Thuần hoá rồng thần
Gần đây thời tiết nắng nóng, oi bức khắp nơi, lên cả báo đài trong ngoài nước.
Hôm nay tin vắn đưa tin, mấy ngày nay thời tiết Trùng Khánh nắng nóng đạt kỷ lục, oi bức đến nổi làm lộ ra bức tượng phật dưới sông.
Nghe đến đây, bỗng dưng tôi nhớ đến một câu chuyện tương tự.
Chuyện này do một đạo trưởng kể lại cách đây không lâu, liên quan tới Lạc Sơn Đại Phật.
(*) Lạc Sơn Đại Phật: tượng phật bằng đá cao nhất thế giới có lịch sử hơn 1200 năm, được tạc vào núi đá Thê Loan của núi Lăng Vân, đối mặt núi Nga Mi, nằm ở miền nam Tứ Xuyên.
Chúng tôi quen biết nhau cũng vài năm, ông nói mình tu thiên nhãn thông, có thể khai mở thiên nhãn nhìn thấu mọi điều.
Nói thật, mỗi ngày có rất nhiều người tự nhận mình là kỳ nhân dị sĩ, công năng đặc biệt liên lạc với tôi, nên tôi đương nhiên phải hỏi ông chứng minh thế nào?
Ông bảo tôi tùy tiện tìm một nơi, tốt nhất là nhà cổ để ông khai thiên nhãn bắt ma rồi đem chúng nhập vào cơ thể tôi, thông qua tôi mà giao lưu trò chuyện với chúng.
Tôi nghe xong mà hoảng, tình huống gì đây? Bắt ma nhập vào người tôi? Chơi thế cũng được?
Tôi nói: "Chuyện này tuyệt đối không được, đổi cách khác đi."
Ông nói: "Nếu không thì thế này đi, cậu tìm một ngọn núi nhỏ, tôi thi pháp tạo địa chấn cho cậu xem."
Tôi: "Aiyaa, thế cũng không được, lỡ như núi sập xuống, đè trúng mấy bạn nhỏ thì nguy to. Hơn nữa, cho dù không trúng mấy bạn nhỏ, cũng đè bẹp cây cỏ xung quanh."
Ông lo lắng nói: "Cậu bảo sao tôi làm vậy, nếu tôi làm không được, coi như tôi thua."
Tôi thấy sự việc tiến triển không hay, vốn dĩ muốn giao lưu học thuật, cuối cùng trở thành chiến trường giao đấu?
Tôi vội nói: "Tôi tin ông, chúng ta đều là thuật sĩ giang hồ, không nên làm trò đánh đánh g.iết g.iết thế kia! Khi nào có thời gian, mời ông ghé Tô Châu uống trà đàm đạo."
Nói chơi làm thiệt, hôm sau ông tới Tô Châu báo danh.
Lúc đó tôi mới vừa dọn sang Tô Châu, mua một căn nhà có viện tử khoảng 100m², chủ nhà trước là người thuần nông, cải tạo hoa viên thành một vườn rau trồng đầy củ cải với cải trắng, trông khá lộn xộn.
Nghe vậy, ông cũng muốn tới đó giúp tôi xem phong thủy.
Ông đi một vòng quanh nhà, cảm thấy trạch vị không tệ, nhưng ngó tới góc phía Đông Bắc, đột nhiên sững sờ nói: "Chỗ đó có hồn ma, tròn tròn nhỏ nhỏ, giống một con vật nhỏ, không có ác ý. Cậu có muốn tôi đánh đuổi nó đi không?"
Tôi ngó qua bụi hoa huế bên góc, chỗ đó vậy mà có ma?
Thấy ông cương quyết khẳng định, tôi liền gọi điện thoại cho chủ nhà trước hỏi góc nhà phía Đông Bắc có chôn thi thể nào không.
Chủ nhà bị dọa sợ, nghĩ rằng trong nhà xảy ra án mạng, vội hỏi tôi đang ám chỉ điều gì?
Tôi nói: "Chú đừng hiểu lầm, tôi chỉ muốn hỏi chỗ mấy bụi hoa huế có từng chôn con vật gì c.hết hay không?"
