qua trinh doi moi tu duy cua Dang
Qua trinh doi moi tu duy,muc tieu
- Chúng ta đạ phạm sai lầm trong việc xác định mục tiêu và bước đi về
xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý
kinh tế, v.v... Do tư tưởng chỉ đạo chủ quan, nóng vội, muốn bỏ qua
những bước đi cần thiết nên chúng ta đã chủ trương đẩy mạnh công
nghiệp hóa trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết, mặt khác chậm
đổi mới cơ chế quản lý kinh tế.
- Trong việc bố trí cơ cấu kinh tế, trước hết là cơ cấu sản xuất và đầu tư,
thường chỉ xuất phát từ lòng mong muốn đi nhanh, không kết hợp chặt
chẽ ngay từ đầu công nghiệp với nông nghiệp thành một cơ cấu hợp lý,
58
thiên về xây dựng công nghiệp nặng và những công trình quy mô lớn,
không tập trung sức giải quyết về căn bản vấn đề lương thực, thực
phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Kết quả là đầu tư nhiều nhưng
hiệu quả thấp.
- Không thực hiện nghiêm chỉnh Nghị quyết của Đại hội lần thứ V, như:
vẫn chưa thật sự coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, công nghiệp
nặng không phục vụ kịp thời nông nghiệp và công nghiệp nhẹ.
b. Quá trình đổi mới tư duy về công nghiệp hóa từ Đại hội VI đến Đại
hội X:
Từ việc chỉ ra những sai lầm, khuyết điểm, Đại hội VI đã cụ thể hóa nội dung
chính của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong những năm còn lại của chặng
đường đầu tiên của thời kỳ quá độ là thực hiện cho bằng được 3 chương trình mục
tiêu: lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
Hội nghị Trung ương 7 khóa VII (1/1994) có bước đột phá mới trong nhận
thức về công nghiệp hóa. Bước đột phá này thể hiện trước hết ở nhận thức về khái
niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa. "Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình
chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản
lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ
biến sức lao động với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại,
dựa trên sự phát triển công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng
suất lao động xã hội cao".
Đại hội VIII của Đảng (6/1996) nhìn nhận lại đất nước sau 10 năm đổi mới đã
có nhận định quan trọng: nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhiệm vụ
đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp
hóa đã cơ bản hoàn thành cho phép chuyển sang thời kỳ mới đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Đại hội tiếp tục khẳng định quan niệm về công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nêu ra ở hội nghị Trung ương 7 khóa VII.
Đại hội nêu ra 6 quan điểm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa và định hướng
những nội dung cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong những năm còn lại
của thập kỷ 90. Các quan điểm và định hướng này đến nay về cơ bản vẫn đúng và có
giá trị chỉ đạo thực tiễn.
Đến Đại hội IX (4/2001) và Đại hội X (4/2006), Đảng tiếp tục bổ sung và
nhấn mạnh một số quan điểm mới về công nghiệp hóa:
- Con đường công nghiệp hóa: ở nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian
so với các nước đi trước. Đây là yêu cầu cấp thiết của nước ta nhằm
sớm thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển so với nhiều nước trong
khu vực và trên thế giới. Một nước đi sau có điều kiện tận dụng những
kinh nghiệm kỹ thuật, công nghệ và thành quả của các nước đi trước,
tận dụng xu thế của thời đại qua hội nhập quốc tế để rút ngắn thời gian.
Tuy nhiên, tiến hành công nghiệp hóa theo kiểu rút ngắn so với các nước đi
trước, chúng ta cần thực hiện các yêu cầu như: phát triển kinh tế và công
59
nghệ phải vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt; phát huy
những lợi thế của đất nước, gắn công nghiệp hóa với hiện đại hóa, từng
bước phát triển kinh tế tri thức; phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh
thần của con người Việt Nam. Đặc biệt coi trọng phát triển giáo dục và đào
tạo, khoa học và công nghệ, xem đây là nền tảng và động lực cho công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta: phải phát triển nhanh
và có hiệu quả các sản phẩm, các ngành, các lĩnh vực có lợi thế, đáp
ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phải bảo đảm xây dựng nền
kinh tế độc lập tự chủ, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tức là phải
tiến hành công nghiệp hóa trong một nền kinh tế mở, hướng ngoại.
- Đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn,
hướng vào việc nâng cao năng suất, chất lượng, sản phẩm nông nghiệp.
2. Mục tiêu, quan điềm công nghiệp hóa, hiện đại hóa:
a. Mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa:
Mục tiêu cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là cải biến nước ta thành
một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý,
quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, mức
sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng - an ninh vững chắc, dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Để thực hiện mục tiêu trên, ở mỗi thời kỳ phải đạt được những mục tiêu cụ thể.
Đại hội X xác định mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát
triển kinh tế tri thức để sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền
tảng để đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại.
b. Quan điểm công nghiệp hóa, hiện đại hóa:
Bước vào thời kỳ đổi mới, trên cơ sở phân tích khoa học các điều kiện trong
nước và quốc tế, Đảng nêu ra những quan điểm mới chỉ đạo quá trình thực hiện công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong điều kiện mới. Những quan điểm này được
hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương khóa VII nêu ra và được phát triển, bổ
sung qua các Đại hội VIII, IX và X của Đảng. Dưới đây khái quát lại những quan
điểm cơ bản của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa thời kỳ đổi mới:
Một là, công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa và công nghiệp hóa, hiện đại
hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức.
Từ thế kỷ XVII, XVIII, các nước Tây Âu đã tiến hành công nghiệp hóa. Khi
đó công nghiệp hóa được hiểu là quá trình thay thế lao động thủ công bằng lao động
sử dụng máy móc. Nhưng trong thời đại ngày nay, Đại hội X nhận định: "khoa học
và công nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt. Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật
trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất". Cuộc cách mạng khoa học - công
nghệ hiện đại tác động sâu rộng tới mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Bên cạnh đó,
60
xu thế hội nhập và tác động của quá trình toàn cầu hóa đã tạo ra nhiều cơ hội cũng
như thách thức đối với đất nước. Trong bối cảnh đó, nước ta cần phải và có thể tiến
hành công nghiệp hóa theo kiểu rút ngắn thời gian khi biết lựa chọn con đường phát
triển kết hợp công nghiệp hóa với hiện đại hóa.
Nước ta thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa khi trên thế giới kinh tế tri
thức đã phát triển. Chúng ta có thể và cần thiết không trải qua các bước tuần tự từ
kinh tế nông nghiệp lên kinh tế công nghiệp rồi mới phát triển kinh tế tri thức. Đó là
lợi thế của các nước đi sau, không phải nóng vội, duy ý chí. Vì vậy, Đại hội X chỉ
rõ: đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi
kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và của công nghiệp hóa, hiện đại
hóa.
Kinh tế tri thức là gì? Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) đưa ra
định nghĩa : kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử
dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải,
nâng cao chất lượng cuộc sống. Trong nền kinh tế tri thức, những ngành kinh tế có
tác động to lớn tới sự phát triển là những ngành dựa nhiều vào tri thức, dựa vào các
thành tựu mới của khoa học, công nghệ. Đó là những ngành kinh tế mới dựa trên
công nghệ cao như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học và cả những ngành kinh
tế truyền thống như nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ được ứng dụng khoa học,
công nghệ cao.
