119 - 120
Chương 119: Phố dưới chân chính
Số 2 phố Hoa Thủy Tiên, thành phố Tingen.
Sau khi để lại giấy nhắn, Klein khóa cửa lại, rảo bước tới chỗ Leonard Mitchell đang đứng chờ hắn.
Mái tóc màu đen của Leonard đã dài hơn tháng trước, lại được cắt qua nên trông khá rối. Nhưng dù như vậy, với khuôn mặt ưa nhìn và đôi mắt như ngọc lục bảo kèm khí chất nhà thơ, trông anh ta vẫn toát lên một vẻ đẹp dị biệt.
Quả nhiên, mặt đẹp để tóc gì cũng đẹp... Klein thầm nhạo một câu, rồi chỉ tới phía phố Chữ Thập Sắt: "Frye đang chờ chúng ta ở bên đó à?"
"Ừ." Leonard chỉnh phần sơ mi chưa nhét vào trong quần, như thuận miệng nói: "Anh có tìm được đầu mối gì từ trong tài liệu không?"
Klein cầm gậy bằng tay trái, rảo bước đi dọc theo con phố và đáp:
"Không, cho dù là cách thức hay thời gian tử vong, tôi đều không tìm ra quy luật nào. Anh biết đó, các nghi thức liên quan tới ác ma hay tà thần đều phải có thời gian riêng và cách thức đặc biệt."
Leonard sờ khẩu súng lục chế tạo đặc biệt dưới lớp áo sơ mi bên hông, khẽ cười một tiếng:
"Đó không phải là tuyệt đối. Theo kinh nghiệm của tôi, có tà thần, hoặc có thể gọi là ác ma, thỏa mãn rất dễ dàng, chỉ cần hắn rất hứng thú với chuyện tiếp sau. Hơn nữa những sự kiện tử vong này chắc chắn có một phần trong số đó là bình thường, bắt buộc phải loại trừ những phần bình thường ấy thì mới có được đáp án chính xác."
Klein liếc anh ta một cái, nói:
"Cho nên đội trưởng mới yêu cầu chúng ta điều tra lại, loại trừ những sự kiện bình thường. Leonard, ngữ khí và lời nói của anh nói cho tôi biết rằng anh rất có kinh nghiệm về chuyện tương tự, nhưng anh trở thành Kẻ Gác Đêm chưa tới bốn năm, số vụ án siêu phàm được giao cho chưa tới hai vụ trên tháng, mà phần lớn đều thuộc loại đơn giản, dễ giải quyết."
Hắn luôn cảm thấy người đồng đội Leonard Mitchell này rất kỳ quái và thần bí, không chỉ luôn nghi ngờ hắn, cho rằng hắn là kẻ đặc biệt, mà thường hay tự lẩm bẩm, lúc thì ngạo mạn, lúc lại lỗ mãng, rồi có lúc lại tỏ ra trầm lắng.
Nghe hắn hỏi vậy, Leonard cười nói:
"Đó là vì anh vẫn còn ở giai đoạn huấn luyện, chưa chính thức vào trạng thái Kẻ Gác Đêm. Cứ mỗi nửa năm Thánh Đường sẽ soạn những vụ án siêu phàm mà các giáo đường giáo khu hay gặp phải thành một bộ sách, cũng chia thành các cấp bảo mật khác nhau. Họ cắt giảm một phần nhất định trong những phiên bản khác nhau rồi phát cho các thành viên tương ứng. Anh vẫn còn ở ngoài khóa thần bí học, có thể xin đội trưởng vào cửa Chianese mượn những bộ sách về các vụ án trước đây."
Klein tỏ ra giật mình, gật đầu nói: "Đội trưởng chưa nhắc tôi chuyện này bao giờ."
Cho tới bây giờ hắn vẫn chưa có cơ hội bước vào cửa Chianese.