Chủ nhà trước sững sờ, nhỏ giọng nói: "Trước đây nhà tôi có nuôi một con chó nhỏ giống Chihuahua, được mười mấy năm thì c.hết, tôi đem xác nó đi thiêu, chôn tro cốt dưới bụi hoa huế trong vườn."
Tôi thầm nghĩ: "Mẹ nó, con vật nhỏ, còn tròn tròn nhỏ nhỏ, kích cỡ không to, khá chuẩn đấy chứ."
Tôi vội nhờ người đào khuôn viên lên, đào được nửa mét đất thì thấy một hủ tro cốt nhô lên, tôi nhanh chóng gói lại, nhờ họ đưa bé cún tới sân chùa chôn cất cẩn thận.
Xảy ra chuyện kỳ quặc, tôi quay sang hỏi đạo trưởng nọ: "Chuyện khai mở thiên nhãn là sao, làm sao ông tu luyện được?"
Ông nói: "Không biết tả sao, cậu thử tưởng tượng trên trán có thêm một con mắt, bình thường bị phong bế, nhưng sau khi cậu tu luyện thì có thể khai mở thiên nhãn, từ đó nhìn thấy một thế giới khác. Thế giới đó có màu xám trắng, thứ gì cũng có, ma quỷ, yêu quái, thần tiên, tất cả đều có thể nhìn thấy được."
Tôi hỏi: "Vậy ông có sợ không?"
Ông nói: "Sợ chứ, nhất là lúc mới bắt đầu khai thiên nhãn, hai thế giới chồng chéo lên nhau, tỷ như cậu thấy một người đẹp trên đường, ngước lên thì thấy linh hồn hai đứa trẻ đẫm máu nằm ngữa trên vai cô nàng nọ, quả thật dễ ảnh hưởng đến tinh thần. Đáng sợ hơn là, lúc cậu khai thiên nhãn nhìn một vài thứ không thuộc về thế giới thực tại, chúng cũng có khả năng nhìn thấy cậu. Có con nhạt như nước cất, có con thích bám đuôi cậu, nghĩ đủ trò quấy phá, phiền vô cùng."
Tôi cười ha hả, nói: "Thật thú vị."
Ông nói: "Cậu muốn mở không? Tối nay tôi giúp cậu, quả thật rất thú vị."
Tôi nói ngay: "Cái đó thì thôi đi. Đệ tử Nho gia như tôi đối với quỷ thần "tôn kính nhưng không gần gũi", chúng tôi thừa nhận trên thế giới có một vài chuyện bí ẩn không có lời giải thích, nhưng không đi sâu nghiên cứu, không mê mụi, không sùng bái."
Sau đó tôi hỏi ông, làm thế nào để học được công phu?
Ông nói mình là người Thương Châu tỉnh Hà Bắc, cái nôi của võ thuật giang hồ, nơi thật sự tồn tại công phu, Yến Tử Lý Tam năm đó cũng học khinh công từ Thương Châu. Thật ra, luyện khinh công là một công phu gian khổ, trước tiên cần phải luyện thuật tỏa cốt, dùng nước thuốc ngâm mình nhằm làm xương trở nên dẻo dai, có thể tháo dở từng khớp xương một giống như trật khớp, nơi nhỏ thế nào cũng có thể chui qua dễ dàng, còng tay cũng không thành vấn đề.
(*)Yến Tử Lý Tam: một nhân vật trong văn học dân gian TQ hiện đại, mỗi lần trộm cắp thường nhét "én/yến" bằng tờ giấy trắng vào nơi gây án, đạo tặc lấy của người giàu chia cho người nghèo.
Thời đó ông đọc cuốn Thiếu Lâm Tự, nhiệt huyết sôi trào, đi khắp nơi bái sư học nghệ, sau khi học được không ít công phu thì mở một võ quán trong vùng, thu nhận vài đệ tử thuộc dạng giàu có, sống một cuộc sống an nhàn.
