tỏ lòng

Khi nói đến Phạm Ngũ Lão, chúng ta liền nhớ đến người anh hùng xuất thân ở tầng lớp bình dân,ngồi đan sọt mà lo việc nước. Về sau,chàng trai làng Phù Ủng ấy đã trở thành nhân vật lịch sử từng có công lớn trong kháng chiến chống quân Nguyên-Mông,giữ địa vị cao ở đời Trần.
Khí thế hào hùng, oanh liệt của nhân dân ta và tướng sĩ đời Trần được các sử gia ngợi ca là “Hào khí Đông A”. Thơ văn đời Trần là tiếng nói của những anh hùng – thi sĩ dào dạt cảm hứng yêu nước mãnh liệt. “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn, “Thuật hoài” ( Tỏ lòng ) của Phạm Ngũ Lão, “Bạch Đằng giang phú” của Trương Hán Siêu.v.v… là những kiệt tác chứa chan tình yêu nước và niềm tự hào dân tộc

Phạm Ngũ Lão (1255-1320) là một danh tướng đời Trần, trăm trận trăm thắng, văn võ toàn tài. Tác phẩm của ông chỉ còn lại hai bài thơ chữ Hán: “Thuật hoài” và “Vãn Thượng tướng Quốc công Hưng Đạo Đại vương”.

Bài thơ “Tỏ lòng” thể hiện niềm tự hào về chí nam nhi và khát vọng chiến công của người anh hùng khi Tổ quốc bị xâm lăng. Nó là bức chân dung tự hoạ của danh tướng Phạm Ngũ Lão.

Hoành sóc giang san kháp kỉ thu

Tam quân tì hổ khí thôn ngưu

Nam nhi vị liễu công danh trái

Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu.

Cầm ngang ngọn giáo (hoành sóc) là một tư thế chiến đấu vô cùng hiên ngang dũng mãnh. Câu thơ “Hoàng sóc giang sơn kháp kỷ thu” là một câu thơ có hình tượng kỳ vĩ, tráng lệ, vừa mang tầm vóc không gian (giang sơn) vừa mang kích thước thời gian chiều dài lịch sử (kháp kỷ thu). Nó thể hiện tư thế người chiến sĩ thuở “bình Nguyên” ra trận hiên ngang, hào hùng như các dũng sĩ trong huyền thoại. Chủ nghĩa yêu nước được biểu hiện qua một vần thơ cổ kính trang nghiêm: cầm ngang ngọn giáo, xông pha trận mạc suốt mấy mùa thu để bảo vệ giang sơn yêu quý.

Đội quân “Sát Thát” ra trận vô cùng đông đảo, trùng điệp (ba quân) với sức mạnh phi thường, mạnh như hổ báo (tỳ hổ) quyết đánh tan mọi kẻ thù xâm lược. Khí thế của đội quân ấy ào ào ra trận. Không một thế lực nào, kẻ thù nào có thể ngăn cản nổi. “Khí thôn Ngưu” nghĩa là khí thế, tráng chí nuốt sao Ngưu, làm át, làm lu mờ sao Ngưu trên bầu trời. Hoặc có thể hiểu : ba quân thế mạnh nuốt trôi trâu. Biện pháp tu từ thậm xưng sáng tạo nên một hình tượng thơ mang tầm vóc hoành tráng, vũ trụ: “Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu”. Hình ảnh ẩn dụ so sánh: “Tam quân tì hổ…” trong thơ Phạm Ngũ Lão rất độc đáo, không chỉ có sức biểu hiện sâu sắc sức mạnh vô địch của đội quân “Sát Thát” đánh đâu thắng đấy mà nó còn khơi nguồn cảm hứng thơ ca; tồn tại như một điển tích, một thi liệu sáng giá trong nền văn học dân tộc:

-“Thuyền bè muôn đội;

Tinh kỳ phấp phới

Tỳ hổ ba quân, giáo gươm sáng chói…” (Bạch Đằng giang phú)

Người chiến sĩ “bình Nguyên” mang theo một ước mơ cháy bỏng: khao khát lập chiến công để đền ơn vua, báo nợ nước. Thời đại anh hùng mới có khát vọng anh hùng! “Phá cường địch, báo hoàng ân” (Trần Quốc Toản) – “Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo” (Trần Thủ Độ). “…Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng cam lòng” (Trần Quốc Tuấn)… Khát vọng ấy là biểu hiện rực rỡ những tấm lòng trung quân ái quốc của tướng sĩ, khi tầng lớp quý tộc đời Trần trong xu thế đi lên đang gánh vác sứ mệnh lịch sử trọng đại. Họ mơ ước và tự hào về những chiến tích hiển hách, về những võ công oanh liệt của mình có thể sánh ngang tầm sự nghiệp anh hùng của Vũ Hầu Gia Cát Lượng thời Tam Quốc. Hai câu cuối sử dụng một điển tích (Vũ Hầu) để nói về nợ công danh của nam nhi thời loạn lạc, giặc giã:

“Công danh nam tử còn vương nợ

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”

“công danh” mà Phạm Ngũ Lão nói đến trong bài thơ là thứ công danh được làm nên bằng máu và tài thao lược, bằng tinh thần quả cảm và chiến công. Đó không phải là thứ “công danh” tầm thường, đậm màu sắc anh hùng cá nhân. Nợ công danh như một gánh nặng mà kẻ làm trai nguyện trả, nguyện đền bằng xương máu và lòng dũng cảm. Không chỉ “Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”, mà tướng sĩ còn học tập binh thư, rèn luyện cung tên chiến mã, sẵn sàng chiến đấu “Khiến cho người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ có thể bêu được đầu Hốt Tất Liệt ở cửa Khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai,…” để Tổ quốc Đại Việt được trường tồn bền vững: “Non sông nghìn thuở vững âu vàng” (Trần Nhân Tông).

“Thuật hoài” được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt. Giọng thơ hùng tráng, mạnh mẽ. Ngôn ngữ thơ hàm súc, hình tượng kỳ vĩ, tráng lệ, giọng thơ hào hùng, trang nghiêm, mang phong vị anh hùng ca. Nó mãi mãi là khúc tráng ca của các anh hùng tướng sĩ đời Trần, sáng ngời “hào khí Đông-A”.

-----------------------------------------------------------------------------------------------------

Đất nước ta đã trải qua mấy nghìn thu chiến đấu và đổi mới, nay đã được bình yên, nhân dân ấm no, bở cõi vững vàng. Có được như thế là nhờ công lao của người đời trước. Mà trong đó, tiêu biểu là danh tướng Phạm Ngũ Lão.”Tỏ Lòng” là một trong hai bài thơ còn lại của Phạm Ngũ Lão nêu bật khí chất Đông A mạnh mẽ ấy.



Trở ngược dòng thời gian về cuộc kháng chiến lần hai chống quân Nguyên lần hai, Phạm Ngũ Lão cho ra đời bài thơ “Tỏ Lòng” với lời thơ hùng hồn của nước Việt ta và tấm lòng quân tử nặng nợ tình.

Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu
Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu. 

Bước vào thời đại chiến tranh ấy, cái thời mà lửa từ trong tim trào ra như suối như thác. Quyết lòng diệt tan kẻ thù xâm lăng bờ cõi, khẳng định lại một lần nữa:”Nam quốc sơn hà Nam Đế cư”! Và khi đó, xuất hiện tư thế hiên ngan của người anh hùng đất Việt “hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu”. Tại sao lại không cầm “dọc” ngọn giáo mà lại cầm “ngang” chứ? Bởi đó chính là tư thế hiên ngang, hùng dũng của một người anh hùng đang sẵn sàng ra trận chiến đấu. Đó chính là tư thế ưỡn ngực tự hào mà rằng mình là dân đất Việt và mình sẵn sàng hy sinh để bảo vệ bờ cõi Việt, bảo vệ nhân dân Việt, bảo vệ non sông gấm vóc ngàn thu này. Và cũng chính tư thế này đã lấn át cái không gian bao la rộng lớn của giang sơn. Vừa tạo nên một hình tượng dũng mãnh, vừa nêu lên một khí thế bất khả chiến bại của quân ta lúc bấy giờ. Ở câu thơ này, tác giả đã khéo léo sử dụng ngôn từ để vẽ nên một người chiến sĩ rừng rực khí thế Đông A!

Ấy chỉ mới là một người chiến sĩ, vậy còn cả đội quân, cả tam quân thì sao? “Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”. Ta có thể hiểu ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu hay ba quân khí mạnh lấn át cả sao Ngưu. Và chăng, khi vừa đọc lên câu thơ thì ai nấy đều đã cảm nhận được cái khí thế hùng dũng ra trận quyết chiến ấy. Cái khí thế mà cả sao trời cũng phải cúi mình nhún nhường, cái khí thế mà một con trâu to thật to cũng phải bị nuốt trôi một cách dễ dàng. Chứng tỏ một điều rằng khí thế hùng mạnh này sẽ ngày càng tăng thêm nhiều hơn nữa theo chiều hướng chiến đấu. Cũng bởi ngon lữa khát khao tự do cháy bỏng trong tim mỗi con người đất Việt đang phừng phực cháy, không chỉ là một ngọn lửa mà hàng trăm hàng ngàn ngọn lửa gộp lại với nhau thành một biển lửa. Một biển lửa đốt cháy mọi âm mưa của kẻ thù, một biển lửa phá tan mọi gông cùm xiềng xích hàng trăm năm qua, một biển lửa đốt cháy niềm khát khao độc lập tự do… Và thế, với lửa trong tim và khí chất “Đông A” hùng dũng. Nhân dân Việt “cầm giáo” xông pha trận mạc, chiến đấu và mang hạnh phúc, bình yên đến với quê nhà…

