Phần II

Phần II: Học thuyết kinh tế của chủ nghĩa Mác - Lênin về phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa

Chương IV: Học thuyết giá trị

Sự chuyển hóa giá trị thặng dư thành tư bản - Tích lũy tư bản

Chương V: Học thuyết giá trị thặng dư

I. SỰ CHUYỂN HÓA CỦA TIỀN TỆ THÀNH TƯ BẢN

1. Công thức chung của tư bản

Tiền là sản vật cuối cùng của lưu thông hàng hoá, đồng thời là hình thức biểu hiện đầu tiên của tư bản. Mọi tư bản lúc đầu đều biểu hiện dưới hình thái một số tiền nhất định. Nhưng bản thân tiền không phải là tư bản,

tiền chỉ biến thành tư bản trong những điều kiện nhất định, khi chúng được sử dụng để bóc lột lao động của người khác.

Tiền với tư cách là tiền tiền thông thường vận động theo công thức: H - T – H. Tiền với tư cách là tư bản thì vận động theo công thức: T - H – T. Bất cứ tiền nào vận động theo công thức T - H – T đều chuyển hoá thành tư bản.

So sánh công thức H - T - H và công thức T - H – T

Điểm giống nhau:

Cả hai sự vận động trên đều do hai giai đoạn đối lập nhau là mua và bán hợp thành, trong mỗi giai đoạn đều có hai nhân tố vật chất đối diện nhau là tiền và hàng, và hai người có quan hệ kinh tế với nhau là người mua và người bán. Nhưng đó chỉ là những điểm giống nhau về hình thức.

Điểm khác nhau:

Giữa hai công thức trên có sự khác nhau về chất.

Lưu thông hàng hoá giản đơn bắt đầu bằng việc bán (H - T) và kết thúc bằng việc mua (T - H). Điểm xuất phát và điểm kết thúc của quá trình đều là hàng hoá, còn tiền chỉ đóng vai trò trung gian.

Lưu thông của tư bản bắt đầu bằng việc mua (T - H) và kết thúc bằng việc bán (H – T). Tiền vừa là điểm xuất phát, vừa là điểm kết thúc của quá trình, còn hàng hoá chỉ đóng vai trò trung gian; tiền ở đây không phải là chi ra dứt khoát mà chỉ là ứng ra rồi thu về.

Mục đích của lưu thông hàng hoá giản đơn là giá trị sử dụng để thoả mãn nhu cầu, nên các hàng hoá trao đổi phải có giá trị sử dụng khác nhau.

Mục đích của lưu thông tư bản không phải là giá trị sử dụng, mà là giá trị, hơn nữa giá trị tăng thêm. Vì vậy, nếu số tiền thu về bằng số tiền ứng ra, thì quá trình vận động trở nên vô nghĩa. Do đó, số tiền thu về phải lớn hơn số tiền ứng ra, nên công thức vận động đầy đủ của tư bản phải là T - H - T', trong đó T' = T + ΔT. Số tiền trội hơn so với số tiền ứng ra (ΔT), C.Mác gọi là giá trị thặng dư, ký hiệu là m. Số tiền ứng ra ban đầu chuyển hoá thành tư bản.

Vậy tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư. Mục đích lưu thông tư bản là sự lớn lên của giá trị, là giá trị thặng dư, nên sự vận động của tư bản là không có giới hạn, vì sự lớn lên của giá trị là không có giới hạn.

C.Mác gọi công thức T - H - T' là công thức chung của tư bản, vì sự vận động của mọi tư bản đều biểu hiện trong lưu thông dưới dạng khái quát đó, dù là tư bản thương nghiệp, tư bản công nghiệp hay tư bản cho vay.

2. Mâu thuẫn của công thức chung của tư bản

Tiền ứng trước, tức là tiền bỏ vào lưu thông, khi quay trở về tay người chủ của nó, thì tăng thêm một lượng nhất định. Vậy có phải lưu thông đã làm cho tiền tăng thêm và do đó hình thành giá trị thặng dư hay không?

Trong lưu thông, dù trao đổi ngang giá hay không ngang giá cũng không tạo ra giá trị mới, do đó cũng không tạo ra giá trị thặng dư.

Trường hợp trao đổi ngang giá: nếu hàng hoá được trao đổi ngang giá, thì chỉ có sự thay đổi hình thái của giá trị, từ tiền thành hàng và từ hàng thành tiền, còn tổng giá trị cũng như phần giá trị thuộc về mỗi bên tham gia trao đổi trước sau vẫn không thay đổi. Tuy nhiên, về mặt giá trị sử dụng, thì cả hai bên trao đổi đều có lợi.

Trường hợp trao đổi không ngang giá:

Nếu hàng hoá được bán cao hơn giá trị, thì số lời anh ta nhận được khi là người bán cũng chính số tiền anh ta sẽ mất đi khi là người mua, rốt cuộc anh ta sẽ không được lợi thêm gì cả. Còn nếu mua hàng hoá thấp hơn giá trị, thì tình hình cũng tương tự như trên. Số lời anh ta nhận được khi là người mua sẽ mất đi khi là người bán. Giả sử có một số người chuyên mua được rẻ bán đắt thì điều đó cũng chỉ giải thích được sự làm giàu của những thương nhân cá biệt chứ không thể giải thích được sự giàu có của toàn bộ giai cấp tư bản vì tổng số giá trị trước và sau khi trao đổi không thay đổi, mà chỉ có phần giá trị của mỗi bên trao đổi là thay đổi, tức là có sự chuyển dịch giá trị từ người này sang người khác chứ không có sự tăng thêm tổng số giá trị trao đổi.

Lưu thông không làm tăng giá trị nhưng nếu tiền không vận động trong lưu thông, tức là đứng ngoài lưu thông, thì cũng không thể lớn lên được.

"Vậy là tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể xuất hiện ở bên ngoài lưu thông. Nó phải xuất hiện trong lưu thông và đồng thời không phải trong lưu thông”

C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1993, tr.23)

. Đó là mâu thuẫn của công thức chung của tư bản.

3. Hàng hóa sức lao động và tiền công trong chủ nghĩa tư bản

a. Hàng hóa sức lao động

Xem xét công thức chung của tư bản ta thấy sự chuyển hoá của tiền thành tư bản không thể phát sinh từ bản thân số tiền đó vì trong việc mua bán tiền chỉ là phương tiện lưu thông để thực hiện giá cả hàng hoá, nên trước sau giá trị của nó vẫn không thay đổi. Sự chuyển hoá đó phải xảy ra ở hàng hoá nhưng không phải ở giá trị trao đổi của hàng hoá mà chỉ có thể ở giá trị sử dụng của hàng hoá. Do đó, hàng hoá đó không thể là hàng hoá thông thường mà phải là một thứ hàng hoá đặc biệt mà giá trị sử dụng của nó có đặc tính là nguồn gốc sinh ra giá trị, hơn nữa sinh ra một giá trị lớn hơn giá (1)

trị của bản thân nó. Thứ hàng hoá đặc biệt đó là sức lao động mà nhà tư bản đã tìm thấy trên thị trường. Sức lao động biến thành hàng hoá là điều kiện quyết định để tiền biến thành tư bản. Theo C.Mác: "sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ nhữngnăng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong một cơ thể, trong một con ngườiđang sống, và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giátrị sử dụng nào đó”C.Mác. Tư bản. Quyển I, tập I. Sđd, tr. 233.

Trong bất cứ xã hội nào, sức lao động cũng là điều kiện cơ bản của sản xuất nhưng sức lao động không phải bao giờ cũng là hàng hoá, nó chỉ biến thành hàng hoá trong những điều kiện nhất định:

Thứ nhất, người lao động phải được tự do về thân thể. Sức lao động chỉ xuất hiện trên thị trường với tư cách là hàng hoá khi người lao động phải được tự do về thân thể, có quyền sở hữu sức lao động của mình và có quyền đem bán sức lao động. Muốn bán hàng hóa, người ta phải có quyền sở hữu hàng hóa. Người lao động muốn bán sức lao động của mình thì trước hết họ phải sở hữu sức lao động của mình, có quyền chi phối khả năng làm việc của mình, họ muốn làm việc cho ai là quyền của họ. Trong các xã hội nô lệ và phong kiến, người nô lệ và nông nô không thể bán sức lao động vì bản thân họ thuộc sở hữu của chủ nô hay chúa phong kiến. Do đó việc biến sức lao động thành hàng hoá đòi hỏi phải thủ tiêu chế độ nô lệ và nông nô.

Thứ hai, người lao động bị tước đoạt hết tư liệu sản xuất vì nếu người lao động được tự do về thân thể nhưng có tư liệu sản xuất thì họ sẽ sản xuất ra hàng hoá và bán hàng hoá do mình sản xuất ra chứ không bán sức lao động. Muốn biến sức lao động thành hàng hoá, người lao động phải là người không có tư liệu sản xuất, chỉ trong điều kiện ấy người lao động mới bán sức lao động của mình, vì họ không còn cách nào khác để sinh sống.

Về mặt lịch sử, khi chủ nghĩa tư bản ra đời ở Tây Âu vào thế kỷ XVI, chủ nghĩa tư bản đã tạo ra hai điều kiện trên thông qua quá trình tích lũy nguyên thủy của tư bản.

Sự tồn tại đồng thời hai điều kiện nói trên tất yếu biến sức lao động thành hàng hoá. Sức lao động biến thành hàng hoá là điều kiện quyết định để tiền biến thành tư bản, tuy nhiên, để tiền biến thành tư bản thì lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ phải phát triển tới một mức độ nhất định. Sức lao động biến thành hàng hoá là nhân tố đánh dấu một giai đoạn mới trong sự phát triển sản xuất hàng hoá trở thành hình thái phổ biến sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa.

Hàng hoá sức lao động cũng có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị.

Giá trị hàng hoá sức lao động

Giá trị sức lao động cũng do thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất sức lao động quyết định. Nhưng sức lao động chỉ tồn tại trong cơ thể sống của con người, muốn tái sản xuất ra sức lao động, người công nhân phải tiêu dùng một lượng tư liệu sinh hoạt nhất định.

Vậy thời gian lao động xã hội cần thiết để tái sản xuất ra sức lao động sẽ được quy thành thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt ấy; hay nói cách khác, giá trị hàng hoá sức lao động được đo lường gián tiếp bằng giá trị những tư liệu sinh hoạt để tái sản xuất sức lao động.

Là hàng hoá đặc biệt, giá trị hàng hoá sức lao động khác với hàng hóa thông thường ở chỗ nó bao hàm cả yếu tố tinh thần và lịch sử. Điều đó có nghĩa là ngoài những nhu cầu về vật chất, người công nhân còn có những nhu cầu về tinh thần, văn hoá... Những nhu cầu đó phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử của mỗi nước ở từng thời kỳ, phụ thuộc cả vào điều kiện địa lý, khí hậu của nước đó và mức độ thoả mãn những nhu cầu đó phần lớn phụ thuộc vào trình độ văn minh đã đạt được của mỗi nước.

Giá trị hàng hoá sức lao động do những bộ phận sau đây hợp thành:

Một là, giá trị những tư liệu sinh hoạt về vật chất và tinh thần cần thiết để tái sản xuất sức lao động, duy trì đời sống công nhân;

Hai là, phí tổn đào tạo công nhân;

Ba là, giá trị những tư liệu sinh hoạt vật chất và tinh thần cần thiết cho

con cái công nhân.

Sự biến đổi của giá trị sức lao động trong một thời kỳ nhất định chịu ảnh hưởng của hai loại nhân tố tác động đối lập nhau đến. Một mặt, sự tăng nhu cầu trung bình của xã hội về hàng hoá và dịch vụ, về học tập và trình độ lành nghề dẫn đến làm tăng giá trị sức lao động; mặt khác, sự tăng năng suất

lao động xã hội lại làm giảm giá trị sức lao động.

Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động

Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động được biểu hiện trong quátrình tiêu dùng sức lao động, tức là quá trình lao động của người công nhân.

Quá trình đó là quá trình sản xuất ra một loạt hàng hoá nào đó; đồng thời là quá trình tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân hàng hoá sức lao động. Phần lớn hơn đó chính là giá trị thặng dư mà nhà tư bản chiếm đoạt.

Như vậy, giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động có tính chất đặc biệt là nguồn gốc sinh ra giá trị, tức là tạo ra giá trị thặng dư. Đó là chìa khoá để giải thích mâu thuẫn của công thức chung của tư bản.

b. Tiền công trong chủ nghĩa tư bản

Bản chất kinh tế của tiền công

Người công nhân làm việc cho nhà tư bản một thời gian nhất định, sản xuất ra một lượng hàng hoá hay hoàn thành một số công việc nào đó thì được nhà tư bản trả cho một số tiền nhất định gọi là tiền công. Hiện tượng đó làm cho người ta lầm tưởng rằng tiền công là giá cả của lao động.

Tiền công không phải là giá trị hay giá cả của lao động, vì lao động không phải là hàng hoá. Sở dĩ như vậy là vì:

- Nếu lao động là hàng hoá, thì nó phải có trước, phải được vật hoá trong một hình thức cụ thể nào đó. Tiền đề để cho lao động vật hoá được là phải có tư liệu sản xuất. Nhưng nếu người lao động có tư liệu sản xuất, thì họ sẽ bán hàng hoá do mình sản xuất ra, chứ không bán "lao động".

- Việc thừa nhận lao động là hàng hoá dẫn tới một trong hai mâu thuẫn về lý luận sau đây:

Thứ nhất, nếu lao động là hàng hoá và được trao đổi ngang giá, thì nhà tư bản không thu được lợi nhuận (giá trị thặng dư); điều này phủ nhận sự tồn tại của quy luật giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản.

Thứ hai, nếu "hàng hoá lao động" được trao đổi không ngang giá để có giá trị thặng dư cho nhà tư bản, thì lại phủ nhận quy luật giá trị.

- Nếu lao động là hàng hoá, thì nó phải có giá trị nhưng lao động là thực thể và là thước đo nội tại của giá trị do đó bản thân lao động không có giá trị. Vì thế, cái mà công nhân bán cho nhà tư bản không phải là “lao động” mà là “sức lao động”. Do đó tiền công là giá cả của sức lao động.

Vậy bản chất của tiền công trong chủ nghĩa tư bản là giá trị hay giá cả của sức lao động, nhưng lại biểu hiện ra bề ngoài thành giá trị hay giá cả của lao động.

Hình thức biểu hiện của tiền công đã gây ra sự nhầm lẫn trong cách hiểu về bản chất của nó là do:

Thứ nhất, đặc điểm của hàng hoá sức lao động là không bao giờ tách khỏi người bán, nó chỉ nhận được giá cả sau khi đã cung cấp giá trị sử dụng cho người mua, tức là lao động cho nhà tư bản, do đó bề ngoài chỉ thấy nhà tư bản trả giá trị cho lao động.

Thứ hai, đối với công nhân, toàn bộ lao động trong cả ngày là phương tiện để có tiền sinh sống, do đó bản thân công nhân cũng tưởng rằng mình bán lao động. Còn đối với nhà tư bản bỏ tiền ra là để có lao động, nên cũng nghĩ rằng cái mà họ mua là lao động.

Thứ ba, lượng của tiền công phụ thuộc vào thời gian lao động hoặc số lượng sản phẩm sản xuất ra, điều đó càng làm cho người ta lầm tưởng rằng tiền công là giá cả lao động.

Hai hình thức cơ bản của tiền công trong chủ nghĩa tư bản

Tiền công có hai hình thức cơ bản là tiền công tính theo thời gian và tiền công tính theo sản phẩm.

Tiền công tính theo thời gian là hình thức tiền công mà số lượng của nó ít hay nhiều tuỳ theo thời gian lao động của công nhân (giờ, ngày, tháng) dài hay ngắn.

Tiền công ngày và tiền công tuần chưa nói rõ được mức tiền công đó cao hay là thấp, vì còn tuỳ theo ngày lao động dài hay ngắn. Muốn đánh giá mức tiền công không chỉ căn cứ vào tiền công ngày mà còn phải căn cứ vào độ dài của ngày lao động và cường độ lao động. Giá cả của một giờ lao động là thước đo chính xác mức tiền công tính theo thời gian.

Tiền công tính theo sản phẩm là hình thức tiền công mà số lượng của nó phụ thuộc vào số lượng sản phẩm hay số lượng những bộ phận của sản phẩm mà công nhân đã sản xuất ra hoặc là số lượng công việc đã hoàn thành.

Mỗi sản phẩm được trả công theo một đơn giá nhất định. Đơn giá tiền công là tiền công trả cho thời gian cần thiết sản xuất ra một sản phẩm. Vì thế tiền công tính theo sản phẩm là hình thức chuyển hoá của tiền công tính theo thời gian.

Thực hiện tiền công tính theo sản phẩm, một mặt, giúp cho nhà tư bản trong việc quản lý, giám sát quá trình lao động của công nhân dễ dàng hơn; mặt khác, kích thích công nhân tích cực lao động tạo ra nhiều sản phẩm để nhận được tiền công cao hơn.

Tiền công danh nghĩa và tiền công thực tế

Tiền công danh nghĩa là số tiền mà người công nhân nhận được do bán sức lao động của mình cho nhà tư bản.

Tiền công thực tế là tiền công được biểu hiện bằng số lượng hàng hoá tiêu dùng và dịch vụ mà công nhân mua được bằng tiền công danh nghĩa của mình.

Tiền công danh nghĩa là giá cả sức lao động, nên nó có thể tăng lên hay giảm xuống tuỳ theo sự biến động của quan hệ cung - cầu về hàng hoá sức lao động trên thị trường. Nếu tiền công danh nghĩa không thay đổi, nhưng giá cả tư liệu tiêu dùng và dịch vụ tăng lên hoặc giảm xuống, thì tiền công thực tế sẽ giảm xuống hay tăng lên.

Tiền công là giá cả của sức lao động, nên sự vận động của nó gắn liền với sự biến đổi của giá trị sức lao động. Lượng giá trị sức lao động chịu ảnh hưởng của các nhân tố tác động ngược chiều nhau.

Nhân tố tác động làm tăng giá trị sức lao động như sự nâng cao trình độ chuyên môn của người lao động, sự tăng cường độ lao động và sự tăng lên của nhu cầu cùng với sự phát triển của xã hội.

Nhân tố tác động làm giảm giá trị sức lao động, đó là sự tăng năng suất lao động làm cho giá cả tư liệu tiêu dùng rẻ đi. Sự tác động qua lại của các nhân tố đó dẫn tới quá trình phức tạp của sự biến đổi giá trị sức lao động, do đó dẫn tới sự biến đổi phức tạp của tiền công thực tế.

Xu hướng chung của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là nâng cao mức tiền công trung bình mà là hạ thấp mức tiền công ấy. Trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, tiền công danh nghĩa có xu hướng tăng lên, nhưng mức tăng của nó nhiều khi không theo kịp mức tăng giá cả tư liệu tiêu dùng và dịch vụ; đồng thời thất nghiệp là hiện tượng thường xuyên, khiến cho cung về lao động vượt quá cầu về lao động, điều đó cho phép nhà tư bản mua sức lao động dưới giá trị của nó, vì vậy tiền công thực tế của giai cấp công nhân có xu hướng hạ thấp.

Sự hạ thấp của tiền công thực tế chỉ diễn ra như một xu hướng, vì có những nhân tố chống lại sự hạ thấp tiền công. Một mặt, đó là cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân đòi tăng tiền công. Mặt khác, trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản ngày nay, do sự tác động của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ nên nhu cầu về sức lao động có chất lượng cao ngày càng tăng buộc các nhà tư sản phải cải tiến tổ chức lao động cũng như kích thích người lao động bằng lợi ích vật chất

II. QUÁ TRÌNH SẢN XUẤT RA GIÁ TRỊ THẶNG DƯ TRONG XÃ HỘI TƯ BẢN

1. Sự thống nhất giữa quá trình sản xuất ra giá trị sử dụng và quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư

Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là giá trị sử dụng mà là giá trị thặng dư. Nhưng để sản xuất giá trị thặng dư, trước hết, nhà tư bản phải sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó, vậy quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự thống nhất giữa quá trình sản xuất ra giá trị sử dụng và quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư.

C. Mác viết: "Với tư cách là sự thống nhất giữa quá trình lao động và quá trình tạo ra giá trị thì quá trình sản xuất là một quá trình sản xuất hàng hoá; với tư cách là sự thống nhất giữa quá trình lao động và quá trình làmtăng giá trị thì quá trình sản xuất là một quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa, là hình thái tư bản chủ nghĩa của nền sản xuất hàng hoá”

(C.Mác. Tư bản. Quyển I, tập I, sđd. Tr.294-295.)

Quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa có các đặc điểm là: người công nhân làm việc dưới sự kiểm soát của nhà tư bản và sản phẩm làm ra thuộc sở hữu của nhà tư bản.

Để hiểu rõ quá trình sản xuất giá trị thặng dư, chúng ta lấy việc sản xuất sợi của một nhà tư bản làm ví dụ.

Giả sử để sản xuất 10 kg sợi, cần 10 kg bông và giá 10 kg bông là 10 $.

Để biến số bông đó thành sợi, một công nhân phải lao động trong 6 giờ và hao mòn máy móc là 2 $; giá trị sức lao động trong một ngày là 3 $ và ngày lao động là 12 giờ; trong một giờ lao động, người công nhân tạo ra một lượng giá trị là 0,5 $; cuối cùng giả định trong quá trình sản xuất, sợi đã hao phí theo thời gian lao động xã hội cần thiết.

Với giả định như vậy, ta thấy người công nhân chỉ cần 6 giờ lao động đầu tiên đã hoàn thành công việc và giá trị của sợi được sản xuất ra là 15 $.

Nhưng nếu quá trình lao động chỉ kéo dài đến cái điểm đủ bù đắp lại giá trị sức lao động (6 giờ), tức là bằng thời gian lao động tất yếu, thì chưa sản xuất ra giá trị thặng dư, do đó tiền chưa biến thành tư bản.

Trong thực tế quá trình lao động không dừng lại ở điểm đó. Giá trị sức lao động mà nhà tư bản phải trả khi mua và giá trị mà sức lao động đó có thể tạo ra cho nhà tư bản trong quá trình sản xuất là hai đại lượng khác nhau.

Nhà tư bản đã trả tiền mua sức lao động để sử dụng trong một ngày (12 giờ) nên công nhân vẫn phải tiếp tục lao động trong 6 giờ nữa.

Chi phí sản xuất

Giá trị sản phẩm mới (20 kg sợi)

- Tiền mua bông (20 kg): 20$

- Tiền hao mòn máy móc: 4$

- Tiền mua SLĐ trong ngày: 3$

Tổng chi phí sản xuất: 27$

- Giá trị của bông chuyển vào sợi: 20$

- Giá trị của MM chuyển vào sợi: 4$

- Giá trị mới do lao động của công nhân tạo ra trong 12 giờ lao động: 6$

Tổng giá trị hàng hóa: 30$

Như vậy, toàn bộ chi phí sản xuất mà nhà tư bản bỏ ra là 27 $, còn giá trị của sản phẩm mới (20 kg sợi) do công nhân sản xuất ra trong 12 giờ lao động là 30$. Vậy 27 $ ứng trước đã chuyển hoá thành 30$, đã đem lại một giá trị thặng dư là 3$. Do đó tiền tệ ứng ra ban đầu đã chuyển hoá thành tư bản.

Nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư, có thể rút ra những kết luận sau đây:

Một là, phân tích giá trị sản phẩm được sản xuất ra (20 kg sợi) ta thấy có hai phần: Giá trị những tư liệu sản xuất nhờ lao động cụ thể của công nhân được bảo toàn và di chuyển vào sản phẩm mới gọi là giá trị cũ (trong ví dụ là 24 $). Giá trị do lao động trừu tượng của công nhân tạo ra trong quá trình sản xuất gọi là giá trị mới (trong ví dụ là 6 $). Phần giá trị mới này lớn hơn giá trị sức lao động, nó bằng giá trị sức lao động cộng với giá trị thặng dư.

Vậy giá trị thặng dư là một bộ phận của giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không.

(ký hiệu là m). Quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư chỉ là quá trình tạo ra giá trị kéo dài quá cái điểm mà ở đó giá trị sức lao động do nhà tư bản trả được hoàn lại bằng một vật ngang giá mới.

Hai là, ngày lao động của công nhân bao giờ cũng được chia thành hai phần:

Thời gian lao động cần thiết: là thời gian người công nhân tạo ra một lượng giá trị ngang với giá trị sức lao động của mình.

Thời gian lao động thặng dư: là phần còn lại của ngày lao động và lao động trong khoảng thời gian đó gọi là lao động thặng dư.

Ba là, nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư, chúng ta thấy mâu thuẫn của công thức chung của tư bản đã được giải quyết: việc chuyển hoá của tiền thành tư bản diễn ra trong lưu thông, mà đồng thời không diễn ra trong lĩnh vực đó. Trong lưu thông nhà tư bản mua được hàng hoá sức lao động và sử dụng hàng hoá đặc biệt đó trong sản xuất, tức là ngoài lĩnh vực lưu thông để sản xuất ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Nhờ đó, tiền mới chuyển thành tư bản.

Việc nghiên cứu giá trị thặng dư đã vạch rõ bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản. Trong điều kiện hiện nay, do sự phát triển của công ty cổ phần, một bộ phận nhỏ công nhân cũng có cổ phiếu và trở thành cổ đông, đã xuất hiện quan niệm cho rằng không còn bóc lột giá trị thặng dư, chủ nghĩa tư bản ngày nay đã thay đổi bản chất. Một số học giả tư sản đưa ra thuyết "Chủ nghĩa tư bản nhân dân”. Song, trên thực tế, công nhân chỉ có một số cổ phiếu không đáng kể, họ chỉ là người sở hữu danh nghĩa không có vai trò chi phối doanh nghiệp, phần lớn lợi tức cổ phần vẫn nằm trong tay các nhà tư bản, thu nhập của công nhân chủ yếu vẫn là tiền lương.

2. Bản chất của tư bản. Sự phân chia tư bản thành tư bản bất biến và tư bản khả biến

a. Bản chất của tư bản

Các nhà kinh tế học tư sản cho rằng, mọi công cụ lao động, tư liệu sản xuất đều là tư bản. Thực ra, bản thân tư liệu sản xuất không phải là tư bản, nó chỉ là yếu tố cơ bản của sản xuất trong bất cứ xã hội nào. Tư liệu sản xuất chỉ trở thành tư bản khi nó trở thành tài sản của các nhà tư bản và được dùng để bóc lột lao động làm thuê.

Theo C.Mác, tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột công nhân làm thuê. Như vậy bản chất của tư bản là thể hiện quan hệ sản xuất xã hội mà trong đó giai cấp tư sản chiếm đoạt giá trị thặng dư do giai cấp công nhân sáng tạo ra.

b. Tư bản bất biến và tư bản khả biến

Để tiến hành sản xuất, nhà tư bản phải ứng tư bản ra để mua tư liệu sản xuất và sức lao động. Các bộ phận khác nhau đó của tư bản có vai trò khác nhau trong quá trình sản xuất giá trị thặng dư.

Bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thức tư liệu sản xuất:

Tư liệu sản xuất có nhiều loại, có loại được sử dụng toàn bộ trong quá trình sản xuất (máy móc, thiết bị, nhà xưởng…), nhưng chỉ hao mòn dần, tức là chuyển dần từng phần giá trị của nó vào sản phẩm; có loại khi đưa vào sản xuất thì chuyển toàn bộ giá trị của nó trong một chu kỳ sản xuất (nguyên liệu, nhiên liệu…). Song, giá trị của bất kỳ tư liệu sản xuất nào cũng đều do lao động cụ thể của công nhân mà được bảo toàn và di chuyển vào sản phẩm, nên giá trị đó không thể lớn hơn giá trị tư liệu sản xuất đã tiêu dùng để sản xuất ra sản phẩm. Giá trị tư liệu sản xuất được bảo toàn dưới dạng giá trị sử dụng mới chứ không phải là được sản xuất ra.

Bộ phận tư bản biến thành tư liệu sản xuất mà giá trị được bảo toàn vàchuyển vào sản phẩm, tức là không thay đổi đại lượng giá trị của nó, đượcC.Mác gọi là tư bản bất biến, và ký hiệu là C.

Bộ phận tư bản dùng để mua sức lao động

Đối với bộ phận tư bản dùng để mua sức lao động thì một mặt, giá trị của nó biến thành các tư liệu sinh hoạt của người công nhân và mặt khác, trong quá trình lao động, bằng lao động trừu tượng, công nhân tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân sức lao động. Như vậy, bộ phận tư bản dùng để mua sức lao động đã không ngừng chuyển hoá từ đại lượng bất biến

thành một đại lượng khả biến, tức là đã tăng lên về lượng trong quá trình sản xuất.

Bộ phận tư bản biến thành sức lao động không tái hiện ra, nhưng thông qua lao động trừu tượng của công nhân làm thuê mà tăng lên, tức là biến đổi về đại lượng, được C.Mác gọi là tư bản khả biến, và ký hiệu là v.

Như vậy, tư bản bất biến là điều kiện cần thiết không thể thiếu được để sản xuất ra giá trị thặng dư, còn tư bản khả biến có vai trò quyết định trong quá trình đó, vì nó chính là bộ phận tư bản đã lớn lên.

Việc phát hiện ra tính hai mặt của lao động thể hiện trong hàng hoá đã giúp C.Mác xác định sự khác nhau giữa tư bản bất biến và tư bản khả biến.

C.Mác là người đầu tiên chia tư bản thành tư bản bất biến và tư bản khả biến. Sự phân chia đó dựa vào vai trò khác nhau của các bộ phận của tư bản trong quá trình sản xuất giá trị thặng dư, do đó nó vạch rõ bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản, chỉ có lao động của công nhân làm thuê mới tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản.

3. Tỷ suất giá trị thặng dư và khối lượng giá trị thặng dư

a. Tỷ suất giá trị thặng dư

Sau khi vạch rõ bản chất của giá trị thặng dư, C.Mác nghiên cứu mặt lượng của giá trị thặng dư, tức là nghiên cứu tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư.

Tỷ suất giá trị thặng dư là tỷ số tính theo phần trăm giữa giá trị thặng dư và tư bản khả biến cần thiết để sản xuất ra giá trị thặng dư đó.

Nếu ký hiệu m' là tỷ suất giá trị thặng dư, thì m' được xác định bằng công thức:

m

m' = --- x 100%

v

Theo ví dụ về sản xuất giá trị thặng dư ở trên, tỷ suất giá trị thặng dư là:

3$

m' = x 100 % = 100 %

3$

Tỷ suất giá trị thặng dư chỉ rõ trong tổng số giá trị mới do sức lao động tạo ra, thì công nhân được hưởng bao nhiêu, nhà tư bản chiếm đoạt bao nhiêu. Tỷ suất giá trị thặng dư còn chỉ rõ, trong một ngày lao động, phần thời gian lao động thặng dư chiếm bao nhiêu phần trăm so với thời gian lao động tất. Do đó, có thể biểu thị tỷ suất giá trị thặng dư theo một công thức khác:

t' (thời gian lao động thặng dư)

m' =

x 100%

t (thời gian lao động tất yếu)

b. Khối lượng giá trị thặng dư

Khối lượng giá trị thặng dư là tích số giữa tỷ suất giá trị thặng dư và tổng tư bản khả biến đã được sử dụng.

Nếu ký hiệu M là khối lượng giá trị thặng dư, thì M được xác định bằng công thức: M = m' x V trong đó V là tổng số tư bản khả biến mà nhà tư bản sử dụng. Khối lượng giá trị thặng dư phản ánh quy mô bóc lột của nhà tư bản đối với công nhân làm thuê.

Chủ nghĩa tư bản càng phát triển thì khối lượng giá trị thặng dư càng tăng, vì trình độ bóc lột sức lao động càng tăng.

4. Hai phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư và giá trị thặng dư siêu ngạch

a. Sản xuất ra giá trị thặng dư tuyệt đối

Để sản xuất giá trị thặng dư thì ngày lao động của công nhân thì phải kéo dài vượt quá thời gian lao động tất yếu, còn để tăng giá trị thặng dư thì phải tìm cách để kéo dài thêm thời gian lao động thặng dư.

Trong giai đoạn phát triển đầu tiên của sản xuất tư bản chủ nghĩa, khi kỹ thuật còn thấp, tiến bộ chậm chạp thì phương pháp chủ yếu để tăng giá trị thặng dư là kéo dài ngày lao động của công nhân.

Giá trị thặng dư được sản xuất ra bằng cách kéo dài ngày lao động trong điều kiện thời gian lao động tất yếu không thay đổi, nhờ đó kéo dài thời gian lao động thặng dư gọi là giá trị thặng dư tuyệt đối.

Giả sử ngày lao động là 8 giờ, trong đó 4 giờ là thời gian lao động tất yếu và 4 giờ là thời gian lao động thặng dư.

m' = 4 / 4 x 100% = 100%

Giả sử nhà tư bản kéo dài ngày lao động thêm 2 giờ, trong khi thời gian tất yếu không thay đổi, vẫn là 4 giờ.

Do đó tỷ suất giá trị thặng dư là:

m'= 6 / 4 x 100% = 150%

Như vậy, khi kéo dài tuyệt đối ngày lao động trong điều kiện thời gian lao động tất yếu không thay đổi, thì thời gian lao động thặng dư tăng lên, nên tỷ suất giá trị thặng dư tăng lên. Trước đây tỷ suất giá trị thặng dư là 100%, thì bây giờ là 150%.

Các nhà tư bản tìm mọi cách kéo dài ngày lao động, nhưng ngày lao động có những giới hạn nhất định. Giới hạn trên của ngày lao động do thể chất và tinh thần của người lao động quyết định vì người công nhân phải có thời gian ăn, ngủ, nghỉ ngơi, giải trí để phục hồi sức khoẻ. Việc kéo dài ngày lao động còn vấp phải sự phản kháng của giai cấp công nhân. Giới hạn dưới của ngày lao động không thể bằng thời gian lao động tất yếu, tức là thời gian lao động thặng dư bằng không. Như vậy, về mặt kinh tế, ngày lao động phải dài hơn thời gian lao động tất yếu, nhưng không thể vượt quá giới hạn về thể chất và tinh thần của người lao động.

Trong phạm vi giới hạn nói trên, độ dài của ngày lao động là một đại lượng không cố định và có nhiều mức khác nhau. Độ dài cụ thể của ngày lao động do cuộc đấu tranh giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản trên cơ sở tương quan lực lượng quyết định.

b. Sản xuất ra giá trị thặng dư tương đối

Việc kéo dài ngày lao động bị giới hạn về thể chất và tinh thần của người lao động và vấp phải cuộc đấu tranh ngày càng mạnh mẽ của giai cấp công nhân. Mặt khác, khi sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển đến giai đoạn đại công nghiệp cơ khí, kỹ thuật đã tiến bộ làm cho năng suất lao động tăng lên nhanh chóng, thì các nhà tư bản chuyển sang phương thức bóc lột dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động, bóc lột giá trị thặng dư tương đối. Giá trị thặng dư được tạo ra bằng cách rút ngắn thời gian lao động tất yếu trong điều kiện độ dài của ngày lao động không đổi, nhờ đó kéo dài tương ứng thời gian lao động thặng dư, được gọi là giá trị thặng dư tương đối.

Giả sử ngày lao động là 8 giờ và nó được chia thành 4 giờ là thời gian lao động tất yếu và 4 giờ là thời gian lao động thặng dư.

Do đó tỷ suất giá trị thặng dư là:

m' = 4 / 4 x 100% = 100%

Giả định rằng ngày lao động không thay đổi, nhưng bây giờ công nhân chỉ cần 2 giờ lao động đã tạo ra được một lượng giá trị mới bằng với giá trị sức lao động của mình. Do đó tỷ lệ phân chia ngày lao động sẽ thay đổi: 2 giờ là thời gian lao động tất yếu và 6 giờ là thời gian lao động thặng dư.

