1

Mùa xuân năm Hiển Tông thứ mười, hoàng đô Khai Thành đâu đâu cũng rợp bóng hoa.

Ở thời đại này, chuyện yêu đương tương đối cởi mở, đạp thanh lại là thời điểm thích hợp cho tình yêu đôi lứa đâm chồi nảy lộc. Vậy nên lúc một đám công tử anh tuấn tiêu sái thúc ngựa trên đường, nhiều nữ tử lớn mật cầm khăn lụa hoặc nhành hoa hái được ven đường ném về phía họ, náo nhiệt hệt như lễ ném tú cầu của tiểu thư Ân Vân Kiều*.

Đột nhiên, phía sau truyền đến tiếng vó ngựa dồn dập, nam nữ già trẻ trên đường nghe thấy tiếng hô "Ngự giá hồi hành" liền tự động dạt sang hai phía nhường đường. Ngày lễ hội, phố xá đông như dệt cửi, gặp tình huống bất ngờ thành ra loạn như một bầy gà, nhất thời chen chúc tắc nghẽn.

Thạc Trân đang cùng nhóm bằng hữu ra ngoài đạp thanh trở về, mắt thấy cấm quân sắp lao đến trước mặt, vội vàng giật cương ngựa, quay đầu tránh né, vừa khéo tránh được đóa hoa của cô nương hồng y đằng sau quăng tới.

Đóa hoa sượt qua gò má Thạc Trân, bay thẳng vào mặt cấm quân đang thúc ngựa ngang qua.

Cấm quân nọ phản ứng nhanh nhạy, giơ tay cản bông hoa, kinh ngạc liếc về hướng nó vừa phóng tới.

Thạc Trân thấy người ta nhìn, theo bản năng vội vã kéo tay áo che khuất mặt. Hành động này trong mắt y là trốn tránh, còn vào mắt người kia lại thành ngượng ngùng e thẹn.

Ngự liễn rất nhanh đã tiếng vào cổng thành, bách tính đồng loạt quỳ lạy cung tiễn. Đám người Thạc Trân quỳ ở đằng trước giống như hạc giữa bầy gà, lại thêm danh tiếng lẫy lừng của gia tộc nên không tránh khỏi bị hoàng đế điểm mặt gọi tên hỏi thăm vài câu.

Xa giá của hoàng thượng tiếp tục hồi cung, theo sau là cấm quân nối đuôi đi qua.

Thạc Trân vẫn nghiêm chỉnh quỳ dưới đất chờ đợi, bỗng nhiên trước mặt dừng lại bốn cái vó ngựa. Y khó hiểu ngẩn đầu, đối diện với một đôi phượng mâu thâm thúy, là cấm quân vừa nãy.

Giờ phút này, Thạc Trân muốn kéo tay áo che mặt đã chẳng còn kịp, chỉ có thể trơ mắt nhìn bạc môi nhạt màu của đối phương cong lên, đóa hoa trắng hồng trên tay theo một đường cong hoàn hảo rơi vào ngực y.

Thạc Trân thẫn thờ đứng lên, ánh mắt mê man, nụ cười nọ như tan vào chiều muộn, phản chiếu rực rỡ trong mắt y.

Ma xui quỷ khiến, Thạc Trân không vứt đóa hoa kia mà cầm ở trong tay chơi đùa. Lúc xoay người lên ngựa thì làm bộ lơ đãng hỏi bằng hữu bên cạnh: "Hyung có biết cấm quân vừa rồi là ai không?"

Người đi song song với y là thế tử Lý Chính Hoan nhà Hộ bộ thượng thư, hiện là trung lang tướng Hổ Oai vệ. Hắn nghe câu hỏi của Thạc Trân xong liền nhếch nhẹ khóe môi, trong mắt lộ vẻ khinh bỉ dày đặc.

"Đệ hỏi cái tên vừa đánh ngựa đi quá ấy hả? Tiểu Trân, đừng trách hyung không nhắc nhở đệ, tiểu tử kia chẳng phải phường tốt lành gì đâu, không đáng để phí tâm kết giao."

"Tại sao vậy?"

"Hắn tên là Kim Thái Hanh, trung lang tướng của Long Võ vệ."