Tiếp theo sau đó, Phạm Ngũ Lão chợt nhận ra rằng mình còn một món nợ rất lớn, mà cả đời ông cũng chưa chắc trả hết, đó là nợ công danh. “Nam nhi vị liễu công danh trái”. Một món nợ mà chỉ có người nam nhi, quân tử mới cảm thấy rằng mình không bao giờ trả đủ. Là tại sao vậy? Tại sao lại chiến đấu hết mình, bất chấp hy sinh… mà vẫn cảm thấy không sao trả hết nợ? Đó là bởi vì đất nước chưa hết mối lo, nhân dân chưa hết đói khổ, vậy thì sao có thể yên vị mà vui chơi được! Vậy nên món nơ ngàn đời này vẫn phải trả, trả đến khi nào không thể trả nữa thôi. Tác giả đã trải lòng mình theo bài thơ, đã tâm sự, đã truyền đạt hết những gì ấp ủ trong lòng. Phía sau cái hào khí vững mạnh ấy, là một con người còn nặng nợ công danh, nặng tình, nặng nghĩa. Luôn suy nghĩ, đắng đo vì nước vì dân. Bởi thân “làm trai cho đáng nên trai”, cho đáng với đất nước ngàn thu này! Cho đáng với Vũ Hầu Gia Cát Lượng! Để không phải “thẹn” khi nghe chuyện vũ Hầu nữa. Để những chiến tích còn có thể lưu vang ngàn đời, để người đời sau còn nhớ về một người anh hùng hết mình hy sinh vì nước vì dân.

Cả bài thơ là một giọng điệu oai hùng, dũng mãnh ào ào khí thế ra trận. Với nghệ thuật dùng từ ngữ giàu hình ảnh, mang đậm khí chất Đông A.

Lại trở về với hiện tại, bước ra khỏi màn sương lịch sử, ta đã làm gì cho đất nước này chưa? Ta đã có giữ lại khí thế Đông A ấy không? Ta đã hy sinh gì cho đất nước này? Vẫn chưa…món nợ ấy ta vẫn chưa trả…chưa trả hết đâu…

-----------------------------------------------------------------------------------------------------

Âm vang của thời đại Đông A với những chiến công lẫy lừng trong lịch sử chống ngoại xâm, ba lần đánh bại Nguyên - Mông đã in dấu trên nhiều trang viết của các nhà thơ đương thời. Phạm Ngũ Lão - danh tướng nhà Trần "đánh đâu thắng đó" cũng ghi lại những xúc cảm của mình qua Thuật Hoài - tác phẩm thể hiện rất đẹp hình ảnh và khí thế của người trai thời đại, cũng là tư thế của dân tộc trong những ngày hào hùng ấy.


Hoành sóc giang sơn cáp kỷ thu
Tam quân tỳ hổ khí thôn ngưu
Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu


Bài thơ chữ Hán , vẻn vẹn 28 chữ đã có một dung lượng thông điệp thẩm mỹ lớn, thể hiện khí phách nhà thơ - dũng tướng. Thi ngôn chí là nội dung tư tưởng của đề tào Thuật hoài, Vịnh hoài, cảm hoài... Nhưng sẽ không thể có cái ung dung hào sảng nếu tách bài thơ ra khỏi không khí thời đại bừng bừng "sát Thát". . Bài thơ không tách rời khỏi quỹ đạo tư tưởng Nho giáo trong mẫu hình người anh hùng cá nhân phong kiến nhưng trước hết nó là nỗi lòng của người "một thời tuy đã nên tướng giỏi - chí khí anh hùng vẫn khát khao". Giấc mộng lập công dương danh luôn là điều ám ảnh những kẻ sĩ, đại trượng phu thời phong kiến, đi liền với các tước phong công, hầu, khanh, tướng. Nhưng trong bài thơ này, con người đã được phác bằng những câu thơ có sức khái quát cao độ tinh thần dân tộc tự cường.