Leonard khẽ cười một tiếng: "Tôi tưởng anh đã quen với phong cách của đội trưởng rồi, không ngờ anh còn ngây thơ chờ anh ấy nhắc nữa chứ."
Nói tới đây, anh ta bổ sung thêm một câu với ý nghĩa khá thâm sâu: "Nếu ngày nào đó đội trưởng nhớ rõ mọi chuyện, không hề quên điều gì, chúng ta phải cảnh giác cao độ đấy."
Điều đó có nghĩa là mất khống chế? Klein trịnh trọng gật đầu, rồi hỏi lại:
"Đây là phong cách đặc hữu của đội trưởng à? Tôi tưởng là vấn đề do danh sách "Kẻ Không Ngủ" đưa tới chứ..."
Kiểu thức đêm nhiều khiến suy giảm trí nhớ vậy...
"Chính xác thì đây là phong cách đặc hữu của "Ác Mộng". Khi sự thật và cảnh mơ đan xen vào nhau thường xuyên tới mức khiến người ta không phân rõ đâu là sự thật cần ghi nhớ, đâu là giả, không cần ghi lại trong đầu..." Leonard vốn định nói gì đó, nhưng hai người đã tới phố Chữ Thập Sắt, thấy "Người Nhặt Xác" Frye đang chờ ở trạm đón xe ngựa công cộng theo tuyến.
Frye đội một chiếc mũ nỉ viền tròn màu đen, mặc áo gió cùng màu, tay xách một chiếc rương da. Sắc mặt tái nhợt tới mức khiến người ta sợ anh ta sẽ phát bệnh ngã lăn ra đó bất cứ lúc nào. Mà khí chất lạnh lẽo âm u của anh ta khiến người chờ xe xung quanh đều phải đứng ra xa.
Sau khi gật đầu chào nhau, ba người không ai nói gì, im lặng cùng đi qua tiệm bánh mì Slin, rẽ vào phố dưới của phố Chữ Thập Sắt.
Tiếng ồn ào kéo tới, tiếng rao canh hàu, cá rán tươi giòn, bia gừng với hoa quả khàn khàn vang lên khắp con phố từ những tiểu thương trên phố, khiến người ta khi đi qua đây không tự chủ được mà đi chậm lai.
Lúc này đã tầm năm giờ, không ít người dồn tới phố Chữ Thập Sắt, khiến đường phố trở nên chật chội. Xen lẫn trong đó là những đứa trẻ lạnh lùng nhìn lom lòm vào mọi túi tiền di động.
Klein thường tới nơi này mua đồ ăn sẵn giá rẻ, mà lúc trước hắn còn thuê trọ ở nơi gần đây nên biết rõ về tình trạng nơi này, vì thế hắn nhắc nhở: "Cẩn thận trộm cắp."
Leonard cười nói: "Không phải để ý."
Anh ta kéo áo sơ mi, điều chỉnh túi súng khiến khẩu súng bên hông lộ ra ngoài.
Thế là những ánh mắt nhìn anh ta đều dời đi chỗ khác, người xung quanh cũng dọn ra một con đường.
Klein ngẩn ra, vội đuổi theo Leonard và Frye. Hắn cúi thấp đầu để tránh người quen nhận ra mình. Benson và Melissa vẫn giữ liên lạc với những hàng xóm cũ lúc trước, dù sao bọn họ chuyển đi chỗ không xa.
Đi qua khu vực buôn bán đông đúc kia, ba người đi vào phố dưới thật sự của phố Chữ Thập Sắt.
Người ở đây đều ăn bận những bộ đồ cũ và rách rưới, đồng thời rất cảnh giác mới những kẻ xa lạ ăn mặc đẹp đẽ gọn gàng xuất hiện ở đây, lại tỏ ra tham lam như lũ kền kền đang nhìn chằm chằm những miếng thịt thối, sẽ tấn công bất cứ lúc nào. Nhưng khẩu súng kia của Leonard đã ngăn chặn mọi sự ngoài ý muốn có thể xảy ra.