Hai là, công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Khác với công nghiệp hóa ở thời kỳ trước đổi mới, được tiến hành trong nền
kinh tế kế hoạch hóa tập trung, lực lượng làm công nghiệp hóa chỉ có nhà nước, theo
kế hoạch của nhà nước thông qua các chỉ tiêu pháp lện. Thời kỳ đổi mới, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa được tiến hành trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, nhiều thành phần. Do đó, công nghiệp hóa, hiện đại hóa không phải
chỉ là việc của Nhà nước mà là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế,
trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo. Ở thời kỳ trước đổi mới, phương thức phân bổ
nguồn lược để công nghiệp hóa được thực hiện bằng cơ chế kế hoạch hóa tập trung
của nhà nước, còn thời kỳ đổi mới được thực hiện chủ yếu bằng cơ chế thị trường.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế thị trường không những
khai thác có hiệu quả mọi nguồn lực trong nền kinh tế mà còn sử dụng chúng có
hiệu quả để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Bởi vì, khi
đầu tư vào lĩnh vực nào, ở đâu, quy mô thế nào, công nghệ gì đều đòi hỏi phải tính
toán, cân nhắc kỹ càng, hạn chế đầu tư tràn lan, sai mục đích, kém hiệu quả và lãng
phí thất thoát.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế ở nước ta hiện nay diễn ra trong bối
cảnh toàn cầu hóa kinh tế, tất yếu phải hội nhập và mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại nhằm thu hút nguồn
vốn đầu tư nước ngoài, thu hút công nghệ hiện đại, học hỏi kinh nghiệm quản lý tiên
61
tiến của thế giới... sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Hội nhập kinh
tế quốc tế còn nhằm khai thác thị trường thế giới để tiêu thụ các sản phẩm mà nước
ta có nhiều lợi thế, có sức cạnh tranh cao. Nói cách khác, đó là việc kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để phát triển kinh tế nói chung và công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nói riêng được nhanh hơn, hiệu quả hơn.
Ba là, lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển
nhanh, bền vững.
Trong các yếu tố tham gia vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, yếu tố
con người luôn được coi là yếu tố cơ bản. Để tăng trưởng kinh tế cần 5 yếu tố chủ
yếu là : vốn, khoa học và công nghệ, con người, cơ cấu kinh tế, thể chế chính trị và
quản lý nhà nước trong đó con người là yếu tố quyết định. Để phát triển nguồn lực
con người đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa cần đặc biệt chú ý đến
phát triển giáo dục, đào tạo.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần
kinh tế, trong đó lực lượng cán bộ khoa học và công nghệ, khoa học quản lý và đội
ngũ công nhân lành nghề giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Nguồn nhân lực cho công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi phải đủ số lượng, cân đối về cơ cấu và trình độ, có
khả năng nắm bắt và sử dụng các thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến của thế
giới và có khả năng sáng tạo công nghệ mới.
Bốn là, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của công nghiệp hóa,
hiện đại hóa.
Khoa học và công nghệ có vai trò quyết định đến tăng năng suất lao động,
giảm chi phí sản xuất, nâng cao lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển kinh tế nói
chung. Nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế kém phát triển và tiềm
lực khoa học, công nghệ còn ở trình độ thấp. Muốn đẩy nhanh quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức thì phát triển khoa học và công nghệ là yêu
cầu tất yếu và bức xúc. Phải đẩy mạnh việc chọn lọc nhập công nghệ, mua sáng chế
kết hợp với phát triển công nghệ nội sinh để nhanh chóng đổi mới và nâng cao trình
độ công nghệ, nhất là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học và công nghệ vật liệu
mới.
Năm là, phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường tự nhiên, bảo tồn đan dạng
sinh học.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta thực chất là nhằm thực hiện mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Để thực hiện mục tiêu
đó, trước hết kinh tế phải phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững. Chỉ có như vậy
mới có khả năng xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của
nhân dân, phát triển văn hóa, giáo dục, y tế, rút ngắn khoảng cách chênh lệch giữa
các vùng... Mục tiêu đó thể hiện sự phát triển vì con người, mọi con người đều được
hưởng thành quả của sự phát triển.
62
Sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững có quan hệ chặt chẽ với việc bảo vệ
môi trường tự nhiên và bảo tồn đa dạng sinh học. Môi trường tự nhiên và sự đa dạng
sinh học là môi trường sống và hoạt động kinh tế của con người. Bảo vệ môi trường
tự nhiên và bảo tồn đa dạng sinh học chính là bảo vệ điều kiện sống của con người
và cũng là nội dung của sự phát triển bền vững.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top