Hoành sóc giang sơn cáp kỷ thu

Câu khai đề của bài thơ đã tạo một tư thế rất đẹp của con người. Bản dịch vung giáo, múa giáo đều không ổn vì lập tức nó sẽ phá vỡ đi đối trọng con người - không gian. Một bên là giang sơn - sông núi quê hương rộng lớn; một bên là con người hoành sóc - cầm ngang ngọn giáo trấn giữ non sông. Thế "hoành" của ngọn giáo khiến tầm vóc con người như vươn lên ngang tầm sông núi. Hình ảnh người lính vệ quốc toát lên vẻ bình thản hiên ngang. Không những thế, trong mối tương quan con người - thời gian còn làm nổi bật ấn tượng về sự bền bỉ , uy dũng của người trai thời đại. Bởi lẽ con người không chỉ đứng đó trong thoáng chốc mà đã trải qua "mấy thu" rồi. Câu thơ xác lập một tư thế con người lồng lộng giữa đất trời, ngang tầm vũ trụ. Không những thế, cả đoàn quân cùng chung tư thế ấy :

Tam quân tỳ hổ khí thôn ngưu


Câu trên là hình ảnh, câu dưới là thần thái con người. Người chiến sĩ cầm ngang ngọn giáo kia với tam quân đã tạo thành một tường thành vững chắc, im phăng phắc mà khí thế "xung thiên". Câu thơ còn gợi về một ý thơ của Quảng Nghiêm thiền sư : "Nam nhi tự hữu xung thiên chí". Tư thế sẵn sàng xung trận đã hình thành tứ thơ thật đẹp "tỳ hổ khí thôn ngưu". Tuy rằng cách diễn ý chưa thoát khỏi lối ước lệ tượng trưng quen thuộc của thơ xưa nhưng để hiểu cặn kẽ cũng không phải là điều đơn giản. Theo cảm quan thẩm mỹ cổ điển, câu thơ gợi lên khí phách đoàn quân quyết chiến làm át cả sao Ngưu - vì tinh tú sáng chói trên trời. Nhưng cách hiểu "ba quân như hổ mạnh nuốt trôi trâu" đem đến cảm nhận cụ thể hơn về sức mạnh của quân đội còn non trẻ đương đầu với đội quân Nguyên - Mông hùng mạnh và thiện chiến, dường như có hàm ý ngợi ca tự hào mạnh mẽ hơn. Bởi lẽ tỳ hổ là cách so sánh mang đậm chất võ của người thống lĩnh ba quân. Trong sự liên tưởng ấy, hổ và trâu hoàn toàn không làm mất đi giá trị thẩm mỹ của câu thơ mà làm rõ hơn cho dũng khí của quân đội nhà Trần.

Nhưng hai câu thơ đầu mới chỉ là nền để nhà thơ bộc bạch lòng mình :

Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu

Đây mới là điều canh cánh bên lòng của người dũng tướng, gắn với bổn phận của kẻ làm trai thời phong kiến . Bao đời nay, nợ công danh từng là niềm ám ảnh khôn nguôi với những người làm trai trong thời phong kiến. Phải chăng, một người anh hùng như Phạm Ngũ Lão cũng không thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn "công hầu kha nh tướng" ấy? Giả sử có như vậy cũng là lẽ thường tình, nhất là trong thời đại giá trị con người được tạo nên từ những chiến công - thời thế tạo anh hùng. Câu thơ bộc lộ niềm khao khát lớn, một điều băn khoăn chưa trả với đời của người trai làng Phù Ủng năm nào. Tất cả nỗi niềm của ông được thổ lộ trong sự đối sánh với tấm gương Vũ Hầu Gia Cát Lượng thuở xưa. Bậc mưu thần, danh sĩ nổi tiếng thời Tam Quốc, người đã xả thân vì cơ nghiệp nhà Thục, vì chúa Lưu Bị, nhắm mắt chưa yên công cuộc "ủng Lưu phản Tào". Tất cả đã rõ, tâm niệm của Phạm Ngũ Lão nào khác nguời xưa khi ông mong muốn làm nên công nghiệp phò tá cho vua, thực hiện lý tưởng trí quân trạch dân cao cả của bề tôi trung thành tận tuỵ. Nỗi thẹn của người anh hùng toả sáng một nhân cách lớn. Băn khoăn ấy không dành riêng cho bản thân mà toàn tâm toàn ý hướng về nghiệp lớn muôn đời, vì sự bình yên của sơn hà xã tắc.

Bài thơ là sự phản chiếu một thời đại hào hùng, khi lý tưởng trung quân ái quốc hoà nhịp trọn vẹn trong tình cảm, tâm hồn nhà thơ, thời đại "vua tôi đồng lòng, anh em hoà thuận, cả nước ra sức".Tâm nguyện của Phạm tướng quân đã phản chiếu tâm tư của bao người trai thời Trần : ý thức rõ giá trị bản thân, nhận rõ sự gắn bó cá nhân với cộng đồng - dân tộc - đất nước. Xúc cảm hào hùng toả sáng trong hình tượng thơ, đem đến cho người đọc cái nhìn trọn vẹn về con người thời đại Đông A. 

