Thân Bài
Những người đồng đội ấy thường là những người "nông dân mặc áo lính". Điểm giống
nhau về cảnh ngộ xuất thân giúp họ có thể dễ dàng gần gũi, đồng cảm với nhau:
Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau,
"Anh và tôi" từ những vùng quê khác nhau, chỉ giống nhau cái nghèo khó của đất đai,
đồng ruộng. Anh từ miền quê ven biển: "nước mặn đồng chua". Tôi từ vùng đất cao "cày
lên sỏi đá". Hai người xa lạ, từ hai phương trời xa lạ trở thành tri kỉ:
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Những người "nông dân mặc áo lính" ấy gặp nhau trong cuộc chiến đấu vì chính cuộc
sống của họ, cùng đứng trong hàng ngũ những "người lính cụ Hồ". Sự nghiệp chung của
dân tộc đã xoá bỏ mọi khoảng cách xa lạ về không gian nơi sinh sống của mỗi người.
""Súng bên súng" là chung chiến đấu, "đầu sát bên đầu" thì chung rất nhiều: không chỉ là
gần nhau về không gian mà còn chung nhau ý nghĩ, lí tưởng" (Trần Đình Sử - Đọc văn
học văn, Sđd). Đến khi đắp chung chăn trong đêm giá rét thì họ đã thực sự là anh em một
nhà. Nhà thơ Tố Hữu cũng từng viết: "Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng" để thể hiện
tình kháng chiến gắn bó, bền chặt. Để nói về sự gần gũi, sẻ chia, về cái thân tình ấm áp
không gì hơn là hình ảnh đắp chăn chung. Như thế, tình đồng chí đã bắt nguồn từ cơ sở
một tình tri kỉ sâu sắc, từ những cái chung giữa "anh" và "tôi".
Câu thơ thứ bảy chỉ gồm hai tiếng: "Đồng chí". Nếu không kể nhan đề thì đây là lần duy
nhất hai tiếng "đồng chí" xuất hiện trong bài thơ, làm thành riêng một câu thơ. Câu này
có ý nghĩa quan trọng trong bố cục của toàn bài. Nó đánh dấu một mốc mới trong mạch
cảm xúc và bao hàm những ý nghĩa sâu xa. Sáu câu thơ đầu là tình đồng đội tri kỉ, đến
đây được nâng lên thành tình đồng chí thiêng liêng. Đồng chí nghĩa là không chỉ có sự
gắn bó thân tình mà còn là cùng chung chí hướng cao cả. Những người đồng chí - chiến
sĩ hoà mình trong mối giao cảm lớn lao của cả dân tộc. Gọi nhau là đồng chí thì nghĩa là
đồng thời với tư cách họ là những con người cụ thể, là những cá thể, họ còn có tư cách
quân nhân, tư cách của "một cây" trong sự giao kết của "rừng cây", nghĩa là từng người
không chỉ là riêng mình. Hai tiếng đồng chí vừa giản dị, thân mật lại vừa cao quý, lớn lao
là vì thế.
ở phần tiếp theo của bài thơ, với những chi tiết, hình ảnh cụ thể tác giả đã thể hiện tình
cảm sâu sắc của những người đồng chí. Trước hết, họ cùng chung một nỗi nhớ quê
hương:
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
Trong nỗi nhớ quê hương ấy có nỗi nhớ ruộng nương, nhớ ngôi nhà, nhớ giếng nước, gốc
đa. Nhưng ruộng nương cũng như nhớ tay ai cày xới, ngôi nhà nhớ người trong lúc gió
lung lay, và giếng nước, gốc đa cũng đang thầm nhớ người ra đi. Nỗi nhớ ở đây là nỗi
nhớ hai chiều. Nói "giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính" cũng là thổ lộ nỗi nhớ cồn cào
về giếng nước, gốc đa. Tình quê hương luôn thường trực, đậm sâu trong những người
đồng chí, cũng là sự đồng cảm của những người đồng đội. Người lính hiện ra cứng cỏi,
dứt khoát lên đường theo tiếng gọi non sông song tình quê hương trong mỗi người không
khi nào phai nhạt. Và bên cạnh hình bóng quê hương, điểm tựa vững chắc cho người lính,
là đồng đội:
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi
áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.
Kể sao xiết những gian khổ mà người lính phải trải qua trong chiến đấu. Nói về cái gian
khổ của người lính trong kháng chiến chống Pháp, ta nhớ đến cái rét xé thịt da trong bài
Lên Cấm Sơn của Thôi Hữu:
Cuộc đời gió bụi pha sương máu
Đợt rét bao lần xé thịt da
Khuôn mặt đã lên màu tật bệnh
Đâu còn tươi nữa những ngày hoa!
Lòng tôi xao xuyến tình thương xót
Muốn viết bài thơ thấm lệ nhòa
Nhớ đến cái ác nghiệt của bệnh sốt rét trong Tây Tiến của Quang Dũng:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Ta cũng có thể thấy cái buốt giá của núi rừng Việt Bắc, cái ớn lạnh toát mồ hôi của bệnh
sốt rét trong những câu thơ của Chính Hữu. Nhưng nếu như Thôi Hữu viết về cái rét xé
thịt da để khắc hoạ những con người chấp nhận hi sinh, "Đem thân xơ xác giữ sơn hà",
Quang Dũng nói đến sốt rét để tô đậm vẻ đẹp bi tráng của những người chiến sĩ thì Chính
Hữu nói về cái rét, cái ác nghiệt của sốt rét là để nói về tình đồng đội, đồng chí trong gian
khổ, là sự thấu hiểu, cảm thông giữa những người lính. Trong bất cứ sự gian khổ nào
cũng thấy họ sát cánh bên nhau, san sẻ cho nhau: "Anh với tôi biết...", "áo anh... - Quần
tôi...", "tay nắm lấy bàn tay". Cái "Miệng cười buốt giá" kia là cái cười trong gian khổ để
vượt lên gian khổ, cười trong buốt giá để lòng ấm lên, cũng là cái cười đầy cảm thông
giữa những người đồng đội. Giá buốt mà không lạnh lẽo cũng là vì thế.
Bài thơ kết bằng hình tượng những người đồng chí trong thời điểm thực tại, khi họ đang
làm nhiệm vụ chiến đấu:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
Có thể xem đây là một trong những hình ảnh thơ đẹp nhất về người lính trong thơ ca
kháng chiến. Ba câu thơ phác ra một bức tranh vừa mang chất chân thực của bút pháp
hiện thực, vừa thấm đẫm cái bay bổng của bút pháp lãng mạn. Trên sắc xám lạnh của nền
cảnh đêm rừng hoang sương muối, hiện lên hình ảnh người lính - khẩu súng - vầng trăng.
Dưới cái nhìn của người trong cuộc, người trực tiếp đang cầm súng, trong một sự kết hợp
bất ngờ, đầu súng và vầng trăng như không còn khoảng cách xa về không gian, để thành:
"Đầu súng trăng treo.". Sự quan sát là hiện thực, còn sự liên tưởng trong miêu tả là lãng
mạn. Hình ảnh súng tượng trưng cho hành động chiến đấu, tinh thần quyết chiến vì đất
nước. Trăng tượng trưng cho cái đẹp yên bình, thơ mộng. Hình ảnh "đầu súng trăng treo"
mang ý nghĩa khái quát về tư thế chủ động, tự tin trong chiến đấu, tâm hồn phong phú
của người lính. Nói rộng ra, hai hình ảnh tương phản sóng đôi với nhau tạo nên biểu
tượng về tinh thần, ý chí sắt đá mà bay bổng, trữ tình của dân tộc Việt Nam.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top