Quản lý tổng hợp đới bờ, hướng tới phát triển bền vững ở Việt Nam

Quản lý tổng hợp đới bờ, hướng tới phát triển bền vững ở Việt Nam

Hứa Chiến Thắng1

1. Biển và ven biển Việt Nam quan trọng nhưng bất cập về quản lý

Việt Nam có vùng biển rộng lớn với diện tích trên 1 triệu km2

, đường bờ biển dài khoảng

trên 3260km và có hơn 3000 hòn đảo lớn nhỏ nằm dọc chiều dài bờ biển từ Bắc đến Nam.

Bờ biển bị chia cắt bởi nhiều cửa sông lớn, góp phần tạo ra các hệ sinh thái giàu chất dinh

dưỡng, là điều kiện cho sự sinh tồn và phát triển của nhiều loài động, thực vật. Các bãi

tắm, đụn cát, vách đá, đầm phá, các khu rừng ngập mặn, rạn san hô, thảm cỏ biển, vũng,

vịnh, đảo... dệt thành một tấm thảm thiên nhiên sinh động và vô cùng giá trị của vùng ven

biển. Những bãi biển cát trắng và thoải ở Quảng Ninh, Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Quảng Bình,

Đà Nẵng, Hội An (Quảng Nam), Quảng ngãi, Tuy Hoà, Khánh Hoà, Bình Thuận và Vũng

Tàu, v.v… được nhiều khách du lịch nước ngoài biết đến; Vịnh Hạ Long với hàng nghìn

hòn đảo tạo thành một phong cảnh có một không hai trên thế giới và đã được hai lần công

nhận là Di sản Thiên nhiên Thế giới từ năm 1994. Nhiều loài trong các hệ sinh thái biển và

ven bờ có giá trị kinh tế cao, đặc biệt là cá biển, tôm hùm, các loài giáp xác và hai mảnh

vỏ, không ít loài trong số chúng thuộc loại quý hiếm đã ghi nhận trong Sách đỏ của Việt

Nam và Thế giới. Khoảng 50% đô thị lớn và quan trọng của cả nước nằm ở dải ven biển.

Có 23,1% dân số Việt Nam sống tại các khu đô thị ven biển. Tỷ lệ đô thị hoá tại vùng ven

biển đạt trên 35% (so với 33% của cả nước) và đến năm 2025 sẽ đạt trên 40%. Dân số các

huyện ven biển Việt Nam khoảng 20 triệu người, chiếm gần 1/4 dân số toàn quốc, trong

khi diện tích chỉ chiếm 16%. Nhiều hoạt động kinh tế liên quan đến biển đang phát triển rất

mạnh, mang lại lợi ích to lớn cho nền kinh tế quốc dân, trong đó phải kể đến việc phát triển

cảng biển và giao thông hàng hải; đánh bắt và nuôi trồng hải sản; du lịch ven biển; khai

thác khoáng sản, như dầu và khí đốt ở thềm lục địa, than ở vùng ven bờ và các loại khoáng

sản khác nhau (titan, đồng và cát thuỷ tinh) ở bờ biển và các cửa sông; phát triển mới các

khu kinh tế lớn (như Chu Lai, Dung Quất, Chân Mây - Lăng Cô,...). Biển Việt Nam có

tiềm năng phát triển ngành năng lượng liên quan đến sóng, thủy triều, dòng chảy...; Ngoài

ra, biển là cầu nối giữa các vùng trong quan hệ thương mại với quốc tế, đồng thời có vị trí

chiến lược về quốc phòng.

Mặc dù có vùng biển rộng lớn, có giá trị và tiềm năng to lớn để phát triển kinh tế biển như

vậy, chúng ta còn gặp rất nhiều khó khăn, thách thức trong phát triển bền vững biển và

vùng ven biển. Kinh tế biển và vùng ven biển Việt Nam mới phát triển và đang còn ở trình

độ thấp, chủ yếu tập trung ở vùng biển quốc gia, chưa khai thác đúng mức và đầy đủ các

loại hình tiềm năng, chưa vươn tới các vùng biển quốc tế. Quy mô kinh tế biển và vùng

ven biển nhỏ lẻ và phân tán. Cơ cấu ngành nghề và phương thức khai thác chủ yếu vẫn

mang tính truyền thống, với trình độ kỹ thuật thấp, hạ tầng cơ sở kém và phương pháp còn

lạc hậu. 