Do đó bây giờ tỷ suất giá trị thặng dư sẽ là:

m' = 6 / 2 x 100% = 300%

Muốn rút ngắn thời gian lao động tất yếu phải giảm giá trị sức lao động. Muốn hạ thấp giá trị sức lao động phải giảm giá trị những tư liệu sinh hoạt thuộc phạm vi tiêu dùng của công nhân. Điều đó chỉ có thể thực hiện được bằng cách tăng năng suất lao động trong các ngành sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt thuộc phạm vi tiêu dùng của công nhân hay tăng năng suất lao động trong các ngành sản xuất ra tư liệu sản xuất để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt đó.

Nếu trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là phương pháp chủ yếu, thì đến giai đoạn tiếp sau, khi kỹ thuật phát triển, sản xuất giá trị thặng dư tương đối là phương pháp chủ yếu.

Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư nói trên được các nhà tư bản sử dụng kết hợp với nhau để nâng cao trình độ bóc lột công nhân làm thuê trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản. Dưới chủ nghĩa tư bản, việc áp dụng máy móc không phải là để giảm nhẹ cường độ lao động của công nhân, mà trái lại tạo điều kiện để tăng cường độ lao động.

c. Giá trị thặng dư siêu ngạch

Cạnh tranh giữa các nhà tư bản buộc họ phải áp dụng phương pháp sản xuất tốt nhất để tăng năng suất lao động trong xí nghiệp của mình nhằm giảm giá trị cá biệt của hàng hoá xuống thấp hơn giá trị xã hội của hàng hoá, nhờ đó thu được giá trị thặng dư siêu ngạch.

Giá trị thặng dư siêu ngạch là phần giá trị thặng dư thu được do áp dụng công nghệ mới làm cho giá trị cá biệt của hàng hóa thấp hơn giá trị thị trường của nó.

Xét từng trường hợp, thì giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng tạm thời, xuất hiện và mất đi. Nhưng xét toàn bộ xã hội tư bản thì giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng tồn tại thường xuyên. Theo đuổi giá trị thặng dư siêu ngạch là khát vọng của nhà tư bản và là động lực mạnh mẽ nhất thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng suất lao động, làm cho năng suất lao động xã hội tăng lên nhanh chóng. C. Mác gọi giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư tương đối, vì giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối đều dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động (mặc dù một bên là dựa vào tăng năng suất lao động cá biệt, còn một bên dựa vào tăng năng suất lao động xã hội).

Từ đó, ta thấy rằng giá trị thặng dư siêu ngạch là động lực trực tiếp, mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới vào sản xuất, hoàn thiện tổ chức lao động và tổ chức sản xuất để tăng năng suất lao động, giảm giá trị của hàng hoá.

5. Sản xuất ra giá trị thặng dư - quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản

Mỗi phương thức sản xuất có một quy luật kinh tế tuyệt đối, quy luật phản ánh mối quan hệ kinh tế bản chất nhất của phương thức sản xuất đó. Theo C.Mác, chế tạo ra giá trị thặng dư, đó là quy luật tuyệt đối của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.

Trong chủ nghĩa tư bản, mục đích của sản xuất không phải là giá trị sử dụng mà là sản xuất ra giá trị thặng dư, là nhân giá trị lên. Theo đuổi giá trị thặng dư tối đa là mục đích và động cơ thúc đẩy sự hoạt động của mỗi nhà tư bản, cũng như của toàn bộ xã hội tư bản. Nhà tư bản cố gắng sản xuất ra hàng hoá với chất lượng tốt đi chăng nữa, thì đó cũng chỉ vì nhà tư bản muốn thu được nhiều giá trị thặng dư.

Sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa không chỉ phản ánh mục đích của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, mà còn vạch rõ phương tiện, thủ đoạn để đạt được mục đích đó: tăng cường bóc lột công nhân làm thuê bằng cách tăng cường độ lao động và kéo dài ngày lao động, tăng năng suất lao động và mở rộng sản xuất.

Như vậy, sản xuất ra giá trị thặng dư là quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản, là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản. Nội dung của nó là sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa bằng cách tăng cường bóc lột công nhân làm thuê.

Quy luật giá trị thặng dư ra đời và tồn tại cùng với sự ra đời và tồn tại của chủ nghĩa tư bản. Nó quyết định các mặt chủ yếu, các quá trình kinh tế chủ yếu của chủ nghĩa tư bản. Nó là động lực vận động, phát triển của chủ nghĩa tư bản, đồng thời nó cũng làm cho mọi mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản, đặc biệt là mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản ngày càng sâu sắc, đưa đến sự thay thế tất yếu chủ nghĩa tư bản bằng một xã hội cao hơn.

Chủ nghĩa tư bản ngày nay tuy có những điều chỉnh nhất định về hình thức sở hữu, quản lý và phân phối để thích nghi ở mức độ nào đó với điều kiện mới, nhưng sự thống trị của chủ nghĩa tư bản vẫn tồn tại nguyên vẹn, bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản vẫn không thay đổi. Nhà nước tư sản hiện nay tuy có tăng cường can thiệp vào đời sống kinh tế và xã hội, nhưng về cơ bản nó vẫn là bộ máy thống trị của giai cấp tư sản.

Tuy nhiên, do trình độ đã đạt được của văn minh nhân loại và do cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân mà một bộ phận không nhỏ công nhân ở các nước tư bản phát triển có mức sống tương đối sung túc, nhưng về cơ bản, họ vẫn phải bán sức lao động và vẫn bị nhà tư bản bóc lột giá trị thặng dư. Trong điều kiện hiện nay, sản xuất giá trị thặng dư có những đặc điểm mới:

Một là, do kỹ thuật và công nghệ hiện đại được áp dụng rộng rãi nên khối lượng giá trị thặng dư được tạo ra chủ yếu nhờ tăng năng suất lao động. Việc tăng năng suất lao động do áp dụng kỹ thuật và công nghệ hiện đại làm cho chi phí lao động sống trong một đơn vị sản phẩm giảm nhanh.

Hai là, cơ cấu lao động xã hội ở các nước tư bản phát triển hiện nay có sự biến đổi lớn. Do áp dụng rộng rãi kỹ thuật và công nghệ hiện đại nên lao động phức tạp, lao động trí tuệ ngày càng tăng lên và ngày càng có vai trò quyết định trong việc sản xuất ra giá trị thặng dư.

Ba là, sự bóc lột của các nước tư bản chủ nghĩa phát triển trên phạm vi quốc tế ngày càng được mở rộng dưới nhiều hình thức: xuất khẩu tư bản và hàng hoá, trao đổi không ngang giá... lợi nhuận siêu ngạch mà các nước tư bản chủ nghĩa phát triển bòn rút từ các nước kém phát triển trong mấy chục năm qua đã tăng lên gấp nhiều lần. Sự cách biệt giữa những nước giàu và những nước nghèo ngày càng tăng và đang trở thành mâu thuẫn nổi bật trong thời đại ngày nay. Các nước tư bản chủ nghĩa phát triển đã bòn rút chất xám, hủy hoại môi sinh, cũng như cội rễ đời sống văn hoá của các nước lạc hậu, chậm phát triển.

III. SỰ CHUYỂN HÓA CỦA GIÁ TRỊ THẶNG DƯ THÀNH TƯ BẢN – TÍCH LŨY TƯ BẢN 1. Thực chất và động cơ của tích lũy tư bản Tái sản xuất là quá trình sản xuất được lặp lại và tiếp diễn một cách liên tục, không ngừng. Tái sản xuất được chia thành hai loại: Tái sản xuất giản đơn là quá trình sản xuất được lặp lại với quy mô như cũ. Tái sản xuất giản đơn là đặc trưng của nền sản xuất nhỏ. Tái sản xuất mở rộng là quá trình sản xuất được lặp lại với quy mô lớn hơn trước. Hình thái điển hình của tái sản xuất trong chủ nghĩa tư bản không phải là tái sản xuất giản đơn mà là tái sản xuất mở rộng. Tái sản xuất mở rộng tư bản chủ nghĩa là sự lặp lại quá trình sản xuất với quy mô lớn hơn trước, với một tư bản lớn hơn trước. Muốn vậy, phải biến một bộ phận giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm. Việc sử dụng giá trị thặng dư làm tư bản hay sự chuyển hoá giá trị thặng dư trở lại thành tư bản gọi là tích luỹ tư bản. Như vậy, thực chất của tích luỹ tư bản là tư bản hoá giá trị thặng dư. Sở dĩ giá trị thặng dư có thể chuyển hoá thành tư bản được là vì giá trị thặng dư đã mang sẵn những yếu tố vật chất của tư bản mới. Có thể minh họa tích luỹ và tái sản xuất mở rộng tư bản chủ nghĩa bằng ví dụ: năm thứ nhất quy mô sản xuất là 80c + 20v, m ’ = 100% thì tổng giá trị sản xuất sẽ là 80c + 20v + 20m. Giả định 20m không bị nhà tư bản tiêu dùng hết cho cá nhân, mà được phân thành: 10m dùng để tích luỹ và 10 m dành cho tiêu dùng cá nhân của nhà tư bản. Phần 10 m dùng để tích luỹ được phân thành 8c + 2v, khi đó quy mô sản xuất của năm sau sẽ là 88c + 22v. Nếu m ’ vẫn là 100% thì tổng giá trị sản xuất ra trong năm sau sẽ là: 88c + 22v + 22m. Như vậy, vào năm thứ hai, quy mô tư bản bất biến, tư bản khả biến giá trị thặng dư đều tăng lên. Nghiên cứu tích luỹ tư bản chủ nghĩa cho phép rút ra kết luận: Một là, nguồn gốc duy nhất của tư bản tích luỹ là giá trị thặng dư và tư bản tích luỹ chiếm tỷ lệ ngày càng lớn trong toàn bộ tư bản. Theo C.Mác, tư bản ứng trước sau quá trình tích lũy tư bản chỉ là một giọt nước trong dòng sông của tích luỹ mà thôi. Hai là, quá trình tích luỹ đã làm cho quyền sở hữu trong nền kinh tế hàng hoá biến thành quyền chiếm đoạt tư bản chủ nghĩa. Trong sản xuất hàng hoá giản đơn, sự trao đổi giữa những người sản xuất hàng hoá theo nguyên tắc ngang giá về cơ bản không dẫn tới người này chiếm đoạt lao động của người kia. Trái lại, nền sản xuất tư bản chủ nghĩa dẫn đến kết quả là nhà tư bản chẳng những chiếm đoạt một phần lao động của công nhân, mà còn là người sở hữu hợp pháp lao động không công đó. Nhưng điều đó không vi phạm quy luật giá trị. Động cơ thúc đẩy tích luỹ và tái sản xuất mở rộng là quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản - quy luật giá trị thặng dư, quy luật này chỉ rõ mục đích sản xuất của nhà tư bản là giá trị và sự tăng thêm giá trị. Để thực hiện mục đích đó, các nhà tư bản không ngừng tích luỹ để mở rộng sản xuất, xem đó là phương tiện căn bản để tăng cường bóc lột công nhân làm thuê. Mặt khác, cạnh tranh buộc các nhà tư bản phải không ngừng làm cho tư bản của mình tăng lên bằng cách tăng nhanh tư bản tích luỹ. Các nhân tố ảnh hưởng tới quy mô tích lũy tư bản Cùng với quá trình tái sản xuất tư bản chủ nghĩa, quy mô tích lũy tư bản cũng không ngừng tăng lên. Việc xem xét những nhân tố ảnh hưởng tới quy mô tích lũy tư bản được chia thành hai trường hợp: Một là, với một khối lượng giá trị thặng dư nhất định thì quy mô của tích luỹ tư bản phụ thuộc vào tỷ lệ phân chia khối lượng giá trị thặng dư đó thành quỹ tích luỹ và quỹ tiêu dùng của nhà tư bản. Hai là, nếu tỷ lệ phân chia đó đã được xác định, thì quy mô của tích luỹ tư bản phụ thuộc vào khối lượng giá trị thặng dư. Do đó những nhân tố ảnh hưởng tới khối lượng giá trị thặng dư chính là nhân tố quyết định quy mô của tích luỹ tư bản. Những nhân tố đó là: Trình độ bóc lột sức lao động (m ’ ) Từ công thức M = m ’ x V do đó khi tỷ suất giá trị thặng dư tăng thì khối lượng giá trị thặng dư cũng tăng và làm tăng quy mô tích lũy tư bản. các biện pháp tăng tỷ suất giá trị thặng dư thường dựa vào việc tăng cường độ lao động, kéo dài ngày lao động, tăng năng suất lao động. Khi nghiên cứu sự sản xuất giá trị thặng dư, C.Mác giả định rằng tiền công của công nhân ngang bằng với giá trị sức lao động. Nhưng trong thực tế, công nhân còn bị chiếm đoạt một phần lao động tất yếu, tức cắt xén tiền công, để tăng tích luỹ tư bản. Trình độ năng suất lao động xã hội Nếu năng suất lao động xã hội tăng lên, thì giá cả tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng giảm xuống. Sự giảm này đem lại hai hệ quả cho tích luỹ tư bản: một là, với khối lượng giá trị thặng dư nhất định, phần dành cho tích luỹ có thể tăng lên, nhưng tiêu dùng của các nhà tư bản không giảm, thậm chí có thể cao hơn trước; hai là, một lượng giá trị thặng dư nhất định dành cho tích luỹ có thể chuyển hoá thành một khối lượng tư liệu sản xuất và sức lao động phụ thêm lớn hơn trước. Do đó, quy mô của tích luỹ không chỉ phụ thuộc vào khối lượng giá trị thặng dư được tích luỹ, mà còn phụ thuộc vào khối lượng hiện vật do khối lượng giá trị thặng dư đó có thể chuyển hoá thành. Sự chênh lệch giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng Trong quá trình sản xuất, tư liệu lao động (máy móc, thiết bị) tham gia toàn bộ vào quá trình sản xuất, nhưng chúng chỉ hao mòn dần, do đó giá trị của chúng được chuyển dần từng phần vào sản phẩm. Vì vậy có sự chênh lệch giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng. Mặc dù đã mất dần giá trị như vậy, nhưng trong suốt thời gian hoạt động, máy móc vẫn có tác dụng như khi còn đủ giá trị. Do đó, nếu không kể đến phần giá trị của máy móc chuyển vào sản phẩm trong từng thời gian, thì máy móc phục vụ không công chẳng khác gì lực lượng tự nhiên. Máy móc, thiết bị càng hiện đại, thì sự chênh lệch giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng càng lớn, do đó sự phục vụ không công của máy móc càng lớn, tư bản lợi dụng được những thành tựu của lao động quá khứ càng nhiều. Sự phục vụ không công đó của lao động quá khứ là nhờ lao động sống nắm lấy và làm cho chúng hoạt động. Chúng được tích luỹ lại cùng với quy mô ngày càng tăng của tích luỹ tư bản. Quy mô của tư bản ứng trước Cũng từ công thức M = m ’ x V ta thấy với m ’ không thay đổi, thì khối lượng giá trị thặng dư do khối lượng tư bản khả biến (V) quyết định. Do đó quy mô của tư bản ứng trước, nhất là bộ phận tư bản khả biến càng lớn, thì khối lượng giá trị thặng dư bóc lột được càng lớn, do đó tạo điều kiện tăng thêm quy mô của tích luỹ tư bản. 2. Tích tụ và tập trung tư bản Trong quá trình tái sản xuất tư bản chủ nghĩa, quy mô của tư bản cá biệt tăng lên thông qua quá trình tích tụ và tập trung tư bản. Tích tụ tư bản là sự tăng thêm quy mô của tư bản cá biệt bằng cách tư bản hoá giá trị thặng dư trong một xí nghiệp nào đó, nó là kết quả trực tiếp của tích luỹ tư bản. Tích luỹ tư bản xét về mặt làm tăng thêm quy mô của tư bản cá biệt là tích tụ tư bản. Tích tụ tư bản, một mặt, là yêu cầu của tái sản xuất mở rộng và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật; mặt khác, sự tăng lên của khối lượng giá trị thặng dư trong quá trình phát triển của sản xuất tư bản chủ nghĩa tạo khả năng hiện thực cho tích tụ tư bản. Tập trung tư bản là sự tăng thêm quy mô của tư bản cá biệt bằng cách hợp nhất những tư bản cá biệt có sẵn trong xã hội thành một tư bản cá biệt khác lớn hơn. Cạnh tranh và tín dụng là những đòn bẩy mạnh mẽ nhất thúc đẩy tập trung tư bản. Cạnh tranh buộc các tư bản, nhất là tư bản có quy mô nhỏ phải liên kết hay sát nhập với nhau để đứng vững được trên thị trường. Tín dụng tư bản chủ nghĩa là phương tiện để tập trung các khoản tiền nhàn rỗi trong xã hội vào tay các nhà tư bản. Tích tụ và tập trung tư bản có điểm giống nhau là chúng đều làm tăng quy mô của tư bản cá biệt. Nhưng giữa chúng lại có những điểm khác nhau: Một là, nguồn của tích tụ tư bản là giá trị thặng dư, do đó tích tụ tư bản làm tăng quy mô của tư bản cá biệt, đồng thời làm tăng quy mô của tư bản xã hội. Còn nguồn để tập trung tư bản là những tư bản cá biệt có sẵn trong xã hội, do đó tập trung tư bản chỉ làm tăng quy mô của tư bản cá biệt mà không làm tăng quy mô của tư bản xã hội. Hai là, tích tụ tư bản phản ánh trực tiếp mối quan hệ giữa tư bản và lao động: nhà tư bản tăng cường bóc lột lao động làm thuê để tăng quy mô của tích tụ tư bản. Còn tập trung tư bản phản ánh trực tiếp quan hệ cạnh tranh trong nội bộ giai cấp các nhà tư bản; đồng thời nó cũng tác động đến mối quan hệ giữa tư bản và lao động. Tích tụ và tập trung tư bản quan hệ mật thiết với nhau. Tích tụ tư bản làm tăng thêm quy mô và sức mạnh của tư bản cá biệt, do đó cạnh tranh sẽ gay gắt hơn, dẫn đến tập trung nhanh hơn. Ngược lại, tập trung tư bản tạo điều kiện thuận lợi để tăng cường bóc lột giá trị thặng dư, nên đẩy nhanh tích tụ tư bản. ảnh hưởng qua lại nói trên của tích tụ và tập trung tư bản làm cho tích luỹ tư bản ngày càng mạnh. Tập trung tư bản có vai trò rất lớn đối với sự phát triển của sản xuất tư bản chủ nghĩa. Nhờ tập trung tư bản mà xây dựng được những xí nghiệp lớn, sử dụng được kỹ thuật và công nghệ hiện đại, do đó nền sản xuất tư bản chủ nghĩa trở thành nền sản xuất xã hội hoá cao độ, làm cho mâu thuẫn kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản càng sâu sắc thêm. 3. Cấu tạo hữu cơ của tư bản Trong quá trình tích lũy tư bản, tư bản chẳng những tăng lên về mặt quy mô, mà còn không ngừng biến đổi trong cấu tạo của nó. C.Mác phân biệt cấu tạo kỹ thuật, cấu tạo giá trị và cấu tạo hữu cơ của tư bản. Cấu tạo kỹ thuật của tư bản là tỷ lệ giữa số lượng tư liệu sản xuất và số lượng sức lao động sử dụng những tư liệu sản xuất đó trong quá trình sản xuất. Về mặt hình thái hiện vật, mỗi tư bản đều bao gồm tư liệu sản xuất và sức lao động để sử dụng những tư liệu sản xuất đó. Quan hệ này có tính tất yếu về mặt kỹ thuật, do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quyết định. Do mỗi ngành sản xuất sử dụng tư liệu sản xuất khác nhau do vậy chỉ tiêu biểu hiện cấu tạo kỹ thuật của mỗi ngành cũng khác nhau. Các chỉ tiêu thường dùng để biểu thị cấu tạo kỹ thuật của tư bản là: số năng lượng do một công nhân sử dụng (100 kw điện/1 công nhân), số lượng máy móc trong sản xuất (02 máy dệt/1 công nhân). Cấu tạo kỹ thuật của tư bản ngày càng tăng lên cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản và tiến bộ kỹ thuật. Điều đó biểu thị ở số lượng tư liệu sản xuất mà một công nhân sử dụng ngày càng tăng lên. Cấu tạo giá trị của tư bản là tỷ lệ giữa số lượng giá trị của tư bản bất biến và số lượng giá trị của tư bản khả biến cần thiết để tiến hành sản xuất. Ví dụ, một tư bản có tổng số tư bản là 12.000$, trong đó giá trị tư liệu sản xuất là 10.000$, còn giá trị sức lao động là 2.000$, thì cấu tạo giá trị của tư bản đó là 10.000$: 2000$ = 5/1. Cấu tạo kỹ thuật và cấu tạo giá trị của tư bản có quan hệ chặt chẽ với nhau. Nói chung, những sự thay đổi trong cấu tạo kỹ thuật của tư bản sẽ dẫn đến những sự thay đổi trong cấu tạo giá trị của tư bản. Để biểu hiện mối quan hệ đó, C.Mác dùng phạm trù cấu tạo hữu cơ của tư bản. Cấu tạo hữu cơ của tư bản là cấu tạo giá trị của tư bản do cấu tạo kỹ thuật của tư bản quyết định và phản ánh những sự biến đổi của cấu tạo kỹ thuật đó. Trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, cấu tạo kỹ thuật của tư bản ngày càng tăng do đó cấu tạo giá trị của tư bản phản ánh cấu tạo kỹ thuật của tư bản cũng tăng lên tất yếu làm cho cấu tạo hữu cơ của tư bản cũng ngày càng tăng lên. Sự tăng lên của cấu tạo hữu cơ của tư bản biểu hiện ở chỗ tư bản bất biến tăng tuyệt đối và tương đối, còn tư bản khả biến có thể tăng tuyệt đối, nhưng cũng có thể giảm xuống một cách tương đối. Như vậy, quá trình tích luỹ tư bản là quá trình tăng cấu tạo hữu cơ của tư bản. Cấu tạo hữu cơ của tư bản tăng lên có ảnh hưởng trực tiếp đến nạn thất nghiệp trong chủ nghĩa tư bản.

IV. QUÁ TRÌNH LƯU THÔNG CỦA TƯ BẢN VÀ KHỦNG HOẢNG KINH TẾ 1. Tuần hoàn và chu chuyển của tư bản. a. Tuần hoàn của tư bản Tư bản công nghiệp (với nghĩa các ngành sản xuất vật chất), trong quá trình tuần hoàn đều vận động theo công thức: T - H ... SX ... H' - T' Sự vận động này trải qua ba giai đoạn: hai giai đoạn lưu thông và một giai đoạn sản xuất. Giai đoạn thứ nhất - giai đoạn lưu thông: T - H Trong giai đoạn này, tư bản tồn tại dưới hình thái tư bản tiền tệ thực hiện chức năng là phương tiện mua tư liệu sản xuất và sức lao động. Sau giai đoạn này, tư bản tiền tệ biến thành tư bản sản xuất. Giai đoạn thứ hai - giai đoạn sản xuất : ...SX... Trong giai đoạn này tư bản tồn tại dưới hình thái tư bản sản xuất (TBSX), có chức năng thực hiện sự kết hợp hai yếu tố tư liệu sản xuất và sức lao động để sản xuất ra hàng hoá mà trong giá trị của nó có giá trị thặng dư. Trong các giai đoạn tuần hoàn của tư bản thì giai đoạn sản xuất có ý nghĩa quyết định nhất, vì nó gắn trực tiếp với mục đích của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Kết thúc sự vận động của tư bản trong giai đoạn hai, tư bản sản xuất sẽ chuyển hóa thành tư bản hàng hóa (H ’ ). Giai đoạn thứ ba - giai đoạn lưu thông: H' - T' Trong giai đoạn này, tư bản tồn tại dưới hình thái tư bản hàng hóa, chức năng của tư bản ở giai đoạn này là thực hiện giá trị hàng hoá trong đó có giá trị thặng dư. Kết thúc giai đoạn ba, tư bản hàng hóa sẽ chuyển hoá trở lại hình thái ban đầu là tư bản tiền tệ. Vậy, tuần hoàn tư bản là sự vận động của tư bản trải qua ba giai đoạn, lần lượt mạng ba hình thái, thực hiện ba chức năng rồi quay trở về hình thái ban đầu với giá trị không chỉ được bảo tồn mà còn tăng lên. Thực tiễn sản xuất và lưu thông cho thấy không phải lúc nào các giai đoạn và các hình thái tư bản trong quá trình tuần hoàn đều ăn khớp với nhau mà không có sự ách tắc và gián đoạn. Tuần hoàn của tư bản chỉ tiến hành một cách bình thường khi hai điều kiện sau đây được thoả mãn. Thứ nhất, toàn bộ số tư bản phải đồng thời tồn tại ở cả ba giai đoạn và dưới cả ba hình thái là tư bản tiền tệ, tư bản sản xuất và tư bản hàng hóa. Thứ hai, các hình thái tư bản được chuyển hoá một cách đều đặn tức là không ngừng vận động, kế tiếp nhau. b. Chu chuyển của tư bản Chu chuyển tư bản là sự tuần hoàn tư bản nếu xét nó là một quá trình định kỳ đổi mới, diễn ra liên tục và lặp đi lặp lại không ngừng. Chu chuyển tư bản phản ánh tốc độ vận động nhanh hay chậm của tư bản. Thời gian chu chuyển tư bản Thời gian chu chuyển tư bản là thời gian tính từ khi tư bản ứng ra dưới một hình thái nhất định cho đến khi thu về cũng dưới hình thái ban đầu, kèm theo giá trị thặng dư. Thời gian chu chuyển = Thời gian sản xuất + Thời gian lưu thông. Thời gian sản xuất là thời gian tư bản nằm trong lĩnh vực sản xuất. Thời gian này lại bao gồm thời gian lao động, thời gian gián đoạn lao động và thời gian dự trữ sản xuất. Thời gian sản xuất dài hay ngắn phụ thuộc vào đặc điểm của ngành sản xuất, quy mô sản phẩm, kỹ thuật công nghệ sản xuất... Thời gian lưu thông là thời gian tư bản nằm trong lĩnh vực lưu thông. Thời gian này bao gồm thời gian mua và thời gian bán, thời gian vận chuyển. Thời gian lưu thông dài hay ngắn phụ thuộc vào tình hình thị trường, khoảng cách thị trường, trình độ phát triển của giao thông vận tải. Tốc độ chu chuyển tư bản Tư bản hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau có tốc độ chu chuyển khác nhau. Tốc độ chu chuyển tư bản là khái niệm dùng để chỉ sự vận động nhanh hay chậm của tư bản ứng trước. Đơn vị tính tốc độ chu chuyển tư bản bằng số vòng hoặc số lần chu chuyển tư bản thực hiện được trong một khoảng thời gian nhất định, chẳng hạn trong một năm. Nếu gọi N là tốc độ chu chuyển tư bản, gọi ch là thời gian của một vòng chu chuyển tư bản, (tính theo đơn vị ngày hoặc tháng) và gọi CH là thời gian tư bản vận động trong một năm (360 ngày hoặc 12 tháng), ta có công thức tính tốc độ chu chuyển tư bản là: CH N = ─ ch Tốc độ chu chuyển tư bản vận động tỷ lệ nghịch với thời gian chu chuyển tư bản. Thời gian của một vòng chu chuyển tư bản càng ngắn thì tốc độ chu chuyển tư bản càng nhanh và ngược lại. c. Tư bản cố định và tư bản lưu động Tư bản sản xuất gồm nhiều bộ phận và trong quá trình sản xuấ có sự chu chuyển giá trị khác nhau vào sản phẩm. Người ta căn cứ vào sự khác nhau trong phương thức (đặc điểm) chu chuyển về mặt giá trị nhanh hay chậm của các bộ phận tư bản để phân chia tư bản sản xuất thành tư bản cố định và tư bản lưu động. Tư bản cố định là bộ phận tư bản biểu hiện dưới hình thái giá trị của những máy móc, thiết bị, nhà xưởng..., tham gia toàn bộ vào quá trình sản xuất, nhưng giá trị của nó không chuyển hết một lần, mà chuyển từng phần theo mức độ hao mòn của nó trong thời gian sản xuất. Đặc điểm của tư bản cố định là về hiện vật, nó luôn cố định trong quá trình sản xuất, chỉ có giá trị của nó là tham gia vào quá trình lưu thông cùng sản phẩm, hơn nữa nó chỉ lưu thông từng phần, còn một phần vẫn bị cố định trong tư liệu lao động, phần này không ngừng giảm xuống cho tới khi nó chuyển hết giá trị vào sản phẩm. Chính do đặc điểm này mà thời gian mà tư bản cố định chuyển hết giá trị của nó vào sản phẩm bao giờ cũng dài hơn thời gian một vòng tuần hoàn. Tư bản cố định, trong quá trình hoạt động tất yếu bị hao mòn. Có hai loại hao mòn là hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình: Hao mòn hữu hình là hao mòn về vật chất do quá trình sử dụng hoặc do bị phá huỷ của tự nhiên làm cho tư bản cố định giảm về giá trị và giá trị sử dụng tới chỗ hỏng và phải thay thế.. Hao mòn vô hình là hao mòn thuần túy về giá trị do ảnh hưởng của sự tiến bộ khoa học - công nghệ. Dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, những máy móc, thiết bị được sản xuất ra có giá cả thấp hơn và có hiệu suất lớn hơn, làm cho những máy móc, thiết bị cũ giảm giá trị ngay khi giá trị sử dụng của nó vẫn còn nguyên vẹn hoặc mới suy giảm một phần. Bởi vậy, việc thu hồi nhanh giá trị tư bản cố định có ý nghĩa rất quan trọng trong cạnh tranh trên thương trường. Để đối phó với tình hình trên, các nhà tư bản phải tìm mọi cách để khấu hao nhanh tư bản cố định. Những biện pháp mà các nhà tư bản thường sử dụng là: tăng cường độ lao động, tổ chức lao động theo ca kíp, tiết kiệm chi phí bảo quản, chi phí cải thiện điều kiện lao động của người công nhân, tăng tỷ lệ trích khấu hao trong thời kỳ đầu… Bằng cách đó thu hồi nhanh giá trị tài sản cố định, rút ngắn khoảng cách lạc hậu về các thế hệ kỹ thuật và công nghệ. Tư bản lưu động là bộ phận tư bản sản xuất được tiêu dùng hoàn toàn trong một chu kỳ sản xuất và giá trị của nó được chuyển toàn bộ vào sản phẩm trong quá trình sản xuất. Tư bản lưu động tồn tại dưới các hình thức như: nguyên vật liệu, vật liệu phụ, tiền lương…Đặc điểm của loại tư bản này là chu chuyển nhanh về mặt giá trị. Nếu tư bản cố định muốn chu chuyển hết giá trị của nó phải mất nhiều năm, thì tư bản lưu động trong một năm giá trị của nó có thể chu chuyển nhiều lần hay nhiều vòng. Việc phân chia tư bản thành tư bản cố định và tư bản lưu động mặc dù không chỉ ra được nguồn gốc của giá trị thặng dư nhưng lại có ý nghĩa quan trọng trong việc tổ chức quản lý sản xuất, nâng cao hiệu quả sử dụng tư bản. 2. Tái sản xuất và lưu thông của tư bản xã hội a. Một số khái niệm cơ bản của tái sản xuất tư bản xã hội. Để nghiên cứu tái sản xuất xã hội, trước hết cần làm rõ các khái niệm sau: Tổng sản phẩm xã hội Tổng sản phẩm xã hội là toàn bộ sản phẩm mà xã hội sản xuất ra trong một thời kỳ nhất định, thường là một năm. Tổng sản phẩm xã hội được xét cả về hai mặt: giá trị và hiện vật. Về mặt giá trị, tổng sản phẩm xã hội được cấu thành bởi ba bộ phận: - Giá trị bù đắp cho tư bản bất biến (c), hay những giá trị tư liệu sản xuất đã tiêu hao trong sản xuất, bộ phận này được dùng để bù đắp các tư liệu sản xuất đã hao phí trong chu kỳ sản xuất. - Giá trị bù đắp cho tư bản khả biến (v), hay là giá trị của toàn bộ sức lao động xã hội đã tiêu hao. Khoản giá trị này ngang bằng với tổng số tiền công trả cho sức lao động tham gia vào quá trình sản xuất. - Giá trị của sản phẩm thặng dư (m). Khoản giá trị này do lao động thặng dư của xã hội tạo nên. Giá trị của tư liệu sản xuất đã tiêu hao được gọi là "giá trị cũ chuyển dịch". Giá trị sức lao động và giá trị sản phẩm thặng dư được gọi là bộ phận "giá trị mới". Như vậy, giá trị của tổng sản phẩm xã hội cũng như giá trị của một hàng hoá được phân giải thành: c + v + m. Về mặt hiện vật, tổng sản phẩm xã hội gồm có tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng, sự phân chia này căn cứ vào tác dụng của sản phẩm do hình thức tự nhiên của nó quyết định. Có những vật phẩm vừa có thể tiêu dùng cho sản xuất vừa có thể tiêu dùng cho cá nhân, nhưng trong một trường hợp cụ thể mỗi vật chỉ có thể dùng vào một trong hai mục đích đó. Hai khu vực của nền sản xuất xã hội Xuất phát từ tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá, C.Mác coi hai mặt giá trị và hiện vật của tổng sản phẩm xã hội là tiền đề lý luận quan trọng để nghiên cứu tái sản xuất tư bản xã hội. Nếu trong tái sản xuất ở các doanh nghiệp cá biệt, mặt giá trị có vai trò quan trọng thì trong tái sản xuất tư bản xã hội, với tư cách tổng hoà hành vi tái sản xuất của các doanh nghiệp cá biệt, mặt hiện vật của tổng sản phẩm xã hội lại có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Là hiện vật, tổng sản phẩm xã hội được C.Mác phân chia thành hai loại: tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng, và do đó nền sản xuất xã hội được chia thành hai khu vực: Khu vực I: sản xuất tư liệu sản xuất. Khu vực II: sản xuất tư liệu tiêu dùng. Mỗi khu vực đó lại bao gồm rất nhiều ngành, và số lượng những ngành này ngày càng tăng lên cùng với sự phát triển của phân công lao động xã hội. Trên thực tế, ranh giới giữa khu vực I và II không phải lúc nào cũng rõ ràng, có thể một số ngành vừa thuộc khu vực I vừa thuộc khu vực II. Chẳng hạn ngành than vừa sản xuất để luyện thép vừa sản xuất để cho tiêu dùng hàng ngày của nhân dân hoặc ngành nông nghiệp, xét về mặt sản xuất ra lúa, gạo, thịt, sữa... trực tiếp phục vụ cho tiêu dùng của con người thì thuộc khu vực II, nhưng nếu xét về mặt sản xuất ra nguyên liệu, phục vụ cho công nghiệp chế biến, thì nó lại thuộc khu vực I. - Tư bản xã hội Tư bản xã hội là tổng hợp các tư bản cá biệt của xã hội vận động đan xen nhau, liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau. Tham gia vận động của tư bản xã hội có cả tư bản công nghiệp, tư bản thương nghiệp, tư bản ngân hàng...Nhưng ở đây nghiên cứu trừu tượng về tái sản xuất và lưu thông của tư bản xã hội, nên C.Mác đã khẳng định tư bản công nghiệp vẫn là một thể thống nhất, chưa xét từng loại tư bản cụ thể. Những giả định khi nghiên cứu tái sản xuất tư bản xã hội Khi nghiên cứu tái sản xuất tư bản xã hội, C.Mác đã nêu ra 5 giả định sau đây: 1. Toàn bộ nền kinh tế trong nước là nền kinh tế tư bản chủ nghĩa thuần tuý, nghĩa là mối quan hệ kinh tế trong xã hội chỉ gồm có mối quan hệ giữa nhà tư bản với công nhân. 2. Hàng hoá luôn được mua và bán theo đúng giá trị, giá cả phù hợp với giá trị. 3. Cấu tạo hữu cơ tư bản không đổi. 4. Toàn bộ tư bản cố định đều chuyển hết giá trị của nó vào sản phẩm trong một năm. 5. Không xét đến ngoại thương. Những giả định đó chỉ nhằm mục đích đơn giản hoá việc tính toán, chứ không hề xuyên tạc bản chất của vấn đề nghiên cứu, vì vậy, đó là những giả định khoa học. b. Điều kiện thực hiện sản phẩm xã hội trong tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng TBXH. Điều kiện thực hiện sản phẩm xã hội trong TSXGĐ. Trong tái sản xuất giản đơn toàn bộ giá trị thặng dư được sử dụng hết cho tiêu dùng cá nhân của nhà tư bản. Để nghiên cứu điều kiện thực hiện sản phẩm xã hội, quan hệ giữa tổng cung và tổng cầu về tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng trong tái sản xuất giản đơn, C.Mác đưa ra sơ đồ sau: Khu vực I: 4000c + 1000v + 1000m = 6000 (tư liệu sản xuất) Khu vực II: 2000c + 500v + 500m = 3000 (tư liệu tiêu dùng) Tổng sản phẩm xã hội là 9000. Để cho sản xuất hàng năm có thể lặp lại với quy mô cũ thì toàn bộ sản phẩm của hai khu vực phải được trao đổi như sau: Trong khu vực I: - Bộ phận 4000c là giá trị tư liệu sản xuất đã hao phí, nó được bù đắp bằng trao đổi trong nội bộ khu vực I. - Bộ phận I (v + m) = (1000v + 1000m) là tiền lương của công nhân và phần giá trị thặng dư của nhà tư bản. Về mặt hiện vật, hai bộ phận này tồn tại dưới hình thái tư liệu sản xuất không thể trực tiếp tiêu dùng cá nhân nên được đem trao đổi với khu vực II để lấy tư liệu tiêu dùng. Trong khu vực II: - Bộ phận (500v + 500m) là tiền lương của công nhân và phần giá trị thặng dư của nhà tư bản tồn tại dưới hình thái tư liệu tiêu dùng nên được trao đổi trong nội bộ khu vực II. - Bộ phận 2000c là phần để khu vực II bù đắp tư liệu sản xuất đã hao phí. Về mặt hiện vật, bộ phận này tồn tại dưới hình thái tư liệu tiêu dùng nên phải đem trao đổi với khu vực I để lấy tư liệu sản xuất. Quan hệ trao đổi giữa hai khu vực có thể biểu diễn như sau: I (1000v + 1000m) = II (2000c) Với việc thực hiện trao đổi trên, sản xuất năm sau sẽ được phục hồi và diễn ra theo quy mô cũ. Như vậy, có thể xác định các điều kiện thực hiện tái sản xuất giản đơn của tư bản xã hội là: Điều kiện thứ nhất: I (v + m) = II c Cung của khu vực I về những tư liệu sản xuất mới tạo ra (ngoài phần để tự bù đắp cầu về tư liệu sản xuất của khu vực I) phải bằng cầu về tư liệu sản xuất của khu vực II; Điều kiện thứ hai: I (c + v + m) = I c + II c Tổng cung về tư liệu sản xuất của xã hội phải bằng tổng cầu về tư liệu sản xuất của cả hai khu vực. Điều này phản ánh quan hệ cung cầu về tư liệu sản xuất trong xã hội. Điều kiện thứ ba: II (c + v + m) = I (v + m) + II (v + m). Tổng cung về tư liệu tiêu dùng của xã hội phải bằng tổng cầu về tư liệu tiêu dùng cả hai khu vực của nền kinh tế. Điều kiện này phản ánh quan hệ cung cầu về tư liệu tiêu dùng trong xã hội. Điều kiện thực hiện sản phẩm xã hội trong tái sản xuất mở rộng Muốn có tái sản xuất mở rộng phải biến một phần giá trị thặng dư thành tư bản bất biến phụ thêm (c) và tư bản khả biến phụ thêm (v), do đó làm cho cơ cấu sản xuất xã hội có những thay đổi. Để nghiên cứu điều kiện của tái sản xuất mở rộng tư bản xã hội, C. Mác đưa ra sơ đồ sau: Khu vực I: 4000 c + 1000 v + 1000 m = 6000 (tư liệu sản xuất). Khu vực II: 1500 c + 750 v + 750 m = 3000 (tư liệu tiêu dùng). Giả sử khu vực I dành 50% m cho tích lũy thì 1000 m của khu vực này sẽ được phân thành: 500 m dành cho tiêu dùng (ký hiệu m1), 500 m dành cho tích lũy (ký hiệu m2). Nếu cấu tạo hữu cơ (c/v = 4/1) của tư bản không thay đổi thì 500 m2 dành cho tích lũy sẽ được chia thành 400 tăng thêm cho tư bản bất biến (Δc) và 100 tăng thêm cho tư bản khả biến (Δv). Như vậy, khu vực I phải trao đổi với khu vực II tất cả là: 1000 v + 100 Δv + 500 m1 = 1600. Số giá trị tư liệu sản xuất mà khu vực I có thể cung cấp cho khu vực II (1600) đã vượt quá quy mô tư liệu sản xuất của khu vực II (1500 c) là 100 đã tạo điều kiện cho tái sản xuất mở rộng ở khu vực II. Tương ứng với nhu cầu trao đổi của khu vực I là 1600, khu vực II có thể tăng thêm 100 Δc và 50 Δv, do đó giá trị thặng dư dành cho tích lũy của khu vực II là 150 (m2), giá trị thặng dư dành cho tiêu dùng là 600 (m1) Vậy, cơ cấu tái sản xuất mở rộng của hai khu vực là: I : (4000c + 400Δc) + (1000v + 100Δv) + 500 m1 = 6000 II: (1500c + 100Δc) + (750v + 50Δv) + 600 m1 = 3000 Quá trình trao đổi sản phẩm giữa hai khu vực của nền kinh tế được thực hiện như sau: I (v + Δv + m1) = II (c + Δc). Từ đó rút ra điều kiện thực hiện tổng sản phẩm trong tái sản xuất mở rộng của tư bản xã hội là: I (1000v + 100Δv + 500m1) = II (1500c + 100Δc) Điều kiện thứ nhất: I (v + m) > II c Hoặc: I (v + Δv + m1) = II (c + Δc). Giá trị mới của khu vực I sản xuất ra phải lớn hơn giá trị tư liệu sản xuất của khu vực II đã tiêu dùng. Điều kiện thứ hai: I (c + v + m) > I c + II c Hoặc: I (c + v + m) = I (c + Δc) + II (c + Δc) Toàn bộ giá trị sản phẩm của khu vực I phải lớn hơn tổng giá trị tư liệu sản xuất đã tiêu dùng của cả hai khu vực. Điều kiện thứ ba: II (c + v + m) < I (v + m) + II (v + m) Hoặc II (c + v + m) = I (v + Δv + m1) + II (v + Δv + m1) Toàn bộ giá trị mới của cả hai khu vực phải lớn hơn giá trị sản phẩm của khu vực II. c. Sự phát triển của Lênin đối với lý luận tái sản xuất tư bản xã hội. V.I.Lênin đã áp dụng lý luận của C.Mác về tái sản xuất tư bản xã hội để nghiên cứu sự hình thành thị trường tư bản chủ nghĩa do kết quả trực tiếp của việc phát triển lực lượng sản xuất dưới tác động của tiến bộ kỹ thuật. V.I.Lênin đã chú ý đến sự tăng lên của cấu tạo hữu cơ của tư bản. Trong cả hai khu vực, cấu tạo hữu cơ của tư bản đều tăng lên, nhưng cấu tạo hữu cơ khu vực I tăng nhanh hơn khu vực II. Căn cứ vào thực tế đó và phân tích sự phát triển của tư bản xã hội trong nhiều năm và đã nêu ra một biểu so sánh về sự tăng lên của các bộ phận khác nhau của tổng sản phẩm xã hội. Trên cơ sở đó V.I.Lênin kết luận: Sản xuất tư liệu sản xuất để tạo ra tư liệu sản xuất phát triển nhanh nhất, sau đến sản xuất tư liệu sản xuất để tạo ra tư liệu tiêu dùng; và cuối cùng chậm nhất là sự phát triển của sản xuất tư liệu tiêu dùng. Đó cũng là nội dung của quy luật ưu tiên phát triển sản xuất tư liệu sản xuất. Quy luật này là quy luật kinh tế của tái sản xuất tư bản mở rộng trong điều kiện kỹ thuật ngày càng tiến bộ. 3. Khủng hoảng kinh tế trong chủ nghĩa tư bản a. Bản chất và nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế trong chủ nghĩa tư bản Trong sản xuất hàng hoá giản đơn, sự phát triển chức năng làm phương tiện thanh toán của tiền tệ đã làm xuất hiện khả năng khủng hoảng kinh tế. Trong chủ nghĩa tư bản khi nền sản xuất đã xã hội hoá cao độ, khủng hoảng kinh tế trở thành hiện thực. Hình thức đầu tiên và phổ biến của khủng hoảng kinh tế trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là khủng hoảng sản xuất "thừa". Khi khủng hoảng nổ ra hàng hoá không tiêu thụ được, sản xuất bị thu hẹp, nhiều doanh nghiệp bị vỡ nợ, phá sản, thợ thuyền bị thất nghiệp, thị trường bị rối loạn. Tình trạng thừa hàng hoá không phải là so với nhu cầu của xã hội, mà là "thừa" so với sức mua có hạn của quần chúng lao động. Nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế tư bản chủ nghĩa bắt nguồn từ chính mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản. Đó là mâu thuẫn giữa tính chất và trình độ xã hội hoá cao của lực lượng sản xuất với chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. Mâu thuẫn này biểu hiện ra thành các mâu thuẫn sau: - Mâu thuẫn giữa tính tổ chức, tính kế hoạch trong từng xí nghiệp rất chặt chẽ và khoa học với khuynh hướng tự phát vô chính phủ trong toàn xã hội. - Mâu thuẫn giữa khuynh hướng tích lũy, mở rộng không có giới hạn của tư bản với sức mua ngày càng eo hẹp của quần chúng do bị bần cùng hoá. - Mâu thuẫn đối kháng giữa giai cấp tư sản và giai cấp lao động làm thuê. Cuộc khủng hoảng kinh tế đầu tiên nổ ra vào năm 1825 ở nước Anh và cuộc khủng hoảng đầu tiên mang tính chất thế giới tư bản chủ nghĩa nổ ra vào năm 1847. b. Tính chu kỳ của khủng hoảng kinh tế trong chủ nghĩa tư bản Khủng hoảng kinh tế xuất hiện làm cho quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa mang tính chu kỳ. Trong giai đoạn tự do cạnh tranh của chủ nghĩa tư bản, cứ khoảng từ 8 đến 12 năm nền kinh tế tư bản chủ nghĩa lại phải trải qua một cuộc khủng hoảng kinh tế. Chu kỳ kinh tế của chủ nghĩa tư bản là khoảng thời gian nền kinh tế tư bản chủ nghĩa vận động từ đầu cuộc khủng hoảng này đến đầu cuộc khủng hoảng sau. Chu kỳ kinh tế gồm bốn giai đoạn: khủng hoảng, tiêu điều, phục hồi và hưng thịnh. Khủng hoảng là giai đoạn khởi điểm của chu kỳ kinh tế mới. Trong giai đoạn này, hàng hoá ế thừa, ứ đọng, giá cả giảm mạnh, sản xuất đình trệ, xí nghiệp đóng cửa, công nhân thất nghiệp hàng loạt, tiền công hạ xuống. Tư bản mất khả năng thanh toán các khoản nợ, phá sản, lực lượng sản xuất bị phá hoại nghiêm trọng. Đây là giai đoạn mà các mâu thuẫn biểu hiện dưới hình thức xung đột dữ dội. Tiêu điều: đặc điểm của giai đoạn này là sản xuất ở trạng thái đình trệ, không còn tiếp tục đi xuống nữa nhưng cũng không tăng lên, thương nghiệp vẫn đình đốn, hàng hoá được đem bán hạ giá, tư bản để rỗi nhiều vì không có nơi đầu tư. Trong giai đoạn này để thoát khỏi tình trạng bế tắc, các nhà tư bản còn sống sót tìm cách giảm chi phí bằng cách hạ thấp tiền công, tăng cường độ và thời gian lao động của công nhân, đổi mới tư bản cố định làm cho sản xuất vẫn còn lợi trong tình trạng hạ giá, tạo điều kiện cho sự phục hồi chung của nền kinh tế. Phục hồi: là giai đoạn mà các xí nghiệp được khôi phục và mở rộng sản xuất. Công nhân lại được thu hút vào làm việc; mức sản xuất đạt đến quy mô cũ, vật giá tăng lên, lợi nhuận của tư bản do đó cũng tăng lên. Hưng thịnh: là giai đoạn sản xuất phát triển vượt quá điểm cao nhất mà chu kỳ trước đã đạt được. Nhu cầu và khả năng tiêu thụ hàng hoá tăng, xí nghiệp được mở rộng và xây dựng thêm. Nhu cầu tín dụng tăng, ngân hàng tung tiền cho vay, năng lực sản xuất lại vượt quá sức mua của xã hội. Do đó, lại tạo điều kiện cho một cuộc khủng hoảng kinh tế mới. Khủng hoảng kinh tế không chỉ diễn ra trong công nghiệp mà trong cả nông nghiệp. Nhưng khủng hoảng trong nông nghiệp thường kéo dài hơn khủng hoảng trong công nghiệp. Sở dĩ như vậy là do chế độ độc quyền tư hữu về ruộng đất đã cản trở việc đổi mới tư bản cố định để thoát khỏi khủng hoảng. Mặt khác, trong nông nghiệp vẫn còn một bộ phận không nhỏ những người tiểu nông, điều kiện sống duy nhất của họ là tạo ra nông phẩm hàng hoá trên đất canh tác của mình, vì vậy họ phải duy trì sản xuất ngay cả trong thời kỳ khủng hoảng. Trong chủ nghĩa tư bản hiện nay, khủng hoảng kinh tế vẫn không tránh khỏi, nhưng nhờ có sự can thiệp tích cực của nhà nước tư sản vào quá trình kinh tế làm cho tác động phá hoại của khủng hoảng bị hạn chế bớt. Song sự can thiệp này không triệt tiêu được khủng hoảng và chu kỳ trong nền kinh tế. Khủng hoảng kinh tế nổ ra làm cho năng lực sản xuất của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa bị phá hoại dữ dội; làm sâu sắc thêm mâu thuẫn đối kháng giữa giai cấp tư sản với vô sản; giữa tư bản với các dân tộc thuộc địa.

