Q2- Chương 6: Truyền thuyết

Editor: Hoàng Văn Đạt

Quyển 2: Người đuổi theo ánh sáng
Chương 6: Truyền thuyết

Lối vào chính của hầm mộ nằm ở Quảng trường Purgatoire gần Đài thiên văn Intisian. Khối kiến trúc có chứa lối vào được chống bởi hàng loạt những cây cột, phần đỉnh của nó là một mái vòm phủ kín những bức tranh chạm nổi trên đá, khiến người ta liên tưởng đến một nhà tưởng niệm thu nhỏ hoặc phần nằm trên mặt đất của một lăng mộ khổng lồ.

Lúc Lumian đến nơi thì đã có hai ba mươi người tụ tập ở gần cầu thang dẫn xuống. Cách ăn mặc của họ tuy không giống nhau, nhưng tất cả đều cùng kiểu trang trọng, cả nam và nữ.

Đứng trước đám đông là một người đàn ông khoảng hơn ba mươi, mặc vest lam, quần dài màu vàng. Mái tóc màu nâu của gã hơi xoăn, râu ria rậm rạp, mắt hơi hếch lên, trong tay cầm theo một ngọn đèn khí đá còn chưa được thắp.

Gã nói với hai ba mươi người kia bằng giọng vang to: “Tôi là Kendall, một trong số những nhân viên quản lý của hầm mộ. Hôm nay tôi sẽ chịu trách nhiệm dẫn các bạn đi tham quan nơi để hài cốt.”

"Mọi người đã chuẩn bị trước một ngọn nến trắng rồi chứ? Nếu chưa thì xin hãy báo ngay cho tôi."

Khách du lịch? Lumian hướng mắt về phía cầu thang đá phía sau Kendall. Nó cứ kéo dài như vô tận xuống dưới, mất hút trong bóng tối dày đặc, không thể thấy được điểm cuối.

Tại chỗ cách Kendall không xa có một cánh cửa gỗ dày, nặng trĩu để mở. Một nửa của nó được trang trí bởi Thánh huy Mặt trời vẽ bằng sơn vàng, nửa còn lại thì là hình tam giác kiên cố có các biểu tượng như hơi nước, đòn bẩy, bánh răng lấp đầy khoảng trống bên trong.

Sau khi nhận đủ câu trả lời, Kendall thắp đèn khí đá, quay người lại đi về phía bóng tối dày đặc. Theo sát ngay sau là các du khách, một số người còn cầm theo đèn bão.

Lumian đi cách họ bốn, năm mét, cầm ngọn đèn khí đá lấy được từ Ramayes, thong thả dạo bước xuống theo từng bậc thang.

Với đôi tai siêu thính của mình, không khó để cậu nghe rõ lời giới thiệu của Kendall đi đầu:

"Sau khi đi được 138 bậc, ở vị trí cách đường phố Trier 26 mét, các bạn sẽ thấy những bộ hài cốt của gần năm mươi thế hệ người Trier."

“Đấy là ước tính tối thiểu, trên thực tế không chỉ là năm mươi thế hệ. Lịch sử của một vài nơi để hài cốt trong hầm mộ thậm chí còn có thể truy nguyên về tận một thế kỷ trước...”

“Bốn mươi bảy năm trước, Nghĩa trang Innocents và Nghĩa trang Prêtres không còn chỗ để chôn người chết, xương trắng bị vứt khắp mọi nơi, mùi hôi thối bốc lên khiến cư dân xung quanh ngày ngày xuống đường biểu tình, yêu cầu tòa thị chính di dời nghĩa trang ra ngoài thành phố..."

"Cuối cùng, phương án tòa thị chính đã chọn là dưới lòng đất. Họ nối thông một vài ngôi mộ từ kỷ nguyên thứ tư với nhiều mỏ đá dưới lòng đất ở gần đó, tạo thành một huyệt mộ vô cùng, vô cùng lớn... Những gì hôm nay các bạn có thể tham quan vỏn vẹn chỉ là một phần của nó..."