Thạc Trân nghe một hiểu mười, Hổ Oai và Long Võ là hai đội cấm quân đứng đầu hai phía Nam Bắc nha, xưa nay vốn không hợp nhau, Lý Chính Hoan có thành kiến với cấm vệ họ Kim kia cũng chả có gì lạ.

Lý Chính Hoan hiểu được Thạc Trân đang nghĩ gì, vì vậy bổ sung thêm: "Kim Thái Hanh đó là nghĩa tử của Tào Cát Tường, ai biết đã làm qua chuyện gì để bò được lên cái ghế trung tướng."

Từ xưa đến nay, văn quan xem thường võ quan bóc áo tháo cày*, võ quan khinh rẻ văn quan thiên hô bát sát*, mà kẻ tất cả bọn họ vừa xem thường vừa khinh rẻ chính là hoạn quan.

Tào Cát Tường trùng hợp là người đứng đầu hoạn quan đương thời, Kim Thái Hanh cúi đầu nhận ông ta làm cha nuôi, sự ghét bỏ miệt thị hẳn là cao hơn mấy bậc.

Thạc Trân nghe Lý Chính Hoan nói vậy, không hiểu sao không những không cảm thấy chán ghét mà trái lại còn hơi tiếc hận, giống như nhìn thấy đóa ngọc lan trắng muốt kiều diễm rơi lên vũng bùn, vừa nở rộ đã lìa cành.

Nghĩ tới ngọc lan, y bất chợt nhớ ra trên tay mình vẫn cầm một nhành hoa. Y đưa mắt nhìn, đồng tử mở to, biểu cảm cứng đờ, hai chữ chết tiệt xoay tròn trong đại não.

Hai hoa nở trên cùng một cành, cánh hồng nhụy vàng, là tịnh đế liên.

Những tưởng cả hai là người dưng nước lã, gặp gỡ thoáng qua để quên lãng, nào ngờ vận mệnh khéo thêu dệt chuyện đời, để họ lần nữa tái ngộ.

Mùa thu cùng năm, phó tướng Bắc Yến quân, Kim Vũ Bân, tức nhị thúc của Thạc Trân đột ngột trở về từ Bắc Cương. Ông không thê thiếp, không con cái, luôn xem đứa cháu này như con ruột, tận mắt nhìn y lớn lên, cũng tận tay dạy y văn võ.

Thạc Trân ngồi trên cái bàn trong thư phòng của Kim Vũ Bân, đong đưa hai chân. "Nhị thúc, cuối năm chính là thời điểm khẩn yếu canh giữ biên cương, sao người lại trở về bất ngờ như vậy?"

"Có việc trong triều." Ông đáp, chăm chú tìm kiếm gì đó trong hộc tủ.

"Chuyện của thị lang Khang Triệu bị bắt giam vì tội mưu phản ạ?"

Kim Vũ Bân ngạc nhiên đứng phắt dậy: "Sao con biết được?"

"Mấy hyung đệ trong hội nói." Thạc Trân nhếch môi đắc ý, bằng hữu của y toàn là con nhà danh gia vọng tộc có chức có quyền, hiển nhiên chuyện trong triều cũng nghe phong phanh bóng gió.

Kim Vũ Bân giơ tay đỡ trán, đứa nhỏ này lớn lên hiểu không ít chuyện. "Trân Nhi, nghe nhị thúc khuyên, sau này ra ngoài chớ cười kiểu đó nữa, nhìn ngu lắm."

Thạc Trân: "..."

Hai người đang nói chính sự kia mà, sao tự dưng lại chuyển sang nhận xét nụ cười của y?!

Tìm không thấy đồ, Kim Vũ Bân dứt khoát ném rương hòm trên tay xuống, cùng cháu trai ngả ngớn ngồi trên bàn. "Con nghĩ thế nào về vụ án này?" Ông thấp giọng hỏi.

"Con ấy ạ?" Thạc Trân nghiêng đầu. "Con chỉ tùy tiện hóng hớt thôi à."

Kim Vũ Bân lập tức nện một cú vào ót y, cả giận nói: "Đàng hoàng cho ta!"

Thiếu niên ủy khuất xoa ót, gương mặt thanh tú nhăn lại, nhị thúc mạnh tay quá đi.