V. CÁC HÌNH THÁI TƯ BẢN VÀ CÁC HÌNH THỨC BIỂU HIỆN CỦA GIÁ TRỊ THẶNG DƯ

Giá trị thặng dư là phạm trù nói lên mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa. Trong đời sống thực tế của xã hội tư sản, giá trị thặng dư chuyển hóa và biểu hiện thành lợi nhuận công nghiệp, lợi nhuận thương nghiệp, lợi nhuận ngân hàng, lợi tức cho vay, địa tô tư bản chủ nghĩa. 1. Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa, lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận a. Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa Muốn tạo ra giá trị hàng hóa, tất yếu phải chi phí một số lao động nhất định, goị là chi phí lao động, bao gồm lao động quá khứ và lao động hiện tại. Lao động quá khứ (lao động vật hóa) là giá trị của tư liệu sản xuất ( = c ); lao động hiện tại (lao động sống) là lao động tạo ra giá trị mới ( = v+m ). Đứng trên quan điiểm xã hội mà xét, chi phí lao động đó là chi phí thực tế của xã hội, chi phí này tạo ra giá trị hàng hóa. Ký hiệu giá trị hàng hóa là W W = c + v + m Về mặt lượng: Chi phí thực tế = giá trị hàng hóa Song đối với nhà tư bản, họ không phải chi phí lao động để sản xuất hàng hóa, cho nên họ không quan tâm đến điều đó. Trên thực tế, họ chỉ quan tâm đến việc ứng tư bản để mua ( c ) và ( v ). Do đó, nhà tư bản chỉ xem hao phí hết bao nhiêu tư bản chứ không tính đến hao phí hết bao nhiêu lao động xã hội. Mac gọi chi phí đó là chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa, ký hiệu: k k = c + v Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa là phần giá trị bù lại giá cả của những tư liệu sản xuất và giá cả sức lao động đã tiêu dùng để sản xuất ra hàng hóa cho nhà tư bản. Khi xuất hiện chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa thì công thức giá trị hàng hóa sẽ chuyển thành: W = k + m Như vậy, giữa chi phí thực tế và chi phí sản xuất có sự khác nhau cả về lượng lẫn chất Về lượng: ( c+v ) ‹ ( c+v+m ) Vì tư bản sản xuất được chia thành tư bản cố định và tư bản lưu động nên chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa luôn luôn nhỏ hơn tư bản ứng trước ( K ) Ví dụ: Một nhà tư bản sản xuất đầu tư tư bản với số tư bản cố định ( c1 ) là 1200 đơn vị tiền tệ; số tư bản lưu động ( c2 và v ) là 480 đơn vị tiền tệ ( trong đó giá trị của nguyên, nhiên, vật liệu ( c2 ) là 300, tiền công ( v ) là 180 ). Nếu tư bản cố định hao mòn hết trong 10 năm, tức là mỗi năm hao mòn 120 đơn vị tiền tệ thì: Chi phí sản xuất ( k ) là: 120 + 480 = 600 đơn vị tiền tệ Tư bản ứng trước ( K ) là: 1200 + 480 = 1680 đơn vị tiền tệ Tức là: K › k Nhưng khi nghiên cứu, Mac thường giả định tư bản cố định hao mòn hết trong 1 năm, nên tổng tư bản ứng trước ( K ) và chi phí sản xuất luôn bằng nhau ( K = k ) Về chất: Chi phí thực tế là chi phí lao động, phản ánh đúng, đầy đủ hao phí lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tạo ra giá trị hàng hóa, còn chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa ( k ) chỉ phản ánh hao phí tư bản của nhà tư bản mà thôi, nó không tạo ra giá trị hàng hóa. Phạm trù chi phí sản xuất không có quan hệ gì với sự hình thành giá trị hàng hóa, cũng như không có quan hệ gì với quá trình làm cho tư bản tăng thêm giá trị. Sự hình thành chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa ( k ) che đậy thực chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản. Giá trị hàng hóa: W = k + m, trong đó k = c+v. Nhìn vào công thức trên thì sự phân biệt giữa c và v đã biến mất, và giờ đây hình như toàn bộ chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa sinh ra giá trị thăng dư.

2. Lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận

a. Lợi nhuận:

Do có sự chênh lệch về lượng giữa giá trị hàng hoá và chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa, nên khi bán hàng hóa đúng giá trị trừ đi phần tư bản ứng ra, nhà tư bản còn thu về tiền lời (ngang bằng với m) và được gọi là lợi nhuận, ký hiệu P:

Vậy: Lợi nhuận là hình thái chuyển hóa của giá trị thặng dư, được quan niệm như con đẻ của toàn bộ tư bản ứng trước. “Giá trị thặng dư, được quan niệm là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng trước mang hình thái chuyển hóa là lợi nhuận”

        W = C + V + m

         =     K + m

         =     K + P

Nguyên nhân của sự chuyển hoá m thành P: + Sự hình thành K = (C + V) đã xoá nhoà vai trò khác biệt giữa C và V. + Do chi phí SX TBCN luôn nhỏ hơn chi phí SX thực tế nên khi bán hàng hoá chỉ cần giá cả lớn hơn K một chút là đã thu lời. - Giữa P và m có gì khác nhau: + m và P giống nhau ở chỗ: đều có chung một nguồn gốc là kết quả của lao động của công nhân. + Khác nhau:

về mặt chất:

m phản ánh nguồn gốc sinh ra từ V còn p thì được xem như toàn bộ tư bản ứng trước đẻ ra.

P che giấu quan hệ bóc lột TBCN, che giấu nguồn gốc thực sự của nó.

Giữa m và P có sự không nhất trí về lượng:

 P = m® giá cả = giá trị ®• cung = cầu  • cung >  giá cả®cầu  <  P®giá trị  < m • cung <  giá cả®cầu  >  P®giá trị  > m • trong một thời gian nhất định, xét trên bình diện toàn bộ nền kinh tế: tổng giá cả = tổng giá trị, do đó tổng P = tổng m. b. Tỷ suất lợi nhuận: Tỷ suất lợi nhuận là lệ phần trăm giữa giá trị thặng dư và tổng tư bản ứng ra để sản xuất - kinh doanh. (P′)

P′ = mC + V × 100% = PK × 100%

        Trong thực tế, người ta thường tính tỷ suất lợi nhuận hàng năm bằng tỷ lệ phần trăm giữa tổng số lợi nhuận thu được trong năm và tư bản ứng trước              

Tỷ suất lợi nhuận là hình thái chuyển hoá của tỷ suất giá trị thặng dư. Sự khác nhau giữa tỷ suất lợi nhuận và tỷ suất giá trị thăng dư: - Về chất: • m’ biểu hiện mức độ bóc lột của nhà tư bản đối với LĐ; • còn P’ nói lên mức doanh lợi của đầu tư tư bản. - Về lượng: P’ < m’. Tỷ suất lợi nhuận chỉ cho nhà tư bản biết tư bản của họ đầu tư vào đâu thì có lợi hơn. Do đó, việc thu lợi nhuận và theo đuổi tỷ suất lợi nhuận là động lực thúc đẩy các nhà tư bản, là mục tiêu cạnh tranh của các nhà tư bản. - Những nhân tố ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận: + Tỷ suất giá trị thặng dư: tỷ suất gía trị thặng dư càng cao thì tỷ suấộ chu chuyển của tư bản: Nếu tốc độ chu chuyển của tư bản càng lớn, thì tần suất sản sinh ra giá trị thặng dư trong năm của tư bản ứng truớc càng nhiều lần, giá trị thặng dư theo đó mà tăng lên, làm cho tỷ suất lợi nhuận cũng càng tăng. + Tiết kiệm tư bản bất biến: Trong điều kiện tỷ suất giá trị thặng dư và tư bản khả biến không đổi, nếu tư bản bất biến càng nhỏ thì tỷ suất lợi nhuận càng lớn. Bốn nhân tố trên đây đều được các nhà tư bản sử dụng, khai thác một cách triệt để để đạt được tỷ suất lợi nhuận cao nhất. Song, với những đặc điểm, điều kiện khác nhau, nên cùng một lượng tư bản như nhau đầu tư vào các ngành khác nhau thì tỷ suất lợi nhuận lại đạt được khác nhau. Vì vậy, các nhà tư bản ra sức cạnh tranh kịch liệt vói nhau và dẫn tới việc hình thành lợi nhuận bình quân. 3. Lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất - Cạnh tranh là sự ganh đua giữa những người sản xuất và lưu thông hàng hoá bằng những biện pháp và thủ đoạn khác nhau nhằm giành giật cho mình những điều kiện sản xuất kinh doanh có lợi nhất. - Động lực của cạnh tranh là lợi nhuận tối đa. - Trong điều kiện của sản xuất tư bản tự do cạnh tranh, Mác phân chia thành hai loại cạnh tranh: + Cạnh tranh nội bộ ngành; + Cạnh tranh giữa các ngành.

a. Cạnh tranh nội bộ ngành - Đó là sự cạnh tranh giữa các nhà tư bản trong cùng một ngành, sản xuất cùng một loại hàng hoá nhằm giành điều kiện sản xuất và tiêu thụ hàng hoá có lợi nhất để thu nhiều lợi nhuận siêu ngạch. - Mục tiêu cạnh tranh: chiếm tỷ phần thị trường lớn, muốn vậy phải: + Nâng cao chất lượng; + Giảm chi phí; + Chất lượng phục vụ tốt; + Mẫu mã, bao gói đẹp… - Biện pháp cạnh tranh: Bằng cách cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động, tăng cấu tạo hữu cơ C/V. Để hạ thấp hao phí lao động cá biệt nhỏ hơn hao phí lao động xã hội. - Kết quả cạnh tranh: là hình thành giá trị thị trường. Giá trị thị trường một mặt, là giá trị trung bình của những hàng hoá được sản xuất ra trong một khu vực sản xuất nào đó, mặt khác phải coi giá trị thị trường là giá trị cá biệt của những hàng hoá được sản xuất ra trong những điều kiện trung bình của khu vực đó và chiếm khối lượng lớn trong số những sản phẩm của khu vực này. b. Cạnh tranh giữa các ngành - Đó là sự cạnh tranh của các nhà tư bản ở các ngành sản xuất khác nhau nhằm giành giật nơi đầu tư có lợi nhất. - Nguyên nhân cạnh tranh: Trong các ngành sản xuất khác nhau, do đặc điểm của từng ngành, C/V của các ngành khác nhau nên P’ của từng ngành là khác nhau. VD: có 3 ngành SX: cơ khí, dệt, da, có lượng tư bản đầu tư bằng nhau là 100, m’ = 100%, nhưng cấu tạo hữu cơ khác nhau, do đó P’ khác nhau vì vậy các nhà tư bản không cam chịu tình trạng trên nên họ cạnh tranh nhau:

- Biện pháp để cạnh tranh: là tự do di chuyển tư bản vào các ngành khác nhau của xã hội. Tư bản của ngành cơ khí chuyển sang ngành da làm cho: + SP của ngành cơ khí giảm - dẫn đến cung <  giá cả®cầu  >  P tăng.®giá trị   cung®+ SP của ngành da tăng  >  giá cả®cầu  <  P giảm.®giá trị  - Kết quả của cạnh tranh: Hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân ký hiệu ( ) và giá cả sản xuất. Vậy: - Tỷ suất lợi nhuận bình quân: là con số trung bình của tất cả tỷ suất lợi nhuận ở các ngành khác nhau: trong đó: P’1 - tỷ suất lợi nhuận của từng ngành;

      n - số ngành.

Lợi nhuận bình quân: là lượng lợi nhuận mà một tư bản thu được theo tỷ suất lợi nhuận bình quân - không kể cấu thành hữu cơ của nó như thế nào.

                         = P’.K

- Giá cả SX: Khi hình thành lợi nhuận bình quân, giá trị hàng hóa chuyển hóa thành giá cả SX:

GCSX = chi phí SX + lợi nhuận bình quân.

GCSX = K + P (bình quân).

Giá cả SX là cơ sở của giá cả thị trường, giá cả thị trường vận động lên xuống xung quanh giá cả SX. 4. Sự phân chia giá trị thặng dư giữa các tập đoàn tư bản

a.Tư bản thương nghiệp và lợi nhuận thương nghiệp

Nguồn gốc và bản chất của tư bản thương nghiệpTrong quá trình tuần hoàn và chu chuyển của tư bản công nghiệp, thường xuyên có một bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái tư bản hàng hóa ( H′), chờ để được chuyển hóa thành tư bản tiền tệ ( T′ ). Do sự phát triển của phân công lao động xã hội, đến một trình độ nhất định, giai đoạn này được tách riêng ra để thở thành chức năng chuyên môn của một loại hình tư bản kinh doanh riêng biệt, đó chính là tư bản thương nghiệp ( tư bản kinh doanh hàng hóa ).

- Tư bản thương nghiệp là một bộ phận của tư bản công nghiệp, tách ra khỏi vòng tuần hoàn của tư bản công nghiệp và trở thành tư bản kinh doanh hàng hoá. Công thức vận động chung của tư bản thương nghiệp là: T – H - T′ Với công thức này, hàng hóa được chuyển chỗ hai lần: . Lần 1: Tự tay nhà tư bản công nghiệp sang tay nhà tư bản thương nghiệp . Lần 2: Từ tay nhà tư bản thương nghiệp sang tay người tiêu dùng. Điều này cho thấy tư bản thương nghiệp chỉ hoạt động trong lĩnh vực lưu thông và không bao giờ mang hình thái là tư bản sản xuất cả. - Tư bản thương nghiệp vừa phụ thuộc, vừa độc lập với tư bản công nghiệp: + Sự phụ thuộc: Tư bản thương nghiệp chỉ là một bộ phận của tư bản công nghiệp. + Tính độc lập tương đối của tư bản thương nghiệp thể hiện: Tư bản thương nghiệp đảm nhận chức năng riêng biệt tách khỏi công nghiệp. Thực tế cho thấy sự ra đời và phát triển của tư bản thương nghiệp đã làm cho lưu thông hàng hóa phát triển, thị trường được mở rộng, hàng hóa được lưu thông nhanh, do vậy, đẩy nhanh tốc độ chu chuyển của tư bản. Từ đó, nó cũng có tác động ngược lại: thúc đẩy sự phát triển của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.

Lợi nhuận thương nghiệp

Tư bản thương nghiệp, xét về chức năng chỉ là mua và bán, thì chỉ hoạt động trong lĩnh vực lưu thông, tách rời khỏi lĩnh vực sản xuất của tư bản công nghiệp. Mà theo lý luận giá trị của Mac thì lưu thông không tạo ra giá trị, cũng không tạo ra giá trị thặng dư và lợi nhuận. Nhưng thực tế, các nhà tư bản thương nghiệp than gia hoạt động trong lĩnh vực lưu thông hàng hóa thì tất cả đều nhằm vào lợi nhuận thương nghiệp và kết quả là họ đều thu được lợi nhuận thương nghiệp. Sự thực thì, việc thì việc tạo ra giá trị thặng dư và phân chia giá trị thặng dư là hai vấn đề khác nhau. Lĩnh vực lưu thông cũng như hoạt động của các nhà tư bản thương nghiệp đúng là không tạo ra được giá trị thặng dư, nhưng do vị trí, tầm quan trọng của lưu thông đối với sự phát triển của sản xuất và tái sản xuất nên các nhà tư bản thương nghiệp vẫn được tham gia vào việc phân chia giá trị thặng dư cùng với các nhà tư bản công nghiệp và phần giá trị thặng dư mà các nhà tư bản thương nghiệp được chia chính là lợi nhuận thương nghiệp. + Lợi nhuận thương nghiệp là một phần giá trị thặng dư được sáng tạo ra trong sản xuất do nhà tư bản công nghiệp “nhường” cho nhà tư bản thương nghiệp. + Sự hình thành lợi nhuận thương nghiệp do chênh lệch giữa giá bán với giá mua hàng hoá của tư bản thương nghiệp. Sự tham gia của tư bản thương nghiệp vào việc bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận: - Giả sử tư bản CN ứng ra 1 lượng tư bản = 720C + 180V = 900. Khi m’ = 100%. Khối lượng giá trị thặng dư là 180. Giá trị hàng hóa = 1080. Giả định nhà tư bản công nghiệp tự đảm nhiệm việc mua bán hàng hóa của mình thì tỷ suất lợi nhuận bình quân sẽ bằng:

                              100% = 20%´

Khi có tư bản thương nghiệp tham gia vào quá trình kinh doanh, và ứng trước = 100 đơn vị. Vậy toàn bộ tư bản ứng trước sẽ là: 900 + 100 = 1000. - Tỷ suất lợi nhuận bình quân:  100% = 18%.´= (180 / 100)  - Lợi nhuận của tư bản công nghiệp:  18% = 162.´PCN = (900 / 100%)  - Lợi nhuận của tư bản thương nghiệp:  18% = 18.´PTN = (100 / 100%)  - Giá mua và bán của tư bản thương nghiệp: Giá bán của TB thương nghiệp = 720C + 180V + 180m = 1080 Giá mua của TB thương nghiệp  18)m = 1062-= 720C + 180V + (180  Vậy cả tư bản công nghiệp và tư bản thương nghiệp đều thu lợi nhuận bình quân.

Chi phí lưu thông thương nghiệp

Bao gồm phí lưu thông thuần tuý và phí lưu thông bổ sung.

Phí lưu thông thuần tuý:

- Là chi phí liên quan đến việc mua bán hàng hóa tức là các chi phí để thực hiện giá trị hàng hoá như: + Tiền mua quầy bán hàng hoá. + Tiền lương nhân viên bán hàng. + Mua sổ sách kế toán, lập chứng từ… + Thông tin, quảng cáo. - Chi phí lưu thông thuần túy không làm cho giá trị hàng hóa tăng lên. - Nguồn bù đắp cho chi phí này là một phần của tổng giá trị thặng dư do lao động của công nhân trong lĩnh vực SX tạo ra. Phí lưu thông bổ sung: là các chi phí mang tính chất SX, liên quan đến việc bảo tồn và di chuyển hàng hóa.  gói bọc;®+ Gồm: 

               chuyên chở;®

 bảo quản.® + Chi phí này được tính thêm vào giá trị hàng hóa.

b. Tư bản cho vay và lợi tức cho vay . Nguồn gốc của tư bản cho vay Trong quá trình tuần hoàn và chu chuyển của tư bản công nghiệp, thường xuyên có một bộ phận tư bản tiền tệ ở trạng thái nhàn rỗi. Ví dụ: tiền trong quĩ khấu hao nhưng chưa đến kỳ đổi mới hoặc sửa chũa lớn tư bản cố định, tiền mua nguyen nhiên vật liệu nhưng chưa đến kỳ hạn mua, quĩ tiền lương để trả công nhân nhưng chưa đến kỳ phải trả, phần giá trị thặng dư dùng để tích lũy mở rộng sản xuất nhưng chưa có cơ hội…Tình trạng tiền tệ để rỗi như vậy lại mâu thuẫn với bản chất của tư bản là luôn luôn vận động. Chỉ trong quá trình vận động tư bản mới có khả năng sinh lời. Mặt khác, cũng do có sự khác biệt về cơ hội kinh doanh giữa các nhà tư bản cá biệt. Vì vậy, nếu xét tại một thời điểm sẽ có những nhà tư bản cá biệt có tiền để rỗi, nhưng lại có những nhà tư bản khác tìm được cơ hội đầu tư và lại rất cần tiền. Từ đó nảy sinh quan hệ cung - cầu về tư bản tiền tệ và xuất hiện quan hệ vay mượn lẫn nhau, trong đó bên cung về tư bản tiền tệ chính là bên cho vay, còn bên cầu về tư bản tiền tệ chính là bên đi vay. - Tư bản cho vay xuất hiện sớm trước chủ nghĩa tư bản - đó là cho vay nặng lãi. - Tư bản cho vay trong chủ nghĩa tư bản là một bộ phận của tư bản công nghiệp tách ra. Vậy: Tư bản cho vay là tư bản tiền tệ mà người chủ của nó nhường cho một người khác sử dụng trong một thời gian để nhận được một số lời nào đó. Số lời đó gọi là lợi tức. Ký hiệu ( z ) Tư bản cho vay có những đặc điểm khác căn bản so với tư bản công nghiệp và tư bản thương nghiệp. Điều này được thể hiện ở chỗ: đối với tư bản cho vay thì quyền sử dụng tư bản tách rời quyền sở hữu tư bản; tư bản cho vay là hàng hóa đặc biệt. Tư bản cho vay vận động theo công thức T - T′ , trong đó: T′ = T + z. Nhìn vào công thức Này, sự vận động của tư bản cho vay chỉ biểu hiện mối quan hệ giữa các nhà tư bản cho vay và nhà tư bản đi vay, tiền đẻ ra tiền. Do đó, quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa được che dấu một cách kín đáo nhất; tư bản cho vay trở nên thần bí và được sùng bái nhất. . Lợi tức và tỷ suất lợi tức Xét dòng lưu chuyển của đồng tiền từ tay nhà tư bản cho vay đến nhà tư bản đi vay và ngược lại. Do có tư bản tiền tệ để rỗi nên nhà tư bản cho vay đã chuyển tiền của mình cho nhà tư bản đi vay sử dụng. Tiền nhàn rỗi khi vào tay nhà tư bản đi vay sẽ trở thành tư bản hoạt động. Trong quá trình vận động, tư bản hoạt sẽ thu lợi nhuận bình quân. Nhưng vì để có tư bản hoạt động, trước đó anh ta đã phải đi vay, nên nhà tư bản đi vay không được hưởng toàn bộ lợi nhuận bình quân, mà trong số lợi nhuận bình quân có một phần được trích ra để trả cho nhà tư bản cho vay dưới hình thức lợi tức. Phần còn lại của lơi nhuận bình quân chính là thu nhập của nhà tư bản đi vay còn được gọi là lợi nhuận doanh nghiệp. - Lợi tức ( z ) là một phần lợi nhuận bình quân mà nhà tư bản đi vay để hoạt động phải trả cho người cho vay về quyền được tạm sử dụng tư bản tiền tệ. Nguồn gốc của lơi tức cũng chính là từ giá trị thặng dư do công nhân làm thuê tạo ra trong lĩnh vực sản xuất. Vì vậy, có thể khẳng định tư bản cho vay cũng gián tiếp bóc lột công nhân làm thuê thông qua nhà tư bản đi vay. Vì là một phần của lợi nhuận bình quân, nên thông thường, giới hạn của lợi tức phải ở trong khoảng: 0 ‹ z ‹ - Tỷ xuất lợi tức: Là tỷ lệ phần trăm giữa số lợi tức thu được và số tư bản cho vay trong một thời gian nhất định.