"Chúng ta điều tra từ sự kiện tử vong tối hôm qua trước, bắt đầu từ chỗ bà Lauwis người chế diêm." Leonard giở tài liệu, chỉ vào chỗ cách đó không xa: "Tầng 1 nhà số 134..."
Khi bọn họ bước đi, những đứa trẻ ăn mặc rách rưới nhanh chóng trốn vào ven đường, dùng ánh mắt ngơ ngác, tò mò và sợ hãi nhìn chằm chằm vào bọn họ.
"Nhìn cánh tay với cẳng chân bọn chúng kìa, hệt như que diêm ấy." Leonard cảm thán một câu, rồi bước vào số 134 ba tầng trước.
Đủ mọi loại mùi xộc vào mũi Klein, hắn có thể phân biệt được mùi khai nước tiểu, mùi mồ hôi, mùi nấm mốc ẩm ướt và mùi đốt than đá và củi.
Không chịu được mà phải giơ tay che mũi, Klein thấy Beech Mountbatten đợi sẵn ở đây.
Vị cảnh sát trưởng phụ trách con phố xung quanh nuôi chòm râu quai nón màu nâu nhạt, tỏ ra nịnh nọt với Leonard, người đang giữ chức vụ đốc sát.
"Thưa ngài, tôi đã bảo Lauwis đợi ở trong nhà rồi." Beech Mountbatten cười nói với chất giọng có vẻ lanh lảnh của mình.
Hiển nhiên anh ta không hề nhận ra Klein, người đã trở nên hoạt bát và thể diện hơn hẳn, mà chỉ lo lấy lòng ba vị cấp trên, rồi dẫn bọn họ vào nhà Lauwis ở tầng một.
Đây là một căn nhà phòng đơn, bên trong cùng là một chiếc giường hai tầng, bên phải là bàn với đầy keo dán hay bìa cứng, trong góc thì là cái sọt chất đầy hộp diêm, bên trái là tủ bát cũ kỹ, vừa để treo quần áo vừa để bát đĩa.
Hai bên cửa là bếp lò, bồn cầu và những thứ như củi, than đá. Ở chính giữa phòng là hai chiếc nệm bẩn thỉu. Một người đàn ông quấn chiếc chăn rách ngáy to. Nơi này chật chội tới mức gần như không có chỗ để đứng.
Một người phụ nữ đang nằm trên giường dưới của chiếc giường hai tầng, làn da lạnh và sạm lại, đã không còn sự sống nào. Một người đàn ông ngồi bên cạnh thi thể, ông ta chừng ba mươi tuổi vưới mái tóc rối đầy dầu, vẻ mặt ủ rũ và ánh mắt dại đi.
"Lauwis, ba vị sĩ quan cảnh sát này tới khám nghiệm thi thể, cũng hỏi anh mấy chuyện." Beech Mountbatten gọi to, không hề để ý rằng có người đang ngủ dưới đất.
Người đàn ông ủ rũ ngẩng đầu lên, kinh ngạc hỏi: "Không phải sáng nay đã khám nghiệm và hỏi rồi sao?"
Ông ta mặc bộ đồ công nhân màu lam xám với những miếng vá chi chít.
"Bảo anh trả lời thì cứ trả lời đi, hỏi gì nhiều thế nhỉ!" Beech Mountbatten mắng mỏ ông ta, sau đó cười nói với Leonard, Klein và Frye: "Đây là Lauwis, vợ anh ta ở trên giường, chính là người chết. Sau khi khám nghiệm sơ bộ, chúng tôi kết luận là chết phát bệnh đột ngột."
Đám người Klein nhón chân qua kẽ hở bên cạnh nệm để tới bên giường.
Frye không nói gì, chỉ dịu dàng vỗ Lauwis, ra hiệu cho ông ta nhường chỗ cho anh ta khám nghiệm thi thể.
