phan tich noi dung van de co ban cua triet hoc
Triết học là hệ thống các lý luận chung nhất của con người về thế giới, về vị trí, vai trò của con người trong thế giới đó.
Triết học ra đời do nhu cầu hoạt động nhận thức của con người nhằm phục vụ nhu cầu sống. Triết học ra đời từ thực tiễn, và nhu cầu từ thực tiễn. Như vậy, triết học có nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội. Khi con người có một vốn kiến thức nhất định và đạt đến khả năng khái quát hóa, trừu tượng hóa, hệ thống hóa những gì mà con người quan sát được, triết học ra đời. Còn nguồn gốc xã hội của triết học chính là sự phát triển của xã hội đến thời kỳ hình thành tầng lớp lao động trí óc. Họ đã nghiên cứu, hệ thống hóa các quan điểm, quan niệm rời rạc lại thành học thuyết, thành lý luận và triết học đã ra đời.
Triết học cũng như bao khoa học khác, cũng có đối tượng nghiên cứu riêng của mình. Đối tượng nghiên cứu của triết học chính là những vấn đề chung nhất của tự nhiên, xã hội, tư duy. Nhưng trong đó có những vấn đề cực kỳ quan trọng, là nền tảng, là điểm xuất phát để giải quyết những vấn đề còn lại. Đó là vấn đề cơ bản của triết học. Theo Ăngghen: “Vấn đền cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là của triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại”.
Vấn đề cơ bản của Triết học có hai mặt:
- Mặt thứ nhất: Giữa ý thức và vật chất thì cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào?
- Mặt thứ hai: Con người có khả năng nhận thức được thế giới không?
Hệ quả đầu tiên nảy sinh khi trả lời câu hỏi thứ nhất trong vấn đề cơ bản của Triết học chính là sự hình thành các trường phái triết học lớn. Đó là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Các nhà triết học duy vật là những người cho rằng vật chất và giới tự nhiên là cái có trước và quyết định ý thức. Từ khi ra đời đến nay, chủ nghĩa duy vật đã trải qua 3 giai đoạn cơ bản: chủ nghĩa duy vật chất phác, chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy vật biện chứng. Chủ nghĩa duy vật chất phác ra đời vào thời cổ đại ở Trung Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật thời kỳ này là thừa nhận tính thứ nhất của vật chất. Tuy rằng, các quan điểm có tính đúng đắn vì nó đã lấy giới tự nhiên để giải thích giới tự nhiên, không viện đến thần linh hay Thượng đế nhưng các quan điểm này vẫn còn nhiều hạn chế và mang tính ngây thơ, chất phác bởi lẽ nó đã đồng nhất vật chất với một hay một số chất cụ thể, vẫn còn những kết luận mang nặng tính chất trực quan. Hình thức cơ bản thứ hai của chủ nghĩa duy vật thể hiện khá rõ ở các nhà triết học từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII. Tuy những quan điểm của chủ nghĩa duy vật siêu hình có tính chất kế thừa từ những quan điểm của chủ nghĩa duy vật chất phác nhưng nó có sự phát triển hơn do cơ học cổ điển thời kỳ này đạt được những thành tựu rực rỡ. Các nhà triết học thời kỳ này sử dụng phương pháp siêu hình để nhìn nhận thế giới. Do cách nhìn nhận đổi tượng ở trạng thái cô lập, tách rời đối tượng ra khỏi chỉnh thể khác và giữa các mặt đối lập nhau có một ranh giới tuyệt đối, coi đối tượng nghiên cứu ở trạng thái tĩnh tại, nếu có biến đổi thì đấy chỉ là sự biến đổi về số lượng và nguyên nhân của sự biến đổi đó nằm ở ngoài đối tượng nên các nhà duy vật siêu hình “chỉ nhìn thấy những sự vật riêng biệt mà không thấy mối quan hệ qua lại giữa những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy sự tồn tại của sự vật chứ không thấy sự phát sinh và tiêu vong của sự vật ấy, chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh của sư vật mà quên mất sự vận động của sự vật ấy”. Đến những năm 40 của thế kỷ XIX, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã ra đời mà C.Mác và Ăngghen là những người xây dựng và Lênin là người hoàn thiện và bổ sung. Với cách nhìn nhận đối tượng ở trong mối quan hệ với nhau, ảnh hưởng nhau, ràng buộc nhau và nhìn nhận đối tượng ở trạng thái vận động biến đổi nằm trong khuynh hướng chung là phát triển, là quá trình biến đổi về chất của sự vật và hiện tượng mà nguồn gốc là sự đấu tranh giữa các mặt đối lập để giải quyết mâu thuẫn nội tại của chúng, các nhà duy vật biện chứng đã phản ánh hiện thực đúng như nó tồn tại và phương pháp tư duy biện chứng trở thành công cụ hữu hiệu giúp con người nhận thức và cải tạo thế giới. Đối lập với các nhà duy vật là các nhà triết học theo trường phái duy tâm. Chủ nghĩa duy tâm chia thành hai phái: chủ nghĩa duy tâm khách quan và chủ nghĩa duy tâm chủ quan. Cả hai phái duy tâm đều thừa nhận tính thứ nhất của ý thức và coi ý thức sản sinh ra giới tự nhiên, thừa nhận sự sáng tạo ra thế giới. Tuy nhiên, phái duy tâm chủ quan cho rằng mọi sự vật, hiện tượng chỉ là phức hợp của những cảm giác cá nhân, của chủ thể, còn phái duy tâm khách quan lại cho rằng ý thức là thứ tinh thần khách quan có trước và tồn tại độc lập với con người mang những tên gọi khác nhau như ý niệm tuyệt đối, lý tính thế giới. Đó là sự nhận thức sai lầm do cách xem xét phiến diện một mặt, tuyệt đối hóa, thần thành hóa một mặt, một đặc tính nào đó của quá trình nhận thức mang tính biện chứng của con người. Đồng thời, chủ nghĩa duy tâm còn được ra đời do sự tách rời lao động trí óc với lao động chân tay và địa vị thống trị của lao động trí óc với lao động chân tay trong xã hội cũ. Tuy nhiên, việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học còn nảy sinh ra các học thuyết nhất nguyên luận (học thuyết thừa nhận chỉ một trong hai thực thể vật chất và ý thức là nguồn gốc của thế giới), nhị nguyên luận (học thuyết triết học xem vật chất và ý thức là hai thực thể tồn tại độc lập, tạo thành hai nguồn gốc của thế giới), đa nguyên luận (học thuyết cho rằng vạn vật trong thế giới là do vô số nguyên thể độc lập tạo nên).
Để trả lời câu hỏi thứ hai trong vấn đề cơ bản của triết học, các nhà triết học chia thành hai trường phái: khả tri và bất khả tri. Hầu hết các nhà duy vật và duy tâm đều cho rằng con người có thể nhận thức được thế giới. Tuy nhiên, dưới góc độ duy tâm, các nhà triết học theo trường phái này cho rằng sự nhân thức của con người chỉ là sự tự nhận thức về chính bản thân mình. Còn những nhà triết học phủ nhận sự nhận thức của con người đã cho ra đời “thuyết không thể biết”. Học thuyết này cho rằng con người không thể hiểu được đối tượng hoặc có chăng là chỉ hiểu hình thức bề ngoài vì tính xác thực của hình ảnh về đối tượng mà các giác quan của con người cung cấp trong quá trình nhận thức không đảm bảo tính chân thực. Tính tương đối của nhận thức dẫn đến sự hình thành trào lưu “hoài nghi luận”, những người theo trào lưu này nâng sự hoài nghi lên thành nguyên tắc trong việc xem xét tri thức đã đạt được và cho rằng con người không thể đạt đến chân lý khách quan.
Việc xác định được vấn đề cơ bản của triết học là cơ sở để phân biệt các trường phái triết học, các quan điểm triết học, các nhà triết học; là cơ sở giải quyết một loạt các vấn đề khác của triết học như nhận thức luận, nhà nước, tôn giáo. Giải quyết vấn đề cơ bản của triết học giúp con người ta có thể hình thành thế giới quan và phương pháp luận trong hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người. Thế giới quan là nhân tố để con người nhận thức và hành động. Là thấu kính giúp con người xem xét chính bản thân mình để xác đinh cho mình mục đích và ý nghĩa cuộc sống và lựa chọn cách thức hoạt động để có nhân sinh quan tích cực. Trình độ thế giới quan chính là tiêu chí đánh giá sự trưởng thành của cá nhân và toàn xã hội. Giải quyết vấn đề cơ bản của triết học làm triết học thực hiện chức năng phương pháp luận. Vì thế, mỗi quan điểm lý luận về triết học đồng thời là một nguyên tắc về phương pháp và lý luận về phương pháp đó tạo khả năng cải biến thế giới.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top