"Con chỉ xem đó như tin tồn trà dư tửu lậu mà thôi. Khang Triệu giữ chức thị lang, chỉ đứng sao tể tướng, ông ta dính dáng đến kế hoạch mưu phản của chỉ huy thủy quân Doãn Quán. Hai người họ nội ứng ngoại hợp, vạn sự thuận bườm xuôi gió."

"Nói nhăng nói cuội gì thế hả?" Kim Vũ Bân nghe qua là biết đứa cháu này của ông đang bịa chuyện. "Sông Hưng Hải Tân thuộc về đất phong của Khánh vương, vụ án Khang Triệu mưu phản xảy ra, không chỉ cấp trên của Doãn Quán là tướng quân Trịnh Trọng Phu bị liên lụy, phải dâng biểu xin về hưu, mà hoàng thượng còn có ý khiển trách Khánh vương quản đốc không nghiêm bằng cách thu hồi đất phong."

"Nói qua nói lại, con vẫn không thấy có liên quan gì đến Khang Triệu." Thạc Trân khó hiểu lên tiếng.

"Sỡ dĩ Khang Triệu bị kết tội là do ông ấy nhiều lần dâng biểu phản đối việc xóa bỏ đất phong của Khánh vương. Thêm vào đó hồi ông ấy mới vào hàn lâm viện, từng dạy học cho Khánh vương. Con nghĩ xem rốt cuộc vì sao hoàng thượng muốn giáng tội ông ấy?"

"Hoàng thượng bên ngoài là dọn dẹp bè lũ phản đồ Doãn Quán, thực chất là muốn mượn cớ thu hồi đất phong của Khánh vương, nhân tiện bắt chẹt thủy quân Đông Nam, diệt trừ hiểm họa trong tâm từ phiên vương và tướng lĩnh đóng giữ biên quan."

Kim Vũ Bân bị câu kết luận thấu triệt của Thạc Trân chọc đúng tim đem, ôm ngực cười khổ. "Trân nhi, con trực tiếp quá rồi." Nếu nói quan hệ giữa phiên vương và tướng lĩnh đóng giữ biên quan là hiểm họa, vậy thì ông và tri kỉ Duệ vương cũng là một trong số đó.

Như nhìn thấu trong đầu ông nghĩ gì, Thạc Trân nhìn chằm chằm nhị thúc của mình, ánh mắt sáng quắc.

"Chớ nghĩ bừa." Kim Vũ Bân gạt bỏ nỗi lo lắng của y, lắc đầu cười khổ. "Ta quay về là để cầu tình cho Khang tiên sinh, năm ông ấy đến Thành Quân Quán* giảng dạy, ta là thư đồng của Duệ vương điện hạ nên cũng từng có một đoạn tình nghĩa thầy trò. Vi sư xảy ra chuyện, ta thân là học trò hiển nhiên không thể nhắm mắt làm ngơ."

"Con lại thấy là do Duệ vương điện hạ không tiện ra mặt nên người mới làm giúp." Thạc Trân vạch trần ông. "Nhị thúc, số ân tình ngài ấy nợ người bao giờ mới trả hết đây? Hay là chúng ta bắt ngài ấy bán thân cho Kim gia gán nợ, đến làm nhị thẩm của con?"

Kim Vũ Bân bị trêu không giận, ngược lại còn hùa theo cháu mình. "Ta kiến nghị lần sao con gặp điện hạ thì hỏi ngay mặt ngài ấy đi, ta cũng rất muốn biết đấy."

Thạc Trân tặc lưỡi. "Người đừng phí công đào hố nữa, con không nhảy đâu. Người cứ như vậy độc thân đến già đi!"

Chuyện đùa này là giấc mơ không thành sự thật của Kim Vũ Bân, ông là tướng giữ biên cương, Duệ vương là phiên vương một cõi, đúng như Thạc Trân nói, họ chính là hiểm họa từ bên trong. Sợ đến mức trước mặt người khác còn không dám gần gũi, huống hồ gì là quang minh chính đại kết hôn. Ông không muốn làm một Doãn Quán thứ hai.

Kim Vũ Bân vươn tay xoa đầu đứa cháu nhỏ, thở dài thườn thượt. "Đôi lúc ta mong con mau trưởng thành để có thể vứt hết trọng trách cho con, nhưng đôi lúc ta cũng muốn con vĩnh viễn đừng lớn lên, vĩnh viễn không cần đối diện với những việc thân bất do kỷ."