Klein nhìn người đàn ông ngủ dưới đất, nghi hoặc hỏi: "Đây là ai?"
"Là khách thuê của tôi." Lauwis gãi da đầu, nói: "Mỗi tuần chúng tôi phải trả 3 saule 10 penny cho phòng này, mà tôi chỉ là công nhân bến tàu, vợ thì làm một hộp diêm mới lấy được 2 và 1/4 penny, 1 sọt thì được... Trên 130 hộp ấy. Chúng tôi còn có con, đành phải cho chỗ trống này cho người khác thuê, một nệm chỉ 1 saule một tuần... Một khách thuê khác của tôi thì phụ giúp sắp xếp phông cảnh ở nhà hát, toàn nghỉ sau 10 giờ tối, bán quyền sử dụng nệm vào ban ngày cho anh này. Anh ta là người gác cổng cho nhà hát về đêm, ừm, chỉ cần trả 6 penny một tuần..."
Nghe ông ta giới thiệu, Klein không nhịn được mà liếc chiếc sọt ở trong góc. Một sọt là trên 130 hộp, mới kiếm được 2,25 penny, xấp xỉ giá của hai pound bánh mì đen... Một ngày thì làm được bao nhiêu sọt?
Leonard nhìn xung quanh một lượt, rồi hỏi: "Trước khi chết, vợ ông có biểu hiện gì khác lạ không?"
Vì đã trả lời câu hỏi tương tự nên Lauwis chỉ vào ngực trái rồi đáp: "Từ tuần trước, ừm, có lẽ là tuần trước nữa, vợ tôi thường bảo là thấy khó chịu ở chỗ này, cảm thấy không thở nổi."
Có dấu hiệu bệnh tật? Cái chết bình thường? Klein hỏi xen vào: "Ông có thấy quá trình tử vong của bà ấy không?"
Lauwis hồi tưởng:
"Sau khi mặt trời lặn, cô ấy không làm việc nữa, vì nến với dầu hỏa còn đắt hơn cả hộp diêm... Cô ấy nói là mệt mỏi quá, bảo tôi đi nói chuyện với hai đứa trẻ, còn cô ấy đi nghỉ một lát. Chờ khi tôi quay lại với cô ấy thì cô ấy đã... đã ngừng thở rồi."
Nói tới đây, Lauwis không thể nào che giấu được sự bi thương và đau đớn của mình.
Klein và Leonard lại hỏi thêm vài câu nữa, nhưng không phát hiện yếu tố trái tự nhiên bất bình thường nào.
Hai người liếc nhau một cái, Leonard nói: "Lauwis, phiền ông ra ngoài chờ mấy phút, chúng tôi sẽ khám nghiệm thêm thi thẻ, tôi nghĩ rằng ông không muốn thấy hình ảnh tiếp theo đâu."
"Vâng, vâng." Lauwis cuống quít đứng dậy.
Beech Mountbatten đi tới bên cạnh, đá một cái khiến vị khách thuê nệm tỉnh giấc, rồi thô bạo đuổi người ta ra ngoài, còn bản thân anh ta thì đóng cửa lại, canh ở bên ngoài.
"Sao rồi?" Leonard lập tức quay sang nhìn Frye.
"Chết vì bệnh tim." Frye thu tay lại, khẳng định.
Klein ngẫm nghĩ, lấy đồng xu mệnh giá nửa penny ra, dự định xem bói nhanh.
"Bệnh tim của bà Lauwis bị ảnh hưởng bởi yếu tố siêu phàm"? Không, phạm vi quá hẹp, đáp án có thể lừa người rất dễ... Ừm, "Cái chết của bà Lauwis có sự ảnh hưởng bởi yếu tố siêu phàm"... Chính là nó!" Hắn thì thầm như đang tự hỏi, rồi nhanh chóng xác định được câu nói xem bói.
Trong lúc lẩm nhẩm, Klein đi tới gần thi thể bà Lauwis, đôi mắt sâu dần, hắn tung đồng xu lên cao.
