Tự Tình II - Hồ Xuân Hương
Phân tích bài thơ Tự Tình II - Hồ Xuân Hương
Hồ Xuân Hương là một trong hai nhà thơ nữ tiêu biểu của nền văn học trung đại Việt Nam. Bà không chỉ được mệnh danh là Bà chúa thơ Nôm mà bà còn có nhiều đóng góp trong phong trào nhân đạo cuối thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX. Dù là người con gái tài danh như vậy nhưng cũng như bao người phụ nữ khác, cuộc đời bà đầy truân chuyên, hồng nhan bạc phận dưới cái xã hội phong kiến đầy bất công. Bà đã mang cái thân phận nhỏ bé của người phụ nữ ấy vào trong những câu thơ của mình. Đặc biệt bài thơ Tự Tình II là một trong những bài thơ hay của Hồ Xuân Hương khi thể hiện nỗi đau đớn, buồn tủi trước tình cảnh éo le của mình, đồng thời thể hiện khao khát mãnh liệt với hạnh phúc cuộc đời.
Bài thơ Tự Tình II được viết dưới dạng thể thơ thất ngôn bát cú đường luật với hai câu đầu là nỗi niềm buồn tủi chán chường của Hồ Xuân Hương trong đêm khuya thanh vắng:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non.”
Thông thường giữa không gian rờm rợp, con người cảm thấy nhỏ bé cô đơn, đồng thời trở nên đầy suy tư tâm trạng. Ở đây, Hồ Xuân Hương cũng cảm nhận được sự cô đơn trước thời gian. Thời gian vô thủy vô chung cũng như không gian, nhưng chứa đựng trong bước đi của nó là sự phá hủy. So với câu đầu của bài Tự Tình I:
“Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom”
thì câu đầu của bài Tự Tình II buồn hơn :
“Đêm khuya văng vẳng trốn canh dồn”
Cái nhịp gấp gáp liên hồi của tiếng trống vừa là sự cảm nhận vừa là sự thể hiện bước đi dồn dập của thời gian và sự rối bời của tâm trạng. Đó là tâm trạng của một con người suốt đêm không ngủ mà dõi theo nhịp trống cầm canh.
Khi trăm mối tơ lòng không thể ngỡ mà thời gian cứ gấp gáp trôi đi thì còn lại chỉ là sự bẽ bàng:
“Trơ cái hồng nhan với nước non”
Từ ‘trơ’ đặt ở đầu câu với nghệ thuật đảo ngữ cho thấy bên cạnh bản lĩnh của Hồ Xuân Hương chính là nỗi đau của bà. ‘Trơ’ là tủi hổ là bẽ bàng. Thêm vào đó, hai chữ ‘hồng nhan’ vốn để chỉ dung nhan của người phụ nữ giờ đây lại đi với chữ ‘cái’ thì thật rẻ rúng, mỉa mai làm sao. ‘Cái hồng nhan trơ với nước non’ không chỉ là sự rãi dầu mà còn là sự cay đắng. Dù câu thơ chỉ nói về một vế ‘hồng nhan’ nhưng vẫn nổi lên vế ‘bạc phận’. Vì vậy nỗi xót xa càng thấm thía, càng ngẫm càng đau. Nhịp điệu câu thơ 1/3/3 cũng là để nhấn mạnh vào sự bẽ bàng ấy.
Tuy nhiên, bên cạnh nỗi đau đớn ấy chính là bản lĩnh Hồ Xuân Hương. Bản lĩnh ấy được thể hiện ngay chính trong chữ ‘trơ’. ‘Trơ’ không chỉ là tủi hổ bẽ bàng mà còn là sự thách thức. Từ 'trơ' kết hợp với từ ‘nước non’ thể hiện sự bền gan thách đố.
“Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt”
(Bà Huyện Thanh Quan)
Hai câu thực, cũng như tên hai câu thực nói rõ hơn về thực cảnh thực tình của Hồ Xuân Hương:
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng vóng xế khuyết chưa tròn.”
Nghệ thuật đối tài tình: ‘Chén rượu’ đối với ‘vầng trăng’, trên thì ‘hương đưa’ dưới lại ‘bóng xế’. Đặc biệt ba chữ ‘say lại tỉnh’ với ‘khuyết chưa tròn’ đăng đối hô ứng với nhau làm nổi bật bi kịch về thân phận người đàn bà dang dở cô đơn. Nhà thơ muốn mượn ‘chén rượu’ để khuây khỏa lòng mình. Nhưng vừa nâng ‘chén rượu’ lên môi, hương phả vào lòng đưa vào mũi. Tưởng uống rượu cho say để quên đi bao nỗi buồn nhưng càng uống lại càng tỉnh. ‘Say lại tỉnh’ để rồi ‘tỉnh lại say’. Cái vòng luẩn quẩn ấy đã trở thành trò đùa của con tạo nên duyên phận của người phụ nữ đương thời trong đó có Hồ Xuân Hương như là một oan trái.
“Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”
Hồ Xuân Hương ngắm trăng thì trăng lại ‘bóng xế’ lại còn ‘khuyết chưa tròn’. Chính vì vậy mà nhà thơ buồn tủi cho thân phận bao đêm thao thức đợi chờ đến bao giờ trăng mới tròn. Đến bao giờ hạnh phúc đến trong tầm tay được trọn vẹn đầy đủ? Sự chờ mong gắn liền với nỗi niềm khao khát càng cô đơn, càng chờ mong lại càng đau buồn. Đó là bi kịch của người đàn bà quá lứa lỡ thì, tình duyên dang dở như Hồ Xuân Hương.
Hai câu luận:
“Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám
Đâm toạc chân mây, đá mấy cái hòn.”
Thiên nhiên như cũng mang nỗi niềm phẫn uất của con người, những sinh vật nhỏ bé hèn mọn như đám rêu kia mà cũng không chịu mềm yếu. Nó phải ‘mọc xiên’ mà là 'xiên ngang mặt đất'. Đá đã vốn rắn chắc lại còn phải rắn chắc ho hơn, nhọn hoắt lên để ‘đâm toạc chân mây’. Nghệ thuật đảo ngữ trong hai câu luận đã làm nổi bật sự phận uất của thân phận đá cỏ cây và cũng là sự phẫn uất của tâm trạng con người. Bên cạnh đó những động từ mạnh ‘xiên’, ‘đâm’ được kết hợp với bổ ngữ ‘ngang’, ‘toạc’ độc đáo đã thể hiện sự bướng bỉnh ngang ngạnh ‘rêu xiên ngang mặt đất, đá đâm toạc chân mây’ như vạch đất vạch trời mà hờn mà oán. Không chỉ là sự phẫn uất mà còn là sự phản kháng. Cách dùng từ ‘xiên ngang’, ‘đâm toạc’ là cách dùng từ rất Hồ Xuân Hương. Nữ thi sĩ đặc biệt tài năng khi sử dụng các từ định ngữ, bổ ngữ. Chính những định ngữ, bổ ngữ này làm cho cảnh vật trong thơ Hồ Xuân Hương bao giờ cũng cựa quậy đong đầy sức sống mãnh liệt ngay cả trong tình huống bi thảm nhất.
Hai câu kết là tâm trạng chán chường buồn tủi:
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con.”
‘Ngán’ là chán ngán là ngán ngẩm. Hồ Xuân Hương chán lắm rồi lối đời éo le bạc bẽo. Xuân đi rồi xuân lại, tạo hóa chơi một vòng quanh luẩn quẩn. Từ ‘xuân’ mang hai nghĩa: vừa là mùa xuân, vừa là tuổi xuân. Mùa xuân đi rồi mùa xuân trở lại thiên nhiên với muôn vàn hoa lá cỏ cây, nhưng với con người tuổi xuân một khi đã qua đi thì không bao giờ trở lại. Hai từ ‘lại’ trong cụm từ ‘xuân đi xuân lại lại’ cũng mang hai nghĩa khác nhau. Từ ‘lại’ thứ nhất có nghĩa là thêm lần nữa, từ ‘lại’ thứ hai nghĩa là trở lại. Sự trở lại của mùa xuân đồng nghĩa với sự ra đi của tuổi xuân. Nghệ thuật tăng tiến càng làm cho nghịch cảnh thêm éo le hơn, mảnh tình - san sẻ - tí con con. Mảnh tình đã bé lại còn san sẻ, thành ra vốn đã ít ỏi chỉ còn lại ‘tí con con’ nên càng xót xót xa tội nghiệp. Câu thơ được viết ra có thể là từ thận phận của người đã đem thân đi làm lẽ. Tuy nhiên, cái tầm khái quát của nó lại lớn hơn một hoàn cảnh lấy chồng chung. Đó chính là nỗi lòng của người phụ nữ trong xã hội xưa, khi đối với họ hạnh phúc luôn là chiếc chăn quá hẹp trong trời đông giá rét.
Có lẽ chính vì cả hai điều đó vừa đau buồn vừa thách thức duyên phận, rõ ràng gắng gượng vươn lên nhưng vẫn rơi vào bi kịch mà ý nghĩa nhân văn của bài Tự Tình II càng sâu sắc thấm thía hơn.
Bài Tự Tình II đã hiện lên với những hình ảnh giản dị đặc sắc, hình ảnh giàu tính gợi cảm tinh tế từ đó nói lên tâm trạng của chủ thể trữ tình. Bài thơ hiện lên cả bi kịch và khát vọng sống hạnh phúc của Hồ Xuân Hương trong lúc buồn tủi bế tắc. Người phụ nữ cố vươn lên nhưng vẫn rơi vào cái vòng quay luẩn quẩn tù túng bế tắc của xã hội đương thời.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top