Thật ra mấy đệ tử ông thu nhận chỉ là mấy tên côn đồ trong vùng hay thu tiền bảo kê, thi thoảng còn làm vài chuyện cậy thế hiếp người, mặc dù ông thấy không tốt đẹp gì nhưng ăn tiền của người ta cũng nên biết điều chút ít.
Có lần, mấy đệ tử của ông bị đánh đến đầu rơi máu chảy, vội chạy về võ đường kêu cứu với ông, ông vì đệ tử đến chỗ người nọ tìm công đạo. Ông dùng một chân phi tới liền bị người nọ nhẹ nhàng đánh bay ra, chạm nhẹ vào eo, cả người ông ngã quỵ xuống đất, toàn bộ thắt lưng như muốn gãy làm đôi.
Sau trận đánh đó, ông mất hết mặt mũi, eo bị thương, không thể tiếp tục lưu trú trong vùng, nên quyết định sang Trấn Giang làm công.
Ông vừa làm công vừa trị liệu, nghe nói bên Trấn Giang có một hộ gia đình lâu đời lưu truyền bí thuật chuyên dùng trị liệu các bệnh liên quan tới đốt sống thắt lưng, kỹ thuật xoa bóp không ai sánh bằng, vô cùng hiệu nghiệm.
Ông nói, lúc qua đó khám bệnh, eo đau đến nổi không đứng thẳng người được, cử động nhẹ cũng không dám.
Người nọ xem một tẹo, gõ nhẹ lên mặt bàn rồi bảo ông nằm trên đó để xoa bóp bấm huyệt, sau đó áp đầu gối vào thắt lưng ông, vừa mới dồn sức ấn bổng nghe một tràn tiếng "rắc", giống như tiếng xương va chạm vào nhau, từ trên xuống dưới tập hợp lại thành một trật tự vận hành y như trước.
Sau đó người nọ ấn thêm một vòng, cuối cùng nhặt vài tờ báo, cuộn lại thành vòng, đốt lên rồi ném lên lưng ông, cơn nóng ập tới bất ngờ khiến ông phải vội bò xuống giường, gắng sức dập tắt đám cháy trên lưng.
Dập được một lúc, ông mới phát hiện có gì đó không đúng, thắt lưng vậy mà không còn đau nữa!
Ông hết sức vui mừng khi tai qua nạn khỏi bèn đề nghị trả tiền thù lao cho người trung y nọ, nói thêm: "Thật không hổ là hậu nhân danh y tiếng tăm lừng lẫy, bàn tay vàng trong làng bấm huyệt."
Trung y lắc đầu, nói: "Tôi không phải là danh y gì cả, y thuật tổ truyền, bảy đời hành y, cứu sống vô số người, cuối cùng bị người ta bày mưu tính kế hãm hại trong cuộc cách mạng văn hóa, gia đình mấy người bị truy sát c.hết oan. Trước khi cha tôi lâm chung, ông đã đốt hết sách y học, còn lập lời thề không cho phép con cháu theo nghề y, ông nói 'trên đời trắng đen lẫn lộn, người không ra người, quỷ không ra quỷ, không ai đáng được cứu sống.' Tôi chỉ học sơ một tẹo, tiện tay cứu giúp, chẳng đáng là gì."
Đạo trưởng rất ngưỡng mộ tấm lòng độ lượng của ông ấy, thấy cuộc sống ông không mấy suôn sẻ nên ngỏ lời mời ông ra ngoài uống r.ượu.
Trung y đồng ý rất nhanh, hai người cùng nhau đi tới một quán r.ượu nhỏ trong thôn uống tới trời tối mịt rồi lảo đảo trở về căn nhà đột nát say giấc nồng. Cứ như thế, hai người họ ngày ngày uống r.ượu tán dóc, đợi khi đạo trưởng tiêu hết tiền đã thành bạn chí cốt của nhau.
Hết tiền uống r.ượu, đạo trưởng nói: "Vẫn nên tiết kiệm một ít tiền sống qua ngày, cưới vợ sinh con, bằng không nhà hai chúng ta coi như tuyệt hậu."
Trung y nghĩ lại thấy cũng đúng, ba tội bất hiếu, không có con là tội lớn nhất, quả thật phải cưới vợ sinh con, nếu không chẳng dám nhìn mặt liệt tổ liệt tông."