Khi tiếng vang vọng, đồng xu làm từ đồng thau rơi xuống, vững vàng rơi vào lòng bàn tay hắn.
Lúc này đây, mặt có đầu vua ở trên. Điều này nói rõ quả thực có yếu tố siêu phàm ảnh hưởng tới cái chết của bà Lauwis!
********
Chương 120: Trại tế bần
"Có tồn tại yếu tố siêu phàm..." Màu mắt Klein trở lại bình thường, hắn quay đầu nhìn Leonard và Frye.
Leonard bỗng cười ra tiếng: "Thật chuyên nghiệp, đúng là Thầy Bói."
Anh như đang ám chỉ điều gì ấy... Klein thầm nghĩ.
Frye mở rương da, lấy mấy thứ như dao bạc, tạm dừng vài giây rồi nói:
"Thi thể nói cho tôi biết bà ta thực sự chết vì bệnh tim tái phát... Anh có cách nào bói ra thông tin cụ thể chi tiết hơn không?"
Klein nghiêm túc gật đầu: "Tôi có thể thử kết hợp nghi thức thông linh và xem bói cảnh mơ, mong có thể kiếm được thứ gì đó từ linh tính còn sót lại của bà Lauwis."
Frye vẫn giữ nguyên trạng thái lạnh lẽo, anh ta lùi sau hai bước, nói: "Cậu thử trước đi."
Anh ta liếc Klein một cái, đột nhiên cảm thán một câu với ngữ khí bằng bằng: "Cậu càng lúc càng quen việc rồi nhỉ."
Tôi có muốn đâu... Klein chợt cảm thấy muốn khóc. Hắn lần lượt lấy những lọ nước chiết xuất, tinh dầu và bột thảo dược ra, nhanh chóng sắp đặt nghi thức thông linh.
Hắn đứng chính giữa bức tường linh tính, đọc tôn danh của nữ thần Đêm Tối, dùng tiếng Hermes đưa ra lời cầu khẩn.
Gió nhanh chóng đánh xoáy xung quanh hắn, ánh sáng trở nên tối đi. Lúc này con ngươi hắn đã hoàn toàn chuyển thành màu đen, hắn nắm lấy cơ hội lẩm nhẩm câu nói bói toán:
"Nguyên nhân cái chết của bà Lauwis."
"Nguyên nhân cái chết của bà Lauwis."
...
Hắn đi vào cảnh mơ, "nhìn" linh trong suốt đang bồi hồi xung quanh thi thể trong sự mơ hồ. Sau đó hắn giơ tay phải ra chạm vào linh tính còn sót lại của bà Lauwis.
Chỉ chớp mắt, như có ánh sáng nổ tung trước mắt hắn, rồi từng hình ảnh lóe lên.
Đó là một người phụ nữ gầy gò vàng vọt, ăn mặc rách rưới đang bận bịu làm hộp diêm. Rồi hình ảnh bà ta bỗng dừng lại, giơ tay đè ngực.
Rồi bà ta nói chuyện với hai đứa trẻ, rồi cơ thể lung lay, mồm há ra, thở hổn hển.
Rồi hình ảnh lúc bà ta đi mua bánh mì đen, đột nhiên bị người ta vỗ một cái. Tới hình ảnh bà ta liên tục xuất hiện dấu hiệu về trái tim có vấn đề. Rồi cảnh bà ta mệt mỏi, nằm trên giường, không hề tỉnh lại nữa.
Klein quan sát kỹ từng chi tiết một nhằm tìm dấu vết có sự tồn tại của yếu tố siêu phàm. Nhưng khi mọi thứ chấm dứt, hắn không hề lấy được manh mối xác đáng nào.
Sự mơ hồ và mông lung vỡ tan, Klein rời khỏi cảnh mơ, trở lại hiện thực.
Hắn bỏ bức tường linh tính, nói với Frye đang chờ đợi và Leonard đang nhìn trò hay:
"Không có biểu tượng trực tiếp nào, phần lớn đều tiết lộ rằng bà Lauwis thực tế đã mắc bệnh tim từ trước. Chỉ có một điểm khác biệt đó là bà ta bị người ta vỗ vào lưng một cái. Cánh tay kia trắng nõn và mảnh dẻ, dường như là tay của nữ."
"Với gia đình như này, nếu không tới mức nghiêm trọng bọn họ sẽ không đi khám bác sĩ, cho dù là xếp hàng ở các tổ chức chữa bệnh từ thiện miễn phí, bởi bọn họ không có thời gian cho việc đó. Nếu ngày nào không làm, ngày hôm sau có lẽ bọn họ sẽ không còn gì để ăn." Leonard thở dài, nói với ngữ khí sầu não như đám nhà thơ.
Frye thì nhìn thi thể trên giường, khẽ thở hắt ra.
Không chờ Klein mở miệng, Leonard nhanh chóng thay đổi trạng thái, nói như đang tự hỏi: "Ý của anh là yếu tố siêu phàm nằm ở lúc bà Lauwis bị vỗ, từ người có cánh tay mảnh dẻ?"
Klein gật đầu: "Vâng, nhưng đây chỉ là những gì tôi giải mã được, mà bói toán thì thường không rõ ràng."
Hắn và Leonard không thảo luận gì thêm, cả hai lùi ra một phía khác của giường để Frye có thể lấy dụng cụ và vật liệu phụ trợ từ trong rương da, phục vụ cho khám nghiệm thêm.
Bọn họ chờ giây lát. Sau khi dọn xong đồ, sửa sang và che giấu, Frye quay đầu nói: "Nguyên nhân cái chết là do bệnh tim, không còn nghi vấn gì về điều này."
Nghe được kết luận ấy, Leonard đi lại vài bước, thậm chí còn đi tới cạnh cửa, hồi lâu sau mới nói: "Đã đến đây trước vậy chúng ta tới trại tế bàn khu phía tây đi, xem có phát hiện manh mối khác, để xem hai cái chết này có xâu chuỗi gì với nhau không."
"Ừ, chỉ có thể như vậy." Nín đầy một bụng nghi hoặc, Klein mở miệng đồng ý.
Frye xách rương lên, vừa đi vừa nhảy qua hai chiếc đệm, không đạp lên chăn của người khác.
Leonard mở cửa phòng rồi đi ra trước, nói với Lauwis và khách thuê: "Các vị về phòng được rồi."
Klein suy nghĩ rồi bổ sung: "Đừng vội hạ táng, chờ một ngày nữa có lẽ còn khám nghiệm thêm lần nữa."
"Vâng, vâng, sĩ quan cảnh sát." Lauwis khẽ khom người, vâng dạ liên tục, sau đó nửa chết lặng nửa mờ mịt mà nói: "Thực ra tạm thời tôi chưa có tiền chôn cất cô ấy, còn phải kiếm thêm vài ngày nữa, phải vài ngày nữa. May là dạo này trời mát mẻ."
Klein ngạc nhiên thốt lên: "Ông định để xác chết ở trong phòng mấy ngày cơ á?"
Lauwis gắng gượng cười: "Ừ, cũng may là trời mát mẻ rồi, đến tối có thể để xác lên bàn, lúc ăn thì ôm cô ấy xuống giường..."
Ông ta còn chưa nói xong, Frye đột nhiên ngắt lời: "Tôi để chi phí chôn cất bên cạnh vợ ông rồi."
Sau khi bỏ lại một câu bình thản ấy, chẳng hề để ý tới vẻ mặt kinh ngạc và lời cảm ơn tiếp sau của Lauwis, anh ta rảo bước ra khỏi cổng nhà trọ.