                              z’ = ZTổng tư bản cho vay × 100%

Tỷ suất lợi tức vận động trong giới hạn:

                               0 < z' <  ’

Thông thường, tỷ suất lợi tức phải nhỏ hơn tỷ suất lơi nhuận bình quân ( trừ trường hợp khủng hoảng ) và phải lớn hơn số 0. Trong giới hạn đó tỷ suất lợi tức lên xuống theo quan hệ cung cầu về tư bản cho vay và biến động theo chu kỳ vận động của tư bản công nghiệp. Cụ thể, tỷ suất lợi tức phụ thuộc vào các nhân tố sau: - Các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ suất lợi tức: + tỷ suất lợi nhuận bình quân. + quan hệ cung cầu về tư bản cho vay. Giới hạn tối đa của tỷ suất lợi tức:

                               z’ < (=) ’

- Tỷ suất lợi tức có xu hướng giảm: + tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm; + cung về tư bản cho vay tăng nhanh hơn cầu về tư bản cho vay; + hệ thống tín dụng TBCN ngày càng phát triển. Trong CNTB độc quyền nhà nước, nhà nước tư sản đã thực thi việc điều tiết tỷ suất lợi tức để điều hòa cung cầu về tiền coi đó là công cụ để điều tiết và quản lý nền kinh tế thị trường. c. Quan hệ tín dụng tư bản chủ nghĩa. Ngân hàng và lợi nhuận ngân hàng - Quan hệ tín dụng tư bản chủ nghĩa: Chủ nghĩa tư bản không thể phát triển mạnh mẽ nếu nhue không có quan hệ tín dụng ngày càng mở rộng. Tín dụng tư bản chủ nghĩa là hình thức vận động của tư bản cho vay. Dưới chủ nghĩa tư bản có hai hình thức tín dụng cỏ bản là tín dụng thương nghiệp và tín dụng ngân hàng - Tín dụng thương nghiệp: là quan hệ trực tiếp giữa các nhà tư bản kinh doanh, mua bán chịu hàng hoá với nhau. Việc mua bán chịu hàng hóa giữa các nhà tư bản có nghĩa là nhà tư bản này đã cho nhà tư bản kia vay một giá trị tư bản tương ứng với giá trị chứa đựng trong hàng hóa đó. Bởi vậy, người cho vay đòi hỏi phải được trả lợi tức. Giá hàng hóa bán chịu bao giờ cũng cao hơn giá hàng hóa trả tiền ngay bởi vì còn bao gồm cả phần lợi tức trong đó. Tuy nhiên, mục đích chr yếu của tín dụng thương nghiệp không phải là để thu lợi tức, mà là để thực hiện giá trị hàng hóa và thúc đẩy lưu thông hàng hóa. Sự vận động của tín dụng thương nghiệp gắn liền với sự vận dộng của tư bản hàng hóa, vì đối tượng của tín dụng thương nghiệp là hàng hóa

Tiền làm chức năng phương tiện thanh toán, hàng hóa được bán không phải lấy tiền ngay mà lấy một tờ khế ước hẹn thời hạn trả tiền gọi là kỳ phiếu.

- Tín dụng ngân hàng: là quan hệ vay mượn giữa người có tiền với những người sản xuất, kinh doanh qua ngân hàng làm môi giới trung gian. Đây là hình thức tín dụng giữa ngân hàng với các nhà tư bản trực tiếp kinh doanh và các tầng lớp dân cư khác trong xã hội. Sự vận động của tín dụng ngân hàng gắn liền với sự vận động của tín dụng tiền tệ, vì đối tượng của tín dụng ngân hàng là tiền tệ. - Ngân hàng và lơi nhuận ngân hàng: Ngân hàng tư bản chủ nghĩa là tổ chức kinh doanh tiền tệ, làm môi giới giữa người đi vay và người cho vay. Ngân hàng có hai nghiệp vụ: nhận gửi và cho vay. Trong dịch vụ nhận gửi, ngân hàng trả lợi tức cho người gửi tiền; còn trong nghiệp vụ cho vay, ngân hàng thu lợi tức của người đi vay. Về nguyên tắc lợi tức cho vay phải cao hơn lợi tức nhận gửi. Chênh lệch giữa lợi tức cho vay và lợi tức nhận gửi sau khi trừ đi những chi phí về nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng cộng với các thu nhập khác về kinh doanh tư bản tiền tệ hình thành nên lợi nhuận ngân hàng. Trong cành tranh, rốt cuộc lợi nhuận ngân hàng cũng ngang bằng với lợi nhuận bình quân, nếu không sẽ lại diễn ra sự tự do di chuyển tư bản vào các ngành khác nhau. Nhờ có ngân hàng mà các nhà tư bản có điều kiện mở rộng sản xuất nhanh chóng hơn, có điều kiện tự do di chuyển tư bản từ ngành này sang ngành khác dễ dàng hơn, giảm được chi phí lưu thông, giảm lượng tiền mặt trong lưu thông, đẩy nhanh tốc độ quay vòng của đồng tiền. - Phân biệt tư bản ngân hàng và tư bản cho vay Tư bản ngân hàng có điểm khác biệt về căn bản so với tư bản cho vay, thể hiện ở điểm sau đây: + Tư bản cho vay là tư bản tiềm thế, tư bản tài sản, là tư bản không hoạt động. Vì vậy, tư bản cho vay không tham gia vào quá trình bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận. Lợi tức – thu nhập của tư bản cho vay chỉ là một phần của lợi nhuận bình quân. + Tư bản ngân hàng là tư bản chức năng, tư bản hoạt động nen tư bản ngân hàng cũng có tham gia vào quá trình bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận. Trong tự do cạnh tranh, lợi nhuận ngân hàng cũng ngang bằng với lợi nhuận bình quân. d. Công ty cổ phần. Tư bản giả và thị trường chứng khoán Sự phát triển của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa và quan hệ tín dụng đã dẫn tới sự hình thành các công ty cổ phần và sự ra đời của thị truờng chứng khoán. Công ty cổ phần: Công ty cổ phần là một loại hình xí nghiệp lớn mà vốn của nó được hình thành từ sự đóng góp của nhiều nguời thông qua việc phát hành cổ phiếu. Cổ phiếu là một thứ chứng khoán có gí do công ty cổ phần phát hành ghi nhận quyền sở hữu cổ phần của người mua cổ phiếu (được gọi là cổ đông), đồng thời còn bảo đảm cho cổ đông có quyền được lĩnh một phần thu nhập của công ty (cổ tức) căn cứ vào gía trị cổ phần và tình hình sản xuất kinh doanh của công ty. Cổ phiếu được mua bán trên thị truờng chứng khoán theo thị giá cổ phiếu. Thị giá cổ phiếu được xác định tương đương với một số tiền mà nếu đem gửi vào ngân hàng thì căn cứ theo tỷ suất lợi tức hiện hành cũng sẽ đem lại một khoản lợi tức tuơng đương với mức cổ tức. Vì vậy, thị giá cổ phiếu phụ thuộc vào 2 nhân tố: . Mức cổ tức mà cổ phiếu mang lại. Mức cổ tức càng cao thì thị giá cổ phiếu càng lớn và ngược lại. . Tỷ suất lợi tức tiền gửi ngân hàng. Tỷ suất lợi tức tiền gửi ngân hàng càng cao thì thị giá cổ phiếu càng thấp và ngược lại. Tư bản giả:: Tư bản giả là tư bản tồn tại dưới hình thức các chứng khoán có giá và mang lại thu nhập cho người sở hữu các chứng khoán đó. Trên thực tế, có hai loại chứng khoán phổ biến là: cổ phiếu do công ty cổ phần phát hành và trái phiếu. Trái phiếu cũng có hai loại: Loại do các doanh nghiệp phát hành được gọi là trái phiếu công ty hay trái phiếu doanh nghiệp với tư cách là những chứng khoán có giá chứng nhận khoản tiền vay nợ của doanh nghiệp đối với người mua trái phiếu. Người mua trái phiếu không phải là cổ đông của doanh nghiệp mà chỉ đơn thuần là người cho doanh nghiệp vay vốn với giá trị tương ứng với mệnh giá trái phiếu. hết hạn, người sở hữu trái phiếu có quyền được hoàn trả số tiền đã mua trái phiếu theo mệnh giá kèm theo khoản lợi tức gọi là lợi tức trái phiếu. Loại do nhà nước hay chính phủ phát hành được gọi là trái phiếu chính phủ. Công trái về bản chất cũng là một loại trái phiếu chính phủ. Về cơ bản, trái phiếu chính phủ cũng giống như trái phiếu doanh nghiệp. Sự khác nhau tập trung ở chỗ: chủ nợ của trái phiếu doanh nghiệp là donanh nghiệp còn chủ nợ của trái phiếu chính phủ chính là nhà nước. Tư bản giả có những đặc điểm sau: - Có thể mang lại thu nhập cho người sở hữu nó. - Có thể mua bán được. - Vì là tư bản giả nên sự tăng hay giảm giá mua bán của nó trên thị truờng không cần có sự thay đổi tương ứng của tư bản thật.

Thị trường chứng khoán: Trên thực tế, tất cả các chứng khoán có giá đều có thể giao dịch, mua đi bán lại trên thị trường chứng khoán.

Khái niệm: Thị trường chứng khoán là nơi mua bán chứng khoán có giá.

Phân loại: - Nếu xét về lưu thông các chứng khoán. Thị trường chứng khoán có hai loại: + Thị trường sơ cấp: là mua bán chứng khoán phát hành lần đầu. + Thị trường thứ cấp: là mua bán lại các chứng khoán đã phát hành lần đầu. - Nếu xét về phương thức giao dịch có ba loại hình TTCK: + Sở giao dịch chứng khoán: Thị trường tập trung. + Thị trường OTC: thị trường bán tập trung: các công ty môi giới chứng khoán thực hiện các giao dịch qua hệ thống điện thoại và máy vi tính nối mạng giữa các thành viên khắp cả nước. + Thị trường không chính thức: mua bán chuyển nhượng CK ở bất cứ đâu, lúc nào. - Thị trường chứng khoán có hai chức năng cơ bản: + Huy động tiền tiết kiệm, tiền nhàn rỗi của dân; + Luân chuyển vốn.

Nguyên tắc cơ bản của TTCK:

- Nguyên tắc trung gian; - Nguyên tắc đấu giá; - Nguyên tắc công khai. Thị trường chứng khoán là thị trường phản ứng rất nhạy bén đối với các thay đổi của nền kinh tế. Vì vậy, người ta thường ví thị trường chưng khoán là phong vũ biểu của nền kinh tế. e. Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa nông nghiệp và địa tô tư bản chủ nghĩa

Tư bản kinh doanh nông nghiệp

- Lịch sử phát triển của CNTB trong nông nghiệp ở châu Âu hình thành theo hai con đường điển hình: + Bằng cải cách dần dần chuyển sang kinh doanh theo phương thức TBCN. Đó là con đường của các nước Đức, Italia, Nga, Nhật... + Thông qua cách mạng xóa bỏ chế độ kinh tế địa chủ, phát triển kinh tế TBCN trong nông nghiệp. Đó là con đường ở Pháp. Khi CNTB hình thành trong nông nghiệp, trong nông nghiệp có ba giai cấp cơ bản: + Địa chủ: độc quyền sở hữu ruộng đất. + Giai cấp tư bản kinh doanh trong nông nghiệp: độc quyền kinh doanh. + Công nhân nông nghiệp làm thuê.

Bản chất của địa tô tư bản chủ nghĩa

- Địa tô TBCN là bộ phận giá trị thặng dư siêu ngạch do công nhân làm thuê trong nông nghiệp tạo ra và do nhà tư bản thuê đất nộp cho địa chủ. - Nguồn gốc của địa tô: là giá trị thặng dư do công nhân nông nghiệp tạo ra. - Cơ sở của địa tô: là quyền sở hữu ruộng đất.

Địa tô tư bản chủ nghĩa và địa tô phong kiến:

- Giống nhau: + Đều là kết quả của bóc lột đối với người lao động. + Quyền sở hữu ruộng đất được thực hiện về mặt kinh tế. - Khác nhau: Về mặt chất: + Địa tô phong kiến phản ánh mối quan hệ giữa hai giai cấp địa chủ và nông dân. + Địa tô TBCN biểu hiện quan hệ ba giai cấp trong xã hội: địa chủ, tư bản kinh doanh nông nghiệp, công nhân nông nghiệp. Về mặt lượng: + Địa tô phong kiến gồm toàn bộ sản phẩm thặng dư do nông dân tạo ra, đôi khi cả một phần sản phẩm tất yếu. + Địa tô tư bản chủ nghĩa là một phần giá trị thặng dư do công nhân nông nghiệp tạo ra (một phần giá trị thặng dư chuyển thành lợi nhuận cho tư bản công nghiệp).

Các hình thức địa tô tư bản chủ nghĩa

a. Địa tô chênh lệch - Là phần lợi nhuận siêu ngạch ngoài lợi nhuận bình quân, thu được trên những ruộng đất tốt và trung bình. - Là số chênh lệch giữa giá cả SX chung của nông phẩm (được quyết định bởi điều kiện SX trên ruộng đất xấu nhất) và giá cả SX cá biệt trên ruộng đất tốt và trung bình. Có thể định lượng: Địa tô chênh lệch = Giá cả sản xuất chung - Giá cả sản xuất cá biệt Địa tô chênh lệch có hai loại: - Địa tô chênh lệch 1: địa tô thu được trên cơ sở đất đai có điều kiện tự nhiên thuận lợi: + độ mầu mỡ cao; + gần nơi tiêu thụ; + gần đường giao thông. Địa tô chênh lệch 1 thuộc về chủ ruộng đất. - Địa tô chênh lệch 2: là địa tô thu được do thâm canh mà có: Muốn vậy phải: + đầu tư thêm TLSX và lao động; + cải tiến kỹ thuật để tăng NSLĐ, tăng năng suất của ruộng đất.

Địa tô tuyệt đối: Địa tô tuyệt đối là loại địa tô mà tất cả các nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp đều phải nộp cho địa chủ, cho dù ruộng đất là tốt hay xấu. Đây là loại địa tô thu trên mọi thứ đất.

Chúng ta đều biết, dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, do có sự độc quyền về tư hữu ruộng đất, nên đã cản trở sự phát triển của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong lĩnh vực nông            nghiệp.Điều đó thể hiện ở chỗ: nông nghiệp thường lạc hậu so với công nghiệp cả về kinh tế lẫn kỹ thuật, vì thế cấu tạo hữu cơ của tư bản trong nông nghiệp thường thấp hơn cấu tạo hữu cơ của tư bản trong công nghiệp. Vì vậy, nếu trình độ bóc lột ngang nhau, và vơi một lượng tư bản ứng ra bằng nhau thì lượng giá trị thặng dư thu được trong nông nghiệp bao giờ cũng cao hơn lượng giá trị thặng dư thu được trong công nghiệp.

Ví dụ: Có hai nhà tư bản công nghiệp và nông nghiệp ứng ra một lượng tư bản là 100; cấu tạo hữu cơ của tư bản trong nông nghiệp là 3/2; cấu tạo hữu cơ của tư bản trong công nghiệp là 4/1; tỷ suất giá trị thặng dư trong cả hai ngành nông nghiệp và công nghiệp đều bằng nhau, bằng 100%; thì giá trị và giá trị thặng dư được sản xuất ở từng lĩnh vực là: Trong nông nghiệp: 60c +40v + 40m = 140 Trong công nghiệp: 80c +20v + 20m = 120 Giả sử tỷ suất lợi nhuận bình quân của xã hội ở mức 20%, có nghĩa là tương ứng với lượng tư bản ứng ra là 100 thì lơi nhuận bình quân thu được sẽ là 20 và giá cả sản xuất chung của xã hội sẽ bằng: 100 + 20 = 120. Như vậy, trong ví dụ này tồn tại sự chênh lệch giữa giá trị nông sản phẩm và giá cả sản xuất chung là: 140 - 120 = 20. Sự độc quyền tư hữu ruộng đất đã ngăn cản quá trình tự do di chuyển tư bản từ các ngành khác vào nông nghiệp và do đó đã ngăn cản quá trình bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận giữa công nghiệp và nông nghiệp.

Địa tô tuyệt đối là một loại lợi nhuận siêu ngạch ngoài lợi nhuận bình quân hình thành do cấu tạo hữu cơ của tư bản trong nông nghiệp thấp hơn trong công nghiệp, mà bất cứ nhà tư bản thuê ruộng đất nào đều phải nộp cho địa chủ.

Nó là số chênh lệch giữa giá trị nông sản với giá cả SX chung. Địa tô tuyệt đối có điểm giống nhưng cũng có điểm khác biệt so với địa tô chênh lệch. Điểm giống nhau: Đều là lợi nhuận siêu ngạch, đều có nguồn gốc từ giá trị thặng dư, đều là kết quả của sự chiếm đoạt giá trị thặng dư của công nhân nông nghiệp làm thuê Điểm khác biệt: Độc quyền kinh doanh ruộng đất theo kiểu tư bản chủ nghĩa là nguyên nhân sỉnh ra địa tô chênh lệch, còn độc quyền tư hữu về ruộng đất là nguyên nhân sinh ra địa tô tuyệt đối. Vì vậy việc xóa bỏ chế độ độc quyền tư hữu về ruộng đất chính là cơ sở để xóa bỏ địa tô tuyệt đối. Khi đó giá cả nông sản phẩm sẽ hạ xuống và có lợi cho người tiêu dùng. Ngoài hai loại địa tô chủ yếu là địa tô chênh lệch và địa tô tuyệt đối, trong thực tế còn tồn tại một số loại địa tô khác nữa, như, địa tô đất xây dựng, địa tô hầm mỏ, địa tô độc quyền…về cơ bản các laọi địa tô này đều là lợi nhuận siêu ngạch gắn liền với những lợi thế tự nhiên của đất đai. Theo Mac, các loại địa tô ấy “ đều dựa trên cơ sở của địa tô nông nghiệp theo đúng nghĩa của danh từ này”, có nghĩa là do địa tô nông nghiệp điều tiết.

Giá cả ruộng đất

Giá cả đất đai không phải là biểu hiện bằng tiền của giá trị đất đai. Giá cả đất đai được tính theo sự biến động của địa tô và tỷ suất lợi tức ngân hàng. Giá cả ruộng đất phụ thuộc: - Mức địa tô thu được hàng năm. - Tỷ suất lợi tức tiền gửi ngân hàng. Ví dụ: Một mảnh ruộng A cho thuê, địa tô hàng năm nhận được là 1.500 USD, tỷ suất lợi tức ngân hàng là 5% thì mảnh ruộng A được bán với giá:

                               1500×1005  = 30.000 USD              

Lý luận địa tô TBCN của C. Mác không chỉ vạch rõ bản chất của quan hệ sản xuất TBCN trong nông nghiệp mà còn là cơ sở khoa học để xây dựng các chính sách kinh tế liên quan đến thuế, đến điều tiết các loai địa tô, đến giải quyết các quan hệ đất đai. Nhằm kết hợp hài hòa các lợi ích, khuyến khích thâm canh, sử dụng đất đai tiết kiệm, phát triển một nền nông nghiệp hàng hóa sinh thái bền vững

Chương VI: Học thuyết về chủ nghĩa tư bản độc quyền và I. CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN

I. CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN

1. Sự chuyển biến từ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa tư bản độc quyền Nghiên cứu chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, C.Mác và Ph.Ăngghen đã dự báo rằng: tự do cạnh tranh sinh ra tích tụ và tập trung sản xuất, tích tụ và tập trung sản xuất phát triển đến một mức độ nào đó sẽ dẫn đến độc quyền. Vận dụng sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác vào điều kiện lịch sử mới của thế giới, V.I. Lênin đã chứng minh rằng chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang chủ nghĩa tư bản độc quyền, đồng thời nêu ra năm đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền.Chủ nghĩa tư bản độc quyền xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX do những nguyên nhân chủ yếu sau:

- Sự phát triển của lực lượng sản xuất dưới tác động của tiến bộ khoa học kỹ thuật đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, hình thành các xí nghiệp có quy mô lớn. - Vào 30 năm cuối của thế kỷ XIX, những thành tựu khoa học kỹ thuật mới xuất hiện như lò luyện kim mới Betsơme, Máctanh, Tômát... đã tạo ra sản lượng lớn gang thép với chất lượng cao; phát hiện ra hoá chất mới như axít sunphuaric (H2SO4), thuốc nhuộm...; máy móc mới ra đời: động cơ điêzen, máy phát điện, máy tiện, máy phay...; phát triển những phương tiện vận tải mới: xe hơi, tàu thuỷ, xe điện, máy bay... và đặc biệt là đường sắt. Những thành tựu khoa học kỹ thuật này, một mặt làm xuất hiện những ngành sản xuất mới đòi hỏi xí nghiệp phải có quy mô lớn; mặt khác, nó dẫn đến tăng năng suất lao động, tăng khả năng tích lũy tư bản, thúc đẩy phát triển sản xuất lớn. - Trong điều kiện phát triển của khoa học kỹ thuật, sự tác động của cácquy luật kinh tế của chủ nghĩa tư bản như quy luật giá trị thặng dư, quy luật tích lũy... ngày càng mạnh mẽ, làm biến đổi cơ cấu kinh tế của xã hội tư bản theo hướng tập trung sản xuất quy mô lớn.

- Cạnh tranh khốc liệt buộc các nhà tư bản phải tích cực cải tiến kỹ thuật, tăng quy mô tích lũy để thắng thế trong cạnh tranh. Đồng thời, cạnh tranh gay gắt làm cho các nhà tư bản vừa và nhỏ bị phá sản, còn các nhà tư bản lớn phát tài, làm giàu với số tư bản tập trung và quy mô xí nghiệp ngày càng to lớn. - Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1873 trong toàn bộ thế giới tư bản chủ nghĩa làm phá sản hàng loạt xí nghiệp vừa và nhỏ, thúc đẩy nhanh chóng quá trình tích tụ và tập trung tư bản. - Sự phát triển của hệ thống tín dụng tư bản chủ nghĩa trở thành đòn bẩy mạnh mẽ thúc đẩy tập trung sản xuất, nhất là việc hình thành các công ty cổ phần, tạo tiền đề cho sự ra đời của các tổ chức độc quyền. V.I. Lênin khẳng định: "... tự do cạnh tranh đẻ ra tập trung sản xuất và sự tập trung sản xuất này, khi phát triển tới một mức độ nhất định, lại dẫntới độc quyền”

2. Những đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền a. Tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền Tích tụ và tập trung sản xuất cao dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền là đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa đế quốc.Trong những năm 1900, ở Mỹ, Đức, Anh, Pháp đều có tình hình là các xí nghiệp lớn chỉ chiếm khoảng 1% tổng số xí nghiệp nhưng chiếm hơn 3/4 tổng số máy hơi nước và điện lực, gần một nửa tổng số công nhân và sản xuất ra gần một nửa tổng số sản phẩm. Sự tích tụ và tập trung sản xuất đến mức cao như vậy đã trực tiếp dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền. Bởi vì, một mặt, do có một số ít các xí nghiệp lớn nên có thể dễ dàng thoả thuận với nhau; mặt khác, các xí nghiệp có quy mô lớn, kỹ thuật cao nên cạnh tranh sẽ rất gay gắt, quyết liệt, khó đánh bại nhau, do đó đã dẫn đến khuynh hướng thoả hiệp với nhau để nắm độc quyền.Tổ chức độc quyền là tổ chức liên minh giữa các nhà tư bản lớn để tậptrung vào trong tay phần lớn việc sản xuất và tiêu thụ một số loại hàng hoá nào đó nhằm mục đích thu được lợi nhuận độc quyền cao. Khi mới bắt đầu quá trình độc quyền hoá, các liên minh độc quyền hình thành theo liên kết ngang, nghĩa là mới chỉ liên kết những doanh nghiệp trong cùng một ngành, nhưng về sau theo mối liên hệ dây chuyền, các tổ chức độc quyền đã phát triển theo liên kết dọc, mở rộng ra nhiều ngành khác nhau. Những hình thức độc quyền cơ bản là: cácten, xanhđica,tờrớt,côngxoócxiom, cônggơlômêrát. - Cácten là hình thức tổ chức độc quyền giữa các nhà tư bản ký hiệpnghị thoả thuận với nhau về giá cả, quy mô sản lượng, thị trường tiêu thụ, kỳ hạn thanh toán... Các nhà tư bản tham gia cácten vẫn độc lập về sản xuất và thương nghiệp. Vì vậy, cácten là liên minh độc quyền không vững chắc. - Xanhđica là hình thức tổ chức độc quyền cao hơn, ổn định hơn cácten.Các xí nghiệp tham gia xanhđica vẫn giữ độc lập về sản xuất, chỉ mất độclập về lưu thông, mọi việc mua, bán do một ban quản trị chung của xanhđicađảm nhận. Mục đích của xanhđica là thống nhất đầu mối mua và bán để muanguyên liệu với giá rẻ, bán hàng hoá với giá đắt nhằm thu lợi nhuận độcquyền cao. - Tờrớt là một hình thức độc quyền cao hơn cácten và xanhđica, nhằm thống nhất cả việc sản xuất, tiêu thụ, tài vụ đều do một ban quản trị quản lý.Các nhà tư bản tham gia tờrớt trở thành những cổ đông thu lợi nhuận theo số lượng cổ phần. - Côngxoócxiom là hình thức tổ chức độc quyền có trình độ và quy mô lớn hơn các hình thức độc quyền trên. Tham gia côngxoócxiom không chỉ có các nhà tư bản lớn mà còn có cả các xanhđica, tờrớt thuộc các ngành khác nhau nhưng liên quan với nhau về kinh tế, kỹ thuật.Mục đích của xanhđica là thống nhất đầu mối mua và bán để mua nguyên liệu với giá rẻ, bán hàng hoá với giá đắt nhằm thu lợi nhuận độc quyền cao.

b. Tư bản tài chính và bọn đầu sỏ tài chính

Cùng với quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, trong công nghiệp cũng diễn ra quá trình tích tụ, tập trung tư bản trong ngân hàng, dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền trong ngân hàng. Sự xuất hiện, phát triển của các độc quyền trong ngân hàng đã làm thay đổi quan hệ giữa tư bản ngân hàng và tư bản công nghiệp, làm cho ngân hàng bắt đầu có vai trò mới. Ngân hàng từ chỗ chỉ là kẻ trung gian trong việc thanh toán và tín dụng, nay trở nên có quyền lực vạn năng, khống chế mọi hoạt động của nền kinh tế xã hội tư bản. Trước sự khống chế và chi phối ngày càng xiết chặt của ngân hàng, một quá trình xâm nhập tương ứng trở lại của các độc quyền công nghiệp vàongân hàng cũng diễn ra. Các tổ chức độc quyền công nghiệp cũng tham gia vào công việc của ngân hàng bằng cách mua cổ phần của ngân hàng lớn đểchi phối hoạt động của ngân hàng, hoặc lập ngân hàng riêng phục vụ chomình. Quá trình độc quyền hoá trong công nghiệp và trong ngân hàng xoắn xuýt với nhau và thúc đẩy lẫn nhau làm nảy sinh một thứ tư bản mới, gọi là tư bản tài chính.Theo V.I. Lênin: "tư bản tài chính là kết quả của sự hợp nhất giữa tư bản ngân hàng của một số ít ngân hàng độc quyền lớn nhất, với tư bản củanhững liên minh độc quyền các nhà công nghiệp” Sự phát triển của tư bản tài chính dẫn đến sự hình thành một nhóm nhỏ độc quyền chi phối toàn bộ đời sống kinh tế và chính trị của toàn xã hội tư bản gọi là bọn đầu sỏ tài chính.Bọn đầu sỏ tài chính thiết lập sự thống trị của mình thông qua “chế độ tham dự”. Thực chất của chế độ tham dự là một nhà tài chính lớn, hoặc một tập đoàn tài chính nhờ có số cổ phiếu khống chế mà nắm được một công tylớn nhất với tư cách là công ty gốc (hay là "công ty mẹ”); công ty này lạimua được cổ phiếu khống chế, thống trị được công ty khác, gọi là "công tycon”; "công ty con" đến lượt nó lại chi phối các "công ty cháu" cũng bằngcách như thế... Nhờ có chế độ tham dự và phương pháp tổ chức tập đoàntheo kiểu móc xích như vậy, bằng một lượng tư bản đầu tư nhỏ, các nhà tưbản độc quyền tài chính có thể khống chế và điều tiết được một lượng tư bảnlớn gấp nhiều lần. Ngoài "chế độ tham dự", bọn đầu sỏ tài chính còn sử dụng những thủ đoạn như lập công ty mới, phát hành trái khoán, kinh doanh công trái, đầu cơ chứng khoán ở sở giao dịch, đầu cơ ruộng đất... để thu được lợi nhuận độc quyền cao.Thống trị về kinh tế là cơ sở để bọn đầu sỏ tài chính thống trị về chínhtrị và các mặt khác. Về mặt chính trị, bọn đầu sỏ tài chính chi phối mọi hoạtđộng của các cơ quan nhà nước, biến nhà nước tư sản thành công cụ phục vụlợi ích cho chúng. Sự thống trị của bọn tài phiệt đã làm nảy sinh chủ nghĩa phátxít, chủ nghĩa quân phiệt và nhiều thứ chủ nghĩa phản động khác, cùng chạy đua vũ trang gây chiến tranh xâm lược để áp bức, bóc lột các nướcđang phát triển và chậm phát triển.

c. Xuất khẩu tư bản

V.I. Lênin vạch ra rằng, xuất khẩu hàng hoá là đặc điểm của giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, còn xuất khẩu tư bản là đặc điểm của chủ nghĩa tư bản độc quyền. Xuất khẩu tư bản là xuất khẩu giá trị ra nước ngoài (đầu tư tư bản ra nước ngoài) nhằm mục đích chiếm đoạt giá trị thặng dư và các nguồn lợi nhuận khác ở các nước nhập khẩu tư bản. Vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, xuất khẩu tư bản trở thành tất yếu vì: - Một số ít nước phát triển đã tích lũy được một khối lượng tư bản lớn và có một số "tư bản thừa" tương đối cần tìm nơi đầu tư có nhiều lợi nhuận hơn so với đầu tư ở trong nước.

- Nhiều nước lạc hậu về kinh tế bị lôi cuốn vào sự giao lưu kinh tế thế giới nhưng lại rất thiếu tư bản, giá ruộng đất tương đối hạ, tiền lương thấp, nguyên liệu rẻ, nên tỷ suất lợi nhuận cao, rất hấp dẫn đầu tư tư bản.Xuất khẩu tư bản được thực hiện dưới hai hình thức chủ yếu: đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp.

- Đầu tư trực tiếp là hình thức xuất khẩu tư bản để xây dựng những xí nghiệp mới hoặc mua lại những xí nghiệp đang hoạt động ở nước nhận đầu tư, biến nó thành một chi nhánh của công ty mẹ ở chính quốc. - Đầu tư gián tiếp là hình thức xuất khẩu tư bản dưới dạng cho vay thu lãi. Đó là hình thức xuất khẩu tư bản cho vay. Thực hiện các hình thức xuất khẩu tư bản trên, xét về chủ sở hữu tư bản, có thể phân chia thành xuất khẩu tư bản tư nhân và xuất khẩu tư bản nhà nước.

- Xuất khẩu tư bản nhà nước là việc nhà nước tư bản độc quyền dùng nguồn vốn từ ngân quỹ của mình, tiền của các tổ chức độc quyền để đầu tư vào nước nhập khẩu tư bản hoặc viện trợ có hoàn lại hay không hoàn lại để thực hiện những mục tiêu về kinh tế, chính trị và quân sự. Về kinh tế, xuất khẩu tư bản nhà nước thường hướng vào các ngành thuộc kết cấu hạ tầng để tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư của tư bản tư nhân. Nhà nước tư bản viện trợ không hoàn lại cho nước nhập khẩu tư bản để ký được những hiệp định thương mại và đầu tư có lợi... Về chính trị, viện trợ của nhà nước tư sản thường nhằm duy trì và bảo vệ chế độ chính trị "thân cận" đã bị lung lay ở các nước nhập khẩu tư bản, tăng cường sự phụ thuộc của các nước đó vào các nước đế quốc, thực hiện chủ nghĩa thực dân mới, tạo điều kiện cho tư nhân xuất khẩu tư bản. Về quân sự, viện trợ của tư bản nhà nước nhằm lôi kéo các nước phụ thuộc vào khối quân sự hoặc buộc các nước nhận viện trợ phải cho các nước xuất khẩu lập căn cứ quân sự trên lãnh thổ của mình...

- Xuất khẩu tư bản tư nhân là hình thức xuất khẩu do tư bản tư nhân thực hiện. Hình thức này có đặc điểm cơ bản là nó thường được đầu tư vào những ngành kinh tế có vòng quay tư bản ngắn và thu được lợi nhuận độc quyền cao, dưới hình thức các hoạt động cắm nhánh của các công ty xuyên quốc gia. Việc xuất khẩu tư bản là sự mở rộng quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ra nước ngoài, là công cụ chủ yếu để bành trướng sự thống trị, bóc lột, nô dịch của tư bản tài chính trên phạm vi toàn thế giới. d. Sự phân chia thế giới về kinh tế giữa các tổ chức độc quyền Quá trình tích tụ và tập trung tư bản phát triển, việc xuất khẩu tư bản tăng lên cả về quy mô và phạm vi tất yếu dẫn tới sự phân chia thế giới về mặt kinh tế giữa các tập đoàn tư bản độc quyền và hình thành các tổ chức độc quyền quốc tế. Lịch sử phát triển của chủ nghĩa tư bản đã chứng minh thị trường trong nước luôn luôn gắn với thị trường nước ngoài. Đặc biệt trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, thị trường ngoài nước còn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các nước đế quốc. Một mặt, do lực lượng sản xuất phát triển đòi hỏi ngày càng phải có nhiều nguồn nguyên liệu và nơi tiêu thụ; mặt khác, do thèm khát lợi nhuận siêu ngạch thúc đẩy tư bản độc quyền tăng cường bành trướng ra nước ngoài để tạo thị trường ổn định thường xuyên.

- Sự đụng độ trên trường quốc tế giữa các tổ chức độc quyền quốc gia có sức mạnh kinh tế hùng hậu lại được sự ủng hộ của nhà nước "của mình"và các cuộc cạnh tranh khốc liệt giữa chúng tất yếu dẫn đến xu hướng thoả hiệp, ký kết các hiệp định, để củng cố địa vị độc quyền của chúng trong những lĩnh vực và những thị trường nhất định. Từ đó hình thành các liên minh độc quyền quốc tế dưới dạng cácten, xanhđica, tờrớt quốc tế...

e. Sự phân chia thế giới về lãnh thổ giữa các cường quốc đế quốc Sự phân chia thế giới về kinh tế được củng cố và tăng cường bằng việc phân chia thế giới về lãnh thổ. V.I. Lênin đã chỉ ra rằng: "Chủ nghĩa tư bản phát triển càng cao, nguyên liệu càng thiếu thốn, sự cạnh tranh càng gay gắt và việc tìm kiếm các nguồn nguyên liệu trên toàn thế giới càng ráo riết, thì cuộc đấu tranh để chiếm thuộc địa càng quyết liệt hơn" Các cường quốc đế quốc ra sức xâm chiếm thuộc địa, bởi vì thuộc địa là nơi bảo đảm nguồn nguyên liệu và thị trường thường xuyên, là nơi tương đối an toàn trong cạnh tranh, bảo đảm thực hiện đồng thời những mục đích về kinh tế, quân sự và chính trị. Từ sau năm 1880, những cuộc xâm chiếm thuộc địa bắt đầu phát triển mạnh. Đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, các nước đế quốc đã hoàn thành việc phân chia lãnh thổ thế giới. Đế quốc Anh chiếm được nhiều thuộc địa nhất, sau đó đến Nga (Nga Hoàng) và Pháp. Số dân thuộc địa của Anh nhiều hơn 12 lần số dân thuộc địa của Nga và bằng 7 lần của Pháp. Số dân thuộc địa của Pháp lại nhiều hơn số dân thuộc địa của ba nước Đức, Mỹ, Nhật cộng lại. Sự phân chia lãnh thổ và phát triển không đều của chủ nghĩa tư bản tất yếu dẫn đến cuộc đấu tranh đòi chia lại thế giới đã chia xong. Đó là nguyên nhân chính dẫn đến các cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất 1914-1918 và lần thứ hai 1939-1945. Từ những năm 50 của thế kỷ XX trở đi, phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh mẽ đã làm sụp đổ và tan rã hệ thống thuộc địa kiểu cũ, nhưng điều đó không có nghĩa là chủ nghĩa thực dân đã bị thủ tiêu. Trái lại, các cường quốc đế quốc chuyển sang thi hành chính sách thực dân mới, mà nội dung chủ yếu của nó là dùng viện trợ kinh tế, kỹ thuật, quân sự để duy trì sự lệ thuộc của các nước đang phát triển vào các nước đế quốc.

Năm đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa đế quốc có liên quan chặt chẽ với nhau, nói lên bản chất của chủ nghĩa đế quốc về mặt kinh tế là sự thống trị của chủ nghĩa tư bản độc quyền, về mặt chính trị là hiếu chiến, xâm lược.

3. Sự hoạt động của quy luật giá trị và quy luật giá trị thặng dư trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền a. Quan hệ giữa độc quyền và cạnh tranh

Độc quyền sinh ra từ cạnh tranh tự do, đối lập với cạnh tranh tự do. Nhưng sự xuất hiện của độc quyền không thủ tiêu được cạnh tranh, trái lại nó còn làm cho cạnh tranh trở nên đa dạng, gay gắt và có sức phá hoại to lớn hơn. Trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, không chỉ tồn tại sự cạnh tranh giữa những người sản xuất nhỏ, giữa những nhà tư bản vừa và nhỏ như trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, mà còn có thêm các loại cạnh tranh sau: Một là, cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền với các xí nghiệp ngoài độc quyền. Các tổ chức độc quyền tìm mọi cách chèn ép, chi phối, thôn tính các xí nghiệp ngoài độc quyền bằng nhiều biện pháp như: độc chiếm nguồn nguyên liệu, nguồn nhân công, phương tiện vận tải, tín dụng, hạ giá có hệ thống... để đánh bại đối thủ.

Hai là, cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền với nhau. Loại cạnh tranh này có nhiều hình thức: cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền trong một ngành, kết thúc bằng một sự thoả hiệp hoặc bằng sự phá sản của một bên cạnh tranh; cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền khác ngành có liên quan với nhau về nguồn nguyên liệu, kỹ thuật...

Ba là, cạnh tranh trong nội bộ các tổ chức độc quyền. Những nhà tư bản tham gia cácten, xanhđica cạnh tranh với nhau để giành thị trường tiêu thụ có lợi hoặc giành tỷ lệ sản xuất cao hơn. Các thành viên của tờrớt và côngxoócxiom cạnh tranh với nhau để chiếm cổ phiếu khống chế, từ đó chiếm địa vị lãnh đạo và phân chia lợi nhuận có lợi hơn.

b. Biểu hiện hoạt động của quy luật giá trị và quy luật giá trị thặng dư trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền.

Các tổ chức độc quyền hình thành do chính sự vận động nội tại của chủ nghĩa tư bản sinh ra. Độc quyền là biểu hiện mới, mang những quan hệ mới nhưng nó không vượt ra khỏi các quy luật của chủ nghĩa tư bản, mà chỉ là sự tiếp tục mở rộng, phát triển những xu thế sâu sắc nhất của chủ nghĩa tư bản và của nền sản xuất hàng hoá nói chung, làm cho các quy luật kinh tế của nền sản xuất hàng hoá và của chủ nghĩa tư bản có những biểu hiện mới. Do chiếm được vị trí độc quyền nên các tổ chức độc quyền áp đặt được giá cả độc quyền: giá cả độc quyền thấp khi mua, giá cả độc quyền cao khi bán. Về thực chất, giá cả độc quyền vẫn không thoát ly và không phủ định cơ sở của nó là giá trị. Các tổ chức độc quyền thi hành chính sách giá cả độc quyền chẳng qua là chiếm đoạt một phần giá trị và giá trị thặng dư của những người khác. Nếu xem xét trong toàn bộ hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa thì tổng số giá cả vẫn bằng tổng số giá trị. Như vậy, nếu như trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh quy luật giá trị biểu hiện thành quy luật giá cả sản xuất, thì trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa quy luật giá trị biểu hiện thành quy luật giá cả độc quyền. Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, quy luật giá trị thặng dư biểu hiện thành quy luật tỷ suất lợi nhuận bình quân. Bước sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, các tổ chức độc quyền thao túng nền kinh tế bằng giá cả độc quyền và thu được lợi nhuận độc quyền cao. Do đó quy luật lợi nhuận độc quyền cao chỉ là hình thức biểu hiện của quy luật giá trị thặng dư trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Nguồn gốc của lợi nhuận độc quyền cao là lao động không công của công nhân ở các xí nghiệp độc quyền; một phần lao động không công của công nhân ở các xí nghiệp không độc quyền; một phần giá trị thặng dư của các nhà tư bản vừa và nhỏ bị mất đi do thua thiệt trong cuộc cạnh tranh; lao động thặng dư và đôi khi cả một phần lao động tất yếu của những người sản xuất nhỏ, nhân dân lao động ở các nước tư bản và các nước thuộc địa, phụ thuộc.

Như vậy, sự biểu hiện của quy luật giá trị thặng dư trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa thành quy luật lợi nhuận độc quyền cao chỉ là sự phản ánh quan hệ thống trị và bóc lột của tư bản độc quyền trong tất cả các ngành kinh tế của xã hội tư bản và trên toàn thế giới.

II. CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN NHÀ NƯỚC

1. Nguyên nhân ra đời và bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước

a. Nguyên nhân hình thành và phát triển chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước

Đầu thế kỷ 20 chủ nghĩa tư bản độc quyền chuyển thành chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước nhưng chỉ đến những năm 50 của thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước mới trở thành một thực thể rõ ràng và là một đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa tư bản hiện đại. Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước ra đời do những nguyên nhân chủ yếu sau đây:

Một là: tích tụ và tập trung tư bản càng lớn thì tích tụ và tập trung sản xuất càng cao, do đó đẻ ra những cơ cấu kinh tế to lớn đòi hỏi một sự điều tiết xã hội đối với sản xuất và phân phối, một sự kế hoạch hoá tập trung từ một trung tâm. Nói cách khác, sự phát triển hơn nữa của trình độ xã hội hoá lực lượng sản xuất đã dẫn đến yêu cầu khách quan là nhà nước phải đại biểu cho toàn bộ xã hội quản lý nền sản xuất. Lực lượng sản xuất xã hội hoá ngàycàng cao càng mâu thuẫn gay gắt với hình thức chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, do đó tất yếu đòi hỏi một hình thức mới của quan hệ sản xuất để lực lượng sản xuất có thể tiếp tục phát triển trong điều kiện còn sự thống trị của chủ nghĩa tư bản. Hình thức mới đó là chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước.

Hai là, sự phát triển của phân công lao động xã hội đã làm xuất hiện một số ngành mà các tổ chức độc quyền tư bản tư nhân không thể hoặc không muốn kinh doanh vì đầu tư lớn, thu hồi vốn chậm và ít lợi nhuận, nhất là các ngành thuộc kết cấu hạ tầng như năng lượng, giao thông vận tải, giáo dục, nghiên cứu khoa học cơ bản... phải do nhà nước đảm nhiệm.

Ba là, sự thống trị của độc quyền đã làm sâu sắc thêm sự đối kháng giữa giai cấp tư sản với giai cấp vô sản và nhân dân lao động. Nhà nước phải có những chính sách để xoa dịu những mâu thuẫn đó như trợ cấp thất nghiệp, điều tiết thu nhập quốc dân, phát triển phúc lợi xã hội...

Bốn là, cùng với xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế, sự bành trướng của các liên minh độc quyền quốc tế vấp phải những hàng rào quốc gia dân tộc và xung đột lợi ích với các đối thủ trên thị trường thế giới. Tình hình đó đòi hỏi phải có sự điều tiết của nhà nước đối với các quan hệ chính trị và kinh tế quốc tế.

Ngoài ra, việc thi hành chủ nghĩa thực dân mới, đấu tranh với chủ nghĩa xã hội hiện thực và tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại cũng đòi hỏi sự can thiệp trực tiếp của nhà nước vào đời sống kinh tế.

b. Bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước

Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự kết hợp sức mạnh của các tổ chức độc quyền tư nhân với sức mạnh của nhà nước tư sản thành một thiết chế và thể chế thống nhất nhằm phục vụ lợi ích của các tổ chức độc quyền và cứu nguy cho chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là nấc thang phát triển mới của chủ nghĩa tư bản độc quyền (chủ nghĩa đế quốc). Nó là sự thống nhất của ba quá trình gắn bó chặt chẽ với nhau: tăng sức mạnh của các tổ chức độc quyền, tăng vai trò can thiệp của nhà nước vào kinh tế, kết hợp sức mạnh của độc quyền tư nhân với sức mạnh của nhà nước trong một cơ chế thống nhất và bộ máy nhà nước phụ thuộc vào các tổ chức độc quyền. V.I. Lênin chỉ ra rằng: "Bọn đầu sỏ tài chính dùng một mạng lưới dày đặc những quan hệ lệ thuộc để bao trùm hết thảy các thiết chế kinh tế và chính trị... đó là biểu hiện rõ rệt nhất của sự độc quyền ấy” Trong cơ cấu của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, nhà nước đã trở thành một tập thể tư bản khổng lồ. Nó cũng là chủ sở hữu những xí nghiệp, cũng tiến hành kinh doanh, bóc lột lao động làm thuê như một nhà tư bản thông thường. Nhưng điểm khác biệt là ở chỗ: ngoài chức năng một nhà tư bản thông thường, nhà nước còn có chức năng chính trị và các công cụ trấn áp xã hội như quân đội, cảnh sát, nhà tù... Ph. Ăngghen cũng cho rằng nhà nước đó vẫn là nhà nước của các nhà tư bản, là nhà tư bản tập thể lý tưởng và nhà nước ấy càng chuyển nhiều lực lượng sản xuất thành tài sản của nó bao nhiêu thì nó lại càng biến thành nhà tư bản tập thể thực sự bấy nhiêu. Như vậy, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là một quan hệ kinh tế,chính trị, xã hội chứ không phải là một chính sách trong giai đoạn độc quyềncủa chủ nghĩa tư bản.Bất cứ nhà nước nào cũng có vai trò kinh tế nhất định đối với xã hội mà nó thống trị, song ở mỗi chế độ xã hội, vai trò kinh tế của nhà nước có sự biến đổi thích hợp đối với xã hội đó. Các nhà nước trước chủ nghĩa tư bản chủ yếu can thiệp bằng bạo lực và theo lối cưỡng bức siêu kinh tế. Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, nhà nước tư sản ở bên trên, bên ngoài quá trình kinh tế, vai trò của nhà nước chỉ dừng lại ở việc điều tiết bằng thuế và pháp luật. Ngày nay vai trò của nhà nước tư sản đã có sự biếnđổi, không chỉ can thiệp vào nền sản xuất xã hội bằng thuế, luật pháp mà còncó vai trò tổ chức và quản lý các xí nghiệp thuộc khu vực kinh tế nhà nước,điều tiết bằng các biện pháp đòn bẩy kinh tế vào tất cả các khâu của quátrình tái sản xuất: sản xuất, phân phối, lưu thông, tiêu dùng. Chủ nghĩa tưbản độc quyền nhà nước là hình thức vận động mới của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa nhằm duy trì sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản, làm cho chủnghĩa tư bản thích nghi với điều kiện lịch sử mới.

2. Những biểu hiện của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước

a. Sự kết hợp về con người giữa các tổ chức độc quyền và bộ máy nhà nước

V.I. Lênin đã từng nhấn mạnh rằng sự liên minh cá nhân của các ngân hàng với công nghiệp được bổ sung bằng sự liên minh cá nhân của ngân hàng và công nghiệp với chính phủ: "Hôm nay là bộ trưởng, ngày mai là chủ ngân hàng; hôm nay là chủ ngân hàng, ngày mai là bộ trưởng”. Sự kết hợp về nhân sự thực hiện thông qua các đảng phái tư sản. Chính các đảng phái này đã tạo ra cho tư bản độc quyền một cơ sở xã hội để thực hiện sự thống trị và trực tiếp xây dựng đội ngũ công chức cho bộ máy nhà nước.Cùng với các đảng phái tư sản, là các hội chủ xí nghiệp mang những tên khác nhau, thí dụ: Hội Công nghiệp toàn quốc Mỹ, Tổng Liên đoàn công nghiệp Italia, Liên đoàn các nhà kinh tế Nhật Bản, Liên minh Liên bang công nghiệp Đức, Hội đồng quốc gia giới chủ Pháp, Tổng Liên đoàn công thương Anh... Các hội chủ xí nghiệp này trở thành lực lượng chính trị, kinh tế to lớn, là chỗ dựa cho chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. Các hội chủnày hoạt động thông qua các đảng phái của giai cấp tư sản, cung cấp kinh phí cho các đảng, quyết định về mặt nhân sự và đường lối chính trị, kinh tếcủa các đảng, tham gia vào việc thành lập bộ máy nhà nước ở các cấp. Mặtkhác, chúng còn lập ra các uỷ ban tư vấn bên cạnh các bộ nhằm "lái" hoạtđộng của nhà nước theo chiến lược của mình. Vai trò của các hội lớn đếnmức mà dư luận thế giới đã gọi chúng là những chính phủ đằng sau chính phủ, một quyền lực thực tế đằng sau quyền lực của chính quyền. Thông qua các hội chủ, một mặt các đại biểu của các tổ chức độc quyền tham gia vào bộ máy nhà nước với những cương vị khác nhau; mặt khác, các quan chức và nhân viên chính phủ được cài vào các ban quản trị của các tổ chức độcquyền, giữ những chức vụ trọng yếu chính thức hoặc danh dự, hoặc trở thành những người đỡ đầu các tổ chức độc quyền. Sự thâm nhập lẫn nhau này (còn gọi là sự kết hợp) đã tạo ra những biểu hiện mới trong mối quan hệ giữa các tổ chức độc quyền và cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương.

b. Sự hình thành và phát triển của sở hữu nhà nước Sở hữu độc quyền nhà nước là sở hữu tập thể của giai cấp tư bản độcquyền có nhiệm vụ ủng hộ và phục vụ lợi ích của tư bản độc quyền nhằm duy trì sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản. Nó biểu hiện không những ở chỗ sở hữu nhà nước tăng lên mà còn ở sự tăng cường mối quan hệ giữa sở hữu nhà nước và sở hữu độc quyền tư nhân, hai loại sở hữu này đan kết với nhau trong quá trình tuần hoàn của tổng tư bản xã hội. Sở hữu nhà nước không chỉ bao gồm những động sản và bất động sản cần cho hoạt động của bộ máy nhà nước, mà gồm cả những doanh nghiệp nhà nước trong công nghiệp và trong các lĩnh vực kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội như giao thông vận tải, giáo dục, y tế, bảo hiểm xã hội... trong đó ngân sách nhà nước là bộ phận quan trọng nhất. Sở hữu nhà nước được hình thành dưới nhiều hình thức khác nhau: xây dựng doanh nghiệp nhà nước bằng vốn của ngân sách; quốc hữu hoá các xí nghiệp tư nhân bằng cách mua lại; nhà nước mua cổ phần của các doanh nghiệp tư nhân; mở rộng doanh nghiệp nhà nước bằng vốn tích lũy của các doanh nghiệp tư nhân... Các doanh nghiệp nhà nước thực hiện các chức năng quan trọng sau:

Một là, mở rộng sản xuất tư bản chủ nghĩa, bảo đảm địa bàn rộng lớn cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản.

Hai là, giải phóng tư bản của tổ chức độc quyền từ những ngành ít lãi để đưa vào những ngành kinh doanh có hiệu quả hơn.

Ba là, làm chỗ dựa cho sự điều tiết kinh tế tư bản chủ nghĩa theo những chương trình nhất định. Sở hữu nhà nước mặc dù biểu hiện ra như là “sở hữu xã hội”. Song về thực chất nó không vượt qua khuôn khổ sở hữu tư bản chủ nghĩa. Trong các xí nghiệp nhà nước, công nhân vẫn chỉ là người làm thuê chứ không phải là người chủ sở hữu tư liệu sản xuất.

c. Sự can thiệp của nhà nước vào các quá trình kinh tế

Một trong những hình thức biểu hiện quan trọng của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự tham gia của nhà nước vào điều tiết quá trình kinh tế. Hệ thống điều tiết của nhà nước tư sản hình thành một tổng thể những thiết chế và thể chế kinh tế của nhà nước. Nó bao gồm bộ máy quản lý gắn với hệ thống chính sách, công cụ có khả năng điều tiết sự vận động của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, toàn bộ quá trình tái sản xuất xã hội. Sự điều tiết kinh tế của nhà nước được thực hiện dưới nhiều hình thức như: hướng dẫn, kiểm soát, uốn nắn những lệch lạc bằng các công cụ kinh tế và các công cụ hành chính - pháp lý, bằng cả ưu đãi và trừng phạt; bằng những giải pháp chiến lược dài hạn như lập chương trình, kế hoạch tổng thể phát triển kinh tế, khoa học, công nghệ, bảo vệ môi trường, bảo hiểm xã hội... và bằng cả các giải pháp ngắn hạn. Sự điều tiết kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước thể hiện rõ nét nhất bằng chính sách kinh tế của nhà nước tư sản. Chúng bao gồm nhiều lĩnh vực như chính sách chống khủng hoảng chu kỳ, chống lạm phát, chính sách về tăng trưởng kinh tế, chính sách xã hội, chính sách kinh tế đối ngoại. Các công cụ chủ yếu của nhà nước tư sản để điều tiết kinh tế và thực hiện các chính sách kinh tế như ngân sách, thuế, hệ thống tiền tệ - tín dụng, các doanh nghiệp nhà nước, kế hoạch hoá hay chương trình hoá kinh tế và các công cụ hành chính - pháp lý.

III. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ VAI TRÒ VÀ GIỚI HẠN LỊCH SỬ CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN

1. Vai trò của chủ nghĩa tư bản đối với sự phát triển của nền sản xuất xã hội

Chủ nghĩa tư bản phát triển qua hai giai đoạn: chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh và chủ nghĩa tư bản độc quyền mà nấc thang tột cùng của nó là chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước.Trong suốt quá trình phát triển, chủ nghĩa tư bản cũng có những mặttích cực đối với phát triển sản xuất: - Sự ra đời của chủ nghĩa tư bản đã giải phóng loài người khỏi "đêmtrường trung cổ" của xã hội phong kiến, đoạn tuyệt với nền kinh tế tự nhiên,tự túc, tự cấp chuyển sang phát triển kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa,chuyển sản xuất nhỏ thành sản xuất lớn hiện đại. Dưới tác động của quy luậtgiá trị thặng dư và các quy luật kinh tế của sản xuất hàng hóa, chủ nghĩa tưbản đã làm tăng năng suất lao động, tạo ra khối lượng của cải khổng lồ hơnnhiều xã hội trước cộng lại.

- Phát triển lực lượng sản xuất.

Quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản đã làm cho lực lượng sản xuấtphát triển mạnh mẽ với trình độ kỹ thuật và công nghệ ngày càng cao: từ kỹthuật thủ công lên kỹ thuật cơ khí, sang tự động hóa, tin học hóa và côngnghệ hiện đại. Cùng với sự phát triển của kỹ thuật vầ công nghệ là quá trình giải phóng sức lao động, nâng cao hiệu quả khám phá và chinh phục thiên nhiên của con người.

- Thực hiện xã hội hóa sản xuất.

Chủ nghĩa tư bản đã thúc đẩy nền sản xuất hàng hóa phát triển mạnh vàđạt tới mức điển hình nhất trong lịch sử, cùng với nó là quá trình xã hội hóasản xuất cả về chiều rộng và chiều sâu. Đó là sự phát triển của phân công laođộng xã hội, sản xuất tập trung với quy mô hợp lý, chuyên môn hóa sản xuấtvà hợp tác lao động sâu sắc, mối liên hệ kinh tế giữa các đơn vị, các ngành,các lĩnh vực ngày càng chặt chẽ... làm cho các quá trình sản xuất phân tán được liên kết với nhau và phụ thuộc lẫn nhau thành một hệ thống, thành mộtquá trình sản xuất xã hội. - Chủ nghĩa tư bản thông qua cuộc cách mạng công nghiệp, lần đầu tiêntổ chức lao động theo kiểu công xưởng, đó đó xây dựng được tác phongcông nghiệp cho người lao động, làm thay đổi nề nếp thói quen của ngườilao động sản xuất nhỏ trong xã hội phong kiến. - Chủ nghĩa tư bản lần đầu tiên trong lịch sử thiết lập nên nền dân chủtư sản, tiến bộ hơn rất nhiều so với thể chế chính trị phong kiến.

2. Hạn chế của chủ nghĩa tư bản

Bên cạnh mặt tích cực nói trên, trong quá trình phát triển, chủ nghĩa tưbản cũng có những hạn chế về lịch sử: - Lịch sử ra đời của chủ nghĩa tư bản gắn với quá trình tích lũy nguyênthủy nên ngay từ đầu đã thể hiện bản chất bóc lột và chiếm đoạt nhữngngười sản xuất nhỏ và nông dân tự do. C.Mác cho rằng: đó là lịch sử đầy máu và bùn nhơ, không giống như một câu chuyên tình ca, nó được sử sách ghi chép lại bằng những trang đẫm máu và lửa không bao giờ phai. - Cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản là quan hệ bóc lột, do đó tất yếu làm cho bất bình đẳng, phân hóa xã hội ngày càng gay gắt. - Các cuộc chiến tranh đế quốc tranh giành thị trường dẫn đến nhữnghậu quả nặng nề cho sự phát triển của xã hội loài người. - Chủ nghĩa tư bản phải chịu trách nhiệm chính trong việc tạo ra hố sâungăn cách giữa các nước giàu, nghèo trên thế giới. Nếu thế kỷ XVIII, chênhlệch mức sống giữa nước giàu nhất và nghèo nhất là 2,5 lần thì hiện nay đãlen tới 250 lần. Thu nhập của 358 người giàu nhất thế giới lớn hơn thu nhậphàng năm của hơn 45% dân số thế giới. Tình trạng công nhân, người laođộng thất nghiệp ngày càng tăng. GDP của 550 triệu dân châu Phi chỉ bằng GDP của nước Bỉ (10 triệu dân). Nhiều tài liệu công bố trên các phương tiện truyền thông đã chỉ rõ các nước thứ ba không những bị vơ vét cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên, mà còn mắc nợ không thể nào trả được. Hàng năm, các nước chậm phát triển vay nợ phải trả cho các nước chủ nợ số tiền lãi từ 130 đến 150 tỷ USD. Chính vì thế, trong những năm 80 của thế kỷ XX, thế giới thứ ba bị trìtrệ, suy thoái. Điều này cũng đã được Ngân hàng Thế giới khẳng định: ởchâu Phi, Mỹ Latinh,... hàng trăm triệu người đã nhận thấy, đi cùng với tăng trưởng là sự suy tàn về kinh tế, phát triển nhường chỗ cho suy thoái; ở một vài nước Mỹ Latinh, GNP theo đầu người hiện nay thấp hơn so với 10 nămtrước đây. Trong nhiều nước châu Phi, nó còn thấp hơn cách đây 20 năm"... một thế giới mà trong đó từ 20 năm nay ở châu Phi, từ 9 năm nay ở Mỹ Latinh mức sống không ngừng giảm. Trong khi đó mức sống trong các vùng khác tiếp tục tăng lên tuy có chậm hơn, đó là điều hoàn toàn không thể chấp nhận được"Trong xã hội tư bản ngày nay, sự bất bình đẳng và các tệ nạn xã hội vẫn tồn tại một cách phổ biến: sự suy đồi về xã hội, văn hoá và đạo đức ngày càng trầm trọng.

3. Xu hướng vận động của chủ nghĩa tư bản

Những thành tựu và hạn chế của chủ nghĩa tư bản bắt nguồn từ mâuthuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản: mâu thuẫn giữa tính chất và trình độ xã hội hóa cao của lực lượng sản xuất với quan hệ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Chủ nghĩa tư bản càng phát triển thì xã hội hóa sản xuất ngày càng cao, quan hệ sản xuất dựa trên sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất ngày càng kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Chủ nghĩa tư bản đã thực hiện nhiều biện pháp điều chỉnh cả về mặt sở hữu, quản lý và phân phối để hạn chế mâu thuẫn trên nhưng về cơ bản không thủ tiêu được mâu thuẫn này. Sự điều chỉnh ấy vẫn không vượt qua khỏi khuôn khổ của sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa tư bản nhất định sẽ bị phá vỡ và thay vào đó là một quan hệ sở hữu mới để đáp ứng yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất, dẫn đến sự ra đời tất yếu của phương thức sản xuất mới – phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa. Tuy nhiên, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa không thể tự tiêu vong và phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa cũng không thể tự hình thành mà chỉ có thể thực hiện được thông qua cuộc cách mạng xã hội trong đó giai cấp công nhân là người có sứ mệnh lịch sử thực hiện cuộc cách mạng này.

Phần III: Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về Chủ nghĩa xã hội

Trên cơ sở học thuyết kinh tế về phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, đặc biệt là học thuyết giá trị thặng dư, “C.Mác đã hoàn toàn dựa vào và chỉ dựa vào những quy luật kinh tế của sự vận động của xã hội hiện đại mà kết luận rằng xã hội tư bản chủ nghĩa nhất định sẽ phải chuyển biến thành xã hội xã hội chủ nghĩa. Việc xã hội hóa lao động, ngày càng tiến nhanh thêm dưới muôn vàn hình thức, ... đã biểu hiện đặc biệt rõ ràng ở sự phát triển của đại công nghiệp, ... đấy là cơ sở vật chất chủ yếu cho sự ra đời không thể tránh khỏi của chủ nghĩa xã hội. Động lực trí tuệ và tinh thần của sự chuyển biến đó, lực lượng thể chất thi hành sự chuyển biến đó là giai cấp vô sản, giai cấp đã được bản thân chủ nghĩa tư bản rèn luyện. Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản, biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau và nội dung của những hình thức này ngày càng phong phú, - nhất định biến thành một cuộc đấu tranh chính trị của giai cấp vô sản nhằm giành chính quyền”.

Như vậy, trong chủ nghĩa Mác-Lênin, học thuyết kinh tế về phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa cùng với bộ phận lý luận triết học là những cơ sở lý luận tất yếu và trực tiếp của chủ nghĩa xã hội khoa học, tức học thuyết Mác-Lênin về chủ nghĩa xã hội. Bởi vậy, theo nghĩa rộng chủ nghĩa xã hội khoa học chính là chủ nghĩa Mác-Lênin, còn theo nghĩa hẹp thì nó là một bộ phận lý luận cấu thành chủ nghĩa Mác-Lênin - bộ phận lý luận về chủ nghĩa xã hội, đó là bộ phận lý luận nghiên cứu làm sáng tỏ vai trò sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân; tính tất yếu và nội dung của cách mạng xã hội chủ nghĩa; quá trình hình thành và phát triển của hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa; quy luật và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.

Chương VII: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và cách mạng xã hội chủ nghĩa

I. SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN

1. Giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của nó

a. Khái niệm giai cấp công nhân

Trong nhiều tác phẩm của mình C.Mác và Ph.Ăngghen đã sử dụng nhiều thuật ngữ như: giai cấp công nhân, giai cấp vô sản, giai cấp vô sản hiện đại, giai cấp công nhân công nghiệp, giai cấp công nhân hiện đại... Dù khái niệm giai cấp công nhân có nhiều tên gọi khác nhau như thế nào đi nữa thì theo C.Mác và Ph.Ăngghen giai cấp công nhân vẫn chỉ mang hai thuộc tính (tiêu chí) cơ bản. Đó là:

Thứ nhất, về phương thức lao động, phương thức sản xuất (nghề nghiệp),đó là những người lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội hoá cao. Đây là tiêu chí cơ bản để phân biệt người công nhân hiện đại với người thợ thủ công thời Trung cổ thay người thợ trong công trường thủ công. C.Mác viết: “Trong công trường thủ công và trong nghề thủ công, người Công nhân sử dụng công cụ của mình, còn trong công xưởng thì người công nhân phải phục tùng máy móc” “Công nhân cũng là phát minh của thời đại mới. Giống như máy móc vậy ... công nhân Anh là đứa con đầu lòng của nền công nghiệp hiện đại”

Thứ hai, về vị trí trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, giai cấp côngnhân là những người lao động không có hoặc về cơ bản không có tư liệu sảnxuất, làm thuê cho giai cấp tư sản và bị bóc lột giá trị thặng dư. Đây là đặc trưngcơ bản nhất của giai cấp công nhân dưới chế độ tư bản chủ nghĩa. Chính vì vậy,C.Mác và Ph.Ăngghen đều gọi giai cấp công nhân dưới chủ nghĩa tư bản là giai cấp vô sản. Ngày nay, với sự phát triển không ngừng của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, bộ mặt của chủ nghĩa tư bản đã có những thay đổi to lớn và đi cùng với nó là sự thay đổi nhất định của giai cấp công nhân so với trước kia. Cơ cấu ngành nghề của giai cấp công nhân đã có những thay đổi to lớn: bên cạnh công nhân của nền công nghiệp cơ khí, đã xuất hiện công nhân của nền công nghiệp tự động hoá. Giai cấp công nhân hiện nay không chỉ bao gồm những người lao động trong công nghiệp, trực tiếp tạo ra các giá trị vật chất cho xã hội mà còn bao gồm những người lao động trong các bộ phận dịch vụ công nghiệp, gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất vật chất. Song, dù cho trình độ kỹ thuật có thay đổi như thế nào đi nữa thì xét theo tiêu chí kinh tế - xã hội, giai cấp công nhân vẫn tồn tại như một giai cấp đặc thù với cả hai tiêu chí cơ bản nêu trên. Căn cứ vào hai thuộc tính nói ở trên chúng ta có thể đưa ra định nghĩa như sau về giai cấp công nhân:

“Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và pháttriển cùng với quá trình phát triển của nền công nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hoá ngày càng cao; là lực lượng lao động cơ bản tiên tiến trong các quy trình công nghệ, dịch vụ công nghiệp, trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội; đại biểu cho lực lượng sản xuất và phương thức sản xuất tiên tiến trong thời đại hiện nay” b. Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Trong mỗi thời kỳ chuyển biến cách mạng lên một hình thái kinh tế - xã hội cao hơn luôn có một giai cấp đứng ở vị trí trung tâm của lịch sử, đóng vai trò là động lực chủ yếu và là lực lượng lãnh đạo quá trình cách mạng đó. Giai cấp công nhân là sản phẩm của nền đại công nghiệp, lực lượng sản xuất tiên tiến, phương thức sản xuất tiên tiến, đại biểu cho xu hướng phát triển của xã hội tương lai, do vậy về mặt khách quan nó có nhiệm vụ xoá bỏ xã hội cũ, tổ chức,lãnh đạo, xây dựng xã hội mới phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử. Nhiệm vụ này do chính địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp đó quyết định. Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là: Xoá bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa và tiền tư bản chủ nghĩa; từng bước xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa; xoá bỏ áp bức bóc lột; giải phóng mình đồng thời giải phóng toàn nhân loại. Đó là nội dung cơ bản bao trùm sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Lịch sử phát triển của xã hội loài người chính là lịch sử của đấu tranh giai cấp, đấu tranh giai cấp là động lực cơ bản phát triển của lịch sử. Để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân phải tập hợp các tầng lớp nhân dân lao động xung quanh mình, tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng nhằm xoá bỏ xã hội cũ và xây dựng xã hội mới về mọi mặt. Con đường để giai cấp công nhân thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình đó chính là phải tiến hành cuộc cách mạng không ngừng và triệt để qua hai giai đoạn: Một là, lật đổ giai cấp tư sản giành lấy chính quyền, thiết lập nền chuyên chính cách mạng của giai cấp công nhân. Hai là, sử dụng chính quyền mới làm công cụ cải tạo xã hội cũ, tập hợp quần chúng nhân dân lao động xây dựng thành công xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa để tiến lên chủ nghĩa cộng sản. 2. Những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ các điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. a. Địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp công nhân trong xã hội tư bản chủ nghĩa Xét một cách tổng quát chúng ta có thể khẳng định rằng, địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp công nhân quy định một cách khách quan vai trò sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Bởi vì:

Thứ nhất, giai cấp công nhân là bộ phận quan trọng nhất, cách mạng nhấttrong các bộ phận cấu thành lực lượng sản xuất dưới chủ nghĩa tư bản. Trong nền sản xuất hiện đại, giai cấp công nhân vừa là chủ thể trực tiếp, vừa là sản phẩm căn bản nhất của nền sản xuất đó. Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với đại công nghiệp, còn giai cấp công nhân lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp. Giai cấp công nhân hiện đại có xu hướng ngày càng được tri thức hóa. Điều này có được là do yêu cầu khách quan của sự phát triển công nghiệp trong thời đại mà khoa học và công nghệ đã và đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.

Thứ hai, do không có tư liệu sản xuất nên giai cấp công nhân phải bán sức lao động của mình cho nhà tư bản và bị nhà tư bản chiếm đoạt giá trị thặng dư, họ bị lệ thuộc hoàn toàn trong quá trình phân phối các kết quả lao động của chính mình. Do vậy, về mặt lợi ích giai cấp công nhân là giai cấp đối kháng trực tiếp với giai cấp tư sản. Xét về bản chất, họ là giai cấp cách mạng triệt để nhất chống lại chế độ áp bức, bóc lột tư bản chủ nghĩa. Điều kiện sinh hoạt khách quan của họ quy định rằng, giai cấp công nhân chỉ có thể tự giải phóng bằng cách giải phóng toàn xã hội khỏi chế độ tư bản chủ nghĩa. Trong cuộc cách mạng ấy, họ không mất gì ngoài xiềng xích mà lại được cả thế giới.

Thứ ba, giai cấp công nhân có lợi ích căn bản thống nhất với lợi ích của toàn thể nhân dân lao động nên họ có thể tập hợp, đoàn kết, lãnh đạo đông đảo quần chúng đi theo làm cách mạng, đồng thời họ cũng là người đi đầu trong cuộc đấu tranh của toàn thể nhân dân lao động và của dân tộc vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

b. Đặc điểm chính trị - xã hội của giai cấp công nhân Địa vị kinh tế - xã hội khách quan còn tạo ra những đặc điểm chính trị - xã hội của giai cấp công nhân. Chính những đặc điểm này đã tạo ra khả năng để giai cấp công nhân hoàn thành thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình. Những đặc điểm chính trị - xã hội của giai cấp công nhân gồm:

Thứ nhất, giai cấp công nhân là giai cấp tiên phong cách mạng.

Giai cấp công nhân là đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến nhất, chế độ xã hội tiên tiến nhất, do đó, họ đại diện cho phương thức sản xuất tiến bộ hơn phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Giai cấp công nhân luôn phát triển và lớn mạnh không chỉ về số lượng mà còn về chất lượng cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ hiện đại. Chính điều kiện làm việc ở thành thị và các khu công nghiệp giúp cho giai cấp công nhân mở rộng các quan hệ xã hội, mở mang trí tuệ. Cuộc đấu tranh chống áp bức bóc lột vì dân sinh dân chủ, cải thiện điều kiện làm việc đã tôi luyện cho giai cấp công nhân có những phẩm chất cần thiết cho cuộc đấu tranh. Lợi ích căn bản của giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích căn bản của nhân dân lao động nên họ có đủ khả năng và điều kiện tập hợp quần chúng nhân dân làm cách mạng.

