạng che mặt, chỉ chừa lại ánh mắt hút hồn chết người. Những cô gái lướt qua các dãy hành lang vắng vẻ của những căn phòng, quấn mình trong trang phục tinh tế và đẹp đẽ, vạt áo lấp lánh di chuyển trên sàn nhà. Họ không chỉ rành rẽ chuyện chăn gối và biết hết mọi tư thế trên giường. Họ còn hát, đánh đàn, đọc những đoạn thơ đẹp đẽ từ các sử thi và truyện cổ. Họ kể cho khách hàng của mình những câu chuyện được nghe từ những người khách khác, những bí mật thầm kín mà vô số đàn ông đã lỡ lời tiết lộ giữa cuộc truy hoan cuồng dại hay trong giây phút thư giãn sau trận làm tình dữ dội. Bởi đó là khi mà người đàn ông cứng rắn nhất cũng trở nên mềm yếu và mong manh, khi họ cảm thấy bất lực trước một người đàn bà tuyệt mỹ và diễm lệ. Dần dần chủ các lữ quán thành những gia tộc giàu có nhất, họ cũng biết hết mọi chuyện xảy ra trên đời và dính dáng vào tất cả mọi thứ. Mọi người đều tôn trọng và có phần khiếp sợ họ.
Thế là cùng với sự phát triển và mở rộng của khu chợ, các lữ quán cũng có quyền lực và sức ảnh hưởng mạnh mẽ hơn. Mọi thương nhân đều xem Kalipa-matra là thánh địa và năm lữ quán trở thành những thần điện, nơi vàng bạc châu báu được tôn thờ, được hoang phí và được chà đáp với tất cả lòng sùng kính cũng như sự báng bổ.
Đó là khoảng thời gian mở đầu cho thời hoàng kim của Kalipa-matra. Xung quanh chợ, vài người đã bắt đầu xây nhà ở, số lượng nhà nhanh chóng tăng lên khi nhu cầu mua bán, trao đổi phát triển chóng mặt. Các lữ quán được mở rộng liên tục, ngày một tráng lệ và xa hoa hơn. Các căn phòng được ốp gỗ quý và phủ đầy lụa là, những cái gối nhét lông bồ câu trắng muốt, chiếc giường nằm được dát vàng, mành cửa được kết ngọc trai, những bát đựng trầm hương được làm từ ngọc thạch và trên trần đại sảnh là một chùm đèn khổng lồ, kết bởi pha lê cùng những viên đá quý đủ màu, trong đó các ngọn nến được làm từ mỡ cá vọi và long diên hương, toả ra một thứ mùi dễ chịu cùng dãy ánh sáng lấp lánh vô vàn sắc màu. Những hầm tích nước được đào dưới lòng các lữ quán và phía trên, một khu vườn được xây dựng với thảm cỏ, hàng cây cắt tỉa thành hình hài những con vật, vô số loài hoa quý nở rộ quanh năm và một đài phun nước tráng lệ trang trí bằng những bức tượng sinh động.
Hàng ngàn nô lệ đã được chuyển tới thành phố để xây dựng các công trình và phục dịch những công việc hằng ngày, ở Kalipa-matra họ được cho ăn uóng đầy đủ và đối xử tốt miễn là đáp ứng được nhu cầu công việc. Bởi lẽ thành phố thừa mứa tất cả mọi thứ quý giá trên đời, đến mức có thể phung phí chúng cho những cư dân mạt hạng nhất.
Người ta kể rằng ở Kalipa-matra vào những ngày ấy, nếu hoà mình vào khu chợ ta có thể tìm ra mọi thứ trên đời. Từ những viên kim cương thô to bằng nắm tay ở các mỏ quặng phía bên kia đại dương, những vương miệng và quyền trượng đính đầy đá quý bị đánh cướp của các vương triều đã tàn lụi, những thứ nước hoa với mùi hương kỳ dị có thể làm cho người ta hứng tình đến điên dại, những loại bột rắc bí ẩn, những lọ thuốc được chế biến từ các con vật lạ lùng, những bộ da của loài hổ sống trên các đỉnh núi tuyết, những hũ chất độc có hương vị ngon lành và ngọt ngào như mật ong, những chiếc sừng kỳ lân có khả năng mang đến may mắn, những chiếc ngà voi khổng lồ, những chiếc nanh rồng hay lông vũ từ cánh của phượng hoàng, những loại vũ khí quái đản, những quyển sách bị cấm, những món đồ chứa ma thuật có thể khiến người trở nên giàu có chỉ sau một đêm, những vật bị nguyền rủa làm cho ai sở hữu phải chịu tai hoạ hơn cả cái chết. Ta còn có thể mua mọi thông tin mình cần, có thể biết vị vua của Đế chế thích ăn gì trong buổi tối, chuyến hải trình hoàng gia chất đầy vàng ròng khi nào khởi hành, cuộc chiến tranh giữa hai vương quốc láng giềng bao giờ sẽ xảy ra, ai sẽ nhận lãnh nhiệm vụ chỉ huy, họ sẽ huy động bao nhiêu quân...
'Chỉ cần anh nghĩ tới điều gì thì ở Kalipa-matra sẽ có thứ đó, chỉ cần anh cất tiếng hỏi thì ở Kalipa-matra sẽ có người biết được câu trả lời.' Những thương nhân thì thầm câu nói ấy như một lời cầu nguyện, họ quỳ mọp trên thánh địa, run rẩy và sợ hãi khi lần đầu tiên được chiêm ngưỡng nó, rồi trở nên sùng kính và điên cuồng kiếm lời càng nhiều càng tốt khi đã quen với nó. Vì ở Kalipa-matra tất cả đều có thể mua, có thể trao đổi và thương lượng được. Nhưng thứ cấm kỵ và đáng thèm khát được bày bán công khai, thoải mái, hệt như cá thịt hay bánh mỳ vậy.
Cũng từ đó mà các thương nhân bắt đầu lưu truyền một cái tên khác cho Kalipa-matra, họ gọi nó là 'Thánh địa của vàng bạc và châu báu'..."
Người thương nhân già thở ra một hơi dài, đôi mắt của lão sau một lúc lâu đóng đinh trên khoảng tường thành lẻ loi giờ bắt đầu chuyển động, ngơ ngác liếc nhìn xung quanh như thể một kẻ vừa tỉnh dậy từ cơn mộng đẹp và vẫn còn choáng ngộp bởi những ánh hào quang đã trôi xa. Hệt như cái cách mà vầng Dương biến mất trên nền trời và mặt trăng cùng những vì sao đang lặng lẽ dạo chơi giữa cánh đồng bóng tối hoang vu, thăm thẳm. Nhưng đúng như lời lão nói, vẫn còn một góc nhỏ nơi chân trời thấp thoáng vài dãy sáng trắng nhạt nhoà, kiên nhẫn chờ đợi màn đêm qua đi.
Hắn nhận ra những thương nhân khác đã tập trung lại quanh mình và lão già, chăm chú lắng nghe câu chuyện từ bao giờ. Họ trầm ngâm bên đống lửa, kính cẩn nuốt lấy từng lời lão thốt ra; dù hẳn đã nghe câu chuyện vô số lần, nhưng với họ nó lúc nào cũng mới mẻ và tuyệt diệu. Các thương nhân đắm chìm trong những huyễn cảnh về sự giàu sang và rực rỡ của Kaliapa-matra quá khứ, để rồi âm thầm khóc thương cho nỗi điêu tàn của nó vào lúc này. Họ đau đớn bằng ánh mắt đăm chiêu trống rỗng, bằng tiếng thở dài tư lự và bằng cả những lời thì thầm buồn bã.
Người thương nhân già đứng dậy, lão khẽ vươn vai và rùng mình rồi chậm rãi bước về phía đàn lạc đà, nơi có một cậu bé mười lăm, mười sáu tuổi đang chăm sóc chúng. Lão nói gì đó với thằng bé, rồi đưa tay vuốt cái bướu của một con lạc đà, điệu bộ như thể tiếc nuối điều gì. Có lẽ lão cần một khoảng nghỉ, sắp xếp những tình tiết tiếp theo, vun vén ngôn từ cho cái kết. Hơn nữa, chính hắn cũng cần phải nghỉ ngơi và để có thời gian chiêm nghiệm về những điều mình vừa được nghe. Bởi lẽ bí quyết của một câu chuyện hay không chỉ nằm trong nội dung của nó, mà còn là những khoảng lặng để các thính giả có thời gian hồi hôp chờ đợi điều sắp xảy ra ra; hoặc trong trường hợp này là ngẩn ngơ trước sự cách biệt giữa hai thế giới, một là nơi họ đang sống và một là nơi họ được nghe kể.
Hắn bỗng thắc mắc chẳng biết cái giếng đang nằm ở đâu giữa đống hoang tàn xung quanh? Hay nó đã bị vùi lấp dưới một đụn cát nào đó và mãi mãi biến mất khỏi tầm tay con người, trở thành biểu tượng cho những vinh quang quá vãng. Cái giếng là khởi nguồn cho mọi huy hoàng rực rỡ của Kalipa-matra giờ ở đâu? Liệu điều kiến tạo nên một vương quốc có huỷ diệt chính vương quốc ấy khi nó đã vươn tới đỉnh cao? Có thể lắm chứ! Và nói cho cùng, chẳng phải mọi sự trên đời luôn diễn ra như vậy hay sao? Rằng người ta không bao giờ chết vì điểm yếu, họ luôn chết bởi điểm mạnh của mình. Khi thời gian qua đi, mọi lý tưởng cao đẹp cùng những người hùng vô nhiễm đều phải đau đớn, quằn quại trong cái kiếp sống tầm thường của thế gian; thứ không hề tàn nhẫn như người ta vẫn nghĩ, mà vốn dĩ vô cùng dửng dưng.
Hắn ngước lên nhìn toà tháp đổ nát rồi lại nhìn một lượt xung quanh và ánh mắt hắn bất chợt đông cứng lại trước một cô gái trẻ. Cô ngồi với ba người nữa và tất cả đều là phụ nữ trung niên, bọn họ cũng mặc áo choàng trắng như các thương nhân khác và chẳng phục sức gì. Mọi dấu hiệu giới tính của cô đều bị tấm áo choàng dày che mất, chỉ mỗi khuôn mặt tuyệt mỹ lộ ra với đôi mắt mở to, lấp lánh ánh sáng của những dòng sông tinh tú trên bầu trời. Sự tráng lệ ấy được che đậy sau rèm mi dày và tô điểm bởi hàng lông mày thanh tú. Cái nhìn trống rỗng của cô chẳng đặt vào bất cứ điều gì, nó như vẫn còn lưu luyến những ảo mộng đã mất của Kalipa-matra. Và cũng từ đôi mắt tuyệt diệu ấy nhỏ xuống một dòng lệ trong veo, chạy song song với sống mũi thanh tao và lấp lửng phía trên làn môi mọng đang phập phồng hé mở, thấp thoáng chút đau thương, tiếc nuối và cả si mê lẫn giận dữ. Tất cả những xúc cảm ấy dường như bị cô đặc trên đôi môi cô, vĩnh viễn không bao giờ có thể thốt ra được, vì ý nghĩa của nó đã vượt xa những gì mà ngôn từ có thể miêu tả.