Klein theo sát phía sau, luôn nghĩ tới một vấn đề: Nếu trời vẫn duy trì nhiệt độ tháng sáu tháng bảy, Lauwis sẽ làm gì với xác vợ ông ta? Chờ tới một đêm tối gió to, lén lút ném xác vào sông Tasok hoặc sông Hoy? Hay là tìm một chỗ đào hố rồi chôn?
Klein biết từ hơn một nghìn năm trước, vào những năm cuối của kỷ nguyên trước, vì để loại trừ quỷ nước, cương thi và oan hồn, bảy giáo hội lớn và hoàng gia các vương quốc đã đưa ra luật rằng "bắt buộc phải chôn cất ở nghĩa trang". Biện pháp thực thi cụ thể là do các quốc gia cung cấp đất miễn phí, các giáo hội phụ trách trông coi hoặc tuần tra, và chỉ thu chi phí rất ít khi hỏa táng với chôn cất để lấy tiền trả cho công lao động cần thiết.
Nhưng dù vậy, dân nghèo vẫn không có khả năng chi trả.
Sau khi rời khỏi số 134 phố Chữ Thập Sắt, ba vị Kẻ Gác Đêm tạm biệt Beech Mountbatten, im lặng rẽ vào trại tế bần ở con phố gần đó.
Vừa tới gần, Klein đã thấy một hàng người xếp dài, hệt như dân của nước ăn tham ở Trái Đất đứng xếp hàng trước các cửa hàng, người kề vai người, chen chúc nhau.
"Chỗ này phải tới hơn một trăm, không, gần hai trăm người rồi." Hắn kinh ngạc thì thầm, thấy người đứng xếp hàng đều ăn mặc quần áo cũ và rách, vẻ mặt chết lặng, thi thoảng lại lo lắng nhìn cửa trại tế bần.
Frye bước chậm dần, nói với khí chất lạnh lẽo và âm trầm: "Mỗi ngày mỗi một trại tế bần đều chỉ nhận được một lượng người nghèo có hạn, chỉ có thể lựa chọn từ thứ tự xếp hàng. Đương nhiên bọn họ cũng giám định để không cho người không có điều kiện phù hợp vào."
"Cũng liên quan tới việc kinh tế mấy tháng nay đình trệ..." Leonard cảm khái.
"Những người không được chọn sẽ phải tự nghĩ cách à?" Theo bản năng, Klein hỏi một câu.
"Bọn họ có thể tới trại tế bần khác thử xem. Thời gian mở cửa của các trại tế bần khác nhau, chẳng qua hàng cũng dài như này, có người đã chờ từ tận hai giờ chiều rồi." Frye dừng lại một chút rồi nói: "Quá nửa những người còn lại sẽ nhịn đói nguyên ngày, cũng mất năng lực tìm việc, rơi vào vòng tuần hoàn ác tính mãi tới khi chết. Người không chịu nổi sẽ từ bỏ sự kiên trì hướng thiện của mình..."
Klein im lặng vài giây, rồi thở hắt ra: "Chưa thấy bao chí đăng về những chuyện này bao giờ... Frye, ít khi tôi thấy anh nói nhiều như vậy."
"Tôi từng làm mục sư ở trại tế bần của Nữ Thần." Frye vẫn ở trạng thái lạnh lùng này.
Ba người ăn mặc gọn gàng đi tới cửa trại tế bần khu phía tây, đưa giấy chứng nhận cho người gác cửa đang ngạo mạn trông coi hàng người, rồi được dẫn vào trong trại.
Trại tế bần này được cải tạo từ một giáo đường cũ. Sảnh làm lễ Mi-sa được trải những chiếc đệm, treo những chiếc võng. Mùi mồ hôi với mùi thối bàn chân ngập tràn tới từng ngóc ngách.
Cả trong và ngoài phòng, những người nghèo vô gia cư vung búa đập vỡ tảng đá, một số khác thì lột sợi thô ra từ những dây thừng cũ, chẳng có ai là ngồi không.
"Vì để dân nghèo không ỷ lại vào cứu tế, trở thành kẻ vô lại, luật Tế Bần năm 1336 quy định rằng mỗi một dân nghèo chỉ được ở trong trại tế bần tối đa năm ngày, hết thời gian sẽ bị đuổi ra. Mà trong năm ngày này, bọn họ phải lao động bằng việc đập vỡ đá hoặc rút sợi dây thừng. Đây là những việc bắt buộc cho đám tội phạm trong nhà giam." Frye nói qua với chất giọng không chút cảm xúc cho Klein và Leonard.
Leonard há miệng, cuối cùng không biết là anh ta đang châm chọc hay trần thuật: "Rời khỏi trại tế bần này thì có thể tới trại khác, đương nhiên là chưa chắc đã được vào... Ôi, có lẽ trong mắt người khác, dân nghèo chả khác gì lũ tội phạm."
"... Rút sợi dây thừng?" Sau một lúc im lặng, Klein không biết hỏi gì.
"Sợi trong dây thừng cũ là vật liệu rất tốt để nhét vào kẽ hở của thuyền bè." Frye dừng lại, tìm được một dấu vết cháy đen dưới đất.
Bọn họ chờ vài phút, trưởng trại tế bần và mục sư chạy tới. Bọn họ đều là những người đàn ông hơn bốn mươi tuổi.
"Sols phóng hỏa ở đây, cuối cùng chỉ thiêu chết chính mình à?" Leonard chỉ vào dấu vết dưới đất.
Trưởng trại tế bần là một người đàn ông có vầng trán hơi rộng, ông ta dùng con mắt màu lam quét qua phía đốc sát Mitchell chỉ, rồi gật đầu khẳng định: "Đúng vậy."
"Trước đó Sols có biểu hiện gì khác thường không?" Klein hỏi bổ sung.
Trưởng trại tế bần suy nghĩ một chút rồi đáp:
"Người ngủ bên cạnh anh ta nói rằng Sols cứ lẩm nhẩm là "Chúa đã từ bỏ tôi", "Thế giới này quá bẩn thỉu", "Tôi chẳng còn gì cả"... Lúc nào cũng cảm thấy oán hận và tuyệt vọng. Nhưng không ai ngờ anh ta lại định nhân lúc mọi người ngủ, đập vỡ toàn bộ đèn dầu hỏa, phóng hỏa đốt cháy nơi này. Cảm ơn chúa, có người phát hiện đúng lúc nên đã ngăn chặn được hành vi tội ác của anh ta."
Klein và Leonard tìm những người ngủ cạnh Sols tối hôm qua, tìm người bảo vệ đã ngăn chặn thảm kịch, nhưng chỉ nhận được những câu trả lời không khác gì trong tài liệu. Đương nhiên bọn họ đã ngầm sử dụng linh thị hay bói toán để xác nhận xem đối phương có nói dối không.
"Thoạt trông Sols đã có ý định trả thù và tự sát từ trước, dường như đây là một vụ án rất bình thường." Leonard làm cho trưởng trại và mục sư đi trước, rồi mới nói.
Klein châm chước: "Kết quả bói toán của tôi nói rằng vụ án này không bị ảnh hưởng bởi yếu tố siêu phàm."
"Vậy tạm thời loại trừ vụ án này ra." Leonard kết luận.
Đúng lúc này, Frye đột nhiên nói: "Không, có lẽ còn có khả năng khác. Ví dụ như Sols bị người khác xúi giục, mà kẻ kia là người phi phàm nhưng lại không sử dụng năng lực siêu phàm."
Klein nghe mà mắt sáng ngời, bèn tỏ vẻ đồng ý: "Có thể lắm, ví dụ như Kẻ Xúi Giục lúc trước ấy!"
"Kẻ Xúi Giục" Treece!
Nhưng vụ này với cái chết của bà Lauwis hoàn toàn không liên quan gì... Hắn nhíu mày nghĩ.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top