Thứ hai, giai cấp công nhân là giai cấp có tính cách mạng triệt để. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: “Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng, tất cả các giai cấp khác đều là những tầng lớp trung đẳng ... Đó là do giai cấp công nhân không gắn với tư hữu, do vậy, họ kiên định trong cuộc đấu tranh xóa bỏ chủ nghĩa tư bản và xây dựng xã hội mới”

Thứ ba, giai cấp công nhân có ý thức tổ chức kỷ luật cao. Môi trường làm việc của giai cấp công nhân là sản xuất tập trung cao và có trình độ kỹ thuật ngày càng hiện đại, có cơ cấu tổ chức ngày càng chặt chẽ, làm việc theo dây chuyền buộc giai cấp công nhân phải luôn tuân thủ nghiêm ngặt kỷ luật lao động. Do yêu cầu của cuộc đấu tranh giai cấp chống lại giai cấp tư sản - là một giai cấp có tiềm lực về kinh tế - kỹ thuật nên giai cấp công nhân phải đấu tranh bằng phẩm chất kỷ luật của mình.

Thứ tư, giai cấp công nhân có bản chất quốc tế. Giai cấp công nhân ở tất cả các nước đều có chung một mục đích là giải phóng mình đồng thời giải phóng xã hội khỏi áp bức bóc lột và họ đều có chung một kẻ thù là giai cấp tư sản bóc lột. Và cũng do yêu cầu của cuộc đấu tranh giai cấp, để chống lại chủ nghĩa tư bản, giai cấp tư sản khi mà chúng đã liên kết với nhau thành tập đoàn tư bản, chủ nghĩa đế quốc, vì vậy mà giai cấp công nhân càng phải nêu cao tinh thần quốc tế của giai cấp mình. Dựa vào đặc điểm này, C.Mác - Ph.Ăngghen nhấn mạnh: trong sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản “Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại”. V.I. Lênin sau này cũng khẳng định: “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”.

3. Vai trò của Đảng Cộng sản trong quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân

Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân xuất hiện một cách khách quan, song, để biến khả năng khách quan đó thành hiện thực thì phải thông qua những nhân tố chủ quan. Trong những nhân tố chủ quan ấy, việc thành lập ra Đảng Cộng sản trung thành với sự nghiệp, lợi ích của giai cấp công nhân là yếu tố quyết định nhất đảm bảo cho giai cấp công nhân có thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. a. Tính tất yếu và quy luật hình thành, phát triển chính đảng của giai cấp công nhân Tính tất yếu của việc hình thành và phát triển đảng của giai cấp công nhân Trong thực tế lịch sử, phong trào công nhân chống giai cấp từ sản đã xuất hiện ngay từ khi chủ nghĩa tư bản ra đời. Mặc dù quy mô ngày càng mở rộng nhưng đều bị thất bại. Khi chưa có đảng lãnh đạo, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân chỉ mang tính tự phát, rời rạc, chưa có tổ chức và hệ thống, chưa có lý luận dẫn đường. Khi Đảng Cộng sản ra đời và trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng và với tư cách là đội tiên phong chính trị của giai cấp công nhân và toàn xã hội, Đảng Cộng sản có nhiệm vụ đề ra cương lĩnh, mục tiêu, phương hướng, đường lối, chiến lược, sách lược, các chính sách đúng đắn, phù hợp với điều kiện thực tiễn của đất nước, với quy luật vận động khách quan của thế giới; với quyền lợi của đại đa số nhân dân lao động. Chỉ có Đảng Cộng sản lãnh đạo giai cấp công nhân mới chuyển từ đấu tranh tự phát lên tự giác, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản trở thành điều kiện để giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Để giữ được vai trò lãnh đạo của mình, Đảng phải luôn luôn hướng mọi hoạt động vì lợi ích chung của dân tộc, luôn tổ chức, giáo dục toàn đảng, toàn dân thực hiện thắng lợi các mục tiêu, yêu cầu nhiệm vụ đặt ra để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Đảng phải chăm lo xây dựng về tổ chức, nâng cao năng lực lãnh đạo, vững mạnh về chính trị, gắn bó với nhân dân. Quy luật hình thành và phát triển đảng của giai cấp công nhân Bằng thực tiễn cách mạng ở nước Nga cùng với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế V.I. Lênin đã khái quát và nêu lên một vấn đề có tính quy luật về sự ra đời của Đảng Cộng sản, đó là: Chủ nghĩa Mác kết hợp với phong trào công nhân dẫn tới sự ra đời của Đảng Cộng sản. Đây là vấn đề có tính phổ biến đối với sự ra đời của Đảng Cộng sản ở nhiều nước trên thế giới, nhất là châu Âu. Vận dụng một cách sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin vào tình hình cụ thể của Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam (03/02/1930), đó là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Đây là một sáng tạo, một đóng góp của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam chính là sự kết hợp một cách nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở Việt Nam. b. Mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản với giai cấp công nhân Giai cấp công nhân là cơ sở giai cấp của Đảng Cộng sản, là nguồn bổ sung lực lượng cho Đảng, nói cách khác Đảng trước hết bao gồm những người ưu tú nhất trong giai cấp công nhân. Đảng Cộng sản là đội tiên phong chiến đấu, là lãnh tụ chính trị, là bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân. Vai trò của đảng đối với giai cấp công nhân thể hiện ở chỗ: Một là, không có một tổ chức chính trị nào hoạt động được mà lại không thông qua chính đảng của giai cấp mình. Giai cấp công nhân cũng vậy, họ hoạt động, làm cách mạng thông qua đội tiên phong của mình, đó là Đảng Cộng sản, đảng của giai cấp công nhân. Hai là, để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình thì giai cấp công nhân cần phải có một chính đảng chính trị vững vàng kiên định, sáng suốt, có đường lối chiến lược sách lược đúng đắn thể hiện lợi ích của giai cấp hay toàn thể phong trào. Ba là, với một Đảng Cộng sản chân chính thì sự lãnh đạo của Đảng chính là sự lãnh đạo của giai cấp. Đảng với giai cấp là thống nhất nhưng Đảng có trình độ lý luận và tổ chức cao nhất để lãnh đạo giai cấp và dân tộc, vì thế không thể lẫn lộn Đảng với giai cấp.

II. CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

1. Cách mạng xã hội chủ nghĩa và nguyên nhân của nó

a. Khái niệm cách mạng xã hội chủ nghĩa

Cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc cách mạng nhằm thay thế chế độ tư bản chủ nghĩa lỗi thời bằng chế độ xã hội chủ nghĩa, trong cuộc cách mạng đó, giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo quần chúng nhân dân lao động xây dựng một xã hội mới, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. - Theo nghĩa hẹp: Cách mạng xã hội chủ nghĩa được hiểu là một cuộc cách mạng chính trị, được kết thúc bằng việc giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động giành được chính quyền, thiết lập nên nhà nước chuyên chính vô sản – nhà nước của giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động. - Theo nghĩa rộng: Cách mạng xã hội chủ nghĩa bao gồm cả hai thời kỳ: cách mạng về chính trị nhằm thiết lập nhà nước chuyên chính vô sản và thời kỳ sử dụng nhà nước của mình để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới về mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hóa tư tưởng… b. Nguyên nhân của cách mạng xã hội chủ nghĩa Nguyên nhân sâu xa của mọi cuộc cách mạng xã hội là do mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất với sự kìm hãm của quan hệ sản xuất đã trở nên lỗi thời. Quy luật chung của sự phát triển xã hội chỉ ra rằng: lực lượng sản xuất không ngừng phát triển dẫn tới quan hệ sản xuất đã lỗi thời kìm hãm sự phát triển, điều đó đòi hỏi phải thay thế quan hệ sản xuất mới cho phù hợp với lực lượng sản xuất để mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Thực chất đó là một cuộc cách mạng xã hội. Cách mạng xã hội chủ nghĩa diễn ra cũng không nằm ngoài quy luật trên. Nguyên nhân sâu xa là do mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hoá cao với tính chất tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất dưới chủ nghĩa tư bản, cho nên chừng nào quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa vẫn được duy trì thì nguyên nhân của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa vẫn còn tồn tại. 2. Mục tiêu, động lực và nội dung của cách mạng xã hội chủ nghĩa

a. Mục tiêu của cách mạng xã hội chủ nghĩa

Giải phóng giai cấp bị áp bức, bóc lột, các dân tộc bị nô dịch đồng thời giải phóng xã hội khỏi sự trì trệ để tiếp tục phát triển trên con đường tiến bộ, văn minh là mục tiêu chung và là mục tiêu cao cả nhất của cáchmạng xã hội chủ nghĩa. C.Mác và Ph.Ăngghen đã từng chỉ rõ “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người” Để thực hiện được mục tiêu cao cả nêu trên, cách mạng xã hội chủ nghĩa phải từng bước được hiện thực hoá qua từng chặng đường, từng bước đi, thông qua quá trình lao động đầy nhiệt huyết và sáng tạo của quần chúng nhân dân lao động, bằng công tác tổ chức xã hội một cách khoa học trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.Mục tiêu trong giai đoạn đầu của cách mạng xã hội chủ nghĩa là giành chính quyền, thiết lập nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.Tiếp theo giai đoạn thứ hai của cách mạng xã hội chủ nghĩa là giai cấp công nhân tập hợp các tầng lớp nhân dân lao động, dựa trên bộ máy chính quyền của nhà nước xây dựng xã hội mới, xã hội không còn áp bức, bóc lột, nhân dân lao động được tự do, hạnh phúc. b. Động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa Động lực chủ yếu của cách mạng xã hội chủ nghĩa là các giai cấp và tầng lớp mà lợi ích của họ có liên quan đến cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ: “Tất cả những phong trào lịch sử từ trước đến nay đều do thiểu số thực hiện, hoặc là mưu lợi ích cho thiểu số. Phong trào vô sản là phong trào độc lập của khối đại đa số, mưu lợi ích cho khối đại đa số” Cách mạng xã hội chủ nghĩa với mục đích giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động khỏi tình trạng áp bức, bóc lột, đem lại cuộc sống hạnh phúc cho nhân dân, do vậy thu hút được sự tham gia của đông đảo nhân dân lao động trong suốt quá trình cách mạng. Giai cấp công nhân vừa là giai cấp lãnh đạo vừa là động lực chủ yếu của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Là con đẻ của nền đại công nghiệp, giai cấp công nhân ngày càng lên tăng về số lượng, nâng cao về chất lượng, nhất là trong thời đại của nền kinh tế tri thức trong giai đoạn hiện nay, công nhân ngày càng được tri thức hoá, vị trí và vai trò của họ ngày càng được khẳng định trong cuộc đấu tranh vì một xã hội tiến bộ và văn minh. Giai cấp nông dân có nhiều lợi ích căn bản thống nhất với lợi ích của giai cấp công nhân, do đó cũng trở thành động lực to lớn của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Giai cấp nông dân là lực lượng đông đảo nhất trong dân cư,nhất là đối với các quốc gia chậm và đang phát triển. Bởi vậy, trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân muốn hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình thì nhất thiết phải lôi kéo được giai cấp nông dân đi theo mình nhằm tạo thành liên mình công – nông vững chắc để giành và giữ chính quyền cách mạng. “Nguyên tắc của chuyên chính vô sản là duy trì khối liên minh giữa giai cấp vô sản và giai cấp nông dân” . Đội ngũ trí thức cũng là lực lượng quan trọng của cách mạng xã hội chủ nghĩa đặc biệt trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội đội ngũ trí thức càng trở nên quan trọng. Trí thức là những người góp phần nâng cao dân trí,đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước, tham gia xây dựng đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Trí thức là những người sáng tạo ra các giá trị khoa học, kỹ thuật, tiếp thu những thành tựu khoa học kỹ thuật mới của nhân loại. Ngày nay, trong thời đại của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, lượng giá trị lao động chất xám ngày càng chiếm tỷ lệ cao trong sản phẩm hàng hoá thì vai trò động lực của đội ngũ trí thức ngày càng tăng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Ngoài những động lực trên, khối đại đoàn kết dân tộc, tinh thần yêu nước, truyền thống văn hóa, đường lối cách mạng đúng đắn cũng là những động lực quan trọng của cách mạng xã hội chủ nghĩa. c. Nội dung của cách mạng xã hội chủ nghĩa Cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc cách mạng toàn diện trên tất cả các mặt của đời sống xã hội. - Trên lĩnh vực chính trị: cách mạng xã hội chủ nghĩa đưa nhân dân lao động từ địa vị bị áp bức, bóc lột lên địa vị làm chủ nhà nước, làm chủ xã hội để từ đó họ hoạt động như chủ thể tự giác để xây dựng xã hội mới. Để nâng cao hiệu quả trong việc tập hợp, tổ chức nhân dân tham gia vào công việc của nhà nước xã hội chủ nghĩa, Đảng Cộng sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa phải thường xuyên chăm lo, nâng cao kiến thức về mọi mặt cho người dân, đặc biệt là những kiến thức về chính trị, pháp luật. Bên cạnh đó, Đảng và nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng phải thường xuyền quan tâm tới việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp, cơ chế, có những chính sách phù hợp để nhân dân lao động tham gia hoạt động quản lý xã hội, quản lý nhà nước. - Trên lĩnh vực kinh tế: cách mạng xã hội chủ nghĩa sẽ làm thay đổi vị trí, vai trò của người lao động trên cơ sở thay đổi chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là chủ yếu bằng chế độ sở hữu công hữu là chủ yếu, và dưới những hình thức thích hợp; thay đổi điều kiện sống và điều kiện làm việc của người lao động. Cùng với việc cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa, nhà nước xã hội chủ nghĩa phải tìm mọi cách phát triển lực lượng sản xuất, không ngừng nâng cao năng suất lao động, trên cơ sở đó từng bước cải thiện đời sống của nhân dân.Dưới chủ nghĩa xã hội, nguyên tắc phân phối theo lao động được xem là nguyên tắc chủ yếu nhất, do vậy, năng suất lao động, hiệu quả công tác là thước đo đánh giá hiệu quả của mỗi cá nhân đóng góp cho xã hội. Đồng thời, phải chú ý kết hợp hài hoà giữa lợi ích cá nhân với lợi ích của tập thể. - Trên lĩnh vực văn hoá - tư tưởng: cách mạng xã hội chủ nghĩa tạo ra sự thay đổi căn bản trong phương thức sinh hoạt tinh thần của xã hội theo xu hướng tiến bộ trên cơ sở kế thừa và nâng cao những giá trị truyền thống của dân tộc, tiếp thu những giá trị tiên tiến của thời đại, từng bước xây dựng thế giới quan, nhân sinh quan mới, xây dựng nền văn hoá mới, những con người mới mang tính chất xã hội chủ nghĩa. Như vậy, cách mạng xã hội chủ nghĩa diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ chính trị đến kinh tế và văn hoá – tư tưởng. Tất cả các lĩnh vực trên đều có mối quan hệ, tác động qua lại với nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển. 3. Liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân trong cách mạng xã hội chủ nghĩa a. Tính tất yếu và cơ sở khách quan của liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân Tính tất yếu khách quan của liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân.

Liên minh giữa giai cấp công nhân với nông dân là điều kiện cơ bản để tăng cường lực lượng và nếu không có liên minh này thì giai cấp công nhân không thể dành chính quyền và giữ vững chính quyền. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy nếu giai cấp công nhân không liên minh với nông dân thì không thể giành được thắng lợi trong cách mạng xã hội. Để xây dựng xã hội mới, giai cấp công nhân cũng nhất thiết phải liên minh với nông dân vì đó là lực lượng đông đảo, là một động lực quan trọng của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cơ sở khách quan của việc xây dựng khối liên minh giữa giai cấp côngnhân với nông dân. Liên minh công - nông là do mối liên hệ tự nhiên, gắn bó và thống nhất về lợi ích cơ bản của công nhân, nông dân. Giai cấp nông dân cũng là giai cấp bịbóc lột do đó là người gần gũi với giai cấp công nhân. Liên minh công - nông là do sự gắn bó giữa công nghiệp, nông nghiệp, đólà hai ngành sản xuất chính của xã hội. Công nghiệp tạo ra những sản phẩm phục vụ cho nông nghiệp. Ngược lại, nông nghiệp tạo ra lương thực, thực phẩm phục vụ cho nhu cầu của toàn xã hội, đồng thời nó cũng tạo ra nông sản phục vụ cho sản xuất công nghiệp.Liên minh công - nông là yêu cầu khách quan của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội; đó là lực lượng chính trị xã hội cơ bản của cách mạng, là nền tảng vững chắc của khối đại đoàn kết toàn dân, của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở đó, nông dân trở thành người bạn tự nhiên, tất yếu của giai cấp công nhân. b. Nội dung và nguyên tắc cơ bản của liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân Nội dung của liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân. Liên minh về chính trị giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dântrong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền là nhằm giành chính quyền về tay giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động. Trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, liên minh công - nông chính là việc cùng tham gia vào chính quyền nhà nước, bảo vệ thành quả cách mạng, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, liên minh về chính trị giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân không phải là sự dung hoà về lập trường tư tưởng mà giai cấp nông dân phải đứng trên lập trường chính trị của giai cấp công nhân. Liên minh về kinh tế giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân.Đây là nội dung liên minh quan trọng nhất, chủ yếu trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thực hiện liên minh về kinh tế giữa công nhân và nông dân là kết hợp đúng đắn lợi ích của hai giai cấp, vừa đảm bảo lợi ích của nhà nước, của xã hội vừa quan tâm tới lợi ích của nông dân, có chính sách phù hợp với nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Nội dung về văn hóa, xã hội của liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân. Khi nói đến nội dung về văn hoá, xã hội của liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân, chúng ta phải nhấn mạnh rằng, đây là một trong những vấn đề quan trọng của tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thực hiện tốt được những nội dung về văn hoá, xã hội của khối liên minh công – nông chúng ta mới có thể phát huy hết được động lực của từng giai cấp cũng như sức mạnh của khối liên minh. Muốn thực hiện tốt những nội dung của liên minh công – nông trên lĩnh vực văn hoá, xã hội chúng ta cầnphải: Một là, thường xuyên chăm lo, nâng cao trình độ văn hóa của công nhân và nông dân. Hai là, xây dựng quan hệ xã hội nhân văn, nhân đạo, hữu nghị hợp tác giữa các dân tộc. Ba là, tạo điều kiện cho quần chúng lao độngtham gia quản lý kinh tế, quản lý xã hội, quản lý nhà nước. Nguyên tắc cơ bản của liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân Một là, phải đảm bảo vai trò lãnh đạo của giai cấp trong khối liên minhcông - nông. Xây dựng khối liên minh công – nông không có nghĩa là chia quyền lãnh đạo của hai giai cấp này, mà phải đi theo đường lối của giai cấp công nhân. Giai cấp nông dân là giai cấp gắn với phương thức sản xuất nhỏ, cục bộ, phân tán, không có hệ tư tưởng độc lập. Do đó, giai cấp nông dân chỉ có đi theo hệ tư tưởng của giai cấp công nhân mới có thể tiến lên nền sản xuất lớn của xã hội mới. Hai là, đảm bảo nguyên tắc tự nguyện. Có thực hiện được tinh thần tự nguyện thì khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân mới bền vững và lâu dài. Ba là, kết hợp đúng đắn các lợi ích của giai cấp công nhân và giai cấpnông dân. Đây là hai giai cấp có lợi ích căn bản thống nhất với nhau. Sự thống nhất về mặt lợi ích là điều kiện quan trọng để thực hiện liên minh.

III. HÌNH THÁI KINH TẾ-XÃ HỘI CỘNG SẢN CHỦ NGHĨA

1. Xu thế tất yếu của sự ra đời hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa

C.Mác và Ph.Ăngghen đã vận dụng quan điểm duy vật về lịch sử đề nghiên cứu xã hội loài người. Các ông coi sự vận động phát triển và thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế-xã hội là quá trình phát triển lịch sử - tự nhiên, điều đó là do quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quy định.C.Mác và Ph.Ăngghen đã phân tích một cách khoa học phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và chỉ rõ mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất ngày càng xã hội hóa cao với quan hệ sản xuất dựa trên sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất dẫn tới sự kìm hãm lực lượng sản xuất. Nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất tất yếu đòi hỏi phải thay thế quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Tính mâu thuẫn gay gắt trong lĩnh vực kinh tế được biểu hiện trên lĩnh vực chính trị xã hội là mâu thuẫn giai cấp công nhân, nhân dân lao động với giai cấp tư sản. Sự phát triển của cuộc đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn tới chuyên chính vô sản và sự xác lập hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa. C.Mác và Ph.Ăngghen dự báo sự ra đời của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa từ những nước tư bản phát triển nhưng căn cứ vào những điều kiện thực tế cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, V.I.Lênin đã dự báo sự xuất hiện của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa ở các nước có trình độ phát triển trung bình và những dân tộc thuộc địa. Những điều kiện cơ bản của sự ra đời hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa từ các nước tư bản chủ nghĩa trung bình và các nước chưa qua chủ nghĩa tư bản phải hội tụ đủ các điều kiện sau đây:

Một là, khi chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc,các nước đế quốc không ngừng xâm lược, khai thác thuộc địa, gây ra chiến tranh…Do đó, đã làm xuất hiện những mâu thuẫn cơ bản và gay gắt của thời đại như: Mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân; mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc với các dân tộc thuộc địa; mâu thuẫn giữa các nước tư bản với nhau; mâu thuẫn giữa địa chủ và nông dân… Ở các nước nông nghiệp lạc hậu và thuộc địa mâu thuẫn cơ bản nhất là mâu thuẫn giữa thực dân đế quốc cùng bọn phong kiến tay sai, với một bên là cả dân tộc đang bị nô dịch, bị áp bức, bóc lột.

Hai là, có sự tác động toàn cầu của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, hệ tư tưởng Mác-Lênin, đặc biệt là những luận điểm về chủ nghĩa đế quốc và các dân tộc bị áp bức…, làm thức tỉnh nhiều dân tộc, dấy lên phong trào yêu nước, giành độc lập dân tộc, trong đó có Việt Nam. Như vậy, hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa khi ra đời ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển trung bình và các nước chưa qua chủ nghĩa tư bản không phải là ngẫu nhiên mà dựa vào những điều kiện lịch sử nhất định.

2. Các giai đoạn phát triển của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa

Dựa trên cơ sở phát triển của lực lượng sản xuất, C.Mác và Ph.Ăngghen không chỉ phân chia lịch sử phát triển xã hội loài người thành các hình thái kinh tế - xã hội mà còn chia hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa thành các giai đoạn khác nhau. Theo các ông, hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa phát triển từ thấp đến cao, từ giai đoạn xã hội xã hội chủ nghĩa lên xã hội cộng sản chủ nghĩa. Trong tác phẩm “Chủ nghĩa Mác về vấn đề nhà nước”, trên cơ sở diễn đạt tư tưởng của C.Mác, V.I.Lênin đã chia hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa thành ba thời kỳ: những cơn đau đẻ kéo dài (thời kỳ quá độ); giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa (chủ nghĩa xã hội); giai đoạn cao của xã hội cộng sản chủ nghĩa (chủ nghĩa cộng sản). a. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội Tính tất yếu của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên lên chủ nghĩa xã hội Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc trên toàn bộ các mặt của đời sống xã hội, tạo ra những tiền đề vật chất và tinh thần cần thiết để hình thành một xã hội mà trong đó những nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa xã hội sẽ được thực hiện. Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là do: Một là, chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội khác nhau về bản chất, dựa trên chế độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Chủ nghĩa tư bản được xây dựng trên cơ sở chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, dựa trên áp bức, bóc lột và bất công. Chủ nghĩa xã hội được xây dựng trên cơ sở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, không còn tình trạng áp bức, bóc lột. Muốn có xã hội như vậy cần phải có thời kỳ lịch sử nhất định.

Hai là, chủ nghĩa xã hội được xây dựng trên nền đại công nghiệp có trình độ cao. Chủ nghĩa tư bản đã tạo ra nền đại công nghiệp nhưng nó chưa phải là cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Muốn có cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội cần phải có thời gian để tổ chức lại, sắp xếp, cải tạo nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa thành cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Ba là, các quan hệ xã hội của chủ nghĩa xã hội không tự phát nảy sinh từ chủ nghĩa tư bản, mà chỉ có thể là kết quả của quá trình xây dựng và cải tạo xã hội chủ nghĩa.

Bốn là, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là công việc mới mẻ, khó khăn phức tạp và đòi hỏi phải có thời gian.

Đặc điểm và thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội Đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là sự tồn tại của xã hội cũ đan xen với những nhân tố mới của chủ nghĩa xã hội trong mối quan hệ vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội như: chính trị, kinh tế, văn hoá, tư tưởng…và phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trên lĩnh vực kinh tế là sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần trong hệ thống kinh tế quốc dân thống nhất, vận động theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế có nhiều thành phần được xác lập trên cơ sở khách quan của sự tồn tại nhiều loại hình sở hữu về tư liệu sản xuất với những hình thức tổ chức kinh tế đa dạng, đan xen hỗn hợp với nhau, nhiều hình thức phân phối thu nhập khác nhau.

Trên lĩnh vực chính trị: Do kết cấu kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đa dạng, phức tạp nên kết cấu giai cấp xã hội trong thời kỳ này cũng đa dạng, phức tạp. Thời kỳ này bao gồm: giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức, những người sản xuất nhỏ, tầng lớp tư sản. Các gia cấp, tầng lớp này vừa hợp tác, vừa đấu tranh với nhau. Trong một giai cấp, tầng lớp cũng có nhiều bộ phận có trình độ, ý thức khác nhau, do đó ý thức chính trị của các bộ phận khác nhau cũng có sự khác nhau. Trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa - xã hội là sự tồn tại nhiều tư tưởng và văn hóa khác nhau. Bên cạnh tư tưởng xã hội chủ nghĩa, tư tưởng Mác - Lênin giữ vai trò thống trị vẫn tồn tại các tư tưởng tư sản, tiểu tư sản, tâm lý tiểu nông… Vậy, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội về thực chất là thời kỳ diễn ra cuộc đấu tranh giữa giai cấp tư sản đã bị đánh bại, không còn là giai cấp thống trị và các thế lực chống phá chủ nghĩa xã hội với giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động. Cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra trong điều kiện mới là giai cấp công nhân đã cầm quyền, quản lý tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Cuộc đấu tranh giai cấp với những nội dung, hình thức mới, diễn ra trong lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa tư tưởng, bằng tuyên truyền vận động là chủ yếu, bằng hành chính và luật pháp. Nội dung kinh tế, chính trị và văn hóa, xã hội của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong lĩnh vực kinh tế: Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cần phải sắp xếp, bố trí lại lực lượng sản xuất hiện có của xã hội, cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới theo hướng tạo ra sự phát triển cân đối của nền kinh tế, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của nhân dân. Quá trình này phải tuân thủ những đòi hỏi khách quan của quy luật kinh tế, nhất là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.Đối với những nước chưa trải qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tất yếu phải tiến hành công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa để tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đó là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ. Quá trình này đòi hỏi phải tuân thủ quy luật kinh tế khách quan và tùy thuộc điều kiện lịch sử cụ thể của mỗi nước và bối cảnh quốc tế để xác định chiến lược, bước đi và nội dung thích hợp. Trong lĩnh vực chính trị: Nội dung cơ bản trong lĩnh vực chính trị của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là tiến hành cuộc đấu tranh chống lại các thế lực thù địch, chống phá sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng, củng cố nhà nước và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng vững mạnh, đảm bảo quyền làm chủ trong hoạt động kinh tế - văn hóa - xã hội của nhân dân lao động; xây dựng các tổ chức chính trị - xã hội thực sự là nơi thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động; xây dựng Đảng Cộng sản trong sạch, vững mạnh ngang tầm nhiệm vụ lịch sử. Trong lĩnh vực xã hội: Nội dung cơ bản trong lĩnh vực xã hội của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là khắc phục tệ nạn do xã hội cũ để lại, từng bước khắc phục sự chênh lệch phát triển giữa các vùng, miền, các tầng lớp dân cư trong xã hội nhằm thực hiện mục tiêu bình đẳng xã hội; xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người. b. Xã hội xã hội chủ nghĩa Xã hội xã hội chủ nghĩa (Chủ nghĩa xã hội) là giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản có các đặc trưng sau: Cơ sở vật chất - kỹ thuật là nền sản xuất công nghiệp với trình độ công nghệ hiện đại Mỗi chế độ xã hội đều có cơ sở vật chất kỹ thuật tương ứng của nó, phản ánh trình độ phát triển kinh tế - kỹ thuật của chế độ đó. Nếu công cụ thủ công là đặc trưng cho cơ sở vật chất kỹ thuật của các xã hội tiền tư bản chủ nghĩa thì nền đại công nghiệp cơ khí lđặc trưng cho cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa xã hội với tư cách là xã hội thay thế chủ nghĩa tư bản, cao hơn chủ nghĩa tư bản thì cơ sở vật chất kỹ thuật của nó phải là nền sản xuất đại công nghiệp có trình độ cao hơn so với trình độ của xã hội tư bản chủ nghĩa.Đối với các nước tư bản chủ nghĩa đi lên chủ nghĩa xã hội, lực lượng sản xuất đã phát triển cao là điều kiện thuận lợi để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Đối với các nước đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội tất yếu phải thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Xã hội xã hội chủ nghĩa xoá bỏ chế độ chiếm hữu tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội Xã hội xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa là hai chế độ xã hội mà ở đó có sự khác nhau về chế độ sở hữu tư liệu sản xuất chủ yếu. Ở xã hội xã hội chủ nghĩa đó là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu còn trong xã hội tư bản chủ nghĩa đó là chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất.Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ rõ, chủ nghĩa xãhội không xoá bỏ chế độ tư hữu nói chung mà chủ yếu là xoá bỏ chế độ tưhữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất chủ yếu, vì đây chính là nguồn gốccủa áp bức, bóc lột giá trị thặng dư.Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, giai cấp vô sản phải từng bước đoạt lấytư liệu sản xuất từ trong tay giai cấp tư sản, tập trung những tư liệu ấy vàotrong tay nhà nước để phục vụ cho toàn xã hội, xây dựng quan hệ sản xuấtmới xã hội chủ nghĩa. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, sở hữu tư liệu sản xuấttồn tại dưới hai hình thức là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, người laođộng làm chủ các tư liệu sản xuất của xã hội. Xã hội xã hội chủ nghĩa tạo ra cách thức tổ chức lao động và kỷ luậtlao động mới. Tới xã hội xã hội chủ nghĩa, tư liệu sản xuất đã mang tính xã hội hóa,tạo điều kiện cho người lao động kết hợp hài hòa giữa lợi ích cá nhân, lợi íchtập thể và lợi ích toàn xã hội. Trên cơ sở đó tạo ra cách tổ chức lao động mớidựa trên tinh thần tự giác của nhân dân. Mặt khác, chủ nghĩa xã hội được xây dựng trên cơ sở vật chất kỹ thuật là nền đại công nghiệp ở trình độ cao, do vậy đòi hỏi kỷ luật lao động chặt chẽ. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác cho rằng: lao động được tổ chức có kế hoạch, trên tinh thần tự giác, tự nguyện là đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa. Đương nhiên, để có một kiểu tổ chức lao động kỷ luật và tự giác cao đòi hỏi phải đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền vận động, mặt khác phải đấu tranh khắc phục tư tưởng, tác phong của người sản xuất nhỏ.

Xã hội xã hội chủ nghĩa thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động Trong xã hội xã hội chủ nghĩa. Tuy sản xuất đã phát triển nhưng chưa đủ khả năng thực hiện phân phối theo nhu cầu, do đó nguyên tắc phân phối cơ bản vẫn là phân phối theo lao động. Nguyên tắc phân phối theo lao động là nguyên tắc phân phối dựa trên kết quả lao động mà người lao động đã đóng góp cho xã hội. Đây là nguyên tắc phân phối cơ bản nhất trong chủ nghĩa xã hội nhưng không phải là nguyên tắc phân phối duy nhất. Nguyên tắc phân phối theo lao động vừa phù hợp với trình độ phát triển kinh tế xã hội, vừa thể hiện tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội, đồng thời là một nội dung quan trọng trong thực hiện công bằng xã hội trong giai đoạn này. Nhà nước xã hội chủ nghĩa mang bản chất của giai cấp công nhân, có tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc; thực hiện quyền lực và lợi ích của nhân dân. Nhà nước xã hội chủ nghĩa mang bản chất giai cấp công nhân, là cơ quan quyền lực tập trung của giai cấp công nhân, nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động; thực hiện trấn áp các thế lực phản động, các lực lượng chống chủ nghĩa xã hội. Nhà nước xã hội chủ nghĩa mang tính nhân dân rộng rãi. Nhà nước xã hội chủ nghĩa tập hợp đại biểu các tầng lớp nhân dân, bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, tạo điều kiện để nhân dân tham gia ngày càng nhiều vào công việc của nhà nước với tinh thần tự giác, tự quản. Nhà nước ngày càng thực hiện tốt hơn quyền tự do, dân chủ của nhân dân. Nhà nước xã hội chủ nghĩa mang tính dân tộc sâu sắc. Trong thời đại ngày nay, giai cấp công nhân là người đại diện chân chính cho dân tộc, có lợi ích cơ bản thống nhất với lợi ích dân tộc. Nhà nước xã hội chủ nghĩa thực hiện đoàn kết các dân tộc, tạo sự bình đẳng giữa các dân tộc, không ngừng phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc. Xã hội xã hội chủ nghĩa là chế độ xã hội mà con người giải phóng, và thoát khỏi chế độ áp bức bóc lột; thực hiện công bằng, bình đẳng, tiến bộ xã hội tạo ra những điều kiện cơ bản để con người phát triển toàn diện. Mục tiêu cao nhất của xã hội xã hội chủ nghĩa là giải phóng con người, khỏi sự bóc lột về kinh tế, nô dịch về tinh thần, tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện. Cùng với việc xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa đối với tư liệu sản xuất, phát triển lực lượng sản xuất, chủ nghĩa xã hội thực hiện xóa bỏ đối kháng giai cấp, thực hiện công bằng, bình đẳng xã hội. Đây là một quá trình lâu dài và được thực hiện từng bước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội như: kinh tế, chính trị, văn hoá, tư tưởng…Tuy nhiên, trong giai đoạn xã hội xã hội chủ nghĩa, sự bình đẳng được xác lập trong điều điện xã hội vẫn còn giai cấp, còn nhà nước do đó, chưa thể có “bình đẳng thực sự”.

c. Giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa

Trên cơ sở nghiên cứu quá trình phát triển của lực lượng sản xuất, C.Mác dự báo về sự xuất hiện giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa:

Về mặt kinh tế: Lực lượng sản xuất phát triển vô cùng mạnh mẽ, của cải xã hội tuôn ra dào dạt, ý thức con người được nâng lên, khoa học phát triển, lao động của con người được giảm nhẹ, thực hiện phân phối theo nhu cầu. Trrong tác phẩm Phê phán Cương lĩnh Gôta, C.Mác đã viết: “Khi nào lao động trở thành không những là một phương tiện để sinh sống mà bản thân nó còn là một nhu cầu bậc nhất của đời sống, khi mà cùng với sự phát triển toàn diện của các cá nhân, sức sản xuất của họ ngày càng tăng lên và tất cả các nguồn của cải xã hội đều tuôn ra dồi dào - chỉ khi đó người ta mới có thể vượt hẳn ra khỏi giới hạn chật hẹp của pháp quyền tư sản và xã hội mới có thể ghi lên lá cờ của mình: làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu” Về mặt xã hội: Trình độ xã hội phát triển ngày càng cao, con người có điều kiện phát triển năng lực của mình, tri thức con người được nâng cao, không còn sự khác biệt giữa thành thị và nông thôn, giai cấp và nhà nước sẽ tiêu vong. Chỉ lúc đó, một nền dân chủ thực sự hoàn bị, thực sự không hạn chế mới có thể có và được thực hiện. Kế thừa những tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã tiếp tục đưa ra những luận giải về mô hình xã hội trong tương lai. Ông cho rằng, khi xã hội đạt được trình độ phát triển cao như vậy, thì dân chủ mới thực hiện đầy đủ, dân chủ cho mọi người, không còn đối tượng bị hạn chế dân chủ, do vậy dân chủ cũng không còn, nhà nước luật pháp tự tiêu vong, pháp luật trở thành phong tục, tập quán, thành quan niệm đạo đức mọi người tự giác thực hiện. Tới giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, con người được giải phóng hoàn toàn, chuyển từ vương quốc của tất yếu sang vương quốc của tự do, có điều kiện phát triển toàn diện năng lực và mang hết tài năng, trí tuệ cống hiến cho xã hội.... V.I.Lênin cho rằng, không phải nhà nước tiêu vong ngay một lúc, mà là một quá trình: “Chúng ta chỉ có quyền nói rằng, nhà nước tất nhiên sẽ tiêu vong đồng thời nhấn mạnh vào tính chất lâu dài của quá trình ấy, sự phụ thuộc của quá trình ấy vào tốc độ phát triển của giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng sản” Qua phân tích của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về gia đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản, các ông đều nêu lên những điều kiện kinh tế - xã hội đảm bảo cho sự xuất hiện của giai đoạn này. Các điều kiện đó là:

Một là, C.Mác. Ph.Ăngghen và V.I.Lênin dự báo về giai đoạn cao của hình thái kinh tế - cộng sản chủ nghĩa khi có những điều kiện kinh tế - xã hội cho sự xuất hiện của giai đoạn này.