Giọng Kendall vang vọng trong cầu thang tĩnh lặng, tối tăm, không nhìn thấy điểm cuối, khiến người ta bất giác sinh ra một nỗi sợ với ngôi mộ và lòng đất.

Theo từng bậc thang dẫn xuống, cuối cùng Lumian cũng nhìn thấy một con đường được phân ra bởi đống cột đá và tường chắn.

Không giống như những chỗ khác dưới lòng đất, con đường này rõ ràng từng được tu sửa, đồng thời cũng được bảo trì hàng ngày, hoàn toàn không thấy có ổ gà nào cả, vừa bằng phẳng lại vừa rộng rãi, chỉ trừ có hơi âm u, thi thoảng lại có từng cơn gió lạnh lẽo thổi qua.

Thường cứ cách một đoạn trên con đường này là lại có một ngọn đèn khí được lắp. Ánh lửa hơi vàng mà chúng phát ra hòa ánh sáng và bóng tối lại với nhau, kéo dài về nơi sâu.

Kendall trong bộ vest xanh lại một lần nữa nhắc nhở du khách đến tham quan: "Mọi người nhớ phải theo sát tôi, không được đi lang thang một mình!"

“Dưới lòng đất có quá nhiều khu vực mà chúng ta chưa hiểu hết, một khi bị lạc đường thì gần như không thể tìm thấy các bạn.”

"Khi đã vào trong mộ thì cũng không được đi lung tung, nơi đây có một số con đường dẫn đến khu mộ nằm dưới tầng sâu hơn. Đám ác linh của kỷ nguyên thứ tư trốn trong bóng tối ngủ ngay ở những chỗ như thế. Ca ngợi Mặt trời, ca ngợi Ánh sáng. Chỉ đi đúng lối được các Cha xác nhận thì mới có thể tránh được mọi nguy hiểm."

Một phần khách tham quan dang tay ra ca ngợi Mặt trời, một phần khác thì vẽ hình tam giác lên ngực.

Sau khi đi theo Kendall và những người khác gần hai trăm mét về phía trước, Lumian cuối cùng đã nhìn thấy huyệt mộ dưới lòng đất.

Nơi đó có một cổng tò vò đá tự nhiên, về sau được cải tạo thêm đứng sừng sững.  Hai bên của nó được chạm kín các bức phù điêu tinh xảo như đầu lâu, cánh tay xương, hoa mặt trời, biểu tượng hơi nước.

Trên cùng của lối vào thì có khắc hai dòng chữ bằng tiếng Intis:

“Dừng lại!”

“Đế quốc Tử Vong ở ngay phía trước!”

Nhân viên quản lý hầm mộ Kendall lại quay lại nói với những vị khách tham quan lần nữa:

“Xin hãy tắt đèn bão, thắp nến trắng lên. Ai cũng phải làm như thế!”

“Nếu không muốn vào trong mộ thì có thể đi dạo loanh quanh nơi này, nhưng cũng đừng đi quá xa, bởi rất dễ lạc đường, đến lúc đó thì rắc rối to.”

"Sau khi tiến vào trong mộ, nếu chẳng may bị tách khỏi nhóm thì đừng quá lo, cứ tìm biển chỉ dẫn, còn nếu không có biển chỉ dẫn thì hãy nhìn lên trên đầu, đi theo đường màu đen được vẽ trên trần hầm mộ, nó sẽ dẫn đến lối ra vào chính…”

Chẳng mấy chốc, ánh sáng của đèn bão tắt ngóm, thế vào đó là từng ánh nến màu da cam lập loè trong bóng tối.

Những vị khách tham quan đồng loạt giơ ngọn nến trắng lên, đi theo Kendall vào hầm mộ.

Lumian nhìn lại từ xa thì như thấy từng chấm lửa hơi vàng hoà vào nhau thành một dòng suối, chầm chậm đổ vào nơi sâu trong bóng tối.