Nhưng mà làm thế nào để kiếm tiền?
Đạo trưởng kiến nghị: "Chúng ta qua Giang Nam mở võ quán, thu nhận vài ba đệ tử, không sợ bị c.hết đói."
Trung y nói: "Nếu muốn kiếm tiền, tôi có một cách."
Trước khi cha trung y qua đời, ông có để lại một bức di thư, trong di thư viết "Ông nội con từng cứu sống một cao nhân. Người đó là đại sư xem bói đoán vận, am hiểu một vài bí thuật kỳ môn độn giáp. Ông ấy từng đoán vận cho hai người trong Quốc dân Đảng và Cộng sản Đảng, một người 'thắng không rời Tứ Xuyên, bại không rời Vịnh', người còn lại ông dặn bốn số, sau đó ứng nghiệm từng người, cao nhân đó cũng vang danh một thời. Khi danh tiếng lẫy lừng, khó tránh bị người khác dòm ngó, ông bèn dùng thuốc giả c.hết làm một tang lễ giả trốn khỏi bất an, dần dần mai danh ẩn tích an nhàn sống qua ngày."
Ông dặn dò đệ tử, sau khi uống thuốc giả c.hết thì ngay lập tức cử hành tang lễ, cho người khác trực tiếp chứng khiến cảnh hạ táng trên một ngọn núi hoang cằn cõi bên Trấn Giang, để mọi người đều biết ông qua đời.
Đợi đến 7749 ngày sau, đem di thể đào lên ngâm vào một bồn nước thuốc đặc biệt trong một ngày, người nọ sẽ tỉnh dậy.
Sau đó đệ tử uống r.ượu say làm lỡ chuyện, đào thi thể ông lên muộn một ngày, sau khi đem di thể ngâm trong bồn nước thuốc một đêm thì thấy thất khứu chảy máu, người cũng không động đậy.
Đệ tử vội cõng thầy đi tìm trung y chạy chữa, ông nội ông lúc đó dùng 18 cây kim bạc, đem tính mạng thuật sĩ nọ từ quỷ môn quan trở về, sau khi được cứu sống, ông nói: "Tôi nợ ông một mạng, đời này e không trả được, sau này tôi xin trả cho hậu nhân ông."
Kể xong, trung y nói: "Giờ nghĩ lại, hậu nhân mà ông ấy nhắc tới chắc có lẽ là mình. Nếu nghèo đến tuyệt hậu, thì còn có thể là ai nữa?"
Võ sư hỏi ông: "Chuyện ông kể cũng thuộc thời dân quốc xa xưa, lão cao nhân đó còn sống được bao lâu?"
Người nọ nói: "Cũng chưa chắc, người tu hành thần thần bí bí như ông ấy, nói không chừng còn sống trên đời."
Ông nghĩ, nếu cao nhân đó c.hết đi, chắc cũng được chôn ở ngọn núi hoang cằn cõi bên Trấn Giang, bởi vì thuật sĩ nọ từng nói 'âm trạch nơi đó tốt, rất thích hợp an táng'.
Hai người họ thương lượng một tẹo, quyết định đi trộm mộ, đào huyệt mộ cao nhân đó lên, xem xem người nọ có để lại thứ gì không.
Nhân lúc trời tối, họ lần theo trí nhớ còn sót lại, tìm được mộ phần đạo sĩ.
Nơi đó rất dễ tìm, bởi vì ngọn núi hạ huyệt năm đó có hình cái mông phụ nữ, họ trông thấy ngọn núi từ xa, dựa vào hình dạng ngọn núi mà tìm ra nơi chôn cất, cuối cùng tìm thấy một bia đá.
Chỉ không biết dưới tấm bia đá lạnh lẽo này là ngôi mộ trống hay mộ ngôi thật?
Sau khi đốt tiền giấy, hai người họ khích lệ lẫn nhau, đào từng lớp đất mộ phần lên, cuối cùng phát hiện một cỗ quan tài.