"Người đừng lo, sau này lớn lên con ở biên quan, quanh năm đánh giặc ngoại xâm, hoàng thượng dù có nhỏ nhen hẹp hòi đến đâu cũng không ngờ vực được con." Thạc Trân cà lơ phất phơ nói, phát ngôn ấu trĩ này nhận được một cái tát vào lưng.

Kim Vũ Bân đánh xong liền chỉ tay năm ngón, sai y đi tìm đồ cho mình. Nhìn bóng lưng cao gầy của y, ông không nhịn được khẽ mỉm cười, đáy mắt có chút thê lương. "Tiểu tử thối, mớ chữ nghĩa ta dạy con vứt cho bò ăn hết rồi à, không biết cái gì gọi là 'mạc tu hữu'* hay sao?"

Lại nói, thân mẫu của Thạc Trân bất hạnh mất sớm, phụ thân y sau khi mãn tang thì cưới thêm một kế thất họ Vân.

Mấy đời bánh đúc có xương, mấy đời mẹ kế mà thương con chồng, Vân thị chính là ví dụ điển hình của câu ca dao này. Bà ta ngày nào ở nhà cũng chửi cây dâu mắng cây hòe, nói Thạc Trân là phá gia chi tử.

Vào lúc Thạc Trân nghĩ mình sắp ở nhà đến mọc nấm mốc thì Kim Vũ Bân trở về, dẹp yên Vân Thị. Nhờ có nhị thúc bảo kê, Thạc Trân lại vui vẻ tung tăng ra ngoài chơi. Thật ra y chẳng phải loại phá gia chi tử bắt gà trộm chó gì, chỉ là tụ tập với đám con cháu danh gia vọng tộc ra ngoài ăn uống trò chuyện mà thôi.

Lần này nhóm người Thạc Trân kéo nhau đến Minh Lan sơn trang của Kim gia, một đám thiếu niên choai choai mộng làm tướng lĩnh nên suốt ngày khua đao múa côn, miệng chẳng ngâm nổi hai bài thất ngôn tứ tuyệt. Vậy nên ngắm lan ngắm huệ chưa được một nén nhang liền nhàm chán, sai người chuẩn bị ngựa và đồ dùng, hớn hở tiến lên núi săn bắn.

Minh Lan sơn trang tọa lạc trên núi Lĩnh Nam, động vật ở đây chủ yếu là hươu hoẵng thỏ gà, mãnh thú duy nhất chắc là lợn rừng nhưng bây giờ người lên núi đông, bọn chúng cũng bị bắt gần hết.

Thạc Trân đi săn mà như cưỡi ngựa xem hoa, thỉnh thoảng giương cung ngắm bắn, bách phát bách trúng.

Đương lúc cảm thấy tẻ nhạt, bụi cây bên phải bỗng truyền đến tiếng động loạt xoạt. Thạc Trân liếc nhìn Lý Chính Hoan ở bên cạnh, cả hai đồng thời giương cung, nhắm thẳng vào bóng đen khả nghi trong bụi.

Thạc Trân kéo căng dây cung, mắt nheo lại, tầm nhìn cũng dần rõ ràng, lúc thấy hình dáng vật kia, y lập tức kêu lên: "Khoan đã!"

Đáng tiếc, mũi tên của Lý Chính Hoan đã rời cung.

Thạc Trân hoảng loạn, trực tiếp nâng tay dùng sức kéo dây cung. Mũi tên lao đi thẳng tắp, vừa nhanh vừa chuẩn, 'Keng' một tiếng đánh lệch mũi tên của Lý Chính Hoan ra xa mấy thước.

"Người nào ở đằng kia? Đi ra!" Thạc Trân hướng bụi cây hét lớn.

Lá xanh xào xạc lay động, một bóng dáng run run đứng dậy, là một nử tử gầy nhỏ, trong ngực ôm bọc vải.

Hai người Thạc Trân và Lý Chính Hoan vô cũng bất ngờ, nữ nhân trốn giữa rừng hoang núi thẳm, chắc chắn có vấn đề.

"Ngươi là ai, trốn ở chỗ này làm gì?" Thạc Trân hỏi.