------------------------------------------------------------------------------------------

Phạm Ngũ Lão là một vị tướng có nhiều đóng góp cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Không những thế ông còn có tài sáng tác thơ văn, ông để lại nhiều tác phẩm có giá trị, trong đó phải kể đến Thuật hoài.

Mở đầu bài thơ, tác giả đã miêu tả khí thế oai hùng của đoàn quân đang sẵn sàng chiến đầu để bảo vệ non sông.

Múa giáo non sông trải mấy thu

Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu

Câu thơ mang một ý nghĩa đặc sắc, muốn nói đến việc cầm ngang ngọn giáo, gìn giữ non sông đã trải qua nhiều năm. Một hình ảnh khái quát, tĩnh như một bức tượng về người chiến sĩ bảo vệ tổ quốc. Câu thơ dịch là "Múa giáo", cụ thể, động. Có làm mất sức tạc hình, nhưng không làm mất ý nghĩa chính, tầm vóc lớn của hình ảnh. Câu thơ thứ hai là hình ảnh nền. Câu thơ này hiểu như bản dịch SGK hay như cách hiểu thứ hai (Ba quân khí thế át cả sao Ngưu) đều được, vì hoàn toàn không sai lệch nghĩa.

Chỉ với hai câu thơ ngắn ngủi, người đọc đã có thể hình dung ra khí thể hào hùng của đội quân đang chiến đấu bảo vệ non sông, đồng thời thể hiện lòng yêu nước ý chí căm thù giặc của nhân dân ta, một câu dựng hình ảnh chính, một câu dựng hình ảnh nền, một câu khắc điểm, một câu vẽ diện, đêu dựng được tầm vóc, tư thế, hành động lớn lao của cá nhân người anh hùng, quân đội dũng sĩ, dân tộc hùng mạng, tự cường.

Cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm của nhân dân ta đã trải qua nhiều thế kỉ, nhưng lòng yêu nước, ý chí căm thù giặc càng ngày càng dâng lên trong mỗi người dânKhi đất nước có chiến tranh thì việc bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh là điều ưu tiên trước nhất. Nhưng trải qua ngàn năm văn học, riêng trong thơ tạc hình người anh hùng chiến trận mà muôn đời còn nhớ, cũng chỉ có số ít thi phẩm. Tỏ lòng (Thuật hoài) của Phạm Ngũ Lão là sự mở đầu. Cuối thời nhà Trần, khi giới quý tộc tổ chức kháng chiến chống quân đô hộ Minh, cũng thấy hình ảnh này - nhưng là hình ảnh người anh hùng chiến bại trong thơ Đặng Dung (Thù nước chưa xong đầu vội bạc /  Mấy độ mài gươm dưới bóng trăng). Kháng chiến chống Pháp (1946 - 1954) là hình ảnh "Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới / Đầu súng trăng treo" trong bài Đồng Chí của Chính Hữu. Chống Mĩ (1954 - 1975) có hình ảnh Dáng dứng Việt Nam trong thơ Lê Anh Xuân (Không một tấm hình, không một dòng địa chỉ / Anh chẳng để lại gì riêng cho anh trước lúc lên đường / Chỉ để lại dáng đứng Việt nam tạc vào thế kỉ / Anh là chiến sĩ giải phóng quân).

Quan niệm về chí làm trai đã được nhiều nhà thơ thể hiện, mỗi nhà thơ bày tỏ một quan niệm riêng của mình. Nhưng tựu chung lại, các nhà thơ đều muốn nhắc nhở đấng nam nhi rằng đã làm trai thì phải giúp được gì cho đời, cho đất nước, nếu không làm được thì phải thấy then với lương tâm. Quan niệm đó cũng là một trong những cái ngông trong thơ ông.

Công danh nam tử còn vương nợ

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu

Thời xưa con người coi trọng nam nhi hơn nữ nhi, và đặt một kì vọng lớn vào nam nhi. Điều đó tạo một lễ giáo, như một quy định bất thành văn, đã là nam nhi thì phải làm được việc lớn. Đây là một quan niệm sống tích cực, ngày nay vẫn cần được phát huy nhưng đi cùng quan niệm nam nữ bình đẳng mới trọn vẹn. Chí làm trai thể hiện rõ nhất ở cái đích: đi ra bốn phương, lập nên công danh, sự nghiệp.