Cỗ quan tài này rất kỳ lạ, không có đinh cố định, càng không mục nát theo thời gian, hai người đẩy nhẹ một cái, nắp quan tài theo đó trượt xuống.
Nhưng trong quan tài hoàn toàn không có người, chỉ có một bộ quần áo nhạt màu phủ bụi trong quan cỗ quan tài lạnh lẽo.
Hai người có chút sợ hãi, bởi vì quần áo mũ giày được xếp vô cùng ngay ngắn giống như có người mặc chúng nằm trong quan tài, sau đó thi thể đột nhiên biến đâu mất dạng, chỉ còn sót lại bộ quần áo mà thôi.
Hai người sợ hãi lùi về sau mấy bước, suýt chút nữa ngã nhào xuống đất.
Trung y cắn răng nói: "Không được, trước đây chính miệng ông ấy nói nợ gia đình tôi một mạng, tôi không sợ ông ta, tôi phải đến đó đòi lại công bằng."
Trung y nhắm mắt bước đi, tay cầm đèn pin rung lắc dữ dội, bước tới nhìn kỹ vào cỗ quan tài mới phát hiện, dưới lớp quần áo phủ đầy bụi giấu một quyển sách, ông vội cầm lấy cuốn sách nhưng không dám mở ra xem, vội ngoắc võ sư lại cùng nhau đóng nắp quan tài, chôn xuống đất một lần nữa, sau đó ba chân bốn cẳng ôm sách chạy mất dạng.
Về tới nhà, hai người họ mở sách ra xem, bên trong sách ghi chép lại hai bí thuật tu hành: khai mở thiên nhãn và kỳ môn độn giáp.
Hai người họ nhìn nhau, thầm nghĩ có lẽ đây là ý trời, hai người chia nhau ra tu luyện, võ sư học thuật khai mở thiên nhãn, trung y học thuật kỳ môn.
Hai người như có tố chất, lại có sách thần trợ thủ, tiếp thu nhanh chóng, vận dụng thành thạo, cuối cùng gầy dựng được chút thành tựu.
Có điều, quy chung vẫn chẳng có tiền.
Không những không tiền, mà gia cảnh càng ngày càng túng quẫn, nghèo đến còn mỗi một cái quần.
Hôm nào người kia ra ngoài thì người nọ nằm ở nhà chờ, không dám đi đâu.
Nếu như quần dơ, thì đành chịu, hai người chỉ có cách nằm nhà, đợi quần sạch khô mới có thể ra ngoài.
Hai người họ nghĩ: "Thế không được, chẳng khác nào chờ đói c.hết! Không được, không được, phải làm một mẻ lớn!"
Nhưng làm sao để đánh một trận lớn đây?
Họ bắt đầu suy nghĩ vớ vẩn.
Thời đại những năm 90 về trước, có đủ loại tạp chí đường phố hay rất nhiều cuốn sách kỳ quái gây tò mò cho người đọc, thể loại bán chạy nhất là những cuốn kể về bí thuật cấm kỵ khắp nơi, các loại bí thuật không thể phá giải hay bí ẩn về tam giác quỷ Bermuda, cổng địa ngục núi Côn Lôn.
Sau đó họ đọc được một bài báo nhắc về sự mất tích bí ẩn của những kho báu Trung Quốc, ví như thuyền chở kho báu của Nhật Bản bị chìm ở hồ Bà Dương, thuyền cổ mất tích ở Biển Đông, thần bí nhất vẫn là kho báu bí ẩn chôn vùi dưới lòng sông tỉnh Tứ Xuyên của Trương Hiến Trung.
Họ thầm nghĩ: "Đúng a, một khi tìm thấy kho báu khổng lồ của Trương Hiến Trung, há chẳng phải chớp mắt trở thành 'phú khả địch quốc'! Vả lại chỗ tài sản đó không có chủ, không có chủ có thể lấy đi, coi như lấy của người giàu chia người nghèo!"
(*) Trương Hiến Trung: lãnh tụ khởi nghĩa nông dân cuối thời nhà Minh, gắn với câu chuyện 1000 con thuyền chở bạc bị chìm.
(*)phú khả địch quốc: giàu hơn cả một nước.
Hai người cùng nhau thương lượng, mượn tiền mua một chiếc quần, sau đó mua hai vé tàu đi Tứ Xuyên.
Tới nơi, họ bắt đầu áp dùng những gì học được trong sách, một người bói toán, một người khai thiên nhãn, cuối cùng quả quyết một nơi: Lạc Sơn Đại Phật.
Ông nói, Lạc Sơn Đại Phật tọa lạc tại nơi giao hợp của ba con sông lớn, được mẹ thiên nhiên ưu ái, vào buổi tối khi khai thiên nhãn, dưới dòng nước xoáy sùng sục thoắt ẩn thoắt hiện ánh vàng ánh bạc của kim ngân châu báu, những thỏi vàng trắng sáng đến hoa cả mắt.
Hai người bàn bạc làm thế nào xuống dưới đáy sông trộm bảo vật.
Năm đó Tứ Xuyên hạn hán nghiêm trọng, nhìn mực nước sông ngày càng giảm khiến hai người vui như mở hội, họ quyết định định cư bên sông, mở sập bói toán kiếm chút tiền, mua một số thiết bị lặn đơn giản, chỉ cần đợi nước sông giảm xuống là có thể lặn xuống tìm kho báu.
Một tối nọ, hai người ngồi uống r.ượu bên sông, đang uống thì nghe thấy tiếng ầm ầm như có vật gì nổ dưới lòng sông, dưới nước đột nhiên xuất hiện một vệt nước lớn, có thứ gì đó đang bơi trong nước tạo thành một đường nước khổng lồ, sóng nước ập đến bao trùm cả bầu trời như thể trời đang mưa rất to.
Hai người thấy rất hiếu kỳ, hình như dưới nước có vật gì đó đang cựa quậy?
Họ vứt bình r.ượu đang uống dở, đứ mắt nhìn không rời dòng nước cuộn trào dưới lòng sông, men theo đó từ từ đi khỏi sập bói toán.
Nước bắn tung tóe khắp nơi, cuối cùng dừng bên Lạc Sơn Đại Phật, sau đó bỗng dưng nghe thấy một tiếng ầm, tiếp đó yên lặng như tờ.
Họ nhìn nhau gật đầu, đi xuống vách núi dưới chân tượng phật, vừa xuống dưới thì phát hiện nước dưới sông bên kia bức tượng đã rút cạn, lòng sông xuất hiện vô số những bãi sông khô cạn kéo căng ra thành nhiều mảng lớn.
Khi dùng đèn pin chiếu xuống, dưới lòng sông vậy mà có một con bạch xà khổng lồ, nó không ngừng cựa quậy, lắc đầu vẫy đuôi, chuẩn bị tập kích.
Hai người sợ kêu thất thanh, hướng dọc bờ sông chạy tán loạn, chạy được mấy bước, ngoảnh đầu lại nhìn thì thấy nước trắng xóa một màu, làm gì có con bạch xà nào?
Tiếp tục nhìn lại lần nữa, vệt nước dài trắng xóa không phải bạch xà mà là một sợi xích sắt dày đến cổ tay, sợi xích sắt không bị gỉ mà sáng trắng dị thường, nhìn từ xa trông như một con bạch xà khổng lồ.
Hai người tò mò nghĩ, sợi xích này rốt cuộc là thứ gì?
Kỹ thuật bơi lặn của trung y rất tốt, sống cạnh Thái Hồ từ nhỏ, lúc đó bèn đề xuất một cách, dứt khoát đeo thiết bị lặn lên người, lặn xuống dưới sông, men theo sợi xích sắt trắng nọ tìm hiểu xem rốt cuộc dưới lòng sông đang xảy ra chuyện gì.
Đạo trưởng không yên tâm, bởi vì thiết bị lặn của họ cực kỳ thô sơ, dường như chỉ có ống nước gắn vào mũ bảo hiểm, nguy hiểm khôn lường.
Ông về nhà lấy một sợi dây thừng dài, quấn vào eo trung y dặn dò: "Nếu trong ba phút không có động tĩnh, tôi sẽ kéo ông lên."