Cô ta quỳ rạp xuống đất, nơm nớp lo sợ đáp: "Dân nữ muốn đến thôn Đông...thăm người thân, không cẩn thận lạc đường. Ban nãy nghe thấy tiếng vó ngựa, tưởng là kẻ xấu cho nên mới trốn vào chỗ này."

Lý Chính Hoan nhìn cô ta từ tên xuống dưới một lượt, y phục cử chỉ của người này không giống thôn phụ sơn dã, mà như xuất thân từ gia đình giàu có. "Trong tay ngươi ôm cái gì kia?" Hắn ngờ vực nói.

Cả người nữ tử run lên, đầu cúi thấp không đáp, cánh tay ôm bọc vải cũng siết chặt hơn.

Thạc Trân thấy khả nghi liền tiến lại gần vài bước, dùng trường cung nhấc cầm cô ta lên, giọng điệu lạnh lùng: "Buông tay."

Đứng giữa một đám nam nhân lạ mặt, trong lòng lại có tâm ma, nữ tử kia đã sớm sợ đến nhũn cả người, để mặc cho Thạc Trân dùng đầu cung gạt một góc bọc vải trong tay, để lộ bàn chân nho nhỏ của trẻ sơ sinh.

Thạc Trân tức thì cau mày. "Bắt cóc trẻ con?"

Nhóm công tử đi cùng nghe động tĩnh đã vây lại đây, thấy nữ tử mặt đầm đìa nước mắt lẫn bụi bặm, song phong thái vẫn chỉnh chu thanh nhã thì không khỏi động lòng trắc ẩn.

"Cô nương, cô nương gặp phải chuyện gì khó xử sao?" Một người trong đó mở miệng hỏi.

Nữ tử chưa xuất giá mang theo trẻ sơ sinh, muốn đến thôn Đông nhưng không đi đường bằng lại chọn đường núi, nói chuyện còn ấp a ấp úng, tám phần không phải phường quang minh chính đại.

"Nói." Thạc Trân sẵng giọng. "Đứa bé này là ôm từ đâu tới?"

"A đúng rồi!" Một quý công tử bỗng nhiên kêu lên. "Lúc chúng ta rời thành, ta nhìn thấy ở cổng có dán cáo thị truy nã nô bộc nhà tội thần trốn chạy, đừng bảo là cô nha?"

Thạc Trân: "Tội thần?"

"Đúng vậy, chính là Khang thị lang mưu phản bị bắt mấy ngày trước."

Nữ tử cốt cách mềm yếu, chưa kể nàng vẫn còn nhỏ tuổi, dũng khí đã gom hết để lén trốn khỏi kinh thành, giờ phút này chẳng còn can đảm đâu mà đọ trí với một đám nam nhân cưỡi ngựa giương cung.

"Nô tỳ tên Lệ Chi, là tỳ nữ nhà Khang thị lang, đứa bé trong tả lót là tiểu chủ nhân..." Cô gái run run khai báo sự tình, vừa khóc vừa dập đầu lạy. "Tiểu chủ là huyết mạch duy nhất của Khang gia. Lão gia bị tống giam oan uổng cho nên nô tỳ mới dám liều mạng mang theo tiểu chủ nhân chạy trốn, bị truy đến đường cùng mới trốn vào trong núi. Cầu xin các vị công tử tha cho chúng ta một con đường sống."

Thạc Trân nhớ tới nhị thúc ngàn dặm xa xôi trở về cầu tình cho Khang Triệu, nhưng liên can đến tội mưu phản, không cẩn thận sẽ mất mạng như chơi. Nghĩ tới nghĩ lui cuối cùng y vẫn nhượng bộ, lắc đầu với Lý Chính Hoan đang nhìn mình trưng cầu ý kiến.

Lý Chính Hoan thở dài một hơi, dặn dò gia đinh đi theo: "Dẫn nàng ta về sơn trang, nếu có người hỏi cứ bảo nha đầu hầu hạ mà mẫu thân ta đưa tới." Đợi hạ nhân rời đi rồi, hắn liền lo lắng bảo: "Cô ta là người bị triều đình truy nã, ngộ nhỡ có liên quan trọng yếu gì tới vụ án thì chúng ta nguy to đấy."