Cùng quan niệm về chí làm trai, trong ca dao có câu:

Làm trai cho đáng nên trai

Phú Xuân cũng trải, Đồng Nai cũng từng

Làm trai cho đáng nên trai

Xuống đông, đông tĩnh, lên đoài, đoài yên

Nguyễn Công Trứ cũng có một quan niệm hào hùng rằng:

Đã sinh ra ở trong trời đất

Phải có danh gì với núi sông.

Có thể nói rằng bài thơ Tỏ lòng thể hiện khí phách tuổi trẻ lần đầu tiên được khẳng định trong văn học một cách thẳng thắng gắn chặt với sự nghiệp lớn lao - cứu nước, trong sự so sánh, trong nỗi thẹn với một tài năng xuất chúng, công danh hiểm hách, một lòng phò vua giúp nước là Gia Cát Lượng. Thì cái chí khí, tài năng, tấm lòng của con người này đã đạt tới cao độ. Mặt khác cũng cần thấy, có tài lớn, chí cao, tâm khát vọng nhưng không có hào khí thời đại anh hùng cũng không thể sản sinh ra con người anh hùng với nỗi thẹn một lòng vì nước như thế.

Đọc toàn bộ bài thơ, người đọc có thể hiểu ra tâm ý của tác giả, tác giả đã dựng một tượng đài ở hai đầu câu, là một lời thúc giục thế hệ ở hai câu cuối. Bởi hai câu cuối không phải là chỉ sự tỏ lòng của một cá nhân, còn là lời khích lệ tướng sĩ, những trang nam nhi trước vận nước gian nguy.

Không phải đến Phạm Ngũ Lão mới có quan niệm về chí làm trai hào hùng như vậy. Nhưng đọc Thuật hoài người đọc hình dung ra hình ảnh người anh hùng hiện lên sừng sững như một bức tượng được tạc công phu, bức tượng ấy thể hiện hết được chí khí cũng như nhân cách của người anh hùng ấy.

------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Việt Nam, đất nước tuy bé nhỏ đầy những gian lao vất vả nhưng rất đỗi anh hùng đã trải qua bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước với những mốc son chói lọi trong lịch sử. Một trong những mốc son ấy chính là ba cuộc kháng chiến chống quân Mông-Nguyên xâm lược của vua tôi nhà Trần. Nhà Trần đã ghi vào pho sử vàng Đại Việt những chiến công Chương Dương, Hàm Tử, Bạch Đằng… bất tử. Khí thế hào hùng, oanh liệt của nhân dân ta và tướng sĩ đời Trần được ghi lại trong những áng văn chương kiệt xuất như: "Hịch tướng sĩ" của Trần Quốc Tuấn, "Bạch Đằng giang phú" của Trương Hán Siêu, v.v… Đặc biệt và nổi bật hơn hết cả là tác phẩm "Thuật hoài" của Phạm Ngũ Lão. Bài thơ là một khúc tráng ca hào hùng và mang nặng nỗi niềm của tác giả.

Phạm Ngũ Lão sinh ra trong thời kì loạn lạc với cuộc kháng chiến chống quân Mông-Nguyên của đất nước. Tên tuổi của ông gắn liền với câu chuyện về một chàng trai nghèo mãi nghĩ kế giúp vua đánh giặc đến nỗi bi giáo đâm vào đùi. Bên cạnh một nhà quân sự tài giỏi, ông còn là một nhà thơ vĩ đại với hai tác phẩm "Thuật hoài" và "Viếng Thượng tướng quốc công Hưng Đạo Đại Vương" còn vang vọng mãi với non sông.

"Thuật hoài" là bản tuyên ngôn về lý tưởng của kẻ làm trai là chiến đấu để bảo vệ non sông đất nước đồng thời thể hiện khí thế, sức mạnh và khát vọng chiến thắng của một thời đại anh hùng. Bài thơ tiêu biểu cho quy luật văn chương nghệ thuật "Quý hồ tinh, bất quý hồ đa"

Mở đầu bài thơ là hình ảnh tráng lệ với âm hưởng hào hùng:

"Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu"

Bước vào thời đại chiến tranh ấy, cái thời mà ngọn lửa như thiêu đốt cả tâm hồn quyết tâm diệt tan kẻ thù xâm lăng bờ cõi, khẳng định lại một lần nữa: "Nam quốc sơn hà Nam Đế cư"! Và khi đó, xuất hiện tư thế hiên ngang của người anh hùng đất Việt "hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu". Câu thơ đầu tiên đã vẽ nên hình tượng oai phong lẫm liệt của người tráng sĩ với tư thế cầm ngang ngọn giáo sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Tư thế ấy mang đậm tính tự hào rằng mình là người con đất Việt và sẵn sàng hy sinh để bảo vệ bờ cõi Việt, bảo vệ nhân dân Việt, bảo vệ non sông gấm vóc ngàn thu này. Hình ảnh lớn lao của người chiến sĩ đã sánh với tầm vóc bao la hùng vĩ của đất trời, lấn át cả khí thế của quân giặc. Đó còn biểu trưng cho lối sống cao đẹp cống hiến hết sức để bảo vệ đất nước một cách kiên trì, nhẫn nại. Dù bao nhiêu năm đi chăng nữa thì lí tưởng bảo vệ, khôi phục non sông vẫn mãi trường tồn.