Cậu không tiến vào mà xách theo ngọn khí đá, đi loanh quanh lối vào chính để kiếm gã phù thủy rởm Osta Trul.

Vài phút sau, Lumian phát hiện một đống lửa.

Nó nằm ngay cạnh một cây cột, còn bức tường đá phía trên thì có rất nhiều đám rêu ẩm ướt bám lên.

Phía sau đống lửa, trên một tảng đá có một người đàn ông đang ngồi. Gã ẩn trong chiếc áo choàng đen có mũ trùm đầu, sở hữu cái mũi dọc dừa, đôi mắt nâu sẫm và bộ râu màu nâu vàng nhạt phủ kín cằm. Hiện giờ gã đang nhìn chăm chú vào ngọn lửa bập bùng trước mặt.

Lumian đi tới, hỏi thẳng:

"Ông là Osta Trul?"

Người đàn ông mang mũ trùm đầu ngẩng lên, nhìn về hướng Lumian, nói với một giọng trầm, từ tính và như kiểu cố ý nén xuống:

“Ôi một linh hồn lạc lối, tại sao cậu lại tìm đến ta?”

Ánh lửa và bóng tối thay phiên nhau nhảy múa trên khuôn mặt của Osta Trul, khiến người ta không thể đoán ra được tuổi gần đúng của gã, mà chỉ có thể ước chừng có lẽ chưa đến ba mươi, hoặc cũng có thể là gần bốn mươi.

Lumian nói với vẻ thành khẩn:

“Tôi từng nghe thấy người ta nhắc đến ông, rằng ông là một phù thuỷ mầu nhiệm, có thể giúp tôi giải quyết vấn đề vướng mắc của mình.”

Osta Trul đáp với giọng khàn khàn, xen lẫn chút từ tính:

“Thuật phù thuỷ là một thứ cấm kỵ, là một lời nguyền. Ta sẽ không giúp đỡ tuỳ tiện.”

“Tôi cần phải làm gì?” Lumian hỏi gấp.

Osta trả lời với giọng trầm thấp:

“Nguyên tắc của thuật phù thuỷ là trao đổi đồng giá, trước tiên cậu nói cho ta biết cậu cần gì ở ta.”

Trao đổi đồng giá? Đọc tiểu thuyết quá đà à? Lumian cố nén thôi thúc muốn kháy đểu và khiêu khích để bày ra vẻ thống khổ:

“Tôi đã mất đi tất cả người thân yêu, tôi cảm thấy như bị thế giới này ruồng bỏ. Không một đêm nào, không một đêm nào tôi được yên giấc, tôi muốn quên đi những nỗi đau này để bắt đầu lại từ đầu.”

Osta Trul quan sát biểu cảm của Lumian thì không thấy có tý nào là giả vờ.

Gã khẽ gật đầu: “Ta cũng đã mất đi rất nhiều, đó là lời nguyền mà thuật phù thuỷ mang đến. Ta có thể hiểu được cảm xúc và suy nghĩ của cậu.”

“Nhưng để quên đi nỗi đau lại rất khó.”

“Vậy sao...” Lumian thở ra một hơi thật dài, xoay người lại chuẩn bị rời đi.

Osta vội gọi cậu lại:

“Đợi đã, rất khó không có nghĩa là không thể.”

"Thật ư?" Lumian bỗng quay đầu lại, với vẻ kích động ngập tràn khuôn mặt.

Osta gật khẽ đầu, nói:

“Cậu đã từng nghe nói đến suối Người phụ nữ Samarian chưa?” (1)

"Chưa." Lumian lắc đầu.

Osta liếc đống lửa đang cháy, giải thích đơn giản:

“Ở một nơi đặt hài cốt nào đó trong hầm mộ có một con suối đục ngầu. Nó được gọi là suối Người phụ nữ Samarian, ngoài ra còn được gọi là suối Lãng Quên, suối Quên Lãng. Chỉ cần uống nó là mọi ký ức thống khổ của cậu sẽ bị xoá sạch.”