Nhiều vấn đề đang ngày càng nổi cộm, như tỷ lệ tăng dân số tại vùng ven biển rất cao; suy

giảm các tài nguyên sinh học, trong đó có nguồn lợi thủy sản; suy thoái các hệ sinh thái

quan trọng (rừng ngập mặn, rạn san hô, thảm cỏ biển, bãi triều lầy, vũng vịnh, cửa sông,

đầm phá, các đảo, ... ); suy thoái đất canh tác ven biển do nhiễm mặn hoặc phèn hoá, do

mất thảm phủ thực vật; suy giảm tài nguyên khoáng sản do khai thác cạn kiệt; ô nhiễm môi

trường nước biển tại các khu du lịch, cửa sông, bến cảng; ô nhiễm nước ngầm tầng nông

ven biển; sự cố môi trường như tràn dầu, xói lở bờ biển, bồi lắng cửa sông, thủy triều đỏ.....

Môi trường biển chưa được coi trọng và đánh giá đúng mức như là nguồn lực cơ bản cho

mọi sự phát triển của nền kinh tế xã hội. Thiếu đầu tư cho hoạt động quản lý tài nguyên và

bảo vệ môi trường biển và ven biển. Hoạt động trên biển và ven biển Việt Nam thường

xuyên đối mặt với bất lợi và rủi ro do thiên tai với cường độ lớn và tần suất cao. Trong

những năm gần đây thời tiết khí hậu diễn biến phức tạp, các cơn bão đổ bộ trực tiếp vào

nước ta ngày càng nhiều và có cường độ lớn hơn; sự cố dầu tràn vào bờ biển các tỉnh miền

Trung và miền Nam trên diện rộng; tai nạn đường biển có chiều gia tăng theo thời gian. 

2. Quản lý tổng hợp đới bờ là cần thiết

Đới bờ, về mặt tự nhiên, được hiểu một cách tương đối là đới hỗn hợp đất ven biển và biển

ven bờ, nơi hai thành phần này có tương tác

mạnh với nhau. Về mặt kinh tế-xã hội, đới bờ

là nơi diễn ra các hoạt động khai thác, sử dụng

tài nguyên và môi trường chung của nhiều bên

khác nhau cho các mục tiêu dân sinh và phát

triển kinh tế. Như vậy đới bờ dưới góc độ quản

lý là giao của 3 tập hợp môi trường biển, môi

trường lục  địa và môi trường kinh tế xã hội

(hoạt động của con người). 

Bản chất đới bờ là nơi có các quá trình tự nhiên

phức tạp như sóng, gió, bão, thủy triều, dòng

chảy, bồi lắng, xói lở …, luôn giải phóng một

lượng năng lượng khổng lồ và tạo nên sự sống

sôi động.

Về tài nguyên  đới bờ có nhiều sinh cảnh/hệ

sinh thái giá trị và phong phú như cửa sông,

đầm phá, thảm cỏ biển, rạn san hô, vũng-vịnh, đảo, bãi triều, bãi biển, đất ngập nước, núi

và rừng…, cùng nhiều tài nguyên giá trị như tài nguyên thủy sản, các hệ động thực vật, đặc

biệt là động, thực vật thuỷ sinh ven biển, khoáng sản.

Đới bờ được quan tâm nhiều nhất trong việc phát triển các ngành công nghiệp, thương mại,

du lịch, đánh bắt cá, nuôi trồng thủy sản, trồng trọt, làm muối, giao thông thủy, xây dựng

cảng, xây dựng đô thị và khu quân sự. Vì những ưu thế này mà đới bờ là nơi có mật độ dân

số cao, phân bố không đều và có tỉ lệ tăng dân số cơ học cao hơn các đới khác. Mật độ dân

số cao, cùng với sự đa dạng và cường độ lớn của các hoạt động KTXH dẫn đến sự thay đổi

mạnh và suy thoái của các thành phần môi trường tự nhiên tại đới bờ. 