Trong một giây hắn có cảm giác khuôn miệng của mình cũng đang hé mở theo cô, mắt hắn bất giác cay xè, lồng ngực nhói lên. Có phải đây chính là cảm giác của cô lúc này? Hắn tin chắc là thế, rằng hắn hiểu điều cô đang cảm thấy; giá mà hắn có thể kể thành lời cảm giác ấy cho cô nghe, vì trong khoảnh khắc này cả hai đã được kết nối với nhau. Hắn ngắm cô chăm chú, cô vẫn ngồi yên như thế, mặc kệ giọt lệ của mình. Một người đàn bà trung niên thấy vậy, liền rút trong túi ra mảnh vải nhỏ màu trắng và lau nước mắt cho cô. Rồi chợt hiểu rằng cô đang chìm sâu vào ảo mộng hơn bất cứ ai ở đây, chính vì vậy nên cô mới đẹp đẽ và vô thực đến thế.
Thở dài một hơi, hắn nhắm mặt lại chờ đợi cảm giác đang khuấy đảo trong tim mình qua đi. Nhưng dù cảm xúc ấy có biến mất, thì đâu đó vẫn sót lại những dãy sáng trắng lỳ lợm nơi chân trời, kiên nhẫn chờ đợi để trỗi dậy thêm một lần nữa...
Khi hắn mở mắt ra thì người thương nhân già đã quay lại và ngồi xuống cạnh hắn, ông ta đưa cho hắn một khoanh bánh mỳ cùng phô mai. Cả hai lặng lẽ ăn trong khi một người thuơng nhân khác đun nước và rót trà ra tách.
- Chuyện gì đã xảy ra với cái giếng?
Lão quay qua nhìn hắn, trố mắt ngạc nhiên rồi chậm rãi mỉm cười.
- Tôi hỏi sai cái gì à?
- Không, không có gì sai cả! Nhưng đó là một câu hỏi thú vị.- Lão nhấp một ngụm trà mới được rót ra cho mình rồi nói tiếp.- Tôi đã kể câu chuyện này hàng trăm lần rồi, nhưng chưa ai thắc mắc về cái giếng cả!
- Vậy họ hỏi về điều gì?
- Về những vàng bạc châu báu còn sót lại, về sự tự do và xa hoa mà Kalipa-matra đã mang đến cho chúng tôi! Về mọi chi tiết của sự giàu sang, truỵ lạc hoặc ghê tớm, xấu xí ở Kalipa-matra. Nhưng tuyệt nhiên không ai buồn quan tâm tới cái giếng cả, dù nếu không có cái giếng thì mọi thứ sẽ chẳng bao giờ thành hình.
Hắn nhún vai chẳng nói gì.
- Chuyện xảy ra với cái giếng... Chuyện xảy ra với cái giếng, hừm! Một ngày kia nước trong giếng cạn kiệt, có lẽ khoảng ba tháng sau khi các thương nhân bắt đầu họp chợ ở đây, rồi ba cây cọ cũng chết dần nhưng chẳng ai buồn quan tâm đến chúng cả. Về sau toà tháp cao nhất Vương quốc được xây lên ngay tại chính nơi đó, nên toà tháp vừa là đỉnh cao nhất vừa là vực sâu nhất của Kalipa-matra.
Hắn chỉ toà tháp phía sau lưng mình.
- Có phải là ông nói toà tháp này?
Lão già gìa chậm rãi gật đầu.
Hắn chép miệng trầm ngâm một lúc rồi nhìn về phía cô gái trẻ đẹp tuyệt trần lúc nãy đang ngồi trong đám đông rồi thì thầm.
- Cô gái trẻ kia tên gì vậy?
Lão già nhìn theo ánh mắt hắn rồi cất tiếng giọng ôn tồn.
- Tôi e rằng cậu sẽ phải tự hỏi cô ấy thôi!- Lão nói về cô gái trẻ bằng một giọng cung kính đặc biệt.- Nếu thích cô ấy sẽ cho cậu biết tên. Tôi chỉ có thể nói rằng cô ấy là một người vô cùng thông minh và hiểu biết so với độ tuổi của mình. Và tất cả chúng tôi đều yêu quý cô ấy cả!
- Tôi sẽ hỏi...- Hắn nói nhỏ.
- Vậy giờ cậu đã sẵn sàng nghe kể chuyện chưa?
Lão già đặt tách trà của mình xuống rồi nhìn quanh, kiểm tra xem các thương nhân đã tập trung lại hết chưa.
- Tôi luôn sẵn sàng để nghe.
- Vậy thì... câu chuyện sẽ lại tiếp tục!
"...Kalipa-matra đã phát triển với tốc độ không tưởng, chưa từng có thành phố nào mà sự giàu sang cùng phú quý lại tới nhanh chóng đến thế, như thể định mệnh của nó là phải nhận lãnh tất cả số vàng bạc châu báu trên thế gian vậy. Trong những ngôi nhà đang mọc lên ngày một nhiều hơn, đồ đạc được mạ vàng và nạm đá quý; trên đường những con lạc đà được phục sức rực rỡ, trên yên cương các chuỗi tua rua bằng lụa đủ màu sắc, vung vẩy vui vẻ trong không trung cùng những cái lục lạc nhỏ xinh không ngừng kêu leng keng. Còn người cưỡi chúng thì như các nhà đại quý tộc, với mười ngón tay dày đặc những chiếc nhẫn, cổ thõng xuống vì vô sô vòng đeo quý giá. Và còn gì nữa? Những chiếc xe bốn ngựa kéo cùng một lúc, tay xà ích cầm trên tay một chiếc roi làm bằng gỗ quý và da trâu rừng. Một con voi thở thẩn bước, thong thả như thể đang dạo chơi trong rừng sâu, trên lưng nó là một người đàn ông trung niên với bộ râu vĩ đại và ba cô tỳ nữ trẻ trung xinh đẹp, ánh mắt họ sâu thẳm như biển cả và lấp lánh tựa sao trời. Họ cười đùa và đút cho nhau những trái nho khô cùng đủ loại bánh mứt trên đời, đắm chìm trong hoan lạc và sung sướng do của cải mang lại. Ở sân sau của lữ quán là một bầy hổ cùng sư tử đang nằm liếm láp lông cho nhau, nhìn chúng vô tư và thoải mái tựa những con mèo lớn, lười nhác sưởi nắng, bên cạnh những con khỉ được cột bằng xích vàng, những con cá sấu bạch tạng há mõm ngủ quên trên trảng cỏ kế bên một dòng sông nhân tạo rợp bóng dừa và cọ...
Sự giàu sang của Kalipa-matra không đến từ những cuộc chinh phạt, những cánh đồng phì nhiêu rộng lớn, cũng chẳng đến từ các bến cảng sầm uất, nơi đoàn tàu mỗi lần cặp bến lại chất đầy cá và san hô vừa mới được lấy lên từ đại dương. Kalipa-matra không giống như các thành phố khác, nó không cướp bóc của ai, không tạo ra bất kỳ điều gì, cũng không khai thác những sản vật trên mặt đất hay dưới biển cả; sự giàu sang mà nó có được hoàn toàn là nhờ trao đổi mua bán, của cải được tạo ra từ lòng tham không đáy và sự tò mò vô tận của con người. Đó là đầu tiên người ta chứng kiến một thành phố phát triển theo cách như vậy và cũng là lần duy nhất cho đến tận hôm nay, Kalipa-matra là viên ngọc độc nhất vô nhị của thế gian, thứ được kết tinh từ trí tuệ nhân loại, nó tượng trưng cho sự thông thái cũng như dục vọng vô bờ bến của họ.
Nhưng cũng chính tại thời khắc đỉnh cao, mà điềm báo của suy tàn đã xuất hiện, hệt như mỗi bình mình tráng lệ đều là lời nhắc cho một hoàng hôn kinh khiếp về sau. Bóng tối cũng loang đến Kalipa-matra, tựa màn đêm chậm rãi chiếm lĩnh nền trời, phủ đen từng đụn cát trắng. Người ta nhận ra, những sự ưu việt của thành phố cũng kèm theo vô số nhược điểm. Kalipa-matra đã phát triển một cách tự nhiên, không cần viện đến bạo lực hay những cuộc đàn áp, nhưng cũng chính vì vậy mà nó dễ dàng trở nên hỗn loạn. Kalipa-matra không có chính quyền, thế nên không ai đánh thuế người buôn bán, nhưng cũng vì vậy mà không ai quản lý giá cả hay an ninh trong thành phố. Kalipa-matra không có quân đội, cũng chẳng có một dãy tường thành bảo vệ; nên bất kỳ người nào cũng có thể ra vào chốn này, không ai hạch hỏi trong hành lý họ có gì, không ai phân chia giai cấp nên cũng không ai theo dõi hành vi của ai.
Và bởi tâm hồn con người luôn trở nên đen tối trước danh lợi, cũng như của cải khiến những trái tim yếu đuối bị vấy bẩn, sự chênh lệch giữa người với người sẽ kích động lòng ghen tức vốn dĩ luôn tiềm ẩn nơi bản ngã. Nên những mưu đồ hèn hạ và các giấc mộng ngông cuồng dần vẩn đục bầu không khí vốn trong sáng của Kalipa-matra, giống như nước thải từ một khu dân cư khiến dòng sông từng trong xanh trở thành hôi thối vậy.
Chẳng mấy chốc, trong khu chợ tràn ngập những kẻ lừa đảo và phường trộm cắp. Lũ vô lại lang thang khắp nơi, chúng bán trang sức rởm, mua đồ quý giá bằng tiền giả; móc túi mọi người, giở trò đạo tặc khi các thương nhân sơ hở. Chúng tung tin đồn thất thiệt khắp nơi, phá hoại các thương vụ theo yêu cầu, đánh đập người khác, thu thuế bảo kê các gian hàng trong chợ.
Bọn trộm cắp còn kéo theo lũ đâm thuê chém mướn, những tên cướp được thu phục bằng tiền bạc, chúng mang đôi mắt của loài diều hâu và sự độc ác của lũ lang sói. Lũ cướp sẵn sàng giết người mà không chớp mắt, hãm hiếp phụ nữ và bắt trẻ con làm nô lệ. Vào ban đêm, trên các con phố người ta bắt đầu nghe vang vọng tiếng rên la khủng khiếp, máu bắn ra từ các vết thương thấm ướt những mảng tường và mặt đất. Để rồi sáng hôm sau, những xác chết gớm ghiếc được tìm ra, những thân người chịu vô sổ vết chém, một cái cổ hằn sâu vết dây thừng, những bộ phận cơ thể nằm lăn lóc trong một con hẻm, đầu người vắt vẻo trên mái nhà, trôi theo đường cống...