Trung y xuống nước vài lần, tìm tới tìm lui không thấy thứ gì, sau đó nói bản thân sẽ lặn tới chỗ nước sâu hơn, bảo đạo trưởng đợi chừng 5-6 phút.
Đạo trưởng đợi một lát, bỗng dưng nghe thấy tiếng ầm như có vật gì phát nổ vang lên từ dưới lòng sông.
Ông đưa mắt nhìn theo, thấy sợi xích dưới nước đột nhiên duỗi thẳng, như thể đang có thứ gì đó đang kéo nó ở đầu bên kia sợi xích.
Ông giật mình, vội nắm lấy sợi dây thừng trong tuyệt vọng, cố gắng kéo trung y từ dưới nước lên, nhưng sợi dây thừng giống như bị mắc kẹt dưới nước, hoàn toàn không thể kéo lên.
Đạo trưởng bị dọa sợ muốn tắt thở, lớn tiếng gọi tên trung y, dùng hết sức kéo sợi dây thừng lôi trung y lên bờ.
Kéo mãi kéo mãi, ông phát hiện sợi xích dưới nước không ngừng nối dài, tiếp đó có tiếng cạch cạch phát ra từ sau bước tượng Phật, giống như có cơ quan nào đó đang chuyển động.
Lúc này, phía xa xa bên kia sông, bổng dưng truyền tới tiếng thổi sáo.
Tiếng sáo không cao nhưng rất có lực vọng đến từ ven sông, tiếng sáo thần bí lập tức bao trùm toàn bộ không gian khiến người ta như chìm vào giấc mộng say.
Lúc này, ông cảm thấy sợi dây thừng đột nhiên buông lỏng, tiếp đó duỗi thẳng, biết trung y vừa thoát khỏi chỗ nguy, đạo trưởng dùng hết sức kéo sợi dây, cuối cùng đưa được người bạn từ quỷ môn quan trở về, khi lên đến bờ, mặt trung y tái mét, tay chân lạnh ngắt tựa như đã c.hết.
Ông vác trung y trên lưng, chuẩn bị đi tới bệnh viện thì nghe thấy tiếng nổ ầm sau lưng.
Quay đầu nhìn lại, toàn bộ mặt sông sôi trào sùng sục, dưới sông tạo thành một cơn lốc xoáy khổng lồ, trong lòng sông còn có một con vật lớn, lắc đầu vẫy đuôi, bơi ngược hướng cơn lốc.
Nhưng trước mặt con vật nọ xuất hiện một người đàn ông mặc đồ đen đứng trên mặt nước thổi sáo.
Ông nói: "Người đó, vô cùng lợi hại!"
Tôi nói: "Đúng vậy, ngay cả thủy quái cũng không sợ!"
Ông lắc đầu, nói: "Ý ta không phải vậy. Lúc đó người nọ đứng trên mặt nước cách ta rất xa, ta nhìn không rõ người nọ rốt cuộc đứng trên thuyền hay đứng trên nước, nhưng lúc đó sóng to gió lớn, nước chảy cuộn cuồn, người nọ vẫn không màng nguy hiểm, xông tới chỗ lốc xoáy. Ta thậm chí còn nghi ngờ, người nọ đứng trên lưng một con vật khổng lồ..."
Ông nói, lúc đó hoảng loạn vô cùng, người trung y không rõ sống c.hết, sau khi đưa tới bệnh viện, nôn ra nửa chậu nước lớn, khó khăn lắm mới giữ được một mạng.
Tôi hỏi ông: "Trung y nọ nhìn thấy cái gì dưới nước?"
Ông nói: "Trung y nói, lúc men theo sợi xích sắt xuống dưới, nước sông đục ngầu, kính lặn không tốt nên nhìn gì cũng không thấy rõ. Ông ta không cam tâm, quyết định bơi ngược hướng xích sắt nhưng càng bơi càng sâu, cuối cùng rơi vào một hang động.