Hai là, sự xuất hiện giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa là một quá trình lâu dài, bằng việc không ngừng phát triển lực lượng sản xuất, cơ cấu lại tổ chức xã hội về mọi mặt, giáo dục tinh thần tự giác của con người...

Ba là, quá trình xuất hiện giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội hội cộng sản chủ nghĩa ở các nước khác nhau diễn ra với những quá trình khác nhau, tuỳ thuộc vào sự nỗ lực phấn đấu về mọi phương diện. Khi chưa xuất hiện giai đoạn cao thì “trong một thời gian nhất định, dưới chế độ cộng sản, không những vẫn còn pháp quyền tư sản, mà vẫn còn cả nhà nước kiểu tư sản nhưng không có giai cấp tư sản:”. Khi chưa đạt đến giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, trong điều kiện vẫn còn chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc trên thế giới thì những vấn đề lý luận của chủ nghĩa Mác về nhà nước, về dân chủ vẫn còn nguyên giá trị. Tính giai cấp của nhà nước, của dân chủ vẫn còn tồn tại. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đưa ra các dự báo và luận giải về sự ra đời, phát triển của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa trên cơ sở phân tích quy luật phát triển khách quan của xã hội, đặc biệt là quy luật kinh tế của sự vận động của xã hội tư bản chủ nghĩa. Thế nhưng, lịch sử phát triển của xã hội luôn luôn chịu tác động của nhiều nhân tố khách quan và chủ quan trong những điều kiện xác định, từ đó tạo nên tính phong phú đa dạng của tiến trình lịch sử phát triển của mỗi cộng đồng người cũng như của toàn bộ lịch sử nhân loại. Do vậy, tiến trình phát triển của lịch sử không bao giờ là con đường thẳng, trái lại nó có thể phải trải qua những bước thăng trầm với những con đường vòng, thậm chí phải trải qua những bước khủng hoảng và thụt lùi tạm thời trên con đường phát triển của nó. Đó là biện chứng của lịch sử. Từ đó, C.Mác đưa ra kết luận: “tôi coi sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên”.

IV. CHỦ NGHĨA XÃ HỘI HIỆN THỰC VÀ TRIỂN VỌNG

Với sự ra đời của chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa xã hội đã từ lý thuyết không tưởng trở thành một lý luận khoa học. Quá trình thâm nhập lý luận khoa học đó vào đời sống thực tiễn phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động đã dẫn đến sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa xã hội hiện thực: từ một nước đến nhiều nước và trở thành một hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa hùng mạnh trên phạm vi quốc tế ở thế kỷ XX với nhiều thành tựu vĩ đại, in đậm dấu ấn không thể phai mờ trong lịch sử phát triển của xã hội loài người.

Vào những thập niên cuối của thế kỷ XX, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan đã dẫn đến sự khủng hoảng và sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu. Chủ nghĩa xã hội hiện thực đã tạm thời lâm vào tình trạng thoái trào. Các nước xã hội chủ nghĩa còn lại đã tiến hành cải cách, mở cửa, đổi mới và tiếp tục phát triển. Thực tế lịch sử đó đã đặt ra vấn đề về tương lai của chủ nghĩa xã hội. Lời giải đáp chân chính cho câu hỏi này chỉ có thể có được trên cơ sở nắm vững những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin và vận dụng sáng tạo những nguyên lý đó vào việc phân tích bối cảnh cụ thể của thời đại ngày nay. 1. Chủ nghĩa xã hội hiện thực a. Cách mạng Tháng Mười Nga và mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực đầu tiên trên thế giới - Cách mạng Tháng Mười Nga (1917) Ngày 7 tháng 11 năm 1917 dưới sự lãnh đạo của Đảng bônsêvích Nga, đứng đầu là V.I.Lênin đã lãnh đạo quần chúng nhân dân khởi nghĩa thắng lợi, giành chính quyền xây dựng nhà nước Xô viết đầu tiên trên thế giới. Cách mạng Tháng Mười Nga là thắng lợi vĩ đại nhất của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức, đánh đổ giai cấp tư sản và địa chủ phong kiến, lập nên chính quyền của những người lao động, xây dựng xã hội mới không có người bóc lột người. Sau Cách mạng Tháng Mười chủ nghĩa xã hội từ học thuyết lý luận đã trở thành hiện thực thực tiễn đối lập với hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa. Chiều hướng phát triển chủ yếu, trục chuyển động xuyên suốt của lịch sử từ sau Cách mạng Tháng Mười Nga là đấu tranh xoá bỏ trật tự tư bản chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới. - Mô hình chủ nghĩa xã hội đầu tiên trên thế giới Mô hình đầu tiên của chủ nghĩa xã hội ra đời trong bối cảnh hết sức đặc biệt. Từ sau cách mạng Tháng Mười đến kết thúc Chiến tranh Thế giới thứ hai, Liên Xô là nước xã hội chủ nghĩa duy nhất. Điều kiện xây dựng một chế độ mới cực kỳ khó khăn và phức tạp: nền kinh tế lạc hậu lại bị tàn phá nặng nề trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, tiếp đó là nội chiến và chiến tranh can thiệp của 14 nước đế quốc, sự bao vây, cấm vận về kinh tế. Trước tình hình đó, từ năm 1918 đến đầu năm 1921, Đảng Cộng sản Nga đứng đầu là V.I.Lênin đã thực hiện Chính sách cộng sản thời chiến, tiến hành quốc hữu hóa tài sản, tư liệu sản xuất quan trọng nhất của bọn tư bản độc quyền, đại địa chủ và các thế lực chống phá cách mạng khác. Đến tháng 3 năm 1921, sau khi nội chiến kết thúc, Đại hội X Đảng Cộng sản Nga đã thông qua việc thực hiện Chính sách kinh tế mới (NEP). V.I.Lênin đã chỉ rõ trong những điều kiện mới, việc sử dụng những hình thức kinh tế quá độ của chủ nghĩa tư bản nhà nước là một bộ phận rất quan trọng của chính sách này. Với việc thực hiện NEP thì chủ nghĩa tư bản nhà nước là một trong những hình thức thích hợp để giúp nước Nga Xôviết nhanh chóng khắc phục tình trạng suy sụp kinh tế sau chiến tranh, hạn chế sự phát triển tự phát của nền sản xuất nhỏ - mầm mống của sự phục hồi chủ nghĩa tư bản. V.I Lênin cho rằng, thông qua việc sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước, giai cấp vô sản có thể học tập, kế thừa và phát huy có chọn lọc tất cả những tài sản vật chất – kỹ thuật và tinh hoa chất xám trong kinh nghiệm sản xuất kinh doanh của các nhà tư bản cũng như tri thức khoa học – kỹ thuật và trình độ quản lý kinh tế của các chuyên gia tư sản. Nhà nước vô sản có thể sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước như là một hệ thống các chính sách, công cụ, biện pháp nhằm điều tiết hoạt động của các xí nghiệp tư bản còn tồn tại trong thời kỳ quá độ, nhằm hướng tới mục đích vừa sử dụng, vừa cải tạo bằng phương pháp hòa bình đối với các thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa và sản xuất nhỏ. Với ý nghĩa đó, chủ nghĩa tư bản nhà nước còn có thể coi là một trong những phương thức, phương tiện, con đường có hiệu quả trong việc thúc đẩy xã hội hóa và làm tăng nhanh lực lượng sản xuất của chủ nghĩa xã hội. Sau khi V.I.Lênin qua đời, đường lối đúng đắn này đã không được quán triệt và thực hiện đầy đủ. Chính sách kinh tế mới thực hiện chưa được bao lâu thì từ cuối những năm 20, đầu những năm 30 của thế kỷ XX, triệu chứng một cuộc chiến tranh thế giới mới ngày càng lộ rõ. Trong bối cảnh đó, ngoài nhiệm vụ xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, biến nước Nga lạc hậu thành một cường quốc công nghiệp còn phải xây dựng tiềm lực quốc phòng, đối phó với nguy cơ chiến tranh. Trong điều kiện như vậy, nhà nước Xôviết không thể không áp dụng cơ chế kế hoạch hóa tập trung cao. Trong thực tế, Liên Xô đã thành công rực rỡ trong sự nghiệp công nghiệp hóa với thời gian ngắn (chưa đầy 20 năm), trong đó đã mất gần 10 năm nội chiến, chống chiến tranh can thiệp và khôi phục kinh tế sau chiến tranh. Đó là thành tựu vĩ đại của nhân dân Liên Xô. Do đó, không thể phủ nhận vai trò to lớn, có ý nghĩa lịch sử của mô hình đầu tiên này của chủ nghĩa xã hội.

b. Sự ra đời của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa và nhữngthành tựu của nó

Sự ra đời và phát triển của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa Sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới ra đời bao gồm các nước: Liên Xô, Cộng hòa dân chủ Đức, Hunggari,Rumani, Tiệp Khắc, Anbani, Mông Cổ, Trung uốc, Triều Tiên, Việt Nam (sau này thêm Cuba). Chính vì vậy, Hội nghị 81 Đảng Cộng sản và công nhân của các nước tại Matxcơva năm 1960 đã ra tuyên bố và khẳng định: “Đặc điểm chủ yếu của thời đại chúng ta là hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới đang trở thành nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội loài người”. Những thành tựu của chủ nghĩa xã hội hiện thực Cho dù lịch sử có biến động như thế nào, dù có ai cố tình xuyên tạc lịch sử cũng không thể phủ nhận được sự thật là Liên Xô và các nước Đông Âu đã có một thời kỳ phát triển rực rỡ và đạt được rất nhiều thành tựu to lớn đóng góp chung vào sự phát triển của nhân loại trong thế kỷ XX. - Chế độ xã hội chủ nghĩa đã từng bước đua nhân dân lao động lên làm chủ xã hội, thúc đẩy trào lưu đấu tranh cho quyền tự do dân chủ trên toàn thế giới. Sự ra đời của chế độ xã hội chủ nghĩa cũng có nghĩa là chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa được thiết lập. Đó là chế độ dân chủ cho tuyệt đại đa số nhân dân lao động, thực hiện ngày càng đầy đủ quyền dân chủ, ngăn ngừa và trấn áp những hành vi xâm phạm quyền tự do dân chủ của nhân dân. - Trong hơn 70 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, Liên xô và các nước xã hội chủ nghĩa đã đạt được sự phát triển mạnh mẽ về tiềm lực kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội trên quy mô lớn với trình độ hiện đại, đảm bảo ngày càng tốt hơn đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. - Chủ nghĩa xã hội có ảnh hưởng sâu sắc trong đời sống chính trị thế giới, đóng vai trò quyết định đối với sự sụp đổ của hệ thống thuộc địa, mở ra kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc và thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. - Sức mạnh của chủ nghĩa xã hội đóng vai trò quyết định đẩy lùi nguy cơ chiến tranh hủy diệt, bảo vệ hòa bình thế giới. - Chủ nghĩa xã hội còn có tác động mạnh mẽ đến phong trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ của nhân dân trong các nước tư bản chủ nghĩa. 2. Sự khủng hoảng, sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội xôviết và nguyên nhân của nó a. Sự khủng hoảng và sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội Xôviết Lịch sử xã hội loài người không đi theo con đường thẳng và phong trào cách mạng cũng không tránh khỏi sai lầm, thất bại hay những thời kỳ thoái trào. Bắt đầu từ cuối những năm 60 của thế kỷ XX, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đi vào thời kỳ khủng hoảng. Từ tháng 4 năm 1989 trở đi, sự đổ vỡ diễn ra liên tiếp ở các nước Đông Âu. Chỉ trong vòng 2 năm, đến tháng 9 năm 1991, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và sáu nước Đông Âu đã bị sụp đổ hoàn toàn. Sự đổ vỡ cũng diễn ra ở Mông Cổ, Anbani, Nam tư. b. Nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng và sụp đổ Nguyên nhân sâu xa là những sai lầm thuộc về mô hình phát triển của chủ nghĩa xã hội Xôviết Sau khi V.I.Lênin qua đời, ở Liên Xô, chính sách kinh tế mới không được tiếp tục thực hiện mà chuyển sang kế hoạch hoá tập trung cao độ. Thời gian đầu, kế hoạch hoá tập trung đã phát huy mạnh mẽ tác dụng, song đã biến dạng thành kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp. Sau chiến tranh thế giới thứ II, Liên Xô vẫn tiếp tục duy trì mô hình này. Trong mô hình này đã tuyệt đối hoá cơ chế kế hoạch hoá, tập trung cao, từ bỏ hay gần như từ bỏ nền kinh tế hàng hoá, cơ chế thị trường, thực hiện chế độ bao cấp tràn lan, triệt tiêu tính chủ động, sáng tạo của người lao động. Từ giữa những năm 70 của thế kỷ XX, sau cuộc khủng hoảng năng lượng năm 1973, các nước tư bản sau khủng hoảng đã tự điều chỉnh để thích nghi với tình hình mới. Ngược lại, Liên Xô và các nước Đông Âu vẫn cứ giữ nguyên mô hình phát triển theo kiểu tuyệt đối hoá cơ chế kế hoạch hoá, chỉ trú trọng đến phát triển công nghiệp nặng mà không chú ý đến sản xuất các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu, đặc biệt là chưa đầu tư đúng mức cho phát triển khoa học và công nghệ, dần dần tụt hậu so với các nước tư bản chủ nghĩa. Do chậm đổi mới cơ chế kinh tế, hệ thống quản lý và nói chung là chậm đổi mới mô hình chủ nghĩa xã hội dẫn đến hậu quả tất yếu là sự thua kém rõ rệt trong nhiều lĩnh vực công nghệ và năng suất lao động so với các nước tư bản chủ nghĩa. Những sai lầm chủ quan nghiêm trọng kéo dài như đã nói trên chính là nguyên nhân sâu xa làm cho chế độ xã hội chủ nghĩa suy yếu, rơi vào khủng hoảng. Tuy nhiên, sự thất bại của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, Đông Âu không phải xuất phát từ sai lầm, khuyết tật do bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa mà là do quan niệm giáo điều về chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh năm 1991 của Đảng ta chỉ rõ: “ Do duy trì quá lâu những khuyết tật của mô hình cũ của chủ nghĩa xã hội, chậm trễ trong cách mạng khoa học và công nghệ” đã gây tình trạng trì trệ kéo dài và khủng hoảng. Nguyên nhân chủ yếu và trực tiếp dẫn đến sự sụp đổ Một là, trong cải tổ Đảng Cộng sản Liên Xô đã mắc những sai lầm rất nghiêm trọng về đường lối chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đó là đường lối hữu khuynh, cơ hội và xét lại, thể hiện trước hết ở những người lãnh đạo cao nhất. Cải tổ ở Liên Xô bắt đầu từ 1986 và kết thúc trong sự đổ vỡ hoàn toàn năm 1991. Đường lối cải tổ trượt dài từ cơ hội hữu khuynh đến xét lại, từ bỏ hoàn toàn chủ nghĩa Mác-Lênin, từ bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Từ chủ trương ban đầu là cải tổ kinh tế chuyển nhanh sang cải tổ về chính trị một cách vô nguyên tắc đã tạo điều kiện cho sự phát triển làn sóng “công khai”, “dân chủ”, “không có vùng cấm”, phủ định mọi thành tựu của chủ nghĩa xã hội, gây tâm lý hoang mang cực độ trong tư tưởng xã hội, phá vỡ niềm tin của quần chúng đối với chủ nghĩa xã hội. Bằng việc loại bỏ dần những người không tán thành đường lối sai lầm của cải tổ, nhóm lãnh đạo cải tổ đã chiếm được các vị trí chủ chốt trong bộ máy Đảng và nhà nước.

Hai là, chủ nghĩa đế quốc đã can thiệp toàn diện, vừa tinh vi, vừa trắng trợn, thực hiện được “diễn biến hòa bình” trong nội bộ Liên Xô và các nước Đông Âu. Chủ nghĩa đế quốc thường xuyên tiến hành cuộc chiến tranh khi thì bằng súng đạn, khi bằng “diễn biến hòa bình” chống chủ nghĩa xã hội, gây ra cuộc chiến tranh lạnh từ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai. Các chiến lược gia phương Tây đã sớm nhận ra “gót chân Asin” của cải tổ: đó là đường lối xét lại, là hệ tư tưởng tư sản, là chính sách thỏa hiệp, nhân nhượng vô nguyên tắc với Mỹ và phương Tây thể hiện ở “tư duy chính trị mới”. Các thế lực chống chủ nghĩa xã hội ở bên ngoài theo sát quá trình cải tổ, tìm mọi cách để lái nó theo ý đồ của họ, tác động vào cải tổ cả về tư tưởng, chính trị và tổ chức. Tóm lại, sự phá hoại của chủ nghĩa đế quốc cùng với sự phản bội từ bên trong là nguyên nhân trực tiếp làm Liên Xô sụp đổ. Hai nguyên nhân này quyện chặt vào nhau, tác động cùng chiều, tạo nên lực cộng hưởng rất mạnh và nhanh như một cơn lốc chính trị trực tiếp phá hoại ngôi nhà của chủ nghĩa xã hội. Tất nhiên, xét cho cùng chính bọn cơ hội, xét lại và phản bội, sự mất cảnh giác trong hàng ngũ những người cộng sản đã tạo cơ hội bằng vàng cho chủ nghĩa đế quốc “chiến thắng mà không cần chiến tranh”. Trong tình hình chủ nghĩa xã hội trì trệ và khủng hoảng do sai lầm củamô hình cũ thì cải tổ, cải cách mở cửa, đổi mới là tất yếu để thoát khỏi khủng hoảng, đưa đất nước vào thời kỳ phát triển mới. Nhưng vấn đề là ở chỗ, cải cách dựa trên nguyên tắc nào? Bằng phương pháp nào để vừa giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, vừa đạt được hiệu quả kinh tế xã hội cao. Bài học của Liên Xô và Đông Âu có ý nghĩa vô cùng quan trọng cho những người Cộng sản ở các nước xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi mới hiện nay. 3. Triển vọng của chủ nghĩa xã hội

a. Chủ nghĩa tư bản không phải là tương lai của xã hội loài người - Bản chất của chủ nghĩa tư bản không thay đổi.

Chủ nghĩa tư bản có vai trò to lớn đối với lịch sử phát triển của nhân loại. Trong mấy thập kỷ qua, do biết “tự điều chỉnh và thích ứng” đồng thời sử dụng triệt để những thành tựu của cách mạng khoa học và công nghệ, các nước tư bản chủ nghĩa đã vượt qua được một số cuộc khủng hoảng và vẫn còn khả năng phát triển. Song dù thế nào, chủ nghĩa tư bản cũng không thể là chế độ tương lai của nhân loại. Bản chất bóc lột, phản dân chủ, vô nhân đạo của chủ nghĩa tư bản không thay đổi.Trong khuôn khổ của chủ nghĩa tư bản, dù là chủ nghĩa tư bản hiện đại vẫn không thể xóa bỏ được đói nghèo, mù chữ, bất bình đẳng do phân hóa thu nhập và mức sống ngày càng sâu sắc. Chủ nghĩa tư bản với những mâu thuẫn bên trong không thể khắc phục mặc dù nó luôn được tô vẽ bằng những lối xưng danh mới như: “phi hệ tư tưởng hóa”, “xã hội tư bản”, “xã hội hậu công nghiệp”, “xã hội kinh tế tri thức hóa”... - Các yếu tố xã hội chủ nghĩa đã xuất hiện trong lòng chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản hiện đại sẽ tiếp tục phát triển thông qua những cuộc khủng hoảng, những cuộc cải cách để thích ứng và quá trình đó cũng chính là quá trình quá độ sang một xã hội mới. Trong khuôn khổ của chủ nghĩa tư bản đã xuất hiện những yếu tố của xã hội mới, những yếu tố của nền văn minh hậu công nghiệp: kinh tế tri thức nảy sinh và phát triển; tính chất xã hội của sở hữu ngày càng tăng; sự điều tiết của nhà nước đối với kinh tế thị trường ngày càng hữu hiệu; tính nhân dân và xã hội của nhà nước tăng lên. Việc giải quyết những vấn đề phúc lợi xã hội và môi trường ngày càng tốt hơn. Với những đặc điểm trên đây, có thể xem đó là những xã hội quá độ vì nó chứa đựng trong nó cả các yếu tố của chủ nghĩa tư bản và xã hội tương lai. b. Chủ nghĩa xã hội – tương lai của xã hội loài người - Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ không có nghĩa là sự cáo chung của chủ nghĩa xã hội Sau sự kiện Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, các thế lực chống chủ nghĩa xã hội ra sức tuyên truyền rêu rao về “cái chết của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa Mác-Lênin”. Song sự phân tích ở các phần trên cho thấy, sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu là sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội thực tế chứ không phải là sự cáo chung của chủ nghĩa xã hội với tư cách là hình thái kinh tế - xã hội mà loài người đang vươn tới. Tương lai của loài người vẫn là chủ nghĩa xã hội, đó là quy luật khách quan của sự phát triển lịch sử. Tính chất của thời đại hoàn toàn không thay đổi,loài người vẫn ở trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới mở đầu bằng Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại. Các mâu thuẫn của thời đại vẫn tồn tại, chỉ thay đổi hình thức biểu hiện và đặt ra yêu cầu mới phải giải quyết. - Các nước xã hội chủ nghĩa còn lại tiến hành cải cách, mở cửa, đổi mới và ngày càng đạt được những thành tựu to lớn. Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã có tác động mạnh mẽ đến các nước xã hội chủ nghĩa còn lại nhưng với sự kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, các nước này không những đứng vững mà còn thực hiện đổi mới tương đối thành công. Trên cơ sở vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của mình, Trung Quốc và Việt Nam đã từng bước tìm ra con đường đi lên chủ nghĩa xã hội thích hợp. Tuy hai nước có những sự khác biệt về quy mô, vị trí trên trường quốc tế, về văn hóa dân tộc nhưng sự đổi mới, mở cửa của Trung Quốc và Việt Nam cũng có nhiều nét tương đồng với nhau: - Từ bỏ mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung chuyển sang nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa (Trung Quốc) hoặc kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (Việt Nam). Quá trình đổi mới của hai nước đều thực hiện đa dạng hóa sở hữu, trong đó quốc hữu giữ vai trò chủ thể (Trung Quốc) hoặc công hữu là nền tảng (Việt Nam); kinh tế nhà nước là chủ đạo, sở hữu cổ phần được xem là hình thức chủ yếu của chế độ công hữu (Trung Quốc) hoặc doanh nghiệp cổ phần trở thành hình thức kinh tế phổ biến (Việt Nam); đa dạng hóa hình thức phân phối, coi trọng phân phối theo lao động, đảm bảo quyền kinh doanh bình đẳng cho mọi loại hình doanh nghiệp; giá cả, tỷ giá, lãi suất do thị trường xác định có sự điều tiết của nhà nước; phát triển đồng bộ các loại thị trường từ thị trường hàng hóa dịch vụ đến thị trường chứng khoán; thực hiện các chương trình phúc lợi xã hội rộng lớn, xóa đói giảm nghèo, giữ gìn môi trường...

- Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa theo hướng xây dựng hệ thống pháp luật ngày càng tương đồng với hệ thống pháp luật hiện đại, phù hợp với những cam kết quốc tế; giảm dần sự can thiệp của nhà nước vào hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp; gia tăng hiệu lực điều tiết vĩ mô; gia tăng sự phân quyền cho các địa phương; thực hiện chế độ dân chủ, đặc biệt là ở các cơ sở theo hướng công khai, minh bạch, gia tăng sự giám sát của các cấp, của công luận, của Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp, của các tổ chức xã hội, thực hiện cải cách hành chính... - Xây dựng các tổ chức xã hội phi chính phủ đa dạng bao gồm các hội nghề nghiệp, văn hóa, tôn giáo, xã hội...khuyến khích sự phát triển của các tổ chức này hướng vào các mục đích như từ thiện, cứu trợ... - Hội nhập quốc tế sâu rộng, tham gia vào hầu hết các tổ chức quốc tế như Liên Hợp Quốc, WTO, các tổ chức khu vực như Hiệp hội ASEAN,Đông Á và trở thành thành viên tích cực của các tổ chức này. - Đảm bảo sự cầm quyền và lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với công cuộc xây dựng và phát triển đất nước trên tất cả các mặt. Sự lãnh đạo của Đảng cũng dần được đổi mới theo hướng dân chủ và hiệu quả hơn, phù hợp với điều kiện cụ thể của Trung Quốc và Việt Nam. Công cuộc cải cách của Trung Quốc và đổi mới ở Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng. Những định hướng phát triển của Trung Quốc và Việt Nam đều tôn trọng những giá trị tiến bộ của nhân loại, nghiên cứu và ứng dụng chúng phù hợp với điều kiện cụ thể trên cơ sở những giá trị nhân đạo cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin. Sự tiến triển thực tế của những cuộc cải cách ở Trung Quốc và Việt Nam sẽ góp phần quan trọng làm sáng tỏ hơn con đường đổi mới chủ nghĩa xã hội. - Đã xuất hiện xu hướng đi lên chủ nghĩa xã hội Trong tình hình chủ nghĩa xã hội tạm thời lâm vào thoái trào thì ở nhiều nơi trên thế giới, nhất là khu vực Mỹ Latinh, từ những năm 1990 đã xuất hiện xu thế thiên tả và phát triển lên thành một trào lưu vào đầu thế kỷ XXI. Từ 1998 đến nay, thông qua bầu cử dân chủ, các Chính phủ cánh tả tiến bộ đã lên cầm quyền ở 11 nước Mỹ Latinh, trong đó có nhiều nước tuyên bố đi lên chủ nghĩa xã hội. Từ năm 2005, Tổng thống Vênêxuêla Hugo Chavez nhiều lần công khai tuyên bố mục tiêu của cách mạng Vênêxuêla là đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Sau khi tái đắc cử trong kỳ bầu cử tổng thống năm 2006, Tổng thống Hugo Chavez một lần nữa khẳng định: Vênêxuêla sẽ tiếp tục con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở thế kỷ XXI.Tổng thống Bôlivia Êvô Môralét nói rằng: chủ nghĩa xã hội là mơ ước của các dân tộc Mỹ Latinh. Êcuađo và Nicarago cũng tuyên bố lựa chọn con đường chủ nghĩa xã hội.Sự xuất hiện của “Chủ nghĩa xã hội Mỹ Latinh thế kỷ XXI” còn nhiều vấn đề cần phải tiếp tục nghiên cứu, đánh giá nhưng đó là những biểu hiện về sức sống mãnh liệt của chủ nghĩa xã hội hiện thực đối với các dân tộc Mỹ Latinh, thể hiện bước tiến mới của chủ nghĩa xã hội thế giới. Đó cũng chính là bằng chứng chứng minh cho sức sống và khả năng phát triển của chủ nghĩa xã hội.

Tóm lại, từ diễn biến của tình hình thế giới từ Cách mạng Tháng Mười Nga đến nay có thể khẳng định: chủ nghĩa xã hội trên thế giới, từ những bài học thành công và thất bại nhất định sẽ có bước phát triển mới.Theo quy luật phát triển khách quan của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội.

Chương VIII: Những vấn đề chính trị - xã hội có tính quy luật trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa

I. XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

Tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa là một tiến trình lịch sử lâu dài,khó khăn và gian khổ với mục đích cuối cùng là bảo đảm thành công sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong tiến trình đó tất yếu xuất hiện các vấn đề kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội cần phải được giải quyết một cách khoa học trên lập trường thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin trong các điều kiện lịch sử cụ thể của mỗi quốc gia, dân tộc ở những thời kỳ nhất định. Đó là những vấn đề kinh tế - xã hội có tính quy luật trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa.

I. XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

1. Xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa                                           

a. Khái niệm nhà nước xã hội chủ nghĩa Chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng, nhà nước là công cụ chuyên chính củamột giai cấp, nó ra đời không phải để điều hoà mâu thuẫn giai cấp mà do mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là tổ chức mà thông qua đó, Đảng của giai cấp công nhân thực hiện vai trò lãnh đạo của mình đối với toàn xã hội; làmột tổ chức chính trị thuộc kiến trúc thượng tầng dựa trên cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội; là nhà nước kiểu mới, thay thế cho nhà nước tư sản, nhờ kết quả của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa; là hình thức chuyên chính vô sản được thực hiện trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.Nhà nước xã hội chủ nghĩa là tổ chức cơ bản nhất của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, là cơ quan quyền lực, vừa là bộ máy hành chính, vừa là tổ chức quản lý kinh tế, văn hóa xã hội của nhân dân, được thực hiện thông qua hai chức năng chủ yếu là chức năng thống trị giai cấp và chức năng xã hội. b. Đặc trưng, chức năng và nhiệm vụ của nhà nước xã hội chủ nghĩa Đặc trưng của nhà nước xã hội chủ nghĩa . Bất kỳ nhà nước nào cũng có những đặc trưng cơ bản là: Quản lý dân cư trên một vùng lãnh thổ nhất định; có một hệ thống các cơ quan quyền lực chuyên nghiệp mạng tính cưỡng chế đối với mọi thành viên trong xã hội;hình thành hệ thống thuế khóa để duy trì hoạt động của bộ máy nhà nước.Tuy nhiên, nhà nước xã hội chủ nghĩa mang bản chất của giai cấp công nhân, nên nó còn có một số đặc trưng sau:

Một là, nhà nước xã hội chủ nghĩa không phải là công cụ đàn áp mộtgiai cấp nào đó mà là thực hiện một chính sách giai cấp vì lợi ích của tất cả những người lao động nhưng đồng thời duy trì vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với nhà nước. Hai là, nhà nước xã hội chủ nghĩa là công cụ của chuyên chính giai cấp nhưng vì lợi ích của tuyệt đại đa số nhân dân, trấn áp những kẻ chống đối phá hoại sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa. Ba là, nhà nước xã hội chủ nghĩa coi mặt tổ chức xây dựng là đặc trưng cơ bản của chuyên chính vô sản. Bốn là, nhà nước xã hội chủ nghĩa nằm trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, mở rộng dân chủ, đảm bảo cho nhân dân tham gia quản lý nhà nước,quản lý xã hội. Năm là, nhà nước xã hội chủ nghĩa là kiểu nhà nước đặc biệt, nhà nước không còn nguyên nghĩa mà là “nửa nhà nước”, nhà nước tự tiêu vong khi cơ sở kinh tế xã hội cho sự tồn tại của nhà nước không còn nữa. Chức năng và nhiệm vụ của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nhà nước xã hội chủ nghĩa có hai chức năng cơ bản là trấn áp và tổ chức xây dựng: Chức năng bạo lực: Chức năng bạo lực tức là nhà nước sử dụng các công cụ như luật pháp và các công cụ bạo lực để đập tan sự phản kháng của kẻ thù chống lại sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ độc lập, chủ quyền của đất nước, giữ vững an ninh xã hội. Chức năng bạo lực là chứcnăng truyền thống của nhà nước nhưng đối với nhà nước xã hội chủ nghĩa,chức năng bạo lực không phải là chức năng căn bản và quan trọng nhất.

Chức năng tổ chức xây dựng: Là chức năng cơ bản của nhà nước xãhội chủ nghĩa, đặc trưng cho bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Chứcnăng tổ chức xây dựng chính là việc nhà nước sử dụng công cụ luật pháp vàcác công cụ kinh tế, tổ chức để tập hợp lực lượng của xã hội nhằm sáng tạora xã hội mới. Thực hiện chức năng đối ngoại nhằm mở rộng quan hệ hợp tác hữu nghị, bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau vì sự phát triển và tiến bộ xã hộiđối với nhân dân các nước trên thế giới. Nhiệm vụ của nhà nước xã hội chủ nghĩa . Từ hai chức năng trên, nhà nước xã hội chủ nghĩa có những nhiệm vụchính là: Quản lý kinh tế, xây dựng và phát triển kinh tế; cải thiện không ngừng đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; quản lý văn hóa - xã hội, xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa, thực hiện giáo dục đào tạo con người phát triển toàn diện, chăm sóc sức khỏe nhân dân.

c. Tính tất yếu của việc xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa

Nhà nước là công cụ để giai cấp công nhân thực hiện sứ mệnh lịch sửcủa mình là xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa cộng sản do đógiai cấp công nhân tất yếu phải xây dựng nhà nước mình, chỉ có như vậymới thực hiện được chuyên chính vô sản, trấn áp được các thế lực thù địchchống phá sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa.Sự cần thiết phải xác lập chuyên chính vô sản, xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa còn xuất phát từ thực tiễn của thời kỳ quá độ. Đó là thời kỳ còn tồn tại các giai cấp bóc lột, nhiều xu hướng chính trị vận động khác nhau trong đó có xu hướng chống chủ nghĩa xã hội do đó cần phải có nhà nước đểtrấn áp, lôi kéo các lực lượng xã hội vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.Để mở rộng dân chủ đối với các tầng lớp nhân dân cũng đỏi hỏi phảicủng cố nhà nước vững mạnh và có thiết chế nhà nước phù hợp do đó quátrình xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa là quá trình tất yếu gắn với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.

2. Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa

a. Quan niệm về dân chủ và nền dân chủ

Dân chủ và thực hiện dân chủ là nhu cầu khách quan của con người.Ngay trong trong công xã thị tộc (thời nguyên thủy), thủ lĩnh đứng đầu bộ tộc được các thành viên của bộ tộc bầu ra hoặc phế bỏ. Điều này cho thấy quyền dân chủ ra đời từ rất sớm. Trong xã hội Hy Lạp cổ đại, khi mà nhà nước dân chủ chủ nô Aten ra đời(khoảng thế kỷ VI trước công nguyên), khái niệm dân chủ được hiểu là: việc cửra hay phế bỏ người đứng đầu là do “quyền và sức mạnh của nhân dân”. Chỉ đếngiai đoạn này thì danh từ dân chủ mới chính thức được sử dụng. Dân chủ theo tiếng Hy Lạp cổ là từ ghép của hai chữ: Demos (nhân dân, quần chúng) + Kratos (sức mạnh, quyền lực) = quyền lực, sức mạnh thuộc về nhân dân. Như vậy, về thực chất ngay từ thế kỷ VI (tr.CN) với hình thức nhànước đầu tiên trong lịch sử, giai cấp đứng ở vị trí trung tâm lãnh đạo xã hội, áp bức bóc lột - giai cấp chủ nô đã dùng pháp luật và bộ máy thống trị của mình để chiếm mất quyền lực đông đảo của quần chúng nhân dân lao động là những người nô lệ. Nhân loại suốt 2600 năm qua đã trải qua bốn hình thức quyền lực: chuyên chính chủ nô; chuyên chế phong kiến; chuyên chính tư sản; chuyênchính vô sản. Thực chất của chuyên chính hay chuyên chế đều là quyền lựcchính trị của một giai cấp nào đó để lãnh đạo xã hội. Cách mạng Tháng Mười Nga thành công đã mở ra một kỷ nguyênmới: lần đầu tiên trong lịch sử, nhân dân lao động giành được quyền lựcthực sự của mình. Nhà nước xã hội chủ nghĩa do giai cấp công nhân lãnhđạo thông qua chính đảng của nó trở thành nhà nước đầu tiên thực hiệnquyền lực của nhân dân. Kế thừa những những quan niệm của C.Mác, Ph.Ăngghen và từ thựctiễn phát triển của xã hội đương thời, V.I.Lênin đưa ra quan niệm về dân chủnhư sau: Thứ nhất, dân chủ là sản phẩm tiến hóa của lịch sử, dân chủ là một nhucầu khách quan của nhân dân lao động, dân chủ là quyền lực của nhân dân. Thứ hai, dân chủ với tư cách là một phạm trù lịch sử, phạm trù chính trị gắn với một kiểu nhà nước và một giai cấp cầm quyền do đó không có dân chủ “phi giai cấp, dân chủ chung chung”. Trong xã hội có giai cấp, việc thực hiện dân chủ cho những tập đoàn người này là đã hạn chế dân chủ của tập đoàn người khác. Mỗi chế độ dân chủ gắn liền với nhà nước đều mang bản chất của giai cấp thống trị. Điều này là tất yếu cho mọi chế độ dân chủ, kể cả chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa. Thứ ba, dân chủ còn được hiểu với tư cách là một hệ giá trị phản ánhtrình độ phát triển cá nhân và cộng đồng xã hội trong quá trình giải phóng xã hội, chống áp bức, bóc lột và nô dịch để tiến tới tự do, bình đẳng. Như vậy, trải qua các chế độ xã hội khác nhau với “bốn chuyên” khác nhau: chuyên chính chủ nô; chuyên chế phong kiến; chuyên chính tư sản;chuyên chính vô sản. Tương ứng với “bốn chuyên” là bốn chế độ dân chủ với mức độ phát triển khác nhau như: dân chủ chủ nô, dân chủ phong kiến, dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa . Trong xã hội có giai cấp và nhà nước, quyền lực của nhân dân được thể chế hóa bằng chế độ nhà nước, pháp luật và cũng từ khi xã hội có giai cấp , dân chủ được thực hiện dưới hình thức mới - hình thức nhà nước với tên gọi là “chính thể dân chủ” hay “nền dân chủ”.Nền dân chủ hay chế độ dân chủ là hình thái dân chủ gắn với bản chất,tính chất của nhà nước, là trạng thái được xác định trong những điều kiện lịch sử cụ thể của xã hội có giai cấp, nền dân chủ do giai cấp thống trị đặt ra được thể chế hóa bằng pháp luật. b. Những đặc trưng của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa Sự hình thành và phát triển của dân chủ xã hội chủ nghĩa đánh dấu bước phát triển mới về chất của dân chủ. Lần đầu tiên trong lịch sử, chế độ dân chủ cho tuyệt đại đa số nhân dân được hình thành. Sự hình thành nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là quá trình lâu dài. Dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, được hình thành phát triển dần dần, từng bước phù hợp với quá trình phát triển của kinh tế, chính trị và văn hóa xã hội. Trong quá trình xây dựng và phát triển, dân chủ xã hội chủ nghĩa có các đặc trưng sau: Một là, dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa có bản chất của giai cấp công nhân, vừa có tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc. Hai là, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa có cơ sở kinh tế là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu của toàn xã hội. Ba là, kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích của toàn xã hội. Tất cả các tổ chức chính trị - xã hội, các đoàn thể và mọi côngdân đều được tham gia vào công việc nhà nước, đều được bầu cử, ứng cử và đề cử vào các cơ quan quyền lực nhà nước các cấp. Bốn là, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa cần có và phải có những điều kiện tồn tại với tư cách là nền dân chủ rộng rãi nhất nhưng vẫn là nền dân chủ có tính giai cấp trong đó chuyên chính và dân chủ là hai mặt, hai yếu tố quy định lẫn nhau, bổ sung cho nhau. c. Tính tất yếu của việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là quá trình tất yếu của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Dân chủ là động lực của quá trình phát triển xã hội, của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, do đó dân chủ phải được mở rộng để phát huy tính tích cực, sáng tạo của nhân dân, để nhân dân tham gia vào công việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là quy luật của sự hình thành tự hoàn thiện của hệ thống chuyên chính vô sản, hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa. Dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xâydựng chủ nghĩa xã hội. Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa cũng là quá trình vận động và thực hành dân chủ, đưa các giá trị, chuẩn mực, nguyên tắc của dân chủ vào đời sống thực tiễn nhằm chuyển giao quyền lực thực sự về cho nhân dân,huy động sức mạnh toàn dân vào việc sáng tạo ra xã hội mới.Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là đáp ứng nhu cầu của nhân dân, là điều kiện, tiền đè thực hiện quyền lực, quyền làm chủ của nhân dân, là điều kiện để người dân đựoc sống trong bầu không khí thực sự dân chủ.Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa cũng chính là quá trình thực hiện dân chủ hóa đời sống xã hội, chống biểu hiện cực đoan, vô chính phủ,ngăn ngừa mọi hành vi coi thường kỷ cương, pháp luật.

Tóm lại, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là một quá trình tất yéu của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, của quá trình vận động biến dân chủ từ khả năng trở thành hiện thực, để nền dân chủ “ngày càng tiến tớicơ sở hiện thực, tới con người hiện thực... và được xác định là sự nghiệp của bản thân nhân dân.

II. XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

1. Khái niệm nền văn hóa xã hội chủ nghĩa

a. Khái niệm văn hóa, nền văn hóa

Văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con ngườisáng tạo ra bằng lao động và hoạt động thực tiễn trong quá trình lịch sử của mình. Văn hóa là biểu hiện trình độ phát triển xã hội trong từng thời kỳ lịch sử nhất định. Khi nghiên cứu quy luật phát triển của xã hội loài người, chủ nghĩa Mác-Lênin đã khái quát các loại hình hoạt động của xã hội thành hai hoạt động cơ bản là “sản xuất vật chất” và “sản xuất tinh thần”. Với ý nghĩa như vậy, theo nghĩa rộng, văn hóa bao gồm cả văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần: Văn hóa vật chất là năng lực sáng tạo của con người được thể hiện và kết tinh trong sản phẩm vật chất. Theo nghĩa hẹp, văn hoá được hiểu chủ yếu là văn hoá tinh thần. Văn hóa tinh thần là tổng thể các tư tưởng, lý luận và giá trị được sáng tạo ra trong đời sống tinh thần và hoạt động tinh thần của con người. Như vậy, nói tới văn hoá là nói tới con người, tới việc phát huy những năng lực thuộc bản chất của con người nhằm hoàn thiện con người, hoàn thiện xã hội. Do vậy, văn hoá có mặt trong mọi hoạt động của con người, dù đó là hoạt động trên lĩnh vực kinh tế, chính trị - xã hội, hay trong tư tưởng, tinh thần... Văn hóa trong xã hội có giai cấp bao giờ cũng mang tính giai cấp.Điều kiện sinh hoạt vật chất của mỗi xã hội và của mỗi giai cấp khác nhau, nhất là của giai cấp thống trị là yếu tố quyết định hình thành các nền văn hóa khác nhau. Nền văn hóa là biểu hiện cho toàn bộ nội dung, tính chất của văn hóa được hình thành và phát triển trên cơ sở kinh tế - chính trị của mỗi thời kỳlịch sử, trong đó ý thức hệ của giai cấp thống trị chi phối phương hướng phát triển và quyết định hệ thống các chính sách, pháp luật quản lý các hoạt động văn hóa. Kinh tế là cơ sở của nền văn hóa còn chính trị là yếu tố quy định khuynh hướng phát triển của nó, tạo nên ý thức hệ của nền văn hóa. Chính vì vậy, một nền chính trị lạc hậu tất yếu sẽ không tạo ra một nền văn hoá tiến bộ. Do đó, nền văn hoá của bất cứ thời kỳ nào của lịch sử cũng đồng thời có sự kế thừa, sử dụng những di sản của quá khứ và sáng tạo ra những giá trị văn hoá mới. Trong xã hội có giai cấp và quan hệ giai cấp, các giai cấp thống trị của mỗi thời kỳ lịch sử đều in dấu ấn của mình trong lịch sử phát triển của văn hoá và tạo ra nền văn hoá của xã hội đó, hình thành những giai đoạn khác nhau trong lịch sử phát triển văn hoá.

b. Khái niệm nền văn hóa xã hội chủ nghĩa

Sự ra đời của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là một tất yếu trong quá trình phát triển của lịch sử, là sự phát triển tự nhiên, hợp quy luật khi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã lỗi thời và phương thức sản xuất mới xã hội chủ nghĩa hình thành. Chủ nghĩa xã hội được xác lập với hai tiền đề quan trọng là tiền đề chính trị (giai cấp công nhân và nhân dân lao động giành được chính quyền)và tiền đề kinh tế (chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất chủ yếu được thiết lập), đó cũng chính là những tiền đề hình thành nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.

Vì thế, có thể khái quát: Nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là nền văn hoá được xây dựng và phát triển trên nền tảng hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, do Đảng Cộng sản lãnh đạo nhằm thỏa mãn nhu cầu không ngừng tăng lên về đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân, đưa nhân dân lao động thực sự trở thành chủ thể sáng tạo và hưởng thụ văn hóa.

c. Đặc trưng của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.

Nền văn hoá xã hội chủ nghĩa có những đặc trưng cơ bản sau đây:

Thứ nhất, Chủ nghĩa Mác-Lênin giữ vai trò chủ đạo và là nền tảng tư tưởng, quyết định phương hướng phát triển nội dung của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.

Thứ hai, là nền văn hóa có tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc thể hiện mục đích và động lực nội tại của quá trình xây dựng xã hội mới và nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa. Thứ ba, là nền văn hóa được hình thành, phát triển một cách tự giác,dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua chính Đảng Cộng sản, có sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nền văn hoá xã hội chủ nghĩa không hình thành một cách tự phát. Trái lại, nó phải được hình thành và phát triển một cách tự giác, có sự quản lý của nhà nước và có sự lãnh đạo của chính đảng của giai cấp công nhân. Mọi sự coi nhẹ hoặc phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và vai trò quản lý của nhà nước đối với đời sống tinh thần của xã hội, với nền văn hoá xã hội chủ nghĩa đều nhất định sẽ làm cho đời sống văn hoá tinh thần của xã hội phát triển lệch lạc, mất phương hướng.

2. Tính tất yếu của việc xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa

Cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng triệt để toàn diện, do đó đòi hỏi phải thay đổi phương thức sản xuất tinh thần để phù hợp với phương thức sản xuất mới của xã hội chủ nghĩa . Xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là tất yếu trong quá trình cải tạo tâm lý, ý thức và đời sống tinh thần của chế độ cũ để lại nhằm giải phóng nhân dân thoát khỏi ảnh hưởng tư tưởng, ý thức lạc hậu của xã hội cũ, đưa quần chúng nhân dân trở thành chủ thể sản xuất và tiêu dùng, sáng tạo và hưởng thụ văn hóa tinh thần. Xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là tất yếu trong quá trình nâng cao trình độ văn hóa cho nhân dân, khắc phục tình trạng thiếu hụt văn hóa, tạo điều kiện để chiến thắng nghèo nàn lạc hậu, nâng cao trình độ và nhu cầu văn hóa của nhân dân. Xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là tất yếu xuất phát từ yêu cầu khách quan: văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.

3. Nội dung và phương thức xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa

a. Nội dung cơ bản của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa

Một là, nâng cao trình độ dân trí, hình thành đội ngũ trí thức củaxã hội mới.

Chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp của quần chúng nhân dân nhưng muốnxây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người mới xã hội chủ nghĩa, do vậy con người cần phải được chuẩn bị tốt về tinh thần, trí lực, tư tưởng...Vì thế, nâng cao dân trí là nhu cầu cấp bách và lâu dài. Nâng cao dân trí phải gắn liền với sự nghiệp giáo dục đào tạo để hình thành đội ngũ trí thức mới, có tri thức hiện đại, mang bản sắc văn hóa dân tộc.

Hai là, xây dựng con người mới phát triển toàn diện.

Con người vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể của xã hội. Sự nghiệpxây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết phải xây dựng con người mới, đó là yêu cầu khách quan. Con người mới xã hội chủ nghĩa được xây dựng là con người phát triển toàn diện, có tinh thần và năng lực xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, có tinh thần yêu nước và tinh thần quốc tế trong sáng, có lối sống tình nghĩa và có tính cộng đồng cao.

Ba là, xây dựng lối sống mới xã hội chủ nghĩa.

Lối sống là dấu hiệu biểu thị sự khác biệt giữa những cộng đồng ngườikhác nhau; là tổng thể các hình thái hoạt động của con người, phản ánh điềukiện vật chất, tinh thần và xã hội của con người. Lối sống mới xã hội chủ nghĩa được hình thành trên cơ sở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, xóa bỏ tình trạng bất bình đẳng xã hội, mở rộng dân chủ.

Bốn là, xây dựng gia đình văn hóa xã hội chủ nghĩa.

Gia đình là một hình thức cộng động đặc biệt, ở đó con người chungsống với nhau bởi hai mối quan hệ cơ bản là quan hệ hôn nhân và quan hệhuyết thống. Gia đình là một hình thức tổ chức cơ bản trong đời sống cộng đồng của con người, một thiết chế văn hóa-xã hội đặc thù được hình thành, tồn tại và phát triển trên cơ sở quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng và giáo dục giữa các thành viên. Xã hội loài người đã trải qua các hình thức: gia đình huyết tộc, gia đình đối ngẫu, gia đình một vợ, một chồng. Bởi vậy, xây dựng gia đình văn hóa mới xã hội chủ nghĩa cần chú ý các vấn đề sau: - Xây dựng cơ sở kinh tế xã hội của gia đình. - Cách mạng tư tưởng văn hóa có tác động trực tiếp đến việc xây dựnggia đình văn hóa mới xã hội chủ nghĩa. - Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong thời kỳ quá độ, các yếu tố cũ và mới của gia đình tồn tại đan xen vào nhau, nên gia đìnhchịu nhiều yếu tố chi phối từ tâm tư, tình cảm, tâm lý của nhiều giai cấp khác nhau trong xã hội. - Gia đình văn hóa mới xã hội chủ nghĩa được xây dựng phát triển trêncơ sở giữ gìn phát huy giá trị tốt đẹp của dân tộc, xóa bỏ tàn tích của chế độhôn nhân và gia đình phong kiến, đồng thời tiếp thu những giá trị tiến bộ củanhân loại về gia đình. - Trong xây dựng gia đình văn hóa mới xã hội chủ nghĩa cần phải chútrọng cả việc xây dựng mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình vàgiữa gia đình với xã hội, hình thành quan hệ yêu thương, gắn bó, bình đẳng,tôn trọng, giúp đỡ lẫn nhau.

b. Phương thức xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa

Thứ nhất, giữ vững và tăng cường vai trò chủ đạo của hệ tư tưởng giai cấp công nhân trong đời sống tinh thần của xã hội. Thứ hai, không ngừng tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và vai trò quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa đối với hoạt động văn hóa. Thứ ba, xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa phải theo phương thức kết hợp việc kế thừa những giá trị trong di sản văn hóa dân tộc với tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa của văn hóa nhân loại. Thứ tư, tổ chức và tập hợp quần chúng nhân dân vào các hoạt động sáng tạo văn hóa. Trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhân dân lao động chính là chủ thể sáng tạo và cũng là những người hưởng thụ những thành quả của văn hoá. Chính vì vậy, để phát huy tính sáng tạo của quần chúng nhân dân, Đảng và Nhà nước cần phải tổ chức thực hiện nhiều phong trào nhằm lôi cuốn đông đảo nhân dân tham gia vào các hoạt động sáng tạo văn hoá.

III. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ TÔN GIÁO

1. Vấn đề dân tộc và nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin trong việc giải quyết vấn đề dân tộc

a. Khái niệm dân tộc

Dân tộc là một hình thức tổ chức cộng đồng người có tính chất ổn định được hình thành trong lịch sử, là sản phẩm của quá trình phát triển lâu dài của lịch sử xã hội. Trước khi dân tộc xuất hiện, loài người đã trải qua những hình thức cộng đồng từ thấp đến cao: thị tộc, bộ lạc, bộ tộc. Khái niệm dân tộc được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, trong đó có hai nghĩa được dùng phổ biến nhất :

Thứ nhất, dân tộc là cộng đồng người có mối liên hệ chặt chẽ và bền vững,có sinh hoạt kinh tế chung, có ngôn ngữ riêng và những nét văn hoá đặc thù;xuất hiện sau bộ lạc, bộ tộc; kế thừa, phát triển cao hơn những nhân tố tộc ngườiở bộ lạc, bộ tộc và thể hiện thành ý thức tự giác tộc người của dân cư cộng đồng đó.

Thứ hai, dân tộc là một cộng đồng người ổn định hợp thành nhân dân một nước, có lãnh thổ, quốc gia, nền kinh tế thống nhất, sử dụng ngôn ngữ chung và có ý thức về sự thống nhất quốc gia của mình, gắn bó với nhau bởi lợi ích chính trị, kinh tế, truyền thống văn hoá và truyền thống đấu tranh chung trong suốt quá trình lịch sử lâu dài dựng nước và giữ nước.

b. Hai xu hướng phát triển của dân tộc và vấn đề dân tộc trong xây dựngchủ nghĩa xã hội.

Nghiên cứu vấn đề dân tộc và phong trào dân tộc trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản, V.I. Lênin đã phát hiện ra hai xu hướng khách quan của sự phát triển các dân tộc như sau:

Xu hướng thứ nhất: Khi mà các tộc người, cộng đồng dân cư có sự trưởng thành về ý thức dân tộc, ý thức về quyền sống của mình, thì các cộng đồng dân cư đó muốn tách ra thành lập các dân tộc độc lập. Trên thực tế, xu hướng này đã biểu hiện thành phong trào đấu tranh chống áp bức dân tộc, thành lập các quốc gia dân tộc độc lập.

Xu hướng thứ hai: Sự liên hiệp lại của các dân tộc trong một quốc gia, các dân tộc của nhiều quốc gia nhằm mở rộng, tăng cường quan hệ kinh tế, phá bỏ ngăn cách về kinh tế giữa các dân tộc. Hai xu thế này vận động trong một thể thống nhất, mỗi nước vừa có nhu cầu độc lập, tự chủ… nhưng đồng thời vừa phải mở rộng quan hệ với bên ngoài,hòa nhập với cộng đồng quốc tế và ngày càng xích lại gần nhau trên các lĩnh vực. Đây là hai xu hướng khách quan của phong trào dân tộc và ngày nay, nó đang có những biểu hiện rất phong phú và đa dạng. Xét trong phạm vi các quốc gia xã hội chủ nghĩa có nhiều dân tộc: Xuhướng thứ nhất biểu hiện trong sự nỗ lực của từng dân tộc để đi đến sự tự chủ và phồn vinh của bản thân dân tộc mình. Xu hướng thứ hai, tạo nên sự thúc đẩy mạnh mẽ để các dân tộc trong cộng đồng quốc gia xích lại gần nhau hơn, hòa hợp với nhau ở mức độ cao hơn trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.Trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội, hai xu hướng phát huy tác động cùng chiều, bổ sung, hỗ trợ cho nhau và diễn ra trong từng dân tộc, trong cả cộng đồng quốc gia trên cơ sở hợp tác bình đẳng giữa các dân tộc, tôn trọng và hữu nghị. Xét trên phạm vi thế giới, sự tác động của hai xu hướng khách quan thể hiện rất nổi bật. Trong thời đại ngày nay, các dân tộc bị áp bức đã vùng dậy đấu tranh xoá bỏ sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc để giành lấy quyền quyết định vận mệnh của dân tộc mình, đó là quyền tự lựa chọn chế độ chính trị, quyền bình đẳng với các dân tộc khác. Đây là một trong những mục tiêu chính trị chủ yếu của thời đại - mục tiêu độc lập dân tộc. Trong thời đại ngày nay, các dân tộc có xu hướng xích lại gần nhau thành những liên minh trên cơ sở lợi ích chung nhất định của các dân tộc. Hơn nữa sự liên minh đó còn tạo nên sức hút trên toàn cầu nhằm tập trung giải quyết những vấn đề chung của cả nhân loại như: phòng chống nguy cơ chiến tranh hạt nhân,chống ô nhiễm, bảo vệ môi trường sinh thái, phòng chống dịch bệnh, khủng bố...

c. Những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin trong việc giải quyết vấn đề dân tộc

Vấn đề dân tộc là một bộ phận của cách mạng vô sản do đó giải quyếtvấn đề dân tộc phải gắn với cách mạng vô sản, đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, trên cơ sở vì lợi ích cơ bản và lâu dài của dân tộc. Kế thừa tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về dân tộc, từ thực tiễn đấu tranh của phong trào cách mạng thế giới và cách mạng Nga; phân tích sâu sắc hai xu hướng khách quan của phong trào dân tộc gắn liền với quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, nhất là khi đã bước vào giai đoạn đế quốc chủ nghĩa,V.I.Lênin đã khái quát lại thành “Cương lĩnh dân tộc” của Đảng Cộng sản. Nội dung của Cương lĩnh gồm: Thứ nhất, các dân tộc hoàn toàn bình đẳng. Đây là quyền thiêng liêng của mọi dân tộc, là mục tiêu phấn đấu của các dân tộc trong sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc. Quyền bình đẳng dân tộc là bảo đảm cho mọi dân tộc dù đông người hay ít người, dù có trình độ phát triển cao hay thấp đều có nghĩa vụ và quyền lợi ngang nhau, không một dân tộc nào được giữ đặc quyền, đặc lợi trong quan hệ xã hội cũng như trong quan hệ quốc tế. Để thực hiện tốt quyền bình đẳng dân tộc đòi hỏi chúng ta phải chống lại chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa dân tộc lớn, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, cực đoan và chủ nghĩa phát xít mới. Thứ hai, các dân tộc được quyền tự quyết. Đây là quyền cơ bản thiêng liêng của mọi dân tộc. Quyền tự quyết dân tộc trước hết là quyền tự quyết về chính trị, tự do lựa chọn chế độ chính trị và con đường phát triển cho dân tộc mình, thực hiện quyền làm chủ vận mệnh dân tộc mình mà không một dân tộc nào được quyền dùng áp lực can thiệp vào công việc nội bộ của dân tộc khác. Quyền tự quyết dân tộc bao gồm: quyền tự do phân lập và quyền các dân tộc tự nguyện liên hiệp lại thành một liên bang các dân tộc trên cơ sở bình đẳng, giúp nhau cùng tiến bộ. Do đó, khi xem xét giải quyết quyền tự quyết của dân tộc cần đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân. Thứ ba, liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc. Đây là tư tưởng cơ bản trong Cương lĩnh dân tộc của V.I. Lênin, nó phản ánh bản chất quốc tế của phong trào công nhân, phản ánh sự thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp Những người cộng sản lấy đoàn kết công nhân tất cả các dân tộc làm mục tiêu phấn đấu cho sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và giải phóng nhân loại. Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác-Lênin là một bộ phận trong cương lĩnh cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp; là cơ sở lý luận của đường lối, chính sách dân tộc của các Đảng Cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa. 2. Tôn giáo và nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo Tôn giáo trong hình thức đã phát triển là một hiện tượng xã hội bao gồm: Lễ nghi tôn giáo, tổ chức tôn giáo và ý thức tôn giáo. Chủ nghĩa xã hội khoa học nghiên cứu vấn đề tín ngưỡng tôn giáo chủ yếu dưới góc độ chính trị - xã hội, trên cơ sở phương pháp luận triết học Mác-Lênin. Nếu như triết học Mác-Lênin nghiên cứu vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo với tư cách là một loại hình ý thức xã hội nói chung thì chủ nghĩa xã hội khoa học nghiên cứu vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo như một nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân trong xã hội, có quan hệ đến nhiều lĩnh vực khác, trước hết là lĩnh vực chính trị, tư tưởng và đời sống văn hóa tinh thần. a. Khái niệm tôn giáo Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội phản ánh một cách hoang đường, hư ảo hiện thực khách quan. Qua hình thức phản ánh của tôn giáo, những sức mạnh tự phát trong tự nhiên và xã hội đều trở thành thần bí. Nói đến tôn giáo với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, trước hết và căn bản nhất là nói đến ý thức tôn giáo. Ý thức tôn giáo đó là những quan điểm, tư tưởng tôn giáo, những tín điều tôn giáo và tâm lý tôn giáo. Tâm lý tôn giáo là những tình cảm, niềm tin tôn giáo, tập quán tôn giáo và những biểu tượng hoang đường của quần chúng có tín ngưỡng. Những tư tưởng, quan điểm được các nhà thần học đề xướng và phát triển thông qua giáo lý, trong đó thế giới quan tôn giáo được diễn đạt theo quan điểm của các giai cấp nhất định. Nó mang tính chất một hệ tư tưởng, có tác dụng chỉ đạo, cũng cố, phát triển tâm lý tôn giáo. Ngược lại tâm lý tôn giáo là điều kiện cho tư tưởng, giáo lý thâm nhập vào quần chúng. Ý thức tôn giáo thuộc thế giới quan duy tâm. Chủ nghĩa duy tâm triết học và chủ nghĩa duy tâm tôn giáo giống nhau về nguyên tắc: đều coi thực thể tinh thần nào đó là cái có trước và quyết định vật chất nhưng nó lại khác nhau về hình thức, tính chất và trình độ phản ánh hiện thực. Ở những giai đoạn nhất định của lịch sử những tôn giáo mới ra đời như những hình thức đặc thù cùng với triết học, nghệ thuật… biểu hiện trình độ phát triển của ý thức xã hội. Cũng như các hình thái ý thức xã hội khác, tôn giáo cũng mang bản chất riêng của mình: - Mặt tiêu cực: tôn giáo là một hiện tượng xã hội phản ánh sự bất lực, bế tắc của con người trước tự nhiên và xã hội. Tôn giáo phản ánh một cách hoang đường, hư ảo hiện thực khách quan vào trong đầu óc con người, giải thích thế giới bằng niềm tin mà không dựa trên cơ sở khoa học và thực tiễn nên nó không đưa lại cho con người những nhận thức đúng đắn về hiện thực khách quan. Sự phản ánh bế tắc, hư ảo của tôn giáo phần nào hạn chế khả năng lao động sáng tạo của con người. - Mặt tích cực: Tôn giáo thể hiện nguyện vọng và con đường thực hiện giải phóng quần chúng, trước hết là đời sống tinh thần. Trong tôn giáo chứa đựng những giá trị nhân văn, nhân đạo, hướng thiện, nhờ đó đáp ứng một phần nào đó nhu cầu văn hóa tinh thần, đời sống tâm linh của một bộ phận nhân dân, là nơi lưu giữ những giá trị văn hóa của dân tộc. b. Vấn đề tôn giáo trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội Có thể nói, tôn giáo còn tồn tại lâu dài, cả trong xã hội xã hội chủ nghĩa. Nếu như tôn giáo không mất đi bằng con đường “tự tiêu vong” thì cũng không thể xóa bỏ tôn giáo bằng các sắc lệnh hay bằng biện pháp bạo lực. Các tôn giáo vẫn tồn tại lâu dài trong các nước xã hội chủ nghĩa là do các nguyên nhân chủ yếu sau đây. Nguyên nhân nhận thức: Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong chế độ xã hội chủ nghĩa, trình độ dân trí của nhân dân chưa thật cao; nhiều hiện tượng tự nhiên và xã hội đến nay khoa học chưa giải thích được. Những sức mạnh tự phát của thiên nhiên, xã hội đôi khi rất nghiêm trọng còn tác động và chi phối đến đời

sống con người. Do vậy, tâm lý sợ hãi, trông chờ, nhờ cậy và tin tưởng vào Thần, Thánh, Phật... chưa thể gạt bỏ khỏi ý thức con người trong xã hội, trong đó có nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa. Tôn giáo trở thành tinh thần của thế giới không có tinh thần. Nguyên nhân tâm lý: Tôn giáo đã tồn tại lâu đời trong lịch sử xã hội loài người. Tín ngưỡng tôn giáo đã ăn sâu vào đời sống tinh thần, ảnh hưởng khá sâu đậm đến nếp nghĩ, lối sống của một bộ phận nhân dân qua nhiều thế hệ đến mức trở thành một kiểu sinh hoạt văn hóa tinh thần không thể thiếu của cuộc sống. Nguyên nhân chính trị - xã hội: Những giá trị đạo đức, văn hóa của tôn giáo đáp ứng được nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Dưới chủ nghĩa xã hội tôn giáo cũng có khả năng biến đổi để thích nghi theo xu hướng “đồng hành với dân tộc” sống “tốt đời, đẹp đạo”, “sống phúc âm giữa lòng dân tộc”. Đấu tranh giai cấp đã và đang diễn ra vô cùng phức tạp, các thế lực chính trị lợi dụng tôn giáo phục vụ mưu đồ chính trị của mình; chiến tranh cục bộ; xung đột sắc tộc, tôn giáo, khủng bố, bạo loạn... nỗi lo sợ chiến tranh, bệnh tật, đói nghèo cùng với những mối đe dọa khác là điều kiện thuận lợi để tôn giáo tồn tại. Nguyên nhân kinh tế: Trong chủ nghĩa xã hội, nhất là trong giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội với nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại và nhiều giai tầng xã hội với lợi ích khác nhau, sự bất bình đẳng về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội; đời sống vật chất tinh thần của nhân dân chưa cao, thì con người càng chịu tác động mạnh mẽ của những yếu tố ngẫu nhiên, may rủi. Điều đó đã làm cho con người có tâm lý thụ động, nhờ cậy, cầu mong vào những lực lượng siêu nhiên. Nguyên nhân về văn hóa: Sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo có khả năng đáp ứng ở một mức độ nào đó nhu cầu văn hóa tinh thần và có ý nghĩa nhất định về giáo dục ý thức cộng đồng, đạo đức, phong cách, lối sống. Tín ngưỡng tôn giáo có liên quan đến tình cảm, tư tưởng của một bộ phận dân cư, do đó sự tồn tại của tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội như một hiện tượng xã hội khách quan. Như vậy, từ những nguyên nhân tồn tại của tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nêu trên chúng ta có thể khẳng định rằng: - Nhà nước xã hội chủ nghĩa không sử dụng tôn giáo như là công cụ thống trị về mặt tinh thần để thống trị nhân dân; không dùng tôn giáo để củng cố địa vị thống trị của giai cấp công nhân. - Dưới chủ nghĩa xã hội, tôn giáo còn là sinh hoạt tinh thần của một bộ phận dân cư được nhà nước tôn trọng. - Đồng bào có đạo, không có đạo bình đẳng trước pháp luật. Cùng với quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, tôn giáo cũng có những biến đổi cùng với sự thay đổi của các điều kiện kinh tế - xã hội. Quần chúng nhân dân có đạo đã thực sự trở thành chủ thể của xã hội, đời sống vật chất, tinh thần ngày càng được nâng cao. Trên cơ sở đó họ dần được giải thoát khỏi tình trạng mê tín dị đoan, ngày càng có đời sống tinh thần lành mạnh. Đông đảo quần chúng nhân dân có tôn giáo ngày càng có điều kiện tham gia đóng góp vào công cuộc xây dựng đất nước, tinh thần yêu nước xã hội chủ nghĩa được khơi dậy, tạo nên sức mạnh cùng toàn dân xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. c. Các nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo. Cùng với vấn đề dân tộc thì tín ngưỡng, tôn giáo là một vấn đề tế nhị, nhạy cảm và đang có những diễn biến phức tạp. Việc giải quyết những vấn đề nảy sinh từ tôn giáo cần phải hết sức thận trọng, vừa đòi hỏi phải giữ vững nguyên tắc, đồng thời phải mềm dẻo, linh hoạt đúng như tinh thần của chủ nghĩa Mác- Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta là: tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân. Giải quyết vấn đề tôn giáo trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội cần dựa trên những quan điểm sau: Một là, khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo phải gắn liền với quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới là yêu cầu khách quan của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Để khắc phục mặt tiêu cực của tôn giáo, trước hết phải không ngừng phát triển khoa học - công nghệ. Trang bị thế giới quan của chủ nghĩa vô thần khoa học cho nhân dân, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa tinh thần cho nhân dân. Phải khắc phục những tiêu cực của tôn giáo bởi vì chủ nghĩa Mác- Lênin và hệ tư tưởng tôn giáo có sự khác nhau cơ bản về thế giới quan, nhân sinh quan và con đường mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân. Hai là, tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân. Mọi công dân theo tôn giáo hay không theo tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật, nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân. Ba là, thực hiện đoàn kết giữa những người theo tôn giáo và không theo tôn giáo, đoàn kết các tôn giáo hợp pháp chân chính (tôn giáo hợp pháp và chân chính là những tôn giáo có tổ chức giáo hội được Đảng và nhà nước ta thừa nhận, và nằm trong khối đại đoàn kết dân tộc), đoàn kết dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nghiêm cấm mọi hành vi chia rẽ vì lý do tín ngưỡng tôn giáo. Bốn là, phân biệt rõ hai mặt chính trị và tư tưởng trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo. Mặt tư tưởng thể hiện sự tín ngưỡng tôn giáo, khắc phục mặt này là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài, gắn liền với quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào có tín ngưỡng. Mặt chính trị thể hiện ở chỗ cần phải kiên quyết đấu tranh với những phần tử phản động, đội lốt tôn giáo, lợi dụng tôn giáo để chống lại sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Năm là, phải có quan diểm lịch sử cụ thể trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo. Ở những thời kỳ lịch sử khác nhau, vai trò, tác động của từng tôn giáo đối với đời sống xã hội cũng không giống nhau. Quan điểm của các giáo hội, giáo

sĩ, giáo dân về các lĩnh vực của đời sống xã hội thường không đồng nhất với nhau. Vì vậy, cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét, đánh giá và ứng xử đối với những vấn đề có liên quan đến tôn giáo.


Phần I: thế giới quan và phương pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác - Lênin

Chương mở đầu: Nhập môn những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin

Chương I: Chủ nghĩa duy vật biện chứng

Chương II: Phép biện chứng duy vật

1.        Phép biện chứng và phép biện chứng duy vật

2.        Các nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật

3.        Các cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật

4.        Các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật

5.        Lý luận nhận thức duy vật biện chứng

Chương III: Chủ nghĩa duy vật lịch sử

1.        Vai trò của sản xuất vật chất và quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất

2.        Biện chứng của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng

3.        Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội và tính độc lập tương đối của ý thức xã hội

4.        Hình thái kinh tế-xã hội và quá trình lịch sử-tự nhiên của sự phát triển các hình thái kinh tế-xã hội

5.        Vai trò của đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội đối với sự vận động, phát triển của xã hội có đối kháng giai cấp

6.        Quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử về con người và vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân

Phần II: Học thuyết kinh tế của chủ nghĩa Mác - Lênin về phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa

Chương IV: Học thuyết giá trị

Chương V: Học thuyết giá trị thặng dư

1.        Sự chuyển hóa tiền tệ thành tư bản

2.        Quá trình sản xuất giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản

3.        Sự chuyển hóa giá trị thặng dư thành tư bản - Tích lũy tư bản

4.        Quá trình lưu thông tư bản và khủng hoảng kinh tế

5.        Các hình thái tư bản và các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư

Chương VI: Học thuyết về chủ nghĩa tư bản độc quyền và chủ nghĩa Tư bản độc quyền Nhà nước

1.        Chủ nghĩa tư bản độc quyền

2.        Chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước

3.        Đánh giá chung về vai trò và giới hạn lịch sử của chủ nghĩa Tư bản

Phần III: Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về Chủ nghĩa xã hội

Mở đầu

Chương VII: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và cách mạng xã hội chủ nghĩa

1.        Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân

2.        Cách mạng xã hội chủ nghĩa

3.        Hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa

4.        Chủ nghĩa xã hội hiện thực và triển vọng

Chương VIII: Những vấn đề chính trị - xã hội có tính quy luật trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa

1.        Xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa

2.        Xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa

3.        Giải quyết vấn đề dân tộc và tôn giáo

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: #phần