Lúc hoàn cảnh sống trở nên ngột ngạt thì những góc khuất trong tâm hồn con người cũng lộ ra. Cướp bóc, hãm hiếp và giết chóc lan tràn như bệnh dịch, khiến các cư dân của Kalipa-matra khiếp sợ, họ giấu hết nhẫn quý cùng lụa là, châu báu trong nhà, chỉ ra đường vào buổi sáng và vội vàng khép chặt cửa khi bức màn của bóng tối bắt đầu buông xuống. Vẻ nanh ác đã dẫn hiện diện trên những con người từng được tiếng tốt lành và hào phóng, sự nghi ngại bao trùm bầu không khí khiến của thành phố, người ta hành xử một cách điên rồ và cuồng dại. Họ sẵn sàng chém giết nhau chỉ vì vài mối lo lắng nhỏ nhoi, một dấu hiệu mơ hồ. Từ 'thánh địa của vàng bạc và châu báu', người ta đã cay nghiệt nói rằng Kalipa-matra đã trở thành 'Nơi đày đoạ những linh hồn tham lam'. Nhưng tất cả cư dân không một ai nghĩ đến việc rời khỏi thành phố, họ đã bị đánh bẫy bởi sự tham lam và dục vọng của chính mình. Chẳng một thương nhân nào cưỡng lại được lợi lộc trong các vụ mua bán trao đổi, chẳng ai có thể từ chối sự tự do đến mức cực đoan của Kalipa-matra. Và dù nơm nớp lo sợ trong mỗi giấc ngủ, để rồi mệt mỏi lê lết thân người giữa ánh Mặt Trời; họ vẫn tiếp tục công việc của mình, trong khi không ngừng nguyền rủa số phận. Những con người đáng thương ấy càng ngày càng bị cuốn sâu hơn vào vòng xoáy nghiệt ngã của định mệnh mà chính bản thân họ cũng là một phần nguyên nhân.
Trong một năm rất nhiều người đã bị đe doạ, đánh đập và giết chết, nhiều nhà cửa đã bị cướp phá, đốt trụi. Nhưng bằng cách nào đó Kalipa-matra vẫn duy trì được sự giàu có của mình, khi một gia đình bị giết ba gia đình khác sẽ tới thế chỗ của họ. Các thương vụ vẫn diễn ra suôn sẻ, dù hiện này phần lớn đã bị bóp méo bởi vô số mưu đồ tàn độc, nhưng rồi cũng chính vì thế mà lợi nhuận thu được từ chúng còn tăng cao hơn trước, bởi lẽ khi người ta đã bất chấp tất cả để tìm đến tiền bạc, thì cuối cùng tiền bạc cũng sẽ đáp lời họ. Và dần dần gia tài của Kalipa-matra đã bắt đầu nhuốm máu của những người vô tội, cũng như chìm ngâp trong tiếng rên xiết thảm thương từ các thành phần yếu thế.
Rồi như một sự phát triển tất yếu, các thương nhân bắt đầu vũ trang và huấn luyện nô lệ để tự vệ, nhưng chính các nô lệ cũng bị chủ nhân nghi ngờ và đối xử ghẻ lạnh. Do một số nô lệ vì tham lam đã cấu kết với trộm cướp để phá huỷ chính ngôi nhà mà mình đang sống. Để đối phó, trong các đội quân tự phát này nô lệ được phân cấp theo sự trung thành, thông thường người phục vụ lâu năm nhất trong nhà sẽ trở thành chỉ huy của một nhóm nô lệ ít tuổi hơn.
Kẻ đó sẽ nắm giữ tiền bạc và lương thực phát cho binh lính mỗi tháng, đảm đương công việc huấn luyện và điều kiện ăn ở của những thuộc hạ rồi báo cáo với chủ nhân của mình mỗi tuần trăng một lần. Qua thời gian, bọn chỉ huy trở nên kiêu ngạo và tự xem bản thân đứng trên những nô lệ còn lại, rất nhiều kẻ duy trì kỷ luật bằng bạo lực tàn tệ và vô lối. Những tên khác thì ăn chặn tiền của cấp dưới, ton hót nịnh nọt với chủ nhân để được thêm lợi ích. Chúng biến bọn cùng bè cánh với mình hoặc người nhà thành cố vấn, phó tổng quản hay đội trưởng, để rồi cùng nhau mặc sắc vơ vét và hà hiếp những người dưới quyền mình. Hành vi ấy dẫn đến mối căm tức trong tầng lớp nô lệ mạt hạng, những kẻ giờ phải làm việc còng lưng mỗi ngày, đặt cược cả mạng sống và chịu điều kiện sinh hoạt như địa ngục.
Điều này dẫn đến nhiều sự phản bội, bỏ trốn hoặc đào ngũ hơn. Rất nhiều nô lệ sau khi chạy thoát đã gia nhập những băng cướp và ngay lập tức dẫn đường cho bầy lang sói vào nhà chủ nhân cũ, mượn tay chúng trả mối thù âm ỉ từ lâu. Việc tự vũ trang không hề hạn chế tình trạng bạo lực, mà trái lại còn khiến nó diễn ra ở quy mô lớn hơn, khi các băng cướp cũng bắt đầu tổ chức huấn luyện để thích nghi với tình hình mới. Giờ đây trong thành phố tràn ngập những nhóm người được đào tạo bài bản để giết nhau, họ có giáp phục, cờ xí với biểu tượng riêng và còn phát triển vô số chiến thuật để tấn công cũng như phòng thủ. Chiến trận diễn ra khắp nơi, từ quy mô vài chục người đến hàng trăm người, khiến cho xác chết chất chồng la liệt trên đường và trong sân của những ngôi nhà.
Kapila-matra đã chìm cảnh binh lửa như thế, người ta chiến đấu như thể thành phố là mảnh đất duy nhất trên thế giới này, như thể nếu thua thì họ sẽ chẳng có nơi nào để đi nữa. Người ta chiến đấu như thể Kalipa-matra là điều duy nhất có thật trên thế gian này và mọi thứ khác, bao gồm những vương quốc, những anh hùng, những con người ngoài kia đều là các ảo mộng vô thực. Như thể họ chưa từng có quê hương hay Tổ Quốc nào khác ngoài Kalipa-matra, chưa hề tin vào bất kỳ vị thần hay lý tưởng nào ngoài tiền bạc và của cải. Rằng không có gì khác biệt giữa một tên cướp ngu dốt, mù chữ được nuôi lớn bằng những mẫu thức ăn thừa với một thương nhân thông thái, giàu có đã du hành khắp thế giới; tất cả đều có cơ hội bằng nhau, khi họ siết chặt thanh kiếm trên tay và lao vào người kia với một tiếng gào ghê rợn, cho đến khi mạng sống của một trong hai bị tước đoạt và người này sẽ lấy mọi thứ mà người kia có được.
Sau này người ta gọi khoảng thời gian ấy là 'Hai mươi năm chiến loạn', đặc trưng bởi việc chiến tranh cát cứ nhỏ lẻ xảy ra khắp nơi trong thành phố. Đây cũng chính là khoảng thời gian mà năm gia tộc chủ của năm lữ quán bắt đầu thu gom tầm ảnh hưởng của mình. Với tư cách là những người giàu có, thế lực nhất; năm gia tộc này sở hữu quân đội hùng mạnh và thiện chiến nhất thành phố, lính tráng của họ không phải là nô lệ được huấn luyện, mà là những tay đánh thuê chuyên nghiệp được chọn lựa kỹ càng. Họ liên tục chiêu mộ những vị chỉ huy quân sự tiềm năng trên khắp thế giới về để phục vụ cho mình, cùng lúc với việc mở rộng các lữ quán, với những căn phòng họp, phòng yến tiện, nhà nguyện xa hoa lộng lẫy. Giờ đây cả năm lữ quán đã trở thành những lâu đài-thần điện hay vương cung-thánh đường tráng lệ. Và họ sống như những lãnh chúa trong vương quốc của riêng mình, với các nhà cố vấn về cả kinh tế lẫn quân sự.
Chính vì sự hùng mạnh ấy mà rất nhiều thương nhân đã đến để cầu xin sự giúp đỡ của họ, những con người trong thảm cảnh sẵn sàng quỳ mọp dưới chân một ông chủ đầy quyền thế, kẻ có thể giải quyết rắc rối cho họ chỉ bằng một cái phẩy tay nhẹ nhàng.
Và các ông chủ này luôn tỏ ra rộng lượng, sẵn sàng giúp đỡ để đổi lại một khoảng đóng gop nho nhỏ hằng năm, nhằm phát triển an ninh chung. Từ những nhu cầu cấp bách như thế, các thương nhân bắt đầu nhờ vả năm gia tộc giúp đỡ cho mình trong các vụ mua bán, đổi lại họ sẽ được chia một phần trong số lợi tức thu được. Chẳng bao lâu sau, cả năm gia tộc kiểm soát hàng trăm thương nhân giàu có, với tất cả sự kính trọng lẫn khiếp sợ từ bọn họ, tới lượt những người này lại kiểm soát hàng trăm hay hàng ngàn lữ quán, tàu buôn, cửa hàng và thương nhân trên khắp thế giới. Các gia tộc bắt đầu quy định giá cả cho các mặt hàng, quy định giờ họp chợ, duy trì các phiên gác suốt cả ngày lẫn đêm ở khu vực mình quản lý. Sự gắt gao ấy khiến cho nạn lừa đảo và cướp bóc bị đẩy lùi, nhiều băng đảng đã bị tiêu diệt không thương tiếc, số còn lại đều bị tước đi ít nhiều sức mạnh và chỉ còn hoạt động một cách lén lút với quy mô nhỏ. Đây cũng là lúc mỗi gia tộc có thể tính tới các vụ mua bán, đầu cơ với quy mô không tưởng, khi họ nắm trong tay nguồn lực và thông tin khổng lồ; với bằng ấy công cụ năm gia tộc có thể dễ dàng lũng đoạn thị trường ở mọi nước trên thế giới, làm lụn bại cả một quốc gia giàu mạnh.
Và rồi thay vì quay ra đánh lẫn nhau, chiếm vị trí độc tôn vương giả như bao nhiêu đất nước khác; giới thương nhân lại có cách nhìn nhận riêng về các giá trị trên mặt đất và dưới gầm trời này, bằng đôi mắt thực dụng họ đã đi xa hơn hết mọi Hoàng đế cùng vĩ nhân trên cõi đời và tìm ra một câu trả lời có thể cân bằng lời ích cho tất cả mọi người. Thay vì sa lầy vào một cuộc máu chảy đầu rơi vô nghĩa nữa, họ quyết định ký hiệp ướp hoà bình vĩnh viễn để cùng chung sống với nhau trong Kalipa-matra.
Địa điểm diễn ra buổi họp lịch sử này chính là tại cái giếng cổ năm xưa, nơi đã bắt đầu cho tất cả!
Từ đó người đứng năm gia tộc được gọi là 'Ngũ đại', năm người này sẽ họp một năm hai lần vào ngày Hạ chí và Đông chí để đưa ra các quyết định quan trọng ảnh hưởng tới vận mệnh lâu dài của thành phố. Đứng dưới 'Ngũ đại' là một trăm thương nhân, những người đại diện cho các gia đình mà họ quản lý. Các thương nhân này được chọn dựa theo tài sản, họ có quyền nêu ý kiến vào các cuộc hợp mặt của năm gia tộc diễn ra mỗi tháng một lần.
Và công trình đầu tiên mà 'Ngũ đại' quyết định là xây dựng một dãy tường thành bao bọc xung quanh Kalipa-matra, bảo vệ 'Dãy lụa của cát bụi' khỏi những sự xâm nhập và ô ếu từ bên ngoài. Từ đây Kalipa-matra có một quân đội chính thức là liên quân của cả năm gia tộc đang kiểm soát thành phố, mọi người muốn vào thành phố đều phải có giấy thông hành, còn việc làm sao để có được giấy thông hành và nó thật sự là gì thì không một ai biết.
Với sức mạnh mới đến từ sự hợp tác và đoàn kết của giới thương nhân, 'Ngũ đại' bắt đầu cùng nhau triển khai những kế hoặc phức tạp để thu thêm nhiều lợi nhuận cho dòng tộc và thành phố. Họ thường mua đầu cơ lương thực vào nhưng năm được mùa, rồi tung ra bán chúng với giá cắt cổ khi nông dân bị mất mùa. Đôi khi họ cùng nhau nâng giá một mặt hàng, chặn nguồn cung lại nhằm tạo ra một sự khan hiếm ảo để rồi kiếm lời từ cơn sốt ấy. Với việc nắm được nguồn hàng của gần như mọi thứ trên đời từ hữu hình đến vô hình, 'Ngũ đại' có thể làm mọi thứ mình muốn, theo mọi cách mà mình nghĩ ra, bất chấp mọi thủ đoạn và hậu quả để thu về thêm của cải cho thành phố.
Hai năm sau, sau khi đã tích góp đủ vốn liếng Kalipa-matra bắt đầu được quy hoạch và tái xây dựng bởi các kiến trúc sư đại tài trên thế giới. Hàng trăm nghìn nô lệ đã được đưa tới để xây dựng thành phố, trong chuyến đi đầu tiên hơn phân nửa số đó đã chết vì hành trình băng qua hoang mạc quá khắc ngiệt. Thế là Kalipa-matra lại điều động thêm hàng trăm nghìn người nữa, cho đến lúc đủ người thì mới thôi và họ sẽ còn bổ sung tiền bạc cùng nhân mạng liên tục bất kể chúng hao tốn đến đâu. Cho đến khi thành phố được xây dựng xong hoặc tất cả mọi của cải cùng nhân mạng trên thế gian đã bị tiêu tán hết!
Sau mười năm ròng rã, với khoảng nửa triệu người bỏ mạng thì Kalipa-matra đã được hồi sinh với diện mạo mới. Ngay lập tức nó được xem là thành phố giàu có, đẹp đẽ, rộng lớn và hùng mạnh nhất trên thế giới.
Người ta tạo ra những công trình đồ sộ, những con đường lát đá rộng lớn, những bậc thang bằng cẩm thạch trắng muốt dẫn lên vô số rường cột lộng lẫy chống đỡ những mái vòm hùng vĩ; các bức phù điêu sống động, những đài phun nước với hoạt cảnh vui tươi giữa quảng trường mênh mông. Rồi những hồ bơi rộng lớn với phòng xông hơi lúc nào cũng ngào ngạt hương hoa và các loại tinh dầu kỳ bí, một đấu trường tráng lệ mỗi ngày người ta chứng kiến hàng trăm đấu sỹ và thú dữ bỏ mạng chỉ để mua vui, một nhà hát khổng lồ mỗi đêm đều trình diễn các vở kịch cùng những màn ảo thuật từ các Pháp sư Phương Đông mà người ta chưa từng được xem ở bất cứ đâu, một thư viện lữu trữ tất cả bí mật về kiến thức của nhân loại, ở đó có sách viết bằng mọi loại ngôn ngữ, ngay cả những hệ ngôn ngữ cổ xưa tưởng chừng đã bị tuyệt diệt.
Và ở trung tâm thành phố, công trình đặc biệt nhất là một toà tháp được xây ngay trên miệng giếng cũ. Khi hoàn thành, cư dân ở Kalipa-matra coi nó là toà tháp cao nhất thế gian. Trên đỉnh tháp có một căn phòng đặt khối pha lê tự nhiên với kích cỡ bằng một con voi trưởng thành, nó được đào lên từ mỏ quặng sâu nhất ở lục địa nằm tại cực Nam Trái Đất. Mỗi đêm, nhờ một cơ chế đặc biệt bao gồm những lăng kính hội tụ phức tạp. Từ khối pha lê sẽ phát ra một dãy ánh sáng bảy màu huyền diệu, mà tương truyền rằng có thể thấy được từ cách đó hàng trăm dặm. Những thương nhân và các đoàn lữ hành gọi thứ ánh sáng lạ lùng ấy là Kiga'stra nghĩa là 'Bông hoa của hoang mạc' hay 'Ngọn hải đăng trên biển cát'. Nhờ có Kiga'stra mà từ đó không ai bị lạc khi đi vào hoang mạc nữa. Và mọi lữ khách đều thầm cảm tạ sự vĩ đại và hào phóng của Kalipa-matra vì đã dẫn đường cho họ.
Nhưng khi ngọn đèn hiệu được thắp lên, cũng chính là hồi chuông đánh thức cả thế giới. Rất nhanh chóng, tin tức về một thành phố vĩ đại bậc nhất lan ra mọi nơi. Các vị vua xem thành phố như một mối đe doạ đối với quyền lực của mình, tầng lớp tăng lữ thì đem Kalipa-matra vào những bài thuyết giảng hằng ngày, ví thành phố như hiện thận của địa ngục, dẫy đầy tội lỗi, truỵ lạc và dục vọng. Họ tin rằng Kalipa-matra sớm muộn gì cũng sẽ bị quét khỏi thế gian, chẳng qua thần linh chỉ đang dùng nó để thử thách đức tin của nhân loại.
Các vương quốc tổ chức rất nhiều cuộc chính phạt, họ lập ra các liên minh hùng mạnh nhằm lật đổ Kalipa-matra. Những đội quân hàng trăm nghìn người tiến vào hoang mạc với lòng quyết tâm và mối căm phẫn mà chính họ cũng không hiểu bắt nguồn từ đâu, họ chỉ biết mình đến để chinh phục, đốt phá, tàn sát và huỷ diệt cho đến khi không còn gì sót lại. Nhưng không một ai thành công, đa sô sớm chết mòn vì sự khắc ngiệt của hoang mạc, số ít ỏi còn lại bị quân đội hùng mạnh của thành phố quét sạch. Rồi người ta sẽ tập hợp những tù binh bị bắt lại và thuyết phuc họ gia nhập quân đội của thành phố, những người đồng ý sẽ được đổi xử tốt và công bằng nhưng ai từ chối sẽ bị xử tử không thương tiếc. Rất nhiều tù binh đã loá mắt trước sự giàu sang của thành phố, để rồi phủi sạch đức tin, gạt bỏ Tổ Quốc và đôi khi bán đứng cả gia đình để đổi lấy của cải cùng danh vọng. Chính vì thế mà qua mỗi cuộc chinh phạt, quân đội của Kalipa-matra lại càng hùng mạnh, với thành phần bổ sung có cả những quý tộc và tăng lữ đã từng lên án nó.
Thế rồi 'Ngũ đại' bắt đầu vạch kế hoạch chinh phạt các vương quốc và thành bang lân cận với Kalipa-matra. Thêm hai mươi năm nữa, thành phố đã có cho mình hàng chục chư hầu. Đến lúc này, Kalipa-matra đã trở nên quá to lớn và hùng mạnh để có thể sụp đổ do những tác động từ bên ngoài. Nhưng cũng chính vì vậy, mà thành phố đã dần bị mục ruỗng và hao mòn bởi sức nặng của mình.
Qua ba thế hệ những kẻ đứng đầu của năm gia tộc dần trở nên kiêu ngạo, liên miên chìm đắm trong những thú ăn chơi truỵ lạc. Bởi lẽ bọn họ là những người đã sinh ra và lớn lên trong cảnh giàu sang của Kalipa-matra, họ chưa từng biết đến một thương vụ mua bán là như thế nào, chưa từng nếm trải những khó khăn khi phải cân nhắc lợi hại trước một tình huống nan giải. Họ cũng chưa từng đi ra khỏi thành phố, bởi lẽ Kalipa-matra có tất cả và cũng vượt lên trên tất cả. Và họ cũng không có nhu cầu làm ra thêm, hay phải mở rộng sự vĩ đại của Kalipa-matra nữa, tự bản thân thành phố đã tạo ra một hệ thống phức tạp để duy trì sự giàu sang và thịnh vượng của nó đến đời đời.
Cũng từ đó nững buổi lễ hội, tiệc tùng diễn ra hết đêm nay qua đêm khác và dường như chẳng bao giờ dừng lại. Người ta đổ rượu nho vào hồ nước rồi bơi trong đó, tưới mật ong lên người và liếm láp cho nhau, họ đốt trụi những ngôi nhà chỉ để nhảy múa xung quanh một cách điên dại, họ nhốt chúng vào một căn phòng trong trạng thái trần truồng rồi bắt chúng giết nhau để giành sự sống... Mỗi ngày các cư dân giàu có của Kalipa-matra đều nghĩ ra một trò vui mới, phá vỡ mọi quy tắc đạo đức và nhân tính của loài người; nhưng cũng thật nhanh chóng họ phát chán trò chơi ấy, để rồi ngày mai lại lao đầu vào một phát kiến khác. Trong sự dư thừa vô độ của vật chất, họ cuồng say hoang lạc, nhưng cũng thật lạ lùng khi họ thấy buồn bã đến vô biên, để rồi người ta bắt đầu cảm giác rằng trong những tiếng cười, những thanh âm rên la vì sướng khoái của mình đã dần nhuốm màu mệt mỏi. Nhưng chẳng ai trong số họ nghĩ tới việc dừng lại cả, vì họ không biết và cũng không thẻ dừng được nữa rồi!
Sự hoan lạc vô độ này cũng góp phần tích tụ thêm oán hận của tầng lớp nô lệ, khi họ nhận thấy mình bị đối xử như những món đồ chơi và có thể chết bởi những ý thích bất chợt của chủ nhân. Nhiều cư dân của Kalipa-matra còn nghĩ ra những hình thức tra tấn quái đản, những trò cắt xẻo rùng rợn, những cuộc hạ nhục ghê tởm và mỗi lần nghĩ ra cái gì là họ lại ngay lập tức thử nghiệm với nô lệ của mình.
Khi an ninh bị buông lỏng cũng là lúc các băng trộm cướp bắt đầu hoành hành, tuy không dám ra tay trắng trợn như nhiều năm về trước vì Kalipa-matra vẫn còn lực lượng quân đội hùng mạnh trấn giữ, nhưng người ta đã dần cảm thấy e ngại khi phải một mình lang thang trong những con ngõ vắng của thành phố.