Hang động tối như bưng, nhìn không rõ chung quanh, lớp đất đá dưới chân được bao phủ bởi một lớp nhờn đặc quánh trơn nhớt khó tả. Ông ta leo xuống hang, lúc đầu diện tích hang rất hẹp, nhưng càng đi sâu xuống dưới thì không còn bất kỳ giọt nước nào đọng lại, lộ ra một hang động khổng lồ.
Trung y mở mũ ra, đảo mắt nhìn quanh, phát hiện trong hang nhuốm màu trắng xóa, những bộ xương trắng chất đầy từng lớp, một số thối rữa toàn bộ, rất nhiều thi thể mới chỉ thối rữa phân nửa, còn có một vài đống phân trắng xám bốc mùi hôi thối, giống như một bãi tha ma không người nào được chôn cất."
Ông nói: "Trong hang còn có vô số sơn động nối tiếp nhau thành dãy, không biết sâu bao nhiêu, rộng chừng nào, vả lại bên trong có rất nhiều cột trụ như đồng thau, dày gần bằng thắt lưng người, trên cột trụ còn được khảm một chùm xích sắt, những sợi xích có lỏng có chặt, như thể đang kéo thứ gì.
Trên sơn động còn được khảm ống dẫn rất dài bằng đồng thau, không biết dùng để làm gì, chúng kéo dài dọc theo hang như ống sưởi, trên ống dẫn còn được khoét vài lỗ thông gió, chúng cứ truyền tới vô số thanh âm kỳ dị, có chút giống tiếng thở dài của con người, nói chung vô cùng cổ quái.
Lúc đó ông muốn tới đó xem, đột nhiên bên ngoài ập vào một cơn xoáy nước, cuốn ông ngã xuống, kết quả sợi dây thừng buộc quanh eo bị mắc vào một sợi xích sắt, tiếp đó đạo trưởng bên ngoài dùng sức kéo mạnh, suýt chút nữa siết cổ c.hết trung y.
Không lâu sau, xoáy nước đột nhiên dừng lại, sau đó cuốn ra ngoài, nước hút lấy người trung y tuột xuống sơn động như chiếc cầu trượt, khiến ông nghẹn vài ngụm nước, lơ ngơ không biết chuyện gì đang xảy ra."
Sau đó đạo trưởng mới biết, hóa ra khi khai thiên nhãn, những thứ trắng vàng sáng lấp lánh đến chói mắt hoàn toàn không phải vàng bạc châu báu mà là những mảnh xương trắng và trụ đồng vàng. M* nó, học nghệ không tinh thông quả thật giống như tự tìm đường c.hết, suýt chút nữa mất m* sinh mạng nhỏ bé!
Ông nói: "Sau khi trải qua chuyện này, chúng tôi quyết định cải tà quy chính, tôi chuyên tâm tới công trường làm công, cưới vợ sinh con, làm tới chức quản đốc không lâu thì chuyển sang làm ăn nhỏ lẻ, cuộc sống ổn định. Còn trung y vẫn xem bói đoán vận cho người ta, cuối cùng gầy dựng được chút tiếng tăm."
Tôi hỏi ông: "Thứ cựa quậy trong lòng sông năm đó rốt cuộc là thứ gì?"
Ông nói: "Bên kia xích sắt có một con vật khổng lồ còn sống, có lẽ là một con rồng, thậm chí là một đám rồng bị nhốt dưới đáy sông hoặc được ai đó nuôi dưỡng để trông giữ một thứ gì đó."
Tôi ngạc nhiên: "Một con rồng được nuôi dưới đáy sông?"
Ông gật đầu: "Tương truyền hợp lưu Đại Phật Lạc Sơn trấm yểm một thứ gì đó, có thể chính là trấn áp con rồng kia."
Tôi lại hỏi: "Vậy còn người thổi sáo trúc?"
Ông nói: "Người nọ có thể là người thuần hóa rồng."
Tôi: "Trên đời này thực sự có người thuần hóa rồng?"
Ông gật đầu, bảo có thật, ông từng gặp một người thuần rồng ở núi Côn Lôn, mà đó lại là chuyện khác cơ.
Trời cũng về khuya, hôm nay tới đây thôi nhé, lần sau chúng ta kể tiếp.
---------------------------------------
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top