“Đương nhiên đó là lời giả dối, nó chỉ là một vũng nước để lại do sai sót trong quá trình thi công hầm mộ, sau đó được những nhân viên quản lý lồng ghép thêm thành truyền thuyết."

Thấy hy vọng trong mắt Lumian chuyển dần sang thất vọng, Osta Trul tiếp tục nói:

  “Nhưng là một phù thủy, ta có thể tiết lộ cho cậu biết, ở sâu trong thế giới dưới lòng đất này, trong một hầm mộ nghi là di tích của kỷ nguyên thứ tư, thực sự có suối Người phụ nữ Samarian.”

“Rất nhiều thi hài đều đang xướng ca ở đó, xướng: 'cùng uống dòng nước của sự quên lãng hạnh phúc nào, cùng quên đi nỗi thống khổ nguyên sơ'."

"Ta có thể lấy giùm cho cậu, nhưng không thể đi trái với nguyên tắc trao đổi đồng giá. Cậu cần đưa lại cho ta 100 Verl d'or."

100 Verl d'or? Rẻ vừa thôi chứ? Việc nguy hiểm như tìm kiếm một thứ trong truyền thuyết mà không đòi vài ngàn Verl d'or thì bảo người ta tin làm sao cho được? Lumian vốn đang nghe rất chăm chú, nhưng sự không cân xứng về giá khiến cậu muốn phì cười.

Nước suối quý giá như thế mà còn không sánh bằng hai tháng lương của một thực tập nhân viên phục vụ?

Cậu đã từng đọc qua truyền thuyết suối Người phụ nữ Samaritan mà trên tạp chí "Thông Linh". Lúc ấy Aurore còn lẩm bẩm một từ mà cậu nghe không hiểu, cách phát âm đại khái là "Mạnh Bà".

Tạp chí "Thông Linh" cũng cho rằng suối Người phụ nữ Samaritan là một truyền thuyết do các nhân viên quản lý hầm mộ cố ý thêu dệt nên, nhưng họ tin rằng truyền thuyết này sẽ không vô căn cứ, rất có thể ở một nơi nào đó trên lục địa Bắc thực sự tồn tại một con "suối Lãng Quên".

Lumian mở to mắt ra, lao đến bên Osta, ấn vào vai gã nói:

"Thật ư?"

Osta đẩy tay cậu ra, bình tĩnh gật đầu:

"Đây là lời cam kết của một phù thủy."

"Được, được!" Lumian kích động trả lời, “Nhưng tôi không đem theo nhiều tiền như thế, giờ tôi quay về, xong mai đến đây tìm ông được không?”

Osta hài lòng gật đầu:  "Không thành vấn đề."

Lumian liên tục nói cảm ơn, xong xách ngọn đèn khí đá lên, rời khỏi khu vực trong phấn khích.

Đến khi rời khỏi tầm mắt của Osta, nụ cười trên mặt Lumian biến mất. Cậu giơ bàn tay phải lên để ngửi mùi nước hoa thoang thoảng trên đó.

Trước khi đến khu l’Observatoire, cậu đã xịt một ít nước hoa rẻ tiền lên tay phải, và động tác chạm vào người Osta vừa rồi là do cậu cố tình.

Đi một mạch về lại trên mặt đất, Lumian nấp kín sau cây cột, kiên nhẫn chờ đợi.

Sắc trời tối dần, khi hoàng hôn sắp sửa buông xuống, cậu ngửi thấy mùi nước hoa thoang thoảng quen thuộc kia.

Lumian không vội vã đuổi theo mà đợi một lúc lâu mới ra khỏi chỗ nấp. Cậu lần theo mùi còn sót lại của Osta, giữ một khoảng cách xa tới mức gần như không nhìn thấy đối phương đâu.

Từng cỗ xe ngựa lướt qua cậu, thỉnh thoảng lại có những cỗ máy choáng ngợp vụt qua.

(1): nếu mình không nhầm thì lấy từ Kinh thánh, đoạn Người phụ nữ Samaritan bên giếng nước.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top