Đó cũng là thời kỳ mà người đàn bà xinh đẹp nhất của Kalipa-matra được sinh ra, cô là con gái thứ ba của gia tộc đầu tiên mở lữ quán trong thành phố. Từ lúc mới chào đời, người ta đã kinh ngạc về vẻ đẹp của cô, vì đó là đứa trẻ bụ bẫm nhất mà họ từng được nhìn thấy. Tương truyền rằng, khi chui ra khỏi bụng mẹ thay vì khóc cô đã nở một nụ cười rạng rỡ và nhìn lên ánh sáng kỳ diệu của toà tháp. Cũng chính vì vậy mà người mẹ, vốn là một người vợ lẻ ít nói và rụt rè đã đặt tên cô theo tên toà tháp biểu tượng của Kalipa-matra. Từ đó và cho tới mãi mãi về sau, người ta gọi cô là Kiga'stra 'Bông hoa của hoang mạc'. Lớn lên trong cung điện lớn nhất của Kalipa-matra, sống giữa sự xa hoa tột đỉnh, Kiga'stra trở thành biểu tượng cho cả thành phố, viên kim cương quý giá nhất đính lên chiếc vương miệng rực rỡ của Kalipa-matra.
Vẻ đẹp của cô lộng lẫy và trang nghiêm như vầng dương lúc bình minh, nhưng cũng bí ẩn và huyền ảo tựa ánh trăng rằm được muôn trùng những vì sao ôm ấp. Những gợn sóng mềm mại trên những đụn cát của hoang mạc là mái tóc cô, bầu trời xanh thẳm thẳm là đôi mắt cô, các nét hoa văn uyển chuyển trên những tấm lụa quý giá được nhuộm màu đỏ thẫm là đôi môi cô, những chiếc bình gốm trang men tinh xảo nhất được đặt trong cung điện là thân hình cô. Kiga'stra là hoang mạc vĩ đại, là Kalipa-matra tráng lệ dưới hình dạng của một cá thể sống; với tất cả những gì đẹp đẽ, dữ dội nhất của cả hai.
Cái nhìn sâu thăm thẳm của Kiga'stra tưởng chừng như có thể bóp nghẹt linh hồn mạnh mẽ nhất, khiến nó phải run rẩy để rồi thốt lên những lời mê sảng ngây dại, đôi môi cô đỏ mọng tựa những nụ hồng còn ướt đẫm sương sớm và khi chúng hé mở để nói một điều gì đó, thì thanh âm ấy như tiếng đàn ngân nga làm cho tâm trí vững vàng nhất cũng phải say đắm.
Trong thành phố người ta bắt đầu ca ngợi sắc đẹp của cô, họ viết những bài thơ, sáng tạc nhạc, vẽ hàng nghìn bức tranh về cô. Cô là nữ hoàng của họ, là đứa con chung của cả thành phố và dần dần họ đều nghĩ rằng cô thuộc về tất cả, đồng thời cũng thuộc về riêng lẻ từng người một, trong những góc khuất sâu kín nhất của tâm hồn.
Ngay khi chỉ mới mười hai tuổi, Kiga'stra đã nhận được vô số lời cầu hôn từ tất cả những đức vua và hoàng tử của các vương quốc lớn trên thế giới. Họ si mê cô không chỉ vì nhan sắc, bởi lẽ có những người còn chưa gặp cô bao giờ, mà còn bởi sự giàu có và hùng mạnh mà cô sẽ được thừa kế. Vì tất cả những người anh em của Kiga'stra đều lần lượt qua đời bởi những nguyên do khác nhau, mà nhiều người nghi ngờ chính mẹ cô đã ra tay hạ sát.
Có lẽ vì bà hiểu rằng sắc đẹp của Kiga'stra có thể gây ra những tai hoạ mà chính bản thân cô sẽ trở thành nạn nhân. Theo cách của mình, bà đã cố gắng sắp xếp cho con gái một cuộc sống hạnh phúc và êm đẹp, nhưng cũng như bao nhiêu bà mẹ khác, bà không ngờ rằng chính nỗ lực của mình lại khiến Kiga'stra lâm vào những rắc rối còn phức tạp hơn. Vì bà đã biến cô thành người đàn bà đáng thèm khát nhất, trong già tộc giàu có nhất ở thành phố vĩ đại nhất thế giới và hơn hết là bà hành động thay cho con gái mình mà lại chẳng hiểu gì về cô, rằng cô thật sự nghĩ gì hoặc cô muốn gì, cũng như đa phần những bà mẹ khác trên đời
Chẳng ai biết được rằng từ lâu Kiaga'stra đã ngao ngán với tất cả những lời tung hô, những bài hát, những kẻ si tình sẵn sàng chết vì mình. Đôi khi cô thấy lợm giọng bởi sự hân hoan của đám đông mỗi khi mình bước qua. Cô chán ghét những đôi mắt ngây dại vô hồn, những lời nịnh nọt vuốt đuôi che giấu ham muốn bỉ ổi. Sự thần tượng của thế gian làm cô cảm thấy đánh mất bản thân mình, rằng mỗi việc cô làm, mỗi điều có nói, mỗi hơi thở, mỗi cử chỉ đều có vô số người ngoài kia chứng kiến và lắng nghe. Dù cô có đứng trước một đám đông hàng nghìn người hay nằm trong phòng một mình thì cũng chẳng có gì khác nhau, lúc nào cũng có vô số kẻ đang mơ mộng về cô, vì nếu họ không chiêm ngưỡng cô bằng những giác quan thì cũng sẽ chiêm ngưỡng cô bằng trí tưởng tượng của mình. Đôi khi trong lúc làm một việc gì đó, như mở một quyển sách hay khép tấm màn cửa, Kiga'stra hình dung rằng rất nhiều người đã, đang và sẽ hình dung cô làm những động tác này, với chính bộ quần áo này, trong cái khung cảnh này. Họ tỏ tường đến đường tơ kẽ tóc của cô, từng hơi thở đang phập phồng trong lồng ngực; họ đã chiếm hữu cô trước khi cô thuộc về chính bản thân mình, để từ đó mãi mãi chiêm ngưỡng cô khi cô đã không còn trên mặt đất này nữa. Ngay cả những suy nghĩ của cô cũng đã bị dò xét, bị soi mói để rồi phơi bày trắng trợn trước cái đám đông sùng mộ đang ngày một mở rộng.
Sự sùng mộ ấy khiến cô sợ hãi, không phải sợ điều mà người ta có thể làm với mình, cô sợ điều mà người ta có thể để cho mình làm. Vì cô từng thấy hai anh em ruột định giết nhau vì mình ngay giữa quảng trường, xung quanh họ người ta thét gào cổ vũ như thể đó là hành động tử vì đạo. Và có lẽ lúc ấy nếu cô bước xuống, cầm một con dao rồi đâm chết cả hai thì đám đông cũng vẫn sẽ sung sướng như thế. Rồi hai anh em ấy sẽ còn cảm tạ cô vì đã ban ơn cho họ.
Cô sợ hãi trước viễn cảnh quá hiển nhiên ấy và còn sợ hãi hơn nữa vì mình đã nghĩ tới nó, rồi cô nhận ra rằng từ trong sâu thẳm mình đã luôn muốn làm như vậy. Một sự thôi thúc tối tăm và nhớp nhúa từ trong bản ngã, khiến cô thèm khát huỷ hoại một ai đó bằng thứ quyền lực mà người ta đã trao cho mình miễn phí. Nhưng chính đám đông cũng muốn cô làm như thế, họ muốn cô phải thoả mãn những tưởng tượng dơ bẩn nhất của mình, chính mong muốn của họ đã thôi cô vì nói cho cùng bản ngã của Kiga'stra từ rất lâu rồi đã không còn thuộc về chính cô nữa.
Quá sợ hãi cô đã trốn biệt trong cung điện rộng lớn và thề rằng sẽ không bao giờ bước chân ra ngoài nữa.
Nhưng rồi mỗi đêm, các buổi lễ hội liên miên bất tận đã thôi thúc cô. Tiếng nhạc, tiếng cười đùa, tiếng của vô sô huyên náo và ồn ào làm cho cô thấy bồi hồi. Kiga'stra nghĩ rằng những tiếng ồn này, âm nhạc này giọng cười đùa này thật khác cái cách mà người ta tạo ra chính những âm thanh ấy trước mình. Bởi lẻ vẻ đẹp và sự tồn tại của cô đã bóp méo thực tại ở bất cứ nơi nào cô đến, nên Kiga'stra hiểu rằng thế giới ngoài kia lúc không có mình sẽ khác biệt rất nhiều.
Vào một đêm, cô đã trộm tấm mạng che mặt và bộ quần áo cũ của một tỳ nữa rồi lén đi ngoài. Kiga'stra hoà vào dòng người đông đúc, cô loá mắt trước những sắc màu rực rỡ, những trò vui kỳ quái mà các cư dân Kalipa-matra nghĩ ra. Một thế giới khác nằm ngay tại cái thế giới mà cô đã biết, một thế giới chất đầy những hình ảnh và âm thanh lạ lùng, quyến rũ. Lần đầu tiên Kiga'stra thấy tràn đầy sức sống và hạnh phúc đến thế. Cô uống rượu, trò chuyện với những người lạ, cười đùa và nhảy múa cùng họ. Rồi cô gặp một gã thanh niên trạc tuổi mình, hắn có nước da sạm đen và ăn mặc rách rưới, hắn cũng đang dự tiệc giống cô. Ở Kalipa-matra, trong những bữa tiệc bất tận chẳng ai quan tâm mọi người đang mặc gì hay ở tầng lớp nào. Chỉ cần không đeo những cái vòng sắt ở chân, vốn là chỉ dấu cho nô lệ thì họ có thể làm bất cứ điều gì mình thích, với sự bình đẳng tuyệt đối như tất cả mọi người khác.
Chẳng nói chẳng rằng, hắn bế thốc cô lên và chạy đi. Một lần nữa, Kiga'stra cảm thấy choáng ngộp với điều ấy, bởi đây là lần đầu tiên có người làm thế với cô. Hành vi bạo lực và bất ngờ của gã đàn ông khiến cô không kịp phản ứng và cô để cho gã bế mình đi. Nhưng liệu nếu có thể thì cô có vùng vẫy hay không? Liệu cô có kêu cứu?
Kiga'stra không biết và có lẽ cô cũng không bao giờ biết ngay khi hắn đã bắt đầu kéo cái váy dài của cô lên. Trước khi cô kịp nhận ra thì hẵn đang ở giữa chừng cuộc hãm hiếp rồi, hắn đè nghiến má cô vào tường trong con hẻm tối tăm, bắt cô ưỡn người lên và cưỡng hiếp cô. Với những cử động dứt khoát và quyết liệt, hắn không nói gì khác ngoài những tiếng lầm bầm vô nghĩa trong miệng và hơi thở đứt quãng. Kiga'stra cũng không nói gì, thậm chí còn không kêu la, cô chỉ bặm miệng và cắn chắt môi, đôi tay đẹp đẽ ấn mạnh vào tường, chân kiễng lên.
Vậy là cô đã thành đàn bà, vậy là cô đang bị hãm hiếp!
Nếu biết cô là Kiga'stra 'Bông hoa của hoang mạc' liệu hắn có làm như vậy? Hay hắn sẽ nâng niu nhẹ nhàng, tôn thờ kính trọng tới mức làm cô phát chán? Cô nhăn nhó suy nghĩ giữa những nhịp đẩy dữ dội. Rồi bất giác miệng cô há ra sau lớp khăn che mặt... Ngay vào giây phút ấy cô biết mình đã yêu hắn, hay đúng hơn là cô thuộc về hắn. Cái gã đàn ông ăn bận rách rưới này, người đã hãm hiếp và đối xử vởi cô như một đồ vật, kẻ duy nhất thật sự mang đến cho cô cảm giác được là chính bản thân mình. Có lẽ hắn là một tên cướp, một tay du thủ du thực, một kè hèn nhát tồi tệ, người sẵn sàng làm mọi thứ để được trả công. Có thể trước cô hắn đã hãm hiếp rất nhiều người khác và sau cô hắn cũng sẽ hãm hiếp rất nhiều người khác nữa. Có lẽ với hắn bay giờ, cô chẳng là gì ngoài một người đàn bà cho mình sự thoả mãn. Những ý nghĩ ấy lại khiến cô càng yêu hắn hơn.
Vì vậy mà đêm hôm sau Kiga'stra lại lẻn ra khỏi cung điện và tới đúng chỗ hôm qua, chẳng mất quá nhiều thời gian cô đã tìm ra hắn. Và không nói một lời, hắn lại bế cô lên chạy vào một con hẻm tối khác.
Lần này khác với lần trước, hắn không hãm hiếp cô!
Họ làm tình với nhau, dù nhìn nó vẫn chẳng khác gì một cuộc hãm hiếp. Nhưng cả hai đều biết rõ đây là một cuộc làm tình, ít nhất thì đó cũng là điều mà Kiga'stra tự nhủ!
Cứ như thế, đôi tình nhân đã gặp nhau liên tục trong một tháng liền. Kiga'stra mê đắm người tình của mình bằng những cảm xúc cuồng dại nhất, dù cô còn chưa biết tên hắn. Họ chẳng bao giờ nói chuyện với nhau mà chỉ điên cuồng làm tình, bao giờ cũng trong cùng một tư thế, với một nhịp điệu lập lại mạnh mẽ và dữ dội. Chẳng bao giờ Kiga'stra tháo mạng che mặt ra, cô sợ gã đàn ông kia sẽ nhận ra mình là ai, rồi hắn sẽ tôn thờ cô như tất cả mọi người trong thành phố, hắn sẽ quỳ gối trước sắc đẹp thần thánh của cô và cầu xin tha thứ vì những điều mình đã làm.
Nhưng chính gã đàn ông cũng không quan tâm đến khuôn mặt của người đàn bà mà mình làm tình mỗi ngày. Từ lâu lắm rồi, hắn đã không còn quan tâm đến khuôn mặt của phụ nữ, dù họ tự nguyện hay bị hãm hiếp thì cũng chẳng có sự khác biệt nào. Vì hắn đã làm điều đó hàng trăm lần rồi, hắn đã cướp bóc, lăng nhục và chém giết vô số người. Chẳng có gì khác biệt giữa người này và người kia cả, hắn biết như thế; mỗi người đàn bà chỉ có bấy nhiêu phản ứng, khi đã chứng kiến các phản ứng ấy quá nhiều sớm muộn gì ta cũng sẽ trở nên chán ngấy và cuộc truy hoan chẳng qua cũng chỉ là một hoạt động bắt buộc như hít thở hay ăn uống.
Nhưng điều đó cũng không có nghĩa là cuộc làm tình của họ trở nên nhàm chán hay vô vị, trái lại chính vì đã gạt bỏ nhân tính của bản thân và người tình sang một bên, mà hắn lại càng tận hưởng khoái lạc nhiều hơn.
Khi hai bàn tay hắn siết chặt lấy eo cô thì tất cả dường như biến mất, mọi nỗi thống khổ từng đến trong đời và cả những khát vọng luôn nhức nhối trong từng giấc mơ bằng cách nào đó được thoả mãn. Hắn chìm đắm trong cảm giác lâng lâng mê mệt, thứ cảm giác mà hắn thích thú mỗi khi làm tình. Nhưng với cô gái này, cảm giác ấy còn mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Vì cô ta không bao giờ cất tiếng, không bao giờ hỏi hắn là ai hay hắn đến từ đâu, cô chẳng màn đến quá khứ và tương lai. Hắn không phải bịa đặt, không phải hứa hẹn và tán tỉnh, thậm chí hắn còn không cần sử dụng bạo lực.
Chỉ đơn giản là cô quy phục hắn và bằng bản năng của một con đực hắn ngầm hiểu rằng, hai người biết càng ít về nhau thì họ càng dâng hiến và thống trị nhau trọn vẹn hơn.
Kiga'stra đắm chìm trong tình yêu, cô lẻn về cung điện lúc rạng sáng, quần áo xộc xệch, mệt mỏi nhưng cũng ngập tràn hạnh phúc. Cô ngủ tới tận trưa mới trở dậy tìm gì đó ăn, rồi sau đó thẩn thờ lang thang cả ngày như một kẻ mộng du, với đôi mắt mở to hồ như trống rỗng. Cô sẽ ngồi trước hiên của cung điện, đắm mắt lên bầu trời chờ đợi hoàng hôn buông xuống và bóng tối dần khoả lấp mặt đất, để lại tiếp tục trốn ra ngoài, tận hưởng cuộc phiêu lưu tình ái của mình.
Nhưng rồi một đêm, những người bịt mặt tới và bắt đôi tình nhân khi họ đang ở giữa cuộc truy hoan. Kiga'stra bị họ trói lại, bịt mắt và mang về cung điện. Khi khăn bịt mặt được mở ra thì cô thấy mình đang nằm trên giường trong phòng riêng, đối diện là người mẹ với gương mặt hốt hoảng nhưng cũng đầy giận dữ. Hoá ra bà đã biết tất cả mọi chuyện, bởi bà luôn chú ý đến từng cử chỉ và biểu hiện của con gái. Bà đã lén theo dõi con rồi sau đó bí mật nhờ những quân lính trung thành nhất mang cô trở về.
Còn về phần gã đàn ông, hắn bị quẳng lên xe ngựa, rồi chở tới một ngôi nhà hoang trong thành phố, nơi có một căn hăm bẩn thỉu và tăm tối chăng đầy mạnh nhện trong các góc tường. Ở đó, người ta cho hắn biết người đàn bà mà hắn đã hãm hiếp là ai. Đúng như Kiga'stra dự đoán, hắn rú lên từng tràng đau khổ khi biết mình đã xâm phạm vị nữ thần của Kalipa-matra. Và hắn cầu xin được ban cho cái chết để chuộc tội. Thay vì giết gã đàn ông ngay lập tức, người ta tra tấn hắn trong suốt mười ngày đêm bằng những phương pháp khủng khiếp nhất. Đến ngày thứ mười, họ quẳng hắn lên lưng một con lạc đà rồi đi vào sa mạc. Những người lính bỏ hắn lại ở giữa hoang mạc sau khi đã lột truồng hắn, nơi mà hàng trăm dặm xung quanh cũng không có một trạm dừng nào; rồi đám lính thong thả quay về, tin rằng hắn sẽ phải chịu cái chết đau đớn nhất vì đói khát.
Giá mà mẹ của Kiga'stra hiểu con gái mình thì bà đã cho cô chứng kiến cảnh này, khi người tình hung hãn của cô trở nên yếu nhược và hèn hạ. Vì lúc đó tình yêu trong cô sẽ tan biến như bọt nước và chẳng bao lâu cô sẽ quay về nếp sống trước kia, nhưng bằng cách chia cắt đôi tình nhân bà đã biến gã đàn ông kia thành một biểu tượng bất tử trong mắt con gái. Để rồi khi tình yêu bị ngăn cấm nó dần biến thành nỗi tuyệt vọng và căm hận, khiến Kiga'stra quyết định dùng tới thứ quyền lực tối thượng mà đám đông đã ban cho mình, không chỉ để trả thù chính mẹ đẻ, mà còn để thanh toán cả cái thành phố đã tạo nên mình.
Mẹ của Kiga'stra cố gắng an ủi con gái nhưng vô ích, từ khi bị chia tách khỏi người tình cô chẳng thiết ăn uống gì nữa. Giam mình trong phòng, cô không đi đâu và cũng chẳng nói chuyện với ai; nhưng mỗi đêm, các tỳ nữ lại nghe văng vẳng tiếng than khóc đau đớn từ phía bên kia bức tường.
Chẳng bao lâu sau, có lời đồn đại khắp thành phố rằng Kiga'stra đã có thai. Tin tức về cái thai, dù được bà mẹ cố gắng bưng bít nhưng vẫn truyền đi với tốc độ chóng mặt, vì chính Kiga'stra đã chủ động nói chuyện đó cho những người hầu và cho tiền để họ đi nói với tất cả mọi người mình gặp, cô bịa đặt rằng đứa con trong bụng mình là của hoang mạc. Và sau này nó sẽ trở thành người đàn ông vĩ đại nhất thế gian, vị vua sẽ thống trị cả nhân loại. Thậm chí cô còn nói thêm rằng, chỉ cần ai lên được căn phòng ở trên đỉnh của toà tháp Kiga'stra, họ sẽ có được cô và sở hữu cả thành phố. Sau khi nói xong, Kiga'stra đã tự mình leo hơn một ngàn bậc thang để lên tới đỉnh toà tháp cao nhất thế gian. Cô đuổi cổ lão già canh tháp khỏi căn phòng của lão, một căn phòng nhỏ nằm ngay bên cạnh nơi đặt khối pha lê khổng lồ. Từ đó cho đến suốt cuộc đời mình, không ai thấy cô bước chân ra khỏi toà tháp cả. Và bằng cách đó, nữ thần của Kalipa-matra cùng công trình vĩ đại nhất của nó đã trở thành một thể thống nhất.
Tin đồn khiến những cư dân trong thành phố phát điên, đám đông sùng mộ bắt đầu tập trung dưới chân tháp và ngày một gia tăng về số lượng. Họ hô vang tên cô, quỳ xuống lầm rầm cầu nguyện, tranh cãi xem ai có tình yêu lớn nhất dành cho nữ thần. Họ tổ chức những lễ hội, những buổi chém giết kinh hoàng, những trò tra tấn man rợ nhất dưới chân tháp hòng thu hút được sự chú ý của cô. Nhưng tuyệt nhiên chẳng ai dám bước lên toà tháp để đoạt lấy cô, họ nghĩ mình không xứng đáng với vinh dự ấy và họ cũng sợ cái chết sẽ ập đến với kẻ liều lĩnh. Vì có lần, một thiếu niên mười bốn tuổi ngây thơ đã khoác lác rằng mình sẽ có được 'Bông hoa của hoang mạc', ngay khi cậu vừa định bước qua ngưỡng cửa đề vào tháp thì vô số lưỡi dao đã cắm ngập vào da thịt cậu. Người ta la ó, chà đạp thi thể cậu, xé xác nó ra theo đúng nghĩa đen. Kiga'stra đã không còn là một nàng công chúa nữa, cô đã hoá thành nữ thần vĩ đại, người được tôn thờ là hiện thân của tất cả ngọc ngà châu báu trên thế gian.
Và mỗi ngày, người dân Kalipa-matra lại càng cuồng tín hơn. Lần đầu tiên trong suốt chiều dài lịch sử, các thương nhân đã có cho mình một đức tin; đức tin ấy được kết hợp từ lòng tham không đáy, nỗi nhàm chán vô bờ vì dư thừa vật chất, những thèm khát nhơ nhuốc nhất trong tâm hồn con người và cả mặc cảm sâu kín về thân phận thấp hèn của họ. Cuối cùng, Kalipa-matra cũng đã đạt đến điểm tuyệt đích trong hành trình phát triển của mình, khi thành phố đã tạo nên một vị thần để rôi tự biến mình thành thánh địa.
Huyền thoại về Kiga'stra nhanh chóng băng qua hoang mạc và lan tràn khắp thế gian tựa cỏ dại phủ xanh những cánh đồng, ở mỗi nơi câu chuyện lại được thêm thắt vô số chi tiết khác nhau, đến lượt chúng lại phản chiếu tất cả những gì tốt đẹp và xấu xa nhất của cả người kể lẫn người nghe. Tại một vương quốc nọ Kiga'stra là nữ quỷ và đang mang thai quỷ vương mới, kẻ sẽ huỷ diệt cả thế giới; tại một ngôi làng kia, cô được xem như hiện thân của may mắn và đứa con trong bụng cô rồi đây sẽ cứu rỗi toàn thể nhân loại. Để rồi từ đó, hàng vạn kẻ hành hương kéo đến Kalipa-matra, lần theo theo ánh sáng phát ra từ Kiga'stra xuyên qua bức màn của đêm tối, các đoàn người tựa những bầy thiêu thân lũ lượt lao vào ngọn lửa. Đó là những thương nhân hoặc những kẻ bần hàn, những đại quý tộc và những nô lệ đã chạy trốn khỏi chủ nhân, những tăng lữ bỏ đạo và những kẻ đầu trộm đuôi cướp, những nông dân và những học giả, những pháp sư và những triết gia. Họ đến vì muốn tôn thờ cô, được cô ban phước, hay muốn tận mắt chứng kiến sự giàu sang và xa hoa cũng như điên rồ của Kalipa-matra, hoặc vì nỗi ghen ghét và sự đố kỵ dành cho một kẻ mình chưa bao giờ quen biết. Người ta nung nấu những cách thức tàn bạo nhất để tiêu diệt cô, không chỉ về mặt thể xác mà còn thiêu rụi mọi ý niệm và niềm tin mà cô đang đại diện. Có bao nhiêu kẻ trong số đó thực tâm với ý nghĩ của mình? Bao nhiêu kẻ chỉ xem tất cả như một cuộc dạo chơi, một chuyến thăm thú? Chẳng một ai có thể dò vào tâm trí của người khác để biết độ nông sâu của nó, chỉ biết những dòng người ngày một đông đúc hơn và dường như kéo dài vô tận.
"Ngũ đại" và những tướng lĩnh bảo vệ thành phố không hề thích điều này, bởi Kalipa-matra được xây dựng lên để dành cho giới thương nhân và chỉ có những kẻ xứng đáng mới có thể bước vào thành phố. Việc quá nhiều người kéo đến cùng một lúc khiến mục tiêu đó bị đe doạ, bởi mọi kẻ hành hương đều muốn vào bên trong Kaliapa-matra. 'Ngũ đại' ra lệnh đóng chặt cổng thành và tăng cường an ninh đến mức tối đa. Thế là những kẻ hành hương hạ trại và dựng lều ngay dưới chân tường thành, họ nhảy múa và hát những bài hát mới về nữ thần. Đêm đêm, quanh các đống lửa rừng rực cháy, chuyện cổ tích về cô bắt đầu được kể, trong đó Kiga'stra sử dụng phép thần thông để tiêu diệt lũ gian ác và bảo về người lương thiện.
Việc cổng thành đóng chặt với các đoàn hành hương khiến cho những người tôn thờ Kiga'stra ở trong thành nổi giận, họ bắt đầu ngưng những lễ hội đẫm máu, đoàn kết lại với nhau phá phách khắp mọi nơi. Các toán lính gác đi tuần vào ban đêm bị cắt cổ, cổng thành bị lén đập phá, một tháp canh bị đốt trụi. Bạo lực ngày một leo thang và các tướng lĩnh không biết nhắm vào ai để trừng phạt, không có cách nào phân biệt những cư dân bình thường và những người cuồng tín. Hoặc chẳng còn người nào bình thường ở Kalipa-matra nữa rồi, tất cả đều đã phát điên vì Kiga'stra. Hàng loạt người bị bắt vì tội phá hoại và hành hung, các nhà tù chật cứng phạm nhân ngày đêm kêu gào. Bằng cách nào đó, những đoàn hành hương ở phía bên kia tường thành cũng nhận ra điều đang xảy ra trong thành phố, họ bắt đầu la hét và đòi vào trong cho bằng được.
Một đêm nọ, khi các đoàn hành hương tiến đến quá gần cổng thành, những cung thủ đã được lệnh bắn vào họ. Hàng trăm người chết chỉ trong nháy mắt, những cái xác gục xuống mà không có một tấc sắt trên tay. Dù vậy, họ chẳng hề nao núng mà lại càng tràn lên nhiều hơn nữa, với những tiếng thét gào đau đớn hoà lẫn với giọng đồng ca u buồn nhưng không hề nao núng. Hàng ngàn con người cất lên những lời lẽ bi thương nói về số phận của vị nữ thần bị giam giữ bên trong thành phố tội ác, bởi vì thành phố ấy muốn giữ riêng cho mình của cải thuộc về cả nhân loại!
Rồi điều gì đến cũng phải đến, những người dân trong thành phố cuối cùng đã nổi loạn. Họ chiếm được cổng thành bằng thứ sức mạnh cuồng bạo, giết sạch tất cả những lính tráng và chỉ huy ở đó, thậm chí vài người lính đã phản bội và đi theo đám đông, thú nhận đức tin mà mình vẫn phải che giấu bấy lâu. Sau khi chiếm được cổng thành, họ đã mở cửa cho đám đông tràn vào. Để rồi tất cả cùng ôm chầm lấy nhau, khóc nấc lên vì vui sướng tựa như những người anh em ruột thịt gặp mặt sau hàng chục năm dài xa cách. Họ cảm thấy mình đang thực hiện một sứ mệnh cao cả, rằng tất cả sinh ra là để giành cho giây phút này, để được cống hiến cả cuộc đời cho nữ thần Kiga'stra, được quỳ mọp dưới chân cô trong sự sùng mộ.
Với tâm trạng hân hoan và hạnh phúc ấy, họ đã xông vào tàn sát dã man tất cả những kẻ tìm cách ngăn chặn mình. Họ phanh thây chúng với nụ cười mãn nguyện, giẫm đạp những cái xác nằm la liệt khắp nơi với sự thành kính khiêm nhường, đốt trụi mọi thứ bằng cảm giác tôn kính dành cho Kiga'stra. Nhưng khi đám đông kéo lên toà tháp để đưa cô xuống thì họ chẳng thấy bất kỳ ai. Trong căn phòng tồi tàn trước kia thuộc về người giữ tháp, tường giăng đây mạng nhện, những món đồ gỗ bị mục nát đổ xuống sàn nhà phủ đầy bụi bẩn và ẩm mốc. Chiếc giường ngủ bị gãy một chân ngả chỏng chơ, vài tấm màn cửa bị xé rách toang từ bao giờ. Dấu hiệu duy nhất của người sống là một nén trầm hương vẫn còn cháy dở.
Trong quang cảnh hỗn loạn ấy, không ai biết Kiga'stra đang ở đâu, vị nữ thần dường như đã lặng lẽ biến mất vào màn sương khói toả ra từ vô số ngọn lửa đang dần nuốt trọn thành phố. Điều gì đã xảy ra với Kiga'stra? Có phải cô lẻn đi khi không ai để ý? Cô đã rời khỏi thành phố từ lâu? Hay cô quyết định tự sát vì nỗi đau quá lớn? Gieo mình xuống cái giếng khô cạn, cô đã vượt thoát khỏi sự sống để vươn tới cõi vĩnh hằng. Phải chăng cô làm thế vì tình yêu đích thực đã bị cướp khỏi tay mình, chạy trốn khỏi cuộc sống chỉ là những chuỗi ngày trống rỗng, cùn mòn, bị nguyền rủa bởi vẻ kiều diễm và sự giàu có vô biên.
Nhưng chắc chắn không ai trên cõi đời có thể dò được chiều sâu trong những suy tưởng của cô, bởi họ sẽ không bao giờ đạt được những gì mà cô đã đạt được, cũng như không bao giờ có khả năng huỷ diệt những thứ mà cô đã huỷ diệt.
Đám đông gào thét toả ra khắp thành phố để tìm kiếm nữ thần của mình. Chính vì vậy họ lại càng đốt phá và giết chóc dữ dội hơn nữa, vì họ nghĩ rằng, bằng một thứ tà thuật hắc ám nào đó, những kẻ thuộc "Ngũ đại" đã khiến nữ thần mãi mãi vô hình trước mắt mình. Và cách duy nhất để nữ thần hiện ra chính là phá huỷ cái thành phố tội lỗi đã giam giữ cô.
Cuộc đốt phá diễn ra liên tục trong một tháng trời, thu hút những kẻ cơ hội cướp bóc vàng bạc châu báu của Kalipa-matra. Bọn chúng trà trộn vào dòng người sùng tín, vơ vét mọi thứ trong tầm mắt rồi nhanh chóng biến mất lúc không ai để ý. Khi mọi thứ đã bị tàn phá và tất cả những kẻ có thế lực trong thành phố đều đã chết sạch, bao gồm cả mẹ của Kiga'stra, người ta đã chặt đầu bà rồi quẳng cho một bầy linh cẩu để chúng xâu xé trong tiếng reo hò tán thưởng; đám đông bắt đầu đổ lỗi cho nhau, họ quay ra buộc tội chính những người anh em mà mình từng kề vai sát cánh, rằng những đức tin sai lệch đã khiến nữ thần mãi mãi quay lưng lại với loài người. Thế là họ quay ra tàn sát lẫn nhau nhân danh nữ thần, tất cả đều một mực tin tưởng rằng chính bản thân mình mới là kẻ được chọn để phục sinh nữ thần và nuôi lớn đứa con mà nàng đang mang.
Và khi thứ vũ khí cuối cùng trượt khỏi đôi tay mệt mỏi vì đã chém giết quá nhiều, những cái xác dã phủ một lớp dày lên cái bình địa mà trước kia từng là Kalipa-matra. Ở nơi từng là những lâu đài nguy nga, tráng lệ bậc nhất; những đài phun nước đẹp đẽ, những bức tượng tinh xảo giờ được thay thế bằng máu và thịt đọng lại bầm đen trên nền cát...
Rốt cuộc Kalipa-matra đã bị huỷ hoại như thế, bởi bàn tay của một người đàn bà bị chính mẹ đẻ tước đoạt tình yêu, cái tình yêu bắt đầu bằng đầu bằng một cuộc hãm hiếp và rồi kết thúc trong một vụ đốt phá, thảm sát tàn bạo. Tựu chung lại, Kalipa-matra dường như đã có tất cả mọi thứ trên thế giới, nhưng rồi chính những thứ ấy lại đem đến sự huỷ diệt và tàn phá kinh hoàng cho nó.
Dù vậy, huyền thoại về Kalipa-matra, thành phố vĩ đại nhất từng tồn tại vẫn còn lưu truyền hết thế hệ này đến thế hệ khác. Những thương nhân vẫn còn mơ thấy ánh hào quang bảy sắc toả ra từ trên đỉnh của Kiga'stra, chiếu rọi xuyên qua màn đêm hoang mạc tựa một Mặt Trời thứ hai không bao giờ tắt, Mặt Trời được hun đúc nên từ chính trí tuệ và lòng tham của con người. Họ thấy mình dạo bước trên những con đường rộng rãi, bước trên các bậc thang cẩm thạch đẹp đẽ; và tại một căn phòng trên toà tháp cao nhất thế gian, sau cánh cửa đóng kín là người đàn bà xinh đẹp nhất trên đời đang ngồi trầm tư mặc tưởng, nàng đốt những nén trầm và nhắm mắt lại, để tâm trí phiêu bạt đến những bến bờ xa xôi nhất. Nơi tình yêu, hận thù, xáo động, bình yên, đau đớn và hạnh phúc hoà lại thành một..."
Người thương nhân già kết thúc câu chuyện bằng những tiếng thì thầm nhỏ, để rồi đến cùng ngôn từ của lão chập lại thành một hơi thở dài thăm thẳm và ưu tư. Lão nhẹ nhàng khép đôi mắt già nua đầy những vết chân chim của mình lại, khuôn mặt hơi ngước lên bầu trời và giữ nguyên tư thế ấy một lúc lâu, như thể mặc niệm cho những con người đã chết ở Kalipa-matra. Những thương nhân khác cũng đang làm tương tự, kể cả cô gái trẻ xinh đẹp mà hắn đã nói chuyện. Cùng lúc ấy, ở phía sau cô vầng Dương đã bắt đầu ló dạng, những lưỡi lửa đỏ hồng dường như bao bọc lấy thân thể cùng tà áo của cô, khiến cho chúng lấp lánh thứ ánh sáng rực rỡ và diệu kỳ.
Hắn ngẩn người nhìn quang cảnh ấy, cảm tưởng như mình vừa được ban phước, rằng giây phút này thiêng liêng hơn tất thảy những gì mà hắn đã từng trải qua trong cuộc đời mình. Cảm giác ấy cuốn hắn vào một cơn đê mê lạ lẫm, hắn cảm thấy mình đang bay lơ lửng giữa thinh không nhưng đồng thời dường như cũng đang rơi xuống tận cùng vực thẳm.
- Em có thể cho tôi biết tên em là gì được không?- Hắn tiến tới hỏi cô, sau khi dư âm của câu chuyện đã kết thúc và những thương nhân đang lục tục chuẩn bị bữa ăn sáng.
Cô im lặng nhìn quanh, hắn dẫn hắn đi tới một góc xa, họ ngồi cạnh nhau trên mảng gờ tường đổ nát mà có lẽ trước kia từng là hàng rào của một ngôi nhà. Cô quay qua mỉm cười với hắn, rồi đưa mắt nhìn về phía ba người đàn bà trung niên đang quan sát mình từ xa trong khi làm việc.
- Họ không cho phép em nói tên mình sao?- Hắn cũng nhìn theo cô.
- Không!- Cô lắc đầu nhẹ nhàng.- Không ai có quyền cho phép hay không cho phép em làm điều gì...
- Vậy tên em là gì?- Hắn vẫn không bỏ cuộc.
- Anh đã nghe tên em trong câu chuyện rồi đó thôi! Em là Kiga'stra "Bông hoa của hoang mạc". Em được đặt tên theo nàng công chúa đó, cứ bốn mươi năm lại có một Kiga'stra giữa cõi người...
Hắn ngẩn người nhìn cô, rồi ngay lập tức thấy cái tên đó vô cùng hợp lý.
- Một cái tên rất hợp với em.- Hắn nói nhỏ.
- Anh nghĩ vậy sao?
- Anh biết vậy và anh biết là mình muốn là một tên cướp!- Hắn nói ngay lập tức mà chẳng suy nghĩ gì.
- Nếu điều đó là thật thì chúng ta chỉ đem lại những cuộc tàn sát và đốt phá...- Cô mỉm cười buồn bã.- Em không muốn nói tên của mình với người khác, vì khi em nói cái tên đó ra người ta sẽ luôn muốn làm một tên cướp. Không phải là thương nhân, quý tộc, nông dân, học giả, tăng lữ hay thợ thủ công mà là một tên cướp...
Rồi cô đứng lên, nhảy lùi lại một bước. Cô giang hai tay trước mặt hắn, xoay một vòng với vẻ thoát tục và duyên dáng. Bằng những cử chỉ uyển chuyển mềm mại, cô nhảy một điệu vũ đẹp đẽ trong khi cất tiếng hát. Bài hát và điệu vũ ấy kể câu chuyện về Kiga'stra, người đàn bà có mọi thứ nhưng lại chẳng thiết tha bất kỳ điều gì, bởi nàng không có được tình yêu, không tìm được ý nghĩa nào để tồn tại giữa sự tôn thờ và tung hô của những kẻ xa lạ.
Hắn nhận ra mình đã nói điều không nên nói với cô, rằng đó là câu mà cô không muốn nghe nhất từ bất cứ người đàn ông nào. Nhưng hắn cũng hiểu chính vì vậy nên đó cũng là điều duy nhất mà mình muốn cho cô biết, rằng hắn muốn trở thành một tên cướp vì cô, mặc kệ việc cô muốn hay không muốn gì. Và phải chăng đó chính là bản chất của tình yêu, cuộc rượt đuổi của một con sư tử và linh dương. Với khát khao chiếm hữu và ước vọng quy phục, không chỉ từ kẻ đi săn mà hiển nhiên hơn còn rực cháy trong tâm trí của cả con mồi.
Sau khi bài hát kết thúc, hắn vẫn tiếp tục ở lại với những người thương nhân. Họ mời hắn ngồi vào vị trí danh dự trong bữa trưa, kể cho hắn nghe về đủ mọi chuyện xảy ra khi rong ruổi khắp thế giới. Kiga'stra ngồi kế bên hắn, ân cần châm rượu và bồi tiếp thức ăn. Cô chăm sóc hắn một cách dịu dàng, khiến hắn ngất ngây vì sung sướng và thoả mãn.
- Câu hãy ở lại thêm với chúng tôi một đêm.- Người thương nhân già mỉm cười.- Cậu là một chàng trai trẻ ham hiểu biết và dường như rất đặc biệt.- Lão nháy mắt.- Kiga'stra đã nói vậy với tôi và tôi luôn tin tưởng vào khả năng nhận xét của cô ấy. Nên hãy ở lại đêm nay với chúng tôi, ngồi bên những phế tích này! Vì tối nay chúng tôi sẽ tổ chức một nghi thức đặc biệt để tưởng nhớ Kalipa-matra. Tôi tin rằng việc cậu có mặt ở đây đúng vào dịp lễ hội và ta gặp được nhau là do sự sắp đặt của định mệnh. Và câu nên biết rằng, hơn ai hết, bọn thương nhân chúng tôi là những người luôn phục tùng định mệnh với sự tôn kính đặc biệt. Nên tôi tha thiết xin cậu hãy ở lại với chúng tôi một đêm nữa...
Nếu hắn có thể từ chối lão thì hắn cũng chẳng thể nào từ chối ánh mắt đầy khẩn cầu của Kiga'stra đang chăm chú nhìn mình. Vậy là mọi sự đã được quyết định, hắn sẽ ở lại đây dự nghi thức thiêng liêng của những thương nhân. Tất cả mọi người đều cười tươi và nâng cốc chào mừng hắn tham gia.
Đêm đó, nghi thức diễn ra trong ánh lửa mờ ảo. Người ta dựng một cái đài nhỏ ngay trong toà tháp đổ nát, trung tâm của cái đài là miệng giếng năm xưa, nơi mà Kalipa-matra được khai sinh. Họ mở nắp cái giếng cạn lên, trang trí cho nó bằng những ngọn nến thơm và các dãy lụa trắng mềm mại. Tiếp theo, người thương nhân già xuất hiện trong một bộ quần áo đặc biệt. Lão quỳ xuống trước miệng giếng, lầm rầm khấn nguyện bằng một thứ ngôn ngữ mà hắn chưa từng nghe qua trước đây. Rồi sau đó, khi lão già lui xuống thì Kiga'stra bước ra, cô phục sức xa hoa với đủ loại trang sức quý giá và mặc bô váy dài mà mỗi đường chỉ đều lấp lánh ánh vàng. Cô bắt đầu nhảy múa, cất tiếng hát trong khi các thương nhân khác chơi nhạc, đó cũng chính là bài hắt mà hắn đã nghe lúc sáng.
Hắn cảm thấy mình bị nhấn chìm trong đôi mắt đẹp đẽ của cô, cô khiến cho tay chân hắn trở nên vô lực, rút cạn hết ý chí sống của hắn. Để rồi từ nay và mãi mãi về sau, cuộc đời hắn sẽ phụ thuộc vào sự tồn tại của cô, mặc cho cô quan tâm hay bỏ rơi hắn thì điều đó cũng không thay đổi.
Trong khi hắn đang miên man với những ý nghĩ của mình, thì bài hát đã đi đến hồi kết. Kiga'stra bằng những cử động đặc biệt uyển chuyển, luồn hai bàn tay ra sau lưng và bắt đầu từ từ nâng chúng lên. Nhưng lần này, trên bàn tay trái cô có cầm một con dao cong nhọn hoắc với chuôi nạm ngọc lấp lánh.
- Không!- Hắn thì thầm trong khi cả thân thể chết lặng. Vì hắn biết động tác tiếp theo là gì.
Lúc này cô đã cầm con dao bằng cả hai tay và giơ nó lên quá đầu.
- KHÔNG!- Hắn gào lên rồi đứng bật dậy.
Với một cử động nhanh gọn, chính xác mà không kém phần duyên dáng. Kiga'stra đâm thẳng con dao vào bụng mình. Cô mỉm cười dịu dàng, nhẹ nhàng cúi chào rồi ngả người ra sau, thả mình vào miệng giếng cạn.
Lúc này, tất cả các thương nhân đều đồng loạt quỳ xuống và bắt đầu cầu nguyện. Chỉ còn mỗi mình hắn là bất động, hai bàn tay siết chặt, miệng há hốc. Mắt hắn vẫn nhìn chằm chằm vào cái khoảng không trước mặt, nơi mà khoảnh khắc trước đó Kiga'stra vẫn còn đang đứng.
Hắn nhìn mãi cho đến khi tất cả nhoè đi và tan biến...
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top