Như vậy những mối quan tâm và các vấn đề cần giải quyết tại đới bờ đa dạng và phức tạp

hơn nhiều so với những đới khác. 

Các hạn chế chính trong quản lý tài nguyên và môi trường đới bờ hiện nay là vấn đề nhận

thức, kiến thức còn yếu và cơ chế quản lý chưa phù hợp. Không chỉ cộng đồng, mà ngay cả

các nhà quản lý, ra quyết định cũng chưa hiểu đúng về bản chất, sự vận động và giá trị của

đới bờ. Điều này không những hạn chế việc nhận được ích lợi từ việc sử dụng đới bờ, mà

còn làm mất đi giá trị vốn có của nó và nhiều khi lại có tác động tiêu cực trở lại đối với đới

bờ. Cơ chế quản lý nặng theo ngành và theo lãnh thổ hiện nay còn thiếu nhiều chính sách

và luật pháp hợp lý liên quan đến quản lý đới bờ. Ranh giới trên biển và đới bờ biển chưa

được xác định rõ ràng như trên đất liền. Không gian biển, trong đó có không khí, nước, các

bãi biển,  đảo và các nguồn tài nguyên thủy sinh, thường  được nhiều ngành, nhiều  đối

tượng cùng sử dụng, nhưng cơ chế điều phối, hợp tác phù hợp lại chưa được xây dựng. 

Chính vì vậy QLTHĐB đã ra đời. Nó được xem như một hệ thống quản lý TN&MT theo

cách tiếp cận tổng hợp với quá trình lập kế hoạch được tiến hành xen kẽ với việc thực hiện

kế hoạch, nhằm giải quyết những vấn đề quản lý phức tạp ở đới bờ. Nó khắc phục được

những khiếm khuyết trong quản lý đơn ngành và theo lãnh thổ, nhờ việc giải quyết các bất

hợp lý (kẽ hở và mâu thuẫn) trong sử dụng không gian và tài nguyên  đới bờ giữa các

ngành, cơ quan và cộng đồng.

Mục tiêu chính của QLTHĐB là điều phối các hoạt động của các ngành kinh tế khác nhau

trong vùng bờ để đạt được kết quả tối ưu về KTXH một cách lâu dài, kể cả việc giải quyết

các mâu thuẫn sử dụng và thoả thuận về lợi ích. Cách tiếp cận đa ngành và tổng hợp này

được thiết kế để điều phối và hướng dẫn các hoạt động của hai hoặc nhiều ngành kinh tế

trong việc quy hoạch và quản lý. Nó hỗ trợ cho các mục tiêu của chương trình để tối ưu

hoá việc bảo tồn các nguồn tài nguyên chung và phát triển kinh tế.

Dạng cụ thể của một chương trình QLTHĐB phụ thuộc vào đặc điểm của đới bờ, các vấn

đề cần giải quyết, và năng lực của địa phương. Tuy nhiên, mục tiêu chung của QLTHĐB là

xây dựng một cơ chế thể chế đa ngành, đa cơ quan, đa lĩnh vực nhằm tăng cường khả năng

quản lý, sử dụng lâu bền các nguồn tài nguyên chung tại đới bờ, hỗ trợ quá trình phát triển

bền vững. QLTHĐB cần được phát triển một cách có hệ thống, có tính đến thời gian cho

việc thu hút các nguồn kinh phí và xây dựng năng lực quản lý/ kỹ thuật cấp địa phương

nhằm hỗ trợ việc xác định và triển khai các can thiệp công nghệ thích hợp; hỗ trợ sự hợp

tác giữa các cơ quan và các bên liên quan; nâng cao nhận thức và thay đổi ý thức của các

nhà làm chính sách, các nhà quản lý kinh tế, tài nguyên và các nhà nghiên cứu khoa học. 

Theo kinh nghiệm thực tế cố  được  ở khu vực và Việt Nam cho thấy, nên áp dụng

QLTHĐB cấp địa phương trước, sau đó mới tiến hành các chương trình nhiều hoài bão

hơn ở cấp cao hơn khi đã có đủ kinh nghiệm. Bên cạnh sự ủng hộ rộng rãi từ phía Nhà

nước nhằm thúc đẩy hợp tác giữa các ngành và duy trì chính sách, điều quan trọng là các

sáng kiến QLTHĐB phải tạo ra sự ủng hộ mạnh mẽ của cộng đồng thông qua sự hợp nhất

các bên liên quan trong quá trình quy hoạch và quản lý theo mô hình QLTHĐB.

Khái niệm Tổng hợp là khái niệm mấu chốt của lý thuyết QLTHĐB. Tổng hợp được hiểu

là sự thống nhất, hợp nhất, liên kết vào một mối chung. Tổng hợp bao hàm nhiều nghĩa,

như tổng hợp giữa đất với nước, giữa hiện tại với tương lai, giữa các loại hình hoạt động

khác nhau trong sử dụng tài nguyên chung, giữa phát triển và bảo tồn, giữa hệ thống tự

nhiên và hệ thống kinh tế-xã hội, giữa các cấp quản lý và các bên liên quan khác nhau. Tuy

nhiên, các nhà chuyên môn đã phân tích và đưa ra 3 phạm trù quan trọng của tổng hợp đối

với cách tiếp cận QLTHĐB: 

•  Tổng hợp theo tính hệ thống: đới bờ có nước, đất, thực vật, động vật, cả ở trên cạn

lẫn dưới biển và tất cả những gì liên quan đến chúng, như sông, suối, đồi, núi, rừng,…

xung quanh. Cần xem một đới bờ như một hệ sinh thái, không nên quản lý tách riêng theo

từng mảnh hay từng thành phần cấu tạo nên đới bờ.

•  Tổng hợp theo chức năng: đới bờ có nhiều chức năng, như điều hoà khí hậu, cung cấp

thực phẩm cho con người, phục vụ con người trong giao thông và phát triển cảng, nuôi

trồng thủy sản, là chỗ vui chơi giải trí, du lịch, hấp thụ một phần chất thải từ lục địa...

Không thể sử dụng đới bờ thiếu suy xét cho một hay vài mục đích, mà không lưu ý đến các

chức năng của nó.

•  Tổng hợp về chính sách: đảm bảo tính thống nhất trong chính sách và các hành động

quản lý  đới bờ, giữa các ngành như thuỷ sản, nông nghiệp, du lịch, công nghiệp, dân

sinh… (tổng hợp theo chiều ngang), giữa các cấp chính quyền, các cơ quan liên quan và

cộng đồng ven biển (tổng hợp theo chiều dọc). 

QLTHĐB được thực hiện thông qua các chu trình liên tiếp nhau. Mỗi chu trình (giai đoạn)

có những mục tiêu cụ thể khác nhau  đáp

ứng những vấn  đề nảy sinh mới với nhu

cầu ngày càng cao hơn, trên cơ sở kế thừa

những kết quả đã đạt được trong những chu

trình trước. Về cơ bản những bước chính

của một chu trình QLTHĐB với 6 bước,

bao gồm: xác định vấn đề, xây dựng, triển

khai, và  đánh giá/củng cố. Chương trình

Hợp tác Khu vực về Quản lý Môi trường

các biển  Đông Á (PEMSEA)  đã  đề xuất

một chu trình mang tính nguyên tắc chặt

chẽ và đầu tiên cho các chương trình/dự án

QLTHĐB trong khu vực áp dụng ở cấp địa

phương và  được nhiều vùng của các quốc

gia trong Khu vực áp dụng. 

Về khía cạnh “quy hoạch”, QLTH xem xét

hậu quả của các hoạt động phát triển khác

nhau, đề xuất sự bảo vệ, cưỡng chế và các phương án phát triển cần thiết đảm bảo sử dụng

bền vững các tài nguyên thiên nhiên vùng bờ, ở mức sản xuất hợp lý nhất.

Về khía cạnh “quản lý” (hoặc thực hiện), QLTH đánh giá các tác động đến môi trường và

kinh tế xã hội của các dự án phát triển cụ thể và đề xuất những thay đổi cần thiết để bảo

tồn tài nguyên và bảo vệ ĐDSH. QLTH điều phối các hành động của các ngành kinh tế

khác nhau, đảm bảo rằng sự thuận lợi của ngành này không mang đến khó khăn, bất lợi

cho ngành khác.

Chương trình Nghị sự 21 được thông qua tại Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường

và Phát triển tại Rio de Janero 1992, đó thừa nhận QLTHĐB như là một mô hình thích hợp

cho sự phát triển bền vững và kêu gọi các quốc gia có biển áp dụng. Từ những năm của

thập niên 80 trở lại đây, nhiều quốc gia và địa phương ven biển trên thế giới đó triển khai

mô hình QLTHĐB dưới dạng chương trình hay dự án và đã thu được những kết quả đáng

khích lệ, đồng thời, cũng rút ra được nhiều bài học, kinh nghiệm thành công cũng như thất

bại rất quý giá. Hội nghị thượng đỉnh Johanesbourg 2002 một lần nữa khẳng định tầm quan

trọng và nhu cầu thiết thực của QLTHĐB.

Tại khu vực Đông Á, hàng loạt chương trình/dự án về QLTHĐB và liên quan được triển

khai thông qua các tổ chức quốc tế như UNEP, IMO, UNDP, ADB, WB, Sida, CIDA,

USAID. Singapore, Trung Quốc và Phillipin là những quốc gia tiên phong áp dụng mô

hình này. Việt Nam cũng được hỗ trợ 1 dự án điểm trình diễn ICM Đà nẵng (hình 3) 

3. Một số kinh nghiệm vận hành Quản lý tổng hợp đới bờ ở Việt nam

Ở Việt Nam, QLTHĐB đang ngày càng được quan tâm, chấp nhận và áp dụng vào thực tế

quản lý để trở thành một giải pháp hiệu quả cho việc quản lý tài nguyên và bảo vệ môi

trường ở đới bờ. 

Dự án Điểm trình diễn Quốc gia về QLTHVB tại thành phố Đà Nẵng trong khuôn khổ

Chương trình Hợp tác khu vực về quản lý Môi trường các biển Đông á (PEMSEA) bắt đầu

được thiết lập vào tháng 6 năm 2000. Sau gần 6 năm hoạt động, mối quan hệ và sự hỗ trợ

giữa các ngành, địa phương, tổ chức cơ quan và các bên liên quan khác của vùng bờ Thành

phố Đà Nẵng đã được nâng cao, đặc biệt là trong việc chia sẻ thông tin, cùng tham gia và

hỗ trợ các hoạt động chung của Dự án. Các nhà chuyên môn, các nhà khoa học cũng xích

lại gần nhau hơn và cùng chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm của mình trong nhiều lĩnh vực

khác nhau của QLTHVB. 

Tháng 9 năm 2000 đến tháng 6 năm 2006, thông qua Cục Môi trường thuộc Bộ Khoa học,

Công nghệ và Môi trường và tập đoàn tư vấn NEDECO của Hà Lan, Chính phủ Việt Nam

và Chính phủ Hà Lan đã tiến hành thực hiện Dự ánhợp tác Việt Nam-Hà Lan về quản lý

tổng hợp dải ven biển (VNICZM). Một mô hình quản lý Dự án hai cấp đã được hình thành.

Tại các địa phương thí điểm là Nam Định, Thừa Thiên – Huế và Bà Rỵa-Vũng Tàu, các

ban Chỉ đạo cấp địa phương của dự án, nhóm chuyên gia đa ngành tương tự như đối với

Dự án Đà Nẵng đã được thành lập. Còn tại Trung ương, Ban chỉ đạo dự án được thành lập,

đứng đầu là thứ trưởng Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường và các thành viên là đại

diện từ các bộ, ngành có liên quan đến việc quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường

vùng bờ và các đại diện đến từ các địa phương thí điểm và các tổ chức liên quan khác. 

Trong các kết quả đạt được của Dự án VNICZM như xây dựng và đưa vào hoạt động cơ

chế quản lý dự án ở trung ương cũng như tại các địa phương thí điểm, đào tạo nguồn nhân

lực cho các địa phương, xây dựng chiến lược QLTHĐB, xác định phân tích các vấn đề

điển hình để chuẩn bị cho việc xây dựng các kế hoạch hành động ưu tiên, cơ chế quản lý

dự án đã được củng cố. 

Sự tham gia, đóng góp của các bên liên quan ở các cấp trung ương và địa phương ngày

càng rộng rãi, sự phối hợp đa ngành, đặc biệt ở cấp tỉnh ngày càng phát triển. Dự án ngày

càng nhận  được sự  ủng hộ và khích lệ từ phía các cơ quan quản lý nhà nước, các  địa

phương ven biển và của nhà tài trợ đã chứng tỏ mô hình triển khai của dự án là thích hợp

với hoàn cảnh của hiện nay của nước ta. 

Mô hình QLTHĐB cũng đã được áp dụng tại Quảng Nam (2003 – 2007). Tuy gặp phải

một số khó khăn trong việc xây dựng và triển khai nhưng vẫn thu được một số bài học hữu Journal of Water Resources and Environmental Engineering, No. 23, November 2008

ich trong nhận rộng mô hình QLTHĐB; kết quả b-íc ®Çu thu được trong việc nâng cao

nhận thức cộng đồng, đưa ra các kế hoạch và chương trình hành động nhằm quản lý bền

vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên, áp dụng các công cụ kỹ thuật, luật pháp, kinh tế

trong việc ra quyết định chính sách và đặc biệt là đã xây dựng được cơ chế quản lý/điều

phối có sự tham gia của nhiều bên liên quan trong các hoạt động sử dụng, khai thác tài

nguyên và môi trường chung tại đới bờ, thông qua đó, phát huy tối đa sự tham gia và sự

đồng thuận của họ trong quá trình phát triển và bảo vệ tài nguyên, môi trường đới bờ. Hiện

nay, QLTHĐB ở Việt Nam đã dần được khẳng định là một cách tiếp cận hiệu quả trong

thực tế ở quy mô cấp tỉnh và thành phố trực thuộc việc quản lý tài nguyên thiên nhiên, môi

trường và thúc đẩy sự phát triển bền vững ở đới bờ. 

4. Phát huy Quản lý tổng hợp đới bờ ở Việt Nam là cơ hội và thách thức

Ảnh hưởng của các chương trình dự án QLTHĐB,  đặc biệt là Dự án QLTHVB tại Đà

Nẵng và Dự án VNICZM, đến các hoạt động quản lý tài nguyên và môi trường biển và ven

biển ngày càng trở nên mạnh mẽ. Nhiều địa phương ven biển đã nhận thấy tầm quan trọng

và tính thiết thực của QLTHVB: một số địa phương như Thái Bình, Thanh Hoá, Quảng

Nam, Ninh Bình, Phú Yên, v.v...  đã đề nghị Bộ KHCN&MT hỗ trợ, hướng dẫn và cho

tham gia vào mạng lưới các địa phương có QLTHĐB hiện nay tại Việt Nam.

Kinh nghiệm của dự án ICM trình diễn Đà Nẵng và Dự án VNICZM  đã giúp việc xây

dựng đề xuất “Chương trình quản lý tổng hợp dải ven biển đới Bắc Trung Bộ và duyên hải

Trung Bộ” do Bộ TN&MT được Chính phủ giao chủ trì xây dựng nhằm cụ thể hóa Quyết

định số 113/2005/QĐ-TTg ngày 20 tháng 5 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ ban hành

Chương trình hành  động của Chính phủ thực hiện Nghị Quyết số 39-NQ/TW ngày 16

tháng 8 năm 2004 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế – xã hội và đảm bảo quốc phòng,

an ninh đới Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ.