Nếu câu thơ đầu thể hiện vẻ đẹp của con người với tầm vóc, tư thế, hành động lớn lao, kỳ vĩ mang tầm vóc vũ trụ thì câu thơ thứ hai tô đậm hình ảnh "ba quân" tượng trưng cho sức mạnh của quân đội nhà Trần và sức mạnh dân tộc Đại Việt lúc bấy giờ.

"Tam quân tì hổ khí thôn ngưu"

Đội quân "Sát Thát" ra trận vô cùng đông đảo, trùng điệp với sức mạnh phi thường, mạnh như hổ báo quyết đánh tan mọi kẻ thù xâm lược. Khí thế của đội quân ấy ào ào ra trận. Không một thế lực nào, kẻ thù nào có thể ngăn cản nổi. "Khí thôn ngưu" nghĩa là khí thế, tráng chí nuốt sao Ngưu, làm át, làm lu mờ sao Ngưu trên bầu trời xuất phát từ câu "khí thôn Ngưu đẩu" hay đó chính là khí thể hùng mạnh có thể nuốt trôi trâu của tam quân thời Trần. Biện pháp nghệ thuật cường điệu hoá sáng tạo nên một hình tượng thơ mang tầm vóc hoành tráng, có tính sử thi. Hình ảnh ẩn dụ so sánh: "Tam quân tì hổ…" trong thơ Phạm Ngũ Lão rất độc đáo, không chỉ có sức biểu hiện sâu sắc sức mạnh vô địch của đội quân "Sát Thát" bất khả chiến bại mà nó còn khơi nguồn cảm hứng thơ ca; tồn tại như một điển tích, một thi liệu sáng giá trong nền văn học dân tộc:           

Thuyền bè muôn đội,
Tinh kì phấp phới.
Hùng hổ sáu quân,
Giáo gươm sáng chói.

(Phú sông Bạch Đằng – Trương Hán Siêu)

Nếu tư thế của tráng sĩ với hình ảnh cây trường giáo như đo bằng chiều ngang của non sông thì tư thế của ba quân lớn mạnh đo bằng chiều dọc gợi không gian mở ra theo chiều rộng của núi sông và mở theo chiều cao đến tận sao Ngưu thăm thẳm. Con người kì vĩ như át cả không gian bao la, kì vĩ. Hình ảnh tráng sĩ lồng vào trong hình ảnh dân tộc thật đẹp có tính chất sử thi, hoành tráng. Đó chính là sức mạnh, âm vang của thời đại, vẻ đẹp của người trai thời Trần, là sản phẩm của "hào khí Đông A". Nói cách khác, đó là hình ảnh con người vũ trụ, mang tầm vóc lớn lao. Con người ấy vì ai mà xông pha, quyết chiến? Tất cả xuất phát từ trách nhiệm, ý thức dân tộc và nền thái bình. Vì thế con người vũ trụ gắn với con người trách nhiệm, con người ý thức, bổn phận, con người hành động, đó chính là những biểu hiện của con người cộng đồng, con người xả thân vì đất nước.

Nếu ở hai câu đầu giọng điệu sôi nổi hùng tráng thì đến đây âm hưởng thơ bỗng dưng như một nốt trầm lắng lại với lời bộc bạch, tâm sự, bày tỏ nỗi lòng của nhà thơ:

"Nam nhi vị liễu công danh trái

Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu"

Thời xưa, Nho giáo đã nêu lên triết lí kẻ làm trai từ lúc sinh ra đã gánh nợ công danh. Người đàn ông phải hướng đến "tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ" lấy đó là lí tưởng, là cái đích phải hướng tới. Nói như Nguyễn Công Trứ thì:

"Đã mang tiếng ở trong trời đất

Phải có danh gì với núi sông".