Thạc Trân gật đầu. "Ai làm nấy chịu, hyung yên tâm, nếu sự việc bại lộ ta tuyệt đối sẽ không để liên lụy đến mọi người." Y mỉm cười trấn an. "Núi Lĩnh Nam là tài sản riêng của Kim gia ta, dù truy binh muốn lục soát cũng phải hỏi xem chủ nhân có đồng ý hay không cái—"

Lời còn chưa dứt, đằng xa đã truyền đến tiếng vó ngựa trật tự có quy luật, phút chốc gần sát với chỗ bọn họ đang đứng.

Thị lực Thạc Trân vô cùng tốt, nhìn từ xa đã thấy được y phục đỏ đen* đặc trưng của Long Võ vệ. Y cảm thấy má phải tự nhiên đau rát, cú vả mặt này đến cũng quá nhanh đi.

Vả mặt thì vả, khí thế chủ núi thì vẫn phải có.

Vậy nên lúc ngựa của Long Võ vệ dừng trước mặt, Thạc Trân liền hất cằm hỏi: "Người tới là ai?"

Một con bạch mã vượt ra khỏi hàng ngũ, người trên ngựa lễ độ gật đầu, nói: "Long Võ vệ phụng chỉ lùng bắt khâm phạm triều đình. Xin hỏi thời gian ở trên núi, các vị có trông thấy người nào khả nghi hay không?"

Bọn họ người nào người nấy gia thế hiển hách, mắt mọc trên đỉnh đầu, lấy lỗ mũi nhìn hắn. Mặc dù vậy trong lòng không khỏi cảm tạ trời đất, may mà nữ tử kia đã đi trước một bước, không thì bọn họ có mười cái miệng cũng không cãi lại.

"Chưa từng thấy." Thạc Trân thay cả nhóm đáp lời.

Người kia liếc nhìn y, đầu mày khóe mắt vốn lạnh lùng vô cảm chợt nổi lên mấy phần ý cười. "Ra là Kim công tử, đã lâu không gặp."

Thạc Trân chăm chú nhìn hắn, y luôn thấy người này trông quen quen, bây giờ thấy nụ cười của hắn thì rốt cuộc cũng nhớ ra. Đây chẳng phải chính là cấm quân hôm trước ném cho y một đóa tịnh tế liên hay sao?

Chú thích:

*Ân Vân Kiều: Mẹ của Đường Tam Tạng, trong Tây Du Ký bà đã thực hiện nghi thức ném tú cầu để chọn chồng, người nhận được tú cầu là trạng nguyên Trần Quang Nhụy.

*Bóc áo tháo cày: Hung hãn, thô kệch.

*Thiên hô bát sát: Khoác lác, ba hoa, vô tích sự.

* Tịnh đế liên: Hai đóa sen nở trên cùng một cuống, biểu tượng về sự thanh tao thuần khiết cũng như tình yêu đôi lứa mặn nồng. Vậy nên lúc bạn Hanh nhận được hoa do bạn Trân 'ném' tới liền nghĩ người ta có tình ý với mình.

*Thành Quân Quán (Sungkyunkwan- 성균관):  Cơ sở giáo dục cao nhất của Vương triều Cao Ly. Theo mô hình Nho giáo của Trung Hoa thì học phủ này tương đương với Quốc tử giám. Thành Quân Quán rộng 10.000 m², gồm khoảng 18 công trình kiến trúc, ngày nay tọa lạc tại quận Jongno, Seoul.

* Mạc tu hữu nghĩa là 'không cần phải có', từ nguyên là 或许有. Bắt nguồn từ việc gian thần Tần Cối mưu hại Nhạc Phi, khi được Hàn Thế Trung hỏi căn cứ, hắn đã trả lời là 'không cần phải có'.

*Y phục cấm quân của bạn Hanh. Cam cap từ phim Hwarang đóa :)))


Camellia: Cam lại thử sức ở mảng Hán Văn đây, các nàng hãy thương thương đứa nhỏ này nhé.

Nói một xíu về tên truyện, 'Quân An' được trích từ câu 'Thiên nhai hải giác, duy nguyện quân an', nghĩa là chân trời góc bể, nguyện vọng duy nhất của ta là người được bình an, cũng chính là mong ước của bạn Hanh dành cho Trân Trân.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: #taejin#vjin