Chương trình quản lý tổng hợp dải ven biển đới Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ đến

năm 2010 định hướng 2020 đã được Chính phủ phê duyệt tại quyết định số 158/2007/QĐ-

TTg ngày 9/10/2007 bao gồm 14 tỉnh ven biển miền Trung, từ Thanh Hóa cho tới Bình

Thuận, được xây dựng thành 2 giai đoạn, từ nay cho đến 2010 và 2010 đến 2020 với nguồn

kinh phí được xác định là 650 tỷ cho hai giai đoạn. Nhiệm vụ và giải pháp thực hiện như

sau:

Nhiệm vụ cho giai đoạn 2007 – 2010 là triển khai thực hiện 25 dự án thuộc 05 nhóm nhiệm

vụ chính sau: a) Nhóm nhiệm hoàn thiện cơ chế, chính sách và pháp luật nhằm phục vụ

quản lý tổng hợp dải ven biển vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ; b) Nhóm

nhiệm đào tạo, phát triển nguồn nhân lực và nâng cao nhận thức cộng đồng phục vụ quản

lý tổng hợp đới bờ; c) Nhóm nhiệm xây dựng cơ sở dữ liệu và hệ thống quản lý thông tin

tổng hợp phục vụ quản lý tổng hợp dải ven biển vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung

Bộ; d) Nhóm nhiệm triển khai một số dự án thí điểm phục vụ quản lý tổng hợp đới bờ tại

các tỉnh Thanh Hoá, Hà Tĩnh và Thừa Thiên Huế; đ) Nhóm nhiệm xây dựng và triển khai

các dự án quản lý tổng hợp đới bờ tại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương vùng Bắc

Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ. Nhiệm vụ giai đoạn 2011 – 2020 là triển khai toàn diện

phương thức quản lý tổng hợp đới bờ tại tất cả các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương

vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ.

Các giải pháp thực hiện bao gồm: a) Tập trung xây dựng và kiện toàn các cơ chế điều phối,

hợp tác đa ngành thực hiện nhiệm vụ quản lý tổng hợp đới bờ; phát triển nguồn nhân lực

và tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao sự hiểu biết của các cấp quản lý và cộng

đồng phục vụ quản lý tổng hợp đới bờ. b) Tăng cường và đa dạng hoá các nguồn vốn đầu Journal of Water Resources and Environmental Engineering, No. 23, November 2008

312

tư cho quản lý tổng hợp đới bờ, trong đó: Đa dạng hoá và sử dụng có hiệu quả các nguồn

vốn đầu tư; ưu tiên đầu tư cho việc đào tạo nguồn nhân lực và tăng cường cơ sở vật chất kỹ

thuật phục vụ xây dựng cơ sở dữ liệu, hệ thống thông tin tổng hợp; và khuyến khích, thu

hút và khai thác tốt các nguồn vốn đầu tư khác thông qua các chương trình, dự án hợp tác

quốc tế song phương và  đa phương; tích cực huy  động thêm các nguồn vốn từ doanh

nghiệp, tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài.

Cuối năm 2002, Bộ Tài nguyên và Môi trường (Bộ TN&MT) được chính thức thành lập

với việc sát nhập của Tổng cục địa chính, Cục Môi trường (Bộ KHCN&MT), Tổng cục

KTTV, Cục Quản lý nước (Bộ NN&PTNT) và Cục  Địa chất Khoáng sản (Bộ Công

nghiệp). Tiếp theo  đó, năm 2008, Chính phủ  đã giao thêm cho Bộ TN&MT chức năng

quản lý nhà nước tổng hợp và thống nhất về biển và hải đảo của Việt Nam. Đây là cơ hội

thuận lợi nhằm thúc đẩy đối với hoạt động QLTHĐB bởi các đơn vị quản lý các loại tài

nguyên và môi trường biển, ven biển và hải đảo đã được thống nhất vào một đầu mối quản

lý nhà nước. Dự án VNICZM đã tiến hành một nghiên cứu về khả năng hình thành một

đơn vị, có chức năng quản lý nhà nước về QLTHĐB tại Trung ương, tập trung vào việc

xây dựng chính sách và hỗ trợ các địa phương ven biển triển khai QLTHĐB tại địa phương

mình. Kết quả nghiên cứu này của Dự án VNICZM là cơ sở quan trọng cho sự ra đời của

Phòng QLTHĐB, Biển và Lưu vực sông thuộc Cục bảo vệ Môi trường (2002-2008) và

Trung tâm Quy hoạch và Quản lý tổng hợp vùng duyên hải hiện nay của Tổng cục Biển và

hariddaro Việt Nam.

Để phổ biến và thực hiện cách tiếp cận mới, triển khai các hoạt động bản lề QLTHĐB,

hàng loạt nguyên tắc và nội dung công việc thực hiện QLTHĐB cụ thể đã được nêu trong

Chương trình quản lý tổng hợp dải ven biển đới Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ và

cần được thống nhất, tiến hành trong phạm vi cả nước, như (1) Tạo ra mô hình QLTHĐB

quy mô cấp tỉnh phù hợp áp dụng cho các tỉnh ven biển của Viêt Nam; (2) Nâng cao hơn

nữa quá trình thể chế hoá quản lý tổng hợp đới bờ; (3) Tạo ra được hệ thống công cụ và

hướng dẫn phù hợp cho áp dụng QLTHĐB; (4) Nhanh chóng đào tạo đội ngũ cán bộ thực

hiện QLTHĐB; (5) Cấp tỉnh là cấp quan trọng nhất để áp dụng QLTHĐB; (6) Có sự hướng

dẫn và hỗ trợ của TƯ, thông qua đơn vị chuyên trách về QLTHĐB hiện mới được thành

lập tại Cục BVMT và cần được nâng cáp trong thời gian tới; (7) Có cơ chế phù hợp để lôi

kéo các bên tham gia để có sự đồng thuận của các bên tham gia: các cấp chính quyền, đoàn

thể, doanh nghiệp, khoa học, tư vấn, cộng đồng, ... vào quá trình đưa QLTHĐB vào thực

tế; (8) Lồng ghép, phối hợp với các chương trình, dự án liên quan khác để sử dụng hiệu

quả các kết quả có được; (9) Điều phối nhịp nhàng và hiệu quả các dự án QLTHĐB từ

nguồn tài trợ quốc tế,v.v...

Việc triển khai, vận hành QLTHĐB ở các tỉnh ven biển hiện nay gặp rất nhiều khó khăn và

bất cập do: Chưa có chính sách chung và hướng dẫn về pháp lý cho việc vận hành

QLTHĐB cấp tỉnh; QLTHĐB của giai đoạn vừa qua chỉ mới ở mức sơ khai và còn rất

nhiều vấn để cần kiểm nghiệm và tổng kết trước khi áp dụng đại trà vào thực tế; Chưa có

hệ thống tổ chức phù hợp và đủ mạnh ở Trung ương cũng như ở các tỉnh; Chưa có các

hướng dẫn về chuyên môn và kỹ thuật  để áp dụng QLTHĐB  ở cấp tỉnh; Chuyên gia

QLTHĐB Việt Nam còn thiếu và yếu ở tất cả các cấp, đặc biệt là thiếu chuyên gia có thể

“nằm vùng”  để giúp vận hành QLTHĐB; Cán bộ  địa phương hiểu biết rất hạn chế về

QLTHĐB; Nhận thức về QLTHĐB chưa đầy đủ và còn rất khác nhau: Vận hành QLTHĐB

còn bị hiểu sai lệch, nhiều khi nặng về khoa học nhưng coi nhẹ về quản lý; Kinh nghiệm về

QLTHĐB của Việt Nam cho  đến nay mới  đạt  được bước ban  đầu vì thế chưa có kinh

nghiệm ở giai đoạn thực hiện để có thể lôi kéo đầu tư. 

Quản lý tổng hợp đới bờ là một quá trình cải tiến hoạt động quản lý nhà nước ở các cấp đối

với tài nguyên và môi trường vùng ven biển nhằm hướng tới phát triển bền vững, thông Journal of Water Resources and Environmental Engineering, No. 23, November 2008

313

qua việc nhân rộng và vận hành một mô hình quản lý rất có giá trị đã được đúc rút trong

thực tế, mở ra cơ hội lớn cũng như thách thức không nhỏ về nhiều mặt trong giai đoạn hiện

nay. Việc tiếp tục có được sự hợp tác và giúp đỡ từ các nước và các tổ chức quốc tế có liên

quan đối với công cuộc tiến hành QLTHĐB ở nước ta là hết sức cần thiết và cấp bách, mà

quan trọng nhất là khâu đào tạo nguồn nhân lực, chuyển giao kién thức và kinh nghiệm, và

trao đổi chuyên gia. 

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top