 Thời Trần, cái chí làm trai ấy là "Phá cường địch, báo hoàng ân" của vị anh hùng trẻ tuổi Trần Quốc Toản, là câu nói quả quyết của Thái sư Trần Thủ Độ: "Đầu thần còn chưa rơi xuống xin bệ hạ đừng lo" hay đó là vị Quốc Công tiết chế với "Hịch tướng sĩ" mang đậm hào khí anh hùng: "…dẫu cho thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa ta cũng cam lòng". Ấy chính là khát vọng được gánh vác vận mệnh đất nước, dân tộc, lập chiến công hiển hách, là lý tưởng lập công danh sự nghiệp của nam nhi thời loạn lạc. "Công danh" mà Phạm Ngũ Lão nói đến trong bài thơ là thứ công danh được làm nên bằng máu và tài thao lược, bằng tinh thần quả cảm và chiến công. Đó không phải là thứ "công danh" tầm thường, đậm màu sắc anh hùng cá nhân. Nợ công danh như một gánh nặng mà kẻ làm trai nguyện trả, nguyện đền bằng xương máu và lòng dũng cảm.

Đặt trong thời đại của Phạm Ngũ Lão, chí làm trai này đã cổ vũ con người từ bỏ lối sống tầm thường, ích kỉ, sẵn sàng chiến đấu hi sinh vì sự nghiệp lớn lao "cùng trời đất muôn đời bất hủ". Phạm Ngũ Lão cũng từ cái chí, cái nợ nam nhi, nam tử đó mà cùng dân tộc chiến đấu chống xâm lược bền bĩ, ròng rã bao năm. Đặc biệt ở đây cũng từ cái chí, cái nợ đó mà nảy sinh trong tâm trạng một nỗi thẹn. Phạm Ngũ Lão "thẹn" chưa có tài mưu lược lớn như Vũ Hầu Gia Cát Lượng đời Hán để trừ giặc, cứu nước. Thẹn bởi vì so với cha ông mình chưa có gì đáng nói. Gia Cát Lượng là quân sư của Lưu Bị, mưu trí tuyệt vời, song điểm làm cho Gia Cát Lượng nổi tiếng là lòng tuyệt đối trung thành với chủ. Vì thế "luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu" thực chất là một lời thề suốt đời tận tuỵ với chủ tướng Trần Hưng Đạo. Xưa nay, những người có nhân cách vẫn thường mang trong mình nỗi thẹn. Nguyễn Khuyến trong bài thơ "Thu vịnh" từng bày tỏ nỗi thẹn khi nghĩ tới Đào Tiềm – một danh sĩ cao khiết đời Tấn. Với Phạm Ngũ Lão, tuy là một nhà thao lựơc kiệt xuất, có công rất lớn trong hai cuộc kháng chiến chống Mông-Nguyên lần hai, ba nhưng ông vẫn tự thấy hổ thẹn. Ông thẹn vì chưa khội phục được giang sơn, vì kém cỏi chưa được như Vũ hầu, chưa báo được Hoàng ân. Nỗi thẹn ấy không làm cho con người trở nên nhỏ bé mà trái lại nâng cao phẩm giá con người. Đó là cái thẹn của một con người có lý tưởng, hoài bão vừa lớn lao, vừa khiêm nhường. Nỗi thẹn của một con người luôn dành trọn cái tâm cho đất nước, cho cộng đồng. Ẩn sau cái thẹn cao cả, khiêm tốn và ấy là cả một nỗi niềm khao khát được cống hiến hơn nữa cho Tổ quốc, cho dân tộc. Ông nguyện học tập binh thư, rèn luyện cung tên chiến mã, sẵn sàng chiến đấu "Khiến cho người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ có thể bêu được đầu Hốt Tất Liệt ở cửa Khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai,…" để Tổ quốc Đại Việt được trường tồn bền vững:  "Non sông nghìn thuở vững âu vàng".

Thuật hoài là một bài thơ Đường luật ngắn gọn nhưng hàm súc với thủ pháp gợi, thiên về ấn tượng, khái quát kết hợp với bút pháp hoành tráng mang âm hưởng sử thi đã khắc họa vẻ đẹp của người anh hùng hiên ngang, hùng dũng với sức mạnh lý tưởng lớn lao cao cả, tâm hồn sáng ngời nhận cách cùng khí thế hào hùng, quyết chiến quyết thắng của "hào khí Đông A"-hào khí thời Trần. Ngày nay, việc "cứu nước phò nguy" đâu phải là không cần thiết nữa vì vậy, mỗi thanh niên chúng ta cần học tập thật tốt, rèn luyện nhân cách đạo đức, xác định cho mình lí tưởng sống đúng đắn và quan trọng hơn là phải biết ước mơ và hành động vì sự nghiệp đất nước, đưa Việt Nam sánh ngang tầm với các cường quốc khắp năm châu.

------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: