CHƯƠNG 1

Thanh đằng, tử trúc, điểu ngữLão nhân, mộ niên, thế ngoại[1]

[1] Tạm dịch: Mây xanh, trúc tía, rộn tiếng chim; an hưởng tuổi già cảnh như tiên.

Đây là ấn tượng đầu tiên khi tôi mang theo nỗi lo lắng hoảng hốt bước vào ngôi biệt thự của bà Cố ở vùng quê.

Khuôn viên không rộng, nhưng mát mẻ bình yên, hoa thơm chim hót, không âm thanh ồn ã nơi thị thành, không mùi xú uế nơi phàm tục, có chút giống như cõi bồng lai tiên cảnh. Một căn nhà ba tầng nhỏ xinh, gạch son ngói đỏ, mây xanh leo quanh, trúc tím bao bọc, làm mất đi sự liên tưởng tới ximăng, cốt thép. Bày biện bài trí trong phòng khách theo phong cách Đông ‐ Tây kết hợp, vừa có ghế sofa và tràng kỷ theo kiểu của thời kỳ Louis 14, lại có ban thờ tổ tiên đặc kiểu Trung Hoa, hương khói nghi ngút, thờ cúng Quan Thế Âm Bồ Tát đại từ đại bi. Mặc dù khi vừa gặp, trên khuôn mặt bà Cố vẫn còn vương vẻ giận hờn từ hôm qua, nhưng tôi thấy trên chiếc bàn mây tinh xảo đã đặt sẵn bộ đồ pha trà bằng gốm, vì thế mà tôi biết bà Cố đã sẵn sàng tiếp nhận cuộc phỏng vấn của tôi. Tôi tự mừng thầm trong bụng, nhưng không hề để lộ ra ngoài. Tôi tự cảm nhận, nhẹ nhàng từ tốn cũng là một sự coi trọng, chỉ có điều sự coi trọng này không giống với sự coi trọng bộc tuệch của bà Cố, bà là người đã tham gia, là người từng trải, là người có mọi thứ, còn tôi là người khai thác, là người mong đợi. Tôi phải để sự kính trọng của tôi ở trong lòng, giấu kín trong đầu, cho nên không khúm núm, không ngạo mạn, trở về trạng thái thường thấy khi tôi thăm bề trên là anh hào quyền quý, hay bề dưới là người dân thường. Nhất là lần này vội vàng vượt đường trường tới đảo Đài Loan, sự quyết tâm đã dẫn dắt tôi đi giải mã bí mật trong bí mật của nửa thế kỷ về trước, bản thân chuyến viễn hành này giống như một tác phẩm kém như ma xui quỷ mà trở lên tuyệt vời và đáng xem. Trong bế tắc, tôi cảm ơn sự quyết tâm của tôi, những bí mật mới đang nằm trong sự trông chờ của tôi, thôi thúc tôi giải mã. Sau khi chị giúp việc pha xong ấm trà Thiết Quan Âm rót vào chén, mùi hương thơm thoang thoảng, nhẹ nhàng, đưa tôi và bà Cố quay trở lại câu chuyện cũ khủng khiếp, nghĩ lại mà đau đớn ấy.

Rất rõ ràng, bà Cố đã trang điểm và chuẩn bị rất công phu để thực hiện cuộc phỏng vấn của tôi. Bà mặc một chiếc áo màu lam nhạt, trông nhàn hạ mà đa cảm, chiếc vòng đeo tay màu kê huyết lặng lẽ toát lên sự cao quý và giàu có của bà, nước da trắng hiện đầy những vết nhăn của tuổi già khó thể che đậy nổi. Cho dù đôi môi nhăn nhúm đã được thoa lớp son hồng nhạt, giống như đang cố gắng gìn giữ bí mật của nhiều năm, nhưng lúc này, tôi luôn có cảm giác như mình bước vào cảnh cuối đời của nữ nhân vật chính trong bộ phim Titanic: Ánh mắt họ như đều đang chứa đựng khoảnh khắc của sự ra đi, và một kiểu bí mật, miên man bất định lóe sáng riêng chỉ có ở người già.

"Bà ạ! Bà bảo tin tức tình báo là do bà chuyển ra ngoài, cháu muốn biết bà đã chuyển nó ra ngoài như thế nào?" Tôi đi thẳng vào vấn đề.

"Cậu nên hỏi tôi, tại sao tôi lại giúp Lý Ninh Ngọc chuyển tin tình báo." Bà Cố phản bác lại tôi.

"Vâng, tại sao vậy?"

"Bởi vì tôi không phải quân ngụy." "Bà là đồng chí của Lý Ninh Ngọc?"

"Cái này phải xem nói thế nào đã, nếu là đối với bọn giặc Nhật thì chúng tôi là đồng chí, còn khi không có bọn giặc Nhật, chúng tôi là kẻ thù của nhau."

Tôi bừng tỉnh ngộ: "Bà là người của Trùng Khánh?".

Bà cười nhạt: "Hừ, coi như cậu thông minh, đoán đúng. Tôi là người của Cục Quân Thống[2] cài cắm nằm vùng trong tổ chức của ngụy Uông[3]".

[2] Một tổ chức đặc vụ của Quốc dân đảng.

[3] Phái chống Cộng thân Nhật trong nội bộ Chính phủ Quốc dân thời kỳ kháng Nhật, do Uông Tinh vệ cầm đầu, gọi tắt là ngụy Uông.

Tôi nghĩ ngay đến, người cha giàu có của bà chắc chắn là một điệp viên hoạt động ngầm của Quân Thống.

Bà Cố ngẩng đầu, nhìn lên khung ảnh treo trên tường, trong ảnh là một chiếc máy bay phản lực kiểu Mỹ: "Nó chính là chiếc máy bay cha tôi tặng Uông Tinh Vệ, cũng là món quà gặp mặt khi hai cha con tôi gia nhập chính quyền ngụy Uông, làm bước tạo đà. Thực ra, máy bay này là Đới Lạp tặng, chỉ là mượn tên của cha tôi thôi".

Tôi hỏi: "Là sự việc từ năm nào vậy?".

Bà Cố run run đưa tay xoa nhẹ lên chiếc vòng tay, ngón tay trỏ bịt chặt kẽ môi, ánh mắt mơ màng về nơi xa xăm, giống như đang nắm bắt lại những hạt bụi trần ai chìm nổi suốt hơn nửa thế kỉ trước nhưng rất khó phai mờ...

* * *

Mùa hè năm 1939. Cố Tiểu Mộng nhớ rất rõ, buổi chiều hôm ấy, cô vừa tham dự lễ tốt nghiệp tại trường Cảnh sát Thanh Phố (Thượng Hải), phấn chấn trở về nhà, nhìn thấy dưới giàn nho trong vườn, cha cô đang ngồi hút xì gà trên chiếc ghế mây đã ngả màu, đang bàn chuyện cùng một người trung niên. Điếu xì gà nhập ngoại trên tay cha, tuy là thuốc lá, nhưng nó là sự hào nhoáng, là đạo cụ, là phong độ của một ông chủ, từ điệu bộ nhíu mày và nuốt khói thuốc của ông, Cố Tiểu Mộng không khó để đưa ra phán đoán, câu chuyện của cha cô và người khách không hề vui vẻ. Có lẽ có thể dùng cụm từ khá không vui vẻ để hình dung, bởi vì cô để ý thấy sắc mặt nghiêm trọng, ánh mắt rực lửa của cha. Ở nhà cha rất ít khi bộc lộ sắc mặt như vậy, thậm chí mấy tháng trước, khi cha biết tin số hàng hóa trị giá hàng triệu bạc bị trúng đạn pháo chìm xuống đáy biển cũng không đến mức như vậy, nhìn thấy con gái ông cũng không cất tiếng chào. Trong ký ức của cô con gái, chỉ có hai năm trước, ngày mẹ cô bất ngờ qua đời bởi máy bay của bọn giặc Nhật oanh tạc, cô không biết tin dữ, tung tẩy khẽ hát bước vào nhà, cha cô rõ ràng nhìn thấy nhưng không hề quan tâm, mà quay lưng bước đi, tấm lưng trầm lặng của ông giống như một tấm bình phong màu đen, chia lìa tình thân vốn có giữa hai cha con.

Vị khách mặc bộ đồ Trung Sơn vải kaki đen, đầu đội mũ phớt hiệu Thiên Tân Thịnh Tích Phúc, chiếc kính râm mắt tròn vắt ngang sống mũi lộ rõ đôi phần bí ẩn và ngạo mạn. Nhìn chiếc cặp công văn để trên bàn trà, Cố Tiểu Mộng cơ bản đã đoán ra thân phận của vị khách, không phải là người của quân đội, thì là người của lực lượng cảnh sát. Cô nghiêng về phần là người của lực lượng cảnh sát hơn, bởi vì cô vừa tốt nghiệp trường cảnh sát, có lẽ cha đang cùng vị khách bàn về tương lai của cô. Nếu đúng là như vậy, cô cảm thấy mình tạm thời chưa xuất hiện sẽ tốt hơn. Vì thế, cô lưỡng lự rồi lặng lẽ rút lui, đi vòng ra phía sau trở về phòng.

Vú Tống mừng rỡ đón cô trở về, thấy mồ hôi lấm tấm trên trán, vú Tống liền lấy khăn mặt giúp cô thấm mồ hôi. Cô cầm khăn, vừa lau mồ hôi vừa hỏi vú Tống: "Người đó là ai vậy?".

Vú Tống lắc đầu: "Không biết nữa... Ông nhà dặn tôi không làm phiền họ nói chuyện".

Cố Tiểu Mộng lau mồ hôi qua loa rồi đưa lại khăn cho vú Tống: "Ông ta tới đây lâu chưa?".

Vú Tống nhìn lên chiếc đồng hồ treo trên tường: "Hơn một giờ đồng hồ rồi".

Đang nói thì chiếc đồng hồ treo tường và tiếng chuông nhà thờ bên ngoài cùng vang lên, tư‐ư‐ưng‐tư‐ư‐ưng‐tư‐ư‐ưng‐giống như cả thành phố đang chuẩn bị nhổ neo đi xa. Hai năm trước, mẹ cô mất chưa lâu, vì an toàn của con gái, cha cô đã dời nhà từ Hàng Châu tới khu tô giới của Pháp ở Thượng Hải, đối diện cửa nhà cô có một nhà thờ Thiên chúa giáo, mỗi lần, sau khi tiếng chuông nhà thờ vang lên, lại có một đàn bồ câu từ nóc nhà họ bay qua, trải xuống đường một lớp lông vũ cùng tiếng chim gù.

Mùa hè ở Thượng Hải oi bức, Cố Tiểu Mộng thấy chóng mặt buồn ngủ, cô rửa mặt, muốn lên lầu ngủ một giấc. Nhưng lên giường rồi lại không ngủ được, đành uể oải lật xem cuốn tạp chí điện ảnh Khán Khách. Chẳng biết bao lâu sau, cô bật dậy khỏi giường tới bên cửa sổ, vừa đúng lúc thấy cha đứng dậy tiễn vị khách ra về. Vị khách một tay nắm chặt tay cha cô, một tay xoa vai cha cô, vỗ nhẹ. Qua biểu hiện của cha, vừa có chút bất lực, lại vừa có chút như chấp nhận sự an ủi của vị khách.

Điều khiến Cố Tiểu Mộng ngạc nhiên nhất là cha cô vào phòng nhìn thấy con gái, tiếng cười sảng khoái thường thấy trước đây không còn nữa. Cô hỏi vị khách ấy là ai, cha cô cũng chỉ nói qua loa cho qua chuyện. Khác lạ vẫn còn tiếp diễn, khi ăn cơm tối, cha cố tình liên tục gắp thức ăn cho cô để thay cho những câu trò chuyện vốn có giữa hai cha con, cảnh tượng như có gì đó thật chua xót, ảm đạm thê lương. Mẹ mất bỏ cha lại một mình, hai anh trai đều ở nước ngoài, Cố Tiểu Mộng là người thân duy nhất ở bên cạnh cha, nên cha cô càng nuông chiều và bao bọc cô hơn, vì thế tính cách ngang ngược, bất cần của Cố Tiểu Mộng có điều kiện phát triển. Trong mắt Cố Tiểu Mộng, cha còn không uy nghiêm bằng vú Tống. Cô không khỏi bực mình trước sự khác thường của cha, hỏi thì không được trả lời cặn kẽ, cô tức giận, bỏ bát đũa, hậm hực bước lên lầu.

Người cha ăn cơm xong, lên lầu thăm con gái. Cuối cùng cô đã không thể nhịn nổi, lớn tiếng với cha: "Một kẻ gây sự mặc đồ đen đã đến nhà mình phải không? Làm cho nhà mình u ám như đưa đám, lẽ nào ông ta là Diêm Vương?".

Con gái vô lễ, nhưng người cha không hề tức giận, trái lại chán nản gục đầu, lặng lẽ ngồi xuống trước mặt con gái, buồn bã nói: "Con à, cha không biết phải nói thế nào với con nữa".

Con gái ông đùng đùng tức giận: "Có gì thì nói vậy".

Người cha cầm tay con gái, lắc đầu, muốn nói nhưng lại thôi.

Cố Tiểu Mộng ít nhiều thấy mơ hồ, nắm chặt tay cha: "Cha, rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì vậy?".

Người cha thở dài, mắt nhắm lại nói: "Chuyện từ trên trời rơi xuống". Lúc sau, cha cô hai mắt mở to, nói đầy vẻ nghiêm túc: "Tiểu Mộng à, ông trời có sụp xuống, cha còn có thể dùng hết tài sản nhà mình để chống cho con, nhưng lần này... cha... không giúp nổi con được rồi, cha con mình không còn sự lựa chọn nào khác, chỉ có thể nghe theo lời ông ấy thôi".

Cố Tiểu Mộng đứng bật dậy, "Là cha nói người tới đây chiều nay?".

"Ừ."

"Ông ấy là ai vậy?"

"Ông ấy chỉ là một tên lâu la, quan trọng là người mà ông ấy thay mặt."

"Ông ấy đại diện cho ai vậy?"

"Đất nước chúng ta, đất nước đã tan nát này."

* * *

[Ghi âm]

Ầy, cha bảo tôi người ấy họ Tống, phó Trưởng phòng III, Cục Quân Thống của Quốc dân đảng, chức vụ không cao, quân hàm Thượng tá, nhưng trên người ông ấy có giấy phép được gặp quan chức cấp cao nhất. Đây chính là Quân Thống thời bấy giờ. Là Quân Thống của thời Đới Lạp, quyền lực có thể che kín mặt trời, có thể khiến cậu biến thành rồng lên trời, cũng có thể khiến cậu trở thành con giun chui dưới đất. Theo như tôi biết, nhiều năm trước khi cha tôi ở Nam Kinh đã có qua lại với Đới Lạp, lúc ấy kháng chiến còn chưa bùng nổ, nhưng nội bộ của Quốc dân đảng lục đục, lừa gạt lẫn nhau, đấu đá không ngớt, người của Cục Quân Thống chiêu mộ đồng bọn khắp nơi, cài cắm thân tín. Cha tôi buôn bán vũ khí, quan hệ khá nhiều với giới quân đội. Đới Lạp luôn muốn lôi kéo cha tôi gia nhập Quân Thống, làm tai mắt cho hắn. Cha tôi thấy đây không phải là một công việc tốt, làm không khéo rất dễ xôi hỏng bỏng không, nên không đồng ý, cái giá phải trả là cha tôi đã bỏ ra một khoản tiền lớn cho Quân Thống. Đây cũng coi như là rủi ro thiệt hại, dùng tiền để mua tự do cho mình. Lúc đó Quân Thống còn chưa lớn mạnh như sau này, bản thân Đới Lạp cũng chưa hoành hành ngang ngược như sau này. Hắn nhận tiền, duy trì quan hệ tình cảm nhất định với cha tôi, có việc thì gọi điện thoại, không có việc thì không liên hệ. Lần này, trước khi phó Trưởng phòng Tống tới thăm, cha tôi đã nhận được một cuộc điện thoại của Đới Lạp, nói rằng có việc cần thương lượng, đã cử riêng một người tới nói chuyện trực tiếp.

Nói như vậy, phó Trưởng phòng Tống thực ra là đại diện cho Đới Lạp tới nhà tôi.

Cha tôi cho rằng, cái gọi là có việc, chắc lại là muốn tiền bạc của cha tôi. Sau khi kháng chiến bùng nổ, ngân khố mỗi ngày một trống rỗng, mà chi phí của Quân Thống trước nay đều tốn rất nhiều, tiền của chỉ có thể lấy từ dân. Sao mà biết được, phó Trưởng phòng Tống lại mang tới cho cha tôi một khoản tiền lớn, thật kì lạ? Sự việc kỳ quặc, tất có ẩn ý. Nói trắng ra, Đới Lạp lần này không phải tới tìm cha tôi để lấy tiền, mà là muốn lấy danh và vị thế của cha tôi để làm việc cho Quân Thống. Làm việc gì? Chính là dùng số tiền này để mua một chiếc máy bay, lấy danh nghĩa cha tôi để tặng cho tên Hán gian Uông Tinh Vệ, đổi lấy sự tín nhiệm của tên gian tặc họ Uông. Lúc đó Uông Tinh Vệ đang tích cực chuẩn bị lập chính quyền ngụy tại Vũ Hán, Quân Thống cần phải có người cài vào hàng ngũ của Uông Tinh Vệ, Đới Lạp đã nhắm cha tôi, chính là vậy.

Cha tôi là con trai một thợ rèn, trở thành một người giàu có bậc nhất, trước là dựa vào thời loạn, loạn thế sinh anh hùng mà. Hai là dựa vào khả năng cân bằng giữa kinh nghiệm làm ăn buôn bán độc đáo với quan hệ giao tế cao siêu của cha tôi. Tôi luôn nghĩ, cha tôi là một thiên tài về buôn bán, thiên tài ấy được thể hiện ở chỗ giỏi nắm bắt tình thế và cơ hội trong quan hệ với quan chức chính quyền và chính giới. Thương nhân Trung Quốc nếu không bắt bè với quan chức chính quyền thì không thể làm ăn lớn, từ xưa tới nay đều là như vậy, Đại Lục và Đài Loan đều như nhau. Nhưng nếu bắt bè thái quá, đến mức giống như Hồ Tuyết Nham, lấy buôn bán để làm chính trị, không tách rời buôn bán với chính trị, cũng sẽ không có kết cục tốt đẹp, xử lý không khéo sẽ xôi hỏng bỏng không, buôn bán thất bại, quan chức cũng chẳng thành, chỉ còn là thất bại. Cha tôi luôn nhớ mình là thương nhân, duy trì quan hệ cần có với quan chức và chính giới, nhưng cũng duy trì khoảng cách vừa đủ với họ. Như gần như xa, thân sơ đúng mực, luôn giữ khoảng cách vừa đủ. Khôn ngoan đủ trăm bề, mới có thể thành công, đây chính là những kinh nghiệm làm ăn buôn bán của cha tôi. Bây giờ, Đới Lạp muốn cha tôi góp công cho Quốc dân đảng, trở thành quả mìn chôn cạnh tên giặc ngụy họ Uông, việc này với cha tôi hiển nhiên không phải là chuyện vui. Nhưng đây là việc lớn kháng Nhật cứu nước, cha tôi chỉ biết đồng ý, không còn đường lui ‐ không thể như lần trước dùng tiền để mua lấy một đường lui. Cha tôi biết nhiều, hiểu rộng, khả năng nhìn mây đoán mưa hơn người, khi thấy Đới Lạp tự bỏ tiền đem tới ông đã đoán ra sự việc rồi, lần này Đới Lạp sẽ không để ông có đường lui. Đã như vậy, cha tôi không do dự, thà nhận lời cho xong.

Vấn đề không phải ở cha tôi, mà là tôi ‐ đối phương yêu cầu tôi cũng gia nhập Quân Thống làm cộng sự của cha tôi, cùng thâm nhập vào tập đoàn của ngụy quân Uông Tinh Vệ. Đương nhiên, về lý mà nói yêu cầu này cũng rất chính đáng, đã bỏ ra một khoản tiền lớn để có được cha tôi, còn tôi chẳng qua là tiện đi cùng xe với cha tôi mà thôi, không phải vướng víu, nhân tiện làm luôn, dù gì thì thêm một người cũng có thêm sức mạnh. Nhưng cha tôi kiên quyết không đồng ý! Cha không muốn kéo tôi vào chuyện này, bởi vì ông biết, biết hơn ai hết, cơm của Quân Thống không dễ ăn, rủi ro rất lớn, sống ‐ chết chỉ cách nhau gang tấc. Tôi là đứa con gái độc nhất của cha, từ nhỏ tôi đã lớn lên bên cạnh cha, hai anh trai đều ở nước ngoài, cha coi tôi như viên ngọc trên tay ông, sao ông có thể để tôi mạo hiểm đi vào chỗ chết? Chiều hôm đó, cha tôi đã cố gắng thuyết phục phó Trưởng phòng Tống để tôi ngoài cuộc, nhưng đối phương luôn kiên quyết, quyết không buông tay, khiến cha tôi đau khổ vô cùng.

Một bên là đất nước, một bên là gia đình, một bên là tổ chức bí mật thần thông quảng đại, một bên chỉ là một thương nhân có chút tiền bạc, kết quả cũng có thể dễ dàng đoán ra. Nhưng cha tôi vẫn không bỏ cuộc, sau khi ông kể hết ngọn nguồn câu chuyện với tôi, cuối cùng quyết định: để tôi bỏ trốn là xong.

Điều khiến ông chủ Cố không hề ngờ tới là quyết tâm dũng cảm của ông bị con gái phản đối trước nhất.

Cố Tiểu Mộng nghe cha kể xong, không chỉ không hề kinh sợ, trái lại vui vẻ khoác tay cha, an ủi cha: "Nhìn bộ dạng hết cách của cha kìa, con lại tưởng là xảy ra chuyện gì rồi cơ, hóa ra là như vậy.

Cha không thấy đây là một việc tốt sao? Ít nhất cũng có thể báo thù cho mẹ con. Không giấu gì cha, con còn chuẩn bị tìm người để giúp gia nhập Quân Thống nữa cơ, cha không biết à?". "Nói linh tinh!" Người cha nghiêm túc cảnh cáo con gái, "Con biết gì! Đó là vực sâu, rơi vào là không thể ra được đâu".

"Vấn đề là rất nhiều người muốn vào mà không vào được." Giọng của con gái lộ rõ vẻ hưng phấn không thể kìm nén được. Cô nói với cha, Cục Quân Thống đã nhiều lần bí mật tới trường của cô để tìm nhân tài, điều kiện của họ rất cao, những người được chọn đều là những sinh viên xuất sắc nhất lớp. Chính vì vậy, Cố Tiểu Mộng mới mong được gia nhập Cục Quân Thống, giờ cơ hội đang ở ngay trước mắt, lẽ nào cô chịu bỏ qua!

"Không, con à, chuyện này con nhất định phải nghe cha."

"Không! Con không nghe, đây là chuyện riêng của con, cha đừng quan tâm..."

Như vậy, đối với ông chủ Cố, cảnh đối đầu, tranh chấp hồi chiều lại tái diễn, điều khác là, hồi chiều ông đối mặt với phó Trưởng phòng Tống thiết diện vô tư, còn giờ ông đối mặt với cô con gái vốn được nuông chiều của mình. Nhưng kết quả thì giống nhau, sự cố gắng của ông chỉ chứng minh một điều là ông vô dụng, không thể thay đổi ý định kiên quyết của đối phương. Đây hình như là một quy luật: Trong những vấn đề hệ trọng như tình yêu hay tiền đồ, cha mẹ và con cái một khi bất đồng ý kiến, người thua cuộc cuối cùng luôn là cha mẹ.

Tối hôm ấy, ông chủ Cố giàu có cảm thấy vô cùng trống rỗng và bất lực. Ông giống như một con thú hoang bị giam giữ, không ngừng đi đi lại lại trong hoa viên tĩnh mịch, dưới ánh trăng thi thoảng nhìn thấy những giọt lệ lăn trên khuôn mặt từng trải của ông.

* * *

Lại là một đêm trăng sáng, phó Trưởng phòng Tống đến đúng hẹn, ông mang đến tờ khai, cờ Đảng, ảnh chân dung Tôn Trung Sơn. Làm gì? Để giúp hai cha con ông Cố làm thủ tục gia nhập Quân Thống. Đầu tiên là điền vào tờ khai, mỗi người một tờ khai, mỗi tờ khai ba bản. Hai cha con điền xong tờ khai, lấy dấu vân tay, mỗi người có một mã số bí mật riêng: cha là 036, con là 312. Sau đó là tuyên thệ, hai cha con giơ tay phải lên, nắm chặt nắm đấm, trước cờ Đảng và ảnh của Tôn tiên sinh, do phó Trưởng phòng Tống đọc dẫn, tuyên thệ một cách trang nghiêm: "Tôi xin thề, từ hôm nay, tôi sống là người của Quốc dân đảng, chết là ma của Quốc dân đảng. Tôi sẽ mãi mãi trung thành với Quốc dân đảng, cho dù gặp phải bất cứ sự đe dọa hay dụ dỗ nào, tôi nguyện chết để bảo vệ lợi ích của Quốc dân đảng, cho tới chết cũng không thay đổi ý chí phục tùng Quốc dân đảng, kiên quyết hoàn thành mỗi mệnh lệnh của cấp trên giao phó, sẽ không màng tới sự sống chết..."

Tất cả thực hiện xong, phó Trưởng phòng Tống nghiêm túc như một vị thủ trưởng, dặn dò ông chủ Cố: "Lập tức tung tin ra bên ngoài, con gái của ông sang Mỹ nghỉ ngơi, thăm hai anh trai".

Ông chủ Cố ngay lập tức dự cảm thấy con gái sẽ phải xa ông: "Các anh đưa nó đi sao?".

Phó Trưởng phòng Tống nói với Cố Tiểu Mộng: "Cô cần phải được huấn luyện".

Không lâu sau, Cố Tiểu Mộng lên một chiếc tàu thuộc công ty Weiyuan của Mỹ, lênh đênh trên biển, danh nghĩa là đi nghỉ, nhưng trên thực tế là sang Mỹ để huấn luyện bí mật. Lúc đó chính quyền Quốc dân đảng lập một căn cứ huấn luyện bí mật tại vùng ngoại ô Washington, phụ trách căn cứ huấn luyện này là Trưởng tùy viên quân sự Tiêu Bột của Đại sứ quán Trung Quốc tại Mỹ, ông cũng là Trạm trưởng Trạm Quân Thống tại Mỹ. Chính trong thời gian huấn luyện tại căn cứ, Cố Tiểu Mộng đọc được trên báo tin cha cô tặng máy bay cho Uông Tinh Vệ, sau đó nhiều năm cô và cha luôn trong vai chó săn trung thành của Uông Tinh Vệ bị quốc dân chửi rủa. Cho tới khi kháng chiến kết thúc, phía Quân Thống mới đưa ra những chứng cứ và nhân chứng, khôi phục lại danh dự cho cha con ông chủ Cố. Nhưng trong những năm năm mươi, lại có người nghi ngờ về thân phận của cha con ông chủ Cố, lúc đó Đới Lạp và phó Trưởng phòng Tống đều đã qua đời, Tùy viên Trưởng Tiêu Bột trở thành nhân chứng trực tiếp và có hiệu quả nhất. Nhiều năm qua, gia đình họ Cố luôn cất giấu những bằng chứng của Tùy viên Trưởng Tiêu Bột như báu vật trong nhà, tôi may mắn được thấy, toàn văn như sau:

Tôi có thể làm chứng, Cố Tiểu Mộng là chiến sĩ đặc biệt của Quốc dân Đảng, từ tháng 9 đến tháng 10 năm 1939, cô ấy tham gia huấn luyện tại căn cứ huấn luyện bí mật của Bộ Quốc phòng lập tại Washington do chính tôi phụ trách, cùng khóa có bảy người, đều do Cục Điều tra ‐ Thống kê Ủy ban Quân sự Chính phủ Quốc dân (gọi tắt là Quân Thống) tuyển chọn. Trong thời gian đó, Cố Tiểu Mộng học hành chăm chỉ, tác phong ngay thẳng, ý chí kháng Nhật cứu quốc luôn sẵn có, không thể nghi ngờ. Sau khi hoàn thành khóa huấn luyện về nước, tôi đã rất nhiều lần nghe thấy những người trong nội bộ Quân Thống, kể cả Cục trưởng Đới Lạp nói về những việc trung thành báo quốc, lập công dựng nghiệp của hai cha con ông Cố. Sau khi kháng chiến kết thúc, tổ chức đã kết luận về hành động trung dũng báo quốc của hai cha con họ, giờ đây có người hòng thay đổi sự thật, mưu đồ khó lường, là nỗi sỉ nhục quốc dân.

Tái bút: Lời chứng thực trên được viết thành hai bản, một bản do Ủy ban An ninh Trung ương Chính phủ Quốc dân Đảng lưu giữ, một bản do chính Cố Tiểu Mộng cất giữ.

Lời chứng thực được in trên giấy trắng khổ A4, là bản gốc, phần dưới còn có chữ ký bằng mực đen của Tiêu Bột và đóng dấu, in vân tay cá nhân màu đỏ, mang tính chân thực đầy đủ và nghiêm trang. Được sự đồng ý của bà Cố, tôi dùng máy ảnh kĩ thuật số chụp lại lời chứng thực. Điều thú vị là bà Cố phát hiện máy ảnh của tôi chỉ có 4 megapixel, độ nét không cao, bắt tôi dùng chiếc máy ảnh 9 megapixel của bà chụp lại một lần nữa để tôi đưa vào máy tính. Bây giờ bức ảnh lưu trong máy tính của tôi là bức ảnh được chụp bằng chiếc máy ảnh có độ nét cao của bà Cố, mỗi dấu chấm, dấu phẩy đều rất rõ ràng.

Buổi phỏng vấn đầu tiên đến đây kết thúc, bà Cố đã thay đổi thái độ lạnh nhạt lúc trước đối với tôi, còn có ý tiễn tôi ra xe, tôi cảm ơn từ chối, bà còn khăng khăng tiễn tôi ra cửa và bắt tay tạm biệt. Đây là bàn tay yếu ớt nhất mà tôi từng bắt, dường như không còn một sợi thịt nào, chỉ toàn da, tôi bắt tay bà mà không hề cảm thấy một chút nhiệt độ cơ thể và trọng lượng nào, nhẹ tựa một tờ giấy, có thể bị gió thổi bay bất cứ lúc nào. Tôi bất giác nghĩ, may mà ký ức của bà không yếu ớt giống như bàn tay này. Ký ức của bà đã không phản bội bà, khiến tôi có niềm an ủi và cảm động vô định, không biết nên phải cảm ơn ai. 

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: #phongthanh